Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 11

1. Những hình thức cơ bản của thế giới quan.

n. Chức năng của thế giới quan triết học.


2. Những hình thức lịch sử của phép biện chứng. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật và
những yêu cầu có tính nguyên tắc mà phép biện chứng duy vật đòi hỏi.
3. Quan điểm của triết học mác – xít về bản chất của con người và sự vận dụng nó đối với việc phát
huy vai trò nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay.

1. Những hình thức cơ bản của thế giới quan. Chức năng của thế giới quan triết học.

A. Định nghĩa Thế giới quan: thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về
thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới ấy.
B. Những hình thức cơ bản của thế giới quan: ba hình thức cơ bản: thế giới quan huyền thoại, thế giới
quan tôn giáo và thế giới quan triết học.
1. Thế giới quan huyền thoại: là thế giới quan có nội dung pha trộn một cách không tự giác giữa thực
và ảo. Thế giới quan huyền thoại đặc trưng cho “tư duy nguyên thủy”, được thể hiện rõ nét qua các
chuyện thần thoại, phản ánh nhận thức về thế giới của con người trong xã hội công xã nguyên thủy.
Thế giới quan huyền thoại chủ yếu là sản phẩm của nhận thức cảm tính nên những gì trừu tượng thường
được con người hình dung dưới dạng sự vật cụ thể. Thế giới quan huyền thoại thể hiện đậm nét trí tưởng
tượng của “tư duy nguyên thủy” – tư duy chứa đựng sự pha trộn một cách không tự giác giữa thực và ảo,
giữa thần và người. Sự pha trộn này, như Ph.Ăngghen nhận định, là kết quả tất yếu của trình độ nhận
thức thấp, khi con người chưa hiểu về nguồn gốc, nguyên nhân, bản chất của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới nên họ đã nhân cách hóa, nhân hình hóa, nhân tính hóa chúng thành các vị thần hoặc bán
thần trong thần thoại.

2. Thế giới quan tôn giáo: là thế giới quan có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng siêu nhiên
đối với thế giới, đối với con người, được thể hiện qua các hoạt động có tổ chức để suy tôn, sùng bái lực
lượng siêu nhiên ấy.
Thế giới quan tôn giáo ra đời khi trình độ nhận thức và khả năng hoạt động thực tiễn của con người còn
rất thấp, thể hiện sự yếu đuối, bất lực, sợ hãi của con người trước những lực lượng siêu nhiên cũng như
lực lượng xã hội dẫn đến việc con người thần thánh hóa chúng, quy chúng về những sức mạnh tự nhiên
và đi đến tôn thờ chúng.
Đặc trưng chủ yếu của thế giới quan tôn giáo là niềm tin cao hơn lý trí, trong đó niềm tin vào một thế
giới khác hoàn thiện, hoàn mỹ mà con người sẽ đến sau khi chết giữ vai trò chủ đạo. Ở niềm tin này, thế
giới quan tôn giáo vừa biểu hiện sự nghèo nàn của hiện thực, vừa là sự phản kháng chống lại sự nghèo
nàn ấy.
Thế giới quan tôn giáo gồm có:
+ Thế giới quan tôn giáo hữu thần (đơn thần và đa thần): thừa nhận có sự tồn tại của thần thánh
+ Thế giới quan vô thần: không công nhận có sự tồn tại của thần thánh. Đây chính là thế giới quan phật
giáo.

