Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 103

Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh

(Sự hình thành một chọn lựa)


26.1.2007
Lữ Phương

1 2 3 4 5 6 7

Thay cho lời nói đầu

Một số chương rời của cuốn sách mỏng này đã lần lượt xuất hiện trên tạp chí Thư Nhà ở
Sài Gòn vào những năm 2001-2002 – một tạp chí ở Úc, gửi về Việt Nam đã được một số
thân hữu tại Sài Gòn nhân ra nhiều bản – sau đó đã được tập hợp lại dưới nhan đề Từ
Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh (với cái tên phụ là “Sự hình thành một chọn lựa”),
sao chụp nhiều đợt, phổ biến như một tài liệu chuyền tay được nhiều người tìm đọc.

Được đưa lên mạng hải ngoại để dội về nội địa, cuốn sách đã được xem là một ấn phẩm
chứa đựng một thứ nội dung chưa từng có đối với cái không gian chữ nghĩa trong nước:
lần đầu tiên đã xuất hiện sự phê phán một cách công khai và có hệ thống điều thường
được gọi là sự “chọn lựa xã hội chủ nghĩa” mà vị lĩnh tụ tối cao của chế độ đương quyền,
là ông Hồ Chí Minh, đã mang về cho Việt Nam trong quá trình chống chủ nghĩa thực
dân.

Do đã quan tâm đến đề tài này từ lâu (với một loạt bài viết về chủ nghĩa Marx) tôi có
nhiều lần nhắc đến Hồ Chí Minh, nhưng ý định tìm hiểu sâu hơn, đầy đủ hơn về quá trình
hình thành nên sự “chọn lựa” nói trên của ông – từ những ngày sang Pháp (1911) cho đến
ngày ông về nước (1941) – chỉ nẩy ra với tôi khi thấy những nhà ý thức hệ của Đảng
Cộng sản Việt Nam bắt đầu nói rất nhiều đến “tư tưởng Hồ Chí Minh” để định hướng cho
con đường phát triển của đất nước, sau khi Liên Xô, Đông Âu sụp đổ.

Đối với người Việt Nam trong nước lẫn ngoài nước, ai cũng biết đây là một vấn đề gai
góc, rất dễ gây ngộ nhận, chia rẽ. Và lý do thì quá rõ: tuy Hồ Chí Minh đã trở thành một
nhân vật của quá khứ rồi, nhưng cái di sản nhiều mặt mà ông để lại cho những người còn
sống thì vẫn còn nguyên, dưới những sắc thái ngược nhau như lửa với nước. Sự sùng bái,
thần phục tồn tại song song với những nguyền rủa, căm hờn, thái độ nào cũng diễn ra
dưới những trạng thái cực đoan, dường như ngày càng nặng nề hơn.

Cảnh giác không để rơi vào những tranh cãi nguy hiểm đó, tôi đã thử học theo phương
pháp quen thuộc của những người theo trường phái hàn lâm: để cho những tài liệu nghiên
cứu lên tiếng thay cho tư biện. Những tài liệu ấy, hầu hết là thứ cấp, và cũng chẳng thấm
vào đâu, nhưng khi phê bình, đối chiếu, so sánh những gì tìm được, tôi nhận ra được tính
hiện thực rất hiển nhiên của một số sự kiện có thể đính chính được khá nhiều sai lạc về
cuộc đời và tư tưởng của Hồ Chí Minh thường được lưu truyền từ trước đến nay.

Những đính chính ấy bạn đọc sẽ tìm thấy trong cuốn sách mỏng này. Không phải chỉ là
những chi tiết thuộc về cuộc sống riêng tư, những tình huống thăng trầm trong hoạt động
của ông mà quan trọng hơn hết là những kết quả tinh thần của cuộc dấn thân mà ông đã
đem về cho đất nước. Tôi hy vọng rằng những ý kiến mà tôi đưa ra để tìm câu trả lời cho
những chủ đề rốt ráo ấy vẫn có khả năng điều chỉnh lại một số điều đã bị huyễn hoặc về
những cái gọi là “công tội” mà người ta đã viết đã nói về sự nghiệp của ông.

Tôi hoàn toàn ý thức được những giới hạn trong công việc nhỏ bé của mình. Việc nghiên
cứu nghiêm chỉnh về vai trò lịch sử của Hồ Chí Minh vẫn đang tiếp tục trong giới nghiên
cứu. Với những tư liệu tập hợp được từ những nguồn đã có, tôi chỉ mong tìm ra một cách
nhìn hiện thực hơn về một nhân vật đã từng đẩy tôi vào những vòng xoáy lịch sử do ông
tạo ra, không phải bằng sự bình thản của lý tính mà bằng những sôi bỏng của đam mê và
huyền thoại. Ý định đơn giản này nếu được bạn đọc nhận ra qua những trang viết về nhân
vật ấy, đối với tôi, thật sự là một điều mong ước.

Những dòng “thay cho lời nói đầu” này tôi viết riêng cho lần “tái bản” cuốn Từ Nguyễn
Tất Thành đến Hồ Chí Minh gửi đăng trên talawas. Một số hiệu đính, sửa chữa cũng đã
được thực hiện, trong đó có thêm vào hai chương “Phụ lục”, vốn cũng là những bài rời
liên hệ đến cùng một chủ đề.

Sài Gòn, 22.1.2007

Lữ Phương

Chương 1
Ra đi “tìm đường cứu nước”

Những ai quan tâm đến tiểu sử của Hồ Chí Minh đều biết cuốn Những mẩu chuyện về đời
hoạt động của Hồ Chủ tịch của Trần Dân Tiên, viết từ năm 1948, đến nay in đi in lại đã
có cả chục lần rồi. Cuốn sách này đã đóng vai trò hết sức đặc biệt đối với giới nghiên
cứu, giảng dạy về Hồ Chí Minh trong chế độ cộng sản Việt Nam từ đó đến nay: nó được
mọi người coi như là tác phẩm do chính Hồ Chí Minh viết về mình dưới bút danh Trần
Dân Tiên, một tài liệu được tác giả giới thiệu như một “tiểu sử trung thành, đúng đắn,
sinh động, không thêu dệt, không bày đặt” [1] . Cuốn sách vì thế đã thành một nguồn tham
khảo căn bản, quan trọng nhất cho tất cả những công trình biên khảo về Hồ Chí Minh:
các sự kiện về cuộc đời hoạt động của ông đã được đương nhiên coi là chính xác, không
thể nói khác, nói ngược lại.

Tuy vậy, đọc kỹ sẽ thấy đó không phải là một “tiểu sử” đúng nghĩa. Nó được thể hiện
theo hình thức một thứ truyện kể [2] , gián tiếp mượn người khác nói về mình, và chỉ nói
những gì tác giả cho là cần thiết, còn những điều rất quan trọng khác thì lại được cố tình
giấu đi bằng kỹ thuật gọi là “biệt tích” không rõ lý do của nhân vật chính. Nói chung là
một cuốn sách rất gần với thể loại gọi là truyện ký “người thật việc thật”, chứa đựng khá
nhiều những yếu tố hư cấu để tuyên truyền, rất tiêu biểu trong nền văn chương tuyên
huấn cách mạng, vì vậy những sự kiện ở đây đã không còn hoàn toàn là những cái mà
chúng ta thường gọi là khách quan, sử học nữa.

Muốn có được cái nhìn trung thực hơn về các sự kiện trong đời hoạt động của Hồ Chí
Minh trong cuốn sách nói trên, thiết tưởng chúng ta không có cách nào khác là đối chiếu
chúng với những nguồn tài liệu khác, những nguồn tài liệu này đã được giới nghiên cứu
phát hiện khá phong phú trong suốt mấy chục năm qua.

Chúng ta hãy dừng lại ở một thời điểm khá quan trọng đối với cuộc đời cách mạng của
Hồ Chí Minh – đó là cuộc bỏ nước sang Pháp của ông năm 1911 – để thử làm công việc
đó.

“Phê phán” trước khi ra đi?

Trước hết, chúng ta hãy đọc lại đoạn văn nói về sự kiện ra đi nói trên trong “quyển
truyện” của Trần Dân Tiên. Khi còn là người thiếu niên mười lăm tuổi, Hồ Chí Minh

“đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ, Anh
đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Anh đã tham gia công tác bí mật,
nhận công việc liên lạc. Anh khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám,
Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của
người nào. Vì:

Cụ Phan Chu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương. Anh nhận điều đó là sai
lầm, chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương.
Cụ Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng
khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau”.

Cụ Hoàng Hoa Thám còn thực tế hơn, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp. Nhưng theo lời
người ta kể thì cụ còn nặng cốt cách phong kiến.

Anh thấy rõ và quyết định con đường nên đi. Cụ Phan Bội Châu vào bậc chú bác của
Anh, Cụ Phan Bội Châu muốn đưa Anh và một số thanh niên sang Nhật. Nhưng anh
không đi” [3] .

Vậy anh muốn làm gì ? Một nhân vật thuật lại lời anh như sau:

“Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như
thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” [4] .

Những ai không phải là người sùng bái Hồ Chí Minh, khi đọc thêm những tài liệu khác sẽ
dễ dàng nhận ra khá nhiều điều cần hiệu đính trong đoạn văn trên đây.

a) Hồ Chí Minh lúc bấy giờ “đã tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc”.
Không có bằng cớ xác nhận ông đã làm như vậy. Tất cả những tác giả, dù theo khuynh
hướng nào, viết về Hồ Chí Minh sau này chẳng ai nhắc lại để sử dụng cả. Sự kiện đó
được liệt vào lĩnh vực hư cấu thuần tuý.

b) “Cụ Phan Bội Châu muốn đưa Anh và một số thanh niên sang Nhật. Nhưng Anh
không đi”. Không đúng!

“Trong cuốn hồi ký Năm mươi bốn năm hải ngoại của Trần Trọng Khắc (tức Nguyễn
Thức Canh) có đoạn: Tôi cùng cụ Sào Nam ở chung trong một thuyền. Chín mười ngày
sau, lúc các đồng chí đã đến họp, bàn bạc xong, cụ lên đường ra Bắc, tôi cùng Ngư Hải
tiên sinh đi cáo biệt với cách mạng đồng chí và tìm thanh niên xuất dương du học. Cụ
Phó bảng Thái Sơn đương thời có tặng tôi một bài thơ xuất ngôn tuyệt cú để làm quà tiễn
biệt. Chúng tôi trước tới nhà cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc rủ anh Nguyễn Sinh Cung
đồng đi, nhưng anh Cung đã đi ra Bắc không được gặp” [5] .

c) Khen Hoàng Hoa Thám là “thực tế, vì trực tiếp đấu tranh chống Pháp” nhưng lại cho
rằng chủ trương của Phan Bội Châu nhờ Nhật đuổi Pháp là “chẳng khác gì đưa hổ cửa
trước, rước beo cửa sau” là cố ý gác qua bên mối quan hệ giữa hai nhà yêu nước này.
Trước khi qua Nhật, Phan Bội Châu đã tìm gặp và muốn dựa vào Hoàng Hoa Thám để
xây dựng lực lượng trong nước. Còn việc “Đông độ” “cầu viện” của nhà chí sĩ này (năm
1905) thì đó không phải là một kế hoạch tự thân mà chỉ để phối hợp với những hoạt động
khác trong nước. Tuy nhiên, chủ trương này đã được điều chỉnh lại vì khi sang Nhật,
nghe lời khuyên của Lương Khải Siêu và một số chính khách Nhật, Phan Bội Châu đã
chuyển sang cổ vũ phong trào du học. 1907, chủ trương này cũng lại không đi đến đâu vì
Nhật ký hiệp ước với Pháp cấm hoạt động. Bị trục xuất, Phan Bội Châu đã phải cùng các
đồng chí chạy sang Thái Lan, Trung Quốc [6] . Chỉ có khoảng 5 năm, Phan Bội Châu đã
chuyển đường lối nhiều lần: 1911, khi Nguyễn Tất Thành sang Pháp, Phan Bội Châu đã ở
Trung Quốc và đã từ quân chủ lập hiến chuyển sang ủng hộ cộng hoà kiểu Tôn Dật Tiên
rồi.

Bốn mươi năm sau (1948) nhìn lại những gì đã xảy ra trên đất nước mà chỉ lẩy ra trong
phong trào của Phan Bội Châu khía cạnh “Đông du cầu viện” để phê phán là rất thiếu sót.

d) Cho rằng chủ trương cải lương của Phan Chu Trinh là “sai lầm, chẳng khác gì đến xin
giặc rủ lòng thương” cũng không có ý muốn hiểu tới nơi tới chốn đường lối của nhà chí sĩ
này. Sở dĩ Phan Chu Trinh không chấp nhận bạo động vì ông đã thấy cái gương chiến
đấu anh dũng nhưng tuyệt vọng của các chiến sĩ Cần vương. Cũng không tán thành chủ
trương bạo lực của Phan Bội Châu vì ông cho rằng khi chưa có đủ thực lực thì chỉ dắt
nhau vào cái chết vô ích.

Vấn đề cứu nước do Phan Chu Trinh đặt ra không đơn thuần là giành lại chủ quyền mà
phải hiện đại hoá thì vấn đề chủ quyền mới giải quyết triệt để được, vì theo ông hiện đại
hoá chính là nội dung của độc lập dân tộc trong thời kỳ mới, khác hẳn với thời phong
kiến trước đây. Cách đặt vấn đề này cũng không khác Phan Bội Châu, sự khác nhau chỉ là
giải quyết như thế nào về mối quan hệ giữa độc lập và hiện đại hoá. Trong khi mò mẫm
chưa hiểu rõ con đường hiện đại hoá, Phan Bội Châu đặt ưu tiên cho việc vũ trang khởi
nghĩa, dựa vào cơ sở có sẵn còn lại của phong trào Cần vương phối hợp với một số hoạt
động khác.

Phan Chu Trinh thấy rõ tình trạng lạc hậu thấp kém của xã hội truyền thống, cũng lại thấy
phương thức dùng bạo lực là chưa có triển vọng nên đã chủ trương giành ưu tiên cho sự
nghiệp nâng cao dân trí, học hỏi văn hoá dân chủ sau đó mới từng bước tính chuyện
giành lại độc lập [7] . Chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến” của ông đã dựa trên nhận định ấy. Chủ
trương ấy không phải là không có cơ sở: trong nước Pháp dân chủ, ông đã được khá đông
những người thuộc phe tả (Đảng Xã hội, Hội Nhân quyền, những nhân vật cấp tiến trong
bộ máy cầm quyền của nước Pháp…) giúp đỡ, ủng hộ, tạo áp lực với chính phủ Pháp đòi
thay đổi chính sách thuộc địa. Xét về lâu dài, trước thưc tế ngoan cố của thực dân Pháp,
nếu kéo dài mãi chủ trương ấy có thể sẽ đưa nhân dân vào con đường thoả hiệp, nhưng
trong cơn tăm tối của đầu thế kỷ 20, đó cũng là một cách tìm đường. Dùng mấy chữ “xin
giặc rủ lòng thương” đối với Phan Chu Trinh là không thể tất nhân tình.

e) Không có gì nghi ngờ chủ trương muốn đi sang Pháp và các nước khác, “xem xét họ
làm như thế nào”, rồi “sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta” là chọn lựa của Hồ Chí Minh
vào lúc bấy giờ như chính ông (dưới cái tên mới là Nguyễn Ái Quốc) đã xác nhận trong
các cuộc trả lời phỏng vấn khi sang Nga năm 1924:

“Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên nghe được ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác
ái. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế.
Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn
đàng sau những chữ ấy. Nhưng trong những trường học cho người bản xứ, bọn Pháp dạy
người như dạy con vẹt. Chúng giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không phải
chỉ sách của những nhà văn mới, mà cả Rousseau và Montesquieu cũng bị cấm. Vậy thì
phải làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài” [8] .

Nhưng lời lẽ phát biểu có nhiều chỗ quá cường điệu so với kinh nghiệm và nhận thức của
một thiếu niên 13 tuổi! Giả sử như có mang chút ưu tư của một người trẻ tuổi sớm biết
quan tâm đến thời cuộc thì đó vẫn chỉ là những nghĩ ngợi bâng khuâng, những cảm nhận
có tính chất trực giác trước tình trạng bế tắc chung của đất nước, không có lý luận gì để
có thể gọi là cao hơn những chủ trương đấu tranh của các vị tiền bối. Mới dự định đi ra
ngoài “xem” người ta làm gì, nghĩa là chưa thấy gì chưa biết gì thì làm sao có thể khẳng
định chuyện này chuyện nọ? Có gì bảo đảm rằng cứ phải sang Âu châu người ta mới tìm
ra phương cách “giúp đỡ đồng bào”? Vả lại nội dung của mấy chữ “giúp đỡ đồng bào”
lúc bấy giờ đã có gì rõ rệt, có gì gọi là vượt trội để có thể tự cho mình đứng được ở vị trí
cao hơn để gọi là “phê phán” [9] các bậc cha chú?

“Phê phán” sau khi ra đi?

Chúng ta hãy cứ giả định theo lời lẽ của Trần Dân Tiên cho rằng chủ trương sang Pháp để
“xem” người ta làm gì rồi “sẽ về giúp đồng bào” của Nguyễn Tất Thành đáng được gọi là
“con đường nên đi” thì điều đó thật sự cũng chẳng có gì là mới mẻ so với những chọn lựa
của tiền bối. Ít nhất là đối với người tiền bối rất thân cận với gia đình của Nguyễn Tất
Thành, là phó bảng Phan Chu Trinh. Ngược hẳn lại những luận điệu gọi là “phê phán cha
chú” của những người sùng bái Hồ Chí Minh, chúng ta đã có rất nhiều tài liệu chứng
minh rằng suốt cả một thời gian dài từ trong nước đến sau khi ra ngoài, Hồ Chí Minh lúc
ấy đã hoàn toàn phụ thuộc vào Phan Chu Trinh về sự bảo trợ và cả đường lối.

a) Bà Phan Thị Minh (cháu ngoại của Phan Chu Trinh) đã được ông Vũ Kỳ (thư ký riêng
của ông Hồ từ Cách mạng Tháng Tám) xác nhận sự khẳng định của ông Hồ về mối quan
hệ của mình với Phan Chu Trinh như sau:

“Mình biết Cụ từ trong nước rất sớm vì Cụ là bạn thân của cha mình. Sang Pháp là dựa
vào Cụ để sống và hoạt động. Cụ Phan đã giúp mình rất nhiều, thực sự là ngưới đỡ đầu
mình trong một thời gian dài khi mình ở Paris …” [10]

Ông Phạm Văn Đồng cũng cho biết những điều tương tự:

“Tôi đã được Bác Hồ nói nhiều về cụ Phan. Bác cho biết cụ đã quý và giúp Bác nhiều.
Trước khi lên đường đi Pháp đã được cụ hướng dẫn… Nhận một công việc thời đó cho là
thấp kém để dễ qua mắt mật thám, dễ ra đi cũng là theo ý Cụ… Sang Pháp là tiếp xúc
ngay với Cụ… Quan hệ Bác với Cụ rất gần gũi, thân thiết như ruột thịt. Đi xa sang Mỹ
hay ở Anh, Bác đều viết thư cho Cụ và nhận được thư Cụ phúc đáp đều đặn. Thư viết
phải thật vắn tắt vì mật thám theo dõi chặt, nhưng có dịp là tranh thủ đến gặp Cụ để
được bàn bạc và dặn dò mọi việc. Đi năm châu bốn biển để mở rộng kiến thức, học nhiều
ngoại ngữ, đọc sách nhiều, giao tiếp rộng là những điều Cụ rất tâm đắc và khuyến
khích…” [11] .

Căn cứ vào những lời chứng nhận trên đây, bà Phan Thị Minh đã khẳng định cái giả
thuyết mà các nhà nghiên cứu trước đây đưa ra về việc ông Nguyễn Sinh Huy cùng
Nguyễn Tất Thành đã kịp gặp Cụ Phan tại Mỹ Tho (nơi Cụ bị quản chế sau khi từ Côn
Đảo về) hoặc tại Sài Gòn trước khi cụ Phan sang Pháp để bàn bạc kế hoạch ra đi của
Nguyễn Tất Thành [12] . Không hề có dấu hiệu gì chứng tỏ Nguyễn Tất Thành đã “hoàn
toàn không tán thành” cách làm của cụ Phan như sách của Trần Dân Tiên đã viết.

b) Bà Phan Thị Minh cũng cho biết rằng khi Nguyễn Tất Thành sang Pháp, ghé cảng Le
Havre khoảng 40 ngày (do tàu cần sửa chữa), có thể Nguyễn Tất Thành đã về Paris (cách
Le Havre khoảng 100 km) thăm Phan Chu Trinh nhân đó gặp Bùi Kỷ là người quen cũ [13]
– về sau sẽ là thư ký của Hội Đồng bào Thân ái do Phan Chu Trinh và Phan Văn Trương
lập ra năm 1912 – và có thể ở đây ông này đã gợi ý và thảo lá đơn xin vào học nội trú
Ecole Coloniale cho Nguyễn Tất Thành chép lại tại Marseille ngày 15-9-1911 và gửi
Tổng thống Pháp, trong đó có những dòng sau đây:

“Hiện tôi đang làm việc cho hãng Compagnie des Chargeurs Réunis (tàu Amiral
Latouche-Tréville) để sinh sống.

Tôi hoàn toàn trắng tay nhưng rất ham muốn học hỏi. Đối với đồng bào tôi, tôi mong
muốn trở nên hữu ích cho nước Pháp đồng thời có thể làm cho họ hưởng được những lợi
ích của học vấn” [14] .

Có nhiều ý kiến ngược nhau về lá đơn này: người thì cho rằng Nguyễn Tất Thành lúc đầu
vì chưa có ý định làm cách mạng nên đã tính đi làm cho Pháp (và chỉ đi làm cách mạng
vì không được đi làm cho Pháp!), người lại cho rằng lúc đó vì đã có ý định làm cách
mạng rồi nên Nguyễn tất Thành đã chủ động “chui” vào Trường Thuộc địa để “xây dựng
phong trào yêu nước ngay trong lòng thực dân”. Tuy vậy, phần đông những người nghiên
cứu đều cho rằng lá đơn trên đây đã phản ánh chủ trương rất rõ của Phan Chu Trinh: phải
học văn hoá khai sáng và dân chủ của Pháp để canh tân đất nước.

c) Sau thời gian theo tàu đi các nơi đến năm 1913 dừng lại ở Anh, Nguyễn Tất Thành vẫn
thường xuyên liên hệ với nhóm ông Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường. Ngoài những
chuyện kiếm sống, học tiếng Anh, quan tâm chút ít đến Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất
sắp nổ ra, không thấy Nguyễn Tất Thành cho biết đã tìm ra một cái gì mới hơn để tranh
cãi với Phan Chu Trinh [15] . Sự tranh cãi chỉ xảy ra sau này khi từ Anh trở lại Pháp, lúc
Nguyễn Tất Thành đã trở thành Nguyễn Ái Quốc, và cũng chỉ xảy ra sau khi mang tên
Nguyễn Ái Quốc một thời gian khá dài. Sự bất đồng đó như thế nào, chúng ta sẽ có dịp
nói đến, hiện giờ, qua những tài liệu trên, chúng ta có thể kết luận được mấy điều về cuộc
ra đi của Hồ Chí Minh thời còn mang tên là Nguyễn Tất Thành như sau:

• Trước khi ra đi, Nguyễn Tất Thành chưa có được những hiểu biết vượt trội nào để
gọi là “phê phán” hoặc “phủ định” các phương pháp tranh đấu của các vị tiền bối.

• Người thanh niên ấy chỉ mới có ý định sang Pháp xem xét và học hỏi, nhưng chưa
học được gì và xem được gì để có thể nói về những chuyện quan trọng hơn bản
thân.
• Sự chọn lựa ấy cũng đã bắt nguồn từ sự khuyên nhủ, chỉ vẽ, sắp xếp của Phan
Chu Trinh, được Phan Chu Trinh giúp đỡ và cùng hoạt động trong một thời gian
dài.

Ra đi không “phê phán”!

Có thể nói cuộc ra đi hiện thực của Nguyễn tất Thành là một cuộc ra đi mà phần lớn sự
định hướng ban đầu không phải do mình quyết định với một ý thức phủ nhận mọi cái đã
có một cách quyết liệt, sáng suốt như “quyển truyện” của Trần Dân Tiên đã viết và được
những nhà sùng bái Hồ Chí Minh khai thác. Cuộc ra đi ấy đã được định hướng theo một
con đường đã cũ và đó chính là con đường “Tây du” kiểu Phan Chu Trinh. Nhưng có một
yếu tố khác cũng đã góp phần không kém quan trọng để tạo nên kịch bản ra đi này là sự
góp sức của ông Nguyễn Sinh Huy, thân phụ của Nguyễn Tất Thành.

a) Nguyễn Sinh Huy đậu phó bảng năm 1901; 1906 vào Huế nhậm chức thừa biện Bộ Lễ;
1909 được cử làm tri huyện Bình Khê (tỉnh Bình Định), nhưng chỉ 7 tháng sau, tháng 1-
1910, thì bị bãi chức và bị triệu hồi về Huế. Lý do: theo Sở mật thám ông đã uống rượu
say và đánh chết người.

Nguyễn Sinh Huy phản bác (thừa nhận có đánh một tù nhân, nhưng cho rằng cái chết
không phải do roi của ông), tuy thế do xét nghiệm cho biết người bị đánh đã phát bệnh
mà chết, nên ông vẫn bị giáng bốn cấp và bãi chức. Sự nghiệp tan vỡ, ông xin vào Nam,
từ đó về sau lưu lạc rày đây mai đó, kiếm sống bằng đủ thứ nghề, khi viết câu đối, dạy
chữ Nho, lúc bốc thuốc, làm cai đồn điền, đã từng đi bộ lên Đế thiên Đế thích ở Cambốt
nhưng lại không bao giờ trở về Huế và về quê, cũng chẳng bao giờ gặp lại con cái. Cuối
cùng dừng lại tại làng Hoà An, tỉnh Cao Lãnh…, trước khi chết đã bị mật thám nghi ngờ
có gia nhập một thứ tổ chức thần bí nào đó mang tên là Thiên địa Hội.

Hình ảnh thực tế của Nguyễn Sinh Huy qua những tài liệu do D. Hémery công bố [16] trên
đây không hoàn toàn lý tưởng như người ta đã vẽ ra. Khá thân cận với những nhà nho
tiêu biểu trong phong trào Duy Tân Đông du bấy giờ, bị mật thám theo dõi nhưng lại
không bị liệt vào các phần tử nguy hiểm, do lẽ ông không trực tiếp dính líu đến các tổ
chức chống đối. Không theo con đường từ quan tranh đấu của những bạn đồng khoa như
Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế, ông vẫn chấp nhận đi vào guồng máy cai trị thuộc địa một
cách miễn cưỡng, cuối cùng có lẽ do buồn chán mà trở nên sa sút [17] , ông đã tự gạt mình
ra khỏi cái cái guồng máy quan lại cuối mùa để sống một cuộc sống giang hồ, cô độc. [18]

b) Ảnh hưởng của Nguyễn Sinh Huy với người con thứ ba của mình ra sao, chúng ta
không biết rõ. Nhưng có điều chắc chắn là việc bị bãi chức của ông cũng đã kéo Nguyễn
Tất Thành theo cùng số phận với mình: anh không còn khả năng tiếp tục theo con đường
học vấn kiểu “Pháp-bản xứ” để sau này gia nhập vào guồng máy cai trị của thực dân dưới
một hình thức mới, trong chính sách khai thác thuộc địa đã qua thời bình định. Có thể
Nguyễn Tất Thành chưa chắc đã đi vào quỹ đạo đó; nhưng giả sử như anh còn giữ được ý
định “giúp đỡ đồng bào” thì anh sẽ làm gì với mớ kiến thức kiểu thuộc địa mà anh đã thu
lượm được? Có thể anh sẽ bỏ học để làm cách mạng cộng sản, nhưng ai sẽ thay anh đóng
vai Nguyễn-Người-Yêu-Nước để liên hệ với Đệ tam Quốc tế và liệu có xuất hiện được
một mẫu người cộng sản Việt Nam nào đó như anh? Thật khó trả lời.

Nhưng cũng rất may, những câu hỏi giả định ấy đã không có cơ sở để đặt ra. Có lẽ để
chuộc lại lỗi lầm, ông Nguyễn Sinh Huy đã đặc biệt quan tâm đến Nguyễn Tất Thành và
đã không để anh phải bươn chải một mình. Như chúng ta đã biết, sau khi bị cách chức, về
quê xin phép vào Nam để “tìm kế sinh nhai”, nghe tin Nguyễn Tất Thành từ Quy Nhơn
[19]
vào Sài Gòn, ông đã xoay xở đi theo và có lẽ đã dẫn được Nguyễn Tất Thành đến gặp
Phan Chu Trinh trước khi ông này sang Pháp (tháng 4-1911). Ông trông đợi gì nơi
Nguyễn Tất Thành qua sự gửi gắm này với Phan Chu Trinh? Cũng do ông biết rõ đường
lối của người bạn đồng khoa của ông là như thế nào, chắc hẳn ông sẽ không thể nào
tưởng tượng ra được một ngày nào đó người con của ông lại trở thành một nhân vật như
Nguyễn Ái Quốc. Với tính cách của ông, có thể suy nghĩ sau đây không sai sự thật lắm:
thiếu gì cách dùng học vấn của mình để giúp đỡ đồng bào, đâu nhất thiết phải làm cách
mạng? Dù sao ông cũng đã góp phần đẩy ra phía trước một người con sau này đã đi xa
hơn kỳ vọng của ông rất nhiều.

c) Về phần Nguyễn Tất Thành lúc bấy giờ thì điều mà chúng ta biết được tương đối rõ là
suốt một thời gian dài anh luôn luôn nhớ đến cha và cố gắng thực hiện những mong đợi
của cha khi gửi gắm anh cho Phan Chu Trinh.

Chúng ta đã biết lá đơn của anh gửi Tổng thống Pháp ngày 15-9-1911 xin được vào học
Ecole Coloniale với ước muốn vừa có ích cho nước Pháp vừa làm lợi cho đồng bào mình.
Điều chúng ta cần biết thêm là sau khi gửi bức thư đó, Nguyễn Tất Thành đã theo tàu trở
về Việt Nam qua hành trình Marseille–Sài Gòn–Hải Phòng–Sài Gòn–Marseille–Le
Havre… Tại Sài Gòn, anh đã gửi thư cho anh là ông Cả Khiêm (Nguyễn Sinh Khâm hoặc
Nguyễn Tất Đạt) lúc ấy đang giúp việc vặt tại Khâm sứ Trung Kỳ, nhờ vận động xin vào
Ecole Coloniale. Ông Khiêm đã gửi thư lên Toàn quyền Albert Sarraut và thư này được
chuyển về Khâm sứ Trung Kỳ. Và như mọi người có thể đoán, Khâm sứ Trung Kỳ đã trả
lời Toàn quyền Đông dương, với lý do bác bỏ như sau: muốn vào Ecole Coloniale phải
đang học ở thuộc địa, và chỉ những thanh niên xứng đáng trong hàng ngũ quan lại cao
cấp mới được chọn [20] . Qua sự khẩn khoản này, chúng ta thấy quyết tâm muốn tìm một
chỗ học nhất định để ổn định cuộc sống của Nguyễn Tất Thành là như thế nào.

Sự quan tâm lo lắng của Nguyễn Tất Thành với cha cũng rất đáng chú ý với cách thức
đặc biệt của anh. Cũng tại Sài Gòn nhân chuyến về nước nói trên [21] , cùng với việc gửi
thư cho Nguyễn Sinh Khâm nhờ vận động vào Ecole Coloniale, ngày 31-10-1911,
Nguyễn Tất Thành cũng đã gửi thư cho Khâm sứ Trung kỳ xin nhờ chuyển mandat 15
đồng (Đông Dương) cho cha, vì cha anh không thể nhận mandat trực tiếp được [22] .

Suốt thời gian làm việc trên tàu, đi đây đó, nhưng nỗi lo lắng về cha vẫn làm Nguyễn Tất
Thành bứt rứt: không phải chỉ gửi tiền giúp, anh còn có ý xin chính quyền thuộc địa phục
chức hoặc tìm việc cho cha nữa. Bản khai của Bùi Quang Chiêu với Mật thám Sài Gòn
ngày 21-9-1922 có nói đến việc ông gặp Nguyễn Tất Thành (mang tên Văn Ba) trên tàu
Latouche-Tréville (ông nói đã quên tên) như sau:
“Anh đang làm việc trên tàu. Anh đến gặp tôi vì tôi từng là giáo sư nông nghiệp dạy cha
anh tại Huế khoảng 1901-1902. Anh nói với tôi rằng lần đầu tiên anh sang Pháp, mục
đích là để khiếu nại cho cha anh về việc ông vừa mới bị bãi chức. Anh muốn đến ở nhà
thuyền trưởng Do-huu-Chan (?) đang công tác tại Marseille, với tư cách là người giúp
việc nhà cho ông, để nhờ ông giúp đỡ trong việc khiếu nại đó” [23] .

Ngày 15-12-1912, khi qua Mỹ, thư gửi Khâm sứ Huế báo rằng trong ba cái mandat gửi
cha, anh chỉ nhận được một thư trả lời, ấy là nhờ do lần ấy mandat đã được chính Khâm
sứ chuyển trực tiếp. Lần này anh muốn gửi tiền hàng tháng cho cha, cũng nhờ Khâm sứ
giúp đỡ và nhân đó xin Khâm sứ tìm việc làm cho cha nữa. Trong thư, có những đoạn lời
lẽ như sau:

“Ôi! Hoàn cảnh của tôi gay go biết bao! Sống quá xa cha mẹ, rất hiếm nhận được tin tức
của họ, muốn giúp đỡ họ mà không biết làm sao!

Thôi thúc bởi tình yêu của đứa con, tôi dám xin Ngài vui lòng thuận cho cha tôi một công
việc như là thừa biện ở các Bộ hay Huấn đạo giáo thư (?) để, dưới tấm lòng nhân hậu
cao cả của Ngài, ông ấy có được kế sinh nhai” [24] .

Có một chi tiết đáng lưu ý: dưới thư, ký là “Paul Tatthanh”, Poste restante 1, rue Amiral
Courbet, 1 – Le Havre. Tên “Paul” này đã được Nguyễn Tất Thành sử dụng lại có biến
dạng đi một chút gọi là “Paul Thành” trong một bức thư từ Anh viết cho Toàn quyền
Đông Dương, đề ngày 16-4-1915, qua lãnh sự Anh tại Sài Gòn, nhờ chuyển cho cha,
nhưng không đến tay vì không tìm được địa chỉ [25] .

Qua thư gửi Tổng thống Pháp xin vào học Ecole Coloniale, các thư gửi Khâm sứ Huế
hoặc Toàn quyền Đông Dương nhờ liên lạc chuyển tiền và tìm việc cho cha, tên ký có lúc
là “Paul Tatthanh” (từ Mỹ, 1912), có lúc là “Paul Thành” (từ Anh, 1915), chúng ta thấy
nơi sự ra đi của người con thứ ba của ông phó bảng Nguyễn Sinh Huy một cung cách ứng
xử chưa có gì gọi được “cách mạng” cả. Lý tưởng đi học để về giúp đồng bào theo chủ
trương của Phan Chu Trinh chưa có điều kiện để bật lên thành mục đích chủ yếu, chế độ
thực dân chưa thành đối tượng tố cáo, đả kích không khoan nhượng, tình nhà còn đè lên
tâm tư nặng nề, cuộc mưu sinh của một thanh niên xa xứ cũng không kém phần bức
xúc… Nói chung anh là một kẻ mới vào đời, tuy được những người thân hướng dẫn để đi
xa, nhưng trong những ngày khởi đầu của cuộc hành trình này, Nguyễn Tất Thành vẫn
chưa xác định được một vị trí nào thật rõ rệt về cuộc sống tương lai cho mình.

Hiện thực và huyễn hoặc

Sự so sánh trên đây cho chúng ta thấy rất nhiều khác biệt giữa hình ảnh của một Nguyễn
Tất Thành dưối ngọn bút của Trần Dân Tiên năm 1948 với một Nguyễn Tất Thành trong
hầu hết những tài liệu mới phát hiện về sau.

a) Nguyễn Tất Thành, trong cuốn sách của Trần Dân Tiên, đã được quan niệm như là tiền
thân của những nhân vật Nguyễn Ái Quốc và Hồ Chí Minh, không phải chỉ theo trật tự về
thời gian mà còn là về lô gích: cái trước tất yếu dẫn đến cái sau, muốn hiểu cái sau phải
biết cái trước và ngược lại. Cuộc đời Hồ Chí Minh phải được quan niệm như một tổng
thể cách mạng nhất quán và có ý thức từ đầu đến cuối. Trước khi trở thành Hồ Chí Minh
người yêu nước-cộng sản, theo nghĩa mà những người cộng sản quan niệm “chủ nghĩa
yêu nước chân chính cũng là chủ nghĩa cộng sản”, thì Nguyễn Tất Thành tiền thân của
Hồ Chí Minh phải là người chuẩn bị: chưa tìm được đường đến với chủ nghĩa cộng sản
thì tâm tưởng của anh phải là mảnh đất thuận lợi để nẩy mầm chủ nghĩa cộng sản về sau
– anh phải là người dọn đất, người phủ định, người “không tán thành” những phương
cách yêu nước của cha chú mình, nghĩa là phải làm được người đại biểu tiềm thể cho
cuộc cách mạng tương lai mà Hồ Chí Minh sẽ là đại biểu hiện thực.

Khác hẳn với một Nguyễn Tất Thành thực tế – một Nguyễn Tất Thành như là Nguyễn
Tất Thành con của ông Nguyễn Sinh Huy – mà các tài liệu sau này đã phác hoạ: tuy đã
được định hướng để ra đi, nhưng cái hướng ấy không tất yếu phải là cuộc cách mạng sau
này anh sẽ chọn lựa, bởi vì để đến với cuộc cách mạng ấy, anh phải có được hàng loạt
những cơ duyên khác xa với những ngày anh bỏ nước ra đi. Ở anh Nguyễn Tất Thành
thanh thiếu niên ấy chưa có gì tất định báo hiệu anh sẽ là Nguyễn Ái Quốc hay Hồ Chí
Minh về sau.

b) Anh Nguyễn Tất Thành được Trần Dân Tiên giao cho cái nhiệm vụ tiền thân ấy, anh
Nguyễn Tất Thành được xem là “hình ảnh của nhà ái quốc xứ Nghệ An rời quê mẹ ra đi
tìm đường giải phóng đất nước”, theo cách diễn tả của D. Hémery trong tài liệu đã kể,
“chỉ thuộc về điều tưởng tượng huyễn hoặc của những năm sau 1945 hoặc sau 1920” [26]
.

• Sau 1920, nhất là sau Đại hội Tours, khi Nguyễn Tất Thành đã vượt khỏi Phan
Chu Trinh để trở thành người yêu nước-cộng sản: cần phải đẩy thật mạnh việc tố
cáo tội ác của thực dân để kêu gọi sự chú ý, sự giúp đỡ của những người hoạt
động khuynh tả khắp nơi, đặc biệt thúc đẩy Đảng Cộng sản Pháp, và sau 1923, khi
đã sang Nga, vận động Quốc tế Cộng sản, thiết thực ủng hộ phong trào chống
thực dân ở Đông Dương. Những bài trả lời phỏng vấn của Nguyễn Tất Thành-
Nguyễn Ái Quốc vào thời kỳ này đã bộc lộ rõ xu hướng ấy. Động cơ muốn xem
văn minh Pháp được kích động thêm bởi tinh thần “chống đối về bản chất” của
những người lính lê dương [27] – và chỉ như vậy mà thôi: đó là tất cả những gì
Nguyễn Ái Quốc có thể nhớ lại về chuyến ra đi của Nguyễn Tất Thành để bày tỏ
quan điểm chính trị mới của mình. Đối với câu hỏi “Khi học xong, anh dự định
làm gì?”, mà trả lời là: “Dĩ nhiên là tôi sẽ trở về Tổ quốc để đấu tranh cho sự
nghiệp của chúng tôi” [28] thì cái động cơ “chống đối” nêu ra ở trên là không thể
nào khác được. Không còn dấu vết gì của tờ đơn xin vào Ecole Coloniale, những
lá thư gửi Khâm sứ Huế nhờ chuyển tiền, xin việc làm cho cha …

• Sau 1945, khi Nguyễn Tất Thành đã trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà với cái tên mới là Hồ Chí Minh (dân chúng chưa biết rõ lắm về lai lịch
của cái tên này), 1948 đang ở chiến khu Việt Bắc kháng chiến chống Pháp: phải
tạo cho mình hình ảnh một “đấng bậc trưởng thượng” kiểu châu Á có uy tín vượt
trội, vừa truyền thống vừa hiện đại, yêu nước và mập mờ nhận là cộng sản, tuy
cuộc đời ba chìm bẩy nổi, ẩn hiện bí mật cao siêu, nhưng mục đích suốt đời
không có gì khác hơn là hy sinh cho độc lập của tổ quốc và hạnh phúc của nhân
dân, một con người trong sạch, giản dị, hoà mình vào quần chúng, được bạn bè
khắp hoàn vũ mến yêu giúp đỡ còn đồng bào trong nước thì đặt hình lĩnh tụ của
mình lên bàn thờ [29] và tôn xưng là “Cha già của dân tộc” v.v…

Cuốn “tiểu sử” viết về Hồ Chí Minh của Trần Dân Tiên đã biểu lộ rất rõ cái nhu cầu năm
1948 mà Hồ Chí Minh và cuộc cách mạng của ông đang muốn tạo ra cho phong trào yêu
nước cộng sản trước tình hình mới – một lĩnh tụ tuyệt vời và chỉ có lĩnh tụ đó mới là
tuyệt vời thôi!

Tất cả những gì tốt đẹp trong những thời kỳ hoạt động vinh quang nhất của vị lĩnh tụ này
đều được mô tả chi tiết, còn đối với những cái khó nói và không nên nói trong những giai
đoạn “quan trọng” đặc biệt – thí dụ như những năm sau khi thành lập Đảng 1930, bị xu
hướng tả khuynh trong Đảng ở Việt Nam và Quốc tế cộng sản đả kích, phê phán khá
nặng nề đến nỗi bị lưu giữ để “học tập” một thời gian ở Liên Xô cho đến 1938 mới được
cho phép đi ra hoạt động lại [30] – thì lại cố tình giấu đi: phô bày những điều ấy ra chẳng
những bất lợi cho hình ảnh của lĩnh tụ mà còn phá vỡ sự thống nhất cần thiết của Đảng
do lĩnh tụ tạo ra.

c) Trần Dân Tiên có phải là bút danh của Hồ Chí Minh như bấy lâu nay người ta vẫn cho
là như vậy? Gần đây, bà Phan Thị Minh đã đưa ra một thông tin mới rất đáng chú ý như
sau:

“Chiều ngày 2 tháng 3 năm 1993, tôi đã được gặp ông Vũ Kỳ là thư ký riêng của Bác từ
Cách mạng tháng Tám đến ngày Bác qua đời và đã cùng một số người quanh Bác là
đồng tác giả cuốn “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch” với bút danh
Trần Dân Tiên” [31] .

Chưa thấy ông Vũ Kỳ nói rõ hơn về chuyện này nên chúng ta chưa biết ông cùng những
người “quanh Bác” đã làm việc như thế nào để thực hiện cuốn Những mẩu chuyện…
lừng danh ấy. Ông và những cộng sự có phải đi đây đi đó khắp nơi gặp gần 10 nhân vật
đã được nhắc đến trong cuốn sách để phỏng vấn về mối quan hệ của họ với ông Hồ?
Dòng cuối cho ta biết sách viết xong vào mùa thu năm 1948, lúc bấy giờ ông Vũ Kỳ đã
phải đi theo Hồ Chí Minh lên chiến khu Việt Bắc (Tuyên Quang, Thái Nguyên), nếu theo
cách đó thì làm sao thực hiện được trong điều kiện kháng chiến đường xá cách trở? Cách
trình bày được mô tả trong sách – những nhân vật thay nhau kể chuyện – do đó có lẽ chỉ
là một thủ thuật và đó là thủ thuật của những người viết tiểu thuyết nhiều hơn là “tiểu
sử”.

Cứ tạm tin rằng cái “tiểu sử” dưới hình thức “truyện” ấy được chính Vũ Kỳ và những
người cộng sự viết ra và ký là Trần Dân Tiên. Nhưng như vậy thì lại gặp điều khó khăn
phải giải thích tại sao cuốn sách tầm thường của một tác giả vô danh là Trần Dân Tiên ấy
lại có thể trở thành một thứ tài liệu tham khảo quan trọng bậc nhất về Hồ Chí Minh như
đã xảy ra, đặc biệt trong giới nghiên cứu, giảng dạy? Sự quan trọng ấy không thể nào có
được nếu những gì đã viết về ông Hồ trong cuốn sách ấy (giả sử là của Vũ Kỳ) không
được chính ông xét duyệt (Vũ Kỳ là thư ký riêng của ông), và một cách nào đó cũng đã
làm cho người ta hiểu rằng chính ông đã muốn phổ biến cuốn “tiểu sử” có nội dung như
vậy. Cuốn sách, do đó, dù cho có do Vũ Kỳ lấy tài liệu từ Hồ Chí Minh để viết hoặc do
chính Hồ Chí Minh trực tiếp viết [32] (hay đọc cho Vũ Kỳ viết), thiết tưởng ý nghĩa cũng
đều như nhau: sự xuất hiện của nó là “cái cần thiết” cho nhu cầu cách mạng của bản thân
Hồ Chí Minh sau 1945.

Vào thời điểm này, Nguyễn Tất Thành đã không còn là cá nhân một thanh niên 21 tuổi
ngỡ ngàng trong cuộc bỏ nước ra đi năm 1911 nữa: anh đã về nước với tên Hồ Chí Minh
và tự cho mình là biểu tượng của sự chọn lựa cuối cùng sau mọi chọn lựa của đất nước –
một Nguyễn Tất Thành trở thành cộng sản, đã hoàn thành Cách mạng tháng Tám và đang
lãnh đạo kháng chiến bảo vệ cuộc cách mạng ấy để sau này đưa đất nước tiến lên chủ
nghĩa cộng sản. Quá khứ của Hồ Chí Minh hồi 21 tuổi có được tạo dựng lại cho phù hợp
với vị trí của Hồ Chí Minh khi 58 tuổi là điều không có gì khó hiểu: thực chất các sự việc
không phải như vậy, có thể nói khác đi vào lúc khác, nhưng khi cần thì vẫn có thể thêu
dệt, tô vẽ lên để tuyên truyền – lợi ích của cách mạng buộc phải như thế. Nếu Hồ Chí
Minh không làm điều đó thì cũng sẽ có những kẻ thay ông. Vì rất nhiều lý do khác nhau,
những người sùng bái ông sau 1945 kể ra là vô số.

© 2007 talawas

[1]
Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Văn Học,
(in lần thứ tám), Hà Nội, 1975, tr. 16.
[2]
“Chúng tôi không có tham vọng viết một quyển tiểu sử của Hồ Chủ tịch, chúng tôi chỉ
mong quyển truyện này giúp đồng bào biết vài mẩu chuyện của vị lãnh tụ đã xây dựng
nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà” (Trần Dân Tiên: Sđd, tr. 138).
[3]
Sách đã dẫn, tr. 10.
[4]
Như trên, tr. 11
[5]
Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử 1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1993, Chú thích 2, tr. 32.
[6]
Xem “Phan Bội Châu niên biểu”, trong Phan Bội Châu toàn tập, tập 6, Thuận Hoá,
Huế, 1990.
[7]
Xem Vĩnh Sính: Việt Nam và Nhật bản, giao lưu văn hoá, Nxb Văn Nghệ, Tp Hồ Chí
Minh, 2001, tr. 300.
[8]
Nguyễn Ái Quốc trả lời phỏng vấn báo Ogoniok (Liên xô) ngày 23-12-1923, trong Hồ
Chí Minh toàn tập, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 477.
[9]
“Rõ ràng: trước khi bước chân xuống tàu rời Tổ quốc, Nguyễn Tất Thành đã chuẩn bị
cho mình những tiền đề tư tưởng bao gồm việc phê phán những con đường cứu nước của
các bậc cha chú, lựa chọn những hướng đi và điểm tới của mình” (Phạm Xanh: Nguyễn
Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam (1921-1930), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 15).
[10]
Phan Thị Minh: “Tìm hiểu thêm về quan hệ của Bác Hồ với cụ Phan Chu Trinh trong
những năm Bác chưa sang Pháp”, phụ lục trong Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris,
Sđd, tr. 403.
[11]
Như trên, tr. 404
[12]
Như trên, tr. 409
[13]
Ông Vũ Kỳ đã thuật cho nhà văn Sơn Tùng viết lại (Tạp chí Cầu Đường, Xuân Kỷ
Mão) rằng Hồ Chí Minh đã nói về ông Bùi Kỷ, nhân nghe tin ông này qua đời, nội dung
như sau: “Thân sinh ông Bùi Kỷ là cụ Bùi Thức đã là bạn của cụ Sinh Huy từ khoa thi
Hội 1898, làm quen nhau trong trường thi, lui tới với nhau trong khi đợi kết quả: cụ Bùi
Thức đỗ Tiến sĩ, cụ Sinh Huy bị hỏng. Năm 1901, sau khi thi đỗ Phó bảng, cụ Sinh Huy
có đưa Tất Thành ra Bắc tìm thăm cụ Bùi Thức tại xã Châu Cầu huyện Kim Bảng tỉnh Hà
Nam. Hai cậu thiếu niên Tất Thành và Bùi Kỷ đã quen nhau từ thuở ấy. Anh thanh niên
Bùi Kỷ mới hơn 20 tuổi đã đỗ Phó bảng. Anh nỗ lực học tiếng Pháp và được học bổng
sang học trường Thuộc địa từ tháng 2-1911. Họ đã vui mừng tái ngộ tại nhà bác Phan
trong các dịp Tất Thành đến thăm bác Phan tại Paris …” (Xem Phan Thị Minh: Phan
Chu Trinh qua những tài liệu mới, Quyển 3, Nxb Đà Nẵng, 2001, tr. 190).
Bà Phan Thị Minh đã cho biết thêm về lý lịch của ông Bùi Kỷ như sau: “Chúng tôi đã
kiểm tra trong hồ sơ trường Thuộc địa thì đúng là trong danh sách học sinh đến Pháp
tháng 2-1911 có ông Bùi Kỷ. Ông đã đỗ Phó bảng rồi học trường Thông ngôn sau đó
sang học trường Thuộc địa và đã sớm gần gũi ông Trinh và con: ông đã cùng ông Trường
và ông Chuyên kèm cặp giúp Dật (con ông Trinh) học tiếng Pháp. Dật tôn trọng ông và
gọi ông là “thầy Bảng Kỷ”. Ông đã làm thư ký Hội Đồng bào Thân ái và có thuyết trình
trong buổi họp về đề tài khoa học”. (Như trên, Chú thích 1, tr. 183).
[14]
Xem Daniel Hémery: “Jeunesse d’un colonisé, genèse d’un exil. Ho Chi Minh
jusqu’en 1911”, Approche-Asie, No. 11, 1992, Tài liệu số 6, tr. 131. Tất cả những tài liệu
mà D. Hémery công bố và sử dụng trong bài viết nói trên đều có xuất xứ từ Trung Tâm
Lưu trữ Hải ngoại Pháp (Centres des Archives d’Outre-mer - CAOM) tại thành phố Aix-
en-Provence.
[15]
Xem Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris, Sđd, tr. 29.
[16]
D. Hémery: Sđd, Các tài liệu phụ lục, tr. 127-152
[17]
Theo lời khai với Sở mật thám Trung kỳ của Nguyễn Thị Thanh, con gái lớn của ông
Nguyễn Sinh Huy, thì năm 1906, bà có dẫn một phụ nữ giúp việc ra Huế định ở với cha.
Nhưng do không chịu nổi tật say rượu và thô bạo của ông (bà cho biết đã bị cha đánh
nhiều lần) năm sau bà đã phải trở về Kim Liên. ( Xem D. Hémery: Sđd, tài liệu 18, tr.
149)
[18]
Bùi Quang Chiêu đã khai với Mật thám Sài Gòn về Nguyễn Sinh Huy khi được hỏi về
Nguyễn Ái Quốc như sau: “Từ Pháp về nước năm 1913, tôi đã gặp trên đường phố Sài
Gòn một người trông quen, trên vai có một đòn xeo, mút đầu có treo một cái bọc. Đó
chính là người cha của người thanh niên mà ta đang đề cập (Nguyễn Ái Quốc), ông đang
đi qua Sài Gòn. Ông nói với tôi về những cực khổ của mình. Đỗ cử nhân (Phó bảng mới
đúng - LP) lúc khoảng 30 tuổi, năm 1901 hoặc 1902, học trường nông nghiệp ở đấy tôi
đã từng là giáo sư. Sau đó được bổ nhậm quan huyện rồi bị bãi chức (…). Ông ấy kể
chuyện đó với tôi đầy vẻ oán hận. Tôi nhớ ông đã nói thêm: “một ngày nào đó tôi sẽ làm
quan trở lại”. Tôi không gặp lại ông từ lúc đó”. (Xem D. Hémery: Sđd, tài liệu 19, tr.
151).
[19]
Tháng 6-1909, Nguyễn Tất Thành theo cha vào huyện Bình Khê (Bình Định), được
cha gửi đến Quy Nhơn học tiếng Pháp với thầy giáo Phạm Ngọc Thọ dạy tại trường tiểu
học Pháp-bản xứ Quy Nhơn, theo chương trình cours supérieur. Tháng 1-1910, cha bị
cách chức và triệu hồi về Huế, tháng 9 năm ấy, Nguyễn Tất Thành vào Sài gòn, hết tiền
nên phải ghé qua Phan Thiết, vào trường Dục Thanh, dạy học một thời gian ngắn. (Hồ
Chí Minh biên niên tiểu sử, Sđd, tr. 39-43)
[20]
D. Hémery: Sđd, Tài liệu 8, tr. 133
[21]
Trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên đã mượn
lời một nhân vật và viết: “Chúng tôi theo tàu lên Havre để sửa chữa. Chúng tôi được đưa
sang làm việc ở một chiếc tàu khác, trở về Đông Dương. Anh Ba không muốn trở về”
(Trần Dân Tiên: Sđd, tr. 16).
[22]
D. Hémery: Sđd, Tài liệu 7, tr. 32
[23]
Như trên, Tài liệu 19, tr. 151. Nhưng trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của
Hồ Chủ tịch, Trần Dân Tiên lại viết về cuộc gặp gỡ của Nguyễn Tất Thành với Bùi
Quang Chiêu trên tàu Latouche-Tréville như sau: “Hồi ấy, Bùi Quang Chiêu, kỹ sư canh
nông vào làng Tây, đi tàu hạng nhất cùng với gia đình. Ông ta đưa con sang Pháp học.
Trông thấy Ba, ông ta gọi anh lại và thân mật bảo: Tại sao con lại làm cái nghề khó
nhọc này? Bỏ nghề này đi. Con nên chọn một nghề khác, danh giá hơn… Anh Ba lễ phép
cảm ơn ông Chiêu, nhưng không nói đồng ý hay không” (Sđd, tr. 14-15).
[24]
D. Hémery: Sđd, Tài liệu 9, tr. 134
[25]
Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Sđd, tr. 58
[26]
D. Hémery: Sđd, tr. 124
[27]
“Trước dây tôi có đọc một số tờ báo phát hành sang nước tôi, một vài tờ có tính chống
đối ở Annam, có những người lính lê dương do Poincaré gửi sang để cải huấn. Những
người lính lê dương này đọc đủ thứ. Họ là những kẻ chống đối về bản chất. Họ cho tôi
đọc các báo Pháp. Vì thế tôi nảy ra ý muốn sang xem “mẫu quốc” ra sao và tôi đã tới
Paris. Khi trường Đại học Phương Đông ở Matxcơva mở, tôi bèn xin học”. (Nguyễn Ái
Quốc: “Trả lời phỏng vấn của phóng viên báo L'Unità” (Ý), 15-3-1924, trong Hồ Chí
Minh toàn tập, Tập 1, Sđd, tr. 480)
[28]
Như trên, tr. 482
[29]
“Ông có biết anh Ba hiện nay thế nào không? – "Không, tôi rất tiếc là tôi không biết" –
"Ông có muốn tôi nói cho ông biết không?" – "Còn gì bằng nữa!" – "Ông quay lại xem,
anh Ba ấy đây kìa!" Tôi vừa nói vừa chỉ chân dung Hồ Chủ tịch treo trên bàn thờ giữa
những bình hoa, bình hương, đèn nến”. ( Trần Dân Tiên: Sđd, tr. 19)
[30]
Xem Sophie Quinn-Judge: Nguyen Ai Quoc, The Comintern and the Vietnamese
Communist Mouvement (1919-1941) (Luận án). Luận án này đã được tác giả xuất bản với
nhan đề HO CHI MINH The missing years, The University of California Press,
California, 2002.
[31]
Phan Thị Minh: “Tìm hiểu thêm về quan hệ của Bác Hồ với cụ Phan Châu Trinh trong
những năm Bác chưa sang Pháp”, trong Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris, Sđd, tr.
403. [Trong cuốn Càng nhớ Bác Hồ của mình (Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1999, tr. 10),
Vũ Kỳ đã cho biết là ông về làm thư ký riêng cho “cụ Nguyễn Ái Quốc” bắt đầu từ ngày
27 tháng 8 năm 1945, sau Cách mạng tháng Tám chừng một tuần.]
Thông tin trên đây của bà Phan Thị Minh hoàn toàn ngược lại với những khẳng định
trước đó của nhiều tác giả – như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khánh Toàn, Hà Minh
Đức… – về sự đồng nhất giữa Trần Dân Tiên và Hồ Chí Minh (Xem sự khẳng định của
Hà Minh Đức: Những tác phẩm văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Khoa học
Xã hội, Hà Nội, 1985).
[32]
Theo William J. Duiker, cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch
gần đây đã được giới quan chức Hà Nội xác nhận là của Hồ Chí Minh và ấn bản đầy đủ
nhất của cuốn tiểu sử này đã được xuất bản tại Thượng Hải năm 1949 bằng Trung văn
(nhà xuất bản Ba Ywe, mang tựa Hu Zhi Ming Zhuan). Khác với những bản dịch ra ngoại
văn xuất hiện về sau, cuốn này đã khẳng định Hồ Chí Minh chính là tên giả của Nguyễn
Ái Quốc. [Xem William D. Duiker: Ho Chi Minh, a life, Hyperion, New York, 2000, tr.
582].

