Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 6

Bản Tin Sớm www.bantinsom.

com

Phân tích tài chính các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành

Hoạt động kinh doanh lữ hành có nhiều đặc điểm khác biệt so
với hoạt động kinh doanh của các ngành sản xuất vật chất, từ
đó dẫn đến đặc điểm hoạt động tài chính của các doanh nghiệp
lữ hành cũng khác biệt so với các ngành sản xuất vật chất.
Để đánh giá đúng tình hình tài chính các doanh nghiệp kinh
doanh lữ hành, theo chúng tôi, nội dung phân tích bao gồm:

Thứ nhất, Phân tích cấu trúc tài chính doanh nghiệp:

Cấu trúc tài chính phản ánh cơ cấu về tài sản (TS), cơ cấu nguồn vốn
(NV) và mối quan hệ cân bằng cấu trúc TS và cấu trúc NV của doanh
nghiệp. Phân tích cấu trúc tài chính là phân tích khái quát tình hình
đầu tư và huy động vốn của doanh nghiệp, chỉ ra các phương thức tài
trợ TS để làm rõ những dấu hiệu về cân bằng tài chính. Nội dung phân
tích cấu trúc tài chính bao gồm: phân tích cấu trúc TS và phân tích cấu
trúc NV.

Phân tích cấu trúc TS cho thấy mức độ biến động của từng loại TS
trong tổng TS; Trên cơ sở đó, nhận ra khoản mục nào có sự biến động
lớn để tập trung phân tích và tìm nguyên nhân. Mặt khác, còn phải tìm
hiểu xu hướng biến động các loại TS để đánh giá mức độ hợp lý của
việc đầu tư. Hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp lữ hành thường
ưu tiên đầu tư cho TS cố định: xây dựng khách sạn, nhà hàng, các khu
vui chơi giải trí, mua sắm phương tiện vận chuyển ... Do đó, cấu trúc
TS của các doanh nghiệp này có đặc điểm là TS cố định chiếm tỷ trọng
rất lớn từ 70-85% tổng giá trị TS của doanh nghiệp. Phân tích cấu trúc
TS cần quan tâm đến đặc điểm này. Tính hợp lý là TS cố định phải
chiếm tỷ trọng lớn và có xu hướng tăng lên.

Phân tích cấu trúc NV: cấu trúc NV thể hiện chính sách tài trợ của
doanh nghiệp, liên quan đến nhiều khía cạnh khác nhau trong công tác
quản trị tài chính. Việc huy động vốn một mặt vừa đáp ứng nhu cầu
vốn cho sản xuất kinh doanh, đảm bảo sự an toàn trong tài chính,
nhưng mặt khác liên quan đến hiệu quả và rộng hơn là rủi ro của
doanh nghiệp. Nội dung phân tích cấu trúc NV bao gồm phân tích tính
tự chủ về tài chính và phân tích tính ổn định của nguồn tài trợ. Phân
tích tính tự chủ về tài chính thông qua các chỉ tiêu: Tỷ suất nợ và tỷ
suất tự tài trợ. Thông thường, các chủ nợ thích tỷ lệ vay nợ vừa phải vì
tỷ lệ này càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo chi trả trong
trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Tuy nhiên, khi tỷ lệ nợ cao,
Bản Tin Sớm www.bantinsom.com
doanh nghiệp dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán và sẽ khó
khăn cho doanh nghiệp trong việc tiếp nhận thêm các khoản tín dụng
bên ngoài. Tuy nhiên, mỗi NV đều có liên quan đến thời hạn và chi phí
sử dụng vốn. Sự ổn định về nguồn tài trợ cần được quan tâm khi đánh
giá cấu trúc NV của doanh nghiệp. Để đánh giá tính ổn định của nguồn
tài trợ cần sử dụng các chỉ tiêu: tỷ suất nguồn vốn thường xuyên
(NVTX) và tỷ suất nguồn vốn tạm thời. Tỷ suất NVTX là tỷ số giữa
NVTX với tổng NV, tỷ suất NVTT là tỷ số giữa NVTT với tổng NV. Tỷ
suất NVTX càng lớn cho thấy sự ổn định tương đối trong một thời gian
nhất định đối với NV sử dụng; doanh nghiệp chưa chịu áp lực thanh
toán trong ngắn hạn. Ngược lại, khi tỷ suất NVTX thấp cho thấy nguồn
tài trợ phần lớn là bằng nợ ngắn hạn, áp lực về thanh toán các khoản
nợ vay rất lớn.

