Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 31

BGTM 006

Tìm hiểu Đảng Cộng Sản Việt Nam


Nguyễn Văn Huy

“… Với một tổ chức cồng kềnh như thế, yếu tố chuyên chính bao trùm lên khắp,
ban Đảng Cộng Sản Việt Nam khó lấy được một quyết định nhanh chóng để thay
đổi đất nước …”

Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay không còn xa lạ gì đối với một ai, nhưng sự hiểu
biết về đảng này còn rất thiếu sót. Tùy theo sự tiếp cận của mình mà mỗi người nhìn
hay hiểu đảng cộng sản mỗi cách khác nhau.

Đối với những đảng viên cơ sở, tức những người ở cương vị thấp nhất, đảng cộng sản
là chỗ dựa để tiến thân, do đó phải triệt để trung thành với các cấp trên. Đối với những
đảng viên cấp cao, đảng cộng sản là trung tâm quyền lực ban phát quyền lợi, do đó
phải bằng mọi cách giữ gìn vai trò lãnh đạo của đảng. Đối với quần chúng bình dân,
đảng cộng sản là những người cai trị đất nước, do đó phải phục tùng hay tránh né để
được yên thân. Đối với những người đối lập, đảng cộng sản là guồng máy trấn áp
những khát vọng dân chủ và tự do, do đó cần được thay thế để đất nước có một lối
thoát khác.

Nói chung, mặc dù đã xuất hiện từ lâu đời tại Việt Nam và cầm quyền trong hơn 50
năm qua, sự hiểu biết về đảng cộng sản còn rất là mù mờ, mỗi người chỉ thấy một
phần của sự thật. Tìm hiểu Đảng Cộng Sản Việt Nam chính vì thế là điều rất cần thiết.
Trong "một phần của sự thật" còn lại này, tất cả những gì mà mọi người đã biết sẽ
không được nhắc lại, chẳng hạn như công và tội của đảng cộng sản. Nội dung bài viết
này tập trung vào việc tìm hiểu tổ chức của đảng cộng sản, có hiểu được bí quyết gìn
giữ quyền lực này người ta sẽ thấy rõ hơn hướng đi của đảng cộng sản và tương lai
của đất nước.

Chuyên chính vô sản

Theo điều 4 hiến pháp 1992 (đã sửa đổi), "Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong
của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tường
Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội".

Định nghĩa này rất quan trọng, nó xác nhận vai trò độc tôn của Đảng Cộng Sản Việt
Nam trong việc lãnh đạo đất nước : đây là lực lượng chính trị duy nhất được phép hoạt
động công khai, tất cả những đảng phái hay tổ chức chính trị khác, không do đảng
cộng sản thành lập hay đỡ đầu, đều bất hợp pháp. Cũng theo định nghĩa này, chỉ giai
cấp công nhân mới có vai trò lãnh đạo đất nước, những thành phần dân tộc còn lại chỉ
có thể hợp tác với đảng cộng sản để được ban phát quyền lợi. Thêm vào đó hệ tư
tưởng chỉ đạo là chủ nghĩa Mác-Lênin, tức chủ nghĩa chuyên chính vô sản, chứ không
phải chủ nghĩa cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được thêm vào năm 1992 để làm
vừa lòng các cấp lãnh đạo lão thành lúc đó đang còn giữ nhiều vai trò lãnh đạo quan
trọng. Ngày nay (năm 2008), không còn ai nhắc đến tư tưởng Hồ Chí Minh nữa vì ông
không phải là một nhà tư tưởng, ông chỉ là biểu tượng của một cuộc đấu tranh, một
nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp.

Ngoài ra còn một yếu tố khác, rất quan trọng, đã đưa đảng cộng sản lên cầm quyền, đó
là chuyên chính vô sản. Đây là lý thuyết xây dựng xã hội do Marx nghĩ ra và được
Lênin nâng lên thành lý thuyết tổ chức để chiếm chính quyền và duy trì quyền lãnh
đạo độc tôn của đảng cộng sản trên toàn xã hội. Từ khi ra đời đến nay, chuyên chính
đã là sợi dây xuyên suốt chỉ đạo mọi chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng
Cộng Sản Việt Nam. Những hành động đàn áp, bắt bớ và đày đọa những người bất
đồng chính kiến hay đối lập với đảng cộng sản chỉ là hậu quả của lý thuyết này mà
thôi. Phải hiểu rõ bản chất chuyên chính của chế độ để không ngạc nhiên khi bị trù
dập.

Chuyên chính vô sản không chỉ áp dụng cho những kẻ thù bên ngoài, nó còn được áp
dụng một cách triệt để đối với kẽ thù bên trong đảng cộng sản. Những vụ thanh trừng,
chỉnh lý trong nội bộ đôi khi còn tàn bạo và dã man hơn đối với kể thù bên ngoài. Từ
sau 1990 đến nay, nhiều tài liệu bí mật của Đảng Cộng Sản Liên Xô cho biết số đảng
viên cộng sản bị chính đảng cộng sản sát hại nhiều gần bằng số người Nga đã chết
trên các chiến trường trong Thế chiến II. Tại Việt Nam, nếu quan sát kỹ, số đảng viên
cộng sản bị chính đảng cộng sản thanh trừng rất cao, bắt đầu từ những người đầu tiên
thành lập đảng cộng sản.

Trong hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản Đông Dương (Đông Cộng Sản Đảng, An
Nam Cộng Sản Đảng và Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn), từ 3 đến 7-2-1930 tại
Hongkong, những lãnh tụ Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh của Đông Dương
Cộng Sản Đảng và Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm của An Nam Cộng Sản Đảng
không biết sống chết ra sao và không bao giờ được nghe nhắc tới. Chỉ Nguyễn Ái
Quốc (Hồ Chí Minh) và Trần Phú thuộc Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn được nhắc
tới với tất cả quí mến. Cũng nên biết, theo yêu cầu của Đệ Tam Quốc Tế do Stalin
lãnh đạo, tháng 10-1930 Trần Phú được bầu làm bí thư đầu tiên tại Hongkong, không
hiểu vì lý do nào lại bị bắt tại Sài Gòn tháng 4-1931 và chết trong nhà thương Chợ
Quán tháng 9 cùng năm, thọ 27 tuổi. Lê Hồng Phong (1902-1942) và Hà Huy Tập
được bầu làm tổng bí thư đảng cộng sản trong thời gian từ 1935 đến 1940, ông
Nguyễn Văn Cừ, quyền tổng bí thư từ 1938 đến 1940, tất cả không hề được nhắc đến.
Điều này chứng tỏ tranh chấp địa vị chóp bu trong nội bộ đảng cộng sản xảy ra
thường xuyên và rất gay gắt, nhiều người đã chết âm thầm trong bóng tối. Hai ông Lê
Hồng Phong và Hà Huy Tập chỉ chính thức được công nhận năm từ 2000, tức hơn 60
năm sau.

Cho đến nay chưa có một thống kê chính xác về số đảng viên cộng sản bị chính đảng
cộng sản sát hại, con số này chắc chắn sẽ rất cao. Chỉ riêng trong chiến dịch cải cách
ruộng đất tại miền Bắc năm 1956 thôi, số đảng viên cộng sản và gia đình họ bị giết
oan đã trên 30.000 người (1/3 tổng số người bị giết), phần lớn là do trả thù báo oán
giữa những người cùng quê với nhau. Những năm sau đó, số đảng viên có lý lịch
không rõ ràng (tiểu tư sản, gia đình ngụy quyền) bị thanh trừng càng đông hơn nữa, vì
trong chiến tranh chống Pháp (1945-1954) bất cứ ai cũng có thể là đảng viên đảng
cộng sản, nhưng khi xây dựng chính quyền chuyên chính vô sản chỉ những thành phần
cơ bản (bần cố nông) mới được trọng dụng.

Các tên gọi và sơ đồ tổ chức

Trong suốt giai đoạn thành lập từ 1930 đến 1945, tất cả các tên gọi của đảng cộng sản
đều dựa theo cách đặt tên của người Trung Hoa: Đông Dương Cộng Sản Đảng, An
Nam Cộng Sản Đảng, Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn, Đệ Tam Quốc Tế.

Lịch sử đảng cộng sản được tóm tắt như sau: ngày 3-2-1930 Đảng Cộng Sản Việt
Nam được thành lập tại Hongkong. Tháng 10-1930, tên đảng được đổi lại thành Đảng
Cộng Sản Đông Dương theo yêu cầu của Đệ Tam Quốc Tế do Stalin lãnh đạo. Ngày
11-11-1945, đảng cộng sản đổi tên thành Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác Ở Đông
Dương để dễ vận động quần chúng, tất cả mọi hoạt động của đảng cộng sản chuyển
qua Phong Trào Việt Minh. Năm 1951, đảng cộng sản tự đặt cho mình một tên mới :
Đảng Lao Động Việt Nam. Năm 1976, ban lãnh đạo đảng cộng sản lấy lại tên cũ
thành Đảng Cộng Sản Việt Nam, trụ sở đặt tại Ba Đình, Hà Nội.

Trước trào lưu tiến hóa của thế giới, đảng cộng sản đang có kế hoạch đổi tên một lần
nữa để được dư luận quốc tế nhìn nhận một đảng độc tài bình thường. Thật ra vai trò
lãnh đạo của đảng cộng sản đã được dư luận trong nước nhìn nhận từ lâu nhưng trong
thụ động. Rất ít người phản ứng trước những cuộc đàn áp, bắt bớ người đối lập hay
bất đồng chính kiến.

Là đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cải tổ đường lối theo kinh tế thị
trường và tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh. Ngoài ra đảng
cộng sản còn trực tiếp lãnh đạo hai tổ chức thanh niên (Đoàn thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh và Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh), để chuẩn bị sự thay thế trong
tương lai. Nhiều kết hợp ngoại vi trực thuộc hai tổ chức này đã được thành hình, với
những tên gọi khác nhau, và đang tích cực hoạt động.

Trái với suy tưởng của nhiều người, số người gia nhập Đảng Cộng Sản Việt Nam
ngày càng đông. Hiện nay tổng số đảng viên cộng sản trong nước khoảng 9% dân số,
trên 7,5 triệu người. Con số này sát với sự thật vì vào những dịp đại hội của đảng, số
đảng viên đảng viên đảng cộng sản và đại biểu tham dự được chính thức công bố.

- Đại hội lần thứ nhất (từ 27 đến 31-3-1935), nhóm họp tại Macao, có 13 đại biểu và
600 đảng viên.

- Đại hội lần thứ hai (từ 11 đến 19-1951), tổ chức tại Tuyên Quang, số đảng viên tăng
lên 766.349 người, hơn 1.300%, với 158 đại biểu chính thức và 53 dự khuyết.

- Đại hội lần thứ ba nhóm họp tại Hà Nội, từ 5 đến 12-9-1960, với 525 đại biểu ; số
đảng viên giảm xuống còn 500.000 người.

- Đại hội lần thứ tư (từ 14 đến 20-12-1976), tổ chức tại Hà Nội, số đại biểu tăng lên
gấp đôi với 1.008 người và 1.550.000 đảng viên.

- Đại hội lần thứ năm (từ 27 đến 31-3-1982), số đảng viên tăng lên 2.127.000 người
với 1033 đại biểu.

- Đại hội lần thứ sáu (từ 15 đến 18-12-1986), số đảng viên tiếp tục tăng với 2.909.613
người và 1129 đại biểu.

- Đại hội lần thứ bảy (từ 24 đến 27-6-1991), số đảng viên tăng lên gấp đôi, với
4.155.022 đảng viên, và 1176 đại biểu.

- Đại hội lần thứ tám (từ 28-6 đến 01-7-1996), tổng số đảng viên là 5.130.000 người
với 1198 đại biểu.

- Đại hội lần thứ chín (từ 19 đến 22-4-2001) qui tụ 1.168 đại biểu, với 6.465.055 đảng
viên.

