Download as pdf
Download as pdf
You are on page 1of 13

Thuyết lượng tử và giải thưởng Nobel

Robert Marc Friedman


Thành kiến cá nhân và sự thiếu hiểu biết của ủy ban xét trao giải Nobel khiến cho
nhiều nhà tiên phong của cơ học lượng tử không được nhận giải, mãi cho đến khi phát
hiện ra phản vật chất vào năm 1932.
Năm 1933, giải thưởng Nobel hình như cũng kém phần quan trọng đi so với cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới và sự leo thang quyền lực của chế độ phát xít, nhưng nhiều
nhà vật lí vẫn giữ cái nhìn thận trọng hướng về Stockholm . Họ cảm thấy hoang mang và
tràn trề thất vọng trước những quyết định trước đó của Viện Hàn lâm khoa học Hoàng gia
Thụy Điển. Không có giải thưởng cho ngành vật lí trong năm 1930, nhưng những thành
tựu lí thuyết và thực nghiệm trong thời gian gần đấy đã dẫn đến cuộc cách mạng mô tả
nguyên tử bằng cơ chế lượng tử mới. Liệu rồi cuối cùng Viện Hàn lâm có chịu công nhận
những thành tựu này không ?

Các giải thưởng Nobel cho thấy lịch sử thật phức tạp (Nguồn: Nobel Foundation)
Sau cùng, khi Viện Hàn lâm công bố quyết định của họ vào tháng 11, kết quả làm
một số người cảm thấy hài lòng, một số tỏ ra giận dữ và một số khác thì cảm thấy khó
hiểu. Giải thưởng dành riêng cho năm 1932 trao cho một mình Werner Heisenberg, cho
“việc sáng tạo ra cơ học lượng tử, mà những ứng dụng của nó, không kể đến những thứ
khác, đã dẫn đến việc khám phá ra hình thái đặc trưng của hydro”. Trong khi đó, giải
© hiepkhachquay

thưởng năm 1933 chia cho Erwin Schrödinger and Paul Dirac, cho việc “khám phá ra
hình thức hữu ích mới của thuyết nguyên tử”.
Giải thưởng Nobel dành cho cơ học lượng tử từ lâu luôn là đề tài mà nhiều người
bàn tán và dị nghị. Tại sao cũng những nhà khoa học này nhưng có khi một người một
mình một giải, có khi giải thưởng lại chia cho nhiều người, và tại sao lí do chính thức để

1
trao giải lại linh tinh như vậy ? Nói chung, quyết định trao giải năm 1933 đã mang đến
một câu hỏi lớn như rắc tiêu lên cả lịch sử đời thường và học thuật của nền vật lí hiện đại:
tại sao có quá ít giải thưởng Nobel cho những đóng góp về mặt lí thuyết ? Liệu đây có
phải là làm theo di chúc của Alfred Nobel, trong đó ghi rõ rằng giải thưởng được trao cho
những “khám phá hay phát minh trong lĩnh vực vật lí” ? Phải chăng vốn dĩ việc xác định
một đột phá về mặt lí thuyết là một khám phá thì khó khăn hơn ?
Tôi đã nghiên cứu những công trình đạt giải Nobel, cũng như thư từ trao đổi giữa
các vị là cựu thành viên của ủy ban trao giải, trong một nỗ lực làm sáng tỏ lí do mà người
ta đã xao lãng các công trình lí thuyết, cũng như để có một cảm nhận về giải thưởng năm
1933. Những hoạt động này sẽ cung cấp cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc hơn về việc
nhìn nhận các thành tựu lí thuyết của ủy ban cho đến trước năm 1933, giúp chúng ta hiểu
được ý nghĩa của giải thưởng năm đó, kể cả việc bổ sung Paul Dirac vào danh sách
những người đạt giải vào phút cuối.

Dirac (trái), Heisenberg (giữa) và Schrödinger (phải) đến Stockholm năm 1933 để nhận giải Nobel.
(Nguồn: Max Planck Institute fur Physik/AIP Emilio Segrè Visual Archives)

Giải thưởng hàn lâm viện


Giải thưởng Nobel có quy mô quốc tế, nhưng từ khi bắt đầu trao giải đến nay,
Viện Hàn lâm khoa học Hoàng gia Thụy Điển đưa ra quyết định của mình trên cơ sở tiến
cử của năm thành viên trong ủy ban xét giải vật lí và hóa học.Chính kiến riêng của mỗi
thành viên ủy ban người Thụy Điển này, cũng như sự hiểu biết khoa học và sở thích của
họ ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả xét giải. Những nhà khoa học được mời chỉ định đó
© hiepkhachquay

hiếm khi cho ủy ban một sự nhất trí cao. Và ngay cả khi một ứng cử viên nặng kí thật sự
nổi trội – như Albert Einstein cho thuyết tương đối, hay Henri Poincaré cho những đóng
góp đa dạng cho vật lí toán - ủy ban cũng thường bỏ qua. Đôi khi, một sự thay đổi nhỏ
trong thành phần của ủy ban cũng có thể quyết định số phận của một ứng cử viên.

2
Mặc dù năm thành viên ủy ban đánh giá các ứng cử viên và đề xuất ai là người
nhận giải, nhưng sự tiến cử của họ vẫn phải được sự tán thành của 10 thành viên trong
Ban Vật lí của Viện Hàn lâm, và sau đó là của 100 thành viên của cả Viện Hàn
lâm.Thường thì uy quyền của ủy ban thắng thế, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Đôi
khi Viện Hàn lâm khoa học chống lại ủy ban của mình. Như trong trường hợp của Gustaf
Dalén (1912) và Jean Perrin (1926), các thành viên của Viện Hàn lâm đã thành công
trong việc tập hợp đồng nghiệp của mình để phản đối tuyên bố của ủy ban rằng những
ứng cử viên này không xứng đáng để trao giải.
Mặc dù có những quy định chính thức chỉ đạo mọi mặt của hệ thống trao giải,
nhưng điều đó không có nghĩa là ủy ban trao giải được cung cấp quy chế rõ ràng để làm
việc. Trong di chúc, một số cụm từ thiết yếu như “khám phá hay phát minh có ý nghĩa
nhất trong lĩnh vực vật lí”, hoặc “gần đây”, hoặc “có ích cho nhân loại” không được định
nghĩa rõ ràng. Cho nên phát sinh nhiều cách hiểu và cách hiểu lại thay đổi theo thời gian.
Nhưng ngay cả khi mọi thành viên đã cố gắng vượt qua định kiến và lòng ích kỉ, nhỏ
nhen, thì công việc lựa chọn người thắng giải luôn luôn – và vẫn luôn luôn – là một việc
hết sức khó khăn. Đôi lúc các thành viên ủy ban thổ lộ rằng, có khi, có một số ứng cử
viên đều xứng đáng như nhau cả.
Khuynh hướng thực nghiệm
Những năm đầu thập niên 1900, các thành viên ủy ban đã cố gắng ủng hộ các ứng
cử viên mà công trình nghiên cứu của họ phản ánh khuynh hướng khoa học riêng của họ.
Đa số thành viên trong ủy ban thuộc về Khoa Vật lí thực nghiệm ở trường đại học
Uppsala , họ xem phương pháp đo lường chính xác là mục tiêu cao nhất trong ngành của
mình. Chẳng hạn, Bernhard Hasselberg – một thành viên từ năm 1901 đến 1922 – luôn
xem Albert Michelson là một nhà vật lí mẫu mực vì những nghiên cứu của ông đã đẩy
giới hạn của độ chính xác lên rất cao.
Do đó, Michelson không có lí do gì mà chả nhận được giải. Nhưng thay vì chỉ
nhận được một vài đề cử, đằng này ông bắt đầu nổi bật là một ứng cử viên đáng kể trong
năm 1904 nhờ sự ủng hộ tích cực của Hasselberg. Các nhà vật lí Thụy Điển trao giải
Nobel cho Michelson nhằm công nhận công dụng của cái giao thoa kế của ông trong
khoa đo lường, và đặc biệt, cho việc xác định bằng thực nghiệm chiều dài của thanh mét
chuẩn quốc tế. Năm 1907, Hasselberf thổ lộ rằng ông đã chuẩn bị “làm mọi thứ trong
quyền hạn của mình để mang giải thưởng đến cho ông ta (Michelson)”. Tuy nhiên,
Hasselberg đã phải thất bại trước thực tế rằng Michelson không phải là một ứng cử viên
công chúng và công trình nghiên cứu của ông ta không đáp ứng được yêu cầu của quy
định phải có một “khám phá”.
Trong bản báo cáo của mình trước ủy ban, Hasselberg không úp mở rằng những
nghiên cứu của Michelson xứng đáng được trao giải, mặc dù chúng không đưa tới một
khám phá lớn nào. Ông khẳng định, phương pháp đo lường chính xác tự nó đã cấu thành
một điều kiện tiên quyết cho việc khám phá. Một thành viên khác cố gắng giải thích rằng
những quy định ngặt nghèo không đề cập đến vấn đề này, nhưng Hasselberg vẫn cứ
© hiepkhachquay

khăng khăng với lí lẽ của mình. Ông biết rằng đa số trong ủy ban, kể cả ông chủ tịch
Knut Ångström, chia sẻ quan điểm của ông về việc xem phương pháp đo lường chính xác
là yếu tố tiên quyết cho sự tiến bộ trong vật lí học. Giải Nobel vật lí năm 1907 vì vậy
được trao cho Michelson, cho “những dụng cụ quang chính xác và những nghiên cứu về

3
quang phổ học và đo lường được thực hiện với sự hỗ trợ của chúng”. Thi nghiệm ête kéo
theo nổi tiếng của ông vừa được nhắc đến trong đó.
Việc trao giải cho Michelson khiến cho Hasselberg và những đồng nghiệp cùng
quan điểm với ông ở Uppsala tranh luận rằng phương pháp đo lường chính xác “là điều
kiện rất căn bản, thiết yếu, để chúng ta thâm nhập sâu hơn vào những quy luật của vật lí –
là con đường duy nhất để chúng ta đi đến những khám phá mới”. Đây đúng là một cơ hội
tốt để tán dương và khẳng định quan điểm này trong vật lí học.
Khi mà một khuynh hướng thực nghiệm trong ủy ban làm lợi cho Michelson thì
nó cũng gây tổn hại đến những ứng cử viên được đề cử cho những thành tựu lí thuyết.
Năm 1911, Vilhelm Carlheim-Gyllensköld, một thành viên mới được bầu vào ủy ban đến
từ trường đại học Stockholm, đã đệ trình một kháng nghị thư lên Viện Hàn lâm, trong đó
ông nêu rõ sự đối lập giữa vị thế cao lớn của nền vật lí toán và vật lí lí thuyết trong thế
giới khoa học với sự ít ỏi của những giải thưởng Nobel dành cho các lĩnh vực này.
Ngoài việc Hendrik Lorentz cùng chia giải thưởng năm 1902 cho việc giải thích
hiệu ứng Zeeman, và giải thưởng trao cho J J Thomson năm 1906 cho sự dẫn điện trong
chất khí, Carlheim-Gyllensköld phàn nàn rằng “giải Nobel hiện nay chỉ dành cho các nhà
vật lí thực nghiệm”. Ông nhấn mạnh rằng việc xao lãng vật lí toán và vật lí lí thuyết
không phải là do thiếu người đề cử. Trong số những nhà lí thuyết nổi trội được đề xuất có
thể kể đến Ludwig Boltzmann, Oliver Heaviside, William Thomson (huân tước Kelvin),
Max Planck, Poincaré, John Poynting và Wilhelm Wien. Đa số những trường hợp này
được đề cử từ những người có khả năng thực nghiệm không chê vào đâu được, như Henri
Becquerel, Philipp Lenard, Wilhelm Röntgen and Pieter Zeeman, họ đều đã nhận giải
Nobel. “Hàng loạt phiếu bầu rất đáng được chú ý khi xét giải”, Carlheim-Gyllensköld
khẩn khoản.
Nhưng các ủy ban sau đó liên tiếp phớt lờ số lượng đề cử không ngừng tăng lên
dành cho Planck và những nhà vật lí lí thuyết khác. Nguyên nhân là vì một số, nếu không
nói là tất cả, các thành viên trong ủy ban không đủ khả năng theo đuổi sự phát triển của
cơ học lượng tử và thuyết tương đối. Thật vậy, cuối cùng thì giải thường được trao cho
Planck – giải năm 1918, trao giải năm 1919 – công nhận vai trò của ông trong việc lãnh
đạo nền khoa học Đức trong thời kì xảy ra thảm kịch quốc gia hơn là công nhận thuyết
lượng tử. Thực ra thì những người theo chủ nghĩa thực nghiệm trong ủy ban muốn dành
giải thưởng năm 1918 cho nhà vật lí nguyên tử Johanes Stark và giải thưởng năm 1919
mới trao cho Planck để nhấn mạnh tầm quan trọng của những thí nghiệm chính xác so
với việc nghiên cứu lí thuyết. Tất nhiên, lịch sử xảy ra như thế nào thì như chúng ta đã
biết.
Thời khắc quyết định cho nền vật lí lí thuyết
Trường hợp của Einstein đánh dấu một bước ngoặt. Sau cuộc thám hiểm nhật
thực vào tháng 11 năm 1919, xác nhận ánh sáng phát ra từ các ngôi sao ở xa bị trường
hấp dẫn của Mặt Trời bẻ cong đi, Einstein bắt đầu nhận được số tiến cử tăng dần cho
công trình của ông về thuyết tương đối. Tuy nhiên, Viện Hàn lâm công bố người thắng
© hiepkhachquay

