Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 31

Bai 17 : Nguon goc Viet Nam cua ten 12 con giap (P.

1)

Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp (Phần 1)


Nhà ngôn ngữ học Nguyễn Cung Thông (01 tháng 06 năm 2006)

Vấn đề cội nguồn văn hóa Việt Nam rất quan trọng. Nhiều vị đã mất cả đời người truy tìm, trong đó có LM
Kim Định ... Tiếc rằng văn bản lịch sử rất mơ hồ, dữ kiện khảo cổ không có bao nhiêu... đồng thời các tài liệu
Trung Hoa thì phức tạp và méo mó... nên phải rất thận trọng khi tìm về nguồn và không để cho tình cảm chi phối
lý trí làm lệch lạc kết quả. Hi vọng phương pháp tìm về nguồn dựa trên Ngữ Âm Học Lịch Sử (Historical
Phonology) sẽ cho ta thấy nhiều kết quả chính xác hơn.

1. Giới thiệu tổng quát

Tìm hiểu về gốc của tên mười hai con giáp là một cơ hội để ta tìm về cội nguồn tiếng Việt. Tên 12 con
giáp là Tý/Tử, Sửu, Dần, Mão/Mẹo, Thìn/Thần, Tỵ, Ngọ, Mùi/Vị, Thân/Khôi, Dậu, Tuất, Hợi. Thoạt nhìn thì thập
nhị chi trên có vẻ bắt nguồn từ Trung Quốc (hay Trung Hoa, tắt là TH) vì là những từ Hán Việt (HV).Khi phân tách
các tiếng Việt, và thấy có những khác lạ hay có một khuynh hướng tổng quát chung nào đó thì những dạng này
cần được so sánh với những từ khác với nguồn gốc không phải là Việt, Thí dụ như trong các từ liên hệ đến xe
hơi chẳng hạn, ta thấy các dạng như pan (xe bị pan), phanh (thắng), láp, két nước (tử két), đèn pha, máy bơm
xăng, ống bơm, xăng, hòn (viên) bi, bị giơ (lỏng), cái van, dây cáp (điện), dây xên, con vít, sạc điện …v…v...
không kể các từ đa âm khác như bugi, táp-lô, rô-đa, mỏ-lét, rờ-le, bù-loong … So với tiếng Pháp và tiếng Anh
hiện nay (không khác gì nhiều trong vòng trăm năm nay)
Rõ ràng là các từ trên tương ứng với tiếng Pháp rất chặc chẽ so với tiếng Anh, hay một ngoại ngữ nào
khác - người viết dùng tiếng Anh và Pháp để so sánh vì lịch sử cận đại cho thấy nhiều liên quan giữa nước Pháp,
nước Mỹ với VN. Ngoài ra, kỹ thuật chế tạo, lắp ráp và bảo trì xe hơi (ô tô) là từ các nước Âu Châu trên. Nếu mở
rộng đề tài ra thì ta có các tiếng Pháp khác nhập vào tiếng Việt như bót/bốt (đồn cảnh sát), ông cẩm
(commissaire), nhà ga (trạm xe lửa), lô, ký (kilogramme), xạc (sacrer, bị mắng), cuốc (xe cuốc, course, xe đua),
cúp (coupe), cà-lem, kem (crème) ..v..v.. Phần lớn các từ mượn từ tiếng Pháp có phạm trù giới hạn và thường là
thuật ngữ. Cách viết văn (cú pháp) và thành lập chữ của bị ảnh hưởng phần nào qua giao lưu văn hoá với Pháp :
như cách dùng bàn giấy, giết thời gian … Trong các bài sau, người viết sẽ chú trọng đến sự so sánh các từ, các
biến âm và phạm trù ngữ nghĩa của chúng. Giao lưu văn hoá với Pháp xẩy ra chỉ gần đây (hai trăm năm trở lại và
càng ngày càng ít đi từ thời kỳ thuộc địa), thành ra các dạng biến âm rất dễ tra ra, cũng như từ phạm trù nghĩa
giới hạn của chúng.

Trở lại với tên 12 con giáp, thời kỳ giao lưu văn hoá với TH đã xẩy ra rất lâu (ít nhất đã hơn hai ngàn
năm, so với hai trăm năm) và từng đợt chất chồng lên nhau, thêm vào đó là các tài liệu rất mơ hồ và thường hàm
ý là tên 12 con giáp là của TH (một tiền đề không ai dám tranh cãi hay tìm ra ngọn ngành một cách rõ ràng và
khoa học). Các tài liệu lại thường viết bằng chữ Hán, thêm và tiền đề (hầu như là một ‘công lý’ không ai chối cãi
đuợc ?) về nguồn gốc TH hợp với cách viết chủ quan và đầy tự ái dân tộc của một số tác giả TH càng làm vấn đề
trở nên phức tạp hơn nữa.

Nhìn lại bảng so sánh một số tiếng Việt trong lãnh vực kỹ thuật (xe hơi) như trên, dù ai có tự ái dân tộc
lớn đến đâu cũng không thể chối cãi quá trình mượn từ tiếng Pháp vào tiếng Việt, thêm vào đó là các tài liệu
sách vở trong vòng hai thế kỷ qua dễ cho chúng ta kiểm lại kết luận này.

Thực ra, sự vay mượn qua lại là một hiện tượng rất tự nhiên của ngôn ngữ loài người, chính sự thuần
nhất (pure) ngôn ngữ mới là hiếm có hay là ngoại lệ ! Cũng như hiện tượng thuần chủng (pure race) vậy – cũng
chính cách nhìn hạn hẹp từ sự thuần chủng mà đã xẩy ra bao nhiêu tai hoạ như Đức Quốc Xã với giống Aryen,
chính sách White Policy hay nước Úc cho ‘người da trắng’ chẳng hạn ….– và cũng chính thái độ ù lỳ không chấp
nhận ‘mình vay của người’ mà nhiều sai lầm đã xẩy ra, ngay cả cho một số công trình nghiên cứu trong quá khứ.
Tiếng Nhật và tiếng Đại Hàn có nhiều từ gốc Hán, tiếng Anh/Pháp cũng đầy các từ gốc La-Tinh, Hi-Lạp … chẳng
nước nào có ‘mặc cảm chữ nghĩa’ đâu ? Với các cảnh giác trên thì ai là chủ nhân của tên 12 con giáp ?

2. Vài nhận xét sơ khởi về tên 12 con giáp :

2.1 Tên 12 con giáp đọc như tiếng HV, theo giọng Bắc Kinh (BK) và bằng cách ghi theo Phiên Âm (pinyin)
là zĭ, chŏu, yín, măo, chén, sì, wǔ, wèi, shēn, yŏu, xū, hài hoàn toàn không liên hệ đến cách gọi (tên) 12 con thú
trong tiếng TH hiện nay – ngay cả giọng Quảng Đông (QĐ) ..v..v.. Khi phục hồi âm TH thời Thượng Cổ (Archaic
Chinese) thì vẫn không tương đồng với các cách gọi tên thú vật thời trước. Như vậy nếu có một dân tộc nào
đó dùng tên 12 con thú tương tự như tên 12 con giáp thì dân tộc đó phải có liên hệ rất khắn khít với
nguồn gốc tên 12 con giáp này. Cũng như khi so sánh các từ về xe hơi phần trên, ta có thể đi dến kết luận là
tiếng Pháp đã cho tiếng Việt mượn trong thời kỳ giao lưu văn hoá cận đại(1). Nhưng người viết không đi sâu
thêm nữa để tìm hiểu các danh từ tiếng Pháp trên có nguồn gốc ở đâu. Xin nhắc lại ở đây là các bài này viết về
nguồn gốc tên 12 con giáp, còn nguồn gốc 12 con giáp ở đâu ra không nằm trong phạm vi các phần sau.

2.2 Tại sao Trung Hoa dùng con thỏ thay cho con mèo (biểu tượng của chi Mão/Mẹo) ? Xem cách viết
chữ miêu (con mèo, giọng BK là māo) bằng bộ trỉ hợp với miêu (mầm mống, hài thanh) so với thỏ là chữ tượng
hình – hay thố HV, giọng BK là tù viết bằng bộ nhân cho thấy sự quan trọng của thỏ đối với văn hoá TH. Hầu như
chỉ có dân Việt mới dùng mèo cho chi Mão : nguyên âm e hay iê là các dạng cổ hơn của a như kẻ/giả, vẽ/hoạ,
xe/xa, khoe/khoa, hè/hạ, chè/trà, keo/giao, beo/báo….

Nhờ sự khác biệt này mà ta bắt đầu thấy mối dây liên hệ của tiếng Việt với 12 con giáp. Mèo hiện
diện trong đời sống dân Việt thường xuyên hơn. Còn chi Ngọ liên hệ đến ngựa hầu như không cần giải thích
nhiều, so với mã HV (mă BK, giọng BK hiện nay không còn âm ng- nữa mà đã bị môi hoá thành w- và m-). Các
dạng Mão/Mẹo/mèo và Ngọ/ngựa dễ cho ta nhận ra sự liên hệ giữa tên 12 con giáp với tiếng Việt hiện nay. Thời
tiền Hán, tiếng Việt ta không có nhiều thanh điệu (tone) như bây giờ, nên sự khác biệt về thanh điệu không có gì
lạ. Như trong khẩu ngữ ta ta có cách dùng “chờ một tý” cũng như “chờ một chút”, “đưa chút tiền” cũng như “đưa
tý tiền” … vào thời tiền Hán, các câu trên đọc như giọng Huế hay người Hòn bây giờ (ít thanh điệu hơn so với
giọng Hà Nội) thì ta thấy ngay chút hay *chụt/chuột chính là các dạng của tý vậy. Biến âm t-ch (phụ âm đầu) của
tý/tử HV -chuột còn thấy qua các liên hệ như ty/tư HV là chủ, tỷ-chia, tứ-cho, từ-chữ, tự-chùa, tỷ-chị, tựu-chầu (tụ
lại), tốt-chết, từ-chợ, thị-chợ, thố-chua, thù-chuốc, thục-chuộc, thúc-chú….Thành ra, ta có sơ khởi là ba chi
Mão/Mẹo, Ngọ và Tý có liên hệ với mèo, ngựa và chuột trong tiếng Việt hiện đại. Các phần sau sẽ phân tách
chi tiết hơn về sự tương quan giữa tên các chi và các tên thú vật trong tiếng Việt.

2.3 Nếu quả thật tên 12 con giáp TH bắt nguồn từ tiếng Việt (Cổ), thì kết quả này còn phù hợp với các kết
quả trước đây như triết gia Kim Định đã cố gắng chứng minh văn hoá TH xuất phát từ văn hoá Việt (SàiGòn vào
thập niên 1970, như cuốn “Việt Lý Tố Nguyên”), tác giả Nguyễn Hoài Nhân (bên Pháp vào thập niên 1980, như
trong các bộ “VietNam en image” ghi nhận các bằng chứng về khảo cổ và ngôn ngữ để đi đến kết luận : người
Việt Cổ là người cho, người TH là người nhận), tác giả Lê Mạnh Thát qua cuốn “Lịch Sử Âm Nhạc Việt Nam - từ
thời Hùng Vương đến thời kỳ Lý Nam Đế” đưa ra các dữ kiện chứng tỏ rằng Việt Ca (Lưu Hướng ghi lại trong
Thuyết Uyển) có nguồn gốc Việt Nam (VN), tác giả Nguyễn Thiếu Dũng cũng bắt đầu đặt lại vấn đề nguồn gốc
Kinh Dịch (từ tộc Việt) trong những năm gần đây … Cho thấy chiều vay mượn là từ phương Nam vào thời
thượng cổ, chứ không phải là từ Bắc xuống Nam (cũng như các nước chung quanh) vào các đời Hán, Đường
lúc văn hoá TH cực thịnh,. Tuy nhiên không tác giả nào đề cập đến nguồn gốc tên 12 con giáp, và rất ít dùng cấu
trúc của chữ Hán, Hán Cổ cùng các biến âm trong cách lý giải.

Để thấy rõ hơn các liên hệ của tên thú vật và tàn tích trong tiếng Hán Cổ, chúng ta hãy xem một số từ chỉ
con vật thông thường như cóc, voi … và cấu trúc của tiếng Hán cho thấy tàn tích của tiếng Việt mà đã từ từ mất
đi trong ngôn ngữ TH hiện nay. Hi vọng từ đó khi tập trung nhìn vào các tương quan của tên 12 con giáp thì các
liên hệ sẽ được rõ ràng hơn, nhất là qua sự so sánh các ngôn ngữ láng giềng với tiếng TH, HV, tiếng Việt.
2.4 Muốn tìm hiểu ngọn ngành trên phương diện so sánh các ngôn ngữ, ngày nay ta không đến nỗi phải
đi tới những nơi xa xôi (du học) nữa, nhất là về đề tài 12 con giáp. Các tài liệu thông tin, mạng Internet, sách vở
được ấn hành nhiều hơn và cởi mở hơn. Thêm vào đó là chánh phủ địa phương có vẻ như càng ngày càng mở
mang và thành thật hơn, không độc đoán và che dấu hay ‘bóp méo’ các dữ kiện khảo cổ, ngôn ngữ như xưa.
Cách đây hơn 50 năm, Phan Khôi - một nhà nghiên cứu văn hoá VN rất nhiệt thành – đã phải lên tiếng “… người
VN chúng ta về sau phải sang TH ở lâu mà nghiên cứu, may ra tìm được các dấu vết tương quan của dân tộc ta
với dân tộc TH từ đời thượng cổ…” (trang 34, “Việt Ngữ nghiên cứu” Phan Khôi, bài viết năm 1954, in lại – NXB
Đà Nẵng, 1997). Đương nhiên là các kết quả của so sánh ngôn ngữ phải phù hợp với những kết quả từ ngành
khảo cổ, lịch sử và di truyền (DNA)… để tăng mức độ chính xác.

3. Tiếng Việt và tiếng Hán Cổ (hay tiếng Hán và tiếng Việt Cổ)

3.1 Cóc là loài vật vừa ở trên cạn vừa ở dưới nước (gọi là amphibian) hiện diện trong các ngôn ngữ
Đông Nam Á như ku-óc, cóc (tiếng Mường), ka kọc (Nùng), róc (Lào : lụt róc, kăn kắk, khăn khắk : cóc), khàng
khók (Thái), king kuok (Khme), a-rok (Chàm), kok, kokke, khog (Mundari, Birhor, Hor…ngữ hệ Munda), cơưk
(Hmong) ..v..v.. Trong vốn từ TH hiên nay, còn một chữ rất hiếm là cúc HV viết bằng bộ trùng hợp với chữ cúc hài
thanh (HT, cúc nghĩa là nắm, túm) - giọng BK bây giờ là jú, qú. Để chỉ con cóc, tiếng TH có các từ thiềm HV
(chán, zhān BK) viết bằng bộ trùng (cũng có nghĩa là bóng đen trên mặt trăng, tiếng ghép HV thiềm thừ là con
cóc); thừ HV (shú, chú, yú BK) viết bằng bộ trùng hợp với chữ dư HT; ma HV (má, mò BK viết bằng bộ trùng, còn
là một loại ếch); Ba/pha/bì HV (bŏ, pí BK viết bằng bộ trùng hợp với chữ bì HT - từ này ít dùng với tần số dùng là
10 trên 365398752 cho thấy một cách phân biệt cóc và nhái qua lớp da sần)… Trái cóc có vỏ như da cóc … Theo
người viết thì cóc(2) có thể là một từ tượng thanh (con cóc có tiếng kêu đặc biệt ‘cọc… cọc”) với âm yết hầu k-,
và do đó một số ngôn ngữ khác không liên hệ gì đến tiếng Việt hay Nam Á như ngôn ngữ của Easter Island ở
Nam Thái Bình Dương cũng gọi cóc là kok, tiếng Inđônesia là kodok, katak, tiếng Kơho là kit trô …

3.2 Voi là một từ đáng chú ý : có nhiều cách viết chữ Nôm, như bộ khuyển hợp với chữ vi HV (hài thanh,
Đại Nam Quốc Âm Tự Vị/ĐNQATV), bộ khuyển hợp với chữ bôi (cái chén, HT cho thấy liên hệ b-v), bộ khuyển
hợp vớI chữ bút … Các chữ voi này rất xa lạ với người TH, . Tiếng TH hiện nay có tượng HV, giọng BK bây giờ là
xiàng, giọng QĐ jeung(6) liên hệ đến giống tiếng Việt, viết bằng bộ nhân hợp với chữ tượng HT. Chữ tượng có
cách viết cổ giống như hình con voi nhưng lại dựng đứng lên để theo chiều từ trên xuống dưới và để tiết kiệm
diện tích viết chữ. Tượng còn dùng để chỉ bức tượng trong tiếng Việt so với tiếng TH bây giờ phải dùng các từ
ghép như diāoxiàng BK (điêu tượng, tượng được khắc), sùxiàng (tố tượng, tượng được nặn hay đắp thành). Ông
hay bà quản tượng là người coi (kiểm soát) voi hay là mahout, là tiếng Ấn Độ/Hindi mahaut gốc tiếng Phạn là
mahamatrah. Con tượng còn là con voi trong bàn cờ tướng. Một điểm đáng chú ý là chỉ có voi là loài vật khác
trong các loại lợn được viết bằng bộ thỉ (con lợn) thứ 152. Dự là từ HV đã từng có nghĩa là con voi - chữ này viết
bằng bộ thỉ, thật ra là chữ dư hợp với chữ tượng - hiện thời có các nghĩa như vui vẻ (nghĩa bây giờ hơi khác hơn
và thiên về an nhàn), thoải mái, du ngoạn (hàm ý vui vẻ), do dự, dự bị, một trong chín châu (Cửu Châu) của TH
thời xưa (bao gồm tỉnh Hà nam, do đó Dự cũng là tên cổ của Hà Nam(3)), gạt gẫm … và rất ít tự điển ghi nhận
nghĩa cổ của dự là voi(4). Theo người viết, vui là âm cổ cũng như một dạng khác là voi. Liên hệ u-o (vui-voi) còn
thấy trong các cách dùng tương đương như tùng-tòng (thông), chùm-chòm, vũ-võ, trụi-trọi, dung-dong, phù-phò,
hụi-hội, tui-tôi, thúi-thối … do đó ta có cơ sở giải thích liên hệ dự-vui-voi. Voi từ chữ dự (có chữ tượng) hợp lý
hơn là từ chữ vi (bộ trảo) theo Vương Lực (xem phụ chú 4). Các dữ kiện hỗ trợ cho liên hệ dự-vui còn thấy qua
các chữ HV như du (yú BK, viết bằng bộ sước) có nghĩa là đi chơi, vui vẻ; du HV (yú BK viết bằng bộ tâm) có
nghĩa là yên vui … Các cách viết khác nhau để ghi lại âm ‘vui’ cho thấy lý luận dự-vui thêm phần chính xác (nhớ
rằng chữ viết có sau tiếng nói).

