Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 10

http://213.251.176.

152:8080/diendan/khoa-hoc-ky-thuat/e-mc2-einstein-va-poincare/

E = mc², Einstein và Poincaré

14/10/2006 20:59

Nhân đọc bài ‘’Poincaré, Perelman, Khưu Thành Ðồng và …’’ ( ... ) Tôi nghĩ rằng tác giả đã đi hơi xa về
đóng góp của Poincaré cho phương trình E = mc² tuyệt vời mà đâu đâu cũng thấy, ai ai cũng nghe và nói
đến. Phương trình này được đánh giá như chiếc nôi nuôi dưỡng, triển khai của biết bao công nghệ cao
hiện đại. Cũng không ngạc nhiên lắm...

E = mc², Einstein và Poincaré ai dễ biết ai ?


Phạm Xuân Yêm

Nhân đọc bài ‘’Poincaré, Perelman, Khưu Thành Ðồng và …’’ của Ðỗ Thống từ mạng Diễn Ðàn, tôi thấy
có vài điều cần góp ý về vai trò của Poincaré trong sự khám phá ra thuyết tương đối hẹp, một kho tàng tri
thức của nhân loại mà dấu ấn còn in đậm trong nhiều nét sinh hoạt ngày nay. Ông viết : là nhà vật lý,
Poincaré đã 12 lần được đề nghị giải Nobel, và ngày nay được coi là đồng tác giả của thuyết tương
đối thu hẹp, ngoài ra Poincaré còn là người đầu tiên chứng minh phương trình nổi tiếng E = mc², suy ra
từ những công thức chuyển đổi hệ quy chiếu Lorentz trong cơ học tương đối. Còn trong bài viết cơ bản
của Einstein, phương trình này chỉ được nêu lên như một khẳng định 1.

Tôi nghĩ rằng tác giả đã đi hơi xa về đóng góp của Poincaré cho phương trình E = mc² tuyệt vời mà đâu
đâu cũng thấy, ai ai cũng nghe và nói đến. Phương trình này được đánh giá như chiếc nôi nuôi dưỡng,
triển khai của biết bao công nghệ cao hiện đại. Cũng không ngạc nhiên lắm khi đọc mấy dòng trên vì gần
đây có một số tài liệu 2 tranh cãi về việc giữa Einstein và Poincaré ai đã trước sau khám phá ra cơ học
tương đối tính, nhưng trước sau cái gì trong đó chứ? Phải chăng có một chút tế nhị trong thuyết này nên
khi tìm đọc những tài liệu như trên mà chưa đối chiếu với những phản biện khác 3, có thể ta không nắm
bắt được hết tình huống?

Có hai khía cạnh nên phân biệt. Về câu đồng tác giả của thuyết tương đối hẹp có lẽ không có gì để thêm
bớt. Quả thế tuy rất khác nhau trong những phương pháp tiếp cận, nhận thức và giải đáp bí hiểm ether 4 -
gốc nguồn của thuyết tương đối hẹp - nhưng Poincaré, Lorentz và Einstein cả ba vị đều đóng góp chủ yếu
cho sự ra đời của thuyết ấy. Nói theo thời thượng, nếu giải Nobel vật lý để tôn vinh những người đã khám
phá ra cơ học tương đối tính để bổ sung và cải tiến cho cơ học cổ điển Galileo-Newton thì không ai xứng
đáng hơn ngoài Einstein, Lorentz và Poincaré để cùng chia sẻ giải này 5, có thêm chăng thì nên kể đến
Minkowski. Nhưng từ đó mà bảo rằng Poincaré chủ chốt trong việc tìm ra E = mc², tôi e rằng có một chút
gì ‘đại pháp’ so với ‘đại hán’ gán cho Khưu chăng?

Ðóng góp của Lorentz và Poincaré thực ra mang nặng tính kỹ thuật 6, trái lại Einstein còn làm một cuộc
cách mạng về khái niệm Không-Thời gian, vượt ra ngoài khung cảnh cổ điển của Newton về không gian
và thời gian tuyệt đối mà hai vị trên vẫn vướng mắc.

Hệ quả quan trọng của khái niệm này mà chỉ riêng Einstein phát hiện là trong những hệ thống di động,
khoảng cách của không gian co cụm lại và của thời gian dãn nở ra 7, điều mà sau này thực nghiệm kiểm

1
chứng thành công rực rỡ, cái gần đây nhất là hệ thống GPS trang bị các phương tiện vận tải trên trời
dưới biển.

Ngoài ra tôi cũng mong làm sáng tỏ câu chuyện E = mc² theo đó bất kỳ vật chất (khối lượng m) nào cũng
tích lũy một năng lượng E khổng lồ, vì c (vận tốc ánh sáng khoảng ba trăm ngàn cây số trong một giây
đồng hồ) đã lớn, khi bình phương lên (c nhân với c, hay c²) lại càng lớn hơn. Làm sao khai thác hài hòa
phần nào cái năng lượng vô vàn đó vẫn còn là vấn đề cực kỳ quan trọng cho mãi đến ngày nay, nhưng đó
không phải là đề tài của bài viết này.

Nền móng cơ bản về thuyết tương đối hẹp Einstein công bố tháng sáu năm 1905 trong tập san vật lý
Annalen der Physik, rồi ba tháng sau đó không những ông suy diễn 8 ra E = mc² mà còn chỉ dẫn ý nghĩa
vật lý sâu xa 9 gói ghém trong phương trình trên, và hơn nữa còn đề xuất phương thức kiểm chứng công
thức đó bằng thực nghiệm 10. Vai trò quyết định của thực nghiệm để kiểm nhận một lý thuyết là phương
pháp thường xuyên dùng trong khoa học tự nhiên, kể từ thời Galileo cách đây bốn trăm năm có lẻ và vẫn
tiếp tục làm kim chỉ nam trong nghiên cứu khoa học.