- Đại hội lần thứ mười (từ 18 đến 25-4-2006) qui tụ 1176 đại biểu với 7.435.665 đảng
viên.
Các cơ quan lãnh đạo đảng cộng sản

Đảng Cộng Sản Việt Nam là một đảng chính trị được tổ chức rất chặt chẽ và tinh vi.

Về mặt tổ chức, cơ quan lãnh đạo cao nhất của đảng cộng sản là Bộ chính trị, đứng
đầu là tổng bí thư. Kế đến là Ban chấp hành trung ương, do đại hội đảng bầu ra từng
khóa, sẽ bầu ra Bộ chính trị và Ban bí thư. Bộ chính trị bầu ra tổng bí thư.

Về số ủy viên, năm 1976, số đại biểu trong Ban chấp hành Trung ương Đảng đã tăng
từ 77 đến 133 ủy viên và Bộ chính trị tăng từ 11 đến 17 ủy viên, Ban bí thư tăng từ 7
đến 9 ủy viên.

1. Bộ chính trị
Theo Điều lệ của đảng cộng sản, Bộ chính trị ban chấp hành Đảng Cộng Sản Việt
Nam, gọi tắt là Bộ chính trị, là cơ quan lãnh đạo đảng cộng sản trong thời gian giữa
hai hội nghị Ban chấp hành trung ương. Trong thực tế, đây chính là cơ quan lãnh đạo
tối cao của đảng cộng sản, tất cả nhân sự lãnh đạo cấp cao đều xuất phát từ cơ quan
quyền lực này. Thành viên trong Bộ chính trị do Ban chấp hành trung ương bầu ra. Bộ
chính trị gồm các ủy viên chính thức và có thể có các ủy viên dự khuyết.

Bộ chính trị có nhiệm vụ lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết đại hội đại
biểu toàn quốc, nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc, nghị quyết của ban chấp hành
trung ương ; quyết định những vấn đề về chủ trương, chính sách, tổ chức, cán bộ ;
quyết định triệu tập và chuẩn bị nội dung các kỳ họp của ban chấp hành trung ương
báo cáo công việc đã làm trước hội nghị ban chấp hành trung ương hoặc theo yêu cầu
của ban chấp hành trung ương.

Trong Bộ chính trị, chức vị chủ tịch ban chấp hành trung ương và tổng bí thư do các
ủy viên trong bộ bầu ra. Một ủy viên trong Bộ chính trị được đề cử làm Thường trực
Ban bí thư. Theo cơ cấu của đảng, các ủy viên trong Bộ chính trị giữ tất cả những
cương vị chủ chốt trong bộ máy chính quyền : chủ tịch nước, thủ tướng, chủ tịch quốc
hội, phó thủ tướng thường trực, bộ trưởng bộ quốc phòng, bộ trưởng bộ bông an. Từ
khóa VII (1991-1996) trở đi, bí thư thành ủy Hà Nội và bí thư thành ủy Sài Gòn
(thành phố Hồ Chí Minh), bộ trưởng bộ ngoại giao cũng thường có mặt trong Bộ
chính trị. Tuy nhiên cũng có một vài ngoại lệ nhưng không phải là phổ biến như
trường hợp các ông Hoàng Minh Giám, Ung Văn Khiêm, Xuân Thủy, Nguyễn Dy
Niên... là những người có công lao và uy tín, đã đảm nhiệm nhiều chức vụ cao cấp
nhất trong xã hội nhưng không có mặt trong Bộ chính trị.
Các ủy viên khác trong Bộ chính trị thường đảm nhiệm nhiều chức vụ then chốt trong
guồng máy đảng : trưởng tan tổ chức trung ương đảng (đảm nhiệm công tác cán bộ),
chủ nhiệm ủy ban kiểm tra trung ương đảng (kiểm tra tư cách đảng viên, chống tham
nhũng). Tuy nhiên những người đứng đầu cơ quan tư pháp (viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, chánh án tòa án nhân dân tối cao) không có mặt trong Bộ chính trị
nhưng vẫn là những đảng viên cao cấp trong guồng máy đảng, ít nhất là trong Ban
chấp hành trung ương đảng.

2. Ban thường vụ trung ương


Cơ cấu tổ chức Bộ chính trị xuất hiện từ Đại hội II của Đảng Cộng Sản Việt Nam (lúc
đó là Đảng Lao Động Việt Nam) họp năm 1951. Tiền thân của nó là Ban thường vụ
trung ương.

Ban thường vụ trung ương đầu tiên xuất hiện từ sau Hội nghị lần thứ 1 (tháng 10 năm
1930) gồm có các ông Trần Phú, Ngô Đức Trì, Nguyễn Trọng Nhã.

Ban thường vụ trung ương do Đại hội I (1935) bầu ra có 5 người.

Ban thường vụ trung ương được bầu ra tại Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương lần thứ 8, khóa I (họp từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941), gồm
các ông Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ và Hoàng Quốc Việt, đứng đầu là tổng bí thư
Trường Chinh.

Sau Cách Mạng Tháng Tám 1945, Ban thường vụ trung ương gồm các ông Hồ Chí
Minh, Trường Chinh,Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, sau bổ sung
thêm Nguyễn Lương Bằng.

3. Thường vụ bộ chính trị


Đại hội VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam, họp năm 1996, bỏ cơ cấu Ban bí thư và
tạo ra cơ cấu thường vụ bộ chính trị. Mô hình tổ chức này chỉ tồn tại trong 5 năm, đến
Đại hội IX (năm 2001) thì bị bãi bỏ, trở lại mô hình Ban bí thư.

Bộ chính trị bầu ra số thành viên thường trực tạo thành Ban thường vụ bộ chính trị,
ban này thay mặt bộ chính trị lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của
đảng ; chuẩn bị các vấn đề trình Bộ chính trị xem xét, quyết định ; chỉ đạo thực hiện
các chủ trương về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, công tác đảng,
công tác cán bộ, công tác quần chúng ; giải quyết công việc hàng ngày của đảng.

Thường trực bộ chính trị (1 người) có vai trò tương tự thường trực ban bí thư ở các
khóa khác, thay mặt tổng bí thư khi cần.
Ban thường vụ bộ chính trị được bầu ra trong Đại hội VIII gồm 5 người : Đỗ Mười,
Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Tấn Dũng. Thường trực bộ chính
trị : Lê Khả Phiêu.

Hội nghị lần thứ 4 khóa VIII họp từ ngày 22 đến 29-12-1997 đã bầu ra Ban thường vụ
bộ chính trị mới gồm : Lê Khả Phiêu, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nông Đức
Mạnh, Phạm Thế Duyệt. Thường trực bộ chính trị : Phạm Thế Duyệt, Nguyễn Phú
Trọng (từ tháng 8 năm 1999).

4. Danh sách ủy viên bộ chính trị các khóa


Danh sách ủy viên bộ chính trị thường không xếp theo vần chữ cái (thể hiện sự ngang
vai) mà được xếp theo thứ bậc, bắt đầu từ chủ tịch Ban chấp hành trung ương và tổng
bí thư trở xuống. Tuy nhiên thứ bậc này có thể thay đổi ngay trong một khóa.

- Khóa I (1941-1951): Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Đông
Dương lần thứ 8, khóa I (họp từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941) bầu ra Ban thường vụ
trung ương gồm có : Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ và Hoàng Quốc Việt, đứng đầu
là tổng bí thư Trường Chinh. Sau Cách Mạng Tháng Tám 1945, Ban thường vụ trung
ương gồm Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Hoàng Quốc Việt, sau bổ
sung thêm Nguyễn Lương Bằng.

- Khóa II (1951-1960) gồm có:

* 7 ủy viên chính thức: Hồ Chí Minh (chủ tịch đảng), Trường Chinh (tổng bí thư đến
năm 1956), Lê Duẩn, Hoàng Quốc Việt (đến năm 1956), Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn
Đồng, Nguyễn Chí Thanh. Từ năm 1955 bổ sung thêm Lê Đức Thọ, từ 1956 thêm
Phạm Hùng, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Hoàng Văn Hoan.

* 1 ủy viên dự khuyết: Lê Văn Lương (đến năm 1956)

- Khóa III (1960-1976) gồm:

* 11 ủy viên chính thức: Hồ Chí Minh (chủ tịch đảng đến khi mất năm 1969), Lê
Duẩn (bí thư thứ nhất), Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Võ
Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh (mất năm 1967), Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh
Nghị, Hoàng Văn Hoan. Từ tháng 3-1972 bổ sung Văn Tiến Dũng, từ tháng 6-1972
thêm Trần Quốc Hoàn.

* 2 ủy viên dự khuyết : Trần Quốc Hoàn (đến tháng 6-1972), Văn Tiến Dũng (đến
tháng 3-1972).

- Khóa IV (1976-1982) gồm:

* 14 ủy viên chính thức: Lê Duẩn (tổng bí thư), Trường Chinh, Phạm Văn Đồng,
Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Trần
Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Lê Văn Lương, Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công, Chu
Huy Mân.

* 3 ủy viên dự khuyết: Tố Hữu (từ 1980 là ủy viên chính thức), Võ Văn Kiệt, Đỗ
Mười.

* Thường trực ban bí thư: Lê Đức Thọ, Lê Thanh Nghị (1980-1982).

- Khóa V (1982-1986) gồm:

* 13 ủy viên chính thức : Lê Duẩn (tổng Bí thư đến khi mất năm 1986), Trường Chinh
(tổng bí thư sau khi Lê Duẩn mất), Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Văn
Tiến Dũng, Võ Chí Công, Chu Huy Mân, Tố Hữu, Võ Văn Kiệt, Đỗ Mười, Lê Đức
Anh, Nguyễn Đức Tâm. Từ tháng 6 năm 1985 bổ sung Nguyễn Văn Linh.

* 2 ủy viên dự khuyết: Nguyễn Cơ Thạch, Đồng Sĩ Nguyên.

* Thường trực ban bí thư: Lê Đức Thọ (đến tháng 6-1986), Nguyễn Văn Linh (từ
tháng 6-1986).

- Khóa VI (1986-1991):

* 13 ủy viên chính thức: Nguyễn Văn Linh (tổng bí thư), Phạm Hùng (mất năm 1988),
Võ Chí Công, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh, Nguyễn Đức Tâm, Nguyễn Cơ
Thạch, Đồng Sĩ Nguyên, Trần Xuân Bách (đến tháng 3-1990), Nguyễn Thanh Bình,
Mai Chí Thọ.

* 1 ủy viên dự khuyết: Đào Duy Tùng (từ 1988 là ủy viên chính thức}.

* Thường trực ban bí thư: Đỗ Mười (đến 1988), Nguyễn Thanh Bình (từ 1988).

- Khóa VII (1991-1996) gồm:

* 13 ủy viên chính thức: Đỗ Mười (tổng bí thư), Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Đào Duy
Tùng, Đoàn Khuê, Vũ Oanh, Lê Phước Thọ, Phan Văn Khải, Bùi Thiện Ngộ, Nông
Đức Mạnh, Phạm Thế Duyệt, Nguyễn Đức Bình, Võ Trần Chí. Tại Hội nghị Trung
ương lần thứ 6 từ tháng 11 đến tháng 12 năm 1993 bầu bổ sung 4 ủy viên chính thức :
Lê Khả Phiêu, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Hà Phan (đến năm 1996), Đỗ Quang
Thắng.

* Thường trực ban bí thư: Đào Duy Tùng

- Khóa VIII (1996-2001) gồm:

* 19 ủy viên chính thức: Đỗ Mười (tổng bí thư đến tháng 12-1997), Lê Đức Anh, Võ
Văn Kiệt, Nông Đức Mạnh, Lê Khả Phiêu (tổng bí thư từ tháng 12-1997), Đoàn Khuê,
Phan Văn Khải, Nguyễn Mạnh Cầm, Nguyễn Đức Bình, Nguyễn Văn An, Phạm Văn
Trà, Trần Đức Lương, Nguyễn Thị Xuân Mỹ (nữ), Trương Tấn Sang, Lê Xuân Tùng,
Lê Minh Hương, Nguyễn Đình Tứ, Phạm Thế Duyệt, Nguyễn Tấn Dũng.