3.3 Vụ HV viết bằng bộ điểu, giọng BK bây giờ là wù, mù, giọng QĐ mou(6), muk(6), Hẹ mu(6), vu(6) …
nghĩa là một loài vịt. Chữ này không thông dụng trong vốn từ TH hiện đại với tần số dùng là 105 trên 368707021
so với các chữ khác như áp HV (yā BK), nga HV (é BK, ngo(4) QĐ – ngan, ngỗng là các dạng cổ), nhạn HV (yàn
BK, ngaan(6) QĐ) … Theo Thuyết Văn (TV), chữ ngan đồng nghĩa với nhạn. Biến âm u-i của vụ-vịt không thường
gặp nhưng còn tàn tích trong các cách dùng bút-viết, thụ-chịu, nhu-diệu, đinh-chuồn … Để ý phụ âm tắt –t ở sau
nguyên âm thường mất đi trong giọng BK (phương Bắc) nhưng vẫn còn duy trì trong tiếng Việt, giọng QĐ, Hẹ …

3.4 Đinh viết bằng bộ trùng với chữ đinh HT, giọng BK bây giờ là dīng, chēng, chéng, ding(1), cing(1) QĐ,
Hẹ den(1) …có nghĩa là con chuồn chuồn. Chữ này rất ít dùng với tần số dùng là 14 trên 430747376. So với các
chữ khác thường gặp trong vốn từ TH hiện nay như tinh HV (dīng, tīng BK), đình HV hay tinh đình, linh HV (líng
BK viết bằng bộ trùng hợp với chữ linh/lệnh HT, để ý linh HV viết bằng bộ kim hợp với chữ linh/lệnh là chuông)…
Nếu ta để ý biến âm đ-tl/tr-ch (xem bài viết riêng về biến âm này cùng tác giả) như độn-trốn-chuồn, đồn/đốn-
truân-chiên, đồn-trôn, điền-trần, đục-trọc, đoàn-tròn, động-trọng-chuộng, đồng-tròng (con ngươi), đản-trần …v..v..
thì có thể giải thích được liên hệ đinh-*chuôn (biến âm i-u nói ở phần 3.3), hay dạng chuồn (thanh huyền có thể
do ảnh hưởng của phụ âm mũi –n). Tiếng Mường cũng có dạng chuồn chuồn, tiếng Zhuang là chi-chuồn.

Như vậy thì tiếng Việt vẫn còn tàn tích trong tiếng TH, tuy nhiên các cách dùng từ ‘phương Nam’ từ từ
mất dần đi(5), có thể là do các tiếng phương Bắc thay vào (giai cấp thống trị), hoặc không hợp với hệ thống âm
điệu của Hán tộc hay sự cố tình bôi xoá ?

Tóm tắt bài này là trong tiếng Trung Hoa có những từ Việt (Cổ) nhưng rất ít dùng, tuy nhiên trường
hợp của tên 12 con giáp rất đặc biệt : được dùng trong việc ghi lại thời gian, không gian, bói toán, cúng kiến …
rất phổ thông trong văn hoá và tín ngưỡng dân gian, chúng gắn liền với lịch sử tư tưởng của TH và VN, đóng một
vai trò quan trọng trong văn hoá dân tộc. Do đó, chúng là những từ hoá thạch (fossilised) gắn bó với câu ca dao

‘Trăm năm bia đá thì mòn

Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ’

4. Phụ chú

(1) Bảng so sánh trên cho thấy liên hệ giữa tiếng Pháp và Anh như sạc tiếng Pháp và tiếng Anh giống y
như nhau, gốc tiếng Pháp Cổ (Old French) là chargier (chất đồ lên, tải), liên hệ đến tiếng La Tinh carrus (chiếc
xe) do đó ta có các dạng tiếng Anh như car/xe, carry/chở, chariot/xe … và nếu truy tầm thêm nguồn gốc các chữ
trên thì sẽ thấy nhiều tương quan của nhóm (dòng, ngữ hệ) La Mã, họ Ấn Âu (Indo-European) phản ánh qua lịch
sử và quá trình phát triển văn hoá của Hi Lạp, Ý, Pháp v..v.. Điều này ra ngoài mục đích của bảng so sánh cốt là
cho thấy các tiếng mượn từ tiếng Pháp mà thôi.

(2) Tác giả Lê Gia trong “Tiếng Nói Nôm Na” (NXB Văn Nghệ Thành Phố HCM, 1999) thì giải thích cóc là
từ hốc, cốc mà ra “loài vật dơ dáy, bẩn thỉu, tối ngày ngồi trong hang trong hốc” (trang 1451).

(3) Tỉnh Hà Nam vẫn còn một số hoạt động như cỡi voi cho du khách.

(4) Theo tác giả Nguyễn Văn Tu trong “Từ và vốn từ - tiếng Việt hiện đại” (NXB Đại Học và Trung Học
Chuyên Nghiệp, Hà Nội 1976) thì voi có nguồn gốc là chữ vi “…theo sự nghiên cứu của ngành Cổ Văn Tự, vi là
chữ tượng. Theo tiếng Việt thiên đọc là vi còn tượng đọc là voi…” (trang 266) - trích dẫn từ kết luận của nhà ngữ
học TH Vương Lực trong các cuốn “Hán Việt Ngữ nghiên cứu” và “Hán ngữ sử luận văn tập” (khoảng 1958). Sau
gần 3 thập niên, tác giả Lê Đình Khẩn cũng lặp lại điều này trong cuốn “Từ vựng gốc Hán trong tiếng Việt” (NXB
Đại Học Quốc Gia Thành Phố HCM, 2002), tuy nhiên tác giả có bàn thêm là thời thượng cổ “…không chắc là âm
đọc theo chữ nào trong hai chữ đồng nghĩa ấy …” (trang 59). Khi tra cách viết và khắc của chữ vi (Cổ Văn) ta
thấy hình hai con khỉ trên hình con voi tuy hình vẽ không rõ ràng lắm, theo ‘Tại Tuyến Hán Điển’ trên mạng
Internet, và ‘Chinese Characters’ của L. Wieger - cả hai tài liệu này đều ghi vi là ‘khỉ cái’. Để ý cách đọc vi HV là
wèi BK, Hẹ wui(3), wuị, wi(3), wi(5) … Còn theo Từ Nguyên thì nghĩa cổ nhất của dự là “tượng chi đại giả - kiến
Thuyết Văn” . Voi giữ một địa vị đặc biệt trong lịch sử VN : nào là chuyện bà Triệu cỡi voi chống ngoại xâm,
nào là những khi được triều cống cho TH, nào là các hình phạt cho voi xé xác, voi giày … và hiện diện trong ca
dao thành ngữ như “khoẻ như voi”, “muỗi đốt chân voi”, “chỉ buộc chân voi”, “được voi đòi tiên”, “trăm voi không
được bát nước xáo”, ”có con gái lớn trong nhà như cỡi đầu voi dữ”, “trời sinh voi trời sinh cỏ”…v…v.. Hiếm lắm
ta mới thấy vài thành ngữ có voi trong văn hoá TH như “tượng trợ ngọc bôi” (đũa bằng ngà voi và chén bằng
ngọc, chỉ cuộc sống giàu sang) hay “tượng xỉ phần thân” (voi chết chỉ vì muốn lấy ngà, của cải đem đến nguy
hiểm).

(5) Khuynh hướng mất dần các vết tích của ngôn ngữ phương Nam (thời Bách Việt về sau) đồng thời với
khuynh hướng bành trướng của lãnh thổ TH và các đợt di dân cùng pha trộn với dân bản địa trên lưu vực sông
Hồng. Các vết tích của tiếng Việt như voi, vịt, cóc, chuồn chuồn …trong tiếng TH chứng tỏ phần nào nhận định
tổng quát này.

.
Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp (phần 2)
Nguyễn Cung Thông (15 tháng 06 năm 2006) (Tổng hợp của bài này nằm ở (15), Mục 4 (phụ chú))

1. Tổng quát

Từ phần 1, với một cách phân tích đơn giản ta thấy là 12 con giáp liên hệ đến cách gọi tên con vật trong
tiếng Việt qua 3 chi Mão/Mẹo/mèo, Ngọ/ngựa và Tý/Tử/chuột. Các phần đầu 1, 2 có mục đích là giới thiệu tổng
quát về tên 12 con giáp và đặt nền tảng cho các phần sau chi tiết hơn (phần 3 về sau bàn về tên mỗi con giáp).
Người viết cố tránh dùng các thuật ngữ để cho dễ đọc và dễ cảm nhận hơn. Tiếng chuông cảnh tỉnh mọi người
về nguồn gốc phi-Trung-Hoa của tên con giáp thật ra đã được giống lên từ những công trình khảo cứu ngôn
ngữ học của vùng Đông Nam Á từ thập niên 1930, bởi các tác giả nước ngoài, đáng lẽ phải từ các nghiên cứu
khảo cổ hay lịch sử và văn hoá dân gian của dân địa phương mới ‘hợp lý’ và ‘hợp tình’. Nhưng có thể vì những
cuộc chiến tranh tàn khốc trong khu vực này trong cả thế kỷ qua nên không cho ra bao nhiêu kết quả chính xác.
Thêm vào đó là lịch sử rất lâu đời của vùng Đông Nam Á, cùng với nhiều đợt giao lưu văn hoá qua đường biển
cũng như trong đất liền, làm cho quá trình nghiên cứu không được mấy dễ dàng.

Điều đầu tiên là lập bảng so sánh tên 12 con giáp của các ngôn ngữ trong vùng như sau. Để ý một nước
có thể dùng nhiều bảng con giáp(1) (VN có ít nhất là 3 bảng) và sự thay đổi nghĩa của một số chi như rồng trở
nên con naga (ảnh hưởng của Ấn Giáo, một loài vật huyền thoại nửa voi nửa rắn, có khi nửa người nửa rắn, nửa
người nửa tiên…), gà trở thành con chim (theo Tây Tạng, gà thuộc vào loài chim – gà là con vật duy nhất có cánh
trong 12 con thú), sự phân biệt giống đực hay cái (gà trống, dê đực …) thay vì tổng quát, có cả sâu bọ(2), heo
thành voi theo một cách ghi 12 con giáp của Thái Lan, bị ảnh hưởng tiếng Phạn Nam/Pali. Pali hay tiếng Phạn
Nam (phía Nam) có gốc là tiếng Phạn Cổ (classical Sanscrit) nhưng đơn giản hơn, các kinh điển của Phật Giáo
đầu tiên được chép bằng tiếng Pali và truyền từ Sri Lanka đến Miến Điện (Myanmar), Thái Lan, Kampuchia, Việt
Nam (phần nhỏ) … thuộc phái Tiểu Thừa (Theravada) so với phái Đại Thừa (Mahayana) truyền từ TH qua. Các
ngôn ngữ dân tộc thiểu số được dùng để so sánh hầu tìm ra các dây liên hệ như tiếng Saek đang có hiểm hoạ
diệt vong, thuộc dòng Thái-Kadai và chỉ dùng trong vài làng bên Lào và Thái Lan. Tiếng Yay cũng giống như tiếng
Dioi cùng thuộc dòng Thái. Tiếng Ahom đã từng hiện diện ở Assam, bây giờ không còn nữa và chỉ dùng trong các
hoạt động tôn giáo địa phương. Dân tộc Ahom có gốc từ tỉnh Vân Nam, di dân xuống miền Đông Nam Á Châu và
Bắc Miến Điện.

2. Bảng so sánh các tên 12 con giáp Á Châu


.

.
.

(A) thoạt xem tên 12 con giáp bằng tiếng Thái (tên gọi chính thức/formal names) ta thấy rất gần với nghĩa
chúng qua tiếng Việt ! Thí dụ như tý/tí/tử là chuat3 hay chuat3 (3 nghĩa là falling tone, thanh điệu thứ 3 đi xuống
gần như dấu huyền tiếng Việt, trong phần này không ghi thanh điệu cho đơn giản) - dạng chuat3 rất gần với
chuột tiếng Việt – tuy nhiên, chuat lại không có nghĩa con chuột trong tiếng Thái (mà là nuu). Điều này cho thấy
rằng tiếng Thái đã mượn từ các tên tiếng Việt, cũng như các dạng khan (kễnh, cọp – năm cọp chính thức gọi
là bpee khan nhưng thông thường hơn là bpe seuua), roong1 (rồng – năm rồng chính thức gọi là bpee ma
roong1 hay thông thường hơn là bpee nguu yai, nguu là con rắn), rakaa1 (gà – năm gà chính thức gọi là bpe
rakaa1 nhưng thông thường hơn là bpee gai) …v..v.. Chính các tên gọi của Thái là chiếc cầu nối giữa tiếng
Việt, Cổ Việt, Mường, Hán Việt : cũng như Cha luu5 là một dạng khác của k-lu (biến âm k-ch/gi- như Bắc
Kinh/Beijing, kông/klông/giang đã ghi lại nhiều lần trong các bài viết trước – xem bài “Nguồn gốc nhóm từ sông
Cửu Long” cùng tác giả), klu hay tlu (Mường) chính là tru/trâu tiếng Việt, kbây, krobây (Khme)…. Trâu, bò không
có dạng này trong tiếng Thái hiện tại, năm sửu chính thức gọi là bpe cha luu5 so với cách gọi bình dân là bpee
wuaa, wuaa hay khoh chỉ con trâu, bò … Còn biến âm kl-s còn thấy khi so sánh tiếng Mường và Việt : klu-sửu
(trâu), klong-sông, khláng-sáng3 (Mường Poọng, khlau/krau-sau (Mường Hung), khlt/klăt-sắt, kru-sâu (Mường Uý
Lô) …. Có khi âm –l- mất hẳn để cho các dạng khang-sang, khao-sao4 …Trở lại với các cách gọi tên 12 con giáp
trong cùng một ngôn ngữ, cách gọi chính thức được người viết xếp vào loại ‘bác học’ (BH) vì cần phải học mới
biết rõ ràng so với cách gọi ‘bình dân’ (BD) qua các tên con thú. Sự phân hoá thành ra ít nhất hai loại văn
chương BH và BD không chỉ xẩy ra qua khung cửa của tên 12 con giáp, nhưng còn làm cho vốn từ Hán Việt và
Việt thêm phong phú.

(B) theo bài “A note on the origin of the Chinese duodenary cycle” của Jerry Norman đăng trong cuốn
“Linguistics of the Sino-Tibetan area – the state of the art” 1985, bài này ghi lại và bàn thêm về các dữ kiện từ bài
“L’origine du cycle des douzes animaux au Cambodge” viết từ năm 1935 bởi George Coedès.