Ý nghĩa vật lý của E = mc², ba năm sau (1908) Poincaré hãy còn chưa nhận thức thấy 11. Nhưng trăm năm
nước chảy qua cầu, trong việc này ai trước ai sau có gì quan trọng đâu, cũng chỉ là câu chuyện lúc trà dư
tửu hậu. Quan trọng hơn là làm sao những người ‘ngoại đạo’ yêu thích tìm hiểu khoa học có thể ít nhiều
nắm bắt được vì sao thuyết tương đối ra đời, nó là gì, tác động của nó ra sao. Nhắc chuyện cũ để tìm cái
mới, sau thuyết tương đối hẹp này là sự khám phá ra thuyết tương đối rộng và thuyết lượng tử, hai trụ cột
của vật lý hiện đại. Vấn đề hóc búa số một của vật lý ngày nay là giữa hai trụ cột đó có mâu thuẫn căn
bản 12, mặc dầu hai thuyết này diễn tả chính xác tuyệt vời những hiện tượng thiên nhiên trong mỗi phạm vi
riêng biệt của chúng: thế giới vĩ mô (Vũ trụ, BigBang…) của tương đối rộng và thế giới vi mô (Nguyên tử,
Hạt cơ bản…) của lượng tử. Chúng ta đang đứng trước một bước ngoặt, một thách thức vô cùng kỳ thú
trong quá trình phát triển của vật lý ngày nay. Người viết ước vọng biết đâu trong các bạn đọc trẻ hiếu kỳ
sẽ có ai tìm hiểu thêm và sau đó góp phần giải thích mâu thuẫn cơ bản trên, như Poincaré, Lorentz,
Einstein trăm năm trước đây đã giải quyết vấn đề ether với thuyết tương đối hẹp mà hậu quả là E = mc²
và bao điều khác nữa.jfnjfnjbvfjdhbvjdfhjbvhjfhjghfjkhgkhgkhgkhkhgghghkgkddhgffgfggfj

Nguyên Lý Tương Ðối là gì ?

1- Mấy điều sơ lược : Ai trong chúng ta khi đi máy bay cửa sổ đóng kín và không gặp bão lay động mà có
thể cảm thấy mình di chuyển với vận tốc khoảng ngàn cây số trong một giờ ? Nếu vận tốc máy bay thay vì
một ngàn chỉ là sáu trăm cây số thôi, ta cũng chẳng cảm thấy sự di chuyển gì. Hơn bốn trăm năm trước
đây, Galileo cũng đưa ra một thí dụ tương tự mở đầu cho nguyên lý tương đối 13: trong hầm kín mít
không giao tiếp gì với thế giới bên ngoài của một chiếc tàu thủy di chuyển đều đặn (nghĩa là vận tốc và
chiều hướng cố định không thay đổi với thời gian) ta hãy quan sát những con bướm bay khắp phía và
những giọt nước tí tách rơi. Nay để tàu đứng yên, ta thấy bướm vẫn bay và nước vẫn rơi hệt như trước,
chẳng có gì thay đổi. Rồi tàu lại di chuyển đều đặn, nhưng với vận tốc và chiều hướng khác, bướm vẫn
bay và nước vẫn rơi như khi tàu dừng ở bến. Nói một cách khác: những định luật miêu tả các hiện tượng
thiên nhiên (bướm bay, nước rơi) không chút thay đổi gì trên tàu di chuyển đều đặn (bất kỳ vận tốc và
chiều hướng nào) kể cả tàu dừng ở bến (v = 0). Người ở trong tàu nếu chỉ quan sát đo lường những hiện
tượng động hay tĩnh trong tàu mà không tiếp xúc với bên ngoài để so sánh thì chẳng sao biết là tàu đứng
hay đi, và đi với vận tốc nào, chiều hướng nào. Sự thay đổi vị trí trong không gian và với thời gian nếu
chẳng quan sát so sánh được thì làm sao có thể đề cập đến chuyện di chuyển hay đứng yên?, nói khác đi
tĩnh hay động chỉ là chuyện tương đối, chẳng có lý gì để khẳng định bến hay tàu cái nào đứng, cái nào đi.
2
Galileo tóm tắt nguyên lý tương đối trong một câu ngắn gọn ‘’di chuyển cũng như không’’, hàm ý rằng
trên tàu di động hay không, các định luật miêu tả thiên nhiên cũng đều giống hệt nhau, hay f(x,y,z,t) =
f(x’,y’,z’,t’) hàm số f tượng trưng cho một định luật nào đó 6. Cái khái niệm Tương Ðối ấy (gắn liền với
sự khả thi quan sát) cũng được nhấn mạnh bởi nhà triết học và khoa học Ðức Leibniz, người đồng thời và
là người ‘cạnh tranh’ với Newton trong cơ học và toán học vi tích phân. Nó không trùng hợp (thậm chí
ngược lại) với khái niệm Tuyệt Ðối của Newton theo đó bất kể có hay không có người (hay máy) để quan
sát đo lường, những hiện tượng thiên nhiên vẫn lạnh lùng vận hành, chúng đều là thực tại hoàn toàn
khách quan, có một bản thể độc lập với người nhận thức, quan sát. Không gian tuyệt đối của Newton là
một khung trời cho sẵn, trong đó chẳng quan trọng gì chuyện có hay không có vật chất 14, có hay không
có hiện tượng thiên nhiên. Nó là một không gian phẳng lặng ba chiều (trái phải trục Ox, sau trước trục
Oy, dưới trên trục Oz) tràn đầy vũ trụ, đâu cũng thấy như nhau. Cũng vậy thời gian tuyệt đối như mũi tên
một chiều thản nhiên bay đều từ quá khứ xa xăm vô hạn đến tương lai mịt mù vô tận. Chỉ có độc nhất một
thời gian và một không gian tuyệt đối cứng nhắc, không chút liên hệ gì với nhau trong đó vận hành các
hiện tượng thiên nhiên. Nếu ta (tưởng tượng thôi) vứt bỏ hết vật chất trong toàn cõi, cái không gian tuyệt
đối vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt, chẳng mảy may biến đổi, và trong cái hư vô đó thời gian tuyệt đối cứ
lặng lẽ trôi đi.

2- Trong tàu ngoài bến giao lưu : Trong phần này chúng ta quan tâm đến sự liên hệ giữa một hiện tượng
nào đó (bướm bay) quan sát bởi một người ngồi trong tàu di chuyển và cũng hiện tượng đó quan sát bởi
một người đứng yên trên bến. Câu hỏi là nếu trong một giây tàu di chuyển được v mét (vận tốc v m/s) và
bướm bay với vận tốc w cùng chiều với v, thì người trên bến sẽ thấy bướm bay với vận tốc bao nhiêu ?
Cái hiển nhiên của trực giác, hòa đồng với cái không gian và thời gian tuyệt đối của Newton chẳng bảo
cho ta rằng một mét và một giây trên tàu cũng là một mét và một giây trên bến sao? Trong một giây đồng
hồ, đối với người đứng yên trên bến thì tàu đi được v mét, trên tàu đó bướm bay thêm được w mét. Vậy
đối với người ấy, hiển nhiên là bướm bay với vận tốc v + w mà tất cả các nhà khoa học (hay không) ở đầu
thế kỷ 20 đều đồng nhất trả lời như thế 15. Nếu bướm bay ngược chiều với v, dĩ nhiên ta thay + w bằng –
w. Ðịnh luật ‘cộng trừ’ vận tốc như vừa trình bày phải được ứng dụng phổ quát trong bất kỳ hiện tượng di
chuyển nào, kể cả những hiện tượng truyền sóng (nước, âm thanh, điện từ ánh sáng) vì truyền sóng chẳng
qua cũng chỉ là một di động tuần hoàn trong không gian và trong thời gian. Nếu ta thay bướm bay bằng
phóng tia ánh sáng laser nghĩa là w = c, thì người đứng yên trên bến rõ ràng thấy vận tốc ánh sáng trên
tàu phải là v + c chứ không là c. Ngược lại (tương đối mà) người trên tàu cũng thấy vận tốc ánh sáng
mình đo lường trên tàu phải khác vận tốc ánh sáng truyền trên bến (hệ quy chiếu tuyệt đối đứng yên). Sự
khác biệt đó chính là v, vận tốc của con tàu. Trở lại môi trường ether (mà mọi người trước năm 1905 đều
nghĩ là có thật, kể cả Maxwell 16) tràn đầy khắp không gian vũ trụ nhờ đó mà sóng ánh sáng truyền đi
được, ta cảm nhận thấy ngay là ether đóng vai trò một hệ quy chiếu tuyệt đối đứng yên. Ta hãy mường
tượng một đại dương mênh mang vô bờ bến trong đó sóng nước dao động lan truyền và cũng trên đó lênh
đênh một chiếc thuyền nan bé tẻo teo, trên chiếc thuyền di dộng đó, có người tò mò đo vận tốc nước lan
truyền khác ra sao với nước trong đại dương. Rồi thay đại dương bằng ether, sóng nước bằng sóng điện
từ (ánh sáng), chiếc thuyền nan bằng trái đất. Vì trái đất chạy quanh mặt trời tức là di chuyển đối với
ether nên vận tốc ánh sáng đo trên trái đất chắc phải khác c, vận tốc ánh sáng trong ether (cụ thể ánh
sáng trong chân không đến từ các thiên thể xa xăm). Cái khác biệt (với c) đó chính là vận tốc v của luồng
gió ether mà Michelson và Morlay đo lường mãi mà chẳng sao phát hiện nổi.

3- Giây đồng hồ và mét ở trong tàu khác ngoài bến : Ðể giải thích thực nghiệm trên, cách tiếp cận và
phương thức của Lorentz cũng như Poincaré trái ngược hẳn với Einstein. Hai vị trên tìm cách chứng
minh rằng nguyên lý tương đối 17 phải là hệ quả của những giả thuyết về sự vận hành của vật chất, do
tác động của những lực mới lạ nào đó mà hai vị tìm kiếm. Dĩ nhiên khi loanh quanh với những giả thuyết
như vậy, làm sao có thể chứng minh đuợc nguyên lý tương đối. Einstein ngược lại coi nguyên lý tương đối
là một tiền đề (postulat) không chứng minh được mà chỉ cần chấp nhận vì thực nghiệm thấy như vậy. Từ
tiền đề này ông suy diễn và tiên đoán ra những hệ quả về cấu trúc của vật chất và những định luật tương
3
tác của chúng, những hệ quả đó phải được kiểm chứng bằng thực nghiệm. Phương pháp này tỏ ra rất
cách tân và ngày nay thường được dùng trong vật lý và khoa học tự nhiên nói chung. Vấn đề là luật ‘cộng
trừ’ vận tốc v + w ở đoạn 2 khi áp dụng cho ánh sáng phải được thay đổi ra sao để v + c lúc nào cũng
vẫn bằng c, với bất kỳ v nào 15. Cái nhìn độc đáo của Einstein năm ấy (1905) mới 26 tuổi là cái luật
‘cộng trừ’ nói trên thực ra chỉ là hệ quả của những giả thuyết mà mọi người vô tình chấp nhận không bàn
cãi. Giả thuyết đó khẳng định chỉ có độc nhất một thước đo chiều dài không gian và một đồng hồ đo nhịp
độ thời gian, mặc cho thước đo và đồng hồ có di chuyển hay không. Nói cách khác, một giây đồng hồ trên
tàu bằng một giây trên bến chỉ là một giả thuyết, chứ không có lý do tiên nghiệm (a priori) là phải thế.
Thực vậy để xác định giả thuyết đó có đúng hay không, thì bến và tàu phải so sánh đồng hồ của nhau
ngay cùng một lúc, mà muốn thế thì phải trao đổi tín hiệu bằng ánh sáng. Sự trao đổi tín hiệu đó không
tức thì mà phải mất một thời gian cực nhỏ nhưng không bằng 0 (vì c tuy cực lớn nhưng không vô hạn).
Kết quả là cái đồng thời đối với người trên tàu lại khác cái đồng thời đối với người trên bến. Sự khác biệt
đó đưa Einstein đến kết luận là phải chối bỏ khái niệm cổ điển thời gian độc nhất của Newton và thay thế
bằng khái niệm thời gian thay đổi với vị trí không gian, có muôn vàn thời gian khác nhau ! Vì vận tốc
chẳng qua chỉ là khoảng cách không gian chia cho khoảng cách thời gian, nên một khi đã chấp nhận
nguyên lý tương đối (vận tốc ánh sáng như nhau trong mọi hệ thống quy chiếu) thì không gian cũng phải
quyện chặt vào thời gian và thay đổi với nó để làm sao cho s² bất biến 6. Hệ quả đầu tiên của nguyên lý
tương đối là sự dãn nở thời gian và sự co cụm không gian trong những vật thể di động, sau đó là phương
trình E = mc² và còn nhiều điều nữa, tất cả đều được thực nghiệm liên tục kiểm chứng thành công. Cho
đến nay chưa có dấu hiệu nào bảo cho ta là thuyết tương đối hẹp có cái gì không ổn.

Năm mười sáu tuổi Einstein cứ trằn trọc hoài với câu hỏi: ta có thể chạy nhanh bằng (hay hơn) ánh sáng
để bắt và cưỡi lên nó không, vì không có gì trong cơ học cổ điển Newton ngăn cấm như thế. Mười năm
sau, qua thuyết tương đối hẹp, ông tìm ra câu trả lời là không sao đuổi theo được ánh sáng, vận tốc c là
tối đa chỉ dành riêng cho photon. Hơn nữa dẫu ta có đuổi theo ánh sáng với vận tốc xấp xỉ (tới
0.999999999….) bằng nó, ta vẫn thấy ánh sáng chạy xa ta bằng 300.000 km/s như khi ta đứng yên chứ
không kém một li 15. Cái thông điệp tuyệt vời của thuyết tương đối (hẹp và rộng) có thể tóm tắt trong hai
danh từ song hành Không-Thời gian và Năng-Khối lượng, biểu hiện sự tổng hợp hoà quyện những khái
niệm tưởng như tách biệt : không gian, thời gian, vật chất, năng lượng, khối lượng. Những cái đó trong
vật lý cổ điển chẳng có gì liên đới với nhau, nhưng thuyết tương đối lại bảo ta rằng chúng chỉ là những
khía cạnh của một thực tại duy nhất mang chung một bản thể. Ðó chính là một cống hiến vô cùng sâu sắc
và độc đáo của Einstein cho tri thức nhân loại mà Poincaré cũng góp phần.

Phạm Xuân Yêm

1 Những dòng in nghiêng và đậm là của Ðỗ Thống trong bài ‘’Poincaré, Perelman, Khưu Thành Ðồng và
…’.

2 Jean-Paul Auffray, Einstein et Poincaré, éditions Le Pommier (1999). Jules Leveugle, La Relativité,
Poincaré et Einstein, Planck, Hilbert, l’Harmattan (2004). Jean Hladik, Comment le jeune et ambitieux
Einstein s’est approprié la Relativité restreinte de Poincaré, Ellipses (2004).

3 Abraham Pais, Subtle is the Lord, Oxford University Press (1982). Olivier Darrigol, The electrodynamic
origins of relativity theory, Historical Studies in the Physical Sciences (1996). Silvio Bergia, Einstein, le
père du temps moderne, Pour la science (2002). Thibault Damour, Si Einstein m’était conté, Le cherche
midi (2005).

4
4 Ở thời điểm cuối thế kỷ 19, đầu 20 một bí hiểm không ai giải thích nổi là sóng ánh sáng truyền đi nhờ
chất liệu gì ? Thời ấy ai cũng nghĩ rằng sóng biển sóng hồ lan truyền được là nhờ nước, sóng âm thanh
truyền được là vì không khí, vậy nhờ cái gì mà sóng điện từ (hay ánh sáng) lan truyền đi được? (không ai
dám nghĩ rằng trong chân không chẳng có chất liệu gì, ánh sáng vẫn truyền đi được như ngày nay ta
biết). Ta tạm gọi là ether cái môi trường đó. Không như nước hay không khí chỉ quanh quẩn ở địa cầu,
ether phải trải rộng bao chùm khắp không gian vũ trụ mêng mông vì ánh sáng có thể truyền tới ta từ
những thiên thể xa xăm. Vì quả đất di chuyển khá nhanh trong hệ Mặt trời nên trái đất phải như bay đi
trong ether, tức là phải có một luồng gió ether thổi ngược lại đối với trái đất coi như đứng yên !
Michelson và Morlay, hai nhà vật lý Mỹ năm 1887 nhiều lần tìm đủ mọi cách để đo lường chiều hướng và
tốc độ của luồng gió ether đó, nhưng kỳ quái thay hai ông chẳng thấy mảy may có một luồng gió ether
nào cả. Ðó là một thách đố hóc búa của vật lý ở những năm đầu thế kỷ 20 mà Einstein, Lorentz, Poincaré
tìm cách giải quyết, mỗi người mỗi vẻ.

5 Poincaré mất đi quá sớm năm 1912, còn Einstein và Lorentz nhận giải Nobel vật lý vì những khám phá
khác, chẳng liên quan gì đến lý thuyết tương đối.

6 Vận tốc ánh sáng c đo lường trong bất kể hệ quy chiếu nào cũng đều như nhau, dẫu hệ quy chiếu đó di
động (với bất kỳ vận tốc v) hay không (v = 0). Ðó là nguyên lý tương đối áp dụng cho ánh sáng, điện từ.
Poincaré đầu tiên nói đến nguyên lý này để miêu tả thực nghiệm Michelson và Morlay không tìm thấy
luồng gió ether trong phụ chú 4. Ðể giải thích thực nghiệm này, nói theo ngôn ngữ của cơ học, cái đại
lượng s² định nghĩa như sau : s² ≡ (ct)² - r² = (ct’)² - r’² với r² = (x² + y² + z²), r’² = (x’² +y’² +z’²) phải là
một bất biến, nghĩa là sự thay hệ quy chiếu đứng yên (định nghĩa bởi x,y,z,t ) sang hệ di chuyển (định
nghĩa bởi x’,y’,z’,t’) không làm cho s² thay đổi. Theo cơ học Newton với thời gian tuyệt đối độc nhất t = t’
và x = x’ + vt (trường hợp vận tốc v song song với trục Ox), y = y’, z = z’ thì s² không sao bất biến được
và đã làm đau đầu bao người trước năm 1905. Ba nhà vật lý Voigt (Ðức), Lorentz (Hòa Lan), Larmor
(Anh) tìm thấy một công thức chuyển đổi hệ quy chiếu (x,y,z,t) sang hệ (x’,y’,z’,t’) để làm cho s² bất biến
bằng cách để t’ và x’ phụ thuộc (hơi cầu kỳ một chút) vào t, x, v, c nhưng chỉ coi đó là một ‘thủ thuật’
chẳng có ý nghĩa vật lý nào. Nhà toán học Poincaré nhận thấy phép đổi từ (x,y,z,t) sang (x’,y‘,z’,t’) của
ba vị trên, mà ông gọi là phép hoán chuyển Lorentz, có cái cấu trúc ‘nhóm’ trong toán học, nghĩa là áp
dụng hai lần hoán chuyển Lorentz cũng vẫn ra hoán chuyển Lorentz. Nhưng Lorentz và Poincaré cũng chỉ
coi cái t’ (hàm số của t, v, c, x) là một biến số phụ, một thời gian ‘địa phương’ gì đó chẳng mang ý nghĩa
vật lý thật sự nào cả, vì hai vị vẫn bám vào thời gian tuyệt đối và độc nhất của Newton. Trái lại đối với
Einstein, cả t lẫn t’ đều có ý nghĩa ngang nhau, đó là thời gian trong hai hệ quy chiếu, không hệ nào hơn
hệ nào, thuần tuý và giản dị vậy thôi. Nhưng cái thời gian đó gắn quyện với không gian để thành một thực
tại bốn chiều Không-Thời gian chẳng sao tách biệt, mà ta phải dùng để diễn tả mọi vận hành của các hiện
tượng thiên nhiên. Thời gian tuỳ thuộc vào vị trí không gian, thời gian của bạn khác thời gian của tôi,
không có một thời gian độc nhất, phổ quát và tuyệt đối. Mời bạn đọc thưởng thức bài Phiếm luận về Thời
gian của Trịnh Nguyên Phước trong http://chimviet.free.fr/1/tdhl051.htm