giải năm 1920 lại là Charles-Edouard Guillaume – người được chỉ có một mình nhà vật lí
người Thụy Sĩ Charles Guye tiến cử - cho việc phát minh ra hợp kim thép – nickel, một
phát minh không ảnh hưởng gì nhiều lắm đến những thay đổi trong ngành luyện kim.
Mặc dù hợp kim “invar” cho khả năng chế tạo nhiều loại thiết bị đo lường có độ chính

4
xác rất cao, nhưng các quan sát viên nước ngoài, kể cả những người không thích công
trình của Einstein, cũng nhận thấy Guillaume là một sự lựa chọn kì quặc.
Vậy chuyện gì đang xảy ra ở Viện Hàn lâm ? Đơn giản thôi: một số, nếu không
nói là tất cả, các thành viên của ủy ban chưa bị thuyết phục thích đáng bởi kì nhật thực
năm 1919 để thay đổi thái độ phản đối đối với Einstein. Hơn nữa, đó là một trong những
lời thỉnh cầu cuối cùng của Hasselberg, sau hai thập kỉ phục vụ trong ủy ban, muốn nhìn
thấy người đồng nghiệp đo lường chính xác Guillaume của ông được trao giải.
Năm 1921, những người tiến cử đã miêu tả Einstein như là một người khổng lồ
trong thế giới vật lí mà người ta chưa từng thấy kể từ thởi Newton . Năm 1921, Allvar
Gullstrand, giáo sư ngành quang lí và quang sinh lí thuộc trường đại học Uppsala và là
một trong những thành viên có tư cách đàng hoàng nhất trong Viện Hàn lâm, yêu cầu
muốn được nghe báo cáo về những đóng góp của Einstein cho thuyết tương đối và thuyết
hấp dẫn. Đơn giản là Gullstrand không hiểu nổi công trình nghiên cứu của Einstein. Tuy
vậy, ông vẫn kiên quyết rằng Einstein không thể nào nhận giải được.
Trong khi chuẩn bị bản báo cáo đặc biệt trước ủy ban, Gullstrand chuyển sang cầu
viện đồng nghiệp của ông ở Uppsala và là người bạn Carl Wilhelm Oseen, một giáo sư cơ
học và vật lí toán. Ông đã trình bày một số đoạn phê bình với Oseen, và ông này đã chỉ ra
cho Gullstrand thấy những sai lầm của ông. Chính Oseen cũng nghi ngờ lớn về giá trị của
thuyết tương đối, nhưng ông vui lòng cho Einstein một bình phẩm hợp lí. Sau này, ông có
thổ lộ rằng, thật là một thảm họa cho ủy ban xét giải vì có Gullstrand, người đại diện vật
lí lí thuyết, ông ta phải thẩm định những thứ mà ông ta chả hiểu gì cả !

© hiepkhachquay

Carl Wilhelm Oseen, giáo sư cơ học và vật lí toán tại trường đại học Uppsala ,
người thống trị ủy ban Nobel từ năm 1922 - 1944

5
Gullstrand không việc gì phải cản trở Einstein trước ủy ban. Không thành viên
nào tán đồng thuyết tương đối cả. Như lời Hasselberg viết từ giường bệnh năm 1921:
“Người ta không chắc lắm những nghiên cứu như thế này có phải là đối tượng trao giải
như lời di chúc của Alfred Nobel hay không”. Đa số các thành viên trong ủy ban đơn
giản là không chấp nhận một công trình nghiên cứu như vậy là nền vật lí thật sự. Cách
thức Einstein xem xét các giả thuyết cơ sở của mình và cách ông cố gắng hợp nhất các lí
thuyết cho thấy chúng là công trình của một nhà siêu hình học hơn là một thành viên của
cộng đồng khoa học đương thời.
Nếu như bản báo cáo của Gullstrand có nhiều khiếm khuyết thì, về nguyên tắc,
Viện Hàn lâm có quyền tự do hành động một khi điều đó mang đến ánh sáng giải quyết
vấn đề. Nhưng đa số mọi người trong Viện không muốn trao giải cho Einstein, và không
ai muốn làm phật lòng những thành viên kính mến trong ủy ban của mình. Như “giới
chuyên môn” Thụy Điển đã nói, Viện Hàn lâm giữ uy quyền và lẽ phải của mình để định
giá và phán xét. Khi chiếc đồng hồ điểm đến nửa đêm ngày 21 tháng 11 năm 1921, Viện
Hàn lâm đã bỏ phiếu không trao giải Nobel vật lí cho năm đó.
Carl Wilhem Oseen vào cuộc
Oseen gia nhập ủy ban năm 1922. Ông muốn có một giải thường cho Einstein,
nhưng không phải cho nghiên cứu về thuyết tương đối. Ông cũng rất muốn được nhìn
thấy Niels Bohr nhận giải. Với địa vị cao quý trong ban vật lí và năng lực phân tích sắc
bén, Oseen đã tìm thấy một cách khéo léo để trao giải cho cả hai người họ. Chính ông đã
tiến cử thành công Einstein cho việc khám phá ra định luật quang điện. Ông lí giải rằng,
không kể đến phương pháp lí thuyết mà Einstein đã sử dụng – nó bao hàm quá nhiều
thuyết lượng tử trong đó khiến ủy ban khó chấp nhận được – bản thân định luật quang
điện đã được xác nhận bằng kinh nghiệm. Và với việc công nhận định luật quang điện là
một chân lí cơ bản của tự nhiên, Oseen có thể biện hộ cho mẫu nguyên tử lượng tử của
Bohr. Trước đây, ủy ban đã bác bỏ công trình này vì cho rằng nó mâu thuẫn với thực tế.
Nay Oseen khẳng định rằng mẫu nguyên tử Bohr là dựa trên cơ sở chắc chắn – định luật
quang điện của Einstein – và đã tập hợp được ủy ban và Viện Hàn lâm ủng hộ cho đề
xuất của ông.
Sự có mặt của Oseen trong ủy ban vào năm 1922 làm cho ủy ban lần đầu tiên có
được sự tinh thông về vật lí lí thuyết, nhưng điều đó không có nghĩa là những công trình
lí thuyết sẽ dễ được tán thành hơn. Oseen là một tri thức vừa nghiêm khắc vừa kiêu ngạo,
và đây không nhất thiết là đức tính phải có ở một thành viên trong ủy ban. Ông thường
giữ vai trò người phản biện, vừa là quan tòa vừa là đao phủ, khi đánh giá các ứng cử viên
luôn nặng tay hơn so với những đồng sự khác. Khi có người phản đối quan điểm của ông
thi ông cực lực chỉ trích lại, cũng như trả thù cá nhân.
Oseen để lại tiếng tăm sâu sắc trong cuộc đua giảnh giải Nobel cả một thời gian
dài sau khi ông không còn quyền hạn trong ủy ban vào năm 1944. Ông lãnh đạo phong
trào thu hẹp lại quy mô của “vật lí học” đủ tư cách cho việc nhận giải, trái với những
hành động trước đây bao hàm những lĩnh vực như vật lí thiên văn và địa vật lí. Nhưng,
© hiepkhachquay

điều quan trọng nhất, mặc dù nghiên cứu riêng của ông dẫn đến thủy động lực học và
khoa vật lí nghiên cứu mạng tinh thể, nhưng ông vẫn ngồi ở ghế thẩm phán đối với hầu
hết các vấn đề vật lí lí thuyết, đặc biệt là thuyết nguyên tử.
Oseen không hài lòng với con đường mà nền vật lí đang tiến triển; quan điểm
rằng mọi thứ cần phải kiên định, rõ ràng, hợp lí khiến ông thật sự thất vọng trước những
6
giải pháp cục bộ và nhất thời trước cuộc khủng hoảng sâu sắc của nền vật lí nguyên tử
trong thập niên 1920. Ông thấy không có chút lí do gì để tôn vinh những giải pháp nửa
vời, những vật liệu nhất thời, và những bước tiến dò dầm về một tương lai chưa biết.

Từ trái sang: Carl Wilhelm Oseen, Niels Bohr, James Franck và Oskar Klein cùng với Max Born (ngồi)
trong lễ kỉ niệm công trình của Bohr ở Göttingen năm 1922. Khi đó, Oseen đã coi mẫu nguyên tử lượng tử
sơ khai của Bohr là “đẹp nhất” trong số những phát triển mới tuyệt vời trong vật lí lí thuyết. Oseen đã
thuyết phục được ủy ban trao giải cho Bohr vào năm đó (Nguồn: AIP Emilio Segrè Visual Archives)
Thay vì tìm một giải pháp hòa giải giữa những cuộc tìm kiếm mang tính chất hỗn
loạn của vật lí lượng tử với những cơ sở vật lí cổ điển, như Oseen hi vọng, các nhà
nghiên cứu lại đề xuất những lí thuyết càng ngày càng kì dị hơn. Giữa thập niên 1920,
Heisenberg đề xuất rằng mục tiêu lâu nay cố gắng mường tượng ra các quá trình nguyên
tử cần phải vứt bỏ đi. Những phương trình toán học rắc rối lại cho đáp số phù hợp với dữ
liệu quan sát. Điều này khiến Oseen không ưa. Và rồi người ta đi đến khẳng định rằng ở
cấp độ nguyên tử thì xác suất thống trị chứ không phải là tính quyết định luận.
Oseen đã phải khổ sở trước những phát triển này, nhưng ông vẫn không chịu rút
lui vào hậu trường. Ông không muốn từ bỏ quyền lực trong ủy ban. Sự thiếu vắng giải
thường dành cho những công trình nghiên cứu lí thuyết trong thời gian ngự trị của Oseen
trong ủy ban phản ánh tính nhạy cảm của ông trước thời cuộc chứ không phải những cản
trở nghi thức hay thiếu vắng ứng cử viên.
Sự chấp nhận cơ học lượng tử
Từ giữa thập kỉ 1920, Werner Heisenberg và Erwin Schrödinger bắt đầu đặt nền
tảng mới cho việc hiểu các hiện tượng nguyên tử. Năm 1928 bắt đầu có một số lượng nhỏ
© hiepkhachquay

đề cử cho cách tiếp cận vấn đề không giống ai của họ, và sau đó số tiến cử ngày càng
thuyết phục hơn cả về số lượng và cơ sở tiến cử vào cuối thập kỉ đó.
Một số nhà tiến cử thích sự miêu tả trực quan các quỹ đạo electron như một dạng
cơ học sóng của Schrödinger hơn. Trong khi những nhà lí thuyết kì cựu như Einstein,
Planck và Max von Laue lại thích cách tiếp cận phi trực quan triệt để hơn của
7
Heisenberg. Hơn nữa, sự dấn ngày càng sâu từ nghiên cứu của Heisenberg hình như đã
đánh đổ niềm tin lâu nay của các nhà vật lí về quan hệ nhân quả. Một số nhà vật lí làm
việc thân cận với Heisenberg – gồm Bohr, Wolfgang Pauli và Max Born – đã mở ra một
cánh cửa đi vào thế giới hạ nguyên tử, trong đó mọi hiện tượng xảy ra khác biệt tận gốc
rễ với nền vật lí của thế giới vĩ mô. Tuy nhiên, các lí thuyết vẫn đang trong quá trình
hoàn thiện, và chúng bắt đầu được tiến cử bởi những nhà vật lí hàng đầu.
Oseen đã làm những gì mà ông có thể làm để tránh phải công nhận Schrödinger
và Heisenberg. Có lẽ ông có thiện ý với phương pháp của Schrödinger nhưng ông cũng
đồng ý với số đông những người tiến cử rằng – nếu trao giải thưởng cho cơ học lượng tử
- thì cả hai người này phải nhận chung. Không thèm đếm xỉa tới số đông, Oseen đã tạo ra
cuộc đua giữa những người ủng hộ hai người này. Những cuộc đua tranh này có nguyên
nhân từ tính khí hay đua tranh và thủ đoạn của ông.
Đáp lại những sự tiến cử vào năm 1929, Oseen cho rằng lí thuyết của Schrödinger
và Heisenberg chưa đủ chín chắn “từ một góc nhìn hợp lí” để cho phép mô tả có hệ thống
các nguyên tử. Hơn nữa, ông không thể tuyên bố họ đủ tư cách nhận giải khi mà lí thuyết
của họ chưa thu được kết quả trong bất kì khám phá có tầm quan trọng cơ sở nào. Nói
cách khác, ông cố làm ngăn trở họ bằng quy chế của giải.
Hai nhà lí thuyết tiếp tục được ủng hộ trong năm 1930. Một lần nữa, một số người
đề cử thích Schrödinger, một số khác thì thích Heisenberg, hoặc là chia hai giữa
Heisenberg và Born, người đã giúp sáng tạo ra lí thuyết. Nhưng những nhà vật lí đạt giải
Nobel lắm đổi thay như Planck và Perrin lại tán thành việc trao giải cho Schrödinger và
Heisenberg. Để chống lại tính cố chấp của Oseen, The Svedberg, một thành viên Viện
Hàn lâm và là một nhà hóa lí, đề cử Heisenberg và nhấn mạnh rằng lí thuyết của ông đã
tiên đoán và sau đó đưa tới một khám phá quan trọng – một dạng mới của phân tử hydro.
Oseen đáp lại mỉa mai rằng như thế có lẽ Heisenberg phải được xem xét cho một giải
thưởng về hóa học ! Mặc dù thừa nhận rằng việc trao giải thưởng vật lí cho một công
trình lí thuyết thu được kết quả là một khám phá hóa học không phải là không có, nhưng
một lần nữa ông lại từ chối chứng thực cho hai nhà vật lí này đạt giải.
Có lẽ vấn đề là ở chỗ, như một số nhà đề cử đã đề cập, việc chia giải thưởng cho
hai người thật là một sự bất công. Tại sao hai trí tuệ lớn như thế phải chấp nhận chia
chung một giải thưởng, trong khi một số người khác sau này nhận trọn vẹn giải cho
những thành tựu kém hơn ? Oseen và những người còn lại trong ủy ban đã tìm thấy một
con đường vòng lảng tránh toàn bộ vấn đề này. Nhà vật lí thực nghiệm người Ấn Độ
Chandrasekhara Raman đột ngột xuất hiện như một ứng cử viên công chúng cho việc
khám phá ra một quá trình mới, nhờ đó các phân tử làm tán xạ ánh sáng; và ông nhận giải
thưởng năm 1930.
Năm 1931, số tiến cử cho những nhà tiên phong của cơ học lượng tử giảm xuống,
có lẽ do những người đề cử không muốn lãng phí những phiếu bầu của họ cho những ứng
cử viên mà ủy ban tỏ ra chống đối quá quyết liệt. Một lần nữa, thế giới vật lí thật nhỏ bé;
nhiều nhà tiến cử đều biết ai đang ngồi ở ghế thẩm phán và xu hướng mà họ nắm giữ.
© hiepkhachquay

Nhà lí thuyết bị chỉ trích mạnh mẽ, nhưng thông minh, Wolgang Pauli lúc ấy bình luận
rằng không có nhà vật lí lí thuyết nào ở Thụy Điển cả, ông không thèm đếm xỉa tới cả
Oseen. Một số nhà tiến cử cảm thấy bối rối và từ chối không đề cử ai hết.
Nhưng, bất kể những chỉ trích ngày càng mạnh mẽ, Oseen tuyên bố rằng sự giảm
sút số đề cử cho Heisenberg và Schrödinger là một dấu hiệu cho thấy sự nhiệt tình đối với