Chương 2

Đến với chủ nghĩa cộng sản

Điểm xuất phát: Cái nôi Phan Châu Trinh

Cuộc đời chính trị của Nguyễn Tất Thành chỉ thực sự bắt đầu khi từ Anh trở lại Pháp với
cái tên mới là Nguyễn Ái Quốc ký dưới bản Những yêu sách của nhân dân Annam, đại
diện cho “Nhóm những người Annam yêu nước”, gửi Hội nghị Versailles vào tháng 6
năm 1919. Về sự kiện này Trần Dân Tiên, tác giả cuốn Những mẩu chuyện về đời hoạt
động của Hồ Chủ tịch đã viết như sau:

“Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam yêu nước ở Paris và ở các tỉnh ở Pháp. Với
danh nghĩa này, ông đã đưa những yêu cầu ra trước hội nghị Versailles (…) Cũng nên
nhắc lại ý kiến đưa yêu cầu do ông Nguyễn đề ra nhưng lại do luật sư Phan Văn Trường
viết, vì lúc bấy giờ, ông Nguyễn chưa viết được tiếng Pháp. Cũng nên nhắc lại là ông
Phan Châu Trinh và ông Phan Văn Trường không tán thành hoạt động của nhóm Việt
Nam yêu nước, vì các ông ấy cho nhóm thanh niên là trẻ con” [1] .

Chủ đích của đoạn văn trên là khá rõ rệt: cái nhóm “thanh niên” mà Nguyễn Ái Quốc đã
nhân danh để gửi bản Yêu sách tám điểm cho Hội nghị Versailles vào tháng 6 năm 1919
là tổ chức do Nguyễn Ái Quốc “sáng lập” [2] , hoạt động riêng biệt, không được các ông
Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường ủng hộ. Tham khảo nhiều tài liệu khác, chúng ta
thấy sự việc không hoàn toàn như vậy.

a. Bà Thu Trang trong cuốn Nguyễn Ái Quốc, những năm tại Paris (1917-1923) [3] , căn
cứ vào lời một nhân vật trong cuốn sách của Trần Dân Tiên [4] , cho rằng Nguyễn Tất
Thành đã từ Anh trở lại Pháp vào 1917 và như vậy thì có thể Nguyễn Tất Thành đã góp
phần lập ra Hội những người Annam yêu nước. Vì theo bà, thì vào khoảng cuối năm
1916, Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường đã lập ra hội này để kế tục Hội Đồng bào
Thân ái lập ra 1912 đã ngưng hoạt động. Tuy vậy, do chưa tìm thêm được bằng cớ xác
nhận Nguyễn Tất Thành đã đến Pháp năm 1917– đặc biệt không thấy có báo cáo nào của
Mật thám Pháp về việc Nguyễn Tất Thành ở Paris vào thời gian đó – nên người ta vẫn chỉ
coi đó là một giả thuyết.

Cũng có một giả thuyết khác nữa về năm đến Pháp của Nguyễn Tất Thành. Giả thuyết
này cũng căn cứ vào Hồ Chí Minh nhưng không phải là Hồ Chí Minh-Trần Dân Tiên mà
là Hồ Chí Minh-Nguyễn Ái Quốc: khi bị Sở Cảnh sát Paris gọi đến xét hỏi vào năm 1919
và 1920, Nguyễn Ái Quốc khai đã đến Pháp tháng 6-1919 [5] và cũng chính cái thời điểm
1919 sang Pháp đó mà 20 năm sau (1938), Nguyễn Ái Quốc đã khai với Quốc tế Cộng
sản, còn những năm về trước (1917-1918) thì đang làm việc cho một nhà giàu ở Brooklyn
(Mỹ) [6] . Cũng chẳng có gì ngăn cản người ta tin hay không tin vào giả thuyết này (những
lời khai của Hồ Chí Minh với “ta” hay với “địch” thường bất nhất [7] ), nhưng dù thế nào
đi nữa thì việc Nguyễn Ái Quốc tự cho mình đứng ra lập “Hội những người Annam yêu
nước” và hoạt động không cần sự hợp tác của Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường là
điều hoàn toàn tưởng tượng [8] .

b. Câu chuyện Nguyễn Ái Quốc bị chỉ trích “trẻ con” là chuyện có thật. Nhưng lại không
thật hoàn toàn: chỉ có Phan Châu Trinh, do là bậc cha chú, mới hay chỉ trích Nguyễn thôi.
Và cũng chỉ trích trong một hoàn cảnh khác, không dính dáng gì đến bản Yêu sách tám
điểm năm 1919. Một mật thám mang tên “Edouard” đã thuật lại một cuộc tranh luận giữa
Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc tại căn nhà số 6 Villa des Gobelins (nơi Nguyễn Ái
Quốc đã về ở chung với hai ông họ Phan) về đề tài người dân bản xứ có thể đòi hỏi gì ở
toàn quyền Maurice Long vừa mới sang Việt Nam thay Albert Sarraut (về làm Bộ trưởng
Bộ thuộc địa). Nguyễn Ái Quốc nói:

“Tại sao hai mươi triệu đồng bào ta không làm gì để buộc Chính phủ phải cho chúng ta
quyền làm người? Chúng ta cũng là người và chúng ta phải được đối xử như vậy. Những
ai từ chối coi chúng ta là những người bình đẳng là kẻ thù của chúng ta”.

Phan Châu Trinh đã trách Nguyễn Ái Quốc là quá bộp chộp:

“Anh muốn đồng bào tay không của chúng ta làm gì để chống lại những người châu Âu
với những vũ khí của họ. Tại sao dân chúng phải chết vô ích mà không có kết quả nào”
[9]
.

Sự tường thuật trong báo cáo của mật thám “Edouard” đề ngày 20-12-1919, sau cả nửa
năm ngày Nguyễn Ái Quốc công bố Yêu sách tám điểm. Có thể đây là những dấu hiệu
khởi đầu để Nguyễn Ái Quốc vượt khỏi Phan Châu Trinh, nhưng ý nghĩa của sự “không
tán thành” ấy của Phan Châu Trinh chẳng liên quan gì đến sự ra đời của “Hội những
người Annam yêu nước” cả.

c. Việc Trần Dân Tiên kể về sự kiện bấy giờ Nguyễn Ái Quốc chưa viết được tiếng Pháp
nên phải nhờ Phan Văn Trường viết hộ khá nhiều bài báo [10] là đúng [11] . Nhưng khi nhà
viết tiểu sử đó cho rằng trường hợp Yêu sách tám điểm của Nhóm những người Annam
yêu nước sáng kiến là do Nguyễn Ái Quốc, còn Phan Văn Trường chỉ viết ra nhưng lại
cùng với Phan Châu Trinh “không tán thành hoạt động của nhóm” thì lại không phải là sự
thật.

Sự thật là bản Yêu sách ấy là do Phan Văn Trường viết bằng tiếng Pháp, Phan Châu Trinh
chuyển ra Hán văn, và Nguyễn Ái Quốc thì được giao cho dịch ra văn vần viết bằng chữ
“quốc âm” [12] , Yêu sách này hình thành được là do sự thoả thuận của nhiều người nhưng
xét về nội dung thì biểu hiện hoàn toàn lập trường của nhóm Phan Châu Trinh và Phan
Văn Trường vào thời điểm ấy. Chỉ đọc một đoạn của bản Yêu sách do Nguyễn Ái Quốc
dịch ra “quốc âm” trích dẫn sau đây, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra điều đó:

“Pháp dân nức tiếng xưa nay,


Đồng bào, bác ái, sánh tày không ai!
Nỡ nào ngoảnh mặt ngơ tai,
Để cho mấy ức triệu người bơ vơ.
Dân Nam một dạ ước mơ,
Lâu nay từng núp bóng cờ tự do…”

d. Không phải chỉ nội dung mà ngay cái tên Nguyễn Ái Quốc ký dưới Yêu sách ấy, sau
này được Nguyễn Tất Thành giữ luôn làm tên hoạt động, lúc ban đầu cũng chỉ là một bí
danh tập thể, do hai ông Phan tạo ra, chứ không phải do Nguyễn Tất Thành tự đặt. Theo
giáo sư Hoàng Xuân Hãn thì bí danh này

“có thể là tên tượng trưng của tất cả người Việt (Nguyễn là họ thông thường của nhiều
người Việt, chứ không phải là họ của Tất Thành). Nguyễn yêu nước, ba chữ ấy ứng vào
tiếng Pháp: Groupes des Patriotes Annamites thấy ký dưới truyền đơn: Bản yêu cầu tám
điểm. Có lẽ một mặt vì họ Nguyễn mà mật thám coi đó là tên của Nguyễn Tất Thành. Rồi
sau Nguyễn Tất Thành cũng mang tên ấy một thời gian mà thôi” [13] .

Điều “có thể” đó đã được bà Phan Thị Minh nói rõ hơn trong câu chuyện do mẹ bà kể lại
hồi bà còn nhỏ về việc Phan Châu Trinh (từ Pháp về) gặp lại Nguyễn Sinh Huy tại Sài
Gòn như sau:

“Sau gần 15 năm cách biệt, hai người bạn tâm giao mới lại gặp nhau: một người trên
giường bệnh, gần kề cõi chết, người kia bao nhiêu năm lang bạt, cảnh giác tránh né mọi
sự khủng bố của thực dân đối với cha đẻ của một lãnh tụ yêu nước lừng danh lúc này đã
về đến Quảng Châu. Hai vị đã tâm sự nhiều ngày về người con trai yêu quý. Cụ Sinh Huy
vui mừng khôn xiết với lời ngợi khen và niềm tin tưởng của cụ Châu Trinh dành cho con
mình. Cụ Phan kể: Trước đó chúng tôi đã có vài bài ký danh Nguyễn Ái Quốc, nhưng ít
ai chú ý. Chỉ sau khi có tờ truyền đơn của dân Nam gởi đến Hoà đàm Versailles và công
bố rộng ra thì mới được chú ý. Bộ Thuộc địa và Cảnh sát Pháp đã đưa giấy đến cho tôi,
đòi Nguyễn Ái Quốc ra trình diện. Chúng ngỡ tôi sẽ ra. Tôi đã bảo Tất Thành ra làm
chúng rất ngạc nhiên. Đó là lần đầu tiên chúng xáp mặt Tất Thành với tên hoạt động là
Nguyễn Ái Quốc” [14] .

Nếu chuyện trên đây của bà Phan Thị Minh là sự thật thì “cái điểm xuất phát” của
Nguyễn Tất Thành về mặt chính trị khi bắt đầu hoạt động ở Pháp lại càng được khẳng
định rõ rệt hơn: Nguyễn Tất Thành trở thành được Nguyễn Ái Quốc nổi danh với bản
Yêu sách tám điểm là hoàn toàn do sự sắp xếp của Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường
[15]
.

Môi trường yêu nước và khuynh tả

a. Cái “điểm xuất phát” ấy, tuy sau này bị những người sùng bái Hồ Chí Minh có ý xem
thường khi nhìn lại, nhưng thật sự đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc hun đúc nên
rất nhiều nhà yêu nước thuộc thế hệ mới, trong đó có bản thân Hồ Chí Minh.
Đối với Việt Nam, từ 1911 trở đi, cùng với Quảng Châu, nơi hoạt động của Phan Bội
Châu từ Nhật chạy giạt sang, Paris đã trở thành một trung tâm cách mạng ở hải ngoại
(duy nhất ở châu Âu) từ khi có sự hiện diện của Phan Châu Trinh. Nhờ uy tín đã tạo ra
trong nước, khi mới sang Pháp, Phan Châu Trinh đã tìm ngay được sự hợp tác của Phan
Văn Trường [16] ; nhờ đó, ngoài việc tiếp tục cuộc đấu tranh từ trước, ông đã cùng với
Phan Văn Trường lập ra được Hội Đồng bào Thân ái [17] , quy tụ những người Việt Nam
lúc bấy giờ còn rất ít tại Pháp. Đây chính là cái cơ sở ban đầu để những tổ chức khác nối
tiếp, ngay sau đó là Hội những người Annam yêu nước (1917). .

Có một điều đặc biệt khác khá quan trọng cần chú ý: cũng như ở Quảng Châu, những
hoạt động của những người Việt Nam yêu nước ở Paris bấy giờ đã diễn ra một cách công
khai, có gì khác thì chỉ là nếu ở Trung Quốc, Phan Bội Châu dựa được vào cuộc cách
mạng cộng hoà vừa ra đời của Tôn Dân Tiên thì ở Pháp những hoạt động của Phan Châu
Trinh và Phan Văn Trường lại diễn ra ngay cái đầu não của một đế quốc theo đuổi một
chính sách thực dân khắc nghiệt. Trong tình thế ấy, những người không có những điều
kiện như Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường chắc chắn sẽ không thể nào hoạt động
được theo cái cách mà các ông đã hoạt động. Đặc biệt nhất là với Phan Châu Trinh: vừa
được chính quyền mẫu quốc tranh thủ, mua chuộc [18] đồng thời lại được khá đông những
nhà hoạt động văn hoá, chính trị (Babut, Marius Moutet, Jules Roux…) trong Hội Nhân
quyền và Đảng Xã hội, dựa vào những nguyên tắc của nền dân chủ và dân quyền của
Cách mạng Pháp, ủng hộ, giúp đỡ.

b. Dù 1917 hay 1919 thì khi trở lại Paris, Nguyễn Tất Thành đã gặp tất cả những thuận
lợi mà hai ông Phan đã tạo ra sẵn cho anh. Không bị những lo liệu vì sinh kế trói buộc
(trong một thời gian anh đã sống nhờ vào sự giúp đỡ của Phan Châu Trinh và một người
trong nhóm là Khánh Ký [19] ), anh còn được Phan Châu Trinh đẩy ra ngay phía trước,
trực tiếp đảm nhận công việc của một người lãnh đạo mới. Có thể nói không có sự yểm
trợ của nhóm các ông Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường thì không thể có sự xuất
hiện của Nguyễn Tất Thành với danh nghĩa Nguyễn Ái Quốc.

Cái môi trường chính trị khách quan ở “mẫu quốc” lúc bấy giờ cũng đã hỗ trợ Nguyễn Ái
Quốc không ít. Không những anh có thể đọc được các thứ sách báo mà trong nước anh
từng cho biết là bị cấm đọc (anh hay nói đến Rousseau, Montesquieu) mà còn có thể dựa
vào những điều sở đắc được trong những thứ sách báo ấy để chống lại chủ nghĩa thực
dân, không chỉ bằng viết lách, tuyên truyền mà còn có bằng những phương tiện khác như
biểu tình, kiến nghị , tổ chức, lập hội… được luật pháp của chế độ cho phép nữa.

Cái môi trường hoạt động ấy, tuy bị nhiều người coi là “cải lương”, nhưng ở Pháp vào lúc
bấy giờ đã mang tính chất khuynh tả rất rõ rệt. Ở đây ngay cả những chỉ trích, đòi hỏi ôn
hoà với chính sách thống trị của chủ nghĩa thực dân cũng chỉ tìm được sự ủng hộ nơi
những người hoạt động như Hội Nhân quyền và Đảng Xã hội như chúng ta đã biết. Vấn
đề vận động cho chủ quyền dân tộc ở đây tất yếu đã gắn liền với lập trường khuynh tả về
xã hội, cái đà xuất phát ấy là bước khởi đầu rất quan trọng đối với Nguyễn Tất Thành.
Người ta không lấy làm lạ khi thấy Nguyễn Tất Thành sau khi trở thành Nguyễn Ái Quốc
một thời gian ngắn, đã là đảng viên của Đảng Xã hội Pháp. Khi hỏi vì sao gia nhập đảng
này, anh đã trả lời một câu mà về sau anh sẽ còn lặp lại trong nhiều trường hợp khác:
“Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy nhất theo đuổi
lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái” [20] .

Tất cả những cái khác dường như anh không quan tâm lắm như về sau này anh cho biết:

“Tôi tham gia Đảng Xã hội Pháp chẳng là vì các ‘ông bà’ ấy – hồi đó tôi gọi các đồng
chí của tôi như thế – đã tỏ đồng tình với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp
bức. Còn như Đảng là gì, công đoàn là gì, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản là gì,
thì tôi chưa hiểu” [21] .

Có lẽ vì vậy mà hoạt động của anh vẫn chưa có gì thật sự mới mẻ: người ta thấy anh vẫn
thường đi chung với Phan Châu Trinh trong những cuộc họp do Đảng Xã hội tổ chức,
Yêu sách tám điểm vẫn được anh sử dụng trong vận động tuyên truyền. Nhưng cũng nhờ
việc tham gia Đảng Xã hội mà những quan hệ chính trị của anh bắt đầu trở nên rộng rãi
hơn và tích cực hơn. Những người anh tiếp xúc đã vượt ra ngoài các vị trong Hội Nhân
quyền từng ủng hộ Phan Châu Trinh. Với danh tiếng một lĩnh tụ, không những anh đã
quen những nhân vật nổi tiếng trong Đảng Xã hội như Marcel Cachin, Paul Vaillant
Couturier, Léon Blum, Raymond Lefèvre, Jean Longuet, Gaston Monmousseau… mà
còn cả những chính khách từ những nước Á, Phi tìm đến nước Pháp nhân Hội nghị
Versailles sau Chiến tranh Thế giới lần Thứ nhất để vận động độc lập cho đất nước của
họ.

“Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”

a. Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trở nên sôi nổi đặc biệt có lẽ từ khi anh bắt đầu
tham gia các hoạt động của Uỷ ban Quốc tế Ba của Đảng Xã hội thành lập vào những
tháng cuối năm 1919. Với sự bồng bột của tuổi trẻ [22] , có lẽ nhận thấy cuộc vận động
kiểu Phan Châu Trinh từ trước đến nay quá chậm chạp, ôn hoà, anh đã bắt đầu nghiêng
sang những giải pháp đấu tranh triệt để hơn, cách mạng hơn. Anh tham gia tích cực hoạt
động của Uỷ ban Quốc tế Ba, đi quyên tiền cứu trợ nạn đói ở Nga, rải truyền đơn chống
lại sự can thiệp vũ trang của chính phủ Pháp vào nước Nga. Ngoài việc thu thập tư liệu
viết Những người bị áp bức chống chủ nghĩa thực dân, anh cũng đã bắt đầu quan tâm đến
chủ nghĩa cộng sản và đã đăng đàn nói chuyện về đề tài này nhiều lần [23] .

Chúng ta không biết trong những buổi diễn thuyết đó anh nói gì, nhưng cho đến tháng 7-
1920, khi lần đầu tiên anh tiếp xúc với tác phẩm của Lenin có tên là Sơ thảo lần thứ nhất
những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, đăng trên L'humanité của Đảng Xã
hội (ngày 16-6-1920) thì như anh thuật lại sau này, ngay cả chữ nghĩa trong văn bản nói
trên anh cũng chỉ hiểu loáng thoáng thôi. Nhưng dù vậy nó đã có tác dụng quyết định
toàn bộ sự chọn lựa chính trị của anh từ đó cho đến hết cuộc đời: trong Đại hội Tours
cuối năm 1920 anh đã theo một bộ phận của Đảng Xã hội Pháp bỏ phiếu tán thành tham
gia Quốc tế Ba để trở thành cộng sản. Và lý do của quyết định lần này cũng không khác
lần anh vào Đảng Xã hội trước đây: “chỉ vì Đệ Tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải
phóng thuộc địa” [24] . Và chỉ vì lý do ấy thôi, ngay từ hôm ấy, như anh cho biết về sau,
anh đã trở thành người học trò tuyệt đối trung thành của Lenin:

“Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao!
Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang
nói trước quần chúng đông đảo: ‘Hỡi đồng bào bị đoạ đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết
cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta’” [25] .

b. Chúng ta cũng không biết sau đó Nguyễn Ái Quốc đã nghiên cứu thêm các vấn đề liên
hệ đến chủ nghĩa Lenin như thế nào nhưng đến tháng 5-1921, người ta thấy xuất hiện trên
La Revue Communiste số 15 [26] một bài tham luận của anh bàn về đề tài: “Chế độ cộng
sản có áp dụng được ở châu Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng không?”.

Câu trả lời của bài viết hiển nhiên là: được! Nhưng không phải chỉ như vậy: vì hoàn cảnh
lịch sử, chủ nghĩa cộng sản còn có thể thâm nhập vào châu Á “dễ dàng hơn là châu Âu”!
Lý do: a) Triều đại nhà Hạ (2205 trước CN) đặt ra chế độ lao động bắt buộc, b) Khổng tử
(551 trước CN) khởi xướng thuyết đại đồng và truyền bá sự bình đẳng về tài sản, 3) Luật
pháp Annam cấm mua bán toàn bộ đất đai! Với truyền thống đó châu Á có thể tiến thẳng
lên chủ nghĩa cộng sản không cần phải đi qua chủ nghĩa tư bản.

D. Hémery khi đọc lại bài viết này đã cho rằng “ông Hồ Chí Minh tương lai dám gợi ý
trái với quan điểm chính thống của Quốc tế, rằng mảnh đất tốt cho chủ nghĩa cộng sản
phát triển là châu Á” [27] . Thật sự thì đây không phải chỉ là quan điểm của Nguyễn Ái
Quốc. Mahendra Nath Roy, đến từ Ấn Độ, đã từng phát biểu trong Đại hội II Quốc tế
Cộng sản (mùa hè 1920) về tầm quan trọng quyết định của cách mạng vô sản ở những
nước phương Đông đối với cách mạng vô sản phương Tây [28] . Không biết Nguyễn Ái
Quốc đã nghe nói đến ý kiến trên đây chưa, nhưng bài viết của anh tỏ ra đã có những
điểm đồng tình với xu hướng ấy trong cuộc tranh luận về vần đề chủ nghĩa cộng sản và
phong trào giải phóng dân tộc lúc bấy giờ [29] .

Điều mà chúng ta ghi nhận ở đây là khác hẳn những phân tích thực tế của Roy, Nguyễn
Ái Quốc lại dựa vào truyền thống châu Á để biện luận. Nhưng về mặt này anh lại tỏ ra
quá khiên cưỡng: đem chế độ lao động cưỡng bức, chế độ công hữu về ruộng đất và cả…
Khổng tử ra thuyết minh cho sự tất yếu về con đường cộng sản mác-xít đối với châu Á!
Rõ ràng sự hiểu biết của anh về cách mạng vẫn còn quá “cảm tính” như sau này anh nói
[30]
. Anh không thấy được cái vực thẳm giữa các thứ công xã tiền tư bản chủ nghĩa và cái
“thế giới đại đồng” hậu tư bản chủ nghĩa của Marx là ghê gớm đến như thế nào.

Niềm tin của anh về cái mà anh gọi là “chủ nghĩa cộng sản” dường như quá dễ dãi: không
biết dựa vào đâu anh hy vọng được vào cái khả năng Đảng Xã hội Nhật có thể “ngăn cản
nước Nhật trượt dài đến vực thẳm của hiện tượng phương Tây hoá không thể cứu vãn”
cùng với cái viễn cảnh vô cùng tươi sáng về một nước Trung Hoa “được tổ chức lại và vô
sản hoá” theo con đường cách mạng của Tôn Dật Tiên!

Có lẽ Nguyễn Ái Quốc không có ý định hình thành lý luận cho một mô hình cộng sản
châu Á. Với sự hiểu biết vào lúc bấy giờ, anh không thể làm điều đó được và dường như,
xét về tính cách của anh, anh cũng không muốn làm điều đó. Mục đích của anh thiết thực
hơn nhiều: anh chỉ muốn khẳng mạnh mẽ định lòng tin mới mà anh đang có được để kêu
gọi sự giúp đỡ của những đồng chí châu Âu đối với Đông Dương. Giúp đỡ những gì?
Anh viết:

“Cái mà chúng tôi thiếu để trở thành cộng sản là những điều kiện cơ bản nhất để hành
động:

Tự do báo chí

Tự do du lịch

Tự do dạy và học

Tự do hội họp (tất cả những cái này đều bị những kẻ khai hoá thuộc địa ngăn cấm chúng
tôi một cách dã man)” [31] .

Nhưng về mặt này chúng ta cũng thật khó mà hình dung ra một cái gì đó có thể đơn giản
hơn: có tự do mới có thể thành cộng sản, còn không có tự do thì sao!

c. Thật sự thì tuy đã trở thành cộng sản rồi, Nguyễn Ái Quốc vẫn chưa vượt cái chân trời
trong bản Yêu sách tám điểm! Vì cái đảng cộng sản mà anh mới góp phần sáng lập ra
chưa phải là chính đảng nào khác hơn là Đảng Cộng sản Pháp ở châu Âu, hoạt động
trong lòng một chế độ dân chủ. Anh vẫn cứ phải theo những phương thức hoạt động của
một đảng khuynh tả từ khi còn hợp tác với Phan Châu Trinh: vận động và tuyên truyền là
chính. Nhưng do quần chúng Việt Nam ở Pháp lúc bây giờ không nhiều [32] lại ngán ngại
những gì quá gay gắt nên anh phải đến với quần chúng Pháp. Ngoài việc xin vào Hội
Tam điểm, anh còn thường xuyên dự những buổi sinh hoạt của Câu lạc bộ Faubourg để
thảo luận đủ thứ các loại đề tài, đại loại như “Thầy thuốc là một lũ lang băm hay là những
ân nhân của loài người” hoặc “Phương pháp chữa bệnh bằng thôi miên”… Trong những
cuộc họp ấy, khi có dịp anh thường lái câu chuyên sang vấn đề… tội ác của thực dân!
Chẳng hạn trong lần thảo luận về thôi miên, anh đã phản đối kịch liệt vì anh cho rằng
“thực dân Pháp đã thôi miên chúng tôi để đàn áp và bóc lột chúng tôi” [33] !

Tuy vậy vào thời kỳ này, anh cũng đã thực hiện được một số công việc đặc biệt khi tham
gia Đảng Cộng sản Pháp như sau:

• Thúc đẩy Đảng Cộng sản Pháp quan tâm và giúp đỡ thiết thực phong trào đấu
tranh chống thực dân ở Đông Dương. Trong các buổi họp chi bộ, hoặc hội nghị
của Đảng, hễ có dịp là anh nêu ra vấn đề để nhắc nhở phê bình. Cuối năm 1922,
tham gia Ban Nghiên cứu Thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, được cử làm
Trưởng ban Đông Dương.

• Liên hệ với đại biểu những xu hướng chống thực dân ở một số nước Á Phi để lập
mặt trận quốc tế những nước bị trị mà biểu hiện cụ thể là thành lập “Hội Liên hiệp
Thuộc địa” cuối năm 1921 với cơ quan ngôn luận là Le Paria. Tổ chức mới này
đã trở thành cơ sở hoạt động mới của Nguyễn Ái Quốc, thay cho Hội những
người Annam yêu nước cũ.
“Ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội”?

a. Việc Nguyễn Tất Thành dần dần tách rời khỏi cái “điểm xuất phát” để mang cho danh
xưng Nguyễn Ái Quốc nội dung “cộng sản” là điều rất hiển nhiên. Phan Châu Trinh,
người nâng đỡ anh suốt một thời gian dài, tuy có bộc lộ thái độ “không tán thành” anh
nhiều điểm, nhưng ông vẫn giữ thái độ cởi mở và quan hệ tốt với anh. Ông chỉ phê bình
cái phương pháp hoạt động mà ông gọi là “ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội” [34] mà
anh đang theo đuổi thôi. Trong bức thư đề ngày 18-2-1922 từ Marseille [35] , ông đã viết
cho anh những dòng mang tính chất tổng kết về cái nhóm yêu nước trong đó có anh như
sau:

“Bấy lâu nay, tôi cùng anh và Phan (Phan Văn Trường) đàm đạo nhiều việc, mãi tới bây
giờ, anh cũng không ưa cái phương pháp khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh của
tôi. Còn tôi thời lại không thích cái phương pháp ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội
của anh, và cả cái lý thuyết thâu nhân tâm của Phan. Bởi phương pháp bất hoà mà anh
đã nói với anh Phan là tôi là hạng hủ nho thủ cựu. Cái điều anh gán cho tôi, tôi chẳng
giận tí nào cả, bởi vì suy ra thì tôi đã thấy rằng: tôi đọc chữ Pháp bập bẹ, nên đã thua
anh xa lắm, đừng nói gì đọ với anh Phan” .

Phan Châu Trinh bày tỏ sự khâm phục của mình với Nguyễn Ái Quốc nhưng ông cho
rằng cái phương pháp “ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội” – mà ông diễn tả tóm tắt
là “quanh quẩn bên này”, “viết bài đăng báo chương trên đất người để mà hô hào quốc
dân đồng bào bên nhà đem tinh thần nghị lực ra làm việc nước”–, cái phương pháp mà
anh đang theo đuổi ấy sẽ làm cho tài năng của anh “lần hồi mai một” “phí công mà thôi”.
Trong thư, Phan Châu Trinh biết rõ Nguyễn Ái Quốc đang tôn thờ chủ nghĩa của hai ông
“Mã, Lý”, nhưng không bày tỏ ý kiến gì về việc đó mà chỉ khuyên anh nên đem cái chủ
nghĩa ấy về bên nhà “quảng cáo cho quốc dân đồng bào, ai nấy đều biết” rồi “hô hào
quốc dân đồng bào, đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế” – như vậy sẽ “hay
biết chừng nào”, “ắt là thành công”.

b. Những ý kiến của Phan Châu Trinh trong bức thư nói trên đã giúp chúng ta nhìn lại rõ
hơn những hoạt động của Nguyễn Tất Thành-Nguyễn Ái Quốc trong thời gian anh trở lại
Pháp. Bà Thu Trang đã chia khoảng thời gian ấy thành hai giai đoạn: 1) Thời gian đầu
đến 1920: từ Anh sang Paris học hỏi, phần nào chịu ảnh hưởng của Phan Châu Trinh, 2)
Từ 1920 đến 1923 (trước khi sang Nga): tìm đường đến với chủ nghĩa cộng sản, mở rộng
môi trường hoạt động, tách rời khỏi ảnh hưởng của Phan Châu Trinh [36] .

Cái mốc biến chuyển tuy có rõ rệt nhưng trong thực tế phương thức hoạt động của
Nguyễn Ái Quốc trong cả hai giai đoạn nói trên đều chưa có gì khác nhau lắm. Như
chúng ta đã biết, tất cả đều diễn ra trong cái môi trường chính trị của “mẫu quốc”, được
truyền thống của một định chế dân chủ cho phép, được một số người Pháp cấp tiến giúp
đỡ, trong một cộng đồng “Việt kiều” ít ỏi, nên những hoạt động dù đã chuyển biến từ “xã
hội” (tả) sang cộng sản (“cực tả”) đi nữa, tất cả đều chưa thoát khỏi giới hạn của những
điều kiện đã quy định chúng: các cuộc vận động đều chỉ nhằm vào tác dụng đánh động,
tố cáo, kêu gọi sự giúp đỡ từ bên ngoài từ nhiều nguồn, chứ chưa đụng chạm trực tiếp gì
đến những vấn đề nội tại là vấn đề then chốt của mọi công cuộc giải phóng.

Việc Nguyễn Ái Quốc trở thành cộng sản và tham gia – kể cả sáng lập – Đảng Cộng sản
Pháp cũng không đưa đến những bước đi vượt bậc được. Về mặt này, những hoạt động
nói trên của Nguyễn Ái Quốc vẫn chỉ lặp lại những toan tính ban đầu của những bậc cha
chú của anh là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh: trước tình trạng bế tắc hoàn toàn về
viễn cảnh của đất nước, nội lực bên trong chưa có gì, việc đi ra ngoài tìm một “quới
nhơn” để dựa dẫm, giúp đỡ là điều không tránh khỏi. Phan Bội Châu muốn dựa vào Nhật,
rồi sau là Trung Hoa. Phan Châu Trinh muốn dựa vào nước Pháp của Cách mạng 1789.
Bây giờ Nguyễn Ái Quốc muốn dựa vào Đảng Cộng sản Pháp đã theo Đệ Tam Quốc tế.
Sự khác nhau chỉ là những lực lượng cụ thể, không có gì bảo đảm về sự hiệu nghiệm tất
yếu do các thực thể ấy mang lại.

Cả một thời gian dài, sau khi gia nhập, Nguyễn Ái Quốc luôn luôn nhân danh “Luận
cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lenin để phê bình và kêu gọi Đảng Cộng sản
Pháp quan tâm thiết thực đến các thuộc địa. Nhưng những đề nghị của anh về việc giúp
đỡ này vẫn không có gì khác hơn là tuyên truyền và tố cáo! Trong khi đó thì Đảng Cộng
sản Pháp vừa mới hình thành, đường lối chưa rõ rệt, phương tiện hoạt động bị giới hạn,
dù có cố gắng đến thế nào đi nữa cũng không thể làm cho tình thế các thuộc địa khá hơn
ngoài việc đẩy mạnh việc… tuyên truyền và tố cáo! Lý do: Đảng chỉ là một đảng quần
chúng, một đảng chưa có ngân sách và guồng máy của một đảng đã cầm quyền như đảng
ở Nga. Hoạt động trong một môi trường chính trị như vậy, Nguyễn Ái Quốc không biết
làm gì khác hơn là “ngoạ ngoại chiêu hiền, đãi thời đột nội” như Phan Châu Trinh đã
miêu tả rất chính xác.

Sự chọn lựa Đệ Tam Quốc tế của Nguyễn Ái Quốc trong những năm ở Pháp do đó chỉ là
một bước dò đường tiếp nối sau cuộc ra đi và sau những ngày được ấp ủ trong cái nôi của
Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường. Sự chọn lựa chưa thể mang đến một điều gì thật
quan trọng cho Việt Nam như những người sùng bái Hồ Chí Minh đã cho là như vậy.
Chúng ta hãy giả định điều sau đây: nếu Nguyễn Ái Quốc cứ ở luôn tại Pháp thì liệu anh
có trở thành Hồ Chí Minh sau này không? Nếu anh ở luôn ở Pháp thì anh sẽ có gì khác
với những người đồng thời với anh, cũng đã sang Pháp và trở thành “khuynh tả” như anh,
những Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh [37] , Nguyễn Thế Truyền [38] …?

Nhưng cũng may lần này câu hỏi giả định của chúng ta vẫn không được đặt ra trong thực
tế. Trong thực tế, sau thời gian thể nghiệm một mô thức hoạt động cộng sản kiểu châu
Âu, vì một lý do chẳng có gì là tất định, Nguyễn Ái Quốc đã rẽ sang một bước ngoặt
quyết liệt: có lẽ nghe lời khuyên ngày 18-2-1922 của Phan Châu Trinh, anh đi sang Nga
dự một hội nghị trong một thời gian ngắn rồi sẽ tìm đường về nước hoạt động. Nhưng
chính trong chuyến đi này anh đã tạo ra được những quan hệ mới với phong trào cộng sản
quốc tế, từ đó lao hẳn vào một hướng đi có chất lượng khác hoàn toàn: anh không còn
hoạt động trong môi trường văn hoá châu Âu nữa. Anh trở về với cái thế giới phương
Đông xưa cũ của anh, có lẽ vì đó mà anh mới có được điều kiện để từ giã thật sự cái nôi
Phan Châu Trinh đã ấp ủ anh từ ngày hướng về phương Tây, anh bỏ nước ra đi.
© 2007 talawas

[1]
Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb Văn Học,
Hà Nội, 1975, tr. 28-29.
[2]
“Người đã sáng lập ra Hội những người Annam yêu nước, gửi đến Hội nghị Vécxây
Yêu sách của nhân dân Annam t…” t. Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000, Chú thích số 23, tr. 492.
[3]
Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris (1917-1920), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002, tr. 60.
[4]
Trần Dân Tiên: Sđd, tr. 27.
[5]
Xem Phan Thị Minh: Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới, Đà Nẵng, 2001, Quyển
4, tr. 240.
[6]
Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 27-28.
[7]
Cũng trong bản khai với Quốc tế Cộng sản 1938, Nguyễn Ái Quốc đã cho biết ngày
sinh của ông là 1903 (trong khi ngày công bố chính thức: 1900), mẹ ông mất 1910 (thật
ra là 1901). Xem Sophie Quinn-Judge: Như trên, tr. 27.
[8]
Nhóm những người Annam yêu nước năm 1920-1921 “tập hợp độ 15 người tích cực
yêu nước, gồm Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, những người xuất dương đầu tiên và
những phần tử trẻ nhất, trong đó có Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn An Ninh và Nguyễn Thế
Truyền kể từ 1922” (D. Hémery: Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác, Nguyễn
Trọng Cổn lược dịch, Nxb Lao động, Hà Nội, 2001, tr.26).
[9]
Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 24-25.
[10]
“Ông Nguyễn không đủ tiếng Pháp để viết và phải khẩn khoản yêu cầu ông Phan Văn
Trường viết thay. Ông Trường viết gỉỏi nhưng không muốn ký tên. Mà chính ông
Nguyễn đã phải ký tên những bài báo.” (Trần Dân Tiên: Sđd, tr. 31)
[11]
Thu Trang đã phân tích bài “Thư trả lời ông Outrey” (Le Populaire, 14-10-1919) và
bài “Vấn đề người bản xứ Đông Dương” (L'humanité, 2-8-1919) và cho rằng tuy ký tên
Nguyễn Ái Quốc nhưng văn phong và cách lập luận là của Phan Văn Trường (Xem Thu
Trang: Sđd, tr. 92-96).
[12]
Nguyễn Ái Quốc: “Việt Nam yêu cầu ca”, Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 1, Sđd, tr. 438-
439.
[13]
Xem Thu Trang: Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp (1911-1925), Nxb
Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2000, Chú thích 11, Chương năm, tr. 150.
[14]
Phan Thị Minh: “Thử xác định thêm năm nào Hồ Chí Minh đến Pháp và xuất xứ của
danh hiệu Nguyễn Ái Quốc”, trong Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris (1917-1923),
Sđd, tr. 422-423.
[15]
Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường được chính quyền Pháp trả tự do vào tháng 7-
1915, (vì không đủ bằng chứng kết tội hai ông về việc nhận tiền của Đức để chống Pháp),
luôn bị mật thám theo dõi, khó hoạt động, nên có người đã cho rằng có thể vì đó hai ông
“đã chủ động kéo” Nguyễn Tất Thành sang Pháp để “chuẩn bị cho một cuộc chuyển giao
thế hệ”, từ việc lập ra “Hội những người Annam yêu nước” (1917) đến việc công bố Yêu
sách tám điểm (1919). Xem Phan Thị Minh: Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới,
Nxb Đà Năng, 2001, Quyển 4, tr. 247. Thiết tưởng đây vẫn chỉ là một giả thuyết.
[16]
Kém Phan Châu Trinh 3 tuổi. Quê ở làng Vẽ (Hà Nội). Vào làm toà Khâm sứ Bắc Kỳ,
cuối 1908 được tuyển sang Paris làm phụ giảng tiếng Việt ở Trường Ngôn ngữ phương
Đông. Xin học luật và xin nhập Pháp tịch. Từ 1910, thuê một căn hộ nhà số 6 Villa des
Gobelins, những năm sau thành nơi ở của nhóm Việt Nam yêu nước tại Pháp trong đó có
Phan Châu Trinh và Nguyễn Ái Quốc. Phan Văn Trường có hai anh ruột (Phan Tấn
Phong, Phan Trường Khiêm) có liên can đến vụ ném bom ở Hà Nội năm 1913. (Xem Thu
Trang: Sđd, tr. 47 và 58). Cuối năm 1923, rời Pháp về nước và hoạt động ở Sài Gòn. Mất
1933, 58 tuổi.(Xem Phan Thị Minh: Phan Châu Trinh qua những tài liệu mới, Nxb Đà
Nẵng, 2001, Quyển 3, Tập 1, tr. 114).
[17]
Hội do Phan Văn Trường làm chủ tịch. Ra mắt ngày 18-1-1912 tại trường Parangon
nơi có đông sinh viên Việt Nam học. Phát biểu tại buổi Hội ra mắt có Phan Châu Trinh,
Phan Văn Trường và Jules Roux. Không khai báo với sở cảnh sát. Thường họp ở tiệm cà
phê hay tiệm ăn Tàu. (Xem Thu Trang: Sđd, tr. 48).
[18]
Chính sách của chính quyền Pháp đối với Phan Châu Trinh vào những năm ông mới
sang Pháp bao gồm có việc trợ cấp sinh sống, tìm cách sử dụng làm chuyên gia nghiên
cứu một số vấn đề ở Đông Dương, nhưng đồng thời cho mật thám và cử người ở bên
cạnh theo dõi thường xuyên . (Xem Phan Thị Minh: Phan Châu Trinh qua những tư liệu
mới, Sđd, Quyển 3, tập1, tr. 53-56).
[19]
Tên thật là Nguyễn Văn Xuân, làm nghề buôn máy ảnh, thường đi lại bên Đức lúc bấy
giờ.
[20]
Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 60.
[21]
Hồ Chí Minh: “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, bài viết cho tạp chí Các vấn
đề phương Đông (Liên xô) 1960, trong Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị
quốc gia, 2000, tr. 126.
[22]
Một mật báo tháng 1-1920 đã ghi lại những lời lẽ sau đây của Nguyễn Ái Quốc với
một “Việt kiều”: “Bây giờ anh lại trách tôi là quá mạnh. Hỏi thử các anh đã làm gì từ
năm năm nay? Chẳng một ai biết đến Annam cả. Nếu cần phải “ba gai” hay làm cả những
gì vớ vẩn để thiên hạ biết đến, chúng ta cũng phải làm. Nếu ai hỏi tôi nhóm người cách
mạng ở đâu, tôi sẽ trả lời họ là 20 triệu người bên ấy, họ đã phản đối hàng ngày mà bị
dìm đi. Nói cho cùng ai làm gì tôi? Bỏ tù tôi ư? Lưu đày tôi ư? Hoặc cắt đầu tôi, điều ấy
có xảy ra tôi cũng bất cần!”. (Xem Thu Trang: Những hoạt động của Phan Châu Trinh
tại Pháp, Sđd, tr. 130-131).
[23]
Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Sđd, tr. 78, 80.
[24]
Trần Dân Tiên, Sđd, tr. 44.
[25]
Hồ Chí Minh: “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin”, Sđd, tr. 127.
[26]
Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 1, Sđd, tr. 33-36.
[27]
D. Hémery: Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác, Sđd, tr. 29.
[28]
Hélène Carrère d’Encausse et Stuart Shram: Le Marxisme et l’Asie 1853-1964,
Armand Colin, Paris, 1965, p. 199.
[29]
Trong phiên họp thứ 8 Đại hội V Quốc tế Cộng sản, 23-6-1924, Nguyễn Ái Quốc đã
phát biểu một luận điểm tương tự: “Tất cả các đồng chí đều biết rằng hiện nay nọc độc và
sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở thuộc địa hơn là chính quốc.
Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy; các thuộc địa cung cấp binh lính
cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản
cách mạng. Thế mà các đồng chí khi nói về cách mạng, các đồng chí lại khinh thường
thuộc địa” (Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 1, Sđd, tr. 274).
[30]
“Lúc bấy giờ tôi ủng hộ Cách mạng tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên. Tôi chưa
hiểu hết tầm lịch sử quan trọng của nó.” (Hồ Chí Minh: “Con đường dẫn tôi đến chủ
nghĩa Lênin”, Sđd, tr. 126).
[31]
Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 1, Sđd, tr. 36.
[32]
Thống kê của chính phủ Pháp cho biết số lượng ngưới Việt Nam có mặt ở Pháp và Bắc
Phi đến 30-3-1923 là 8.245 người. (Xem D. Hémery: Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ
nghĩa Mác, Sđd, tr. 17).
[33]
Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử, Sđd, tr. 117.
[34]
Ngồi ngoài gọi kẻ giỏi ra, đợi thời mà vào thình lình. Ý nói: gọi người ra ngoài giúp
mình để đợi thời cơ mới về.
[35]
Xem Thu Trang: Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925, Sđd, tr.
176-181.
[36]
Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris, Sđd, tr. 47-48.
[37]
Nguyễn An Ninh sinh ngày 6-9-1900 tại Chợ Lớn. Gia đình tiểu địa chủ. Học tiểu học
tại Taberd và trung học tại Chasseloup-Laubat (Sài gòn). Từ 1918 đến 1920, học luật tại
Đại học Hà nội, sang Pháp học tiếp và tốt nghiệp tại Paris năm 1921. Trong thời gian ở
Pháp có tham gia phong trào chống thực dân với Nguyễn Ái Quốc, Phan Châu Trinh,
Phan Văn Trường. Du lịch nhiều nơi ở châu Âu để mong tìm một ý thức hệ cho Việt
Nam. 1923 về Sài Gòn lập ra báo La cloche fêlée. Khởi đầu chủ xướng đường lối hợp tác
Pháp Việt, nhưng 1924 quay sang phổ biến tư tưởng của Tagore và Gandhi. 1925, La
cloche fêlée thường trực giới thiệu những tác phẩm của những nhà lý luận cộng sản như
Zinoviev, Bukharin, Karl Radek, Gabriel Péri và những bài đã in trong L'humanité của
Đảng Cộng sản Pháp. 1926, in toàn bộ Tuyên ngôn cộng sản. Tháng 5-1926, Nguyễn An
Ninh bị bắt, La cloche fêlée đình bản. (Xem Huỳnh Kim Khánh: Vietnamese communism
1925-1945, Cornell University Press, Ithaca and London, 1982, Chú thích 26, tr. 49-50).
[38]
Nguyễn Thế Truyền sinh 17-12-1898 ở Hành Thiện (Bắc Kỳ). Uỷ viên Tiểu ban Thuộc
địa của Đảng Cộng sản Pháp. Cộng tác với tờ Le Paria. Viết lời nói đầu cuốn Bản án chế
độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc. Theo cảnh sát Pháp, từ 1925 và 1927, anh là nhà
hoạt động tích cực nhất trong phong trào cách mạng Việt Nam ở Pháp, là linh hồn của
phong trào vùng Paris. Nhưng năm 1926 hoặc 1927, anh cắt đứt với Đảng Cộng sản, lập
ra Đảng Việt Nam Độc lập và trở về Sài Gòn ngày 9-1-1928. Trở thành người theo chủ
nghĩa dân tộc, sống ở Bắc Kỳ, rồi lại sang Pháp từ 1934 đến 1938. (Xem D. Hémery: Từ
chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác, Sđd, Chú thích 3, tr. 26).

Chương 3

Từ Nga sang Trung Quốc

Thời gian ở Nga

1. Mục đích của Nguyễn Ái Quốc từ Pháp sang Nga là gì? Sách của Trần Dân Tiên
không cho biết. Nhưng nhiều người cho rằng anh đến Liên Xô để dự Đại hội Quốc tế
Cộng sản (QTCS) lần thứ 5 [1] .

Không đúng! Đại hội QTCS lần thứ 5 họp từ 17-6 đến 3-7-1924. Trước đó hơn hai tháng,
trong bức thư đề ngày 11-4-1924 gửi Ban chấp hành QTCS, Nguyễn Ái Quốc viết:

“… từ lúc tôi tới Mátxcơva đã có quyết định rằng sau ba tháng lưu lại ở đây, tôi sẽ đi
Trung Quốc để tìm cách liên lạc với đất nước tôi. Bây giờ đã là tháng thứ chín tôi lưu lại
và tháng thứ sáu tôi chờ đợi, vậy mà việc lên đường của tôi chưa được quyết định” [2] .

Ý này được nhắc lại trong thư đề ngày 11-9-1924 gửi QTCS sau Đại hội cũng hơn hai
tháng:

“Tôi đã đến Mátxcơva vào tháng 7-1923. Tôi sẽ ra đi sau 3 tháng lưu lại ở đây. Vì lý do
này hay lý do khác, việc lên đường của tôi đã bị hoãn hết tuần này sang tuần khác, rồi
hết tháng này sang tháng khác” [3] .

Như vậy, cả Đảng Cộng sản Pháp lẫn Đảng Cộng sản Nga, không đảng nào dự trù sự
tham dự của Nguyễn Ái Quốc vào Đại hội 5 QTCS cả.

Thật sự thì lý do chính thức đưa Nguyễn Ái Quốc sang Nga là để dự Hội nghị lần thứ
nhất Quốc tế Nông dân, một tổ chức quần chúng do QTCS lập ra để tập hợp lĩnh tụ của
những đảng nông dân cánh tả hoặc hiệp hội nông dân từ châu Âu, Á, Mỹ. Khai mạc tại
cung Andreyev trong điện Kremlin ngày 10-10-1923 [4] .

