Professional Documents
Culture Documents
Dan Nhap Kinh Thanh 3
Dan Nhap Kinh Thanh 3
Dẫn nhập I Sử ký
Nhan đề:
Nhan đề bằng tiếng Hê-bơ-rơ (dibre hayyamim) có thể dịch là “Những sự
việc (hoặc sử biên niên) của những ngày (hoặc năm)”. Cũng nhóm từ này
xuất hiện liên quan đến các nguồn tin mà trước giả hay soạn giả Các Vua
dùng (dịch là “sử ký” trong thí dụ IVua 1V 14:19,29; 15:7,23,31;
16:5,14,20,27; 22:46). Dịch giả bản LXX (bản dịch Cựu Ước ra tiếng Hy
Lạp) gọi sách này là “những việc đã bỏ qua”, chỉ dấu rằng họ coi đây là sự
bổ sung cho sách Sa-mu-ên và Các Vua. Jérome (347 - 420 S.C) dịch giả
bản Vulgate La-tinh gợi ý nhan đề thích hợp hơn phải là “ký sự của toàn bộ
Thánh sử”. Luther đã theo gợi ý đó trong bản dịch ra Đức ngữ, nhiều người
khác cũng theo nhà Cải chánh. Các dịch giả bản LXX là những người đầu
tiên đã chia sách Sử ký làm hai phần.
Trước giả, niên hiệu và nguồn tin:
Theo truyền thuyết xưa của người Do Thái, E-xơ-ra viết sách Sử ký, E-xơ-ra
và Nê-hê-mi (xem phần Dẫn nhập E-xơ-ra: Hình thức văn học và tác quyền),
nhưng điều này không thể thiết lập cách chắc chắn. Ngày càng có sự nhất trí
định niên hiệu sách Sử ký là vào hạ bán thế kỷ thứ 5 TC, như thế có lẽ là
nhằm đời E-xơ-ra. Phải thừa nhận rằng trước giả, nếu không phải chính là E-
xơ-ra, thì ít nhất cũng chia sẻ những liên hệ căn bản với thầy tế lễ cải cách
đó - đầu sách Sử ký không phải quá thu hẹp trong phối cảnh “tế lễ” như từ
lâu người ta đã xác quyết.
Có người tin rằng bản văn chứa đựng bằng cớ đây đó những phần mở rộng
sau khi công việc căn bản đã soạn xong. Trong khi những sự duyệt xét biên
tập là không thể có, tất cả những đề nghị cụ thể để xem xét các phần đó chỉ
là thăm dò mà thôi.
Trong sự thuật lại lịch sử quá khứ lâu dài, sử gia phải dựa vào nhiều nguồn
đã viết ra. Độ phân nửa công tác của sử gia lấy từ các sách Sa-mu-ên và Các
Vua người cũng rút ra từ Ngũ Kinh, Các Quan Xét, Ru-tơ, Thi Thiên, Ê-sai,
Giê-rê-mi, Ca thương và Xa-cha-ri (dầu người sử dụng bản văn của các sách
này được thay đổi chút ít từ những sách đã được bảo quản trong các bản văn
Hê-bơ-rơ tiêu chuẩn sau này). Cũng thường tham khảo đến các nguồn tin
khác: “Sách ký lược của các vua Y-sơ-ra-ên” (ISu1Sb 9:1; IISu 2Sb 20:34 so
sánh IISu 2Sb 33:18), “Sử ký của vua Đa-vít” (ISu1Sb 27:24), “sách các vua
Giu-đa và Y-sơ-ra-ên” hoặc “sách của vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa” (IISu 2Sb
16:11 25:26; 27:7; 28:26; 32:32; 35:27; 36:8), “sách truyện các vua” (IISu
2Sb 24:27). Không rõ tất cả những sách này chỉ về cũng một nguồn hoặc các
nguồn khác nhau, và có liên hệ gì với các sách Sa-mu-ên và Các Vua, hoặc
các sử biên niên nói đến trong Các Vua. Thêm nữa, trước giả còn kể ra một
số các bản viết tiên tri: “Sách của Sa-mu-ên, đấng tiên kiến” (ISu1Sb 29:29),
“sách của Na-than, đấng tiên tri (ISu1Sb 29:29; IISu 2Sb 9:29), “sách của
Gát, đấng tiên kiến” (ISu1Sb 29:29), “sách của tiên tri A-hi-gia, người Si-lô”
(IISu 2Sb 9:29), “sách dị tượng của Giê-đô, đấng tiên kiến” (IISu 2Sb 9:29;
12:15; 13:22), “sách truyện của Sê-ma-gia, đấng tiên tri” (IISu 2Sb 12:15),
“tiên tri Ê-sai” (IISu 2Sb 26:22), “truyện Hô-xai” (IISu 2Sb 33:19). Người
dùng tất cả những sách này, đôi khi chỉ thay đổi chút ít, để thuật lại câu
chuyện về quá khứ của chính mình. Người không sáng tác, nhưng đã lựa
chọn, sắp đặt, và kết hợp những nguồn tin của mình để soạn “bài giảng”
tường thuật cho Y-sơ-ra-ên sau lưu đày, đang khi tuyển dân phấn đấu để tự
tái định hướng như con dân Thương Đế trong hoàn cảnh mới.
Mục đích và chủ đề:
Như các trước giả sách Sa-mu-ên và Các Vua đã sắp xếp và giải thích các dữ
kiện của lịch sử Y-sơ-ra-ên để đáp ứng nhu cầu của cộng đồng bị lưu đày,
cũng vậy sử gia đã viết cho cộng đồng phục hồi. Vấn đề tranh luận sôi nổi là
thắc mắc về sự liên tục với quá khứ: Liệu Đức Chúa Trời có còn quan tâm
đến chúng ta không? Liệu những giao ước của Chúa có còn hiệu lực gì
không? Bây giờ chúng ta chẳng còn vua thuộc nhà Đa-vít và đang phục tùng
Phe-rơ-sơ, liệu các lời Đức Chúa Trời hứa với Đa-vít còn ý nghĩa đối với
chúng ta không? Sau cơn đoán phạt lớn (sự truất phế ngai vàng của nhà Đa-
vít, sự tiêu diệt quốc gia, thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền thờ, cùng lưu
đày tại Ba-by-lôn), liên hệ của chúng ta đối với Y-sơ-ra-ên xưa ra sao? Có
vài yếu tố đi vào lời giải đáp của sử gia:
1. Sự liên tục với quá khứ rất có ý nghĩa bởi Đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, xây
dựng lại bởi ảnh hưởng tối cao của Chúa trên chiếu chỉ của hoàng đế Phe-rơ-
sơ (IISu 2Sb 36:22-23). Đối với thế hệ không hưởng tình trạng độc lập, và
không có vua thuộc dòng Đa-vít, trước giả lấy làm đau lòng bày tỏ rằng Đền
thờ của Chúa và sự thờ phượng (gồm cả sách cầu nguyện và ngợi khen, các
Thi thiên đầu tiên) là các tặng phẩm tối cao Đức Chúa Trời ban cho Y-sơ-ra-
ên qua triều đại Đa-vít.Vì lý do đó, câu chuyện đời trị vì của vua Đa-vít và
Sa-lô-môn được dành phần lớn cho việc chuẩn bị của Đa-vít để Sa-lô-môn
xây cất Đền thờ, và các chỉ thị của Đa-vít về sự phục vụ nơi Đền thờ (với lời
khuyên của Gát, đấng tiên kiến và Na-than, đấng tiên tri, IISu 2Sb 29:25,
cùng những người Lê-vi là A-sáp, Hê-man và Giê-đu-thun, IISu 2Sb 35:15).
Cũng xem các câu chuyện của sử gia về các đời trị vì của A-se, Giô-sa-phát,
Ê-xê-chia và Giô-sia. Đền thờ của Chúa trong thành thánh xưa và sự phục
vụ (kể cả những Thi thiên) là di sản chính mà nhà Đa-vít đã để lại cho cộng
đồng phục hồi.
2. Giá trị của di sản này được trước giả nhấn mạnh làm nổi bật những mục
đích đầy ân phúc của Đức Chúa Trời dành cho Y-sơ-ra-ên qua những hành
động tuyển chọn cao cả của Ngài: (1) Chi phái Lê-vi để phục vụ trước rương
giao ước (ISu1Sb 15:2; xem 23:24-32), (2) Đa-vít làm vua trên Y-sơ-ra-ên
(ISu1Sb 28:4; IISu 2Sb 6:6), (3) Sa-lô-môn làm vua và xây cất Đền thờ
(ISu1Sb 28:5-6,10; 29:1), (4) Về Giê-ru-sa-lem (IISu 2Sb 6:6,34,38; 12:13;
33:7) và (5) Về Đền thờ (IISu 2Sb 7:12,16; 33:7) làm nơi danh Chúa luôn
hiện diện giữa dân Ngài. Những hành động thiên thượng này đảm bảo cho
Y-sơ-ra-ên sau thời phu tù rằng họ xây lại Đền thờ tại Giê-ru-sa-lem và tiếp
tục thờ phượng đánh dấu họ là dân của Đức Chúa Trời và sự lựa chọn đó
không bị hủy bỏ.