7 Chắc ai trong chúng ta cũng đều nghe nói đến chuyện hư cấu như Từ Thức nhập Thiên Thai: đáp lời
mời của bà mẹ cô tiên rơi xuống trần mà ông cứu, Từ Thức bay lên Thiên Thai với vận tốc nhanh như
chớp của máy thần để gặp nàng ! Ở trên tiên cảnh vài ngày khi quay về hạ giới thì thấy bạn bè đã tóc bạc
da mồi. Số là so với trái đất đứng yên, trên máy thần bay nhanh như chớp, thời gian ở đó trôi chậm hẳn
đi. Còn chuyện thật là hệ thống GPS (Global Positioning System) để xác định tức khắc các địa điểm trên
hoàn cầu. Hệ thống đó tùy thuộc căn bản vào máy đo thời gian vô cùng chính xác (đồng hồ nguyên tử
khai thác sự dao động tuần hoàn của các nguyên tử vi mô) được dùng để kiểm chứng thuyết tương đối hẹp
và rộng. Trên các vệ tinh của GPS di chuyển khá nhanh chung quanh trái đất, thời gian trôi chậm lại theo
thuyết tương đối hẹp. Còn theo thuyết tương đối rộng, nhịp độ của đồng hồ thay đổi với sức hút của quả
đất, trọng lực giảm đi trên các vệ tinh GPS nên ngược lại thời gian ở đó trôi nhanh hơn.

5
8 Tháng 9 năm 1905 cũng trong Annalen der Physik, ông không những tìm ra E = mc² mà còn bình luận
về sự tương đương giữa năng lượng E và khối lượng m, gói ghém trong đó như sau : Nếu do bất kỳ một
tác động nào đó mà một vật mất đi (hay nhận được) một chút năng lượng δE, thì khối lượng của nó giảm
đi (hay tăng lên) một chút δm = δE / c². Một vật khi được đun nóng lên (nó hấp thụ thêm năng lượng),
khối lượng vật đó phải tăng lên, ngược lại nếu nó phát xạ ra ánh sáng (hay cái gì khác), khối lượng nó
phải giảm đi. Một bóng đèn phát sáng sẽ thấy khối lượng bị giảm dần (nhưng cái giảm đó quá nhỏ để đo
lường được vì δE quá nhỏ chia cho c² quá lớn !). Nhưng có những phản ứng khác đo lường dễ dàng hơn,
xem phụ chú 10.

Thực ra phương trình chính xác là E = mc² / k, với k là căn số bậc hai của 1 – (v² /c² ), k = √(1 – v² /c² ),
và v là vận tốc chuyển động của vật. Vậy E = mc² khi vật không di động (v = 0, k = 1). Thêm nữa, khối
lượng của một vật thay đổi với vận tốc v của vật ấy theo phương trình m(v) = m / k ; càng di chuyển
nhanh, khối lượng của nó càng tăng. Bạn đọc nhận thấy vai trò cốt lõi của hệ số k: từ những phương trình
trong cơ học cổ điển Newton chuyển sang cơ học tương đối tính, hầu như ta chỉ cần chia cho k là đủ ! Mà
ta có thể ‘đoán’ được k qua bất biến s² định nghĩa ở phụ chú 6 : s² = (ct)² – r² = (ct’)² – r’². Thực thế thời
gian t’ chỉ định bởi đồng hồ di động đặt ở vị trí x’, y’, z’ ( r’ = 0), cho ta s = ct’– 0 = (ct)√ (1 – r²/t²c²) =
(ct)√ (1– v²/c²), do đó t’ = t k. Ðồng hồ trong chuyến tàu di động chỉ một giây, người ở ngoài thấy dài hơn
một giây (t > t’), thời gian ngoài tàu như dãn nở, đồng hồ ở trong tàu như chạy chậm lại.

Nên biết rằng một khi tiền đề‘’nguyên lý tương đối ‘’ được chấp nhận (nguyên lý tương đối là gì sẽ được
trình bày trong bài) để làm nền tảng cho thuyết tương đối hẹp (với công thức Lorentz chuyển đổi hệ quy
chiếu Không-Thời gian và tìm thấy m(v) = m/k ) thì việc suy diễn từ đó ra E = mc² / k chỉ là một bài tập
ứng dụng mà sinh viên trình độ cử nhân toán lý ngày nay dễ dàng làm được. Có ít nhất ba cách khác
nhau để tìm ra E = mc²/ k. Ba cách khác nhau đó được trình bày trong ba sách giáo trình, mỗi sách một
cách : của Feynman, The Feynman lectures on Physics, Addison-Wesley (1965) cuốn 1, chương 15-9, của
Landau và Lifshitz, The classical theory of fields, Pergamon Press (1962) chương 2, của Hồ Kim Quang
và Phạm Xuân Yêm, Elementary particles and their interactions, Concepts and Phenomena, Springer
(1998), chương 2-1. Có lẽ ‘bài tập’ E = mc² / k quá hiển nhiên đối với Einstein, nên khi ông suy diễn và
viết nó ra (để bàn luận về ý nghĩa vật lý sâu xa hàm chứa trong đó), có thể người đọc hiểu lầm là Einstein
chỉ khẳng định (chứ không chứng minh) chăng ?