3. Thế giới quan triết học: là thế giới quan được thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua hệ thống các
khái niệm, các phạm trù, các quy luật. Nó không chỉ nêu ra các quan điểm, quan điểm của con người về
thế giới và về bản thân con người, mà còn chứng minh các quan điểm, quan niệm đó bằng lý luận.
+ Đặc điểm: đề cao vai trò của yếu tố trí tuệ
+ Tính chất: tính chất của TGQ triết học phụ thuộc vào tính chất của các học thuyết triết học đóng vai
trò là hạt nhân khoa học. Thế giới quan triết học và triết học không tách rời nhau.
Thế giới quan triết học chỉ hình thành khi nhận thức của con người đã đạt đến trình độ cao của của sự
khái quát hóa, trừu tượng hóa và khi các lực lượng xã hội đã ý thức được sự cần thiết phải có định
hướng về tư tưởng để chỉ đạo cuộc sống.
Thế giới quan có thể chia thành: thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm; thế giới quan khoa học
và thế giới quan phản khoa học.
+ Thế giới quan khoa học: phản ánh thế giới và định hướng cho hoạt động của con người trên cơ sở tổng
kết những thành tựu của quá trình nghiên cứu khoa học, thực nghiệm khoa học và dự báo khoa học.
+ Thế giới quan phản khoa học:
+ Thế giới quan duy tâm: là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là tinh thần và thừa nhận vai
trò quyết định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới vật chất nói chung, đối với con người, xã hội loài
người nói riêng.
+ Thế giới quan duy vật: là thế giới quan thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, thừa nhận vai trò
quyết định của vật chất đối với các biểu hiện của đời sống tinh thần và thừa nhận vị trí, vai trò của con
người trong cuộc sống hiện thực.
Sự ra đời của thế giới quan duy vật biện chứng còn là kết quả tổng kết của các sự kiện lịch sử diễn ra ở
các nước tây Âu, khi phương thức sx TBCN hình thành và đã bộc lộ những mặt tích cực và cả mặt hạn
chế của nó. Nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ mang lại 1 bức tranh trung
thực về thế giới mà còn đem lại cho con người một định hướng, một phương pháp tư duy khoa học để
con người tiếp tục nhận thức và cải tạo thế giới.

• Chức năng của TGQ triết học:


nó không chỉ nêu ra các quan điểm, quan niệm của con người về thế giới và về bản thân con người, mà
còn chứng minh các quan điểm, quan niệm đó bằng lý luận.

Câu 13: Những hình thức lịch sử của phép biện chứng. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy
vật và những yêu cầu có tính nguyên tắc mà phép biện chứng duy vật đòi hỏi.

A. CÁC HÌNH THỨC LỊCH SỬ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG


Phép biện chứng là học thuyết về các mối liên hệ, về sự vận động và phát triển, mở rộng, là tri
thức về các mối liên hệ, về trạng thái vận động và phát triển. Phép biện chứng ra đời từ thời cổ đại.
Trong lịch sử triết học, có 3 hình thức cơ bản của phép biện chứng: phép biện chứng chất phát (ngây
thơ), phép biện chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
1. Phép biện chứng tự phát (chất phát hoặc ngây thơ) thời kỳ cổ đại:
- Phép biện chứng cổ đại thể hiện rõ nét trong triết học Ấn Độ, Trung Quốc, và Hy Lạp cổ đại.
- Đặc trưng của phép biển chứng cổ đại là tính tự phát, ngây thơ. Các nhà triết học cổ đại nghiên cứu
sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong bức tranh chung, chỉnh thể về thế giới.
• Ưu điểm:
o Phép biện chứng cổ đại coi thế giới là chỉnh thể thống nhất; giữa các bộ phận của thế giới
có mối liên hệ qua lại, thâm nhập, tác động và quy định lẫn nhau, thế giới không ngừng
vận động, biến đổi.
o Những nội dung cơ bản của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại là cơ sở để phép biện chứng
phát triển lên ở các hình thức cao hơn.
2. Phép biện chứng duy tâm (cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX)
- Phép biện chứng khởi đầu từ Cantơ, Phíchtơ, Seelinh và phát triển đến đỉnh cao trong pháp biện chứng
duy tâm của Hêghen
- Phép biện chứng trong giai đoạn này là “sự phát triển”, nghĩa là sự chuyển hóa từ cái trựu tượng đến
cái cụ thể, từ chất này sang chất khác được thực hiện nhờ giải quyết mâu thuẫn. Phát triển được coi là sự
tự phát triển tịnh tiến của “ý niệm tuyệt đối”, từ tồn tại đến bản chất, từ bản chất đến khái niệm, trong đó
khái niệm là chủ thể, vừa là khách thể đồng thời là “ý niệm tuyệt đối”.Heeghen coi phát triển là nguyên
lý cơ bản nhất của phép biện chứng với phạm trù trung tâm là “tha hóa” và khẳng định “tha hóa” diễn ra
ở mọi lúc mọi nơi, trong cả tự nhiên, xã hội và tinh thần.
- Đặc trưng của phép biện chứng thời kỳ này: đã áp dụng phép biện chứng vào nghiên cứu các lĩnh vực
khác nhau của đời sống xã hội.Qua đó đã xây dựng được hệ thống phạm trù, quy luật chung, thống nhất,
có logic chặt chẽ của nhận thức tinh thần và trong một số ý nào đó là của cả hiện tượng vật chất
• Ưu điểm:
• Phép duy tâm trong triết học cổ điển Đức đã trở thành một hệ thống lý luận tương đối
hoàn chỉnh, và trong một chừng mực nhất định đã trở thành một phương pháp tư duy triết
học phổ biển. Lần đầu tiên phép biện chứng thể hiện với tư cách là Logic biện chứng, khắc
phục một số hạn chế của logic hình thức.
o Đã tạo ra bước chuyển biến về thế giới quan và lập trường từ chủ nghĩa duy vật
siêu hình sang thế giới quan khoa học duy vật biện chứng
• Khuyết điểm:
o Khi khoa học phát triển sang giai đoạn tổng quát nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển
của sự vật, hiện tượng trên quan điểm duy vật, thì tất yếu nó sẽ bị phủ định và thay thế bằng
phép biện chứng duy vật.
3. Phép biện chứng duy vật: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự vận động
phát triển
- Mác và Ăng-ghen sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng vào giữa thế kỷ XX đã đem lại cho phép
biện chứng một hình thức mới về chất. Đó là phép biện chứng duy vật
- Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện
chứng, giữa lý luận nhận thức với logic biện chứng.
- Phép biện chứng duy vật có khả năng đem lại cho con người tính tự giác cao trong mọi hoạt động. Mỗi
luận điểm của phép biện chứng duy vật là kết quả của sự nghiên cứu rút ra từ giới tự nhiên, cũng như
lịch sử xã hội loai người. Mỗi nguyên lý, quy luật của phép biện chứng đều được khái quát và luận giải
trên cơ sở khoa học. Chính vì vậy mà phép biện chứng duy vật đã đưa phép biện chứng từ từ phát đến tự
giác.

B. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
- Nội dung của phép biện chứng duy vật bao gồm nguyên lý về mối liên hệ phổ biển và nguyên lý về sự
phát triển.
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
• Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến dùng để khái quát mối liên hệ, sự
tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các
giai đoạn phát triển của một sự vật, hiện tượng.
• Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới, theo đó các sự
vật, hiện tượng trong thế giới dù có đa dạng, có khác nhau đến thế nào đi chăng nữa thì
cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất.
• Các mối liên hệ có tính khách quan, phổ biến và da dạng. Chúng giữ những vai trò khác
nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
• Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát bức tranh toàn cảnh về thế giới trong những
mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó.
• Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, con người rút ra được những quan điểm, nguyên
tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
2. Nguyên lý về sự phát triển
• Trong phép biện chứng duy vật, phát triển dùng để khái quát quá trình vận động đi lên từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quá trình
đó vừa diễn ra dần dần, nhảy vọt làm cho sự vật hiện tượng cũ mất đi, sự vật hiện tượng
mới ra đời.
• Phát triển là tự thân. Động lực của sự phát triển là mẫu thuẫn giữa các mặt đối lập bên
trong sự vật, hiện tượng. Phát triển đi theo đường “xoáy ốc”, cái mới dường như lập lại
một số đặc trưng của cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn; thiện hiện tính quanh co và phức
tạp, có thể là những bước thụt lùi tương đối trong sự phát triển.
• Phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động. Trong quá trình phát triển, sự vật,
hiện tượng chuyển hóa sang chất mới, cao hơn, phức tạp hơn; làm cho mọi cơ cấu tổ chức
phương thức vận động và chức năng của sự vật ngày càng hoàn thiện hơn.
• Từ nguyên lý về sự phát triển, con người rút ra được những quan điểm, nguyên tắc chỉ
đạo hoạt động nhật thức và hoạt động thực tiễn.
- Đây là các nguyên lý khái quát nhất. Các phạm trù, các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
là sự cụ thể hóa các nguyên lý trên. Phạm trù là khái niệm cơ bản không thể thiếu trong 1 ngành khoa
học nào đó, nó phản ánh những đặc trưng chung nhất của một nhóm đối tượng.
1. Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
• Theo quan niệm của phép biện chứng duy vật, nhận thức bắt đầu từ sự phản ảnh những sự
vật, hiện tượng cụ thể của thế giới. Nhưng trong quá trình so sánh giữa những sự vật,
hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác; sự phân biệt chổ giống nhau và khác nhau
giữa chúng, nhận thức đi đến sự phân biệt cái riêng, cái chung.
o Cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một sự vật, hiện tượng nhất định và cái đơn
nhất.
o Cái chung là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính lặp lại trong
nhiều sự vật, nhiều hiện tượng.
o Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những đặc điểm chỉ có ở một sự
vật, hiện tượng nào đó mà không lặp lại ở các sự vật, hiện tượng khác.
• Giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất có mối liên hệ biện chứng với nhau.
o Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, biểu hiện thông qua cái riêng; ngược lại, cái
riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung bao hàm cái chung;
o Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận nhưng
sâu sắc hơn cái riêng
o Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình vận động và
phát triển của sự vật.
2. Nguyên nhân và kết quả
• Nhận thức về sự tác động qua lại và tương tác giữa các mặt, các yếu tố
hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau dẫn đến sự xuất hiện các sự vật hiện tượng mới
và do vậy phát hiện ra các mối liên hệ nhân quả.