8
công trình nghiên cứu của họ đã “lạnh đi”. Ông quy việc thiếu sự ủng hộ này là do thuyết
lượng tử không bao hàm các hiệu ứng tương đối tính của chuyển động electron. “Vấn đề
này lún sâu đến nỗi cần có một ý tưởng hoàn toàn mới mới giải quyết được nó”. Không ai
có thể nói ý tưởng mới này và, cho đến tận bấy giờ, sự đột phá phi thường sẽ tác động
như thế nào đến lí thuyết cơ học lượng tử. Do đó, ông thúc giục ủy ban rằng Heisenberg
và Schrödinger phải chờ đã; giải thưởng năm 1931 đành gác lại cho năm sau.
Khẳng định vị thế vững chắc
Lại một lần nữa, các tiêu chuẩn cao không thể đạt được của Oseen thúc giục ông
đòi hỏi một lí thuyết hoàn hảo. Hoặc lả một lí thuyết hoàn toàn có khả năng giải thích tất
cả các hiện tượng có liên quan, hoặc là nó không được công nhận có giá trị. Không ai phủ
nhận yêu cầu phải bao hàm các hiệu ứng tương đối tính, nhưng điều này không làm giảm
bớt sự kính trọng mà nhiều nhà vật lí dành cho Heisenberg và Schrödinger. Có lẽ, như
một số người nhận xét, Oseen và các thành viên trong ủy ban đang cố mua thời gian để
cho Heisenberg và Schrödinger có thể mỗi người nhận một giải trọn vẹn vào năm sau.
Năm 1932, một số nhà đề cử bắt đầu tỏ ra thiếu kiên nhẫn. Một số người thậm chí
còn chất vấn thiện ý và năng lực của ủy ban trong việc định giá nghiên cứu của
Heisenberg và Schrödinger. Pauli chỉ tiến cử một mình Heisenberg. Ông tự hỏi không
biết ủy ban có thể quyết định chọn được một trong hai cách tiếp cận vấn đề. Trong trường
hợp đó, ông cho rằng đóng góp của Heisenberg là cơ bản hơn, vì Schrödinger xuất phát
nghiên cứu từ Louis de Broglie. Có thể thấy rõ giọng điệu cộc cằn của Pauli trong bức
thư tiến cử tràn đầy bực dọc. Ông lớn tiếng rằng Heisenberg dễ dàng đáp ứng mọi điều
kiện của mọi thứ quy định cũng như di chúc của Alfred Nobel. Hãy trao cho ông ta một
giải !
Ngay cả Einstein, người chỉ thỉnh thoảng mới đề cử, cũng dành thời gian gởi một
bản kiến nghị cho cả hai người. Ông nhấn mạnh rằng, về mặt cá nhân, ông thích sự trình
bày rõ ràng, chính xác của Schrödinger hơn, nhưng thừa nhận rằng ông thực là sai lầm
khi đã đứng về một phía. Vì cả hai nhà lí thuyết đều có đóng góp quan trọng, nên ông
không muốn hai người chia chung một giải. Einstein muốn thấy Schrödinger nhận giải
trước, nếu như chỉ có một trong hai người được trao giải. Bohr cũng đề cử cả hai nhà tiên
phong của cơ học lượng tử. Ông hiểu rõ những giới hạn của lí thuyết và đồng ý rằng
chúng không phải là dấu chấm hết mà là một điểm khởi đầu quan trọng. Bohr vẫn giữ
quan điểm rằng những đóng góp của Heisenberg và Schrödinger đã bất ngờ mang đến
một viễn cảnh thỏa đáng về nhưng hiện tượng nguyên tử đã biết và cũng dẫn tới một lọat
những tiên đoán mới. Ông đề nghị dành hai giải thưởng có sẵn đó cho cả hai người.
Ủy ban đồng ý cho một thành viên tương đối mới, nhà vật lí nguyên tử thực
nghiệm Eric Hulthén, chuẩn bị một bài báo cáo đặc biệt về mối liên hệ giữa cơ học lượng
tử và các nghiên cứu nguyên tử thực nghiệm. Hulthén đã phân tích mối quan hệ qua lại
giữa lí thuyết và thực nghiệm; lí thuyết của Heisenberg và Schrödinger đã cho những dữ
liệu quyết định và đã kích động đáng kể những nghiên cứu lí thuyết và thực nghiệm..
Trong khi đồng ý cần có thêm những đột phá mới để áp dụng cơ học lượng tử cho các
© hiepkhachquay

electron lớp trong cùng gần hạt nhân nguyên tử nhất, thì những thành công đáng chú ý
của lí thuyết phải được đánh giá đúng là một chương mở ra một thời kì mới trong nền vật
lí nguyên tử. Nhưng Oseen lại không chịu thua.

