Professional Documents
Culture Documents
THỀ NON NƯỚC
THỀ NON NƯỚC
THỀ NON NƯỚC
Tác giả :
Người đọc xưa nay vẫn tìm thấy bóng dáng Tản Đà qua vần thơ ấy. Tên là Nguyễn Khắc
Hiếu, lấy núi Tản, sông Đà làm bút danh. “Giấc mộng con”, “Giấc mộng lớn”, “Khối tình
con”, “Thề non nước” là những tác phẩm nổi tiếng của Tản Đà. Chất tài hoa tài tử, lãng
mạn, giang hồ… in đậm trong thơ, văn Tản Đà. Những năm 20 của thế kỷ này, Tản Đà là thi
bá trên thi đàn Việt Nam. Ông được nhà văn Hoài Thanh trân trọng ngợi ca là “Người của hai
thế kỷ”, vì thơ văn của Tản Đà chính là gạch nối giữa hai nền văn học của dân tộc: cổ điển
và hiện đại.
Bài thơ “Thề non nước” là một kiệt tác của Tản Đà. Bài thơ nằm trong truyện ngắn cùng tên,
được Tản Đà sáng tác năm 1921. Cô đào Vân Anh và một du tử - hai nhân vật trong truyện,
ngồi uống rượu, cùng nối lời nhau, làm thơ vịnh bức tranh sơn thuỷ - bức cổ hoạ - có 3 chữ
triện, chữ Nôm “Thề Non nước” mà thành bài thơ này. Bức cổ hoạ chỉ có một dãy núi, không
có vẽ sông nước, dưới chân núi có một ngàn dâu gợi cảnh tang thương biến đổi. Bài thơ viết
bằng thể thơ lục bát, gồm 22 câu thơ. Bốn câu đầu là lời vịnh của du khách, 10 câu tiếp
theo của cô đào Vân Anh, 6 câu nối tiếp lại là lời của du khách, 2 câu cuối là tiếng thơ của
Vân Anh.
Ngoài những chi tiết nghệ thuật vịnh bức cổ họa, bài thơ “Thề non nước” còn ca ngợi một
mối tình chung thuỷ sắt son của lứa đôi, đồng thời gửi gắm một tình yêu nước thầm kín sâu
nặng.
Nói là bức tranh sơn thuỷ nhưng không có “thuỷ” vì “Nước đi đi mãi không về cùng non”. Chỉ
có núi, một dãy “Non cao những ngóng cùng trông”. Có cây mai già trụi lá trơ cành (xương
mai). Có sương tuyết và mây phủ dày trên đỉnh núi. Có ngàn dâu xanh tốt dưới chân núi gợi
màu tang thương biến đổi. Bao phủ toàn bức tranh là màu vàng tà dương:
Có thể nói, đó là một bức tranh cổ rất đẹp mà buồn, thấm đượm cái tình thương nhớ, tang
thương.
Cũng như thuyền và bến, trong bài thơ này “non” và “nước” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng
cho lứa đôi, cho trai và gái, cho giai nhân và người tình chung. Lứa đôi, non và nước đã yêu
nhau, đã thề nguyền, đã “nặng lời thề”. Lời thề sâu nặng và sắt son, bền vững như non như
nước. Cảnh ngộ thật éo le và đáng thương. Lứa đôi đang trải qua những năm dài ly biệt
“Nước đi chưa lại, non còn đứng không”. Khi ngắm nhìn bức tranh, du khách đã cảm động
nói “núi tương tư”.
Sau những năm dài đợi chờ, thương nhớ và đau buồn, giai nhân (non) đã trở thành cô phụ
“non còn đứng không”. Khóc than thảm thiết, bao nhiêu nước mắt đã khô cạn: “Suối khô
dòng lệ chờ mong tháng ngày”. Thân hình tiều tuỵ đáng thương như một gốc mai già trụi lá
trơ cành: “Xương mai một nắm hoa gầy”. Mái tóc xanh, mềm mại như mây ngày nào, nay
đã bạc trắng: “Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương”. Tình lang đi mãi chưa về, giai nhân
tuổi mỗi năm một cao, đã chiều tà ngả bóng, nhan sắc phai tàn. Còn đâu nữa “vẻ ngọc” và
“nét vàng” thời con gái xa xưa: “Trời tây ngả bóng tà dương – Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng
phôi pha”.
Tản Đà đã sáng tạo nên những hình ảnh ẩn dụ để đặc tả nỗi buồn cô đơn, tương tự của giai
nhân. Có không ít câu thơ trong bài “Thề non nước” vừa đẹp vừa hay không thua kém
những câu Kiều của Nguyễn Du. “Tóc mây”, “Xương mai”, “nét vàng”, “vẻ ngọc”, đặc biệt
“Suối khô dòng lệ”… là những hình ảnh mĩ lệ nói về sắc tài và bi kịch trong tình yêu của giai
nhân. Còn nước mắt đâu nữa mà “tuôn”. Chữ “khô” thể hiện cách chọn từ, dùng từ của Tản
Đà rất tình luyện, chính xác.