3. Thêm vào Đền thờ, Y-sơ-ra-ên có luật pháp và lời tiên tri như Đa-vít.
Chẳng phải Đền thờ hoặc các vua thuộc nhà Đa-vít có thể tự bảo đảm an
ninh và phước lành cho Y-sơ-ra-ên. Hết thảy đều tùy thuộc vào điều kiện Y-
sơ-ra-ên và các vua trung tín giữ luật lệ Chúa (ISu1Sb 28:7; IISu 2Sb 6:16;
7:17; 12:1; 33:8). Trong câu chuyện của sử gia, nét đặc trưng chính của triều
đại mỗi vua trung tín thuộc nhà Đa-vít cố gắng thuận phục luật pháp Chúa:
Đa-vít (ISu1Sb 6:49; 15:13-15; 16:40; 22:12-13; 29:19), A-sa (IISu 2Sb
14:4; 15:12-14), Giô-sa-phát (IISu 2Sb 17:3-9; 19:8-10), Giô-ách (IISu 2Sb
24:6-9), Ê-xê-chia (IISu 2Sb 29:10,31; 30:15-16; 31:3-4,21), Giô-sia (IISu
2Sb 34:19-21,29-33; 35:6,12,26). Việc chú ý đến những lời tiên tri của Đức
Chúa Trời cũng quan trọng không kém. Các vua trung tín như Đa-vít, A-sa,
Giô-sa-phát, Ê-xê-chia và Giô-sia - cả đến Rô-bô-am (IISu 2Sb 11:4; 12:6)
và A-ma-xia (IISu 2Sb 25:7-10) - đều tôn trọng lời đó, những vua bất trung
không để ý đến lời tiên tri đều đến chỗ hủy diệt (Giô-ram, IISu 2Sb 21:12-
19; Giô-ách, IISu 2Sb 24:19-25; A-ma-xia, IISu 2Sb 25:15-16,20; Ma-na-se,
IISu 2Sb 33:10-11; xem 36:15-16). Quả thật, sách sử ký ghi chép chức vụ
của các tiên tri nhiều hơn sách Sa-mu-ên và Các vua. Lời Giô-sa-phát nói
với Y-sơ-ra-ên bày tỏ cách ngắn gọn quan điểm của nhà chép sử: “Khá tin
cậy Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, thì các người sẽ vững chắc,
hãy tin các đấng tiên tri Ngài, thì các ngươi sẽ được may mắn” (IISu 2Sb
20:20). Trong câu chuyện sử gia thuật cho các năm dưới đời các vua trị vì,
việc Y-sơ-ra-ên đáp ứng với luật pháp và lời tiên tri là điều quyết định vận
mệnh của tuyển dân hơn đời trị vì của các vua nữa.
Như thế luật pháp và lời tiên tri, giống như Đền thờ, là chủ yếu mối quan hệ
liên tục Y-sơ-ra-ên với Chúa hơn là sự hiện diện hoặc khiếm diện của vua,
đời trị vì của chính các vua thuộc dòng Đa-vít làm chứng cho điều đó.
4. Hơn nữa, sử gia còn nhấn mạnh tầm quan trọng của sự vâng giữ luật pháp
và lời tiên tri bằng cách nhấn mạnh chủ đề trừng phạt tức thì. Xem lời phát
biểu của Đa-vít (ISu1Sb 28:9), của Đức Giê-hô-va (IISu 2Sb 7:14), của các
tiên tri (IISu 2Sb 12:5; 15:2,7; 16:7,9; 19:2-3; 21:14-15; 24:20; 25:15-16;
28:9; 34:24-28). Trong lúc ghi chép về các đời trị vì của từng cá nhân, trước
giả không ngớt minh chứng cách nào tội lỗi luôn luôn đem lại đoán phạt
dưới hình thức tai hoạ (thường là bịnh tật hay bại trận), ngược lại ăn năn,
vâng phục và tin cậy sinh ra hoà bình, đắc thắng và thịnh vượng.
5. Rõ ràng trước giả sách Sử ký ước mong bồi dưỡng hi vọng của Y-sơ-ra-ên
về Đấng Mê-si đã hứa, là con Đa-vít, theo giao ước Đa-vít (IISa 2Sm 7:1-
29) là những bảo đảm của lời tiên tri, kể cả những tiên tri sống gần với
người (A-ghê, Xa-cha-ri và Ma-la-chi). Người cẩn thận nhắc nhở lời cam kết
của Đức Giê-hô-va đối với Đa-vít (ISu1Sb 17:1-27) cặp theo nhiều lời trích
dẫn hậu thuẫn cho cam kết đó (xem ghi chép đặc biệt về đời trị vì của Sa-lô-
môn và cũng như IISu 2Sb 13:5; 21:7; 23:3). Nhưng có lẽ rõ rệt hơn là sự
mô tả lý tưởng của người về Đa-vít, Sa-lô-môn, A-sa, Giô-sa-phát, Ê-xê-chia
và Giô-sia. Dầu không mô tả hoàn mỹ, các vua này được trình bày như
gương chứng chủ yếu của lý tưởng Mê-si, tức là, những tôi tớ hoàng gia của
Đức Giê-hô-va mà đời trị vì của họ đẩy mạnh sự tin kính và lòng trung thành
với giao ước trong Y-sơ-ra-ên. Họ được ban thưởng ân huệ của Đức Chúa
Trời đối với các dân Ngài trong các hình thức cụ thể về chiến thắng, giải
phóng và thịnh vượng. Hơn nữa, họ ngồi trên “ngai của Chúa” (ISu1Sb
29:23; xem ISu1Sb 28:5; IISu 2Sb 9:8) và trị vì trên vương quốc của Chúa
(ISu1Sb 17:14; IISu 2Sb 13:8). Như thế , họ phục vụ như những kiểu mẫu,
báo trước về Đa-vít hầu đến mà các đấng tiên tri đã đề cập, và tưởng nhớ của
họ, nuôi dưỡng hi vọng, ở trước nhiều cảnh ngã lòng (xem sách Ma-la-chi).
Xem thêm phần kế “Chân dung Đa-vít và Sa-lô-môn”.
6. Còn chủ đề lớn khác về lịch sử của nhà chép sử là mối quan tâm của
người đối với “toàn Y-sơ-ra-ên” (xem, thí dụ, ISu1Sb 9:1; 11:1-4; 12:38-40;
16:1-3; 18:14; 21:1-5; 28:1-8; 29:21-26; IISu 2Sb 1:1-3; 7:8-10; 9:30; 10:1-
3,16; 12:1; 18:16; 28:23; 29:24; 30:1-13,23-27; 34:6-9,33). Thực tế là, trước
giả nhìn cộng đồng phục hồi là dân sót của cả Y-sơ-ra-ên, cả bắc lẫn nam
(ISu1Sb 9:2-3). Đây là luật sự nhận thức thần học nhiều hơn. Bài tường
thuật của người thường chú ý đến những di chuyển của người tin kính từ Y-
sơ-ra-ên đến Giu-đa vì những lý do tôn giáo đặc biệt. Trước hết là người Lê-
vi trong thời Rô-bô-am (IISu 2Sb 11:14). Trong đời A-sa trị vì có những
người khác đi theo từ Ép-ra-im và Ma-na-se (IISu 2Sb 15:9). Ít lâu sau khi
A-si-ri hủy diệt nước phía bắc, nhiều người từ đất nước hoang tàn đó tái
định cư tại Giu-đa theo lời mời của Ê-xê-chia (IISu 2Sb 30:1-27). Rất có thể
không phải tất cả những người đến dự đại lễ Vượt Qua trong đời Ê-xê-chia
đều ở lại, nhưng khảo cổ học đã chỉ rõ ràng vào thời này thình lình có sự
tăng gia dân số đột ngột vùng phụ cận Giê-ru-sa-lem, và sử gia đặc biệt nói
đến “người Y-sơ-ra-ên... ở trong các thành xứ Giu-đa” (IISu 2Sb 31:6).
Trước giả cũng nói đến “người Ma-na-se, người Ép-ra-im, và những kẻ còn
sót lại trong Y-sơ-ra-ên,” đã kết hợp với “người Giu-đa và Bên-gia-min và
những dân cư thành Giê-ru-sa-lem” trong sự sửa sang lại Đền thờ nhằm đời
Giô-si-a (IISu 2Sb 34:9). Những người này cũng có mặt tại Lễ Vượt qua của
Giô-sia (IISu 2Sb 34:9). Những người này cũng có mặt tại lễ Vượt qua của
Giô-sia (IISu 2Sb 35:17-18). Vậy nước “Giu-đa” trải qua các năm đã thu hút
nhiều người từ nước phía Bắc, và trước giả đã coi đó là dân sót lại của cả Y-
sơ-ra-ên từ thời Sa-ma-ri thất thủ.