* 5 ủy viên thường vụ: Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt, Lê Khả Phiêu, Nguyễn
Tấn Dũng.

* Thường trực bộ chính trị: Lê Khả Phiêu. Tháng 12 năm 1997, Đỗ Mười, Lê Đức
Anh, Võ Văn Kiệt rút khỏi Bộ chính trị, làm cố vấn Ban chấp hành trung ương ; bầu
bổ sung 4 ủy viên : Phạm Thanh Ngân, Nguyễn Minh Triết, Phan Diễn, Nguyễn Phú
Trọng.

* 5 ủy viên thường vụ mới: Lê Khả Phiêu, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nông
Đức Mạnh, Phạm Thế Duyệt

* Thường trực bộ chính trị: Phạm Thế Duyệt, Nguyễn Phú Trọng (từ tháng 8 năm
1999)

- Khóa IX (2001-2006) gồm:

* 15 ủy viên chính thức: Nông Đức Mạnh (tổng bí thư), Trần Đức Lương, Phan Văn
Khải, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng, Lê Minh Hương (mất năm 2004),
Nguyễn Phú Trọng, Phan Diễn, Lê Hồng Anh, Trương Tấn Sang, Phạm Văn Trà,
Nguyễn Văn An, Trương Quang Được, Trần Đình Hoan, Nguyễn Khoa Điềm.

* Thường trực ban bí thư: Phan Diễn.

- Khóa X (2006-2011) gồm:


* 14 ủy viên chính thức: Nông Đức Mạnh (tổng bí thư), Lê Hồng Anh, Nguyễn Tấn
Dũng, Nguyễn Minh Triết, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng, Phạm Gia Khiêm,
Phùng Quang Thanh, Trương Vĩnh Trọng, Lê Thanh Hải, Nguyễn Sinh Hùng, Nguyễn
Văn Chi, Hồ Đức Việt, Phạm Quang Nghị.

* Thường trực ban bí thư: Trương Tấn Sang

5. Ban bí thư trung ương


Đây là cơ quan do Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản lập ra để lãnh đạo các
công việc hàng ngày của đảng cộng sản.

Ban Bí thư bắt đầu được thành lập từ nhiệm kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II
(năm 1951) của đảng cộng sản và duy trì trong các nhiệm kỳ tiếp theo. Riêng nhiệm
kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII không thành lập Ban bí thư mà thành lập
Thường vụ bộ chính trị. Nhiệm kỳ của Ban bí thư tương ứng với nhiệm kỳ của Ban
chấp hành trung ương do các đại hội đại biểu toàn quốc bầu ra.

Ban bí thư là cơ quan lãnh đạo công việc hàng ngày của đảng cộng sản, thực hiện các
nhiệm vụ sau:

- Chỉ đạo công tác xây dựng đảng và công tác quần chúng.

- Kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của đảng cộng sản về kinh tế, xã hội,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

- Chỉ đạo sự phối hợp hoạt động của giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị.

- Quyết định một số vấn đề tổ chức, cán bộ và một số vấn đề khác theo sự phân công
của Ban chấp hành Trung ương.

- Chỉ đạo hoặc kiểm tra việc chuẩn bị các vấn đề đưa ra Bộ chính trị thảo luận và
quyết định.

Về cơ cấu tổ chức, Ban bí thư gồm có : tổng bí thư, một số ủy viên bộ chính trị do Bộ
chính trị phân công và một số ủy viên ban bí thư do Ban chấp hành trung ương bầu
trong số các ủy viên ban chấp hành trung ương. Số lượng các ủy viên ban bí thư do
Ban chấp hành trung ương quyết định. Một số nhiệm kỳ đại hội đại biểu toàn quốc
gần đây, có một thành viên trong Ban bí thư được chỉ định để phụ trách và chủ trì
những công việc hàng ngày và được gọi với chức danh thường trực ban bí thư.
6. Danh sách ủy viên Ban bí thư các nhiệm kỳ
- Ban bí thư khóa II (1951-1960): Hồ Chí Minh (từ tháng 10-1956), Trường Chinh, Lê
Duẩn, Phạm Văn Đồng, Lê Văn Lương (đến 1956), Nguyễn Duy Trinh (bổ sung từ
tháng 8 năm 1955), Võ Nguyên Giáp (bổ sung từ tháng 10-1956), Phạm Hùng (bổ
sung từ tháng 11-1958), Tố Hữu (bổ sung từ tháng 11-1958), Hoàng Anh (bổ sung từ
tháng 11-1958).

- Ban bí thứ khóa III (1960-1976): Lê Duẩn, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí
Thanh, Hoàng Anh, Tố Hữu, Lê Văn Lương, Nguyễn Văn Trân (bổ sung từ tháng 1
năm 1961), Xuân Thủy (bổ sung 1968).

- Ban bí thư khóa IV (1976-1982): Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn
Văn Linh, Tố Hữu, Xuân Thủy, Nguyễn Lam, Song Hào, Lê Quang Đạo, Trần Quốc
Hoàn (bổ sung từ năm 1980), Lê Thanh Nghị (bổ sung từ tháng 3-1980).

- Ban bí thư khóa V (1982-1986): Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Võ Chí Công, Nguyễn Đức
Tâm, Nguyễn Lam, Lê Quang Đạo, Hoàng Tùng, Nguyễn Thanh Bình, Trần Kiên,
Trần Xuân Bách, Nguyễn Văn Linh (bổ sung từ tháng 6 năm 1986).

- Ban bí thư khóa VI (1986-1991): Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Đức Tâm, Trần Xuân
Bách, Đào Duy Tùng, Trần Kiên, Lê Phước Thọ, Nguyễn Quyết, Đàm Quang Trung,
Vũ Oanh, Nguyễn Khánh, Trần Quyết, Trần Quốc Hương, Phạm Thế Duyệt, Nguyễn
Thanh Bình (bổ sung từ tháng 10 năm 1988).

- Ban bí thư khóa VII (1991-1996): Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng, Lê Phước
Thọ, Nguyễn Hà Phan, Hồng Hà, Nguyễn Đình Tứ, Trương Mỹ Hoa, Đỗ Quang
Thắng, Lê Khả Phiêu (bổ sung từ tháng 12-1993).

- Thường vụ bộ chính trị khóa VIII (1996-2001): Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt
(đến 12-1997), Lê Khả Phiêu (ủÛy viên thường trực bộ chính trị, từ tháng 12-1997 là
tổng bí thư), Nguyễn Tấn Dũng (đến 12-1997),Trần Đức Lương (từ tháng 12 năm
1997), Phan Văn Khải (từ tháng 12-1997) Nông Đức Mạnh (từ tháng 12-1997), Phạm
Thế Duyệt (từ tháng 12-1997).

- Ban bí thư khóa IX (2000-2006): Nông Đức Mạnh, Phan Diễn (ủy viên thường trực),
Trần Đình Hoan, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Văn Dũng, Tòng Thị Phóng, Trương Vĩnh
Trọng, Vũ Khoan, Nguyễn Văn Chi (từ 1-2003).

- Ban bí thư khóa X (2006 đến nay): Nông Đức Mạnh, Trương Tấn Sang (ủy viên
thường trực), Trương Vĩnh Trọng, Nguyễn Văn Chi, Hồ Đức Việt (từ tháng 8-2006
thay cho Phạm Quang Nghị), Lê Văn Dũng, Tòng Thị Phóng, Tô Huy Rứa.

7. Tổng bí thư
Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam, chức danh đầy đủ là tổng bí thư ban chấp hành
trung ương đảng cộng Sản Việt Nam, gọi tắt là tổng bí thư, là người lãnh đạo cao nhất
của đảng cộng sản sau khi bỏ chức chủ tịch Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản
(chức vụ này duy nhất do Hồ Chí Minh nắm giữ từ năm 1951 đến khi qua đời năm
1969). Riêng thời kỳ 1960-1976 được gọi là «Bí thư thứ nhất ban chấp hành trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam».

Theo thủ tục chính thức thì Đại hội đại biểu toàn quốc của đảng bầu ra Ban chấp hành
trung ương, Ban chấp hành trung ương bầu ra Bộ chính trị, sau đó bầu ra tổng bí thư
trong số ủy viên Bộ chính trị.

Danh sách các tổng bí thư qua các thời kỳ:

- Trần Phú (10/1930-1931), tổng bí thư đầu tiên được bầu tại Hội nghị lần thứ nhất
tháng 10 năm 1930.

- Lê Hồng Phong (3/1935-1936), chỉ được công nhận gần đây, từ năm 2000 trở lại
đây.

- Hà Huy Tập (26/7/1936-3/1938), chỉ được công nhận gần đây, từ năm 2000 trở lại
đây.

- Nguyễn Văn Cừ (3/1938-1/1940).

- Trường Chinh (5/1941-10/1956) và (10/1940-5/1941) : quyền tổng bí thư. Ông chỉ


thôi giữ chức vụ bí thư sau Hội nghị trung ương về vấn đề sửa sai cải cách ruộng đất.

- Hồ Chí Minh (10/1956-1960), kiêm chủ tịch nước.

- Lê Duẩn (10/9/1960-10/7/1986) và (10/9/1960-12/1976) : bí thư thứ nhất, (12/1976-


10/7/1986) : tổng bí thư (đến lúc mất). Ông là người có những quyền hành nhất từ
trước đến nay nhờ có sự hợp tác với Lê Đức Thọ trong suốt thời kỳ cầm quyền đảng
cộng sản. Trong suốt thời gian cầm quyền điều khiển đảng, ông đã để lại nhiều hận
thù đối với một số gia đình đảng viên bị ông sát hại hay đày đọa. Chính vì thế, sau khi
qua đời mộ phần của ông Lê Duẩn, ông Lê Đức Thọ và Trường Chinh luôn luôn được
canh gác vì những nạn nhân của các ông thường xuyên đến nguyển rũa và phóng uế.
Bây giờ thì sự qyấy phá đã có phần giảm xuông nhưng sự canh gác vẫn còn nghiêm
nhặt.

- Trường Chinh (14/7/1986-18/12/1986) tổng bí thư (được bầu lần thứ 2).

- Nguyễn Văn Linh (18/12/1986-28/6/1991) tổng bí thư.

- Đỗ Mười (28/6/1991-12/1997) tổng bí thư.

- Lê Khả Phiêu (12/1997-22/4/2001) tổng bí thư.

- Nông Đức Mạnh (22/4/2001-hiện nay) tổng bí thư.

8. Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản


Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam là cơ quan lãnh đạo cao nhất của
đảng cộng sản Việt Nam giữa hai nhiệm kỳ đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh
đạo ở mỗi cấp giữa hai nhiệm kỳ đại hội là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là
cấp ủy).

Ủy viên ban chấp hành trung ương do đại hội đại biểu toàn quốc bầu và số lượng ủy
viên do đại hội quyết định.

Khác với quốc hội bù nhìn của nhà nước cộng sản, Ban chấp hành trung ương đảng
cộng sản là cơ quan thực sự có quyền hành và nhiệm vụ điều hành đảng :

- Tổ chức chỉ đạo thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ đảng, các nghị quyết của đại
hội đại biểu toàn quốc ; quyết định những chủ trương, chính sách về đối nội, đối
ngoại, công tác quần chúng và công tác xây dựng đảng ; chuẩn bị đại hội đại biểu toàn
quốc nhiệm kỳ tiếp theo, đại hội đại biểu toàn quốc bất thường (nếu có).

- Bầu Bộ chính trị; bầu tổng bí thư trong số ủy viên bộ chính trị ; bầu ủy ban kiểm tra
trung ương ; bầu chủ nhiệm ủy ban kiểm tra trung ương trong số ủy viên ủy ban kiểm
tra trung ương. Quyết định số lượng ủy viên bộ chính trị và ủy viên ủy ban kiểm tra
trung ương.

