Professional Documents
Culture Documents
12-A8. Cấu tạo, chức năng và hoạt động hệ thốnh nước làm mát hệ thống làm kín tổ máy, bơm tiêu, lọc dàu tua bin 8
12-A8. Cấu tạo, chức năng và hoạt động hệ thốnh nước làm mát hệ thống làm kín tổ máy, bơm tiêu, lọc dàu tua bin 8
8
HỆ THỐNG LÀM MÁT MÁY PHÁT, GỐI TRUC TURBINE,
HỆ THỐNG BƠM TIÊU THÁO CẠN
− Bộ lọc tinh: Có khả năng tách được hạt cặn đến 30µ m, lưu lượng đến
3
16.2m /h.
1.4. Đặc điểm về kết cấu và làm việc của các phần tử chính:
1) Bộ lọc chính: Loại bộ súc lọc tự động, kiểu 6.18 của hãng BOLL & KIRCH.
Các thông số chính
+ Công suất lọc : 450-750 m3/h
+ Áp lực làm việc
: 1,6 Mpa
+ Độ mịn
:2 mm
+ Động cơ súc dửa
: 0,09 kW
+ Khối lượng bộ lọc
: 535 kg
Đặc điểm vận hành:
− Bộ lọc có miệng ống nước
vào (1), nước ra (3) và ống xả đáy (6)
− Bên trong bình lọc có vách
ngăn giữa khoang nước thô và nước
sau lọc, vách ngăn gồm các vành chắn trên, dưới và ống nối ở giữa. Các lõi lọc
được bố trí thành 1 vòng, hai đầu lõi lọc nối liền với các vành chắn trên và dưới.
− Một trục quay dẫn động bằng động cơ, có mang cơ cấu súc rửa sẽ
được kích hoạt tự động để súc rửa các lõi lọc khi cần.
− Bộ đo độ chênh áp suất nước giữa ngõ vào và ngõ ra sẽ gửi tín hiệu
đến mạch điều khiển, để điều khiển hoạt động tự động súc rửa của bộ lọc.
− Ở chế độ lọc: Nước thô sẽ được dẫn vào cửa (1) ở phía dưới vách
chắn, một nửa lượng nước sẽ dẫn thông lên phía trên bình lọc. Từ đây, nước sẽ
dẫn vào 2 đầu của các lõi lọc, nước đi qua các khe lưới lọc và được dẫn ra ngoài
qua cửa (3).
− Ở chế độ súc rửa: Van xả đáy sẽ được kích hoạt mở, đồng thời trục
mang cơ cấu súc rửa cũng được dẫn động quay. Cặp tay càng phía trên có mang
các nắp che, sẽ lướt qua đầu trên của từng cặp lõi lọc đối xứng nhau, làm tiết
giảm nước vào đầu trên của các lõi lọc. Vào lúc đó, cặp tay càng phía dưới sẽ
nối thông đầu dưới của cặp lõi lọc tương ứng với ống xả đáy. Khi đó dòng chảy
rối do tiết lưu từ đầu trên lõi lọc đi xuống đáy sẽ thau rửa bên trong lõi lọc, và
một phần nước ở khoang lọc cũng sẽ đi ngược vào khe lưới của lõi lọc làm sạch
toàn bộ bề mặt lưới. Quá trình súc rửa xảy ra với từng cặp lõi lọc, còn các lõi lọc
khác vẫn cho nước qua, nên bộ lọc vẫn có thể cấp nước bình thường cho hệ
thống.
2) Bộ lọc tinh:
Là loại bộ lọc xoáy đứng, kiểu SCV 1016 D (Hãng Jumag SA, Pháp)
Cấu tạo của BLM gió: Thông thường nó gồm nhiều ống dẫn nước làm mát bố
trí thành nhiều hàng, các ống có thể có các cánh tản nhiệt bên ngoài để tăng diện
tích trao đổi nhiệt với gió đi qua. Nước làm mát sẽ vào một ngăn ở bầu dưới
(hoặc trên) của BLM, và nhờ kết cấu phân phối trong BLM, nước sẽ đi lần lượt
qua các hàng ống trong BLM, rồi thoát ra ở một ngăn của bầu còn lại để ra ngoài.
5) Bộ làm mát gối trên:
Bộ làm mát gối trên gồm 1 ống HK đồng
20A được cuốn xoắn ốc 4 vòng ngâm trong bể
dầu gối trên. Khi trục máy quay, dầu bôi trơn
trong bể sẽ được cuốn vào khe ổ trượt và mang
nhiệt do ma sát trong ổ ra ngoài, đồng thời
trong quá trình đó, dòng dầu chuyển động trong
bể cũng sẽ trao đổi nhiệt với BLM. Như vậy
việc làm mát gối trục được thực hiện thông qua
làm mát dầu bôi trơn trong bể.
Gối trục TB được trang bị 8 BLM ngâm trong bể dầu để làm mát dầu bôi trơn
gối trục. (Xem bvẽ BK-5070-018)
Cấu tạo của BLM: Gồm 2 bầu trên và dưới nối với nhau bằng các ống đồng.
Bầu trên có vách ngăn đôi, mỗi phía chứa một nửa ống trao đổi nhiệt, một phía
nối với ống nước vào, phía kia nối với ống nước ra. Nước vào một phía của bầu
trên, đi qua nửa số ống dẫn nhiệt của BLM xuống khoang dưới, sau đó sẽ theo
nửa số ống dẫn nhiệt còn lại để lên phía kia của bầu trên ra ngoài.
− Nước làm mát từ ngoài sẽ rẽ theo 2 nhánh, mỗi nhánh được dẫn nối
tiếp qua 4 BLM, rồi theo các nhánh góp lại thành ống xả chung ra ngoài.