Như trong các thư gửi QTCS, Nguyễn Ái Quốc định họp xong Hội nghị này thì sẽ sang
Trung Quốc (khoảng cuối năm 1923) chứ không có ý định ở lại lâu đến hơn cả năm như
đã xảy ra. Và điều này khiến Nguyễn Ái Quốc không khỏi bực bội, như lời lẽ trong hai
bức thư đã chứng minh, nhất là bức đề ngày 11-9-1924 nói trên.

Có một chi tiết đáng chú ý: sau khi dự Hội nghị Quốc tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc đã
viết cho QTCS nhờ can thiệp về một chuyện lặt vặt, lời lẽ tỏ ra không kém gay gắt: được
bố trí một nơi ở quá tồi tệ, anh đã phản đối bằng cách không đóng tiền nhà và đã bị Sở
Quản lý Nhà hăm đưa ra toà [5] . Không biết vụ việc được giải quyết ra sao nhưng sau đó
hơn nửa năm, anh được đổi chỗ ở đến khách sạn Lux, tạm thời thuộc biên chế Ban
phương Đông. Một đại biểu được dự kiến cho Đại hội Quốc tế không bao giờ bị đối xử
theo kiểu đó.

2. Như vậy là Nguyễn Ái Quốc đã bị “kẹt” lại ở Nga. Và chính do bị kẹt lại, anh mới có
thời gian dự nhiều hội nghị.

a. Sau Đại hội Quốc tế Nông dân lần 1, anh đã tham dự Đại hội lần 5 Quốc tế Cộng
sản (tháng 6, 7-1924) và Đại hội lần 3 Quốc tế Công hội đỏ (tháng 7-1924) – từ
những diễn đàn này anh có điều kiện để tuyên truyền những chủ đề quen thuộc
của anh từ trước: đánh động tố cáo trước dư luận tình cảnh nhân dân Việt Nam bị
thực dân Pháp nô dịch và gióng lên tiếng chuông xin được “cứu” và “giúp”.
Trong Đại hội lần thứ 5 QTCS, anh được mời tham dự với tư cách là đại biểu tư
vấn (không bỏ phiếu). Trong Đại hội này, anh đã gặp M. N. Roy, người Ấn Độ,
tán thành quan điểm của vị đại biểu này (nhấn mạnh đến tính chất quyết định của
cách mạng phương Đông đối với cách mạng phương Tây) và dựa vào đó để phê
bình thái độ “xem thường” của những “đồng chí ở chính quốc” đối với vấn đề
thuộc địa [6] .
b. Anh cũng đã tìm cách gặp những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của QTCS, góp ý trực
tiếp và đề đạt những vấn đề mà anh ấp ủ từ lâu. Ngày 15-3-1924, xin gặp
Zinoviev (chủ tịch QTCS) [7] để thảo luận vấn đề thuộc địa của Pháp. Ngày 20 –5-
1924, xin gặp Petrov (Tổng thư ký Ban phương Đông của QTCS) đề nghị triệu
tập Tiểu ban phương Đông họp bàn việc thành lập một “nhóm châu Á” ở Trường
Đại học phương Đông [8] v.v… Ý tưởng chính trong những cuộc gặp gỡ đó vẫn là
dựa vào QTCS làm áp lực với những Đảng Cộng sản châu Âu đồng thời vận động
sự giúp đỡ tích cực và thiết thực của QTCS đối với vấn đề thuộc địa.

c. Ngoài việc tham dự các hội nghị để trực tiếp trao đổi ý kiến, cuối năm 1923,
Nguyễn Ái Quốc có vào học Trường Đại học Cộng sản của Những người Lao
động phương Đông tại Moskva. Chính ở đây anh đã trả lời phóng viên báo
L'Unità của Đảng Cộng sản Ý về lý do anh rời nước sang châu Âu, tại sao anh xin
vào học Đại học phương Đông, cơ sở giáo dục được anh ca ngợi hết mực về vai
trò của nó đối với các dân tộc thuộc địa” [9] . Riêng đối với anh, sự quan trọng ấy
về sau này là quá rõ ràng: khi sang Trung Quốc, anh đã gửi nhiều chiến sĩ cộng
sản Việt Nam sang đây học tập. Sự đào tạo này có mục đích rất thiết thực là bồi
dưỡng xây dựng những cán bộ cốt cán cho Đảng, những cái máy cái cho phong
trào cộng sản, rất cụ thể, chứ không mơ hồ và bấp bênh như trường hợp Đông du
của Phan Bội Châu trong những năm 1905-1907.

d. Tuy chưa phải là một nhân vật quan trọng trong QTCS, Nguyễn Ái Quốc đã trở
thành một cán bộ cộng sản xác tín, chuyên nghiệp. Anh tìm thấy ở nước Nga một
chỗ dựa vững chắc hơn hồi còn hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp: anh đã gia
nhập một tổ chức cách mạng quốc tế được một nhà nước chính thức ủng hộ, bao
bọc về nhiều mặt (đường lối, chỉ đạo, huấn luyện, tài chính… ), một thứ “La
Mecque mới” cho phương Đông như Maring đã nói trong Đại hội QTCS lần II
tháng 7-1920 [10] . Đó là sự chuyển biến về mặt bản thân anh, nhưng khách quan,
việc sang Moskva vào thời điểm đó đã đưa anh hội nhập phong trào cách mạng vô
sản quốc tế đang đi vào một cuộc chuyển động hết sức quan trọng với những điểm
đáng chú ý như sau:

o QTCS được Đảng Cộng sản Nga sử dụng như một công cụ đối ngoại. Do
viễn cảnh ngày càng mịt mùng của cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây
– nỗ lực cuối cùng của cách mạng vô sản Đức vào tháng 10-1923 đã gặp
sự thờ ơ của công nhân Đức – Đảng Cộng sản Nga toan tính quay sang
chinh phục thế giới nông dân rộng lớn ở phương Đông. Bắt đầu bằng
thành lập Nông dân quốc tế.

o Trong bản thân nước Nga cũng đã có những thay đổi. Chủ nghĩa cộng sản
thời chiến chuyển sang NEP, thoả hiệp với nông dân. Không thể chờ đợi
sự “bổ sung” của “cuộc cách mạng thứ nhất” ở châu Âu, Nga đã buộc phải
tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một nước. Đối ngoại: tranh thủ
những nước ngoài châu Âu như một trong những cố gắng phá vỡ vòng vây
cô lập – Trung Quốc với chính quyền Tôn Dật Tiên đã trở thành đối tượng
hợp tác chủ yếu.
o Tất cả những yếu tố trên đây đã đưa Nguyễn Ái Quốc tới Nga. Từ Nga,
Nguyễn Ái Quốc sang Trung Quốc được cũng hoàn toàn nhờ kế hoạch ấy
(vấn đề Đông Dương vào lúc bấy giờ chưa được Nga chú ý tới). Lý do
Nguyễn Ái Quốc bị kẹt lại Nga, không thể nhanh chóng sang Trung Quốc
như ý muốn là do việc triển khai chính sách hợp tác của Nga đối với
Trung Quốc chưa hoàn tất: Borodine mới tới Quảng Châu vào mùa thu
tháng 7-1923, trong khi đó thì sĩ quan và giáo viên gửi sang huấn luyện
quân đội Quốc dân Đảng mãi tháng 6, tháng 7, tháng 10-1924 mới đến [11] .

Sang Trung Quốc

1. Nguyễn Ái Quốc cho biết ngày 11-11-1924 – có chỗ anh lại viết là tháng 12-1924 –
anh tới Quảng Châu. Có ý kiến cho rằng trước khi sang Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã
được cử làm phái viên toàn quyền Ban Thư ký Viễn đông của Ban Chấp hành Quốc tế
Cộng sản [12] . Tương tự như vậy có người đã viết: tuy không lộ cương vị trong QTCS,
nhưng công khai Nguyễn Ái Quốc vẫn được xem là “cố vấn và người phiên dịch cho
Borodin” [13] , nếu không cụ thể như vậy thì đại khái như một cái gì đó bao gồm cả trợ lý,
thư ký, phiên dịch, chuyên viên về các vấn đề châu Á cho Borodin [14] .

Tất cả đều không đúng! Riêng về phiên dịch cho Borodin (theo nghĩa toàn diện là viết và
nói được tiếng Trung Quốc) thì không thể vì chính Nguyễn Ái Quốc cho biết lúc bấy giờ
anh “chỉ biết viết chứ không biết nói” thứ tiếng này [15] . Còn tư cách thật sự của anh khi
sang Trung Quốc là gì đựơc anh nói rõ trong thư ngày 11-9-1924 gửi Voitinsky (Thư ký
Ban Phương Đông QTCS, Phó Tiểu ban Viễn Đông):

“1) Ban sẽ giới thiệu tôi với Quốc dân Đảng để tôi làm việc ở đấy vì ngoài lộ phí, Ban
không thể giúp tôi về tài chính. 2) Tôi sẽ ở chỗ đó với tư cách cá nhân chứ không phải
với tư cách là cán bộ của Quốc tế Cộng sản. 3) Tôi sẽ không có những quan hệ với Đảng
chúng tôi (Đảng Cộng sản Pháp - LP) ở Trung Quốc.

Dù tất cả những điều kiện đó đối với tôi là khó, nhưng tôi vẫn chấp nhận để có thể đi
được. Để cứu vãn các điều kiện 2 và 3, tôi yêu cầu Đảng tôi cho tôi một giấy uỷ nhiệm,
và gởi cho Đảng Trung Quốc một bức thư yêu cầu giúp đỡ tôi trong công tác. Vậy là vấn
đề đã được giải quyết” [16] .

Qua thư trên đây, chúng ta thấy việc Nguyễn Ái Quốc được đưa về Trung Quốc như là
một bộ phận trong kế hoạch nghiêm ngặt của Nga đối với Quốc dân Đảng. Không được
nhân danh QTCS, không được quan hệ với Đảng Cộng sản Pháp ở Trung Quốc. Tất
nhiên không thể mang tên Nguyễn Ái Quốc như ở Nga. Có liên quan đến QTCS thì cũng
chỉ đại diện cho tổ chức quần chúng của QTCS là Quốc tế Nông dân. Và cũng chỉ đại
diện bí mật thôi. Gửi cho Dombal, Tổng thư ký Quốc tế Nông dân ngày 12-11-1924,
Nguyễn Ái Quốc đã cho biết tình trạng đặc biệt đó của mình:

“Về việc liên quan tới vị trí của tôi là ủy viên Đoàn chủ tịch Quốc tế Nông dân thì đồng
chí cứ làm nếu như đồng chí xét là tốt hoặc là đề nghị thay thế tôi, ở trường hợp này
đồng chí nói là tôi ốm, chứ đừng nói tôi vắng mặt, bởi vì tôi sống bất hợp pháp ở đây.
Hoặc là nếu đồng chí thấy có ích thì cứ giữ lại cái danh nghĩa dân thuộc địa Nguyễn Ái
Quốc để trang trí cho những tuyên ngôn và những lời kêu gọi của Hội đồng” [17] .

Nói chung, tuy ở Nga đã là cán bộ của Ban phương Đông Quốc tế [18] nhưng sang Trung
Quốc, Nguyễn Ái Quốc không có một danh nghĩa nào ngoài là phóng viên và phiên dịch
cho hãng Rosta (tiền thân của TASS) lương 150 đôla/ tháng, với tên Nga: Nilốpxki, tên
Trung Hoa: Lý Thuỵ.

Trong tình trạng “bất hợp pháp” ấy, muốn hoạt động cho Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc
phải nhờ Đảng Cộng sản Pháp giới thiệu với Đảng Cộng sản Trung Quốc để móc nối với
cơ sở, còn về phương tiện thì phải tự lực hoàn toàn. Vì phải dùng tiền lương vừa để sinh
sống vừa chi cho công việc, Nguyễn Ái Quốc thường viết thư cho QTCS than phiền và
luôn đề nghị giúp đỡ về tài chính.

2. Mặc dù với những khó khăn như vậy, Nguyễn Ái Quốc đã gặp rất nhiều thuận lợi
khách quan để triển khai những hoạt động đã định trước của mình.

• Nguyễn Ái Quốc có mặt tại Quảng Châu vừa đúng lúc phái bộ quân sự của Nga
đã đến đầy đủ: khoảng 50 huấn luyện viên. Chuyến tàu chở vũ khí của Nga đầu
tiên từ Vladivostok đã đến Quảng Châu vào 8-10-1924. Mặt trận thống nhất giữa
Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc dân Đảng đã hình thành xong trong Đại hội
lần thứ nhất của Quốc dân Đảng vào tháng 1-1924. Trong 10 đảng viên cộng sản
được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Quốc dân Đảng thì có ba người được cử
vào Ban Thường vụ [19] . Đoàn Thanh niên Xã hội Chủ nghĩa cũng gia nhập Quốc
dân Đảng với tư cách cá nhân. Trong khi đó thì việc thiết lập Trường Võ bị trên
đảo Hoàng Phố (sông Châu Giang) đã được chấp thuận thành lập.

• Để triển khai công việc, Nguyễn Ái Quốc đã tìm cách liên lạc ngay với cộng đồng
những người Việt Nam. Sau khi đế chế Mãn Châu sụp đổ 1911, Quảng Châu đã
trở thành tiền đồn của những chiến sĩ Việt Nam lưu vong. Nhưng sự giúp đỡ của
cách mạng Trung Quốc nhạt đi, cộng với tình trạng khủng bố quyết liệt của thực
dân trong nước đã làm cho những hy vọng phai dần. Một số hành động khủng bố
của Phan Bội Châu, mục đích lôi cuốn sự quan tâm của Tôn Dật Tiên và Đức, đã
làm cho Quang phục Hội mất đi một số cán bộ. Việc đặt bom tại khách sạn Hà
Nội vào tháng 4-1913, trong đó có hai người anh của Phan Văn Trường tham dự,
đã làm 7 chiến sĩ bị xử tử và 57 người khác bị tù.

• Những người Việt lưu vong ở miền Nam Trung Quốc bấy giờ không phải là một
cộng đồng chặt chẽ. Họ thường vào học các trường võ bị địa phương, nhiều nhất
tại trường Vân Nam do tướng Yang Ximin chỉ huy. Có một số sống ngoài vòng
pháp luật, như Tam Kam Say, buôn thuốc phiện và cướp trâu ở biên giới. Uy tín
của Phan Bội Châu ở đây không còn như cũ. Bị quân phiệt Trung Quốc bắt giam
từ 1914-1917, sau khi được tha, ông đã về Hàng Châu kiếm sống bằng những bài
viết gửi cho tạp chí Hàng Châu quân sự; 1918 bị Phan Bá Ngọc thuyết dụ viết bài
luận “Pháp Việt đề huề” [20] . Sau bao nhiêu thất vọng, đợi chờ, nhiều người Việt
Nam lưu vong (trong đó có Phan Bội Châu) đang muốn hướng về nước Nga cộng
sản như một chỗ dựa mới để chống đế quốc. Vấn đề phân liệt giữa Quốc gia/Cộng
sản bấy giờ chưa hề đặt ra, nhất là trong những năm Nga-Trung hợp tác.

3. Có lẽ nhờ vào những thuận lợi ấy, vừa đến Quảng Châu không lâu, ngày 18-12-1924,
Nguyễn Ái Quốc đã có thể báo cáo được ngay kết quả của công tác với QTCS:

“Tôi đã gặp tại đây vài ba nhà cách mạng quốc gia Annam, trong số này có một người
đã xa rời xứ sở từ ba mươi (hai mươi thì đúng hơn - LP) năm nay. Trong thời gian đó
ông ta đã tổ chức nhiều cuộc nổi dậy chống Pháp. Tất cả những cuộc nổi dậy ấy đều đã
đưa tới mấy cái chết của mấy tên sĩ quan và binh lính Pháp, sự chiếm đoạt mấy khẩu
súng và… là việc người của chúng ta chạy thoát, do không được giúp đỡ và viện trợ.

Mục đích duy nhất của ông này là trả thù cho nước, cho nhà đã bị bọn Pháp tàn sát. Ông
không hiểu chính trị, và lại càng không hiểu việc tổ chức quần chúng. Trong các cuộc
thảo luận, tôi đã giải thích cho ông hiểu sự cần thiết của tổ chức và sự vô ích của những
hành động không có cơ sở. Ông đã đồng ý. Và đây là những việc mà chúng tôi bắt đầu
cùng nhau tiến hành:

a. Tôi đã vạch một kế hoạch tổ chức và xin gửi kèm bản sao theo đây.

b. Sau khi tán thành kế hoạch này, ông đã đưa cho tôi một danh sách 10 người
Annam đã cùng ông hoạt động bấy lâu.

c. Tôi đã chọn 5 người quê ở 5 tỉnh khác nhau. Chúng tôi sẽ cử một người Annam
đưa họ tới Quảng Châu. Tôi sẽ huấn luyện cho họ về phương pháp tổ chức.
Chúng tôi sẽ gửi họ về Đông Dương hoạt động sau ba tháng học tập; và chúng
tôi sẽ lấy ra một đoàn khác. Trong lúc này, đây là biện pháp duy nhất…” [21] .

Vì bảo mật, trong thư Nguyễn Ái Quốc không nêu tên nhà “cách mạng quốc gia”, nên
bây giờ chúng ta chỉ có thể đoán ra thôi. Hầu hết những người nghiên cứu cộng sản Việt
Nam đều cho rằng đó là Phan Bội Châu [22] . Đã có nhiều ý kiến ngược lại, như của
Boudarel căn cứ vào Phan Bội Châu niên biểu để chứng minh [23] . Nhưng đáng chú ý
nhất có lẽ là phát hiện của nhà nghiên cứu Vĩnh Sính ở Đại học Alberta, Canada về ba
bức thư bằng chữ Hán của Phan Bội Châu từ Hàng Châu gửi Lý Thuỵ, Hồ Tùng Mậu và
Lâm Đức Thụ, lưu trữ tại Trung tâm Văn khố Hải ngoại (CAOM) ở Aix-en-Provence
(Pháp) [24] . Căn cứ vào ba bức thư ấy, ông Vĩnh Sính đã kết luận: Nguyễn Ái Quốc có
tiếp xúc với Phan Bội Châu, nhưng chỉ qua thư từ nhờ Hồ Tùng Mậu chuyển, chứ không
hề gặp trực tiếp. Trong thư gửi Lý Thuỵ ngày 14-2-1925 (nhờ Hồ Tùng Mậu chuyển),
Phan Bội Châu có tỏ ý muốn “tìm một dịp tốt về Quảng Đông một chuyến để đàm luận”
“cho hết ý” với Lý, nhưng theo ông Vĩnh Sính, dự định ấy “cũng không thực hiện được,
vì sau đó, vào tháng 6 năm 1925, khi Phan trên đường từ Hàng Châu về Quảng Đông thì
Phan bị nhà đương cuộc Pháp bắt cóc khi ghé qua Thượng Hải” [25] .

Vậy nếu “nhà cách mạng Annam” nói trên không phải là Phan Bội Châu thì là ai?
Theo sự phân tích của Sophie Quinn-Judge, đó có thể hoặc là Nguyễn Hải Thần hoặc Hồ
Học Lãm, cả hai đều có anh và cha bị Pháp giết. Nhưng Hồ Học Lãm, chú của Hồ Tùng
Mậu, dường như ở Hàng Châu suốt thời kỳ này. Có vẻ như Nguyễn Hải Thần thì đúng
hơn. Một mật báo của Pháp 1933 cho biết khi đến Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã
“khôn khéo tham khảo Nguyễn Cẩm Giàng, ông này rất có uy tín với đồng bào ông”. Báo
cáo ấy cho biết với sự giúp đỡ của Nguyễn Cẩm Giàng, Nguyễn đã lập ra một nhóm mới,
nhưng rồi sau này do bất đồng, Giàng đã đứng ra lập một nhóm khác. Nguyễn Cẩm
Giàng là ai? Điều này đã được làm sáng tỏ trong báo cáo của Lâm Đức Thụ gửi cho mật
thám Pháp: Nguyễn Cẩm Giàng chính là Nguyễn Hải Thần [26] . Trong một báo cáo khác,
Lâm Đức Thụ còn nói rõ hơn: “Lý Thuỵ và Nguyễn Hải Thần đang hoạt động tích cực để
thành lập Hiệp hội, Phan Bội Châu không biết” [27] .

Dù có ý thức cảnh giác khá cao, Nguyễn Ái Quốc đã vấp phải một sơ hở cực kỳ tai hại,
và có lẽ cũng không lường được là ngay khi chiêu mộ người để thành lập những hạt nhân
ban đầu cho tổ chức, anh đã để lọt vào hàng ngũ của mình một mật thám của Pháp là
Lâm Đức Thụ [28] trong một thời gian khá dài. Tất cả những hoạt động của những tổ chức
do anh tạo ra ở Quảng Châu đều đã được báo cáo hết với Mật thám Pháp, không phải từ
khi vừa đến Quảng Châu mà mãi đến về sau khi anh trở lại Nga rồi sang Thái Lan (1929)
[29]
.

Những hạt nhân ban đầu

1. Như vậy, qua Nguyễn Hải Thần [30] , Nguyễn Ái Quốc đã lập ra được một nhóm cách
mạng bí mật ở Quảng Châu, mà nội dung hoạt động của nhóm ấy, qua bức thư 18-12-
1924 gửi QTCS, đúng là chương trình của Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Nhưng
bấy giờ, vào khoảng tháng 1, tháng 2 năm 1925, trong các thư báo cáo cho QTCS,
Nguyễn Ái Quốc đều gọi đó là “Việt Nam Quốc dân Đảng”, hoặc “Quốc dân Đảng ở
Đông Dương”, theo nghĩa mà ta có thể suy ra là: đã xâm nhập và chuyển hoá Quốc dân
Đảng của Phan Bội Châu [31] thành một tổ nòng cốt.

Mặc dù luôn luôn than phiền về việc thiếu tiền, hoạt động của Nguyễn vẫn có những tiến
triển rất đáng khích lệ. Trong báo cáo ngày 19-2-1925 gửi QTCS, Nguyễn Ái Quốc cho
biết đã có được 9 hội viên trong nhóm bí mật (2 người đã được đưa về nước, 3 người
trong quân đội Tôn Dật Tiên, 2 đoàn viên dự bị của Đoàn Thanh niên Cộng sản Lênin,
trong số những hội viên ấy có 5 người đã là đảng viên dự bị của Đảng Cộng sản (có lẽ
của Trung Quốc vì Việt Nam chưa có Đảng) [32] . Nguyễn Ái Quốc không nói tên, nhưng
qua hồi ký của những đảng viên cộng sản Việt Nam sau này, người ta biết đó là Lê Hồng
Phong, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lâm Đức Thụ, Lê Quảng Đạt. Trừ có Lâm Đức Thụ
là người Thái Bình, tất cả đều là người thuộc nhóm Tâm Tâm Xã quê ở Nghệ An.

Với sự chiêu tập nhờ vào tình đồng hương đó, Nguyễn Ái Quốc cũng đã tiếp nhận luôn
cả cơ sở hoạt động cũ của Phan Bội Châu, trong đó có cả cơ sở ở Thái Lan, căn cứ vào đó
Nguyễn Ái Quốc có ý định mở rộng thêm phạm vi (Quảng Tây, cực nam Quảng Đông,
Bangkok, Tichkho (Thái Lan), Lạc Phách, tả ngạn sông Mekong (Lào). Một điều khá
quan trọng trong kế hoạch của Nguyễn Ái Quốc: xin giúp đỡ tài chính để đưa sinh viên
Annam sang Moskva học tập, vì đây là phương cách đào tạo cán bộ lãnh đạo không thể
thiếu cho việc mở rộng phong trào.

Đầu năm 1925, Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện chính trị, phê phán các phong trào
yêu nước của các sĩ phu đầu thế kỷ 20, giới thiệu các phong trào cách mạng thế giới và
những kỹ thuật tổ chức, tuyên truyền vận động quần chúng theo phương pháp của Lenin.
Hầu hết những học viên của khóa học này (khoảng 10 người) đều đã hoạt động tại Quảng
Châu từ trước. Đến tháng 6-1925, Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội được
thành lập, tuần báo Thanh niên cơ quan của Hội ra mắt số đầu tiên. Tháng 7-1925, phối
hợp với một số người Trung Quốc lập ra Hội Liên hiệp các Dân tộc bị Áp bức; Nguyễn
Ái Quốc đứng tên công khai là Lý Thuỵ (lúc này Nguyễn Hải Thần còn hợp tác) lãnh đạo
Hội với chức Bí thư kiêm phụ trách tài chính đồng thời đảm nhận trực tiếp chi bộ Việt
Nam của Hội.

2. Năm 1926, hoạt động của Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu gặp khó khăn. Sau khi Tôn
Trung Sơn chết vì bệnh (12-3-1925), những mâu thuẫn giữa các xu hướng trong Quốc
dân Đảng Trung Quốc đã bộc lộ. Mùa hè 1925, Đới Quý Đào thuộc phe hữu xuất bản
một loạt tác phẩm, trong đó có quyển Cơ sở triết học của chủ nghĩa Tôn Văn, đả kích
Đảng Cộng sản, phê bình chủ nghĩa Mác. Ngày 10-3-1926, Tưởng Giới Thạch ra lệnh
thiết quân luật toàn thành phố Quảng Châu, bắt giam Quyền cục trưởng Cục Hải quân Lý
Chi Long, đảng viên Đảng Cộng sản, bao vây Lãnh sự quán Liên Xô [33] . Nhưng do hai
bên biết kềm chế và nhượng bộ nên sự hợp tác vẫn chưa đổ vỡ. Borodin đồng ý với
Thường vụ Quốc dân Đảng, giảm bớt vai trò của những đảng viên cộng sản trong Quốc
dân Đảng: không được đứng đầu các ban ngành nhà nước, số người tham gia trong các
Uỷ ban quy định chỉ còn 1/3 [34] .

Công việc của Nguyễn Ái Quốc vẫn tiếp tục mặc dầu có chậm lại chủ yếu là do thiếu tiền
[35]
. Tháng 6-1926, báo cáo với QTCS, Nguyễn Ái Quốc cho biết đã làm được một số
việc sau đây: 1) Lập được một tổ bí mật, 2) Tổ chức được Hội Liên hiệp Nông dân ở
Xiêm, 3) Tổ chức một tổ thiếu nhi (con cái nông dân và công nhân hầu hết từ Xiêm
sang), 4) Tổ chức một tổ phụ nữ cách mạng, 5) Tổ chức một trường tuyên truyền (các học
viên bí mật đưa đến Quảng Châu), sau một tháng rưỡi học tập, được đưa về nước hoạt
động [36] .

Sau khoá huấn luyện đầu năm 1925, từ 1926 đến 1927, với “trường huấn luyện” [37] này,
Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức được hai khoá nữa. Khoá 2: Bắt đầu từ tháng 6-1926. Gồm
khoảng 20 học viên [38] , trong đó một số thành viên của Đảng Phục quốc ở Vinh (sau đổi
thành Việt Nam Cách mạng Đảng, rồi Tân Việt) là Trần Phú, Nguyễn Ngọc Ba (học trò
Trần Phú). Khoá 3: Bắt đầu cuối 1926 và chấm dứt vào 2-2-1927, gồm khoảng 30 người,
có đủ người ở ba miền, Nghệ Tĩnh vẫn nhiều nhất: Vương Thúc Oánh (con rể Phan Bội
Châu), Phan Đăng Lưu, Hoàng Ngọc An, Ngô Sĩ Sách, Ngô Đức Trì, Hà Huy Tập (trong
Việt Nam Cách mạng Đảng ở Vinh)… [39] . Cuộc vận động và huấn luyện của Nguyễn Ái
Quốc vào thời điểm này đã đạt được kết quả đáng kể: việc thâu phục được Tâm Tâm Xã
còn được tăng cường thêm nhiều thành viên của Phục quốc (Cách mạng Đảng). Trong lúc
đó, một phái đoàn của QTCS gồm có Jacques Doriot (đã trở thành chủ tịch Ban Thuộc
địa của Đảng CS Pháp), Tom Mann (Anh) và Earl Browder (Mỹ) sang Quảng Châu quan
sát và đã được Nguyễn Ái Quốc hướng dẫn và tranh thủ sự giúp đỡ [40] . Ngày 3-3-1927,
Doriot, Nguyễn Ái Quốc và Volin (đại diện nhóm cố vấn Nga) thoả thuận một bản ghi
nhớ đồng ý để Nguyễn chuẩn bị một ngân sách gửi lên QTCS trong khi đó Doriot viết
một tuyên ngôn cho Đoàn Thanh niên Cách mạng Việt Nam cùng với một nghị quyết
hoạch định tương lai cho tổ chức này [41] .

3. Có thể coi tuyên ngôn do Doriot viết trên đây là tổng kết những hoạt động của Nguyễn
Ái Quốc ở Quảng Châu trong những năm 1925-1927, trong tuyên ngôn này Doriot nói rõ
Thanh niên là một tổ chức quốc gia có mục đích công khai không khác gì Quốc dân Đảng
Trung Quốc. Ý tưởng được nhấn mạnh ở đây là cần thực hiện mặt trận thống nhất dân
tộc: trừ một số rất nhỏ những kẻ trục lợi, tất cả mọi người (công nhân, nông dân, thương
gia và trí thức) đều tìm thấy ích lợi trong sự nghiệp chống đế quốc. Không nên từ khước
bất cứ cố gắng nào để lôi cuốn họ vào những cuộc tranh đấu có tổ chức hằng ngày.
Không nên từ chối sự hợp tác của họ. Dù rằng tuyên ngôn ấy có kể đến Cách mạng Nga
như một mẫu mực chống đế quốc, nhưng không thấy chỗ nào nói đến chủ nghĩa cộng sản.
Ý định muốn xây dựng Thanh niên thành một tổ chức quốc gia của QTCS cũng đã được
Lâm Đức Thụ nhấn mạnh trong báo cáo ngày 17-3-1925: “Gần đây, những nhà cách
mạng Trung Quốc và Pháp đã khuyến khích ‘các đồng chí’ tạo ra một đảng giống như
đảng cách mạng dân tộc Trung Quốc, với một cơ quan tuyên truyền và thông tin rộng
khắp thế giới” [42] .

Nói cách khác thì để phù hợp với đường lối của QTCS – thực chất do Nga chi phối –
Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội chưa phải là một đảng cách mạng đúng nghĩa mà
chỉ một tổ chức bình phong hoạt động theo đường lối dân tộc – cùng tồn tại đồng thời với
những tổ chức quần chúng khác như Thiếu nhi, Phụ nữ, Nông hội… – tập hợp các đối
tượng trong giới sinh viên trí thức, số lượng ít ỏi và chất lượng chưa cao. Xét một cách
khách quan thì điều này cũng do tình hình nội tại trong nước quy định – phong trào trong
nước chưa có gì. Trong điều kiện ấy, thích hợp nhất, là một tổ chức hình thành từ bên
ngoài và từ bên trên trước, rồi sau đó tiến đến việc đưa dần vào bên trong và bên dưới, và
cũng chính trong tổ chức ấy, hình thành những hạt nhân cộng sản (Thanh niên Cộng sản
Đoàn…) làm nòng cốt điều động phương hướng cho phong trào [43] . Để tạo ra cái vốn
nhân sự ban đầu ấy, theo phương pháp của QTCS, Nguyễn không biết tìm ở đâu ngoài
việc tuyển mộ và chuyển hoá những thanh niên tiểu trí thức nửa Tây nửa Nho (phần lớn
là những đồng hương của anh) đang hoạt động trong các tổ chức yêu nước có sẵn (Tâm
Tâm Xã, Tân Việt…). Kết quả dù sao cũng rất đáng kể trong bước khởi đầu, như Nguyễn
đã báo cáo tổng kết gửi Ban phương Đông vào tháng 6-1927:

“Mặc dù thiếu thời gian và tiền, nhờ sự giúp đỡ của các đồng chí người Nga và Annam,
chúng tôi đã có thể: 1) Đưa 75 thanh niên Annam đến học ở Trường tuyên truyền do
chúng tôi tổ chức ở Quảng Châu, 2) Xuất bản ba tờ tuần báo nhỏ, 3) Phái những người
tuyên truyền vừa mới được đào tạo về Xiêm, Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Nam Kỳ 4) Thành lập
một liên đoàn cách mạng do một uỷ ban gồm 5 uỷ viên ở Quảng Châu lãnh đạo, liên
đoàn đã bắt rễ khắp nơi trong tất cả các xứ Đông Dương đó” [44] .
4. Giữa lúc Nguyễn Ái Quốc cố gắng tranh thủ sự giúp đỡ của QTCS để mở rộng hình
thức hoạt động nói trên thì tình hình ở Quảng Châu trở nên xấu đi đột ngột. Cuộc đảo
chính ngày 12-4-1927 của Tưởng Giới Thạch khởi đầu từ Thượng Hải với một chiến dịch
khủng bố quy mô lan tràn khắp nơi từ Giang Tô, Chiết Giang, An Huy, Phúc Kiến,
Quảng Tây, Tứ Xuyên… đã phá nát phong trào lao động cánh tả ở đây và đẩy Đảng Cộng
sản Trung Quốc vào hoạt động bí mật. Ngày 15-4, ở Quảng Châu có hơn 2000 vừa đảng
viên cộng sản vừa dân thường bị giết. Ngày 28-4-1927, Lý Đại Chiêu, một người sáng
lập ra Đảng Cộng sản Trung Quốc bị giết tại Bắc Kinh [45] . Nguyễn Ái Quốc sau khi rời
Trung Quốc, về đến Nga đã báo cáo tình hình ấy với Ban phương Đông QTCS như sau:

“Khi cuộc đảo chính nổ ra, 3 trong 5 uỷ viên của Uỷ ban Đông Dương bị bắt, tôi suýt bị
bắt, tướng Lý Tế Thâm có quan hệ mật thiết với bọn đế quốc Pháp ở Đông Dương và ở
Hạ Môn, một đồng chí người Nga duy nhất có trách nhiệm lúc đó đang ở Quảng Châu
lúc đó cũng không thể giúp đỡ chúng tôi, hoặc cho một lời khuyên nào, thậm chí ngừng
trả tiền cho tôi với tư cách là người phiên dịch. Khi đó tôi chỉ còn cách là phải chọn gấp
giữa hai con đường hoặc là để bị bắt hay tiếp tục qua Moscou về công tác ở Xiêm” [46] .

Trong tình thế cực kỳ nguy hiểm ấy, Nguyễn Ái Quốc đã chấm dứt sứ mệnh những năm
1925-1927 của mình ở Trung Quốc. Do công việc của anh trong thời kỳ này hoàn toàn
tuỳ thuộc vào đường lối hợp tác của Nga với Quốc dân Đảng cho nên sự thành công và
thất bại của anh ở đây, liên hệ đến Việt Nam, cũng hoàn toàn là sự thành công và thất bại
của đường lối ấy. Nhận xét này rất quan trọng để chúng ta hiểu thêm những bước thăng
trầm của Nguyễn Ái Quốc trong những năm kế tiếp, đặc biệt nhất là cái khoảng thời gian
trước và sau khi anh đứng ra hợp nhất các phe phái khác nhau trong phong trào cộng sản
Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam.

© 2007 talawas

[1]
Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, NXb Chính trị quốc gia, Hà nội, 1993, tr. 179 hoặc
Đặng Hoà: Bác Hồ những năm tháng ở nước ngoài, Trung tâm UNESCO bảo tồn và phát
triển văn hoá dân tộc Việt Nam, Hà Nội, 2001, tr. 69 .
[2]
Hồ Chí Minh toàn tập, T 1, Nxb Chính trị quốc gia, 2000, tr. 252.
[3]
Như trên, tr. 303.
[4]
Ngày 16-10-1923 Nguyễn Ái Quốc được bầu vào Hội đồng Quốc tế Nông dân gồm 52
người. 17-10, Hội đồng họp lần đầu tiên, được bầu vào Đoàn Chủ tịch của Hội đồng gồm
11 uỷ viên.
[5]
“1. Trong những tháng mười hai, tháng giêng và tháng hai tôi thuê phòng số 176, ở đây
bao giờ cũng có 4, 5 người thuê. Ban ngày thì tiếng ồn liên tục ngăn trở tôi làm việc. Ban
đêm tôi bị rệp ăn thịt, không cho tôi nghỉ ngơi. Vì vậy tôi không muốn trả 5 rúp về tiền
nhà để tỏ sự phản đối. 2. Từ tháng ba, tôi nhận một phòng nhỏ, rất nhỏ. Sở quản lý nhà
buộc tôi phải gánh 13 rúp 74 cho tháng ba và 11 rúp 61 cho những tháng sau. So sánh
không gian hẹp và trang bị nội thất quá đơn sơ so với các phòng khác rộng hơn nhiều,
tiện nghi hơn, có nhiều đèn, điện thoại, tủ, ghế bành, phòng tắm, v.v… và tiền thuê thoả
đáng thì giá mà người ta buộc cho tôi là hoàn toàn đáng công phẫn”. (Hồ Chí Minh toàn
tập, Tập 1, Sđd, tr. 248).
[6]
Hồ Chí Minh toàn tập, T1, Sđd, tr. 273-274.
[7]
Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr. 186-187
[8]
Như trên, tr. 191-192.
[9]
“Việc thành lập trường đại học bônsêvích đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử các
dân tộc thuộc điạ ở phương Đông, và nhà trường đã dạy chúng tôi nguyên lý đấu tranh
giai cấp, và nhà trường đã đặt mối liên hệ giữa chúng tôi với các dân tộc phương Tây và
trang bị cho chúng tôi – những người nô lệ – khả năng hoạt động chặt chẽ” (Báo L'Unità,
15-3-1924, trong Hồ Chí Minh toàn tập, T1, Sđd, tr. 483).
[10]
Hélène Carère et Stuart Schram: Le marxisme et l'Asie 1853-1964, Armand Colin,
Paris, 1965, tr. 218.
[11]
Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 52
[12]
Epghênhi Côbôlép: Đồng chí Hồ Chí Minh, tập 1, Thanh Niên, Hà Nội, 1985, tr. 175.
[13]
Hồng Hà: Bác Hồ trên đất nước Lênin, Thanh Niên, Hà Nội, 2000, tr. 147.
[14]
Jean Lacouture: Ho Chi Minh, Vintage books, Newyork, 1968, tr. 46.
[15]
Thư 19-9-1924 gửi Treint, Đảng Cộng sản Pháp, Uỷ viên Ban chấp hành QTCS. (Hồ
Chí Minh biên niên tiểu sử, Sđd, tr. 203).
[16]
Hồ Chí Minh toàn tập, T1, Sđd, tr. 303.
[17]
Hồ Chí Minh toàn tập, T2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 1.
[18]
Quyết định ngày 14-4-1924 của Ban phương Đông QTCS do Petrov ký. (Hồ Chí Minh
biên niên tiểu sử, tr. 189).
[19]
Bắt đầu từ cuối năm 1922, dưới ảnh hưởng của Nga, QTCS đã chỉ đạo Đảng Cộng sản
Trung Quốc thực hiện đường lối “mặt trận thống nhất” của Lênin một cách hết sức đặc
biệt: trong khi vẫn giữ tính độc lập của Đảng Cộng sản Trung Quốc về mặt tổ chức thì
những cá nhân các đảng viên phải gia nhập Quốc dân Đảng của Tôn Dật Tiên. Sau nhiều
lần thương lượng với Tôn Dật Tiên, chính sách này được áp dụng rộng rãi bắt đầu từ Đại
hội lần thứ nhất của Quốc dân Đảng, tháng 1 năm 1924 . (Xem Hélène Carère và Stuart
Schram: Sđd, tr. 79-80).
[20]
Phan Bá Ngọc, con của Phan Đình Phùng, bị cám dỗ bởi chương trình “cải cách” của
Albert Sarraut, nên đã làm việc này. Bị coi là phản bội, Phan Bá Ngọc bị Lê Hồng Sơn,
theo lệnh của Cường Để, ám sát năm 1922 (Phan Bội Châu: Tự phán, Sđd, tr. 229).
[21]
Hồ Chí Minh toàn tập, T2, trr. 8-9.
[22]
Như Phạm Xanh: Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác vào Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 122. Không chỉ khẳng định, có tác giả còn hư
cấu ra cả một “kịch bản” đối thoại về “hai ngày chung sống giữa Phan Bội Châu và
Nguyễn Ái Quốc tại báo Hàng châu quân sự, như Thanh Đạm: Nguyễn Ái Quốc trên
đường về nước, Nxb Nghệ An – Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, 1998, tr. 57-71.
[23]
Phan Bội Châu niên biểu được Georges Boudarel chuyển sang Pháp văn là Mémoires
de Phan Bội Châu in trong tạp chí France- Asie số 194-195 (Paris, 1969). Căn cứ vào
một đoạn trong PBCNB, Boudarel ghi chú: Phan Bội Châu cho biết ông đến Quảng Châu
từ tháng 7 đến tháng 9 (1924), trong khi đó Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu 3 tháng
sau đó (tháng 12-1924), hai người không thể gặp nhau. Xem Chương Thâu–Trần Ngọc
Vương: Phan Bội Châu, về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2001, tr. 325.
[24]
Xem Vĩnh Sính: “Mối liên hệ giữa Phan Bội Châu và Nguyễn Ái Quốc ở Trung Quốc,
1924-1925 – giới thiệu tài liệu mới phát hiện”, trong Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn
hoá, Nxb Văn Nghệ, Tp Hồ Chí Minh, 2001, tr. 231-242.
[25]
Về việc Phan Bội Châu bị Pháp bắt cóc, Vĩnh Sính viết: “Trong PBCNB (Phan Bội
Châu niên biểu), Phan Bội Châu quy cho Nguyễn Thượng Huyền, người được Phan
“nuôi dưỡng” ở Hàng Châu, tội mật báo với Pháp “thời khắc đi đường và hành động” của
Phan để họ bắt cóc Phan ở ga Thượng Hải. Trong khi đó, Kỳ Ngoại hầu Cường Để, trong
hồi ký, lại quy cho Lâm Đức Thụ là người chủ mưu” (Vĩnh Sính: Sđd, tr. 242). Sophie
Quinn-Judge trong luận án Nguyen Ai Quoc, The Comintern and The Vietnamese
Communist mouvement 1919-1941 đã tỏ vẻ đồng tình với ý kiến của Cường Để và phản
bác toàn bộ những cái mà bà gọi là “anti-communist version” cho rằng chính Nguyễn Ái
Quốc là người đã báo cho Pháp bắt Phan Bội Châu vừa để khử một đối thủ chính trị đáng
gờm, vừa để lấy tiền của Pháp lập quỹ cho cách mạng cộng sản, lại vừa tạo ra sự kích
động chống Pháp trong dân chúng (Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 80-81).
[26]
Sophie Quinn-Judge, Sđd, tr. 83.
[27]
Như trên, tr. 85. Thật sự thì căn cứ vào bức thư của Phan Bội Châu gửi Hồ Tùng Mậu
ngày 3-3-1925, trước đó Lý Thuỵ có hỏi ý kiến Phan Bội Châu về việc thành lập đoàn
“Tân Thanh niên” và Phan đã trả lời là “cực lực tán thành” (Xem Vĩnh Sính:, Sđd, tr.
239) .
[28]
Lâm Đức Thụ tên thật là Nguyễn Công Viễn (thường được gọi là Trương béo), tên mật
thám là Pinot (Agent Pinot), tốt nghiệp Đại học quân sự Bắc Kinh. Về sau người ta biết
được đó là con của Nguyễn Hữu Đán (Đản?), ông ngày là bạn đồng song của ông thân
sinh Nguyễn Ái Quốc là Nguyễn Sinh Huy tại Viện Hàn lâm Quốc tử giám tại Huế. Thụ
làm nghề nhiếp ảnh tại Quảng Châu, rất nhiều lính mới tuyển của Thanh niên đã bị Thụ
chụp hình, qua những ảnh này, thực dân Pháp đã nhận diện những người cộng sản bị nghi
ngờ vào những năm 1930-1931 (Sophie Quinn-Judge, Sđd, tr. 76).
[29]
Chính vì việc này mà năm 1935, Hà Huy Tập, Tổng Bí thư ĐCSĐD sau Đại hội Macao
1935 đã tố cáo với QTCS là Nguyễn Ái Quốc phải chịu trách nhiệm về việc có cả trăm
cán bộ Thanh niên khi về nước đã bị Mật thám Pháp bắt. Theo Hà Huy Tập, Nguyễn biết
Lâm Đức Thụ là mật thám mà vẫn tin dùng (sẽ nói trong chương IV). Không biết đúng
sai như thế nào, nhưng có bằng chứng cho biết Nguyễn rất thân thiết với Lâm: khi tới
Quảng Châu hoạt động, Nguyễn đã nhờ vợ chồng Lâm Đức Thụ làm mai để cưới một
người vợ Trung Quốc tên là Tăng Tuyết Minh (đám cưới tổ chức vào tháng 10-1926, khi
Nguyễn Ái Quốc 36 tuổi, Tăng Tuyết Minh 21 tuổi, hôm cưới có Đặng Dĩnh Siêu, vợ
Chu An Lai dự). Sau cuộc đảo chính 1927 của Tưởng Giới Thạch, trong khi Nguyễn qua
Nga, sang châu Âu tìm cách về Xiêm, có nhờ gửi vợ một bài thơ bằng chữ Hán sau đây:
[Không hiểu sao thư lại bị mật thám Đông Dương chặn được ngày 14-8-1928, hiện lưu
tại CAOM (Aix-en-Provence); Daniel Hémery công bố trong HO CHI MINH: De
l'Indochine au Việt Nam, Gallimard, Paris, 1990, tr. 145].
Phiên âm: Dữ muội tương biệt, Chuyển thuấn niên dư, Hoài niệm tình thâm, Bất ngôn tự
hiểu, Tư nhân hồng tiện, Dao ký thốn tiên, Tỷ muội an tâm, Thị ngã ngưỡng vọng. Tinh
thỉnh Nhạc mẫu vạn phúc. Ký: Chuyết huynh THUỴ.
Dịch nghĩa: Cùng em xa cách, Đã hơn một năm, Thương nhớ tình thâm, Không nói cũng
rõ, Cánh hồng thuận gió, Vắn tắt vài dòng, Để em an lòng. Và xin kính chúc Nhạc mẫu
vạn phúc . Ký: Anh ngu vụng: LÝ THUỴ. (Bản dịch N.H. Thành).
Tài liệu về việc Hồ Chí Minh có vợ tại Quảng Châu: Hoàng Tranh: “Hồ Chí Minh với
người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, tạp chí Đông Nam Á Tung hoành số tháng 11-
2001, xuất bản tại Nam Ninh. Bản dịch tiếng Việt: Minh Thắng, đăng trên tạp chí Diễn
Đàn (xuất bản tại Pháp), số 121 tháng 9-2002.
[30]
Người theo chủ nghĩa dân tộc, xứ Bắc, chủ trương bạo động. Theo phong trào Đông du
của Phan Bội Châu, qua Nhật 1905. Sau khi phong trào bị chính phủ Nhật cấm, đã sang
Trung Quốc. Mật thám Pháp cho biết chính Nguyễn Hải Thần đã chỉ huy Phạm Hồng
Thái đánh bom định giết toàn quyền Merlin tại Quảng Châu 1924. Do là một sĩ quan
trong quân đội Vân Nam, Nguyễn Hải Thần không tham gia Thanh niên Cách mạng
Đồng chí Hội, nhưng đã hợp tác khá chặt chẽ với Nguyễn Ái Quốc trong một thời gian.
Theo báo cáo của Lâm Đức Thụ thì trong hợp tác, hai người vẫn tự do theo đuổi đường
lối riêng của mình. Tháng 5-1925, Nguyễn Hải Thần thất thế hoàn toàn do cùng mấy
tướng quân phiệt Vân Nam nổi loạn và đã bị học viên võ bị Hoàng Phố dập tắt. Đã tham
gia “Bị áp bức Liên hiệp hội” và góp phần xuất bản báo Thanh Niên. Mùa hè 1925, theo
sự phân công của Lý Thuỵ, Nguyễn Hải Thần có về Bắc Kỳ vận động người sang học ở
Quảng Châu. Nhưng đến 1926 thì mối quan hệ giữa hai người bắt đầu rạn nứt và chấm
dứt vào 1927. Theo Lâm Đức Thụ, vì tranh giành ảnh hưởng, Nguyễn Hải Thần thường
ganh tị với Lý Thuỵ. (Xem Sophie Quinn-Judge, Sđd, tr. 95).
[31]
Phan Bội Châu lập ra 1924 thay cho Việt Nam Quang phục Hội chỉ còn là “một bức
thần vị để tế ở trên bàn thờ”. (Phan Bội Châu: Tự phán, Nxb Văn hoá thông tin, 2000, tr.
248).
[32]
Hồ Chí Minh toàn tập, T.2, tr. 141.
[33]
Nguyễn Gia Phu – Nguyễn Huy Quý: Lịch sử Trung Quốc, Nxb Giáo Dục, Hà Nội,
2001, tr. 270–271.
[34]
Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 93.
[35]
Theo báo cáo của Lâm Đức Thụ, để vận động thêm tài chính, từ 1925, Lý Thuỵ đã tính
đến chuyện liên hệ với người bạn cũ tên là Khánh Ký, quen từ Paris, bấy giờ đã về Sài
gòn, vẫn làm nghề nhiếp ảnh. Bùi Quang Chiêu, thầy dạy cha Nguyễn Ái Quốc ở Huế,
trong Đảng Lập hiến, khá giàu có, cũng được Lý Thuỵ tính đến trong việc quyên góp
(Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 99).
[36]
Hồ Chí Minh toàn tập, T2, Sđd, tr. 223.
[37]
Có thể cuối năm 1925 hoặc đầu năm 1926 “trường huấn luyện” này mới chính thức
thành lập (các lớp huấn luyện trước đó thay đổi địa chỉ luôn). Ở lối vào nhà có tấm biển
“Ban huấn luyện chính trị đặc biệt”. Trên tường phòng học có treo chân dung K. Marx.
V.I. Lenin, I.V. Stalin, Tôn Dật Tiên, Phạm Hồng Thái. Được chính phủ Tôn Dật Tiên
coi như một phân hiệu của Trường Quân chính Hoàng Phố và đã hoạt động dưới sự giúp
đỡ của chính phủ Quảng Châu. (Xem Phạm Xanh: Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá
chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam, Sđd, tr. 124).
[38]
Gồm có những người đến từ các địa phương: Nghệ Tĩnh: Tôn Quang Phiệt, Trần Phú,
Phan Trọng Bình, Nguyễn Văn Lợi, Nguyễn Ngọc Ba, Phan Trọng Quảng; Thanh Hoá:
Hoàng Văn Tùng, Lê Mạnh Trinh, Trần Văn Đức, Nguyễn Văn Khang; Bắc Kỳ: Nguyễn
Công Thu, Nguyễn Danh Thọ, Nguyễn Danh Đới, Trần Công Bắc (tức sau này là tướng
Nguyễn Sơn); Xiêm: Võ Tòng, Đặng Thái Thuyến. Phạm Văn Đồng từ Quảng Ngãi cũng
đến nhưng ốm phải đợi lớp sau. Lê Mạnh Trinh giữa đường ở lại, lớp sau mới sang. Còn
Tôn Quang Phiệt và Hoàng Văn Tùng dọc đường bị bắt. (Thanh Đạm: Nguyễn Ái Quốc
trên đường về nước, Sđd, tr. 126 -131).
[39]
Những học viên ở các địa phương khác, Thanh Hoá: Lê Mạnh Trinh; Quảng Nam: Đỗ
Quảng; Quảng Ngãi: Phạm Văn Đồng, Nguyễn Thiệu, Trương Quang Trọng; Thái Bình-
Nam Định: Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Tường Loan, Nguyễn Ngọc Lân…; Hà Đông:
Phiếm Chu; Bắc Ninh–Bắc Giang: Dương Hạc Đính, Kim Tôn; Nam Kỳ: Hồ Cao Cương
(Tân An), Nguyễn Văn Thông (Sa Đéc), Bùi Văn Thêm (Sài Gòn)… Sau khi học Ngô
Đức Trì, Trần Phú sang Nga học (cùng lúc với Bùi Lâm, Nguyễn Thế Rục, Bùi Công
Trừng do Đảng Cộng sản Pháp giới thiệu từ Pháp sang). Lê Thiết Hùng, Trương Vân
Lĩnh, Lưu Quốc Long, Lê Quảng Đạt, Phùng Chí Kiên… được gửi sang trường Quân
chính Hoàng phố (Thanh Đạm: Sđd, tr. 134 -138). Ngô Đức Trì (quê ở Hà Tĩnh con Ngô
Đức Kế) khi về nước tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã bị bắt năm 1930 và
đã đầu hàng Pháp.
[40]
Năm 1926, QTCS đã thành lập một Ban Bí thư mới cho nước Pháp, các thuộc địa của
Pháp, Bỉ, Ý, và Thuỵ Sĩ, trong thời gian này, Đảng Cộng sản Pháp đựơc giao phụ trách
phần lớn phong trào cách mạng ở Đông Dương (Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 104).
[41]
Sophie Quinn-Judge, Sđd, tr. 105.
[42]
Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 106-107.
[43]
1924, số hạt nhân thanh niên cộng sản này là 9 người, đến 1929 khi Thanh niên giải thể
con số đã tăng lên đến 24 người. (Xem Huỳnh Kim Khánh: Vietnamese communism
1925-1945, Cornell University Press, 1982, USA, tr. 78).
[44]
Hồ Chí Minh toàn tập, T2, Sđd, tr. 242. Theo nhiều nghiên cứu sau này thì ngoài
Thanh Niên, cơ quan ngôn luận của Thanh niên Cách mạng Đồng minh Hội, còn có ba tờ
báo định kỳ khác là Công Nông, Lính cách mệnh, Việt Nam tiền phong. Riêng tờ Thanh
Niên từ 21-6-1925 đến tháng 4-1927 do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách đã ra được
88 số, nhưng nếu tính suốt thời kỳ tồn tại của Việt Nam Cách mạng Đồng chí Hội (kể cả
thời gian Nguyễn Ái Quốc rời Quảng Châu cho đến khoảng tháng 4-1930) tổng cộng
khoảng 200 số. (Xem Phạm Xanh: Sđd, tr. 115).
[45]
Nguyễn Gia Phu – Nguyễn Huy Quý: Lịch sử Trung Quốc, Sđd, tr. 273.
[46]
Hồ Chí Minh toàn tập, T2, Sđd, tr. 242.