9 Khối lượng m (của bất kỳ một vật chất lớn nhỏ nào) chỉ là sự tích tụ năng lượng E (chia cho c²) của vật
đó khi nó không di chuyển (vận tốc v = 0). Phương trình E= mc² / k quả là một thay đổi cách mạng trong
sự hiểu biết và nhận thức về vật chất : năng lượng súc tích ngay trong lòng vật chất qua khối lượng của
nó. Ðặc biệt ánh sáng thuần tuý (năng lượng) có thể tạo ra vật chất ! Thực là ‘mình với ta dẫu hai nhưng
một, ta với mình sao một mà hai’ chép từ bài thơ ‘Nói chuyện với ảnh’ của Tản Đà ! Ai có thể ngờ rằng
trong một vật khối lượng m bất kỳ lớn nhỏ lại tiềm tàng sẵn có một năng lượng khổng lồ E = mc². Để có
một cái nhìn cụ thể về công thức trên, chỉ một gam khối lượng thôi nếu tan biến hết đi sẽ có thể cung cấp
một năng lượng bằng hai chục ngàn tỷ calo (1 calo = 4.18 joule là đơn vị năng lượng cần thiết để làm
tăng nhiệt độ của một gam nước ở trạng thái bình thường lên một độ). Năng lượng cần thiết cho nhu cầu
dinh dưỡng hàng ngày của một người bình thường là khoảng hai triệu calo, bạn hãy tưởng tượng một
gam khối lượng thôi có thể phục vụ nhu cầu dinh dưỡng cho khoảng mươi ngàn người trong vài năm, nếu,
vâng chữ nếu viết nghiêng ! Ngay cả trường hợp m = 0 của hạt quang tử (photon trong điện từ trường mà
laser là một thí dụ cụ thể), năng lượng của nó cũng không bao giờ bằng 0. Thực vậy photon chẳng bao
giờ đứng yên mà luôn luôn di chuyển với vận tốc c, năng lượng của photon E = mc² / k mang dạng 0 / 0
(vì m và k = 0) nên rất có thể khác 0, và đúng thế. Ðây là địa hạt của vật lý lượng tử và photon có năng
lượng E = hν (ν là tần số dao động hàng trăm ngàn tỷ lần trong một giây đồng hồ, chuyện bình thường
của ánh sáng ta thấy hàng ngày, và h là hằng số Planck rất rất nhỏ).

6
Hơn nữa E = mc² bảo ta không phải khối lượng mà chính là năng lượng mới được bảo toàn trong bất kỳ
quá trình biến đổi nào. Nghĩa là tổng năng lượng từ thủa khai thiên lập địa Nổ Bùng (Big Bang) có bao
nhiêu thì mãi mãi giờ đây vẫn thế, không tăng không giảm. Chính cái tổng năng lượng khổng lồ đó đã tạo
ra vật chất, thiên hà, mặt trời, trái đất, nguyên tử , phân tử , hạt cơ bản quark, electron, kể cả ánh sáng….
Những vật chất đó luôn luôn biến đổi, tương tác, phân rã nhưng tổng hợp năng lượng của chúng không
suy suyển. Hết rồi mô thức xa xưa từ thời Aristotle Hy Lạp coi vật chất như có một bản thể vững bền. Bạn
đọc có thể ngạc nhiên vì thấy năng lượng E và khối lượng m tỷ lệ với nhau, tại sao cái trước (E) được bảo
toàn chứ không phải cái sau (m) ? Thí dụ sau đây cho ta thấy cái khác biệt trong sự bảo toàn : một vật thể
mang khối lượng m có thể biến chuyển thành hai vật không khối lượng. Hạt meson πº (khối lượng m gấp
khoảng 265 lần khối lượng hạt electron) phân rã thành hai hạt photon (không có khối lượng) là một điển
hình rõ ràng cho ta thấy khối lượng không được bảo toàn trong quá trình phân rã trên. Nhưng trái lại
năng lượng ở đây luôn được bảo toàn : hạt πº có năng lượng mc² biến thành hai hạt photon, mỗi photon
mang năng lượng mc² / 2. Một cái chén rơi xuống đất vỡ ra nhiều mảnh, tổng số khối lượng tất cả các
mảnh vỡ khác cái khối lượng ban đầu của chén một chút, và cái khác biệt li ti của khối lượng đó tạo ra
động năng (kinetic energy) để các mảnh bay tứ tung ! Câu ‘rien ne se perd, rien ne se crée, tout se
transforme’ của Lavoisier thực ra phải áp dụng cho năng lượng chứ không phải cho khối lượng như ta
thường tưởng lầm cho đến tận năm 1905 khi Einstein hiểu và truyền đạt!

10 Ngoài ra Einstein tháng 9 năm 1905 cũng đề nghị dùng nguyên tố phóng xạ Radium (mà hai vợ chồng
Pierre và Marie Curie tìm ra bảy năm trước đó) để kiểm chứng E = mc² bằng thực nghiệm. Einstein cho
ta biết khối lượng của Radium phải giảm dần đi vì nó luôn phóng xạ và như vậy mất đi năng lượng. Mà
đã mất năng lượng thì khối lượng phải giảm đi. Phải đợi đến 1932 Cockcroft và Walton mới kiểm chứng
được lần đầu phương trình trên, bằng cách bắn proton vào hạt nhân Lithium 7, hạt này bị phân hạch
thành hai hạt nhân Helium. Ðộng năng của hai Helium này được tạo ra chính là nhờ khối lượng của
Lithium bị mất đi một phần trong phản ứng trên. Năm sau 1933, Frédéric Joliot-Curie để hạt electron
(điện tích âm) và positron (‘phản’ electron, mang điện tích dương) va chạm nhau và chúng biến thành hai
photon, nghĩa là khối lượng 2m của cặp electron-positron đã tan biến hoàn toàn thành ánh sáng mang
năng lượng 2mc² !Ngày nay dùng năng lượng thuần tuý (như ánh sáng chẳng hạn) để tạo ra vật chất là
chuyện bình thường trong các máy gia tốc hạt mà CERN (Centre Européen de Recherche Nucléaire) ở
Genève là một thí dụ.

11 Ba năm sau phương trình E = mc² , Poincaré (khi so sánh một vật phát xạ ánh sáng với một khẩu đại
bác bắn ra một viên đạn) đã viết trong La dynamique de l’électron, Science et Méthode (1908) mấy câu
sau đây: ‘’ Khẩu đại bác giật lùi vì viên đạn bị bắn ra đã tác động trở lại. Trường hợp vật phóng quang
lại là chuyện khác, ánh sáng phát ra không phải là vật chất, đó là năng lượng, mà năng lượng thì không
có khối lượng…’’

Qua câu trên, rõ ràng Poincaré dẫu có suy diễn (hay chứng minh ?) ra E = mc² thì ông hoặc quên nó rồi,
hoặc bất quá cũng chỉ coi nó như một hệ quả thuần toán học, chẳng quan trọng gì cho vật lý !