o Nguyên nhân là sự tương tác qua lại giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng
hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau gây nên những biến đổi nhất định
o Kết quả là những biến đổi xuất hiện do sự tương tác qua lại giữa các mặt trong
một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
• Giữa nguyên nhân và kết quả có mối liên hệ qua lại và quy định lẫn nhau.
o Nguyên nhân sinh ra kết quả, luôn có trước kết quả.
o Sau khi xuất hiện, kết quả có ảnh hưởng tích cực trở lại đối với nguyên nhân
• Sự phân biệt giữa nguyên nhân và kết quả có tính tương đối, một sự vật hiện tượng ở
trong mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng ở trong mối quan hệ khác là kết quả và
ngược lại tạo nên chuỗi nhân quả vô tận. Do vậy nguyên nhân kết quả bao giờ cũng ở
trong mối quan hệ cụ thể.
3. Tất nhiên và ngẫu nhiên
• Trong khi phản ảnh hiện thực khách quan, con người nhận thức được tính không một
nghĩa, không cùng một giá trị của các mối liên hệ khác nhau của sự vật, hiện tượng nên
phân chia chúng thành nhóm các mối liên hệ nhất định phải xảy ra đúng như thế và nhóm
các mối liên hệ có thể xảy ra, có thể không xảy ra, cũng có thể xảy ra thế này hay thế
khác.
 Tất nhiên do mối liên hệ bản chất, do những nguyên nhân cơ bản bên trong của sự
vật, hiện tượng quy định và trong những điều kiện nhất định phải xảy ra đúng như
thế chứ không thể khác
 Ngẫu nhiên do mối liên hệ không bản chất, do những nguyên nhân, hoàn cảnh bên
ngoài quy định, có thể xuất hiện, có thể không xuất hiện, có thể xuất hiện thế này
hoặc có thể xuất hiện thế khác.
• Giữa tất nhiên và ngẫu nhiên có mối liên hệ biện chứng với nhau.
 Tất nhiên bao giờ cũng vạch đường đi cho mình thông qua vô số ngẫu nhiên
 Còn ngẫu nhiên có hình thức biểu hiện của tất nhiên, bổ sung cho tất nhiên.
 Tất nhiên đóng vai trò chi phối sự phát triển
 Còn ngẫu nhiên chỉ có thể làm cho sự phát triển diễn ra nhanh hoặc chậm, trong
hình thức này hay hình thức khác.
• Sự phân biệt tất nhiên, ngẫu nhiên có tính tương đối, trong những điều kiện nhất định
chúng chuyển hóa lẫn nhau.
4. Nội dung và hình thức
• Việc nhận thức nội dung và hình thức gắn liền với việc nghiên cứu các yếu tố quy định sự
tồn tại của sự vật và phương thức tồn tại của nó
o Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng
o Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng; là hệ thống
các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật, hiện tượng.
• Giữa nội dung và hình thức có mối liên hệ qua lại và quy định lẫn nhau, trong đó nội
dung giữa vai trò quyết định
5. Bản chất và hiện tượng
• Khi có được nhận thức tương đối và đầy đủ về những mặt, những mối liên hệ tất yếu và
những đặc tính riêng của sự vật thì nhận thức đó vẫn chưa vươn tới sự phản ánh đầy đủ
về sự vật. Để nhận thức đúng sự vật, từ các hiện tượng phong phú, nhiều vẻ, con người
tiếp tục đi sâu, nghiên cứu bản chất của sự vật.
o Bản chất là sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối
ổn định bên trong, quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật.
o Hiện tượng là những biểu hiện bề ngoài, bên ngoài của sự vật
• Giữa bản chất và hiện tượng có mối liên hệ biện chứng với nhau.
o Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau. Sự thống nhất đó thể hiện ở chỗ:
• Bản chất thể hiện thông qua hiện tượng, còn hiện tượng là sự thể hiện của
bản chất.
o Đặc điểm:
• Bản chất tương đối ổn định, ít biến đổi hơn
• Còn hiện tượng đông hơn, thường xuyên biến đổi hơn.
6. Khả năng và hiện thực
• Khi đã nhận thức được bản chất và những mâu thuẫn vốn có của sự vật, hiện tượng,
chúng ta có thể phản đoán được sự vật, hiện tượng sẽ biến đổi theo chiều hướng nào,
nghĩa là chúng ta có thể nhận thức được đồng thời cả hiện thực và khả năng biến đổi của
sự vật hiện tượng.
o Khả năng là cái hiện thực chưa xảy ra, nhưng sẽ xảy ra khi có các điều kiện thích
hợp.