7. Những gia phả cũng chứng minh sự liên lạc với quá khứ. Đối với câu hỏi:
“Liệu Đức Chúa Trời có còn chú ý đến chúng ta nữa không?” Sử gia đáp:
“Vẫn còn luôn”. Ân phúc và tình yêu của Đức Chúa Trời đối với cộng đồng
khôi phục chẳng phải khởi sự với Đa-vít, hoặc với sự chinh phục Đất hứa,
hoặc với sự xuất hành khỏi Ai-cập - bèn là với sự sáng tạo muôn vật
(ISu1Sb 1:1). Về các gia phả xin xem ở dưới.
8. Sử gia cũng thường giới thiệu các diễn từ không thấy nói đến trong sách
Sa-mu-ên và Các Vua, sử dụng chúng để truyền đạt các điểm chính cần nhấn
mạnh của mình. Trong số 165 diễn từ dài ngắn khác nhau trong Sử ký, chỉ
có 95 diễn từ thấy nói đến trong bản văn tương ứng Sa-mu-ên và Các Vua.
So sánh, thí dụ, những diễn từ của A-bi-gia (IISu 2Sb 13:4-12), A-sa (IISu
2Sb 14:11) và Giô-sa-phát (IISu 2Sb 20:5-12).
Chân dung của Đa-vít và Sa-lô-môn:
Phần lớn lịch sử của trước giả dành cho các đời trị vì của Đa-vít (ISu1Sb
11:1-29:30) và Sa-lô-môn (IISu 2Sb 1:1-9:44). Những chân dung của hai
vua này thật đặc biệt và cung ứng các mối quan tâm chủ yếu của trước giả:
1. Sử gia đã lý tưởng hoá Đa-vít và Sa-lô-môn. Bất cứ điều gì ở trong nguồn
tài liệu (chính yếu là sách Sa-mu-ên và Các vua) có thể làm lu mờ hình ảnh
về họ đều bị loại ra. Trước giả không đề cập đến 7 năm trị vì tại Hếp-rôn
trước khi thống nhất đất nước, cuộc chiến giữa nhà Sau-lơ và Đa-vít, những
cuộc điều đình với An-ne, những khó khăn về Mi-canh, vợ Đa-vít, hoặc sư
mưu sát Áp-ne và Ích-bô-sết (IISa 2Sm 1:1-4:22). Sử gia trình bày Đa-vít
như được xức dầu làm vua cả Y-sơ-ra-ên ngay tức thì sau khi Sau-lơ qua đời
(ISu1Sb 11:1-47) và hưởng được sự ủng hộ của toàn dân (ISu1Sb 11:10-
12:40; xem chú thích ở 3:1-9). Những sự khó khăn sau này của Đa-vít cũng
không được thuật lại. Không nêu lên tội Đa-vít với Bát-sê-ba, tội ác và sự
chết của Am-môn, Áp-sa-lôm giết anh, và âm mưu phản nghịch vua, việc
Đa-vít chạy trốn có thể giảm bớt vinh quang của triều đại Đa-vít (IISa 2Sm
11:1-20:26). Đa-vít được giới thiệu là không tì vít, ngoại trừ việc kiểm tra
dân số (Sử gia có mục đích đặc biệt khi bao gồm chuyện đó, xem ISu1Sb
21:1-30 và chú thích).
Sử gia cũng luận giải về Sa-lô-môn cách tương tự, Sa-lô-môn được đặt tên
cách đặc biệt trong lời sấm truyền như người kế vị Đa-vít (ISu1Sb 22:7-10;
28:6). Người lên ngôi cũng được Đa-vít loan báo công khai với sự ủng hộ
nhất trí của Y-sơ-ra-ên (ISu1Sb 28:1-29:30). Không hề nói đến Đa-vít trong
cơn bạo bệnh nằm liệt giường mà phải lật đổ cuộc đảo chánh của A-đô-ni-
gia vào giờ chót để giữ vững ngai vàng cho Sa-lô-môn. Cũng không đề cập
việc tư lệnh quân đội là Giô-áp và thầy tế lễ tối cao A-bi-tha ủng hộ mưu đồ
của A-đô-ni-gia (IVua 1V 1:1-53). Việc Sa-lô-môn hành quyết những người
làm hại Đa-vít (IVua 1V 2:1-46) cũng được bỏ qua. Sa-lô-môn lên ngôi hoàn
toàn không có sự tranh giành, hoặc có sự việc nào làm giảm giá trị. Chuyện
đời trị vì của người hầu như chuyên lo xây cất Đền thờ (IISu 2Sb 2:1-8:18),
không hề trích dẫn đến những thất bại của người. Không hề nói đến sự thờ
hình tượng, các vợ ngoại bang của người hoặc cuộc phản loạn nghịch cùng
ngôi nước người (IVua 1V 11:1-43). Ngay cả đến trách nhiệm về sự phân
tranh cũng loại bỏ khỏi Sa-lô-môn (IVua 1V 11:26-40; 12:1-4) và đặt trên
mưu đồ của Giê-rô-bô-am. Hình ảnh của Sa-lô-môn trong sách Sử ký như có
thể đi đôi với Đa-vít trong ánh sáng thuận hảo nhất (IISu 2Sb 11:17).
Kế đó Đa-vít và Sa-lô-môn của sử gia phải được nhìn là Đa-vít và Sa-lô-
môn của lịch sử, mà cũng tiêu biểu về vua Mê-si mà Sử gia trông đợi.
2. Không chỉ lý tưởng hoá Đa-vít và Sa-lô-môn, mà trước giả dường như
cũng có ý chấp nhận chuyện Giô-suê kế vị Môi-se như là kiểu mẫu cho việc
Sa-lô-môn kế thừa Đa-vít.
a. Cả Đa-vít lẫn Môi-se đều không đạt được mục đích - một người không
được cất Đền thờ, còn người kia không được vào Đất Hứa. Trong cả hai
trường hợp, cấm lịnh thiên thượng đều liên can đến sự chỉ định người thừa
kế (ISu1Sb 22:5-13; 28:2-8; PhuDnl 1:37-38; 31:2-8).
b. Cả Sa-lô-môn lẫn Giô-suê đều đem dân Chúa vào sự yên nghỉ (ISu1Sb
22:8-9; Gios Gs 11:23; 21:44).
c. Có một số lời tương đương trong sự chỉ định Sa-lô-môn và Giô-suê (so
sánh ISu1Sb 22:11-13,16; 28:7-10,20; IISu 2Sb 1:1 với PhuDnl 31:5-8,23;
Gios Gs 1:5,7-9).
d. Có cả lời loan báo riêng tư lẫn công khai về sự chỉ định người kế vị: riêng
tư (ISu1Sb 22:6; PhuDnl 31:23), công khai (ISu1Sb 28:8; PhuDnl 31:7 - cả
hai “đều ở trong sự hiện diện, quan sát của Y-sơ-ra-ên”).
e. Cả hai đều được sự ủng hộ trực tiếp và hết lòng của dân chúng (ISu1Sb
29:23-24; PhuDnl 34:9; Gios Gs 1:16-18).
f. Có hai lần chép rằng Đức Chúa Trời khiến Sa-lô-môn và Giô-suê “rất cao
trọng” (ISu1Sb 29:25; IISu 2Sb 1:1; Gios Gs 3:7; hoặc “tôn người lên”, Gios
Gs 4:14).
Sử gia cũng dùng các kiểu mẫu khác rút trong lịch sử ngũ kinh để tả vẽ hình
ảnh Đa-vít và Sa-lô-môn. Giống Môi-se, Đa-vít đã nhận các hoạ đồ Đền thờ
từ Đức Chúa Trời (ISu1Sb 28:11-19; XuXh 25:9) và kêu gọi dân chúng đem
lễ vật lạc hiến đến cho việc xây cất (ISu1Sb 29:1-9; XuXh 25:1-7). Sa-lô-
môn liên hệ với Hu-ram A-bi, nghệ nhân từ Ty-rơ (IISu 2Sb 2:13-14) lặp lại
vai trò của Bết-sa-lê-ên và Ô-hô-li-áp trong việc xây dựng Đền tạm (XuXh
35:30-36:7). Xem chú thích ở IISu 2Sb 1:5.
Những gia phả:
Sự phân tích các gia phả ở trong và ngoài Thánh Kinh tiết lộ rằng chúng
được dùng vào một số chức năng (với các nguyên tắc khác nhau chi phối các
bản liệt kê), và chúng thay đổi về hình thức (có khi được phân đoạn, có khi
theo hàng thẳng) và chiều sâu (một số thế hệ được liệt kê) và chúng thường
thay đổi (chủ đề thay đổi).
