Professional Documents
Culture Documents
Vấn đề về Đổi mới Giáo dục Việt Nam (by Ths. Lâm Nguyên Tài)
Vấn đề về Đổi mới Giáo dục Việt Nam (by Ths. Lâm Nguyên Tài)
(Đăng trên Số kỳ 25 ra ngày 23/6/2002 tạp chí chuyên ngành “Giáo dục và Thời đại”
Cơ quan chủ quản của Bộ Giáo dục & Đào tạo Việt Nam)
Keywords: Đổi mới Giáo dục Việt Nam, đổi mới, sáng tạo, giáo dục tố chất
1. Giáo học theo kiểu nhồi nhét. Mặc dù sự phản đối kịch liệt của cộng đồng xã
hội đối với kiểu giáo học nhồi nhét đơn hướng này như thường được đề cập những năm
gần đây, song dù sao kiểu tiêm nhập kiến thức trong đào tạo vẫn là phương thức giáo dục
hiện đang chiếm chủ vị trong phương pháp dạy học ngày nay. Hiện tượng thầy giảng trò
ghi vẫn còn là hiện tượng rất phổ biến trong lớp học. Đặc điểm của kiểu dạy học này là
thầy luôn ở chủ vị thống trị cứ nhồi nhét ồ ạc kiến thức vào cho trò, còn trò thì tiếp thụ
một cách bị động. Phương thức dạy học như thế sở dĩ được thịnh hành vì nó ăn khớp với
kết cấu giáo dục “lấy tri thức làm trung tâm”. Trường kỳ không mệt mõi cứ “nhồi vịt”,
“rót vào” như thế vẫn phát huy được tác dụng tiếp thu và chiếm lĩnh khái niệm tri thức
khoa học cho HS. Nhưng rõ ràng nó đã làm cho óc sáng tạo của họ bị trì trệ đi. Một là do
bị kìm hãm trong trạng thái bị động lâu dài, đưa đến tinh thần chủ thể và tính chủ động
của HS bị suy yếu đi, ảnh hưởng trầm trọng đến sự hình thành nhân cách sáng tạo. Hai là
cứ lần lượt tiêm nhập vào năng lực tiếp thu của HS như thế, thì ý thức của HS về các tình
huống có vấn đề, năng lực chiếm lĩnh và năng lực nghiên cứu cần thiết cho óc sáng tạo
dần dần bị suy thoái do không được khai thác và huấn luyện.
3. Giáo học theo kiểu “tung thâm đơn hướng”. Tức là kiểu giáo học này chỉ nhằm
tập trung sức vào “đào hố thâm sâu”, chỉ yêu cầu chiều sâu tri thức và nan giải vấn đề,
nặng về thâm nhập chiều đứng, nhẹ về mở rộng chiều ngang, chỉ chú trọng về “đề cương
ôn thi” của giáo trình mà bất cập những thứ khác. Chỉ biết thỏa mãn phương thức đơn nhất,
sự chính xác của gốc độ đơn nhất mà không suy nghĩ gì đến sự biến đổi phụ của hệ lý
luận... Thì giờ giành cho dạy học thì ngắn, mức độ thi cử thì đòi hỏi cao. Do vậy, chỉ lo
toan tập trung cái chủ điểm mà hầu như không hề có liên tưởng về sự biến hóa, liệt kê hay
mở rộng. Giáo học theo phương thức “tung thâm” này quả là thích ứng cho cuộc “thí
chiến” khốc liệt, nhưng trách nhiệm của kiểu “đánh chiều sâu trận địa” hẹp hòi và đơn
nhất này ảnh hưởng rất rõ nét đối với yếu tố cơ bản cho óc sáng tạo của HS. Một là vì hạn
hẹp hóa bối cảnh học tập. Ai cũng thừa nhận rằng sáng tạo cần phải có một độ quảng
khoát nhất định. Hai là do coi nhẹ công việc huấn luyện tư duy mở rộng, làm bất lợi cho
4. Giáo học theo kiểu phiếm luận hóa lý tính. Tức là trọng lô-gic, xem nhẹ trực
quan; trọng lý tính, xem thường cảm tính. Không cần biết đến nội dung học tập mang tính
chất gì, cứ mang ra phân tích lý giải, diễn dịch lô-gic theo “tiêu chuẩn hóa” việc xử lý.
