Professional Documents
Culture Documents
Tieu Luan
Tieu Luan
HÀ NỘI
Tiểu luận
Ñeà taøi:
VAI TRÒ CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC
TRONG VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
HÀ NỘI 17-4-2011
MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU……………………………………………………………………
1.Thế giới…………………………………………………………...
2.Trong nước………………………………………………………..
3.Quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam và vào
IV.KẾT LUẬN………………………………………………………..
2.Trong nước
Vào giữa TK XIX, nước Việt Nam ta đã bị thực dân Pháp xâm lược, mở đầu
bằng cuộc tiến công vào cảng Đà Nẵng (1-9-1858). Sau khi hoàn thành việc xâm
lược và bình định vũ trang, thiết lập bộ máy thống trị, thực dân Pháp tiến hành
những cuộc khai thác thuộc địa nhằm cướp đoạt tài nguyên, bóc lột nhân công rẻ
mạt, cho vay nặng lãi, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa của chính quốc. Chính
sách thuộc địa của Pháp ở Việt Nam và cả Đông Dương là bóc lột nặng nề về kinh
tế, chuyên chế về chính trị, kìm hãm nô dịch về văn hóa, nhằm đem lại lợi nhuận
tối đa cho bọn tư bản lũng đoạn Pháp chứ không phải đem đến cho nhân dân các
nước Đông Dương sự “khai hóa văn minh”.
Từ cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX, Một trong những nhiệm vụ mà CNTB là
tiến hành xâm chiến thuộc địa để phân chia thị trường. Chính vì vậy mà mâu thuẫn
giữa Chủ nghĩa thực dân và Chủ nghĩa đế quốc đã tạo ra cuộc chiến tranh thế giới
lần thứ I nhằm phân chia lại thị trường thế giới.
Bên cạnh đó, còn tồn tại mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc với các dân tộc
thuộc địa và mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản thế giới dẫn đến
phong trào thế giới phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là ở Châu Á tạo nên một phong
trào phương Đông thức tỉnh với 3 trung tâm cách mạng lớn là : Trung Quốc, Ấn
Độ và Đông Dương. Bên cạnh đó còn có một trung tâm cách mạng lớn nữa là Nhật
Bản.
Để tiến hành khai thác thuộc địa thì phải xuất khẩu tư bản đến thuộc địa. Từ
1860 đến 1912, qua hình thức cho vay, chính phủ Pháp và các tập đoàn tư bản
ngân hàng Pháp đã đầu tư vào Đông Dương 499 tỷ phrăng. Hậu quả của sự xuất
khẩu tư bản và du nhập CNTB theo kiểu thực dân vào nước ta đã đem lại những
biến đổi sâu sắc về kinh tế, xã hội, chính trị và giai cấp.
Với lòng yêu nước truyền thống nồng nàn, tinh thần anh hùng bất khuất,
nhân dân ta đã liên tục đứng lên kháng chiến để bảo vệ nền độc lập. Các phong
trào kháng chiến đã diễn ra liên tiếp, sôi nổi dưới nhiều hình thức và màu sắc khác
nhau nhưng cuối cùng đều bị thất bại và nguyên nhân là do thiếu một giai cấp tiên
tiến có khả năng đề ra đường lối đúng đắn cho Cách mạng (CM) Việt Nam. Xã hội
Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối.
Từ 1890 đến 1901 Bác sống ở quê ngoại, cách làng Kim Liên quê nội không xa.