Có ba lãnh vực chung trong chức năng của các gia phả: thuộc gia đình hoặc
trong nước, thuộc chính trị hợp pháp, và thuộc tôn giáo. Trong lãnh vực
trong nước, địa vị xã hội của cá nhân, đặc ân và nghĩa vụ có thể phản ánh
trong thứ bậc của dòng họ (xem ISu1Sb 7:14-19), đặc quyền trưởng nam, và
thân phận phụ thuộc của con dòng vợ lẽ là những gương chứng từ Kinh
thánh. Trong lãnh vực chính trị các gia phả chứng minh những đòi hỏi chức
vụ kế thừa hoặc giải quyết những thỉnh cầu khi có sự tranh chấp về chức
nhiệm đó. Tổ chức đất đai và sự tập hợp các đơn vị xã hội thành nhóm trên
lãnh thổ cũng có thể nhờ gia phả định đoạt - thí dụ, sự chia đất hứa cho 12
chi phái. Trong Y-sơ-ra-ên sự tuyển quân cũng tiếp diễn theo dòng gia phả,
có mấy gia phả trong sách Sử ký phản ánh sự cưỡng bách tòng quân (ISu1Sb
5:1-26; 7:1-12,30-40; 8:1-40). Những gia phả có chức năng trong lãnh vực
tôn giáo góp phần chính trong việc thiết lập địa vị thành viên giữa vòng các
thầy tế lễ và người Lê-vi (ISu1Sb 6:1-30; 9:10-34; NeNe 7:61-65).
Về hình thức, một danh sách gia phả vạch ra nhiều dòng dõi (các gia phả
được phân đoạn) còn các gia phả khác chuyên về một dòng trực hệ (các gia
phả thuộc trực hệ).
So sánh các bản liệt kê gia phả cùng một chi phái hoặc gia đình thường đưa
ra ánh sáng những khác biệt đáng ngạc nhiên. Sự thay đổi các danh sách này
có thể phản ánh chức năng khác nhau. Nhưng đôi khi những thay đổi trong
thân phận hoặc liên hệ đến cơ cấu xã hội được phản ánh trong các gia phả
bởi những thay đổi liên hệ đến những tên trong gia phả (xem ISu1Sb 1:35-
42; 6:22,27), hoặc bởi thêm vào tên hoặc phân đoạn cho một dòng họ (xem
ISu1Sb 5:11-22; 6:27; 7:6-12). Loại thay đổi thông thường nhất trong các tài
liệu Kinh thánh là thu gọn lại, tức bỏ một số tên khỏi danh sách. Những tên
không quan trọng được loại bỏ để liên hệ một cá nhân với tổ phụ xuất chúng,
hoặc có thể là để hoàn tất số tên muốn có trong gia phả. Thí dụ như, vài gia
phả Thánh Kinh bỏ những tên để hoàn thành bội số của 7: Về thời kỳ từ Đa-
vít đến kỳ lưu đày Ma-thi-ơ ghi 14 thế hệ (2 lần 7), trong khi Lu-ca ghi 21 (3
lần 7), và cũng những trước giả ấy đã cho bội số tương tự của ý kể từ thời
lưu đày đến Chúa Giê-xu (Mat Mt 1:1-17; LuLc 3:23-38).
Những gia phả của sách Sử ký bày tỏ sự thay đổi của các đặc tính này, sự
sắp đặt thường phản ánh mục đích của gia phả được soạn trước khi trước giả
sách Sử ký chấp nhận như một phần ghi chép của mình.
Bố cục:
I. Các gia phả: Từ sáng tạo đến sự phục hồi (ISu1Sb 1:1-9:44)
A. Các tộc trưởng (1:1-54)
B. Mười hai con trai Gia-cốp (Y-sơ-ra-ên) (2:1-2)
C. Gia đình Giu-đa (2:3-4:23)
D. Các con trai của Si-mê-ôn (4:24-43)
E. Ru-bên, Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se (5:1-26)
F. Lê-vi và các gia đình (6:1-81)
G. Y-sa-ca, Bên-gia-min, Nép-ta-li, Ma-na-se, Ép-ra-im và A-se (7:1-9:44)
II. Triều đại Đa-vít (ISu1Sb 10:1-29:30)
A. Sau-lơ qua đời (10:1-14)
B. Chiếm thành Giê-ru-sa-lem: Nền tảng quyền năng của Đa-vít (11:1-
12:40)
C. Rương giao ước trở về: Thiết lập vương quốc Đa-vít (13:1-16:43)
D. Lời hứa cho triều đại (17:1-27)
E. Những cuộc chinh phục của Đa-vít (18:1-20:8)
F. Kiểm tra dân số (21:1-30)
G. Những chuẩn bị cho Đền thờ (22:1-19)
H. Tổ chức sự phục vụ trong Đền thờ (23:1-26:32)
I. Cơ cấu hành chính của vương quốc (27:1-34)
J. Những sửa soạn cuối cùng của Đa-vít cho sự kế vị và Đền thờ (28:1-
29:20)
K. Sự kế vị của Sa-lô-môn: Đa-vít qua đời (29:21-30)
III. Đời trị vì của Sa-lô-môn (IISu 2Sb 1:1-9:44)
A. Ân tứ khôn ngoan (1:1-54)
B. Xây cất Đền thờ (2:1-5:1)
C. Khánh thành Đền thờ (5:2-7:22)
D. Các hoạt động khác của Sa-lô-môn (8:1-40)
E. Sự khôn ngoan, sang trọng và sự qua đời của Sa-lô-môn (9:1-44)
IV. Sự phân tranh, và lịch sử các vua Giu-đa (IISu 2Sb 10:1-36:23)
A. Rô-bô-am (10:1-12:40)
B. A-bi-gia (13:1-14:1)
C. A-sa (14:2-16:14)
D. Giô-sa-phát (17:1-21:3)
E. Giô-ram và A-cha-xia (21:4-22:9)
F. Giô-ách (22:10-24:27)
G. A-ma-xia (25:1-31)
H. Ô-xia (26:1-32)
I. Giô-tham (27:1-34)
J. A-cha (28:1-21)
K. Ê-xê-chia (29:1-32:32)
L. Ma-na-se (33:1-20)
M. A-môn (33:21-25)
N. Giô-sia (34:1-36:1)
O. Những người kế vị Giô-sia (36:2-14)
P. Lưu đày và hồi phục (36:15-23).
Dẫn nhập II Sử ký
Nhan đề:
Nhan đề bằng tiếng Hê-bơ-rơ (dibre hayyamim) có thể dịch là “Những sự
việc (hoặc sử biên niên) của những ngày (hoặc năm)”. Cũng nhóm từ này
xuất hiện liên quan đến các nguồn tin mà trước giả hay soạn giả Các Vua
dùng (dịch là “sử ký” trong thí dụ IVua 1V 14:19,29; 15:7,23,31;
16:5,14,20,27; 22:46). Dịch giả bản LXX (bản dịch cựu ước ra tiếng Hy
Lạp) gọi sách này là “những việc đã bỏ qua”, chỉ dấu rằng họ coi đây là sự
bổ sung cho sách Sa-mu-ên và Các Vua. Jérome (347 - 420 S.C) dịch giả
bản Vulgate La-tinh gợi ý nhan đề thích hợp hơn phải là “ký sự của toàn bộ
Thánh sử”. Luther đã theo gợi ý đó trong bản dịch ra Đức ngữ, nhiều người
khác cũng theo nhà Cải chánh. Các dịch giả bản LXX là những người đầu
tiên đã chia sách Sử ký làm hai phần.
Trước giả, niên hiệu và nguồn tin:
Theo truyền thuyết xưa của người Do Thái, E-xơ-ra viết sách Sử ký, E-xơ-ra
và Nê-hê-mi (xem phần Dẫn nhập E-xơ-ra: Hình thức văn học và tác quyền),
nhưng điều này không thể thiết lập cách chắc chắn. Ngày càng có sự nhất trí
định niên hiệu sách Sử ký là vào hạ bán thế kỷ thứ 5 TC, như thế có lẽ là
nhằm đời E-xơ-ra. Phải thừa nhận rằng trước giả, nếu không phải chính là E-
xơ-ra, thì ít nhất cũng chia sẻ những liên hệ căn bản với thầy tế lễ cải cách
đó - đầu sách Sử ký không phải quá thu hẹp trong phối cảnh “tế lễ” như từ
lâu người ta đã xác quyết.
Có người tin rằng bản văn chứa đựng bằng cớ đây đó những phần mở rộng
sau khi công việc căn bản đã soạn xong. Trong khi những sự duyệt xét biên
tập là không thể có, tất cả những đề nghị cụ thể để xem xét các phần đó chỉ
là thăm dò mà thôi.