o Hiện thực là cái đang có, đang tồn tại thực sự.
• Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình vận
động, phát triển của sự vật.
o Trong hiện thực bao giờ cũng chứa đựng những khả năng nhất định
• Mối quan hệ giữa khả năng và hiện thực diễn ra rất phức tạp
o Trong từng giai đoạn phát triển của sự vật thường xuất hiện nhiều khả năng.
o Khả năng nào biển thành hiện thực là tùy thuộc vào điều kiện cụ thể.
• Trong hoạt động thực tiễn phải dự báo khả năng và tạo điều kiện cho khả năng tốt thành
hiện thực và ngăn ngừa khả năng xấu.
- Các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật không phải là hệ thống bất biến mà chúng phát triển
cùng với sự phát triển của khoa học và thực tiễn. Mối quan hẹ giữa các cặp phạm trù của các ngành khoa
học với các phạm trù của phép biện chứng duy vật là mối quan hệ giữa cái chung với cái riêng.
- Do vậy khi nghiên cứu các phạm trù cần liên hệ chúng với nhau
Bên cạnh các cặp phạm trù, phép biện chứng duy vật còn bao hàm ba quy luật phổ biến về sự vận động,
phát triển của tự nhiên, xác hội và tư duy.
1. Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Theo phép biện chứng, mặt đối lập là những mặt có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau. Mọi
sự vật đều có những mặt đối lập. Sự tác động giữa chúng tạo thành những mâu thuẫn bên trong của sự
vật. Mâu thuẫn biện chứng là phổ biến, khách quan, vốn có của sự vật. Các mặt đói lập lại vừa thống
nhất, vừa đấu tranh với nhau. Trong đó thống nhất là tương đối, là thạm thời. Đấu tranh là tuyệt đối,
vĩnh viễn. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát
triển.
=> Quy luật này có ý nghĩa phương pháp luận to lớn trong việc phát hiện và phân tích mẫu
thuẫn của sự vật cũng như tìm ra con đường đúng đắn để giải quyết mâu thuẫn nhằm thúc đẩy sự vật
phát triển.
2. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và
ngược lại
Quy luật này chỉ ra cách thức vận động và phát triển của sự vật hiện tượng. Trong đó
• Chất là tính quy định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ giữa các
thuộc tính làm cho nó là nó mà không phải là cái khác.
• Lượng là tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu
của sự vận động, phát triển của sự vật cũng như các thuộc tính của nó.
Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa chất và lượng. Giới hạn, trong đó những thay đổi về lượng
của sự vật chưa gây ra những thay đổi căn bản về chất được gọi là độ. Những thay đổi về lượng vượt
quá giới hạn của độ sẽ làm cho chất của sự vật biến căn bản. Điểm mà tại đó sự thay đổi căn bản về
chất được thực hiện gọi là điểm nút.
Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất còn có chiều ngược lại. Đến lược
nó, sự thay đổi về chất lại tác động đến lượng, thúc đẩy lượng phát triển.
=> Nắm được nội dung này sẽ tránh nôn nóng, đốt cháy giai đoạn tích lũy về lượng, đồng thời
tránh tư tưởng tuyệt đối hóa sự thay đổi về lượng, không kịp thời chuyern những thay đổi về lượng sang
những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính tiến hóa sang những thay đổi mang tính cách mạng
và ngược lại không biết sử dụng chất với để thúc đẩy lượng tiếp tục phát triển.
3. Quy luật phủ định của phủ định
Quy luật này chỉ ra khuynh hướng phát triển của sự vật. Phủ định biện chứng là quá trình khách
quan, tự thân, là quá trình kế thừa cái tích cực đã đạt được từ cái cũ, là mắt khâu trong quá trình dẫn đến
sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới cao hơn, tiến bộ hơn. Phát triển không đi theo đường thẳng mà theo
đường xoắn ốc.
=> Quy luật này có một ý nghĩa phương pháp luận to lớn trong quá trình thay thế cái cũ bằng
cái mới. Nó đòi hỏi phải xuất phát từ những điều kiện khách quan cho phép, phải tạo điều kiện, tiền đề
cho cái mới chiến thắng cái cũ, phải biết kế thừa và phát triển sáng tạo những cái tích cực đã đạt được
từ cái cũ, đồng thời phải thấy được tính chất quanh co, phức tạp của quá trình ra đời cái mới.