Người thầy có ảnh hưởng nhất trong tuổi ấu thơ của Người là cử nhân Vương Thúc
Quý. Cụ Quý là bạn thân của cụ Phó bảng Sắc và là con thủ lĩnh Chung nghĩa binh
Vương Thúc Mậu thời Cần Vương. Đội nghĩa binh của Vương Thúc Quý chiến
đấu quanh vùng núi Chung (Nam Đàn), khi bị Pháp vây bắt, cụ Vương Thúc Quý
đã nhảy xuống ao hy sinh ngay ở làng Sen cạnh nhà Bác. Chính ở ngôi nhà nhỏ ở
làng Sen, trước khi bước vào mái trường Quốc học Huế (1905), cậu Cung đã được
vị túc nho Vương Thúc Quý hết lòng giúp đỡ, tinh thông tứ thư ngũ kinh... Nhưng
điều quan trọng hơn cả là cậu Cung được thầy học cho biết tường tận các địa điểm,
biến diễn của các cuộc khởi nghĩa ngay trên đất quê nhà của Trần Tấn, Đặng Như
Mai, của Phan Đình Phùng, Nguyễn Xuân Ôn, Vương Thúc Mậu và cả phong trào
Đông du của cụ Phan Bội Châu đang diễn ra âm ỷ... Cậu Cung rất chú ý lắng nghe
những cuộc đàm đạo của cha mình với các đồng chí, bèbạn như Sào Nam Phan Bội
Châu, Vương Thúc Quý, đội Quyên (Đại Đấu)... Cậu Cung trở thành liên lạc cho
các nhà nho yêu nước.. Người là một học trò thông minh, chăm chỉ học tập và sớm
có tinh thần yêu nước. Các phong trào đấu tranh của các sĩ phu yêu nước như Phan
Chu Chinh, Phan Bội Châu, Hoàng Hoa Thám...đã ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ Chủ
tịch. Người nhận thấy các phong trào yêu nước chưa có được đường lối đấu tranh
đúng đắn. Người cần phải sang các nước phương Tây học tập vì ở đó có tư tưởng
tự do, dân chủ và có khoa học, kỹ thuật hiện đại. Sau này Hồ Chủ tịch đã kể lại:
"Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi đã được nghe những từ tiếng Pháp: tự do, bình
đằng, bác ái... Thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn
giấu đằng sau những từ ấy".
Con đường của Hồ Chủ tịch khác hẳn với con đường của các nhà yêu nước tiền
bối. Để đi tìm con đường cứu nước, Hồ Chủ tịch đã đi khắp năm châu bốn biển,
xem xét tình hình, nghiên cứu những lý luận và kinh nghiệm cách mạng mới nhất
của thời đại, hòa mình với quần chúng công nhân và nhân dân lao động đủ các màu
da. Năm 1908, sau khi tham gia phong trào chống thuế, bị đuổi học, Nguyễn Tất
Thành bỏ vào Nam. Người dừng lại ít lâu ở Phan Thiết, đạy học ở trường Dục
Thanh do một số nhà giáo yêu nước lập ra. Sau đó, Người và Sài Gòn rồi xuống
tàu xuất dương để đi tìm đường cứu nước.
Tàu Latútsơ Tơrêvin trước khi đến Pháp có ghé qua Singapo, Ai Cập, Nguyễn
Ái Quốc nhận thấy ở các nước này cũng đều có 2 loại người, 2 cảnh sống như trên
đất nước Việt Nam. Khi đặt chân lên đất Pháp, Người thấy ở Pháp cũng có người
nghèo khổ như Việt Nam, “người Pháp ở Pháp tốt, lễ phép hơn người Pháp ở Đông
Dương”. Và Người cũng tự đặt ra câu hỏi: “Tại sao người Pháp không “khai hóa”
đồng bào ở nước họ trước khi đi “khai hóa” chúng ta?”. Hình ảnh nước Pháp để lại
trong tâm trí Nguyễn Ái Quốc không phải là nước Pháp như trong “Tuyên ngôn
nhân quyền và dân quyền” của cuộc đại cách mạng Pháp 1789, mà là một nước
Pháp có kẻ giàu, người nghèo, có người tốt, kẻ xấu. Sự nhạy cảm của Nguyễn Ái
Quốc thể hiện ngay từ đầu khi Người phân biệt được người Pháp tốt là những
người lao động, người Pháp tàn ác là những kẻ thống trị. Đồng thời Người cũng
nhận thức ngay được những đau khổvà áp bức dân tộc ngay ở chính quốc. Những
nhận xét đó dẫn Nguyễn Ái Quốc tới nhận thức mới về lực lượng xã hội là bạn
đồng minh của dân tộc Việt Nam và các dân tộc thuộc địa.