Trong sự thuật lại lịch sử quá khứ lâu dài, sử gia phải dựa vào nhiều nguồn
đã viết ra. Độ phân nửa công tác của sử gia lấy từ các sách Sa-mu-ên và Các
Vua, người cũng rút ra từ Ngũ Kinh, Các quan xét, Ru-tơ, Thi-thiên, Ê-sai,
Giê-rê-mi, Ca thương và Xa-cha-ri (dầu người sử dụng bản văn của các sách
này được thay đổi chút ít từ những sách đã được bảo quản trong các bản văn
Hê-bơ-rơ tiêu chuẩn sau này). Cũng thường tham khảo đến các nguồn tin
khác: “Sách ký lược của các vua Y-sơ-ra-ên” (ISu1Sb 9:1; IISu 2Sb 20:34 so
sánh IISu 2Sb 33:18), “Sử ký của vua Đa-vít” (ISu1Sb 27:24), “sách các vua
Giu-đa và Y-sơ-ra-ên” hoặc “sách của vua Y-sơ-ra-ên và Giu-đa” (IISu 2Sb
16:11 25:26; 27:7; 28:26; 32:32; 35:27; 36:8), “sách truyện các vua” (IISu
2Sb 24:27). Không rõ tất cả những sách này chỉ về cũng một nguồn hoặc các
nguồn khác nhau, và có liên hệ gì với các sách Sa-mu-ên và Các Vua, hoặc
các sử biên niên nói đến trong Các Vua. Thêm nữa, trước giả còn kể ra một
số các bản viết tiên tri: “Sách của Sa-mu-ên, đấng tiên kiến” (ISu1Sb 29:29),
“sách của Na-than, đấng tiên tri (ISu1Sb 29:29; IISu 2Sb 9:29), “sách của
Gát, đấng tiên kiến” (ISu1Sb 29:29), “sách của tiên tri A-hi-gia, người Si-lô”
(IISu 2Sb 9:29), “sách dị tượng của Giê-đô, đấng tiên kiến” (IISu 2Sb 9:29;
12:15; 13:22), “sách truyện của Sê-ma-gia, đấng tiên tri” (IISu 2Sb 12:15),
“tiên tri Ê-sai” (IISu 2Sb 26:22), “truyện Hô-xai” (IISu 2Sb 33:19). Người
dùng tất cả những sách này, đôi khi chỉ thay đổi chút ít, để thuật lại câu
chuyện về quá khứ của chính mình. Người không sáng tác, nhưng đã lựa
chọn, sắp đặt, và kết hợp những nguồn tin của mình để soạn “bài giảng”
tường thuật cho Y-sơ-ra-ên sau lưu đày, đang khi tuyển dân phấn đấu để tự
tái định hướng như con dân Thương Đế trong hoàn cảnh mới.
Mục đích và chủ đề:
Như các trước giả sách Sa-mu-ên và Các Vua đã sắp xếp và giải thích các dữ
kiện của lịch sử Y-sơ-ra-ên để đáp ứng nhu cầu của cộng đồng bị lưu đày,
cũng vậy sử gia đã viết cho cộng đồng phục hồi. Vấn đề tranh luận sôi nổi là
thắc mắc về sự liên tục với quá khứ: Liệu Đức Chúa Trời có còn quan tâm
đến chúng ta không? Liệu những giao ước của Chúa có còn hiệu lực gì
không? Bây giờ chúng ta chẳng còn vua thuộc nhà Đa-vít và đang phục tùng
Phe-rơ-sơ, liệu các lời Đức Chúa Trời hứa với Đa-vít còn ý nghĩa đối với
chúng ta không? Sau cơn đoán phạt lớn (sự truất phế ngai vàng của nhà Đa-
vít, sự tiêu diệt quốc gia, thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền thờ, cùng lưu
đày tại Ba-by-lôn), liên hệ của chúng ta đối với Y-sơ-ra-ên xưa ra sao? Có
vài yếu tố đi vào lời giải đáp của sử gia:
1. Sự liên tục với quá khứ rất có ý nghĩa bởi Đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, xây
dựng lại bởi ảnh hưởng tối cao của Chúa trên chiếu chỉ của hoàng đế Phe-rơ-
sơ (IISu 2Sb 36:22-23). Đối với thế hệ không hưởng tình trạng độc lập, và
không có vua thuộc dòng Đa-vít, trước giả lấy làm đau lòng bày tỏ rằng Đền
thờ của Chúa và sự thờ phượng (gồm cả sách cầu nguyện và ngợi khen, các
Thi thiên đầu tiên) là các tặng phẩm tối cao Đức Chúa Trời ban cho Y-sơ-ra-
ên qua triều đại Đa-vít.Vì lý do đó, câu chuyện đời trị vì của vua Đa-vít và
Sa-lô-môn được dành phần lớn cho việc chuẩn bị của Đa-vít để Sa-lô-môn
xây cất Đền thờ, và các chỉ thị của Đa-vít về sự phục vụ nơi Đền thờ (với lời
khuyên của Gát, đấng tiên kiến và Na-than, đấng tiên tri, IISu 2Sb 29:25,
cùng những người Lê-vi là A-sáp, Hê-man và Giê-đu-thun, IISu 2Sb 35:15).
Cũng xem các câu chuyện của sử gia về các đời trị vì của A-se, Giô-sa-phát,
Ê-xê-chia và Giô-sia. Đền thờ của Chúa trong thành thánh xưa và sự phục
vụ (kể cả những Thi thiên) là di sản chính mà nhà Đa-vít đã để lại cho cộng
đồng phục hồi.
2. Giá trị của di sản này được trước giả nhấn mạnh làm nổi bật những mục
đích đầy ân phúc của Đức Chúa Trời dành cho Y-sơ-ra-ên qua những hành
động tuyển chọn cao cả của Ngài: (1) Chi phái Lê-vi để phục vụ trước rương
giao ước (ISu1Sb 15:2; xem 23:24-32), (2) Đa-vít làm vua trên Y-sơ-ra-ên
(ISu1Sb 28:4; IISu 2Sb 6:6), (3) Sa-lô-môn làm vua và xây cất Đền thờ
(ISu1Sb 28:5-6,10; 29:1), (4) Về Giê-ru-sa-lem (IISu 2Sb 6:6,34,38; 12:13;
33:7) và (5) Về Đền thờ (IISu 2Sb 7:12,16; 33:7) làm nơi danh Chúa luôn
hiện diện giữa dân Ngài. Những hành động thiên thượng này đảm bảo cho
Y-sơ-ra-ên sau thời phu tù rằng họ xây lại Đền thờ tại Giê-ru-sa-lem và tiếp
tục thờ phượng đánh dấu họ là dân của Đức Chúa Trời và sự lựa chọn đó
không bị hủy bỏ.
3. Thêm vào Đền thờ, Y-sơ-ra-ên có luật pháp và lời tiên tri như Đa-vít.
Chẳng phải Đền thờ hoặc các vua thuộc nhà Đa-vít có thể tự bảo đảm an
ninh và phước lành cho Y-sơ-ra-ên. Hết thảy đều tùy thuộc vào điều kiện Y-
sơ-ra-ên và các vua trung tín giữ luật lệ Chúa (ISu1Sb 28:7; IISu 2Sb 6:16;
7:17; 12:1; 33:8). Trong câu chuyện của sử gia, nét đặc trưng chính của triều
đại mỗi vua trung tín thuộc nhà Đa-vít cố gắng thuận phục luật pháp Chúa:
Đa-vít (ISu1Sb 6:49; 15:13-15; 16:40; 22:12-13; 29:19), A-sa (IISu 2Sb
14:4; 15:12-14), Giô-sa-phát (IISu 2Sb 17:3-9; 19:8-10), Giô-ách (IISu 2Sb
24:6-9), Ê-xê-chia (IISu 2Sb 29:10,31; 30:15-16; 31:3-4,21), Giô-sia (IISu
2Sb 34:19-21,29-33; 35:6,12,26). Việc chú ý đến những lời tiên tri của Đức
Chúa Trời cũng quan trọng không kém. Các vua trung tín như Đa-vít, A-sa,
Giô-sa-phát, Ê-xê-chia và Giô-sia - cả đến Rô-bô-am (IISu 2Sb 11:4; 12:6)
và A-ma-xia (IISu 2Sb 25:7-10) - đều tôn trọng lời đó, những vua bất trung
không để ý đến lời tiên tri đều đến chỗ hủy diệt (Giô-ram, IISu 2Sb 21:12-
19; Giô-ách, IISu 2Sb 24:19-25; A-ma-xia, IISu 2Sb 25:15-16,20; Ma-na-se,
IISu 2Sb 33:10-11; xem 36:15-16). Quả thật, sách sử ký ghi chép chức vụ
của các tiên tri nhiều hơn sách Sa-mu-ên và Các vua. Lời Giô-sa-phát nói
với Y-sơ-ra-ên bày tỏ cách ngắn gọn quan điểm của nhà chép sử: “Khá tin
cậy Đức Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, thì các người sẽ vững chắc,
hãy tin các đấng tiên tri Ngài, thì các ngươi sẽ được may mắn” (IISu 2Sb
20:20). Trong câu chuyện sử gia thuật cho các năm dưới đời các vua trị vì,
việc Y-sơ-ra-ên đáp ứng với luật pháp và lời tiên tri là điều quyết định vận
mệnh của tuyển dân hơn đời trị vì của các vua nữa.
Như thế luật pháp và lời tiên tri, giống như Đền thờ, là chủ yếu mối quan hệ
liên tục Y-sơ-ra-ên với Chúa hơn là sự hiện diện hoặc khiếm diện của vua,
đời trị vì của chính các vua thuộc dòng Đa-vít làm chứng cho điều đó.
4. Hơn nữa, sử gia còn nhấn mạnh tầm quan trọng của sự vâng giữ luật pháp
và lời tiên tri bằng cách nhấn mạnh chủ đề trừng phạt tức thì. Xem lời phát
biểu của Đa-vít (ISu1Sb 28:9), của Đức Giê-hô-va (IISu 2Sb 7:14), của các
tiên tri (IISu 2Sb 12:5; 15:2,7; 16:7,9; 19:2-3; 21:14-15; 24:20; 25:15-16;
28:9; 34:24-28). Trong lúc ghi chép về các đời trị vì của từng cá nhân, trước
giả không ngớt minh chứng cách nào tội lỗi luôn luôn đem lại đoán phạt
dưới hình thức tai hoạ (thường là bịnh tật hay bại trận), ngược lại ăn năn,
vâng phục và tin cậy sinh ra hoà bình, đắc thắng và thịnh vượng.
5. Rõ ràng trước giả sách Sử ký ước mong bồi dưỡng hi vọng của Y-sơ-ra-ên
về Đấng Mê-si đã hứa, là con Đa-vít, theo giao ước Đa-vít (IISa 2Sm 7:1-
29) là những bảo đảm của lời tiên tri, kể cả những tiên tri sống gần với
người (A-ghê, Xa-cha-ri và Ma-la-chi). Người cẩn thận nhắc nhở lời cam kết
của Đức Giê-hô-va đối với Đa-vít (ISu1Sb 17:1-27) cặp theo nhiều lời trích
dẫn hậu thuẫn cho cam kết đó (xem ghi chép đặc biệt về đời trị vì của Sa-lô-
môn và cũng như IISu 2Sb 13:5; 21:7; 23:3). Nhưng có lẽ rõ rệt hơn là sự
mô tả lý tưởng của người về Đa-vít, Sa-lô-môn, A-sa, Giô-sa-phát, Ê-xê-chia
và Giô-sia. Dầu không mô tả hoàn mỹ, các vua này được trình bày như
gương chứng chủ yếu của lý tưởng Mê-si, tức là, những tôi tớ hoàng gia của
Đức Giê-hô-va mà đời trị vì của họ đẩy mạnh sự tin kính và lòng trung thành
với giao ước trong Y-sơ-ra-ên. Họ được ban thưởng ân huệ của Đức Chúa
Trời đối với các dân Ngài trong các hình thức cụ thể về chiến thắng, giải
phóng và thịnh vượng. Hơn nữa, họ ngồi trên “ngai của Chúa” (ISu1Sb
29:23; xem ISu1Sb 28:5; IISu 2Sb 9:8) và trị vì trên vương quốc của Chúa
(ISu1Sb 17:14; IISu 2Sb 13:8). Như thế , họ phục vụ như những kiểu mẫu,
báo trước về Đa-vít hầu đến mà các đấng tiên tri đã đề cập, và tưởng nhớ của
họ, nuôi dưỡng hi vọng, ở trước nhiều cảnh ngã lòng (xem sách Ma-la-chi).
Xem thêm phần kế “Chân dung Đa-vít và Sa-lô-môn”.
6. Còn chủ đề lớn khác về lịch sử của nhà chép sử là mối quan tâm của
người đối với “toàn Y-sơ-ra-ên” (xem, thí dụ, ISu1Sb 9:1; 11:1-4; 12:38-40;
16:1-3; 18:14; 21:1-5; 28:1-8; 29:21-26; IISu 2Sb 1:1-3; 7:8-10; 9:30; 10:1-
3,16; 12:1; 18:16; 28:23; 29:24; 30:1-13,23-27; 34:6-9,33). Thực tế là, trước
giả nhìn cộng đồng phục hồi là dân sót của cả Y-sơ-ra-ên, cả bắc lẫn nam
(ISu1Sb 9:2-3). Đây là luật sự nhận thức thần học nhiều hơn. Bài tường
thuật của người thường chú ý đến những di chuyển của người tin kính từ Y-
sơ-ra-ên đến Giu-đa vì những lý do tôn giáo đặc biệt. Trước hết là người Lê-
vi trong thời Rô-bô-am (IISu 2Sb 11:14). Trong đời A-sa trị vì có những
người khác đi theo từ Ép-ra-im và Ma-na-se (IISu 2Sb 15:9). Ít lâu sau khi
A-si-ri hủy diệt nước phía bắc, nhiều người từ đất nước hoang tàn đó tái
định cư tại Giu-đa theo lời mời của Ê-xê-chia (IISu 2Sb 30:1-27). Rất có thể
không phải tất cả những người đến dự đại lễ Vượt Qua trong đời Ê-xê-chia
đều ở lại, nhưng khảo cổ học đã chỉ rõ ràng vào thời này thình lình có sự
tăng gia dân số đột ngột vùng phụ cận Giê-ru-sa-lem, và sử gia đặc biệt nói
đến “người Y-sơ-ra-ên... ở trong các thành xứ Giu-đa” (IISu 2Sb 31:6).
Trước giả cũng nói đến “người Ma-na-se, người Ép-ra-im, và những kẻ còn
sót lại trong Y-sơ-ra-ên,” đã kết hợp với “người Giu-đa và Bên-gia-min và
những dân cư thành Giê-ru-sa-lem” trong sự sửa sang lại Đền thờ nhằm đời
Giô-si-a (IISu 2Sb 34:9). Những người này cũng có mặt tại Lễ Vượt qua của
Giô-sia (IISu 2Sb 34:9). Những người này cũng có mặt tại lễ Vượt qua của
Giô-sia (IISu 2Sb 35:17-18). Vậy nước “Giu-đa” trải qua các năm đã thu hút
nhiều người từ nước phía Bắc, và trước giả đã coi đó là dân sót lại của cả Y-
sơ-ra-ên từ thời Sa-ma-ri thất thủ.
7. Những gia phả cũng chứng minh sự liên lạc với quá khứ. Đối với câu hỏi:
“Liệu Đức Chúa Trời có còn chú ý đến chúng ta nữa không?” Sử gia đáp:
“Vẫn còn luôn”. Ân phúc và tình yêu của Đức Chúa Trời đối với cộng đồng
khôi phục chẳng phải khởi sự với Đa-vít, hoặc với sự chinh phục Đất hứa,
hoặc với sự xuất hành khỏi Ai-cập - bèn là với sự sáng tạo muôn vật
(ISu1Sb 1:1). Về các gia phả xin xem ở dưới.
8. Sử gia cũng thường giới thiệu các diễn từ không thấy nói đến trong sách
Sa-mu-ên và Các Vua, sử dụng chúng để truyền đạt các điểm chính cần nhấn
mạnh của mình. Trong số 165 diễn từ dài ngắn khác nhau trong Sử ký, chỉ
có 95 diễn từ thấy nói đến trong bản văn tương ứng Sa-mu-ên và Các Vua.
So sánh, thí dụ, những diễn từ của A-bi-gia (IISu 2Sb 13:4-12), A-sa (IISu
2Sb 14:11) và Giô-sa-phát (IISu 2Sb 20:5-12).