- Triệu tập đại hội đại biểu toàn quốc thường lệ 5 năm một lần; có thể triệu tập sớm
hoặc muộn hơn, nhưng không quá một năm. Khi Ban chấp hành trung ương xét thấy
cần hoặc khi có hơn một nửa số cấp ủy trực thuộc yêu cầu thì Ban chấp hành trung
ương triệu tập đại hội đại biểu toàn quốc bất thường.
Các ban trực thuộc đảng

Hiện nay, đảng cộng sản là đảng cầm quyền duy nhất tại Việt Nam. Để duy trì vai trò
độc tôn này, đảng cộng sản lập ra một số ban mà chức năng là tham mưu ban lãnh đạo
đảng về chủ trương, đường lối, chính sách trên qui mô lớn. Nói chung đây là cơ quan
quản lý tư tưởng của người dân. Quản lý các ban này là Ban chấp hành trung ương
đảng.

Trên nguyên tắc tổng bí thư là người lãnh đạo đây quyền lực nhất trong đảng cộng
sản. Điều này đứng với những tổng bí thư trước đó, từ Hồ Chí Minh, Lê Duẩn,
Trường Chinh. Từ thời Nguyễn văn Linh, Đổ Mười, Lê Khả Phiêu, chức vụ tổng bí
thư đã giảm phần quan trọng. Bù lại, lãnh đạo các ban trung ương thuộc của bộ chính
trị đã có ảnh hưởng rất lớn các quyết định của bộ chính trị hay tổng bí thư đảng cộng
sản. Hiện nay, tuy ông Nông Đức Mạnh là tổng bí thư nhưng chức vị này không có
thực quyền, quyền hành thực sự nằm trong tay lãnh đạo các ban trung ương này. Vì
đều quan trọng như nhau và không ai hơn hẳn ai, tất cả chấp nhận giữ y nguyên trạng
(in statu quo ante) và để ông Nông Đức Mạnh tiếp tục làm tổng bí thư cho đến khi có
một nhân vật thực sự nổi bật để nắm quyền lãnh đạo đảng cộng sản. Từ đây đến dó,
lãnh đạo những ban trung ương này tiếp tục lãnh đạo lãnh vực được ủy nhiệm.

Hiện nay có tất cả trên 10 ban, mỗi ban phụ trách một lãnh vực, nhưng nếu cần thu
tóm lại thì chỉ gồm hai hoặc ba ban, vì tất cả đều thuộc lãnh vực tư tưởng, chính trị và
kiểm soát quần chúng. Số lượng các ban nhiều hay ít tùy theo sự chia chác quyền lợi
trong nội bộ đảng. Nếu có nhiều ban thì phải hiểu là sự phân phát quyền lực và quyền
lợi giữa các phe phái trong đảng chưa ngã ngũ. Cũng nên biết, bất cứ người nào lọt
vào vòng đai lãnh đạo tối cao này đều phải ở trong một phe nhóm nào đó, và có rất
nhiều phe nhóm.

- Đứng đầu là Ban tổ chức trung ương, đây là cơ quan quan trọng nhất trong hệ thống
quyền lực của đảng cộng sản. Ban này có chức năng tham mưu của Ban chấp hành
trung ương đảng cộng sản, Bộ chính trị, Ban bí thư về chủ trương và các chính sách
lớn thuộc lĩnh vực tổ chức cán bộ của hệ thống chính trị ; đồng thời là cơ quan chuyên
môn nghiệp vụ về công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên của trung ương. Ban này quan
trọng nhất nên đứng đầu là một ủy viên Bộ chính trị.

- Ban đối ngoại trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương, chính sách lớn thuộc
lĩnh vực đối ngoại, đồng thời cũng là cơ quan tổ chức thực hiện quan hệ đối ngoại của
đảng cộng sản.

- Ban bảo vệ chính trị nội bộ là cơ quan tham mưu về lĩnh vực bảo vệ chính trị nội bộ,
đồng thời là cơ quan nghiệp vụ về bảo vệ chính trị nội bộ.

- Ban tư tưởng-văn hóa trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương và các chính
sách lớn thuộc lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Ban này hình thành trên cơ sở hợp nhất
Ban tuyên huấn trung ương và Ban văn hóa văn nghệ trung ương tồn tại trước đó. Tuy
nhiên hiện nay ở cấp thấp hơn (cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương) thì lại có
tên là Ban tuyên giáo.

- Ban nội chính trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương và các chính sách lớn
thuộc lĩnh vực nội chính.

- Ban kinh tế trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương và các chính sách lớn
thuộc lĩnh vực kinh tế-xã hội.

- Ban khoa giáo trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương và các chính sách lớn
thuộc lĩnh vực khoa giáo (bao gồm khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo, sức khoẻ,
giới trí thức).

- Ban dân vận trung ương là cơ quan tham mưu về chủ trương, chính sách và giải pháp
lớn về công tác dân vận.

- Ban tài chính quản trị trung ương là cơ quan quản lý tài chính của đảng cộng sản
cũng các đơn vị kinh tế trực thuộc.

- Ban cán sự đảng ngoài nước phụ trách công tác đảng đối với các tổ chức đảng và
đảng viên ở ngoài nước.

Từ tháng 4-2007, Bộ chính trị hợp nhất các ban của đảng như sau:

- Ban kinh tế trung ương kết hợp với các Ban nội chính trung ương, Ban tài chính
quản trị trung ương và Văn phòng trung ương đảng thành Văn phòng trung ương
đảng.

- Ban bảo vệ chính trị nội bộ trung ương kết hợp với Ban tổ chức trung ương đảng
thành Ban tổ chức trung ương.

- Ban khoa giáo trung ương kết hợp với Ban tư tưởng văn hóa trung ương thành Ban
tuyên giáo trung ương.

Người ta thường đồn các chức vụ trong Bộ chính trị phải chia đều cho các miền,
chẳng hạn như chủ tịch phải là người Bắc, thủ tướng người miền Nam, tổng bí thư
người miền Trung, v.v. Thực tế không hẳn vậy, những nhân vật đảm nhiệm các chức
vụ trên chỉ là tình cờ chứ không phải là một bắt buộc. Bằng chứng là trong Bộ chính
trị khóa X, các chức vụ lãnh đạo thuộc về miền Nam nhưng không phải vì thế mà phe
miền Nam thắng thế. Quyền hành thực sự nằm trong ba ban vừa được cải tổ hồi tháng
4-2007, mỗi ban là sự kết hợp của một số nhân vật lãnh đạo trong bộ chính trị. Mỗi
phe đề cử người của mình vào một trong ba chức vụ tối cao, sau đó chia đều các chức
vụ còn lại, kể cả trong quân đội và công an.

Ủy ban kiểm tra trung ương và ở các cấp

Ủy ban kiểm tra trung ương có nhiệm vụ xem xét tư cách đạo đức các đảng viên là
cán bộ cao cấp, các vụ việc tiêu cực liên quan đến các đảng viên cao cấp và có quyền
yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên báo cáo, cung cấp tài liệu về những vấn
đề liên quan đến nội dung kiểm tra.

Nhiệm vụ của ủy ban kiểm tra các cấp như sau:

1. Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn
đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.

2. Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành
cương lĩnh chính trị, Điều lệ đảng, nghị quyết, chỉ thị của đảng, các nguyên tắc tổ
chức của đảng ; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong
đảng.

3. Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc đề nghị cấp
ủy thi hành kỷ luật.

4. Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên ; giải quyết khiếu nại về kỷ luật
đảng.

5. Kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp.

Cơ quan báo chí, xuất bản

Đảng Cộng Sản Việt Nam hiện có ba cơ quan báo chí, xuất bản. Về mặt tổ chức, các
cơ quan này tương đương với các ban trực thuộc ban chấp hành trung ương đảng cộng
sản:
- Báo Nhân Dân là cơ quan ngôn luận trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ
chức phát hành các loại ấn phẩm sau: Nhân Dân hàng ngày, Nhân Dân cuối tuần,
Nhân Dân hàng tháng, Nhân Dân điện tử tiếng Việt và tiếng Anh.

- Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật là cơ quan xuất bản chính trị của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngoài
nhiệm vụ xuất bản các ấn phẩm chính trị, cơ quan này còn tham gia nghiên cứu các
vấn đề lý luận chính trị, khoa học xã hội.

- Tạp Chí Cộng Sản là cơ quan lý luận và chính trị của trung ương đảng cộng sản Việt
Nam, ấn phẩm là Tạp chí Cộng sản và trang Web Tạp chí Cộng sản điện tử.

Kết luận

Đảng Cộng Sản Việt Nam là một tổ chức được thành lập từ lâu đời, có kinh nghiệm
chiến đấu và cầm quyền. Vì là một tổ chức được chính trị hóa cao, mọi chủ trường và
đường lối của đảng đều được quyết định bởi tập thể. Yếu tố này rất quan trọng vì
trong sinh hoạt của đảng cộng sản, những hành động đơn phương hay ý kiến cá nhân
không có chỗ đứng. Một đảng viên cộng sản bình thường có thể rất dễ thương và đầy
nhân tính khi sống với gia đình và hàng xóm, nhưng khi kết hợp với nhau để đối phó
với một đe dọ nào đối với đảng, họ có thể trở thành hung dữ và vô nhân tính. Do đó
mọi khuyến khích, hay cổ võ những hành động đơn phương của những người còn
đang ở trong guồng máy đảng cộng sản để làm những cải tổ thuận lợi cho dân chủ
không thể diễn ra. Những hành động bị coi là phản bội đảng bị trừng trị nặng hơn đối
với người ngoài đảng. Tất cả những sáng kiến cá nhân của những đảng viên cộng sản,
nếu có, chỉ xuất hiện vào lúc cuối đời, khi về hưu. Đó là trường hợp của các ông Trần
Độ, Mai Chí Thọ, Võ Văn Kiệt.

Trong quân đội, tất cả những sĩ quan đều là đảng viên đảng cộng sản. Vì được chính
trị hóa cao, những sáng kiến hay hành động đơn phương lại càng không thể có. Chính
vì thế trong suốt hai cuộc chiến Đông Dương, không hề có một anh hùng cá nhân nào
xuất hiện mặc dù rất nhiều người đã chiến đấu rất dũng cảm và lập nhiều chiến công.
Trường hợp ông Võ Nguyên Giáp là một thí dụ, ông được dư luận thế giới coi như là
anh hùng đánh thắng Pháp và Mỹ, nhưng trong nội bộ đảng cộng sản ông chỉ là một
cấp tướng bình thường như bao cấp tướng khác. Trong thời gian bị thất sũng (1983),
ông bị hạ nhục bằng cách giao cho giữ chức vụ chủ tịch ủy ban sinh đẻ có kế hoạch,
công lao cuộc tiến chiếm miền Nam năm 1975 được dành cho Văn Tiến Dũng, nhưng
ông này sau đó cũng chìm vào quên lãng vì để lộ ước muốn được nổi tiếng một mình.

Với một tổ chức cồng kềnh như thế, yếu tố chuyên chính bao trùm, ban lãnh đạo Đảng
Cộng Sản Việt Nam khó lấy được một quyết định nhanh chóng để thay đổi đất nước.
Thay thế một lực lượng cầm quyền gần 8 triệu người đòi nhiều sáng kiến, và nhất là
phải có một tổ chức đối lập mạnh.