C. NHỮNG YÊU CẦU CÓ TÍNH NGUYÊN TẮC MÀ PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT ĐÒI
HỎI.
1. Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc toàn diện đồi hỏi muốn nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng chúng ta phải
xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố thuộc tính khác nhau trong
tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật
hiện tượng khác. Tránh cách xem xét phiến diện một chiều.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ và phải nắm được
đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động phát triển của sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi, để nhận thức được sự vật, hiện tượng chúng ta cần xem xét nó
trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người.
2. Nguyên tắc phát triển trong nhân thức và thực tiễn
Nguyên tắc phát triển yêu cầu khi xem xét sự vật hiện tượng phải đặt nó trong trạng thái vận
động, biến đổi và chuyển hóa để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng trong trạng thái hiện tại mà còn
thấy được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai. Điều quan trọng là xem xét sự vật hiện tượng
trong sự thống nhất giữa các mặt đối lập, phát hiện những khuynh hướng mẫu thuẫn bên trong, và sự
đấu tranh của các khuynh hướng ấy.
Nguyên tắc phát triển yêu cầu phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn,
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kèm hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi những hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải sớm phát
hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển, phải chống lại
quan điểm bảo thủ trì trệ,…
3. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên tắc lịch sử cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ biến, là phương
thức tồn tại của vật chất. Nghĩa là phải nhận thức được sự vận động của sự vật, hiện tượng xuất hiện,
phát triển theo những quy luạt nhất định và hình thức của vận động quyết định bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể không chỉ yêu cầu nhận thức những thay đổi diễn ra trong sự vật hiện
tượng, mà còn yêu cầu chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hóa thành sự vật hiện tượng mới.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể con đòi hỏi phải xem xét các sự vật, hiện tượng trong các mối liên hệ
cụ thể của chúng.