Thứ hai, phân tích cân bằng tài chính:

Cân bằng tài chính là sự cân bằng giữa tài sản với nguồn tài trợ tương
ứng của nó. Mối quan hệ trong trường hợp này thể hiện qua các
phương thức, chính sách tài trợ TSCĐ và TSLĐ. Chỉ tiêu phân tích: vốn
lưu động ròng (VLĐR), nhu cầu VLĐR và ngân quỹ ròng (NQR). VLĐR
được xác định là phần chênh lệch giữa TSLĐ và ĐTNH với nợ ngắn hạn;
hoặc VLĐR được tính là phần chênh lệch giữa NVTX với TSCĐ và ĐTDH.
Còn nhu cầu VLĐR bằng (=) hàng tồn kho cộng (+) nợ phải thu của
khách hàng trừ (-) nợ phải trả ngắn hạn (không kể vay ngắn hạn).
NQR là phần chênh lệch giữa VLĐR và nhu cầu VLĐR. Nếu VLĐR âm
liên tục qua các năm thì doanh nghiệp sẽ mất cân bằng tài chính, tình
hình và khả năng thanh toán sẽ gặp khó khăn; Tuy nhiên, để có đánh
giá đầy đủ hơn cần thông qua chỉ tiêu NQR. Nếu NQR âm, có nghĩa là
doanh nghiệp phải huy động các khoản vay ngắn hạn để bù đắp sự
thiếu hụt về nhu cầu VLĐR và tài trợ cho TSCĐ; cân bằng tài chính
kém an toàn và bất lợi cho doanh nghiệp. Nếu NQR dương thể hiện
một cân bằng tài chính rất an toàn vì doanh nghiệp không phải vay để
bù đắp sự thiếu hụt về nhu cầu VLĐR.

Hoạt động kinh doanh lữ hành không có tồn kho, không có sản phẩm
dự trữ cho tiêu thụ, không có sản phẩm dở dang; quá trình sản xuất
cũng đồng thời là quá trình tiêu thụ. Mặt khác, hoạt động cung cấp
dịch vụ lữ hành phục vụ trực tiếp cho nhu cầu của khách hàng, không
qua trung gian mua bán, doanh thu cung cấp dịch vụ phần lớn được
khách hàng thanh toán bằng tiền, nên nợ phải thu của khách hàng các
doanh nghiệp lữ hành chiếm tỷ trọng thấp trong tổng tài sản lưu động.
Doanh thu bằng tiền thu được sẽ được tiếp tục chi ra cho chu kỳ kinh
doanh tiếp theo và được luân chuyển liên tục. Do đó, ở các doanh
nghiệp kinh doanh lữ hành thông thường tài sản lưu động chiếm tỷ
Bản Tin Sớm www.bantinsom.com
trọng thấp dẫn đến các chỉ tiêu về VLĐR, nhu cầu VLĐR, cũng như
NQR thông thường là thấp hơn các ngành sản xuất vật chất khác. Tại
nhiều thời điểm khác nhau VLĐR, cũng như NQR có thể âm nhưng
doanh nghiệp không phải quá khó khăn trong vấn đề thanh toán như
các doanh nghiệp sản xuất vật chất khác.

Do vậy, khi phân tích cấu trúc tài chính, phân tích cân bằng tài chính
thông qua chỉ tiêu VLĐR và NQR cần lưu ý đặc điểm này để có đánh
giá đúng thực trạng.

Thứ ba, phân tích hiệu quả hoạt động:


Hiệu quả hoạt động được xem xét một cách tổng thể bao gồm hoạt
động kinh doanh và hoạt động tài chính. Hoạt động kinh doanh và
hoạt động tài chính có mối quan hệ qua lại do đó khi phân tích hiệu
quả hoạt động cần phải xem xét hiệu quả của hai hoạt động này bởi lẽ
một doanh nghiệp có thể có hiệu quả hoạt động kinh doanh nhưng lại
không có hiệu quả hoạt động tài chính hoặc hiệu quả hoạt động tài
chính thấp đó là do các chính sách tài trợ không phù hợp với tình hình
chung của doanh nghiệp.

- Phân tích hiệu quả kinh doanh:


Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sử
dụng các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao
nhất với chi phí bỏ ra thấp nhất. Phân tích hiệu quả kinh doanh của
một doanh nghiệp là một vấn đề hết sức phức tạp. Tuy nhiên, ở góc độ
phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các báo
cáo tài chính thì việc phân tích chỉ giới hạn ở việc phân tích hiệu quả
cuối cùng thông qua các chỉ tiêu doanh thu và lợi nhuận mà doanh
nghiệp đạt được. Do vậy, nội dung phân tích hiệu quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp bao gồm các chỉ tiêu: tỷ suất lợi nhuận thuần
trên doanh thu thuần; tỷ suất khả năng thanh toán lãi vay; tỷ suất
sinh lời của TS (ROA); tỷ suất sinh lời kinh tế của TS (RE).

- Phân tích hiệu quả tài chính:


Hiệu quả tài chính thường được các nhà đầu tư quan tâm, một doanh
nghiệp có hiệu quả tài chính cao thì sẽ có điều kiện tăng trưởng.
Nghiên cứu hiệu quả tài chính nhằm đánh giá sự tăng trưởng TS của
doanh nghiệp so với tổng TS mà doanh nghiệp có, đó là khả năng sinh
lời của nguồn vốn chủ sở hữu (NVCSH). Khả năng sinh lời NVCSH
(ROE) thể hiện qua mối quan hệ giữa lợi nhuận cuối cùng của doanh
nghiệp với NVCSH. Chỉ tiêu này được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm
khi họ quyết đinh bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. ROE cao chứng tỏ
doanh nghiệp sử dụng NVCSH có hiệu quả. Ngược lại, nếu tỷ lệ này
thấp thì doanh nghiệp khó khăn trong việc thu hút vốn đầu tư.
Bản Tin Sớm www.bantinsom.com

Với T là tỷ suất thuế thu nhập doanh nghiệp.

Hay ROE = ROA x (1-T) x (1+ Đòn bẩy tài chính). Trong đó, đòn bẩy
tài chính = Nợ phải trả/NVCSH. ROE chịu ảnh hưởng của nhiều nhân
tố: hiệu quả kinh doanh, khả năng tự chủ về tài chính và độ lớn đòn
bẩy tài chính.

Hoạt động kinh doanh lữ hành ở nước ta chịu ảnh hưởng bởi tính mùa
vụ, tính mùa vụ được thể hiện rất rõ rệt; thời tiết trong năm được chia
thành hai mùa là mùa khô và mùa mưa; hoạt động kinh doanh lữ hành
phần lớn diễn ra trong mùa khô, kết quả hoạt động kinh doanh lữ hành
phần lớn mang lại cho doanh nghiệp vào mùa khô, kết quả hoạt động
của mùa mưa rất thấp. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh,
hiệu quả tài chính giữa các kỳ có ảnh hưởng bởi tính mùa vụ. Do đó,
khi phân tích các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của doanh nghiệp lữ hành
giữa các kỳ thì cần phải quan tâm đến tính thời vụ để có đánh giá hợp
lý hơn.

Thứ tư, phân tích rủi ro kinh doanh:

Trong hoạt động kinh doanh vấn đề rủi ro đều có khả năng xảy đối với
hoạt động của doanh nghiệp, thông thường doanh nghiệp hoạt động
trong lĩnh vực có lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn. Rủi ro kinh
doanh là loại rủi ro gắn liền với sự không chắc chắn, sự biến thiên của
kết quả và hiệu quả kinh doanh. Vì vậy, có thể phân tích rủi ro kinh
doanh thông qua độ biến thiên của của các chỉ tiêu kết quả hay hiệu
quả kinh doanh, thông qua đòn bẩy kinh doanh, đòn cân định phí.

Hoạt động kinh doanh lữ hành mang tính tổng hợp gồm nhiều thành
phần tạo thành từ việc lập tour lữ hành đến vận chuyển, lưu trú, phục
vụ ăn, uống, vui chơi đến giải trí trong một quy trình khép kín. Dịch vụ
lữ hành được cung cấp cho du khách ở nhiều khâu, diễn ra ở những
khoảng thời gian và không gian khác nhau. Thời gian và không gian
cung cấp dịch vụ cho từng đối tượng là khác nhau, doanh thu, chi phí,
Bản Tin Sớm www.bantinsom.com
giá thành của từng tour cũng khác nhau. Do đó, việc phân tích rủi ro
kinh doanh của doanh nghiệp lữ hành phù hợp nhất là phân tích rủi ro
kinh doanh thông qua mức độ biến thiên của các chỉ tiêu phản ánh kết
quả hay hiệu quả kinh doanh; phân tích rủi ro kinh doanh thông qua
mức độ phân bổ giữa biến phí và định phí.

- Phân tích rủi ro kinh doanh qua mức độ biến thiên của các chỉ tiêu
phản ánh kết quả kinh doanh như: doanh thu, lợi nhuận trước thuế, lợi
nhuận sau thuế; của hiệu quả kinh doanh: (các chỉ tiêu phản ánh tỷ
suất sinh lời trên doanh thu, tỷ suất sinh lời trên tài sản, tỷ suất sinh
lời trên vốn chủ sở hữu). Theo quan điểm phân tích thống kê, người ta
thường sử dung phương sai để đánh giá tính bấp bênh của một đại
lượng, độ biến thiên của một chỉ tiêu. Để xem xét độ biến thiên của
một chỉ tiêu người ta dùng phương sai để thể hiện và phương sai sẽ
được tính bằng bình phương các độ lệch của chỉ tiêu nghiên cứu với giá
trị trung bình của nó. Mặt khác, để chỉ tiêu có giá trị tương ứng và phù
hợp trong nghiên cứu và đơn vị tính toán, người ta còn dùng chỉ tiêu
độ lệch tiêu chuẩn và được tính bằng căn bậc hai của phương sai.

Nguyên tắc đánh giá rủi ro kinh doanh qua độ biến thiên: Ở mức độ
hoạt động và quy mô tương tự nhau, phương án (doanh nghiệp) nào
có phương sai hoặc độ lệch tiêu chuẩn của một chỉ tiêu tài chính nhỏ
hơn phương sai, độ lệch tiêu chuẩn của chỉ tiêu tương ứng của phương
án (doanh nghiệp) kia thì rủi ro của phương án (doanh nghiệp) này
nhỏ hơn.

Tuy nhiên, để đánh giá chính xác hơn mức độ rủi ro khi kết quả hoặc
sự kiện có giá trị trung bình giữa các phương án kinh doanh khác
nhau, người ta sử dung hệ số biến thiên và được tính bằng tỷ số giữa
độ lệch chuẩn với giá trị trung bình của chỉ tiêu tài chính. Phương án
nào có hệ số biến thiên càng nhỏ thì phương án đó ít rủi ro hơn.

- Ngoài ra, có thể phân tích rủi ro kinh doanh thông qua mức độ phân
bổ giữa biến phí và định phí. Rủi ro gắn liền với sự không chắc chắn
của hiệu quả kinh doanh phụ thuộc chủ yếu vào sự phân bổ giữa biến
phí và định phí. Trong các doanh nghiệp, định phí có ảnh hưởng đến
đòn bẩy kinh doanh. Tại một mức hoạt động, tỷ lệ định phí trong tổng
chi phí càng lớn thì đòn bẩy kinh doanh càng cao và rủi ro của doanh
nghiệp càng lớn. Nhân tố về phân bổ định phí cũng còn được gọi là đòn
cân định phí.

Trong kết cấu chi phí kinh doanh lữ hành thì định phí chiếm tỷ trọng
khá lớn, hay nói khác hơn là đòn cân định phí rất lớn. Các doanh
nghiệp lữ hành thường rủi ro kinh doanh cao hơn các doanh nghiệp
Bản Tin Sớm www.bantinsom.com
thương mại. Thực tế cho thấy, hoạt động kinh doanh lữ hành chịu ảnh
hưởng bởi nhiều nhân tố, nếu hoạt động kinh doanh gặp khó khăn thì
sẽ không thu hồi được lượng vốn rất lớn đã được đầu tư, rủi ro kinh
doanh sẽ rất lớn và cũng rất khó khăn khi chuyển sang lĩnh vực kinh
doanh khác như các doanh nghiệp thương mại.

Tóm lại, từ đặc điểm của hoạt động kinh doanh lữ hành, đặc điểm hoạt
động tài chính của doanh nghiệp lữ hành, dẫn đến các doanh nghiệp lữ
hành có đặc điểm phân tích tài chính riêng, khác biệt với các ngành
sản xuất vật chất khác. Do đó, cần nghiên cứu đặc điểm phân tích tài
chính của các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành để phân tích và đánh
giá tình hình tài chính của các doanh nghiệp này.

You might also like