(C) Theo tài liệu đăng trên mạng Internet của Wikipedia, chủ đề Chinese Astrology – tên các tháng của
dân tộc Hung (Hunnish) hay dân tộc Thổ-Bungari (Turkic Bulgarian) có nhiều trùng hợp với tên 12 con giáp – có
lẽ đây là các dân tộc ở xa TH nhất trên phương diện địa lý mà vẫn dùng hệ thống này (so với Nhật, Lào, Thái
Lan, Viêt Nam…) và có thể qua con đường buôn bán tơ lụa (the Silk Road). Tiếng Hung hay Thổ-Bungari không
liên hệ gì đến tiếng TH hay ngữ hệ Hán-Tạng. Các tên tháng theo thứ tự có nghĩa là con chuột, trâu, cọp … đến
con heo rừng cũng như thứ tự và tên 12 con giáp TH.
(D) Người viết chưa từng thấy bảng tiếng Việt này – cho tới khi đọc cuốn “Encyclopaedia of Asian
Civilisation” – NXB Louis Frédéric (1984), Éditions Jean-Michel Place. Chú ý các từ thử HV dùng để gọi chuột,
khôi để gọi Thân…

(E) Theo tác giả William G. Boltz trong bài viết “The Old Chinese Terrestrial rames in Saek” (in trong cuốn
“Studies in the Historical Phonology of Asian Languages” chủ biên William G. Boltz và Michael C. Shapiro, NXB
John Benjamin, 1991) thì các ngôn ngữ Lu và Pu-Yi (đều thuộc dòng Thái) có các dữ kiện sau (tóm tắt lại với các
số đứng sau chỉ thanh điệu)

3. Các giả thuyết dựa trên ngôn ngữ học

Nguồn gốc tên 12 con giáp đã được nhiều học giả ngoại quốc nghiên cứu :

George Coèdes (1935) sau khi so sánh tên 12 con giáp(5) của Xiêm và Kampuchia đã đi đến kết luận là
chúng có nguồn gốc tiếng Mường Cổ. Ộng đã viết nhiều về các ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ trong vùng
Đông Nam Á, tuy nhiên không đưa ra một liên hệ gì về tên 12 con giáp với Ấn Độ.

Học giả TH Li Fang-Kuei (1945) chuyên khảo về tiếng Thái(6) đã phân tách thập can và thập nhị chi qua
các ngôn ngữ Thái và đưa ra nhận định rằng tiếng Thái vẫn còn duy trì một số phụ âm Hán Cổ như pl-, zng-, sm-
tuy không nhất quyết xác định được nguồn gốc tên 12 con giáp từ đâu ra.

Sau đó là các công trình của học giả Paul K. Benedict, vào năm 1967 ông đề nghị thập nhị chi có nguồn
gốc Nam-Thái (Austro-Thai)(7) trong bài viết về Văn Hoá và Ngôn Ngữ Nam-Á, và dựa trên các liên hệ của âm
ngựa (Ngọ), chó (Tuất) và heo (Hợi). Năm 1975, ông viết cuốn “Austro-Thai Language and Culture” khai triển các
ý từ những năm trước. Ông đưa ra các dữ kiện của các ngôn ngữ địa phương để đi đến kết luận rằng tiếng TH
đã mượn một số tiếng Nam-Thái như trứng, gà, ngựa, yên (ngựa), cỡi ngựa, voi, ngà, lợn (heo), thỏ, trâu bò …
nuôi lấy thịt, ong, mật, gạo, mía, muối …v…v… và điều đáng chú ý và oái ăm là sau đó, các ngôn ngữ vùng Đông
Nam Á đã phải mượn lại các từ ngữ mà mình cho TH mượn trước kia ! Thí dụ như các từ trà, giấy … Cũng theo
Benedict thì có những tính chất đặc thù bắt nguồn từ văn hoá Nam-Thái như phép tính 12 con giáp mà nhiều
người tưởng là của TH. Ông ghi nhận rằng chữ ngựa trong tiếng Lê (Li, dân bản xứ đảo Hải Nam) là nga/ka và là
một bằng chứng là mã và ngựa có liên hệ, sau khi so sánh và đề nghị dạng âm cổ phục hồi của ngựa trong tiếng
Inđônêsia và Mã lai là *t’anga, tác giả đề nghị âm cổ Nam-Thái là *sanga. Cuối cùng kết luận bằng cách đưa ra
một giả thuyết rằng có thể một ngôn ngữ cổ Nam-Thái đã từng hiện diện trong vùng Đông Nam Á, mà ông gọi là
AT-x và đã cho TH mượn nhiều từ căn bản.

Tác giả Jerry Norman (1985) cũng dựa vào các dữ kiện từ tiếng Thái, Hán Việt, Việt và TH, Mường để
chứng minh rằng tên 12 con giáp có nguồn gốc từ phương Nam (Austroasiatic, Nam Á). Ngoài 3 từ Ngọ, Tuất,
Hợi, Norman(8) còn liên hệ 4 từ Sửu, Thìn, Mùi, Dậu với các tiếng phương Nam – bài viết trên thật ra là từ một
bài viết cùng với tác giả Mei Tsu-Lin (1976) về các từ TH có nguồn gốc phương Nam.
Các tác giả đã đi đến một kết luận là chủ nhân tên 12 con giáp có thể đã ở khu vực bờ biển Đông Nam
TH, và có thể là các nước Ngô hay Việt thời xưa. Gần đây hơn, trong bài viết về 12 con giáp của William G.
Boltz(9) (1991), ông ghi lại một số bảng so sánh gồm có các tiếng Saek, trích từ tài liệu của giáo sư William
Gedney (1982). Sau khi phân tích các dữ kiện, tác giả kết luận rằng bảng 12 con giáp của tiếng Saek Cổ (mà
Gedney chép lại) là vay mượn từ TH, có lẽ khoảng 200 hay 600 năm sau Công Nguyên (SCN), và 12 con giáp
VN có lẽ mượn sau đó nữa (thời kỳ Late Middle Chinese).

Từ năm 2000, người viết(10) đã cho ra các bài (kết hợp từ nhiều năm trước) bàn về tên 12 con giáp để
cho thấy nguồn gốc VN. Các tác giả trước đây không ai đề nghị nguồn gốc VN của 12 con giáp, có lẽ gần nhất là
tiếng Mường Cổ mà thôi. Thêm vào đó là những học giả ‘có uy tín’ trong nước như Trần Trọng Kim, Đào Duy
Anh, Hoàng Xuân Hãn … cũng như các học giả TH đều viết nhiều về văn hoá VN nhưng đều hàm ý nguồn gốc
TH của 12 con giáp, tuy không ai dựa trên dữ kiện ngôn ngữ học cả và đa số dựa trên tài liệu lịch sử và văn
chương cổ điển. Ngôn Ngữ Học nói chung, và Âm Ngữ Học Lịch Sử (Historical Phonology) nói riêng là những
ngành học khá mới mẻ ở VN và TH.

Như đã viết ở phần 1, ta đã thiết lập liên hệ Mão/Mẹo/mèo, Ngọ/ngựa và Tý/Tử/chuột. Dựa vào cách
cấu tạo chữ Hán, cũng như kết quả mà các tác giả phần trên đã dầy công nghiên cứu, ta có thể khám phá thêm
một số chi tiết mà các vị trên chưa biết tới, có lẽ vì không biết đến tiếng Việt Cổ chăng ?

Thí dụ như chi thứ 9 là Thân có liên hệ gì đến con khỉ VN ? Nếu ta xem cách viết chữ Thân viết bằng bộ
điền với nét giữa dài hơn, giọng BK bây giờ là shēn (viết theo pinyin), được phục hồi âm cổ với dạng *khrin (Li
Fang-Kuei 1971, William Boltz 1991), hay dạng *hljin (William Baxter11 1992 - để ý phụ âm r và l dễ hoán chuyển
cho nhau). Nếu xem cách viết chữ khôn (một trong bát quái, một căn bản của Kinh Dịch có từ thời Thượng Cổ)
thì ta thấy bộ thổ hợp với chữ Thân hài thanh (HT). Đây là liên hệ trực tiếp giữa Thân và khôn, tuy nhiên
tiếng Việt Cổ có chữ khọn là con khỉ(12) (theo “Đại Nam Quốc Âm Tự Vị”/ ĐNQATV, Huỳnh Tịnh Của, 1895 -
lặp lại trong cuốn “Từ Điển Từ Việt Cổ”, Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện 2001). Thành ra Thân chính là khỉ,
tiếng Việt Cổ, dầu rằng biến âm th-kh rất hiếm(13)vì âm thanh thay đổi qua hơn hai ngàn năm từ một gốc chung,
sau đó lại gặp nhau trong tiếng Việt - so với liên hệ rất thường gặp từ tiếng TH qua tiếng Việt như sh-th của shuĭ
BK/thuỷ HV (nước), shén/thần, shèn/thận (- trọng), shěn/thẩm (biết), shàn/thiện, shí/thập, shì/thích, shù/thụ
(cây)…phản ánh quá trình tiếng TH nhập vào tiếng Việt thời Đường Tống một cách có hệ thống hơn. Tàn tích của
biến âm th-kh còn thấy trong tiếng Việt như khoá/toả, khâu/thêu, khắp/tạp …

Còn Dần có dính líu gì đến cọp ? Dần HV viết bằng bộ miên, giọng BK bây giờ là yín, jan4 QĐ, Hẹ là jin2,
rin2 – xem cách viết cổ thì thấy hình mái nhà (bộ miên) với một người ở trong đang dâng lễ vật bằng hai tay đưa
lên (hàm ý cung kính). Thật ra nghĩa thông dụng của dần trong tiếng TH hiện đại là kính trọng. Các âm tương
ứng với yín BK bây giờ trong tiếng Việt thường là d- như yín (dâm), yíng (doanh), yóu (du), yòu (dụ) … tuy nhiên
có những trường hợp yín BK tương ứng với âm ngạc sau (postpalatal) như yín/ngân (bạc), yín/ngâm (vịnh) … và
yínyín là tiếng chó sủa (so với tiếng Việt ‘gấu gấu’) ..và đôi lúc mất hẳng âm đầu đi như yìn/ẩn, yīn/âm (lặng im) :
âm viết bằng bộ khẩu hợp với chữ âm (thanh) HT hay bộ nạch (bệnh) cho thấy tiếng Việt còn duy trì dạng cổ
hơn, đó là câm với âm ngạc sau k- , so với một cách đọc QĐ là ngam1- các dạng tương đương khác đáng chú ý
là khản, khàn, khan. Các biến âm trên xẩy ra trong một thời gian rất dài, tuy nhiên khác với âm d- HV nhập vào
tiếng Việt một cách có hệ thống hơn. Với cùng một nghĩa (dần,kính,cẩn), và dựa trên tàn tích của âm ngạc sau
trong tiếng Việt (chứ không phải tiếng HV) cho ta đến một dạng âm cổ phục hồi của Dần là *kan, dạng này phù
hợp với các dạng(14) bây giờ của Dần trong tiếng saek, Thái, Khme … Nhưng liên hệ trong tiếng Việt và HV còn
có a-e hay a-ê như hạ-hè, trà-che, hoạ-vẹ … và phá-bể, giá-kệ/kê, gà-kê … Thành ra *kan có thể là *kên hay
*kênh. Dạng phục hồi *kênh tương ứng với tiếng Việt Cổ kễnh chính là con cọp, như vậy ta có liên hệ giữa tên
con giáp Dần và tên con cọp. Câu ca dao sau nói lên phần nào vai trò con mèo (Mão/Mẹo) và kễnh trong văn hoá
dân gian

.
“Mèo tha miếng thịt xôn xao
Kễnh tha con lợn thì nào thấy chi”
.

Ý tứ và cách dùng các con vật như mèo và kễnh như trong ca dao của VN trên thật là xa lạ với văn hoá
TH. Qua các phân tách sơ khởi trên - và chỉ qua 6 liên hệ Mão/Mẹo/mèo, Ngọ/ngựa, Tý/Tử/chuột, Thân/khọn
(khỉ), Dần/kễnh (cọp), Sửu/tlu (trâu) – ta thấy tên các con giáp càng gần gũi với tộc Việt hơn. Các lý giải phần
sau sẽ cho thấy rõ hơn nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp sau khi đã tháo gỡ các lớp bụi thời gian cũng
như cạo đi các lớp son phấn vô tình hay cố ý mà người xưa để lại trong ngôn ngữ.

4. Phụ chú

(1) Ta thường nghe nói tuổi chuột, tuổi con chuột hay tuổi Tý … các cách nói này đều cùng nghĩa là năm
sinh vào năm con chuột (năm Tý). Thành ra có thể có nhiều bảng cùng chỉ 12 con giáp trong ngôn ngữ, từ tiếng
HV đến tiếng ‘thuần Việt’ cho thấy sự phân cực thành văn chương BH so với BD…v…v… Lê Quý Đôn (1726-
1784) trong “Vân Đài Loại Ngữ” (người viết có hai bản dịch : Trần Văn Giáp, NXB Văn Hoá Thông Tin 2006 và
bản của các tác giả Phạm Vũ, Lê Hiền do Nhà Sách Tự Lực in) cũng không đề cập đến mèo mà ghi Tý là thỏ,
điều này cho thấy hoàn cảnh phức tạp khi dùng tài liệu TH, nhiều khi không hợp với cách dùng thông thường của
đa số quần chúng (văn chương BD). Trong cuốn tự điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes (1651) ra đời trước
“Vân Đài Loại Ngữ” khoảng hai trăm năm, tác giả đã ghi nhận giờ mẹo là giờ mèo (con mèo). Nhìn bảng so sánh
trên qua tiếng Saek Cổ và hiện đại, ta thấy Mão/Mẹo hiện diện trong ngôn ngữ cổ hơn, như thỏ (nhập từ tiếng
TH) bắt đầu có mặt trong tiếng Xiêm . Trên phương diện tín ngưỡng dân gian, có người tin rằng có những tuổi
hợp và khắc nhau (tạo ra bao nhiêu tình duyên ngang trái) kết hợp thành nhiều trường phái ‘bói toán’, chỉ làm tên
12 con giáp ở sau ‘hậu trường’ trở nên ‘bất tử’ mà thôi.

(2) Theo tác giả Thường Tuấn (Đại Học Thượng Hải) trong cuốn “Văn Hoá về 12 con giáp”, NXB Tổng
Hợp Thành Phố HCM, 2005 thì 12 con giáp đã có trước đời Hán, nhưng từ các dân tộc thiểu số. Như cuốn “Nhật
Thư” của Tần Trúc Giản được khai quật vào năm 1975 ở Hố Bắc cho thấy 12 con giáp đã lưu truyền từ thời kỳ
Tiên Tần và dùng để bói toán. 12 con giáp gồm có chuột, trâu, cọp, thỏ (khuyết), sâu bọ, hươu …

(3) Theo “An Nam Dịch Ngữ” Vương Lộc giới thiệu và chú giải, NXB Đà Nẵng, Trung Tâm Từ Điển Học -
Hà Nội – Đà Nẵng 1995.

(4) Theo “Từ Điển Mường-Việt” Nguyễn Văn Khang (chủ biên), Bùi chỉ, Hoàng Văn Hoành (2002) – NXB
Văn Hoá Dân Tộc – Hà Nội.

(5) “L’Origine du cycle des douzes animaux au Cambodge” tác giả George Coèdes viết trong Toung pao
XXXI (1935), trang 315-329. Ông có nhiều khảo cứu về ảnh hưởng văn hoá Ấn Độ trên vùng Đông nam Á như
qua bài “Inventaires des Inscriptions du Champa” từ nă m 1908 (BEFEO VIII) và cuốn “The Making of South East
Asia” (tựa đề nguyên thuỷ là “Les Peuples de la Péninsule Indochinoise” Paris 1962) dịch ra tiếng Anh bởi giáo
sư H. M. Right, University of California Press 1966.

(6) “Some Old Chinese loan words in the Tai languages” bài viết của giáo sư Li Fang-Kuei trong bộ
‘Harvard Journal of Asiatic Studies’ 8:333-342 (1945)

(7) “Austro-Thai Language and Culture” (1975) tác giả Paul K. Benedict bổ túc bài viết từ năm 1967 thành
sách đề nghị họ (ngữ hệ) Nam-Thái trong vùng Đông Nam Á đã cho văn hoá TH mượn nhiều từ mà ít người biết
đến.
(8) “A note on the origin of the Chinese duodenary cycle” bài viết của Jerry Norman (1985) trong cuốn
‘Linguistics of the Sino-Tibetan area – the state of the art’ (Pacific Linguistics, Series C – No. 87). Một học giả
chuyên về tiếng Hán Cổ, đã từng viết cuốn “Chinese” khá phổ thông (NXB Cambridge University Press, 1988)

(9) Xem ghi chú (C) phần 2 bên trên.

(10) “Tiếng Việt Tuyệt Vời – âm m trong tiếng Việt” Nguyễn Cung Thông (1996) xuất bản ở Melbourne
(Úc). Cuốn sách ghi lại hiện tượng m chỉ các bộ phận trên mặt con người thường bắt đầu bằng âm môi m : mắt-
mặt-má-môi-miệng-mồm-mõm-mụn-mí .mi, mày, mép … Tiếng Mường cũng có hiện tượng m y như tiếng Việt,
thêm vào đó là các từ chỉ người Mường như mường, mol cho thấy một liên hệ đặc biệt đến âm m. Hiện tượng m
là một cánh cửa hé mở cho thấy tiếng Việt có thể thuộc vào họ Môn-Khme gồm có nhánh Việt-Mường. Vị trí của
tiếng Việt Cổ và ngữ hệ là một yếu tố quan trọng để tìm về nguốn gốc tên 12 con giáp, nhớ rằng cách đây trên
2000 năm tiếng Việt (Cổ) rất khác tiếng Việt hiện đại. Ngoài ra, đầu năm 2006 ở SàiGòn, người viết cho ra lò
cuốn “Nguồn Gốc tên 12 con giáp – và các liên hệ Việt, Hán Việt với ngôn ngữ láng giềng qua tiếng nói - Tập 1”
được phát hành rất giới hạn. Cuốn này là tập hợp nhiều bài viết trong nhiều năm trước và làm căn bản cho các
bài viết này.