Chương 4
Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Các sự kiện trong chương sách này, tuy có tham khảo từ nhiều nguồn tư liệu, nhưng chủ
yếu vẫn dựa vào luận án Nguyen Ai Quoc, The Commintern and The Vietnamese
Communist Movement (1919-1941) của Sophie Quinn-Judge, một luận án tổng hợp mới
nhất về mối quan hệ giữa Hồ Chí Minh và Quốc tế Cộng sản, kể từ ngày ông tham gia
(1920) đến ngày QTCS chấm dứt hoạt động (1941). Trong luận án này, tác giả đã xét
duyệt lại tất cả các nguồn tư liệu chủ yếu mà những người nghiên cứu về phong trào
cộng sản ở Việt Nam đều biết trước đây – như: a) Những tài liệu mật của cộng sản mà
Mật thám Pháp đã tìm thấy và được Nhà nước Pháp lưu giữ trong Kho lưu trữ Hải ngoại
(Centre d’Archives d’Outre-Mer, viết tắt: CAOM) ở thành phố Aix-en-Provence, b)
Những tài liệu trên sách báo do những tác giả từ các nước khác nhau (chủ yếu từ châu
Âu, Mỹ , Trung Quốc và Việt Nam) sưu tập và công bố, c) Những hồ sơ của Quốc tế
Cộng sản lưu trữ tại Nga, được mở ra và cho phép sử dụng, những tài liệu này trước đây
do Viện Mác-Lênin quản lý về sau đổi thành Trung tâm Lưu trữ và Nghiên cứu các Tài
liệu Lịch sử Hiện đại (Center for the Preservation and Study of Documents of Modern
History, viết tắt: RC). Trong những nguồn tài liệu được khai thác để hình thành luận án
nói trên, hiển nhiên sự đóng góp quan trọng nhất, mới mẻ nhất chính là những tài liệu
trong Hồ sơ QTCS mà tác giả đã khai thác được năm 1992 khi bà làm việc tại Nga, sau
khi Liên Xô sụp đổ.
Tác dụng của những tài liệu ấy đối với việc nghiên cứu về một nhân vật đã thành “huyền
thoại” như Hồ Chí Minh là quá rõ ràng. Hàng loạt vấn đề chắc chắn sẽ được đặt lại và
xem xét lại dưới ánh sáng của những tư liệu đó: những suy đoán vô bằng, huyễn hoặc
(đến từ nhiều phía) trong chừng mực nào đó có thể sẽ được bác bỏ, những giả đoán thực
tế nhưng trước đây chưa đủ cơ sở có thể sẽ được làm sáng tỏ để khẳng định, và cũng có
thể một loạt những kiến giải mới sẽ xuất hiện để tiếp tục thúc đẩy xa hơn việc nghiên cứu
đề tài này. Rất tiếc là những tài liệu ấy vẫn chưa được công bố nguyên bản, đầy đủ –
giống như những tài liệu của CAOM mà Daniel Hémery đã công bố về “cuộc ra đi tìm
đường cứu nước” năm 1911 của Hồ Chí Minh lúc còn là Nguyễn Tất Thành – để những
người nghiên cứu không có điều kiều kiện (và cả may mắn) tiếp cận những tài liệu đầu
tay ấy vẫn có thể sử dụng được.

Do không trực tiếp có được những tài liệu đó, chúng tôi đã dựa vào luận án nói trên (chủ
yếu với Hồ sơ của QTCS được khai thác) như một nguồn thứ cấp để viết nên chương
sách này. Trong việc lấy lại những ý kiến của tác giả, chúng tôi chỉ ghi tên tác giả cùng
với luận án đã dẫn (thí dụ: Sophie QuinJudge: Sđd); còn trường hợp cần phải nêu ra một
sự kiện quan trọng nâng đỡ cho một luận cứ riêng biệt nào đó, để tránh cho người người
đọc một cảm giác về sự khẳng định vô bằng, chúng tôi sẽ chú thích thêm nguồn tài liệu
do tác giả đã chú thích, bên cạnh luận án đã dẫn của chính tác giả (thí dụ: RC, 495, 154,
556, p.17; Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd). Dù có chú giải theo cách nào đi nữa thì công
việc của chúng tôi đều đặt trên giả định về sự đích thực của tài liệu mà tác giả dẫn
chứng. Trong nghiên cứu, có thể đó là một thách thức vì có thể có nhiều cách hiểu khác
nhau về một tài liệu, nhưng do những điều kiện rất giới hạn của mình, như đã nói, chúng
tôi không biết làm gì hơn.

Chỉ thị 12-9-1927 về Đông Dương

1. Sau cuộc đảo chính tháng 4-1927 của Tưởng Giới Thạch, Nguyễn Ái Quốc từ Quảng
Châu lên Thượng Hải, qua Vladivostok, khoảng tháng 6-1927 thì trở lại Moskva. Trên
đường đi, gặp Voitinsky (đại biểu QTCS làm việc với Trung ương Đảng Cộng sản Trung
Quốc), Nguyễn được thuyết phục nên trở lại Thượng Hải để hoạt động trong đám lính
Pháp và Việt Nam đang làm việc ở đấy, nhưng anh trả lời rằng đối với anh việc quan
trọng hơn là tiếp tục công việc đang bỏ dở đối với Việt Nam sau sự biến tháng 4-1927 ở
Trung Quốc. Tại Moskva, Nguyễn gặp nhóm 5 người Việt Nam đang học tại Đại học
phương Đông (Nguyễn Thế Rục, Ngô Đức Trì, Bùi Công Trừng, Bùi Lâm, Trần Phú),
viết một báo cáo cho Nông hội Quốc tế về phong trào nông dân ở Quảng Đông, trị bệnh
một thời gian ở Crimée đến tháng 11-1927 sang Paris tìm đường về Xiêm.

2. Trên đường sang Paris, Nguyễn đã mang theo chỉ thị đề ngày 12-9-1927 của QTCS
trong đó nói rõ phương hướng thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương mà anh được giao
nhiệm vụ thực hiện. Mặc dù ra đời sau sự thất bại ở Trung Quốc năm 1927, nội dung hai
trang chỉ thị nói trên của QTCS vẫn chưa có gì thay đổi đối với đường lối mặt trận thống
nhất trong Đại hội 5 QTCS năm 1924 mà Nguyễn có tham dự: dựa trên cơ sở của những
tổ chức cách mạng quốc gia và những phần tử cánh tả của những tổ chức ấy để hoạt động
và thành lập đảng cộng sản. Khẩu hiệu tranh đấu vẫn là độc lập dân tộc, ruộng đất cho
nông dân, quyền lợi của công nhân, tự do dân chủ trong sinh hoạt chính trị …

Chỉ thị hướng dẫn một cách cụ thể những việc mà Nguyễn cần phải làm: liên hệ với
những “Việt kiều” tại Pháp tạo ra những hạt nhân cách mạng, hợp tác với Đảng Cộng sản
Pháp xây dựng chương trình hành động cho Đông Dương, sau đó sẽ tìm cách chuyển
cách mạng về bản địa. Chỉ thị căn dặn rằng sau khi đã có kế hoạch, Nguyễn cần phải thảo
luận lại cho rõ với Ban Chấp hành QTCS trước khi quyết định xem nên về Xiêm hay một
nước khác nào đó kế cận Đông Dương để triển khai công việc.

3. Khi sang Paris, do Đảng Cộng sản Pháp đang bị đàn áp, Doriot, phụ trách Uỷ ban
Thuộc địa của Đảng bị bắt, nên Nguyễn không thể theo đúng được kế hoạch do QTCS đã
vạch. Nguyễn cho biết đã tìm cách liên hệ với Uỷ ban thuộc địa nhưng đã bị các thành
viên tránh né, ngay cả việc xin địa chỉ cũng không được.

Tháng 12-1927 Nguyễn qua Brussels để dự một hội nghị mà nhiều tác giả đã cho rằng đó
là Đại hội lần thứ nhất Liên đoàn chống đế quốc. Thật ra không đúng vì Đại hội này đã
họp vào tháng 2-1927 trước đó cả năm rồi. Hội nghị mà Nguyễn dự có lẽ là cuộc họp
chuyển tiếp của Ban Chấp hành Liên đoàn diễn ra ngày 9-12-1927. Liên đoàn chống đế
quốc đã là một địa điểm liên lạc quan trọng, ở đó Nguyễn đã gặp bà Tống Khánh Linh
(vợ goá của Tôn Dật Tiên) cuối năm 1927 có đến Berlin vận động thành lập một “Đảng
thứ ba” cho Trung Quốc.

Nguyễn sang Berlin và ở đó từ giữa tháng 12-1927 đến tháng 5-1928, chờ thêm chỉ thị và
tiền của QTCS. Trong khi chờ đợi, Nguyễn nhận trợ cấp của Cứu tế Đỏ 18 mác mỗi tuần,
số tiền mà Nguyễn cho rằng chỉ ăn cũng không đủ. Trong thời gian này, Nguyễn đã viết
một báo cáo về phong trào nông dân Quảng Đông, coi Bành Bái là anh hùng. Quốc tế
Nông dân không xuất bản, nhưng nhiều đoạn của tài liệu này cũng đã xuất hiện trên một
vài cơ sở in ấn khác.

4. Tháng 2-1928, QTCS họp toàn thể ban chấp hành, chuẩn bị cho Đại hội lần thứ 6.
Doriot, sau khi được thả, trên đường đi dự, ghé qua Berlin, có gặp Nguyễn và hứa chú ý
giải quyết vấn đề công tác của anh, nhưng đến nửa tháng 4, Nguyễn vẫn không được tin
tức gì của Doriot lẫn Moskva. Liên hệ với Quốc tế Nông dân cũng không đi đến đâu. Viết
thư xin 500 đôla và một kế hoạch tổ chức thực hiện thì được tổng thư ký Quốc tế Nông
dân là Dombal trả lời vì hiểu quá ít về Đông Dương nên không giúp được gì cho Nguyễn
(về tiền bạc lẫn kế hoạch), chỉ khuyên Nguyễn nên sử dụng kinh nghiệm về phong trào
nông dân Trung Quốc để tổ chức các hiệp hội.

12-4-1928, Nguyễn cầu cứu tới Humbert-Droz người Thuỵ Sĩ trong Ban bí thư QTCS,
phụ trách các thuộc địa của Pháp, với những lời lẽ thật thảm thiết như sau:

“Đồng chí có thể tưởng tượng tình trạng tinh thần và vật chất của tôi hiện nay như thế
nào: biết rằng có nhiều việc phải làm, nhưng chẳng làm được gì, ở không, không tiền
bạc, sống qua ngày trong tình trạng bị ép buộc phải ở không”.

Cuối cùng rồi cũng được việc: Humbert-Droz đã đồng ý cung cấp cho Nguyễn chi phí
cho chuyến đi và 3 tháng công tác với những lời dặn:

“Những gì mà chúng tôi gửi đồng chí sau này sẽ tuỳ thuộc vào tin tức của đồng chí. Tôi
nghĩ đồng chí cần khôn khéo hơn để tự lo liệu, không cần nhờ đến sự giúp đỡ nào cả” [1] .

Đại hội 6 Quốc tế Cộng sản

Tháng 5-1928, Nguyễn qua Thuỵ Sĩ, đến Ý, từ đó bằng tàu thuỷ đi Bangkok. Trong khi
Nguyễn lên đường, Đại hội 6 QTCS đã diễn ra – từ 17-7 đến 1-8-1928. Sự kiện này đã
ảnh hưởng rất nặng nề đối với sự nghiệp của Nguyễn trong một thời gian khá dài.

1. Nhìn vấn đề theo thời gian thì Đại hội 6 QTCS chỉ là biểu hiện bên ngoài của quá trình
tranh chấp quyền lực và đường lối cực kỳ ác liệt trong nội bộ Đảng CS Liên Xô. Sau khi
thanh toán xong nhóm đối lập khuynh tả của Trotsky trong Đại hội 15 (cuối 1927), Stalin
đã tỏ ý muốn chấm dứt NEP, đẩy mạnh tập thể hoá nông nghiệp và công nghiệp hoá để,
trước tình hình phong trào gọi là “cách mạng vô sản thế giới” ngày càng tỏ ra vô vọng,
Liên Xô có thể tồn tại được trong sự bao vây của những nước tư bản. Đường lối này
không có gì mới, nhiều điều đã được Trotsky đề xuất và đã bị kết án là “tả khuynh”, cho
nên dự định mà Stalin đưa ra đã gặp phản ứng của chính những đồng minh chống Trosky
trước đây (Bukharin, Rykov, Tomsky…) [2] . Do chưa tạo đủ thực lực để thanh toán phe
chống đối mới xuất hiện này – được gọi là “Nhóm đối lập khuynh hữu”–, Stalin đã tạm
hoà hoãn và tìm cách chuyển vấn đề sang phạm vi quốc tế với nội dung tương ứng: đẩy
phe Dân chủ-Xã hội về phía cực hữu, ngang hàng với bọn tư bản phản động và phát xít vì
đã giương cao chiêu bài “hoà bình” phục vụ cho cuộc chiến tranh sắp tới của chủ nghĩa
đế quốc. Nhiệm vụ chống Dân chủ-Xã hội do đó cũng quan trọng như việc lập mặt trận
thống nhất giữa “nhân dân lao động” trong các nước tư bản với các nước thuộc địa để
biến chiến tranh đế quốc, trong trường hợp nổ ra, thành nội chiến, lật đổ tư bản, phát xít,
thiết lập quyền lực xô viết, bảo vệ Liên Xô.

2. Chủ trương này đã được Stalin nói rất rõ khi báo cáo Nghị quyết Hội nghị toàn thể
tháng 7-1928 của Ban chấp hành ĐCSLX cho Đảng bộ Lenigrad ngày 13-7-1928 [3] , và
giao cho Bukharin phổ biến tại Đại hội 6 QTCS, nhưng lại để cho các đại biểu Liên Xô
công khai hạ uy tín bằng cách chỉ trích một số điểm của Đề cương mà Bukharin đã trình
bày. Qua báo cáo ấy cùng với Nghị quyết của Đại hội, những nhà nghiên cứu đã ghi nhận
mấy điểm quan trọng về đường lối của QTCS đối với những nước phụ thuộc và thuộc địa
như sau:
• Chủ nghĩa đế quốc đang chuẩn bị gây chiến, nên tất cả những phong trào chống
đế quốc ở những thuộc địa phải liên minh với Liên Xô và giai cấp vô sản ở những
nước đế quốc để chống chiến tranh, bảo vệ Liên Xô. Xét về mặt phát triển, hợp
tác và chấp nhận sự lãnh đạo của Liên Xô, những nước phụ thuộc và thuộc địa có
thể bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội.

• Những sai lầm trong sự hợp tác với Quốc dân Đảng trong những năm 1925-1927
không bắt nguồn từ đường lối của QTCS mà là do Đảng Cộng sản Trung Quốc đã
quá coi trọng thực lực của giai cấp tư sản, nên mất cảnh giác, không giữ vững tính
độc lập của mình, sau đó khi sự biến tháng tháng 4-1927 xảy ra thì lại làm ngược
lại, coi thường thực lực của giai cấp tư sản, đưa đến chỗ manh động khởi nghĩa
gây ra tổn thất nặng nề. Dù vậy, tình hình cách mạng ở Trung Quốc vẫn đi theo
xu thế phát triển, Đảng Cộng sản cần củng cố về chiều sâu lực lượng công nông
để chuẩn bị cuộc tấn công mới [4] .

• Theo tinh thần của Nghị quyết, cùng với việc coi phe Dân chủ-Xã hội ở những
nước đế quốc là kẻ thù ngang hàng với chủ nghĩa đế quốc, cũng phải chấm dứt
việc thành lập mặt trận thống nhất “từ bên trên” với các thế lực tư sản dân tộc
theo xu hướng cải lương ở những nước thuộc địa. Còn đối với những thế lực tiểu
tư sản có thể cùng hành động thì phải hết sức đề cao cảnh giác: chỉ hợp tác trong
những thời gian nhất định và chỉ trong điều kiện nắm được bá quyền cách mạng.
Nhiệm vụ đặt ra cho các đảng cộng sản nói chung là chuẩn bị khí thế, lấy tinh
thần “giai cấp chống giai cấp” làm phương châm hành động, xâm nhập các nghiệp
đoàn, tổ chức nông dân, chuẩn bị các Xô Viết có thể hình thành bằng những cuộc
vũ trang khởi nghĩa [5] .

3. Bấy giờ Việt Nam chưa có Đảng Cộng sản, phong trào cách mạng Việt Nam lại do
Đảng Cộng sản Pháp phụ trách, cho nên ba đại biểu Việt Nam dự Đại hội 6 QTCS đã do
Đảng Pháp giới thiệu. Một người là Nguyễn Thế Vịnh (thuộc gia đình Nguyễn Thế
Truyền và đã học tại Moskva từ tháng 7 đến tháng 11-1927, nhưng sau bỏ học vì bệnh);
một người tên Ban (sau Đại hội một thời gian thì bỏ Đảng). Cả hai người này cuối cùng
không được Đại hội chấp nhận tư cách đại biểu; theo một lá thư của một người Việt Nam
ở Paris gửi Ban phương Đông thì lý do là một người đã lên tiếng chỉ trích Uỷ ban Thuộc
địa của Đảng Pháp.

Đại biểu Việt Nam còn lại là Nguyễn Văn Tạo, vốn là một đảng viên Đảng CS Pháp, đã
tổ chức một nhóm cộng sản Việt Nam tại Paris vào tháng 4-1928. Với bí danh An, đại
biểu này đã báo cáo tình hình giai cấp ở Việt Nam: sự phá sản của tiểu công nghiệp do
cạnh tranh không lại với những công ty của tư sản dân tộc và đế quốc, trong khi đó thì
nông nghiệp đình đốn, tất cả đã làm tăng lên gia cấp vô sản. Đọc báo cáo của Nguyễn
Văn Tạo, Sophie Quinn-Judge cho biết không thấy nhắc đến hoạt động của của Thanh
niên Cách mạng Đồng chí Hội do Nguyễn Ái Quốc khởi xướng ở Quảng Châu trong
những năm 1925-1927. Tác giả cũng cho biết những người Việt Nam đang có mặt tại
Moskva lúc bấy giờ là Trần Phú, Ngô Đức Trì, Lê Hồng Phong đã được mời tham dự Đại
hội chỉ với tư cách là quan sát viên [6] .

4. Những sự kiện trên đây cho biết ngay từ khi chuẩn bị, Đại hội 6 QTCS đã có tác động
ngay đến phong trào cộng sản Việt Nam. Nhưng tác động ấy chỉ trở nên rõ ràng một năm
sau khi sự chuyển hướng về đường lối của Stalin bộc lộ một cách đầy đủ trong Hội nghị
toàn thể lần thứ 10 Ban chấp hành Trung ương và Ban kiểm tra trung ương của Đảng
Cộng sản Liên Xô họp vào tháng 4-1929, Stalin giành được phần thắng đã tuyên bố khai
trừ Bukharin và Tomsky khỏi mọi chức vụ, cảnh cáo sẽ có những biện pháp mạnh hơn
nếu những người này cứ tiếp tục chống đối [7] .

Ba tháng sau, ngày 3-7-1929, Hội nghị toàn thể Ban chấp hành QTCS họp lần thứ 10,
Kuunisen thay thế Bukharin phụ trách QTCS đã có thể khai triển đến tối đa đường lối
chống khuynh hữu của Stalin trên phương diện đối ngoại với báo cáo mang tên Hoàn
cảnh quốc tế và nhiệm vụ của QTCS, trong báo cáo này vấn đề kỷ luật trong QTCS đã
được đặt ra một cách quyết liệt: đảng nào không tuân phục chủ trương đưa ra khỏi hàng
ngũ những phần tử cơ hội, hữu khuynh đảng ấy sẽ bị khai trừ khỏi QTCS. Kuunisen
tuyên bố đường lối mới của QTCS là “giai cấp chống giai cấp”, phong trào cộng sản là
một khối thuần khiết, một lực lượng vĩ đại của giai cấp vô sản cách mạng toàn cầu. M. N.
Roy, tại Đại hội 5, bị phê bình vì đã nghi ngờ chính sách mặt trận thống nhất với giai cấp
tư sản ở những nước thuộc địa thì lần này lại bị phê bình vì đã thanh toán xong mối nghi
ngờ đó [8] .

“Quả trứng cộng sản” sau Đại hội 6 Quốc tế Cộng sản

Sự phát triển của phong trào cách mạng cộng sản Việt Nam trong những năm 30 của thế
kỷ 20, như vậy, cũng theo tình hình trong nội bộ Đảng Cộng sản mà bộc lộ thành hai xu
hướng đối địch nhau: một bên đại diện cho Đại hội 6 và một bên đại diện cho Đại hội 5
QTCS. Và bởi vì ở Việt Nam, đại diện cho Đại hội 5 là Nguyễn Ái Quốc và Thanh Niên
cho nên xu hướng này đã gánh chịu sự công kích cực kỳ gay gắt của các những thành
phần đại biểu cho Đại hội 6 trong suốt một thời gian khá dài, đến cả sau Đại hội 7 QTCS
(1935) cũng chưa chấm dứt.

1. Tất cả đều khởi đầu từ chủ trương “bônsêvích hoá” quá nhiệt tình của nhóm Bắc kỳ [9] .
Sau khi tự động thành lập một chi bộ cộng sản (đầu tiên), nhóm này đã vận động chuyển
Thanh Niên thành Đảng Cộng sản vì cho rằng Thanh Niên đã lỗi thời về ý thức hệ và tổ
chức, không phù hợp với khái niệm “đội tiền phong” của Lenin. Trần Văn Cung, Ngô
Gia Tự, Dương Hạc Đính, Nguyễn Tuân được cử đi dự Đại hội I Thanh Niên họp tại
Hồng Kông từ ngày 1 đến 9-5-1929, đã đưa ra đề nghị nói trên. Nhưng Tổng bộ, được sự
đồng ý của Nhóm Nam kỳ và Xiêm, đã bác bỏ, viện lý do là chưa đủ điều kiện, nên cần
phải chuẩn bị [10] . Trừ Dương Hạc Đính, số còn lại đã bỏ ra về. Các nhóm khác ở lại tiếp
tục họp sau đó ra tuyên bố kết án nhóm Bắc kỳ là “trẻ con”, cần phải bị khai trừ vĩnh viễn
vì không còn xứng đáng đứng trong hàng ngũ cách mạng nữa.
Nhóm Bắc kỳ trở về đã trả đũa lại khá gay gắt. Họ đã ra một tuyên bố kết án những người
lãnh đạo Thanh Niên là “nhóm tiểu tư sản khởi xướng ra những thứ cách mạng giả hiệu”
vì những người này đã “gửi đại biểu đi dự Hội nghị toàn quốc của Quốc dân Đảng chống
cách mạng, chống công nhân”. Tuyên bố kêu gọi đánh đổ bọn cách mạng giả hiệu, bọn
lừa bịp công nông, tổ chức ra một Đảng Cộng sản, lãnh đạo và giúp giai cấp vô sản làm
cách mạng [11] . Vào ngày 17-6-1929, hơn 20 đại biểu của các chi bộ ở Bắc kỳ đã họp tại
Hà Nội lập ra Đảng Cộng sản Đông Dương với một chương trình hành động rập khuôn
theo Cương lĩnh của QTCS Đại hội 6 [12] .

2. Trước sự lấn lướt của ĐCSĐD, đẩy lùi dần ảnh hưởng các nhóm Thanh Niên ở Bắc và
Trung, những Thanh Niên Nam kỳ còn lại đã liên hệ và muốn sáp nhập vào ĐCSĐD
nhưng bị từ chối. Được sự khuyến khích của nhóm Thanh Niên hải ngoại ở Hồng Kông,
nhóm Nam kỳ quyết định giải thể Thanh Niên và chuyển thành một Đảng Cộng sản mệnh
danh là Annam Cộng sản Đảng (cuối tháng 8-1929) [13] , đảng này được hầu hết những
thành viên của Thanh Niên còn lại thừa nhận. Và thế là xảy ra cuộc tranh giành danh
nghĩa quyết liệt giữa hai “đảng cộng sản”.

Nhóm “Đông Dương” vẫn dùng những luận điệu đả kích tổ chức Thanh Niên đã tan vỡ
để chỉ trích nhóm “An Nam”, gọi nhóm này những kẻ “cơ hội ngả nghiêng”, hôm qua
còn ra sức bảo vệ Thanh Niên, từ chối thảo luận vấn đề thành lập Đảng Cộng sản, nay
thấy mấy chữ “cộng sản” có thể lôi kéo quần chúng thì cũng vội vã tổ chức ra một đảng
mang tên như vậy. Thực tế đó chỉ là những người cộng sản giả hiệu, họ dùng mấy chữ
“cộng sản” để phục vụ cho quyền lợi vị kỷ của họ. Nhóm “An Nam” cũng không để bị
lấn lướt. Theo họ, những người trong ĐDCSĐ không phải là một tổ chức cách mạng đích
thực. Đó chỉ là một nhóm bônsêvích vô tổ chức, quá khích, lệch lạc, ấu trĩ, so với những
những người cộng sản chân chính thì giống như một thứ “gà đội lốt công” [14] !

Một Đảng Cộng sản thứ ba cũng ra đời vào năm 1929 từ sự phân hoá của Tân Việt Cách
mạng Đảng ở miền Trung, đảng này khởi đầu vốn theo chủ nghĩa quốc gia nhưng do một
số người lãnh đạo như Lê Duy Điếm, Trần Phú… tiếp xúc với Thanh Niên dần dần chịu
ảnh hưởng nên đã lấy Thanh Niên làm mẫu mực về cương lĩnh và tổ chức. Những do bản
thân Tân Việt bao gồm nhiều thành phần khác nhau nên nhiều lần xúc tiến hợp nhất với
Thanh Niên đã không thành. Sau Đại hội Thanh Niên tháng 5-1929 thất bại dẫn đến việc
thành lập ĐCSĐD, Tân Việt đã chuyển hướng, muốn quay sang sáp nhập với Đảng Cộng
sản mới thành lập này. Nhưng cuộc vận động cũng không xong: điều kiện của ĐCSĐD
đòi Tân Việt giải thể với tư cách là tổ chức, rồi sau đó sẽ gia nhập với tư cách là những cá
nhân là không chấp nhận được. Trước tình thế ấy, bộ phận cánh tả trong Tân Việt đã ly
khai tổ chức cũ để thành lập một Đảng Cộng sản khác tên gọi là Đông Dương Cộng sản
Liên đoàn [15] , tuyên bố cùng ĐDCSĐ và ANCSĐ “liên hợp thành thành một tổ chức
cộng sản xứ Đông Dương để cho sức mạnh cộng sản vững chắc và duy nhất” [16] .

Nguyễn Ái Quốc và việc hợp nhất các “Đảng Cộng sản”

Sự ra đời của Đảng Cộng sản thứ ba này đã là nhát búa cuối cùng đóng vào cái nắp quan
tài Hội Thanh Niên do Nguyễn Ái Quốc thành lập năm 1925 và Đại hội Thanh Niên lần
thứ nhất diễn ra vào tháng 5-1929 cũng là Đại hội cuối cùng của nó. Theo cách lý giải
của những nhà ý thức hệ của Đảng Cộng sản Việt Nam về sau thì hiện tượng đó đã mang
ý nghĩa của sự “khủng hoảng trưởng thành của phong trào công nhân và dân tộc ở Việt
Nam” [17] . Nhưng theo lời lẽ của chính người đã tạo ra “phong trào” ấy là Nguyễn Ái
Quốc thì đó là “chính sách sai lầm của những người cộng sản” – những người này trong
khi làm cho “con chim non cộng sản” ra đời đã “phá huỷ gần hết cái vỏ” của “quả trứng”
đã cưu mang nó mà chẳng làm được gì hơn là “sử dụng nhiều – nếu không nói là tất cả –
nghị lực và thời gian trong các cuộc đấu tranh nội bộ và bè phái” [18] .

Nhưng Nguyễn Ái Quốc có trách nhiệm gì và đã giải quyết như thế nào tình trạng hỗn
loạn cộng sản nói trên?

1. Chúng ta hãy đọc những dòng mà Nguyễn Ái Quốc đã gửi QTCS ngày 18-3-1930 nói
về thời kỳ anh công tác ở Xiêm:

A. 1) Nhận được chỉ thị của QTCS về công tác ở Đông Dương, tôi từ giã nước Đức vào
tháng 6 và đến Xiêm vào tháng 7-1928. Tôi đã làm việc với một số người Annam di cư ở
đấy tới tháng 11-1929.

2) Những điều kiện ở Xiêm (đúng hơn là cả ở Lào)

a) Dân cư rất phân tán, hầu hết theo đạo Phật, một số ít theo đạo Thiên Chúa, chừng 10
hay 15 nghìn người Annam di cư ở Xiêm và cả ở Lào. Hơn một nửa trong số họ đã nhiều
thế hệ theo đạo Thiên Chúa. (…)

B. Công tác của tôi ở Lào

1) Do những điều kiện của người Annam (nông dân tự do, thợ thủ công, tiểu thương), họ
chỉ có thể được tổ chức vào “Hội Ái hữu” với tư tưởng yêu nước và chống đế quốc.
Trước đậy họ có hơn 1000 người. Nhưng hiện nay ít hơn vì những người Annam theo đạo
Thiên chúa bị các giám mục người Pháp đe dọa rút phép thông công nên họ đã rút ra
khỏi Hội Ái hữu.

2) Ba trường học đã được tổ chức. Một trường khác sắp được tổ chức nhưng phải hoãn
lại vì : a) Địa điểm gần người Pháp, b) Tỉnh trưởng người Xiêm theo đạo Thiên chúa, c)
Có một nhà thờ do người Pháp làm cố đạo, dĩ nhiên là ông ta chống lại chúng tôi.

3) Một tờ báo, tờ “Thân Ái” sắp được xuất bản.

C. Đi về Annam

Đã hai lần tôi cố gắng về Annam, nhưng phải quay trở lại. Bọn cảnh sát và mật thám ở
biên giới quá cẩn mật, đặc biệt là từ khi xảy ra vụ Annam “Quốc dân Đảng” [19] .
Chúng ta đều biết sau sự biến tháng 4-1927 ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc đã nhất định
về châu Á để tiếp tục hoạt động và trên đường về Xiêm, anh đã mang theo chỉ thị 12-9-
1927 của QTCS về việc thành lập đảng cộng sản Việt Nam. Nhưng qua báo cáo của
Nguyễn về thời gian công tác tại Xiêm chúng ta cũng thấy nhiệm vụ nói trên của anh đã
không được hoàn thành: dự định về nước bị cản trở, móc ráp với cơ sở để chỉ đạo các
hoạt động trong nước không có, tất cả công việc ở Xiêm, qua báo cáo nói trên, cũng
chẳng có gì quan trọng.

Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch của Trần Dân Tiên [20] và Vừa đi
vừa kể chuyện của T.L [21] cũng không cho chúng ta thấy gì thêm: ngoài việc thành lập
Hội Thân ái Việt Nam và tuần báo Thân ái, mở trường học dạy trẻ con, tất cả những thứ
còn lại đều chỉ là những chi tiết trong những chuyện kể phiêu lưu cách mạng, chẳng hạn
như bị mật thám theo dõi đến nỗi phải tạm thời cắt tóc… đi tu! Những kẻ sùng bái ông
Hồ có cố gắng sưu tầm ra những chi tiết cốt để làm cho thời gian đó trở nên quan trọng
hơn nhưng vẫn không thoát khỏi những chuyện tủn mủn tương tự. Chúng ta biết thêm
được hình ảnh “gầy gò” của Nguyễn – dưới bí danh Thầu Chín – bất ngờ xuất hiện ở Phi
Chít (Trung bộ nước Xiêm ) rồi đi về Odon (Đông Bắc Xiêm) trong những buổi đọc báo,
học tiếng Xiêm, lập tủ thuốc, diễn kịch (bài ca Đức Thánh Trần…) cuốc đất, vác gạch,
dịch sách (ABC Cộng sản, Nhân loại tiến hoá sử)… hoà mình với quần chúng để vận
động [22] , nhưng tất cả đều chỉ giới hạn trong một khu vực người Việt Nam không thuận
lợi, chẳng có gì tác động quan trọng đến tình hình trong nước cả. 16 tháng ở Xiêm mà chỉ
với những công việc như vậy thì một cán bộ Thanh Niên nào đó vẫn có thể làm được.

2. Cũng trong báo cáo gửi QTCS ngày 18-2-1930 nói trên, Nguyễn Ái Quốc cũng cho
biết đã đi Trung Quốc để tiến hành hội nghị hợp nhất như thế nào:

“Tôi đã cố gắng đi lần thứ ba khi một đồng chí từ Hồng Kông tới Xiêm và tin cho tôi biết
tình hình Hội An Nam Thanh Niên Cách mạng bị tan rã, những người cộng sản chia
thành nhiều phái v.v…

Lập tức tôi đi Trung Quốc, tới đó ngày 23-12. Sau đó tôi triệu tập Đại biểu của hai nhóm
(Đông Dương và An Nam). Chúng tôi họp vào ngày mồng 6-1.

Với tư cách là phái viên của QTCS có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến
phong trào cách mạng Đông Dương, tôi nói cho họ biết những sai lầm và họ phải làm gì.
Họ đồng ý thống nhất vào một đảng.

Chúng tôi cùng nhau xác định cương lĩnh và chiến lược theo đường lối của QTCS.
Các đại biểu phải tổ chức một Trung ương lâm thời gồm 7 uỷ viên chính thức và 7 uỷ
viên dự khuyết. Các đại biểu trở về An Nam ngày 8-2” [23] .

Nhưng thực tế cho chúng ta biết sự việc đã không diễn ra hoàn toàn đơn giản như
Nguyễn đã viết.
• Theo báo cáo thì dường như khi còn ở Xiêm, cùng với việc không liên hệ gì với
QTCS, Nguyễn Ái Quốc cũng không biết nhiều về sự phân liệt trong phong trào
cộng sản Việt Nam sau Đại hội 6 QTCS. Nguyễn chỉ biết tình hình ấy khi có
người sang cho hay, và chỉ khi đó Nguyễn mới tìm cách đi giải quyết. Và khi gặp
gỡ các đại biểu trong Hội nghị, Nguyễn đã gây nghi ngại không ít cho một số
người: như chúng ta đã biết, trước Hội nghị hợp nhất, nhóm Bắc kỳ chỉ muốn coi
Nguyễn như một thành viên Thanh Niên bình thường, và vì tổ chức này cần giải
tán, nên Nguyễn cũng không còn được coi đương nhiên là người lãnh đạo cao
nhất của phong trào. Và cũng chính vì vậy mà ngay trong Hội nghị hợp nhất, một
thành viên của “Đông Dương” đã đòi Nguyễn phải trưng bằng cớ là người đại
diện thật sự cho QTCS để chủ trì hội nghị [24] .

• Cũng theo báo cáo thì Hội nghị hợp nhất đã được tổ chức theo đường lối của
QTCS. Nhưng những diễn biến về sau cho biết đường lối đó không còn phù hợp
với đường lối do Đại hội 6 QTCS vạch ra. Như chúng ta đã biết tinh thần của hai
đại hội này khác nhau hoàn toàn cho nên, kết quả của Hội nghị hợp nhất cũng rất
bấp bênh. Những gì diễn ra sau đó đã chứng minh rằng những người nắm giữ thật
sự đường lối của QTCS sau Đại hội 6 là Ngô Đức Trì và Trần Phú vừa tốt nghiệp
xong trường Stalin từ Liên Xô trở về chứ không phải là ai khác. Văn bản mới nhất
mà hai người này nắm được để định hướng cho phong trào cộng sản Việt Nam là
chỉ thị ngày 17-10-1929; nội dung của chỉ thị đó, theo lời khai của Ngô Đức Trì
với mật thám sau khi bị bắt, là hướng dẫn thành lập ra những nhóm cộng sản
trước rồi sau đó mới lập ra Đảng. Chỉ thị cũng nói rõ là trong khi cần phải hợp tác
chặt chẽ vớí các nhóm cộng sản Trung Quốc thì phải tránh nhập nhằng với những
đảng quốc gia kiểu như Đảng Độc lập của Nguyễn Thế Truyền mới thành lập ở
Pháp.

• Cùng với chỉ thị trên, Ngô Đức Trì và Trần Phú cũng được QTCS cung cấp cho
một tài liệu 48 trang tựa đề “Về nhiệm vụ trước mắt của những người cộng sản
Đông Dương” soạn vào tháng 11-1929 trong đó nội dung của Đại hội 6 QTCS và
Hội nghị 10 Ban chấp hành QTCS đã được diễn giảng rõ ràng. Đặc biệt nhất là
khi áp dụng vào thực tế, tài liệu đã phê phán Đại hội Thanh Niên tháng 5-1929 là
thiếu quan điểm giai cấp. Tài liệu chỉ ra rằng tiểu tư sản không còn là “lực lượng
cách mạng” nữa. Lực lượng cách mạng nhất trong nông dân là bần nông và tiểu
nông. Phải vận động nông dân chống địa chủ (tô tức, thuế…). Quan hệ với những
đảng phái khác hoàn toàn chỉ là lợi dụng, khai thác. Phải thành lập một đảng cộng
sản bí mật để sử dụng những biện pháp công khai và bán công khai. Chuẩn bị bạo
động khi có điều kiện [25] .

Kết quả Hội nghị Toàn thể Ban Chấp hành 10-1930

1. Chính là trên những tài liệu mới này, Ngô Đức Trì và Trần Phú, nhân danh Đại hội 6
QTCS, đã triệu tập Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 10-1930 phủ
định toàn bộ những gì mà Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện trong Hội nghị hợp nhất trước
đó 8 tháng. Cương lĩnh tháng 2-1930 mà Nguyễn đưa ra trong Hội nghị hợp nhất đã bị
thay thế bằng những luận đề và nghị quyết phù hợp với Đại hội 6 QTCS: đấu tranh chứ
không liên hiệp giai cấp nữa. Những phần tử yêu nước có nguồn gốc trung gian sẽ bị
thanh lọc. Trần Phú được bầu làm Thư ký, Ngô Đức Trì và Nguyễn Trọng Nghĩa cùng
với hai người khác nữa là Thường vụ.

Theo Ngô Đức Trì (khi bị bắt đã khai với mật thám Pháp) [26] sau Hội nghị hợp nhất,
Nguyễn và Trần Phú cùng đi Thượng Hải để báo cáo với Ban phương Đông. Trần Phú trở
về Hồng Kông đã mang theo một bức thư của Nguyễn, trong thư này Nguyễn thú nhận
Hội nghị hợp nhất đã được tổ chức vội vã, có nhiều sai sót trong lãnh đạo do thiếu thông
tin trong nước. Nguyễn cũng đồng ý đổi tên Đảng thành ĐDCSĐ.

Với những kết quả như trên, có thể coi Hội nghị Toàn thể Ban Chấp hành tháng 10-1930
giống như một đảo chính cung đình rất quen thuộc trong những cuộc thanh lọc của những
đảng cộng sản. Trong cuộc thanh lọc ấy, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành đối tượng của sự
phê phán, phủ định quyết liệt.

2. Vì tầm quan trọng của vấn đề, ngoài những xử lý cá nhân trong nội bộ, “vấn đề
Nguyễn Ái Quốc” phải được công bố cho toàn bộ phong trào. Điều này được thể hiện
trong thư ngày 9-12-1930 của Trung ương Thường vụ gửi các cấp đảng bộ, vạch ra
những sai lầm của Nguyễn về Hội nghị hiệp nhất, phê bình hội nghị ấy là “rất sơ sài”, “có
nhiều điều không đúng với chủ trương quốc tế” [27] . Có thể tóm tắt nội dung của bức thư
ấy trong mấy điểm như sau:

• Hội nghị hợp nhất không lấy tư tưởng làm nền để “hiệp nhất” các nhóm cộng sản
(“Đông Dương”, “An Nam”, “Cộng sản Liên đoàn”) nên vẫn không chấm dứt
được tình trạng hỗn tạp trong hành động và tư tưởng trong đảng.

• Lấy tên Đảng là Cộng sản Việt Nam là không đúng: Việt Nam, Cao Mên, Lào
cùng bị đế quốc Pháp thống trị, sinh hoạt kinh tế “mật thiết liên lạc với nhau”-

• Chính cương vắn tắt của Hội nghị hiệp nhất mơ hồ về tính chất đấu tranh giai cấp.
Với địa chủ: không thể chia địa chủ thành “đại, tiểu và trung” rồi cho rằng hạng
này có thể theo, hạng kia có thể phản cách mạng; tất cả bọn chúng đều là giai cấp
bóc lột và liên kết với đế quốc để bóc lột, vì vậy không thể chủ trương lợi dụng
hay trung lập hóa mà phải tiêu diệt, tịch thu tất cả ruộng đất của chúng chia cho
bần và trung nông (cố nông không nằm trong phạm trù dân cày mà là vô sản).

• Đối với tư sản: Cũng không thể mập mờ nói chuyện “lợi dụng” những phần tử tư
sản gọi là “chưa phản cách mạng” như Chánh cương sách lược. “Ảnh hưởng của
bọn tư bản trong quần chúng công nông là rất nguy hiểm cho phong trào cách
mạng. Bởi vậy cần phải gỡ cái mặt nạ của bọn tư bổn trong quần chúng để giành
lấy quần chúng”

• Những sai lầm của Nguyễn Ái Quốc về việc “hiệp nhất”:


“Đồng chí đứng ra chiêu tập H.n.h.n năm trước kia được Q.t cho về tuỳ hoàn
cảnh mà làm việc chứ chưa có được kế hoạch rõ ràng gì. Khi đồng chí ấy về đến
nơi thì thấy phong trào c.s tuy mới nổi nhưng đã chia rẽ rồi nên tự ý hành động
có nhiều việc sai lầm không đúng với kế hoạch của Q.t. Vì đó mà có Hội nghị
hiệp nhất. Đồng chí ấy nay đã nhận rõ những sai lầm và cũng đã đồng ý với T.ư
mà sửa chữa những chỗ sai lầm lúc trước”.

Nội dung về “đấu tranh giai cấp” đã được Luận cương chính trị của Đảng trước đó (do
Trần Phú soạn thảo) nói rõ hơn [28] :

• Tất cả giai cấp tư sản đều phản động dù là bộ phận “hiệp tác” với đế quốc hay bộ
phận “thoả hiệp” với đế quốc. Riêng bộ phận “thoả hiệp này” được Luận cương
kể tên: bọn Huỳnh Thúc Kháng, bọn Phạm Quỳnh, bọn Ngọ báo… và được “vạch
mặt” khá kỹ là chỉ lợi dụng phong trào quần chúng để mưu lợi ích riêng, đòi hỏi
cải cách nhưng kỳ thật là “phá hoại phong trào cách mạng của công nông”. Mục
đích là làm cho công nông “sanh mộng tưởng mà quên con đường cách mạng”.

• Các đảng phải tiểu tư sản như (Quốc dân Đảng, Nguyễn An Ninh…) dù là theo
đường lối “quốc gia cách mạng” nhưng rồi cũng hoá ra “quốc gia cải lương”. Các
đảng phái ấy đều dính dáng đến bọn địa chủ và tư bản: có theo cách mạng chống
đế quốc thì cũng chỉ vì quyền lợi của tư bản bản xứ, khi phong trào công nông
phát triển mạnh thì chúng sẽ bỏ cách mạng “chạy về cải lương và hiệp tác với đế
quốc chủ nghĩa”. Chỉ có thể “tạm thời hợp tác” và “lợi dụng” có lợi cho cách
mạng. Phải giữ vững tính chất giai cấp của công nông trong hợp tác với những
đảng phái ấy, và trong khi hợp tác cũng phải “hết sức đánh đổ ảnh hưởng của bọn
ấy trong quần chúng” [29] .

3. Trong các đảng cộng sản, những sai lầm được vạch ra như trên là thuộc về “đường lối”
và “quan điểm”, cực kỳ trầm trọng. Cũng chính vì vậy mà mặc dù Nguyễn đã tự kiểm
điểm, Hội nghị Trung ương toàn thể ở Sài Gòn ngày 12-2-1931 đã ghi vào chương trình
nghị sự một mục gọi là “Vấn đề Nguyễn Ái Quốc” và đi đến chỗ chấm dứt vai trò đại
diện QTCS của Nguyễn ở Hồng Kông: thay vì liên lạc qua Nguyễn thì Đảng CS ĐD trực
tiếp với Ban phương Đông. Theo lời Ngô Đức Trì thì do những lãnh đạo Trung và Bắc đã
than phiền về việc Nguyễn thường hay đòi họ phải báo cáo cho Ban phương Đông ở
Thượng Hải, việc này theo họ là nhiệm vụ của Ban Thường vụ. Hội nghị đề nghị Nguyễn
chấm dứt việc đòi hỏi đó; khi cần thiết Trung ương sẽ báo cáo cho Ban phương Đông ở
Hồng Kông, Nguyễn chỉ làm công việc chuyển thôi.

Ngày 23-4-1931, Nguyễn trả lời Trung ương và qua thư này chúng ta có thể hình dung sự
việc như sau: sau Hội nghị tháng 10-1930, “trong đã có Trung ương ngoài đã có Ban
phương Đông”, nếu công việc của Nguyễn chỉ là “thùng thơ” thì “người khác cũng làm
được” cho nên Nguyễn xin “đổi chỗ”. Vì vậy Ban phương Đông mới có thư định trách
nhiệm cho Nguyễn và trách nhiệm ấy, qua thư Nguyễn trả lời Trung ương, chúng ta thấy
bao gồm có việc “tham gia ý kiến” với trong nước và Ban phương Đông, cho nên cần
được trong nước gửi báo cáo ra, “không có gì là vô lý và lộn xộn” như Trung ương đã
nhận xét. Nguyễn đề nghị Trung ương nên thảo luận lại “nhiệm vụ” của Nguyễn và cho
biết ý kiến [30] . Như vậy, qua bức thư trên, ta thấy Nguyễn vẫn được Ban phương Đông
giao cho công tác trong đó vẫn giữ một trách nhiệm nào đó với Đảng CS ĐD, nhưng
Trung ương ĐCSĐD lại phủ nhận vai trò này. Cuối tháng 4-1931, Trần Phú đã viết cho
Ban phương Đông báo rằng không còn dùng Nguyễn như người trung gian nữa vì “đồng
chí này quá vắn tắt và hay cho chúng tôi nhũng ý kiến riêng không tham khảo với Ban”
[31]
.

Đại hội Macao và số phận Nguyễn Ái Quốc

1. Giữa lúc tình hình đang căng thẳng đó thì tháng 8-1931, Nguyễn Ái Quốc bị bắt, cùng
với đa số những người đang hoạt động tại Trung Quốc (trong đó có Hồ Tùng Mậu,
Nguyễn Thị Minh Khai) và 9 cán bộ từ Moskva trở về [32] . Trong khi Minh Khai được
đưa về Quảng Châu (sau được thả vì khai là người Trung Quốc), Hồ Tùng Mậu được dẫn
độ về Việt Nam và bị đày đi Côn Đảo (vì bị bắt trong lãnh giới Pháp) thì Nguyễn bị giam
giữ tại Hồng Kông (nơi Nguyễn bị bắt) để chờ ngày ra toà. Trong thời gian này một tờ
báo cộng sản Anh có đưa tin Nguyễn đã chết vì bệnh lao và tin này đã khiến nhiều người
cộng sản ở nhiều nơi đã làm lễ truy điệu. Nhưng đó chỉ là tin đồn. Nhờ có sự vận động
của tổ chức Cứu trợ Đỏ, một đoàn luật sư do Frank Loseby cầm đầu đến Hồng Kông,
khôn khéo khai thác những thủ tục xét xử phức tạp trong luật pháp Anh để bênh vực,
Nguyễn đã thoát khỏi áp lực của chính quyền thực dân Pháp đòi dẫn độ về Việt Nam,
cuối cùng đến tháng 1-1933, thì được tha. Sau một số rắc rối, cuối cùng anh về được
Moskva vào tháng 7-1934.

2. Lúc này tình hình thế giới đang có những chuyển biến quan trọng. Năm 1933, Hitler đã
lên cầm quyền tại Đức [33] . Nhiều lĩnh tụ cộng sản các nước muốn xét lại đường lối của
Đại hội 6 QTCS, khuyến cáo không nên đòi lật đổ toàn bộ giai cấp tư sản, không nên xếp
phe Dân chủ-Xã hội vào loại kẻ thù số một nữa vì đường lối đó sẽ làm yếu mặt trận
chống phát xít. Xu hướng này đã được thừa nhận trong Đại hội 7 QTCS họp vào tháng 7-
1935. Ở Liên Xô, sau việc nhóm đối lập hữu khuynh bị thanh trừng xong, cuộc hợp tác
hoá nông nghiệp đã hoàn thành, tình hình tưởng có thể lắng dịu đi, nhưng nhân việc
Kirov, bí thư Leningrad bị ám sát vào cuối năm 1934, Stalin đã đẩy cường độ cuộc thanh
trừng nội bộ lên mức hết sức tệ hại. Trotsky cấu kết với đế quốc để chống Liên Xô đã trở
thành lý lẽ biện minh cho việc bắt bớ, đầy ải hàng ngàn những phần tử đối lập cũ đã nhận
lỗi và được phục hồi sau những cuộc trấn áp trước.

Năm 1935 và 1936, cuộc thanh trừng tiếp tục và lan rộng dần, cho đến 1937 thì đã trở
thành cuộc giết hại kinh hoàng: nó không chỉ nhằm vào những nhóm chống đối đã có mà
còn mở rộng đến toàn bộ hàng ngũ những người bônsêvích kỳ cựu, những người mà
Stalin cho là tạo ra cái môi trường có khả năng tiếp tục sinh ra chống đối mới. Dưới nhiều
hình thức khác nhau – tra tấn, dụ dỗ, rún ép gia đình, giết hại không xét xử , hoặc mở ra
một số rất ít những cuộc xét xử để những nạn nhân tự thú… – Stalin đã triệt tiêu 70% (98
trong tổng số 139) các uỷ viên và uỷ viên dự khuyết được bầu vào Ban Chấp hành Trung
ương Đảng trong Đại hội 1934, một Đại hội mệnh danh là “chiến thắng” [34] .
Cuộc thay máu ấy không chỉ giới hạn trong nội bộ Đảng Liên Xô, nó lan tràn ra các đảng
cộng sản “anh em” mà Stalin nghi ngờ có khả năng chống lại đường lối của mình. Cái mũ
chụp lên đầu những lĩnh tụ cộng sản này cũng không có gì khác hơn là làm tay sai cho
Trotsky phản cách mạng! Đặc biệt nhất là đối với những đảng viên từ nhiều nước bị chủ
nghĩa phátxít thống trị (Đức, Ba Lan…), phải chạy sang Liên Xô xin tá túc: hàng vạn
người trong hàng ngũ này đã bị bắn giết hoặc vào các trại tập trung [35] .

3. Tình hình phức tạp ở Liên Xô và trên thế giới trên đây đã ảnh hưởng rất nhiều đến
Nguyễn Ái Quốc. Sau khi dưỡng bệnh ở Crimée, tháng 10-1934, Nguyễn vào học tại
Trường Lenin (được xem là nơi đào tạo những cán bộ cộng sản nước ngoài nhưng thật sự
cũng là nơi để giáo dục lại những cán bộ mắc phải sai lầm). Bị kiểm điểm đối với anh
chắc chắn là điều không tránh khỏi [36] . Nhưng không thấy có tài liệu nói rõ hình thức kỷ
luật đối với Nguyễn.

Vào thời kỳ này, trong khi Moskva chuẩn bị Đại hội 7 QTCS thì một sự kiện quan trọng
cũng đã xảy ra đối với ĐCSĐD: Hà Huy Tập thay mặt Lê Hồng Phong, giả định như tình
hình chưa có gì thay đổi, tổ chức Đại hội ĐCSĐD tại Macao (từ 27 đến 31 tháng 3-1935),
đẩy xa hơn nội dung khuynh tả của Đại hội 6 QTCS về đường lối lẫn thanh lọc nội bộ
[37]
. Đại hội đã bầu ra một Uỷ ban Trung ương mới gồm 13 người (Hà Huy Tập là Tổng
Bí thư) trong đó Nguyễn Ái Quốc chỉ được coi như là uỷ viên dự khuyết và được chỉ định
đi dự Đại hội 7 QTCS cùng với ba đại biểu khác là Lê Hồng Phong (cán bộ trong Văn
phòng Hải ngoại ĐCSĐD), Hoàng Văn Nọn (người Tày) và Nguyễn Thị Minh Khai [38] –
ba người này đã đến Moskva vào cuối năm 1934. Nhưng cùng với việc đề cử đó, Hà Huy
Tập đã gửi cho QTCS báo cáo về “vấn đề Nguyễn Ái Quốc” tại Đại hội Macao trong đó
có những lời lẽ như sau:

“Ở Xiêm cũng như ở Đông Dương, các tổ chức cộng sản đã tiến hành cuộc đấu tranh
công khai chống lại những tàn dư của tư tưởng cách mạng-dân tộc, trộn lẫn với chủ
nghĩa cải lương và duy tâm của Hội Thanh Niên và đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Những tàn
dư này rất mạnh và tạo ra sự cản trở rất nghiêm trọng đối với sự phát triển của chủ
nghĩa cộng sản. Cuộc đấu tranh không thương xót chống lại những lý luận cơ hội cũ của
Quốc và Thanh Niên là cần thiết. Hai Uỷ ban Xiêm và Đông Dương sẽ ra văn bản chống
lại các xu hướng ấy. Chúng tôi đề nghị đồng chí Line cũng viết bản tự kiểm và những
thất bại đã xảy ra” [39] .