Nguyễn Văn Huy

Một cái nhìn về ngành an ninh tại Việt Nam


Nguyễn Văn Huy

“…Công an trị là cách thức tổ chức và làm việc trong guồng máy an ninh, không
một công dân nào không bị theo dõi,…”

Muốn tìm hiểu bản chất của một chế độ, chỉ cần nhìn cách tổ chức ngành an ninh của
chế độ đó thì sẽ thấy rõ. Nếu là một chế độ dân chủ, tổ chức của ngành này phải gọn
nhẹ, linh động và ít tốn kém, chính sách an ninh phải được thay đổi thường xuyên để
thích ứng với những đòi hỏi của tình hình mới và một thế giới luôn luôn chuyển hóa.
Nếu là một chế độ độc tài, tổ chức của ngành này phải rất cồng kềnh, chậm chạp và
rất tốn kém, chính sách an ninh rất khó thay đổi hoặc không thể thay đổi vì nó đan
xen, chồng chéo, bao trùm và kiểm soát tất cả.
Theo cách nhìn này, tổ chức của ngành an ninh Việt Nam thuộc loại thứ hai. Thật ra
chế độ cộng sản Việt Nam cũng không cần che giấu bản chất độc tài đảng trị của
mình, nó được ghi ngay trong hiến pháp. Về độc tài, điều 6 xác nhận : "Quốc hội, hội
đồng nhân dân và các cơ quan khác của nhà nước đều tổ chức và hoạt động theo
nguyên tắc tập trung dân chủ". Để lãnh đạo những định chế đó, điều 4 dành riêng cho
đảng cộng sản : "Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt
Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh
đạo nhà nước và xã hội.

Một chế độ công an trị

Muốn duy trì một chế độ vừa độc tài vừa đảng trị, guồng máy an ninh tại Việt Nam
bắt buộc phải rất đồ sộ và rất hung bạo. Đồ sộ vì nó phải có mặt tại khắp mọi nơi và
sẵn sàng ra tay trong bất cứ trường hợp nào. Hung bạo để duy trì sự sợ hãi, và qua sự
sợ hãi để giữ vững quyền lãnh đạo. Như mọi chế độ độc tài, ngành an ninh của chính
quyền cộng sản Việt Nam là công cụ đắc lực nhất để bảo vệ chế độ, nó được tổ chức
rất chặt chẽ và rất bí mật. Nhưng bí mật nào cũng có ngày bị phát giác. Với những tiến
bộ về kỹ thuật truyền thông hiện nay, mọi người đều có thể tìm đọc trên Internet lịch
sử và cách tổ chức các bộ trong guồng máy chính quyền cộng sản Việt Nam :
vi.wikipedia.org.
Theo sự trình bày trên "Bách khoa toàn thư mở Wikipedia", ngành an ninh của chính
quyền cộng sản Việt Nam được giới thiệu dưới tên "Bộ công an Việt Nam", trong mục
"các bộ và cơ quan ngang bộ thuộc chính phủ Việt Nam". Đây là một "bài cần chú
thích nguồn gốc" vì không có ký tên và xuất xứ của tác giả. Mặc dù có sự dè dặt tối
thiểu này, những dữ kiện về ngày tháng, địa điểm và tên nhân vật trong bài viết khá
chính xác. Chắc chắn người viết phải là một cán bộ cấp cao trong guồng máy chính
quyền cộng sản mới có được những dữ kiện vừa chính xác vừa bí mật này, cũng có
thể đây là một tài liệu mà chính quyền cộng sản Việt Nam muốn phổ biến. Nếu người
đưa tài liệu này lên mạng là một thường dân mà bị bắt, tương lai của người đó chắc
chắn sẽ không khá, vì sẽ bị kết những bản án tù rất nặng với những tội danh làm gián
điệp cho ngoại bang hay phản bội tổ quốc, trước kia có thể lãnh án tử hình.

Nhưng cho dù sự thật có thế nào, đọc qua cách tổ chức của ngành an ninh này, tức Bộ
Công An, thì rõ ràng Việt Nam là một chế độ công an trị. Công an trị không có nghĩa
là có nhiều công an đứng ở mỗi góc đường để kiểm soát sự đi lại của dân chúng hay
làm việc trong những đồn bót địa phương. Trong thực tế, mặc dù mặc đồng phục
giống nhau, những cán bộ này trực thuộc các chính quyền địa phương hơn là Bộ Công
An. Công an trị là cách thức tổ chức và làm việc trong guồng máy an ninh, không một
công dân nào không bị theo dõi, hay không bị lập hồ sơ, kể cả những cán bộ cao cấp
trong đảng và nhà nước. Có những hồ sơ chỉ được lập ra rồi cất đó, chờ khi hữu dụng.

Trong một quốc gia (dân chủ) bình thường, ngành an ninh phải trực thuộc hoặc đặt
dưới quyền lãnh đạo của Bộ Nội Vụ, nhưng tại Việt Nam Bộ Nội Vụ và Bộ Công An
là hai bộ riêng biệt. Tầm vóc và chức năng của hai bộ không ngang nhau.

Bộ Nội Vụ hiện nay chỉ giản dị là một cơ quan hành chánh thực hiện chức năng quản
lý của nhà nước về các lãnh vực : tổ chức bộ máy hành chánh nhà nước ; tổ chức
chính quyền địa phương ; địa giới hành chánh ; cán bộ, công chức, viên chức nhà
nước ; các hội đoàn và các tổ chức phi chính phủ ; văn thư, lưu trữ nhà nước ; dịch vụ
công thuộc bộ. Bộ trưởng đương nhiệm là ông Đỗ Quang Trung.

Bộ Công An thì ngược lại, qui mô và tầm vóc hơn. Nó là cơ quan quản lý trực tiếp các
lực lượng công an trên toàn quốc. Nó là một trong hai lực lượng vũ trang nhân dân
chính của đảng cộng sản : quân đội và công an. Nếu nhiệm vụ của quân đội là "bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ" (điều 45 và 46 hiến pháp 1992),
thì lực lượng công an có nhiệm vụ "giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã
hội". Nhưng nhiệm vụ chính của công an là "bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và những
thành quả cách mạng" (điều 45 và 47 hiến pháp 1992). Bạo lực là yếu tố bao trùm
trong mọi hoạt động của hai lực lượng này. Cho dù có ngụy biện tới đâu đi nữa, bản
chất của chế độ độc tài, đảng trị này vẫn là bạo lực, mà họ gọi là chuyên chính vô sản.

Bạo lực thể hiện trực tiếp qua chức vụ của những người lãnh đạo, đây là một bộ công
an quân sự hóa. Lễ phong quân hàm đầu tiên được tổ chức tại Nhà Hát Lớn Hà Nội
cuối năm 1962 cho 200 người. Từ 1987 đến nay, tất cả các bộ trưởng Bộ Công An đều
mang quân hàm tướng : Mai Chí Thọ (1987-1991), đại tướng ; Bùi Thiện Ngộ (1991-
1996), thượng tướng ; Lê Minh Hương (1996-2002), thượng tướng ; Lê Hồng Anh (từ
2002), đại tướng. Chỉ một số ít cán bộ dân sự được đồng hóa với cấp bậc quân sự (như
trường hợp ông Nguyễn Văn Thắng, giáo sư, được đồng hóa với cấp bậc trung tướng
khi được chỉ định làm giám đốc Học viện An ninh Nhân dân, Hà Nội), đại đa số còn
lại là sĩ quan công an hoặc được chuyển thẳng từ quân đội sang.

Nếu làm một thống kê sơ bộ, Bộ Công An là bộ có nhiều tướng nhất, chỉ sau bộ quốc
phòng. Đứng đầu bộ là một đại tướng (Lê Hồng Anh, bộ trưởng), 3 thượng tướng
(Nguyễn Khánh Toàn, Lê Thế Tiệm và Nguyễn Văn Hưởng, tất cả đều là thứ trưởng,
ủy viên ban chấp hành trung ương đảng cộng sản), 16 trung tướng (4 người vừa là thứ
trưởng vừa là ủy viên ban chấp hành trung ương đảng, số còn lại là những tổng cục
trưởng và cục trưởng những cục quan trọng nhất), 65 thiếu tướng (đa số là cục trưởng
những cục về tình báo, an ninh chiến lược và an ninh nội chính), hơn 70 đại tá (đa số
là cục trưởng những cục kỹ thuật), ngoài ra còn có một số thượng tá đảm nhiệm
những cơ quan và cơ sở kỹ thuật bình thường của ngành công an.

Tổ chức của Bộ Công An

Bộ Công An có lẽ là bộ có nhiều thứ trưởng cấp tướng nhất : 7 người (3 thượng tướng
và 4 trung tướng), trực tiếp cai quản 6 tổng cục (direction générale) và cục (direction),
vụ (bureau) trực thuộc bộ. Trong nội bộ của Bộ Công An, sự phân chia theo tầm quan
trọng cũng rất rõ ràng : ngạch an ninh gần như lãnh đạo tất cả mọi sinh hoạt chính của
bộ, trong khi ngạch cảnh sát chỉ đảm nhiệm hai cơ sở Tổng cục cảnh sát nhân dân, tức
Tổng cục II , và cục quản lý trại giam, cơ sở giáo dục và trường giáo dưỡng (V26).

Về tổ chức, Bộ Công An có 6 tổng cục và một số cục, vụ trực thuộc bộ.

1. Tổng cục An ninh nhân dân, tức Tổng cục I, trước kia là Tổng cục Phản gián, trực
thuộc ngạch an ninh. Đây là đơn vị an ninh có tuổi đời cao nhất, được thành lập từ
ngày tấn công trụ sở Đại Việt Quốc Dân Đảng ở phố Ôn Như Hầu, Hà Nội, ngày 12-
7-1946. Ở cấp trung ương, những cục trực thuộc tổng cục này mang mã hiệu A, ở cấp
địa phương (cấp tỉnh) là PA. Tổng cục này, gồm một tổng cục trưởng và 8 phó tổng
cục trưởng. Dưới quyền những người này khoảng 40 cục có nhiệm vụ tham mưu
(A12), bảo vệ kinh tế (A17), quản lý xuất nhập cảnh (A18), trinh sát ngoại tuyến
(A21), kỹ thuật nghiệp vụ I và II (A22, A23), điều tra, hay chấp pháp (A24), bảo vệ
văn hóa tư tưởng (A25), hồ sơ nghiệp vụ (A27), chính trị (A28), hậu cần (A29), bảo
vệ chính trị I (A35), bảo vệ chính trị II, tức cục chống gián điệp các nước ASEAN
(A36), bảo vệ chính trị III, tức cục chống gián điệp các nước Tây Âu (A37), bảo vệ
chính trị IV, tức theo dõi địa bàn nông thôn (A38), bảo vệ chính trị Việt (A39), theo
dõi các tổ chức tôn giáo (A41), chống khủng bố, theo dõi các tổ chức phản động trong
và ngoài nước (A42), an ninh Tây Bắc, an ninh Tây Nguyên, an ninh Tây Nam Bộ...

LS Lê Thị Công Nhân được Công An hộ tống

2. Tổng cục cảnh sát nhân dân, còn gọi là Tổng cục II, trực thuộc ngạch cảnh sát.
(Xin đừng lầm với Tổng cục II của Bộ Quốc Phòng, tức Tổng cục tình báo quân đội,
vì Bộ Quốc Phòng cũng có 5 tổng cục : chính trị, kỹ thuật, tình báo, hậu cần và công
nghiệp quốc phòng). Tổng cục này được thành lập ngày 20-7-1963, giữa lúc cuộc
chiến tại miền Nam bắt đầu bùng phát mạnh, nhằm đưa vào miền Nam một số cán bộ
để đào tạo và giữ gìn an ninh tại những vùng vừa mới chiếm. Ở cấp trung ương, mã
hiệu của Tổng cục cảnh sát là C, ở cấp địa phương là PC. Tổng cục này cũng có 8 phó
tổng cục trưởng, cai quản khoảng 30 cục. Đứng đầu là cục tham mưu (C11), kế đến là
những cục chuyên môn như quản lý hành chính và trật tự xã hội (C13), điều tra tội
phạm hình sự (C14), điều tra tội phạm kinh tế (C15), cơ quan điều tra (C16), phòng
chống ma túy (C17), điều tra tham nhũng (C37), khoa học hình sự (C21), hỗ trợ tư
pháp (C22), phòng cháy chữa cháy (C23), giao thông đường thủy (C25), giao thông
đường bộ (C26), nghiệp vụ (C27), chính trị (C28), hậu cần (C29), môi trường (C36),
huấn luyện chó (C32), Interpol...