(11) “A Handbook of Old Chinese Phonology” tác giả William H. Baxter, NXB Mouton De Gruyter
(1992).Tác giả dùng các vần trong Kinh Thi để phục hồi âm Hán Cổ. Các cuốn “Middle Chinese : a study in
Historical Phonology” (1984) và “Lexicon of reconstructed pronunciation in early Middle Chinese, late Middle
Chinese and early Mandarin” (1991) của Edwin G. Pulleyblank dùng làm tài liệu chính cho sự so sánh và phục
hồi âm cổ tiếng Hán. Truyền thống phục hồi âm cổ dựa vào âm vận của Kinh Thi, Thiết Vận … bắt đầu khởi sắc
từ các công trình nghiên cứu về âm Hán Cổ của Bernhard Karlgren từ năm 1915 (bài viết ‘Études sur la
phonologie chinoise’ cũng là Luận án Tiến Sĩ của ông tại đại học Uppsala dựa vào “Thiết Vận” để phục hồi âm
Hán Cổ) đến 1974 (bài ‘The book of Odes : Chinese text, transcription and translation”), nhưng có lẽ nổi tiếng
nhất là cuốn “Grammata serica recensa” (1957). Để ý rằng các học giả trên đều đến từ nước ngoài TH như
Baxter (Mỹ), Pulleyblank (Canada), Karlgren (Thuỵ Sĩ) … Có lẽ là người “phương xa” và với cách nhìn khách
quan, khoa học hơn nên kiến thức về tiếng Hán Cổ gia tăng rất nhanh so với quá khứ.

(12) ĐNQATV (1895) ghi ‘làm tuồng mặt con khọn’, ‘làm con khọn (làm chẳng nên sự gì)’. Tự điển Việt-
Hoa-Pháp (1937) của Gustav Hue cũng còn ghi nhận nghĩa này. Chữ Thân thường được dùng làm thành phần
HT trong cách thành lập chữ Hán như hợp với bộ nhân nghĩa là suy rộng ra, hợp với bộ khẩu là rên la … thường
đọc là shēn BK, nhưng hợp với bộ thổ thì lại đọc là kūn BK (khôn), hợp với bộ đại là yăn BK (yểm HV) và hợp với
bộ vũ cho ra chữ diàn BK (điện HV).

(13) Tương quan giữa các từ HV như thân-cận-gần, thận-cẩn (thận trọng, cẩn trọng, cẩn trọng), thiên-
kiên, thì-thị-kỷ … tuy cách viết khác nhau nhưng đọc giống và nghĩa cũng gần nhau – có thể là tàn tích của liên
hệ th-k/kh HV hay sh-kh BK thời Tiên Tần trước khi các chữ viết được thống nhất. Có thể chúng có cùng gốc
nhưng vì sự phát triển của ngôn ngữ và biên gìới (thêm các tiếng địa phương) nên mang những dạng khác nhau
để phù hợp với các chức năng mới. Ta thấy một khuynh hướng tương tự khi so sánh tiếng Mường và tiếng Việt :
khầng-sừng, khảu-sáu, khay-say, khàinh-sườn, khã-sữa, không-sông …(sđd). Nếu tiếng Mường bắt đầu tách
khỏi tiếng Việt sớm nhất từ thời Hán thì phù hợp với tương quan shēn-kūn BK đã nói ở trên trong tiếng Hán Cổ.

(14) Dần có thể coi như tương đương với kính (jìng BK) như cách viết cổ cho thấy – thành ra *kinh có thể
là một dạng âm cổ phục hồi – và cũng liên hệ đến kễnh như trên. Jìng BK viết bằng bộ khuyển hợp với chữ cánh
HT, là kính HV, nghĩa là một loài hổ dữ tợn đến nỗi ăn thịt mẹ nó sau khi sinh ra ! Theo người viết, kính có thể liên
hệ đến kễnh. Ngoài ra, trong tiếng TH hiện nay có một chữ rất hiếm viết bằng bộ hổ hợp với chữ khứ (đã qua, đi),
giọng BK bây giờ là kǎn, hǎn, QĐ ham2 … có nghĩa là loài hổ trắng, hổ giận dữ, tiếng hổ gầm … Có thể là tàn
tích của khan/kan hay kễnh. Một chữ cũng rất hiếm là khư viết bằng bộ khẩu hợp với chữ khứ nghĩa là ngáp, qū
BK, keoi1 QĐ và Hẹ ki1, kiap7 …cho thấy tàn tích các âm ngạc sau còn được duy trì trong tiếng địa phương
(Nam TH). Như đã nói trong bài viết trước (phần 1), các từ có nguồn gốc phương Nam không được dùng và trở
nên đào thải trong vốn từ TH hiện đại. Một trong những cách nghiên cứu về nguồn gốc tên 12 con giáp là
tìm ra những từ Hán Cổ hiếm hay rất ít khi dùng để xác định âm và nghĩa gốc khi so sánh với các ngôn
ngữ phương Nam.

Oan Thố/ thỏ Miễn Miễn Miễn


(từ bỏ) (gắng) (thỏ con)
冤 兔 免 勉 女勉
(15) Nguồn gốc oan trái của tên 12 con giáp .

Sau khi đã lượt qua các tương ứng giữa tên Hán-Việt/HV của 12 con giáp và tên gọi các con thú trong
tiếng Việt, ta thấy một liên hệ rất rõ nét. Đây thật là một sự khám phá bất ngờ so với đa số quan niệm từ trườc
đến giờ (qua bao ngàn năm) và từ Đông sang Tây rằng tên 12 con giáp có nguồn gốc TH. Nguồn gốc oan trái
này lại thêm oái ăm khi chính nguồn gốc chữ oan HV cho ta một cách chứng minh về chủ nhân của tên 12 con
giáp. Như đã viết nhiều lần, tên 12 con giáp của VN khác với TH và dĩ nhiên các nước Á Châu khác (bị ảnh
hưởng của TH) ở chỗ chi Mão/Mẹo chỉ con mèo chứ không phải con thỏ. Điều này được xác định rõ ràng từ
thời Vương Sung (sinh năm 27- chết năm 97 đời Hán, thiên Thiên Sinh Luận của “Luận Hành” ) liên tục cho đến
nay.

Như vậy nếu ta có thể chứng minh rằng chi Mão/Mẹo đã từng chỉ con mèo, thì bài ‘toán đố nguồn gốc tên
12 con giáp’ đã có được một lời giải rồi, không cần phải so sánh và khôi phục từng âm cổ cùng phân tách các
chữ viết thời thượng cổ.

Chữ Oan HV viết bằng bộ mịch (bao trùm lấy) hợp với chữ thố ở dưới, giọng Bắc Kinh/BK bây giờ là
yuān là một dạng của wan (‘quan’ đọc theo giọng Nam, hay oan). Có hai cách giải thích về cách cấu tạo chữ oan
: thứ nhất là nắp đậy biểu thị sự giới hạn đi lại của con thỏ do đó hàm ý oan trái cho con thỏ bị giam lại. Cách
thứ hai dựa vào sự viết giống nhau giữa chữ thố và chữ miễn – hai chữ này không có sự phát biệt trong văn
tự cổ thời Xuân Thu (770-476 TCN, theo cuốn “Ngữ Lâm Thú Thoại” Triệu Bá Bình, Thời Học Đưòng chủ biên
2005, NXB Văn Hoá Thông Tin). Chữ thố có thêm một nét (dấu phẩy) để chỉ cái đuôi con thỏ. Hai chữ bây giờ chỉ
khác nhau có một nét nhỏ nhưng đọc và nghĩa khác nhau rất nhiều. Tuy nhiên, chữ thố trong bia khắc thời Hán
và chữ miễn trong đề tự khắc hoạ ở nhà thờ Vũ Lương thời Đông Hán đều nói “Thần phục kiếm từ, dĩ thố kỳ tử” (
hay dĩ miễn kỳ tử là khích lệ con cái, sđd). Miễn HV hay vấn HV (biến âm m-v) đọc là miăn, wèn BK bây giờ so
với min5, man6 Quảng Đông/QĐ. Thành ra miễn và thố không những cùng cách viết mà cùng âm đọc giống
nhau thời Xuân Thu, hay người xưa đã dùng âm đọc miễn để biểu thị chữ oan (thành phần hài thanh/HT). Do
đó oan là bị nắp đậy và nhận oan khuất, chịu oan vậy.

Theo người viết thì miễn còn là một dạng cổ của mãn – trong vốn từ hiện tại của tiếng TH không còn
dùng nữa, mà tiếng Việt (Cổ) nghĩa là con mèo. Nghĩa này được ghi trong tự điển Việt-Hoa-Pháp (Gustave
Hue, 1937) và Việt Nam Tự Điển (1954). Thật ra có những chữ rất hiếm như man viết bằng bộ khuyển hợp với
chữ man HT (tần số dùng là 9 trên 171894734) hay bộ trĩ hợp với chữ man HT … đều đọc là man, đều có nghĩa
là con mèo hoang (lynx, theo Wieger trong “Chinese Characters”). Thành ra, man hay mãn đã từng hiện diện
trong tiếng TH và có nghĩa là con mèo., và thố đã từng đọc giống như vậy. Tại sao thố lại đọc giống như mèo
(miễn ở trên, hay miêu HV bây giờ) ? Có thể là hình dạng và thể chất giống nhau nên khi khắc hay viết rất khó
phân biệt chăng ? Nhất là thời Xuân Thu khi chữ viết TH còn lộn xộn và có nhiều chữ tượng hình hơn lúc nào hết
? Đến thời Tần Thuỷ Hoàng (221-207 TCN) thì thừa tướng Lý Tư mới bắt đầu thống nhất các cách viết.

Biến âm -iê- và –a- ít thấy như trường hợp miên-man còn tàn tích trong các từ kiền-can, miên-man-mên
(như Cao Miên là Cao Man/Cao Mên), triều-trào, hiệp-hạp-hợp, kiêu-cao, yên-an, hiếu-háo, di-dái, dị-dài, phi-bay,
chỉ-giấy, vi-vây … đây là khuynh hướng biến nguyên âm trước (front vowels) thành những nguyên âm sau (back
vowels) và mở rộng/tròn miệng hơn. Phụ âm mũi ở cuối –n của mãn đã mất đi để ta có Mão/Mẹo/mèo : khuynh
hướng đơn giản hoá này (contraction) thường gặp trong tiếng Việt và tiếng TH như chun/chui, miến/mì, bác/bá,
hùm/hổ, anh ấy/ảnh … wàn/mò BK (muôn/vạn/man), màn/mò BK (màn che) míng/mì BK (u ám, tối), shăn/xiàn/xiá
BK (Thiểm, tỉnh Thiểm tây) …v..v.. Ngay chữ mội HV (nghĩa là dơ bẩn) viết bằng bộ thuỷ hợp với chữ miễn HT
còn có thể đọc là miễn - giọng BK bây giờ là měi, mán, măn, màn so với giọng QĐ mui5 … cho thấy khuynh
hướng rút gọn âm cuối. Do đó ta có thể giải thích liên hệ mãn/Mão/Mẹo/mèo. Còn thanh điệu thì phức tạp hơn,
nhưng để ý một chữ đã hiện diện rất lâu đời trong tiếng Việt là mộ, mồ, mô và mã HV (mù, mú BK) : bốn thanh
điệu cho thấy chuỗi dài thời gian đã trải qua cũng như bốn thanh điệu của mãn/Mão/Mẹo/mèo và meo (tiếng kêu
của con mèo), so với ngấm/ngẫm/ngầm/ngâm và ngậm (hàn, hàn BK hàm HV). Một điểm đáng chú ý là một
cách ghi âm miễn, miện, mãn/vãn (hay miăn BK) là dùng chữ miễn (tránh khỏi) trong cách thành lập các chữ
Hán, thì dụ như miễn (chữ miễn hợp với chữ lực nghĩa là khuyên cố gắng), vãn (bộ thủ hợp với chữ miễn, nghĩa
là kéo lại - biến âm m-v), vãn (bộ nhật hợp với chữ miễn, nghĩa là buổi chiều) ….

Còn thố (tù BK) không thấy dùng làm thành phần HT trong vốn từ TH hiện đại trừ cỏ thỏ ti (thỏ ti tử) viết
bằng bộ thảo hợp với chữ thỏ dùng làm thuốc. Miễn viết bằng bộ nữ hợp với chữ miễn (gắng) là một chữ rất
hiếm thấy, nghĩa là thỏ con, đây là một gạch nối giữa miễn và thỏ được thấy trong cách viết cổ. Ngoài ra một chữ
Hán rất hiếm nữa viết bằng bộ khẩu hợp với chữ diện (mián BK, HT) cũng tương đương với chữ miễn viết bằng
bộ khẩu hợp với chữ miễn HT cho thấy cách đọc chữ miễn thời xưa. Thỏ rất gần gũi với tộc Hán, khác với mèo
(xem bài viết riêng về chi Mão/Mẹo cùng tác giả) trong văn hoá dân gian của tộc Việt : cả hai con đều mang vài
đặc tính tiêu cực phản ánh qua ca dao tục ngữ như “ăn như mèo ngửi”, “nhát như thỏ đế” … chứ không tao nhã
như “ngọc thỏ” (con thỏ ngọc chỉ mặt trăng), hay “..mang giầy thỏ, chạy được nhanh..” trong văn hoá TH.

Tóm tắt các dữ kiện ngôn ngữ trên ta thấy thỏ có thể được dùng để thay cho mèo thời Tiên Tần
để gần với dân tộc Hán hơn, rồi càng ngày 12 con giáp càng được dùng trong các hoạt động bói toán và
tín ngưỡng, chiếm một địa vị quan trọng trong các nền văn hoá Á Đông – xa hẳn với tên các loài cầm thú
đã tạo ra chúng. Điều này là một hiện tượng rất tự nhiên của ngôn ngữ cho thấy tính chất quy ước của con
người khi sống chung với nhau. Chính vì tiếng Việt còn duy trì con mèo cho chi Mão/Mẹo (qua khẩu ngữ) mà ta
có thể lập luận rằng nguồn gốc tên 12 con giáp chính là từ tiếng Việt Cổ, ít nhất là vào thời Tiên Tần.

Các cách viết chỉ là những ký hiệu ghi nhận lại âm đọc thời bấy giờ mà thôi. Không biết có phải Tàu
mượn thẳng từ tiếng Việt Cổ qua giao lưu văn hoá với nhóm Bách Việt, khi nhóm Bách Việt còn hùng mạnh, nhớ
là tộc Việt thuộc vào nhóm Bách Việt cũng như các nhóm Hẹ, Tiều … đã phải di chuyển đến các miền biển vì áp
lực phương Bắc quá mạnh; Hay là qua các quan lại gốc Việt làm việc trong triều đình TH thời đó đã cố ý “gài” các
chữ Việt Cổ để cho hậu thế học hỏi ? Có một điều dễ nhận ra là các từ Việt Cổ trong TH càng ngày càng bị đào
thải (như đã viết từ phần trước), cũng như một số từ bị đổi làm cho việc nhận ra tên cổ của 12 con giáp trở nên
rất khó khăn. Thêm vào đó là số lượng tài liệu viết bằng chữ Hán rất phong phú, hợp với ảnh hưởng quan trọng
của các triều đại Hán, Đường - khi văn hoá Bách Việt đã chìm sâu vào dĩ vãng và văn hoá TH trở nên nổi bật –
và chính các thời đại này mà 12 con giáp bắt đầu du nhập vào các nườc chung quanh TH. Quá trình giao lưu văn
hoá (trong đó có cách tính năm, tuổi, bói toán, phong thuỷ, thập nhị chi và thập can…) hầu như một chiều này
làm cho ta cứ tưởng rằng tên 12 con giáp là từ tiếng TH chứ không phải tiếng Việt, thật là một điều oan trái vậy.

.
Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp (phần 3)
Nguyễn Cung Thông

1. Giới thiệu tổng quát

Từ các bài viết trước ta đã thấy một số liên hệ sơ lược của tên 12 con giáp như Tý/Tử/chuột, Ngọ/ngựa,
Mão/Mẹo/mèo, Dần/*kian/kễnh (cọp), Thân/Khon/khọn (khỉ), Sửu/*ch-lư/klu/tlu (trâu). Phần này sẽ tóm tắt các
tương quan còn lại giữa tên 12 con giáp và tên gọi các con vật trong tiếng Việt, Việt Cổ. Một lần nữa, nguời viết
sẽ tránh dùng các thuật ngữ để bài viết dễ đọc và dễ cảm thông hơn. Với những tài liệu bằng chữ Hán, Nôm, Việt
và ngoại ngữ hầu như đều hàm ý rằng nguồn gốc Trung Hoa (TH) của tên 12 con giáp, nên vấn đề đặt lại nguồn
gốc không dễ dàng cũng như vượt qua bức tường rất cao và dày của ‘định kiến’ này qua bao ngàn năm.