Trong một thư 4 trang viết bằng tiếng Pháp gửi QTCS đề ngày 20-4-1935,Hà Huy Tập
còn nói thêm về những sai lầm cực kỳ trầm trọng của Nguyễn Ái Quốc trong lĩnh vực tổ
chức:

“a) … Quốc biết Lâm Đức Thụ là mật thám nhưng vẫn dùng, b) Quốc đã sai lầm khi đòi
học viên phải nộp 2 bức ảnh, cho biết tên thật, địa chỉ, tên cha mẹ, ông bà…, c) trong
nước cũng như ở Xiêm và trong tù, người ta đã nói nhiều đến trách nhiệm của Quốc điều
mà Quốc không hề phủ nhận, d) những ảnh mà Quốc yêu cầu hiện đang nằm trong tay
mật thám Pháp, e) dần dà khi đường lối của Đảng càng rõ ràng thì đảng viên ngày càng
chỉ trích Quốc một cách nặng nề. Tổng thư ký của Đảng CS Xiêm, trước đây theo Quốc
nhiệt thành, nay là một trong những người đã phát biểu rằng trước 1930, Quốc không
phải là một người cộng sản” [40] .

4. Với sự thay đổi đường lối của Đại hội 7 QTCS, Nguyễn Ái Quốc chắc đã hy vọng mau
chóng học tập để trở về hoạt động [41] . Nhưng có lẽ do những báo cáo của Hà Huy Tập
nói trên, cộng thêm với không khí thanh trừng ác liệt của Stalin trong thời gian đó, tình
trạng của anh đã trở nên khó khăn hơn.

• Trong Đại hội 7 QTCS, trong khi ba người Việt Nam được coi là đại biểu chính
thức (có quyền biểu quyết) và Lê Hồng Phong được bầu vào Ban Chấp hành
QTCS, và trong khi hai đại biểu Xiêm chỉ được xem là đại biểu tư vấn (không
được bỏ phiếu) thì Nguyễn Ái Quốc đã không là gì cả: không là đại biểu chính
thức mà cũng không là đại biểu tư vấn. Nếu có dự Đại hội thì có lẽ chỉ với tư cách
là cán bộ phụ tá hay cố vấn cho đoàn Việt Nam thôi. Chính là Vasilieva, một cán
bộ Ban phương Đông, đã quyết định chuyện này chứ không phải là ai khác.
Vasilieva đã ghi chữ “không” dứt khoát, để trả lời việc Đại hội Macao đề cử
Nguyễn làm đại biểu trong QTCS, cùng với nhận xét sau đây: “Quốc phải học tập
nghiêm chỉnh trong hai năm và không được đảm nhận một công việc nào khác,
sau khi học xong, chúng tôi sẽ có kế hoạch đặc biệt cho đồng chí”.

• Sau Đại hội, trong khi Lê Hồng Phong rồi Nguyễn Thị Minh Khai và Hoàng Văn
Nọn lần lượt trở về châu Á, thì Nguyễn vẫn ở lại Liên Xô, học tại Trường Lenin,
năm 1936 chuyển sang bộ phận Đông Dương của Trường Stalin, làm việc dưới sự
phụ trách của Vasilieva và được Vasilieva nhận xét: “Đồng chí có khá nhiều kinh
nghiệm, nhưng cũng như nhiều đồng chí Đông Dương khác, đồng chí vấp phải
nhiều sai lầm, chúng tôi rất quan tâm đến những vấn đề đó… đồng chí đang có
những tiến bộ thấy rõ…”. Không tìm thấy tài liệu cho biết Nguyễn dự định làm
một luận án về nông nghiệp như nhiều người đã viết và dường như anh cũng
chẳng tỏ ra thích thú lắm với công việc giảng dạy và nghiên cứu này.

• Cuối 1936, Vasilieva đề nghị lập một trường huấn luyện tại Trung Quốc cho các
cán bộ cơ sở ở Việt Nam, với dự án 3000 đôla, mỗi khoá 2 tháng cho 10 học viên,
dự định đưa Nguyễn Ái Quốc về phụ trách. Nhưng cuối bản kế hoạch này có ai đó
đã viết nguệch ngoạc: “Tất cả những đề nghị này đã bị bác bỏ sau khi đã làm rõ
vấn đề”. Nguyễn Ái Quốc đã có vấn đề. Vấn đề gì? Trong hồ sơ QTCS không
thấy nói rõ. Chỉ biết Nguyễn phải ở lại Moskva tiếp tục làm việc tại Trường
Stalin, 1937, trường này đã được tổ chức lại với tên “Viện khoa học nghiên cứu
những vấn đề dân tộc và thuộc địa”, nhưng nội dung vẫn là đào tạo những cán bộ
cho các đảng cộng sản nước ngoài. Nguyễn công tác ở trường này với tư cách vừa
là giáo viên vừa là nghiên cứu sinh năm thứ nhất Ban sử. Điểm học hình như cũng
không lấy gì làm đặc biệt lắm. Các môn Duy vật biện chứng, Cổ sử, Trung sử:
trung bình. Chỉ có Lịch sử hiện đại là xuất sắc. Trong khi học, được phân công
dạy môn Nghiên cứu Đông Dương bằng tiếng Việt [42] . Đến cuối tháng 9-1938,
Nguyễn mới được chấp nhận cho về Trung Quốc công tác với tư cách là phái viên
của QTCS phụ trách Đảng CSĐD.
Chúng ta hãy đọc bức thư Nguyễn gửi Manuilsky ngày 6-6-1938 [43] sau đây để hình dung
ra tình cảnh của Nguyễn trong suốt khoảng thời gian “từ ngoài chỉ đạo về nước” của anh
tại Liên Xô:

Đồng chí thân mến,

Hôm nay là ngày kỷ niệm lần thứ bảy việc tôi bị bắt giữ ở Hồng Kông. Đó cũng là ngày
mở đầu năm thứ tám tình trạng không hoạt động của tôi. Nhân dịp này, tôi viết thư gửi
đồng chí để xin đồng chí giúp đỡ tôi thay đổi tình cảnh đau buồn này.

Đồng chí hãy phân tôi đi đâu đó. Hoặc là giữ tôi ở lại đây. Hãy giao cho tôi làm một việc
gì mà theo đồng chí là có ích. Điều tôi muốn đề nghị với đồng chí là đừng để tôi sống
quá lâu trong tình trạng không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài
của (sic) Đảng.
Tôi sẽ rất biết ơn đồng chí, thưa đồng chí thân mến, cho phép tôi được hội kiến. Tôi tin
rằng như vậy sẽ tốt hơn. Đã từ lâu rồi đồng chí không gặp tôi. (…)

6-6-1938
LIN (Nguyễn Ái Quốc)

Vinh quang hay thất bại?

Qua những gì đã trình bày trên đây, chúng ta thấy đối với Nguyễn Ái Quốc, các sự việc
xoay quanh việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã không tràn ngập hào quang như
những nhà ý thức hệ của Đảng hết lời ca tụng – ít nhất thì cũng không phải là “kết quả
của gần 10 năm chuẩn bị rất công phu” mà Nguyễn đã bỏ ra“về các mặt chính trị, tư
tưởng và tổ chức” [44] để hoàn thành công việc đó.

1. Như chúng ta đã biết, khi nhận chỉ thị 12-9-1927 của QTCS về Xiêm tổ chức thành lập
đảng cộng sản cho Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã không hoàn thành được nhiệm vụ.
Hàng loạt câu hỏi có thể được đặt ra và rất khó trả lời về ý nghĩa của những hoạt động
của Nguyễn trong thời gian này: a) Tại sao có tình trạng suốt 16 tháng ở Xiêm (từ tháng
7-1928 đến 11-1929), không thấy có báo cáo nào của Nguyễn gửi về QTCS [45] ? b) Có
phải vì không liên lạc quá lâu với Liên Xô và QTCS từ Đại hội 6 nên khi cần hành động
Nguyễn đã không còn biết rõ vai trò của mình là gì [46] ? c) Có lý hay không khi có người
cho rằng những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc ở Xiêm chỉ là một cách né tránh cơn
dông bão Stalin trong những năm sau Đại hội 6 QTCS mà anh đã cảm giác được?

2. Việc Nguyễn sang Trung Quốc thực hiện Hội nghị hợp nhất tháng 2-1930 cũng chứa
đựng nhiều câu hỏi tương tự: a) Một lĩnh tụ đảng, một cán bộ của QTCS sao lại có thể
lâm vào tình trạng không bắt kịp đường lối mới (từ Đại hội V sang Đại hội VI) của QTCS
là cơ quan cấp trên của mình, cũng không nắm được tình hình trong nước là địa bàn mình
chỉ đạo? b) Tại sao trong tình thế chưa tìm hiểu mọi việc đến nơi đến chốn mà vẫn hành
động một cách vội vàng để sau đó tự làm mất uy tín, bị đả kích nặng nề và cuối cùng bị
gạt sang bên lề một cách “đau buồn” trong một thời gian khá dài? c) Có thể tìm lý do
khách quan nào khác để giải thích những sơ suất trên đây ngoài thái độ chủ quan của
Nguyễn: xa rời thực tế nhưng tin rằng vẫn có thể dùng uy tín cũ của mình để giải quyết
những vấn đề cấp bách mới nẩy sinh?

3. Những uẩn khúc đó không thể không dẫn chúng ta đến câu hỏi rốt ráo hơn: phải chăng
đối với Nguyễn, nhiệm vụ xây dựng nên một đảng cộng sản cho Việt Nam đã là một thất
bại? Và phải chăng do hành động lúng túng đó, cũng là tất yếu cái hậu quả “đau buồn”
mà Nguyễn phải nhận từ nhiều phía? Từ cái QTCS ngả nghiêng mà Nguyễn đã nương
theo để nặn nên “quả trứng cộng sản”: chính cái QTCS đó chỉ sau mấy năm đã phủ định
tất cả những gì Nguyễn đã làm. Từ cả những con “chim non cộng sản” háu ăn: sau khi
bay nhảy được thì liền quay lại cào cấu không thương tiếc cái thực thể đã đem đến cuộc
sống cho chúng. Phải chăng Nguyễn đã bị cuốn vào một guồng máy mà sự vận hành của
nó đã vượt khỏi mọi tính toán của bản thân anh?

Trước những vấn đề phức tạp trên đây, những tư liệu mới có được cho đến nay dường
như vẫn chưa giúp chúng ta tìm ra câu trả lời thật dứt khoát. Tuy vậy, có một điều mà
chúng ta tin rằng không sai lầm nhiều lắm khi khẳng định: cũng như nhiều lần khác,
trước những khó khăn lần này, Nguyễn đã tỏ ra rất khéo léo trong việc xoay sở để vượt
qua và tồn tại [47] – kiên nhẫn đợi chờ thời cơ thích hợp để thực hiện mục đích của mình.

© 2007 talawas

[1]
RC, 495, 154, 556, p.17; Sophie Quinn-Judge: Nguyen Ai Quoc, The Commintern and
the Vietnamese Communist Mouvement (1919-1941), Chapter IV, p. 118-121.
[2]
Xem Leonard Chapiro: The Communist Party of the Soviet Union, bản Pháp văn: De
Lénine à Staline, Gallimard, 1967, tr. 413-424.
[3]
J.V. Stalin: Works, Foreign Languages Publishing House, Moskva, 1954, Vol. 11, pp
206-207; Prepared for the Internet by David J. Romagnolo, djr@marx2mao.org,
September 1998.
[4]
Trước Đại hội 6 QTCS (từ 17-7 đến 1-8-1928) khoảng một tháng, Đại hội lần thứ 6 của
Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đã họp tại Moskva (từ 18-6 đến 11-7-1928) đi theo xu
hướng “chống hữu khuynh” của Stalin khá rõ rệt. Để đối phó với chính biến của Tưởng
Giới Thạch năm 1927, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chủ trương liên tục những cuộc
khởi nghĩa, từ Vũ Xương, Vụ mùa, Quảng Châu đến Quảng Đông, Hồ Nam, Hồ Bắc,
Phúc Kiến, Hà Nam, Thiểm Tây… và tất cả đều bị đàn áp thảm hại. Đại hội 6 của Đảng
CS Trung Quốc họp ở Moskva rút kinh nghiệm, tuy xác định đường lối vẫn nằm trong
giai đoạn “cách mạng dân chủ tư sản” nhưng vẫn lấy thành phố làm trọng tâm công tác,
và do ảnh hưởng của Stalin, đã coi “giai cấp tư sản dân tộc là một trong những kẻ thù
nguy hiểm nhất cản trở thắng lợi của cách mạng” (Nguyễn Gia Như và Nguyễn Huy Quý:
Lịch sử Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 276-278).
Đại hội đã bầu ra Bộ Chính trị mới: Xiang Zhongfa (Hướng Thiên Phát), Qu Qiubai (Cù
Thu Bạch), Zhou Enlai (Chu An Lai), Cai Hesen, Li Lisan (Lý Lập Tam), Xiang Ying
(Vương Minh); trong số này có ba người là Xiang Zhongfa, Cai Hesen, Li Lisan đã trở về
Thượng Hải trước khi Đại hội QTCS họp, và có thể chính những lãnh tụ này đã ảnh
hưởng đến phong trào cộng sản Việt Nam trước Đại hội 6QTCS. Điều này cũng dễ hiểu:
những cán bộ Thanh Niên trong thời kỳ này đều là những người hoạt động lâu năm ở
Trung Quốc, nhiều người công tác trong Quốc dân Đảng hoặc Đảng Cộng sản Trung
Quốc, có tham gia những cuộc khởi nghĩa nông dân sau sự biến tháng 4-1927 (Sophie
Quinn-Judge: Sđd, tr. 123).
[5]
Xem Hélène Carrère dEncausse et Stuart Schram: Le marxisme et l'Asie 1853-1964,
Armand Colin, Paris, 1965, tr. 87-88.
[6]
Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, Chapter IV, tr. 126.
[7]
Stalin đã nói về nhóm Bukharin bằng những lời lẽ như sau: “Hoạt động đối lập của
nhóm đó là toan xét lại đường lối của Đảng; nó tìm cách sửa lại đường lối của đảng và
chuẩn bị điều kiện để thay thế đường lối của đảng bằng một đường lối khác, đường lối
của phái đối lập, đường lối này không khác gì hơn là đường lối của xu hướng hữu
khuynh”. Đó không phải là một nhóm bè phái thường mà là “một nhóm đáng ghét nhất
và ti tiện nhất trong tất cả các nhóm bè phái đã có trong đảng ta”. Sai lầm lớn nhất của
nhóm Bukharin, theo Stalin, là do họ không hiểu cái lôgích đấu tranh giai cấp “mácxít”
được Stalin diễn giải như sau: do bị cách mạng đẩy vào đường cùng, bọn phản động càng
giãy dụa điền cuồng, cho nên cách mạng càng mạnh, phản động càng yếu thì đấu tranh
giai cấp càng gay gắt thêm. (Xem I.V Stalin: “Về xu hướng hữu khuynh trong Đảng
Cộng sản toàn Liên Xô”, Diễn văn đọc tại Hội nghị Toàn thể Ban Chấp hành Trung ương
và Ban Kiểm tra Trung ương của Đảng Cộng sản (b) toàn Liên Xô, tháng 4-1929, trong
I.V Stalin: Những vấn đề của chủ nghĩa Lênin, Sự thât, Hà nội, 1977, tr. 261-343).
[8]
Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 127.
[9]
Gồm 7 người: Ngô Gia Tự, Trần Văn Cung, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du (Phiếm
Chu), Trịnh Đình Cửu, Dương Hạc Đính, Nguyễn Tuân. Trong số những người này
Dương Hạc Đính đã là mật thám chìm cho Pháp, còn Nguyễn Tuân thì về sau đầu hàng,
khai báo và bị đồng chí cũ thanh toán khoảng 1930. Xem Huỳnh Kim Khánh:
Vietnamese communism, Cornell University, Ithaca and London, 1986, tr.117.
[10]
Trước sự nhất quyết của Nhóm Bắc kỳ, nghe nói Lâm Đức Thụ đã phát biểu: “Với tư
cách là chủ tịch Đại hội, tôi ra lệnh chấm dứt mọi thảo luận việc thành lập đảng cộng sản.
Ai muốn nói chuyện đó có thể rời hội nghị và bàn ở một nơi khác”. Xem Huỳnh Kim
Khánh: Sđd, tr. 118.
[11]
Xem Huỳnh Kim Khánh: Sđd, tr. 119.
[12]
Huỳnh Kim Khánh cho biết đã tìm thấy trong Kho lưu trữ hồ sơ hải ngoại Pháp (AOM)
hơn 30 tài liệu và thư mật giữa ĐCSĐD và Tổng bộ Thanh Niên ở Hồng Kông trao đổi về
vấn đề giải tán Thanh Niên và thành lập Đảng Cộng sản. Tất cả những văn bản được viết
bằng mực vô hình đó, đã được bạch hoá (làm lộ ra), chụp lại và dịch sang tiếntg Pháp.
Trong thư gửi Tổng bộ Thanh Niên ngày 9-10-1929, ĐCSĐD đã từ chối mọi hoà giải và
hứa sẽ xem xét sự gia nhập của những thành viên Thanh Niên vào Đông Dương với tư
cách là những cá nhân. Bức thư có thêm dòng sau đây: “Nếu Vương (Nguyễn Ái Quốc)
có trở về thì chúng tôi cũng thực hiện các thủ tục với ông ấy giống như các thủ tục đối
với các anh”. (Huỳnh Kim Khánh: Sđd, Chú thích 93, tr. 182).
Mấy chi tiết trên đây được Phạm Xanh nhắc đến trong cuốn Nguyễn Ái Quốc với việc
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam (Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 199)
nhưng không cho biết tên sách đã dẫn và đặc biệt nhất là không biết bằng cách nào mà lại
có thể diễn dịch nội dung câu tiếng Anh trong sách của Huỳnh Kim Khánh: “Originally
written in invisible ink, they were exposed, photographed, and translated into French”
thành: “Bản gốc được viết bằng mực tím và được dịch ra tiếng Pháp” !!! Còn câu: “If
Vuong returns, we shall follow the same procedures toward him as toward you” thì diễn
thành: “Nếu Vương trở lại, chúng tôi sẽ tiếp tục trao đổi các phương pháp với Vương
cũng như với các anh” !!!
[13]
Theo tài liệu của QTCS mà Sophie Quinn-Judge đọc được thì cuối tháng 8-1929, khi
Hồ Tùng Mậu và khoảng 20 học viên Hoàng Phố được tha khỏi nhà tù Quốc dân Đảng,
họ đã quyết định giải thể Thanh Niên và thành lập An Nam Cộng sản Đảng vì cho rằng
tình hình mới buộc phải như vậy. Một chi bộ AnNam CSĐ đã ra đời tại Hồng Kông, mục
đích là để tạo ra một đảng chân chính. “ĐCSĐD không phải là một đảng chân chính”.
Những nhân vật lãnh đạo Annam CSĐ: Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lê Quảng Đạt và
Lê Duy Điếm, tuyên bố muốn thống nhất các thành viên cộng sản trong Thanh Niên khắp
Đông Dương, kể cả việc hợp nhất với ĐDCSĐ, tuy rằng vẫn không ngớt chỉ trích đảng
cộng sản này là “không chân chính”. (RC, 495, 154, 616, p. 62; Xem Sophie Quinn-
Judge: Sđd, tr. 145-146).
[14]
Xem Huỳnh Kim Khánh: Sđd, tr. 122.
[15]
Như trên, tr. 122-123.
[16]
Ngày 31-12-1929, Đại hội thành lập ĐDCSLĐ dự định họp ở ga Thọ Trường, nhưng vì
lộ nên dời lên Chợ Thượng (Hà Tĩnh) họp trên một con đò dọc sông La xuôi về Vinh.
Tham gia Đại hội có 8 đại biểu: Nguyễn Khoa Văn (Hải Triều), Trần Hữu Chương,
Nguyễn Xuân Thanh, Trần Đại Quả, Ngô Đức Đệ, Ngô Đình Mẫn, Lê Tiềm, Lê Tốn. Đại
hội họp được hai ngày, khi đến bến đò Trai (Hà Tĩnh) các đại biểu bị địch bắt. (Phạm
Xanh: Nguyễn Ái Quốc với việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam (1921-
1930), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, Sđ, tr. 197).
[17]
Trần Văn Giàu: Giai cấp công nhân Việt Nam, Sự Thật, Hà Nội, 1961, tr. 441, dẫn
theo Phạm Xanh: Sđd, tr. 190.
[18]
Hồ Chí Minh: “Báo cáo gửi QTCS 18-2-1930”, trong Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, Tập
3, tr.12.
[19]
Hồ Chí Minh toàn tập, T.3, Sđd, tr. 11-12.
[20]
“Ngoài việc cuốc đất đi buôn, ông Nguyễn còn làm công việc tuyên truyền và tổ chức.
“Hội Thân Ái Việt Nam” thành lập, một tờ tuần báo Thân Ái được xuất bản. Trước kia ở
Trung Quốc, ông Nguyễn từ phương Bắc tuyên truyền về nước. Bây giờ ở Xiêm, ông
tuyên truyền về nước từ phương Tây” (Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoật
động của Hồ Chủ tịch, Nxb Văn học, Nà Nội, 1972, tr. 64).
[21]
“Ở Xiêm, Bác giúp kiều bào chỉnh đốn thêm những đoàn thể yêu nước và tổ chức thêm
trường học dạy các trẻ em” (T. Lan: Vừa đi đường vừa kể chuyện, Nxb Chính trị quốc gia
– Nxb Thanh niên, Hà Nội 1994, tr. 34 ). T. Lan cũng được xem là bút danh của Hồ Chí
Minh.
[22]
Lê Mạnh Trinh: “Những ngày ở Quảng Châu và ở Xiêm”, trong Bác Hồ, Nxb Văn hoá
dân tộc, Hà Nội, 2000, tr, 128-145.
[23]
Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 3, Sđd, tr. 12.
[24]
Thép Mới: Thời dựng Đảng, Paris, 1976, tr. 114. Dẫn lại theo Huỳnh Kim Khánh: Sđd,
tr. 182. Người chất vấn đó là Trịnh Đình Cửu trong nhóm Bắc Kỳ (Xem Hoàng Tùng:
“Hồ Chí Minh, Liên Xô và Trung Quốc”, Diễn Đàn (Paris) số 123 tháng 11-2002).
[25]
Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 152-153.
[26]
“Tháng 3-1931, trong lúc Trung ương Đảng bí mật họp hội nghị ở Sài Gòn, Ngô Đức
Trì bị bắt và phản bội. Vì nó khai mà đồng chí Trần Phú và nhiều đồng chí khác bị bắt.
Suốt sáu tháng bị tra tấn dã man, tháng 9 năm ấy đồng chí Trần Phú đã chết trong nhà tù”
(T. Lan: Vừa đi vừa kể chuyện, Sđd, tr. 48). Theo Sophie Quinn-Jugde thì Ngô Đức Trì bị
bắt ngày 1-1-1931 cùng với toàn bộ Uỷ ban Nam Kỳ (Sđd, tr. 187).
[27]
Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 233-242.
[28]
Văn kiện toàn tập, T2, Nt, tr. 88-103
[29]
Trong sự phê phán công khai này kéo dài này, Nguyễn Ái Quốc đã bị nêu đich danh
cùng với cuốn Đường Cách mệnh mà Nguyễn soạn thảo ở Quảng Châu (một thời được
coi như tài liệu gối đầu giường của những người cộng sản) để đả kích. Đặc biệt trong
những bài viết ký tên là Hồng Thế Công đăng trên Tạp chí Bônsêvích, cơ quan lý luận
của ĐCSĐD, từ khoảng 1932 đến 1935. (Xem Huỳnh Kim Khánh: Sđd, tr. 184-185).
Huỳnh Kim Khánh cho rằng Hồng Thế Công có thể là bút danh của “một cán bộ cao cấp
của ĐCSĐD”, nhưng có thể đó là bút danh của Hà Huy Tập, người đã chống Nguyễn Ái
Quốc gay gắt nhất trong thời kỳ này.
[30]
Hồ Chí Minh toàn tập, T3, tr. 77-80.
[31]
RC, 495, 32, p. 10; Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 183.
[32]
AOM , SPCE 368; Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 190.
[33]
Nhiều tác giả cho rằng chính chính sách của Stalin của Đại hội 6 QTCS liệt Đảng Dân
chủ-Xã hội vào loại kẻ thù số một nên đã tạo cho Hitler đủ số phiếu để thắng cử.
[34]
Con số Khouchtchev công bố trong Đại hội XX ĐCS Liên Xô 1956 (Xem: Leonard
Schapiro: De Lénine à Staline, Sđd, tr. 466).
[35]
Hiện tượng thanh trừng này đối với các cán bộ cộng sản Việt Nam cũng đã được một
tác giả nóí đến như sau: “Cuộc đấu tranh chống những phần tử gọi là khiêu khích được
mở rộng ở các trường của QTCS vào lúc có người nêu lên luận điểm trào lưu dân chủ xã
hội là kẻ tòng phạm và anh em sinh đôi với với chủ nghĩa phát xít. Tháng 4-1934, Đặng
Đình Chục quê Nam Định, mang bí danh Lê-ô, học ở trường Đại học cộng sản phương
Đông bị bắt. Một số học sinh người Việt Nam khác cũng bị buộc phải thôi học” (Hồng
Hà: Bác Hồ trên đất nước Lênin, Thanh Niên, Hà Nội, 2000, tr. 302). Theo cái lôgích của
đoạn văn trên đây thì những người Việt Nam bị liệt vào hạng “khiêu khích” đó có dính
dáng đến “trào lưu dân chủ xã hội” và điều đó có nghĩa là trong phong trào cộng sản Việt
Nam bấy giờ đã tồn tại trào lưu “dân chủ xã hội”? Hay ý tác giả muốn nói mấy chữ
“khiêu khích” ấy chỉ là cái cớ để đàn áp? Chúng ta không rõ – nhất là khi nguồn thông tin
trên không xác định nội dung và xuất xứ. Trong khi đó thì một nguồn tài liệu khác vẫn có
thể sử dụng để giải thích: những người bị thanh trừng kể trên là do bị tố cáo làm gián
điệp cho thực dân Pháp. Nhiều báo cáo ở Việt nam gửi qua vào thời gian này đã chứng
minh điều đó. Chẳng hạn như trong báo cáo ngày 28-12-1934 gửi QTCS về danh sách 37
học viên Việt Nam đã rời Moskva qua Pháp hoặc về châu Á, Hà Huy Tập cho biết trong
số đó có đến 12 người đã là những kẻ phản bội hoặc trở thành mật thám cho Pháp, chỉ có
10 người được xem là “cách mạng chuyên nghiệp” (RC, 495, 154, 676, p. 37; Sophie
Quinn-Judge: Sđd, tr. 205). Chúng ta biết sự đầu hàng của các lĩnh tụ và việc xâm nhập
của mật thám vào nội bộ (trường hợp Lâm Đức Thụ, Dương Hạc Đính, Ngô Đức Trì,
Nguyễn Tuân…) đã trở nên vấn đề khá trầm trọng của phong trào cách mạng cộng sản
Việt Nam lúc ấy.
[36]
Một báo cáo mấy năm sau của Anatoly Voronin, một cựu thành viên của Bộ Quốc tế
của Uỷ ban Xô viết Trung ương, cho biết trước Đại hội 7 QTCS, một bộ ba đã được
thành lập, gồm Manuilsky, Khang Sinh, và Vera Vasilieva, để kiểm điểm Quốc. Trong
khi Manuilsky trung lập, Vasilieva bênh vực thì dường như Khang Sinh đã kết án Quốc
khá nặng nề (Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 205).
[37]
Hành động này không giống trường hợp Nguyễn Ái Quốc bị thực tế vượt qua. Theo
Sophie Quinn-Judge thì đó là hành động nhất quán của Hà Huy Tập: khi Nghị quyết của
Đại hội 7 QTCS về đến Đông Dương sau này, Hà Huy Tập vẫn tìm cách cuỡng lại, không
thực hiện, cho rằng Đại hội QTCS mới không hiểu rõ tình hình cụ thể của Việt Nam
(Xem Sophie Quinn-Judge: Sđ, tr. 220).
[38]
Thư ngày 31-3-1935 của Hà Huy Tập gửi QTCS đã nhắc đến Nguyễn Thị Minh Khai
như là “vợ của Nguyễn Ái Quốc”. Còn Minh Khai (bí danh là Fan Lan) đã khai trong lý
lịch dự Đại hội là “đã kết hôn” và tên chồng là “Lin” (bí danh của Nguyễn Ái Quốc).
Nhưng trong lý lịch của mình, không thấy Nguyễn khai là đã có vợ . (RC, 495, 201, 35;
Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 201).
[39]
RC, 495, 154, 688; Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr . 204.
[40]
RC, 495, 154, 586, p. 4; Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 204.
[41]

Có lẽ với hy vọng về sự đổi thay của tình hình sau Đại hội 7 QTCS, Nguyễn Ái Quốc đã
viết thư cho Ban phương Đông ngày 16-1-1935, ký LIN, phê phán khá gay gắt trình độ lý
luận và kiến thức của các cán bộ: do không đọc sách nên không hiểu thật rõ nhiều điều
căn bản như cách mạng dân chủ tư sản là gì, không hiểu tại sao phải kết hợp giữa cách
mạng phản đế với cách mạng ruộng đất… ; trong khi đó những người trí thức có đọc sách
và tự cho là có hiểu biết thì lại rơi vào bệnh giáo điều, máy móc, bất chấp thực tế …
phạm nhiều sai lầm. Tình trạng trên càng trầm trọng hơn khi những chiến sĩ lão luyện đã
bị tù đày hầu hết và được thay bằng những người trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm. (Hồ Chí
Minh toàn tập, Tập 3, tr. 83-84).
[42]
Cùng công tác ở đây trong thời kỳ này có Nguyễn Khánh Toàn, và Toàn thì có vẻ trỗi
bật hơn trong nghề nghiên cứu, giảng dạy: giảng Kinh tế Chính trị, Lịch sử tổng quát,
Nghiên cứu các nước. Đến 1939 Toàn mới về Trung Quốc.
[43]
“Thư gửi một đồng chí ở Quốc tế Cộng sản”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 3, Sđd, tr. 90.
Manuilsky là Uỷ viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, năm 1924 là Uỷ viên Ban
Chấp hành QTCS, 1928 là Bí thư Ban Chấp hành QTCS.
[44]
Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Chủ tịch Hồ Chí Minh – Tiểu sử và sự
nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 82 .
[45]
Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 128.
[46]
Trong thư Nguyễn Ái Quốc gửi Đại diện Pháp ở Quốc tế cộng sản ngày 27-2-1930, có
đoạn như sau: “Lúc này tôi chưa biết rõ vị trí của tôi. Tôi hiện là đảng viên Đảng Cộng
sản Pháp hay Đảng Cộng sản Việt Nam? Cho đến khi có lệnh mới, tôi vẫn chỉ đạo công
việc của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhưng với danh nghĩa gì? Tôi không tham gia Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam vì tôi chưa trở về Đông dương được, nhất là lúc này,
chúng đã ban cho tôi một cái án tử hình vắng mặt. Sự uỷ nhiệm công tá của Quốc tế cộng
sản cho tôi đã hết hạn chưa? Nếu chưa, tôi vẫn tham gia Ban phương Đông ở đây? Tôi đề
nghị các đồng chí nhắc Ban Thường vụ Quốc tế Cộng sản cho quyết định về việc này”
(Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 3, Sđd, tr. 22).
[47]
Sophie Quinn-Judge cho rằng sở dĩ Nguyễn Ái Quốc thoát khỏi sự thanh trừng trong
năm 1937 môt phần có lẽ do Đông Dương không phải là vùng ưu tiên được Liên Xô quan
tâm, phần khác lại do Nguyễn đã tập được thói quen biết tỏ ra khiêm tốn và ít tranh cãi
trong những vấn đề lý luận gai góc (Sđd, tr. 216).

Chương 5

Nguyễn Ái Quốc trở thành Hồ Chí Minh

Tình hình mới

1. Mùa thu 1938, Nguyễn Ái Quốc rời Moskva để trở lại Trung Quốc.

Thế giới đang bị chủ nghĩa phát xít hăm doạ, chiến tranh sắp xảy ra. QTCS đã từ bỏ chủ
trương khuynh tả. Liên Xô lập lại quan hệ ngoại giao với chính phủ Quốc dân Đảng,
phục hồi đường lối mặt trận thống nhất đã tan rã hồi 1927. Đảng Cộng sản Trung Quốc
đã có thể ra hoạt động công khai: tháng 9-1937, Hồng quân, với Bát lộ quân và Tân tứ
quân, đã được tổ chức lại dưới sự chỉ huy của Hội đồng quân sự của Quốc dân Đảng. Hai
trường huấn luyện du kích do sự hợp tác của hai bên cũng được mở ra ở miền Nam.

Như 1925, Nguyễn Ái Quốc theo phái đoàn viện trợ của Liên Xô sang Trung Quốc,
nhưng lần này với nhiệm vụ được quy định rõ rệt về Việt Nam: lôi cuốn Đảng Cộng sản
Đông Dương vào mặt trận chống phát xít, tạm gác lại những yêu sách về đấu tranh giai
cấp, liên hiệp hành động với tất cả những thế lực có thể liên hiệp được, kể cả những
ngưởi Pháp "tiến bộ" ở Việt nam… [1] Do mất liên lạc với phong trào khá lâu, Nguyễn đã
phải nhờ Đảng Cộng sản Trung Quốc giúp đỡ nương náu tại Bát lộ quân (do Diệp Kiếm
Anh chỉ huy) chờ cơ hội [2] .

Sau một thời gian tìm kiếm, đến cuối 1939, Nguyễn cũng đã gặp được cơ sở hải ngoại
của Đảng CSĐD (do Phùng Chí Kiên phụ trách) cùng với một số cán bộ trong nước mới
sang (Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Cao Hồng Lĩnh…) [3] .

2. Nội tình Đảng vào lúc ấy cũng có những chuyển biến quan trọng. Xu hướng "tả
khuynh" do Hà Huy Tập chủ xướng từ Đại hội Macao 1935 đã được uốn nắn lại sau khi
những người tham dự Đại hội 7 QTCS 1935 (Lê Hồng Phong, Hoàng Văn Nọn, Nguyễn
Thị Minh Khai) trở về. Đến tháng 3-1938 thì đường lối mới đã hoàn toàn rõ ràng khi
Nguyễn Văn Cừ lên thay Hà Huy Tập làm Tổng Bí thư. Chính phủ Léon Blum của Mặt
trận Bình dân năm 1936 lên cầm quyền bên Pháp đã tạo ra cho phong trào chống thực
dân ở Đông Dương những phương thức hoạt động mới: cùng với các xu hướng dân tộc
(Nguyễn An Ninh…), Trotskít (Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu…), Đảng CSĐD cũng đã
xuất hiện trong những cuộc tranh đấu công khai báo chí, nghị trường…

Nhưng khi Chiến tranh Thế giới nổ ra, tất cả những hoạt động cộng sản (dù Đệ tam hay
Đệ tứ) đều bị cấm. Đảng CSĐD bắt đầu gặp khó khăn khi hàng loạt cán bộ bị bắt, thiếu
thốn tài chính, trong khi đó sự liên lạc giữa miền Nam với miền Bắc, giữa Việt Nam và
Trung Quốc gặp trở ngại.
Trước tình thế ấy, cuộc khởi nghĩa Nam kỳ năm 1940 đã nổ ra. Do chuẩn bị không chu
đáo, lãnh đạo không chặt chẽ, bị nội gián nên kết quả rất tai hại. Cuộc nổi dậy bị dìm
trong bể máu, hầu hết các cán bộ quan trọng của Đảng đều bị bắt và sát hại: Hà Huy Tập,
Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai…, hoặc bị đi tù:
Lê Duẩn, Lê Hồng Phong (chết ở Côn Đảo năm 1942), Dương Bạch Mai, Nguyễn Văn
Tạo…

3. Nguyễn Ái Quốc đã nối lại phong trào cộng sản Việt Nam trong hoàn cảnh đó. Nhiều
thuận lợi (nhất là sau khi Pháp đầu hàng Đức tháng 6-1940) nhưng rất yếu kém về thực
lực. Báo cáo của Nguyễn gửi QTCS cho biết là tám, chín phần mười số cán bộ cũ đã bị
bắt, còn số mới thì còn thiếu kinh nghiệm, lại thiếu người đủ "uy tín và danh vọng" để
lãnh đạo [4] . Trong tình cảnh đảng viên và quần chúng như rắn không đầu đó, Nguyễn
cho rằng không thể từ trong đánh ra mà phải tạo một căn cứ địa ở ngoài để đánh vào. Để
thực hiện chiến lược này, Nguyễn đề nghị QTCS sản giúp đỡ mấy điều cần thiết sau đây:
Tự do hành động ở biên giới, một ít súng đạn, một ít kinh phí, vài vị cố vấn [5] . Báo cáo
trên đây cho thấy định hướng của Nguyễn: tự mình đứng ra đảm nhiệm vai trò lĩnh tụ có
"uy tín và danh vọng" nói trên, một người có khả năng vừa tập hợp lực lượng bên trong
lại vừa vận động được sự chi viện của bên ngoài.

Phương thức hoạt động mới

1. Như hồi 1925, từ căn cứ địa Trung Quốc, tập hợp và củng cố lại đội ngũ những hạt
nhân lãnh đạo là việc mà Nguyễn khởi đầu. Nhưng khác với thời Quảng Châu trước đây,
lần này công việc lại diễn ra ở Vân Nam là vùng kiểm soát của Quốc dân Đảng nên phải
tìm cách che giấu tung tích cộng sản của mình. Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội (về sau
này gọi tắt là Việt Minh) đã được sử dụng trong tình thế đó. Đây là một tổ chức chính trị
có sẵn từ năm 1936 (do Hồ Học Lãm một nhà yêu nước Việt Nam có chân trong Quốc
dân Đảng Trung Quốc lập ra ở Nam Kinh) nay được tranh thủ để hoạt động lại cùng với
một tổ chức bình phong khác mới lập ra như Trung Việt Văn hoá Công tác Đồng chí Hội,
Việt Nam Dân tộc Giải phóng Đồng chí Hội. Tất cả đều là kết quả của những thủ thuật
vận động theo kiểu "mặt trận" do Nguyễn Ái Quốc chỉ đạo: không những hợp tác với
những người Việt Nam hoạt động trong hàng ngũ Quốc dân Đảng Trung Quốc như Hồ
Học Lãm, Nguyễn Hải Thần, Dương Kế Vinh… mà còn phải lợi dụng chính những cán
bộ Quốc dân Đảng Trung Quốc như Trương Phát Khuê, Lý Tế Thâm… để dễ bề hoạt
động.

2. Kết quả: Nguyễn và các đồng chí của mình đã tiếp cận được biên giới Việt Nam, liên
hệ được với phong trào trong nước (Hoàng Văn Thụ, uỷ viên Trung ương, Bí thư xứ uỷ
Bắc kỳ), sau đó tổ chức Hội nghị toàn thể lần thứ 8 của ĐCSĐD vào tháng 5-1941, mở
đầu cho một giai đoạn đấu tranh mới. Thuận lợi đã đến với Nguyễn một cách tự nhiên: do
những người biết rõ về Nguyễn đều đã chết hoặc đi tù nên trong hội nghị này Nguyễn Ái
Quốc trở thành lãnh tụ không hề bị hạch hỏi về danh nghĩa như những năm 1930, 1935
nữa. Ngược lại, ẩn hiện trong màn sương quá khứ kỳ bí, cái giai đoạn gọi là "đau buồn"
và "biệt tích" ở Liên Xô lại có tác dụng làm tăng thêm tiếng tăm của Nguyễn. Có lẽ để
khẳng định thêm uy lực của một nhà cách mạng đã trở thành trưởng thượng, Nguyễn đã
làm cho mình già hơn đi, bằng cách để râu dài khi bước vào tuổi 50.

Sau Hội nghị 8, ngày 6- 6-1941, Nguyễn đã có ý định xuất hiện trước công chúng bằng
hình ảnh nhà cách mạng cộng sản lão thành đó: dùng chính tên Nguyễn Ái Quốc "kính
cáo đồng bào" cả nước, hứa sẽ "đem hết tâm lực" cùng đồng bào mưu giành tự do độc
lập, "dầu phải hy sinh tính mệnh cũng không nề" [6] . Nhưng có lẽ nhận thấy thời cơ chưa
cho phép, tên "Nguyễn Ái Quốc" đã không được công khai sử dụng tiếp: toàn bộ những
bài viết của Nguyễn đăng trên 30 số báo Việt Nam độc lập từ tháng 8-1941 đến tháng 8-
1942 đều không ký tên (cũng không có bút danh) [7] .

3. Một tên khác đã được thay thế và tên ấy về sau đã trở nên lừng lẫy mà ai cũng biết, đó
là "Hồ Chí Minh". Nhưng do suốt thời gian từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943, khi bí mật
ra sang Trung Quốc cầu viện, Nguyễn bị Quốc dân Đảng bắt giam, nên phải đợi đến cuối
1944 mới xuất hiện – trong "Thư gửi quốc dân đồng bào" tiên đoán "cơ hội giải phóng
cho dân tộc ta chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa", do đó cần khẩn trương chuẩn bị
[8]
– để từ đó được sử dụng chính thức cho đến cuối đời.

Nhiều người đã bàn luận về ý nghĩa của cái tên đã trở thành lịch sử đó. Thật sự thì chẳng
qua đó cũng chỉ là một cái tên trong vô số những cái tên (không kể bút danh) mà Nguyễn
đã dùng trong cuộc đời hoạt động. Hồi mới từ Liên Xô sang Trung Quốc, Nguyễn Ái
Quốc đã lấy bí danh là Hồ Quang [9] để làm việc trong Đệ Bát lộ quân của Đảng Cộng sản
Trung Quốc. Hồ Quang là một tên Trung Hoa, vì bấy giờ Nguyễn giả danh làm người
Trung Hoa; bí danh này vẫn được dùng khi Nguyễn móc nối lại được với các đồng chí
Việt Nam của mình ở Vân Nam. Nhưng cũng trong thời kỳ ấy, trên đường về biên giới
Việt-Trung, Nguyễn đã mang theo trong người 3 tờ giấy đi đường (do Quốc dân Đảng
cấp) đề năm 1940, tất cả đều mang tên Hồ Chí Minh [10] . Cái tên này, thật sự cũng chẳng
khác gì cái tên Hồ Quang trước đây bao nhiêu – đó chỉ là một trong nhiều cái tên giả có
nguồn gốc Trung Hoa.

Đem cái tên ấy ra sử dụng một cách công khai tuy có hơi bất tiện (vì hoàn toàn xa lạ với
công chúng), nhưng phải chấp nhận vì lý do chính trị – chưa đến lúc bộc lộ mình là cộng
sản. Một người cộng sản mà giữ vai trò lãnh đạo cả một phong trào dân tộc lúc bấy giờ sẽ
bị cô lập và phản tác dụng. Liên Xô đang bị Đức xâm chiếm, cách mạng Trung Quốc
chưa thành công, cuộc chiến đấu giành độc lập của Việt Nam (dù chống Nhật hay sau này
chiến tranh với Pháp) cần được phe Đồng minh (nhất là Mỹ) ủng hộ. Đưa chuyện chống
tư bản, chuyên chính vô sản ra là vô cùng tai hại. Nguyễn Ái Quốc hẳn nhớ rất rõ bài học
Đại hội 6 của QTCS năm 1928 và Đại hội Macao của Việt Nam năm 1935 mà bản thân
Nguyễn đã là nạn nhân [11] . "Hồ Chí Minh" vì thế đã trở thành biểu tượng của một sự tính
toán sách lược.

Tính chất hai mặt của một vai trò


1. Mọi người đều biết, dưới cái tên "Hồ Chí Minh", Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện sách
lược ấy như thế nào sau cách mạng 1945.

• Bằng nhiều cách, không ngớt kết án thực dân đã tung ra luận điệu Hồ Chí Minh là
cộng sản [12] . Luôn thanh minh rằng Hồ Chí Minh chỉ là người yêu nước thuần
tuý.

• Chính phủ Hồ Chí Minh bao gồm nhiều đảng phái: Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội,
Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, Quốc dân Đảng. Trong các đảng tham gia
chính phủ, không có tên Đảng Cộng sản Đông Dương. Đảng này đã được Hồ Chí
Minh báo với tướng Trần Tu Hoà, đại diện Tưởng Giới Thạch, là đã "tự động giải
tán" [13] .

• Đặc biệt đối với Quốc dân Đảng (với những lãnh tụ như Nguyễn Hải Thần, Vũ
Hồng Khanh…) nương theo đoàn quân của Lư Hán sang Đông Dương để chia
quyền, đã thực hiện một chính sách nhân nhượng hết sức đặc biệt (thân thiện mời
hợp tác [14] , vào chính phủ liên hiệp [15] , không cần bầu cử vẫn được nhường cho
70 ghế trong Quốc hội [16] ).

• Đối ngoại: coi Mỹ là bạn [17] , Anh trung lập, riêng Trung Hoa của Tưởng Giới
Thạch là rất hữu hảo! Ngôi sao trong quốc kỳ Việt Nam đã được Hồ Chí Minh
giải thích như sau:

"Trung Quốc là một nước to lấy mặt trời làm tiêu biểu. Việt Nam là một nước nhỏ
lại có quan hệ mật thiết với Trung Quốc, đã mấy ngàn năm cho nên lấy ngôi sao
làm tiêu biểu" (!) [18]

2. Ai cũng đều biết thực chất của cái sách lược trên đây là gì khi được "vận dụng" bởi
một nhân vật từng coi Lenin là thần tượng: đó là sách lược của những bước thụt lùi tạm
thời, những nhân nhượng có tính toán. Hãy lấy vài thí dụ để xem xét:

– Việc "giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương": Như sau này Hồ Chí Minh cho biết thực
chất của việc tự giải tán ấy chỉ là sự rút vào bí mật thôi, và đó là sự rút lui cần thiết, vì
biết đứng trước tình hình gay go vào lúc bấy giờ

"Đảng phải dùng mọi cách để sống còn, hoạt động và phát triển, để lãnh đạo kín đáo và
có hiệu quả hơn, và để có thời giờ củng cố dần dần lực lượng của chính quyền nhân dân,
củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất.

Lúc đó Đảng không thể do dự. Do dự là hỏng hết, Đảng phải quyết đoán mau chóng,
phải dùng những phương pháp – dù là những phương pháp đau đớn – để cứu vãn tình
thế" [19] .

Một điều quan trọng khác: trong khi Đảng rút vào bí mật, thì để thực hiện "đa đảng",
Đảng đã "giúp đỡ" Đảng Dân chủ rồi Đảng Xã hội ra đời [20] , để cùng với "Việt Nam
Đồng minh Hội" đóng vai trò công khai trong chính phủ lâm thời.

– Sự nhân nhượng đối với phe Quốc dân Đảng Việt Nam là điều bó buộc vì lẽ những
người này đang có sau lưng họ đoàn quân Lư Hán của Tưởng Giới Thạch sang "giải giới"
Nhật đã đầu hàng. Nhưng để đối phó, Hồ Chí Minh đã ký Hiệp định 6-3 và Tạm ước 14-
9-1946, thoả hiệp với Pháp để đẩy quân Lư Hán đi. Bị chỉ trích là "hữu khuynh", Hồ Chí
Minh đã dẫn Lenin:

"Lênin có nói rằng: Nếu có lợi cho cách mạng thì dù phải thoả hiệp với bọn kẻ cướp,
chúng ta cũng thoả hiệp" [21] .

3. "Hồ Chí Minh" như vậy chỉ là một thứ "vai trò" của một tình thế nhất định. Khi kịch
bản thay đổi thì vai trò ấy cũng phải thay đổi. Điều này đã xảy ra vào năm 1949, khi
Đảng Cộng sản Trung Quốc giành được chính quyền. Sau chuyến đi bí mật sang Trung
Quốc và Liên Xô, đầu năm 1950, về nước, Hồ Chí Minh đã công khai đứng tên ra lời kêu
gọi nhân dịp kỷ niệm cách mạng tháng 8 và ngày độc lập:

"Về phía ta, mấy năm kháng chiến đã đưa lại cho nước ta một cuộc thắng lợi to nhất
trong lịch sử Việt Nam, tức là hai nước lớn nhất thế giới – Liên Xô và Trung Quốc dân
chủ, và các nước dân chủ mới đã thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong đại
gia đình dân chủ thế giới. Nghĩa là ta đã đứng hẳn về phe dân chủ và nhập vào khối 800
triệu nhân dân chống đế quốc" [22] .

Những bài viết, bài nói ca ngợi Stalin [23] , ca ngợi Mao Chủ Tịch [24] đã thấy xuất hiện;
các chính sách giảm tô [25] , cải cách ruộng đất, chỉnh huấn [26] , chỉnh Đảng… đã theo
những cố vấn, những thùng hàng viện trợ của Trung Quốc tràn sang những vùng kháng
chiến – tất cả đều đựợc Hồ Chí Minh chính thức cổ vũ, đôn đốc, trên báo chí trong các
hội nghị quần chúng, Quốc hội, Đảng.

"Hồ Chí Minh" bây giờ không cần phải giấu giếm lai lịch "Nguyễn Ái Quốc" của mình
nữa. Nhưng do tên "Hồ Chí Minh" đã trước bạ chính thức là Chủ tịch một đất nước vừa
thực hiện xong cuộc Cách mạng tháng Tám và đang tiến hành cuộc kháng chiến chống
thực dân, mọi việc đang đi theo cái đà của sự thuận lợi, cho nên không cần thay đổi lại
tên họ.

Trong Đảng nếu Nguyễn Ái Quốc với Hồ Chí Minh đã là một, thì bây giờ điều này cần
phải phổ biến rộng ra cho đồng bào và thế giới biết, lấy những năm bôn ba của Nguyễn
Ái Quốc để khẳng định vai trò lĩnh tụ tuyệt đối của Hồ Chí Minh, không phải với phong
trào cộng sản Việt Nam mà còn là của toàn bộ dân tộc Việt Nam nữa.

Sự thành công của Hồ Chí Minh

1. So với giai đoạn hoạt động ở nước ngoài của "Nguyễn Ái Quốc" (1920-1940) thì giai
đoạn trở về của "Hồ Chí Minh" (từ 1940 về sau) có vẻ suôn sẻ hơn: chính là trong những
năm tháng này, Hồ Chí Minh đã khẳng định được uy tín cao nhất của một lĩnh tụ Đảng,
củng cố lại lực lượng, cuối cùng hoàn tất được mục đích về quyền lực – thành lập nên
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, sau đó kháng chiến đuổi thực dân Pháp khỏi Đông
Dương, thiết lập được chế độ cộng sản ở Việt Nam.

Những thành công ấy có thể giải thích được bằng nhiều nguyên nhân cụ thể, lịch sử,
khách quan lẫn chủ quan (chẳng hạn: sự suy yếu của chủ nghĩa đế quốc nói chung, sự
ngoan cố và hẹp hòi của thực dân Pháp, sự ủng hộ của Liên Xô đối với phong trào đấu
tranh của những nước thuộc điạ và phụ thuộc, chỗ dựa trực tiếp từ phong trào cộng sản
Trung Quốc, sự yếu kém của những lực lượng chống thực dân theo xu hướng không cộng
sản ở Việt Nam so với ĐCSĐD v.v…) nhưng tất cả đều những nguyên nhân thực tế ấy đã
được những nhà sùng bái Hồ Chí Minh pha loãng ra hoặc cố ý đẩy vào hàng tuỳ phụ với
mục đích mang tính chất ý thức hệ không giấu giếm: đưa lên hàng đầu vai trò của Hồ Chí
Minh, coi đó là nguyên nhân của mọi nguyên nhân tạo nên thắng lợi. Từ một nhân vật
của lịch sử, Hồ Chí Minh đã bị giản lược vào một biểu tượng, một vai trò, cuối cùng
được nâng lên thành một huyền thoại [27] .

2. Thật sự thì cuộc đời hoạt động thực tế của Hồ Chí Minh cho đến nay vẫn còn nhiều bí
ẩn. Nhưng qua những tài liệu đã tìm được, người ta thấy, tuy nghị lực mãnh liệt, bản lĩnh
xoay sở tài tình, ông vẫn là một con người bình thường với những "hệ luỵ nhân sinh"
bình thường.

Tuyên truyền thường nói ông đã hy sinh đời riêng để phục vụ cách mạng, nhưng thực sự
ông đã có vợ, ít nhất thì cũng là hai người: một người Trung Hoa là Tăng Tuyết Minh và
một người Việt Nam là Nguyễn Thị Minh Khai. Quan hệ của ông với Nguyễn Thị Minh
Khai đã được phát hiện trong Hồ sơ QTCS, do chính Nguyễn Thị Minh Khai khai trong
lý lịch dự Đại hội 7 QTCS năm 1935 tại Moskva và đã được Tổng Bí thư ĐCSĐD của
Đại hội Macao bấy giờ xác nhận, chi tiết này mới được Sophie Quinn-Judge công bố
trong luận án của bà [28] , một số tác giả khác cũng đã nói đến, nhưng chưa thấy có công
trình nghiên cứu nào nói rõ hơn. Còn chuyện tình của ông với Tăng Tuyết Minh thì do
nhà sử học Hoàng Tranh người Trung Quốc viết hẳn thành một bài báo đăng trên một tạp
chí Trung Quốc [29] . Cũng có nhiều mối quan hệ của ông Hồ với nhiều người đàn bà khác
nữa, nhưng phần nhiều đó chỉ là những tin đồn, chưa có bằng cớ để khẳng định hay phủ
định.

Về mặt cách mạng thì những người sùng bái ông Hồ thường hình dung cuộc đời của ông
như một ý hướng thống nhất từ trẻ cho đến già; uy tín cách mạng của ông lúc nào cũng
sáng ngời từ lúc bôn ba hải ngoại cho đến khi trở về thành công. Nhưng chúng ta đã biết,
sự thật không phải như vậy. Những ngày bỏ nước ra đi trong suốt một thời gian dài của
ông không có gì thật quan trọng để tác động trực tiếp vào tình hình đất nước: chỉ là
những dò dẫm tìm đường theo hướng ra ngoài "cầu ngoại viện" không khác gì những
người yêu nước đầu thế kỷ 20.

Thời gian ông tìm gặp chủ nghĩa Lenin rồi sang Nga trở thành cán bộ của QTCS, thực sự
vai trò của ông không có gì là quan trọng lắm. Lệ thuộc hoàn toàn vào đường lối của
QTCS lúc bấy giờ không chú ý đến Việt Nam; muốn hoạt động được, luôn luôn phải
chạy vạy xin xỏ nhiều chuyện (tiền bạc, chỉ thị…), nhưng khi gặp những sai lầm về
đường lối – đặc biệt sau Hội nghị hợp nhất các Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930
tại Hồng Kông – ông không tránh khỏi bị ĐCSĐD gạt ra ngoài, bị QTCS khiển trách và
ngưng công tác trong một thời gian khá dài để được đào tạo lại [30] .

3. Sùng bái cá nhân không phải là sản phẩm riêng biệt của những người cộng sản Đệ
Tam. Nhưng trong trường hợp ông Hồ thì không thể không nghĩ đến cái gương của
những "lĩnh tụ vĩ đại" như Stalin và Mao Trạch Đông mà ông khâm phục và coi việc
sùng bái đó như một điều tự nhiên. Chẳng qua cũng chỉ để thống nhất lòng người có lợi
cho sự nghiệp chung thôi. Dù vậy cũng không nên noi gương các đàn anh một cách quá
lộ liễu, cho nên trong thực hiện phải châm chước đi và làm sao cho có vẻ… Việt Nam
một chút – thay vì la hét những thứ "thiên tài" hoặc "cầm lái vĩ đại" rồi đánh giết lung
tung thì chọn "vai trò" một ông lão bình dân, giản dị trong các làng xã truyền thống. Là
"Bác" của các cháu thiếu nhi [31] , và cũng là "Cha già" [32] của đại gia đình dân tộc. Luôn
kêu gọi tiết kiệm và kết đoàn.

Tuy vậy cũng cần chú ý điều sau đây: người đi đầu và để khá nhiều công sức để tạo ra
hình ảnh ấy lại không phải ai khác mà chính là… Hồ Chí Minh! Trong kho trước tác của
Hồ Chí Minh, chúng ta thấy khá nhiều bài nói, bài viết của chính ông, khi ký trực tiếp,
khi dưới những bút danh khác nhau [33] , ca ngợi bản thân. Phần nhiều đều được che giấu
dưới nhận xét của những người làm báo, người dân bình thường, hồn nhiên ca ngợi
những đức tính của vị " lĩnh tụ kính yêu", khuyên nên đọc những tác phẩm của Hồ Chí
Minh và khi có dịp nào đó thì thét lên khẩu hiệu "Hồ Chí Minh muôn năm" rất… vô tư!
Như thể việc ca ngợi Hồ Chí Minh đã là chuyện thường ngày, đương nhiên như hơi thở
của cuộc sống rồi!

Những ai có biết chút ít về cái gọi là "phong cách Hồ Chí Minh" đều hiểu lý do. Đó là
một thói quen ông thường sử dụng trong tuyên truyền, không khác gì việc ông từng mượn
Khổng Mạnh [34] hoặc làm vè bình dân để nói chuyện chính trị vô sản. Sự "nôm na", "giản
dị" ở đây đã tạo ra được cái tác dụng thật "vĩ đại" của nó: làm cho hình ảnh vị "cha già"
hiền lành của dân tộc đồng hoá được với hình ảnh của một lĩnh tụ cộng sản trí tuệ tuyệt
vời. Nó làm cho chủ nghĩa cộng sản xa lạ và gay gắt (đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô
sản…) có thể đến với nhân dân một cách nhẹ nhàng hơn. Những lời phán của một người
mà khi còn sống đã được đưa lên bàn thờ [35] dù sao vẫn có tính chất thiêng liêng!

Nhưng cũng từ đó, khuếch tán bởi bộ máy truyên truyền cách mạng, những sự tâng bốc
quá đáng đã xảy ra. So với những anh hùng của đất nước trong thời hiện đại, ông được
miêu tả như là vượt lên tất cả, về tài trí lẫn đức độ: không phải chỉ là con người đẹp nhất
của dân tộc mà còn là kết tinh của những giá trị văn hoá của thời đại và nhân loại. Đất
nước không có ông sẽ chìm mãi trong nô lệ, dân tộc sẽ mãi mãi nghèo hèn, không ngóc
đầu lên được. Nhờ có "Người", nhân dân ta mới được cứu độ vì thế phải biết ghi nhớ
"công ơn trời biển của Người" cho đến "muôn đời con cháu mai sau"! Giở bất cứ "tác
phẩm" nào viết về Hồ Chí Minh được bày bán tại các hàng sách ở Việt Nam, chúng ta
đều có thể tìm ra ít nhiều những lời ca ngợi tương tự, không cần dẫn chứng.

Tuy vậy, có một điều cũng nên ghi nhận thêm: mặc dù được tiếng là "khiêm tốn" [36] , hồi
còn sống, ông đã không hề làm gì để hạn chế bớt những quá đáng ấy. Trong khi đó thì
thái độ úp mở, giấu mặt, khi cần thiết lại cố tình che giấu [37] của ông, ngược lại, đã có tác
dụng làm cho những thứ tuyên truyền huyễn hoặc đó có lý do để phát triển ngày càng ồn
ào.

Tư tưởng của Hồ Chí Minh

Hiện tượng ấy cũng là tất yếu: con người Hồ Chí Minh sở dĩ được thần thánh hoá như
vậy chỉ cốt để thần thánh hoá cái phần chính yếu của ông, cái mà những nhà sùng bái gọi
là tư tưởng Hồ Chí Minh. Và đó là thủ thuật quan trọng để vĩnh viễn hoá sự tồn tại của
Hồ Chí Minh đối với lịch sử đất nước: trong khi con người Hồ Chí Minh chỉ là một tượng
đài và xác ướp thì tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi trong đời sống của nhân dân.
Nhưng tìm hiểu đến tận nguồn cội câu chuyện rắc rối này chúng ta không thể tin vào sự
sùng bái dễ dãi đó.

1. Chúng ta hãy đọc lại đoạn Hồ Chí Minh nói về thần tượng của mình là Lenin và chủ
nghĩa Lenin:

"Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin
theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong đấu tranh vừa nghiên cứu lý
luận Mác-Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người
lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ" [38] .

Mọi việc đã quá rõ ràng: chủ nghĩa Lenin là điểm đến trong cuộc hành trình tinh thần của
Hồ Chí Minh, còn giải phóng dân tộc, yêu nước chỉ là đường đi. Đúng hơn: một chặng
đường – cái trung gian cần thiết phải qua nhưng không phải là cái vĩnh viễn. Và điều kiện
do ông đưa ra để thực hiện cũng rất rõ ràng: toàn bộ giai đoạn đấu tranh giành độc lập
phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo, phải được "phe xã hội chủ nghĩa" giúp đỡ. Hai câu của
ông sau đây: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản" và "Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách
mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn" đã diễn tả rõ thêm điều
kiện nói trên: chủ nghĩa xã hội vừa là biện pháp lại vừa là mục đích của cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc [39] .

Hồ Chí Minh đã nhận thức được điều này lúc mới sang Nga năm 1924. Trong một bài
viết bằng tiếng Pháp (không đề tên nhưng được xem là của ông), ông nêu câu hỏi: tại sao
Moskva lại phát động "chủ nghĩa dân tộc bản xứ" nhân danh QTCS? Câu trả lời của ông
là: tuy nghịch lý táo bạo nhưng đó là một chính sách hiện thực tuyệt vời. Lý do: "chủ
nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước", động lực này nếu những người cộng sản
biết khai thác thì sẽ hoàn toàn có lợi cho việc thực hiện mục đích cách mạng của mình.
"Giờ đây, người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các
động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ. Khi chủ nghĩa dân tộc của họ
thắng lợi, thì đã lâu lắm rồi, phần lớn thế giới sẽ xôviết hoá và lúc đó, nhất định chủ
nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế. Trong khi chờ đợi, chủ nghĩa dân tộc
sẽ quấy rối chủ nghĩa đế quốc Pháp và bằng việc làm này, Quốc tế Cộng sản sẽ được lợi
trực tiếp" [40] .

Lập luận ở đây khá rạch ròi: không cần giấu giếm cái ý định của QTCS muốn khai thác
phong trào tranh đấu của những nước thuộc địa để "quấy rối" chủ nghĩa đế quốc. Và đó
cũng chính là lập luận của Lenin: vấn đề những nước phụ thuộc và thuộc địa không thể tự
thân tồn tại mà phải phục vụ cho lợi ích của cách mạng vô sản thế giới [41] .

Về mặt khái niệm, các chữ dùng khá chính xác: "chủ nghĩa dân tộc" (là một ý thức hệ) ở
đây có vẻ thích hợp hơn mấy chữ "chủ nghĩa yêu nước" (là một tình cảm). Chúng gợi cho
ta nhận xét sau đây: về mặt tình cảm, những người sùng bái Hồ Chí Minh có thể yên tâm
gọi ông là người "yêu nước-cộng sản" (hay người "cộng sản-yêu nước" cũng được),
nhưng về mặt ý thức hệ thì quá trình tư tưởng của ông đã chứng minh rằng Hồ Chí Minh
chỉ có thể là người theo chủ nghĩa cộng sản chứ không thể vừa theo chủ nghĩa dân tộc
vừa theo chủ nghĩa cộng sản được. Rõ ràng mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và cộng sản
đã được Hồ Chí Minh giải quyết theo cách mà Lenin, người sáng lập ra Quốc tế Ba đã
giải quyết rồi [42] .

2. Vấn đề thật quan trọng với Hồ Chí Minh: nhờ "vận dụng" lại thứ lý luận mác-xít mà
Lenin đã "vận dụng" vào các nước chậm phát triển trên đây mà ông đã thành công trong
chặng đường đầu tranh đấu để sau này có thể tiến lên hoàn thành mục đích tối hậu của
ông: Đảng Cộng sản đã giành được quyền lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thực
hiện được mục tiêu quan trọng là giải phóng nhân dân thoát khỏi sự thống trị của chủ
nghĩa thực dân. Có thể hình dung một cách tổng quát chiến lược tranh đấu đó như sau:

• Tiên quyết phải có một Đảng Cộng sản bao gồm những nhà cách mạng chuyên
nghiệp, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật sắt, thề nguyện suốt đời xả thân cho lý tưởng
cộng sản để lãnh đạo toàn bộ quá trình cách mạng. Hầu hết những hạt nhân lãnh
đạo đều được tuyển mộ trong hàng ngũ tiểu trí thức thành thị.

• Lập mặt trận thống nhất, tuỳ theo giai đoạn, liên hiệp với tất cả những thành phần
xã hội có thể liên hiệp được, để cô lập triệt để đối tượng cần đánh đổ (địa chủ hay
tư bản, đế quốc này hay đế quốc khác…). Nhưng bên dưới, phải đặc biệt tranh thủ
nông dân, coi bần và trung nông là chủ lực của cách mạng, dựa vào đó huy động
tài chính, tạo cơ sở che giấu cán bộ, vận động dân công, bổ sung lính…

• Không nên bám vào một phương thức nào mà phải tuỳ theo sự thay đổi trong
tương quan lực lượng giữa "ta" và "địch" mà đề ra phương pháp đấu tranh cho
thích hợp: tiến hay thoái, hợp tác hay chống đối, thoả hiệp hay tấn công, làm
chiến tranh hay kêu gọi hoà bình, công khai hay bí mật… Và đó là ý nghĩa của
câu "dĩ bất biến ứng vạn biến" mà ông Hồ rất thích nói đến.
So với những đảng phái gọi là "quốc gia" chỉ biết trông cậy vào sự hỗ trợ bên ngoài hoặc
chỉ huy động trí thức thành thị và dựa vào một phương pháp tranh đấu nhất định… rõ rệt
chiến lược trên đây của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ ra hơn hẳn [43] .

3. Người ta không lấy làm lạ khi trả lời phỏng vấn hoặc viết cho các báo nước ngoài, Hồ
Chí Minh đã nhiều lần nhắc lại những lời lẽ rất "tâm đắc" sau đây:

"Ở nước ta và ở Trung Quốc cũng vậy, có câu chuyện đời xưa về cái cẩm nang đầy phép
lạ thần tình. Khi người ta gặp những khó khăn lớn, người ta mở cẩm nang ra, thì thấy
ngay cách giải quyết. Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và
nhân dân Việt Nam, không những là cái cẩm nang thần kỳ, không những là cái kim chỉ
nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản" [44] .

Trong văn bản này, ông dùng mấy chữ "chủ nghĩa Lênin", chỗ khác ông dùng "chủ nghĩa
Mác-Lênin", nhưng ở đâu ông cũng cho rằng nhờ cái "cẩm nang" đó, Đảng Cộng sản sẽ
đạt được mục đích cuối cùng sau những chiến thắng dọn đường. Cái mục đích cuối cùng
ấy có đạt được hay không thì chúng ta còn phải chờ xem, nhưng xét những cái đã qua,
khẳng định nói trên của ông không phải là không hiện thực – như chúng ta đã biết.
Nhưng để tránh bị đẩy vào cái bẫy "khái quát hoá" thì cần xác định rõ tính chất cụ thể của
chiến lược ấy: đó không phải là học thuyết toàn diện của Marx và Lenin về chủ nghĩa xã
hội. Riêng đối với Lenin thì đó cũng chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong lý luận về cách
mạng của ông: đó là sách lược "lợi dụng" phong trào dân tộc ở những thuộc địa để chống
đế quốc. Chiến lược ấy cũng không mang lại kết quả mong đợi: nhiều Đảng Cộng sản ở
những thuộc địa vẫn được trang bị cho cái "cẩm nang" ấy, nhưng đã không đi đến đâu
(chúng ta hãy nhớ lại trường hợp N. Roy của Ấn Độ). Cái "cẩm nang" mệnh danh là "chủ
nghĩa Mác-Lênin" đó, vì vậy, đã không hề có giá trị vạn năng.

4. Ngay bản thân cái khái niệm "Mác-Lênin" mà ông sử dụng rất tự nhiên cũng không có
sự nghiêm ngặt về nội dung tư tưởng của những người có liên quan với cái học thuyết mà
ông nói đến. Không hoàn toàn là Marx: ông không cần biết đến điều kiện tiên quyết của
Marx để làm cho chủ nghĩa xã hội gọi được là "mác-xít" là sự phát triển tột độ của chủ
nghĩa tư bản tổng thể. Cũng không đúng hoàn toàn về Lenin: ông không cần biết đến điều
kiện mà Lenin đặt ra để cho cuộc cách mạng 1917 gọi được "xã hội chủ nghĩa mác-xít" là
phải có sự hỗ trợ của cuộc cách mạng vô sản đích thực đã thành công ở phương Tây. Còn
cái học thuyết gọi chung là "Mác-Lênin" mà ông và guồng máy tuyên truyền của ông ra
sức phổ biến vào Việt Nam cũng chỉ là một thứ lý luận mác-xít đã bị dung tục hoá và tầm
thường hoá hết mực: coi những kết luận của Marx về sự giẫy chết tất yếu của chủ nghĩa
tư bản, sự sinh thành tất yếu của "cõi đời mới" do giai cấp vô sản lãnh đạo, sự cần thiết
của "chuyên chính vô sản" trong quá trình tiến lên chủ nghĩa cộng sản v.v… là những cái
đương nhiên đã là chân lý, chính nghĩa, tất yếu chỉ cần noi gương Lenin vận dụng một
cách "sáng tạo" vào những hoàn cảnh cụ thể là đủ, nhất định thành công.

Có thể do bản chất của ông thiên về những cái thiết thực, không ưa nghiền ngẫm về
những cái trừu tượng, xa vời và cũng có thể do nhu cầu thực tế của cuộc đấu tranh bí mật,
lâu dài, trong khi thuộc nằm lòng bài bản của Lenin về việc sử dụng "mặt trận thống
nhất" và những kỹ thuật tổ chức lập Đảng, vận động quần chúng để cướp chính quyền,
ông không quan tâm đào sâu đến tận cùng cơ sở lý luận của cái cùng đích mà ông nguyện
dấn thân cho nó, từ nguồn gốc đến những biến thái phức tạp về sau. Ông rất hay nói đến
lý tưởng và đạo đức: trong những bài viết của ông, khái niệm "chủ nghĩa xã hội" lúc nào
cũng hiện ra như một cái gì đó rất giống với cái thế giới đại đồng châu Á thời cổ, tràn
ngập thái bình và an lạc, chứ không phải là "hiện thực" hoặc "khoa học" theo cách mà
những nhà mác-xít hay nói… Thiên hướng cảm tính, dựa nhiều vào lòng tin và nhu cầu
thực dụng khi đến với cái "cõi đời mới" do Lenin gợi ra từ những ngày đầu vẫn còn ghi
dấu thật đậm trong những bài gọi là "lý luận" của Hồ Chí Minh về sau này [45] .

5. Nhưng chúng ta đều biết: thứ chủ nghĩa xã hội "cảm tính" ấy ở Hồ Chí Minh đã không
dừng lại. Cùng với thời gian, việc nghiên cứu, tìm hiểu thêm đã làm cho cái cái lý tưởng
mơ hồ ấy trở nên cụ thể hơn, nhờ tiếp xúc nhiều hơn với sách vở "Mác-Lênin" và cuộc
sống "xã hội chủ nghĩa" trong thực tế mà Liên Xô bấy giờ đang là một hình mẫu. Trong
cái hình mẫu ấy, "chủ nghĩa Mác-Lênin" vẫn còn được nhân danh để thuyết giảng, nhưng
đã không còn sự tính toán quanh co của Lenin về "bước thụt lùi" kiểu NEP, ở đó cũng
không có những ưu tư của Lenin về tình hình quan liêu, bất lực, suy thoái trầm trọng của
bộ máy nhà nước chuyên chính vô sản do Đảng lãnh đạo. Mọi thứ đều phơi phới đi về
tương lai rạng rỡ dưới sự lãnh đạo của "lĩnh tụ thiên tài"!

Tất cả đều phải quy về nhiệm vụ trung tâm là đẩy nhanh nhịp độ công nghiệp hoá. Công
nghiệp nặng là then chốt. Để có tích luỹ phục vụ chương trình công nghiệp hoá ấy thì
cũng phải nhanh chóng hợp tác hoá nông nghiệp. Để đáp ứng những nhu cầu chuyển đổi
nhanh chóng đó, phải sử dụng không nương tay bộ máy bạo lực chuyên chính của Đảng
để dập tắt tất cả những xu hướng bất đồng trong Đảng và xã hội. Phải triệt tiêu tất cả bọn
trốts-kít phản động và bọn hữu khuynh mưu toan phục hồi chủ nghĩa tư bản. Tẩy não.
Trại tập trung. Chủ nghĩa tập thể, v.v. và v.v… Cái mô hình gọi là "xã hội chủ nghĩa" ấy
không phải cái gì khác hơn là mô hình toàn trị stalinít, mô hình này không lạ gì với Hồ
Chí Minh trong những năm ông bị giữ lại ở Liên Xô để học tập [46] .

Nhưng sự việc không phải chỉ như vậy: trong quá trình "vận dụng" để thực hành, cái mô
hình stalinít kiểu Liên Xô ấy còn được bổ sung cho phong phú hơn bằng một thứ chủ
nghĩa Stalin khác không kém phần ác liệt đến từ Trung Quốc: đó là mô hình của Mao
Trạch Đông về vai trò của bần cố nông trong đấu tranh đánh đổ chế độ chế độ phong
kiến, thực hành cải cách ruộng đất. Phóng tay phát động quần chúng. Đấu tố. Tam cùng.
Chỉnh huấn, v.v và v.v…

Nội dung của cái gọi là "chủ nghĩa Mác-Lênin" trên đây đều đã du nhập vào Việt Nam
ngay trong những ngày cách mạng giải phóng dân tộc chưa thành công: ngay trong chiến
tranh, "chủ nghĩa xã hội" đó đã được đem ra thực hiện rồi! Vì thế người ta có thể hình
dung ra rất dễ dàng tính chất của thứ "xã hội chủ nghĩa" mà Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam đã đem ra áp dụng ở miền Bắc đất nước như thế nào sau khi đã đánh đuổi
xong thực dân Pháp: một mô hình stalinít toàn trị trong đó tất cả đời sống xã hội đã bị
Nhà nước hoá một cách khắc nghiệt, chẳng dính dấp gì đến cái lý tưởng mà Hồ Chí Minh
đã ấp ủ từ những ngày đầu ông đến với Lenin! Cái "cẩm nang" của ông không còn tạo ra
những chuyện "thần kỳ" nữa: đất nước thiếu tất cả mọi thứ căn bản cần thiết cho cuộc
sống, ngoại trừ những lời lẽ ồn ào về "tương lai rạng rỡ" phát ra từ những Nghị quyết của
Đảng.

“Tư tưởng Hồ Chí Minh”?

Có thể có một thực tại lý luận gọi là "tư tưởng Hồ Chí Minh" hay không? Nếu xem đó
như một hệ thống những luận điểm có ý nghĩa canh tân hoặc phát triển học thuyết "Mác-
Lênin" thì khái niệm ấy quá khiên cưỡng: những gì liên hệ đến nội dung của khái niệm
"chủ nghĩa xã hội" mà Hồ Chí Minh đã đem về cho Việt Nam đều đã có sẵn nơi các bực
thầy cộng sản Đệ Tam, như chúng ta đã biết. Nơi Lenin: về mối quan hệ giữa cách mạng
giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản. Nơi Stalin: về mô hình xây dựng chế độ toàn trị
công nghiệp hoá. Nơi Mao Trạch Đông: về vai trò của bần cố nông trong cải cách ruộng
đất và thanh lọc Đảng.

Những cái được Hồ Chí Minh tiếp nhận ấy đều nẩy sinh từ quá trình giành quyền lực từ
tay thực dân về cho Đảng Cộng sản: vấn đề chống chủ nghĩa thực dân ở đây đã cũng là
vấn đề quyền lực của Đảng. Hai vấn đề khác nhau về bản chất, trong sự biện luận của
những nhà lý luận cộng sản Đệ Tam Việt Nam, đã bị đồng nhất hoá. Tư tưởng của Hồ
Chí Minh đã gắn chặt với những nhu cầu bức xúc và trực tiếp của cuộc đấu tranh mang
tính chất hai mặt ấy: tìm kiếm chỗ dựa bên ngoài, tạo tính chính đáng để bảo vệ sự nhất
trí cho tổ chức và củng cố uy tín cho bản thân v.v… Có thể gọi đó những tư tưởng thực
hành. Thiên hướng trỗi bật trong tính cách của Hồ Chí Minh là sự thực hành, cho nên tư
tưởng của ông đã nghiêng hẳn về những cái thiết thực, cụ thể. Nếu "tư tưởng" như vậy
được xem là đồng nghĩa với "ý thức hệ" thì Hồ Chí Minh chính là một nhà ý thức hệ, một
người chọn lựa một ý thức hệ có sẵn để hành động.

Tính chất đặc biệt trong vấn đề tư tưởng của Hồ Chí Minh do đó chính là cái cách thức
diễn giải, truyền bá những gì mà ông đã tiếp thu được để phục vụ cho các mục tiêu thiết
thực ấy. Nôm na, giản dị, dựa vào truyền thống phương Đông, Khổng Mạnh, dân tộc, làm
vè, diễn tuồng, viết văn vần, viết báo… chủ yếu nhắm vào đám đông quần chúng để
"giáo dục", "vận động" họ – đó mới chính là phong cách độc đáo của Hồ Chí Minh.

Không thực sự chú ý đến tính chất hiện thực đó trong những phát biểu của Hồ Chí Minh
về mặt lý luận, rồi tạo ra khái niệm "tư tưởng Hồ Chí Minh" huyễn hoặc, từ đó xưng tụng
Hồ Chí Minh là "nhà tư tưởng vĩ đại", "nhà lý luận thiên tài" [47] , những người sùng bái
đã làm tổn hại uy tín ông nhiều hơn là nâng ông lên cao.

Mấy luận cương về Hồ Chí Minh

1. Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước. Ông đã hoàn thành mong mỏi của mọi người Việt
Nam qua các thời đại: đánh đuổi các lực lượng ngoại xâm. Từ tình cảm yêu nước ông đã
đến với chủ nghĩa cộng sản Đệ Tam. Dựa vào cộng sản Đệ Tam, vận dụng những phương
pháp tổ chức của Lenin, ông đã giành lại được chủ quyền cho dân tộc và quyền lực cho
Đảng Cộng sản để xây dựng nên một nước Việt Nam mới.

2. Đem chủ nghĩa cộng sản ra áp dụng, ông hy vọng sẽ xây dựng cho đất nước một thể
chế chính trị mang lại hạnh phúc vĩnh viễn cho nhân dân: một mô hình phát triển hiện đại
dựa trên sự bình đẳng và tự do cho mọi người. Thực tế đã chứng minh đó chỉ là mộng
tưởng hão huyền. Thứ "chủ nghĩa cộng sản" mà ông đem ra thực hiện chỉ có tác dụng duy
nhất là duy trì chế độ toàn trị stalinít. Thực chất của "chủ nghĩa Mác-Lênin" mà Hồ Chí
Minh tiếp nhận chỉ là chủ nghĩa Stalin.

3. Đã có nhiều lực lượng yêu nước chống chủ nghĩa thực dân đồng thời với Hồ Chí Minh,
nhưng tại sao chỉ có Hồ Chí Minh thành công? Trả lời câu hỏi này, những người không
chấp nhận sự chọn lựa của Hồ Chí Minh không thể không chiêm nghiệm lại những thất
bại của mình. Một cái nhìn thực tế về mối quan hệ giữa phong trào giải phóng dân tộc và
phong trào cộng sản trong thế kỷ 20 là rất cần thiết cho những ai thật sự muốn học ở lịch
sử những điều bổ ích. Những bài học ấy không thể xuất hiện trên mảnh đất tinh thần chứa
đầy thành kiến và hận thù.

4. Những người cộng sản cũng không thể căn cứ vào việc đánh đổ được chủ nghĩa thực
dân để áp đặt mãi mãi học thuyết "Mác-Lênin" của Hồ Chí Minh lên đời sống dân tộc.
Học thuyết ấy không bắt nguồn từ những suy tưởng nghiêm chỉnh của trí tuệ. Đó chỉ là
kết quả của những nhu cầu chính trị thực dụng nhất thời, "vận dụng" vào xây dựng đã tỏ
ra không tưởng, cuối cùng trở thành công cụ thống trị.

5. Không thể nhìn qua sự chọn lựa của Hồ Chí Minh một cái thiện tuyệt đối hoặc một cái
ác tuyệt đối, như các nhà ý thức hệ đối nghịch nhau đã làm. Sự chọn lựa của Hồ Chí
Minh là một hành vi lịch sử, đã bị những điều kiện của thời đại ông quy định: một thế kỷ
đầy đổ vỡ, tràn ngập hy vọng và cũng quá nhiều ảo tưởng. Ông đã đem về cho những
người cùng thời với ông nhiều tự hào nhưng cũng nhiều thất vọng.

6. Đưa ông lên thiên đàng hay đẩy ông xuống địa ngục đều không xứng với chỗ đứng của
một nhân vật trần gian như ông. Hướng về một tương lai mới, tốt nhất là hãy kính trọng
ông như một anh hùng đã thuộc về quá khứ: chỉ có cách đó chúng ta mới có thể nhận ra
được những ý nghĩa tích cực trong cuộc đời tranh đấu của ông.

Sài Gòn 1. 11. 2002

© 2007 talawas
[1]
RC, 495, 10a, 140, p. 106 ; Sophie Quinn-Judge, Sđd, tr. 218. Khác với hồi năm 1927,
lần này Nguyễn Ái Quốc đã ghi ra nội dung của chỉ thị sẽ đem truyền đạt và gửi lại
QTCS để được kiểm tra. Sau đây là đại ý nội dung của chỉ thị được Nguyễn nhớ lại để
báo cáo lại với QTCS:

1. Khẩu hiệu không cao, cốt để có thể hoạt động hợp pháp
2. Mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi
3. Tư sản dân tộc: lôi kéo vào Mặt trận
4. Trôtskít: tay sai phát xít, phải tiêu diệt về mặt chính trị.
5. Liên hệ với Mặt trận bình dân Pháp
6. Đảng phải trung thành, hoạt động, chân thực nhất để tranh thủ Mặt trận
7. Củng cố Đảng: chống bè phái, nâng cao lý luận, quan hệ với đảng Pháp.
8. Kiểm soát báo chí của Đảng để tránh khuyết điểm về kỹ thuật và chính trị.

(“Báo cáo gửi Ban chấp hành QTCS” tháng 7-1939, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 3, tr.
138-139).
[2]
Tình trạng tìm kiếm này đã được Nguyễn báo cáo với CSQT như sau: “Trong khi chờ
đợi, để khỏi phí thời gian tôi đến làm việc phiên dịch các tin tức thế giới (nghe đài thu
thanh) ở Bát lộ quân, làm bí thư chi bộ, chủ nhiệm câu lạc bộ và hiện nay, uỷ viên uỷ ban
câu lạc bộ. Đồng thời tôi đã viết một cuốn sách nói về Khu vực đặc biệt và một số bài báo
phản ánh những biến cố chính trị và quân sự, sự tàn ác của bọn Nhật bản, tinh thần anh
dũng của các chiến sĩ Trung Quốc, cuộc đấu tranh chống bọn tờrốtxkít… để tuyên truyền
quốc tế.
Từ ngày 12-2-1939, số lớn những bài đó đã được đăng trên tờ Notre Voix, tuần báo công
khai của Đảng Cộng sản Đông Dương xuất bản tại Hà Nội. Trên các bài đó tôi đều ghi
Quế Lâm và ký tên Lin, hy vọng rằng các đồng chí có trách nhiệm có thể đoán được ai là
tác giả và hiện người đó ở đâu. Nhưng hy vọng này không đạt được” (“Báo cáo gửi Ban
chấp hành QTCS” tháng 7-1939, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 3, tr. 140-141).
[3]
Thanh Đạm: Nguyễn Ái Quốc trên đường về nước, Nxb Nghệ An &Trẻ, Tp Hồ Chí
Minh , tr. 227.
[4]
Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 3, tr. 171.
[5]
Hồ Chí Minh toàn tập, T3, tr. 174.
[6]
Nguyễn Ái Quốc: “Kính cáo đồng bào”, ngày 6-6-1941, Hồ Chí Minh toàn tập, T. 3, tr.
198.
[7]
Hồ Chí Minh toàn tập, T. 3, Chú thích 24, tr. 625.
[8]
Hồ Chí Minh toàn tập, T. 3, tr. 505-506.
[9]
Thanh Đạm: Sđd, tr. 215.
[10]
1) Thành viên của Hiệp hội những phóng viên Trung Hoa trẻ, 2) Thông tín viên đặc
biệt của Hãng tin quốc tế, 3) Giấy phép đi lại cho cán bộ của Đệ tứ chiến khu (Báo cáo
của Trương Phát Khuê, Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 242) .
[11]
Về sau Nguyễn đã có dịp chỉ trích đường lối tả khuynh đó như sau: “… chính sách Đại
hội Macao vạch ra không sát với phong trào cách mạng thế giới và trong nước lúc bấy
giờ (như định chia ruộng đất cho công nhân nông nghiệp, chưa nhận rõ nhiệm vụ chống
phát xít và nguy cơ chiến tranh phát xít”. (“Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ hai của Đảng”, 11-2-1951. Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 6, tr. 155 ).
[12]
Trả lời một nhà báo nước ngoài 22-6-1947: “Hỏi: Vì sao có người tin rằng Chính phủ
Việt Nam là Chính phủ cộng sản? - Trả lời: Tuyên truyền của thực dân phản động Pháp
nhất là Đo đốc Đác-giăng-liơ, đã lần lượt đặt cho chúng tôi là cộng sản, phát xít, đế quốc,
thân Nhật, bài ngoại, v.v… Điều đó không có gì đáng lạ, vì họ không ưa chúng tôi, song
tôi chắc rằng nhân sĩ thế giới không ai tin họ; một là vì Chính phủ Việt Nam gồm đủ các
đảng phái và các nhân sĩ không đảng phái, hai là chính sách Việt Nam rất rõ rệt: cốt làm
cho nước Việt Nam thống nhất và độc lập, làm cho dân được tự do và khỏi khổ khỏi
chết”. (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, tr. 155)
[13]
Tướng Trần Tu Hoà thay mặt Bộ tư lệnh Tưởng Giới Thạch, muốn đứng ra điều đình
giữa các đảng phái để lập chính phủ liên hiệp lâm thời. Hồ Chí Minh trả lời 19-12-
1945 :“Việt Nam Độc lập Đồng minh không phải là một đảng mà là một mặt trận đoàn
kết toàn dân, bao gồm các đảng phái (đảng dân chủ, phái xã hội), các phần tử Quốc dân
Đảng, Đảng Cộng sản (đã tự động giải tán) và các đoàn thể yêu nước không đảng phái
như Hội Thanh niên Cứu quốc, Hội Phật giáo Cứu quốc, Hội Cơ đốc giáo Cứu quốc
v.v…” (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, tr. 117).
[14]
Thư gửi Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh mời tham gia Tổng tuyển cử, báo Việt
Nam số 19, 6-12-1945 (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, tr. 112-113).
[15]
Chủ tịch: Hồ Chí Minh; Phó Chủ tịch: Nguyễn Hải Thần; Cố vấn: Vĩnh Thuỵ; Ngoại
giao: Nguyễn Tường Tam; Nội vụ: Huỳnh Thúc Kháng; Kinh tế: Chu Bá Phượng; Tài
Chính: Lê Văn Hiến; Quốc Phòng: Phan Anh; Xã hội, Y tế, Lao động: Trương Đình Tri;
Giáo dục: Đặng Thai Mai; Tư pháp: Vũ Đình Hoè; Giao thông: Trần Đăng Khoa; Canh
Nông: Bồ Xuân Luật; Kháng chiến uỷ viên, chủ tịch: Võ Nguyên Giáp, Phó: Vũ Hồng
Khanh (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, tr. 193-194).
[16]
“Trả lời các báo”, Cứu quốc 28-12-1945: Hỏi: Tại sao có 70 đặc cách trong Quốc hội?
- Trả lời: Vì anh em Quốc dân Đảng không ra ứng cử. - Hỏi: Sao lại trái nguyên tắc dân
chủ vậy? - Trả lời: Muốn khi đi tới dân chủ nhiều khi phải làm trái lại. Thí dụ: muốn đi
tới hoà bình có khi phải chiến tranh. (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 4, tr. 125).
[17]
“Tại Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam vẫn còn lưu giữ báo Việt Nam độc lập, cơ
quan Việt Minh Cao Bắc Lạng, do Bác Hồ sáng lập và điều hành. Trong tờ báo này có
một số bài viết và tin tức về hoạt động hợp tác Việt-Mỹ trên chiến khu, có bài báo Bác
Hồ ca ngợi Tổng thống Mỹ Roosevelt là người anh hùng khi nghe tin ông qua đời vào lúc
cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II sắp kết thúc. Nhưng trong tờ báo này có một phụ bản
rất độc đáo. Đó là một tranh vẽ gồm 8 bức hình hướng dẫn nhân dân cách cứu phi công
Mỹ. Phía trên những bức tranh ấy có vẽ hai lá cờ: sao vạch của Hoa Kỳ và cờ đỏ Sao
Vàng là cờ của Việt Minh. Ở giữa hai lá cờ lại có một vần thơ: "Bộ đội Mỹ là bạn ta -
Cứu phi công Mỹ mới là Việt Minh". Bức tranh và câu thơ này đến nay vẫn được coi là
do Bác vẽ”. (Phan Thế Hải, VietNamNet 11-8-2004).
[18]
Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, tr. 169-170.
[19]
Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 6, tr. 161.
[20]
Đảng Dân chủ: Thành lập 30-6-1944. Giải tán: 20-10-1988. Đảng Xã hội: Thành lập
22-7-1946. Giải tán: 15-10-1988.
[21]
Lenin toàn tập, Tập 41, Tiến bộ, Matxcơva, 1977, tr. 24.
[22]
Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 6, tr. 81-82
[23]
Báo cáo trước hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa II, ngày 25-
1-1953 về Đại hội 19 cuả Đảng CS Liên Xô (10-1952), ca ngợi cuốn sách của Stalin
Những vấn đề kinh tế của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô: “Quyển sách ấy dạy chúng ta xem
xét thêm sáng suốt tương lai của thế giới và làm cho chúng ta càng chắc chắn về tiền đồ
nhất định thắng lợi của chúng ta. Cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng cần phải nghiên cứu
những tài liệu của Đại hội thứ XIX, nhất là quyển sách của đồng chí Xtalin và phải biết
áp dụng vào hoàn cảnh kháng chiến, kiến quốc của chúng ta” (Hồ Chí Minh toàn tập Tập
7, tr. 10).
[24]
Tóm tắt nội dung Thực tiễn luận của Mao Trạch Đông, Nhân dân 19-7-1951 (Hồ Chí
Minh toàn tập. Tập 6, tr. 247).
[25]
Bài nói tại Hội nghị Nông vận và Dân vận toàn quốc (5-2-1953): “Từ năm 1949 đã có
sắc lệnh giảm tô, đến nay đã 4 năm và vẫn chưa thực hiện triệt để. Xem đó thì biết rằng
giảm tô không phải là vấn đề giản đơn, nó là một bộ phận của giai cấp đấu tranh, giai cấp
nông dân đấu tranh với giai cấp địa chủ. Đây cũng là một chiến dịch nhưng chiến dịch
này to và rộng hơn chiến dịch Hoà Bình, Tây Bắc vì nó mở ra khắp cả nước. Nó càng khó
hơn đánh giặc, vì đánh giặc thì đưa vũ khí ra mà đánh, trong chiến dịch này nông dân
không đưa súng đạn ra đánh với địch, nhưng phải dùng một thứ vũ khí mạnh hơn, tức là
lực lượng tổ chức và lực lượng đoàn kết của hàng triệu nông dân. Đảng và Chánh phủ là
Bộ Tổng tư lệnh, Bộ Tổng Tham mưu của cuộc đấu tranh này” (Hồ Chí Minh toàn tập,
Tập 7, tr.26).
[26]
Bài nói chuyện ở lớp chỉnh huấn cán bộ trí thức (15-7 đến 26-9-1953): “Nghe nói các
ngành, các cá nhân ôn lại, xét lại những việc làm mình làm trong thời Pháp thuộc, thấy
thằng Pháp xấu xa và làm nhục mình.
Đặc biệt anh em thấy nó đối đãi, giáo dục mình là nhục nhã hơn. Những thấy thế vẫn
chưa triệt để. Thấy nhục là một bước, phải tiến lên bước nữa: thấy tội của mình. Vì Pháp
nhồi sọ, mua chuộc mình nên đã đối đãi với nhân dân như thế nào, điều ấy anh em chị em
chưa nghĩ tới. Thấy mình nhục đã đành, còn phải thấy tội nữa.
Xin lỗi cụ Bùi (có tiếng cụ Bùi: “Không dám xin cụ cứ nói”) ví dụ: thời trước cụ làm thầy
giáo thì không có gì là tham ô, lãng phí của nhân dân, vì dạy bao nhiêu giờ lĩnh bấy nhiêu
tiền. Nay xét lại, lúc đó dạy thì dạy gì, đào tạo người thì đào tạo cho ai? Vì “tôn sư trọng
đạo”, cụ ở địa vị ông thầy, nên được lớp trí thức trọng cụ, dân cũng trọng cụ. Nhưng ông
thầy lúc ấy nói gì? Nói chống Tây thì nó đá đít. Dù muốn hay không, cũng phải nói đế
quốc, phong kiến là tốt. Như thế là có thể có tội với nhân dân rồi. Tôi nghe đây có 4 đời
là học trò cụ. Như thế là tứ đại nô lệ.
Tóm lại, các ngành thấy Tây đối đãi với mình là nhục, nhưng phải tiến lên bước nữa xét
tội của mình đối với nhân dân. Để đi đến đâu? Đi đến càng căm thù đế quốc phong kiến”.
(Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 7, tr. 108-109).
[27]
Xem Lữ Phương: “Huyền thoại Hồ Chí Minh”, Thư Nhà tháng 5-2001
[28]
Thư ngày 31-3-1935 của Hà Huy Tập gửi QTCS đã nhắc đến Nguyễn Thị Minh Khai
như là “vợ của Nguyễn Ái Quốc”. Còn Minh Khai (bí danh là Fan Lan) đã khai trong lý
lịch dự Đại hội là “đã kết hôn” và tên chồng là “Lin” (bí danh của Nguyễn Ái Quốc).
Nhưng trong lý lịch của mình, không thấy Nguyễn khai là đã có vợ (RC, 495, 201, 35;
Xem Sophie Quinn-Judge: Sđd, tr. 201).
[29]
Về mối tình giữa Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh, đã nói qua trong chú thích số 29,
chương III “Từ Nga sang Trung Quốc”. Nay nói thêm một chút về đoạn kết của cuộc tình
ấy. Theo tác giả Hoàng Tranh, tháng 5-1950, thấy hình và tiểu sử Hồ Chí Minh đăng trên
Nhân dân nhật báo , bà Tăng Tuyết Minh đã báo cáo với tổ chức và gửi mấy bức thư cho
ông Hồ nhờ Đại sứ Việt Nam tại Bắc Kinh (bấy giờ là Hoàng Văn Hoan) chuyển. Nhưng
không có trả lời. Một cán bộ đã đến gặp bà, đưa bằng cớ xác nhận Hồ Chí Minh đúng là
chồng bà, ngày trước mang tên Lý Thuỵ, nhưng lại giải thích tại sao “không tiện liên lạc“
và mong bà “lượng thứ”, “yên tâm công tác”. Vẫn theo Hoàng Tranh, năm 1960, Hồ Chí
Minh đã nhờ lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu tìm tung tích Tăng Tuyết Minh nhưng
cũng không thấy kết quả gì. Được biết bà Tăng Tuyết Minh làm nghề hộ sinh, gia đình
theo đạo Công giáo từ đời ông nội, bà “thường xuyên đi lễ” và có thói quen “ăn uống
đạm bạc, không dùng thịt cá”, “luôn luôn vui vẻ giúp người”. (Hoàng Tranh: “Hồ Chí
Minh với người vợ Trung Quốc Tăng Tuyết Minh”, tạp chí Đông Nam Á Tung hoành số
tháng 11-2001, xuất bản tại Nam Ninh. Bản dịch tiếng Việt: Minh Thắng, đăng trên tạp
chí Diễn Đàn (xuất bản tại Pháp), số 121 tháng 9-2002).
[30]
Đã nói rõ trong chương IV: “Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam”.
[31]
Trong những thư đầu gửi thiếu nhi, Hồ Chí Minh xưng là “Già Hồ”: “Trung thu này,
Già Hồ không có gì gửi tặng các em. Chỉ gửi tặng các em một trăm cái hôn thân ái” (“Tết
Trung thu với nền độc lập”, Cứu quốc 17-9-1945). Sau đó khoảng một năm mới xưng là
“Bác Hồ”.
[32]
Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch (1948). Thường
được coi là cuốn tiểu sử do Hồ Chí Minh ký tên khác để viết về mình. Sau này, có thông
tin cho biết cuốn này do thư ký riêng của ông là Vũ Kỳ viết. (Vấn đề này đã đề cập trong
Chương 1: “Cuộc ra đi của Nguyễn Tất Thành”).
[33]
Thí dụ:
– Tân Sinh: Việt Bắc anh dũng, Tổng bộ Việt Minh xuất bản, 1948: “Ngay lúc bắt đầu
kháng chiến, Hồ Chủ tịch ra lệnh: Trường kỳ kháng chiến… Ngay trước khi Trung đoàn
Thủ đô rút khỏi Hà Nội, Hồ Chủ tịch đã đoán trước: Địch sẽ cố chiếm lấy mấy thành thị
và mấy đường giao thông. Bộ đội chúng càng rải rác. Lực lượng chúng càng mỏng manh,
ta càng dễ tiêu diệt chúng.
Ngay lúc đầu Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng Chỉ huy đã định dùng chiến thuật du kích để
tiêu diệt địch.
Càng ngày chíng ta càng thấy những ý định trên là sáng suốt, nhất là trong cuộc địch tấn
công vào Việt Bắc, chúng ta càng thấy rõ như thế” (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, tr. 341)

– Trần Lực: “Giấc ngủ mười năm”, Tổng bộ Việt Minh xuất bản, Việt Bắc, 1949. (Hồ
Chí Minh toàn tập, Tập 5, tr. 605-623). Trong truyện ngắn này, có khẩu hiệu “Việt Nam
độc lập muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!”.
– ZIN: “Chúng tôi vững tin vào thắng lợi cuối cùng của mình”, tuần báo Vì một nền hoà
bình lâu dài, vì một nền dân chủ nhân dân, bản tiếng Pháp 21-8-1953: “Việc học tập
những vấn đề trên được thực hiện trên cơ sở những tác phẩm của Mác, Angghen, Lênin,
Xtalin và báo cáo của đồng chí Malencốp tại Đại hội 19 Đảng CSLXô, những tác phẩm
của đồng chí Mao Trạch Đông, những bài viết của đồng chí Hồ Chí Minh, những văn
kiện của Đảng” (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 7, tr. 101).
[34]
“Các chế độ quân chủ sùng kính Khổng Tử không chỉ vì ông không cách mạng mà vì
ông đã tuyên truyền cật lực cho các chế độ ấy. Nếu Khổng Tử sống đến ngày nay và nếu
ông ấy cứ bám mãi lấy những quan điểm ấy, ông ấy sẽ là phản cách mạng. Có thể ông
siêu nhân ấy sẽ nhân nhượng hoàn cảnh và nhanh chóng trở thành môn đệ của Lênin…
Đối với người Việt Nam chúng ta, chúng ta hãy bồi dưỡng trí tuệ mình bằng cách đọc tác
phẩm của Khổng Tử, và cách mạng hoá mình bằng cách đọc tác phẩm của Lênin” (Xem
Huỳnh Kim Khánh: Vietnamese Communism, 1925-1945, Sđd, tr. 80).
[35]
Hãy nhớ lại đoạn văn sau đây trong sách của Trần Dân Tiên: “Ông có biết anh Ba hiện
nay thế nào không?” – “Không, tôi rất tiếc là tôi không biết.” – “Ông có muốn tôi nói cho
ông biết không?” – “Còn gì bằng nữa!” – “Ông quay lại xem, anh Ba ấy đây kìa!” Tôi
vừa nói vừa chỉ chân dung Hồ Chủ tịch treo trên bàn thờ giữa những bình hoa, bình
hương, đèn nến”. ( Trần Dân Tiên: Sđd, tr. 19).
Stalin cũng đã được bộ máy tuyên truyền cộng sản Đệ Tam nhiều nơi xưng tụng là “le
génial petit père des peuples” – “người cha già nhỏ thiên tài của các dân tộc”! Quyền
sinh sát của Stalin ghê gớm nhưng vẫn chưa được đưa lên bàn thờ.
[36]
Tôi được nghe kể một câu giai thoại nhỏ về tính khiêm tốn của Hồ Chí Minh: khi nghe
người ta hô “Hồ Chí Minh muôn năm!”, ông bèn giễu lại: “Hồ Chí Minh muốn nằm!”.
Nghe có vẻ vui, nhưng cũng có vẻ “kịch”! Tính chất “kịch” trong ứng xử của Hồ Chí
Minh, nhiều người quanh ông đã nhận ra. Sau đây là câu chuyện do một cán bộ thông tấn
thuật lại. Trong đoàn người khá đông tháp tùng theo ông Hồ đi thăm một vùng nông thôn
miền Bắc sau 1954, có ai đó đã vô tình đạp lên một vài khóm mạ vừa cấy xong và bỏ đi
luôn. Nhưng điều đó lại được ông Hồ chú ý, ông dừng lại và tự mình vun lại khóm mạ
cho ngay ngắn. Thuật lại chuyến thăm viếng ấy trong một bài báo, người cán bộ thông
tấn đã cố tình không nói gì đến chi tiết khóm mạ bị đạp. Tác giả bài báo đã được tổng
biên tập mời đến cho biết chính Bác Hồ đã đọc bản thảo và hỏi tại sao tác giả lại không
nói gì đến chi tiết đó! Người cán bộ thông tấn ấy lắc đầu và nói thêm: Ông Cụ rất rành về
chuyện viết báo tuyên truyền, muốn qua mặt Cụ một chút mà không được!
[37]
Vũ Kỳ (thư ký riêng của Hồ Chí Minh) xác nhận đã nói với bà Phan Thị Minh những
lời sau đây: “Bác thường không nói chính thức về quá trình hoạt động trước đây cũng
như những mối quan hệ của Bác trước đây. Hễ trực tiếp hỏi Bác thường tránh không trả
lời. Vì vậy các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Tố Hữu v.v… thường nhắc tôi tìm cách
gợi chuyện để Bác nói, trong khi vui chuyện, trong bữa cơm chẳng hạn… Phải cố nhớ để
sau này ghi lại, nếu Bác thấy đưa giấy bút ra là thôi không nói nữa. Định bố trí máy ghi
âm ghi trộm cũng không làm được” (Phan Thị Minh: “Về quan hệ giữa Phan Chu Trinh
và Nguyễn Ái Quốc”, trong Thu Trang: Những hoạt động của Phan Chu Trinh tại Pháp
1911-1925, Sđd, tr. 125)
[38]
“Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin” (1960), Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 10, tr.
128.
[39]
Những nhà sùng bái thường dựa vào hai câu nói này đưa ra luận điểm gọi là “kết hợp
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội”, coi đó là sự sáng tạo của “nhà lý luận thiên tài” Hồ
Chí Minh (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia: “Lời giới thiệu bộ Hồ Chí Minh toàn tập”,
Hồ Chí Minh toàn tập, T. 1, Sđd, tr. X). Nhận định ấy dựa trên giả định về sự đồng hàng
của khái niệm “dân tộc” với “chủ nghĩa xã hội”. Như chúng ta đã phân tích, điều đó
không phù hợp với “Luận cương” của Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, và cũng
không phù hợp với sự tiếp thu của Hồ Chí Minh đối với luận cương ấy của Lenin.
[40]
“Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, và Nam kỳ”, Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, Tập 1, tr.
466-467.
[41]
Stalin đã diễn đạt quan điểm đó của Lenin như sau: “Lênin đã nhìn thấy trong phong
trào giải phóng dân tộc ở những nước bị áp bức tiềm năng cách mạng và đã không ngại
sử dụng để chống chủ nghĩa đế quốc. Sở dĩ như vậy là vì về mặt khách quan, phong trào
đó có lợi cho cuộc cách mạng vô sản toàn cầu. Có những phong trào không có giai cấp vô
sản tham gia, cũng không có những cương lĩnh cộng hoà, nhưng nếu có tác dụng làm suy
yếu chủ nghĩa đế quốc thì giai cấp vô sản vẫn ủng hộ. Trái lại cũng có những phong trào,
tuy có nguồn gốc vô sản, tự xưng là cách mạng dân chủ, như bọn Đệ Nhị , nhưng khách
quan làm lợi cho chủ nghĩa đế quốc thì phải bị tẩy chay. Chỉ ủng hộ những phong trào
dân tộc nào làm suy yếu hoặc lật đổ chủ nghĩa đế quốc chứ không phải là duy trì và củng
cố nó”. (Staline: Những nguyên lý của chủ nghĩa Lênin (1924). Trong Hélène Carrère:
Sđd, tr. 250-253).
Lý luận thì như vậy, nhưng trong thực tế, đối với những người theo chủ nghĩa Stalin, chủ
nghĩa quốc tế vô sản chỉ là một khái niệm bình phong: nó được sử dụng để các nước lớn
lôi cuốn những nước đàn em vào vòng khống chế của mình; trong khi đó thì những nước
nhỏ này lại làm ngược lại: lúc thì để mè nheo xin “giúp đỡ” khi thì để chống lại sự o ép
của các đàn anh. Bắt nguồn từ học thuyết của Marx, qua phong trào quốc tế Đệ Tam, khái
niệm quốc tế vô sản đã biến dạng thành một ý thức hệ phản mác-xít hoàn toàn: thực chất
đó chính là chủ nghĩa dân tộc-cộng sản.
[42]
Trong lý luận mác-xít , hai khái niệm này (chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa cộng sản)
loại trừ nhau với tư cách là những ý thức hệ. Để tránh phải đối diện trực tiếp với những
khó khăn về lý luận, những nhà ý thức hệ cộng sản Việt Nam thường hết sức nhấn mạnh
đến mấy chữ “chủ nghĩa yêu nước” để từ đó “kết hợp” với “chủ nghĩa xã hội” với tham
vọng tạo ra một thứ ý thức hệ độc đáo cho Việt Nam (“tư tưởng Hồ Chí Minh”). Nhưng
có lẽ cảm thấy khái niệm này hơi gượng ép và có vẻ phi tư tưởng (bất cứ cái gì có cái
đuôi isme trong tiếng Pháp, dù có nội dung như thế nào, cũng đều được dịch ra là “chủ
nghĩa”), những nhà ý thức hệ ấy đã “sáng tạo” một khái niệm mới mà có lẽ trên thế giới
chưa ai biết đến: đó là “tư tưởng yêu nước” hoặc “tư duy yêu nước”!
Khái niệm này đã được nhiều nhà nghiên cứu văn hoá sử dụng hết sức tuỳ tiện, nhưng ồn
ào nhất có lẽ là ông Trần Văn Giàu, một người đại diện tiêu biểu cho lý luận giấu mặt về
chủ nghĩa dân tộc-cộng sản của Việt Nam: “… chủ nghĩa yêu nước Việt Nam không phải
chỉ là một tình cảm hời hợt, mà là cả một hệ thống tư tưởng rất phong phú, cho đến nay
hãy còn nhiều điểm nội dung đang chờ sức khám phá của các nhà sử học và các nhà triết
học” (Trần Văn Giàu: Trong dòng chủ lưu của văn học Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước,
Nhà xuất bản văn nghệ Tp Hồ Chí Minh, 1983, tr. 14).
[43]
Ý “hơn hẳn” này là của George K. Tanham, nhà phân tích chống nổi dậy của nhà nước
Mỹ phục vụ cho cuộc chiến tranh với Việt Nam. Xem George K. Tanham: “Nationalism
and Revolution”, Asia N. 4, Winter 1966, p. 42.
[44]
Hồ Chí Minh: “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin” (1960), viết cho tạp chí Các
vấn đề phương Đông (Liên Xô) nhân kỷ niệm lần thứ 90 ngày sinh của V. I. Lênin (Hồ
Chí Minh toàn tập, Tập 10, Sđd, tr. 128). Trả lời Charles Fourniau báo L'humanité, nhân
kỷ niệm ngày sinh thứ 100 của Lenin (1969), Hồ Chí Minh đã chép lại rất nhiều ý cùng
với chữ “cẩm nang” trong bài viết cũ nói trên. (Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 12, Sđd, tr.
469-476).
[45]
“Tất cả những người lao động trên thế giới đều có một mục đích chung là thoát khỏi áp
bức bóc lột, được sống sung sướng tự do, tức là thực hiện chế độ cộng sản” (“Thường
thức chính trị”, ký Đ.X, 1953, Hồ Chí Minh toàn tập, T. 7, tr. 209).
[46]
Một phần của cái mô hình ấy, đã được Stalin tổng kết sau này trong cuốn Những vấn
đề kinh tế xã hội ở Liên Xô và cuốn sách này đã được Hồ Chí Minh đem ra giới thiệu với
Đảng trong môt khoá họp Ban Chấp hành năm 1953, ngay cả khi chưa hoàn thành cách
mạng giải phóng dân tộc, bằng những lời lẽ hết sức sùng bái và chỉ thị cho Đảng “phải áp
dụng vào hoàn cảnh kháng chiến, kiến quốc của chúng ta”. (“Báo cáo trước hội nghị lần
thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng”, khóa II, ngày 25-1-1953 về Đại hội 19 cuả
Đảng CS Liên Xô (10-1952). Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 7, tr. 10.
[47]
Lời giới thiệu bộ Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 1, Sđd, tr. VIII.
Phụ lục 1
Huyền thoại Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh là một nhân vật quan trọng trong phong trào cộng sản quốc tế và giải phóng
dân tộc thuộc thế kỷ 20. Ông đã lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức cuộc chiến đấu
bền bỉ chống lại các thế lực thực dân hiện đại, đã hoàn thành độc lập thống nhất, tạo cơ
sở quyền lực để thiết lập chế độ gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực” ở Việt Nam. Đã có
khá nhiều ý kiến nhận định, đánh giá sự nghiệp của ông theo nhiều quan điểm khác nhau
trên thế giới. Nhưng ở Việt Nam, trong chế độ cộng sản, từ một nhân vật lịch sử ông đã
trở thành một nhân vật huyền thoại có tác dụng huyễn hoặc rất đặc biệt.

Theo những người nghiên cứu về Việt Nam, hiện tượng này có ba nguồn gốc: 1) tự ông
cố ý tạo ra để lôi kéo quần chúng, 2) Đảng Cộng sản đã dầy công làm cho ông thành một
biểu tượng thờ phụng của chế độ, 3) người Việt Nam hy vọng vào ông như một ngưới
cứu độ, giúp họ thực hiện được những mong mỏi nghìn đời của đất nước và bản thân.

Nếu huyền thoại Hồ Chí Minh đã cho Đảng Cộng sản uy tín hầu như quyết định để chiến
thắng trong chiến tranh, thì do những thất bại của Đảng Cộng sản trong xây dựng hoà
bình mà huyền thoại Hồ Chí Minh từ từ rạn vỡ trong nhân dân và cả trong Đảng. Một cái
nhìn công bằng là một cái nhìn hiện thực về nhân vật lịch sử này.

Vẽ rồng thấy đầu không thấy đuôi

Do phải giữ kín tung tích trong hoạt động bí mật, lý lịch của Hồ Chí Minh cũng là một bí
mật. Sau cách mạng 1945, nhiều người còn chưa biết ông là ai. Nhiều đoạn đời của ông
có một thời bị nhiều nhà viết tiểu sử ông để trống (như sau vụ thất bại của Xô Viết Nghệ
Tĩnh 1931 đi đâu không biết cho đến năm 1941 mới xuất hiện lại và về nước). Phần ông,
ông lại không chịu viết hồi ký hoặc chính thức công bố đầy đủ lý lịch của mình. Nếu có
viết thì ông lại không ký tên thật. Với bút danh Trần Dân Tiên trong Những mẩu chuyện
về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, hình ảnh mà ông tự giới thiệu chỉ là một người cách
mạng rày đây mai đó, không có cuộc sống riêng tư. Nhưng đó cũng chính là ý muốn của
ông. Trong cuốn sách nhỏ này ông có khen ngợi tài của người hoạ sĩ Trung Hoa vẽ rồng
và cho rằng vẽ rồng giỏi là chỉ cho người xem trông thấy đầu còn đuôi thì dùng những
cụm mây che khuất đi. Thủ thuật ấy rõ ràng ông đã sử dụng để tự hoạ. Cái cốt cách thanh
thoát mờ ảo ấy thật ra cũng đã toát ra từ chính con người của ông: với khuôn mặt xương
xương, dáng người gầy, mới 50 tuổi đã để râu dài, ông có vẻ xuất thế hơn rất nhiều so với
một số lãnh tụ cộng sản châu Á khác – như Mao Trạch Đông chẳng hạn.

Hình ảnh xuất hiện chính thức của ông trước công chúng do vậy, ngoài một lĩnh tụ cộng
sản tầm cỡ quốc tế tài ba, còn là một hiền triết phương Đông. Nhưng đối với ông, không
phải chỉ có như vậy. Trong thời chống Pháp, có một dạo, mấy chữ “Cha già dân tộc” đã
được bộ máy tuyên truyền Việt Minh dùng để tôn vinh ông khá ồn ào (như một câu hát:
“thi đua thi đua Cha già nhắn tin về…”). Thật sự thì hình ảnh này đã được chính ông sử
dụng để tự đề cao trong Những mẩu chuyện về đời Hồ Chủ tịch do chính ông viết (“Nhân
dân gọi Chủ tịch là Cha già của dân tộc, vì Hồ Chủ tịch là người con trung thành nhất của
Tổ quốc Việt Nam”). Về sau có lẽ vì thấy hơi quá lố, hình ảnh ấy không còn được nhắc
lại, mấy chữ “Bác Hồ” được thay vào và giữ mãi cho đến khi ông mất.

Trong tiếng Việt, chữ “bác” chỉ vai người anh của cha, dùng để xưng với các cháu thiếu
nhi thì thích hợp. Nhưng sau này, nó lại trở thành phổ biến để mọi người gọi theo. Theo
nhiều người gần gũi ông cho biết thì điều đó cũng do ông chỉ đạo: ai mới gặp ông mà gọi
ông bằng “anh” hoặc “đồng chí” thì bị ông chỉnh lại ngay (tôi nghe nói trong những
ngươi bị ông chỉnh có Trần Văn Giàu và nhà văn Nguyễn Huy Tưởng).

Cung cách ứng xử của ông thường được coi như tấm gương để toàn Đảng, toàn dân học
tập, trong đó tác phong giản dị, cần kiệm, thân dân (lo chuyện tương cà mắm muối cho
dân) thường được đề cao nhiều nhất. Năm 1968, sau khi vào chiến khu, suốt 7 năm ở R,
năm nào đến 19 tháng 5 (người ta cho là sinh nhật của ông), trong các buổi lễ kỷ niệm tôi
đều được nghe không biết bao lần những câu chuyện như vậy.

• Chuyện đôi dép râu: Bác Hồ đi dép râu thì ai cũng biết. Bác đi một đôi dép đến
mòn lẳn. Cậu bảo vệ đề nghị Bác thay nhiều lần nhưng Bác nhất định không chịu.
Cuối cùng nài nỉ mãi không được, cậu đã phải lén lấy đôi dép ấy đi đổi. Khi phát
hiện, Bác không vừa lòng và nhất quyết bắt cậu bảo vệ đi lấy lại đôi dép cũ.

• Chuyện lá dong gói bánh chưng của dân Hà Nội. Mỗi năm khi gần Tết, mặc dầu
“bận trăm công ngàn việc”, Bác vẫn điện thoại hỏi đồng chí Trần Duy Hưng, bấy
giờ là Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội, xem có lo đủ lá dong để gói
bánh chưng cho dân chưa.

Còn nhiều chuyện khác có nội dung tủn mủn, lẩm cẩm và “bao cấp” như vậy. Chưa kể
đến những bài nhạc, bài thơ – nơi không cần phải mô tả những chi tiết – người ta đã tha
hồ dùng sự bay bổng của phạm trù mỹ học gọi là sự cao quý để đưa ông lên chín tầng
mây! Từ một người anh hùng giải phóng dân tộc, ông trở thành một ông tiên trong các
truyện thiếu nhi, một nguồn cảm hứng vô tận để hình thành những bài tụng ca, và hơn
nữa, còn là hình tượng của người đi cứu độ chúng sinh nữa. Sau 1975, tôi thấy người ta
đã dựng bàn thờ của ông ngay giữa bùng binh Sài Gòn, khói hương nghi ngút. Ngày nay
nhiều nơi vẫn còn giữ thói quen này, không phải chỉ với riêng ông (nhiều liệt sĩ cộng sản
đã thành thần trong các miễu, các đền).

Cuộc sống riêng tư

Chuyện tình ái, vợ con của ông là điều được dư luận quan tâm, nhưng sách báo của Đảng
thường né tránh. Cả một đời vì nước vì non thì màng chi đến những hệ luỵ nhân gian ấy!
Nhưng điều này hoàn toàn không đúng ngay cả đối với ông: có lần ông đã cho rằng sai
lầm lớn nhất đời ông là không lấy vợ! Nói chơi thôi nhưng thật sự trong thực tế, đã có
nhiều chuyện kể cho biết ông có rất nhiều nhân tình ở khắp nơi, từ Pháp, Nga, Trung
Quốc…

Kim Hạnh lúc làm Tổng biên tập báo Tuổi trẻ, vì đăng ở trang nhất tin nói về bài thơ của
ông (bí danh Lý Thuỵ khi ông từ Liên Xô sang Trung Quốc khoảng 1925) gửi người vợ
Tàu mà bị cách chức và đuổi khỏi làng báo. Một nhà nghiên cứu Mỹ, khi truy tầm hồ sơ
mật của Đệ Tam Quốc tế lưu trữ tại Moskva sau khi Liên Xô sụp đổ, đã tìm thấy tài liệu
cho biết có một người đàn bà khác trong một Đại hội Quốc tế cộng sản ở Nga đã khai ông
chính là chồng của bà, và người đàn bà ấy chính lại là đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai
của ông chứ không phải là ai khác!

Trong nước chuyện tình của ông nhiều hơn và cũng nhiều tính chất bi thảm hơn. Dư luận
Hà Nội râm ran từ lâu chuyện ông ăn ở với một cô tên Xuân, cô này do mật vụ Trần
Quốc Hoàn đưa về để phục vụ ông nhưng sau cho người giết đi để bịt tung tích, có đứa
con trai được Vũ Kỳ, thư ký riêng của ông cứu thoát, đem về nuôi. Gần đây nhân Đại hội
9 của Đảng (tháng 4 năm 2001), các hãng thông tấn phương Tây đã nói đến khá nhiều
chuyện năm 1941, khi về nước, ông đã quan hệ với một nữ cần vụ người dân tộc và sinh
ra Nông Đức Mạnh, nay mới được bầu Tổng Bí thư Đảng.

Những chuyện tình nói trên, hư thực ra sao chưa được chứng minh thật thuyết phục,
nhưng xét về mặt đạo đức cá nhân thật ra chẳng có gì quan trọng lắm: các lĩnh tụ cộng
sản cũng là những con người, vợ con, này nọ đủ cả, một số lại rất hoang toàng trong cái
khoản mục này! Giả sử Hồ Chí Minh có như vậy đi nữa thì công lao chống thực dân của
ông chẳng hề bị suy suyển. Nhưng do Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ muốn dừng lại
với cái công lao ấy mà còn vượt lên thời gian tồn tại muôn năm, nên hình ảnh của Hồ Chí
Minh phải được tô vẽ sao cho thật lý tưởng, thật phi thường.

Và đó cũng chính là chính sách tạo thần tượng của guồng máy. Người ta có thể vẫn sống
một cuộc sống bình thường, nhưng khi Đảng cần thì cái bình thường sẽ được thay vào
bằng những việc làm, những sự tích thần thánh. Anh là người có tính Đảng cao thì anh
phải biết tuân phục: phải biết cố gắng đóng cho tròn cái vở kịch được tạo ra cho mình.
Chỉ vì lợi ích cách mạng thôi. Càng có nhiều tấm gương phi thường để những người bình
thường noi gương hy sinh thì sự nghiệp của Đảng mới huy hoàng. Chính vì đã dựa trên
cái lý lẽ về chủ nghĩa anh hùng cách mạng đó mà Đảng đã tạo ra khá nhiều những truyền
thuyết trong tất cả mọi lĩnh vực từ bộ đội, tình báo đến nhà báo, nhà sư… Hồ Chí Minh
cũng chỉ là một huyền thoại trong những huyền thoại do Đảng tạo ra, nhưng là huyền
thoại của những huyền thoại cho nên phương pháp tạo dựng cũng phải hết sức đặc biệt.

Không biết có khi nào suy ngẫm lại những cái đã qua, ông cảm thấy những bất ổn trong
những vở kịch do mình tạo ra hay không, nhưng từ bên ngoài, nhiều người đã thấy khá
nhiều những bực bội, buồn phiền gây ra cho ông bởi chính cái đám âm binh cách mạng
của ông. Có nhiều chuyện không vui vẻ lắm, nhưng chuyện ông bị cho ra rìa suốt trong
quãng đời còn lại trước khi ông mất là đáng chú ý nhất. Sau Cải cách ruộng đất năm 1956
ở miền Bắc, do nhập từ Trung Quốc, quá thất đức và sai lầm, ông đưa Võ Nguyên Giáp,
uy tín như cồn sau Điện Biên Phủ, ra thay mặt Đảng xin lỗi nhân dân, sau đó định sẽ lên
thế chỗ Trường Chinh làm Tổng Bí thư. Lúc bấy giờ ở Liên Xô, Krushchev đang thắng
thế với đường lối hoà bình, trong Đảng Việt Nam cũng có xu hướng ấy. Nhưng tình hình
Việt Nam lại không thuận lợi để phát triển. Do cường độ cuộc chiến tranh ở miền Nam đã
lên cao, đường lối quyết liệt dùng bạo lực để giải quyết chiến tranh thắng thế đã đưa cánh
Lê Duẩn/Lê Đức Thọ lên nắm quyền.
Về Võ Nguyên Giáp thì kết quả ai cũng nhìn thấy: bị quy là kẻ cầm đầu chủ nghĩa xét lại
và bị trù dập suốt một thời gian dài, đến khi Lê Duẩn chết mới thôi. Còn về Hồ Chí Minh
thì dường như chẳng có gì, nhưng thật sự cũng đã chịu số phận chung với tướng Giáp.
Bên ngoài thì vẫn đi đây đi đó, chỉ đạo việc này việc kia… nhưng bên trong đã dần dà bị
cô lập, chỉ giữ vai trò của một ngọn cờ tượng trưng, không có ảnh hưởng gì lắm tới
những quyết định lớn. Theo một bài viết của Vũ Kỳ (đăng trên một số báo Văn nghệ
Xuân cách đây vài năm), công lao của Hồ Chí Minh trong cuộc “tổng tấn công và nổi
dậy” 1968, vẻn vẹn chỉ có bài thơ Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua, Thắng lợi tin vui
khắp mọi nhà… Sau khi ghi âm bài thơ này thì ông được đưa đi… nghỉ. Vũ Kỳ thuật rằng
ông Hồ chỉ biết ngày giờ cuộc “Tổng tấn công và nổi dậy” nổ ra qua đài phát thanh nghe
được ở nơi ông được gửi đi nghỉ là Bắc Kinh – cùng với giọng đọc của ông, ra rả suốt
ngày về bài văn vần nói trên. Nhiều người đã nói đến nhiều khuynh hướng đối nghịch
nhau trong Đảng Cộng sản Việt Nam thời chiến tranh; nhưng qua câu chuyện trên, ta thấy
có hai xu hướng chính trong suốt một thời gian dài: Lê Duẩn/Lê Đức Thọ đối đầu với Hồ
Chí Minh/ Võ Nguyên Giáp.

Dù sao chế độ vẫn cần sự thiêng liêng của ông để tạo ra sự thiêng liêng cho chính mình
nên cái chết của ông cũng đã được cánh Lê Duẩn/Lê Đức Thọ khai thác triệt để để “xài”
một cách thoải mái. Ngày chết của ông là 2-9 vì trùng với ngày quốc khánh nên người ta
dời lại 3-9-1969. Trong di chúc cuối cùng, ông muốn được hoả táng và đem tro rải xuống
biển hoặc chôn vào một vùng đất nào đó, người ta lại bỏ không biết bao nhiều tiền bạc ra
ướp xác và xây lăng nghìn đời cho ông.

Những lựa chọn chính trị

Con người của Hồ Chí Minh được thần thánh hoá chỉ nhằm mục đích thần thánh hoá
những lựa chọn chính trị của ông cho Đảng Cộng sản. Những chủ đề sau đây đã trở thành
kinh điển trong các khoá giảng dạy về tư tưởng của chế độ: từ thuở ấu thơ, Hồ Chí Minh
đã ưu tư về tình trạng nô lệ của dân tộc, vì thế đã quyết định bỏ xứ ra đi tìm đường cứu
nước; chu du khắp thế giới để tìm hiểu và so sánh, cuối cùng ông đã nhận ra chủ nghĩa
Mác-Lênin thần kỳ, không những giúp dân tộc giành được độc lập mà còn mở đường đi
vào cõi hạnh phúc muôn đời; Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất
thực hiện được cái tất yếu ấy của lịch sử cho nên quyền lãnh đạo của Đảng đối với dân
tộc sẽ là vĩnh viễn và tuyệt đối.

Qua sự kiểm nghiệm của lịch sử hơn nửa thế kỷ đã qua, người ta thấy những xác tín trên
đây nếu đúng một phần nhỏ thì sự cường điệu và phóng đại lại là quá nhiều.

Thí dụ như việc tìm đường cứu nước. Có lẽ không cần tranh luận về cái giả định khởi đầu
này: Hồ Chí Minh là một trong rất nhiều những thanh niên yêu nước vào lúc bấy giờ.
Nhưng từ đó cho rằng vì yêu nước mà ngay từ đầu đã có ý định phải ra nước ngoài để tìm
giải pháp cứu nước thì điều này không nhất định phải là tất yếu. Một người Pháp nghiên
cứu về Việt Nam là D. Hémery có tìm ra được một tờ đơn của Hồ Chí Minh đề ngày 15-
9-1911 ở Marseille – ký là Paul Tatthanh – gửi chính phủ Pháp xin vào học trường Ecole
coloniale (một loại trường tạo công chức cho các thuộc địa) và đã bị từ chối. Nhà sử học
này cũng tìm ra một số thư của ông – cũng ký là Paul Tatthanh – nhiều lần gửi về nước
nhờ Khâm sứ Trung kỳ hỏi thăm tin tức và chuyển tiền cho cha. Từ những tài liệu này –
Biên niên tiểu sử Hồ Chí Minh (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993) có ghi lại phát
hiện của Hémery – người ta có thể bàn luận nhiều chuyện, nhưng để đừng đi quá xa
chúng ta chỉ cần ghi nhận điều hiển nhiên sau đây: ý định “cứu nước” của Hồ Chí Minh
chưa chắc đã có ngay từ lúc bỏ nước ra đi, ý định ấy có thể đã đến sau những dự tính
khác không thành (thí dụ không được chấp nhận vào học tại Ecole coloniale). Giả thiết
này chẳng hề hạ thấp tình cảm yêu nước của ông, nhưng tất nhiên, như vậy thì sẽ rất khó
để tạo ra cái chủ ý lý tưởng hoá cuộc đời ông từ nhỏ cho đến lớn. Làm sao có thể cho là
“lý tưởng” cái hiện tượng Hồ Chí Minh tự gọi mình là “Paul Tất Thành”, xin đi học làm
công chức cho chính quyền thực dân đồng thời nhờ cả chính quyền thực dân ấy chuyển
tiền từ nước ngoài về cho cha!

Cái lập luận cho rằng sau khi đã bôn ba khắp nơi để nghiên cứu tìm hiểu, từ đó thấy chủ
nghĩa Mác-Lênin tuyệt vời nên Hồ Chí Minh mới chọn – lập luận này cũng tỏ ra rất khó
thuyết phục. Việc ông đi đây đó trên thế giới không đủ để chứng minh được rằng ông đã
thâu đạt được tất cả những tinh hoa của nhân loại như đã được những người xưng tụng
ông giả định. Khác với nhiều lĩnh tụ châu Á khác, chẳng hạn như Tôn Dật Tiên, Gandhi,
ông không hề có ý định đào sâu kiến thức của mình qua các trường đại học. Thời gian
ông trở lại nước Pháp hơi lâu (1917-1923), nhưng công việc của ông ở đây vẫn đi theo
cái chiều hướng nghiêng về phần thực hành, quan hệ tiếp xúc, viết báo, vận động… Các
sách ông đọc ở đây chỉ là những loại phổ thông, không có gì chứng tỏ được chiều sâu cần
thiết về tư duy để nghiêm chỉnh tiếp thu chủ nghĩa Marx. Tôi đã viết ra nhiều lần nhận
xét này, nay không sợ lặp lại để nói thêm một lần nữa.

Những nhà nhà ý thức hệ cộng sản có thể rất tức giận vì nhận xét ấy, nhưng tiếc thay,
điều đó lại được chính Hồ Chí Minh nói ra. Ai đã đọc cuốn sách mang tên Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chí tịch do chính ông viết (dưới bút danh Trần Dân
Tiên) thì sẽ thấy ngay. Xin dẫn một vài đoạn ông kể về Đại hội Tours cuối năm 1920 của
Đảng Xã hội Pháp:

Người ta thảo luận rất sôi nổi (…) Ông Nguyễn lắng nghe nhưng không hiểu rõ lắm, vì
người ta thường nhắc đi nhắc lại những tiếng, những câu: chủ nghĩa tư bản, giai cấp vô
sản, bóc lột, chủ nghĩa xã hội, cách mạng, không tưởng, khoa học, Saint-Simon,
Fourrier, Marx, chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa cải lương, sản xuất, luận đề,… giải
phóng… chủ nghĩa tập thể… chủ nghĩa cộng sản, khách quan, chủ quan v.v…

Không hiểu rõ lắm, nhưng đến lúc biểu quyết, gia nhập Đệ Tam hoặc ở lại Đệ Nhị Quốc
tế thì ông vẫn bỏ phiếu cho Đệ Tam Quốc tế.

Rất ngạc nhiên, Rô-dơ, làm tốc ký của Đại hội hỏi ông Nguyễn:

“Đồng chí! Bây giờ đồng chì hiểu tại sao ở Pa-ri, chúng tôi đã bàn cãi nhiều như thế rồi
chứ?”
“Không, chưa thật hiểu đâu.”

“Thế thì sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Đệ Tam Quốc tế?”

“Rất đơn giản. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều
điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều là Đệ Tam Quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải
phóng thuộc địa. Đệ Tam Quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và
độc lập của họ. Còn Đệ Nhị Quốc tế không hề nhắc đến vận mạng các thuộc địa. Vì vậy
tôi đã bỏ phiếu tán thành Đệ Tam Quốc tế. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc
tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu. Đồng chí đồng ý
với tôi chứ?!”.

Rô-dơ đồng ý, chị cười và nói: “Đồng chí đã tiến bộ”.

Những đoạn trích dẫn trên đây đã cho chúng ta biết mấy điều quan trọng như sau:

• Hồ Chí Minh chưa biết gì về chủ nghĩa Marx với tư cách là một học thuyết triết
học-chính trị. Những khái niệm rất tầm thường trong báo chí có khuynh hướng
thiên tả như đấu tranh giai cấp, bóc lột, sản xuất… ông còn chưa hiểu rõ, nói gì
đến những tư biện về lao động tha hoá, giá trị thặng dư, sứ mệnh giải phóng của
giai cấp vô sản…?

• Đối với chủ nghĩa Lenin ông có biết đến nhưng lại rất hời hợt. Ông chưa đọc gì về
Lenin, ngoại trừ bài “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về các vấn đề dân
tộc và thuộc địa” đăng trên tờ L’humanité tháng 7 năm 1920 trước Đại hội Tours
vài tháng. Có đọc nhưng thật sự ông cũng chẳng hiểu bao nhiêu, ngay cả các khái
niệm căn bản.

• Ông chọn lựa đi theo Lenin hoàn toàn chỉ vì, qua Đệ Tam Quốc tế, Lenin hứa
“giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập”. Đó là một chọn lựa
hoàn toàn cảm tính, vội vàng, phiến diện: chủ nghĩa Lenin là một học thuyết toàn
diện về cách mạng vô sản ở những nước chưa có chủ nghĩa tư bản phát triển,
trong đó vấn đề giải phóng các thuộc địa chỉ là một bộ phận.

Với những thiếu sót trầm trọng như vậy, làm sao có thể gọi được là nghiêm chỉnh thái độ
chọn lựa nói trên của ông?

Tất nhiên không thể không xét đến chuyện về sau, cùng với thời gian hoạt động, ông đã
tiếp cận lý luận cách mạng ngày càng nhiều hơn. Nhưng dù vậy đi nữa thì cũng không vì
thế mà coi sự chọn lựa ấy là tuyệt đối đúng, phải trung thành để chuyển giao cho các thế
hệ mai sau. Có rất nhiều lý do:

• Sau khi Lenin mất, “chủ nghĩa Marx-Lenin” đã dần dà bị Stalin hoá. Cách mạng
vô sản ở những nước tư bản phát triển thoái trào, “chủ nghĩa xã hội” ở Liên Xô
thực chất là chủ nghĩa tư bản nhà nước, chủ nghĩa vô sản quốc tế chỉ là cái bình
phong bảo vệ Liên Xô và sự bành trướng của chủ nghĩa dân tộc Xô Viết.
• Mục tiêu xây dựng một xã hội mác-xít có nền kinh tế phát triển cho một xã hội
công bằng và tự do là hoàn toàn ảo tưởng. Các nước lấy Liên Xô làm mô hình đều
giẫm chân trong lạc hậu nghèo nàn, còn thể chế chính trị thì chỉ là sự nối dài của
chế độ phong kiến, độc tài. Là vũ khí hiệu nghiệm trong lật đổ và cướp chính
quyền nhưng bất lực trong phát triển.

Sự lựa chọn đường đi của Hồ Chí Minh cho Việt Nam vì vậy là chọn lựa bất toàn: nó có
thể giành được độc lập cho dân tộc qua các hình thức đấu tranh bạo lực, nhất là chiến
tranh, nhưng đã thất bại toàn diện trong xây dựng hoà bình. Điều này đã được chứng thực
rất hiển nhiên qua hơn nửa thế kỷ thực hành. Không thể coi đó là “cái cẩm nang thần kỳ”
để đưa nhân dân đến cõi hạnh phúc nghìn năm. Cũng không thể nói bừa rằng ta phải đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa vì “nhân dân ta đã chọn”. Nhân dân ta chẳng biết gì về
chủ nghĩa này chủ nghĩa nọ để chọn. Rất nhiều người chỉ đặt lòng tin vào Bác Hồ, nhưng
sự chọn lựa của Bác Hồ lại chẳng thể gọi được là khuôn vàng thước ngọc.

Nhìn lại mọi việc đã xảy một cách bình tâm, chúng ta thấy sự chọn lựa của Hồ Chí Minh
đã bị quy định bởi cái tạng văn hoá sau đây của ông:

• Hồ Chí Minh là một người rất thực tế. Thúc đẩy bởi vấn đề bức xúc của đất nước
là độc lập, ông nhận thấy sự hứa hẹn của Đệ Tam Quốc tế là rõ rệt và rất triệt để,
khác hẳn với những thế lực khác (Mỹ, Nhật), nên đã chấp nhận. Đối với ông chủ
nghĩa Lenin thực tế lúc bấy giờ đồng nghĩa với giải phóng dân tộc là vấn đề quan
trọng nhất của Việt Nam. Cái tạng thực tế ấy sau này đã biểu hiện trong việc lãnh
đạo của ông đối với mọi công việc: nói năng, hành động, bao giờ cũng cố tránh
những cái cao xa, trừu tượng.

• Ông cũng lại là một người nhiều tình cảm và lý tưởng. Đọc Lenin, thấy gãi đúng
ưu tư của mình, ông đã khóc lên vì vui sướng và tin ngay. Sau này tìm hiểu thêm
thấy chủ nghĩa cộng sản hứa hẹn chấm dứt những khốn khổ của những người lao
động bị áp bức ông càng tin hơn. Khát vọng độc lập cho dân tộc của ông cũng gắn
liền với mong mỏi đấu tranh cho một xã hội công bằng, nhân đạo. Cũng chính vì
vậy mà óc thực tế của ông không trở thành óc thực dụng tầm thường. Ông chọn
Lenin vì con đường giải phóng đất nước mà còn vì nhu cầu có một người thầy,
người cha tinh thần theo kiểu phương Đông để thờ phụng, tôn kính.

Tất cả những những thuộc tính trên đây đều đã biểu hiện trong sự chọn lựa nói trên với
những ưu và những nhược điểm của nó. Những người thần phục ông chỉ nói đến những
cái ưu nhưng không hề dám nói đến những cái nhược quan trọng của ông sau đây: 1) quá
vội vàng, không suy xét cẩn thận, cái trí không theo kịp cái tâm 2) trung thành mù quáng
với sự chọn lựa ban đầu, không học được tinh thần phản tỉnh để can đảm nhìn lại toàn
diện con đường đã đi.

Những cái ưu của ông đã bộc lộ trong thời hoạt động bí mật, khi còn phải sống trong dân
và phải nhờ dân che chở. Tính chất trong sạch lý tưởng, biết hy sinh vì nghĩa lớn của
những người cộng sản theo con đường của ông hoàn toàn không phải chỉ là chuyện tuyên
truyền. Cũng nhờ thái độ ấy mà Đảng đã được đa số nông dân ủng hộ, góp sinh mạng và
tài sản cho cuộc tranh đấu chung. Việc chiến thắng nhiều đế quốc hùng mạnh đã từng đến
thống trị Việt Nam không đơn thuần chỉ là vấn đề thủ đoạn, chiến thuật. Trên nhiều mặt,
Đảng Cộng sản hơn hẳn những lực lượng chính trị yêu nước khác. Trong thời kỳ bị lệ
thuộc, người dân có nhìn vào ông như kẻ “cứu độ” thì cũng không có gì đáng ngạc nhiên.

Những nhược điểm của sự chọn lựa của ông đã bộc lộ thật rõ rệt trong thời xây dựng hoà
bình. Đấu tố, cải cách: phá hoại đến tận nền tảng đạo lý dân tộc. Hợp tác hoá: phản bội
nông dân về ruộng đất. Chỉnh huấn: bơm máu đen vào cơ thể Đảng. Trấn áp, chà đạp trí
thức văn nghệ sĩ: phản bội lời hứa về tự do văn hoá. Khoác lác về cái gọi là “dân chủ gấp
triệu lần”, nhưng lại đè đầu cưỡi cổ nhân dân một cách rất tự nhiên như những cường
hào. Làm mất hoàn toàn động lực về phát triển kinh tế qua chủ trương nhà nước hoá toàn
bộ hoạt động sản xuất. Nói chung: giam hãm dân tộc trong cái ao tù chuyên quyền độc
đoán, lạc hậu nghèo nàn.

Những sai lầm trên đây không phải là những “tồn tại” hoặc những “khuyết điểm” như
Đảng đã giải thích. Chúng nằm ngay trong sự chọn lựa của Hồ Chí Minh – hợp nhất quá
vội vàng giữa hai vấn đề hoàn toàn khác nhau về bản chất: giải phóng dân tộc và cách
mạng xã hội. Chân dép lốp mà đi vào vũ trụ. Một bên là dép lốp, một bên là vũ trụ; với
dép lốp thì không thể đi vào vũ trụ được, nhưng ta cứ “thừa thắng xốc tới”, vì vậy mà bao
nhiêu điều tàn tệ đã xảy ra. Cái ý thức hệ mácxít-lêninít mà Hồ Chí Minh ghép vào chủ
nghĩa dân tộc của ông (“từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa xã hội”) đã bộc lộ hết thực
chất không tưởng và bất lực của nó. Trung thành mù quáng, căn cứ vào đó buộc thực tế
phải uốn theo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã biến sự chọn lựa của Hồ Chí Minh thành vật
cản đường cho sự phát triển tự nhiên của đất nước.

Tư tưởng Hồ Chí Minh

Sự thất bại của mô hình lêninít về phát triển cho những nước nghèo nàn, lạc hậu là quá rõ
ràng. Do sự thúc ép của hàng loạt những nhân tố trong và ngoài nước, nhất là sự sụp đổ
của Liên Xô và Đông Âu, Đảng Cộng sản Việt Nam phải chấp nhận điều chỉnh đường đi,
chuyển nền kinh tế “bao cấp, mệnh lệnh” hẳn sang kinh tế thị trường, mở cửa làm ăn với
thế giới tư bản. Khái niệm “tư tưởng Hồ Chí Minh” đã ra đời trong tình hình đó như một
thích ứng.

Nhưng xét kỹ thì đây không phải là sáng kiến hay ho gì lắm. Hồi Hồ Chí Minh còn sống,
ông đã trả lời nhiều người rằng ông không có tư tưởng gì cả. Nếu có một người xứng
đáng ở Á châu này thì đó chính là Mao Trạch Đông (chính vì vậy mà Điều lệ Đảng Đại
hội II đã ghi: chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao trạch Đông, phong cách Hồ Chí
Minh). Đối với ông, khi chọn chủ nghĩa Lenin rồi, đó đã là tất cả, là cái “cẩm nang thần
kỳ” có thể giải quyết được mọi chuyện trên đời, chẳng cần phải nhọc công tìm kiếm làm
gì nữa. Nói do ông khiêm tốn có lẽ chỉ một phần, chính yếu là do có óc thực tế, ông biết
rằng mình không thể nào nắm tóc mình để tự đưa lên cao được. Gán cho ông điều ông
không có và không muốn có, những đệ tử của ông chỉ làm cái công việc lợi dụng như họ
đã từng bất chấp di chúc của ông khi cho ướp xác và xây lăng cho ông.
Sự lợi dụng đó cũng không phải là đắc sách lắm. Nó chẳng có tác dụng làm cho chủ
nghĩa Marx-Lenin được phát triển hay bổ sung thêm. Đó chỉ là một bước lùi ý thức hệ đi
cùng với bước lùi về kinh tế, hoàn toàn chỉ có ý nghĩa thực dụng: phải tìm cách làm dịu
đi những giáo điều đã bị thời gian chứng minh là không tưởng, bất lực, sắt máu mà ai
cũng biết như công hữu về tư liệu sản xuất, chủ nghĩa tập thể, đấu tranh giai cấp, chuyên
chính vô sản, quốc tế vô sản v.v… Và trong khi né tránh bớt những khái niệm đã mất giá
ấy thì một số thuộc tính khác đã được nhấn mạnh hơn, ồn ào hơn: nào là yêu nước, truyền
thống, độc lập, tự chủ, nào là nhân ái, thân dân, hoà hợp… toàn là những sản phẩm
phương Đông và nội địa mềm mại, dịu dàng không có gì là ngoại lai, khắc nghiệt cả. Cái
thủ đoạn thao tác lý sự ở đây cũng quá rõ ràng: trong hai thành phần được Hồ Chí Minh
kết hợp lại trong sự chọn lựa của mình – chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quốc tế vô sản –
thì thành phần thứ nhất đã được đưa lên hàng chính diện để làm lu mờ bớt thành phần thứ
hai đi.

Những người có ý hướng cải cách trong Đảng đã nhận ra thủ đoạn này. Họ đã chỉ ra được
cái mưu tính thực sự của những nhà ý thức hệ chính thống: miệng nói Hồ Chí Minh
nhưng hành động vẫn không khác gì Stalin và Mao Trạch Đông, chuyên chế, khắc nghiệt,
giả dối, xảo quyệt. Sự chỉ trích không phải là vô căn cứ: Đảng chỉ dùng Hồ Chí Minh như
cái bung xung chứ chẳng có thật lòng gì cả. Theo những người cải cách thì thật lòng là
phải thay đổi triệt để phương thức lãnh đạo của Đảng: phải từ bỏ đường lối nửa vời, khập
khiễng, từ bỏ hẳn chuyên chính vô sản và thực hiện dân chủ cho tương xứng với chính
sách mở cửa và kinh tế thị trường. Chỉ với đường lối cải cách triệt để ấy, Đảng mới tạo ra
những điều kiện tích cực để khắc phục những ruỗng nát nội tại, thúc đẩy đất nước phát
triển nhanh chóng. Cũng theo những người cải cách thì sự thay đổi ấy không nằm ở đâu
khác ngoài tư tưởng Hồ Chí Minh đích thực. Trong hình dung của họ, thực chất của Hồ
Chí Minh là phi-Stalin và phi-Mao – một Hồ Chí Minh nhân đạo dân chủ!

Dù cho có ủng hộ cải cách, chúng ta thật khó lòng mà tìm được sự khách quan trong cách
lập luận trên đây: nếu Hồ Chí Minh đối với những nhà ý thức hệ chính thống chỉ là một
hình ảnh giả thì đối với những người cải cách, Hồ Chí Minh cũng không thật là bao
nhiêu. Sự khác nhau giữa hai quan điểm chỉ là sự khác nhau về cách khai thác hai khía
cạnh trong sự chọn lựa của Hồ Chí Minh: một bên nghiêng về phần quốc tế và vô sản,
một bên lại nghiêng về phần quốc nội và dân tộc; một bên nghiêng về phần “chuyên
chính vô sản” thì bên kia lại muốn loại bỏ nó. Cả hai đều làm biến dạng đi một Hồ Chí
Minh đích thực: một người Việt Nam yêu nước, nhưng cũng là một người Việt Nam yêu
nước theo phương thức của Lenin, một người đã đem lại cho đất nước sự tự chủ và thống
nhất nhưng cũng lại là một người đã cho du nhập vào đất nước một học thuyết ngoại lai
mà tác hại của nó còn kéo dài cho đến ngày nay chưa gỡ bỏ được.

Có thể cho rằng lập luận của những người cải cách chỉ là một cách trình bày mang tính
chất kỹ thuật tranh đấu trong hoàn cảnh không có tự do tư tưởng, và nếu như vậy thì có lẽ
sẽ không cần bàn luận thêm. Nhưng nếu trong chúng ta có ai thành thật tin rằng với chủ
trương ấy, đất nước sẽ bước vào được một chế độ dân chủ hiểu theo nghĩa hiện đại thì
chắc chắn sẽ có không ít người lên tiếng bày tỏ sự nghi ngờ: giả sử như có gạt đi hết tất
cả những phần ngoại lai, ảo tưởng của Hồ Chí Minh về con đường tiến lên “chủ nghĩa xã
hội” theo kiểu Lenin, thì Hồ Chí Minh vẫn không thể là ngọn cờ dân chủ được.
Ý kiến này thật đáng suy nghĩ. Mặc dù Hồ Chí Minh có nói nhiều đến dân chủ, nhưng
quan niệm của ông vẫn rất xa lạ với cái nội dung mà thời hiện đại đã sản sinh ra nó, đặc
biệt là cái tính chất giao ước trần tục của sự phân chia và kiểm soát quyền lực, căn cứ vào
đó tổ chức và quản lý đời sống công cộng. Ông không biết gì đến tính chất độc lập của xã
hội công dân đối với nhà nước, và ông cũng không hiểu tính chất quyết định làm nên nhà
nước hiện đại là nhà nước phi thiên mệnh, nhà nước sinh ra từ pháp luật và tồn tại bằng
pháp luật. Quan niệm của ông về mối tương quan giữa nhà nước và nhân dân vẫn là quan
niệm của Nho giáo lý tưởng; cái loại nhân dân mà ông yêu mến vẫn chỉ là loại “xích tử”
cần phải được dạy dỗ về luật trời và phép nước đồng thời lại phải biết lo cho họ về những
chuyện “tương cà mắm muối” để sống trong yên ổn; còn nhà nước theo quan niệm của
ông vẫn chỉ là thứ nhà nước của những người hiền, những bậc minh quân kiểu vua
Nghiêu vua Thuấn đời xưa. Những gì ông nói về “pháp chế xã hội chủ nghĩa” hoặc “cán
bộ là đầy tớ của nhân dân” cũng đều dựa trên cơ sở ấy. Chúng chỉ là những ý định tốt của
những đấng, những bậc bề trên.

Sở dĩ ông chọn chủ nghĩa Lenin một cách vội vã và vô điều kiện như ta đã biết có lẽ là do
ông đã trực giác được tính chất “bên trên” của cách mạng vô sản lêninít trong việc làm lại
nước Nga với những tàn dư nặng nề của thời trung cổ. Là người dân chủ, hiểu rõ học
thuyết Marx, nhưng tình thế đã buộc Lenin làm ngược lại tất cả nhưng gì mà Marx đã
hình dung ra cho xã hội tương lai: thay vì để cho giai cấp vô sản tự mình trở thành nhà
nước như trong Công xã Paris 1871 thì nhà nước Xô Viết lại phải đảm đương công việc
giáo dục và tổ chức lại cái giai cấp vô sản đã tan tác và mất hết tính chất tiền phong sau
cách mạng và nội chiến. Dự định khởi đầu là một lĩnh tụ dân chủ vô sản vượt xa nền dân
chủ tư sản “hàng triệu lần”, cuối cùng, Lenin thừa nhận đã phải theo gương của một ông
vua của thế kỷ 18 – Pierre Đại đế – công khai dùng độc tài để chống lại dã man, lạc hậu.

Cảm nhận của Lenin về sự không ăn khớp giữa chủ nghĩa Marx hậu hiện đại và nước
Nga tiền hiện đại, Hồ Chí Minh hoàn toàn không hề biết đến, ông chỉ thấy trong những
hành động độc tài của Lenin trách nhiệm tự nhiên của những minh quân thời trước, nay
được hiện đại hoá qua khái niệm chuyên chính vô sản của Đảng Cộng sản: đó là một nền
chuyên chế nhân đức và cách mạng, một nền chuyên chính vì nhân dân chứ không phải là
cái gì khác. Cái lô-gích của vấn đề ở đây vẫn là cái lòng tốt từ trên ban xuống. Muốn
được giải phóng, muốn có quyền lực, nhân dân phải hết lòng đi theo Đảng. Đại biểu cho
quyền lợi lâu dài của nhân dân, Đảng được phép làm tất cả để tạo dựng nên cuộc đời mới
cho họ. Sự chuyên chính của Đảng là sự chuyên chính của đám đông, của chính nghĩa,
của khoa học, của chân lý, của cách mạng. Vì vậy phải tập trung quyền lực vào Đảng một
cách tuyệt đối và vĩnh viễn, không chia với bất ai, không nhân nhượng với ai một mẩu
xác tín nào về chân lý, ai có ý đi ngược lại thì chỉ là những lý lẽ của bọn thù địch với
nhân dân cần phải thẳng tay trừng trị.

Với một quan niệm về quyền lực sắt thép như vậy, Lenin đã dọn đường cho Stalin vắt cạn
sức lực của người dân để nhanh chóng đưa nước Nga vào con đường công nghiệp hoá,
còn Hồ Chí Minh cùng với Đảng Cộng sản đã tích tụ được những hy sinh vô hạn của
nhân dân để đánh bại nhiều thế lực xâm lược hung hãn, giành lại độc lập thống nhất cho
Việt Nam. Nhưng còn về dân chủ, cùng với bao nhiêu thứ khác nữa mà các Đảng Cộng
sản đã hứa sẽ đem lại cho nhân dân trước đây như bình đẳng, tự do, hạnh phúc v.v… tất
cả đều vẫn chỉ là những lời hứa, và tệ hơn nữa, về sau này đã biến thành những lời dối trá
đơn thuần. “Chuyên chính vô sản”, “chuyên chính nhân dân” bây giờ đã trở thành chuyên
chính với giai cấp vô sản, chuyên chính với nhân dân. Hiện tượng suy thoái này, vào cuối
đời mình Lenin đã mơ hồ nhận ra như một bi kịch, nhưng ở Hồ Chí Minh, mọi việc
dường như đã êm xuôi như ván đã đóng thuyền, cứ thế lướt sóng mà đi, từ bây giờ cho
đến cả muôn đời con cháu mai sau!

Bài học của người anh hùng

Gần một thế kỷ đã qua, cùng với những biến chuyển lớn lao trên thế giới và đất nước,
hình ảnh Hồ Chí Minh đối với dân tộc Việt Nam đã không còn như xưa nữa. Tính chất lý
tưởng, cao vời mà Đảng Cộng sản đã cố sức tô vẽ cho một Hồ Chí Minh thần thánh đã
không chống đỡ nổi cho những sự việc tầm thường, sai lầm của một Hồ Chí Minh thực
tế: càng cố thần thánh hoá ông bao nhiêu lại càng gây ra tác dụng ngược lại bấy nhiêu.
Thoả đáng nhất là nhìn ông với những gì ông có, một cách hiện thực.

Mặc dù tên tuổi của Hồ Chí Minh gắn liền với những gì làm nên cái gọi là “Cộng hoà Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam” ngày nay, thiết nghĩ không nên đồng hoá tên ông với toàn bộ
chế độ. Thế giới đã có những kinh nghiệm tương tự. K. Marx không phải là không có liên
quan đến cái thực thể gọi là “chủ nghĩa xã hội” ở Liên Xô, nhưng đổ mọi sai lầm của
Liên Xô lên đầu K. Marx là hoàn toàn không đúng. Mối quan hệ giữa Lenin và Stalin
cũng có những điểm cần phân tích theo chiều hướng đó. Trường hợp Hồ Chí Minh đối
với chế độ chính trị hiện tại ở Việt Nam có đặc biệt hơn nhưng cũng cần biết rằng hình
ảnh của ông đã bị chế độ tô vẽ bằng mọi cách để huyễn hoặc quần chúng.

Cũng đừng quên rằng những gì làm nên đặc trưng của Hồ Chí Minh là vai trò của ông
trong thời kỳ chống ngoại xâm, một giai đoạn lịch sử rất đặc biệt của thế kỷ 20, giai đoạn
mà việc đấu tranh giành độc lập không thể tách rời việc chọn lựa một ý thức hệ. Cần chú
ý ghi nhận đặc biệt này: trong khi vấn đề độc lập là quá rõ ràng về ý nghĩa thì vấn đề ý
thức hệ trong thời hiện đại lại chứa đầy cạm bẫy và phức tạp. Những cái hay cái dở
không phải lúc nào cũng hiển hiện ngay từ đầu. Những gì tạm thời chưa được chấp nhận
chưa hẳn đã sai, những gì mang đến thắng lợi chưa hẳn đã là đúng. Hơn nữa, sự sai/ đúng
cũng không phải lúc nào cũng như nhau: đúng lúc này có thể sai lúc khác; xem tất cả sự
sai/ đúng một cách trừu tượng, bất dịch rồi căn cứ vào đó để tâng bốc quá trớn hoặc kết
án nghiệt ngã – một lần là xong – là quá đơn giản. Thái độ ấy không thích hợp cho những
tiếp cận khách quan về lịch sử.

Nhìn tổng thể về thế kỷ 20, tôi cho rằng Hồ Chí Minh là một anh hùng lớn của Việt Nam
trong thời kỳ chống các thế lực thực dân. Những gì mà thế giới biết đến Việt Nam một
cách tích cực cho đến nay vẫn là sự kiện Hồ Chí Minh đánh bại các thế lực xâm lược hiện
đại, giành được độc lập cho dân tộc. Thiết tưởng dù chính kiến có khác nhau như thế nào
đi nữa người ta cũng không thể phủ nhận được tính chất hiển nhiên của các sự kiện ấy.
Có thể với nhiều người, ở những nơi nào đó, việc đánh nhau giành độc lập ấy thật sự
chẳng có gì quan trọng lắm đối với cuộc sống, nhưng đối với đông đảo những người Việt
Nam, từ xưa cho đến nay, điều đó lại là một trong nhiều lý do để sống, không thể coi như
không có.

Thời trai trẻ, tôi quý trọng Hồ Chí Minh là do ông đã tô đậm cái tình cảm tự nhiên đó
trong tôi để tôi biết trách nhiệm với đất nước. Nhưng cũng chính vì tình cảm và trách
nhiệm ấy mà khi tóc đã bạc rồi, tôi không còn có thể mù quáng tin vào ông nữa. Hồ Chí
Minh chỉ là một nhân vật của lịch sử, còn đất nước là chuyện của muôn đời: không thể
cột chặt vận mệnh đất nước vào sự chọn lựa bất toàn của một con người, dù đó là một
anh hùng. Tốt nhất vẫn là ghi nhận tất cả những chuyện đúng sai của ông một cách bình
thản, hy vọng chỉ có như thế mới rút ra được những bài học hữu ích cho những thế hệ đi
sau.

Đối với tôi, sự chọn lựa ý thức hệ cho đất nước của Hồ Chí Minh là bài học đáng suy
ngẫm hơn cả. Tất cả đều là những ý định “làm điều tốt” nhưng tất cả đều thiếu cái chiều
sâu của sự phản tỉnh triết học. Là sự chọn lựa vội vàng từ đầu và cũng là sự trung thành
mù quáng về sau. Lầm lũi đi theo ông, giắt theo mình cái gói hành trang của những ý
định ấy, không biết thường xuyên quay đầu nghiêm khắc nhìn lại, không có gì bảo đảm
để chúng ta không vấp lại những sai lầm của ông – đẩy cái đám đông nhân dân mà mình
muốn đưa lên thiên đàng xuống chín tầng địa ngục! Nhất là những ý định tự cho là duy
nhất đúng đắn, cần được bảo vệ quyết liệt bằng một định chế quyền lực cũng tự cho là
duy nhất đúng đắn.

Tôi nghĩ rằng bài học ấy không chỉ đáng suy ngẫm cho những người xưng tụng ông mà
còn cho cả những người chống ông nữa.

Thư Nhà tháng 5-2001

© 2007 talawas

Phụ lục 2
Nói chuyện với Lữ Phương về vấn đề Hồ Chí Minh

Đoàn Công Trãi: Sau “Huyền thoại Hồ Chí Minh” và Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ
Chí Minh, anh có dự định viết thêm gì về “vị anh hùng” của mình?

Lữ Phương: Nếu có làm gì thêm thì chỉ nhuận sắc lại những gì đã viết hoặc bổ sung một
số tư liệu chưa kịp sử dụng.

Đoàn Công Trãi: Nghe nói vì cuốn Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh, anh có gặp
rắc rối...

Lữ Phương: Cuối năm kia, nhân đại tá Phạm Quế Dương vào Sài Gòn đến thăm, tôi có
biếu ông bản photo cuốn sách mỏng nói trên, cách đó mấy bữa thì được điện thoại của
ông Nguyễn Gia Kiểng bên Pháp báo tin cho biết Phạm Quế Dương đã bị bắt, sau đó vài
ngày thì điện thoại của tôi bị cắt. Tôi không hiểu tại sao. Ông Phạm Quế Dương, tôi mới
gặp lần đầu, chỉ để uống bia. Với ông Nguyễn Gia Kiểng thì tôi không tự ý liên lạc, việc
trả lời ông cũng không phải là cuộc bàn luận về một cương lĩnh chính trị nào. Còn nếu vì
cuốn sách viết về Hồ Chí Minh mà tôi bị cắt điện thoại thì thật... buồn cười!