12 Mâu thuẫn căn bản đó được phác hoạ sơ sài qua cái gọi là tai họa chân không trong bài ’Cái Không
trong lượng tử’ của Phạm Xuân Yêm trích trong cuốn sách với nhiều tác giả ‘’Einstein trăm năm dấu
ấn ‘’, nxb Trẻ và tập san Tia Sáng (2005). Xem http://chimviet.free.fr/21/pxyl050/pxyl050_13.htm

13 Mong bạn đọc không bị lẫn lộn ‘nguyên lý tương đối’ có từ thời Galileo với lý thuyết tương đối hẹp.
Nguồn gốc của danh từ tương đối là do Poincaré đầu tiên (và Einstein sau đó) dùng ‘nguyên lý tương đối’
để áp dụng cho cơ học của ánh sáng, thay vì cho cơ học của các vật chất mang khối lượng như từ thời
Newton.

7
14 Sau này với thuyết tương đối rộng Einstein còn chỉ dẫn cho ta hay sự liên hệ mật thiết, thậm chí sự
tương đương giữa vật chất với không gian và thời gian, theo đó vật chất còn dựng nên cả cấu trúc cong
xoắn của vũ trụ không-thời gian bốn chiều. Vật chất và Không-Thời gian được thống nhất, cái trước tạo
nên (và là) cái sau. Như một lần Einstein đã viết cho Schwarzschild (người đầu tiên năm 1916 giải
phương trình Einstein của thuyết tương đối rộng): Xưa kia người ta nghĩ rằng nếu mọi vật trên đời biến
mất thì sẽ còn lại thời gian và không gian, nhưng theo thuyết tương đối rộng thì không-thời gian cũng
biến mất theo vật chất mà thôi.

Hai tĩnh từ hẹp và rộng trong thuyết tương đối theo thứ tự để chỉ những chuyển động đều đặn (vận tốc cố
định), và những chuyển động có gia tốc (vận tốc không cố định). Những chuyển động có gia tốc sẽ không
được cảm thấy trong cái trọng trường do vật chất mang khối lượng tạo thành (giống như người lơ lửng ở
trong hỏa tiễn không bị trọng trường của quả đất tác động). Vì thế thuyết tương đối rộng cải tiến, bổ sung
luật vạn vật hấp dẫn của Newton, cũng như thuyết tương đối hẹp đổi mới cơ học cổ điển của Galileo-
Newton. Trong cả hai thuyết tương đối rộng và hẹp, khái niệm không-thời gian bốn chiều gắn quyện với
nhau, thay thế cho không gian và thời gian tuyệt đối, độc nhất.

15 Ngày nay với cơ học tương đối tính, câu trả lời là (v + w) chia cho 1 + (v w / c²). Vì c² quá lớn nên cái
hệ số khác biệt (v w / c²) cực kỳ nhỏ. Trường hợp w = c, sẽ làm bạn ngạc nhiên (vì phương trình trên lúc
nào cũng bằng c, không còn phụ thuộc vào v nữa) và thích thú (vì vận tốc ánh sáng không thay đổi trong
tất cả mọi hệ quy chiếu, chuyển động hay không, hệ quả của nguyên lý tương đối và giải thích tại sao
Michelson và Morlay không tìm thấy luồng gió ether).

16 Maxwell là người tổng hợp tất cả các định luật điện từ và khám phá ra sóng ánh sáng chính là sóng
điện từ qua bốn phương trình tuyệt vời khiến Boltzmann, người cha đẻ của Vật lý thống kê, đã thốt lên
‘phải chăng Thượng đế viết những dòng này’.

17 Vận tốc ánh sáng trên bến dưới tàu đều như nhau và bằng c.

E = mc², θ-τ puzzle, sao quá ngại ngùng ?

— Phạm Xuân Yêm — Cập nhật : 27/10/2006 22:06 Cuộc đối thoại tiếp tục...

E = mc², θ-τ puzzle, sao quá ngại ngùng ?

Phạm Xuân Yêm

Phải cảm ơn Ðỗ Thống, bài Poincaré, Perelman, Khưu Thành Ðồng và…của ông đã vô tình gợi ý cho tôi
để viết E = mc², Einstein và Poincaré ai dễ biết ai ?, vì trước đấy đã có vài bạn bè hỏi về chuyện Einstein
‘mượn rồi phớt lờ’ Poincaré, mà họ đọc ở đâu đó. Nhưng người viết không quan tâm mấy đến chuyện này,
mà chỉ mong chia sẻ phần nào với độc giả yêu thích khoa học nhưng không chuyên ngành về vật lý hay

8
toán, vài nét đặc trưng của thuyết tương đối hẹp. Nhất là về cách mà Lorentz, Poincaré và Einstein, mỗi
người một vẻ, tiếp cận và giải đáp ra sao " bí hiểm ether " (phụ chú 4 trong bài viết ấy). Theo tôi nghĩ,
cách đặt và giải vấn đề của những người chủ yếu đã đóng góp cho sự khai phá ra thuyết tương đối mới
thực là quan trọng, vì nó giúp ta hiểu lý thuyết ấy một cách sinh động và tích cực để học hỏi thêm. Phương
pháp luận này được trình bày trong phần chính của bài viết " Nguyên lý tương đối là gì ? ", đặc biệt ở đoạn
3 " Giây đồng hồ và mét ở trong tàu khác ngoài bến " và phụ chú 6. Như ai đó đã viết: đặt đúng vấn đề là
đã giải quyết được nửa phần rồi! Còn trước sau trong việc tìm ra E = mc², một trong những hệ quả của
thuyết tương đối hẹp, thì những tài liệu biện và phản biện ở phụ chú 2 và 3 đã quá đủ rồi cho độc giả nào
chú tâm đến lịch sử và diễn biến của thuyết này.

Bây giờ để đối thoại với Ðỗ Thống trong bài ngắn Từ Poincaré đến Einstein không kinh qua Perelman,
xin trở lại chuyện chứng minh ra E = mc². Thiển nghĩ chứng minh là chứng minh, không có cách toán hay
cách vật lý. Trong đoạn cuối của phụ chú 8 18 tuy dùng suy diễn và bài tập, nhưng chính là cách chứng
minh E = mc²/k của Poincaré mà Landau và Lifshitz trình bày trong sách của họ. Nghĩa là đi từ tiên đề s²
bất biến (phụ chú 6, nguyên lý tương đối) và dùng kỹ thuật của cơ học giải tích, ta tìm ra m(v) = m/k. Tìm
ra hệ số k và m(v) là chìa khóa mở đường cho nhiều khai thác, từ đó có nhiều cách suy ra E = mc²/k.
Chính vì thế nên tôi viết có ít nhất ba cách để tìm ra nó. Khi v nhỏ hơn c, phương pháp phát triển hạn chế
m(v) trong sách của Feynman là một cách chứng minh khác: trước hết nhận ra động năng (½) mv² rồi từ
đó suy ra E = mc²/k mà theo tôi Einstein đã dùng để tìm thấy phương trình của thế kỷ. Ðấy là ý của câu
bài tập quá hiển nhiên đối với Einstein, nhưng tôi không dám bảo là khẳng định hay tôtôlôgi, cùng lắm là
educated guess, nói theo ngôn ngữ các tập san khoa học ngày nay. Không như ức đoán trong toán học,
khẳng định trong vật lý mà không chứng minh bằng lý luận hay thực nghiệm, thì chẳng có giá trị gì mà
cho công bố trong tập san uy tín hàng đầu Annalen der Physik lúc bấy giờ, nhất là đối với một nghiên cứu
sinh nghiệp dư, nhân viên hạng nhì văn phòng cấp bằng sáng chế ở Bern chẳng ai biết đến. Không lẽ
Planck, người cha đẻ của lượng tử, chủ biên tờ tập san trên lại vô trách nhiệm đến thế sao? Nên biết thêm
rằng nhà vật lý vắn số Áo Friedrich Hasenohrl (1874-1915) cũng tìm ra E = mc²/ k nhưng trong một tình
huống khác (xem Silvio Bergia phụ chú 3). Tóm lại cho đến năm 1905, có ba người đã chứng minh (chứ
không khẳng định) ra phương trình trên, nhưng hiểu được nó chỉ có một.

Ðể đền bù độc giả ngoại đạo phải đọc những dòng kỹ thuật khô khan trên và cũng để chấm dứt, xin kể một
chuyện kiểu trà dư tửu hậu có nhiều điều song song với E = mc² của thuyết tương đối hẹp. Khoảng năm
1955, trong vật lý hạt cơ bản có một khám phá thực nghiệm khó hiểu gọi là θ-τ puzzle: hạt meson K có thể
phân rã lúc ra hai, lúc ra ba meson π. Sự phân rã (tương tác yếu) ra ba (một số lẻ) meson π không duy trì
định luật đối xứng cơ bản trái-phải, hay đối xứng gương (P parity). Ta hình dung đối xứng đó như sau: tay
phải (trái) của ta có hình trong gương hệt như tay trái (phải), và cái mà ta gọi là phía phải hay phía trái
thực ra chỉ là một ước lệ giữa con người. Không có gì cho ta phân biệt được mọi hiện tượng ở ngoài
gương và hình chiếu của hiện tượng đó trong gương, chúng phải giống hệt như nhau. Cho đến năm 1955,
mọi người đều nghĩ rằng các định luật tương tác cơ bản vật lý như vạn vật hấp dẫn (tương đối rộng), điện
từ, tương tác trong hạt nhân các nguyên tử, đều mang tính đối xứng này, mà thực thế trong tất cả các
tương tác, trừ một. Nhà vật lý tiếng tăm Pháp Louis Michel một chuyên gia hàng đầu về tương tác yếu,
trước đó vài năm đã viết ra toàn bộ công thức về phân rã hạt, tuân theo luật đối xứng gương P. Hai nhà vật
lý Trung Quốc ở Mỹ, Lý Chánh Ðạo và Dương Chấn Ninh suy nghĩ về puzzle này và chợt nẩy ra câu hỏi,
có lẽ tương tác yếu vi phạm đối xứng gương P chăng ? Hai ông bèn tìm cách kiểm chứng bởi thực nghiệm
giả thuyết của mình qua một công thức nào đó. Sau bao tính toán ngày đêm lao tâm khổ tứ, các công thức
họ tìm đều đã viết ra cả rồi bởi Michel. Mãi hai ông mới tỉnh ngộ rằng các công thức Michel đều không vi
phạm đối xứng P, và sau đó họ nhận ra đặc trưng của sự vi phạm P là vai trò của spin hay phân cực. Hai
ông nhờ ngay một đồng nghiệp vừa là đồng hương, nữ giáo sư Wu Chien-Shiung trưởng phòng thí nghiệm
ở đại học Columbia cũng là nơi giảng dạy của Lý, để kiểm chứng sự bất đối xứng trái-phải. Bà tìm ra có
một khác biệt cực kỳ rõ rệt giữa trái và phải trong các hiện tượng phân rã yếu, và Dương cùng Lý đoạt giải
Nobel vật lý năm 1957, vài tháng sau thí nghiệm thành công của Wu.
9
Bài học là gì? Trước hết cách tiếp cận θ-τ puzzle của Dương và Lý giống như Einstein tiếp cận thí nghiệm
Michelson và Morlay. Sau nữa, định kiến cho rằng đối xứng cơ bản trái-phải trong phân rã yếu đã ăn sâu
vào tiềm thức đến nỗi ta tin rằng chúng hiển nhiên như vậy, cũng như phải có ether để truyền đi ánh sáng.
Nếu Michel không quá ngại ngùng chối bỏ định kiến đối xứng P, cũng như Poincaré với định kiến ether,
thì toàn bộ các công thức toán mà hai vị đã có sẵn trong đầu chỉ cần trở bàn tay để đánh thức nàng tiên của
vật lý! Quá trình nghiên cứu sáng tạo trong khoa học tự nhiên là như thế.

Phạm Xuân Yêm

18 : ... Nên biết rằng một khi tiền đề " nguyên lý tương đối " được chấp nhận (nguyên lý tương đối là gì sẽ
được trình bày trong bài) để làm nền tảng cho thuyết tương đối hẹp (với công thức Lorentz chuyển đổi hệ
quy chiếu Không-Thời gian và tìm thấy m(v) = m/k ) thì việc suy diễn từ đó ra E = mc² / k chỉ là một bài
tập ứng dụng mà sinh viên trình độ cử nhân toán lý ngày nay dễ dàng làm được. Có ít nhất ba cách khác
nhau để tìm ra E = mc²/ k. Ba cách khác nhau đó được trình bày trong ba sách giáo trình, mỗi sách một
cách : của Feynman, The Feynman lectures on Physics, Addison-Wesley (1965) cuốn 1, chương 15-9, của
Landau và Lifshitz, The classical theory of fields, Pergamon Press (1962) chương 2, của Hồ Kim Quang
và Phạm Xuân Yêm, Elementary particles and their interactions, Concepts and Phenomena, Springer
(1998), chương 2-1. Có lẽ ‘bài tập’ E = mc² / k quá hiển nhiên đối với Einstein, nên khi ông suy diễn và
viết nó ra (để bàn luận về ý nghĩa vật lý sâu xa hàm chứa trong đó), có thể người đọc hiểu lầm là Einstein
chỉ khẳng định (chứ không chứng minh) chăng ?

10

You might also like