9
Khi bước vào ngành vật lí, Dirac (trái) đã dành hết nghị lực và óc sáng tạo của mình đẻ hiểu hết lí thuyết
do Heisenberg (phải) phát triển (Nguồn: AIP Emilio Segrè Visual Archives)
Oseen cố làm hết sức tìm mọi lí lẽ ngăn cản việc trao giải. Ông lại yêu cầu phải
hiểu chặt chẽ từ “khám phá”. Thật thú vị, chỉ mấy năm trước đó, ông còn hô hào phải
hiểu sao cho thoáng, nhưng đó là để cho người đồng nghiệp của ông ở Uppsala có đủ tư
cách nhận giải cho những cải tiến đáng kể đối với độ chính xác của quang phổ kế tia X.
Một mặt, Oseen lại yêu cầu một khám phá có ý nghĩa phải xuất phát từ lí thuyết. Nhưng
mặt khác, ông vẫn giữ quan điểm phải hiểu từ “khám phá” trong quy chế giống như cách
hiểu của công chúng nói chung – tức là “những tiến bộ có ý nghĩa trong việc hiểu biết
thực tại khách quan” – và do đó quy chế không được thỏa mãn.
Tại sao Oseen, trong bài báo cáo của ông trước ủy ban, lại cảm thấy biết ơn đối
với cụm từ thực tại khách quan mà ông nhấn mạnh ? Hình như là ông không thể nào chấp
nhận một số hàm ý rộng hơn của cơ học lượng tử. Cũng như Einstein đã bị dội trước cách
hiểu xác suất của thực tại khách quan hạ nguyên tử, Oseen đã nghĩ tới nhánh văn hóa và
thần học của lí thuyết. Nhưng, dù Einstein không tán thành, nhưng ông vẫn xem những
đóng góp của Heisenberg là đáng kể. Cả Einstein và Oseen đều cần chờ phương thức
chữa trị của tương lai, nhưng Oseen dường như đã chuyển sang hờn dỗi, mãi cho đến khi
ông ra đi.
Cứu tinh xuất hiện
Trong số những người tiến cử kêu gọi một giải thưởng cho cơ học lượng tử có hai
© hiepkhachquay

giáo sư vật lí lí thuyết ở Stockholm . Mặc dù không phải là thành viên trong ủy ban,
nhưng Oskar Klein và David Enskog đã tranh luận hết sức thuyết phục trong thư đề cử
của mình. Klein nổi tiếng thế giới là một người có đóng góp đáng kể cho nền vật lí
nguyên tử mới. Đã từng làm việc tại Viện Bohr trong nhiều năm, ông nằm trong “vòng”
trao đổi thông tin thân mật giữa các nhà vật lí nguyên tử. Ông thừa nhận tính non yếu của

10
cơ học lượng tử, nhưng cho rằng các thách thức trước mắt không hề làm giảm đi những
thành tựu của Heisenberg và Schrödinger.

Nhiều nhà vật lí thấy lí thuyết cơ học sóng do Schrödinger phát triển mang tính trực quan hơn so với
phương pháp ma trận của Heisenberg
(Nguồn: Lotte Meitner-Graf/AIP Emilio Segrè Visual Archives)
Enskog cũng đề cử Heisenberg và Schrödinger trong một bức thư tiến cử dài
dòng. Trong một số đoạn, ông nhắc nhở Oseen rằng ông này rất có thể phạm sai lầm khi
đánh giá các công trình vật lí. Một thập kỉ trước đó, Oseen đã đánh rớt luận án của
Enskog và có vẻ đã đặt dấu chấm hết cho sự nghiệp học thuật của ông. Tuy nhiên, sau đó
Enskog đã đi ra nước ngoài nghiên cứu và được xem là một người có đóng góp lớn cho lí
thuyết khuếch tán chất khí. Oseen vẫn được giữ lại ngồi chiếc ghế quan tòa Thụy Điển
xét xử nền vật lí lí thuyết. Ông không thèm để ý tới những ý kiến của họ.
Oseen nhắc lại rằng một lí thuyết thỏa mãn nền vật lí nguyên tử phải tính đến các
hiệu ứng tương đối tính, vì thế Heisenberg và Schrödinger đơn giản là chưa đạt yêu cầu
đó. Ông hối thúc ủy ban đưa khoản tiền giải thưởng năm 1931 vào nguồn quỹ đặc biệt và
hoãn giải thưởng năm 1932 sang năm 1933. Lãnh đạo ủy ban đồng ý với Oseen; Hulthén
thì không tán thành việc chia giải cho Heisenberg và Schrödinger. Khi toàn Viện Hàn lâm
bỏ phiếu về ý kiến của ủy ban, nhiều thành viên mới hiểu rằng Oseen không phải là nhà
chuyên môn duy nhất ở Thụy Điển. Trong bài báo nghi thức do thư kí thường trực của
Viện viết, số phiếu – thường chưa bao giờ được ghi nhận – cho thấy một sự phân chia sâu
© hiepkhachquay

sắc: 40 người bỏ phiếu bác bỏ việc trao giải, còn 23 người muốn trao giải cho Heisenberg
và Schrödinger.
Cuối cùng, năm 1933, Oseen chấp nhận rằng thời điểm cần thiết đã đến. Một vị
cứu tinh đã lờ mờ hiện ra phía chân trời. Oseen đã học được qua người học trò nhiều