− Sự tuần hoàn của dầu bôi trơn qua các BLM như sau: Dầu nguội ở lớp
đáy bể của khoang gối sẽ được ly tâm qua các lỗ ở vành ống lót vào khoang bao
các bạc trượt. Tại đây, dầu sẽ được cuốn vào bôi trơn ổ trượt và giải nhiệt cho ổ.
Dầu nóng thoát lên trên và tràn qua các lỗ vào khoang trên của các BLM, sau đó
sẽ chảy xuống khoang dưới & giải nhiệt qua các BLM để trở lại khoang gối.
8) Bộ làm mát dầu điều tốc:
Có nhiệm vụ giải nhiệt cho dầu trong bể chứa dầu xả khi cần thiết. Dầu sẽ
được luân chuyển tuần hoàn từ bể chứa qua BLM và trở lại bể chứa nhờ 1 bơm
dầu, nước đi vào BLM thông qua các van solenoid được kích mở cùng lúc với
bơm dầu tuần hoàn nói trên.
−Điều chỉnh lưu lượng nước làm mát: Việc điều chỉnh lưu lượng nước làm mát
qua tuyến chung hoặc một số nhánh để có 1 chế độ vận hành tối ưu, được thực
hiện theo nguyên tắc mở hoàn toàn van vào tuyến cấp & tiết lưu ở van ra.
−Giám sát hoạt động của bộ lọc chính: Ở chế độ VH tự động, rơle đo chênh áp
giữa nước vào & ra được cài đặt ở giá trị nhất định nào đó sẽ kích hoạt khi rác
bám ở bộ lọc nhiều. Nó sẽ gửi tín hiệu đến hệ thống điều khiển bộ lọc để chuyển
đổi bộ lọc sang chế độ súc rửa, đồng thời cũng gửi tín hiệu báo động đến hệ thống
giám sát tổ máy. Thời gian súc rửa tự động được cài đặt trước & thường ngắn,
nên việc sụt giảm lưu lượng cấp cho hệ thống trong thời gian đó có thể vẫn nằm
trong giới hạn cho phép.
−Trường hợp hoạt động súc rửa tự động diễn ra thường xuyên, thì phải đến nơi để
kiểm tra, xác định nguyên nhân và nên chuyển bộ lọc dự phòng vào VH, rồi án
động bộ lọc này để tháo ra súc rửa, bảo trì.
−Giám sát hoạt động của bộ lọc tinh: Van xả đáy của bộ lọc tinh được điều khiển
hoạt động theo chu kỳ đã cài đặt trước. Hoạt động này thường không ảnh hưởng
đến nhu cầu cấp nước làm kín tổ máy. Tuy nhiên, nếu có sự cố báo động áp suất
thấp ở nhánh cấp nước làm kín thì phải đến nơi xác định nguyên nhân. Trong tình
huống đó, cho phép đưa thêm bộ lọc dự phòng vào làm việc để duy trì hoạt động
bình thường của tổ máy & báo PXSC kiểm tra để có kế hoạch bảo trì hệ thống.
2) Khi khởi động và dừng máy:
−Van cấp nước chung vận hành bằng động cơ sẽ được điều khiển mở tự động
trong giai đoạn chuẩn bị chạy máy & sẽ đóng tự động trong giai đoạn dừng máy.
−Trong giai đoạn chuẩn bị khởi động, thường thì sau khi mở van cấp nước chung,
tổ máy sẽ chuyển sang trạng thái sẵn sàng chỉ khi tín hiệu từ tất cả các rơle lưu
lượng, rơle áp suất đều bình thường.
Ở hố nước rỉ, tùy theo mức nước dâng lên trong hố mà các bơm được khởi động
tuần tự theo một thứ tự ưu tiên có thể chuyển đổi được.
Khi có dầu lẫn trong nước (do dầu rỉ từ gối TB hoặc từ hệ điều khiển van
bướm), cảm biến dầu-nước sẽ cô lập mạch khởi chạy bơm nước rỉ ở mức thấp cho
tới khi đạt mức cho phép dầu tràn qua hố chứa dầu, thì rơle mức nước cao mới
khởi chạy bơm nước rỉ.
Dầu trong hố chứa dầu rỉ khi đạt mức cao thì rơle mức dầu sẽ gửi tín hiệu báo
động & phải vận hành bơm dầu để chuyển về bể dầu rỉ ở sàn 296.0m để xứ lý.
Hoạt động của bơm nước rỉ khẩn cấp ở buồng TB: Khi nước rỉ trên nắp TB không
thoát kịp qua ống dẫn nước rỉ về hố chung, và mức nước rỉ dâng cao trên nắp TB,
thì thiết bị đo mức nước sẽ gửi tín hiệu báo động, đồng thời 2 bơm nước rỉ trong
buồng TB cũng hoạt động do tác động của công tắc phao, các bơm này sẽ bơm
chuyển nước nhanh về hố rỉ.
Tháo nước trong ống xả (draft tube) của TB: Khi tổ máy dừng và van hạ lưu
đã được đóng hoàn toàn, ta tháo khóa trên xylanh van, chuyển đổi vị trí van phân
phối trên bơm, bơm dầu (bằng tay) để mở van và khóa van ở vị trí đã mở.
Tháo nước đường hầm: Sau khi dừng máy & đóng cửa van vận hành CNN,
nước trong đường hầm sẽ được tháo qua van xả hầm đổ vào ống khuỷu TB để ra
ngoài kênh hạ lưu. Khi mực nước trong hầm cân bằng với mực nước hạ lưu, thì ta
đóng cửa van hạ lưu lại và mở van tháo nước từ draft tube về hố tháo cạn để bơm
tiêu thoát ra ngoài.