3. Tổng cục xây dựng lực lượng công an nhân dân, tức Tổng cục III, thuộc ngạch
an ninh, gồm một tổng cục trưởng và ít nhất 5 phó tổng cục trưởng phụ trách khoảng
20 cục. Mã hiệu là X, không có cấp địa phương. Tổng cục này được thành lập ngày
20-6-1981, do nhu cầu đào tạo chính quy gia tăng để cung cấp những cán bộ có trình
dộ văn hóa trong các thành phố tại miền Nam. Đây là tổng cục đào tạo cán bộ công an
cao và trung cấp của Bộ Công An. Trên nguyên tắc, công an nhân dân là một lực
lượng bán quân sự nên bên cạnh các trường đào tạo và huấn luyện sĩ quan công an còn
có các trường đại học và học viện an ninh nhân dân. Trong một quốc gia (dân chủ)
bình thường, những thành phần dân sự ưu tú muốn vào ngành an ninh và cảnh sát phải
qua một cuộc thi tuyển (rất khó khăn) mới được đào tạo tiếp thành những cấp lãnh
đạo, không làm gì có những trường trung học, đại học hay học viện an ninh, công an,
cảnh sát hay phòng cháy chữa cháy. Tổng cục này còn quản lý các công tác chính trị
(X15) qua các phương tiện truyền thông như truyền hình (X8), báo chí, trong đó có
báo Công an Nhân dân và Đoàn kịch nói nhân dân.

4. Tổng cục hậu cần, hay Tổng cục IV, thuộc ngạch an ninh, gồm một tổng cục
trưởng và ít nhất hai phó tổng cục trưởng quản lý khoảng 20 cơ sở. Mã hiệu là H,
không có cấp địa phương. Nhiệm vụ chính của tổng cục này là quản lý các cơ sở hậu
cần của Bộ Công An cấp trung ương như trang bị kỹ thuật, y tế, xây dựng cơ bản và
doanh trại, kho vận, bệnh viện. Tuy không đông đảo như những tổng cục khác nhưng
đây là cục mang lại nhiều quyền lợi nhất cho những người lãnh đạo, vì có liên quan
đến vật tư và trang bị kỹ thuật (để bán ra thị trường).

< b>5. Tổng cục tình báo, hay Tổng cục V, thuộc ngạch an ninh. Mã hiệu là B, không
có cấp địa phương. Mặc dù không có nhiều quyền lợi bằng những tổng cục khác, tổng
cục tình báo là cơ quan cao quý nhất của ngành an ninh, với hơn 50 cơ sở bao gồm
các lãnh vực : chính trị, hậu cần, xử lý tình báo, nghiệp vụ, đào tạo... Lãnh đạo tổng
cục này đều từ cấp tướng trở lên : tổng cục trưởng là một trung tướng, các phó tổng
cục và cục trưởng đều mang quân hàm thiếu tướng.

6. Tổng cục khoa học kỹ thuật và công nghệ, gọi tắt là Tổng cục kỹ thuật hay Tổng
cục VI, thuộc ngạch an ninh với trên dưới 20 cục. Mã hiệu là E, không có cấp địa
phương. Tổng cục này có nhiệm vụ giúp đảng ủy công an trung ương và các cấp lãnh
đạo của bộ quản lý các mặt khoa học, công nghệ và môi trường, chẳng hạn như nghiên
cứu, chế tạo và sản xuất một số vũ khí, phương tiện nghiệp vụ tình báo, điện tử, cơ
khí, hóa sinh, tin học (xây dựng tường lửa, kiểm soát internet, phá hoại bằng virus trên
mạng)...

Ngoài 6 tổng cục trên, Bộ Công An còn quản lý khoảng 30 cơ quan chuyên biệt, mã
hiệu là V, như văn phòng bộ (V11), vụ hợp tác quốc tế (V12), bộ tư lệnh cảnh vệ
(V15), khoa học viễn thông tin học (V17), cơ yếu (V18), pháp chế (V19), kế hoạch tài
chánh (V22), thanh tra (V24), chiến lược khoa học công an (V21), xây dựng phong
trào quần chúng (V28), viện lịch sử và viện bảo tàng công an.

Thấy gì qua cách tổ chức này ?


Theo phác họa vừa dẫn, tổ chức của Bộ Công An quả thật cồng kềnh, chồng chéo và
phức tạp. Điều này thể hiện qua cách đặt tên cho bộ : công an hay nội vụ ? Từ 1953
đến 1975, bộ này mang tên là Bộ Công An ; từ 1975 đến 1998 đổi thành Bộ Nội Vụ,
để rồi từ 1998 trở đi lấy lại tên cũ là Bộ Công An, nhưng bên cạnh đó còn có thêm
một Bộ Nội Vụ, không liên quan gì đến Bộ Công An.

Về cách làm việc, Bộ Công An được chia ra làm hai ngạch : an ninh và cảnh sát, đôi
khi đối chọi lẫn nhau. An ninh, tức Tổng cục I, kiểm soát gần như tất cả mọi sinh hoạt
của xã hội dân sự trong bóng tối, nhất cử nhất động của mỗi công dân đều được ghi
nhận. Cảnh sát đảm nhiệm phần nổi ngoài xã hội, trong các công tác giữ gìn an ninh
và trật tự công cộng. Nhân viên, cán bộ làm việc trong hai ngạch này ít khi thuận hòa
với nhau, vì cán bộ trong ngạch an ninh luôn tự cho mình cao hơn ngạch công an.

Tranh chấp này không phải mới đây, nó đã có ngay từ khi lực lượng công an vừa được
thành lập ngày 19-8-1945, qua các tên gọi khác nhau : Sở Liêm Phóng tại miền Bắc,
Sở Trinh Sát tại miền Trung và Quốc Gia Tự Vệ Cuộc tại miền Nam, để cuối cùng
mang tên Việt Nam công an vụ ngày 21-2-1946, với cấp trung ương là Nha, cấp miền
(kỳ) là Sở và cấp tỉnh, thành phố là Ty. Vài năm sau, ngày 31-12-1951, ngạch an ninh
chính thức ra đời với tên gọi "ban chấp pháp" (tiền thân của lực lượng an ninh điều tra
ngày nay), trực thuộc Ty bảo vệ chính trị của Nha công an trung ương. Từ 1981, sau
những tranh chấp nội bộ, Cục chấp pháp được tách ra làm hai, một mang tên Cục an
ninh điều tra thuộc Tổng cục an ninh và một mang tên Cục cảnh sát điều tra thuộc
Tổng cục cảnh sát.

Sự cồng kềnh, chồng chéo và đối chọi lẫn nhau thể hiện trước hết qua hệ thống hàng
dọc, từ trung ương xuống địa phương. Một thí dụ : cơ quan cảnh sát điều tra tội phạm
về trật tự xã hội ở cấp trung ương, gọi tắt là Cục cảnh sát hình sự (C14), ở cấp tỉnh và
thành phố là Sở cảnh sát hình sự (PC14), ở cấp huyện cũng có những đơn vị tương
ứng, gọi là đội nhưng không có mã hiệu riêng. Bên cạnh nghiệp vụ điều tra này có rất
nhiều nghiệp vụ điều tra khác mà chức năng cũng tương tự như các Cục cảnh sát quản
lý kinh tế (C15), Cơ quan cảnh sát điều tra (C16), Cục cảnh sát bài trừ ma túy (C17),
Cục cảnh sát điều tra tham nhũng (C37). Chỉ riêng bộ phận điều tra này thôi, số người
trực thuộc đã lên đến hàng chục ngàn, trải rộng trên cả nước. Ngạch an ninh cũng
không chịu thua. Cứ lấy thí dụ công tác an ninh điều tra, ở cấp trung ương (bộ) nó
được gọi là cục an ninh điều tra, ở cấp tỉnh là đội điều tra, cấp huyện là tổ điều tra. Số
người được tuyển dụng chỉ để làm công tác điều tra không thôi cũng đã trên vài chục
ngàn từ trung ương xuống địa phương.

Về hàng ngang, nếu quan sát kỹ, mỗi tổng cục đều có một số cơ quan có chức năng
giống nhau như cục tham mưu, cục chính trị, cục điều tra, cục hậu cần. Điều này cho
thấy các lực lượng công an và an ninh không tin tưởng lẫn nhau, do đó mỗi tổng cục
phải tuyển dụng riêng những người thân cận để làm cùng một công tác tương tự. Đây
là một hình thức lạm dụng quyền thế của mỗi lãnh chúa để đưa người thân vào ngành
công an, một phí phạm ngân sách vì một số người không có công tác làm phe phẩy
cho cấp trên, mua bán vật tư và chức vụ để ăn hoa hồng.

Về kỹ thuật tổ chức, Bộ Công An Việt Nam hoàn toàn dựa theo mô hình ngành an
ninh Liên Xô và các nước cộng sản khác. Những chế độ độc tài toàn trị thường rất
nhút nhát, bất cứ ai và bất cứ cái gì cũng có thể làm họ sợ. Mục đích của ngành an
ninh trong các chế độ này là kiểm soát tối đa mọi hoạt động của người dân để tự trấn
an mình. Bạo lực được dùng để khống chế dân chúng trong nước nhiều hơn là để
chống ngoại xâm.

Hiện nay, Tổng cục I, tức Tổng cục phản gián, gần như nắm giữ toàn bộ quyền lực và
quyền lợi trong bộ ; để giữ mãi nguồn lợi này, họ khép chặt cánh cửa ra vào và chỉ mở
ra cho những thân tín. Nói cách khác, đây là một nhà nước trong một nhà nước. Tất cả
những tổng cục khác được thành lập ra chỉ để phục vụ hoặc thi hành chỉ thị của Tổng
cục I. Mục đích chính của tổng cục này là bảo vệ chế độ chứ không phải bảo vệ sự an
toàn và hạnh phúc của nhân dân ; hai nhiệm vụ sau cùng này thuộc về quân đội và
cảnh sát. Không những thế, tổng cục này còn theo dõi cả những người đang ở trong
guồng máy đảng, trừ quân đội. Bất cứ ai, trong nội bộ đảng và ngoài xã hội, cũng đều
là đối tượng theo dõi của tổng cục này, và một khi bị Tổng cục I này chiếu cố thì "đời
hết vui". Quyền lực của Tổng cục này tuy không lộ liễu nhưng áp đảo tất cả.

Vì không còn chiến tranh và hòa bình đã được tái lập, để xác minh sự hiện hữu của
mình, mỗi ngành, mỗi đơn vị chức năng của Tổng cục I thường đẻ ra những vụ án giả
để lập thành tích. Người ta còn nhớ ngay sau khi vừa tiến chiếm miền Nam, từ 1975
đến 1982, các tổ bảo vệ chính trị thuộc Tổng cục I lập ra rất nhiều tổ chức kháng chiến
giả để dụ dỗ và gài bẫy những người nhẹ dạ vô tròng để xử tội, nhiều người đã bị xử
bắn. Cũng trong thời gian đó, các tổ bảo vệ kinh tế tổ chức những chuyến buôn lậu
dọc biên giới trên đất liền và các cửa biển để gài bắt những con buôn khờ khạo, rất
nhiều người bị tán gia bại sản, một số khác vẫn còn bị giam cho tới ngày nay.

Nhưng từ 1986 đến nay, trước tình trạng phát triển kinh tế xô bồ, những lực lượng bảo
vệ kinh tế có cuộc sống rất thoải mái do tham nhũng mang lại. Những đơn vị khác thì
rất đói, đặc biệt là các ngành bảo vệ chính trị, văn hóa tư tưởng và tôn giáo thuộc
Tổng cục I. Để lập thành tích, họ nhắm vào những nhà đấu tranh dân chủ ôn hòa,
những tu sĩ đòi quyền tự do tôn giáo, những sắc tộc thiểu số đòi quyền sống. Trấn áp
những con người hiền hòa này an toàn hơn chống những lực lượng tội phạm có vũ
trang, những băng đảng xã hội đen hay quân buôn lậu.

Trong suốt thời gian từ 1983 tới nay, nhiều khuôn mặt dân chủ và tôn giáo ôn hòa đã
bị kết những án phạt rất nặng về những tội danh mà họ không hề vi phạm hay không
hề biết tới : phản bội tổ quốc, gián điệp, phản động, lật đổ nhà nước, khủng bố, lạm
dụng các quyền tự do dân chủ, nói xấu nhà nước, xúi giục người ra nước ngoài, v.v.
Nhiều người đã bị xử bắn, một số đã chết trong tù. Những người được trả tự do không
những bị quản lý hành chánh mà còn bị cô lập kinh tế. Tình trạng quấy nhiễu, hăm
dọa, làm áp lực (chantage), bắt bớ, giam cầm, đánh đập, thư nặc danh, thư tố cáo, giả
mạo chữ ký, giả mạo thư, đấu tố... những người đấu tranh cho dân chủ và đòi quyền
sống chưa có dấu hiệu suy giảm.

Những sắc tộc thiểu số cũng không bị bỏ quên. Cuộc xua đuổi người Hoa trong những
năm 1979-1980 do Tổng cục I chủ động cùng với sự hợp tác của các đơn vị công an
trực thuộc tại các địa phương. Gần đây hơn, những sắc tộc sinh sống trên các vùng sâu
và vùng xa đòi quyền sống và tự do tôn giáo cũng bị các lực lượng an ninh thuộc
Tổng cục I đàn áp thẳng tay và truy lùng sang tận nước ngoài, như đã từng xảy ra đối
với những nhóm người Thượng trên Tây Nguyên, người Hmong vùng Tây Bắc và
người Khmer trên đồng bằng sông Cửu Long.

Suy nghĩ về một chính sách an ninh mới

Qua cách tổ chức của Bộ Công An, một người có óc suy luận bình thường phải đặt ra
câu hỏi : một quốc gia không có chiến tranh, không bị ngoại bang đe dọa, không có
nội chiến, không có nạn khủng bố và cũng không có những cuộc chống đối bạo động,
tại sao cần phải duy trì một bộ máy công an kềnh càng và đồ sộ đến thế ? Mà không
phải chỉ mới đây, nó đã được duy trì từ hơn 30 năm qua và chắc chắn sẽ còn kéo dài
nếu chế độ này không thay đổi.
Câu trả lời phải là : không cần và phải thay đổi và cải tổ cơ cấu của ngành an ninh
hiện nay. Sự thay đổi này chắc chắn không do đảng cộng sản thực hiện, không ai dại
dột tự treo cổ mình, trừ khi muốn tự tử. Chỉ còn lại những người dân chủ. Chính trong
giai đoạn còn ở thế đối lập chúng ta mới có thì giờ đầu tư suy nghĩ vào những vấn đề
lớn của đất nước. Giữ gìn an ninh cho quốc gia và cho nhân dân phải là ưu tiên của bất
cứ chính quyền có trách nhiệm.

Tại Việt Nam, guồng máy an ninh vì những lý tưởng ngoại lai đã để lại nhiều kỷ niệm
đau buồn trong lòng rất nhiều nạn nhân trên cả hai miền. Chính vì thế nó sẽ không còn
chỗ đứng trong một xã hội dân chủ tương lai. Trước khi dự luật hòa giải dân tộc được
ban hành, cải tổ lại guồng máy an ninh là một bắt buộc.
Cải tổ đầu tiên là phục hồi chức năng của Bộ Nội Vụ là định chế bảo vệ và giữ gìn an
ninh, trật tự xã hội. Bộ này chỉ cần có ba cơ quan chính là : Tổng cục an ninh, Tổng
cục cảnh sát và Tổng cục hành chánh, với ba thứ trưởng chịu trách nhiệm từng tổng
cục. Tổng cục an ninh có chức năng hợp tác với các cơ quan an ninh quốc tế như
Inperpol (Icpo), ngăn ngừa và phòng chống gián điệp nước ngoài, khủng bố quốc tế,
rửa tiền bẩn. Tổng cục cảnh sát có nhiệm vụ ngăn ngừa và phòng chống tội phạm hình
sự, kinh tế, tham nhũng, ma túy, mafia, buôn người, trật tự giao thông, phòng cháy
chữa cháy, bảo vệ môi trường. Tổng cục hành chánh phụ trách những chức năng nội
bộ còn lại của bộ là đào tạo, nghiên cứu pháp lý, nghiên cứu kỹ thuật, viễn thông, tin
học, hậu cần, vận tải, quản lý trại giam. Văn phòng của Bộ Nội Vụ phải gồm những
người có trình độ chuyên môn cao. Các trường đại học an ninh hay công an phải
chuyển sang dân sự, chỉ lưu lại những trường đào tạo công an và cảnh sát ở cấp thừa
hành, các cấp cao hơn phải được tuyển chọn qua các cuộc thi tuyển để sau đó bồi
dưỡng nghiệp vụ cao hơn theo từng giai đoạn.

Cải tổ thứ hai là dân sự hóa guồng máy an ninh. Việt Nam không bị đe dọa chiến
tranh, không có nội chiến, không có khủng bố và cũng không có những cuộc phản
kháng bạo động, do đó không có nhu cầu vũ trang hóa lực lượng công an và an ninh.
Những qui chiếu về công an là "lực lượng vũ trang nhân dân" trên hiến pháp cần phải
tu chính. Cấp bậc những người lãnh đạo ngành an ninh cũng phải được dân sự hóa
như giám đốc, trưởng phòng, v.v.

Cải tổ thứ ba là hiền hòa hóa guồng máy an ninh. Công an phải là bạn dân chứ không
phải là người kiểm soát, khống chế nhân dân. Tổng cục I phải bị giải tán, vì nhiệm vụ
chính của tổng cục này là bảo vệ chế độ độc tài đảng trị chứ không phải bảo vệ dân
chúng. Giữ lại tổng cục này, cho dù có đổi sang tên khác, không mang lại ích gì trong
một xã hội tự do, không những thế còn mang tiếng vi phạm nhân quyền. Không cần
duy trì những cục an ninh, bảo vệ chính trị trong thành phố, tại nông thôn, nơi cư trú
của người sắc tộc và các tổ chức tôn giáo. Riêng công tác phòng chống gián điệp nước
ngoài cần được duy trì nhưng có thể chuyển qua Tổng cục II, tức Tổng cục cảnh sát,
mà trách nhiệm vụ chính là ngăn ngừa, điều tra tội phạm về hình sự, buôn ma túy,
mafia, buôn người, tham nhũng, v.v. Những thành phần ưu tú của Tổng cục I, hoặc trở
về đời sống dân sự, hoặc được chuyển sang công tác chuyên môn khác ở ba tổng cục
mới.

Giải tỏa được gánh nặng Tổng cục I này, guồng máy an ninh của nước Việt Nam dân
chủ tương lai sẽ nhẹ nhàng và linh động hơn, ít tốn kém cho ngân sách và được thế
giới tự do kính trọng. Chính sách an ninh trật tự cũng sẽ được cập nhật hóa thường
xuyên và trình độ nghiệp vụ của nhân viên trong các ngành chuyên môn cũng sẽ được
nâng cấp, ngang tầm với những đồng nghiệp các nước tiên tiến.
Nguyễn Văn Huy

Suy nghĩ về một chính sách quốc phòng mới


cho Việt Nam
Nguyễn Văn Huy

Chúng ta vẫn là một quốc gia kém phát triển. Vì nghèo nên danh dự dân tộc bị các
quốc gia Đông Á chà đạp, vì yếu nên sự toàn vẹn lãnh thổ bị Trung Quốc lấn áp. Đã
đến lúc phải thay đổi, và thay đổi gấp!…

Bối cảnh chung tại Đông Á và Đông Nam Á

Từ sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt (đầu thập niên 1990), đe dọa chiến tranh giữa
Đông và Tây không còn nữa, thế giới phương Tây vui sống trong hòa bình và thịnh
vượng, nhưng thế giới phương Đông vẫn tiếp tục sống trong lo âu và bất ổn. Tại Đông
Á và Đông Nam Á, những tranh chấp về ảnh hưởng và biên giới với Trung Quốc đã
không những còn nguyên vẹn mà còn có khuynh hướng gia tăng.

Sự vắng mặt của cựu Liên Xô, bây giờ là Nga, và sự tái phối trí lại lực lượng quân sự
Mỹ tại Châu Á và Thái Bình Dương đã là cơ hội để Trung Quốc xuất hiện như một
cường quốc quân sự mới trong khu vực. Lợi dụng những khó khăn về tài chánh của
Nga trong giai đoạn chuyển tiếp, từ chế độ độc tài cộng sản sang chế độ dân chủ,
Trung Quốc đã mua lại của Nga gần như toàn bộ các loại vũ khí chiến lược mà Nga
không muốn duy trì trên lãnh thổ các cộng hòa cũ : từ các loại máy bay tiếp tế lớn Il-
76, các chiến đấu cơ hiện đại Su-27, MiG-29 và 31, các oanh tạc cơ chiến lược siêu
thanh Tu-22M, đến hàng không mẫu hạm Varyag (67.500 tấn của Ukraine), các tàu hộ
tống cấp Kiev (38.000 tấn), các tàu ngầm chạy bằng diesel cấp Kilo… Không những
thế, Trung Quốc còn được Nga nhượng quyền sản xuất chiến đấu cơ Su-27, tàu ngầm
tấn công và nhiều loại vũ khí chiến thuật và chiến lược hiện đại khác, đặc biệt là kỹ
thuật phóng hỏa tiễn tìm nhiệt và hệ thống dò tìm trên không và dưới biển. Từ một
quốc gia lạc hậu quay lưng lại với biển cả, sau 15 năm cố gắng Trung Quốc đang trở
thành một cường quốc quân sự khu vực và là một đe dọa thường trực cho những quốc
gia láng giềng có nhiều tiềm năng khoáng sản dưới lòng biển và dưới đất mà Trung
Quốc đang muốn chiếm hữu.

Bên cạnh đó, Bắc Triều Tiên không những đã tăng cường thử nghiệm những loại vũ
khí giết người hàng loạt (nguyên tử, vi trùng và chất độc) mà còn xuất khẩu những
loại hỏa tiễn tầm gần và tầm trung (Scud B và C) sang những nước chống Mỹ và
chống văn hóa phương Tây.

Trước những đe dọa quân sự của hai quốc gia cộng sản khu vực này, những quốc gia
thuộc khối thân Mỹ như Nhật Bản, Nam Hàn, Thái Lan và Singapore đã không ngừng
gia tăng kinh phí quốc phòng để đối phó trước những đe dọa mới. Cuộc chạy đua võ
trang này hiện nay đang lan rộng sang cả những quốc gia kém phát triển hơn, như
Philippines, Việt Nam, Miến Điện và Lào, và có thể còn sẽ kéo dài trong một thời
gian dài nữa.

Bối cảnh Việt Nam

Trước những cố gắng canh tân lực lượng quốc phòng trong khu vực này, Việt Nam đã
chuẩn bị như thế nào ?

Ngoài việc rút quân ra khỏi Campuchia năm 1992 và giảm quân số từ 842.000 người
năm 1989 xuống còn 484.000 người như hiện nay, chính quyền cộng sản Việt Nam đã
không làm gì cả để thích nghi hóa với tình thế mới. Từ 1987 đến 1991, Việt Nam chỉ
bỏ ra mỗi năm khoảng 6 triệu USD để bảo trì những loại vũ khí hiện có, thấp hơn cả
Lào (quốc gia nghèo hơn Việt Nam) dám chi ra 133 triệu USD mỗi năm để đổi mới
kho vũ khí. Chỉ từ sau khi mở cửa đón nhận đầu tư nước ngoài năm 1992, sinh hoạt
kinh tế trong nước bắt đầu phát triển, chi phí quốc phòng cũng đã nhờ đó được tăng
lên : 440 triệu USD (16% ngân sách) năm 1994 và tăng đều hàng năm, chiếm từ 12
đến 20% ngân sách. Năm 2005 chi phí quốc phòng của Việt Nam đã lên đến 2,5 tỷ
USD. Ngoài lý do phải thay thế kho vũ khí đã bị hư hao quá nhiều, chi phí quốc
phòng của Việt Nam chỉ thực sự gia tăng từ sau năm 2000, không phải vì chiến lược
phòng thủ mà vì nhu cầu phát triển du lịch ngoài khơi. Lực lượng hải quân và không
quân đã được trang bị thêm những phương tiện mới để bảo vệ nguồn lợi này.

Về chiến lược, từ trước đến nay chính sách quốc phòng của Việt Nam nghiêng về
đánh bộ. Trong số gần 500.000 quân nhân tại ngũ, hơn 2/3 là bộ binh. Không quân
(20.000 người) và hải quân (chưa tới 40.000 người) chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ so
với một đất nước có gần 3.500 km bờ biển và một hải phận kéo dài ra biển Đông hơn
700 km với một diện tích biển rộng 329.000 km2. Sự bất cân đối này cho đến nay vẫn
chưa được điều chỉnh một cách hợp lý.

Nhìn lại kho vũ khí của quân đội cộng sản Việt Nam, tất cả đều rất cũ kỹ và lạc hậu so
với các quốc gia khác trong vùng. Vì thiếu ngân sách, những quân cụ bị hư hõng được
tháo gỡ làm phụ tùng thay thế như xe vận tải, xe tăng, đại pháo, tàu thuyền và máy
bay, hay bán thành sắt vụn.
Sau đây là một vài con số (xin lưu ý : vì không thể kiểm chứng một cách chính xác,
những số liệu này chỉ có giá trị tương đối nhưng cũng không quá xa sự thật).

- Về không quân, trên lý thuyết Việt Nam có 175 chiến đấu cơ Mig-21, 23 Mig-23, 70
oanh tạc cơ Su-17 và 30 Su-22, 20 vận tải cơ cỡ nhỏ An-2, 12 vận tải cơ cỡ trung An-
24 và 10 vận tải cơ C-130 của Mỹ (để lại sau 1975). Nhờ có rất nhiều phi trường nhỏ
ở khắp nơi, Việt Nam là quốc gia có nhiều trực thăng nhất Đông Nam Á : 60 trực
thăng vận tải cỡ trung có võ trang Mi-8, 35 trực thăng tấn công Mi-24, 30 trực thăng
thường dụng Mi-4, 10 trực thăng vận tải hạng nặng Mi-6, 15 trực thăng chiến đấu
ngoài khơi Ka-25. Tất cả những trực thăng này đều đã cao tuổi, một số không còn bay
được nữa và được dùng để làm phụ tùng thay thế. Đầu năm 2000, không quân Việt
Nam được trang bị thêm vài trực thăng tấn công loại mới của Nga Mi-14 và Mi-28,
đặc biệt là vài trực thăng tấn công của Mỹ mua lại từ Đội tự vệ Nhật, và một vài trực
thăng không người lái của hãng Yamaha.

- Về hải quân, các loại tàu chiến của Việt Nam đều cũ kĩ với một tuổi đời khá cao
(trên 50 tuổi) và rất thiếu trang bị : 5 khu trục hạm cỡ nhỏ của Nga và Mỹ (từ 1.180
tấn đến 2.800 tấn), 8 tiền tiêu hạm loại nhỏ, 11 tàu phá mìn, gần 50 tàu đổ bộ đủ loại
của Nga và Mỹ (trước 1975).

- Sức mạnh mũi nhọn của quân đội Việt Nam là bộ binh với hơn 70 sư đoàn (khoảng
450.000 quân), trong đó có gần 60 sư đoàn chính quy, hơn 10 sư đoàn xây dựng, 7 sư
đoàn công binh, một sư đoàn phòng không, một sư đoàn vận tải và một sư đoàn thiết
giáp. (Số lượng sư đoàn cũng chỉ có giá trị tương đối, vì sự phân chia quân số trong
quân đội cộng sản rất khó tính với các cấp quân số như quân đoàn, binh đoàn, sư
đoàn, trung đoàn, liên đội... Binh số một sư đoàn Việt Nam khoảng từ 5.000 đến 6.000
người). Về trang bị nặng, bộ binh có 1.500 chiến xa đủ loại, 1.500 xe bọc sắt, 1.300
đại pháo dã chiến, 4.000 khẩu cao xạ và vài trăm hỏa tiễn đối không đủ loại.

- Về huấn luyện, quân đội cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục được đào tạo trong môi
trường ý thức hệ đấu tranh giai cấp có từ thời chống Pháp (1945-1954) và thời tiến
chiếm miền Nam (1954-1975). Những lý thuyết về chủ nghĩa Mác-Lênin, đấu tranh
cách mạng (lấy bạo lực cách mạng làm phương thức cơ bản để đạt mục đích, lấy chiến
tranh nhân dân làm phương tiện đấu tranh giành chính quyền), chiến tranh nhân dân
(toàn dân, toàn diện, tự lực cánh sinh), chiến tranh trường kỳ, chiến tranh du kích,
chiến tranh chính quy và ba hình thức tác chiến (đánh vận động, đánh trận địa và đánh
du kích) vẫn còn tiếp tục.

- Về tổ chức, lực lượng võ trang hiện nay gồm ba thứ quân : chính qui, địa phương và
du kích, tất cả đều đặt dưới quyền lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện của Đảng
Cộng Sản Việt Nam. Sinh hoạt chính trị trong quân ngũ là chính yếu, những chức vụ
chỉ huy cao cấp trong quân đội đều là đảng viên cộng sản.

Nói chung, với những trang bị và tổ chức như hiện nay quân đội Việt Nam không
những đang đứng bên lề cuộc tiến hóa - cả về huấn luyện lẫn tổ chức quân sự so với
các quốc gia khác trong khu vực - mà còn bị khinh thường - so với những hy sinh và
hào quang mà chính quyền cộng sản thường tự hào. Tình trạng này không thể tiếp tục!

Về một chính sách quốc phòng mới


Bối cảnh sinh hoạt chính trị và kinh tế của thế giới hiện nay đã thay đổi. Không còn đe
dọa chiến tranh toàn cầu với những vũ khí giết người hàng loạt, không còn tình trạng
quốc gia này đơn phương hiếp đáp quốc gia kia. Dư luận thế giới và những định chế
quốc tế là những đảm bảo cho hòa bình và ổn định chung. Sự vinh nhục và hơn thua
giữa những quốc gia, nếu có, tập trung chủ yếu vào mức độ thụ hưởng phúc lợi do sự
phồn vinh mang lại, vào ý kiến và sáng kiến, nghĩa là phải có tự do dân chủ để mỗi
người và mọi người phát huy tối đa khả năng của mình để đem lại phúc lợi cho mình
và cho đất nước.

Việt Nam hiện nay chưa có may mắn đó. Chúng ta vẫn là một quốc gia kém phát triển.
Vì nghèo nên danh dự dân tộc bị các quốc gia Đông Á chà đạp, vì yếu nên sự toàn vẹn
lãnh thổ bị Trung Quốc lấn áp. Đã đến lúc phải thay đổi, và thay đổi gấp !

Thay đổi đầu tiên là chế độ chính trị. Phải có một chế độ dân chủ thực sự, trong đó các
quyền tự do của con người được khuyến khích tối đa để phục hồi lại sự năng động của
một dân tộc muốn vươn lên. Hiến pháp cũng phải thay đổi, những qui chiếu về đảng
cộng sản và ý thức hệ cộng sản phải loại ra khỏi nội dung của bản hiến pháp mới,
trong đó quyền lãnh đạo quốc gia thuộc về toàn dân, qua các cuộc bầu cử thật sự tự do
và lương thiện.

Trong một chế độ dân chủ, quân đội không sinh hoạt chính trị và không trực thuộc
một đảng phái nào, nhiệm vụ của quân đội là bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, chống lại
mọi đe dọa hay tấn công từ bên ngoài. Về tổ chức, quân đội trực thuộc hành pháp,
tổng tư lệnh quân đội và bộ trưởng quốc phòng phải xuất phát từ những người dân cử.
Các tư lệnh vùng phải do thủ tướng và bộ trưởng quốc phòng chỉ định hay đề cử và
phải được quốc hội thông qua mới có hiệu lực. Những quân nhân có tài năng và thành
tích phải được thăng thưởng đúng với những đóng góp mang lại.

Để duy trì một nền quốc phòng độc lập, phải tránh mọi qui chiếu với Trung Quốc,
tránh sử dụng vũ khí có cùng xuất xứ với Trung Quốc. Chính quyền phải thành lập
những trung tâm nghiên cứu quốc phòng để đưa ra những đề nghị thích hợp với sự
năng động của quân đội, phối hợp nghiên cứu quốc phòng với các tổ chức kỹ thuật
dân sự để nâng cấp và tinh khôn hóa kho vũ khí hiện có.

Để có một quân đội hùng mạnh, mức sống của người lính phải được nâng cao, nghĩa
là phải có một đồng lương xứng đáng để không phải bận tâm với sinh kế. Nguyên tắc
tự lực cánh sinh phải bị hủy bỏ vì đó là môi trường nuôi dưỡng kiêu binh và mafia,
làm mất đoàn kết nội bộ và tinh thần chiến đấu, biến các xí nghiệp quân đội thành xí
nghiệp dân sự. Trình độ kiến thức của mỗi quân nhân phải liên tục được nâng cao.
Những sĩ quan phải được tuyển chọn qua các cuộc thi tuyển, sử dụng thông thạo Anh
ngữ, phải có trình độ kỹ sư khi tốt nghiệp.

Do điều kiện địa lý đặc biệt của Việt Nam, bộ binh vẫn là lực lượng chủ yếu với ba
thứ quân : chủ lực, địa phương và du kích, nhưng không nên lưu giữ quá nhiều quân
số như hiện nay. Cần xây dựng một lực lượng triển khai nhanh (thủy không lục chiến)
để tham gia tập trận với các quốc gia bạn trong vùng. Tăng cường thêm phương tiện
hiện đại về tin học và viễn thông cho hai đặc khu quân sự phía Tây Thanh Hóa và phía
Tây Kontum-Pleiku để tiếp tục là những trung tâm chỉ huy khi có biến.

Tuy nhiên nỗ lực quốc phòng chính phải tập trung vào hải quân và không quân. Hai
lực lượng này không cần đông và cũng không cần nhiều, nhưng phải rất hiệu lực và đa
năng. Phải chú ý xây dựng một lực lượng đặc nhiệïm ngoài khơi, một phi đội trực
thăng tấn công và những đơn vị phòng không hữu hiệu.

Cần quan hệ mật thiết với các quốc gia phương Tây để gia công và sản xuất những vũ
khí thông dụng, từ đó học hỏi những kỹ thuật cao và tự chế những vũ khí mới, đặc
biệt là những loại vũ khí tinh khôn có thể bay xa và tự đi tìm mục tiêu. Kêu gọi Nhật
Bản và phương Tây, thương lượng với Singapore để biến vịnh Cam Ranh thành công
trường sửa chữa và đóng ráp tàu dân sự và quân sự, đặc biệt là các loại tàu phóng ngư
lôi và tàu ngầm không người lái và bỏ túi.

Nguyễn Văn Huy

You might also like