11
năng khiếu Ivar Waller của mình rằng những tiến bộ đáng chú ý của cơ học lượng tử về
phía thuyết tương đối là có thể đạt được. Không giống như Oseen, Waller thường tham
dự các hội nghị quốc tế và đi thăm những trung tâm nghiên cứu vật lí quan trọng. Ông
gởi tin tức từ Cambrige và Copenhagen về kiệt tác lí thuyết của Paul Dirac, bắt đầu với
bài báo năm 1928: “Thuyết lượng tử của electron”, cũng như các kết quả thực nghiệm
củng cố thêm lí thuyết. Thật ra, Waller và Dirac chơi khá thân; những bài bình luận gay
gắt của những người đi trước về các bài báo ban đầu của Dirac lại còn giúp đặt nền tảng
cho lí thuyết hố năng lượng nổi tiếng đã đưa đến việc tiên đoán sự tồn tại của phản vật
chất. Tất nhiên, Oseen vẫn thận trọng trước những kết luận của Dirac.
Với số đông áp đảo, những nhà đề cử vẫn bộc lộ nguyện vọng của họ muốn trao
giải thưởng năm 1933 cho Heisenberg và Schrödinger trước khi cân nhắc đến những
người khác hoạt động trong lĩnh vực này, cho dù là Dirac, Pauli hay Born. Chỉ có hai nhà
đề cử - William Lawrence Bragg and Czeslaw Bialobrzeski – bổ sung thêm Dirac vào
danh sách ứng cử viên của họ. Tại cuộc họp trù bị thảo luận việc trao giải, ủy ban đã bỏ
phiếu thăm dò khả năng trao giải năm 1932 cho Heisenberg và giải năm 1933 cho
Schrödinger.
Dirac phá vỡ sự bế tắc
Đánh giá của Oseen về Dirac dần dần đã hiện rõ. Ông tự hỏi không biết nhà lí
thuyết lỗi lạc người Anh này có thể sánh với Planck, Einstein và Bohr – những người hội
đủ tiêu chuẩn nhận giải Nobel – hay không. Oseen làm việc rất có nguyên tắc. Nhưng
ông muốn chọn thời gian hợp lí: khi bước vào làm vật lí, Dirac đã phải đương đầu với
Heisenberg và đã dành hết công sức và trí tuệ cho việc giải quyết những mâu thuẫn trong
lí thuyết của nhà khoa học Đức. Lưu ý thấy đa số các nghiên cứu của Dirac chỉ mới được
công bố, nên Oseen cảm thấy chắc chắn rằng ngôi sao mới nổi trên bầu trời vật lí này sẽ
còn gặt hái được nhiều thành tựu to lớn trong tương lai.
Sang tháng 9, Oseen thay đổi hẳn tâm tính. Đột nhiên ông hối thúc chia bổng lộc
Nobel cho Dirac. Tiên đoán kì cục của Dirac về một hạt electron mang điện tích dương
đã được xác nhận bởi hai thí nghiệm độc lập nhau. Oseen cảm thấy hài lòng, đây đúng là
một “thực tại khách quan” quan trọng được khám phá như một thành quả của cơ học
lượng tử - một khám phá “đã dẹp bỏ một trong những dè dặt khó khăn nhất chống lại
thuyết nguyên tử mới nhằm khẳng định lí thuyết này”.
Chuẩn bị cho cuộc họp ủy ban vào đầu tháng 9, Oseen kể cả Dirac vào cùng bản
báo cáo đặc biệt về Heisenberg và Schrödinger. Ông liên hệ ba ứng cử viên này như đầu
và vai của cơ thể người. Oseen kêu gọi trao giải năm 1932 cho Heisenberg, nhấn mạnh
việc khám phá ra dạng thù hinh hydro mới hơn là nguyên lí bất định. Tuy nhiên, ông cho
phép trích dẫn để mô tả Heisenberg là nhà sáng lập ra cơ học lượng tử. Còn Schrödinger
và Dirac cùng nhận giải năm 1933 cho những đóng góp quan trọng cho nền vật lí nguyên
tử.
Oseen bảo đảm rằng cả Pauli và Born – hai người giữ vai trò trong sự phát triển
cơ học lượng tử - sẽ không được nhận giải, ít nhất là trong thời gian ông còn sống.Theo
© hiepkhachquay

Oseen, Pauli là người vừa mới trưởng thành. Và mặc dù Waller đã hết sức cố gắng thuyết
phục ông rằng việc Pauli chậm cho xuất bản các công trình nghiên cứu vào lúc đó là vì
ông còn gặp phải nhiều vấn đề tương đối tính khó giải quyết chứ không phải là do cạn
kiệt sức sáng tạo, nhưng Oseen vẫn nhất quyết Pauli không thể nào chia giải được.

12
Mãi đến cuối năm 1944 – năm ông qua đời – Oseen vẫn tiếp tục gạt sang một bên
những đóng góp của Pauli cho cơ học lượng tử, ông coi Pauli là một nhà lí thuyết suông.
Vào năm sau đó, Waller gia nhập ủy ban và góp phần đảm bảo một giải thưởng cho Pauli
vào năm 1945. Born thì phải chờ lâu hơn – mãi đến năm 1954. Mặc dù Heisenberg có
viết thư cho Born vào năm 1933 để bày tỏ sự tiếc nuối vì họ không cùng nhận giải được,
nhưng ông chẳng làm gì để cứu vãn tình hình cả. Chẳng hạn, ông đã không bỏ phiếu tiến
cử cho Born, người lúc ấy phải đi tị nạn bởi chế độ phát xít bài Do Thái. Dirac,
Schrödinger và Heisenberg nhận giải là hoàn toàn xứng đáng, nhưng việc người ta xét
trao giải cho những nhà tiên phong của cơ học lượng tử có lẽ là chưa hợp lí.
Vỡ một giấc mộng dài
Như phần giữa bài viết đã cho thấy, để trả lời những câu hỏi “tại sao và do đâu”
của giải thưởng Nobel, việc nhìn vào ủy ban xét giải và ngữ cảnh Thụy Điển của nó là
đúng bản chất vấn đề. Lịch sử trao giải trong 50 năm đầu – mà hồ sơ lưu trữ vẫn còn khai
thác được – cho thấy một số thành viên trong ủy ban quá thiên vị và thật sự có vấn đề,
còn một số thành viên khác thì đơn giản là vì họ không thể nảo nắm bắt được những
thành tựu nằm ngoài chân trời hiểu biết của họ.
Tất nhiên, cả trong thời gian gần đây, sự càu nhàu, nghi vấn vẫn không ngừng gia
tăng. Dirac đã mất hết tinh thần khi cố gắng vận động trao giải cho những thành tựu vật lí
hạt cơ bản lí thuyết vào cuối những năm 1960 và 1970. Ông nhận thấy một số thành viên
ủy ban đơn giản là vì họ không muốn trao giải cho lí thuyết, trong khi những thành viên
khác thì ưu tiên cho những nghiên cứu theo lối kinh nghiệm trước rồi mới tính đến
chuyện trao giải cho nghiên cứu lí thuyết. Chỉ vào năm 1933, Dirac mới nhận ra rằng giải
thưởng Nobel đúng là một tấm huy chương vàng được khắc bằng tính nhu nhược của con
người.
hiepkhachquay dịch (theo Physics World)

© hiepkhachquay

13

You might also like