Chúng ta hãy xem vài vết tích của tiếng Việt trong tiếng Hán (Cổ) để thấy khuynh hướng biến dần đi
của vốn từ phương Nam trong tiếng Trung Hoa hiện đại qua các tên chỉ loài vật như ong, bướm …v..v…
Nhắc lại rằng trong Phần 1 chúng ta đã duyệt qua tiếng cóc, voi, vịt, chuồn (chuồn) đã từng hiện diện trong tiếng
TH dù rằng ít thấy. Từ khuynh hướng gọi tên các động vật, hi vọng chúng ta sẽ thấy rõ hơn tại sao tên 12 con
giáp lại rất gần gũi với tộc Việt chứ không phải của TH như từ trước đến nay như mọi người đều lầm tưởng !

Ý thức được rằng sự thay đổi một định kiến đã nằm sâu trong xương tuỷ chúng ta từ bao ngàn năm nay
thật là khó khăn, tuy vậy sự thật vẫn cần phải được đưa ra ánh sáng để các cuộc nghiên cứu trong tương lai có
thể kiểm nghiệm một cách nghiêm túc, khách quan và theo đúng phong cách của khoa học hiện đại. Các bài viết
1, 2 và 3 chỉ tóm tắt rất sơ lược quan hệ tên 12 con giáp, những bài viết sau sẽ chi tiết hơn và phân tích từng tên
mỗi con để thấy rõ nét các mối dây liên hệ đến tộc Việt. Phiên âm giọng Bắc Kinh theo lối Phiên Âm (pinyin)
thường gặp hiện nay.

2. Tiếng Việt và tiếng Hán Cổ

2.1 Ong là động vật có nhiều gắn bó với văn hoá VN qua các thành ngữ như “nuôi ong tay áo” và ‘chạy
như ong vỡ tổ”… cho thấy tâm lý con người. Danh từ ong được dùng 8 lần trong truyện Kiều so với bướm (7 lần)

“Tiếc thay một đoá trà mi

Con ong đã tỏ (mở) đường đi lối về” (câu 845-846, Kiều)

Ong viết bằng chữ Nôm thường gặp là bộ trùng hợp với chữ phùng (gặp) hài thanh (HT), chữ này cũng
chính là phong Hán Việt (HV) nghĩa là con ong - giọng Bắc Kinh (BK) bây giờ là feng1, Quảng Đông (QĐ) là
fung1, Hẹ là fung1, bung1 … cho thấy tương quan ong-phong rất đặc biệt, có thể là cùng một gốc như qua các
tương quan ông-công, ung-muống. Ông (bà) HV viết bằng bộ vũ hợp với chữ công, giọng BK bây giờ là weng1,
weng3 so với jung1 QĐ, wung1, vung1 Hẹ và ong1 (Ngô), ang1 (Minnan/Đài Loan). Ngôn ngữ TH hiện nay không
có nhiều tiếng bắt đầu bằng nguyên âm a, e, i/y, o/ơ, u … như tiếng Việt – các âm đầu này thường bị môi hoá hay
ngạc hoá thành các dạng wu-, wo-, ya-, yu- … và biến đổi nhiều hơn để trở thành vo-, vu- (âm Hán thời Trung Cổ
còn âm đầu v-) và fo-, fu- hay mo-, mu- … Thí dụ như úng HV (cái vò, hũ) viết bằng bộ ngoã (ngói) hay phữu (đồ
sành) hợp với chữ ung HT, giọng BK bây giờ là weng4, yong1, yong2, yong3 so với giọng QĐ ung3, ngung3,
ong3 và Hẹ là wung5, vung5 – so với ong1 (Ngô) và ang3 (Minnan). Có khi môi hoá để trở thành âm môi môi
(phụ âm m) như ung HV, weng4/yong1 BK, ung3/ngung3 QĐ, wung5/jung1/rung1 Hẹ … mà tiếng Việt là rau
muống. Thật ra chữ ong viết bằng ông HT là một chữ hiếm trong vốn từ TH hiện nay, tần số dùng1 là 21 trên
237243358, viết bằng bộ trùng hợp với chữ ông HT, giọng BK bây giờ là weng1, weng3 so với jung1 QĐ và
vung1 Hẹ nghĩa là con ong vò vẽ. Chữ này đã có từ lâu, ít nhất là thời Hán khi Hứa Thận ghi lại trong Thuyết Văn
Giải Tự là “…ông, trùng tại ngư mã bì giả…”. Khuynh hướng hiện nay dùng điệp từ (từ ghép) của tiếng TH làm
nguồn gốc của phong (con ong) khó được nhận ra : như mìfeng1 (mật phong, nghĩa là con ong) hay huàngfeng1
(hoàng phong), măfeng1 (mã phong) chỉ con ong vò vẽ. Thường thì các từ HV như phòng, phóng, phụng, phủ,
phi, Phật … có âm cổ hơn còn duy trì trong tiếng Việt là buồng, buông, bưng, búa, bay, Bụt … rất khác với liên hệ
phong-ong. Một số tác giả như Lê Ngọc Trụ (“Tầm Nguyên Tự Điển VN” 1993) cho rằng ong có gốc là phong,
nhưng ngược lại có một số tác giả khác lại cho rằng phong HV (feng1 BK) có gốc là ong (như theo Paul
Benedict2 trong “Austro-Thai Language and Culture” 1975).

2.2 Bướm thường thấy qua từ láy ‘bươm bướm’ hay với nghĩa rộng hơn trong cách dùng ‘bay bướm’.
Chữ Nôm viết bướm bằng bộ khẩu hoặc bộ trùng hợp với chữ biếm, hay bộ trùng hợp với chữ phạp (viết ngắn
đi). So với tiếng Mường Thạch Bi là pươm, pướm (theo từ điển Mường-Việt, NXB Văn Hoá Dân Tộc, Nguyễn
Văn Khang chủ biên, Hà Nội 2002), pung khamu (tiếng Môn), pung paq3 (Danaw), pungpaq (Riang), paipyang
(Thái), pam pam (Khamu) … Trong vốn từ TH hiện nay có chữ péng BK, bang1 QĐ viết bằng bộ trùng hợp với
chữ bằng HT (thành ra có thể đọc là bằng, bồng), theo người viết thì chữ này là tàn tích của âm bướm rất hiếm
thấy so với các chữ dié BK (điệp HV), hú BK (hồ HV) hay chữ ghép hồ điệp đều có nghĩa là con bướm. Tuy
nhiên, cũng trong vốn từ TH hiện nay ta còn thấy péng BK hay pung4 QĐ, pung2 Hẹ viết bằng bộ trúc hợp với
chữ phùng HT có nghĩa là cái màn che, cái buồm. Cái buồm tiếng HV là phàm, hay fán BK với phụ âm đầu b-
chính là âm cổ3 của phụ âm f- (ph-) còn được duy trì trong tiếng Việt. Như vậy có liên hệ gì giữa hai từ bướm và
buồm tiếng Việt ? Tiếng Việt có đặc điểm là âm thanh gợi nhiều hình ảnh như âm –ong cho thấy một hìng
dáng cong cong, vòng, móng, tròng, lòng thòng, lòng vòng … Theo người viết thì cánh buồm xưa kia có hình
cánh bướm và đây là mối dây liên hệ - so với cách dùng con diều (điêu HV, giọng BK là yáo, yào) có hình cánh
con diều hâu vậy. Bướm là động vật có trước, sau đó các tàu bè mới dựa vào hình dạng cánh bướm mà làm ra
*bườm hay buồm - với thanh huyền để cho khác biệt. Cách dùng thanh điệu để chỉ hai việc khác biệt nhưng lại có
những điểm giống nhau thường gặp trong tiếng Hán Cổ mà vết tích còn trong tiếng HV và Việt như đo (động từ)
và độ (cũng dùng làm danh từ), hành (làm, động từ) và hạnh (danh từ), truyền và truyện, phân và phần … so với
đấy và đây, ngày hôm kia và ngày hôm kỉa/kìa, trôi/trổi/trồi/trội …v…v…

Tóm lại trong tiếng TH hiện nay còn một số tiếng Việt Cổ và càng ngày càng mất dần đi có thể vì hệ
thống âm điệu khác nhau hay có thể vì khuynh hướng cố tình đào thải các tiếng phương Nam của các chế độ
phong kiến phương Bắc chăng ? Trường hợp của tên 12 con giáp rất đặc biệt : chúng đã làm nền tảng văn hoá
và tín ngưỡng dân gian qua bao triều đại, và gốc rễ có quá nhiều thành ra không thế lực nào có thể cắt đứt hay
bóp méo được nền văn hoá bình dân này4.

3. Tên các con giáp còn lại

3.1 Thìn/Thần HV, giọng BK bây giờ là chén – âm này có thể tương ứng với các âm
trần, trầm, thần HV. Ngoài ra, âm chén BK đã từng có âm họng sau (velar) kh- theo Thuyết Văn Giải Tự - hay
thần đọc như là *khân, điều này được Jerry Norman ghi nhận trong bài “ A note on the origin of the Chinese
duodenary cycle’ (trong cuốn “Linguistics of the Sino-Tibetan area” 1985). Phụ âm đầu kh- tương ứng với các
dạng chỉ con trăn như tiếng Việt, tiếng Môn (klan, klon), Chrâu, Kơho (klăn) … Thêm vào đó là cách viết rất hiếm
của chữ giao bằng bộ trùng hợp với chữ thìn bên phải có nghĩa là ‘.. hình dáng như con rắn nhưng lớn hơn và có
sừng như rồng..” (Khang Hi Tự Điển, theo Norman). Các dữ kiện này có thể giải thích phần nào con vật tượng
trưng cho chi này là rồng. Tuy nhiên, theo người viết nếu phục hồi âm cổ của Thìn/Thần là *tsri(a)n thì ta có thể
hiểu được các dạng sau này như Thìn/Thần, tlan (âm r chuyển thành l) và trăn, lươn (âm ts- mất đi), rắn, trình
(loài cá giống con lươn), rồng/long (nguyên âm o thay cho a như nôm/nam, vốn/bản…) và khuynh hướng đơn
âm hoá để cho ra các dạng từ ghép như tlăn > thằn lằn, *tlian > thuồng luồng … Các loài vật này đều có hìng
cong vòng như con rồng5. Tiếng Thái gọi năm Thìn là bpee ma rohng cho thấy vết tích của dạng rồng trong các
ngôn ngữ phương Nam.

3.2 Tỵ/Tị HV, giọng BK bây giờ là sì so với zi6 QĐ, Hẹ là ze5, cih5, si5, su5… Trong
cách viết/khắc cổ TH của tên 12 con giáp thì Tỵ và Hợi là các chữ tượng hình cho thấy rõ nguồn gốc loài vật, nếu
không kể các chữ khác ghi lại hình cây, đồ vật…. Cũng như chữ (Hán) của tên 12 con giáp 6 thường được dùng
làm thành phần HT trong quá trình thành lập chữ mới, trừ Tuất ít được dùng. Như vậy là ta có 10 trên 12 tên con
vật là loại chữ HT, hay khoảng 83 % so với hơn 90 % chữ Hán hiện đại là loại HT (có tác giả cho rằng tỷ số HT có
thể đến 97 %). Loại chữ tượng hình càng ngày càng ít đi và càng khó nhận ra hình dạng nguyên thuỷ (qua các
đợt chỉnh lý và đơn giản hoá). Chữ Tỵ còn được dùng để chỉ ngày lễ Thượng Tỵ cầu mát vào đầu tháng Ba của
nước Trịnh, điều này cho thấy tên 12 con giáp có thể đã hiện diện từ thời Xuân Thu (770-476 Trước Công
Nguyên/TCN). Âm cổ phục hồi của Tỵ là *zji? theo William Baxter (“A Handbook of Old Chinese Phonology”
1992), theo người viết liên hệ đến rít hay rết tiếng Việt. Kasit (tiếng Mường Ruc) nghĩa là con rít (rết, rệt) cho
thấy dạng âm cổ *sit, so với giọng BK thì phụ âm cuối –t thường mất đi như guó BK (quốc HV, còn duy trì âm cuối
–c), lì BK (lực HV), fó BK (Phật HV), shí BK (thập HV, mười), qi1 BK (thất HV, bảy), zhí BK (chất HV) … Còn phụ
âm đầu s- thường biến thành t- khi nhập vào tiếng Việt cũng như các chữ khác như sài BK (tái HV, cửa ải), sàn
BK (tán HV), shàn BK (thiện HV), shàng BK (thương HV), suí BK (tuỳ HV), sì BK (tự HV, chùa), sòng BK (tụng
HV, kiện) … Như vậy sì BK (Tỵ HV) có cơ sở giải thích theo dạng rít Việt, thêm vào đó là tương ứng s-r khi ta so
sánh tiếng Mường và Việt (như răng có âm cổ là *săng, theo Vương Lộc trong “An Nam Dịch Ngữ - giới thiệu và
chú giải” 1995), và liên hệ đồng đại trong tiếng Việt như siết-riết, sít-rít, sầu-rầu, sờ-rờ, xà-rà, súc-rút, sầm-rầm,
xẻo-rẻo…. Tiếng Việt còn có cách dùng rắn rít cho thấy hai loài vật này rất gần với nhau, là những loài sống
trong hang hốc, bò sát và có thể rất độc hại. Thành ra Tỵ có thể đã từng là rít cũng không khó hiểu cho lắm; Các
di tích tìm thấy từ thời Tiên Tần còn cho thấy sâu bọ cũng từng là tên của các con giáp (theo Thường Tuấn trong
“Văn hoá 12 con giáp” 2005). Tiếng Thái bây giờ gọi năm Tỵ là bpee ma seng cho thấy dạng seng hay *săng
(rắn).

3.3 Tuất HV so với giọng BK bây giờ là xu1, seot1 QĐ được tượng trưng bằng con chó.
Để ý Tý/Tí/Tử liên hệ đến chuột với biến âm t-ch thì Tuất cũng có thể liên hệ đến chó (qua phụ âm đầu). Tiếng
Hán có chữ chúc/túc HV rất hiếm1 viết bằng bộ khuyển hợp với chữ túc HT (chân, cẳng) nghĩa là con chó nổi
tiếng - giọng BK bây giờ là què, hú, qiăo, răn so với zoek3, coek3 QĐ cok7, sit7 Hẹ … Chữ này là một tàn tích
của Tuất hàm nghĩa chó trong vốn từ TH hiện đại. So sánh các từ chỉ chó như chọ (tiếng Mường), cho (Sakai,
Boloven), chuô (Kháng), txo (Danaw), xoq1 (Wa), choq (Sơđăng), axu, chuak, chook (Môn), xo (Kơho, Stiêng,
Chơro), achoq (Chứt), xor (Savana), cho (Laqven, Biat) …v..v… cho thấy tiếng Môn còn duy trì dạng chuak (hay
tuất). Tiếng Thái bây giờ gọi năm Tuất là bpee jaaw (năm chó).
3.4 Mùi/Vị HV – cách dùng thông thường của Mùi cho thấy dạng âm cổ hơn so với Vị
HV gần với giọng BK bây giờ là wèi, giọng QĐ là mei6, Hẹ là mui5, mui6, mui3, vui5, wui5, Ngô là vi6, Minnan
(Đài Loan) là bi7 … Các phương ngữ TH cho thấy rõ các biến âm b-v, m-v, w-v … cũng hiện diện trong tiếng HV
và Việt. Liên hệ m-v còn thấy trong các cặp muôn-vạn, múa-vũ, mùa-vụ, mựa-vô, mù-vụ, muộn-vãn … Các dạng
âm cổ phục hồi theo Jerry Norman hay các tác giả trước đây như *mjôdh đều không giải thích được mối liên hệ
đến dê, nhưng dựa vào cặp mùi-vị, ta có thể khôi phục một dạng cổ là *mvji(e), để ý nhóm phụ âm mv- đọc như
và giọng Nam (tiếng Việt), và từ đó ta có một dạng nữa là dê. Ngoài ra, nếu để ý tiếng kêu đặc thù của loài dê là
‘be be’ hay mị HV, mie1, mi3, măi BK có nhiều cách viết khác nhau như dùng bộ khẩu, bộ dương (dê) cho thấy
Mùi/Vị có thể có nguồn gốc tượng thanh – hay bắt chước tiếng kêu con vật cũng như chim cu, con quạ (ác), con
mèo … cũng là một hiện tượng tự nhiên mà thôi. Tiếng Thái gọi năm Mùi là bpea ma mae tương đồng với dạng
âm cổ *mvji trên.