Câu 18: Quan điểm của triết học marxist về bản chất của con người và sự vận dụng nó đối với việc
phát huy vai trò nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay.
1) Quan điểm triết học marxist về bản chất của con người
Điểm khác nhau cơ bản của khoa học khác & triết học khi nghiên cứu về con người là
• Các khoa học khác chỉ lấy 1 phần nào đó của con người làm đối tượng, nhưng triết học nghiên
cứu con người như 01 chỉnh thể.
• Triết học khi nghiên cứu về con người thì đi theo hướng (1) con người là gì? (2) bản chất con
người (3) định hướng giải phóng con người.
1.1 Con người là gì? là một:
o Thực thể sinh vật: một cơ thể sống, là động vật  con người có bản chất tự nhiên của con
người, thể hiện qua nhu cầu có tính bản năng.
o Thực thể xã hội: là động vật mà con người từng bước tách khỏi giới động vật  quá trình lao
động; là thành viên xã hội, không muốn tách khỏi cộng đồng xã hội. Con người có bản chất
xã hội  môi trường xã hội sẽ quyết định bản chất của con người, quyết định khuynh hướng
tất cả các hoạt động – quan hệ của con người.
o Trong mối quan hệ giữa thực thể sinh vật & thực thể xã hội, thì thực thể sinh vật là tiền đề,
trên tiền đề này thực thể xã hội tồn tại và phát triển.
1.2 Bản chất của con người là gì?
Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội.
o Tính hiện thực của con người: muốn tìm hiểu bản chất con người thì phải tìm hiểu bản chất
của con người hiện thực, sống trong những hoàn cảnh, môi trường, giai đoạn lịch sử cụ thể
với những điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa cụ thể.
o Bản chất của con người là tổng hòa các quan hệ xã hội: tất cả các quan hệ xã hội đều góp
phần hình thành lên bản chất của con người. Những quan hệ này thâm nhập vào nhau, ràng
buộc nhau, hỗ trợ nhau, tác động qua lại trong quá trình hình thành nên bản chất của con
người.
Cách tiếp cận quan hệ xã hội của con người
o Xét theo thời gian, những quan hệ quá khứ – hiện tại (quan hệ này giữ vai trò quyết định) –
tương lai tác động hình thành bản chất của con người.
o Những quan hệ khái quát: vất chất (tồn tại bên ngoài ý thức con người, quan hệ này giữ vai
trò quyết định) – tinh thần.
o Loại quan hệ: hôn nhân, huyết thống, giao tiếp, tôn giáo, đạo đức, luật pháp, giáo dục, chính
trị, kinh tế (quan hệ này giữ vai trò quyết định, trong tất cả các quan hệ kinh tế thì quan hệ
sản xuất giữ vai trò quyết định, quan hệ sản xuất thể hiện qua 3 vai trò cơ bản: quan hệ sở
hữu tư liệu sản xuất – quan hệ quản lý và phân công lao động – quan hệ phân phối sản
phẩm).
Bản chất con người không được sinh ra, mà được sinh thành, tức là nó hình thành & thay đổi
theo sự hình thành & thay đổi của các của các quan hệ xã hội, mà trong đó trước hết & quan
trọng nhất thuộc lĩnh vực kinh tế.
1.3 Định hướng giải phóng con người:
Làm cho năng lực con người được phát huy một cách tối ưu (bộc lộ ra và tiếp tục phát triển do các
quan hệ xã hội). Muốn cho năng lực con người phát huy tối ưu thì từng bước xóa bỏ các quan hệ
kìm hãm khả năng của con người, trong đó quan trọng nhất là phải từng bước xóa bỏ chế độ tư hữu
về tư liệu sản xuất vì chính chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất là nguyên nhân trực tiếp sản sinh ra chế
độ con người bóc lột con người, là nguyên nhân làm cho con người bị tha hóa.
2) Sự vận dụng nó đối với việc phát huy vai trò nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay
Từ định hướng nêu trên, với giai đoạn cách mạng hiện nay con người đã và đang tập trung đầu tư
vào những lĩnh vực chủ yếu của xã hội như:
2.1 Trên lĩnh vực kinh tế, thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
2.2 Trên lĩnh vực chính trị, khẳng định con đường đi lên CNXH trên nền tảng chủ nghĩa nhằm nâng
cao tính tích cực chính trị của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân tham gia nhiều hơn vào quản lý
nhà nước, quản lý xã hội.
2.3 Trên lĩnh vực xã hội, giải phóng con người khỏi sự thao túng của các quan hệ xã hội cũ đã lỗi
thời, kế thừa truyền thống tốt đẹp, xây dựng hệ thống những chuẩn mực quan hệ mới.
2.4 Trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo - khoa học, công nghệ, được coi là “quốc sách hàng đầu nhằm
nâng cao dân trí, đạo tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”, “là nền tảng và động lực đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
2.5 Trên lĩnh vực văn hóa, xây dựng văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tôc.

You might also like