Chân dung của Đa-vít và Sa-lô-môn:
Phần lớn lịch sử của trước giả dành cho các đời trị vì của Đa-vít (ISu1Sb
11:1-29:30) và Sa-lô-môn (IISu 2Sb 1:1-9:44). Những chân dung của hai
vua này thật đặc biệt và cung ứng các mối quan tâm chủ yếu của trước giả:
1. Sử gia đã lý tưởng hoá Đa-vít và Sa-lô-môn. Bất cứ điều gì ở trong nguồn
tài liệu (chính yếu là sách Sa-mu-ên và Các vua) có thể làm lu mờ hình ảnh
về họ đều bị loại ra. Trước giả không đề cập đến 7 năm trị vì tại Hếp-rôn
trước khi thống nhất đất nước, cuộc chiến giữa nhà Sau-lơ và Đa-vít, những
cuộc điều đình với An-ne, những khó khăn về Mi-canh, vợ Đa-vít, hoặc sư
mưu sát Áp-ne và Ích-bô-sết (IISa 2Sm 1:1-4:22). Sử gia trình bày Đa-vít
như được xức dầu làm vua cả Y-sơ-ra-ên ngay tức thì sau khi Sau-lơ qua đời
(ISu1Sb 11:1-47) và hưởng được sự ủng hộ của toàn dân (ISu1Sb 11:10-
12:40; xem chú thích ở 3:1-9). Những sự khó khăn sau này của Đa-vít cũng
không được thuật lại. Không nêu lên tội Đa-vít với Bát-sê-ba, tội ác và sự
chết của Am-môn, Áp-sa-lôm giết anh, và âm mưu phản nghịch vua, việc
Đa-vít chạy trốn có thể giảm bớt vinh quang của triều đại Đa-vít (IISa 2Sm
11:1-20:26). Đa-vít được giới thiệu là không tì vít, ngoại trừ việc kiểm tra
dân số (Sử gia có mục đích đặc biệt khi bao gồm chuyện đó, xem ISu1Sb
21:1-30 và chú thích).
Sử gia cũng luận giải về Sa-lô-môn cách tương tự, Sa-lô-môn được đặt tên
cách đặc biệt trong lời sấm truyền như người kế vị Đa-vít (ISu1Sb 22:7-10;
28:6). Người lên ngôi cũng được Đa-vít loan báo công khai với sự ủng hộ
nhất trí của Y-sơ-ra-ên (ISu1Sb 28:1-29:30). Không hề nói đến Đa-vít trong
cơn bạo bệnh nằm liệt giường mà phải lật đổ cuộc đảo chánh của A-đô-ni-
gia vào giờ chót để giữ vững ngai vàng cho Sa-lô-môn. Cũng không đề cập
việc tư lệnh quân đội là Giô-áp và thầy tế lễ tối cao A-bi-tha ủng hộ mưu đồ
của A-đô-ni-gia (IVua 1V 1:1-53). Việc Sa-lô-môn hành quyết những người
làm hại Đa-vít (IVua 1V 2:1-46) cũng được bỏ qua. Sa-lô-môn lên ngôi hoàn
toàn không có sự tranh giành, hoặc có sự việc nào làm giảm giá trị. Chuyện
đời trị vì của người hầu như chuyên lo xây cất Đền thờ (IISu 2Sb 2:1-8:18),
không hề trích dẫn đến những thất bại của người. Không hề nói đến sự thờ
hình tượng, các vợ ngoại bang của người hoặc cuộc phản loạn nghịch cùng
ngôi nước người (IVua 1V 11:1-43). Ngay cả đến trách nhiệm về sự phân
tranh cũng loại bỏ khỏi Sa-lô-môn (IVua 1V 11:26-40; 12:1-4) và đặt trên
mưu đồ của Giê-rô-bô-am. Hình ảnh của Sa-lô-môn trong sách Sử ký như có
thể đi đôi với Đa-vít trong ánh sáng thuận hảo nhất (IISu 2Sb 11:17).
Kế đó Đa-vít và Sa-lô-môn của sử gia phải được nhìn là Đa-vít và Sa-lô-
môn của lịch sử, mà cũng tiêu biểu về vua Mê-si mà Sử gia trông đợi.
2. Không chỉ lý tưởng hoá Đa-vít và Sa-lô-môn, mà trước giả dường như
cũng có ý chấp nhận chuyện Giô-suê kế vị Môi-se như là kiểu mẫu cho việc
Sa-lô-môn kế thừa Đa-vít.
a. Cả Đa-vít lẫn Môi-se đều không đạt được mục đích - một người không
được cất Đền thờ, còn người kia không được vào Đất Hứa. Trong cả hai
trường hợp, cấm lịnh thiên thượng đều liên can đến sự chỉ định người thừa
kế (ISu1Sb 22:5-13; 28:2-8; PhuDnl 1:37-38; 31:2-8).
b. Cả Sa-lô-môn lẫn Giô-suê đều đem dân Chúa vào sự yên nghỉ (ISu1Sb
22:8-9; Gios Gs 11:23; 21:44).
c. Có một số lời tương đương trong sự chỉ định Sa-lô-môn và Giô-suê (so
sánh ISu1Sb 22:11-13,16; 28:7-10,20; IISu 2Sb 1:1 với PhuDnl 31:5-8,23;
Gios Gs 1:5,7-9).
d. Có cả lời loan báo riêng tư lẫn công khai về sự chỉ định người kế vị: riêng
tư (ISu1Sb 22:6; PhuDnl 31:23), công khai (ISu1Sb 28:8; PhuDnl 31:7 - cả
hai “đều ở trong sự hiện diện, quan sát của Y-sơ-ra-ên”).
e. Cả hai đều được sự ủng hộ trực tiếp và hết lòng của dân chúng (ISu1Sb
29:23-24; PhuDnl 34:9; Gios Gs 1:16-18).
f. Có hai lần chép rằng Đức Chúa Trời khiến Sa-lô-môn và Giô-suê “rất cao
trọng” (ISu1Sb 29:25; IISu 2Sb 1:1; Gios Gs 3:7; hoặc “tôn người lên”, Gios
Gs 4:14).
Sử gia cũng dùng các kiểu mẫu khác rút trong lịch sử ngũ kinh để tả vẽ hình
ảnh Đa-vít và Sa-lô-môn. Giống Môi-se, Đa-vít đã nhận các hoạ đồ Đền thờ
từ Đức Chúa Trời (ISu1Sb 28:11-19; XuXh 25:9) và kêu gọi dân chúng đem
lễ vật lạc hiến đến cho việc xây cất (ISu1Sb 29:1-9; XuXh 25:1-7). Sa-lô-
môn liên hệ với Hu-ram A-bi, nghệ nhân từ Ty-rơ (IISu 2Sb 2:13-14) lặp lại
vai trò của Bết-sa-lê-ên và Ô-hô-li-áp trong việc xây dựng Đền tạm (XuXh
35:30-36:7). Xem chú thích ở IISu 2Sb 1:5.
Những gia phả:
Sự phân tích các gia phả ở trong và ngoài Thánh Kinh tiết lộ rằng chúng
được dùng vào một số chức năng (với các nguyên tắc khác nhau chi phối các
bản liệt kê), và chúng thay đổi về hình thức (có khi được phân đoạn, có khi
theo hàng thẳng) và chiều sâu (một số thế hệ được liệt kê) và chúng thường
thay đổi (chủ đề thay đổi).
Có ba lãnh vực chung trong chức năng của các gia phả: thuộc gia đình hoặc
trong nước, thuộc chính trị hợp pháp, và thuộc tôn giáo. Trong lãnh vực
trong nước, địa vị xã hội của cá nhân, đặc ân và nghĩa vụ có thể phản ánh
trong thứ bậc của dòng họ (xem ISu1Sb 7:14-19), đặc quyền trưởng nam, và
thân phận phụ thuộc của con dòng vợ lẽ là những gương chứng từ Kinh
thánh. Trong lãnh vực chính trị các gia phả chứng minh những đòi hỏi chức
vụ kế thừa hoặc giải quyết những thỉnh cầu khi có sự tranh chấp về chức
nhiệm đó. Tổ chức đất đai và sự tập hợp các đơn vị xã hội thành nhóm trên
lãnh thổ cũng có thể nhờ gia phả định đoạt - thí dụ, sự chia đất hứa cho 12
chi phái. Trong Y-sơ-ra-ên sự tuyển quân cũng tiếp diễn theo dòng gia phả,
có mấy gia phả trong sách Sử ký phản ánh sự cưỡng bách tòng quân (ISu1Sb
5:1-26; 7:1-12,30-40; 8:1-40). Những gia phả có chức năng trong lãnh vực
tôn giáo góp phần chính trong việc thiết lập địa vị thành viên giữa vòng các
thầy tế lễ và người Lê-vi (ISu1Sb 6:1-30; 9:10-34; NeNe 7:61-65).
Về hình thức, một danh sách gia phả vạch ra nhiều dòng dõi (các gia phả
được phân đoạn) còn các gia phả khác chuyên về một dòng trực hệ (các gia
phả thuộc trực hệ).
So sánh các bản liệt kê gia phả cùng một chi phái hoặc gia đình thường đưa
ra ánh sáng những khác biệt đáng ngạc nhiên. Sự thay đổi các danh sách này
có thể phản ánh chức năng khác nhau. Nhưng đôi khi những thay đổi trong
thân phận hoặc liên hệ đến cơ cấu xã hội được phản ánh trong các gia phả
bởi những thay đổi liên hệ đến những tên trong gia phả (xem ISu1Sb 1:35-
42; 6:22,27), hoặc bởi thêm vào tên hoặc phân đoạn cho một dòng họ (xem
ISu1Sb 5:11-22; 6:27; 7:6-12). Loại thay đổi thông thường nhất trong các tài
liệu Kinh thánh là thu gọn lại, tức bỏ một số tên khỏi danh sách. Những tên
không quan trọng được loại bỏ để liên hệ một cá nhân với tổ phụ xuất chúng,
hoặc có thể là để hoàn tất số tên muốn có trong gia phả. Thí dụ như, vài gia
phả Thánh Kinh bỏ những tên để hoàn thành bội số của 7: Về thời kỳ từ Đa-
vít đến kỳ lưu đày Ma-thi-ơ ghi 14 thế hệ (2 lần 7), trong khi Lu-ca ghi 21 (3
lần 7), và cũng những trước giả ấy đã cho bội số tương tự của ý kể từ thời
lưu đày đến Chúa Giê-xu (Mat Mt 1:1-17; LuLc 3:23-38).