3.5 Dậu HV so với giọng BK bây giờ là you3, jau5 QĐ … cũng chính là bộ thủ thứ 164
trong 214 bộ căn bản. Dậu và Tý (bộ thủ thứ 39) là hai chữ được dùng làm bộ thủ trong 12 chữ viết tên con giáp -
điều này cho thấy sự quan trọng của các chữ và nghĩa này trong văn hoá TH. Nếu Tý hay Tử có nghĩa là con
phản ánh liên hệ gia đình huyết tộc thì dậu biểu tượng cho rượu chè, một hoạt động căn bản của xã hội nông
nghiệp. Tuy nhiên cả hai từ này đã bị ‘Hoa hoá’ quá lâu như trên nên chẳng thấy dính líu gì đến các loài vật !
Nhưng hình ảnh và các hoạt động con người từ từ lấn chiếm dần tên 12 con vật tổ (totem) này. Trong vốn từ TH
hiện đại có chữ dậu HV, you3 BK viết bằng bộ điểu hợp với chữ hữu bên trái (rất hiếm) nghĩa là một loại chim
giống loại trĩ, mà có thể coi như là loại gà (theo “VN Tự Điển” 1954), để ý rằng hai chữ trĩ và kê (gà) đều viết bằng
bộ chuy (chim đuôi ngắn, bộ thủ thứ 171 trong 214 bộ). Theo người viết, đây là sợi dây gắn liền dậu và gà mà ta
vẫn còn thấy vết tích trong chữ cổ (hiếm) TH. Thêm vào đó, một cách giải thích khác theo tác giả Jerry Norman
(sđd, 1985) dựa trên kết quả nghiên cứu của André Haudricourt (1965) rằng các phụ âm v, d, g của tiếng Mường
và Việt có thể là vết tích của các tiền tố cổ.

Từ đó, Norman đưa ra dạng âm cổ phục hồi của gà là *rơka hay *ruka. Theo người viết thì quá trình mất
tiền tố này cũng giống như dạng kasit cho ra *sit hay rít đã nói ở phần Tý trên. Tác giả Hồ Lê cũng ghi nhận gà là
từ Nam Á (Austroasiatic) trong bài viết “Từ Nam Á trong tiếng Việt” (trong cuốn “Tiếng Việt trong nhà trường phổ
thông và các ngôn ngữ dân tộc” NXB Khoa Học Xã Hội – Hà Nội 2002). Tiếng Thái gọi năm Dậu là bpe gai (năm
kê hay gà) hay là bpee ra gaa (năm gà) phù hợp với các dạng Mường.
3.6 Hợi HV so với giọng BK bây giờ là hài, QĐ là hoi6. Âm cổ phục hồI có dạng *goi/kui
- liên hệ của hợi và heo có thể thấy được qua tiếng Mường củi/kun/kul : phụ âm đầu h-k cùng vị trí phát âm nên
dễ hoán chuyển cho nhau như hữu-có, hồ-cò (hồ cầm là đàn cò), Hùng-khun (vua/thủ lãnh dân Mường), Hán-
khan (lãnh tụ), hộ-cửa, hơi-khói/khí, hầu-khỉ, hoá-của … Đại Nam Quốc Âm Tự Vị (Huỳnh Tịnh Của, 1895) còn
ghi là “..cá cúi : thứ cá biển nhiều mỡ như heo, cũng gọi là heo biển; Heo cúi : tiếng đôi nghĩa là con heo..” (trang
201). Gỏi có thể đã từng làm bằng thịt heo, nhưng nghĩa đã mở rộng để chỉ cá, tôm, gà … trộn với rau. Theo
Jerry Norman (sđd) thì gỏi có nghĩa là heo (tiếng Việt Cổ) ?? Không những Hợi liên hệ đến heo/lợn qua tiếng
Mường hay Việt Cổ nhưng tàn tích có thể hiện diện trong vốn từ TH hiện đại. Có vài chữ mà theo người viết là
các dạng khác nhau của Hợi hay *hị và *hệ (so sánh với các biến âm thi/thơ/thư, kỳ/cờ, thị/chợ, li/rời, di/dời,
vị/bởi, ti/tơ, bị/bới/búi…). Chữ hê/hề/hệ với giọng BK bây giờ là xi1, hei1, sik1 QĐ viết bằng bộ khuyển hợp với
chữ hí/hô/huy HT có nghĩa là con heo - chữ này rất ít thấy1 (hiếm). Một chữ nữa thường gặp hơn là hí HV so với
giọng BK bây giờ là hei1, héi viết bằng bộ thỉ hợp với chữ hi HT – cũng chỉ con heo/lợn nhưng không thông dụng
bằng các chữ khác như trư, thỉ, trề, ba … Vết tích của liên hệ hợi-cúi còn thấy trong chữ hui1 BK (hay
hôi/huy/khôi HV) viết bằng bộ thỉ hợp với chữ thổ1 bên phải nghĩa là con heo. Tiếng Thái bây giờ gọi năm Hợi là
bpee goon - để ý dạng cun là con heo của tiếng Mường – cho thấy tiếng Thái vẫn còn duy trì một số tiếng Việt
Cổ và là một dây nối quan trọng để hiểu rõ hơn nguồn gốc tên 12 con giáp.

Như vậy là ta đã xem qua tên 12 con giáp, thoạt nhìn thì các từ HV Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ,
Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi có vẻ như có gốc Tàu – nhưng tra kỹ ra thì thấy rõ những mối dây liên hệ với các ngôn
ngữ phương Nam - đặc biệt nhất là tiếng Việt và Việt Cổ qua tiếng Mường và họ Môn-Khme. Điều này càng dễ
hiểu nếu ta nhìn rộng ra các tên loài vật vẫn còn tàn tích trong vốn từ TH hiện đại, tuy càng ngày chúng càng bị
đào thải vì hệ thống âm thanh không phù hợp hay vì các đợt ‘chỉnh lý’, ‘đơn giản hoá’ chữ viết cùng khuynh
hướng cố tình bôi xoá ảnh hưởng từ phương Nam khi nền văn hoá này khởi sắc trước thời Tần. Với ảnh hưởng
quan trọng của nền văn hoá TH từ đời Hán và sau đó từ đời Đường, Tống… với sức ép của nhóm thống trị từ
phương Bắc tràn xuống, các tên 12 con vật tổ đã từ từ thay thế bằng hình ảnh con người, mang nặng màu sắc
văn hoá TH hơn. Từ tính chất cụ thể của các loài vật láng giềng, 12 con giáp đã trở nên trừu tượng và còn ảnh
hưởng đến vận mạng con người nữa (bói toán). Tuy nhiên, cái vỏ hào nhoáng của chữ Hán, Hán Việt không thể
thay đổi được nền văn hoá bình dân (khẩu ngữ), trong đó dân ta vẫn coi mèo là biểu tượng của chi Mão ! Chính
vì thế mà ta phải đặt lại vấn đề nguồn gốc của tên 12 con giáp, đúng theo tinh thần của người trước gói ghém
trong câu :

“Trăm năm bia đá thì mòn

“Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”

4. Phụ chú và phê bình thêm

(1) Dữ kiện về tần số dùng của các chữ Hán hiện đại dựa vào tài liệu trên mạng Internet
www.chinalanguage.com/cgi-bin/dict.php. Các chữ hiếm có tần số dùng rất thấp, thường rất ít gặp trong các tự
điển hiện đại.

(2) Ong có âm cổ phục hồi hệ Nam Thái (Austro-Thai) theo Benedict là *bluung không phù hợp với các
dạng QĐ, Hẹ, Việt. Nếu xem các cấu tạo chữ Hán, ta thấy ông thường đuợc dùng làm thành phần HT. Chữ này
lại được viết bằng bộ vũ hợp với chữ công cho thấy dạng âm cổ ô- hay hô-, kô- … Xem qua các ngôn ngữ láng
giềng ta thấy tiếng East Mnông có ?uong (? chỉ âm bật thanh quản/glottal stop) để chỉ con ong, so với ?ong (tiếng
Mường, Bahna, Stiêng, Chrau, Kơho, Sơđăng) theo Paul Sidwell trong cuốn “Proto South Bahnaric” (2000).
Sidwell ghi nhận âm cổ phục hồi của tiếng tiền Katuic (Proto-Katuic) là *hang, tiếng tiền Waic là *?ong, *anh, tiếng
tiền Chàm là *hong so với huing (tiếng Môn), wong/wol (Riang), ong (Wa), on (Paluang), hong (Besisi), cong
(Semang, một dạng Bahna). Các tương quan trên, nhất là từ các ngôn ngữ không có nhiều giao lưu với TH, cho
thấy feng1 BK (phong HV) rất có thể là từ mượn từ các dân tộc ở phương Nam từ Thượng Cổ. Tiếng Thái có chữ
pheungF đọc như phương tiếng Việt, có thể là ảnh hưởng của tiếng TH Trung Cổ - cùng thời với sự xâm nhập và
phát triển có hệ thống của tiếng HV thời Đường Tống.

(3) Biến âm b-ph/f rất thường gặp trong ngôn ngữ như qua định luật Grimm trong họ Ấn Âu... Trên
phương diện lịch đại ta thấy các cặp từ bỏ-phế, bài-phé, buồng-phòng, buông-phóng, bộ-pho, búa-phủ, bổ/bửa-
phẩu/phẫu, bể-phá, bè-phái, bay-phi, bưng-phụng, buồn-phiền, buồm-phàm, bún-phấn, buộc-phọc, bèo-phiêu,
bào-phao, Bụt-Phật … ngay cả trên phương diện đồng đại ta thấy bỏng-phỏng, bình-bịch hay bành-bạch, phành
phạch … tuy không phổ thông cho lắm. Như vậy thì b- dẫn đến ph- hay ngược lại ? Nếu xem chữ Bụt (từ tiếng
Phạn Budh-) để cho ra chữ Phật HV so với chữ Bụt đi thẳng vào tiếng Việt thì rõ ràng là b- đã hiện diện trước ph-
. Ngoài ra khi dùng từ ghép trong tiếng Việt thì chữ có trước thường đi trước như buồn-phiền, bè-phái, bỏ-phế…..
Thêm vào đó là các âm mạnh (strong sound) như b- có khuynh hướng trở thành âm yếu như p-, ph/f- hay âm
vang trở thành âm điếc : hiện tượng này gọi là nhược hoá (lenition hay weakening).

(4) Thật ra thì đã có những hoạt động thay đổi hoặc ‘chỉnh lý’ các tên như người viết đã từng nêu lên
trong bài viết (phần 2) : mãn (mèo) hay miễn thay bằng thố (thỏ), nhưng dân Việt vẫn khăng khăng giữ tên gọi
Mão để chỉ con mèo chứ không dùng thỏ. May thay, chính văn hoá truyền khẩu lại duy trì được nghĩa nguyên
thuỷ, chứ nếu dựa vào chữ Hán sau nhiều đợt ‘chỉnh lý’ thì có thể không truy được ngọn ngành cho thoả đáng !

(5) Tác giả Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Cơ sở văn hoá VN” NXB Giáo Dục – Thành Phố HCM (1999) đã
ghi nhận rồng xuất phát từ vùng Đông Nam Á và ảnh hưởng đến văn hoá TH (trang 135). Điều này phù hợp với
dạng âm cổ phục hồi *tsri(a)n để cho ra các tiếng khác như trăn, rắn, rồng, lươn, thuồng luồng, thằn lằn …

(6) qua khung cửa rất nhỏ của tên và cách viết 12 con giáp, ta có thể tìm thấy nhiều dữ kiện đặc biệt của
tiếng TH, tiếng HV, Việt … và qua các cách viết cổ của chúng, ta có thể tìm lại được phần nào nền văn hoá cổ đại
của phương Đông như sự ‘kính nể’ các loài vật tín ngưỡng thờ các loài vật, dùng chúng làm totem ..v..v..

5. Đính chính và bổ túc

5.1 Vì phải tranh thủ thời gian để đánh các bài viết này, nên người viết không thể nào tránh được một số
lỗi thông thường như bỏ dấu sai, thiếu/lộn nét, quá tóm tắt, ý mơ hồ … Thí dụ như trong phần 2 dòng 7 trang 1,
gióng lên viết là ‘giống lên’; Trang 2 dòng 1 ‘on’ và ‘kun’ đổi cho nhau ..v..v…

5.2 Đáng lẽ phải chêm một số chữ Hán để cho rõ nghĩa cho các bài viết này, nhưng vì đa số chữ Hán
dùng trong bài viết là loại chữ hiếm không dễ dán vào, người viết vẫn còn đang tìm loại fonts cổ điển và thích
hợp để giải quyết vấn nạn này. Tuy nhiên, hi vọng bằng cách ghi lại bộ thủ và thành phần HT, mức độ sai trái sẽ
giảm thiểu tối đa.

5.3 Quý độc giả muốn trao đổi thêm ý kiến để chúng ta cùng học hỏi thêm, xin liên lạc với Ban Biên Tập
của khoahoc.net hay người viết qua địa chỉ email nguyencungthong@yahoo.com, mong rằng “Một cây làm
chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao’ trong biển học vô cùng vậy.

.
Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp (phần 4)

‘Mão/Mẹo/mèo’
Nguyễn Cung Thông

Các bài viết trước (phần 1, 2, 3) cho tóm tắt các liên hệ của tên 12 con giáp đến tên gọi các con vật trong
tiếng Việt - sự tương đồng này rất dễ nhận ra từ Mão/Mẹo/mèo, Ngọ/ngựa cho đến những tiếng Việt Cổ hơn như
Dần-kễnh, Thân-khôn/khọn … mà ta phải dựa trên cách thành lập chữ Hán để tìm ra. Từ bài này (phần 4 trở đi)
sẽ đi vào chi tiết từng tên mỗi chi một, hi vọng sẽ cởi bỏ các lớp bụi thời gian và không gian sau bao ngàn năm
để chứng tỏ rằng 12 tên con giáp rất gần với tiếng Việt chúng ta, nếu không là chủ nhân các tên con giáp. Người
viết sẽ tránh dùng thuật ngữ để người đọc dễ cảm nhận các bài viết này hơn, thanh điệu của một chữ được ghi
bằng số và đứng sau chữ đó, khác với cách ghi thanh điệu tiếng Việt hay phiên âm (pinyin) giọng Bắc Kinh.

1. Giới thiệu tổng quát

Mười hai con giáp cho thấy khuynh hướng xa lìa dần thiên nhiên của con người : từ 12 con thú tiêu biểu
khi xưa cho đến chỉ vài con vật nuôi trong nhà (pets) hiện tại như mèo và chó mà thôi. Có những con đã ‘mất
dạng’ ngay từ lúc 12 con giáp ra đời như rồng, và có những con đang từ từ ít đi như trâu, cọp … Mão là từ Hán
Việt (HV) chỉ chi thứ 4 trong 12 chi (thập nhị chi) - giọng Bắc Kinh (BK) bây giờ là mǎo theo pinyin (phiên âm phổ
thông) viết bằng bộ tiết (bộ thủ thứ 26). Mão dùng để chỉ thời gian, từ 5 giờ đến 7 giờ sáng hay tháng hai, và chỉ
phương đông trong không gian. Theo thiên văn cổ Trung Hoa (TH) và ngay đến bây giờ, biểu tượng của Mão là
con thỏ so với con mèo của văn hoá Việt Nam.

Một cách giải thích sự khác biệt này là sự cố tình đổi chữ và âm của người TH thời tiền Hán như đã nói
trong phần 2 đã được đăng (phần “Nguồn gốc oan trái của tên 12 con giáp”, lưu trữ vào tháng 6, 8 năm 2006 trên
khoahoc.net – Tóm tắt tại chú giải (15) của phần 2).

Ngoài ra, mèo rất gần với đời sống dân Việt qua những thành ngữ hay ca dao tục ngữ như ‘ăn như
mèo ngửi’, ‘mèo già hoá cáo’, ‘khỉ vẫn là khỉ, mèo vẫn hoàn mèo’, ‘mèo cào không sẻ vách vôi’, ‘mèo mù vớ được
cá rán’, ‘mèo vật đống rơm’, ‘mèo hay ỉa bếp’, ‘mèo uống nước bể chẳng bao giờ cạn’, ‘mèo nhỏ bắt chuột con’,
‘mèo nhỏ bắt chuột to’ hay ‘mèo con bắt chuột cống’ - ‘mèo vật đống rơm’, ‘mèo nào cắn mỉu nào’…và …‘con
mèo mà trèo cây cau, hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà…’

‘Con mèo con mẻo con meo

Muốn ăn thịt chuột phải leo xà nhà’

Hay ‘Mèo khen mèo dài đuôi

Chuột khen chuột nhỏ dễ chui dễ trèo’

Hay ‘Mèo lành ai nỡ cắt tai

Gái kia chồng rẫy khoe tài chi em’

Và ‘Mèo hoang lại gặp chó hoang


Anh đi ăn trộm gặp nàng bứt khoai’

‘Mèo lành ở mả bao giờ

Của yêu ai có bày ra ở ngoài’

Và ‘Mèo tha miếng thịt xôn xao

Kễnh tha con lợn thì nào thấy chi’

Các câu này được người viết nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các bài viết vì trong đó có hình ảnh 3 con
vật cũng là biểu tượng cho 3 chi thuộc 12 con giáp, ngoài ra các câu này rất sâu sắc cho thấy tim đen con người
(trích từ cuốn ‘Tục Ngữ Phong Dao’ tác giả Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc và ‘Từ điển thành ngữ ca dao’ Viện ngôn
Ngữ Học 1994)

Mèo được nuôi ở khắp nơi trong nước, và cũng có nhiều loại mèo hoang. Ở nông thôn, người ta thường
chôn mèo chết dưới gốc cây khế chua, cho rằng như vậy sẽ làm cho khế ngọt. Từ mèo được dùng một lần trong
truyện Kiều

‘Ra tuồng mèo mả gà đồng’ (câu 1731)

Cách dùng ‘mèo’ để chỉ người tình, cũng như ‘mèo mỡ’, ‘mèo thấy mỡ’… không thấy dùng trong ngôn
ngữ TH, cho thấy sự rất gần gũi của loài mèo với con người Việt Nam. So với cách dùng mèo trong văn hoá TH,
ta thấy trong vốn từ bây giờ có chữ miêu HV, māo/máo BK - giọng Quảng Đông là miu4, mau4, mau1, giọng Hẹ
là miu2, miu5 … viết bằng bộ trỉ (loài bó sát không có chân, bộ thủ thứ 153) hợp với chữ miêu (mầm mống) hài
thanh (HT) hay bộ khuyển hợp với chữ miêu HT. Tương phản với văn hoá Việt, miêu ít thấy dùng trong các thành
ngữ hay ca dao tục ngữ TH - chỉ vài ba câu như

‘Miêu thử đồng miên’

(mèo chuột ngủ chung, ý nói sự a dua làm chuyện xấu)

‘Miêu khốc lão thử giả từ bi’

(mèo khóc khi chuột chết, ý nói sự đạo đức giả)

Các thành ngữ ca dao dính líu đến mèo thường mang tính cách tiêu cực trong cả hai nền văn hoá VN
hay TH, như một điển tích đời Đường cho thấy

‘Lý Miêu tên là Lý Nghĩa Phú, tính nham hiểm mà ngoài mặt vẫn giữ vẽ hiền lành nên người đương thời
gọi là Lý Miêu’ (Tầm Nguyên Tự Điển, Bửu Kế)

Nếu hình ảnh con mèo rất hiếm thấy trong văn hoá Trung Hoa thì ngược lại, chúng ta thường gặp
hình ảnh con thỏ hơn - một loài vật hình dạng giống như mèo như hai tai rất lớn, khối lượng (mass) cũng gần
nhau … – chúng ta sẽ trở lại vấn đề này khi phân tách chữ viết/khắc cổ của chữ mèo và thỏ vì chữ viết (Hán Cổ,
như Giáp Cốt Văn, Chung Đỉnh Văn) thường tượng hình. Lông thỏ thường dài hơn lông mèo và dùng làm bút để
viết chữ Hán. Loài thỏ chịu được nhiệt độ cao nhất khoảng 32 oC so với loài mèo chịu được tối đa 52 oC, phản ánh
loài vật sống ở miền lạnh cùng với dân du mục ở phương Bắc so với loài vật sống ở phương Nam ấm hơn với
khuynh hướng sống về nông nghiệp.
Thỏ hay thố HV viết bằng bộ nhân cho thấy sự quan trọng của chữ này trong ngôn ngữ TH, giọng BK
bây giờ là tù so với giọng QĐ tou3, Hẹ là tu5, Ngô là thu5 … Xem lại các truyền thuyết trong văn hoá dân gian ta
thấy bóng đen(2) trên mặt trăng ‘giống hình’ chú cuội ngồi gốc cây đa… khác hẳn với truyền thuyết TH về con thỏ
trên mặt trăng nên mặt trăng (3) còn được gọi là ngọc thố, thỏ bạc, thỏ ngọc, bóng thỏ (bóng trăng), thỏ phách,
bạch thố (con thỏ trắng giã thuốc, ý chỉ mặt trăng) … hay thành ngữ ‘thỏ giỡn trăng’, ‘thỏ thoát’ (thoát đi như thỏ)
… cũng như một số thành ngữ cổ điển HV như :

‘Thỏ tử cẩu phanh’

(hễ thỏ chết thì đến lượt chó bị làm thịt, hết dùng được thì ăn đi)

‘Thổ tử hồ bi’

(thỏ chết thì ngay cả cáo/chồn cũng buồn thương)

‘Thỏ dinh tam quật’

(thỏ khôn có ba hang, có nhiều cách tính và lối thoát)

Cũng như ‘Giảo thố tam quật’

(thỏ khôn có ba hang, khôn có nhiều lối thoát)

‘Thỏ khởi phù cử’

(nhanh như thỏ và vịt trời khi khởi động)

‘Thỏ khởi ban cưu lạc’

(nhanh như thỏ chạy hay chim ban cưu đáp)

‘Thỏ ti yến mạch’

(chỉ có hư danh thôi, ‘có tiếng mà không có miếng’)

‘Thỏ tử bất ngật oa biên thảo’

(thỏ không ăn cỏ ở gần ổ, ý nói kẻ gian không lương lẹo với hàng xóm)

‘Thổ tử vi ba trường bất liễu’

(đuôi thỏ không dài ra được, ý nói một sự kiện rõ ràng ‘như ban ngày’)

‘Thủ chu đãi thố’

(khư khư chờ thỏ đến, như ‘há miệng chờ sung rụng’ việc khó đến)

Thật ra, thỏ đã hiện diện ngay trong Kinh Thi4 qua tựa một thiên là Thố Thủ (đầu thỏ),

‘Hữu thố tư thủ, bào chi táo chi’

(có đầu thỏ để quay để nướng, ý nói vật nhỏ cũng có công dụng …)

.
Các thí dụ trên cho thấy hai nền văn hoá VN và TH phát triển rất khác nhau qua hình ảnh mèo và
thỏ. Ngay trong tiếng nói hàng ngày, tiếng Việt chỉ dùng nhóm từ sứt môi (hare lip, cleft lip) so với tiếng TH là
tùchún (giọng BK hay thố thần HV, môi thỏ ý nói sứt môi giống loài thỏ)(5) và chúnliè (thần liệt, môi sứt) … Tuy rất
xa lạ với tộc Việt, ảnh hưởng về sau của thỏ còn thấy trong truyện Kiều, chữ thỏ được dùng hai lần so với mèo
chỉ được một lần mà thôi

‘Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương’ (câu 1370)

‘Lần lần thỏ bạc ác vàng’ (câu 1269)

2. Các liên hệ hay lẫn lộn giữa mèo và thỏ

2.1 Như đã viết ở bài 2 phần ‘Nguồn gốc oan trái của tên 12 con giáp’, mãn (Việt Cổ) là mèo chỉ hiện
diện trong tiếng Việt mà các dạng biến âm khác có thể là miễn, mãn, wan mà tàn tích rất hiếm trong tiếng TH
như miễn (thỏ con), man (mèo hoang). Biến âm từ oan (hay môi hoá thành man) ra mãn hay miễn có thể giải
thích được, nhưng từ chữ miễn trở thành thố như trong cách viết cổ thời Xuân Thu thì khó giải thích hơn – có thể
các giọng địa phương bị ‘thanh lọc’ bởi nhóm nắm quyền hành thời đó, hay vì cố tình thay đổi. Trường hợp này
vẫn thấy trong tiếng Việt qua cách gọi chợ Đông Ba (trước là Đông Hoa) hay cầu Bông (trước là cầu Hoa) vì kỵ
huý bà Hồ Thị Hoa - mẹ vua Thiệu Trị - giọng địa phương trong trường hợp này là Thừa Thiên. Tương quan Mão-
Thố còn có thể liên hệ đến cách dùng tương đương của mạo-thù (oán), mão-thủ (đều nghĩa là đầu), mạo-thụ/thọ
(sống già)… Điều này còn thấy trong một cách đọc qŭ (thủ/thỏ HV)6 rất khác với âm miáo (mão, miêu HV) của
thành phần HT của chữ miêu (mèo).

2.2 Ngoài ra, một chữ hiếm thấy là nâu/nậu6, viết bằng bộ thanh hợp với chữ thố, giọng BK bây giờ là
nóu, nau4 QĐ, neu2 Hẹ cũng như một giọng đọc Hẹ nữa là wan5 – theo người viết chính là một dạng của âm
mãn phương Nam (mèo). Chữ này có nghĩa là một tên cũ của thỏ. Xem cách viết/khắc cổ của chữ thố và
miễn, ta thấy rất giống nhau (hai lỗ tai rất rõ nét) trừ một dấu phẩy ở bên phải chỉ đuôi con thỏ.

Các chữ hiếm khác như lưu, liễu HV (líu, lĭu BK) viết bằng bộ thử (chuột) hợp với chữ mão HT hay lưu
HT đều có nghĩa là một loài thú có kích thước như con thỏ - điều này cho thấy cách phân loại xưa kia rất mơ hồ
và rất dễ lẫn lộn. Thành ra mèo và thỏ rất dễ thay đổi cho nhau mà ít ai có thể nhận ra được !

2.3 Ta hãy xem vài tiếng vẫn còn dùng trong vốn từ TH hiện nay : thố tôn HV (tùsūn BK hay sá-lị tôn
shēlìsūn BK) là một loại mèo hoang hay mèo rừng dù rằng dùng chữ thố/thỏ. Loài mèo này có lông dày làm áo
lạnh rất tốt (theo Từ Nguyên). Dã miêu HV hay yĕmāo BK có nghĩa là thỏ rừng hay mèo rừng!

2.4 Ngay cả nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) đều diễn giải chi thứ tư Mão bằng con thỏ, so với tự
điển Việt-Bồ-La (1651) của giám mục Alexandre de Rhodes – ghi nhận giờ Mẹo (mèo) bằng con mèo trước ‘Vân
Đài Loại Ngữ’ hơn cả trăm năm ! Điều này cho thấy tình trạng hỗn loạn của văn chương ‘bác học’ lệ thuộc vào
tiếng TH hay HV (nâng cấp mèo thành ra thỏ), tương phản với văn chương bình dân vẫn giữ nguyên dạng cũ
(mèo). Nhờ các sự sai biệt này mà ta có cơ hội để truy nguyên các chữ.

2.5 Trong khi tra cứu thêm về dữ kiện khảo cổ để viết bài này, người viết có dịp đọc qua một bản tin từ
Tân Hoa (Xinhua News Agency, ngày 22 tháng Tám, 2006) trên mạng về các xương thú tìm thấy sau khi bị chôn
sống cách đây khoảng 1700 năm. Các xương thú vật tìm thấy gồm có mèo, chó, heo, dê, trâu và trừu… Đây là
lần thứ hai xương các con mèo được tìm thấy trong những mộ cổ khai quật bên Trung Hoa. Những khám phá về
khảo cổ ở TH và Việt Nam rất quan trọng để kiểm nghiệm lại nguồn gốc chính xác của 12 con giáp, hỗ trợ cho kết
quả từ ngôn ngữ học - tại sao không có xương thỏ ? Mèo là loài động vật ăn thịt (carnivore) và săn đuổi chuột,
mà lại không ăn hại thóc lúa nên rất thích hợp cho xã hội nông nghiệp – khác với loài thỏ. Năm 2004, xương mèo
và người đã được tìm thấy ở Cyprus (xem thêm http://en.wikipedia.com ) và tuổi ngôi mộ cổ này ước lượng cách
đây khoảng 9500 năm cho thấy thời kỳ thuần hoá mèo xẩy ra khá lâu.

Tóm lại, mèo và thỏ rất dễ bị lẫn lộn mà tàn tích còn thấy trong các cách dùng trên. Có tác giả cho rằng
nước Việt xưa không có thỏ, nên đổi thỏ qua mèo - người viết không đồng ý vì không phù hợp với các dữ kiện
ngôn ngữ trên và sự thay đổi chữ miễn/mãn thành chữ thố. Các điều này cho thấy nguyên thuỷ chi thứ tư có
thể là Mão/Mẹo/mèo và bị đổi thành thỏ, cũng phù hợp với ảnh hưởng văn hoá Cổ Đại của phương Nam lên
phương Bắc TH trước khi TH thống nhất, thời kỳ Tần Hán và sau đó văn học Đường Tống khởi sắc và chiều ảnh
hưởng lại từ phương Bắc lan ra khắp nơi.

3. Phụ âm đầu m- của Mão/Mẹo/mèo

Chữ Mão thường được dùng làm thành phần HT để tạo ra các chữ Hán khác như sao Mão (bộ nhật hợp
với chữ Mão), sông Mão (bộ thuỷ hợp với chữ Mão), như liễu (cây liễu, bộ mộc hợp với Mão), mậu (mua bán, bộ
bối hợp với chữ Mão) - mậu HV còn là mù, loà - để ý các âm đầu m và l … Nhưng cũng có khi đọc khác hơn như
chữ lưu (ở lại, bộ điền hợp với chữ Mão), kiếu/giáo (hầm hố, bộ huyệt hợp với chữ Mão, có thể đọc là liêu/lưu) …
Các dạng trên cùng với các phương ngữ TH như BK, QĐ, Hẹ, Ngô (Thượng Hải) và Hán Việt… cung cấp cho ta
một số dữ kiện để có thể phục hồi một dạng âm Thượng Cổ của Mão là *mru? Phù hợp với dạng phục hồi của
William Baxter trong cuốn ‘A Handbook of Old Chinese Phonology’ (1992), để ý phụ âm l có thể hoán chuyển với
r , nhưng theo Bernhard Karlgren thì hơi khác với dạng *mlôg trong cuốn ‘Grammata serica recensa’ (1957). Có
những tác giả khác đề nghị dạng lm- thay vì ml- như Andrew Miller chẳng hạn (1951) dựa vào các cách viết và
phát âm tiếng Hán Thượng Cổ …v.v… Dù dạng gì đi nữa, ta dễ nhận ra tàn tích của âm liu- và lau- như đã ghi lại
trong phần 2.2 ở trên, cũng như âm miêu của HV. Nhìn rộng ra các tiếng phương Nam chỉ con mèo như mèu
(Kơho), maau (Thái), maau (Lào), chmaa (Kampuchia), maau (QĐ), māo BK … so với tiếng mèo kêu là miu, meo
(Việt), miāo BK, miu (Thái) … cho thấy một tương quan khá rõ nét giữa tiếng mèo kêu và tiếng chỉ con mèo
(8), và đương nhiên là tiếng gọi chi thứ tư Mão/Mẹo/mèo. Vậy mà tài liệu TH từ thời tác giả Vương Sung (27-
97, trong ‘Thiên Sinh luận’ cuốn “Luận Hành’ thời Hán) cho đến tận ngày hôm nay vẫn cho rằng thỏ là con vật
biểu thị cho chi Mão/Mẹo/mèo !

Phụ âm đầu m có thể là tàn tích của nhóm phụ âm ml- mà ta thấy trong tự điển Việt-Bồ-La như mlầm mlở
là lầm lở, mlạt là lạt, mlẽ là lẽ…với âm đầu (tiền tố) m mất đi. Mlầm còn bị ngạc hoá (palatalisation) để cho ra
nhầm, mlạt > nhạt, mlẽ > nhẽ, mlớn > lớn và nhớn … Alexandre de Rhodes cũng nhận ra điều này khi ông ghi
mnhầm, mnhẽ là lầm, lẽ. Khuynh hướng ml- ngạc hoá cho ra nh- giải thích được sự hiện diện của chữ nheo : mi
> *nhi > nheo , lông mi chính là lông nheo. Người viết nhớ lại trong thập niên 1960, khi ảnh hưởng người Mỹ bắt
đầu gia tăng ở miền Nam, trong khẩu ngữ từng dùng âm Mẽo để chỉ Mỹ/Mĩ cho thấy biến âm i-eo còn có thể xẩy
ra gần đây hơn.

4. Nguyên âm a và e của Mão/Mẹo/mèo

Mẹo và mèo là âm cổ hơn của Mão, các nguyên âm chính ở trước (front vowels) như e thường là dạng
âm cổ hơn của các nguyên âm sau (back vowels) như a. Thí dụ :

Để ý một số nguyên âm e BK bây giờ đã từng có âm cổ a, hay nguyên âm a BK bây giờ có các dạng âm
cổ hơn là o, ô và u – và cũng tuỳ các phụ âm đứng trước cùng thanh điệu chứ không thống nhất như chuỗi biến
âm mèo-Mẹo-Mão9. Một điểm đáng chú ý là từ mẹo còn có nghĩa là phương thức (mưu mẹo) khi viết chữ Nôm
thì mượn trực tiếp chữ Mão HV. Mưu HV viết bằng bộ ngôn hợp với chữ mỗ HT, giọng BK móu so với mau4 QĐ,
meu2, meu3, miu2, miau3 Hẹ và âm mẹo cũng là âm cổ của mưu HV vẫn hiện diện trong tiếng Việt. Điều này phù
hợp với khuynh hướng tương đồng của nguyên âm sau so với các nguyên âm trước (o/u ~ e) cũng như a ~ e đã
nói phần trên. Ngoài ra yêu(10) HV viết bằng bộ nhục hợp với chữ yêu HT, yāo BK là giọng bây giờ so với jiu1
QĐ, jau1, jeu1, rau1 Hẹ, io1 (Ngô), iau1 (Minnan/Đài Loan) mà eo là một dạng âm cổ hơn được duy trì trong
tiếng Việt.

5. Thanh điệu và kết luận phần 4

Nguồn gốc thanh điệu tiếng Việt vẫn gây nhiều tranh luận (9), tuy nhiên liên hệ mèo-Mẹo và Mão cho
thấy những thanh điệu còn lại qua một thời gian giao lưu văn hoá rất lâu. Vài nhận xét sơ khởi là mả-mồ-mộ so
với mô, mu, mồng, mộng và giọng BK bây giờ mù, mú (viết bằng bộ thổ hợp với chữ mô HT) mou6 QĐ, mu5,
mu6 Hẹ, mo6 (Ngô) và bong7 (Minnan/Đài Loan - để ý dạng bong7 tương ứng với bùng, bồng, bung, bổng…).
Các thanh huyền, nặng và ngang đều thuộc thanh (âm) vực trầm (trọc), nhưng thanh hỏi mả cho thấy sự khác
biệt do thời gian trong tiếng Việt lâu hơn nên có nhiều biến dạng hơn. So sánh các thanh điệu sau đây :

Thâm HV hay shēn, shèn BK, sam1 QĐ, chim1, cim1, cihm1 Hẹ, chhim1 (Minnan/Đài Loan), sơng1
(Ngô/Thượng Hải) có các dạng khác nhau như sâm, xâm (xâm xẩm), thẳm (thăm thẳm), đậm, thầm (tối tăm)11…
cho thấy tương quan thanh điệu như mả-mồ-mộ-mô trên, cũng như một liên hệ có từ rất lâu - trước thời Đường
Tống khi các biến âm sh-th, s-t xẩy ra một cách hệ thống hơn và khi hệ thống âm thanh Hán Việt bắt đầu hoàn
chỉnh hơn. Liên hệ mèo-Mẹo-Mão và meo cũng phù hợp với những biến đổi thanh điệu như trên : các thanh
huyền (mèo), nặng (Mẹo), ngang (meo) và ngã (Mão) đều thuộc thanh vực trầm.

Một hiện tượng nên được ghi nhận nơi đây là sự rút ngắn âm cuối (12) (apocope). Tác giả Lê Hữu Mục
trong cuốn ‘Truyện Kiều và tuổi trẻ’ (Toronto, Canada 1998) có nhận xét về ‘…luật n/i rất nổi tiếng và tôi học được
từ thầy tôi..’ (trang 93), được trích ra như sau :

Hiện tượng rút gọn âm cuối cũng xẩy ra trong tiếng TH hiện nay như wú-wáng BK (vô-võng HV), nán-ná
BK (nam HV), màn-mù-mò BK (mành), xìng-sōu (tân HV, đỏ) … hay khi mượn từ tiếng TH vào tiếng Nhật như
hōng (hồng) thành ko-, wăng thành mo- ..

Một số tác giả cho rằng khi rút gọn âm cuối thì tạo ra thanh điệu, điển hình và đầu tiên hết là nhận xét
của học giả André Haudricourt trong các bài viết từ năm 1954, sau đó Edwin Pulleyblank bổ túc thêm về nguồn
gốc thanh điệu qua các dữ kiện về tiếng Hán Cổ. Thí dụ như vào đầu công nguyên, tiếng Việt không có thanh
điệu và quá trính các biến âm ghi lại trong bảng sau :

Tóm lại, liên hệ của Mão-Mẹo-mèo có thể giải thích qua các dạng âm cổ phục hồi như trên, từ âm tiết
đến thanh điệu. Để giải thích sự thay đổi từ mèo qua thỏ/thố, ta cần có liên hệ của mãn-mèo qua hiện tượng rút
gọn âm và vết tích từ các văn tự cổ : chữ thố và miễn (hay mãn HV wăn BK) viết cùng một chữ trên bia khắc thời
Hán và nhà thờ Vũ Lương thời Đông Hán (13). Thành ra ta có cơ sở để cho rằng Mão-Mẹo đã từng là mèo,
nhưng có sự thay đổi chữ viết, có thể vì cách dùng địa phương (nên triều đại đương quyền muốn chỉnh đốn lại)
hay là cố tình bôi xoá nguồn gốc ‘Nam man’ của chi thứ tư chăng ? Hay có thể là đổi loài vật cho hợp với gốc du
mục của nhóm cầm quyền ? Nhớ rằng chỉ có tộc Việt (14) mới dùng con mèo cho chi thứ tư mà thôi, các ngôn
ngữ khác bị ảnh hưởng văn hoá TH đều dùng thỏ (xem bảng so sánh – bài viết phần 2).

6. Phụ chú và tài liệu tham khảo chính

(1) Bằng cách khôi phục lại môi trường sinh sống của 12 loài vật khi đi ngược dòng thời gian, ta có thể
tìm ra được phần nào địa lý (vùng không gian) mà chủ nhân của 12 con giáp đã từng cư ngụ - do đó tăng mức
chính xác về nguồn gốc tên 12 con giáp từ lăng kính thời gian và không gian. Đây là một trong những vấn đề còn
mở ngõ. Một thí dụ gần đây hơn là loại thỏ sống trên núi bên Mỹ, gọi là pika, vì khí hậu thay đổi và nhiệt độ tăng
dần làm cho chúng phải lên miền cao hơn để sống và có hiểm hoạ diệt chủng !

(2) Các bóng đen trên mặt trăng thật ra là các thung lũng do chất lỏng nóng (lava) từ các núi lửa xưa
chảy xuống. Vì có nhiều chất sắc (iron) nên trở thành màu đen nếu quan sát bằng mắt trần hay viễn vọng kính
(telescope) từ trái đất. Các bóng đen này gọi là maria (tiếng La Tinh nghĩa là biển) vì các nhà thiên văn xưa kia
tưởng chúng là những hố lớn chứa nước … Chính các nhà khoa học từng lầm nữa huống chi những người bình
thường dùng mắt trần. Các hình ảnh trên mặt trăng không rõ ràng như trên đã tạo ra không biết bao nhiêu huyền
thoại tìm thấy qua bao nhiêu nền văn hoá con người.

(3) Hằng Nga hay Thường Nga, vợ Hậu Nghệ, lấy trộm thuốc trường sinh của Tây Vương Mẫu và bay
lên cung trăng ở và sống mãi không chết (chuyện Thường Nga bôn nguyệt). Tương truyền Hằng Nga là cô gái rất
đẹp.

(4) Kinh Thi là một trong Ngũ Kinh nổi tiếng của TH gồm có 305 bài thơ, có bài viết từ 1000 TCN (Trước
Công Nguyên) – tương truyền Khổng Tử (551-479 TCN) có đóng góp trong việc soạn lại Kinh Thi.

(5) Hiện tượng (bệnh) sứt môi ít thấy trong các loài chó, và rất là hiếm thấy trong các loài mèo. Năm
2004, một loại gen đặc biêt đã được tìm thấy làm tăng gấp 3 lần khả năng bệnh này. Thổ dân Mỹ và người Á
Châu bị nhiều nhất so với dân Mỹ gốc Phi.
(6) xem thêm http://www.chinalanguage.com/cgi-bin/dict.php

(7) xem thêm http://www.china.org.cn/english/features/Archaeology

(8) phải cẩn thận khi so sánh những tiếng nói khi có thể chúng là tiếng tượng thanh (nhái lại tiếng động
của đối tượng, sound symbolism) - rất có thể chúng không có liên hệ họ hàng (họ ngôn ngữ, language family) và
các tính chất giống nhau là do sự nhái lại của cùng một âm thanh (cùng nguồn) mà thôi, hay sự trùng hợp có tính
cách ngẫu nhiên (accidental). Đây là mục đích của các khảo cứu về nguồn gốc ngôn ngữ con người rất lí thú
nhưng không nằm trong phạm trù các bài viết này. Để ý tiếng mèo kêu (thường lắp láy) là miaau (tiếng Afrikaans),
mjau (Albani), miaou (Ả Rập), mijau (Croatia), miauw (Hà Lan), miaou (Pháp), miau (Đức), miau (Hungari), miyau
(Do Thái), mya:u (tiếng Ấn Độ/Hindi), miao (Ý/Itali), meow (Thái), miyauv (Thổ Nhĩ Kỳ), miau (Ba Lan), mjau
(Thuỵ Điển), myau (Nga) … so với nyaa (Nhật), ngeong (Inđônêsia), (n)ya-ong (Đại Hàn), ngoeo (Việt) …v.v…
Nhưng khi xét các từ chỉ động vật như voi, chuồn chuồn, bướm, ong, mèo, cóc, vịt …cũng như tên 12 con giáp
thì còn các vết tích trên trong vốn từ TH hiện nay, dù rằng rất hiếm và đã biến dạng nhiều từ âm thanh đến phạm
trù nghĩa. Điều này cho thấy một kết quả của một ‘nước TH rời rạc’ đã từng tiếp xúc với các dân tộc phương Nam
thời Thượng Cổ, trước khi TH thống nhất và ngôn ngữ phản ánh dân tộc cầm quyền phương Bắc mà hệ thống
âm thanh rất khác so với phương Nam.

(9) xem thêm các tác giả William Baxter (sđd), Bernhard Karlgren (sđd) và Edwin G. Pulleyblank qua
cuốn ‘Lexicon of reconstructed pronunciation in early Middle Chinese, late Middle Chinese and early Mandarin’
(1991), ‘Middle Chinese : a study in historical phonology’ (Vancouver, Canada 1984). Tác giả Nguyễn Tài Cẩn qua
cuốn ‘Một số vấn đề về chữ Nôm’ (Hà Nội, 1985) và ‘Lịch sử ngữ âm tiếng Việt’ (Hà Nội, 1995) cũng phân tách
các khuynh hướng biến âm trên như Lê Văn Quán qua cuốn ‘Nghiên cứu về chữ Nôm’ (Hà Nội, 1981)

(10) yêu HV có phạm trù nghĩa không rõ ràng : có thể là cái lưng, thận hay thường dùng hơn là cái eo.
Các từ chỉ bộ phận con người như bàng (bả vai, cánh tay trên, bong bóng..), đỗ (bụng, dạ dày..), cổ (bắp vế,
hông..) có nghĩa không chính xác vì quá rộng hay mơ hồ, và trải qua một thời gian rất lâu - tương ứng với hiện
tượng đặt tên các loài thú như mèo-thỏ, rồng (không có định nghĩa rõ ràng), rắn (trăn, lươn ?) … Khuynh hướng
phương Tây đi vào chi tiết các tên gọi như trong tiếng Anh, thỏ là rabbit, hare, pika, cottontail, bunny (hay bunny
rabbit), coney (hay cony), buck (thỏ đực), doe (thỏ cái); Mèo tiếng Anh là cat, tom (mèo đực, hay tomcat), queen
(mèo cái), một đàn mèo gọi là clowder …v.v… so sánh với hai chữ thỏ/thố và mèo trong vốn từ tiếng Việt. Các
loài vật được phân loại theo họ, chi … theo hệ thống rõ ràng như sau (rất tóm tắt)

Phân loại -- Thỏ -- Mèo

Kingdom -- Animalia – Animalia

Phylum -- Chordata – Chordata

Class --- Mammalia – Mammalia

Order --- Lagomorpha – Carnivora

Family -- Leporidae – Felidae

….. -- …. -- ….

Các chi được chia thành những chi động vật phụ (genus) như mèo (nhà) thuộc chi Felis, và nhánh phụ
(species) là F. Silvestris …v.v… Những cách phân loại rõ ràng và dữ kiện về giải phẫu (anatomy), quá trình tiến
hoá (evolution) làm cho ta dễ phân biệt hơn.

(11) thâm HV có thể liên hệ đến đêm, đen …là các tiếng thường gặp trong ngôn ngữ họ Nam Á
(Austroasiatic) hay nhánh Môn-Khme. Tại sao như vậy ? Ta hãy nhìn từ đen của tiếng Mường là têm hay zơm
(phụ âm t- và z- đầu, liên hệ đến t/đ- và sh-), bêtăm (tiếng Môn), tam/yong (Kơtu), đăm (Thái), đơm (Li), hitam
(Mã Lai, Chăm) … so với từ đêm của tiếng Mường là lêm, têm và mlăm, pđăm (Chăm), rêm, mlăm (Thái), đăm
(Nùng), đêm (Aslian), têm/tăm/đum, htêm, btêm (Môn) … cho thấy có thể các dạng trên đều cùng một gốc
(phương Nam) mà ra. Trong vốn từ tiếng TH hiện nay có chữ đàm HV ít dùng với giọng BK bây giờ là tán, tam4
QĐ, tam2 Hẹ so với tham5 Ngô viết bằng bộ á nghĩa là sâu đậm. Đàm HV viết bằng bộ thuỷ hợp với chữ đàm HT
nghĩa là cái đầm (sâu), đàm HV viết bằng bộ mã hợp với chữ đàm HT nghĩa là con ngựa đen... cho thấy tàn tích
của *đam (đậm, đen) của phương Nam trong tiếng TH.

(12) hiện tượng rút ngắn âm cuối thường xẩy ra trong họ Ấn-Âu như trong tiếng Anh chữ morning trở
thành morn, photograph trở thành photo, tên riêng Alexander trở thành Alex, Thomas thành Tom … Cinéma (tiếng
Pháp) trở thành xi nê … Không những là một cách tạo ‘chữ’ mới, khuynh hướng rút gọn trên cũng là luật ngữ
pháp căn bản cho một số ngôn ngữ như tiếng Tây Ban Nha : thí dụ như uno (một) nhưng khi viết thành un mundo
(một thế giới) thì âm cuối –o của uno mất đi…v.v…

(13) chữ thố/thỏ và miễn viết giống nhau thời Xuân Thu theo các tác giả Triệu Bá Bình và Thời Học
Tường, chủ biên cuốn “Lâm Ngữ Thú Thoại” - bản dịch ra tiếng Việt – NXB Văn Hoá Thông Tin – Hà Nội
(2005)…’ âm đọc của thố và miễn rất gần nhau, do đó người xưa đã dùng âm đọc của miễn để biểu thị chữ
oan…’ (trang 489)

(14) theo từ điển ‘Việt-Mông’ tác giả Thào Seo Sình, Phan Xuân Thành và Phan Thanh – NXB Giáo Dục
– Hà Nội (1999) : chi thứ tư Mão đọc là mir (mèo) hay luôr (thỏ). Dân tộc Hmông (hay Mông, Mèo, Miêu) có
những đặc tính giống tộc Việt như truyền thống con rồng cháu tiên, rất thích âm nhạc (nhảy múa), dùng trống
đồng trong âm nhạc cổ truyền, cũng thuộc về bộ lạc Si Vưu …v.v… Người viết chưa đọc được một văn bản hay
dữ kiện khảo cổ nào liên hệ tên 12 con giáp đến văn hoá cổ đại của dân tộc Mông, cũng như dân tộc Lê (ở đảo
Hải Nam, thuộc nhóm Bách Việt) vẫn còn tập tục xăm mình và gọi tên ngày theo tên 12 con giáp. Đây là những
vấn đề cần phải khảo cứu thêm để soi sáng rõ nguồn gốc tên 12 con giáp thời Thượng Cổ.

.
Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp (Phần tổng hợp)
Doremon360

Sử dụng phương pháp Ngữ âm học lịch sử, nhà ngôn ngữ học Nguyễn Cung Thông đã cho
chúng ta thấy mối liên hệ trực tiếp giữa tên 12 con giáp với tên các loài vật tương ứng trong tiếng Việt.

(← Click)

Phần 1 ← Giới thiệu tổng quát.

Phần 2 ← Tên 12 con giáp trong các ngôn ngữ khác nhau.

Phần 3 ← Khảo sát sơ lược tên 12 con giáp.

Đi sâu vào chi tiết phân tích các dữ kiện ngôn ngữ và văn hoá liên quan đến từng con giáp :

Phần 4 ← Năm Mão ( Mão/mẹo/mèo ≠ Thố/thỏ )

Phần 5 ← Năm Hợi ( Hợi/cúi/heo,lợn )

Phần 6 ← Năm Thân (Thân/khôn/khọn-khỉ)

Phần 7 ← Năm Tỵ (Tỵ/rít-rắn)

Phần 8 ← Năm Thìn (Thìn/thần/thuồng luồng - rồng - nông (nông nghiệp) - giao (rồng nước))

Phần 9 ← Năm Dần (Dần/kính/kễnh - cọp)

Phần 10 ← Năm Tí (Tí /chút/chuột)

Khác biệt dễ thấy nhất giữa hệ thống con giáp của Việt Nam và Trung Quốc là năm Mão:

VN : con mèo (cat)

TQ : con thỏ (rabbit)

Ngoài ra các bạn cũng có thể tìm thấy những khác biệt ít phổ biến như :

( http://www2.hawaii.edu/~luma/BCIS107/107home.html )
Năm Sửu :

VN : con trâu (water buffalo)

TQ : con bò (ox)

Năm Mùi :

VN : con dê (goat)

TQ : con cừu (sheep)

You might also like