Đoàn Công Trãi: Nhưng nghe nói mấy ông Văn hoá Tư tưởng trên cấp cao của Đảng đã
phản ứng rất dữ dội với cuốn sách của anh.

Lữ Phương: Tôi cũng nghe vậy. Nhưng khác với những lần trước, lần này tên tôi và
những gì tôi viết không được nêu ra hoặc photo ra để tổ chức phê phán, đả kích. Có gì
nặng nề cũng chỉ là những ám chỉ thôi. Vì vậy tôi thấy cũng chẳng có gì quan trọng lắm.
Mấy ông ấy đã biết quá rõ về tôi trong hơn mười năm qua, với những tiểu luận tôi viết về
Marx, Lenin. Riêng về Hồ Chí Minh, đây không phải lần đầu tôi nói đến công khai bằng
chữ viết.

Đoàn Công Trãi: Nhưng lần này tập trung, có hệ thống và do đó nguy hiểm hơn, nhất là
khi Đảng đang muốn biến Hồ Chí Minh thành ngọn cờ duy nhất đưa đường cho Việt
Nam đi về tương lai. Những gì anh viết ra là bất lợi cho tính toán ấy.

Lữ Phương: Tôi không hề phủ định một cách toàn diện.Tôi vẫn kính trọng Hồ Chí Minh
và coi ông là một anh hùng dân tộc của thời hiện đại. Những gì tôi phê phán chỉ là cái di
sản tinh thần mà Hồ Chí Minh mang về cho Việt Nam trong quá trình đi tìm đường giải
phóng dân tộc: đó là những cái được gọi là “chủ nghĩa xã hội”, “chủ nghĩa Marx-Lenin”,
những thứ lý luận này đang cản trở sự phát triển của đất nước ...

Đoàn Công Trãi: Đó vẫn là thứ lý luận không được đụng tới vì nó biện minh cho tính
chính đáng của chế độ.

Lữ Phương: Hiển nhiên là như vậy, nhưng theo chỗ tôi biết thì thứ lý luận đó đó đã phá
sản từ lâu trong đời sống tinh thần của giới trí thức Việt Nam. Ở các trường, bắt nói thì
cứ phải nói, bắt dạy thì cứ phải dạy, nhưng chẳng còn ai tin nữa. Giới lý luận cao cấp của
Đảng vẫn giữ được khí khái của những năm 1986: không ít người vẫn tiếp tục đề nghị xét
duyệt lại học thuyết Marx-Lenin từ những nguyên lý. Đọc bài nói của Đặng Quốc Bảo tại
Hà Nội tháng 7 năm ngoái, chúng ta thấy ngay điều đó.

Đoàn Công Trãi: Tôi có đọc bài đó của ông Bảo, nhưng không thấy ông nói đến Hồ Chí
Minh, và nếu có nói tới tôi chắc cũng không dám nói như anh, rằng Hồ Chí Minh là một
người theo chủ nghĩa Stalin và Mao Trạch Đông.

Lữ Phương: Tất nhiên ông ấy không thể rồi, là người cải cách từ bên trong ông nói được
những điều cần nói như vậy là quá hay. Nhưng là một người thông minh và nhạy cảm,
ông ấy không thể không đẩy đến tận cùng những tiền đề lý luận do mình đặt ra để trả lời
cho được câu hỏi rốt ráo này: thực chất của cái gọi là “chủ nghĩa xã hội” ở Việt Nam là
gì. Tôi là người từng đi theo hướng suy nghĩ của ông Bảo, nay nếu có khác thì chỉ ở chỗ
đã dịch sang một chỗ đứng ít bị ràng buộc hơn, nhờ đó có thể bày tỏ được một cách nhất
quán, triệt để câu trả lời ấy. Và câu trả lời ấy như anh đã biết là: cái gọi là “chủ nghĩa xã
hội” ở Việt Nam chỉ là sự mạo danh và mượn danh học thuyết của Marx, đó là chủ nghĩa
Lenin suy thoái thành chủ nghĩa Stalin cộng với chủ nghĩa Mao. Và người mang thứ “chủ
nghĩa xã hội” ấy về cho Việt Nam không ai khác là Hồ Chí Minh – qua con đường dựa
vào Đệ Tam Quốc tế, chống lại thực dân Pháp, giành quyền lực cho Đảng Cộng sản.

Đoàn Công Trãi: Xét một cách triệt để thì như vậy, nhưng trong thực tế hiện nay, chẳng
lẽ anh cho rằng hình ảnh Hồ Chí Minh không còn vai trò gì tích cực trong đời sống xã
hội sao?

Lữ Phương: Vừa rồi tôi gặp một ông bạn 84 tuổi, ông đã giảng cho tôi nghe về tư tưởng
của Hồ Chí Minh. Tôi hỏi đó là gì thì ông nói đó là dân tộc, dân chủ, là cải cách ôn hoà,
mềm mỏng uyển chuyển chứ không chuyên chế, giáo điều, quá khích như đám cực tả
trong Đảng (ông nêu tên những người đại biểu cho cánh này trước đây là Trần Phú, Hà
Huy Tập và sau này là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ). Nhìn cách ông diễn giảng tôi thấy cái ý
của ông là muốn dựa vào Hồ Chí Minh để đòi hỏi cải cách Đảng theo chiều hướng dân
chủ. Những người như ông hiện giờ vẫn còn khá đông, đặc biệt trong hàng ngũ những
nhà cách mạng lão thành, chính các vị ấy đã tạo ra những kiến nghị, những phê phán làm
bối rối không ngớt những nguời lãnh đạo bảo thủ trong suốt bao nhiêu năm qua. Tôi rất
quý mến các vị ấy nhưng tôi cho rằng thái độ đấu tranh tích cực của họ vẫn bị giới hạn
trong những sự vụ chính trị cục bộ, chiến thuật, không có khả năng mở ra được những
chiến lược văn hoá, tư tưởng có viễn cảnh căn bản và lâu dài cho tương lai: hiện thực
Việt Nam chưa được nhận diện một cách hiện thực qua vai trò của Hồ Chí Minh đối với
đất nước.

Đoàn Công Trãi: Không theo dõi được sít sao diễn biến của sự việc, nhưng tôi nhận
thấy ở Việt Nam hiện nay, vấn đề này khá tế nhị, khá phức tạp, không thể đem lý luận ra
giải quyết chóng vánh được.

Lữ Phương: Cách đây mười năm, tôi đã đề cập đến Hồ Chí Minh, chưa triệt để như hiện
nay, vậy mà tôi đã gặp sự e dè của nhiều người, kể cả những người rất thân. Có lẽ khi ấy
người ta chưa quen với những ý tưởng táo bạo, nhất là khi ta đụng đến những nhân vật đã
bị thần thánh hoá. Bây giờ đề cập đến Hồ Chí Minh triệt để, mạnh mẽ hơn, nhưng mọi
việc đã khác xưa rất nhiều: trong nước người đọc tôi nhiều hơn, nhưng trong những
người tôi biết, thân lẫn sơ, chưa thấy ai phản bác quyết liệt. Theo chỗ tôi hiểu thì do xã
hội phát triển mà cũng một phần do sự phát hiện những tư liệu mới về Hồ Chí Minh. Đối
với một nhân vật lịch sử mà lý lịch đã cố tình bị che giấu và xuyên tạc để biến thành
huyền thoại thì cách tốt nhất để đưa huyền thoại ấy trở về lịch sử là tìm tài liệu lịch sử
hiện thực để chứng minh. Các cuộc tranh cãi về nhân vật này từ nay trở đi sẽ tuỳ thuộc
rất nhiều vào những phát hiện các tài liệu lịch sử hiện thực ấy.

Đoàn Công Trãi: Như vậy nếu dựa trên những tư liệu mới đã phát hiện rồi, ai cũng có
thể tiếp cận được, tại sao trong giới nghiên cứu phê bình, các quan điểm khác nhau vẫn
xuất hiện và va chạm nẩy lửa? Tôi nghĩ còn có vấn đề quan điểm, vấn đề cách thức sử
dụng tài liệu nữa.

Lữ Phương: Điều này thì không có gì phải tranh cãi. Nhưng xét về bản thân công việc
nghiên cứu, tôi thấy dù quan điểm có khác nhau như thế nào đi nữa người ta cũng không
thể nói ngược lại ý nghĩa các sự kiện hiển nhiên. Thí dụ trước bức thư Nguyễn Ái Quốc
gửi cho Manuilsky trong Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, đề ngày 6-6-1938 than phiền
về tình trạng 8 năm “đau buồn” vì đã bị gạt ra ngoài đời sống chính trị của Đảng, làm sao
người ta còn có thể cứ giữ mãi sự tán tụng cho rằng trong những năm đó Nguyễn Ái
Quốc đã “ở ngoài chỉ đạo về nước”, như một tài liệu của Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng
đã viết? Có hàng loạt những sự kiện khác tương tự đã được dẫn ra trong cuốn Từ Nguyễn
Tất Thành đến Hồ Chí Minh: việc ra đi tìm đường cứu nước, chuyện tình ái, hôn nhân
của Hồ Chí Minh, vấn đề hợp nhất các “đảng cộng sản” năm 1930 v.v... Hầu hết những
công trình nghiên cứu nghiêm chỉnh về Hồ Chí Minh – thí dụ như luận án của Sophie
Quinn-Judge (2002) hoặc Ho Chi Minh, a Life (2000) của William J. Duiker – dù khác
nhau về cách nhìn, vẫn phải dựa vào những tư liệu đã phát hiện để lập luận, chứ không hề
nói suông.

Đoàn Công Trãi: Trong cuốn Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh, anh dựa nhiều
vào Sophie Quinn-Judge, nhưng tại sao không thấy dẫn Duiker?

Lữ Phương: Lý do tôi không khai thác Duiker là vì có nhiều tư liệu tác giả này sử dụng
để viết về những hoạt động của Hồ Chí Minh từ giai đoạn 1911 đến 1941 (là đề tài chính
yếu trong sách của tôi) lại dựa trên những nguồn chính thống do Đảng Cộng sản Vịêt
Nam cung cấp mà không được phê phán (thí dụ đã tin hẳn vào những gì Hồ Chí Minh đã
viết về mình trong Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch), cũng không
được kiểm chứng, bổ sung bằng những nguồn mới phát hiện (quan trọng nhất là những tư
liệu trong Hồ sơ Quốc tế Cộng sản được mở ra cho sử dụng công khai sau khi Liên Xô
sụp đổ, những tư liệu này được Sophie Quinn-Judge khai thác khá đầy đủ hơn). Nhưng
tôi nghĩ, dù có nhiều thiếu sót về mặt đánh giá tư liệu, công trình của Duiker vẫn nằm
chung trong ý hướng của những học giả muốn phục hồi lại hình ảnh hiện thực của Hồ Chí
Minh đối với lịch sử, hình ảnh ấy đã bị làm cho sai lạc, hoặc bị bôi nhọ hoặc bị thần
thánh hoá bởi nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, suốt thế kỷ 20 đã qua.

Đoàn Công Trãi: Tôi nghe nói, đối với vần đề Hồ Chí Minh do anh xởi lên, tuy các cơ
quan văn hoá và tư tưởng của Đảng không chính thức lên tiếng, nhưng vẫn có những
người dựa vào quan điểm của Đảng để phê phán anh. Hồ Hiếu cho biết giữa Nguyễn
Trọng Văn và anh đã xảy ra một cụôc bút chiến về Hồ Chí Minh. Có không?

Lữ Phương: Đâu có gì gọi là “bút chiến”. Chỉ là vài ba cái Email trao đổi giữa Nguyễn
Trọng Văn và tôi về bài “Huyền thoại Hồ Chí Minh” xảy ra cách đây đã mấy năm.

Đoàn Công Trãi: Nhưng tôi nghe nhiều người cho biết đã đọc được photo của những
Email ấy, do chính Nguyễn Trọng Văn gom lại thành một tập và gửi đến bạn bè. Chẳng
lẽ anh không nhận được sao?

Lữ Phương: Tôi không nhận được và cũng không biết đã có những bản photo đó.

Đoàn Công Trãi: Dù sao cũng đã có nhiều người biết việc đó rồi, không công khai
nhưng cũng có thể gọi là bán công khai. Các anh tranh cãi nhau như thế nào?

Lữ Phương: Quan điểm của Nguyễn Trọng Văn là: Hồ Chí Minh đã trở thành huyền
thoại, không nên xoá bỏ huyền thoại ấy mà nên khai thác để phục vụ cho như cầu hội
nhập và phát triền của đất nước hiện nay. Anh ấy cho rằng vì tôi muốn “giải hoặc” Hồ
Chí Minh nên đưa ra nhận định đó để phản bác, nhưng rất tiếc không đi sâu vào chứng
minh bằng tư liệu mà lại xoáy vào việc diễn giải lệch đi một số chi tiết trong bài viết của
tôi, để gọi là “góp ý”. Thí dụ: khi tôi cho rằng ý định “cứu nước” của Hồ Chí Minh “chưa
chắc đã có ngay từ lúc bỏ nước ra đi, ý định ấy có thể đến sau những dự định khác (thí dụ
không được chấp nhận vào Ecole Coloniale)” thì Nguyễn Trọng Văn lại biến cái nhận xét
rất trung lập ấy thành việc do Nguyễn Tất Thành bị bác đơn xin vào Trường Thuộc địa,
“ức chí, nên mới tính chuyện làm cách mạng” để sau đó cho rằng nhận xét của tôi là
“không thuyết phục”. Hoặc khi tôi dẫn những tư liệu về các cuộc hôn nhân bí mật để bác
bỏ cái tiểu sử thánh thiện phi thực của Hồ Chí Minh (hy sinh hạnh phúc riêng cho sự
nghiệp chung) thì anh ấy gọi đó là hành động của những kẻ “dòm lỗ khoá”, moi móc đời
tư để đánh giá nhân vật. Những trả lời của tôi với Nguyễn Trọng Văn cũng chỉ xoay
quanh cái cách đọc như vậy của anh, cho nên cuộc cãi vã đó thật tầm thường, chẳng
mang lại lợi ích gì cho học thuật về mặt tư liệu lẫn cách tiếp cận vấn đề cả.

Đoàn Công Trãi: Nhiều anh em cho hay, trong khi cuốn Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ
Chí Minh chưa được biết đến ở ngoài thì bài “Huyền thoại” lại khá phổ biến: một số cơ
quan truyền thông ở Quận Cam và Houston đã đăng lại, nhiều website hải ngoại cũng
đưa bài ấy vào mục hồ sơ hoặc tư liệu. Anh có đọc được những ý kiến phê bình hoặc
tranh luận nào đáng chú ý hoặc nghiêm chỉnh không?

Lữ Phương: Sau khi bài viết ấy đăng trên Thư Nhà số 5 năm 2001, tôi được chị Thuỵ
Khuê ở đài RFI phỏng vấn và giới thiệu một số đoạn trong bài viết ấy. Gọi là nghiêm
chỉnh thì chỉ có vậy thôi. Còn những cái gọi là “đáng chú ý” khác thì cũng có. Nhưng lại
theo chiều hướng khác hẳn. Chẳng hạn như ý kiến phản đối những tờ báo đã đăng nguyên
văn bài viết của tôi mà “không bình luận”, cho rằng như vậy đã vô tình hay hữu ý gián
tiếp tiếp tay cho luận điệu tuyên truyền của cộng sản. Người phản đối ấy là ông Minh Võ,
một tác giả chống cộng ác liệt mà cuốn mới nhất của ông là Hồ Chí Minh, nhận định
tổng hợp (Tiếng Quê Hương xuất bản, Virginia, 2003). Trong cuốn sách này ông để hẳn
một chương giới thiệu cuốn Con yêu râu xanh 350 trang của một tác giả ký Việt Thường,
cuốn sách này có mục đích, theo Minh Võ cho biết, là “phản bác luận điệu của Lữ
Phương về huyền thoại Hồ Chí Minh”.

Đoàn Công Trãi: Anh có tìm đọc được cuốn ấy không?

Lữ Phương: Chưa. Nhưng tôi được một người quen tặng cho bản photo một bức thư của
tác giả Việt Thường gửi cho một người nào đó, trong đó nội dung “phản bác luận điệu
của Lữ Phương” được trình bày đầy đủ. Bức thư này đã được công bố trên một địa chỉ
của Yahoogroups năm 2001. Tổng hợp những gì Minh Võ giới thiệu nội dung cuốn Con
yêu râu xanh với bức thư này, tôi thấy Việt Thường đã đưa ra mấy luận điểm sau đây về
Hồ Chí Minh: 1. Hồ Chí Minh là một tên bán nước cho “thực dân đỏ”. Tổ quốc của Hồ
Chí Minh, cũng như của tất cả bọn cộng sản Việt Nam, là Nga: tên họ, tâm tình, hành
động của chúng đều thuộc về đế quốc đỏ đó; 2. Hồ Chí Minh là tên gian ác, vô đạo, lừa
lọc, sẵn sàng mượn tay thực dân để triệt tất cả những ai tỏ ra bất lợi cho vai trò đầu sỏ
“băng đảng mafia cộng sản” của “hắn”, từ những lãnh tụ hoặc tổ chức yêu nước (như
Phan Bội Châu, Việt Nam Quốc dân Đảng của Nguyễn Thái Học) đến cả những đồng chí
của mình (như Lê Hồng Phong, Phùng Chí Kiên); 3. Hồ Chí Minh là người chẳng có lý
tưởng cao thượng gì cả: mộng ước của hắn từ nhỏ đến lớn chỉ là “được làm cha mẹ dân”,
không dựa được vào cha để làm cậu ấm thì sang Tây xin làm tay sai cho Pháp, bị Pháp từ
chối thì ngả sang Đệ Tam Quốc tế để làm “cha già dân tộc”; 4. “Hắn” cũng là con quỷ
dâm dục, với phụ nữ thì “già không bỏ nhỏ không tha”, lăng nhăng khắp nơi từ Tây sang
Nga, Từ Tàu về Việt Nam, đi đâu cũng có tình nhân và vợ!

Đoàn Công Trãi: Thật là giựt gân! Nhưng dựa vào đâu mà ông tác giả này lại có thể
đưa ra những kết luận như vậy?

Lữ Phương: Không biết cuốn Con yêu râu xanh như thế nào, nhưng trong bức thư tôi
đọc được của ông này, tất cả đều chỉ là những khẳng định vô bằng. Cũng có lúc nhắc vu
vơ đến những tư liệu đã được giới nghiên cứu mới phát hiện, nhưng lại với mục đích
xuyên tạc, bịa đặt hết sức trắng trợn. Thí dụ: căn cứ vào một bản khai "đã có chồng" và
tên chồng là "Lin" của Nguyễn Thị Minh Khai khi dự Quốc tế Cộng sản lần thứ 7 năm
1935, những nhà nghiên cứu đã ghi nhận việc Hồ Chí Minh, ngoài một người vợ Trung
Hoa là Tăng Tuyết Minh cưới ở Quảng Châu năm 1926, có thể đã có thêm một người vợ
Việt Nam là Nguyễn Thị Minh Khai. Đối với giới nghiên cứu thì đó chỉ là sự kiện, khi
tìm thấy sự kiện thì không thể không ghi nhận. Nhưng đối với Việt Thường thì hoàn toàn
khác. Qua sự trình bày của ông ta, bản khai lý lịch của Nguyễn Thị Minh Khai đã biến
thành "tờ hôn thú" giữa hai người, và vì tờ hôn thú ấy mà bộ mặt hoang dâm vô đạo của
Hồ Chí Minh bị phơi trần. Sau khi đã cướp Nguyễn Thị Minh Khai từ Lê Hồng Phong, và
đã "phá trinh" làm cho Minh Khai có thai thì liền đẩy lại cho Lê Hồng Phong để tránh
tiếng và chạy dài. Chẳng những như vậy mà thôi: sau khi Lê Hồng Phong về nước hoạt
động, chính Hồ Chí Minh, vì sợ vai trò Uỷ viên dự khuyết trong Trung ương Quốc tế của
Phong có thể làm giảm thế lực chính trị của mình nên đã báo tin với mật thám Pháp để
Pháp thủ tiêu hộ! Đọc những gì ông tác giả này viết, anh sẽ thấy vô số những vụ việc về
Hồ Chí Minh được thêu dệt, dàn dựng như vậy.

Đoàn Công Trãi: Bài viết của anh về Hồ Chí Minh bị ông ta "phản bác" chắc là do anh
không biết đến những "sự thật" theo quan niệm trên đây của ông ta?

Lữ Phương: Điểm chính yếu tôi bị ông ấy công kích dữ dội là cái nhận định của tôi cho
rằng Hồ Chí Minh là một anh hùng dân tộc có công giải phóng đất nước khỏi chủ nghĩa
thực dân. Nhưng những luận điểm mà ông ấy đã đưa ra như trên thì chẳng có gì gọi là
"phản bác" cả: thay vì dựng nên hình ảnh một Hồ Chí Minh tràn ngập hào quang như
những nhà tuyên truyền cộng sản đã làm thì ông ấy lại tạo ra hình ảnh một Hồ Chí Minh
ngược lại, một thứ ác quỷ, xấu xa, gớm ghiếc. Chẳng cần quan tâm đến sự thực, nếu
những nhà tuyên truyền cộng sản chỉ biết nhuộm đỏ thì ông ta chẳng làm gì hơn là bôi
đen. Và cái cách mà ông ta bôi đen tôi thì cũng y chang như vậy vì ông ta cho rằng hiện
nay tôi vẫn chỉ là một thứ “cò mồi”, tay sai của bọn "thực dân đỏ". Những gì tôi phê phán
quyết liệt về Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản sau khi đã có chính quyền thì ông ta cho đó
là những điều tôi "buộc" phải nói cho có, nói xong rồi xoá đi ngay bằng những lời tâng
bốc, "nâng bi" theo cung cách của bọn "khuyển mã"! Anh có biết ông ta dựa vào đâu để
kết cho tôi cái tội đó không?
Đoàn Công Trãi: Vào đâu?

Lữ Phương: Không thể tưởng nổi: để kết tội, ông ta căn cứ vào những sự kiện mà tôi đã
miêu tả Hồ Chí Minh như là nhân vật đã bị huyễn hoặc hoá (như "tiên ông", "hiền triết
Đông phương", "lãnh tụ quốc tế tài ba", "dựng bàn thờ giữa bùng binh Sài Gòn", "vào
miếu, vào đền"...)! Ở đây cũng chẳng có gì gọi là "phản bác cả vì chắc chắn ông ta chẳng
hề đọc kỹ bài viết của tôi. Bởi vì nếu đọc kỹ, ông ta sẽ thấy những cái mà ông ta nêu ra
để kết án đó thực sự lại chính là những cái tôi nêu ra để phủ định, phê phán chứ không
phải để khẳng định, ca ngợi. Tôi có cảm giác ông ta chỉ xớn xác liếc sơ qua, gặp mấy chữ
tôi nêu ra như trên là nổi sùng lên, rồi chửi bới lung tung, rất thô tục. Ông ấy gọi tôi là
một kẻ "mù loà trí tuệ", "dốt nát" và bắt chước ngôn ngữ của Mao Trạch Đông, ông ta liệt
tôi vào loại trí thức "không bằng cục cứt"! Đọc ông này xong tôi đã cười ngất!

Đoàn Công Trãi : Tôi nghĩ chúng ta có thể hiểu được những người như ông ấy. Sự
cuồng tín của một người chống cộng cũng chẳng khác gì sự cuồng tín của một người
cộng sản bao nhiêu. Có thể kể thêm vào đó sự cuồng tín của một người Hồi giáo, một
người Công giáo... Tất cả những người như vậy đều có một ngôn ngữ chung, một não
trạng chung.

Lữ Phương: Tôi không ngạc nhiên khi thấy tại sao hiện nay nhiều người vẫn còn coi Hồ
Chí Minh như một ông thánh trong khi đó vẫn có những người như ông tác giả mà ta
đang nói lại coi Hồ Chí Minh là một con quỷ. Cuộc sống ẩn tàng những động lực hết sức
phức tạp, rất khó giải thích bằng lý trí và lẽ phải. Và cũng vì những bất đồng như vậy,
người ta có thể sử dụng những lời chửi rủa, những quả đấm hay quả bom để giải quyết.
Nhưng trong lĩnh vực nghiên cứu, văn hoá thì lại khác hoàn toàn: đây là lĩnh vực của
những quy ước về đối thoại dựa trên lẽ phải và lý trí, tất cả những gì chúng ta phát biểu
chỉ có ý nghĩa khi lý trí và lẽ phải được thừa nhận như chuẩn mực chung, nếu không thì
văn hoá sẽ bị biến thành một vùng sắt máu ở đó thái độ ngang ngược dối trá, vu cáo,
xuyên tạc, hận thù sẽ được đưa lên thành giá trị.

Đoàn Công Trãi: Tôi thấy rất khó. Cuộc chiến tranh lạnh trong thực tế đã chấm dứt
nhưng trong tâm thức con người thì chưa. Sự khác nhau trong việc nhìn nhận nhân vật
Hồ Chí Minh đã phản ánh sự giằng xé của các xã hội Việt Nam thời hậu chiến tranh lạnh
đó, trong nước và cả ngoài nước.

Lữ Phương: Thực tế là như vậy mà cũng chính vì vậy mà tôi cho rằng công việc của
những người cầm bút là phải tìm cách đẩy tinh thần xã hội đi tới chứ không thể dừng lại
ở nguyên trạng, đặc biệt khi bước vào thế kỷ mới này đất nước đang chuyển mình sang
một khúc quanh. Trước viễn cảnh ấy, sẽ có hàng loạt những vấn đề cần phải nhìn lại triệt
để về lịch sử, về truyền thống, con người, cũng sẽ cần phải làm một tổng kiểm kê con
đường đã đi của Việt Nam. Và cũng trước viễn cảnh ấy, do vị trí quan trọng đặc biệt của
Hồ Chí Minh trong thế kỷ 20, vấn đề nhìn lại vai trò của ông sẽ là một thử thách rất lớn
về tính nghiêm chỉnh của những người đang làm công việc nhận thức lại quá khứ để từ
những bài học của quá khứ suy tưởng về tương lai.
Đoàn Công Trãi: Theo anh vấn đề nhìn lại quá khứ ấy sẽ phải đặt trên những cơ sở nào
về lý luận để có thể phục hồi lại hình ảnh một Hồ Chí Minh hiện thực với tư cách là một
nhân vật lịch sử?

Lữ Phương: Tôi nghĩ không thể nhìn Hồ Chí Minh như một cá nhân (để xưng tụng hay
mạt sát) mà phải đặt ông vào quá trình chuyển động tìm đường của Việt Nam trong thế
kỷ 20 sau khi những nỗ lực cứu nước của các nho sĩ thế hệ cũ đã thất bại. Vào lúc này,
vấn đề giành lại chủ quyền dân tộc vẫn được tiếp nối theo truyền thống (chống ngoại
xâm) nhưng được đặt lại trên những tiền đề mới mà mọi người đều biết: phải tiếp nhận
nền văn minh và khoa học phương Tây để hiện đại hoá xã hội thì mới tạo ra được tư
tưởng, phương pháp và lực lượng để tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh đó. Tuy chi tiết
có nhiều dị biệt, nhưng đây chính là điểm xuất phát chung nhất của tất cả những người
yêu nước vào lúc bấy giờ mà hai người mở đầu quan trọng là Phan Bội Châu và Phan
Chu Trinh, về sau được Hồ Chí Minh nối tiếp bằng con đường cộng sản Đệ Tam.

Đoàn Công Trãi: Trong cuốn Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh, anh cho biết
suốt trong thời gian đầu mới tham gia phong trào chống thực dân (ở Pháp từ 1919 đến
1923) Hồ Chí Minh đã hoàn toàn đi theo con đường của Phan Chu Trinh: yêu nước,
khuynh tả, cấp tiến, phi bạo lực. Cần phải nói rõ hơn tại sao Hồ Chí Minh không dừng
lại ở đó.

Lữ Phương: Đứng về mặt cá nhân thì Hồ Chí Minh cho biết là đó cũng chỉ là động cơ
yêu nước thôi: ông thấy sự hứa hẹn giúp đỡ của Quốc tế 3 đối với những nước bị thực
dân thống trị là thiết thực hơn, cách mạng hơn; còn như mọi thứ liên hệ đến cái gọi là
“chủ nghĩa xã hội”, "chủ nghĩa Marx-Lenin”... thì ông còn rất mù mờ, do vậy mà ông gọi
đó là một sự lựa chọn “cảm tính”. Nhưng nhìn vấn đề một cách lịch sử thì cái lý do “cảm
tính” đó lại rất đáng chú ý: nó không ra đời từ hư vô mà đã dựa vào một bối cảnh tinh
thần khá đặc biệt của những trí thức khuynh tả lúc bấy giờ. Trong tâm thức của những trí
thức này thì cái nền văn minh phương Tây bấy lâu được cho là xây dựng trên Lý trí,
Khoa học và Tiến bộ, nền văn minh ấy bước sang đầu thế kỷ 20 đã bắt đầu đi vào mục
nát, tan rã với cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất. Nhưng từ đó thì trong hình dung
của những trí thức ấy một nền văn minh mới với một bảng giá trị mới đã ra đời để thay
thế: và đó chính là cuộc cách mạng Nga với những vẫy gọi cực kỳ hấp dẫn cho tương lai.
Chính cái bối cảnh tinh thần ấy đã chuyển hướng toàn bộ phong trào trí thức phương Tây
từ chỗ khuynh tả (xã hội) sang cực tả (cộng sản), rồi từ những trí thức này tác động đến
những nhà hoạt động xã hội và chính trị mới xuất hiện ở phương Đông đang thức tỉnh. Sự
lựa chọn của Hồ Chí Minh đã được quy định bởi cái chiều hướng tinh thần khuynh tả đó.

Đoàn Công Trãi: Như vậy, đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa cộng sản trước hết không
phải là một ý thức hệ nói chung mà là một ý thức hệ có tác dụng giải phóng dân tộc. Có
thể cho rằng đã có sự “kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản”
theo cách diễn tả của những nhà ý thức hệ của Đảng?

Lữ Phương: Tôi nghĩ phải giới hạn cái khái niệm “kết hợp” đó trong điều kiện chủ nghĩa
cộng sản đó được tiếp nhận, tức là trong cuộc tranh đấu chống thực dân. Trong hoàn cảnh
ấy, cách nói trên không phải là không có chỗ đúng. Mục đích của Hồ Chí Minh khi ngả
sang Quốc tế 3, trước sau như một vẫn là giải phóng dân tộc; thái độ ấy không phải chỉ
riêng ông mới có: do nhận thấy Quốc tế 3 ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc một cách
rất tích cực, nhiều người Việt Nam vào lúc bấy giờ cũng có những suy nghĩ như vậy
(Phan Chu Trinh không hề chống lại, còn Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền,
Nguyễn An Ninh lại rất thân cộng). Chúng ta đừng quên rằng do sự ủng hộ của Liên Xô
với những nước bị trị mà ý định muốn dựa vào Liên Xô để giành độc lập và phát triển
vẫn là toan tính dai dẳng của nhiều chính khách của các nước thuộc Thế giới Thứ ba,
ngay cả về sau này khi Chiến tranh Thế giới thứ hai chấm dứt, với cái mô hình kinh tế có
kế hoạch do Liên Xô đưa ra để thách thức với Mỹ trong cuộc Chiến tranh Lạnh.

Đoàn Công Trãi: Nhưng cùng với thời gian, Liên Xô không còn phải là cái thiên đường
tưởng tượng nữa, nó đã trở thành vương quốc của chủ nghĩa Stalin. Diễn biến ấy chẳng
lẽ không có tác động đến Hồ Chí Minh? Chính vì Stalin, sự nghiệp chính trị của Hồ Chí
Minh đã bị khựng lại trong một thời gian.

Lữ Phương: Về những suy nghĩ của Hồ Chí Minh trong những năm bị giữ lại ở Liên Xô
để học tập dưới thời Stalin, chúng ta không có tài liệu để biết được. Nhưng căn cứ vào
hành vi và những gì mà Hồ Chí Minh đã phát biểu về sau, chúng ta thấy điều đó không
hề ảnh hưởng gì đến sự chọn lựa của ông, khi ông vượt qua những tìm kiếm “cảm tính”
ban đầu để trở thành một cán bộ xác tín. Theo tôi nghĩ dù đã có kinh nghiệm về sự phức
tạp trong phong trào cộng sản quốc tế, Hồ Chí Minh vẫn không bị khuấy động bởi những
băn khoăn đang nẩy sinh trong giới trí thức khuynh tả đang thức tỉnh vào lúc bấy giờ, do
lẽ ông đã trở thành một nhà cách mạng chuyên nghiệp thực thụ: biết giữ kín những suy
nghĩ riêng tư, nhất là những vấn đề lý thuyết có thể gây phiền phức cho bản thân, ông
cũng đã biết cách ẩn nhẫn để phục hồi vị trí của mình, hy vọng mau chóng được hoạt
động trở lại. Chính trong thời gian được đào tạo lại ở Liên Xô này, ông đã cụ thể hoá cái
lý tưởng “chủ nghĩa xã hội” mơ hồ lúc ban đầu thành mô hình xây dựng của Stalin. Năm
1938, khi trở lại Trung Hoa để tìm cách liên hệ với phong trào trong nước, Hồ Chí Minh
đã hoàn tất sự chọn lựa về ý thức hệ cho mình.

Đoàn Công Trãi: Điều đó có ảnh hưởng gì đến cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc mà
ông đeo đuổi? Vấn đề cộng sản hay không cộng sản chẳng lẽ không được đặt ra trong
nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến đấu đó?

Lữ Phương: Vấn đề ý thức hệ chỉ đặt ra gay gắt từ khi cách mạng Trung Quốc thành
công: không phải chỉ giữa cộng sản và không cộng sản, mà còn giữa cộng sản Đệ Tam và
cộng sản Đệ Tứ nữa. Và việc Hồ Chí Minh đem những quan niệm của Stalin ra áp dụng
vào Việt Nam như giết hại những người yêu nước theo chủ nghĩa quốc gia, những người
Troskít sau cách mạng 1945, phát động phong trào giảm tô, đấu tố, chỉnh phong chỉnh
huấn trong quân đội và cán bộ diễn ra trước 1954 ở Việt Bắc... gây ra tác hại như thế nào
cho công cuộc giải phóng dân tộc thì đã quá hiển nhiên. Nhưng từ những sự kiện ấy mà
đi đến chỗ cho rằng Hồ Chí Minh chỉ giả vờ yêu nước hoặc lợi dụng lòng yêu nước của
dân Việt Nam để thực hiện mưu đồ làm tay sai cho các đế quốc Nga, Hoa thì không đúng.
Không phải Hồ Chí Minh không thủ đoạn, không đóng kịch... nhưng trong viễn cảnh
cách mạng thì đó chỉ là những hành động tình thế, xuất phát từ nhiều lý do trong đó có cả
sự mù quáng stalinít của ông, không thể dựa vào đó để quy thành bản chất cuộc chiến đấu
chống thực dân do ông lãnh đạo, được đông đảo người Việt Nam ủng hộ. Trong cuộc
chiến đấu này, những thủ đoạn dối trá chỉ có thể mang đến những cái lợi nhất thời chứ
không thể tạo ra được động lực để người ta xả thân hy sinh cho một sự nghiệp khó khăn
và lâu dài, nhất là khi sự nghiệp ấy đã có được một chung cuộc thành công.

Đoàn Công Trãi: Chúng ta có thể nói thêm một chút về lý do thành công của Đảng
Cộng sản trong việc đánh đuổi thực dân. Đó có phải là nhờ cái “cẩm nang” Marx-Lenin
như Hồ Chí Minh đã nói?

Lữ Phương: Cái gọi là “học thuyết Marx-Lenin” chỉ góp phần tạo ra một thứ lý luận
thiên mệnh về quyền lực (sự phát triển tất yếu của lịch sử) để Đảng Cộng sản biện minh
cho vai trò độc tôn vĩnh viễn của mình đối với lịch sử. Lý luận ấy, trong điều kiện Đảng
chưa nắm quyền thì chưa có gì là quan trọng lắm. Theo tôi, sự thành công quan trọng thật
sự của Hồ Chí Minh đã bắt nguồn từ chỗ ông biết áp dụng vào hoàn cảnh Việt Nam chiến
lược của Lenin về lập mặt trận thống nhất, bí quyết xây dựng Đảng cách mạng và phương
pháp tổ chức quần chúng để khởi nghĩa và làm chiến tranh. Các phương pháp tổ chức này
tuy rất mới mẻ nhưng vẫn dựa trên truyền thống Việt Nam vào lúc bấy giờ. Đối với tầng
lớp trí thức bất mãn với chế độ thực dân: đó là cơ sở để thành lập một đảng cách mạng
kiểu mới có lý thuyết “khoa học” hấp dẫn nhưng vẫn giữ được tính chất thiêng liêng kiểu
châu Á để người ta phải thề nguyện trung thành suốt đời. Đối với nông dân cơ cực vì bị
bóc lột, chủ thể của những bạo loạn liên miên trong lịch sử: đã được giải quyết quyền lợi
ruộng đất để biến họ thành chủ lực quân của cuộc cách mạng mới, nhờ đó tạo được cơ sở
vững chắc ở nông thôn, chỗ dựa quan trọng bậc nhất cho cuộc chiến đấu chung. So với
nhiều lực lượng chống thực dân khác, đường lối hành động của Đảng Cộng sản đã tỏ ra
hơn hẳn về nhiều mặt: nhận xét này đã được nhiều chuyên viên “chống nổi dậy” của Mỹ
đưa ra trước 1975.

Đoàn Công Trãi: Còn đối với việc Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản đem lý luận về chủ
nghĩa xã hội ra áp dụng sau khi đã giành được quyền lực từ tay thực dân, anh đã cho đó
là một thất bại toàn diện. Chúng ta hãy phân tích rõ hơn lý do: cũng thứ lý luận đó
nhưng tại sao lại có sự đối nghịch quá triệt để về hai thời kỳ như vậy?

Lữ Phương: Nehru là người không thích cộng sản nhưng khi trả lời Timor Mende năm
1956 đã cho rằng chính chủ nghĩa cộng sản có thể “củng cố” cho phong trào đấu tranh
đòi độc lập dân tộc. Tôi thấy ý kiến ấy rất đáng chú ý: chủ nghĩa cộng sản đã tiêm vào
cuộc đấu tranh ấy những lời hứa hẹn vô cùng tốt đẹp về một xã hội trong tương lai, làm
cho cuộc chiến đấu thực tế ấy trở nên lãng mạn hơn, lý tưởng hơn. Nhưng khi cuộc đấu
tranh dân tộc đã chấm dứt thì những lời hứa đó không bao giờ được đem ra thực hiện, và
cái tương lai ấy cũng sẽ không bao giờ có điều kiện để thực hiện cả. Không phải vì những
người cộng sản là một bọn lừa đảo vô đạo (như luận điệu của những người chống cộng
cuồng tín) mà chính yếu là do cái quan niệm cách mạng của Quốc tế 3: sau khi hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ thì phải “tiến thẳng” lên chủ nghĩa xã hội, và trong thực
hiện thì cái gọi là “chủ nghĩa xã hội” ấy không có nội dung nào khác hơn là cái mô hình
Stalin mà Hồ Chí Minh đem về từ Liên Xô (sau này có được bổ sung bằng mô hình Mao
Trạch Đông). Đó không phải là những sai lầm cục bộ, là cách vận dụng lệch lạc như
những nhà lý luận của Đảng đã nói mà là những sai lầm về đường lối phát triển, về xây
dựng xã hội, nói tóm tắt là những sai lầm về ý thức hệ. Sự sai lầm đó đã được thực tế
cuộc sống xác nhận, hiển nhiên, không có gì có thể biện minh được. Nó đi ngược lại đời
sống và bị đời sống bác bỏ, nhưng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản vẫn cứ cố sức ép
cuộc sống phải khuôn nắn theo.

Đoàn Công Trãi: Tại sao lại có hiện tượng máy móc đó, trong khi như mọi người đều
biết Hồ Chí Minh vốn là người rất uyển chuyển trong hành động và ít bày tỏ về những
vấn đề tư tưởng rắc rối?

Lữ Phương: Quả thật Hồ Chí Minh không phải là một lãnh tụ có ý muốn tạo một thứ lý
luận riêng biệt nào. Nhưng là người hành động ông không thể không dựa vào lý luận: ông
là một idéologue. Còn tại sao Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản lại cứ nhất quyết đem cái ý
thức hệ ấy ra thực hiện thì có thể giả định ra rất nhiều lý do. Có thể là vì ảo tưởng hoặc
mù quáng: xác tín rằng đó là ý thức hệ khoa học nhất, lý tưởng nhất, đích thực nhất, có
thể đưa được cả dân tộc và nhân loại đến bến bờ chân lý, hạnh phúc. Có thể vì quá chủ
quan, ngạo mạn: thấy nhờ biết khai thác, áp dụng những sách lược và tổ chức của Lenin
trong quá trình chống thực dân mà mang về được quyền lực cho Đảng Cộng sản, nên đã
khái quát hoá những thứ đó thành cái “cẩm nang” muôn đời, có thể sử dụng để giải quyết
được mọi thứ khó khăn trên con đường “tiến lên”. Nhưng cũng có thể đó chỉ là thói quen
tinh thần cố hữu của người Việt Nam khi đã trở thành lãnh đạo: thích nhặt nhạnh các thứ
tư tưởng táp nham của nước ngoài đem về xào nấu ra thành những lý lẽ để biện hộ cho
chế độ của mình và huyễn hoặc nhân dân. Tôi thấy, trong câu chuyện này, ông Hồ Chí
Minh cũng chẳng khác gì mấy ông vua hồi xưa hay ông tổng thống Ngô Đình Diệm ngày
nay bao nhiêu.

Đoàn Công Trãi: Nhưng còn với đông đảo nhân dân Việt Nam, anh sẽ giải thích thế nào
về cái cảm tình mà họ dành cho Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản trong thời kỳ chống
thực dân và thái độ chịu đựng an phận của họ trong thời kỳ sau này?

Lữ Phương: Cách đây khá lâu, tôi có gặp một giáo sư triết học từng du học ở Pháp về và
được nghe ông ấy cho biết rất tiếc rẻ là sau 1945, Hồ Chí Minh không lên làm vua – Hồ
Chí Minh mà làm vua thì “hết ý”! Không phải vua bù nhìn mà là vua thứ thiệt và như vậy
thì sẽ không có chiến tranh với Pháp rồi sau này với Mỹ! Không có cả cải cách ruộng đất,
đấu tố. Lại tha hồ làm chuyên chính khỏi cần nhân danh “vô sản” và có quyền được cưới
nhiều vợ! Nghe chẳng nghiêm túc tí nào, nhưng cái ý vừa phục vừa trách Hồ Chí Minh
thì quá rõ rệt. Tôi thấy hầu như tất cả những người trí thức Việt Nam trước 1954 đều
nhận ra tính chất nhiều mặt trong con người của Hồ Chí Minh, cho nên dù có không có
cảm tình gì với cái gọi là “cộng sản” nhưng ít thấy ai phủ nhận lòng yêu nước của ông.
Sau 1954 tình hình có khác đi, khía cạnh ý thức hệ giữa “tự do và cộng sản” được thổi
bùng lên khi đất nước bị chia hai, từ đó tạo nên một lớp người chống Hồ Chí Minh và
chống cộng rất dữ dội. Tuy vậy đa số những người không có ân oán trực tiếp với cộng
sản đều giữ cảm tình với ông, đặc biệt trong những năm Mỹ ồ ạt đổ quân vào miền Nam,
và đánh phá miền Bắc. Cho đến bây giờ khi cuộc cách mạng cộng sản đã bộc lộ hết
những điều tệ hại trước thực tế, nhiều người vẫn muốn bênh vực ông, cho ông là người
theo xu hướng ôn hoà và đã bị bọn quá khích trong Đảng vô hiệu hoá. Nói chung, nếu
đưa lên cán cân so sánh giữa “nội địa” và “quốc tế” thì khía cạnh thứ nhất trong con
người của ông vẫn được đông đảo người Việt Nam chú ý nhiều hơn.

Đoàn Công Trãi: Vượt lên những sự kiện, trong quá trình tìm hiểu, anh thấy có những
nhận xét nào tương đối khách quan về vai trò của Hồ Chí Minh đối với sự chuyển động
tượng tìm đường của Việt Nam trong thế kỷ đã qua?

Lữ Phương: Tôi thấy bài tham luận của Nguyên Ngọc (đọc tại cuộc Hội thảo ở Đại học
NYU, tháng 12/2003) đã gợi ra nhiều ý kiến rất thực tế để trả lời cho vấn đề đó. Quan
điểm của Nguyên Ngọc khác rất xa với quan điểm chính thống hiện nay của Đảng – quan
điểm này cho rằng sự chọn lựa của Hồ Chí Minh (anh không nói rõ tên nhưng cái ý ám
chỉ là rất rõ) đã giải quyết xong “trọn gói” mọi vấn đề do Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ
20: vừa đem lại độc lập cho đất nước vừa đưa đất nước hội nhập vào dòng chảy tất yếu
của lịch sử loài người là tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nguyên Ngọc không phủ định tất cả
nhưng anh cho rằng việc Hồ Chí Minh phải chọn Quốc tế 3 và “phe xã hội chủ nghĩa” chỉ
là để tìm chỗ dựa cho việc đấu tranh vũ trang chống thực dân thôi. Còn sau khi giành
được độc lập rồi thì cái gọi là con đường “tiến lên” ấy lại có tác dụng cản trở sự phát triển
tự nhiên của đời sống bởi hàng loạt những thuộc tính tuỳ tùng do nó đẻ ra như phủ định
cá nhân, xoá bỏ tư hữu, xem thường trí thức... Qua cách trình bày của Nguyên Ngọc,
người ta thấy cái ý định rất rõ rệt của anh là giới hạn lại vai trò của Hồ Chí Minh trong
lịch sử hiện đại của Việt Nam, vai trò ấy chỉ có ý nghĩa trong thời kỳ chống thực dân
bằng biện pháp vũ trang, một sự lựa chọn mà anh cho là đã bị quy định bởi những hoàn
cảnh khắc nghiệt, “chẳng đặng đừng”, không có gì tuyệt đối. Xét về lâu dài, sự chọn lựa
ấy không thể vạch ra được chiến lược để từ một xã hội phong kiến lạc hậu bước được vào
thế giới dân chủ và hiện đại – vai trò vạch đường này Nguyên Ngọc trang trọng dành cho
Phan Chu Trinh, người đỡ đầu Hồ Chí Minh trong những năm mới vào đời, nhưng cũng
là người mà Hồ Chí Minh đã từ bỏ để đi đến với chủ nghĩa cộng sản Đệ Tam. Bởi vậy,
mặc dù đã có độc lập, thống nhất và hoà bình, nhưng do cuộc canh tân xã hội theo mô
thức cộng sản đã thất bại, nên những vấn đề do Phan Chu Trinh đặt ra cách đây đã có cả
trăm năm nay vẫn còn nguyên.

Đoàn Công Trãi: Anh nghĩ gì về ý kiến của Nguyên Ngọc?

Lữ Phương: Tôi thấy trong bài tham luận của Nguyên Ngọc có nhiều điều mà có lẽ do
cố ý kềm chế, anh ây không nói rõ ra. Thí dụ như khi nói đến "cái giá khá đắt” để giành
độc lập bằng con đường “xã hội chủ nghĩa” và Quốc tế 3, anh chỉ nói đến cái tác hại của
chủ nghĩa tập thể trong phạm vi tư tưởng và văn hoá. Nói rất chung chung, nếu có đúng
thì phần lớn với lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật. Tôi tin rằng nếu xoay sang các lĩnh vực
khác như chính trị, kinh tế, đạo đức, chắc chắn anh sẽ có nhiều điều nói thêm về “cái giá
khá đắt” đó. Nặng nề hơn rất nhiều. Và thí dụ như khi đề cập đến sự chọn lựa về ý thức
hệ của Hồ Chí Minh, anh chỉ dừng lại khái niệm “chủ nghĩa xã hội”, như một thứ lý
tưởng rất trừu tượng, không theo dõi quá trình định hình của cái khái niệm ấy, sự định
hình mang nội dung cụ thể cuối cùng mà Hồ Chí Minh đã đem về đất nước để sau này
gây ra không biết bao nhiêu những điều tệ hại chưa biết bao giờ mới chấm dứt. Tôi nghĩ
rằng sở dĩ Nguyên Ngọc chỉ lướt qua những khái niệm chứ không đi nhiều vào nội dung
của chúng khi phân tích, có lẽ do anh ngại phải đối mặt trực diện với hình ảnh một Hồ
Chí Minh đang được chế độ hiện hành coi là thần thánh, vì thế cũng đã tìm cách né tránh
việc xởi lên các vấn đề có tác dụng truy cứu đến tận cùng cái trách nhiệm của Hồ Chí
Minh, với tư cách là một lãnh tụ, trong việc tạo ra vô vàn những điều mà nhân dân phải
“trả giá”. Còn nhiều chi tiết khác phải bàn luận, nhưng nếu bỏ qua tất cả, tôi thấy cái cách
Nguyên Ngọc nhìn lại vai trò Hồ Chí Minh trong lịch sử hiện đại của Việt Nam là khá
“hiện thực”. Những ai đã trải qua những năm tháng khó khăn đó của lịch sử, những ai
muốn nhìn lại những cái đã qua một cách bình thản đều dễ dàng chia sẻ cách nhìn ấy của
anh. Riêng tôi, tôi muốn mượn một từ tôi cho rằng có thể giúp chúng ta hình dung rõ hơn
những tình thế “khắc nghiệt” mà Hồ Chí Minh đã phải đối mặt và chọn lựa cho người
Việt Nam: đó là một sự chọn lựa đầy bi kịch. Không phải là một bi kịch của một cá nhân
Hồ Chí Minh đã xả thân cả đời cho sự chọn lựa của mình mà là bi kịch của cả một đất
nước đã đi theo ông, gánh chịu muôn vàn đau khổ để có được điều tuyệt vời là độc lập thì
đã bị chính ông, ngay sau ngày vinh quang ấy không lâu, đẩy đến chỗ tuyệt vọng tột cùng
khi thấy cái hạnh phúc mà nền độc lập do ông mang lại cho mình thật sự chỉ là một bong
bóng xà phòng. Nhất là đối với những người đã xả thân cho những năm tháng đã qua, bây
giờ nhìn lại thấy thực tại xã hội mà mình đem máu dựng nên chẳng có gì khá hơn ngày
xưa – một thực tại phải được làm lại tất cả. Anh Trần Độ là một trong rất nhiều người đã
ra đi trong nỗi khổ tâm đó.

Đoàn Công Trãi: Theo anh thì thế hệ trẻ ngày nay nên ứng xử như thế nào trước hình
ảnh một Hồ Chí Minh của một quá khứ có nhiều chiều, nhiều mặt phức tạp như vậy?

Lữ Phương: Theo tôi nghĩ nếu đã xem Hồ Chí Minh như biểu tượng của sự chọn đường
trong một giai đoạn chuyển mình đã qua thì sự ứng xử của các thế hệ hiện tại là phải nhìn
lại giai đoạn quá khứ đó để tìm ra những bài học cho cuộc chuyển mình mới thật sự quan
trọng đang diễn ra trên đất nước. Một cái nhìn mang được tinh thần trách nhiệm như vậy
chắc hẳn sẽ làm cho lịch sử tái hiện khách quan hơn và từ đó cũng sẽ làm cho màn sương
huyễn hoặc phủ lên hình ảnh Hồ Chí Minh không còn quá dày đặc. Chúng ta sẽ nhìn về
ông với tình cảm của những công dân chứ không phải với thái độ của những tín đồ. Đặt
trên cái mặt bằng của lịch sử, những sai lầm của Hồ Chí Minh cũng sẽ được trả về cái
hoàn cảnh đã quy định chúng như những giới hạn của bản thân đời sống, hoàn toàn giải
thích được. Chúng ta hiểu được lý do ông đến với chủ nghĩa Lenin, cũng hiểu tại sao từ
chủ nghĩa Lenin ông đã sa lầy vào chủ nghĩa Stalin như một chọn lựa bất toàn trước
những tình thế đầy khó khăn trên con đường giành độc lập cho dân tộc. Các thế hệ đi sau
phải có đủ bản lĩnh để nhận ra những mặt sai lầm trong sự chọn lựa ấy của Hồ Chí Minh
một cách khách quan, nghiêm chỉnh. Thời gian đã cho chúng ta khoảng cách để đảm
nhận công việc đó một cách bình thản. Nguyện vọng của chúng ta là chính đáng: mong
mỏi những tàn tích của cái quá khứ sai lầm ấy không còn đè nặng lên cuộc sống hôm nay.
Sự phê phán Hồ Chí Minh vì vậy sẽ mang ý nghĩa phản tỉnh của một cộng đồng biết can
đảm nhìn lại mình để hướng tới tương lai. Trong viễn cảnh đó, Hồ Chí Minh sẽ nhận
được từ những thế hệ đi sau sự quý trọng mà ông đáng được quý trọng. Công bằng. Tử tế.
Nhưng không còn huyễn hoặc và cũng không còn bị lợi dụng để huyễn hoặc nữa.

Thư Nhà (Paris) tháng 9-2004

© 2007 talawas

You might also like