Những gia phả của sách Sử ký bày tỏ sự thay đổi của các đặc tính này, sự
sắp đặt thường phản ánh mục đích của gia phả được soạn trước khi trước giả
sách Sử ký chấp nhận như một phần ghi chép của mình.
Bố cục:
I. Các gia phả: Từ sáng tạo đến sự phục hồi (ISu1Sb 1:1-9:44)
A. Các tộc trưởng (1:1-54)
B. Mười hai con trai Gia-cốp (Y-sơ-ra-ên) (2:1-2)
C. Gia đình Giu-đa (2:3-4:23)
D. Các con trai của Si-mê-ôn (4:24-43)
E. Ru-bên, Gát và phân nửa chi phái Ma-na-se (5:1-26)
F. Lê-vi và các gia đình (6:1-81)
G. Y-sa-ca, Bên-gia-min, Nép-ta-li, Ma-na-se, Ép-ra-im và A-se (7:1-9:44)
II. Triều đại Đa-vít (ISu1Sb 10:1-29:30)
A. Sau-lơ qua đời (10:1-14)
B. Chiếm thành Giê-ru-sa-lem: Nền tảng quyền năng của Đa-vít (11:1-
12:40)
C. Rương giao ước trở về: Thiết lập vương quốc Đa-vít (13:1-16:43)
D. Lời hứa cho triều đại (17:1-27)
E. Những cuộc chinh phục của Đa-vít (18:1-20:8)
F. Kiểm tra dân số (21:1-30)
G. Những chuẩn bị cho Đền thờ (22:1-19)
H. Tổ chức sự phục vụ trong Đền thờ (23:1-26:32)
I. Cơ cấu hành chính của vương quốc (27:1-34)
J. Những sửa soạn cuối cùng của Đa-vít cho sự kế vị và Đền thờ (28:1-
29:20)
K. Sự kế vị của Sa-lô-môn: Đa-vít qua đời (29:21-30)
III. Đời trị vì của Sa-lô-môn (IISu 2Sb 1:1-9:44)
A. Ân tứ khôn ngoan (1:1-54)
B. Xây cất Đền thờ (2:1-5:1)
C. Khánh thành Đền thờ (5:2-7:22)
D. Các hoạt động khác của Sa-lô-môn (8:1-40)
E. Sự khôn ngoan, sang trọng và sự qua đời của Sa-lô-môn (9:1-44)
IV. Sự phân tranh, và lịch sử các vua Giu-đa (IISu 2Sb 10:1-36:23)
A. Rô-bô-am (10:1-12:40)
B. A-bi-gia (13:1-14:1)
C. A-sa (14:2-16:14)
D. Giô-sa-phát (17:1-21:3)
E. Giô-ram và A-cha-xia (21:4-22:9)
F. Giô-ách (22:10-24:27)
G. A-ma-xia (25:1-31)
H. Ô-xia (26:1-32)
I. Giô-tham (27:1-34)
J. A-cha (28:1-21)
K. Ê-xê-chia (29:1-32:32)
L. Ma-na-se (33:1-20)
M. A-môn (33:21-25)
N. Giô-sia (34:1-36:1)
O. Những người kế vị Giô-sia (36:2-14)
P. Lưu đày và hồi phục (36:15-23).
Sự xây cất Đền thờ trong sách Sử ký:
Nhà chép sử đã dùng lịch sử Ngũ kinh Môi-se như kiểu mẫu cho câu chuyện
các triều đại Đa-vít và Sa-lô-môn của mình. Cũng một lẽ ấy, bản ghi chép
Ngũ kinh về xây dựng Đền tạm ảnh hưởng đến câu chuyện của người về sự
xây cất Đền thờ.
1. Sự xây dựng Đền tạm được giao cho Bết-sa-lê-ên và Ô-hô-li-áp (XuXh
35:30-36:7) và họ cung ứng kiểu mẫu của sử gia về sự liên hệ giữa Sa-lô-
môn và Hu-ram-A-bi (IISu 2Sb 2:13). Thật rất ý nghĩa thấy những tham
khảo duy nhất về Bết-sa-lê-ên ngoài sách Xuất Ê-díp-tô ký lại ở trong sách
Sử ký (ISu1Sb 2:20; IISu 2Sb 1:5).
Sa-lô-môn là Bết-sa-lê-ên mới: (1) Cả Sa-lô-môn lẫn Bết-sa-lê-ên đều được
Đức Chúa Trời chỉ định đích danh cho công tác, họ là các công nhân duy
nhất được lựa chọn đích danh cho các dự án (XuXh 31:2; 35:30-36:2; 38:22-
23; ISu1Sb 28:6). (2) Cả hai đều thuộc chi phái Giu-đa (XuXh 31:2; 35:30;
ISu1Sb 2:20; 3:10). (3) Cả hai đều nhận Thánh Linh để được phú cho sự
khôn sáng (XuXh 31:3; 35:30-31; IISu 2Sb 1:1-13), và khải tượng của Sa-
lô-môn tại Ga-ba-ôn (IISu 2Sb 1:3-13) chi phối lời tựa của câu chuyện xây
cất Đền thờ (IISu 2Sb 2:1-7:22). (4) Cả hai đều chế tạo bàn thờ bằng đồng
cho nơi thánh (IISu 2Sb 1:5; 4:1; 7:7) - Rất ý nghĩa là bàn thờ bằng đồng
không được nói đến trong bản liệt kê tóm tắc công tác của Hu-ram-A-bi
(IISu 2Sb 4:12-16). (5) Cả hai đều làm các đồ đạc bày trong nơi thánh
(XuXh 31:1-10; 37:10-29; IISu 2Sb 4:19-22).
Cũng một lẽ ấy, Hu-ram-A-bi trở thành Ô-hô-li-áp mới: (1) Trong chuyện
xây cất Đền thờ chép ở sách Các vua, Hu-ram-A-bi không được nêu tên cho
đến chừng câu chuyện Đền thờ và cung điện chính đã thuật xong (IVua 1V
7:13-45), trong sách Sử ký, người được giới thiệu như bắt tay vào việc ngay
từ lúc ban đầu, y như Ô-hô-li-áp cũng làm Đền thờ từ lúc ban đầu (XuXh
31:6; IISu 2Sb 2:13) (2) Sách Các Vua chỉ nói biệt tài của Hu-ram-A-bi là
đúc đồng (IVua 1V 7:14). Tuy nhiên, trong sách Sử Ký bản liệt kê các tài
năng của người cũng như của Ô-hô-li-áp (XuXh 31:1-6; 35:30-36:2; 38:22-
23 IISu 2Sb 2:14). (3) Sách Các Vua cho biết rằng mẹ của Hu-ram-A-bi là
goá phụ thuộc chi phái Nép-ta-li (IVua 1V 7:14). Tuy nhiên, sách Sử ký nói
nàng là goá phụ thuộc chi phái Đan (IISu 2Sb 2:14), như thế Hu-ram-A-bi ra
từ cùng một tổ tiên với Ô-hô-li-áp (Xem XuXh 31:6; 35:34; 38:23). Cũng
xem chú thích ở IISu 2Sb 2:14.
2. Các (kế hoạch) đồ án cho cả Đền tạm và Đền thờ đều được Đức Chúa
Trời ban cho (XuXh 25:1-30:37; xem XuXh 25:9,40; 27:8; cũng xem
ISu1Sb 28:11-19 - không có nói đến trong sách Sa-mu-ên và Các Vua).
3. Những chiến lợi phẩm được dùng làm vật liệu xây cất cả Đền tạm lẫn Đền
thờ (XuXh 3:21-22; 12:35-36; ISu1Sb 18:6-11 - không nói đến trong sách
Sa-mu-ên và Các Vua).
4. Dân chúng tình nguyện đóng góp rộng rãi cho cả hai công trình xây dựng
(XuXh 25:1-7; 36:3-7; xem ISu1Sb 29:1-9 - không nói đến trong Sách Sa-
mu-ên và Các Vua).
5. Đám mây vinh quang xuất hiện trong Lễ khánh thành của cả hai công
trình xây dựng (XuXh 40:34-35; IISu 2Sb 7:1-3).