Sau một thời gian ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc xuống tàu của hãng vận tải Sácgiơ
Rêuyni tiếp tục cuộc hành trình dài hơn, xa hơn và cũng gian khổ hơn. Đó là
chuyến vòng quanh châu Phi và đã có dịp dừng lại ở nhiều nước như Bồ Đào Nha,
Tây Ban Nha, Angiêri, Tuynidi, Đahômây, Xênêgan, Rêuyniông… Đến đâu Người
cũng thấy hai cảnh sống trái ngược nhau, một bên là cuộc sống thừa thãi với sự
thống trị tàn bạo của bọn thực dân, một bên là cuộc sống khổ cực của người dân
thuộc địa. Những hình ảnh ở châu lục đen giúp Người nhanh chóng rút ra kết luận:
Những người dân Pháp phần nhiều là tốt, song những người Pháp thực dân thì cực
kì hung ác và vô nhân đạo. Điều đó cắt nghĩa, khi bắt đầu hoạt động chính trị,
Nguyễn Ái Quốc đã có quan niệm vững vàng về sự đoàn kết giữa các dân tộc thuộc
địa với giai cấp vô sản ở chính quốc.
Cuối 1912, Người tiếp tục theo tàu vượt đại dương đến Mỹ, nước đã sản sinh ra
bản “tuyên ngôn độc lập” năm 1776. Tại đây Người cũng nhanh chóng phát hiện ra
đằng sau những tòa nhà chọc trời với cuộc sống xa hoa của thành phố Niu Oóc là
những con người khốn khổ sống vật vờ dưới bóng đổ của những tòa nhà đó. Người
thường xuyên lui tới khu Háclem và rất xúc động trước cảnh sống thảm hại của
những người da đen ở đây. Tham quan tượng thần tự do, người nhận xét: “Ánh
sáng trên đầu thần tự do tỏa ra trên bầu trời xanh, còn dưới chân tượng thần tự do
này thì người da đen đang bị chà đạp. Bao giờ người da đen mới được bình đẳng
với người da trắng…”.
Cuối năm 1913, Nguyễn Ái Quốc theo tàu đến nước Anh giữa lúc chính phủ
Anh đang ráo riết chuẩn bị cho chiến tranh thế giới thứ nhất. Tại đây Người đã hòa
mình vào phong trào công nhân và công đoàn, tham dự nhiều buổi diễn thuyết
chính trị, lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh yêu nước của nhân dân Ailen. Đặc biệt
Người đã tham gia tổ chức Công đoàn lao động hải ngoại, một tổ chức bí mật của
những người lao động của các thuộc địa sống trên đất Anh. Điều đó báo trước một
chuyển biến mới của Nguyễn Ái Quốc: Từ một người yêu nước, một người lao
động làm thuê bắt đầu bước vào một tổ chức gắn bó với những người dân thuộc địa
nhằm chống lại chủ nghĩa đế quốc, thực dân.
Cuối năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại nước Pháp, tới Pari, trung tâm văn hóa
và những sự kiện chính trị không chỉ của Pháp mà cả của châu Âu lúc đó. Pari dưới
con mắt của Người lúc đó phản chiếu rõ nét nhất 2 thái cực của xã hội tư bản: Bộ
mặt của bọn thống trị tư sản phơi bày rõ rệt nhất, cuộc sống và nguyện vọng của
người lao động cũng thể hiện rõ nhất. Người nhanh chóng đồng cảm với giai cấp
vô sản Pháp, thấy được sự giống nhau giữa giai cấp ấy và nhân dân các nước thuộc
địa, cả 2 cùng cực khổ, cùng 1 kẻ thù, cùng 1 khát vọng. Một lần nữa thể hiện sự
nhạy bén, sắc sảo trong việc phân biệt bạn thù. Đó là bước phát triển mới trong tư
tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc. Tư tưởng ấy dẫn Người thực sự bước vào
những hoạt động cách mạng, dẫn đến với giai cấp công nhân quốc tế.
Ở Pháp, Nguyễn Ái Quốc tham gia các hoạt động chính trị, văn hóa, khoa học
nghệ thuật rất đa dạng, quen biết rất nhiều người hoạt động nổi tiếng trong phong
trào công nhân và công đoàn Pháp, các Đảng viên đảng xã hội Pháp. Qua đó
Nguyễn Ái Quốc biết thêm rằng trên đất Pháp cũng có nhiều người Pháp và một số
chính Đảng của Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân các nước thuộc địa. Năm
1919, Người đã tham gia Đảng xã hội Pháp, một Đảng tiến bộ hơn cả lúc bấy giờ.
Đối với những người Việt Nam yêu nước sống ở Pháp, Nguyễn Tất Thành cùng
Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường tiến hành tuyên truyền, tổ chức, làm thức dậy ở
họ lòng yêu nước, về ý thức trách nhiệm đối với tổ quốc Việt Nam. Với tất cả lòng
nhiệt tình, tính kiên trì và nhãn quang sáng suốt, Người nhanh chóng trở thành linh
hồn của tổ chức “Hội những người Việt Nam yêu nước” trên đất Pháp.
Ngày 18/6/1919, các nước đế quốc họp tại Vécxây để phân chia khu vực ảnh
hưởng và quyền lợi quốc tế sau chiến tranh, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những
người Việt Nam yêu nước gửi đến hội nghị “Bản yêu sách của nhân dân An Nam”
gồm 8 điểm, lúc này Người ký tên là Nguyễn Ái Quốc. Bản yêu sách được đăng
trên báo L’Huminité và nhiều báo khác. Người còn gửi thư riêng kèm theo bản yêu
sách cho các đại biểu tham dự hội nghị và các nghị viên quốc hội Pháp. Bọn đế
quốc đã không đả động gì đến bản yêu sách này. Tuy nhiên, bản yêu sách đã gây
được tiếng vang lớn, đánh dấu thời điểm Nguyễn Ái Quốc bắt đầu bước lên vũ đài
chính trị quốc tế.
Sau cuộc hành trình gần 10 năm trên khắp các châu lục, Nguyễn Ái Quốc nhận
xét: “ Đối với bọn thực dân, tính mạng của người thuộc địa da vàng hay da đen
cũng không đáng 1 xu” và tất cả bọn đế quốc đều tàn bạo. Đây là những nhận thức
có tính chất nền tảng trong việc xác định kẻ thù, để sau đó không lâu Người viết
bản luận tội đanh thép: “Bản án chế độ thực dân Pháp”.
Đặc biệt trong cuộc khảo sát này, Nguyễn Ái Quốc dừng chân lâu ở 3 nước đế
quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh, Pháp, có điều kiện tìm hiểu, nghiên cứu cuộc
cách mạng Mỹ 1776, cuộc cách mạng Pháp 1789 và cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân. Từ đó Người nhận ra những
nhận xét chính xác rằng cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp tuy nêu cao khẩu hiệu
“tự do, bình đẳng, bác ái” nhưng lại không đưa lại tự do, bình đẳng, bác ái thật sự
cho quần chúng lao động, tiếng là cộng hòa, dân chủ nhưng thực chất là tước đoạt
quyền lợi của giai cấp công nông trong nước và bên ngoài thì áp bức các dân tộc
thuộc địa. Người khâm phục ý chí giành độc lập tự do của nhân dân Mỹ, khâm
phục tinh thần đấu tranh của nhân dân Pháp, nhưng Người cho rằng đó đều là cách
mạng tư sản, cách mạng không đến nơi. Sau này, trong tác phẩm “Đường Cách
Mệnh”, Người có biết: “Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 150 năm nay,
nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo cách mệnh lần 2. Còn Pháp thì cách
mệnh đã 4 lần rồi mà nay công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa
mới hòng thoát khỏi ách áp bức”. Như vậy Người cho rằng việc giải phóng các dân
tộc bị áp bức không thể đi theo con đường của cách mạng Mỹ và cách mạng Pháp
mà phải đi theo 1 con đường cách mạng khác. Nhận xét đó của Nguyễn Ái Quốc
chứa đựng hạt nhân của lập trường đấu tranh giai cấp.
Nguyễn Ái Quốc đã đặt mình vào chỗ đứng của giai cấp cần lao, khảo sát thế
giới và rút ra kết luận: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có 2 giống người
là giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có 1 mối tình hữu ái
là thật mà thôi, đó là tình hữu ái vô sản”. Đến đây, vấn đề bạn thù đã được Nguyễn
Ái Quốc xác định dứt khoát, rằng sự áp bức giai cấp và áp bức dân tộc có chung
một nguồn gốc là chủ nghĩa đế quốc. Đó là những tiền đề rất quan trọng để Nguyễn
Ái Quốc tiếp thu nhanh chóng học thuyết Mác Lênin là cơ sở thực tiễn quan trọng
hình thành con đường cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.
3. Quá trình truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam và vào
Việt Nam và chuẩn bị về chính trị , tư tưởng , tổ chức trong việc
chuẩn bị thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam.
a.Nguyễn Ái Quốc đi truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam
Những bài viết của người trong chặn đường hoạt động từ 1921 đến 1927, với nội
dung tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa lênin. Hệ thống quan
điểm đó là:
- "Đi sâu vạch rõ bản chất phản động của chủ nghĩa thực dân được ngụy trang
bằng cái gọi là "khai hoá văn minh". chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các
dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới,
là kẻ thù trực tiếp nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc địa. người đã khơi
dậy mạnh mẽ tinh thân yêu nước, thức tỉnh tinh thần phản kháng dân tộc, kêu gọi
nhân dân các nước thuộc địa phải dựa vào lực lượng bản thân mìn, phải tự mình
đứng lên giải phóng cho mình.
- Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận cách mạng thời đại - cách mạng
vô sản. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân lao động, giải
phóng giai cấp công nhân "chỉ có giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc,
cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của cộng sản và cách mạng thế
giới ". Vì vậy, phải tiến hành cách mạng triệt để, phải đem chính quyền giao cho
nhân dân, chớ không để trong tay một bọn ít người, có như thế dân chúng mới
được hạnh phúc. tư tưởng đó là nền tảng của đường lối chiến lược tiến hành cách
mạng giải phóng dân tộc theo phương hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội của hồ chí
minh và của đảng cộng sản việt nam.
- Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng vô sản ở
chính quốc có quan hệ khăng khít với nhau như hai cái cánh của cách mạng thời
đại. phải thực hiện theo khẩu hiệu chiến lược của lênin "vô sản tất cả các nước và
các dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại". Hồ Chí Minh đã nêu rõ cách mạng thuộc địa
không phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc mà nó có tính chủ động, độc lập.
cách mạng thuộc địa thành công trước cách mạng ở chính quốc và góp phần thúc
đẩy cách mạng ở chính quốc tiến lên. đây là một quan điểm cách mạng độc lập
sáng tạo của Hồ Chí Minh.
- Tư tưởng về đường lối chiến lược của cách mạng ở thuộc địa là tiến hành giải
phóng dân tộc, mở đường tiến lên giải phóng hoàn toàn lao động, giải phóng con
người, tức là làm cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ
nghĩa. song trước hết là phải giải phóng dân tộc, phải đánh đuổi bọn đế quốc, giành
lấy độc lập, tự do . Hồ Chí Minh đã sớm xác định một cách đúng đắn tính chất của
cách mạng ở các nước thuộc địa là 'dân tộc cách mệnh". Nhận thức đúng tính chất
của cách mệnh có tác dụng chi phối sự nhận thức và xác định các vấn đề về kẻ thù,
về nhiệm vụ cách mạng, về lực lượng tạo nên sức mạnh dân tộc, về xây dựng đội
tiên phong cách mạng ...đó là tư tưởng chiến lược cách mạng đúng đắn của Hồ Chí
Minh về cách mạng thuộc địa.
Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược giải phóng gông cùm nô lệ cho đồng bào, là
việc chung cả dân chúng chứ không phải việc của một vài người. phải biết tập hợp
lực lượng cách mạng, xây dựng sức mạnh dân tộc. hồ chí minh khẳng định "trong
thời địa ngày nay, giai cấp công nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất có sứ mệnh
lịch sử là lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng". Hồ Chí Minh đã chỉ ra một
cách đúng đắn những lực lượng xã hội chủ yếu có khả năng đảm bảo thắng lợi của
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, đồng thời còn đảm bảo cho cách mạng giải
phóng dân tộc phát triển theo hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Trên cơ sở coi công nông là gốc cách mạng. Một việt nam có chung một dân
tộc , chung một dòng máu, chung một phong tục, chung một lịch sử, chung một
truyền thống, chung một tiếng nói là một sức mạnh to lớn. vì vậy cần phải khơi dậy
và phát huy truyền thống đoàn kết dân tộc, nghĩa đồng bào, tập hợp mọi lực lượng
yêu nước lấy công nông làm gốc, nhằm tạo nên sức mạnh dân tộc để chiến đấu và
chiến thắng bọn đế quốc.
- Cách mạng giải phóng dân tộc phải thực hiện sự đoàn kết và liên minh với các
lực lượng cách mạng quốc tế. cách mạng việt nam là một bộ phận trong cách
mạng thế giới. tranh thủ có hiệu quả sức mạnh quốc tế, kết hợp đúng đắn sức mạnh
dân tộc với sức mạnh quốc tế, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp để chiến thắng kẻ
thù.
- Quần chúng phải được giác ngộ và được tổ chức mới tạo nên sức mạnh của
cách mạng. vì vậy phải giáo dục quần chúng về mục đích cách mạng biết đồng tâm
hiệp lực , để đánh đổ giai cấp áp bức mình, giải phóng khỏi gông cùm nô lệ cho
đồng bào, về ý chí quyết tâm, bền gan chiến đấu lâu dài. quần chúng phải được tổ
chức thành một đội ngủ vững bền mới thành công. Còn người cách mạng thì phải
hiểu biết tình thế, phải biết so sánh lực lượng, phải có mưu chước, phải biết cách
làm mới chóng. một cuộc khởi nghĩa nổ ra thắng lợi ở đông dương. muốn vậy,
cuộc khởi nghĩa đó phải là một cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải là một
cuộc nổi loạn. đây là quan điểm về phương pháp và nghệ thuật dấu tranh cách
mạng của hồ chí minh.
- Cách mạng muốn thắng lợi, trước hết phải có đảng cách mạng, đảng có vững
cách mạng mới thành công. đảng muốn vững phải có học thuyết cách mạng, đó là
học thuyết của lênin. đảng phải có đội ngủ cán bộ, đảng viên có lý tưởng cách
mạng, có lập trường và đạo đức cách mạng, có quyết tâm chiến dấu vì lý tưởng
giải phóng dân tộc và nhân loại ..."
Nói tóm lại, hệ thống quan điểm và lý luận về con đường cách mạng của Hồ Chí
Minh là nội dung tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa lênin, nó
được truyền vào việt nam và cả đông dương, trong những năm 20 của thế kỷ XX,
đã trở thành tư tưởng cách mạng hướng đạo phong trào dân tộc và các tổ chức
chính trị theo khuynh hướng cách mạng vô sản, dẫn đến sự ra đời của các tổ chức
cộng sản việt nam tiền thân của đảng cộng sản việt nam sau này. Cụ thể:
1920-1923 : Nguyễn Ai Quốc sống tại Pháp, bằng báo chí và tác phẩm “bản án
chế độ thực dân Pháp” Người đã truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin : 4-1921, có 2
bài báo quan trọng là “Đông Dương” đăng trên tạp chí của Đảng CS Pháp. Chủ
nghĩa CS có khả năng truyền bá vào Châu Á và Đông Dương , khả năng tiếp thu
thuận lợi hơn Châu Âu. Lập ra hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa, tập hợp lực
lượng chống đế quốc. Hội này có cơ quan ngôn luận là tờ báo “ người cùng kho”.
Người vừa là chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo này. Người soạn và viết tác phẩm “
bản án chế độ thực dân Pháp” bằng tiếng Pháp (xuất bản 1925).
Bằng các bài báo và tác phẩm “bản án chế độ thực dân Pháp” của đồng chí
Nguyễn Ai Quốc đã được những thủy thủ người Việt Nam bí mật đưa về nước
truyền bá vào phong trào yêu nước Việt Nam làm cho phong trào yêu nước Việt
Nam lúc này xuất hiện một khuynh hướng tư tưởng mới đó là khuynh hướng tư
tưởng của giai cấp vô sản trong phong trào CM Việt Nam.
Bắt đầu từ năm 1923, Nguyễn Ai Quốc sống ở Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan.
Phương pháp truyền bá ở thời kỳ này có hệ thống hơn, chủ nghĩa Mác-Lênin đã
được đồng chí vận dụng đề ra đường lối cho CM Việt Nam.
6- 1923 : Nguyễn Ai Quốc rời Pháp đến Liên Xô.
1924 : Người dự đại hội(ĐH) quốc tế CS lần II sau đó dự ĐH nông dân quốc
tế CS (có đọc tham luận, đề nghị quốc tế CS quan tâm vấn đề nông dân ở các nước
thuộc địa).
b. Nguyễn Ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam
Sau thời gian học tập nghiên cứu ổ Liên Xô, cuối năm 1924 về đến Quảng
Châu (Trung Quốc), lấy tên là Lý Thụy, Người đi bán báo, bán thuốc lá để có tiền
sinh sống và hoạt động cách mạng. Tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt Nam,
Người xúc tiến việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập một
đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam. Đồng thời, với danh nghĩa công
khai, Hồ Chủ tịch công tác trong phái đoàn Bô Rô Đin, cố vấn của Liên Xô, bên
cạnh chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Quốc. Người tìm gặp những người trong
nhóm Tâm Tâm Xã, đồng chí đã tổ chức một nhóm cách mạng đầu tiên gồm 9
người, làm nòng cốt cho tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội sau
này.
Tháng 6/1925, người thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội.
Hội này có cơ quan ngôn luận là tuần báo thanh niên. Đây là một tổ chức quá độ
vừa tầm, tiếp tục mở các lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cho CM Việt Nam, nhiều
đồng chí đã được cử đi học ở trường đại học Phương Đông và những bài giảng của
Người tại Quảng Châu cũng được tập hợp lại in thành sách lấy tên “Đường Kếch
Mệnh” và là cơ sở để Đảng ta viết cương lĩnh chính trị sau này. Tác phẩm này đã
góp phần chuẩn bị cho chính trị, tư tưởng cho sự ra đời của ĐCS Việt Nam.
Được chuẩn bị chính trị về tư tưởng ở Quảng Châu, những người yêu nước chân
chính của Việt Nam trở về nước tập hợp lực lượng, hướng dẫn phong trào đấu
tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đi vào quỹ đạo Cách Mạng Vô
Sản.
Nhiệm vụ của Việt Nam thanh niên CM đồng chí hội là tiếp tục thay mặt
đồng chí Nguyễn Ai Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào Công
nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam để đưa phong trào Công nhân từ tự phát
lên tự giác và phong trào yêu nước có đường lối rõ ràng không đi theo đường lối
cải lương. Bằng các việc làm thiết thực Việt Nam thanh niên CM đồng chí hội đã
làm cho phong trào Công nhân Việt Nam vào cuối 1928 đầu 1929 xuất hiện làn
sóng CM dân tộc dân chủ rất mạnh mẽ. Vì vậy, yêu cầu của lịch sử đặt ra lúc này
là phải thành lập ra Đảng của giai cấp vô sản để đề ra cương lĩnh và trực tiếp lãnh
đạo CM thì CM mới giành được thắng lợi.
Tháng 4 năm 1927, sau vụ phản biến của bọn Tưởng Giới Thạch ở Quảng
Châu, Hồ Chủ tịch đi Liên Xô, rồi đi dự Hội nghị chống chiến tranh đế quốc họp ở
Bơ Rúc Xen (Brucxelle, Bỉ); sau đó, Người qua các nước Đức, Thụy sĩ, Ý, Thi
Lan.
Từ mùa thu năm 1928, Người hoạt động ở Thái Lan, đào tạo cán bộ, tuyên
truyền, giáo dục, tổ chức Việt kiều, cho xuất bản tờ báo Thn i, dùng làm cơ quan
tuyên truyền cách mạng trong kiều bào và gửi về nước. Ngoài những công việc nói
trên, Hồ Chủ tịch cịn học tiếng Thi Lan, dịch sch v nhất l tham gia với kiều bo
trong hội họp.
IV.KẾT LUẬN
Với sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam cho ta thấy vai trò rất to lớn của
Nguyễn Ai Quốc trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác Lê nin giáo dục tư tưởng
chính trị cách mạng cho cho giai cấp công nhân và giai cấp nông dân Việt
Nam.Tập hợp quần chú chuẩn bị hệ tư tưởng chính trị cho việc thành lập Đảng…
Đảng cộng sản Việt Nam ra đđời với đđường lối chiến lược đúng đắng là sự cổ vũ
to lớn đđối với phong trào cách mạng đđang ở thời kỳ phát triển sôi sục. Đường lối
của Đảng đđược công bố trở thành tiếng kèn tập hợp lực lượng quần chúng, chuẩn
bị cho cuộc đđấu tranh giải phóng dân tộc.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời chấm dứt được cuộc khủng hoảng về đường lối
cứu nước của dân tộc ta mà Nguyễn Aí Quốc là vị anh hùng của dân tộc sau nhiều
năm bôn ba ở hải ngoại đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam : đó
là tư tưởng của chủ nghĩa Chủ Nghĩa Mác- LêNin , tinh thần của cách mạng vô sản
.Sau khi tìm được con đường cứu nước Nguyễn Aí Quốc đã ra sức truyền bá tư
tưởng đường lối cứu nước của mình về Việt Nam , chuẩn bị về mặt tư tưởng và lực
lượng cho phong trào cách mạng trong nước .
Đảng ra đời thì kể từ đây nhân dân Việt Nam đã tham gia vào sự nghiệp đấu
tranh giải phóng giai cấp, giải phóng loài người một cách tự giác và có tổ chức .
Đảng ra đời đã trở thành hạt nhân đoàn kết các yếu tố dân tộc và giai cấp, dân tộc
và quốc tế, giai cấp và quốc tế .Mà người có khả năng đoàn kết, tranh thủ sự đồng
tình ủng hộ của thế giới đối với cách mạng Việt Nam là Nguyễn Aí Quốc , một nhà
ngoại giao đại tài …
V. Moät soá hình aûnh veà Chuû Tòch Hoà Chí Minh
:
VI.TÀI LIỆU THAM KHẢO :
• BÀI GIẢNG BỘ MÔN LỊCH SỬ ĐẢNG
• TẠP CHÍ LỊCH SỬ ĐẢNG
• TẠP CHÍ NGƯỜI CỘNG SẢN
• SÁCH LỊCH SỬ VIỆT NAM LỚP 12 – NXB GIÁO DỤC –2000