Ngữ văn vốn là một học thuật chứa đựng rất phong phú nội hàm nhân văn, giá trị tình cảm
và thú vị thẩm mỹ, nhưng một tác phẩm tuyệt hảo lại thường bị đem ra phân tích tứ tán,
làm cho nó trở thành một đống “linh kiện” được bài trí ngăn nắp, rất lô-gic nhưng đã mất
hết sinh khí tự nhiên của nó. Chính vì vậy, HS tiếp thu một trước tác với tinh thần không
cần cảm ngộ, mà chỉ cần dùng lô-gic lý tính để “chiếm lĩnh” mà thôi. Giáo dục nghệ thuật
vốn rất mang tính tình cảm điển hình, nhiệm vụ cơ bản của nó chính là làm cho HS cảm
nhận được cái đẹp, thể nghiệm được cái hay, từ đó hướng dẫn họ phát hiện và sáng tạo ra
cái hay đẹp khác. Điều này dễ thấy ở các học thuật âm nhạc và mỹ thuật, chỉ một chút sơ ý
sẽ làm cho nó trở thành một học thuật nhằm huấn luyện kỹ năng và tiếp thụ tri thức. Học
thuật nhân văn là thế, còn những học thuật tự nhiên khác nếu chỉ chú trọng lô-gic mà xem
nhẹ trực quan lại càng phải được xem xét cho thấu đáo. Trong một tạp chí khoa học nước
ngoài mà tôi có dịp đọc qua, đưa ra một tình huống rằng trong giờ làm bài tập toán “điền
chổ trống” về hướng kim chỉ giờ của đồng hồ. Toàn thể học sinh phương Đông không
chút chần chờ nào bèn “động bút” lập ngay phương trình để giải tìm đáp số; còn học sinh
phương Tây thì lại .... lập tức “động thủ” vặn chỉnh kim đồng hồ ngay trên đồng hồ của
họ, cũng để ... giải tìm đáp số! Lại càng khả thán là, sau khi nghe nói đến việc “vặn đồng
hồ”, học sinh phương Đông lại tỏ vẻ rất ngạc nhiên, họ không thể hiểu nổi “ liệu bài tập
toán không cần lập phương trình vẫn có thể giải được không?”
Tuy nhiên lý tính và lý luận lô-gic quả là kỹ năng tất yếu không thể thiếu được
trong việc nâng cao yếu tố cơ bản của HS, nhưng quá phiếm luận về lý tính có thể kìm
hãm đi tính giác ngộ, trực giác và linh cảm của họ. Nghiên cứu về bộ não cũng cho biết
rằng tư duy lý luận và ngôn ngữ là chức năng của bán cầu não trái; còn những tư duy hình
tượng phi lô-gic lại thuộc chức năng của bán cầu não bên phải. Bán cầu não trái mạnh hơn
về tính lệ thường, qui phạm, còn bán cầu não phải lại có liên hệ mật thiết với phát hiện và
5. Giáo học kiểu quản thúc khắc khe. Đây là kiểu dạy học chỉ dựa vào cưỡng chế,
không dựa vào tự giác. Hay nói cách khác, chỉ quan tâm về “cưỡng ép”, chớ không cần để
ý đến “tự do”; nghiêm khắc chớ không khoan dung; chỉ háo huấn đạo chớ không thích
khuyến khích; chuộng sửa sai lại tiếc rẻ tán thưởng. Quan hệ thầy trò đa phần là quan hệ
quản chế và bị quản chế. Không khí trong lớp thường xuất hiện là căng thẳng, trầm ngâm
hay kìm nén. Lúc bấy giờ những hành vi tư tưởng của học sinh đa phần đều nạp vào môi
trườngï bị quản thúc khắc nghiệt này, thời gian lẫn không gian đều bị chiếm lĩnh theo kiểu
cưỡng chế bởi “khổ học pháp”. Trong môi trường giáo dục như thế, hầu như HS đã mất
hết không còn chỗ nào để vui chơi, tự do xử lý công việc của mình và tự do học tập theo
hướng riêng. Họ mất hết cả tính tự chủ và độc lập. Như vậy, bồi dưỡng“ óc sáng tạo” cho
họ chỉ còn là ước mơ ảo vọng “utopian”!
* Một số thông tin và luận cứ tham khảo từ nguồn của các Websites về lý luận giáo dục
đương đại (Reference):
- www.twedu.com; www.singedu.com ...
- Yang, L.S. Journal of Creative Behavior, 1999. Beijing
- Botkin, J.W., Elmandjra, M. & Malitza, , M. No Limits to Learning, Oxford,
New York, Toronto, Sudney, Frankufurt: Pergamon Press, 1979.