Chẳng cần xem bức hoạ mà chỉ đọc vài câu thơ cũng thấy như vẽ ra một cái “núi tương tư”
vậy:
“Dù… hãy…” niềm tin được khẳng định. “Sông cạn đá mòn” là một thành ngữ, nêu lên một
giả định không bao giờ có thể xảy ra. Và cho dù có xảy ra trong muôn một, thì giai nhân
vẫn son sắt thuỷ chung “hãy còn thề xưa”. Ba chữ “còn” được láy lại trong vần thơ dã thể
hiện sâu sắc cảm động mối tình sắt son, thuỷ chung, bền đẹp của nàng cô phụ.
Nước đã đi xa, tình lang đã đi xa, chỉ còn lại tiếng đồng vọng trong không gian và thời gian
ly biệt. Hẹn ngày trở lại. Hẹn ngày tái ngộ, hội ngộ của lứa đôi. Chia sẻ nỗi buồn, an ủi tình
nhân:
“Ngàn dâu xanh tốt” như một chứng tích của thời gian, như một nỗi tang thương đã biến
đổi, và còn như một kỷ vật(?) vì thế “non thì cứ vui”.
Hai câu kết như sự chung đúc một lời thề, “thề non nước”:
Đã có lời “thệ hải minh sơn” trong tình sử. Đã có “Đám cưới bạc”. Cũng có “đám cưới
vàng”… Đời người hữu hạn trăm năm. Nhưng lời thề của “non” và “nước” là lời thề “nghìn
năm” kết đôi thuỷ chung bền vững. Đó là một lời thề sâu nặng, bền đẹp đến muôn đời.
Nghệ thuật sử dụng biện pháp “phân - hợp” ngôn ngữ của Tản Đà rất điêu luyện để gợi tả
và biểu cảm thần tình . “Ngóng trông” được viết thành “những ngóng cùng trông” diễn tả cái
dằng dặc của sự đợi chờ, trông ngóng. Trong ly biệt, hình ảnh “non” và “nước” nằm ở hai
phía không gian - đầu , cuối câu thơ: “Nước đi đi mãi không về cùng non”. Trong cảnh sum
họp, hội ngộ của lứa đôi thì non và nước sẽ thành non non nước nước gắn bó keo sơn, bền
vững, lời thề chẳng bao giờ “nguôi”, chẳng bao giờ “quên” được!
Tóm lại, lời thề của non và nước được nói đến một cách thắm thiết, thuỷ chung và cảm
động.
Bài thơ “Thề non nước” là một bài thơ đa nghĩa. Có nội dung vịnh cảnh trong tranh. Có nội
dung phong tình cố hữu của Tản Đà. Và còn có tấm lòng thiết tha gắn bó của nhà thơ với Tổ
Quốc giang sơn trong cảnh ngộ mất chủ quyền. Đầu thế kỷ XX, có một số nhà thơ nói lên
lòng yêu nước, một cách thầm kín:
Trong bài thơ “Thề non nước”, hai chữ “non” và “nước” xuất hiện ở tần số rất cao: 27 lần,
lúc thì nước nhớ non, lúc thì non nhắn nước, lúc thì non non nước nước… Một giọng thơ thiết
tha, có không ít câu thơ để lại nhiều ám ảnh:
Có đặt bài thơ “Thề non nước” bên cạnh các bài thơ “Chim hoạ mi trong lồng”, “Vịnh bức địa
đồ rách”, v.v… ta mới thấy tình yêu nước được nhà thơ kín đáo gởi gắm vào các ngữ “nhớ
nươc”, “quên non”. Tình yêu nước dào dạt cả bài thơ. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực
dân Pháp, trên thi đàn công khai, Tản Đà đã có một cách nói thật hay, thật xúc động về tấm
lòng gắn bó thiết tha với giang sơn Tổ Quốc. Trong thời Pháp thuộc, bài thơ “Thề non nước”
như một vach nối dẫn dắt người đọc, nhất là thế hệ thanh niên cảm nhận sâu hơn những
vần thơ của Phan Bội Châu, của Phạm Tất Đắc, v.v…
Tóm lại, “Thề non nước” là một bài thơ kiệt tác của thi sĩ Tản Đà. Sắc điệu trữ tình dào dạt
trong những vần thơ nói về sự thương nhớ, chờ mong. Chờ người yêu nặng lời thề, xa vắng.
Nhớ hồn nước bơ vơ. Các biện pháp tu từ ẩn dụ, nhân hóa, điệp từ điệp ngữ, biện pháp
phân - hợp, v.v… đã tạo nên những câu thơ lục bát - tuyệt hay, đọc qua một lần nhớ mãi.
Thi sĩ Tản Đà nói hộ chúng ta những tình cảm đang nảy nở trong lòng. “Thể non nước” thể
hiện tuyệt đẹp cốt cách phong tình tài hoa của thi sĩ Tản Đà.
Lời thề xưa cứ ngân nga mãi trong lòng ta. Cả một trời yêu thương, mong nhớ, đợi chờ
mênh mang: