You are on page 1of 190

Thanh Việt Nghị Hoà

Nguyễn Duy Chính

GIẢNG HÒA THEO SỬ CŨ

Tài liệu triều Nguyễn chép về tiến trình nghị hòa và việc nhà Thanh phong vương cho vua Quang
Trung rất giản lược.

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục chép:

… Tháng 2, Khang An đến mạc phủ Thái Bình thuộc Quảng Tây. Văn Huệ sai bầy tôi là Ngô (Thì)
Nhậm lén sang nhà Thanh để xin đầu hàng và tạ tội. Lại đem nhiều vàng lót cho Khang An, nài xin
Khang An dàn xếp cho. Khang An đã được nhiều của lót, lại lấy làm may rằng nếu thôi việc dấy quân
thì được ung dung vô sự, bèn tâu xin vua Thanh nên nhân đó cho Văn Huệ được thông hiểu, đừng
gây hấn ở ngoài biên giới nữa. Vua Thanh y theo...[2]

Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, quyển XXX, Nguỵ Tây chép:

… Thế rồi Phúc Khang An đến Việt Tây [tức Quảng Tây] một lòng giảng hoà, viết thư lấy điều lợi hại
mà trình bày. Huệ [Nguyễn Huệ] lấy vàng lụa rất nhiều đem đút lót để mong cho việc xong, lại đổi
tên là Quang Bình rồi sai cháu là Nguyễn Quang Hiển cùng bồi thần Vũ Huy Tấnđem cống phẩm gõ
cửa quan khẩn khoản xin nhập cận …[3]

Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Gia Văn Phái, một bộ lịch sử tiểu thuyết có ảnh hưởng sâu rộng
trong cả quần chúng lẫn giới nghiên cứu chép:

… Lại nói tân đốc thần Lưỡng Quảng là Phúc Long An [đúng ra là Khang An] là người thuộc Nhương
Hoàng Kỳ Mãn Châu, từ ấm sinh lên đến chức vụ cao tột bực, được vua Thanh rất tin dùng, cho nên
mới ủy thác cho việc lo liệu chuyện nước Nam.

Khi mới thay Nghị làm tổng đốc, theo đường dịch đến mạc phủ Quảng Tây, tận mắt thấy Nghị một
thân chạy về, lại nghe Bắc Bình Vương thế mạnh, không khỏi có ý sợ sệt, lại nhận được thư ở biên
cương, lấy hết can đảm đứng ra lo việc phương nam, bí mật nói với phân phủ họ Vương phủ Thái
Bình rằng: “Nam Bắc bãi binh ấy là phúc của sinh linh mà cũng là việc cực may mắn cho kẻ biên
thần! Ta nghe nước Nam có một bầy tôi chuyên về văn thư là Ngô Nhậm, vốn việc từ trát rất giỏi,
vậy ông hãy trả lời cho y bảo y chuyên chú việc nghị hòa, viết biểu cho hay mà đệ lên, ta ở bên trong
giúp cho thì việc thể nào cũng xong”.
Vương phân phủ đi ra, lập tức viết trát gửi Ngô Nhậm, Nhậm đem việc đó bẩm với Bắc Bình Vương.
Vương tuy đã định được Bắc Hà nhưng biên cương phía nam vẫn còn chuyện phải lo nên đưa binh
về, nhân dịp đó nói với chư tướng: “Việc binh ở Bắc Hà ta giao cho Văn Sở, Văn Lân còn việc Trung
Quốc ta ủy cho Ngô Nhậm, Phan Ích, mọi việc cứ thấy phải thì làm. Khi ta về rồi, nếu việc không quan
trọng thì không cần qua lại bẩm báo làm gì”. [4]

Nếu như thế, việc giao thiệp với Trung Hoa tưởng như bỡn cợt nên hậu nhân coi cuộc giảng hòa
không có gì quan trọng mà cả hai bên đều giả dối cho qua chuyện. Không hiếm tác giả hoàn toàn
không đề cập đến việc tái lập bang giao mà coi xung đột vẫn tiếp tục dưới những hình thức khác cho
đến khi Nguyễn Huệ từ trần.

Thực tế, việc qua lại với nhà Thanh cuối thế kỷ XVIII bao gồm nhiều việc lớn kế tiếp nhau mà trước
đây riêng một việc cũng đã mất hàng năm [có khi nhiều năm], đi đi lại lại rất phiền toái, nay tuy
thuận lợi nhưng không phải không phức tạp.
tóm tắt

Trong tiến trình đàm phán với phương bắc, hai bên không phải tuỳ ý muốn làm gì thì làm. Trung
Hoa dưới triều Thanh Càn Long là một quốc gia lớn, có kỷ cương lề lối nên nhất nhất đều theo qui
định trong điển lệ, vừa là khung hình luật pháp để nương theo, vừa là thứ tự làm mẫu mực cho đời
sau tuân thủ.

Trên hình thức, nhà Thanh cố tình phô trương “sức mạnh nước lớn” để chứng tỏ với dân chúng, với
lân bang rằng An Nam đã thần phục trong “một cuộc chiến mà không cần động binh”. Sức mạnh bề
ngoài có tính “phùng xoè” được thi triển rất lớp lang, bài bản nhưng bên trong có thể ngược lại với
những gì người ta nhìn thấy.

Thanh triều từ quan ngoại vào cai trị trung nguyên nên rất quan tâm đến việc phòng ngừa những
cuộc nổi dậy [từ bên trong] và đe dọa [từ bên ngoài]. Song song với việc trấn áp nội loạn, Thanh
triều cố gắng tạo một hình ảnh trưởng thượng đối với lân bang để các nước xung quanh phục tòng
và làm “phên dậu” cho họ.

Chính sách ngoại giao vì thế có nhiều mặt, đối với những tiểu quốc kế cận thì làm sao cho họ thần
phục và chấp nhận chế độ “triều cống”. Khi chấp nhận vai trò này, quốc trưởng các nước nhỏ phải
được triều đình Trung Hoa phong vương để chính thức hóa vai trò của mình, sai người sang triều
cống theo định kỳ, cáo ai [báo tin vua cũ chết] và cầu phong [cho vua mới]. Ðể đáp lại, hoàng đế nhà
Thanh sẽ ban thưởng cho quốc vương và sứ bộ dưới danh nghĩa “hậu vãng bạc lai” (厚往薄來) [giá
trị đồ thưởng nhiều hơn giá trị đồ tiến cống].[5]

Về lễ nghi, các triều đại Trung Hoa đều chú trọng cả hai phần: nội dung và hình thức. Nội dung là ý
nghĩa triết học thuộc phần hình nhi thượng của văn hoá Trung Nguyên còn hình thức phô trương ra
bên ngoài bao gồm lễ khí và nghi thức mà cổ nhân cho rằng cũng như “cây trúc có vỏ ngoài màu
xanh, tùng bách có lõi hình tròn”[6]hai bên phải tương ứng với nhau. Theo quan niệm đó, thiên tử là
cốt lõi, là tâm điểm để mọi nơi hướng về cũng giống như các vì sao nhỏ chầu đến sao Bắc Thần [Bắc
Cực] (chúng tinh củng chi). Tương quan giữa nước nhỏ và nước lớn, giữa thiên tử với phiên thuộc là
một sắp đặt thiêng liêng mà mọi nước phải tuân thủ.

Việc tiểu quốc được công nhận và phong tước là sự thể hiện một trật tự xã hội để hai bên cùng có sự
chính danh. Tiến trình công nhận vua Quang Trung vì thế vượt ra khỏi đàm phán giảng hoà mà là
thiết lập quan hệ để nước ta có một vị trí theo tôn ti Khổng giáo, trước là đối với Trung Hoa, sau là
sánh với các nước cũng thần phục thiên triều như Triều Tiên, Xiêm La, Miến Điện, Nam Chưởng,
Lưu Cầu… Trong cái trật tự tiền chế đó, những từ ngữ mà Thanh triều dành cho nước ngoài đều
nhất nhất nói lên vị thế không sai chạy (quốc thư, sứ thần, bồi thần, tòng [tụng] thần, quốc vương,
nhập cận, triều cống …) chưa kể tạo ra uy nghi của triều đình khiến cho người nước ngoài phải run
sợ dù rằng thực tế có thể không đúng như vậy.[7]

Nói tóm lại, công nhận và phong vương không phải là nước lớn đáp ứng một yêu cầu của nước nhỏ
mà là một chuỗi dài các tranh biện về lễ nghi để hợp thức hóa một triều đại chính thống.

Sau khi thoả thuận những điểm cơ bản đó, nước ta phải thực hiện một số “nhiệm vụ” trong quĩ đạo
“phiên thuộc – thiên triều”, từ việc gửi thư sang trần tình, tạ tội đến đưa người sang dâng biểu cầu
phong. Nước ta cũng phải tái tục lệ triều cống mà hai bên đã thực thi trong nhiều năm – ba năm một
lần triều cống, sáu năm cho sứ thần mang cống phẩm cả hai lần gộp lại.

Khi công nhận nước ta là phiên thuộc, Thanh triều sẽ ban cho một quả ấn [lần này thay thế quả ấn
ban cho Lê Duy Kỳ (vua Chiêu Thống) đã thất lạc] và một sắc thư chính thức công nhận Nguyễn
Quang Bình (vua Quang Trung) làm An Nam quốc vương rồi cho người sang quốc đô làm lễ. Nước ta
cũng phải chiếu theo cựu lệ mà tiếp đón.

Khi xem xét những qui luật lễ nghi đó chúng ta có thể hiểu được cơ sở tranh luận và lý lẽ của hai
bên, những được và mất hầu không bị thành kiến chủ quan làm lệch lạc vấn đề.
điển tịch

Tài liệu của nước ta liên quan đến giao thiệp với Trung Hoa không nhằm ghi nhận những biến cố
lịch sử mà chỉ ghi lại khuôn mẫu cho đời sau một khi gặp phải một trường hợp tương tự. Thư từ gửi
đi phần lớn là những biện bạch để xin được công nhận và phong vương cho người đứng đầu nước.
Dù thực tế có hiển nhiên và hợp lý thế nào chăng nữa, lời lẽ trong văn chương ngoại giao vẫn phải
giữ vẻ khiêm cung coi như được thiên triều ban cho một đặc ân. Những văn kiện còn lưu lại
trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí [phần Bang Giao Chí] (Phan Huy Chú), Bang Giao Lục (Lê
Thống) , Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (Quốc Sử Quán triều Nguyễn), Tây SơnBang Giao
Tập … cho thấy hai nước không trao đổi những vấn đề quốc gia (kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá
…) mà chỉ minh xác một vị thế: nước ta phải thần phục nước lớn theo trật tự phiên thuộc – thiên
triều.

Đọc lại văn thư Lê Lợi cầu phong với nhà Minh chúng ta mới hiểu tại sao đời Mạc, đời Lê trung hưng
vẫn chỉ lập lại cùng một cách thức mà ai cũng biết rằng giả dối: dâng biểu do các kỳ lão khai là họ cũ
không còn ai, nay thay một họ mới. Thảng hoặc đôi khi sứ thần nước ta có phản ứng khi tiếp xúc với
Trung Hoa thì thường chỉ là tiếng kêu của kẻ yếu bị ức chế quá đáng chứ chưa hẳn là tranh biện để
đòi hỏi một vị thế khác.

Cuối đời Lê, khi Nguyễn Huệ ra bắc diệt họ Trịnh, ông cũng lập lại như các thời trước (hẳn là do các
văn quan nhà Lê chỉ dẫn). Đối với Trung Hoa, ông đưa ra một người họ Lê làm “giám quốc” nhưng
thực tế là một thứ “bù nhìn”, không có thực quyền (tương tự như Trần Cảo sau khi đuổi được giặc
Minh). Ngoài các tờ biểu suy tôn của một số sĩ phu để tìm sự chính danh ở Bắc Hà, ông còn ép Lê
Duy Cẩn và triều thần viết thư sang Trung Hoa xin tự ý nhường quyền trị nước cho mình nhưng
không thành công. Những người ký tên trong tờ biểu này về sau đã bị vua Chiêu Thống trừng phạt.

Khi quân Thanh sắp sửa sang đánh, vua Quang Trung cũng làm tờ khai [do các kỳ mục ký tên] để
giãi bày tình hình chính trị và lý do tại sao trước đây ông phải đem quân ra Bắc. Chỉ sau khi Tôn Sĩ
Nghị bại trận, tư thế mới dần dần thay đổi nhất là từ khi “bắt thóp” được đối phương đang cần nước
ta cho một nhu cầu “quốc thể”, tiêu chí mà Phúc Khang An khi nhậm chức tổng đốc Lưỡng Quảng đã
khẳng định với vua Càn Long rằng sẽ hết sức để chu toàn.

Để công nhận Nguyễn Huệ nhà Thanh phải có một lý do chính đáng (rất có thể chỉ là bịa đặt)
nên Nguyễn Huệ đã khai rằng gia đình ông chín đời ở đất Tây Sơn, là người dân không quan tước
(bố y) chỉ có liên hệ hôn nhân chứ không có tình nghĩa quân thần với vua Lê. Vin vào đó Thanh triều
giải trừ việc kết án ông là loạn thần cướp nước mà trước đây họ đã nhân danh “hưng diệt kế tuyệt”
để đem quân sang nước ta. Lý lẽ này hẳn hai bên có trao đổi để cùng chấp nhận được.

Thanh triều cũng nhất loạt đổ tội cho Lê Duy Kỳ [tức vua Chiêu Thống] đánh mất ấn tín, bỏ chạy
trước làm hoảng loạn quân dân gây ra thất trận. Nhiều chứng cớ cho thấy thực tế chính Tôn Sĩ Nghị
bỏ chạy trước, vua Lê hốt hoảng chạy theo. Vả lại nội dung trong thư từ trao đổi bí mật giữa triều
đình nhà Thanh với Tây Sơn không tiết lộ ra ngoài, dù nạn nhân có bị vu oan cũng không tài nào
biện bạch.

Về trận đánh quân Thanh, Nguyễn Huệ khai rằng ông chỉ muốn ra Thăng Long để bày tỏ phải trái
với Tôn Sĩ Nghị nhưng vì quân thiên triều quá dũng mãnh nên đành phải chống đỡ cho khỏi chết
chứ thực tâm không dám kháng cự thiên binh. Để chứng tỏ thành tâm, Nguyễn Huệ trả về các binh sĩ
bị bắt coi như thực lòng qui thuận.

Trong khi đàm phán, nhà Thanh cũng gia tăng áp lực bằng cách đưa ra những điều kiện tương tự
như các triều đại Trung Hoa trước đây đã đòi hỏi chẳng hạn như dâng đất (đời Mạc), cống voi (đời
Lý), quốc vương đích thân sang chầu (đời Trần) hay lên Nam Quan làm lễ thụ phong (đời Lê Trung
Hưng) … Những yêu sách đó đều bị bác bỏ và nước ta chỉ bằng lòng lập một đền thờ những người tử
trận và xét xử [trên giấy tờ] những ai đã giết hại quan tướng nhà Thanh.

Để đáp lại yêu sách nếu quốc vương không tới Nam Quan xin phong vương thì phải cống người
vàng, vua Quang Trung đã cho cháu là Nguyễn Quang Hiển “tuy đại do thân” (tuy thay mặt nhưng
cũng như chính mình) đem biểu cầu phong lên kinh đô khiến vua Càn Long vui mừng công nhận
Nguyễn Quang Bình làm An Nam quốc vương và xúc tiến các thủ tục bình thường hoá ngoại giao.
Trước hết là việc triều cống định kỳ (sách gọi là tuế cống). Đời Lê nước ta ba năm một lần triều cống
nhưng sáu năm mới sai sứ đi một lần, mang theo cả hai lần cống phẩm. Lần sau cùng nước ta đem
cống vật sang nhà Thanh là năm 1783 đời vua Hiển Tông, đến năm Kỷ Dậu 1789 vừa đúng 6 năm.
Theo đúng thủ tục, cống phẩm phải đưa tới Lạng Sơn và thông báo cho quan nhà Thanh để trình lên,
việc Thanh triều bằng lòng coi như chính thức công nhận.

Kế tiếp hoàng đế nhà Thanh sẽ ban cho nước ta một ấn bạc mạ vàng, núm hình lạc đà nằm và viết
một sắc thư công nhận Nguyễn Quang Bình (vua Quang Trung) là An Nam quốc vương rồi sai người
sang tuyên thị cho mọi người biết và từ đó quốc ấn mới được dùng để đóng vào công văn gửi đi các
nước khác. Cũng từ đó, nhà Thanh mới gọi ông là quốc vương thay vì quốc trưởng (khi gửi riêng
trong nội bộ có khi họ gọi là tù trưởng, trưởng mục …). Trong công văn, vua Quang Trung cũng
không còn phải tự xưng là An Nam quốc tiểu mục, trưởng mục, tiểu phiên … như trước.

Những thủ tục hình thức ấy được thực hiện gấp rút một cách bất thường không phải vì nhà Thanh
khiếp sợ như nhiều người suy diễn mà ẩn náu một đòi hỏi là vua Quang Trung phải minh định sẽ
đích thân sang chúc thọ vua Càn Long năm Canh Tuất.

Tuy đây là một mặc cả khá thuận lợi cho nước ta nhưng lại dấy lên nhiều quan ngại. Việc lần đầu
tiên trong lịch sử một quốc vương An Nam sang triều cận có thể đưa đến hoang mang và dị nghị
trong quần chúng. Ngoài nguyên nhân thực tế phải xa nước lâu ngày, vua Quang Trung cũng sợ
Thanh triều dùng kế điệu hổ ly sơn, nhân cơ hội mình vắng nhà mà đưa vua Chiêu Thống về
nước.[8]

Để bảo đảm rằng vai trò của Lê Duy Kỳ đã hoàn toàn bị loại trừ, Phúc Khang An sắp xếp cho phái
đoàn Nguyễn Quang Hiển được gặp vua Chiêu Thống và tòng vong – nay đã cắt tóc thay áo theo y
phục nhà Thanh – hiện đang an tháp ở Quế Lâm. Viên tổng đốc Lưỡng Quảng cũng bí mật sai người
đưa nhóm đầu não thân Lê ở trong nước ra bên ngoài rồi giữ họ lại trước khi cử người sang
Thăng Long làm lễ phong vương.[9]

Tuy nhiên, một sự việc tương đối trái chiều khiến nhiều dự định phải thay đổi. Khi vua Càn Long
chấp thuận cho cháu vua Quang Trung là Nguyễn Quang Hiển lên kinh đô chiêm cận (triều kiến
hoàng đế) như một hình thức thay mặt quốc vương sang chầu, nhà Thanh đã có ý làm rềnh rang
nhằm khoả lấp việc thua trận, đồng thời nêu cao thành quả “thắng mà không cần dụng binh” nên
ngoài việc tiếp đãi long trọng trên đường đi, ông cũng cho Nguyễn Quang Hiển được dự yến với các
vương công đại thần và làm một đại lễ trao sắc ấn ở kinh đô để sứ thần An Nam mang về nước.

Vua Càn Long cũng muốn phô trương việc công nhận Nguyễn Quang Bình mà ông chủ quan cho rằng
uy tín của thiên triều sẽ triệt tiêu sự chống đối của thành phần hoài Lê ở Bắc Hà – một hình thức thi
ân để vua Quang Trung càng thêm kính sợ. Ngay khi Nguyễn Quang Hiển còn trên đường lên Bắc
Kinh, vua Thanh đã gửi một đặc dụ và một bài ngự thi xuống Quảng Tây với lời dặn Phúc Khang
An phải cho người đích thân mang sang Thăng Long giao tận tay cho vua Quang Trung hầu công bố
cho toàn cõi An Nam biết rằng mệnh trời đã đổi và ngầm ý rằng khi Nguyễn Quang Hiển mang sắc
ấn về thì Phúc Khang An sẽ đích thân sang phong vương để sự công nhận vua Quang Trung còn huy
hoàng hơn Tôn Sĩ Nghị trước đây làm lễ cho vua Chiêu Thống.

Việc hai sứ bộ kế tiếp nhau (thông báo trước, phong vương sau) theo kế hoạch của vua Càn Long
nảy sinh nhiều trở ngại về tổ chức cũng như thực hiện. Sau nhiều năm binh hoả, nhân hoạ, thiên tai
kinh đô Thăng Long nay tiêu điều, hoang phế không còn được sầm uất như trước, nếu tổ chức
phong vương ở đây sẽ phải tốn phí rất nhiều tài lực, nhân lực cho việc trùng tu. Quan trọng hơn, với
niềm tin vào “phong thuỷ” và ám ảnh của người dân Nam Á, vua Quang Trung muốn việc thay đổi
triều đại phải đi kèm với việc dời đô như truyền thống của Chiêm Thành, Xiêm La … Việc xây dựng
kinh đô mới ở Nghệ An, sắp xếp cung điện, cưu tập dân chúng cần một thời gian khá dài nên tuy xây
dựng gấp rút cũng chưa sẵn sàng để thành một quốc đô bề thế.

Về phần Phúc Khang An, chủ đích không phải là làm cho việc phong vương thêm long trọng mà là ép
vua Quang Trung cam kết sang chúc thọ vào năm sau – một công tác ảnh hưởng rất lớn đến
hoạn lộ của ông ta[10]. Kế hoạch hai sứ đoàn, hai nhiệm vụ đòi hỏi phải chuẩn bị lớp lang mà thời
gian lẫn phương tiện hầu như bất khả.

Vì tình hình cấp bách trong khi nhiều vấn đề lớn cần giải quyết ngay nên Thanh triều đã gộp chung
phái đoàn tiền sát [đem đặc dụ và ngự thi] và phong vương làm một đưa đến sự hoang mang và lúng
túng cho cả hai bên. Thay vì chỉ một sứ đoàn với một nhiệm vụ, sứ bộ phong vương cho vua Quang
Trung đã bao gồm ba thành phần gồm ba nhiệm vụ khác nhau:

1. Hậu bổ đạo[11] Thành Lâm mang theo tờ đặc dụ của vua Càn Long (dùng như một văn kiện thay
thế sắc thư công nhận),

2. Thự đồng tri[12] Vương Phủ Đường mang bài ngự thi ban tặng (trên hình thức thay thế quốc ấn),

3. Đặc mệnh của Phúc Khang An do viên tổng quản thân tín sang trao đổi về việc triều cận (trên
danh nghĩa đem quà sang chúc mừng).

Chính vì thành phần đa dạng, trong văn thư hai bên trao đổi đã phân biệt sắc sứ (sứ thần mang sắc
dụ) và đại viên (viên chức lớn) mang ngự thi là hai người thay mặt Thanh đình [đều do Phúc Khang
An chỉ định, không phải vua Càn Long sai đi] nhưng ít ai nhận ra sự phân biệt đó. Riêng viên tổng
quản là một thành phần bán công khai nên chỉ mãi về sau nước ta mới biết và nhắc đến trong các
thư từ giao thiệp với Phúc Khang An.

Chính vì lễ phong vương cho vua Quang Trung không có sắc ấn [Nguyễn Quang Hiển đang trên
đường mang từ Bắc Kinh về nước] nên triều đình Tây Sơn nghi ngại và tìm đủ cách để thay đổi việc
phong vương. Đây cũng là lần đầu tiên mà sứ giả nhà Thanh phải chờ đợi đến hai tuần ở Nam Quan
và khi đến ngoại ô kinh đô lại phải tạm trú gần một tháng ở Gia Quất với lý do chờ vua Quang Trung
[bị bệnh] chưa ra đến Thăng Long. Triều đình Tây Sơn cũng mấy lần xin đổi địa điểm, khi thì đòi vào
Nghệ An là kinh đô mới, khi lại xin vào Phú Xuân là cựu đô của chúa Nguyễn, dân cư trù mật thành
quách huy hoàng.
Ngoài việc phong vương bị trở ngại, quyết định sang dự lễ Bát Tuần Khánh Thọ cũng không dứt
khoát vì vua Quang Trung chưa có đủ tin tức để đánh giá về sự thành thật của Thanh triều [phái
đoàn Nguyễn Quang Hiển đang trên đường trở về]. Thêm nữa, trước đây Tôn Sĩ Nghị có gửi thư cho
Xiêm vương yêu cầu đem quân chặn đường rút lui của quân Tây Sơn một khi bị đánh bại. Vì thông
tin bị chậm trễ (do chuyển đi theo thuyền buôn) nên đến tháng Hai (năm Kỷ Dậu, khi quân Thanh đã
thua trận) vua Xiêm mới nhận được và yêu cầu chúa Nguyễn Ánh (Gia Định khi đó coi như thuộc
quốc của Xiêm La) động binh. Tháng Năm, chúa Nguyễn chuẩn bị ra quân, một mặt cho chở lương
thực (bằng đường biển) yểm trợ quân Thanh (nhưng bị bão đánh chìm) đưa đến những nghi ngại
mà vua Quang Trung cho rằng nhà Thanh dùng kế điệu hổ ly sơn, dụ ông ra Thăng Long để đánh tập
hậu bằng đường thuỷ vào Thuận Hoá.

Sau hơn một tháng giằng co, sau cùng thì ngày 15 tháng Mười năm Kỷ Dậu [vốn ấn định vào cuối
tháng Tám hay đầu tháng Chín] việc phong vương cũng hoàn tất. Nương theo thế đang được chiều
đãi, vua Quang Trung yêu cầu mở cửa thông thương ở biên giới để giải tỏa một số áp lực về kinh tế
trong mấy chục năm qua. Lá thư chính thức gửi lên vua Càn Long nhân danh tân quốc vương mới
được phong cũng để đến sau lễ khai ấn vào ngày đầu năm [đến giữa tháng Một thì Nguyễn Quang
Hiển mới về đến Nam Quan].

Việc thay đổi và trì hoãn đưa tới nhiều đồn đãi – nhất là trong giới cựu thần nhà Lê – về những trá
ngụy và tranh chấp khiến Phúc Khang An phải đề nghị cho người giả đi thay. Tuy nhiên, nếu không
bị ảnh hưởng bởi thuyết âm mưu (conspiracy theories) thường gặp trong tiểu thuyết đời Minh
Thanh mà đi sâu vào thủ tục, nghi lễ dựa trên văn thư chính thức còn lưu lại của hai phía thì chúng
ta sẽ có những nhận định phù hợp hơn.

Khi nhận ra những bất toàn của phía nhà Thanh, triều đình Tây Sơn dùng chính các nguyên tắc lễ
nghi [là những tiêu chí và tôn chỉ họ đề cao] để bẻ lại những yêu sách hay thay đổi không thích hợp
– một hình thức “gậy ông đập lưng ông” khiến cho đối phương phải nhượng bộ. Nói tóm lại, tiến
trình ngoại giao Thanh – Việt cuối thế kỷ XVIII là một hình thức “đấu trí” mà nhà Thanh tưởng rằng
trong cương vị đại quốc họ có ưu thế áp đặt nhưng những đòi hỏi của họ đều bị giới nho gia nước ta
phủ bác.

Tài liệu phía Việt Nam

Về việc nhà Thanh công nhận vua Quang Trung, chính sử triều Nguyễn [Khâm Định Việt Sử Thông
Giám Cương Mục, Đại Nam Thực Lục hay Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện] ghi chép rất sơ sài, có thể
nói là làm cho có lệ. Điều đó cũng dễ hiểu vì triều đại Tây Sơn là triều đại bị lãng quên và sử chép về
họ có lẽ chỉ được bổ túc vào hậu bán thế kỷ XIX khi có sự thỉnh cầu và phê phán của giới nho gia
miền Bắc. Khu vực Đàng Ngoài là một khu vực mới chinh phục, vốn dĩ bị triều đình nhìn bằng cặp
mắt nghi kỵ, không được coi là đi cùng chiều với Đàng Trong.

Tuy tài liệu về tổ chức hành chánh, kinh tế, quân sự … thời kỳ Tây Sơn hầu như rất ít – và chỉ được
ghi chép trong dã sử do người ngoài triều đình ghi nhận theo lối mắt thấy tai nghe – nhưng việc giao
thiệp với Trung Hoa thì khá phong phú so với những thởi kỳ khác khiến chúng ta phải dấy lên một
số câu hỏi. Những tài liệu về thời kỳ này chủ yếu là văn thư trao đổi giữa hai bên, khi thoả hiệp, khi
tranh biện mà mục đích chính yếu là nghi lễ vốn dĩ rất được coi trọng. Những nho sĩ được giao cho
công tác giao thiệp với Trung Hoa đều thấy đây là một ân điển đặc biệt lớn rất vinh dự cho gia đình,
cho dòng họ. Những người được cử đi sứ cũng rất phấn khởi nên nhiều thi tập ghi lại hành trình còn
tồn lưu cho thấy họ hoàn toàn không bị ép buộc hay miễn cưỡng, lại càng không phải bị đặt vào thế
phải tham gia một vở kịch đem tính mạng ra đánh cuộc.

Theo Thư Mục về Tây Sơn Nguyễn Huệ do Thư Viện Khoa Học Tổng Hợp thuộc sở Văn-Hoá Thông
Tin, Uỷ Ban Khoa Học – Kỹ Thuật tỉnh Nghĩa Bình (Nguyễn Trí Sơn biên tập nội dung) ấn hành năm
1988 tại Hà Nội thì tới thời gian đó đã có tới 1623 tài liệu/sách/bài viết về thời kỳ này. Trong số các
tài liệu ghi nhận, phần lớn là các bài viết hay sách nghiên cứu. Số lượng tài liệu gốc thực sự không
nhiều và lẫn lộn nhiều văn kiện không mấy giá trị.

– Tây Sơn Bang Giao Tập (西山邦交集), còn có tên là Bang Giao Lục (邦交錄), hiện nay còn hai bản
sao các văn thư qua lại, tàng trữ trong kho sách Viện Hán Nôm chép các tài liệu và văn thư ngoại
giao đời Tây Sơn:

– A. 1916 nhan đề Bang Giao Lục, 183 trang

– A. 2364 nhan đề Tây Sơn Bang Giao Tập, 114 trang

Tài liệu viết tháu, khó đọc nhưng có nhiều văn thư đặc biệt trong chuyến đi của vua Quang Trung
sang Yên Kinh. Nếu tổng hợp và đối chiếu với những tài liệu khác chúng ta có thể dựng lại nghi lễ và
bang giao với Trung Hoa đầu đời Cảnh Thịnh (khi vua Càn Long còn tại thế).[13]

– Bang Giao Hảo Thoại (邦交好話), tác giả Ngô Thì Nhậm (呉時任)

Ngô Thì Nhậm (1746-1803), tiến sĩ khoa Ất Mùi (1746) tự Hi Doãn, hiệu Đạt Hiên được phong tước
Tinh Phái Hầu. Bang Giao Hảo Thoại hay Bang Giao Tập là tập hợp văn thư giao thiệp chủ yếu là nghị
hoà thời Quang Trung và giao thiệp với nhà Thanh thời Cảnh Thịnh.

– Dụ Am Văn Tập (裕庵文集), tác giả Phan Huy Ích (潘輝益) TVKHXH A.604

Phan Huy Ích (1751-1822) tự Khiêm Thụ Phủ, hiệu Dụ Am giữ việc bang giao đời Quang Trung cùng
với Ngô Thì Nhậm, được phong tước Thuỵ Nham Hầu.

Sách chép tay, gồm 8 quyển (sách), các quyển I, II, III, IV chép các loại biểu chương, giản trát gồm
nhiều văn thư liên quan đến việc bang giao đời Tây Sơn.

– Hoa Nguyên Tuỳ Bộ Tập (華原隨步集), tác giả Vũ Huy Tấn (武輝瑨)

Vũ Huy Tấn (1749-?), tự Tự Chiêu, người Mộ Trạch đời Tây Sơn làm thị lang bộ Công, phong tước
Hạo Trạch Hầu. Hoa Nguyên Tuỳ Bộ Tập ghi lại một số văn thơ của VHT trong chuyến đi sứ lần đầu
năm Kỷ Dậu (1789) từ khoảng tháng Năm đến tháng Chạp. Lần này ông làm phó sứ tuế cống cho Hô
Hổ Hầu Nguyễn Hữu Trù sau khi nhà Thanh công nhận Nguyễn Quang Bình [vua Quang Trung] làm
An Nam quốc vương. Chuyến đi này khá đặc biệt vì cùng với Nguyễn Quang Hiển là cháu vua Quang
Trung thay mặt sang triều cận và được vua Càn Long đặc biệt cho cầm sắc ấn mang về.

Bản chúng tôi có trong tay là bản chép tay số hiệu A 375 của Viện Hán Nôm Hà Nội, được in lại theo
lối ảnh ấn trong Việt Nam Hán Văn Yên Hành Văn Hiến Tập Thành, quyển số VI [đệ lục sách] từ
trang 293 đến 343. Bản viết rõ ràng theo lối chân phương, mỗi trang 9 hàng, mỗi hàng 20 chữ.

Trong phần “Tự” ông kể khá rõ ràng việc ông được vời ra sau khi vua Quang Trung đánh tan quân
Thanh và cần người giao thiệp với phương bắc nên được đưa lên Lạng Sơn hầu mệnh rồi được cử đi
sứ ngay. Tuy không cho biết quan điểm của ông trong các vấn đề quan trọng khác nhưng với lối
tường thuật cuộc hành trình chúng ta biết rằng những ghi nhận của họ Vũ được đánh giá rất cao và
ngay khi vừa về đến nhà ông lại được đi trong sứ bộ của vua Quang Trung năm Canh Tuất.

– Lịch Triều Tạp Kỷ (歷朝襍紀), tác giả Ngô Cao Lãng (呉高朗)

Lịch Triều Tạp Kỷ là sách chép tay, tất cả 6 quyển nhưng nay chỉ còn 5 (quyển V chưa tìm
thấy).[14] Trong công việc giao thiệp với phương Bắc, một số tài liệu hiếm có được trích lại trong
quyển VI, nhan đề Chiêu Thống Đế. Tuy chép về vua Chiêu Thống nhưng có phần phụ Tây Sơn
Vương chép nhiều chuyện bang giao và tình hình miền Bắc tương đối trung thực. Về tài liệu, một số
văn thư gốc được sao lục phần lớn tìm thấy trong Đại ViệtQuốc Thư, Bang Giao Hảo Thoại hay Dụ
Am Văn Tập nên có lẽ tác giả cũng tham chiếu từ các nguồn này. Cũng có một số tài liệu không thấy
xuất hiện ở nơi khác nhưng nội dung ăn khớp với tài liệu nhà Thanh nên có thể tin rằng Ngô Cao
Lãng sưu tầm được nhiều tư liệu hiếm có còn tồn tại ngay trong thời ấy.

– Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí (歷朝憲章類誌) của Phan Huy Chú (潘輝注)

Phan Huy Chú (1782-1840), tự Lâm Khanh, hiệu Mai Phong tuy chỉ đỗ tú tài nhưng là một nhà nho
uyên bác. LTHCLC chép theo chí truyện là tác phẩm kỹ càng về công việc tổ chức hành chánh và điển
nghi của triều đình gồm 49 quyển chia làm 10 loại. Bang Giao Chí chép từ quyển 46-49.

– Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (欽定大南會典事例) gồm 262 quyển do nội các triều Nguyễn
biên soạn.

Bộ sách này được khởi thuỷ soạn từ đời Thiệu Trị sang đến năm Tự Đức thứ 4 thì xong chia theo
cách thức của Đại Thanh hội điển sự lệ. Phần Bang Giao chép trong quyển 129 có thể dùng để đối
chiếu về đường đi của sứ bộ từ Lạng Sơn xuống Thăng Long.

Tài liệu phía Trung Hoa

Tài liệu của Trung Hoa tương đối phong phú vì nhà Thanh có một hệ thống lưu trữ rất hoàn chỉnh.
Các văn thư thường có bản sao được giữ ở cả trung ương lẫn địa phương chưa kể để dùng như
phương thức tham chiếu ngày nay, những chi tiết quan trọng thường được chép nguyên văn ở
những văn thư liên hệ. Đối chiếu và chọn lọc từ nhiều nguồn chúng ta có thể minh hoạ khá chi tiết
các phản ứng của Thanh triều, đặc biệt là thái độ và cách xử trí của vua Càn Long. Các quan ở địa
phương sẽ nương theo quan điểm của hoàng đế mà vạch ra một hướng đi cho thuận lý.

Theo các tác giả Đài Loan từng nghiên cứu về các chiến dịch đời Càn Long như Trang Cát Phát hay
Lai Phúc Thuận, chúng ta biết rằng một số số văn thư gốc liên quan đến thời kỳ này hiện lưu trữ
trong kho đáng án của Cố Cung Bác Vật Viện. Tuy một số văn bản đã công bố, nhiều tài liệu còn bị bỏ
quên trong kho tài liệu đồ sộ của Hoa lục hay Đài Loan và nếu có điều kiện chúng ta có thể tìm thấy
nhiều tư liệu đáng chú ý trong việc nghiên cứu lịch sử nước ta.

Một trong những khó khăn khi sử dụng văn bản là thường không có ngày tháng. Các tấu triệp, dụ chỉ
ít khi ghi ngày gửi mà thường chỉ ghi ngày nhận công văn nên thời gian giữa lúc gửi đến lúc nhận có
thể từ vài tuần đến hàng tháng, nhất là từ những nơi xa xôi như Quảng Tây, Nam Quan hay thậm chí
Thăng Long. Vào thời điểm quyết liệt, thời gian qua lại này có thể làm đảo ngược tình thế và nếu
không tìm hiểu cho kỹ, chúng ta có thể đưa ra những kết luận không thích đáng.

– Khâm Định An Nam Kỷ Lược (欽定安南紀略)

Khâm Định An Nam Kỷ Lược là tập hợp những văn thư quan trọng nhất trong chiến dịch đánh An
Nam, tổng cộng 32 quyển gồm 2 quyển Thiên Chương Nhất/Nhị và 30 quyển thư từ qua lại giữa
triều đình và các tỉnh kể cả một số văn thư từ nước ta. Tài liệu chúng tôi dùng là bản trong cung do
Phương Lược Quán tập hợp hiện tàng bản tại Cố Cung Bác Vật Viện (故宮博物院) Bắc Kinh. Hải
Khẩu: Hải Nam xbx in theo lối ảnh ấn năm 2000. Ngoài ra chúng tôi còn tham khảo bản chép tay
nhan đề An Nam Kỷ Lược (安南紀略) 32 quyển trong Trung Quốc Văn Hiến Trân Bản Tùng Thư
(中國文献珍本叢書), Thư Mục Văn Hiến xbx, 1986. Bản dịch NDC (chưa xb). Vấn đề nghị hòa chiếm
gần một nửa bộ sách từ quyển XIII đến hết quyển XXVI.

– Thanh Thực Lục (清實錄)


Thanh Thực Lục hay Đại Thanh Lịch Triều Thực Lục (大清歷朝實錄) là bộ sách lớn chép theo lối
biên niên của toàn bộ triều Thanh. Tài liệu tham khảo về giai đoạn nghị hoà này chủ yếu nằm
trong Càn Long Triều Thực Lục (乾隆朝實錄), còn gọi là Thanh Cao Tông Thuần Hoàng Đế Thực
Lục hay Cao Tông Thực Lục, năm Kỷ Dậu (Càn Long 54) bao gồm các quyển 1231-1345 in theo lối
ảnh ấn của Trung Hoa Thư Cục, Bắc Kinh 1985-7.

– Đông Hoa Tục Lục (東華續錄)

Đông Hoa Tục Lục do Vương Tiên Khiêm [王先謙] (1842-1918) biên tập, tổng cộng 5 sách, trong bộ
Cận Đại Trung Quốc Sử Liệu Tùng San Tam Biên do Văn Hải ấn hành theo lối ảnh ấn năm 2006. Sách
số 5 từ quyển 39-48 chép đời Càn Long từ năm 50-60 nhưng tài liệu nghị hoà chủ yếu trong quyển
43. Đông Hoa Tục Lục in theo lối cũ, chữ rất nhiều chia ra thành từng tháng nhưng không phân biệt
rõ nên cũng khó tra tìm.
– Thanh Cung Nhiệt Hà Đáng Án (淸 宮 热河 档案)

Toàn bộ tổng cộng 18 quyển, do Trung Quốc Đệ Nhất Lịch Sử Đáng Án Quán thực hiện và ấn hành
năm 2003 bao gồm các văn thư khi hoàng đế ở Nhiệt Hà tránh nóng hàng năm. Các quyển liên quan
đến nước ta đời Tây Sơn là quyển 6 và 7. Đây là bản chụp nguyên văn, có cả châu phê và con dấu
nguyên thuỷ. Về giao thiệp nghị hoà, Nhiệt Hà Đáng Án có rất ít vì tài liệu về giai đoạn này vì đã
được tập trung để soạn An Nam Kỷ Lược và Thực Lục. Tuy nhiên nhiều chi tiết nhỏ lại soi sáng
những vấn đề khá quan trọng, chẳng hạn nguyên do việc vua Quang Trung được ban y phục thân
vương, một ân sủng đặc biệt nhưng đến nay sử gia nước ta đánh giá sai đã đành mà chính các sử gia
Trung Hoa cũng nhầm lẫn về sự quan trọng của nó.

– Càn Long Triều Thượng Dụ Đáng (乾隆朝上諭檔)

Là một tập hợp đồ sộ bao gồm tất cả các sắc dụ đời Càn Long do Trung Quốc Đệ Nhất Lịch Sử Đáng
Án Quán biên tập, Đáng Án xbx Bắc Kinh ấn hành (tổng cộng 18 quyển) năm 1991. Phần Thanh Việt
nghị hoà nằm trong quyển XIV, XV. Các văn thư quan trọng có thể được nhận biết vì do chính Hòa
Thân (Khôn) trong Quân Cơ Xứ viết tay (tự ký) và gửi đi theo lối hỏa tốc (600 dặm một ngày).

– Cung Trung Đáng Càn Long Triều Tấu Triệp (宮中檔乾隆朝奏摺)

Tập hợp các tấu triệp đời Càn Long của các địa phương và trung ương tâu lên hoàng đế do Cố Cung
Bác Vật Viện Đài Bắc in lại theo lối ảnh ấn năm Dân Quốc 76-7 (1987-8), nhiều tài liệu bị tàn khuyết
có đóng dấu “nguyên đáng tàn tổn”. Tập tài liệu này quí giá vì là nguyên bản, nhiều nơi có châu phê
của vua Càn Long và ngày tháng rõ ràng, có chỗ bị bôi đen cần phục hồi để xem tài liệu vì sao bị dấu
bớt. Vì phần lớn là văn thư mật do chính người gửi viết nên có thể nhận ra tự tích của Tôn Sĩ Nghị,
Phúc Khang An, Tôn Vĩnh Thanh … Đây là nguồn tài liệu rất đồ sộ và quí giá, phần liên quan đến nghị
hoà với nước ta có thể tìm thấy trong các tập 67-74. Với lối hành văn, cách gửi thư và tình hình qua
lại theo hệ thống hành chánh của triều Càn Long, chúng ta biết được cách giải quyết vấn đề công
nhận triều đại Nguyễn Tây Sơn.

– Minh Thanh Sử Liệu [明清史料] Thẩm Vân Long [沈雲龍] chủ biên

do Văn Hải ở Đài Bắc ấn hành năm 1967. Trong bộ này, chỉ riêng Canh Biên có nhiều tài liệu về nước
ta, từ thời Lê trung hưng đến đời Tự Đức được in lại trong bộ Thanh Quý Nội Các Đáng Án Toàn Tập
[清季内阁档案全辑] (Bắc Kinh: Học Uyển xbx, 1999) các quyển 11, 12. Những tài liệu này tuy không
phải ảnh chụp nhưng đều sao lại theo nguyên bản có một số văn thư riêng mà không đâu có cho ta
một số chi tiết giải quyết được nhiều nghi vấn của giai đoạn này.

Ngoài những văn liệu gốc nêu trên, một số công trình tập hợp tài liệu thành một chuyên đề cũng
đóng góp rất nhiều giúp cho người nghiên cứu giảm thiểu thời gian tìm kiếm và sao lục:
– Trung Quốc Xã Hội Khoa Học Viện Lịch Sử Nghiên Cứu Sở (中国社会科学院历史硏究所) Cổ Đại
Trung Việt Quan Hệ Sử Tư Liệu Tuyển Biên (thượng và hạ) (古代中越关系史资料迭编). Bắc Kinh:
Trung Quốc Xã Hội Khoa Học xbx, 1982.
– Viện Nghiên Cứu Lịch Sử Vân Nam (云南省歷史研究所). Thanh Thực Lục: Việt Nam, Miến Ðiện,
Thái Quốc, Lão Qua sử liệu trích sao (清實錄: 越南緬甸泰國老撾史料摘抄). Côn Minh: Vân Nam
nhân dân xbx, 1985

Những bộ sách nêu trên đã tập hợp gần như toàn bộ văn thư qua lại giữa triều đình nhà Thanh và
địa phương. Bản chính những tài liệu của nước ta – các tấu thư gửi sang Thanh triều – có lẽ một số
vẫn còn trong văn khố mặc dù cũng bị huỷ hoại nhiều trong thời kỳ binh lửa.

Nghiên cứu – Tiểu luận

Bang giao và quan hệ Trung Hoa – Việt Nam cũng là một đề tài lớn có nhiều tác giả nghiên cứu
nhưng thường kéo dài nhiều thời kỳ và nhấn mạnh vào cận đại sử. Những tập tài liệu đó có ích cho
việc nhìn vấn đề một cách tổng quát, thường chỉ là một bộ phận của triều đình Trung Hoa nhưng lại
khá quan trọng đối với các triều đại của nước ta.

– Tôn Hoành Niên (孫宏年). Thanh Ðại Trung Việt Tông Phiên Quan Hệ Nghiên
Cứu (清代中越宗藩關繫研究) Hắc Long Giang Giáo Dục xbx, 2006.

– Lý Quang Ðào (李光濤). Ký Càn Long Niên Bình Ðịnh An Nam Chi Dịch (記乾隆年平定安南之役 ).
Ðài Bắc: Trung Ương Nghiên Cứu Viện Lịch Sử Ngữ Ngôn Nghiên Cứu Sở, 1976

– Trang, Cát Phát (莊吉發). Thanh Cao Tông Thập Toàn Võ Công Nghiên Cứu (清高宗十全武功研究).
Ðài Loan: Cố Cung Tùng San, Giáp Chủng số 26, tháng 6 năm 1982.

Nghiên cứu riêng về giao thiệp Thanh – Việt liên quan đến nghị hoà đời Tây Sơn của các học giả
Trung Hoa, Nhật Bản … cũng chưa nhiều, phần lớn là những tiểu luận đăng tải trên các tập san Sử
học nhưng cũng có thêm nhiều chi tiết mới.

Trang Cát Phát (莊吉發) viết tương đối kỹ lưỡng trong luận văn nhan đề “Hưng Diệt Kế Tuyệt – Tự
Tiểu Tồn Vong: Thanh Cao Tông Dụng Binh Ư An Nam Đích Chính Trị Lý Niệm”
(興滅繼絕字小存亡清高宗用兵於安南的政治理念)[15] để giải thích về lý do nhà Thanh đem quân
sang nước ta. Tuy đưa ra nhiều tài liệu mới mẻ nhưng Trang Cát Phát đã không nhận được một điều
cốt lõi mà Tôn Sĩ Nghị che dấu. Gia quyến họ Lê không chạy sang cầu cứu Thanh triều mà chỉ chạy
trốn một cuộc thảm sát và nhiều sự kiện được nguỵ tạo để Tôn Sĩ Nghị có cớ dụng binh ngõ hầu
thăng quan tiến chức.

Tiếp theo, Trang Cát Phát cũng có viết thêm một bài nhan đề “Thanh Cao Tông Sách Phong An Nam
Quốc Vương Nguyễn Quang Bình Thuỷ Mạt” (清高宗册封安南國王阮光平始末)[16] để biện minh
cho việc công nhận triều đại Tây Sơn.
Trương Minh Đương (张明當) trong một tiểu luận nhan đề “Phúc Khang An Dữ Càn Long Mạt Trung
An Tông Phiên Quan Hệ Đích Tu Phục” (福康安与乾隆末中安宗藩关系的修复)[17] miêu tả khá chi
tiết về thủ đoạn của Phúc Khang An trong tiến trình nghị hoà với nước ta.
đồ họa

Tranh ảnh và tài liệu về việc giao thiệp và nghị hòa với nhà Thanh hiện nay rất hiếm hoi. Ngay cả
bản đồ thời Lê cũng không dễ dàng. Hiện nay nước ta chỉ còn bộ Hồng Đức Bản Đồ (洪德版圖) do Bộ
Giáo Dục, Saigon ấn hành năm 1962 (Tủ Sách Viện Khảo Cổ, số III) là bản chụp từ âm bản microfilm
nên cũng không rõ ràng lắm.

Trong tập bản đồ này, bức vẽ quan trọng nhất là bản đồ Trung Đô, tức Thăng Long (từ trang 6-9) có
kinh thành và những kiến trúc nổi bật như Vương Phủ, tháp Bảo Thiên và nhất là các cung
điện.[18] Điều đáng tiếc là từ triều Tây Sơn sang triều Nguyễn, cố đô Thăng Long nhiều thay đổi nên
khôi phục nguyên trạng khung cảnh khi Nguyễn Quang Bình được phong vương có nhiều khó khăn.
GS Hoàng Xuân Hãn đã cố gắng vẽ lại nghi vệ, lỗ bộ và sắp xếp của triều đình nước ta trong kỳ lễ
phong vương năm Quí Hợi (1683) cho vua Lê Hi Tông (đời Khang Hi). Hành trình của sứ bộ nhà
Thanh cũng gần đúng như phái đoàn Thành Lâm nên hai lần phong vương có thể tham chiếu và bổ
túc.

Về phía Trung Hoa, đời Càn Long là một thịnh thế nên nhiều loại đồ hoạ, trường đồ rất qui mô và vĩ
đại do hoạ công trong triều thực hiện. Bức tranh liên quan đến việc công nhận vua Quang Trung là
“Nguyễn Huệ khiển điệt Nguyễn Quang Hiển nhập cận tứ yến chi đồ”
(阮惠遣姪阮光顯入覲賜宴之圖) trong bộ tranh An Nam Chiến Đồ vẽ phái đoàn Nguyễn Quang Hiển
triều kiến vua Càn Long tại Thanh Âm Các ở Nhiệt Hà.

Nhận xét

Trong quá trình tìm kiếm, chúng tôi phát hiện khá nhiều tài liệu liên quan đến bang giao Thanh Việt
đời Tây Sơn, hoặc được sao lục riêng thành một quyển riêng, hoặc lẫn trong di văn của các viên chức
có tham gia vào công việc từ lệnh của cả Việt Nam lẫn Trung Hoa. Tuy nhiên, việc sắp xếp lại cho lớp
lang, thứ tự và nhất lả nêu lên được những trọng điểm cho từng thời kỳ tương đối phức tạp vì có
nhiều chi tiết bị che khuất cũng như biến đổi theo thời gian.

1. Tài liệu đã bị sửa và chép đi chép lại nhiều lần và không còn như nguyên thuỷ. Tài liệu nước ta
chủ yếu nằm trong các thư viện tư gia bị ảnh hưởng của thời thế đã đành nhưng ngay cả tài liệu nhà
Thanh vốn dĩ là đáng án, nhiều văn kiện cũng đã bị thêm bớt cho phù hợp với ý muốn của triều đình
và che dấu những sai lầm của cấp trên.

2. Tài liệu thường không có ngày tháng gửi hay nhận nên phải so sánh nội dung và những chi tiết để
phỏng đoán thời điểm được soạn thảo. Thời điểm viết ra và thời điểm nhận được thường có một
khoảng cách nên việc tính toán để biết được hiện trạng khi lưu hành văn thư đóng góp đáng kể vào
việc lượng giá vấn đề. Văn thư đời Thanh tuỳ theo mức độ khẩn và mật, được chuyển đi theo những
dạng thức khác nhau, tốc độ khác nhau nên cần am tường nguyên tắc để lượng giá cho chính xác.

3. Nội dung tài liệu chưa hẳn đã phản ảnh sự thật. Ngoài ngôn từ ngoại giao nói cho đẹp lòng người
nhận, nhiều trường hợp một lý do nêu lên không đúng như diễn tiến và cần phải đọc những văn bản
khác để minh xác thực tế lúc đó như thế nào.
Một cách tổng quát, tài liệu thời Tây Sơn tập trung chính yếu trong hai hạng mục:

1. Văn thư ngoại giao (được gọi chung là quốc thư) chủ yếu là ghi chép về các thủ tục, tiến trình liên
lạc với nhà Thanh có lẽ được dùng làm tài liệu tham khảo cho triều Nguyễn hơn là mục tiêu lưu giữ
tài liệu dùng trong việc soạn sử.

2. Thơ văn xướng hoạ và ngâm vịnh khi sang Trung Hoa, khi dự tiệc hay thăm viếng thắng cảnh. Một
số thư từ thù tạc không quan trọng nhưng cũng được bảo tồn như để đánh giá sự quan trọng của tác
giả trong khi đi sứ.

So sánh di văn của nước ta với tài liệu của phái đoàn nước khác như Triều Tiên, Anh quốc trong
cùng một thời kỳ chúng ta thấy có những dị biệt quan trọng. Phái đoàn Triều Tiên ghi nhận rất chi
tiết về thể lệ và nghi lễ (các loại quan phục, lỗ bộ, yến tiệc, hí khúc …), phái đoàn Anh quốc (nói
chung Tây phương) ghi nhận về sinh hoạt xã hội, kinh tế, quân sự … và những điều mắt thấy tai
nghe trên đường đi và kinh đô.

Trong khi đó, sứ thần nước ta ghi lại phần lớn là thơ văn ngâm vịnh các danh thắng được đến thăm,
nhất là những địa điểm từng gặp trong sách vở như Xích Bích, Hoàng Hạc Lâu, lầu Lạc Dương … hay
các bài hoạ lại thơ văn trao tặng. Những chi tiết đó cho thấy tâm tư và thói quen của nhà nho nước
ta chỉ hạn chế vào những gì đã được đào tạo và tập luyện nên không mấy chú trọng đến những tiết
mục khác và cũng ít ai có hoài bão đem cái hay của người về bổ túc cho sở đoản của chính mình.

Tài liệu tham khảo

[1] Robert I. Fitzhenry (ed.), The Harper Book of Quotations (NY: HarperCollins, 1993) tr. 205

[2]二月。康安至廣西太平幕府。文惠隨使其臣呉壬。潛往歸降謝罪。又多以金賂。懇康安爲之主張。

康安旣得厚賂。又幸其無事。奏請因而許之。毋開邊釁。清帝從之。

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục [viết tắt CM] q. XLVII, tr. 43, bản dịch Viện Sử Học
(1998) Tập Hai tr. 848-9.

[3] …已而福康安抵粵西専意講和移書以利害譬諭之。惠亦以金幣厚遣求爲玉成遂改名光平遣其姪

阮光顯竝陪臣武輝瑨齎遞貢品叩關懇請入覲… Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện [viết tắt LT] q. XXX,

Nguỵ Tây, tr. 37B


[4] 且說兩廣新督臣福隆安乃滿州鑲黄旗人,由蔭生致位台鼎,清帝素信用,故委以料理南事。初

代毅爲總督,乘驛至廣西幕府,親見毅隻身奔還,又聞北平王勢燄,未免逡巡畏縮,及接邊書,

遂一心大膽,即以南事自任,密謂太平府王分府曰:

南北弭兵,生民之福,而寔邊彊諸臣之大幸也!我聞南國詞臣,有呉任者,向之詞札皆出其手,公

可爲書答復,使之專主和議,急繕謝表投遞,我爲内主,事無不濟。王分府出,即移札于呉任。呉

任以事禀于北平王,王雖旣定北河,而南陲猶有内憂,急於還師,因會諸將謂曰:

北河兵事呉委文楚,文璘,中國使命呉委呉任,潘益,凡事並聽便宜處置。我且還,事無關緊,

不必往復禀報爲也。Việt Nam Hán Văn Tiểu Thuyết Tùng San, q. V: “Hoàng Lê Nhất Thống Chí”

(1987) tr. 239, NDC dịch.


[5] Thực tế những đồ ban thưởng chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, rất ít giá trị vật chất như ngọc như
ý, hà bao, vải vóc, quần áo… trong khi họ đòi hỏi tuy tiếng là phương vật như vàng, bạc, sừng tê, ngà
voi, trầm hương, ngọc trai… nhưng giá trị thương mại cao gấp bội.

[6] …其在人也,如竹箭之有筠也,如松柏之有心也。Vương Vân Ngũ (chủ biên) Vương Mộng Âu

(chú dịch). Lễ Ký Kim Chú Kim Dịch, q. thượng (1977) tr. 389-90.
[7] Xem thêm John K. Fairbank “The Early Treaty System in the Chinese Order” The Chinese World
Order: Traditional China’s Foreign Relations. Cambridge, Mass: Havard University Press, (2nd Ed.)
(1970) tr. 257-70
[8] Theo sự tra vấn của Phúc Khang An, các cựu thần nhà Lê đã loan truyền rộng rãi một số tin đồn
về sự nghi ngại và không thành thật của triều đình Tây Sơn trong đó có 2 sự kiện quan trọng:
1/ Nguyễn Quang Hiển không thực sự là cháu ruột vua Quang Trung (để tạo ảnh hưởng đối với
Thanh triều)
2/ Nhà Thanh sẽ đem quân sang đánh bất ngờ khi vua Quang Trung ra khỏi nước (để gây hoang
mang cho triều đình Tây Sơn).
Những tin đồn này đều không có cơ sở, tuy có gây ra một số thắc mắc nhưng lại ảnh hưởng khá
nhiều vào lịch sử nước ta. Tấu thư của Phúc Khang An ngày 24 tháng Một năm Càn Long 54 (Thanh
Quí Nội Các Đáng Án toàn tập, q. 11, tr. 4262 – trích từ Minh Thanh sử liệu, Canh biên đệ Nhị bản, tr.
143)
[9] Xem thêm “Lê Duy Kỳ, đáng thương hay đáng trách?” và “Lê Quýnh, 1750-1805” (biên khảo của
NDC)
[10] Ngay trong thời gian này, Phúc Khang An đang mắc vào một vụ đại án mà vua Càn Long rất bất
bình nhiều lần trách mắng, nhắc đến thân thế (cháu của hoàng hậu Hiếu Hiền, con của đại học sĩ Phó
Hằng …) và công lao, nhất là vai trò quan trọng trong việc giao thiệp với nước ta nên phải giữ lại mà
không bị trừng phạt hay tước bỏ các tước vị. Chính vì thế, bằng mọi giá Phúc Khang An phải mời cho
bằng được vua Quang Trung sang dự lễ Bát Tuần Khánh Thọ. Xem Đông Hoa Tục Lục (q. V), tr. 1572.
[11] Hậu bổ là người còn đang chờ bổ nhiệm, chưa có chức vụ chính thức.
[12] Thự là người tạm nắm quyền, chưa được bổ nhiệm, chúng ta ngày nay gọi là xử lý thường vụ.
Cả Thành Lâm lẫn Vương Phủ Đường đều chưa ai có quan chức, chỉ mới được dùng theo nhu cầu
thực tế tại địa phương nên cũng chưa có ngạch trật, chỉ tương đương ngũ lục phẩm, chưa đủ tư cách
làm khâm sứ thay mặt triều đình sang phong vương (thường là tam hay nhị phẩm được nâng lên
nhất phẩm cho trang trọng).
[13] Phần cuối có 380 câu đối treo nơi công quán khi đón sứ thần (đời Cảnh Thịnh khi triều đình
Càn Long cho người sang dụ tế và phong vương cho Nguyễn Quang Toản).
[14] Người viết có hai bản chụp, một từ VHN Hà Nội và một bản từ Viễn Đông Bác Cổ Paris. Bản tàng
trữ ở Paris có nhiều chi tiết và viết rõ ràng hơn.
[15] Thanh Sử Luận Tập, q. VI (2000) tr. 169-188
[16] Thanh Sử Luận Tập, q. XVI (2008) tr. 206-256
[17] “Fu Kangan and the Restoration of Suzerain Vassal Relationship Between the Qing Dynasty and
Vietnam in the Later Period of Qianlong Emperor” Tạp Chí Đại Học Tây Nam (Journal of Southwest
University), Vol. 36, No. 4 tháng July, 2010.
[18] Gần đây chúng tôi có nhận được một tập bản đồ nhan đề Tiền Lê Nam Việt Bản Đồ Mô

Bản (前黎南越版圖摹本) rõ ràng và đẹp hơn tập bản đồ Hồng Đức. Rất tiếc là tập bản đồ này thiếu

bản đồ Kinh Bắc. Xin chân thành cảm tạ GS Lê Văn Đặng đã có nhã ý gửi tặng.

CHƯƠNG I: TỪ CĂNG THẲNG ĐẾN HOÀ HOÃN

TRƯỚC KHI ĐÀM PHÁN

Khi Tôn Sĩ Nghị và một nhóm nhỏ tàn quân chạy về đến Nam Quan, viên tổng đốc Lưỡng Quảng lập
tức tâu lên vua Càn Long việc thất trận đồng thời xúc tiến hai công tác cấp bách nhất: 1/ kiểm điểm
quan binh chạy về và 2/ tái phối trí binh lính tại các cửa ải đề phòng việc quân Tây Sơn thừa thế
đánh qua. Một công việc cũng rất quan trọng đối với Thanh triều là tìm được vua Chiêu Thống ngõ
hầu không bị tiếng là bỏ rơi một thuộc quốc.

Trước hết, Tôn Sĩ Nghị sai Tôn Vĩnh Thanh điều thêm 300 quân cộng với số 2700 quân có sẵn để
chia ra đóng dọc theo biên giới, chủ yếu là ba cửa Trấn Nam (tức Nam Quan), Bình Di, Thuỷ Khẩu có
thông đạo qua nước ta.[1] Báo cáo sơ khởi có khoảng 3000 quân Thanh thoát chết,[2] một số theo
đường nhỏ được dân chúng chỉ lối chạy về.[3]

Khi nghe tin xấu từ Quảng Tây, vua Càn Long đặc biệt quan tâm đến số binh sĩ chạy thoát vì chính
ông cũng có lỗi khi bị tập kích bất ngờ. Ông lo rằng trong số quan binh bị bắt làm con tin – giống như
trường hợp Miến Điện trước đây – có một số tướng lãnh cao cấp sẽ bị dùng để đổi chác và sẽ trở
thành khó nghĩ nếu tin đó lọt ra ngoài. Nhiều chi tiết cho thấy sau này vua Càn Long tuy cảm thán về
việc “đề trấn đại viên” (viên chức lớn bao gồm đề đốc và tổng binh) hi sinh nhưng ông cũng mừng
thầm là không có một nhân vật quan trọng nào bị bắt sống và coi việc Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy là biết giữ
quốc thể nên không bị phạt mà còn được khen. Chính quan viên nhà Thanh cũng biết ý hoàng đế
nên vẽ vời để trận đánh thêm phần oanh liệt và thua trận là do những lý do ngoài dự liệu như Lê
Duy Kỳ bỏ chạy làm dân chúng náo loạn khiến địch thừa cơ đánh úp.[4]

Vua Càn Long lập tức ra lệnh cho tái tục việc đưa 3000 quân từ Quảng Đông sang [trước đây tính
tăng cường cho đại quân ở Thăng Long nhưng đã hoãn lại khi có lệnh triệt binh] để gia tăng canh
phòng biên giới. Cũng ngay những ngày đầu tiên, Lê Duy Kỳ [tức vua Chiêu Thống] và một số thân
quyến, bầy tôi chạy được đến Nam Quan.[5] Việc đàm phán hay hoà giải giữa nhà Thanh và Tây Sơn
chưa đặt ra vì còn nhiều vấn đề gấp rút hơn cần giải quyết.

Cứ như thông lệ, khi tướng lãnh thua trận thì vua Càn Long đều xử tội nặng. Nhiều người tự tử
không dám về triều và Tôn Sĩ Nghị cũng không yên tâm khi đã làm vua Thanh thất vọng. Trong
những lá thư gửi lên, họ Tôn đều nhận lỗi về phần mình và xin được trả lại các tước vị, khen thưởng
… để hoàng đế định đoạt.

…Thần chịu ơn nặng của hoàng thượng, uỷ thác việc lớn, nhưng không sớm làm cho xong. Lần này
cũng vì quân giặc đông gấp mấy lần bên mình, khiến cho các tướng đề trấn bị vây, chưa thoát ra
được. Lại nhân số quân thần đang cai quản, chỉ có vài trăm người, vượt ra khỏi trùng vi rồi, khí thế
khó có thể khơi lại được, nên không có thể quay lại cứu viện. Chỉ ngẩng xin hoàng thượng cách chức
và trị tội thần thật nặng mà thôi. Ðể chứng tỏ pháp độ và răn đe những kẻ sai sót. Còn như đề trấn
nếu chẳng may bị giết hại rồi, thần thề chẳng cùng bọn giặc kia cùng sống. Vậy xin hoàng thượng
tuyển đại thần có uy cao vọng trọng, đem quân chinh thảo. Thần nguyện lo việc chuẩn bị lương thảo,
khí giới đem đến quân tiền, đái công hiệu lực để chuộc lỗi trước.[6]

Tuy nói rất mạnh bạo, lại tự nguyện theo quân chinh phạt lần thứ hai nhưng ngay trong báo cáo đầu
tiên, Tôn Sĩ Nghị đã khôn khéo gợi ý về một biện pháp giảng hoà trong một lá thư mà ông ta nói là
đã gửi cho Nguyễn Huệ như sau:

… Hôm trước thần ở bờ phía bắc sông Phú Lương [tức sông Nhĩ Hà], thấy thế giặc ở bờ bên kia quá
dũng mãnh, mà các tướng đề trấn, chưa thấy về đến bờ sông, hay là đã thất bại rồi nên không triệt
hồi được. Vì thế mới tự tay viết một mảnh giấy, sai di nhân [tức người Việt] đem đến bên sông giao
lại cho đầu mục của giặc như sau:
“Lần này bản bộ đường phụng mệnh đại hoàng đế, thống lãnh binh sĩ xuất quan, nguyên chỉ có ý
khôi phục kinh đô, để phong vương cho Lê Duy Kỳ. Hiện nay Lê Duy Kỳ đã sợ giặc mà trốn mất rồi.
Người đó uỷ mị không có chí khí, không thể tiếp tục giúp đỡ nữa, nên đã triệt binh trở về quan ải.
Nếu như Nguyễn Huệ dám giết một quan binh nào chưa kịp xuất quan, thử nghĩ thiên triều có để
cho ngươi phạm tội lần nữa mà bỏ qua hay không? Ðại hoàng đế sẽ phái đại thần, thống lãnh vài
chục vạn quan binh, bốn đường tiến binh tiễu trừ, không diệt được ngươi thì không thôi. Còn như
ngươi Nguyễn Huệ đem quan binh đưa trở ra, rồi tự trần tình hối tội các duyên cớ, ấy là biết
lẽ thuận nghịch, may ra xin được khoan dung. Hoạ hay phúc cũng là do ngươi tự chọn
lấy. Việc đang lúc cấp bách, ta chỉ có mấy lời thôi.”[7]

Lá thư này nhiều phần Tôn Sĩ Nghị bịa đặt ra để tìm một lối thoát hiểm vì đoán được rằng vua Càn
Long sẽ chọn giải pháp giảng hòa hơn là tiếp tục một cuộc chiến mới. Nếu hai bên bãi chiến, trong
vai trò tổng đốc Lưỡng Quảng chắc chắn Tôn Sĩ Nghị sẽ có dịp đoái công chuộc tội. Còn như nếu tiến
hành một cuộc chinh phạt lần thứ hai, chắc chắn họ Tôn sẽ không còn vai trò gì nữa.

Cũng có thể khi về đến Quảng Tây, họ Tôn thấy một số dụ chỉ của vua Càn Long mà vì tình hình
chiến sự nên chưa kịp chuyển xuống Thăng Long trong đó hoàng đế nhà Thanh tỏ ra bi quan và liên
tiếp ra lệnh “triệt binh” (rút quân về) – kể cả đánh lừa vua tôi nhà Lê – chứng tỏ ông đã thấy những
khó khăn không thể vượt qua nếu duy trì cuộc chiến ở An Nam. Trong dụ chỉ gửi trong khoảng 27-
29 tháng Chạp, – tuy không thi hành kịp nhưng đã khiến cho Tôn Sĩ Nghị, Tôn Vĩnh
Thanh nhận ra tia sáng cuối đường hầm.

…Tôn Sĩ Nghị sau khi đã sắp xếp yên ổn cho Lê Duy Kỳ rồi hãy thừa thế cho quân tỉnh Điền[cánh
quân Vân Quí]rút về theo lối Việt Tây [Quảng Tây] rồi sau khi tiến khẩu lại theo đường Việt Tây về
tỉnh Điền nhưng đừng quá nhiều để những nơi như Tuyên Quang, Hưng Hoá thu phục rồi mà quân
đóng chơ vơ ở đó để có thể làm cho toàn cục đổ vỡ không hoàn thành.

Trẫm nghĩ họ Lê lập quốc đã lâu, khí vận suy dần gần đây nhiều phen loạn lạc mà Lê Duy Kỳlại là
người nhút nhát bất tài, chung quanh không có ai phò tá. Xem tình hình đó chắc là lòng trời đã chán
ghét họ Lê, nếu như có thể bắt được bọn Nguyễn Huệ đem ra chính pháp mà Lê Duy Kỳ không thể tự
mình chấn tác làm cho được việc, ví thử có một Nguyễn Huệ khác lại nổi lên làm loạn thì lẽ nào lại
làm phiền binh lực thiên triều thêm mấy lần?

Trẫm biện lý công việc đều thuận theo trời mà làm, nay trời đã ghét họ Lê mà trẫm lại muốn nâng
đỡ thì không phải là tôn kính lòng trời, là đạo phủ ngự thuộc quốc vậy. Việc tiến tiễu Quảng Nam lúc
này chưa thuận tiện để làm, vậy hãy tuân chỉ tức tốc quay về không nên ở lại nơi đó thêm nữa. [8]

Văn kiện này nếu tính theo thời gian chuyển thư thì cũng cho ta thấy khi còn ở Thăng Long, Tôn Sĩ
Nghị chưa hề nhận được lệnh triệt binh. Chính vì chưa nhận được chỉ thỉ về một đường lối dứt
khoát đã khiến cho quân Thanh lâm vào thế dằng dai, họ Tôn chưa dám tự mình chọn một quyết
sách cụ thể ngoài việc gửi thư ậm ọe đòi Nguyễn Huệ đến quân doanh đầu hàng và hẹn mồng 6 Tết
sẽ ra quân. Việc hẹn trước một thời điểm giao tranh kèm theo những hình thức thao diễn, phô
trương “mãi võ” mà nhiều người ngoại quốc ghi nhận[9] cho thấy Tôn Sĩ Nghị chỉ muốn mua thời
gian, đợi khi có chủ trương chính thức của triều đình sẽ thi hành. Vì thế tiến thoái lưỡng nan, Tôn Sĩ
Nghị cũng bác khước mọi kế hoạch tiến quân mà nhóm nhà Lê đề nghị đưa đến việc ép vua
Chiêu Thống thu hồi binh quyền của Lê Quýnh.[10]
Ngày 24 tháng Giêng năm Kỷ Dậu [Càn Long 54], nhận được tin bại trận, vua Càn Long lập tức
giáng chỉ điều động Phúc Khang An từ Mân-Triết (Phúc Kiến) sang làm tổng đốc Lưỡng Quảng thay
Tôn Sĩ Nghị. Tuy nhiên chính Thanh triều cũng e ngại nếu An Nam phản ứng giống như Miến Điện –
không chịu thần phục, giam cầm tù binh và tấn công biên giới – thì sẽ trở thành một vấn đề lớn. Vì
thế vua Thanh chưa thể đưa ra sách lược ngoài một hướng dẫn tổng quát:

Trước đây trẫm đã biết Lê Duy Kỳ là người hèn yếu không năng lực, không thể nào dấy lên được,
xem chừng trời đã ghét bỏ họ Lê rồi, không còn hộ trợ nữa. Lại thêm dân tình An Nam, phản phúc
không tin được, nên ta đã sớm giáng dụ chỉ, ra lệnh cho Tôn Sĩ Nghị tức tốc triệt binh. Nếu như khi
Tôn Sĩ Nghị nhận được chỉ đó, tuân lệnh kéo binh về ngay, thì lúc này quan binh đã qua khỏi quan ải
rồi.

Ðến nay Nguyễn Huệ dám quay lại quấy nhiễu, cũng vì Tôn Sĩ Nghị mong mỏi Nguyễn Huệ hối tội
xin đầu hàng, nếu được như thế thực là tốt đẹp. Lại thấy thời gian đã đến, nhằm lúc sắp đến mùa
xuân, xứ này nhiều mưa dầm chướng khí, dẫu muốn chuẩn bị để cử binh thì cũng không đúng lúc.
Huống chi việc điều động binh phu ở Quảng Ðông, Quảng Tây cũng đã đình chỉ rồi, nay lại lục tục gọi
ra, việc chậm [điều động dân phu] không thể giúp được chuyện gấp [cử binh sang đánh An Nam],
chẳng khỏi dân chúng nghe rồi thêm kinh hãi. Cho nên việc trước mắt là làm thế nào triệt hồi
được toàn bộ quân sĩ để giữ thể thống cho quốc gia ấy là quan trọng hơn cả.

Tôn Sĩ Nghị là người thống lãnh toàn bộ quân doanh dù gì chăng nữa cũng không thể mạo hiểm.
Viên tổng đốc đó vượt vòng vây để thoát ra là việc làm rất đúng. Kế đến là đề đốc Hứa Thế Hanh là
một viên chức cao cấp, cũng thật quan trọng, hiện nay chưa nghe tin tức gì, ta cũng lo lắng lắm. Hai
người [chỉ Tôn Sĩ Nghị và Phú Cương] hãy gia tâm thận trọng, suất lãnh quan binh, mau mau tiến
quan.

Hiện nay cứ như Tôn Sĩ Nghị và Tôn Vĩnh Thanh tâu lên thì Lê Duy Kỳ vào ngày mồng bảy tháng
Giêng đã vào trong quan, tạm đưa vào Nam Ninh ở rồi.

Trước nay việc hành quân không phải lúc nào cũng thuận lợi. Chẳng hạn như đánh ở phía tây Tân
Cương, hay việc đánh lưỡng Kim Xuyên. Cả hai đều có những thất bại rồi sau mới thành công. Lần
này Tôn Sĩ Nghị đem binh đi tiễu trừ giặc ở An Nam, thành công quá dễ. Ðến nay có những khó khăn,
mới hay không phải Nguyễn Huệ tự thu lấy diệt vong. Lúc này chỉ cần Tôn Sĩ Nghị, Hứa Thế
Hanh đưa được đại binh hoàn toàn trở về được, không tổn hại đến quốc thể là đủ. Tương lai có làm
hay không làm, nắm hay buông cũng là ở ta, lúc đó tính toán rồi hãy định đoạt.

Còn như Tôn Sĩ Nghị tâu xin cách chức trị tội thì việc này xảy ra ngoài ý muốn, không phải vì tổng
đốc kia liều lĩnh làm càn, sao lại đưa ra câu nói như thế. Tổng đốc kia hãy trấn tĩnh hơn nữa để mà
trông coi công việc triệt binh, đừng để tâm mang ý loạn. Ðó là chuyện quan trọng hơn cả.

Còn Nguyễn Huệ chắc không dám đụng tới biên cảnh của thiên triều đâu. Thế nhưng một dải quan
ải, phải nên bố trí binh lực để phô trương thanh thế hầu tiếp ứng lẫn nhau. Hiện tại theo như Tôn
Vĩnh Thanh tâu lên thì đã điều binh hơn một nghìn đến rồi, hợp với số binh phòng giữ từ trước, tổng
cộng là ba nghìn người, có thể thêm bớt. Vậy truyền lệnh cho Tôn Vĩnh Thanh, ước lượng lại một lần
nữa, nếu như lại phải điều động binh đinh thì cũng không nên loan truyền rộng rãi, chỉ nên ở các
doanh phụ cận, một mặt tuyển mộ đồng thời tâu lên cho ta biết.

Còn như quan binh Việt Tây [Quảng Tây] vốn đã triệt hồi rồi thì lộ Vân Nam chắc cũng do đường
Tuyên Quang, biên giới mau mau rút về. Quân bên Ðiền tỉnh [tức Vân Quí] tương đối đông, nếu như
quân của Phú Cương, Ô Ðại Kinh đang chỉ huy, không thể điều dụng được thì hãy bố trí dọc theo
biên giới, để cho thanh thế thêm mạnh mẽ.[11]

Chúng ta thấy vua Càn Long không còn ý định đưa Lê Duy Kỳ trở lại Thăng Long và đã ít nhiều mở
một con đường công nhận Nguyễn Huệ nếu phía An Nam khẩn khoản yêu cầu. Nội dung cũng cho
thấy chính Tôn Sĩ Nghịxin chịu tội nhưng vua Càn Long miễn cưỡng thi hành chứ không phải đùng
đùng nổi giận sai Phúc Khang Anđiều động binh mã chín tỉnh sang kinh lý việc An Nam như tiếng
đồn.

Việc Phúc Khang An sang thay đặt Tôn Sĩ Nghị vào một hoàn cảnh khó xử. Nếu họ Tôn hoàn toàn thụ
động chấp hành lệnh của triều đình chờ Phúc Khang An đến bàn giao xong sẽ lên đường về kinh thì
hoạn lộ của ông ta coi như chấm dứt. Việc tranh thủ thời gian ngắn ngủi khi họ Phúc chưa sang để
sớm đạt được một vài thành tựu sẽ gỡ cho Tôn Sĩ Nghị một nước cờ tàn, đưa tới việc bí mật sai
Thang Hùng Nghiệp liên lạc với phía Tây Sơn. Cứ theo tài liệu nước ta, Thang Hùng Nghiệp đã ngầm
gửi cho triều đình Tây Sơn một văn thư còn ghi trong Tây Sơn Bang Giao Lục được Hoa Bằng dịch ra
như sau:

… Xét ra họ Lê bên An-nam thần phục Thiên triều đã lâu, một sớm bị họ Nguyễn Tây sơn nhà ngươi
chiếm đoạt mất đô thành, nên Hoàng đế (chỉ vua Thanh) phải sai tướng đem binh ra khỏi cửa ải,
khôi phục đất nước cho họ Lê và cứ cho vẫn được nối chức chịu phong như trước. Chẳng dè Lê Duy
Kỳ đơn kém, vô tài, không thể dấy-nhức làm được trò trống gì cả, cứ dắt mẹ chạy trốn hoài, đến nỗi
làm cho nhà Lê không ngóc lên được! Từ đấy về sau, Thiên triều quyết không thể đem nước An-nam
mà giao cho Lê Duy Kỳ nữa!

Họ Nguyễn Tây-sơn nhà ngươi nên nhân trước khi có chỉ dụ, mau mau làm biểu sang đây, gõ cửa
kêu với Đại Hoàng-đế (vua Thanh) rằng Lê-Duy-Kỳ không được dân vọng, nhân dân bơ vơ tan đi
bốn ngã; bất đắc dĩ, tôi phải đem binh ra thay nhà Lê mà vỗ về dân chúng. Nào ngờ dọc đường, thình
lình gặp phải quân nhà vua, đụng ai họ giết nấy. Tình thế dữ-dội. Nếu chúng tôi bó tay chịu trói, thì
thể nào cũng đến bị giết hết sạch.

Vì vậy, đám di binh, di mục theo tôi phải hết sức chống cự lại. Chúng tôi tự biết thế là có tội nặng
lắm. Hiện nay tôi đã tra xét hai người chống cự thiên binh (quân Thanh) ấy, đem ra trị tội cho chính
pháp cả rồi.

Rồi nên nhờ người tâu xin với Đại Hoàng đế (vua Thanh) cúi thương mọi rợ (!) không biết gì, uốn
theo lời xin mà tha thứ. Nên chăng cứ để Lê Duy-Cận đứng giám quốc; kính xin nhà vua ban
chiếu chỉ phán bảo cho.

Đặt lời cung thuận như vậy, chắc được Đại Hoàng đế soi xét lòng thành, sẽ cho nhà ngươi chủ trì
việc nước. Bấy giờ sẽ có thể lại sai người sang kêu cầu Thiên triều ban cho ân điển (chỉ việc cầu
phong).

Bản đạo (Thang Hùng Nghiệp tự xưng) nhân vì giữ chức ở biên giới, tương lai có rất nhiều việc giao
thiệp với An-nam nhà ngươi (!), nên phải viết thư kín này mà ngỏ cho biết.
Thuận theo thì được phúc, trái nghịch thì phải vạ tuỳ nhà ngươi tự chủ đấy…[12]
LẬP TRƯỜNG CỦA 2 BÊN

LẬP TRƯỜNG CỦA ĐẠI VIỆT

Nước ta vốn dĩ luôn luôn bị nước lớn chèn ép, tuy thắng một trận lớn ở Thăng Long nhưng đuổi
được Tôn Sĩ Nghị về Quảng Tây chưa phải là thành quả sau cùng để có thể nói chuyện đàm phán.
Việc nhà Thanh đem một lực lượng lớn hơn sang phục thù là điều rất có thể xảy ra theo cả kinh
nghiệm xung đột với Trung Hoa trong quá khứ, hay tính riêng những chiến dịch khác đời Càn Long.

Một kế hoạch phòng thủ và ngăn chặn địch được xúc tiến ngay và giới truyền giáo Tây phương đã
ghi nhận miền Bắc huy động dân chúng ngày đêm đắp thành lũy để chống giặc. Vua Quang Trung
cũng chuẩn bị một con đường huyết mạch từ Lạng Sơn xuống Thăng Long rồi từ Thăng Long xuống
Nghệ An để chia ra các đường thượng đạo, đường biển khi cần rút về Phú Xuân. Ngoài ra, lực lượng
thủy quân cũng bố trí đối phó với quân Thanh một khi họ từ đại dương đánh vào.

Trong khi đó, thành phần cựu thần còn trung thành với hai họ Lê – Trịnh cũng tìm cách chiêu tập
lực lượng đợi tham gia chiến đấu trong trường hợp quân Thanh sang đánh lần thứ hai. Chúng ta
thấy có một số tâm điểm ở Kinh Bắc (nơi hoàng phi Nguyễn Thị Kim nương náu), ở Thanh Hóa (là
đất tổ có con cháu nhà Lê sinh sống lâu đời), các khu vực thượng du vùng Thái Nguyên, Cao Bằng
(có hoàng đệ Lê Duy Chỉ và một số thổ mục trấn giữ) …Ngoài ra cũng có những địa điểm của những
người còn trung thành với họ Trịnh tiếp tục hoạt động ở ven sông và dọc theo duyên hải.

Nói tóm lại, trong những ngày đầu tiên, việc đối phó với nhà Thanh chưa nghiêng về việc cầu hòa
mà là chuẩn bị chiến tranh. Những phái đoàn được đưa lên tiếp xúc với quan lại Quảng Tây nhằm
mua thời gian, tương tự như các triều đại trước khi ngăn chặn quân Nguyên, quân Minh. Ngoài việc
biện bạch rằng chiến tranh không do chủ ý của nước ta, Ngô Thì Nhậm đã nêu lên hai điểm để thăm
dò nhưng cũng là đầu mối nếu đối phương muốn thương lượng:

– Ta bắt được khoảng 800 tù binh,

– Sẵn sàng nghênh chiến nếu không có chọn lựa khác.

Với tin tức hạn chế, có lẽ triều đình Tây Sơn cũng chưa biết rằng vua Lê và một số cận thần đã chạy
được sang Quảng Tây nên trong thư gửi sang Trung Hoa vẫn nhắc tới việc trước đây họ đã đưa Lê
Duy Cẩn lên “giám quốc” thay vua Chiêu Thống nhằm để ngỏ một giải pháp sau cùng là nếu Trung
Hoa khăng khăng đòi tái lập nhà Lê thì có thể quay trở về công nhận cả vua lẫn chúa [phó
quốc vương] như thời trước rồi sau đó sẽ đi theo cách thức Lê Lợi đối xử với Trần Cảo [khi đó trên
danh nghĩa là quốc vương] để xin công nhận một họ mới.
Những lá thư thăm dò ấy đã được quan lại ở Quảng Tây tìm hiểu và qua một số trao đổi riêng, họ
biết rằng nước ta sẵn sàng đáp ứng những đòi hỏi sơ khởi để tiến hành những bước kế tiếp.

LẬP TRƯỜNG CỦA NHÀ THANH

Về phía nhà Thanh, việc đem quân sang nước ta nguyên thuỷ chỉ là một món quà của Tôn Sĩ Nghị cốt
để vua Càn Long sớm hoàn thành cái mộng “Thập Toàn”. Ngay từ đầu, chiến dịch sang đánh An Nam
không nằm trong một cơ nghi chiến lược vì triều đình Tây Sơn không phải là một đe dọa cho Trung
Hoa mà chỉ là tranh giành quyền lực nội bộ nên sự can thiệp của nhà Thanh mang tính trang sức
hơn là thực sự muốn lấy lại nước cho vua Lê.

1. Vua Càn Long muốn có thêm một chiến công tô điểm – hollow victory – cho sự nghiệp của mình
nên dựa vào một duyên cớ rất mơ hồ là vì nhà Lê thần phục đã hơn 100 năm nên khi bị cường
quyền thoán đoạt không thể không can thiệp. Tuy nhiên, ngoài một chiến công mới làm nổi bật ngày
lễ khánh thọ bát tuần năm Canh Tuất, vua Càn Long cũng ngầm mơ ước có một phiên vương đích
thân sang Bắc Kinh chúc hỗ, một công tác mà vua Chiêu Thống sẽ hăng hái tự nguyện làm.

2. Tôn Sĩ Nghị muốn có một chiến công để lên cao trong hoạn lộ. Nhà Thanh vốn trọng võ công nên
những ai có thành quả quân sự đều được đặc biệt cất nhắc, điển hình là cha con Phó Hằng, Phúc
Khang An sau những dịp cầm quân đều trở thành danh thần. Trước đây cái danh dự cầm quân đều
giao cho đại thần người Mãn, việc một tổng đốc người Hán tạo thành tích sẽ là một việc xưa nay
chưa từng có trong các chiến dịch đời Càn Long.

Sự tương đồng về yêu thích hư danh của vua Càn Long và Tôn Sĩ Nghị đưa tới sự thổi phồng quá
đáng những chiến thắng nhỏ trên đường tiến xuống Thăng Long. Vua Càn Long đặc cách thăng
thưởng cho Tôn Sĩ Nghị lên nhất đẳng công, Hứa Thế Hanh lên nhất đẳng tử cũng chính là tự khen
mình vì ông tin rằng cấp dưới chỉ thực hiện những cơ mưu chỉ đạo từ Bắc Kinh đưa xuống.

Khi Tôn Sĩ Nghị bị đánh bại, vua Càn Long thấy ngay rằng việc lún sâu vào phương Nam có thể đưa
đến một cuộc chiến sa lầy, tương tự như chiến dịch đánh Miến Điện, hao binh tổn tướng, phí phạm
tiền bạc, lương thực mà kết quả chưa lấy gì làm sáng sủa. Mục tiêu chính lúc này không phải là phục
thù mà làm sao khai thác chiến bại để lật ngược thành “chiến thắng mà không cần dụng binh”.

Trong tình hình đó, một mặt nhà Thanh phao tin sẽ đưa Phúc Khang An – con trai danh tướng Phó
Hằng – đem quân sang kinh lý việc An Nam [đồng thời phô trương lực lượng dọc theo biên giới],
mặt khác tìm cách lái vua Quang Trung đi cùng với con đường mà vua Chiêu Thống đã chọn.

Bề ngoài thì phô trương thanh thế nhưng bề trong vua Càn Long gửi mật chỉ cho Phúc Khang An bảo
“đừng làm lớn chuyện”. Có lẽ cũng đoán biết tâm lý vua Càn Long nên khi nghe tin Tôn Sĩ Nghị bại
trận, Phúc Khang An đã tâu lên xin được sang làm tổng đốc Lưỡng Quảng để giải quyết công việc với
tiêu chí “dưỡng quân uy, tồn quốc thể” – hay nói khác đi làm sao cho binh sĩ không mất tinh thần
đồng thời sẽ ngụy trang việc bại trận càng nhiều càng tốt – một công tác mà ông ta biết sẽ có thể
thành công

Hình 1: Tấu thư của Phúc Khang An ngày mồng 10 tháng Hai năm Kỷ Dậu về việc An Nam có
châu phê của vua Càn Long
Hình 2: Tấu thư của Tôn Sĩ Nghị ngày 28 tháng Hai năm Kỷ Dậu
(có một khúc bị bôi xóa)[14]

[1] Phương Lược Quán (方略館). Khâm Ðịnh An Nam Kỷ Lược [viết tắt KDANKL] (欽定安南紀略)
(Hải Khẩu: Hải Nam xbx, 2000). q. XIII, tr. 8 Tấu thư của Tôn Vĩnh Thanh.
[2] KDANKL, q. XIII, tr. 16 Tấu thư của Tôn Vĩnh Thanh.

[3] … Từ sau ngày mồng 5 tháng Giêng các đường lớn đều có binh lính tặc phỉ [quân Tây Sơn] nên
họ phải đi theo đường núi và được những người dân tỉnh Việt sống ở An Nam [đây là người Thổ,
Nùng sống ở biên giới biết nói tiếng Hoa] giữ lại thôn trang và chỉ đường đi. Lại nghe nói nơi nào
cũng có giặc đóng, riêng ở Lạng Sơn thì khá đông … “Tấu thư của tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị
và tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh” gửi ngày 23 tháng Giêng, Cung Trung Đáng Càn Long Triều
Tấu Triệp, q, 71 [tháng Giêng đến tháng Năm năm Càn Long 54] (1988) tr. 85.

[4] Lý Xuân Quang trong Thanh Ðại Danh Nhân Dật Sự Tập Lãm (清代名人軼事輯覽) 2004, tập II từ
trang 930 đến 931 có chép như sau:
Hứa Thế Hanh ra sức can ngăn Tôn Sĩ Nghị
Hứa Tráng Liệt tên là Thế Hanh, người Thành Ðô, tổ tiên người Hồi. Ông xuất thân binh nghiệp, khi
đánh Kim Xuyên lập công lên đến Chuyên Khổn. A Văn Thành có ý coi trọng, ông nói:

– Kẻ võ thần hiểu được đại nghĩa chỉ duy một mình Hứa mỗ mà thôi.
Sau lên làm đề đốc Quảng Tây. Ðến khi quốc vương nước An Nam là Lê Duy Kỳ bị chúa đất Thanh
Hoá là Nguyễn Quang Bình đánh đuổi, gõ cửa quan cầu viện, khi đó Tôn Văn Tĩnh Sĩ Nghị là tổng đốc
đất Quảng, tự cho là mình có tài cầm quân nên chủ ý dụng binh. Ông nói:

– Ðem quân đánh bọn Man Di, bậc vương giả cũng không trị nổi. Một khi binh liên hoạ kết, không
biết đến bao giờ mới dứt được.

Tôn không nghe lời ấy, đem quân hai tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây chinh phạt. Nguyễn Quang Bình
lúc đầu bất ngờ thấy vương sư đến, binh ít nên quay về Thanh Hoá điều thêm quân. Tôn công vì thế
nên thắng lớn. Vào được Lê thành liền chiếm lấy cung vua, chỉ lo uống rượu làm thơ chẳng coi quân
địch vào đâu. Ông can rằng:

– Quân ta thâm nhập trọng địa, cũng nên thận trọng. Huống chi Quang Bình chưa đánh đã rút lui, e
có điều không ngờ được, chi bằng nhân lúc địch chưa ra, đem quân trở về, ấy là thượng kế.
Tôn đáp:

– Cái tính toán của kẻ sĩ, ngươi sao mà biết được.

Ðến khi Quang Bình kéo binh trở lại, Duy Kỳ nhanh chân bỏ nước chạy trước, thế giặc dũng mãnh,
Tôn Sĩ Nghị hoảng hốt lập cập, đã toan chịu chết. Ông (Hứa Thế Hanh) ghìm ngựa họ Tôn lại can
rằng:

– Ngài là đại thần, nếu như bị thương tổn, e quan hệ đến quốc thể. Thế Hanh này là một kẻ võ phu,
may được bề trên tri ngộ, lên đến chỗ cầm cờ mao, đem thân tuẫn quốc cũng phải rồi.

Ông ra lệnh cho chư tướng bảo vệ Tôn Sĩ Nghị trở về quan ải, một mình đem mấy trăm quân ra
đánh, bị địch giết chết. Quang Bình đem quân đuổi theo Văn Tĩnh đến sông Phú Lương, sắp bắt kịp
nguyên soái bên ta, tổng binh Thượng Duy Thăng là hậu duệ của Bình Nam Vương, tuổi trẻ hăng hái,
đem binh ra chống cự. Ðánh đến khi trời sáng, Thượng đâm chết được mấy chục người, máu nhuộm
đỏ cả áo giáp. Về sau viện binh không tới kịp bèn rút kiếm ra than rằng:

– Trượng phu được chết (ở sa trường), ấy là thoả chí rồi. Thế nhưng không chết về tay đại địch mà
chết ở trong tay đứa tầm thường, không khỏi uổng cái dũng của ta, chi bằng để khỏi nhục cho tiên
thế vậy.

Nói xong cứa cổ tự tử. Tôn Sĩ Nghị liền chặt cầu, chật vật lắm mới đem được tàn quân chạy về đến
cửa quan, tổng binh Trương Triều Long, Lý Hoá Long trước sau cũng bị giết, bao nhiêu lương thực,
khí giới đều bị địch lấy hết.

Khi nghe chuyện đó, Thuần Hoàng Ðế (tức vua Càn Long) cho là ông biết đại thể, hết sức thương
tiếc, phong tước Tráng Liệt Bá, đem vào thờ ở Chiêu Trung Từ. Con ông là Quân Môn Công Văn Mô
được tước thị vệ, làm đến đề đốc Phúc Kiến, trong chiến dịch Xuyên, Sở cũng rất dũng cảm quả là
thế gia. (trích trong Khiếu Ðình Tục Lục-嘯亭續錄, q. 2)

[5] KDANKL, q. XIII, tr. 9 Tấu thư của Tôn Vĩnh Thanh (bản dịch NDC)
[6] KDANKL, q. XIII, tr. 1. Tấu thư của Tôn Sĩ Nghị nhận ngày 25 tháng Giêng. (bản dịch NDC)
[7] KDANKL, q. XIII, tr. 1. Tấu thư của Tôn Sĩ Nghị nhận ngày 25 tháng Giêng. (bản dịch NDC)
[8] “Tấu thư của tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị và tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh” gửi
ngày 15 tháng Giêng, Cung Trung Đáng Càn Long Triều Tấu Triệp, q, 71 [tháng Giêng đến tháng Năm
năm Càn Long 54] (1988) tr. 1-2.
[9] Ðặng Phương Nghi, “Vài Tài Liệu Mới Lạ…”. TSSĐ 9-10 (1968) tr. 221

[10] Hầu hết các sử gia Trung Hoa đều tin rằng Tôn Sĩ Nghị đã không tuân lệnh vua Càn Long rút
quân vể nên bị đánh bất ngờ ở Thăng Long. Điểm lại các tài liệu của nhà Thanh, chúng ta thấy những
lệnh gần nhất trước khi bại trận có đề cập đến việc chấm dứt chiến dịch là chỉ dụ của vua Càn Long –
tuy không triệt để ra lệnh rút về –ngày 19, 20, 22, 23, 27, 28 tháng Chạp năm Mậu Thân và ngày
mồng 4, 12, 16, 19 tháng Giêng năm Kỷ Dậu [xem thêm Chu Viễn Liêm: Càn Long Hoàng Đế Đại
Truyện tái bản lần 7 (Hà Nam ndxbx, 1996) tr. 588-9]. Tính theo đường trạm chuyển tin quân sự
theo lối nhanh nhất 600 dặm một ngày thì từ Bắc Kinh xuống Quảng Tây khoảng 15 ngày, từ
Quảng Tây xuống Thăng Long khoảng 5 ngày nữa nên tin tức qua lại mỗi lần đi về chừng hơn 20
ngày. Lệnh triệt binh không phải là lệnh tối khẩn cấp nên chắc phải lâu hơn, trong khoảng 20 – 30
ngày. Xem như thế, trước ngày Tết Nguyên Đán, Tôn Sĩ Nghị hoàn toàn chưa biết gì về lệnh triệt
binh nên định chờ đến sau Tết sẽ quyết định tiến hay thoái theo lệnh vua Càn Long. Lệnh triệt binh
ngày 19 tháng Chạp Tôn Sĩ Nghị chỉ biết sau khi chạy về Quảng Tây và tin bại trận gửi ngày 11
[khi Tôn Sĩ Nghị chạy về đến Nam Quan] đến vua Càn Long vào ngày 24 tháng Giêng. Tuy nhiên dù
không có lỗi nhưng vẫn nhận tội về mình là cách thức khôn khéo của quan nhà Thanh để bảo
tồn thể diện cho hoàng đế.

[11] KDANKL, q. XIII, tr. 10-11


[12] Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn-Huệ anh hùng dân tộc 1788-1792 (tái bản lần 2) (Saigon: Hoa
Tiên, 1950) tr. 187-8. Maurice Durand cũng có một bản dịch sang tiếng Pháp lá thư này: […] vous
rédigiez à la hâte un placet et l’envoyiez à la Porte impériale pour démander avec respect que Sa
Majesté auguste considère que le peuple ne souhaite pas le retour de Lê Duy Kỳ, que ses sujets se
sont enfuis de tous côtés dans une grande confusion, que vous ne pouviez pas ne pas conduire vos
troupes et entrer dans le royaume pour, a sa place, faire régner l’ordre; que par hasard vous avez
soudain rencontré sur votre route l’armée impérial qui attaquait et massacrait les gens, et qui se
conduisait avec une grande férocité; que si vous étiez, restés les bras croisés, certainement vous
auriez tous été exterminés […][…] ngài hãy mau mau đem đến cửa quan một biểu văn thỉnh cầu đại
hoàng đế xem xét cho rằng dân chúng nước tôi không mong việc Lê Duy Kỳ trở lại, còn những người
đi theo thì đã chạy tán loạn khắp nơi, và tuy không muốn đem quân vào nước này nhưng vì muốn tái
lập an ninh trên đường đi bất ngờ gặp quan binh thiên triều tấn công chém giết thuộc hạ vô cùng
tàn khốc, nếu thúc thủ để yên thì thể nào cũng bị tận sát… Histoire des Tây Sơn (Paris: les Indes
savantes, 2006) tr. 179-80

[13] Ba tấm hình Phúc Khang An, Tôn Sĩ Nghị và Hứa Thế Hanh trích từ một cuộn tranh vẽ 20 tướng
lãnh nhà Thanh với ngự bút của vua Càn Long (đã được bán đấu giá USD 4,356,250.00 tại Đài Loan
ngày 30 tháng 4 năm 2014)

[14] Đây không phải là bản chính mà là tàng bản (bản sao) của Quân Cơ Xứ, hiện tàng trữ tại Cố
Cung Bác Vật Viện Bắc Kinh, Văn Hiến Xứ.

Đàm phán sơ khởi

Tuy không đưa ra một nghị trình rõ rệt, nhưng hai bên đều có những mục tiêu cụ thể để hướng tới
và nhượng bộ dần cho đến khi có những điểm chung. Về phần nhà Thanh, các quan ở địa phương đã
nhìn thấy hai chủ đề chính:

– Giải quyết hậu quả chiến tranh mà ưu tiên là trả về số tù binh bị bắt,

– Yêu cầu vua Quang Trung đích thân tham dự lễ khánh thọ của vua Càn Long.

Một cách tổng quát, Tôn Sĩ Nghị trong những ngày sau cùng còn ở Quảng Tây đã hết sức cố gắng để
đạt cho bằng được mục tiêu thứ nhất [để chạy tội] nên khi Phúc Khang An sang làm tổng đốc Lưỡng
Quảng thì chỉ tập trung vào hoàn thành mục tiêu thứ hai [để lập công]. Khi phân biệt hai đòi hỏi cơ
bản đó, chúng ta có thể dễ dàng theo dõi được từng bước đi của cả hai bên.

TÔN SĨ NGHỊ

Ngày 22 tháng Giêng năm Kỷ Dậu [Càn Long 54], triều đình Tây Sơn sai Ngô Thì Nhậm mang một tờ
biểu xin “đầu thành” [投誠] đến Lạng Sơn nhờ thông sự đưa qua Nam Quan. Ngay hôm đó, tổng đốc
Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị và tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh gửi tấu thư về triều có đoạn như
sau:

… Ngày 22 tháng Giêng có tặc mục [quan nước ta] Lạng Sơn sai thông sự [người nói được cả hai thứ
tiếng Hoa – Việt] mang lên một biểu văn nói là hiện thời Nguyễn Huệ đã sai mấy di mục đem thư lên
Lạng Sơn tình nguyện đầu thành nạp khoản nhưng sợ thiên triều không thuận nên ra lệnh cho thông
sự đem đến Nam Quan. Y cũng khai rằng hiện nay còn vài trăm quan binh ở bên đó đều được nuôi
dưỡng tử tế sau này sẽ đem trả về, giọng lưỡi thật đáng ghét, còn những ai không trong số đó thì
không biết ra sao.

Thần sợ rằng nếu mở biểu văn ra xem e rằng tặc nhân ngờ rằng nội địa đang mưu tính việc tương
tựu [nhân theo đó mà tiếp tục] để cho xong việc nên ra lệnh cho văn võ quan viên giữ cửa trách
mắng rằng nếu như còn các quan binh đang ở Lê thành thì Nguyễn Huệ ngươi hãy lập tức đưa về nội
địa cho mau rồi trần tình tạ tội duyên do nếu không đốc phủ đại thần không thể bắng lòng chuyển
tấu được. Nay ngươi chưa đem quan binh đem trả về mà đệ biểu xưng phiên thì rõ ràng ngươi
Nguyễn Huệ muốn mượn việc này để dọ ý.

Sau đó đem biểu văn vứt trả rồi bỏ đi. Bọn thần cũng muốn trách mắng nghiêm lệ hơn nữa nhưng vì
các nơi quan ải quan binh điều động tới chưa được mười phần hùng hậu nên chỉ đem việc quan binh
chưa đưa trả mà thôi, đợi khi nào các nơi phòng thủ kéo đến đủ thì khi giặc quay lại khẩn cầu sẽ
trách mắng nhiều hơn nữa …[1]

Việc nước ta mở lời cầu hòa do chính vua Quang Trung và các quan chủ động hay do Thang Hùng
Nghiệp bí mật liên lạc mớm ý thực ra chưa rõ ràng vì thời gian giữa lúc Tôn Sĩ Nghị về đến Quảng
Tây (11 tháng Giêng) đến khi sứ bộ nước Nam gõ cửa (22 tháng Giêng) chỉ cách nhau hơn 10 ngày.

Trong thời gian ngắn ngủi đó, tuy vua Quang Trung bận rộn với việc giải quyết hậu quả cuộc chiến
(tổng kết thiệt hại, thu dọn chiến trường, kiểm điểm chiến lợi phẩm, phát phối tù hàng binh, chiêu
an dân chúng …) nhưng cũng gấp rút ra lệnh cho tìm kiếm giới sĩ phu và quan lại Bắc Hà mời họ ra
cộng tác (qua sự giới thiệu của một số văn quan cũ như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích …) và giao cho
họ việc từ lệnh bang giao trong những ngày sắp tới.

Lịch Triều Tạp Kỷ, quyển VI chép:

Các tiến sĩ triều Lê là Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch cùng các quan văn cống sĩ như
bọn Vũ Huy Tấn, Đoàn Nguyễn Tuấn, Đào Xuân Lãng lần lượt về hàng. Nguyễn Quang Bình đều cho
họ quan chức để họ tham gia vào việc từ lệnh bang giao …[2]

Theo lời tựa trong Hoa Nguyên Tuỳ Bộ Tập của Vũ Huy Tấn thì:
… Đầu mùa xuân năm Kỷ Dậu, ta đang náu mình ở quê nhà bỗng nghe có lệnh gọi những người đang
ở hương ấp phải theo chiếu thư ra trình diện gấp. Ngày 24 tháng đó [Giêng] ta đến kinh đô vào triều
kiến mới biết thượng quốc có thư gửi đến nên được đưa vào làm hầu mệnh [người chờ ở cửa quan
để theo dõi công việc.

Ta cố gắng từ chối nhưng không thuận, ngay hôm đó phải lên đường, ngày mồng 2 tháng Hai thì đến
Lạng Sơn cùng với quan trấn giữ biên thuỳ qua lại thù ứng [với nước Thanh]. Ta phải ở lại đây đến
mấy tháng trời cho đến khi có dụ của thượng quốc cho lên kinh triều cận. Ta được uỷ nhiệm trong
phái đoàn đi sứ, cố từ chối mà không được … [3]

MẬT NGHỊ
Theo tài liệu nhà Thanh thì chỉ trong vòng một tháng, nước ta ba lần gửi thư sang giảng hoà.[4] Việc
gọi là ba lần “xin hàng” này trên thực tế chỉ là những lá thư gửi Thang Hùng Nghiệp – chủ yếu là đề
nghị về một biện pháp thương thảo mà hai bên có thể đồng thuận.
Mật Nghị Lần Thứ Nhất

Tính theo thời gian, trong khoảng nửa tháng sau trận đánh ở Thăng Long, cả hai bên – nước ta lẫn
Trung Hoa –chưa bên nào tổng kết được những kết quả cụ thể để dùng làm cơ sở đàm phán.

Về phía nước ta, có lẽ cũng chỉ nghe phong thanh là nhà Thanh sẽ đem quân báo thù và lực lượng
được điều động rất lớn. Cựu thần nhà Lê phần lớn chạy về quê nên tin tức đến tai họ càng ít ỏi [có lẽ
chỉ là tin đồn] và hầu như không ai biết vua Chiêu Thống và thân quyến đang ở đâu, còn sống hay đã
chết?

Triều đình Tây Sơn tuy chuẩn bị đối phó với quân địch sang phục thù, vua Quang Trung vẫn nhanh
chóng tìm kiếm các danh nho miền Bắc điều động vào thành phần có thể lấy bút mực thay gươm
giáo, đưa ra những kế hoạch giảng hoà với nhà Thanh.

Không biết rằng nhà Thanh loan truyền Tôn Sĩ Nghị bị triệu về kinh chịu tội nhưng thực ra vẫn đang
ở Quảng Tây, Ngô Thì Nhậm viết thư cho Thang Hùng Nghiệp biện bạch nguyên do việc can qua, đổ
hết tội cho viên cựu tổng đốc nghe một bên để đem quân xuống phương Nam. Lá thư đầu tiên [theo
sử nhà Thanh thì vào ngày 22 tháng Giêng][5] của nước ta trong BGHT như sau:

Bộc[6] vốn là người áo vải đất Quảng Nam, sinh trưởng ở nơi hoang vắng từ lâu vẫn ngưỡng mộ
thanh giáo đất Trung Hoa nhằm thời nhiều việc khó khăn nên phải theo đường chinh phạt. Mùa hạ
năm Bính Ngọ, có việc phải đến Lê thành nhưng sau đó đã trở về phương nam. Mùa xuân năm Mậu
Thân, vì trong nước không yên nên phải sửa giáp quay lại. Cũng trong năm đó, bộc đã từng sai bầy
tôi đến cửa quan, đem hết mọi tình hình trong nước tâu lên rõ ràng, mong được đại hoàng đế phân
xử. Thế nhưng tổng đốc Tôn Sĩ Nghị vứt thư khước sứ lấp liếm chẳng thèm tâu lên, điều động đại
binh không có lý do, càn rỡ gây chuyện nơi biên giới.

Ngày mồng 5 tháng Giêng năm nay, bộc gửi thư đến mong được gặp Tôn Sĩ Nghị để hỏi xem vì cớ gì
mà lại dụng binh, có thực được đại hoàng đế sai khiến hay không? Thế nhưng Tôn Sĩ Nghị lại đưa
quân đến đánh nên bị những người theo bộc đánh bại chết đè lên nhau, không biết bao nhiêu mà kể,
còn kẻ bị bắt cũng đến hơn một nghìn người. Có điều tiếng nói không hiểu nhau nên chẳng biết ai
với ai, người nào chỉ huy người nào binh lính, bộc đã cấp cho lương ăn và chia ra nơi ở nhiều chỗ.

Bộc xưa nay chưa từng xâm cương phạm cảnh để mà đắc tội với thượng quốc, thế nhưng Sĩ Nghị đã
đem cái lòng chân tình cung thuận của tôi ném đi hết cả, lại gửi thư vào trong biên giới có ý gây
chuyện, nhân đó khởi binh, đối xử với sinh linh hết sức tàn độc.
Bộc ở nơi góc biển xa xôi bị Sĩ Nghị áp bức nên ở vào thế cùng, đành gượng giơ cái càng bọ ngựa
chống lại cỗ xe. Nay nhận được lời dụ của tôn đài nên mắt lòng thông tỏ, tôn đài quả là bầy tôi lương
đống trụ thạch của đại hoàng đế nên đã có thể tuyên dương đức ý mà lo liệu việc biên cương, lòng
thành như thế thật là làm rõ sự tận tâm so với Sĩ Nghị kia thì cái tội coi thường phép nước thật hơn
xa.

Nay được thịnh tình của ngài soi xuống nên kính cẩn đệ lên tờ biểu trần tình mong được hết lòng
mà chuyển lên để cầu xin ân điển của đại hoàng đế xin được giữ phận phên dậu theo lệ cống mà
binh lính khỏi bị cái khổ của việc binh đao, ấy là đại nguyện vọng của bộc này vậy.
Phàm việc ra quân cốt ở chỗ hòa, không phải ở số đông, binh quí tinh nhuệ chứ chẳng cần nhiều,
người giỏi trận mạc thắng ở chỗ chí nhu, chứ không phải ở chỗ cậy mạnh khinh khi người yếu, cậy
đông hiếp đáp kẻ ít người.[7]Nếu như tình cảnh trước đây chưa biện bạch được thì thiên triều lẽ nào
có thể khoan dung, ắt sẽ động binh gây chiến thì nước nhỏ không thể làm tròn tấm lòng phụng thờ
nước lớn, bộc này chỉ đành lắng nghe thiên triều bảo sao thì làm vậy.

Nay kèm theo đây hịch văn của Tôn Sĩ Nghị , đều là lời lẽ lăng nhục khích bác tất cả dâng nạp, xin
ngài xem xét cho.[8]

Nội dung lá thư đầu tiên chưa mang cung cách ngoại giao mà nhằm tranh biện đúng sai lại biểu lộ sự
tự hào của chiến thắng, đổ lỗi cho Tôn Sĩ Nghị nên quan nhà Thanh đã trả lại.[9]Vả lại, khi tâu rằng
đã ném trả biểu văn, Tôn Sĩ Nghị cũng dấu được những lời tố cáo vốn dĩ không xa thực sự bao nhiêu.
Như vậy nước ta lần đầu tiên viết thư sang Trung Hoa chỉ thuần tuý đòi hỏi đối phương bãi binh.

Tuy nhận được lá thư gợi ý cầu hoà, nhà Thanh cũng chưa lường được phản ứng của triều đình Tây
Sơn thực sự muốn chấm dứt binh đao hay chỉ mua thời gian [theo các báo cáo qua lại nay còn thấy]
nên vẫn tiếp tục gia tăng phòng thủ, điều động canh giữ quan ải và nhất là tổng kết số người chạy
được về.

Con số 8000 quân qua cửa ải mà Tôn Sĩ Nghị báo cáo xem ra không chính xác vì nếu tính số quân họ
Tôn đem sang trừ đi số người tử trận [báo cáo sau này] chúng ta thấy có sự chênh lệch khoảng 2
đến 3000 người. Rõ ràng đây là một bịa đặt nhằm che dấu thất bại gửi lên vua Càn Long như một
vận động ngầm để vua Thanh bằng lòng bãi binh. Số tù binh bị bắt lại càng khó biết.

Ba tờ hịch của Tôn Sĩ Nghị

Lá thư có kèm những tờ hịch vốn là một số bố cáo [hịch] gửi cho dân chúng Bắc Hà, còn ghi lại
trong KDANKL, sao lục như sau:

Bản số 1

Nguyên văn
諭知該國,以阮岳,阮惠,退出黎城。仍回伊等故土。是其心不敢干犯天朝法紀。尚可不事苛求。
至爾鎭目人等。理應即日迎還故主。仍就藩封。倘竟彼此觀望遷延。暗爲阮姓守土。不肯迎請嗣王。
則是爾國綱紀蕩然。全不知君臣大義。且爾等身係安南職官。轉不如爾國百姓。
倘能依戀黎王舊德。紛紛向關呈請。願効前驅。爾等清夜問心。置身何地。此番出示之後。爾等立即
擁戴黎氏。迎請返正。則前此從逆與否。概置不問。
如仍執迷不悟。更無効順之心。即當一面奏聞大皇帝。一面親統大兵。尅期進剿。諒蕞爾一隅。豈能
抗我王師。勢將咸就誅夷。爲爾國永垂炯戒等因。愷切曉諭。

Dịch âm
Dụ tri cai quốc, dĩ Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ thoái xuất Lê thành. Nhưng hồi y đẳng cố thổ. Thị dĩ
tâm bất cảm can phạm thiên triều pháp kỷ. Thượng khả bất sự hà cầu.

Chí nhĩ trấn mục nhân đẳng. Lý ứng tức nhật nghinh hoàn cố chủ. Nhưng tựu phiên phong. Thảng
cánh bỉ thử quan vọng thiên diên. Ám vi Nguyễn tính thủ thổ. Bất khẳng nghinh thỉnh tự vương. Tắc
thị nhĩ quốc cương kỷ đãng nhiên. Toàn bất tri quân thần đại nghĩa. Thả nhĩ đẳng thân hệ An Nam
chức quan. Chuyển bất như nhĩ quốc bách tính.

Thảng năng y luyến Lê vương cựu đức. Phân phân hướng quan trình thỉnh. Nguyện hiệu tiền khu.
Nhĩ đẳng thanh dạ vấn tâm. Trí thân hà địa. Thử phiên xuất thị chi hậu. Nhĩ đẳng lập tức ủng đái Lê
thị. Nghinh thỉnh phản chính. Tắc tiền thử tòng nghịch dữ phủ. Khái trí bất vấn.

Như nhưng chấp mê bất ngộ. Cánh vô hiệu thuận chi tâm. Tức đương nhất diện tấu văn đại hoàng
đế. Nhất diện thân thống đại binh. Khắc kỳ tiến tiễu. Lượng tối nhĩ nhất ngung. Khải năng kháng ngã
vương sư. Thế tương hàm tựu tru di. Vi nhĩ quốc vĩnh thừa quýnh giới đẳng nhân. Khải thiết hiểu
dụ.

Dịch nghĩa

Dụ cho [người] nước kia được biết:

Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ rút khỏi Lê thành trở về đất cũ của chúng, ấy là trong bụng không dám
phạm vào pháp kỷ của thiên triều nên chẳng dám quấy nhiễu nữa.

Trấn mục các ngươi đáng ra phải lập tức đón chủ cũ về để được phiên phong [phong làm phiên
thuộc]. Còn như lần khân người nọ trông người kia, lén giữ đất cho họ Nguyễn, không chịu nghinh
tiếp tự vương, vậy là nước các ngươi cương kỷ lỏng lẻo chẳng biết chi là đại nghĩa quân thần. Quan
chức An Nam như các ngươi hoá ra lại không bằng thường dân bách tính.

Vậy nếu còn nhớ đến đức cũ của vua Lê thì các ngươi phải rầm rộ chạy đến cửa quan tình nguyện ra
sức đi đầu, sáng tối tự hỏi nên để thân ở chỗ nào?

Sau khi cáo thị này gửi ra rồi, các ngươi phải lập tức ủng hộ nghinh đón họ Lê, quay đầu về nẻo
chính, trước đây lỡ theo giặc, phạm sai lầm cũng bỏ qua không hỏi đến.

Còn như vẫn còn chấp mê không tỉnh, ấy là không biết hướng về chỗ thuận thì ta sẽ vừa tâu lên đại
hoàng đế, vừa đích thân thống lãnh đại binh, định ngày tiến tiễu, dẻo đất cỏn con của các ngươi có
thể chống với vương sư hay sẽ bị giết sạch?

Vì chưng muốn nước các ngươi được thiên triều soi chiếu mãi mãi nên ta thiết tha hiểu dụ.

Bản số 2

Nguyên văn
諭以爾等於大兵經時。跪迎道傍。爭獻牛米等物。實爲恭順。今不但不收爾等餽獻。又各賞給銀牌。
示以嘉獎。並恪遵大皇帝諭旨。此次大兵進剿。原爲救護爾等夷民。嚴禁兵丁。不許擅入村莊。妄取
一草一木。
天朝厚待爾等。從古未有。其附從阮惠之廣南賊匪。除臨陣剿殺。不計其數外。兹將生擒之數十人。
立即梟首。使衆人觀看。以洩憤恨。從此爾等當益知感激。去逆效順。

Dịch âm

Dụ dĩ nhĩ đẳng ư đại binh kinh thời. Quỵ nghinh đạo bàng. Tranh hiến ngưu mễ đẳng vật. Thực vi
cung thuận. Kim bất đãn bất thu nhĩ đẳng quỹ hiến. Hựu các thưởng cấp ngân bài. Thị dĩ gia tưởng.
Tịnh khác tuân đại hoàng đế dụ chỉ. Thử thứ đại binh tiến tiễu. Nguyên vi cứu hộ nhĩ đẳng di dân.
Nghiêm cấm binh đinh. Bất hứa thiện nhập thôn trang. Vọng thủ nhất thảo nhất mộc.

Thiên triều hậu đãi nhĩ đẳng. Tòng cổ vị hữu. Kỳ phụ tòng Nguyễn Huệ chi Quảng Nam tặc phỉ. Trừ
lâm trận tiễu sát. Bất kế kì số ngoại. Tư tương sinh cầm chi sổ thập nhân. Lập tức kiêu thủ. Sử chúng
nhân quan khán. Dĩ tiết phẫn hận. Tòng thử nhĩ đẳng đương ích tri cảm kích. Khứ nghịch hiệu thuận.

Dịch nghĩa

Nay dụ cho các ngươi biết:

Khi đại binh đi ngang qua, các ngươi quì đón ở bên đường, tranh nhau hiến trâu gạo các loại, thực là
cung thuận. Nay ta không nhận bất cứ đồ gì hiến tặng, lại thưởng cho ngân bài để tỏ lòng khen ngợi.

Kính tuân theo dụ chỉ của đại hoàng đế, đại binh tiến tiễu lần này vốn là để cứu vớt người di các
ngươi, nghiêm cấm binh đinh không được tự tiện vào các thôn xóm, lấy càn một cành cây, một ngọn
cỏ.

Thiên triều hậu đãi các ngươi như thế, từ xưa chưa có bao giờ. Những kẻ đi theo bọn giặc Quảng
Nam Nguyễn Huệ, khi lâm trận đã bị giết không biết bao nhiêu rồi, còn mấy chục đứa bắt sống thì
lập tức bêu đầu để mọi người thấy cho hả phẫn hận. Có như thế các ngươi mới thêm cảm kích, bỏ kẻ
nghịch giúp kẻ thuận.

Bản số 3

Nguyên văn
爾等久爲賊匪毒害。今大兵進剿。除臨陣誅戮外。逃匿必多。若令官兵分赴各鄉搜捕。不免藉端滋擾
。不如各村寨自行挨查縛獻。既洩爾等忿恨。且可免諱匿包庇之罪。

Dịch âm

Nhĩ đẳng cửu vi tặc phỉ độc hại. Kim đại binh tiến tiễu. Trừ lâm trận tru lục ngoại. Ðào nặc tất đa.
Nhược lệnh quan binh phân phó các hương sưu bộ. Bất miễn tịch đoan tư nhiễu. Bất như các thôn
trại tự hành ai tra phược hiến. Ký tiết nhĩ đẳng phẫn hận. Thả khả miễn huý nặc bao tí chi tội.

Dịch nghĩa
Các ngươi bị tặc phỉ làm hại đã lâu, nay đại binh tiến tiễu, ngoài số bị giết khi lâm trận, chạy trốn
chắc là đông. Nếu ta ra lệnh cho quan binh đến các làng xóm tìm bắt, không khỏi gây chuyện phiền
nhiễu. Chi bằng các thôn trại tự tra xét trói chúng đem trình ra, vừa để các ngươi hả lòng phẫn hận,
vừa được miễn tội bao che, dấu diếm.
Mật Nghị Lần Thứ 2
Lá thư thứ hai của nước ta do Nguyễn Hữu Trù [阮有啁] và Vũ Huy Phác[10] [武煇璞][11] đưa sang
[vào ngày mồng 9 tháng Hai][12], không còn gửi Thang Hùng Nghiệp để trình bày nguyên do cuộc
chiến mà gửi lên triều đình nhà Thanh để xin công nhận.

Trong lá thư này có một câu khá quan trọng đã bị lược bỏ (xem nguyên bản hình tờ bẩm kèm theo
còn lưu trong đáng án nhà Thanh). Đó là không còn nhắc tới câu “… thiết bản quốc tị xứ hoang tưu,
vị thông triều cống, kim nguyện tu thần chức …” [竊本國避處荒陬未通朝貢今願修臣職] trộm nghĩ
nước tôi ở nơi hoang vắng xa xôi, chưa từng triều cống, nay mong được làm bầy tôi … cho thấy có
một sự thay đổi lớn.

Trước đây Nguyễn Quang Bình viết thư nhân danh “xứ Quảng Nam”, coi như một quốc gia riêng biệt
là hậu thân của Chiêm Thành chưa từng liên lạc với nhà Thanh, việc đụng độ với thiên triều chủ yếu
là do xung đột với nhà Lê, nay cầu hoà cũng là xin tái lập một quan hệ bị cắt đứt từ đời Minh. Nếu
như vua Càn Long chấp thuận, rất có thể hai bên đồng ý một giải pháp: vua Quang Trung sẽ trả lại
miền bắc cho vua Lê và làm vua ở Nam Hà như hai nước riêng rẽ thời Trịnh Nguyễn nhưng cả hai
đều được nhà Thanh công nhận. Như vậy khởi thuỷ việc xin thay nhà Lê chưa được đặt ra.

Lá thư đó còn chép trong Liệt Truyện và Nguyễn Thị Tây Sơn Ký dịch ra như sau:

Thần vốn là kẻ áo vải đất Tây Sơn, theo thời mà cử sự. Năm Bính Ngọ [1786] đem quân diệt họ
Trịnh, trả lại nước cho nhà Lê. Lê vương trước tạ thế, lại ủng lập tự tôn Duy Kỳ kế vị. Duy Kỳ là
người dâm bạo, thần dân trong nước chạy về với thần, xin đem quân trừ loạn. Năm Đinh Vị [1787],
thần sai một tiểu tướng đem binh hỏi kẻ tả hữu ai là người giúp cho [vua] Kiệt, thế nhưng Duy Kỳ
nghe tiếng chạy trốn, tự chuốc lấy diệt vong. Năm Mậu Thân [1788], thần tiến đến Lê thành, uỷ cho
con vua cũ là Duy Cẩn giám quốc rồi sai người gõ cửa quan, đem hết việc trong nước tâu lên. Thế
nhưng mẹ của Duy Kỳ đã đến ải Đẩu Áo trước rồi, sai người xin giúp đỡ.

Tôn Sĩ Nghị là phong cương đại thần nhưng lại vì tiền của, nữ sắc, đem biểu chương của thần xé ném
xuống đất, lăng nhục người đem thư, ý muốn hưng sư động chúng, không biết ấy là do hoàng đế sai
khiến, hay vì Sĩ Nghị nghe lời một người đàn bà mà làm, muốn lập công nơi biên cương mưu cầu đại
lợi.

Nếu như sánh nhân sĩ một góc biển thì giáp binh làm sao chọi lại được một phần trong muôn một
của Trung triều. Thế nhưng trước mặt là sông sâu, sau lưng là hổ dữ, ai nấy sợ chết nên đều hết sức
mà chống trả.

Thần không nề câu ném chuột tránh đồ nên lấy năm ba dân đinh trong ấp đi theo. Ngày mồng 5
tháng giêng năm nay tiến đến Lê thành mong gặp được Tôn Sĩ Nghị may ra có thể đem ngọc lụa thay
việc can qua, chuyển binh mã thành hội xiêm áo. Binh của Tôn Sĩ Nghị đến trước nghinh chiến
nhưng mới giao phong đã chạy tứ tán, ai trốn tránh ở thôn trang bên ngoài thành lại bị dân chúng
giết sạch. Ngày thần vào trong thành lập tức cấm chỉ, không được giết càn, nhất thiết phải đưa đến
đô thành, số hơn tám trăm nhân khẩu thần đã cho lương ăn.
Trộm nghĩ bản quốc từ Đinh Lê Lý Trần đến nay, các đời thay đổi, không phải chỉ có một họ. Hễ ai có
khả năng làm phên dậu ở phương Nam thì được vun xới, ấy thật là chí công chí nhân, theo trời hành
hoá, thuận theo tự nhiên.

Vậy xin tha cho thần cái tội nghinh chiến với Tôn Sĩ Nghị, xét cho lòng thành của thần mấy lần gõ
cửa quan trần tấu mà phong cho thần làm An Nam quốc vương để được thống nhiếp. Thần nay
sai sứ giả đến cửa quan để xin được sửa lễ cống, lại đem những người còn đang ở đây nạp về để tỏ
chí thành.

Vốn dĩ đường đường là phận thiên triều đâu so kè việc thắng phụ với tiểu di, lạm việc chinh
chiến[13] cho hả lòng tham tàn ắt là thánh tâm không nỡ. Quá lắm nếu như việc binh không dứt thì
thế đến đâu cũng không phải là sở nguyện của thần, mà thần cũng không dám biết nữa.[14]

Bài này có lẽ cũng chép lại Trần Tình Biểu trong BGHT của Ngô Thì Nhậm nhưng nhiều chi tiết đã bỏ
đi (mặc dù bản văn trong BGHT cũng đã lược đi một số chi tiết quan trọng):

Thần sống ở nơi hoang vắng xa xôi xứ An Nam đã từ lâu tắm gội nơi thanh giáo. Thế nhưng từ khi họ
Lê không còn cầm trịch, việc chính trị vào tay quyền thần, trong nước ngả nghiêng ly tán, dân tình
oán thán.

Thần là kẻ áo vải theo thời mà cử sự, nguyên do vì kẻ vong nhân là Nguyễn Chỉnh chạy tới xin quân.
Mùa hạ năm Bính Ngọ (1786) là lần đầu có việc ở Lê thành, khi vua Lê trước tạ thế, thần nâng đỡ tự
tôn là Duy Kỳ nối ngôi sau đó quay về phương Nam, bản ý không muốn chiếm lấy…

Hình 3: Tờ bẩm của vua Quang Trung gửi quan nhà Thanh tháng Hai năm Càn Long 54[15]
(khúc đầu)

Việc triều đình Tây Sơn chuyển từ trần tình nguyên do chiến tranh sang xin phong cho Nguyễn
Quang Bình làm An Nam quốc vương, đồng thời xin công nhận một dòng họ mới cho ta thấy rằng lúc
này quan lại nhà Thanh đã nhận được chỉ dụ của vua Càn Long [gửi trước trạ n đá nh ở Thăng Long]
trong đó ông nghi ngờ khả năng tồn tại của Lê Duy Kỳ – không có Nguyễn Huệ này thì cũng sẽ có
một Nguyễn Huệ khác nổi lên chiếm nước – nên đã “bạ t đè n xanh” cho quan lạ i ở Quả ng Tây tiến
hà nh viẹ c thay đỏ i mọ t triè u đạ i tạ i An Nam.

Đối với các quan nhà Thanh, việc đồng ý chấm dứt yểm trợ nhà Lê gỡ cho họ rất nhiểu lo ngại
nhất là trút được gánh nặng sẽ phải tiếp tục tiến hành một cuộc chiến cam go và dai dẳng.

Còn như công nhận cả hai nước – An Nam và Quảng Nam – thì cũng nhiêu khê không giải quyết
được gì mà yêu cầu Nguyễn Quang Bình sang chúc thọ còn khó khăn hơn nữa. Chính vì vậy, hai bên
nhất loạt trút mọi sai trái lên gia đình vua Lê [mà chính họ Lê không có điều kiện và cũng không
biết những kết tội đó] tạo nên nhiều oan khuất tồn tại đến tận hôm nay.[16]

Mật Nghị Lần Thứ 3

Theo nọ i dung lá thư, nước ta chưa đề cập đến việc trao trả tù binh như một thiện chí biểu lộ sự
“thâu thành” nhất là vẫn còn có giọng khiêu khích nên Thang Hùng Nghiệp đã hốt hoảng trả lại bức
thư kèm theo những lời dặn dò và cố vấn nước ta không nên dùng số người bị bắt giữ như con tin và
chỉ chuyển lên vua Càn Long nếu số tù binh đó được trả về.

Theo sử nhà Thanh, ngày 21 tháng Hai nước ta lại gửi lá thư thứ ba để trình bày sự việc.[17]Trong
BGHT còn lá thư vua Quang Trung gửi Thang Hùng Nghiệp sau đây:

Ngày 13 tháng Hai, Càn Long năm thứ 54, tôi nhận được một tờ trát của bồi thần bản quốc là
Nguyễn Hữu Trù[阮有賙] được tôn đài thiết tha chỉ bảo về kế sách yên ổn và cai trị lâu dài của nước
tôi. Tôi cầm lên đọc đi đọc lại, cảm kích khôn cùng thấy rằng lời tâu trong biểu ngoài việc còn có chỗ
chưa hợp thức cần phải sửa lại rồi trình lên thì quan binh thiên triều hiện đang ở tại quốc đô đã
được cho ở yên một chỗ cũng chưa tuân theo mà trao trả về.

Việc này nguyên do chẳng phải vì bộc có điều cầu xin nên dùng để ép uổng mà vì qua một phen tao
loạn bọn họ đã bị bắt giữ. Nếu như bộc lại giận dữ nghe lời quân sĩ bản bộ mà cho phép tùy tiện lúc
giao tranh thì bây giờ còn gì để nói?

Có điều bậc trượng phu xử sự minh bạch, không giết kẻ ngã ngựa nên nhất nhất thu dưỡng rồi tâu
lên cho rõ ràng đợi thiên tử định đoạt để làm sao đưa về cho thuận tiện, ấy là lòng thành trong việc
lớn xin phong. Còn như khư khư giữ lấy vài trăm binh lính, đòi hỏi yêu sủng trước khi trả về thì có
khác gì đưa dưa mận mà đòi quỳnh cửu[18] đâu có thể gọi là cung thuận chân thành. Cho nên mấy
phen qua lại, chưa từng đem chuyện đó nói ra. Nay nghe lời dạy rằng đợi khi nào đưa trả quan binh
sẽ dựa theo đó mà chuyển tấu, ấy là lòng chân thật của tôn đài mà chu toàn cho bản quốc nên không
câu nệ dấu vết cũ.

Bộc lại nghĩ lại rằng, vạn sự trong thiên hạ không qua khỏi một chữ thành. Lần này quan quân trở về
kinh mong tôn đài đừng nhắc tới cũng như trát lần trước đã nói là “tức sự ninh nhân, thực duy đại
nguyện”.[19] Nếu như có nảy sinh lời lẽ vào ra, vạn nhất chuyện đổi khác thì bộc cũng đành chiều
theo vậy, cốt thuận với tự nhiên, làm như không có sự gì mà thôi.

Phàm nước nhỏ đối với nước lớn, ngoài việc “uý thiên sự đại”[20] ra, thì không còn gì khác nên tôi đã
tra chiếu quan binh hiện đang ở đây thì ở quốc đô là hơn 700 người, còn khoảng 200 người đưa đi
trấn giữ trong các đội quân bản bộ, nhưng gần đây số ốm đau bệnh hoạn cũng đến cả trăm người.
Cho nên tôi đã ủy cho bồi giới Nguyễn Hữu Chu [Trù] chuẩn bị đưa lên cửa quan hơn 600 người giao
nạp, còn 300 người sẽ lần lượt đưa đi.

Lần này ngoài giấy tờ tâu lên, cũng có tiến lễ vật đúng ra phải có thổ ngơi nhưng vì nước mới dựng,
không thể mọi thứ đều lo liệu được nên trộm đưa lên hoàng kim 10 dật, bạc 20 dật để thay cho chút
lễ đơn bạc[21], xin tôn đài xem xét tấm lòng chân thành mà thu nạp rồi chuyển tâu lên. Còn như bọn
bồi giới Nguyễn Hữu Trù, Vũ Huy Phác đem biểu lên gõ cửa quan, đợi chỉ cho phép tiến kinh thì mới
dám nghệ khuyết. Số người tùy hành, tất cả tổng số là bao nhiêu thì mong được biết số lượng.

Tấm lòng vạn dặm, không bút mực nào có thể hết được, mong tôn đài giúp đỡ cúi xuống mà ngọc
thành cho.[22]

Kèm theo bức thư, nước ta cũng tặng cho Thang Hùng Nghiệp 100 lượng bạc, một món tiền làm quà
tương đối nhỏ không nhằm đút lót như sử triều Nguyễn ghi chép.

Trước đây tôi đã được kín đáo dạy bảo rằng nếu có điều gì bẩm bạch lên bộ đường đại nhân thì
tuyệt đối đừng nên đề cập cái lòng tôn đài yêu mến thâm sâu bộc này. Phàm dù ghét nhưng vẫn biết
đến cái thiện của kẻ kia thực không có mấy người. Quan tổng đốc đối với bộc có ý không thể dung
tha được nên trước đây mới gây ra cớ sự, nay lại nhờ vun vén cho thành việc của người ắt sẽ không
ra sức giúp đỡ nên bộc không dám ngỏ lời. Nay được thịnh tình giảng giải cho, việc phong điển rất
quan trọng, nên việc trình bẩm cần phải cho hợp cách thức bình thường, bộc không thể không tuân
theo.

Vậy kính cẩn trình lên một đạo bẩm văn viết rõ ràng, theo đúng như đã gửi lại mong được thu nạp
và chuyển đệ lên. Hiện nay nước tôi vừa mới dựng, văn hiến chưa đủ mọi việc nghi thức tâu lên còn
nhiều chỗ thô lỗ, khiếm khuyết mong tôn đài chu toàn mà giúp cho thành tựu. Trong kinh Thi có
viết: “Bồng bồng thử miêu, âm vũ cao chi”. Thiệu Bá gia ơn cho nước Nam công lao cũng không khác
gì mưa đầy đủ, bộc đọc thơ này nhiều lần nên gửi lên để ca tụng tôn đài.

Tiểu bang không có gì để tạ ơn, chỉ có chút thổ ngân [bạc sản xuất tại địa phương] một trăm lượng
xem như chén rượu thọ, không dám gọi là để báo đáp, chỉ lấy vật để thay tình mà thôi. Mong ngài lấy
lượng hải hà mà nhận cho thì chúng tôi thật vinh hạnh. [23]

Theo nọ i dung lá thư, Thang Hùng Nghiệp đã tié p xú c riêng với Nguyẽ n Hữu Trù và những trao đổi
đã được gửi vè Thăng Long. Ké sá ch lâu dà i mà họ Thang đè cạ p hả n có liên quan đé n viẹ c “Lê Duy
Kỳ bỏ nước chạy trốn, thiên triều không còn có ý lấy lại An Nam giao cho y. Vậy nhân lúc phương
bắc chưa nhận được dụ chỉ [tức chưa có chủ trương và hành động dứt khoát], hãy sai người gõ cửa
quan thỉnh cầu ân điển” như nhá c đé n trong Liẹ t Truyẹ n.
Lẽ dĩ nhiên, không phả i chỉ mọ t chi tié t nhỏ như thé có thẻ được gọ i là “kế sách yên ổn và cai trị lâu
dài của nước tôi” né u không đưa ra những á p lực mới.

Viẹ c “Lê Duy Kỳ bỏ nước chạ y tró n” mà Thang Hùng Nghiệp gợi ý không phả i chỉ là mọ t sự kiẹ n
bình thường mà chính là mọ t thông tin mạ t củ a nhà Thanh cho Tây Sơnbié t rà ng hiẹ n nay Lê
Duy Kỳ không cò n ở trong nước mà đang là con tin ở Trung Hoa, đò ng thời cũ ng là mọ t đe dọ a
ngà m né u như Nguyễn Quang Bình không thà n phụ c, chạ m trẽ trao trả tù binh thì sẽ là mọ t mà m
họ a lớn tá c đọ ng đé n viẹ c trị an.

Về phía Trung Hoa, các quan lại địa phương cũng biết rằng mục tiêu của những trao đổi này không
phải để xem ai đúng ai sai mà làm thế nào cho quan điểm hai bên có thể dung hoà, đấu dịu để không
xúc phạm đến sự tự tôn của vua Thanh. Việc tranh cãi và lý luận đó kéo dài khá lâu đúng như Vũ
Huy Tấn đã phải than là ông lên xuống gõ cửa Nam Quan đến bảy lần thì việc mới xong. Theo những
chi tiết còn lưu lại trong sử sách, triều đình Tây Sơn đã thay Ngô Thì Nhậm bằng Phan Huy Ích rồi
sau đó là Vũ Huy Tấn ứng trực ở Lạng Sơn chờ đợi kết quả bang giao và cũng khiến cho giới nghiên
cứu phải ngạc nhiên vì những lời lẽ quá sai sự thực trong những biểu văn cầu phong nên không mấy
ai trích dẫn.

Nhìn từ hai góc cạnh khác nhau, việc gọi là ba lần xin hàng đó không phản ảnh sự thật. Lẽ dễ hiểu, tài
liệu nhà Thanh không lưu lại những văn thư ban đầu mà chỉ sử dụng bản văn sau cùng, vốn dĩ đã
được sửa lại theo đúng ý họ, là tài liệu nặng phần ngoại giao. Thanh triều cũng không nhắc đến
những tiến trình đàm phán, kể cả việc nước ta thay đổi các sứ bộ như một hình thức xa luân chiến,
khi quyết liệt cứng rắn, khi hòa dịu nhún nhường. Nhà Thanh cũng đưa ra nhiều yêu sách – như qui
phạm đàm phán của Trung Hoa – và từ từ rút bớt cho đến khi đồng thuận.

Về phía nước ta, có lẽ các quan ở Lạng Sơn cũng không biết rằng Tôn Sĩ Nghị vẫn còn ở Quảng Tây
kinh lý các vấn đề hậu chiến nhưng bên ngoài thì bắn tiếng là ông ta đã bị cách chức triệu hồi về
kinh và một nhân vật tiếng tăm hơn là Phúc Khang An sẽ sang thay thế.

Chính mô hình bán chính thức này tạo cho phía nhà Thanh một khoảng trống vì trong suốt mấy
tháng đầu nước ta chỉ có thể tiếp xúc với một viên chức cấp nhỏ là Thang Hùng Nghiệpnên đối
phương không bị ràng buộc bởi những gì họ Thang đưa ra và vẫn có thể điều chỉnh sao cho thuận
với ý hướng và chủ trương của họ nếu cần.[24] Quan nhà Thanh cũng có thể từ chối những quyết
định quan trọng lấy cớ là tân tổng đốc chưa có mặt.

Tuy nhiên, né u không giới hạ n trong ló i nhạ n định chủ quan củ a hai bên, mọ t đà ng thì nó i rà ng nhà
Thanh sợ ta đem quân đá nh sang nên bí mạ t cà u hò a, mọ t đà ng thì nhá n mạ nh đó i phương nhiè u lần
gõ cửa xin hà ng đẻ mong được công nhạ n, chú ng ta cũ ng thá y rà ng trong tié n trình đà m phá n, mõ i
bên đè u có những “thé mạ nh” đẻ dựa và o đó mà thương lượng. Chính những yé u điẻ m được khai
thá c đú ng thời đú ng chõ là đọ ng cơ thú c đả y viẹ c thỏ a hiẹ p nhanh chó ng hơn.

Vè phà n nước ta, ưu thé né u có chỉ dựa và o só hơn 800 tù binh bá t được, trong đó có cả mọ t só dân
phu. Viẹ c trao trả những binh sĩ nà y có thẻ giúp phô trương thắng lợi nhưng né u đẻ trên bà n họ i
nghị, và i trăm người đó chưa đủ đẻ Thanh triè u phả i gấp rút thỏ a mã n những điè u vua Quang
Trung đang mong mỏ i.

Ngược lại, tuy thua trận nhưng trong tư thế của một đại quốc, nhà Thanh vẫn có thể tiến hành một
lần xâm lăng thứ hai và trong trường kỳ, phần thiệt vẫn về phía nước Nam, dù có đuổi được giặc thì
vẫn lâm vào cùng kiệt. Việc tái dụng binh cũng không phải là chọn lựa duy nhất, nhà Thanh còn một
lưỡi dao sắc dấu sau lưng. Đó là thanh viện và giúp đỡ tiền bạc, quân nhu, chiến cụ cho các nhóm
thân Lê để quạt bùng lên một cuộc nội loạn kèm theo áp lực Xiêm La, Chân Lạp hay chúa Nguyễn ở
Gia Định khởi binh nhằm bao vây chia xẻ lực lượng rồi đưa Lê Duy Kỳ về nước. Nhà Thanh cũng có
thể ám trợ cho vua Lê [hay em trai ông là Lạn Quận Công Lê Duy Chỉ khi đó đang ở Tuyên Quang
Hưng Hóa] dùng lãnh thổ Trung Hoa làm hậu phương để chống Tây Sơn.[25]

Việc triều đình Quang Trung trả tù binh là một cử chỉ thiện chí nhằm tạo một tương quan mới làm
cơ sở đàm phán với Phúc Khang An và cũng giải thích được thái độ từ cứng rắn sang hòa hoãn mà cả
hai bên đều tiến hành.

Hình 4: Nghi vệ của một tổng đốc khi ra ngoài theo tranh vẽ Tây Phương[26]

CHỦ TRƯƠNG CỦA THANH TRIỀU

Việc quan lại nhà Thanh ở Quảng Tây trao đổi qua lại với triều đình Tây Sơn trong mấy tháng đầu là
một màn khói làm giả diện để nhà Thanh có đủ thì giờ tính toán một kế hoạch lâu dài. Chỉ ba ngày
sau khi nhận được tin Tôn Sĩ Nghị bại trận – ngày 29 tháng Giêng năm Kỷ Dậu vua Càn Long đã viết
“An Nam thủy mạt sự ký” [ghi lại việc nước An Nam từ đầu chí cuối], trong đó nêu ra những điểm
quan trọng nhất để hướng dẫn tiến trình đàm phán:
AN NAM THỦY MẠT SỰ KÝ[27]

Nguyên văn

御製書安南始末事記曰、春日齋居。敬觀皇祖御書心經。張照等、跋錄御製戒之在得之諭。憬然有悟

因憶安南始末事。為之記曰。

我皇祖戒之在得之訓。孫臣固建堂於避暑山莊。其義其事。已見之前後之記矣。

昨歲夏、居山莊。因有緬甸歸順之事。不無為之喜。無何而有孫士毅复黎城封黎王之奏。則又不無為

之喜。夫喜者懼之對也。懼則若有所失。喜則無所更慮。若有所失。心不敢放。無所更慮。心或放乎。

緬甸歸順。無過宴賚山莊。事則已矣。安南之事。雖云復其城。封其王。而其凶首未擒。弗屑費中國

之力。為藩國掃蕩擒渠。因降旨班師。使孫士毅速遵旨班師。即逆兇复擾黎城。則固外藩之事。變亂

無常。亦不屑每問之。
乃孫士毅駐彼踰月。以待或有所擒獻。而又未曾謹設防。以致逆兇席捲而來。我師倉卒與戰。遂有所

失。而提鎮三臣。同以致命。幸而孫士毅全師以歸。尚不致有傷國體。然而赫濯威重。實不無少損焉

夫興滅繼絕。弗利其土地臣民。此非欲得也。然而得其名。與得其實同之。安南之事。予果無得名之

意乎。喜而忘懼。謂之能戒可乎。

故予不咎孫士毅之貪功。久駐失防。致損威重。而自咎予之未能體皇祖訓戒之在茲。書以志過。抑亦

慎守此志於永久弗替云爾。

Bản dịch

Mùa xuân ở Trai Cư kính cẩn xem Tâm Kinh do chính tay hoàng tổ (tức vua Khang Hy) viết, bọn
Trương Chiếu viết lời bạt thấy lời ngự chế răn dạy về chuyện được (戒之在得 – giới chi tại đắc) rằng
phải cẩn thận đừng để xảy ra sai lầm.

Nhân ngẫm trước sau việc An Nam mà ghi lại:

Lời dạy của hoàng tổ về việc”được” thì tôn thần[28] đã dựng một toà nhà ở Tị Thử Sơn Trang để thấy
mà hiểu được nghĩa lý việc đó trước sau như thế nào?

Mùa hạ năm ngoái ở Sơn Trang nhân có việc Miến Điện qui thuận chẳng phải “vô vi chi
hỉ”[無爲之喜][29] thì là gì? Lại có việc Tôn Sĩ Nghị tâu lên đã khôi phục Lê thành rồi phong vương cho
họ Lê cũng lại là niềm vui không làm mà đến. Thế nhưng việc vui thì trái lại cũng có điều sợ vậy. Sợ
nếu như có điều gì mất nên vui khi không có gì đổi khác còn lo mà có điều mất thì bụng dạ ngay
ngáy không quên đâu có thể nhẹ nhõm được?

Miến Điện qui thuận thì chỉ cho ăn yến khoản đãi ở Sơn Trang cũng đủ, còn việc An Nam tuy đã lấy
lại kinh thành, phong cho vương tước nhưng hung thủ chưa bắt được. Thế nhưng ta coi là chuyện
nhỏ không đáng phí sức của Trung Quốc để ra công quét sạch nước phiên bắt kẻ đầu đảng nên đã
giáng chỉ ban sư. Cũng biết nếu như Tôn Sĩ Nghị lập tức tuân chỉ rút quân về thì kẻ nghịch sẽ quay
lại Lê thành nhưng đó là chuyện của ngoại phiên, biến loạn vô thường không phải việc nhỏ nhặt gì ta
cũng phải can thiệp.

Thế nhưng vì Tôn Sĩ Nghị ở lại đến hơn một tháng để chờ xem có ai bắt [Nguyễn Huệ] đem đến nạp
hay chăng, lại không cẩn thận phòng ngự đến nỗi kẻ nghịch kia thừa cơ lẻn đến, quân ta bất ngờ nên
thua trận khiến cho đề trấn ba bầy tôi bỏ mạng, may mà Tôn Sĩ Nghị đem quân chạy về được tuy
không đến nỗi tổn thương quốc thể nhưng uy nghiêm sút giảm không nhỏ.

Phàm hưng diệt kế tuyệt tính chuyện lợi đất đai hay dân chúng không phải là điều ta muốn nhưng
được danh và được lợi phải ngang nhau. Chuyện nước An Nam trẫm nào có ý được danh đâu nhưng
vì vui mà quên sợ ấy là điều cần răn mình vậy.
Ta không trách Tôn Sĩ Nghị tham công ở lâu không phòng bị để đến tổn thương uy trọng mà tự trách
mình không theo thánh huấn của hoàng tổ răn dạy trong sách. Vậy các ngươi phải chăm lo cẩn thận
giữ gìn lời dạy này mãi mãi về sau.

PHÚC KHANG AN

Phú c Khang An là người Mã n Châu trong Nhương Hoàng Kỳ, con củ a danh tướng Phó Hà ng, chá u gọ i
Hié u Hiè n hoà ng hạ u bà ng cô, uy tín rá t lớn vì năm trước đã dẹ p được nhó m Thiên Địa Họ i ở Đà i
Loan và được thăng lên Gia Dũng Công [嘉勇公][30].

Theo sử sá ch, Phú c Khang An là người trọ ng hình thức, thích mà u mè , đi đâu cũ ng phả i tiè n hô hạ u
ủ ng, cờ xí rợp trời đẻ phô diẽ n sự oai vẹ củ a mọ t đạ i quan. Đẻ tỏ ra mình là mọ t văn quan trong vai
võ tướng, họ Phú c luôn luôn đi kiệu, cà m quạ t lông, bá t chước Gia Cá t Lượng đời Tam Quó c.

Chính sử thường chỉ chép về hoạn lộ của Phúc Khang An nhưng ngoại sử lại đưa nhiều chi tiết cá
nhân giúp chúng ta phần nào hình dung được con người mà nước ta phải tiếp xúc trong vai tổng đốc
trọng thần trấn nhậm biên cương:

[…] Kiệu đi ra ngoài của Phúc Văn Tương, phải dùng đến 36 kiệu phu thay đổi lẫn nhau để cho đi
nhanh như bay. Khi ra quân đốc trận ông ta cũng ngồi kiệu, mỗi phu kiệu kèm theo 4 con ngựa tốt,
khi không phải khiêng thì cưỡi ngựa đi theo thành thử rất là phiền nhiểu cho dân chúng, có viên
huyện lệnh nọ đánh một ngưởi khiêng kiệu mà bị mất chức. Khi ông làm tổng đốc Tứ Xuyên thì làm
cái kiệu rất lớn, 16 người mới khiêng nổi. Bên trong kiệu có hai tiểu đồng để hầu hạ châm thuốc pha
trà, lại có đồ điểm tâm nóng lạnh mấy chục món …
[…] Khi đi hành quân thì Phúc Khang An tuyển chọn phu khiêng đều là những người khoẻ mạnh chia
phiên nhau mỗi ngày đi được 100 dặm…[31]

Trước đó, khi đang làm tổng đốc Mân Triết, nghe tin Tôn Sĩ Nghị bại trận Phúc Khang An đã gửi
ngay lên vua Càn Long một tấu thư xin tình nguyện sang làm tổng đốc Lưỡng Quảng để giải quyết
việc An Nam.

Phúc Khang An giao lại ấn tín tổng đốc cho tuần phủ Từ Tự Tăng [徐嗣曾] để thự lý [tạm thay, chưa
chính thức] rồi lập tức ngày đêm theo đường Mân (Phúc Kiến) Liêm (châu) đi sang Quảng Tây. Ngày
26 tháng Giêng vua Càn Long đã gửi triệp cho Phúc Khang An trong đó có đoạn như sau:

Nguyễn Huệ chỉ là một thổ tù đất An Nam, đuổi chúa làm loạn cương thường để thiên binh phải đến
đánh dẹp, mấy lần bỏ chạy rồi lại dám tập trung lẻn đến làm hại quan binh, quả là tội ác cực lớn.

Hiện nay đã đến thời giao Xuân, xứ đó là nơi nhiều chướng lệ, không tiện việc lập tức đem quân vào
sâu hỏi tội bọn chúng, vậy các đốc, phủ ở biên cương hãy đem quân các doanh thao diễn, bao giờ
lương hướng đầy đủ, lính tráng tinh nhuệ thì nghe lệnh điều động để kể tội đánh dẹp.

Tuy nhiên, cũng cùng ngày hôm đó, vua Càn Long lại gửi thư cho Phúc Khang An một dụ chỉ có nội
dung khác hơn:

Nguyễn Huệ chẳng qua chỉ là một thổ tù nước An Nam mà nay quốc gia đang hồi toàn thịnh, nếu tập
trung binh lực cho đông, bốn đường tiến đánh thì đến sào huyệt bắt đầu sỏ không khó khăn gì. Thế
nhưng nước đó vốn nhiều chướng lệ, chẳng khác gì Miến Điện, lấy được đất thì không đáng giữ, có
được dân không đáng làm bầy tôi, việc gì phải hao tốn tiền bạc, lương thực của Trung Quốc ở một
vùng viêm hoang vô dụng như thế?

Đem quân tiễu trừ Nguyễn Huệ lúc này không phải là không thể làm nhưng tính toán thiên thời, địa
lợi, nhân sự đều thấy không nên … Vậy Phúc Khang An khi đến Trấn Nam Quan, nếu Nguyễn Huệ
nghe tiếng sợ hãi mà đến cửa quan phục tội qui hàng thì Phúc Khang An hãy nặng lời mắng nhiếc,
không nhận lời ngay để xem y có thực thành tâm sợ tội hay không, thỉnh cầu vài ba lần rồi hãy tùy
cơ mà hành sự để cho đại cục hoàn thành.[32]

ĐÀM PHÁN BÁN CÔNG KHAI

Việc nước ta trao trả tù binh có thể coi là một đại công của Tôn Sĩ Nghị, một thắng lợi ngoại giao
quan trọng khai mở một lối giải quyết mà Quân Cơ Xứ về sau coi như sáng kiến từ triều đình. Từ
khởi đầu này, Tôn Sĩ Nghị, Tôn Vĩnh Thanh và Thang Hùng Nghiệp đã cùng với các phái đoàn nghị
hoà của nước ta dựng thành một tiến trình lớp lang, thuận lý. Những lá thư có tính cách trách cứ, đổ
lỗi, khiêu khích từ phía Đại Việt được huỷ đi và Thang Hùng Nghiệp được lệnh bí mật sang bàn tính
một kế hoạch mà hai bên đều có lợi đưa đến những tin đồn ngoại sử.[33]

Về phần nước ta, việc tỏ thiện chí có lẽ để đáp ứng một bảo đảm từ phía Thanh triều là chấm dứt
việc ủng hộ vua Lê [mà họ cho biết là đang ở Trung Hoa], qua danh nghĩa “hưng diệt kế tuyệt” như
lần trước. Trong tình hình lúc đó, bảo đảm như thế là biến chuyển quan trọng trong tiến trình nghị
hòa nên vua Quang Trung đã ra lệnh trả tù binh trước khi Phúc Khang An sang tới nơi giúp cho viên
tân tổng đốc không còn phải bận tâm đến việc rửa mặt cho vua Càn Long mả bắt tay ngay vào tiến
hành nghi thức công nhận An Nam quốc vương.

Ngày 21 tháng Hai, vua Quang Trung cho Nguyễn Hữu Trù đưa lên biểu văn [đã gọt dũa lại cho phù
hợp] cho quan nhà Thanh xem trước và hôm sau [22 tháng Hai] đưa lên Nam Quan 500 tù binh, bao
gồm 300 binh lính và 200 phu dịch[34]. Cùng lúc đó, vua Quang Trung ra lệnh cho trấn thủ Lạng Sơn
chuẩn bị lễ lạc và tiệc mừng, đánh dấu một thắng lợi trong tiến trình đàm phán[35]. Sau lần trả tù
binh lớn này, nước ta còn trả thêm lần thứ hai gồm 39 người, lần thứ ba 28 người và lần thứ tư 18
người nữa.[36] Để đáp lại, nhà Thanh cũng trả về nhóm Chu Đình Lý 7 người[37] khi đó đang bị
giam ở huyện Sùng Thiện, phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây.

Việc hai bên trao trả tù binh có thể coi như thời điểm kết thúc thái độ đối nghịch để chuyển sang
thời kỳ đàm phán về nghi lễ. Vai trò của Tôn Sĩ Nghị cũng chấm dứt để Phúc Khang An ra mặt bước
vào bàn hội nghị.

CÔNG KHAI HOÁ VIỆC ĐÀM PHÁN

Sau khi tù binh đã được trả về, các quan nhà Thanh đã bằng lòng chuyển biểu văn lên Yên Kinh
nhưng còn đợi Phúc Khang An đến nơi sẽ chủ trì.

Đầu tháng Ba năm Càn Long 54, Phúc Khang An đến Quí Huyện thuộc Quảng Tây, nhận ấn triện tổng
đốc xong, đến ngày 12 [tháng Ba] đến Nam Ninh, trên đường vừa đi vừa thăm dò tình hình. Ngày 16
tháng Ba, Phúc Khang An đến Trấn Nam Quan, gặp những nhân vật đã có kinh nghiệm trực tiếp đối
phó với vấn đề, chủ yếu là tiền tổng đốc Tôn Sĩ Nghị, tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh, đề đốc
Hải Lộc [thay thế Hứa Thế Hanh] mà trong hai tháng qua đóng bản doanh ở đây. Là người thân củ a
vua Cà n Long được chỉ thị mạ t nên Phúc Khang An đã có sã n mọ t ké sá ch hợp với tâm nguyẹ n củ a
hoà ng đé .

KẾT QUẢ BAN ĐẦU

Ngay khi vừa đến Trấn Nam Quan, họ Phúc đã tâu lên:

Ngày 16 tháng Ba thần đến Trấn Nam Quan, phủ thần Tôn Vĩnh Thanh đóng ở Thụ
Hàng [受降] thành cách cửa quan 90 dặm còn tổng đốc tiền nhiệm Tôn Sĩ Nghị đến đón thần về mạc
phủ [幕府] doanh cách cửa quan 20 dặm còn đề thần Hải Lộc thì đã đến đóng ở cửa quan trước sau
cùng thần tiếp kiến báo cáo đại khái tình hình biên quan.

An Nam ở nơi hẻo lánh nóng nực, xưa nay người man tranh giành với nhau, chinh chiến không dứt.
Hiện nay thổ tù Nguyễn Huệ cùng họ Lê tranh chấp, quân ta kể tội đánh dẹp, y cũng không chịu cúi
đầu trước quân doanh,[38]đến khi ta toan triệt binh khỏi Lê thành thì xảy ra chuyện sơ sót ngoài ý
muốn, thật gã tù trưởng kia đắc tội với thiên triều chứng cớ rành rành.

Hoàng thượng ngự vũ mấy chục năm qua, bình định Tân Cương, Hồi bộ, đại tiểu lưỡng Kim Xuyên,
tiễu trừ Hồi phỉ ở nội địa, nghịch tặc ở Ðài Loan, công lao phong phú, sự nghiệp lẫy lừng vượt quá cổ
kim. Nay mảnh đất An Nam nhỏ bé, cất tay lên đánh dẹp, thu làm quận huyện thì có khó gì.

Thần nhiều đời thụ ơn nặng, mấy lần được bổ nhiệm, việc hành quân trước nay chưa từng khiếp sợ
chút nào. Tình hình hiện nay nếu cần dụng binh ắt cũng xin tâu lên điều động quân đội, trưng dụng
lương hướng đại cử xuất quan đâu có gì mà phải rụt rè, đến kẻ văn nhược thư sinh Tôn Sĩ Nghị còn
dám dẫn quân tiến vào không lẽ thần lại không bằng hay sao?

Có điều địa phương nước này, từ bắc xuống nam 3000 dặm, từ đông sang tây 2000 dặm, trình trạm
rất nhiều việc đưa quân đi không thể nhanh được mà nói chung trong khí hậu bốn mùa chỉ có ba
tháng mùa đông là chướng lệ không nổi lên, còn xuân hạ thu tam quí ắt sương độc dày đặc không
thể bị nhiễm chẳng khác gì Miến Ðiện. Nếu như đại cử hưng sư, muốn cho vạn toàn vô sự thì việc
quân lữ phải làm sao ấn định ngày giờ, nếu trong ba tháng không xong thì khi vừa giao xuân,
chướng khí bốc lên, triệt binh thì bao nhiêu công lao trước đều bỏ hết, để quân lại thì thương vong
ắt là nhiều.

Việc An Nam không nên dụng binh, không chỉ vì địa lợi bất tiện, nhân sự bất hiệp mà đến thiên thời
cũng giới hạn, từ trước đến nay chưa từng thành công cũng vì lẽ đó. Nay Nguyễn Huệ có oán thù với
họ Lê để đến nỗi phải khó nhọc đến quân ta, tốn phí lương hướng.

Thế nhưng khi đại binh tiến quan chưa bao lâu, gã tù trưởng đó đã mấy bận xin hàng, thật rõ là
trước kia tuy có kháng cự thật nhưng về sau thành tâm thần phục. Trong biểu văn y xưng là kẻ áo
vải đất Tây Sơn không có ý định chiếm nước của người khác, lại nói rằng tuy bên ngoài tưởng như
kháng cự nhưng thực ra không dám đắc tội với thiên triều. Thế nhưng dẫu có hàm hồ chối tội nhưng
chưa nói ra được việc quả không kháng cự cho minh bạch nên lúc này chưa tiện đệ lên lời thỉnh cầu.

Hiện nay gã tù trưởng kia đã gọi bọn di mục Nguyễn Hữu Trù quay về Lê thành không còn ở lại gần
biên giới để nghe ngóng nữa. Thần đã đến cửa quan khảo sát tình hình, lại cùng bọn Tôn Sĩ Nghị cật
lực suy tính tuân theo thánh chỉ trước đây viết một hịch văn ra lệnh cho Tả Giang đạo Thang Hùng
Nghiệp cho gọi thông sự đến cửa quan giao cho họ ra lệnh phải mau mau đưa đến Lê thành cho
Nguyễn Huệ xem để y tự thẩm định đâu là phúc, đâu là họa mau mau trả lời.

Thần lại [làm việc] cùng Thang Hùng Nghiệp vốn ở Việt Tây lâu năm được người di tín phục. Trước
đây Nguyễn Huệ ba lần tiến biểu, Tôn Sĩ Nghị cũng đều ra lệnh cho y cùng người bên kia đối đáp. Vì
thế thần đã ra lệnh [cho y] gọi bọn Nguyễn Hữu Trù đến cửa quan để nói chuyện tận mặt với họ, hỏi
về lý do tại sao trước đây Nguyễn Huệ và họ Lê tranh chấp, đến khi quân ta xuất quan rồi sao không
đến trước quân môn tạ tội, sau đó quay lại Lê thành quấy nhiễu, có thực dám chống lại thiên triều
hay chỉ muốn kiếm họ Lê để gây hấn rồi lỡ lầm giết cả quan binh, lúc này kịp có hối tội thì hãy viết
tờ bẩm trình bày mọi việc cho rõ ràng, tình nguyện qui phục rồi đưa đến cửa quan.
Nguyễn Huệ khi nhận được hịch văn này và những lời của viên đạo kia chuyển lại thì ắt hiểu rằng
thần đã đến cửa quan, sẽ phải đi theo từng bước. Nếu gã tù trưởng kia thiết tha nạp khoản, thần sẽ
theo các dụ chỉ trước sau tùy theo mỗi việc mà trù biện, tâu lên xin huấn thị rõ ràng.

Thần đến cửa quan lo liệu mọi việc, thấy Nam Quan này đứng nổi lên trong hàng vạn quả núi, tình
thế hiểm tuấn, bên trong có Chiêu Ðức Ðài [昭德臺] là nơi cống sứ An Nam tiến quan hành lễ, hiện
có đề thần Hải Lộcđóng binh trấn giữ. Binh đinh đóng tại cửa quan này cũng như các quan ải khác
nay đã đến đầy đủ, Hải Lộc ngày nào cũng đi các nơi tuần tra, kiểm điểm khí giới, ra lệnh cho các nơi
tập luyện bắn súng, trên các quan ải cắm cờ xí, đắp xây tường lũy để cho xa gần trong ngoài biết
rằng đã có thêm quân mới đến nơi.

Thần cũng đã gửi nghiêm hịch dụ cho binh đinh các ải, một mặt thao luyện kỹ thuật, một mặt phòng
thủ truyền tin, thần sẽ lần lượt tuần tra qua lại các nơi. Thần từ khi đến cảnh giới đất Việt đến nay,
chỗ nào cũng hỏi han. Năm trước dụng binh ở Ðài Loan đều có trưng điệu đến Lưỡng Việt, sau lại
đến việc của An Nam, quân đội lương hướng điều động mấy lần, Việt Ðông [Quảng Đông] tương đối
trù phú nên việc cung ứng không đến nỗi ta thán, còn Việt Tây[Quảng Tây] thì dân nghèo đất xấu
không có của ăn của để nên khi đưa quân đi và vận chuyển lương thực toàn dựa vào sức của dân,
làng mạc đốc thúc việc công không khỏi khốn khó.

Từ khi điều binh đến Trấn Nam Quan tháng Bảy năm ngoái, binh phu rất nhiều người bị nhiễm
chướng bệnh bỏ mình, mùa đông xuất sư, binh lính, phu phen người Hán theo quân xuất quan nghe
nói không dưới bốn, năm vạn người. Ðến chiến dịch Lê thành, số thương vong không phải là ít. Nói
chung hành quân một vạn, số người vận tống quân trang lương hướng hỏa dược đạn hoàn, cùng là
sắp đặt đài trạm phải cần đến vài vạn phu phen. Cứ số lượng mang vác của mỗi mười người phu thì
lại phải mộ thêm vài người để dễ dàng phân chia ra thành thử số phu dùng càng nhiều.

Năm trước Tôn Vĩnh Thanh đã tâu lên rằng nếu muốn đưa đại binh đi thì phải dùng đến mười vạn
dân phu, ấy là chỉ ước tính tổng quát chứ cứ theo như tính toán của thần thì phải đến vài chục
vạn mới đủ. Còn như cần cả các tỉnh khác hiệp tế thì việc rất khó khăn, không nói gì hiện giờ mùa
xuân chướng khí rất nặng không thể nào hành quân được, mà đã sử dụng thì phải hai bên tiến quân
cùng phải trù hoạch nếu theo cách thức trước đây đốc thúc dân phu thật khó mà làm cho hết sức.

An Nam là nơi chướng lệ, đúng như thánh dụ, cũng ác liệt không khác gì Miến Ðiện, không thể đem
binh mã tiền lương của quốc gia dễ dàng ném vào đấy. Từ khi triệt binh Miến Ðiện đến nay đã bế
quan khước cống hơn hai mươi năm, các tù mục xứ ấy chẳng ai dám đến gần biên cương gây sự vì
thiên uy vang dậy nên tự thần phục lâu nay. Năm trước [Miến Ðiện] gõ cửa quan xin nội phụ, thành
khẩn xin nạp cống không phải mệt đến sức của một người lính nào. Nay việc của An Nam, đại lược
cũng giống như thế, Nguyễn Huệ chắc không dám vọng tưởng dòm ngó quấy nhiễu biên cương, đến
nay đã mấy lần gõ cửa khất hàng. Vậy nên liệu chừng nuôi dưỡng quân uy nhưng không cần phải đại
cử hưng sư, làm mệt nhọc tốn phí thêm một lần nữa.[39]

Luận giải của Phúc Khang An trong tờ tấu thư này có thể xem như chuyển biến rõ rệt về việc nhà
Thanh từ bỏ chủ trương tái động binh và tiến hành việc hướng dẫn sao cho nước ta thần phục êm
đẹp nhất. Khi mọi việc đã ổn thỏa, Phúc Khang An mới sai Thang Hùng Nghiệp thông báo cho nước
ta rằng tỏ ng đốc Lưỡng Quảng tân nhiệm đã tới và dự kiến sẽ mở cửa tiếp sứ bộ An Nam ngày 28
tháng Ba.[40]

Cũng trong thời gian chờ đợi, Phúc Khang An tiếp tục tra hỏi những người vừa mới về được và theo
ông ta thì họ sở dĩ chậm trễ vì “bị thương không đi được hay lạc đường” và Nguyễn Huệ không
những không làm hại mà còn “ra lệnh cho người di trên đường cho chỗ ăn ở và cấp lộ phí, cho người
đưa về” nên nếu không phải là lúc chẳng nên tính chuyện binh đao thì lúc này cũng không cần phải
dùng binh nữa.[41]

Ngày hôm đó, hơn 20 người phái đoàn nước ta đem theo bò rượu gạo thóc gọi là lễ tương kiến để tỏ
thiện chí muốn nghị hoà. Đến giờ Tỵ, nhà Thanh mở cửa quan, chánh sứ nước ta Nguyễn Hữu Trù,
giáp phó sứ Vũ Huy Tấn [Phác], ất phó sứ Nguyễn Ninh Trực và tuỳ tòng qua Nam Quan.

Theo báo cáo của Phúc Khang An thì:

…Thần Phúc Khang An vào ngày 16 tháng Ba đến Trấn Nam Quan liền ra lệnh cho Tả Giangđạo
Thang Hùng Nghiệp truyền gọi di mục An Nam Nguyễn Hữu Trù đến cửa quan nghe dụ. Di mục đó
nghe tin, lập tức từ Lê thành bất kể ngày đêm chạy đến, tới Lạng Sơn liền sai thông sự đến để thỉnh
thị, hỏi xem hôm nào đến cửa quan. Trong tờ bẩm đề là ba người Nguyễn Hữu Trù, Vũ Huy Tấn, và
Nguyễn Ninh Trực. Thần liền sức cho Thang Hùng Nghiệp bảo cho họ ngày 28 đến cửa quan để nghe
dụ tận mặt.

Bọn thần nghĩ rằng những di mục này trở về Lê thành, cách cửa quan năm sáu trăm dặm, giữa
đường lại cách bức Lạng Sơn, Thọ Xương, Thị Cầu, Phú Lương các sông, vừa nghe gọi đến, Nguyễn
Huệ lập tức sai họ đi ngay, đủ biết ngày ngày trông ngóng tin tức thiên triều, khiếp sợ cung cẩn do
bụng chí thành.

Bọn thần ra lệnh cho Thang Hùng Nghiệp tiếp kiến các di mục này ở Chiêu Ðức Ðài bên trong cửa
quan. Ngày 28, giờ Tị bọn viên mục Nguyễn Hữu Trù dẫn thông sự cùng tùy tòng tất cả hơn 20
người đến quan, lại sửa soạn bò, gạo, dầu, miến các vật tặng cho Thang Hùng Nghiệp làm lễ kiến
diện[42] nhưng liền trả lại không nhận rồi cho gọi bọn Nguyễn Hữu Trù ba người cùng một thông
sự tiến quan, số còn lại bắt đợi ở ngoài quan.

Bọn Nguyễn Hữu Trù đến trước đài làm lễ tam quị cửu khấu [ba lần quì, chín lần rập đầu là lễ bái
yết hoàng đế]rồi quay sang hành lễ với Thang Hùng Nghiệp. [43]

Phái đoàn nước ta qua ải vào Chiêu Ðức Ðài (đối xứng với Ngưỡng Ðức Ðài thuộc Lạng Sơn) và
được Thang Hùng Nghiệp và quan lại nhà Thanh tiếp đón. Như nghi thức, một khi vào đất Thanh, sứ
bộ nước ta hướng về phương bắc làm lễ [tượng trưng] tam quị cửu khấu trước hoàng đế sau đó mới
ra mắt quan nhà Thanh.

Theo Lịch Triều Tạp Kỷ, trong lần này Phúc Khang An gửi một hịch dụ cho đòi Nguyễn Quang Bình
phải đích thân đến Nam Quan tạ tội. Ngày 29 tháng Ba tờ hịch đó được chuyển về Thăng Long cho
vua Quang Trung.[44]

Việc thay đổi từ dự định tiếp phái bộ nước ta 20 người sang việc chỉ tiếp ba người và không nhận lễ
vật cho thấy Phúc Khang An không bằng lòng với sắp xếp trước đây và muốn thêm những thủ tục
khác cho “xứng tầm” với vị thế một võ tướng trong lớp áo văn nhân, hơn hẳn Tôn Sĩ Nghị chỉ là một
nho sĩ thường. Trong tờ biểu gửi vua Càn Long khi mới đến Nam Quan ông ta có viết:

[…] Thần nhiều đời thụ ơn nặng, mấy lần được bổ nhiệm, việc hành quân trước nay chưa từng khiếp
sợ chút nào. Tình hình hiện nay nếu cần dụng binh ắt cũng xin tâu lên điều động quân đội, trưng
dụng lương hướng đại cử xuất quan đâu có gì mà phải rụt rè, đến kẻ văn nhược thư sinh Tôn Sĩ
Nghị còn dám dẫn quân tiến vào không lẽ thần lại không bằng hay sao?[45]
Trước đây khi chiến tranh với Miến Điện, vấn đề hậu chiến khó xử nhất cho Thanh triều là Miến
vương nhất định không giao trả tù binh. Thế nhưng khi Phúc Khang An đáo nhậm Quảng Tây thì
việc trao đổi tù binh đã hoàn tất nên đánh mất một cơ hội để chứng tỏ uy thế. Phúc Khang An liền
chuyển sang gây sức ép về việc phong vương và cho rằng mình là người thanh vọng lớn có thể bắt
nước ta hàng phục một cách vinh quang.

Để ra oai, Phúc Khang An hoãn việc gửi biểu cầu phong đúng một tháng để đòi vua Quang Trung đến
Nam Quan khi đó y sẽ dàn xếp để đưa đến Thụ Hàng Thành – nơi đã có sẵn một lễ đài đồ sộ – và việc
tiếp biểu trở thành lễ thụ hàng giống như Mao Bá Ôn đòi Mạc Đăng Dung “xin hàng” đời Minh. Phúc
Khang An không đánh giá được tư thế của nước ta và chắc cũng chưa được đọc những lá thư gửi cho
Thang Hùng Nghiệp nên vẫn tưởng uy tín “hão” của ông ta sẽ làm triều đình Tây Sơn phải e ngại.
Ngoài việc đòi vua Quang Trung lên Nam Quan, Phúc Khang An cũng bắt nước ta phải thêm vào cống
vật hai con voi đã thuần hoá. Sở dĩ chúng ta biết được những đòi hỏi đó là vì vua Quang Trung đã
minh thị bác khước những đòi hỏi này trong lá thư gửi lên Phúc Khang An cuối tháng Tư.

Vai trò Nguyễn Quang Hiển

Sự xuất hiện của Phúc Khang An đưa đến một số thay đổi trong tiến trình đàm phán. Trước đây việc
trao trả tù binh được coi như mấu chốt từ chiến sang hòa. Khi việc trả người hoàn tất, triều đình nhà
Thanh đã sẵn sàng tiến sang bước thứ hai là thay đổi từ công nhận nhà Lê sang công nhận nhà Tây
Sơn. Việc hoạnh hoẹ của Phúc Khang An khiến cho nước ta cũng tương kế mà đổi kế hoạch.

Ngày mồng 6 tháng Tư năm Kỷ Dậu, Hô Hổ Hầu Nguyễn Hữu Trù – khi ấy là chánh sứ hầu mệnh –
gửi cho Thang Hùng Nghiệp một bức thư riêng thông báo việc định ngày gặp Phúc Khang An, trong
đó có đoạn như sau:

… Quốc trưởng nước tôi nhận được phong thư và lời dụ của ngài gửi đến biết rằng đại nhân có thịnh
tình chiếu cố phát xuất tự chân thành đáng ra phải đích thân đến gõ cửa quan để tận mặt nghe lời
chỉ bảo của thượng hiến.

Có điều nước vừa mới dựng, mọi việc chưa an định, chưa có lúc thảnh thơi nên không thể rời xa
quốc thành. Vì thế nên đã uỷ cho người thân là Nguyễn Quang Hiển đi cùng với phái đoàn để thay
mình đến cửa quan thay mặt thi hành lễ yết kiến, trước sau cũng một ý đó, không hề có chỗ nào tính
toán gì.

Nhưng vì đường sá nhiều suối lắm hang, nước mưa dâng cao khó mà đi lại, đi về không khỏi chậm
trễ, ước chừng trong khoảng 15, 16 tháng này mới có thể đến được trấn thành Lạng Sơn. Cho nên
bẩm lên trước như thế.[46]

Nghe tin triều đình Tây Sơn nhượng bộ và thông báo sẽ đưa một nhân vật quan trọng lên Nam Quan
tiếp xúc khiến cho quan lại nhà Thanh chấn động. Phía Trung Hoa cũng báo về triều là họ nghe tin
chuẩn bị công quán, đường sá, dân phu … suốt dọc đường từ Thăng Long lên đến Lạng Sơn và phái
đoàn có thể lên đến hàng trăm khiến cho chính quan lại nhà Thanh vừa ngạc nhiên, vừa khấp
khởi.[47] Phía nước ta cũng nói rằng đây là một nhân vật rất quan trọng để chứng tỏ trước sau một
lòng, tuy đại do thân (thay mặt nhưng cũng như chính mình) của vua Quang Trung.[48]
Tháng Ba năm Kỷ Dậu, trấn thủ Lạng Sơn được lệnh chuẩn bị lễ vật tiếp kiến gồm hai con trâu và
một gánh gạo.[49] Nguyễn Quang Hiển cùng Hô Hổ Hầu Nguyễn Hữu Trù và Vũ Huy Tấn đem một
biểu văn [ gửi vua Càn Long], hai tờ bẩm [gửi Phúc và Thang] giao cho Thang Hùng Nghiệp rồi chờ ở
Lạng Sơn đến hạn đưa phái đoàn sang để gặp mặt và nhờ tổng đốc Lưỡng Quảng tân nhiệm chuyển
tấu.
Lá thư vua Quang Trung gửi Thang Hùng Nghiệp còn ghi lại trong Lịch Triều Tạp Kỷ như sau:

Nghe rằng đại hoàng đế mới phái đại thần Gia Dũng Công xuống giữ nhiệm vụ tổng đốc Lưỡng
Quảng. Bộc ở nơi xa xôi từng nghe Gia Dũng Công danh tiếng bao la, uy vọng vòi vọi là người rất
được đại hoàng đế ngó xuống.

Nay đến đây trông coi toàn cõi Việt [tức Quảng Đông, Quảng Tây], quang lâm Nam Quan, ắt sẽ thể
theo đức nhân vỗ về kẻ xa, nuôi nấng kẻ yếu của đại hoàng đế để phủ tuy hạ ấp. Bộc trước nay chưa
từng được đệ lòng thành kính lên, ắt sẽ có cơ giãi bày nên cũng muốn đến cửa quan gõ cửa khẩn cầu
ân điển để đợi chỉ của đốc hiến.

Có điều bang gia mới dựng, không được thư nhàn, lúc này không thể rời xa quốc thành nên kính cẩn
soạn một bẩm văn sai cháu ruột là Nguyễn Quang Hiển đến cửa quan thay tôi cung kính hành lễ, đợi
xem cân nhắc thế nào. Việc đổi thay của bản quốc bên trong có nhiều điều khúc mắc nhưng bộc lòng
thành uý thiên sự đại cũng mong được tôn đài thể tất cho mà cố sức thành toàn, bẩm lên thượng
hiến, cùng là chỉ vẽ cho hành giới nước tôi lễ nghi yết kiến và thuật rõ quốc tình mong được chấp
thuận tâu lên thánh thượng để được thiên triều yêu thương mà cho liệt vào hàng phiên hàn thì thật
hân hoan không sao kể xiết.[50]

Thuận theo cách thức nặng phần trình diễn của nhà Thanh, nước ta cũng thông báo sứ bộ cầu phong
do Hô Hổ Hầu Nguyễn Hữu Trù, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Ninh Trực làm chánh và giáp ất phó sứ sẽ đi
chung với phái đoàn do Nguyễn Quang Hiển thay mặt vua Quang Trung sang triều kiến vua Càn
Long.

Một trong những tiêu chuẩn qui định trong Đại Thanh Hội Điển là tùy theo mức độ quan trọng mà
ấn định số người đi trong phái đoàn. Theo Đại Thanh Hội Điển chỉ một phái đoàn do phiên vương
đến bệ kiến mới lên tới con số 60 người. Bình thường, những sứ bộ triều cống, tạ ân … chỉ trong
khoảng 20-30 người [có khi ít hơn] mà thôi. Mỗi phái đoàn tùy theo đẳng cấp địa vị mà được tiếp
đón với cung cách khác nhau. Lần này tổng cộng hai phái bộ (cầu phong và triều cống) lên đến gần
70 người, đông hơn bất cứ một sứ đoàn ngoại quốc nào từ trước đến nay.[51]

Ngày 29 tháng Tư, lúc giờ Dần, tổng đốc Phúc Khang An ra lệnh cho tướng sĩ trấn thủ ở Nam Quan
dàn đội ngũ, dựng cờ quạt rồi bày hương án ở Chiêu Ðức Ðài để làm lễ tiếp nhận biểu văn. Sau nghi
lễ long trọng mở cửa quan, Thang Hùng Nghiệp mời Nguyễn Quang Hiển cùng 6 viên chức của sứ bộ
nước Nam [chánh sứ Nguyễn Hữu Trù, phó sứ Vũ Huy Tấn, thêm một thông ngôn và 60 tuỳ tòng,
tổng cộng 68 người qua Trấn Nam Quan.[52]

Ðến giờ Thìn, Thang Hùng Nghiệp đưa phái đoàn vào Chiêu Ðức Ðài nơi đây có Phúc Khang An đợi
sẵn bước ra nghênh tiếp. Phái đoàn nước ta đem theo một phó bản biểu văn của vua Quang Trung
gửi lên Thanh triều bằng lòng nạp khoản [納款][53] kèm theo vàng bạc và phương vật. Biểu văn như
sau:

Nguyên văn
安南國小目臣阮光平堇奏為冒瀝微誠仰干天聽事,欽惟大皇帝陛下,受天明命,為萬國君,臨御
五十餘年,洪恩溥洽,華夷內外,同風共貫,臣安南界居炎徼,久沐教聲。
乃因二百年來,國王黎氏失柄,權臣鄭氏專有其國,暨前王黎維端年老,輔政前鄭氏懦,兵驕民
怨,國內乖離。臣以西山布衣乘時舉事,丙午夏,興兵滅鄭,還國于黎。
其年前王謝世,又擁立其嗣孫維祁襲位。維祁為人淫暴,不恤國政,朝綱弛於內,邊釁生於外,
方宜陷害忠良,誅鋤族姓,國內之臣若民,奔愬於臣,請為出兵除亂。
臣自惟國者天朝所封之國,臣何敢自行廢置。丁未冬,遣一小將以兵問其左右之助桀者,而維祁
望風宵遁,自詒伊戚。戊申夏,臣至黎城,復委前黎王之子維監國承祀,經遣行价叩關,備以國
情題奏。
日者邊臣反書卻使,不即遞達。去年冬,調動大兵,出關征剿,臣遠道聞信,自念從來一片畏天
事大真衷壅於上聞,令前黎王子維及臣民稟文三道偕行价叩稟轅門,不料大兵真趨黎城,殺守兵
甚眾。
臣自揣進退無據,且其事總由黎維祁不道所致,於今年正月初五日進抵城下,並不敢與官兵抗拒
也。乃官兵殺戮太多,勢難束手就縛,迹似抗衡,臣不勝惶懼現在已將對壘之人查出正法。
伏惟大皇帝體天行化,栽培傾覆,一順自然,恕蠻無知之禍,諒款關籲奏之誠,樹牧立屏,用祈
籠命,俾臣得以保障一方,恪共侯服,則事有統攝,民獲乂安,皆出大皇帝陛下幬覆之仁。
臣謹當奉藩脩貢,以表至誠,臣拱北馳神,不勝激切屏營膽仰候命之至,謹奉表奏以聞。
– 恭遞上進儀物,金子拾鎰,銀子貳拾鎰。
– 謹遣行价貳名,阮有晭,武輝璞。
乾隆伍拾肆年貳月日。[54]

Dịch âm

An Nam quốc tiểu mục thần Nguyễn Quang Bình cẩn tấu vi mạo lịch vi thành ngưỡng can thiên thính
sự, khâm duy đại hoàng đế bệ hạ, thụ thiên minh mệnh, vi vạn quốc quân, lâm ngự ngũ thập dư niên,
hồng ân phổ hiệp, hoa di nội ngoại, đồng phong cộng quán, thần An Nam giới cư viêm kiếu, cửu mộc
giáo thanh.

Nãi nhân nhị bách niên lai, quốc vương Lê thị thất bính, quyền thần Trịnh thị chuyên hữu kỳ quốc,
ký tiền vương Lê Duy Ðoan niên lão, phụ chính tiền Trịnh thị noạ, binh kiêu dân oán, quốc nội quai
ly. Thần dĩ Tây Sơn bố y thừa thời cử sự, Bính Ngọ hạ, hưng binh diệt Trịnh, hoàn quốc vu Lê.

Kỳ niên tiền vương tạ thế, hựu ủng lập kỳ tự tôn Duy Kỳ tập vị. Duy Kỳ vi nhân dâm bạo, bất tuất
quốc chính, triều cương trì ư nội, biên hấn sinh ư ngoại, phương nghi hãm hại trung lương, tru sừ
tộc tính, quốc nội chi thần nhược dân, bôn sách ư thần, thỉnh vi xuất binh trừ loạn.

Thần tự duy quốc giả thiên triều sở phong chi quốc, thần hà cảm tự hành phế trí. Ðinh Mùi đông,
khiến nhất tiểu tướng dĩ binh vấn kỳ tả hữu chi trợ Kiệt giả, nhi Duy Kỳ vọng phong tiêu độn, tự di y
thích. Mậu Thân hạ, thần chí Lê thành, phục uỷ tiền vương chi tử Duy Cẩn giám quốc thừa tự, kinh
khiển hành giới khấu quan, bị dĩ quốc tình đề tấu.
Nhật giả biên thần phản thư khước sứ, bất tức đệ đạt. Khứ niên đông, điều động đại binh, xuất quan
chinh tiễu, thần viễn đạo văn tín, tự niệm tòng lai nhất phiến uý thiên sự đại chân trung ủng ư
thượng văn, lệnh tiền Lê vương tử Duy Cẩn cập thần dân bẩm văn tam đạo giai hành giới khấu bẩm
viên môn, bất liệu đại binh chân xu Lê thành, sát thủ binh thậm chúng.
Thần tự suỷ tiến thoái vô cứ, thả kỳ sự tổng do Lê Duy Kỳ bất đạo sở chí, ư kim niên chính nguyệt sơ
ngũ nhật tiến để thành hạ, tịnh bất cảm dữ quan binh kháng cự dã. Nãi quan binh sát lục thái đa, thế
nan thúc thủ tựu phọc, tích tự kháng hành, thần bất thắng hoảng cụ, hiện tại dĩ tương đối luỹ chi
nhân tra xuất chính pháp.

Phục duy đại hoàng đế thể thiên hành hoá, tài bồi khuynh phúc, nhất thuận tự nhiên, thứ man mạch
vô tri chi hoạ, lượng khoản quan dụ tấu chi thành, thụ mục lập bính, dụng kỳ lung mệnh, tỉ thần đắc
dĩ bảo chướng nhất phương, khác cộng hầu phục, tắc sự hữu thống nhiếp, dân hoạch nghệ an, giai
xuất đại hoàng đế bệ hạ trù phúc chi nhân.

Thần cẩn đương phụng phiên tu cống, dĩ biểu chí thành, thần củng bắc trì thần, bất thắng kích thiết
bình doanh đảm ngưỡng hầu mệnh chi chí, cẩn phụng biểu tấu dĩ văn.
– Cung đệ thượng tiến nghi vật, kim tử thập dật, ngân tử nhị thập dật.
– Cẩn khiến hành giới nhị danh, Nguyễn Hữu Chu, Vũ Huy Phác.
Càn Long ngũ thập tứ niên nhị nguyệt … nhật.

Dịch nghĩa

Thần là tiểu mục nước An Nam Nguyễn Quang Bình mạo muội kính cẩn đem tấm lòng thành tâu lên
mong đại hoàng đế bệ hạ (là bậc) thụ mệnh sáng như trời, vua của vạn quốc, ở trên ngôi báu đã trên
năm mươi năm, hồng ân rải khắp mọi nơi Hoa cũng như Di đều được thấm nhuần, (cả đến) nước An
Nam của thần tuy ở chỗ viêm nhiệt xa xôi cũng từng được tắm gội, (xin) lấy đức lớn mà nghe cho.

Hai trăm năm qua, quốc vương họ Lê (nước tôi) mất quyền khiến cho quyền thần họ Trịnh coi giữ
việc nước, đến vua trước là Lê Duy Ðoan tuổi già, phụ chính họ Trịnh hèn yếu, binh kiêu dân oán,
khiến người trong nước chia rẽ ngả nghiêng. Thần là kẻ áo vải đất Tây Sơn (vì thế) phải tuỳ thời mà
dấy lên, mùa hạ năm Bính Ngọ, hưng binh diệt họ Trịnh, trả lại nước cho họ Lê.

Trong năm đó tiền vương tạ thế, thần lại đưa tự tôn là Duy Kỳ lên nối ngôi. Duy Kỳ là người dâm
bạo[55], không lo quốc chính, mối giềng lỏng lẻo bên trong, lân bang gây hấn ở bên ngoài, chỉ lo hãm
hại trung lương, giết người trong họ, người trong nước cũng như bầy tôi đều chạy về với thần, xin
xuất binh trừ loạn.

Thần vẫn biết rằng nước đây đã được thiên triều sách phong, đâu dám tự ý phế lập. Mùa đông năm
Ðinh Mùi mới sai một tiểu tướng đem binh ra hỏi tội bọn tả hữu dám giúp cho kẻ Kiệt kia, hay đâu
Duy Kỳ mới nghe tiếng đã bỏ chạy, tự mình làm khổ mình. Ðến mùa hạ năm Mậu Thân thần đến Lê
thành, đưa con của vua trước là Duy Cẩn trông coi việc thờ tự và giám quốc, rồi sai người sang gõ
cửa quan trình bày mọi việc trong nước.

Khi đó người biên thần (chỉ Tôn Sĩ Nghị) lại trả lại thư, đuổi sứ về, không chịu đề đạt lên. Mùa đông
năm ngoái y lại điều động đại binh, xuất quan qua đánh, thần ở xa nghe tin, tự nghĩ xưa nay một
lòng kính sợ thiên triều, định đem tấc lòng giãi bày lên trên, nên mới bảo vương tử Lê Duy Cẩn và
thần dân gõ cửa trình ba bẩm văn, ngờ đâu đại binh tiến thẳng đến Lê thành, giết binh trấn giữ
nhiều vô số kể.
Thần chẳng biết tiến thoái ra sao, việc đó chính là do Lê Duy Kỳ không biết tính toán, nên đến ngày
mồng năm tháng giêng năm nay tiến đến Lê thành, đâu có dám chống cự lại quan binh. Thế nhưng
quan binh tàn sát quá lắm, thế không thể thõng tay chịu trói nên đành chống trả. Việc đó cũng khiến
cho thần sợ hãi nên đã đem những kẻ dám đối địch chính pháp cả rồi.
Cũng mong đại hoàng đế theo mệnh trời hành hoá, tài bồi cho kẻ ngả nghiêng, thuận theo tự nhiên,
tha thứ cho kẻ man di không biết, thấu cho lòng thành của kẻ cầu xin được chăn dắt ở một cõi mà để
cho thần được đứng chắn một phương, làm chư hầu tuân phục thì mọi sự được thống nhiếp, dân
chúng được yên ổn làm ăn, cũng đều do đức nhân của đại hoàng đế ban cho cả.

Thần nguyện triều cống theo lệ nước phiên, dâng biểu chí thành, hướng về phương bắc, không khỏi
cảm kích trông đợi mệnh lệnh kính cẩn dâng lên tờ biểu này.

– Cung kính đệ lên tiến vật gồm mười dật vàng, hai mươi dật bạc.

– Cung kính sai hai hành nhân là Nguyễn Hữu Trù, Vũ Huy Phác.

Càn Long năm thứ 54, tháng hai ngày…

Sau nghi lễ tương kiến, chánh sứ Nguyễn Hữu Trù đứng ra trao biểu văn, tổng đốc Lưỡng Quảng
thay mặt Thanh đình tiếp nhận.

Sau đó phía nhà Thanh mở đại tiệc khoản đãi sứ bộ, đích thân Phúc Khang An bồi tiếp Nguyễn
Quang Hiển. Trong câu chuyện ngoài lề, Nguyễn Quang Hiển cũng cho hay những kẻ phạm tội sát hại
các tướng lãnh nhà Thanh đã bị xử tội rồi, Phúc Khang An nghe xong coi như việc đã giải quyết, đề
nghị sau này không nhắc tới nữa, chỉ xin nước Nam lập cho một cái miếu, xuân thu cúng tế những
binh sĩ nhà Thanh tử trận. Ðể chính thức hoá việc cầu phong, Nguyễn Quang Hiển sẽ thay mặt triều
đình Quang Trung cầm đầu phái đoàn lên Bắc Kinh triều kiến.[56]

Lễ hoàn tất, phái đoàn nước ta trở về Lạng Sơn để đợi quyết định của hoàng đế nhà Thanh chấp
nhận cho phái đoàn lên kinh đô chiêm cận. Hai bên cũng đồng ý giảm thiểu số quân trấn đóng tại
biên giới. Phúc Khang An ra lệnh rút các đạo quân Quảng Ðông, Vân Nam đang ở Quảng Tây về
doanh trại. Tôn Sĩ Nghị sau khi thua trận, thân thể hư nhược, bị bệnh phong thấp lúc đó đang nằm
dưỡng bệnh nay cũng được lệnh cho về Nam Ninh nghỉ ngơi, còn Phúc Khang An cũng không còn
phải chầu chực ở Trấn Nam Quan nữa. Nước ta cũng ra lệnh cho các đồn ải giảm bớt quân số.
Việc đàm phán nghị hoà đến đây đã xong, từ nay trở về sau chỉ là thủ tục. Các quan lo liệu việc giao
thiệp với Trung Hoa thở phào nhẹ nhõm, và chính quan nhà Thanh cũng trút được gánh nặng mấy
tháng qua. Dưới đây là bài thơ của Vũ Huy Tấn đã làm khi uống rượu với Tả

Giang đạo Thang Hùng Nghiệp ở Nam Quan:

左江道臺公偶中興吟。示劉州閣

寳林山在關南界首

固知字小聖朝寬,要使彤弓掛月閒。

下國一心顒北闕。微臣七渡叩南關。
海函直出尋常外,天照渾如咫尺間。

今日有心同桼雨,鴻恩永勒寳林山。

Dịch âm

Tả Giang đạo đài công ngẫu trung hứng ngâm


Thị Lưu Châu các
Bảo Lâm sơn tại quan nam giới thủ
Cố tri tự tiểu thánh triều khoan,
Yêu sứ đồng cung quải nguyệt nhàn.
Hạ quốc nhất tâm ngung Bắc khuyết,
Vi thần thất độ khấu Nam quan.
Hải hàm trực xuất tầm thường ngoại,
Thiên chiếu hồn như chỉ xích gian.
Kim nhật hữu tâm đồng tất vũ,
Hồng ân vĩnh lặc Bảo Lâm san.

Dịch nghĩa

Ở gác Lưu Châu


Cùng Tả Giang đạo [Thang Hùng Nghiệp] ngẫu hứng ngâm
Núi Bảo Lâm ở cửa biên giới phía nam [tức Nam Quan]
Vẫn biết rằng thánh triều rộng rãi nuôi nấng kẻ bé nhỏ,
Sứ thần như chiếc cung đỏ treo mặt trăng lúc nhàn nhã.
Hạ quốc một lòng thành tâm quay về triều đình phương bắc,
Kẻ bề tôi bé nhỏ phải bảy lần gõ cửa Nam Quan.
Lượng như biển nên dung chứa được sự tầm thường,
Thiên tử chiếu xuống gần trong gang tấc.
Hôm nay có lòng giống như keo sơn,
Sẽ mãi mãi ghi tạc ơn lớn vào núi Bảo Lâm.

Chỉ trong vài hàng Vũ Huy Tấn cho chúng ta biết tuy thuận chèo mát mái, ông cũng phải lên xuống
đến bảy lần để đàm phán với quan lại nhà Thanh.
Giai đoạn mật nghị không chính thức – Tháng giêng đến tháng hai
năm Kỷ Dậu

Trong thời gian này, quan nhà Thanh ở địa phương chưa nhận được chỉ thị chính thức từ triều đình
nên yên lặng chờ biến chuyển và phản ứng của nước ta. Sau khi nhận được chỉ thị từ vua Càn Long,
quan nhà Thanh tạ o ra mọ t mạ t trạ n giả bà ng cá ch tung tin Tôn Sĩ Nghị đã bị triệu hồi và Phúc
Khang An sắp sửa tiết chế “chín tỉnh binh mã”, “tứ lộ giáp công”.

Vua Càn Long ra lệnh cho củng cố biên phòng và tìm kiếm nhóm vua Lê, các nhóm thổ hào và xưởng
dân chạy sang Trung Hoa trước khi đưa ra một đường lối chính thức. Việc dung chứa những người
An Nam lúc này ngoài lý do “đại nghĩa nước lớn” như họ thường rêu rao còn có mục đích xây dựng
một lực lượng trừ bị để dùng đến khi cần.

Về phía nước ta, việc đầu tiên là cử một phái bộ lên Lạng Sơn trình bày nguyên do tranh chấp, đổ lỗi
cho Tôn Sĩ Nghị đã vứt thư, khước sứ và chủ động gây khó khăn rồi nhờ quan địa phương làm trung
gian để trình bày lên Thanh đình. Sau nhiè u là n qua lạ i, Tôn Sĩ Nghị sai Thang Hùng Nghiệp liên lạ c
bá n tin cho triều đình Tây Sơn biết vua Lê và thân quyé n hiẹ n đang ở Trung Hoa như một áp lực
ngầm ràng buộc những điều nhà Thanh đòi hỏi.

Kết quả

Tôn Sĩ Nghị bí mật xúc tiến việc giảng hòa và sai Thang Hùng Nghiệp liên lạc để yêu cầu trao trả tù
binh như một thiện chí khai mở.

Giai đoạn đàm phán bán công khai – Tháng hai đến tháng ba năm
Kỷ Dậu

Khi được tin triều đình An Nam cầu hoà, Thanh triều lập tức đưa ra những đòi hỏi cơ bản bao gồm
phải trao trả những người bị bắt và sửa đổi lý do chiến trận thành một lỗi lầm kỹ thuật [Nguyễn Huệ
đem quân ra chỉ để hỏi Tôn Sĩ Nghị tại sao động binh và bị bức bách phải giao chiến] và thêm một số
nhượng bộ mang tính rửa mặt như đem những người giết tướng lãnh nhà Thanh ra chính pháp, lập
đền thờ tướng sĩ trận vong …

Về phía An Nam, các nho sĩ được điều động để làm sứ giả con thoi giữa Thăng Long và Lạng Sơn chủ
yếu là thay đổi ngôn từ cho thích hợp với yêu cầu của đối phương.

Kết quả
Nước ta tiến hành ba đợt trao trả tù binh và thuận tình thi hành một số yêu cầu đồng thời chuẩn bị
cống lễ đưa sang Trung Hoa

Sau những kết quả ban đầu và việc hoà đàm đã đi đến chung cuộc, tân tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc
Khang An bấy giờ mới xuất hiện. Để phô trương quyền lực của mình, họ Phúc không chấp nhận
việc một phái bộ Tây Sơn sang đưa biểu mà đòi vua Quang Trung đích thân lên Nam Quan xin
hòa. Triều đình An Nam tương kế đưa một phái đoàn lớn do Nguyễn Quang Hiển dẫn đầu thay mặt
vua Quang Trung sang Yên Kinh. Hành động này không những đáp ứng đòi hỏi của nhà Thanh mà
ngược lại ép buộc đối phương phải tiếp đãi long trọng cho xứng đáng với danh vị “tuy đại do thân”
của Nguyễn Quang Hiển.

Kết quả: Nhà Thanh đồng ý cho Nguyễn Quang Hiển thay mặt vua Quang Trung lên Bắc Kinhtriều
kiến nhưng vua Quang Trung chưa chính thức xác định sẽ tham dự lễ vạn thọ của vua Càn Long.

Thời gian hai bên đàm phán – từ lúc nước ta và Trung Hoa bắt đầu đặt vấn đề tái lập bang giao
đến khi nhà Thanh chính thức chấp thuận phong vương cho vua Quang Trung chỉ khoảng
hơn 2 tháng – một khoảng thời gian hiếm có trong giao thiệp giữa hai nước, nhất là việc truyền tin
qua lại từ Nam Quan đến Bắc Kinh mỗi lần đi phải mất nửa tháng theo dịch trạm hỏa tốc.
Trong khoảng một tháng đầu, các quan nhà Thanh ở Quảng Tây chưa biết quyết định của triều đình
ra sao nên ở trong tình trạng “đãi biến” [chờ xem thay đổi thế nào] và chỉ nhấn mạnh vào việc yêu
cầu trả về số tù binh bị bắt. Quyết định bỏ vua Lê để công nhận Tây Sơntuy tiến hành trong một
thời gian ngắn nhưng thủ tục không hề đơn giản và vẫn theo đúng điển lệ vốn dĩ rất phức tạp
của Trung Hoa.

[1] Cung Trung Đáng Càn Long Triều Tấu Triệp, q. 71 [tháng Giêng đến tháng Năm năm Càn Long
54] (1988) tr. 85-6.
[2]黎朝進士呉鰣時任,潘輝益,阮世歷與貢士文職武輝瑨,段阮俊,陶春閬等節次歸降。阮光平

各授以職官,許參辨邦郊辭令事。

…Lê triều tiến sĩ Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Thế Lịch dữ cống sĩ văn chức Vũ Huy Tấn,
Đoàn Nguyễn Tuấn, Đào Xuân Lãng đẳng, tiết thứ qui hàng. Nguyễn Quang Bình các thụ dĩ chức
quan, hứa tham biện bang giao từ lệnh sự …
[3] Viện Hán Nôm Hà Nội (cộng tác với Phục Ðán đại học Trung Quốc). Việt Nam Hán Văn Yên Hành

Văn Hiến Tập Thành 越南漢文燕行文献集成 [viết tắt YHVH] ( 2010) (đệ Lục sách) Bài Tựa Hoa

Nguyên Tuỳ Bộ Tập. tr. 293-4


[4] Tôn Sĩ Nghị cũng nhân dịp này trình lên với vua Thanh rằng y đã “trịch thư, khước sứ” (ném trả
thư, từ khước không gặp sứ thần) và đòi hỏi phía nước ta phải trả các quan binh bị bắt về như một
thái độ thiện chí trước khi đi tiếp những bước sau. Chính những lời lẽ khoa trương đó đã khiến vua
Càn Long rất đẹp lòng và cũng tự cho rằng tuy thất baị quân sự nhưng Trung Hoa đã thắng một mặt
trận ngoại giao mà không cần dùng binh khi bên ta đơn phương trao trả những người bị bắt ở
Thăng Long.
[5] Cao Tông Thực Lục, q. 1322, ngày Canh Dần tháng Hai.
[6] kẻ hèn này, tiếng tự xưng khiêm tốn
[7] thị cường lăng nhược, dĩ đa hiếp quả.
[8] Ngô Thì Nhậm, Bang Giao Hảo Thoại [viết tắt BGHT], “Bẩm Thiên Triều Quảng Tây Phân Phủ Tả
Giang Binh Bị Đạo Tổng Lý Biên Vụ Thang Đại Nhân” (Tờ Bẩm Của Quốc Vương Về Nguyên Do Việc
Binh Đao Gửi Thang Đại Nhân) NDC dịch theo nguyên bản Hán văn từ trang 614-9 in sau Ngô Thì
Nhậm tác phẩm, q. 1 [Mai Quốc Liên (chủ biên). Ngô Thì Nhậm tác phẩm(4 quyển) Hà Nội: nxb Văn
Học, 2001-2]
[9] Chi tiết này được ghi rõ trong lá thư gửi Thang Hùng Nghiệp sau khi lễ phong vương hoàn thành.
Xem BGHT, “Thỉnh Thang Đại Nhân – phong lễ cáo thành đệ thư minh tạ – Quốc Vương thư trình”
Ngô Thì Nhậm toàn tập, tập 3 (2005) tr. 518
[10] Cũng chính là Vũ Huy Tấn (tài liệu nước ta)
[11] Nguyễn Hữu Trù có tước Hô Hổ Hầu còn Vũ Huy Phác cũng chính là Vũ Huy Tấn. Theo tài liệu
của Hoa Bằng thì trong gia phả ông lại có tên là Liễn. (Tri Tân) số 40 ngày 31 Mars 1942, tr. 17
[12] Cao Tông Thực Lục (viết tắt TTL), q. 1323, ngày Ất Mão tháng Hai.

[13]窮兵黷武 (cùng binh độc vũ)

[14] LT, XXX tr. 36-7, Nguyễn Thị Tây Sơn Ký, tr. 59-62 (bản dịch NDC). Toàn văn bản tấu thư này
cũng được chép trong Tây Sơn Bang Giao Tập (A. 2364), Yale University, USA [1-3] và Tây Sơn Bang
Giao Lục (A. 1916) Viện Hán Nôm Hà Nội. Khi so sánh, đây chính là bản gốc của Ngô Thì Nhậm, nay
còn trong BGHT dưới nhan đề Trần Tình Biểu (tr. 789-96)
[15] Theo Trang Cát Phát, tờ bẩm này hiện tàng trữ trong Cố Cung Bác Vật Viện Đài Bắc, Quân Cơ
Xứ, nguyệt triệp bao, hòm số 2778, bao số 162, số hiệu 38979. TTVC (1982) chú thích 97 tr. 413
[16] Những lá thư kế tiếp cũng cho biết những lời không đúng sự thật trong biểu văn của nước ta
đều là lời bịa đặt do quan lại nhà Thanh mớm cho để cốt sao xong việc. Sử sách sau này đều nhất
loạt tô vẽ ra một Lê Chiêu Thống ngu độn, hôn ám, một thái hậu rước voi dày mồ, Lê Quýnh tham
lam nhút nhát, ăn của đút … cũng bắt đầu từ đây. Xem thêm “Lê Duy Kỳ, đáng thương hay đáng
trách?” và “Lê Quýnh”, biên khảo của NDC.
[17] TTL, q. 1324 ngày Bính Dần tháng Ba.

[18] Quỳnh瓊 là một thứ ngọc đẹp. Cửu 玖 là một thứ đá đen giống như ngọc

[19] 息事寜人寔惟大願。Ngừng chuyện cũ để cho người người được an ninh, đó thực là ước nguyện

lớn.

[20] 畏天事大。 sợ trời thờ nước lớn (nhưng thiên cũng đồng nghĩa với thiên tử là vua).
[21] 苞茅 bao mao (Hyparrhenia bracteata) cỏ tranh, tượng trưng cho lễ cống đơn bạc

[22] BGHT, “Bẩm Thang Đại Nhân Trình Bày Việc Giao Nạp Binh Sĩ” Ngô Thì Nhậm tác phẩm(1), tr.
621-3 (bản dịch NDC)
[23] BGHT, Ngô Thì Nhậm tác phẩm (1), tr. 623-4 (bản dịch NDC)
[24] Chúng ta cũng không thể bỏ qua yếu tố thời gian. Theo hệ thống dịch trạm đời Thanh, một tờ
biểu gửi từ Quảng Tây lên Bắc Kinh và nhận được trả lời dù sử dụng phương tiện nhanh nhất [600
dặm một ngày] cũng phải mất khoảng trên dưới một tháng. Chính vì thế, có những giai đoạn thư
nước ta gửi qua nhưng quan nhà Thanh lấy cớ là “không hợp thể chế” nhằm che dấu sự việc là họ
chưa nhận được chỉ thị từ trung ương và cần thêm thời gian để tính toán một giải pháp cho đúng ý
triều đình.
[25] Sau này khi Lê Duy Chỉ tiếp tục đóng quân “một cõi biên thuỳ” ở Cao Bằng, triều đình Quang
Trung cũng phải mượn đường Trung Hoa để đánh tập hậu “… Bấy giờ nhờ có quận Diễn, phiên thần
của nhà Lê cũ, coi giữ cửa ải Tụ-long, làm hướng đạo cho Tây-sơn, đưa đường đi đánh hoàng Ba Lê-
Duy-Chỉ ở Bảo-lạc. Các tướng Tây-sơn, với một số binh tinh nhuệ, do cửa ải Tụ-long sang qua đất
nhà Thanh đi ba ngày, sấn vào thành Bảo-lạc, bắt sống hoàng Ba với Phúc-Tấn và Văn-Đồng, giải về
Tụ-long rồi sai đóng cũi đưa về Thăng-long và dâng thư vào Phú-xuân báo tiếp [tiệp].” Hoa
Bằng: Quang Trung Anh Hùng Dân Tộc (1788-1792)(Saigon: Hoa Tiên, 1950) tr. 239
[26] Tây Phương Nhân Bút Hạ Đích Trung Quốc Phong Tình Hoạ (1997) tr. 38
[27] Toàn bộ bản văn này được khắc trên 8 thanh bích ngọc, hiện được lưu giữ trong Cố Cung Bác
Vật Viện Trung Hoa ở Bắc Kinh.
[28] Cháu gọi bằng ông tự xưng, tức bản thân vua Càn Long
[29] Niềm vui không làm gì mà vẫn đến
[30] Tiểu sử chi tiết của Phúc Khang An được chép trong Thanh Sử Cảo, q. 331 chung với Tôn Sĩ
Nghị và Minh Lượng.
[31] Cao Dương. Thanh Triều Đích Hoàng Đế (tập II). Đài Bắc: Viễn Ảnh, 1986 tr. 721
[32] TTL, q. 1321 (bản dịch NDC)
[33] Liệt Truyện, q. XXX, tr. 37.
[34] KDANKL, q. XVI, tr. 13. Trong số này có hai võ quan là Quảng Đông đề tiêu du kích Trương Hội
Nguyên và thủ bị Lao Hiển trước đâ đã báo cáo tử trận.
[35] Ngô Cao Lãng, Lịch Triều Tạp Kỷ (LTTK), nguyên bản Hán Văn, q. VI
[36] KDANKL, q. XVII, tr. 28. Trang Cát Phát, “Thanh Cao Tông sách phong An Nam quốc vương
Nguyễn Quang Bình thuỷ mạt”, Thanh Sử Luận Tập, q. XVIII (2008) tr. 237. Tuy nhiên không phải là
hết vì khi Thành Lâm sang phong vương cũng còn vài người đi lạc vào trong dân chúng được đưa về.
[37] Bị bắt tổng cộng 8 người nhưng Nguyễn Viễn Du bị bệnh đã qua đời trong ngục.

[38] Nguyên văn [泥首軍門] (nê thủ quân môn) nghĩa là rập đầu tận đất ở trước quân

[39] KDANKL, q. XVII, tr. 18-24 (bản dịch NDC)

[40] Trang, Cát Phát (莊吉發). Thanh Cao Tông Thập Toàn Võ Công Nghiên

Cứu (清高宗十全武功研究) [viết tắtTTVC]. Ðài Loan: Cố Cung Tùng San, Giáp Chủng số 26, tháng 6

năm 1982, tr. 387

[41] 不但非加兵之時實有不必加兵之勢。Tấu thư của Phúc Khang An, không rõ ngày nhưng theo

nội dung thì khảng đầu tháng Tư. Thanh Quí Nội Các Đáng Án Toàn Tập (1999) [tức Minh Thanh Sử
Liệu, Canh Biên] tr. 4225
[42] Sử nước ta đã ghi rõ là vua Quang Trung sai chuẩn bị hai con trâu và một gánh gạo đưa lên làm
lễ tiếp kiến chứng tỏ mọi việc đã sắp xếp ổn thỏa và phái đoàn nước ta sẽ qua Nam Quan để gặp
Phúc Khang An. Đến phút chót, Thang Hùng Nghiệp lại “kiên quyết từ chối” và chỉ cho qua ba người
gồm chánh sứ Nguyễn Hữu Trù, phó sứ Vũ Huy Tấn và hiệp trấn Nguyễn Ninh Trực cùng một thông
ngôn đi sang. Thực tế, ngày 28 tháng Ba, hai bên chỉ gặp nhau để bàn về nghi lễ sẽ thực hiện vào
hôm sau. Việc đưa quà “kiến diện” [tức ra mắt] nếu có là ra mắt Phúc Khang An, không thể ra mắt Tả
Giang Đạo Thang Hùng Nghiệp, vốn dĩ chỉ là một nhân vật trung gian không có thẩm quyền. Phúc
Khang An muốn có thêm một giai đoạn “tiền hội nghị” chỉ vì bản tích ông ta thích phô trương và
cũng để báo cáo lên vua Càn Long là mình đến đây đã khiến cho nước ta nể phục.
[43] KDANKL, q. XVIII, tr. 13-4 (bản dịch NDC)
[44] Lịch Triều Tạp Kỷ (LTTK), q. VI, (1995) tr. 594
[45] KDANKL, q. XVII, tr. 19 (bản dịch NDC)

[46]本國長參繹來函,與親諭之辭。知大人波照盛情。出於眞摯。擬卽親來叩關,面承憲旨。惟邦國

甫造。注措綏定。日不蝗暇。未能遠離國城。間已遴委親屬阮光顯赴關代行謁見禮。始終一念。並無

另有商酌之處。顧沿途溪壑,雨漲難行。往返不無捱緩,大約本月十五十六日以内,當到諒山鎭城

也。輒此先行禀知。LTTK, q.VI (bản dịch NDC)

[47] Việc đưa Nguyễn Quang Hiển sang thay mình chính quan lại nhà Thanh cũng không được thông
báo chi tiết nên Phúc Khang An, Tôn Vĩnh Thanh cũng nhiều lần tâu lên về việc này. Lúc đầu họ
tưởng là quả thực vua Quang Trung sẽ đích thân đến Nam Quan và đã chuẩn bị những lời lẽ uy hiếp.
Tuy nhiên, vua Quang Trung chỉ thông báo sẽ cho một ngưởi tên là Nguyễn Quang Hiển sang thay
mà chính Phúc Khang An cũng không biết là ai. Chỉ đến khi hai bên tương kiến, lúc đó Nguyễn Quang
Hiển mới thổ lộ thân phận là đích trưởng điệt tức con lớn của người anh cả trong các anh em
Nguyễn Quang Bình. KDANKL, q. XVIII, tr. 24-5, q. XIX, tr. 9-10
[48] Theo tấu triệp của Phúc Khang An đề ngày mồng 3 tháng 5 năm Càn Long 54 (1789) thì anh em
Nguyễn Quang Bình tất cả 4 người con trai, anh cả là Nguyễn Quang Hoa, chết sớm, kế đến là
Nguyễn Quang Nhạc, tức Nguyễn Văn Nhạc, thứ ba là Nguyễn Quang Bình, tức Nguyễn Văn Huệ, thứ
tư là Nguyễn Quang Thái, tức Nguyễn Văn Lữ. KDANKL, q. XIX, tr. 16.
[49] LTTK, [A15.6], q.VI, bản dịch Hoàng Văn Lâu (1995) tr. 592

[50]玆聞大皇帝新派大臣嘉勇公調任兩廣總督,僕僻處遐陬長聞嘉勇公襟宇汪洋,威望㞳峻,深

爲大皇帝所眷注。今控臨全粵,光履南關,必能上體大皇帝柔字之仁,以綏下邑。僕向來未達之忱

,想得有所陳白,擬即親來關上叩籲懇恩,候承憲旨。

但邦家甫造,注措弗遑。目今未能遠離國城,謹具禀函,遣親侄阮光顯赴關代躬行禮。竚候鈞裁。

本國荨涣事情,中間許多委曲,與僕畏天事大之誠台臺諒已具悉。仰祈鼎力成全,轉禀上憲,並

帯將本國行价指示進指止謁見禮儀。且具述國情,幸蒙準允具奏上,仗天朝威寵,列于藩翰不勝

翹跂之至也。LTTK [A15.6], q. VI (bản dịch NDC)

[51] Nếu tính phái đoàn Nguyễn Hữu Trù là 20 người thì phái đoàn Nguyễn Quang Hiển là 50 người,
dưới quốc vương một mức.
[52] Nghi lễ này so với các sứ thần nước ta khi trước sang phong vương rất đặc biệt. Trước đây bên
ta chỉ được qua 4 người, đón vào Chiêu Ðức Ðài rồi đi lên Yên Kinh dâng biểu cầu phong, xem ra
đơn bạc lắm. Mỗi lần sứ đoàn chỉ được từ 4 đến 6 người, thêm một vài đầy tớ, đến và đi chỉ được
tiếp đãi qua loa, sứ thần ta chỉ còn biết dùng văn thơ đối đáp để tỏ ý chí quật cường. Lần này phái bộ
nước ta được tiếp đãi là do chiến công trước đây 2 tháng nên tình hình khác nhiều. (Xem thêm
Hoàng Xuân Hãn: “Cuộc tiếp sứ Thanh năm 1683” và “Vụ Bắc Sứ năm Canh Thìn đời Cảnh Hưng”
trong La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, 1998, q II, từ trang 747-864)
[53] Từ ngữ đời xưa có nghĩa là bằng lòng thần phục
[54] Quân Cơ Xứ, nguyệt triệp bao, hòm số 2778, bao 162, số hiệu 38978, biểu văn của vua Quang
Trung dưới tên Nguyễn Quang Bình, Càn Long năm thứ 54, tháng 2. Trang Cát Phát, TTVC tr. 385-6
[55] trong lá thư của Ngô Văn Sở kêu gọi Phan Khải Ðức trở về cũng có nhắc đến việc Lê Duy Kỳ giết
chú, gian dâm với em (sát thúc, dâm muội). Cũng theo lá thư của thân tộc nhà Lê gửi Tôn Sĩ Nghị thì
ba vị hoàng thúc đó có tên là Lê Duy Lữ, Lê Duy Lân, Lê Duy Hội.
[56] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 387. KDANKL, q. XIX tr. 18-22
CHƯƠNG 2: CÔNG NHẬN TÂY SƠN

TỪ ĐỐI ĐẦU ĐẾN ĐỒNG THUẬN

ĐẠI VIỆT

Một trong những ẩn số của cuộc chiến là ngay từ trước khi giao tranh vua Quang Trung đã tính toán
một đường lối hoàn toàn khác với Miến Điện. Thay vì thách thức và bất cần, triều đình Tây Sơn biết
rằng từ vị trí địa lý, liên quan kinh tế, văn hóa, lịch sử, chính trị đều không lợi nếu tiếp tục đối đầu,
chi bằng nhân cơ hội đang có thế thượng phong mà cầu hòa thì sẽ tránh được một xung đột tốn phí
và dai dẳng. Nguyễn Huệ [nay được dùng dưới cái tên chính thức là Nguyễn Quang Bình] đã để ngỏ
ba cánh cửa làm tiền đề cho đàm phán hậu chiến:

– Thứ nhất, ông giới hạn việc truy sát chỉ tới bờ phía nam sông Nhị dẫu có sử dụng một số thuỷ quân
theo đường biển vào các cửa sông phá hoại và tiêu huỷ các đài trạm của quân Thanh từ Thăng Long
đến Lạng Sơn đề phòng quân địch sẽ lập một phòng tuyến mới sau khi rút khỏi kinh đô. Chính vì thế,
quân Thanh đã vượt sông Nhĩ Hà đều toàn mạng nên không ghi nhận một trận đánh nào khác sau
khi họ tháo chạy.[1]

– Thứ hai, Nguyễn Quang Bình đã chuẩn bị sẵn những phái đoàn nghị hoà ngay khi chiến tranh vừa
chấm dứt. Vừa tái chiếm Thăng Long, việc đầu tiên vua Quang Trung xúc tiến là tìm kiếm và kêu gọi
giới sĩ phu ra cộng tác với tân triều, không những không một ai bị trừng phạt mà còn được giao ngay
công tác tối quan trọng là “lấy ngọc lụa thay gươm giáo, chuyển binh mã thành gặp gỡ áo xiêm”.[2]

– Để tạo cơ sở ngoại giao, vua Quang Trung cũng tổng kết số lượng quan quân nhà Thanh bị bắt nay
đã được tập trung sinh sống riêng một nơi. Theo lời cung khai của tù hàng binh khi về nước thì họ
không bị ngược đãi mà được đối xử tương đối chu đáo. Nước ta cũng đệ lên các tài liệu biện minh
cho việc bất đắc dĩ phải dấy động can qua trong đó có các tờ hịch khiêu khích của Tôn Sĩ Nghị và văn
thư diễn tiến việc cầu hoà trước đây để trút trách nhiệm cho đối phương.

Trong tiến trình đàm phán, nhà Thanh đã dàn ra một vở kịch lớn để từ từ xoá đi nỗi nhục bại trận
với nhiều tướng lãnh cao cấp tử thương. Vở kịch đó hoàn hảo đến nỗi nhiều sử gia Trung Hoa – cả
đại lục lẫn Đài Loan –vẫn nhấn mạnh vào việc nước ta cầu hoà (mà họ gọi là khất hàng) được
Thanh triều chấp thuận mặc dù trên ngôn từ ngoại giao, cầu hòa không đồng nghĩa với khiếp nhược.

TRUNG HOA
Tháng Hai (năm Kỷ Dậu), Phúc Khang An có tâu lên như sau:

臣此時前往。自以養軍威。存國體爲要。至阮惠等聞内地四路會勦。勢必窮蹙款關。臣必不肯輕受其
請。俟其畏極感生。然後據情陳奏。[3]

Thần thử thời tiền vãng. Tự dĩ dưỡng quân uy, tồn quốc thể vi yếu. Chí Nguyễn Huệ đẳng văn nội địa
tứ lộ hội tiễu. Thế tất cùng xúc khoản quan. Thần tất bất khẳng khinh thụ kỳ thỉnh. Sĩ kỳ uý cực cảm
sinh, nhiên hậu cứ tình trần tấu.

[…] Thần lần này đến đây, ắt phải lấy việc nuôi nấng quân uy, giữ gìn quốc thể làm trọng. Còn
như bọn Nguyễn Huệ nghe tin nội địa bốn mặt cùng đánh,[4] thế ắt sợ hãi phải gõ cửa quan [cầu
khẩn]. Thần lúc đó không dễ dàng nhận lời thỉnh cầu đợi đến khi sợ quá hoá thương, lúc ấy cứ theo
tình mà tâu lên rõ ràng…

Ngày Tân Tị (24 tháng Ba) triều đình nhà Thanh nhận được tấu thư của Phúc Khang An trên đường
đến Nam Quan có đoạn nguyên văn như sau:

…臣行至廣西貴縣地方接授督篆一路密察安南動靜。並以情事推之黎維祁棄印潛逃竟係一童騃昏豎
。不足憐惜。其國中亦並無愛戴故主者。阮惠旣欲號召國人。自必仰藉天朝聲勢。其畏懼震懾。似非
虛假。惟曾抗我顏行。此時未便遽畧跡原心。臣到關後。當於拒絕之中。予以轉旋之路。總須審愼隄
防。一有把握。即當馳奏請旨。[5]

…Thần hành chí Quảng Tây Quí huyện địa phương tiếp thụ đốc triện, nhất lộ mật sát An Nam động
tĩnh. Tịnh dĩ tình sự suy chi, Lê Duy Kỳ khí ấn tiềm đào cánh hệ nhất đồng ngãi hôn thụ. Bất túc lân
tích. Kỳ quốc trung diệc tịnh vô ái đái cố chủ giả. Nguyễn Huệ ký dục hiệu triệu quốc nhân. Tự tất
ngưỡng tịch thiên triều thanh thế. Kỳ úy cụ chấn nhiếp, tự phi hư giả. Duy tằng kháng ngã nhan
hành, thử thời vị tiện cự lược tích nguyên tâm. Thần đáo quan hậu, đương ư cư tuyệt chi trung, dư
dĩ chuyển toàn chi lộ. Tổng tu thẩm thận đề phòng, nhất hữu bả ác, tức đương trì tấu thỉnh chỉ.

… Thần đi đến huyện Quí thuộc tỉnh Quảng Tây nhận triện tổng đốc, trên đường xem xét kỹ càng An
Nam động tĩnh ra sao. Cứ theo sự tình mà luận đoán, Lê Duy Kỳ bỏ ấn chạy trốn, hẳn chỉ là một đứa
trẻ u mê, không đáng để phải thương xót. Trong nước đó lại không có người muốn ủng hộ chủ
cũ. [Còn như] Nguyễn Huệ muốn kêu gọi dân chúng, ắt phải trông vào danh nghĩa của thiên
triều, [cho nên] việc sợ hãi khép nép hẳn không phải là giả dối. Có điều đã từng có hành động chống
cự lại ta, lúc này chưa tiện bỏ qua bụng dạ nguyên ủy thế nào. Thần đến [Nam] quan rồi, trong việc
cự tuyệt, cũng sẽ cho y một dịp quay đầu lại. Nói chung thì phải xem xét đề phòng thật cẩn thận, một
khi thấy được gì mới, thần sẽ lập tức tâu lên ngay để xin chỉ thị.

Phúc Khang An đã nói lên điều trong thâm tâm vua Càn Long mong mỏi nhưng không tiện nói ra vì
thể diện và vai trò của một vì thiên tử. Đó là làm cách nào có thể bỏ rơi Lê Duy Kỳ để xoay sang một
hướng khác thuận lợi hơn. Trước đây khi hưng binh tiến sang nước ta, nhà Thanh nêu cao nguyên
tắc “hưng diệt kế tuyệt” bảo vệ thuộc quốc như một chiêu bài sáng chói thì nay lại nhất loạt phủ
nhận cái quá trình thần phục hơn 100 năm qua mà cho rằng khí vận nhà Lê đã hết, Lê Duy Kỳ hôn
ám vô năng để quay sang công nhận người vừa mới đây còn là kẻ đối đầu, bị kết án là tiếm quyền,
cướp nước.
Việc tạo ra một “chuyển toàn chi lộ” [轉旋之路] như lời tâu của Phúc Khang An được khai triển dưới
nhiều áp lực, mỗi lúc một chút, khi bên này, lúc bên kia để hướng dẫn đối phương đi theo hướng mà
họ muốn.

CÁC BIỆN PHÁP RỬA MẶT

Khi Phúc Khang An sang làm tổng đốc Lưỡng Quảng, ông ta lập lại một số đòi hỏi vốn sẵn có trong
lịch sử giao thiệp với nước ta để xem Đại Việt sẽ nhượng bộ tới đâu. Vì chỉ là những quả bóng thăm
dò, hầu như rất ít ai nhắc đến những đòi hỏi này như những đấu tranh ngoại giao mà thường nhấn
mạnh đến những thách thức quân sự.

Xử tội những người đã giết các tướng nhà Thanh

Để giải thích cho qua việc Nguyễn Quang Bình khai rằng ông đem quân ra chỉ cốt nhờ thiên triều
phân xử phải trái với Lê Duy Kỳ nhưng vì không thể bó tay chịu chết nên đành phản ứng lại sự dũng
mãnh của “thiên binh” (quân thiên triều). Nhà Thanh nhân đó đã đòi xử tội những người đã giết hại
các tướng lãnh của họ. Yêu cầu đó là một đòi hỏi rất trái khoáy và cả hai bên cùng biết là giả dối nên
Phúc Khang An chỉ chờ nước ta thông báo đã xử phạt rồi thì liền tuyên bố sẽ gác việc đó qua một
bên không truy cứu thêm nữa.

Lập đền thờ những người tử trận

Nhà Thanh cũng yêu cầu nước ta phải lập một đền thờ, xuân thu cúng tế. Không cứ gì một trận chiến
khốc liệt như trận đánh năm Kỷ Dậu mà số người chết của cả hai bên lên đến hàng vạn, việc lập đền
thờ những oan hồn vất vưởng, cúng tế thập loại chúng sinh vốn dĩ là một tập tục khá phổ thông ở
phương nam nên triều đình Tây Sơn thấy không có gì trở ngại. Thành Lâm khi sang Thăng Long
cũng đã cùng với một số quan lại nước ta đến tế ở đền thờ tân tạo này. Hai việc trên đây thực ra
không nhằm đưa ra như những yêu sách ngoại giao mà thực sự chỉ là cái cớ để Phúc Khang An tâu
lên rằng nước ta đã thần phục và thỏa đáng những yêu cầu của Thanh triều.

Trả đất
Ngày 14 tháng Hai năm Kỷ Dậu, vua Càn Long gửi thư cho Phúc Khang An bắt nước ta đem các khu
vực có mỏ ở biên giới dâng cho nhà Thanh để tạ tội thì mới chấp thuận cho đầu hàng. Ngày 30 tháng
Hai, quân cơ đại thần nhà Thanh lại tra trong Đại Thanh Nhất Thống Chí để truy tìm thêm những
khu vực trước đây vua Ung Chính trả lại cho nước ta [mà họ nói là “ban cho”], bao gồm 40 dặm lấy
sông Đổ Chú [賭咒] làm ranh giới. Văn thư này nhà Thanh gửi cho Phúc Khang An theo lối hoả tốc
[600 dặm một ngày] có ý dùng như một áp lực trước khi họ chính thức nhận tờ biểu “thâu thành”
của nước ta.[6]
Nguyên đời Lê Gia Tông, Vũ Công Tuấn làm phản ở Tuyên Quang bị triều đình đánh đuổi chạy sang
Tàu, đem ba châu của nước ta (Vị Xuyên, Bảo Lạc, Thuỷ Vĩ) xin sáp nhập vào tỉnh Vân Nam để nhờ
nhà Thanh che chở, trong đó có cả mỏ đồng Tụ Long thuộc châu Vị Xuyên. Nước ta nhiều lần đòi lại
nhưng Thanh triều không chịu trả. Ðến năm Mậu Thân (1728, Ung Chính thứ 6, Bảo Thái thứ 9 đời
Lê Dụ Tông) sau khi quân Việt đánh lui được đạo quân Vân – Quí tràn qua, vua Ung Chính đành phải
nhượng bộ trả lại 40 dặm cho Ðại Việt.[7]

Năm Càn Long 34 (Kỷ Sửu, 1769), thổ mục là Hoàng Công Toản theo đường Mãnh Tích (猛腊) chạy
qua Vân Nam đem dâng cho nhà Thanh 7 châu Tung Lăng, Lễ Tuyền, Hoàng Nham, Tuy Phụ, Hợp
Phì, Lai Châu, Khiêm Châu.[8] Việc mất đất này nước ta nhiều lần đòi lại (từ đời Lê sang đời Tây Sơn,
rồi cả triều Nguyễn) nhưng không thành công. Trong khi đàm phán, nhà Thanh lại đòi phần đất 40
dặm vua Ung Chính đã trả lại nước ta kèm thêm một số mỏ sát biên giới Vân Nam nhưng triều đình
Tây Sơn không đồng ý.[9]

Cống voi

Trong các loại cống phẩm đưa sang Trung Hoa đời Thanh, nước ta không phải cống voi. Voi đã
thuần dưỡng [tuần tượng – 馴象] chỉ thấy các nước Nam Chưởng, Xiêm La hay Miến Điện tiến cống.
Khi đưa ra đòi hỏi phải cống voi, nhà Thanh muốn Đại Việt cũng phải như Nam Chưởng [tức Ai Lao]
nhằm hạ thấp coi như những tiểu quốc man mọi và cũng là một hình thức thị uy của Phúc Khang An.
Sau khi tiếp phái bộ Nguyễn Hữu Trù, họ Phúc thông báo nước ta muốn “đầu thành” phải cống voi
và đích thân vua Quang Trung lên cửa quan tạ tội. Triều đình Tây Sơn đã trả lời rất nhũn nhặn
nhưng cương quyết như sau:

Càn Long năm thứ 54 [Kỷ Dậu, 1789], ngày 28 tháng Tư

Tiếp kiến bồi thần nước tôi là Vũ Huy Tấn từ cửa quan trở về quốc thành [kinh đô Thăng
Long] thuật lại lời dụ tận mặt của ân công, một là đòi kẻ hèn này đến Nam Quan để yết kiến Phúc
công gia, hai là thêm vào cống vật của bản quốc bốn con voi, hoặc hai con, không phải là loại voi
đánh trận mà là loại voi đã thuần dưỡng, chuẩn bị cho sẵn sàng để tiến cống.
Phàm là chư hầu thống ngự ở núi sông các nơi, hẹn nơi mà tương kiến ấy là lễ, lấy hết sản vật đem
tới triều đình cũng là lễ vậy. Hai điều ngài dụ xuống là lẽ ấy, quả vì hạ quốc mà ân công chu toàn nên
muốn cả tình lẫn văn đều ổn thoả, nghi lễ phương vật đều xong để xin mệnh của hoàng đế. Đáp lại
thịnh tâm của chế hiến tôn đại nhân, kẻ hèn này quả thật không dám có ý gì khác.

Hiện nay nước tôi vừa mới ổn định, binh lính dân chúng cần nghỉ ngơi, từ cửa quan đi đường núi
xuống mất đến năm, sáu ngày mới đến được sông Phú Lương [tức Nhĩ Hà]. Sau khi binh lửa rồi nơi
nào cũng cây cối rậm rạp, nếu như tôi đi lên cửa quan, ắt phải đem theo nhiều binh sĩ hộ vệ, phá núi
khai đường, gặp khe bắc cầu sức dân rất là hao tốn, lại thêm trên đường đi việc cung ứng cũng thật
phiền phức. Do kẻ hèn này xin được ân phong mà phải lặn lội sơn khê, phí phạm tài lực dân chúng,
trong lòng quả thực có chỗ áy náy không yên, ân công cũng nên nghĩ đến tình này mà để cho hạ quốc
không phải mệt nhọc.

Còn việc gõ cửa quan để trình bày mọi việc thì tôi đã sai cháu ruột là Nguyễn Quang Hiểnthay tôi mà
làm lễ đem biểu nhập cận rồi. Đến tấm lòng cung thuận, hết sức tha thiết chí thành, tuy kẻ hèn nay
chưa đích thân đến được, thì cháu tôi cũng đã thay mặt mà làm đấy thôi chứ nào có lần lữa.
Nếu được các đại phu bỏ qua cho, tôi sẽ lấy lòng chí thành hết sức mà phụng sự đại hoàng đế như
trời, tuy cách xa vạn dặm mà uy nhan thực gần như gang tấc. Nếu như được lượng rộng như bể cả
của Phúc công gia mà chiếu cố để gầy dựng cho bản quốc chỉ còn chưa được đến mạc phủ đâm ra
thiếu sót việc trần tình chuyện cũ, ấy cũng đều là ở tấm lòng chí thành chứ không phải vì ngạo mạn
mà thác ra như thế.

Còn như voi để đánh trận thì ngài đã thể lượng cho tình hình trong nước mà không đòi tiến cống.
Đến như voi đã huấn luyện rồi, ấy là sản vật thường có của phương nam, mong ân công vì kẻ hèn
này mà ngọc thành cho việc tốt, sau này được liệt vào vương hội thì dẫu có ngọc dạ quang, vải tị hoả
tôi cũng tìm cho bằng được để dâng lên.

Còn như voi đã thuần là chuyện nhỏ, các nước Miến Điện, Nam Chưởng cũng còn có được thì lẽ nào
nước tôi lại không có hay sao? Có điều ở bản quốc thì có nhiều voi ở vùng rừng núi tây nam, các
giống man Lao, Phàm, Cao,Hợp có, trước đây cũng đã từng thu dụng đến hỏi mua ở những nơi này.

Từ khi binh lửa các nơi ấy cũng không yên, những con voi tôi dùng trong chiến trận đều là voi trong
các chuồng của họ Trịnh, họ Nguyễn còn lại, tính ra cũng chẳng còn nhiều. Những con voi đó tính
tình dữ tợn, bướng bỉnh, phải dùng tượng nô người man, biết cách dùng bùa chú vùng rừng núi thì
mới có thể chế phục được. Số voi đó nay đã xua vào trấn giữ biên giới phía nam để khống chế chư
man.

Kẻ hèn này đã đem bản quốc nội thuộc, ấy là phên dậu của thiên triều rồi thì những con voi dùng
trong việc binh tuy ở hạ quốc nhưng có khác gì ở thượng quốc. Còn tuần tượng là giống voi không
giỏi chiến đấu, người man dụ được rồi huấn luyện, hiện nay các bộ lạc trong núi như Hạt Xà Kiều,
Hạt Xà Đồng, Chiêu Pha Mang, Lộc Quần các tù trưởng đánh lẫn nhau.
Bản quốc nay mới tạo dựng, việc trong nước còn đang trù tính, đợi các nơi tương đối vững vàng,
nhờ vào uy linh thiên triều, sẽ tính đến chuyện các xứ man khi đó sai sứ đến bắt họ vào khuôn phép,
khi đó có thể mua được voi để tiến hiến lên.

Còn như từ quốc thành trèo non vượt núi để đến các thuộc đỗng thì phải chinh phục các giống sơn
man mới có thể lấy, cho nên việc voi thuần dưỡng thực không phải dễ dàng gì mà cũng không gấp
được.

Còn nhục quế Ái Châu, từ khi bản quốc có chuyện loạn lạc, các hộ trồng quế không còn chăm lo nên
dù tôi đã sức xuống cho các trấn mục, hết sức tìm kiếm trong núi loại thượng hạng, đến khoảng
tháng nhuận hạ thì chắc cũng được vài cân sẽ kính cẩn đưa lên thượng hiến để tỏ tấc lòng thành
kính.

Ngày xưa đại hiền họ Mạnh [tức Mạnh Tử] có ví cắp núi mà nhảy qua biển để nói về việc khó có thể
làm. Mấy điều kẻ hèn này trình lên chưa làm được mà ân công đã phí bao tâm sức giúp lại, quả thật
là hiệp sơn siêu hải chi sự vậy khiến cho tôi hết sức sượng sùng chỉ biết đem hết tình ghi khắc trong
phế phủ, những điều nghi ngại không thể không đưa lên để ngài xem xét.
Trông lên sao Đẩu, sao Khuê, đốt hương hạ bút mong ngài trông đến thì thật may mắn.[10]

Cống người vàng


Trong vai trò đại thần trấn ngự biên cương, Phúc Khang An là người chủ trì mọi việc tiếp xúc với
nước ta để đạt được mục đích “dưỡng quân uy, tồn quốc thể” mà ông ta đã tâu lên vua Càn Long như
một tiêu chí cơ bản cho vai trò của mình.

Trước hết, họ Phúc minh định rằng muốn được công nhận làm An Nam quốc vương, Nguyễn Quang
Bình phải thực hiện những đòi hỏi và lễ nghi mà mọi triều đại của nước ta phải thi hành. Chỉ đến đó
vua Quang Trung mới có thể xưng “thần” còn trước đó ông chỉ được giao thiệp với các cấp địa
phương và xưng mình là “tiểu phiên” [phên dậu nhỏ], “tiểu mục” [đầu mục nhỏ], “bộc” [kẻ hèn] hay
“An Nam quốc trưởng mục” [đầu mục trưởng của An Nam]. Nhà Thanh cũng chưa gọi ông là “quốc
vương” mà chỉ gọi là “quốc trưởng”.[11] Khi chưa chính thức chấp thuận, nhà Thanh cũng gọi tên tục
của ông là “Nguyễn Huệ” nhưng khi đã tiến hành việc phong vương, họ chuyển sang gọi tên ông
trong các văn thư [của chính họ] là “Nguyễn Quang Bình”. Ngược lại, vua Quang Trung luôn luôn
xưng tên mình là Nguyễn Quang Bình cho thấy không phải đợi đến khi cầu hòa với nhà Thanh ông
mới đổi tên như sử triều Nguyễn chép.

Một trong những điều kiện mà nhà Thanh đòi hỏi là quốc vương An Nam phải đích thân lên kinh đô
để được ban phát danh hiệu. Đây không phải là việc mới đặt ra mà có từ đời Nguyên và đời Minh
nhưng vì đường sá xa xôi lại e ngại triều đình Trung Hoa không thật lòng nên vua nước ta thường
tìm cách thoái thác.

Trong trường hợp vua nước Nam không trực tiếp sang được thì phải đưa một người bằng vàng để
thay mặt [đại thân kim nhân]. Còn như nếu là hậu quả của một vụ binh cách, nước ta còn phải đền
mạng cho tướng lãnh bị giết [trường hợp Liễu Thăng đời Minh], và cũng phải làm một người vàng
khác thế vào. Phúc Khang An cũng chiếu lệ cũ để đòi nước ta phải cống người vàng nếu quốc vương
không đích thân sang Yên Kinh.[12]

Qui luật này về sau cũng nhạt dần và trở thành một đòi hỏi hình thức có tính vòi vĩnh hơn là nghi lễ
nên nước ta phải bấm bụng chấp thuận nhưng luôn luôn coi đó như một món nợ phải trả. Đến khi
Mạc Đăng Dung cống người vàng đúc hình cổ buộc dây, mặt cúi xuống thì sĩ phu đều coi như một nỗi
nhục khó mà gột rửa. Tệ hơn nữa, họ Mạc chỉ được phong An Nam đô thống sứ, một chức quan tòng
nhị phẩm chứ không phải là An Nam quốc vương.

Ngô Thì Nhậm thay mặt vua Quang Trung đã trả lời rất đanh thép về lịch sử và nguyên do việc cống
người vàng[13] nên Phúc Khang An đã bí mật đề nghị một biện pháp trung gian là cử người thay
mặt sang Trung Hoa. Vua Quang Trung thuận theo ý đó và thông báo rằng sẽ đưa một nhân vật quan
trọng “tuy đại do thân” [tuy thay mặt nhưng cũng như chính mình] đích thân đem tờ biểu cầu phong
sang kinh đô.

Nghe tin đó, Phúc Khang An vội vàng báo về triều và chuẩn bị đón tiếp. Khác với những báo cáo của
quan lại ở Quảng Tây, việc tiếp đón đó tương đối trọng thể và là một mốc lớn trong lịch sử giao
thiệp với Trung Hoa cuối thế kỷ XVIII.

[1] Theo báo cáo của nhà Thanh, số quân lính đi theo đường Lạng Sơn trở về Quảng Tây đều là
những nhóm nhỏ vượt đường núi còn toàn bộ số binh lính bảo vệ lương đài đều tử trận. Điều đó
giúp chúng ta suy luận rằng những cánh quân phá huỷ các trạm lương thực được thực hiện không
trước thì cũng đồng thời với các cánh quân tiến vào Thăng Long, có lẽ là những hải phỉ vốn là dư
đảng Thiên Địa Hội sau khi thất trận ở Đài Loan được Nguyễn Huệ thu nhận và phong tước đã theo
đường sông tiến lên đánh vào các nơi tồn trữ lương thực của quân Thanh. Sử triều Nguyễn có chép
một người là đô đốc Tuyết cầm quân thuỷ đánh vào sông Lục Đầu. Cũng ông này, khi nhà Tây Sơn đã
bị diệt vẫn còn chỉ huy hoành hành trên biển và từng đánh vào duyên hải miền Bắc đời Gia Long.
Xem Quốc Sử Di Biên (1973) tr. 206, 211.

[2] 以帛玉代干戈,轉兵馬爲衣裳之會 (dĩ bạch ngọc đại can qua, chuyển binh mã vi y thường chi

hội) LT q. XXX “Nguỵ Tây: Nguyễn Văn Huệ” tr. 36


[3] TTL, q. 1323, tr. 913.
[4] Nhà Thanh phao rằng họ sẽ đem hai cánh quân đường bộ là Vân Nam, Quảng Tây và hai cánh
quân đường biển từ Khâm Châu (Quảng Đông) đánh vào miền Bắc và từ Phúc Kiến tiến xuống đánh
vào Thuận Hóa.
[5] TTL, q. 1325, tr. 942-3. Tục Tu Tứ Khố Toàn Thư, Đông Hoa Tục Lục, Càn Long 109 tr. 147
[6] Trang Cát Phát, TTVC (1982) tr. 387
[7] Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Ðại Nam Nhất Thống Chí, Phạm Trọng Ðiềm dịch (Huế: nxb Thuận
Hoá, 1997) tập 4 tr. 334-5
[8] Trung Quốc Xã Hội Khoa Học Viện Lịch Sử Nghiên Cứu Sở, Cổ Đại Trung Việt Quan Hệ Sử Tư Liệu
Tuyển Biên(1982) tr. 566
[9] Xem thêm “Đòi Đất Bảy Châu Hưng Hoá” biên khảo NDC.

[10]乾隆五十四年,四月二十八日

接見本國陪臣武輝瑨自關上回到國城,具述恩公面諭。一則要僕赴關。謁見福公爺。二飭令本國貢

物,須添象四隻,或兩隻。不要打仗之象。只要馴優之象。以備進奉。

夫以諸侯統於方岳,卻地而謁見禮也。庭實旅百任土作貢。亦禮也。此二則諭來。乃思公曲為下國

周旋。欲其情文俱妥。儀物兼至。以邀大皇帝之庥命。答制憲尊大人之盛心。僕誠不敢有異。衹今小

邦初定。兵民甫息。關上一條山路。須五六日子方抵富良江。兵火之餘。叢篁滿目。如僕躬來關上。

又須帶隨多少兵衛。逢山開路。遇水疊橋。民力亦大勞攘。且派撥沿途。供需尤為煩擾。是僕以邀求

恩封之故。跋涉山溪。費了許多民財與力。於心上寔有踧踖不安之處。恩公洞悉此情。自當為下國舒

此勞頓。且僕叩關陳情。經遣親侄阮光顯代躬行禮。隨表入覲。葢其恭順之心,誠切諄篤。雖僕躬未

能來,僕侄猶僕之躬身也。非有所持疑。若小大夫之私憂過計者,僕惟以至誠持心,事大皇帝如天
,雖在萬里之遙,威顏不違咫尺。矧遇福公爺海量,恩公波照,於本國有大造化,獨未能一謁幕

府之前,探用歉然,葢前情所陳,皆由至誠所發,非敢偃蹇驕倨而爲是扺賴之辭也。至如打仗之

象,旣蒙體諒國情不在錫貢。卽馴擾之象,亦南方常產,蒙恩公爲僕玉成好事,將來列諸王會,

卽使夜光之珠,火浣之布,有可搜尋供貢,僕亦無所不盡其心。此馴象之微,錯出常貢,在緬甸

南掌諸國。猶能有之,豈以本國而獨不能之乎。惟本國象產。多在西南林間。牢凡臯合諸蠻有之。本

國前有所取用,並於此處討買。自兵興以來。蠻陬屢廸弗静,僕所蓄養打扙之象。皆鄭阮象場留來

之物,見數亦無幾。其象性頑惡,須用蠻子爲象奴,施以林隴符咒,方能制服得他。此象見今並已

驅出南陲,控禦諸蠻。僕旣以本國內屬,乃是天朝藩籬,卽可充兵用之象,其在下國亦猶在上國

也。馴象乃象之不善闘者,蠻人誘掖馴習得來,自今山蠻部落如曷蛇轎,曷蛇桐,佋頗芒,鹿群

諸酋長,互相攻打。本國締造之初,內事方在區畫,待邦域稍稍綏定,憑仗天朝威靈,謹當經理

諸蠻,使之去争順軌,便可責他採買奉轉進獻。然自國城踰山越嶺,乃芒達諸屬峝,必緝綏山蠻

,方能討取,馴象寔有未能容易著急者。又愛州肉桂,自本國兵亂,桂户不置榷場,謹已飭下鎭

目,勒令所在山子盡力採取上號之油美者,大約閏夏早晚,該得若干斤,謹奉獻上憲前,聊寓芹

敬。昔孟大賢以挾泰山超北海比况折枝。極言其難易之不侔。僕於向上數條,折之未能,而近來思

公費心囬幹,其所能皆挾山超海之事,愧甚感甚。惟以俯就至情,銘諸肺腑。故凡有所寚礙,不敢

不佈達於台鑒之前也。斗奎在望,臨紙焚香,敢希審悉爲幸。LTTK, q. VI, số hiệu A 15.6 VHN-HN

(bản dịch NDC)


[11] Việc chi li với danh xưng cũng vốn là một đặc điểm của Thanh triều như trước đây vua Ung
Chính từng khiển trách các quan người Hán xưng mình là “nô tài” là chữ chỉ dùng cho đại thần gốc
Mãn tộc.
[12] Dù được giải thích cách nào, việc đem người vàng sang cống là một việc hạ thấp quốc thể nhất
là trong những trường hợp cố tình làm bỉ mặt triều đình nước ta như việc đòi Mạc Đăng Dung phải
cống người vàng cúi mặt xuống có dây buộc vào cổ mà sau này nhà Lê phải tranh biện mãi mới được
đúc người vàng nhìn thẳng như truyền thống. Nhà Minh công nhận cả hai bên nhưng giáng cấp
người đứng đầu nước ta xuống An Nam Đô Thống Sứ, ngạch tòng nhị phẩm hiểu ngầm như một viên
quan của triều đình viễn thú. Tuy thực tế, hai triều Lê Mạc vẫn hoàn toàn tách biệt với Trung Hoa
nhưng trên giấy tờ, việc lệ thuộc đó là một mối nhục khó quên.

[13] BGHT, Biện Đại Nạp Kim Nhân (辨代納金人).

Chương III: phái bộ Nguyễn Quang Hiển

Tài liệu nước ta không đánh giá đúng mức chuyến công du của Nguyễn Quang Hiển, còn sử nhà
Thanh thì cho rằng chỉ là thái độ khiếp sợ của triều đình Tây Sơn.

Sử Việt Nam

Liệt Truyện [DNCBLT], quyển XXX nhan đề Nguỵ Tây chép:

已而福康安抵粵西専意講和。移書以利害譬諭之。惠亦以金幣厚遺求爲玊成。遂改名光平,遣其姪

阮光顯竝陪臣武輝瑨齎遞貢品,叩關懇請入覲。清帝嘉悅遂準其奏…

…Dĩ nhi Phúc Khang An để Việt Tây chuyên ý giảng hoà. Di thư dĩ lợi hại thí dụ chi. Huệ diệc dĩ kim
tệ hậu di cầu vi ngọc thành. Toại cải danh Quang Bình, khiển kỳ điệt Nguyễn Quang Hiển tỉnh bồi
thần Vũ Huy Tấn tê đệ cống phẩm, khấu quan khẩn thỉnh nhập cận. Thanh đế gia duyệt toại chuẩn
kỳ tấu …

…Thế nên Phúc Khang An đến Việt Tây [tức Quảng Tây] một lòng giảng hoà, gửi thư đem lợi hại mà
chỉ vẽ cho Huệ. Huệ cũng đem vàng tiền hậu hĩ tặng cho cầu xin giúp đỡ. Rồi đổi tên là Quang Bình,
sai cháu là Nguyễn Quang Hiển và bồi thần Vũ Huy Tấnđem cống phẩm, gõ cửa quan khẩn cầu xin
cho nhập cận [yết kiến hoàng đế]. Vua Thanh vui mừng nên thuận cho lời tâu …

Sử Trung Hoa
Nguỵ Nguyên trong Càn Long Chinh Vũ An Nam Ký viết nguyên văn:

…阮惠既踞安南。自知賈禍大。懼王師再討。又方與暹羅搆兵。恐暹羅乘其後。敂關謝罪乞降。改名

阮光平。遣其兄子光顯,賚表入貢。言守廣南已九世。與安南國敵國。非君臣。且蠻觸自爭。非敢抗

中國…

…Nguyễn Huệ ký cứ An Nam, tự tri giả hoạ đại, cụ vương sư tái thảo. Hựu phương dữ Xiêm La cấu
binh, khủng Xiêm La thừa kỳ hậu. Khấu quan tạ tội khất hàng. Cải danh Nguyễn Quang Bình. Khiển
kỳ huynh tử Quang Hiển, lãi biểu nhập cống, khẩn tứ phong hiệu. Ngôn thủ Quảng Nam dĩ cửu thế,
dữ An Nam quốc địch quốc, phi quân thần. Thả man xúc tự tranh, phi cảm kháng Trung Quốc…

…Nguyễn Huệ chiếm được An Nam biết rằng đã chuốc hoạ nên sợ quân nhà vua sẽ lại sang lần nữa,
lại mới cùng Xiêm La giao binh, sợ quân Xiêm thừa cơ đánh vào phía sau nên gõ cửa quan tạ tội xin
hàng, đổi tên là Nguyễn Quang Bình. [Chú: Theo Minh Sử, vua nước An Nam đều có hai tên, một tên
dùng trên các tờ biểu gửi sang Trung Quốc], sai con anh là Quang Hiển mang biểu sang xin cống
trong đó nói rằng ở Quang Nam đã chín đời, với An Nam là nước đối địch, không phải là vua tôi, ấy

là chuyện người man tranh giành với nhau (man xúc tự tranh蠻觸自争)[1] chứ không dám kháng cự

Trung Quốc. Xin được sang năm đích thân nhập cận ở kinh sư, lại lập miếu trong nước để cúng tế
các tướng sĩ đã tử trận.

Theo Thanh Sử (Cảo) quyển 527, Liệt Truyện 313, Thuộc Quốc truyện tam, Việt Nam chép rằng:

…阮惠自知賈禍。旣懼王師再討。又方與暹羅搆兵。恐暹羅之乘其後也。於是叩關謝罪乞降。改名阮

光平。遣其兄子光顯,齎表入貢。懇賜封號。略言守廣南已九世。與安南敵國。非君臣。且蠻觸自爭

。非敢抗中國…

…Nguyễn Huệ tự tri giả hoạ, ký cụ vương sư tái thảo. Hựu phương dữ Xiêm La cấu binh, khủng Xiêm
La chi thừa kỳ hậu dã. Ư thị khấu quan tạ tội khất hàng. Cải danh Nguyễn Quang Bình. Khiển kỳ
huynh tử Quang Hiển, tê biểu nhập cống, khẩn tứ phong hiệu. Lược ngôn thủ Quảng Nam dĩ cửu thế,
dữ An Nam địch quốc, phi quân thần. Thả man xúc tự tranh, phi cảm kháng Trung Quốc…
…Nguyễn Huệ tự biết mình đã chuốc lấy hoạ, lại sợ vương sư sang đánh lần thứ hai. Gần đây mới
cùng Xiêm La đánh nhau, nay sợ Xiêm La sẽ thừa cơ đánh vào phía sau, vì thế mới gõ cửa quan tạ tội
xin hàng. Đổi tên là Nguyễn Quang Bình, sai con của anh là Quang Hiển mang biểu vào cống, xin
được ban cho phong hiệu. Đại lược nói rằng đã ở đất Quảng Nam chín đời, với An Nam là nước địch,
không phải là vua tôi. Ấy là chuyện người man tranh giành với nhau chứ không dám chống lại Trung
Quốc …[2]

So sánh hai tài liệu, chúng ta có thể khẳng định rằng Thanh Sử Cảo [soạn cuối đời Thanh, đầu Dân
Quốc] chịu ảnh hưởng của Càn Long Chinh Vũ An Nam Ký [đời Đạo Quang], đã chép lại gần như
nguyên văn của Nguỵ Nguyên. Luận điểm này được sử dụng tại hầu hết các bộ thông sử sau này của
Trung Hoa.

Ý nghĩa của phái bộ Nguyễn Quang Hiển

Căn cứ vào lối tường thuật rất giản lược nêu trên, phái bộ Nguyễn Quang Hiển hầu như ít người biết
tới có chăng chỉ cũng như một sứ thần bình thường. Coi như một sứ bộ bình thường cũng đã thiếu
sót, Hoàng Lê Nhất Thống Chí lại hoàn toàn không đề cập đến phái đoàn này còn nhiều tài liệu thì lại
nhầm rằng đây chính là phái bộ “giả vương” đề cập trong sử triều Nguyễn. Việc lẫn lộn đó gây ra
nhiều thông tin sai lạc, đôi khi kết nối việc nọ với việc kia một cách tuỳ tiện vô sở cứ.[3]

Theo đòi hỏi của triều đình Trung Hoa, muốn được công nhận như một triều đại chính thức[4] – vua
An Nam phải đích thân sang kinh đô dâng biểu cầu hàng chứng tỏ đã qui phục một cách chân thành.

Để phản ứng lại đòi hỏi ngạo mạn này, vua Quang Trung và giới ngoại giao Tây Sơn đã đặt Thanh
triều vào hoàn cảnh phải công nhận Nguyễn Quang Bình như người đứng đầu duy nhất của nước ta.
Đó là cử một nhân vật mà trên danh nghĩa cũng không khác gì đích thân sang chầu: cháu gọi vua
Quang Trung bằng chú nhưng vai vế là trưởng tộc, hay ít ra cũng là trưởng chi của dòng họ Nguyễn
vốn đã chín đời ở đất Tây Sơn. Khi công nhận Nguyễn Quang Hiển thay mặt vua Quang Trung, vô
hình trung nhà Thanh cũng công nhận một triều đại mới. Đó chính là lý do tại sao thay vì tiếp tục
tiến hành các hình thức đàm phán, nước ta lại chấp nhận một hình thức “quốc vương sang chầu”
bằng một phái đoàn thay mặt làm trung gian.

Từ ý nghĩa “đại thân kim nhân” (người vàng thay mặt), nước ta đã đổi thành “tuy đại do
thân” (tuy thay mặt nhưng cũng như chính mình), vừa bảo tồn quốc thể, vừa khiến nhà
Thanh phải tiếp đón sứ bộ cầu phong của nước ta một cách khác thường.
Tuy nhiên, phái bộ Nguyễn Quang Hiển không chỉ thay mặt vua Quang Trung mà còn mang theo
nhiều nhiệm vụ khác, đóng vai trò một phái đoàn tiền sát để thu thập tin tức cho những bước đi kế
tiếp của triều đình Tây Sơn.
Tóm lược

Phái bộ Nguyễn Quang Hiển được cử đi với nhiều sứ mạng công khai và bí mật:
1. Thay mặt vua Quang Trung sang triều kiến hoàng đế nhà Thanh để chính thức hoá việc công
nhận triều Tây Sơn,
2. Tìm hiểu xem có thực Lê Duy Kỳ (vua Chiêu Thống) và tuỳ tòng hiện đang ở Quảng Tây,
3. Lượng giá việc Thanh triều mời Nguyễn Huệ sang Bắc Kinh có những âm mưu khác hay
không?

Trên nguyên tắc, việc Nguyễn Quang Hiển sang kinh đô nhà Thanh là một sứ bộ “thay mặt vua
Quang Trung” [5]để huỷ bỏ lệ cống người vàng với một nguyên cớ rất chính đáng là tình hình trong
nước chưa yên nên quốc vương không thể ra khỏi nước.

Ngược lại, nhà Thanh cũng muốn nhân phái đoàn thiện chí này để chính thức công nhận một tân
vương và từ bỏ sự trợ giúp dòng vua cũ.

Tìm hiểu về vua Lê và tuỳ tòng

Nhân dịp phái đoàn Nguyễn Quang Hiển sang Trung Hoa, Thanh triều sắp xếp họ đi qua Quế Lâm để
chứng kiến gia đình vua Lê và những người đi theo đã được an tháp ở Trung Hoa. Tất cả đều cạo
đầu, kết tóc, thay đổi y phục theo kiểu Mãn Thanh không còn triển vọng trở về tranh đoạt vương vị
với Nguyễn Huệ. Nhà Thanh cũng muốn chứng tỏ rằng họ không có dã tâm điệu hổ ly sơn, dùng
nguỵ kế để đưa Lê Duy Kỳ về nước.

Tình hình tiếp đãi

Vua Càn Long tạo mọi ưu sủng để phái đoàn Tây Sơn được đối xử một cách vượt mức thường. Ngoài
hai viên chức cấp tỉnh (Thang Hùng Nghiệp và Đức Khắc Tinh Ngạch) hộ tống suốt hành trình,
Nguyễn Quang Hiển cũng được đón tiếp bằng nghi lễ mà Phúc Khang An soạn ra, đến đâu cũng được
ăn yến, xem tuồng như khách quí.

Ưu đãi khi ở Nhiệt Hà và nghi lễ trang trọng khi nhận sắc ấn ở Bắc Kinh cũng gián tiếp thông báo
rằng khi vua Quang Trung sang chúc thọ, việc đối xử sẽ còn hậu hĩ gấp bội.
thanh triều

Các quan lại hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây đã nhân chuyến đi của Nguyễn Quang Hiển để ràng
buộc chấp thuận của vua Quang Trung sang dự lễ khánh thọ bằng những cam kết cụ thể.

Khi thấy nước ta chỉ hứa hẹn mơ hồ là đợi khi tình hình tạm yên vua Quang Trung sẽ sang triều cận,
Phúc Khang An liền gia tăng sức ép bắt Nguyễn Quang Hiển phải báo cho triều đình Tây Sơn xác
định trên giấy trắng mực đen cam kết quốc vương sẽ đích thân qua Bắc Kinh năm Canh Tuất.

Sau đó Phúc Khang An cũng tìm cách đưa một số thủ lãnh của các nhóm cựu thần nhà Lê sang Trung
Hoa làm con tin để áp lực khiến triều đình Quang Trung không thể nuốt lời.
Việc đưa một phái đoàn trung gian để giải quyết yêu sách của nhà Thanh, đứng về mặt thủ tục nước
ta có vẻ như kém thế vì đã phải chiều theo đòi hỏi của thiên triều. Tuy nhiên chiếu theo tình hình lúc
đó, việc đưa phái bộ Nguyễn Quang Hiển sang Trung Hoa đã gây ra khó khăn không ít cho đối
phương.

Trước hết, phái bộ Nguyễn Quang Hiển đã tạo thêm một giai đoạn trong quá trình công nhận, nếu
theo đúng nghi lễ có thể mất đến hàng năm và khi vua Quang Trung được phong vương thì hạn kỳ
chúc thọ đã trễ. Để phô trương và xoá đi việc thất bại quân sự, vua Càn Long ra lệnh làm lễ giao sắc
ấn cho Nguyễn Quang Hiển ở điện Thái Hoà mang về nước.
Khi biết vua Quang Trung sai cháu đem biểu cầu hàng sang kinh đô, vua Càn Long đã gửi ngay một
đặc dụ và một bài thơ ngự chế sai Phúc Khang An cho người đem sang Thăng Long.

Khi tính toán việc gửi một phái đoàn sang báo trước rồi lại tự mình đích thân sang làm lễ phong
vương [như ý muốn của vua Càn Long], Phúc Khang An thấy không kịp. Để tranh thủ thời gian, Phúc
Khang An [có lẽ] đã tìm cách biến một phái đoàn tiền phong [đem thư và quà sang Thăng Long giao
cho Nguyễn Huệ] như bản ý ban đầu của vua Càn Long thành một phái bộ phong vương.

Hình thức vừa bất thường, vừa bất đẳng này đã gây nhiều thắc mắc và nghi ngại cho phía nước ta
đưa tới những hình thức phản kháng mà nhà Thanh phải miễn cưỡng chấp nhận.

Tuy không biết rõ tranh luận giữa hai bên như thế nào nhưng có lẽ nước ta cũng vin vào hình thức
để bác khước (nghi lễ quá cấp bách) hay tâm linh để biện bạch (phong vương mà không có sắc thư
hay ấn bạc) về việc cố đô hết vượng khí. Cũng có thể triều đình Tây Sơn cố tình diên trì để chờ
Nguyễn Quang Hiển về đến nhà rồi khi đó Thành Lâm mới làm lễ trao ấn, thụ sắc cho trịnh trọng.

Thủ tục cầu phong

Cứ theo đúng thủ tục [tương tự như đã xảy ra trong các triều đại trước], phái đoàn Nguyễn Quang
Hiển sang Yên Kinh với nhiệm vụ chính là đem biểu văn trình bày lý do về tranh chấp tại An Nam và
những “hiểu lầm” đưa đến việc quân Thanh thua trận. Biểu văn này thường được gọi là biểu “trần
tình”.

Một khi vua Càn Long chấp nhận những lời giải thích đó, nước ta mới đưa một phái đoàn đem lễ vật
mang biểu văn chính thức thần phục và xin phong vương cho vua Quang Trung. Biểu này gọi là biểu
“cầu phong”.

Sau khi nhận biểu qui thuận rồi, hoàng đế Trung Hoa mới gửi một đạo sắc thư phong cho Nguyễn
Quang Bình làm An Nam quốc vương (sắc phong) và cho người sang Thăng Long làm lễ để chính
thức hoá vai trò đó (phong vương). Trong trường hợp thay đổi triều đại, Thanh triều sẽ ban cho một
cái ấn mới để đổi cái ấn cũ như một dấu hiệu thay đổi mệnh trời.

Như lệ thường việc qua lại mất đến 2, 3 năm nhưng vì nhà Thanh muốn sớm có một quốc vương
sang chúc thọ, một số nghi lễ đã được thay đổi cho sát với thực tế nên việc thi hành có chỗ bị khiên
cưỡng. Việc tiết giảm gây thắc mắc khi nghiên cứu về tiến trình và nghi lễ của giai đoạn này.[6]

Nguyễn Quang Hiển sang Bắc Kinh có gì khác thường?


Việc đưa Nguyễn Quang Hiển làm trưởng phái đoàn một cách bán chính thức đã buộc Thanh triều
phải giải quyết cho thoả đáng. Nhiều chi tiết cho thấy phái đoàn Nguyễn Quang Hiển không nằm
trong kế hoạch dự tính trước và chính các quan nhà Thanh ở Quảng Tây cũng chỉ được thông báo
một cách bất ngờ.

Theo lời tâu của Phúc Khang An thì Nguyễn Hữu Trù gửi thư cho Thang Hùng Nghiệp thông báo
Nguyễn Quang Bình sẽ cử một đại diện lên Nam Quan trao tờ biểu cầu phong. Các quan nhà Thanh
chỉ biết đó là người thân tín và gần gũi với quốc trưởng [dưới danh hiệu “quốc thân” là người trong
họ nội của quốc trưởng] nhưng không rõ hai người có liên hệ thế nào?
Ngày17 tháng Tư, Nguyễn Quang Hiển và phái đoàn An Nam đến Lạng Sơn và tin này được báo ngay
cho quan nhà Thanh.

Ngay hôm sau [18 tháng Tư], Phúc Khang An ra lệnh cho Thang Hùng Nghiệp mở cửa đón sứ bộ Hô
Hổ Hầu Nguyễn Hữu Trù đánh tiếng là đem phó bản biểu văn để xem trước nhưng mục đích chính
yếu là trao đổi nghi lễ đón tiếp phái đoàn thay mặt vua Quang Trung được dự tính sẽ qua cửa Nam
Quan ngày hôm sau. Phúc Khang An xem biểu văn, sửa đổi vài chữ để Nguyễn Hữu Trù đem về viết
lại bản chính cho Nguyễn Quang Hiển đem qua.

Nguyễn Quang Hiển tại Nam Quan

Ngày 19 tháng Tư, giờ Dần [5-7 giờ sáng], nhà Thanh cho binh sĩ dàn thành đội ngũ ở Nam Quan,
trưng bày cờ xí [thể thức phô diễn của Trung Hoa và tính khí thích phô trương của Phúc Khang An]
làm lễ khai quan đón phái đoàn nước ta. Đến giờ Thìn [9-11 giờ sáng] sau pháo lệnh và chiêng
trống, cửa mở ra.

Phía nước ta, phái đoàn do Nguyễn Quang Hiển cầm đầu với 6 quan viên, 1 thông sự và 60 tùy tòng
cùng vài trăm binh sĩ dàn chào đã đợi sẵn. Thang Hùng Nghiệp đi sang làm lễ kiến diện với Nguyễn
Quang Hiển và quan viên, sau đó dẫn đường đưa phái đoàn nước ta qua ải vào Chiêu Đức Đài, nơi
đây đã trần thiết nghi vệ và hương án tượng trưng cho ngai vàng của hoàng đế nhà Thanh.

Phúc Khang An và quan lại nhà Thanh tiến ra chào hỏi. Theo đúng thủ tục, Nguyễn Quang Hiển và
tùy tòng đến trước hương án làm lễ tam quị cửu khấu là lễ ra mắt vua Thanh rồi quay sang làm lễ
kiến diện với Phúc Khang An.

Phúc Khang An và Nguyễn Quang Hiển hai người hướng vào nhau làm lễ nhất quị tam khấu[7][quì
xuống rập đầu ba lần], sau đó mỗi bên giới thiệu thành phần, thăm hỏi qua lại. Sau khi nghi lễ hoàn
tất, Phúc Khang An mời phái đoàn An Nam nhập tiệc, đích thân tổng đốc Lưỡng Quảng bồi tiếp
Nguyễn Quang Hiển, tuần phủ Quảng Tây và các quan địa phương tiếp các sứ thần.

Trong bữa ăn, Nguyễn Quang Hiển cho Phúc Khang An biết ông ta là “đích trưởng điệt [cháu lớn
nhất thuộc dòng chính], Nguyễn Huệ nuôi dạy như con. Cha tôi là Nguyễn Quang Hoa [阮光華] mất
sớm, chú thứ hai là Quang Nhạc [光岳], hiện ở Quảng Nam, chú thứ ba là Quang Bình [光平] tức
Nguyễn Huệ, chú thứ tư là Quang Thái [光泰] cũng sống ở Quảng Nam, trên núi Tây Sơn”.[8]

Như vậy, Nguyễn Quang Hiển là trưởng chi của dòng Nguyễn Nhạc tuy tuổi nhỏ nhưng theo truyền
thống Á Đông thì vai vế trong họ cũng lớn, sang Trung Hoa không phải như một nhân vật tầm
thường mà là đại diện cho dòng họ Nguyễn để thay mặt cầu phong.

Theo Phúc Khang An tâu lên thì Nguyễn Quang Hiển trạc độ 30 tuổi mỗi khi nhắc đến hoàng đế tay
bưng lên trán là cử chỉ tỏ vẻ cung kính. Nguyễn Quang Hiển trao lại cho tổng đốc Lưỡng Quảng tờ
biểu của vua Quang Trung gửi lên vua Càn Long. Việc gặp gỡ này là một biến cố lớn đành dấu việc
nhà Thanh chấm dứt ủng hộ nhà Lê sang công nhận Tây Sơn.[9]
Sau đó, Phúc Khang An hoả tốc báo lên vua Càn Long về diễn biến đồng thời chuyển thỉnh cầu xin
cho phái đoàn “thay mặt vua Quang Trung” lên triều cận [gặp mặt nhà vua] để chính thức dâng biểu
xin thần phục.

Việc chấp thuận đó cũng được cụ thể hoá bằng việc nhận các lễ vật nước ta đem sang bao gồm vàng
và bạc, phương vật đưa lên kinh. Biểu văn mà Nguyễn Quang Hiển mang sang xác định vua Lê và họ
Nguyễn không có quan hệ quân thần, Nguyễn Huệ vốn chỉ là một người không quan tước [bố y] tùy
thời mà nổi lên, đất Quảng Nam là đất cũ Chiêm Thành nên không phải là tranh nước của họ Lê. Việc
giao tranh với quân Thanh cũng do thế chẳng đặng đừng ngoài ý muốn.

Một khi được chấp thuận, phái đoàn sẽ đưa lễ vật và tờ biểu [bản chính] của nước ta lên kinh đô
triều kiến. [bản sao của biểu văn này đã được chuyển ngay lên Bắc Kinh kèm theo tấu thư của Phúc
Khang An xin công nhận Tây Sơn]. Khi phái đoàn lên Bắc Kinh, theo qui chế nhà Thanh họ sẽ cử một
quan viên “bạn tống” [đi cùng để hướng dẫn] theo một lộ trình, qua các trạm nghỉ nhất định.

Lợi dụng khi tình hình còn tranh tối tranh sáng, Phúc Khang An bí mật sai người sang An Nam dụ
nhóm Lê Quýnh sang Trung Hoa bàn quốc sự, với ý định đưa cả bọn ra khỏi nước, vừa xác định sự
thành tín của thiên triều, vừa dọn bớt chướng ngại cho Nguyễn Huệ đồng thời nắm trong tay một
con bài ngõ hầu có thể mặc cả về việc vua Quang Trung đích thân sang chúc thọ.

Trong khi sử nhà Thanh miêu tả phái bộ Nguyễn Quang Hiển như một sứ đoàn thần phục thượng
quốc, nghi lễ giữa hai bên gần giống như việc vua một nước nhỏ gặp sứ thần nước lớn trong Đại
Thanh Hội Điển Sự Lệ cho thấy việc vua Quang Trung cử Nguyễn Quang Hiển lên Lạng Sơn không
phải là một động thái khuất phục mà là một sắp xếp có chủ ý.
đáp ứng của thanh triều

Ngay khi được báo lên rằng Nguyễn Quang Hiển xin nhập cận, vua Càn Long liền chuẩn thuận và lập
tức gửi một sắc dụ cho Nguyễn Quang Bình [tức vua Quang Trung] xác định rằng nhà Thanh không
còn ủng hộ Lê Duy Kỳ nữa. Sắc dụ này viết ngày mồng 3 tháng Năm, còn ghi trong KDANKL [quyển
XIX] như sau:

Nguyên văn
據協辦大學士兩廣總督公福康安等奏。爾遣親姪阮光顯敬賫表貢。抵關乞降等語。並將原表呈覽

朕閱爾表內。稱爾先有廣南之地。非與黎氏有上下之分。上年曾遣人叩關。偹陳與黎氏搆畔緣由
。邊臣駁回。不卽遞達。嗣官兵出關征勦。直抵黎城。
爾於今年正月。前至黎城。欲向黎維祁詢問籲請大兵之故。不料官兵一見爾衆。奮勇殺戮。爾手下人
等。猝難束手就縛。又値江橋折斷。官兵致有損傷。不勝惶懼。已屢次遣人叩關請罪。並送回未出官
兵。其戕害提鎭之人。業目睹正法。
本應躬詣闕廷。陳情請罪。國內初罹兵革。人情惶惑。尚未安集。謹遣親姪阮光顯。隨表入覲。
並據阮光顯禀稱。爾俟國事稍定。尚乞親自到京譫覲等語。安南黎氏。立國已久。且臣事天朝。恪共
職貢。百有餘年。素著恭順。爾在廣南。從前並未修朝貢。上年黎維祁母妻赴關控訴。以爾搆亂稱兵
。佔據其國。致黎民顛沛流離。籲請救援。
此事爲天朝字小存亡。體統攸繫。是以前任督臣孫士毅。自請帶兵出關。其所辦甚正。並無不合。爾
雖曾遣人叩關辯訴。但守邊之臣。向來止知安南有黎。而不知有阮。將原禀駁回。所辦本正。
然督臣孫士毅奏克復黎城之後。朕即以黎氏近年國內多故。黎維祁又復懦怯無能。優柔廢弛。看來
天心竟有厭棄黎氏之意。
朕從來辦理庶務。無不順天而行。隨經諭知孫士毅。黎城既復。當即撤兵。並不令其復至廣南。問爾
前此稱兵搆衅之罪也。
乃孫士毅於克復黎城後。未能遵旨速撤。在彼躭延一月有餘。兹爾率衆至黎城。欲向黎維祁詢問。
官兵在彼。豈有坐視之理。遂爾奮勇接戰。爾衆畏死抵拒。致傷我官兵。至提鎮等職司勦禦。其臨陣
損軀。俱堪嘉憫。已從優議卹。將許世亨封以伯爵。總兵二人。皆予世職。並入昭忠祠。以示奖勵。
爾以安南頭目。敢於抗拒官兵。戕害提鎮大員。獲罪甚重。是以將福康安調任兩廣總督。原令調集各
路大兵。整軍問罪。但念爾屢次遣人叩關請罪。並於未出官兵。善爲收養。敬謹送回。是爾尚知畏懼
悔罪。隨命督臣福康安等。暫緩進討。
今爾所進表文。以爾與黎氏並無上下之分。且稱戕害官員之人。業目睹正法等語。安南僻在海陬。爾
與黎氏有無名分。原無辦証。現在俱不加深究。其戕害提鎮之人。自由臨陣之際。彼此未能辦識。而
許世亨等。復奮不返顧。以致深入損軀。爾衆尚非有心干犯。所稱目睹正法之語。朕憐汝誠心悔罪。
不復深究矣。
爾既負責較重。應躬詣闕廷謝罪。因國內甫罹兵革。人情惶惑。先遣爾姪阮光顯隨表入覲。實爲恭
謹小心。可以赦爾前罪。不加進討。已令左江道湯雄業。護送爾姪阮光顯來京瞻覲。
但爾雖自知悔懼。其抗拒官兵。傷及提鎮之咎。究難解免。現在尚未親身詣闕。請罪乞恩。遽思仰邀
封號。天朝無此體制。
爾既未列藩服。所有貢物。亦不便收納。仍著領回。爾既欲輸誠納欵。親詣闕廷。乾隆五十五年八月
。届朕八旬萬壽。維時距今又越年餘。爾國內亦當安集。即可禀知督臣。親自赴京。以遂瞻雲就日
之私。
其提鎮等。雖係臨陣無心。悟行傷害。究因爾與黎搆難所致。爾並當於安南地方。建立祠宇。春秋虔
祭。庶可稍贖前愆。從前西藏滋事時。變起倉卒。駐藏大臣傅清拾布敦等。曾損軀以殉。平定後。該
處人衆爲之建祠致祭。至今猶著靈感。爾能恪遵照辦。不特許世亨等死事之心。得以稍慰。即中外臣
民。亦可共喻爾悔罪歸附之誠。届時朕鑒爾畏感悃忱。自必格外加恩。或即封以王爵。爾世世子
孫。可以長守安南。彼時再呈進貢物。亦即可賞收。仍當加之厚賜。以示優眷。
朕臨御五十餘年。凡庶邦藩部。無不待以誠信。即如從前平定凖噶爾時。厄魯特台吉舍楞。曾將副都
統唐喀禄戕害。逃至俄羅斯地方。嗣於土爾扈特投順時。舍楞即隨同投進。朕念其悔罪之心。特加恩
宥。仍封王爵。賞給游牧地方居住。可見朕撫綏方夏。無不仁至義盡。
况黎維祁柔懦無能。棄印逃竄。若律以天朝擅離職守之條。尚當重治其罪。今念伊係屬外藩。僅止無
能。尚無違犯。不忍加之誅戮。令在桂林省城安插。斷無乘爾入覲。復將黎維祁送回安南。令其主國
之理。
已諭督臣福康安等。轉飭伴送官員。同爾姪阮光顯。於經過桂林省城之便。親行看視黎維祁光景。並
令爾姪詳悉寄信知悉。
兹特賜爾珍珠手串一掛。爾當衹乘恩命。向化更新。以冀永膺渥眷。
勉之。

Dịch âm

Cứ Hiệp Biện đại học sĩ Lưỡng Quảng tổng đốc công Phúc Khang An đẳng tấu. Nhĩ khiển thân điệt
Nguyễn Quang Hiển kính lãi biểu cống. Ðể quan khất hàng đẳng ngữ. Tịnh tương nguyên biểu trình
lãm.

Trẫm duyệt nhĩ biểu nội. Xưng nhĩ tiên hữu Quảng Nam chi địa. Phi dữ Lê thị hữu thượng hạ chi
phận. Thượng niên tằng khiển nhập khấu quan. Bị trần dữ Lê thị cấu hấn duyên do. Biên thần bác
hồi. Bất tức đệ đạt. Tự quan binh xuất quan chinh tiễu. Trực để Lê thành.

Nhĩ ư kim niên chính nguyệt. Tiền chí Lê thành. Dục hướng Lê Duy Kỳ tuân dụ thỉnh đại binh chi cố.
Bất liệu quan binh nhất kiến nhĩ chúng. Phấn dũng sát lục. Nhĩ thủ hạ nhân đẳng. Hốt nan thúc thủ
tựu phọc. Hựu trí giang kiều chiết đoạn. Quan binh chí hữu tổn thương. Bất thắng hoàng cụ. Dĩ lũ
thứ khiển nhân khấu quan thỉnh tội. Tịnh tống hồi vị xuất quan binh. Kỳ tường hại đề trấn chi nhân.
Nghiệp mục đổ chính pháp.

Bản ứng cung nghệ khuyết đình. Trần tình thỉnh tội. Quốc nội sơ li binh cách. Nhân tình hoàng hoặc.
Thượng vị an tập. Cẩn khiển thân điệt Nguyễn Quang Hiển. Tùy biểu nhập cận.
Tịnh cứ Nguyễn Quang Hiển bẩm xưng. Nhĩ sĩ quốc sự sảo định. Thượng khất thân tự đáo kinh
chiêm cận đẳng ngữ. An Nam Lê thị lập quốc dĩ cửu. Thả thần sự thiên triều. Khác cộng chức cống.
Bách hữu dư niên. Tố trứ cung thuận. Nhĩ tại Quảng Nam. Tòng tiền tịnh vị tu triều cống. Thượng
niên Lê Duy Kỳ mẫu thê. Phó quan khống tố. Dĩ nhĩ cấu loạn xứng binh. Chiếm cứ kỳ quốc. Chí Lê thị
điên bái lưu ly. Dụ thỉnh cứu viện.

Thử sự vi thiên triều tự tiểu tồn vong. Thể thống du hệ. Thị dĩ tiền nhiệm đốc thần Tôn Sĩ Nghị. Tự
thỉnh đái binh xuất quan. Kỳ sở biện thậm chính. Tịnh vô bất hợp. Nhĩ tuy tằng khiển nhân khấu
quan biện tố. Ðãn thủ biên chi thần. Hướng lai chỉ tri An Nam hữu Lê. Nhi vô tri hữu Nguyễn. Tương
nguyên bẩm bác hồi. Sở biện bản chính.

Nhiên đốc thần Tôn Sĩ Nghị tấu khắc phục Lê thành chi hậu. Trẫm tức dĩ Lê thị cận niên quốc nội đa
cố. Lê Duy Kỳ hựu phúc nọa khiếp vô năng. Ưu nhu phế trì. Khán lai thiên tâm cánh hữu yếm khí Lê
thị chi ý.
Trẫm tòng lai biện lý thứ vụ. Vô bất thuận thiên nhi hành. Tùy kinh dụ tri Tôn Sĩ Nghị. Lê thành ký
phục. Ðương tức triệt binh. Tịnh bất lệnh kỳ phục chí Quảng Nam. Vấn nhĩ tiền thử xứng binh cấu
hấn chi tội dã.

Nãi Tôn Sĩ Nghị ư khắc phục Lê thành hậu. Vị năng tuân chỉ tốc triệt. Tại bỉ đam diên nhất nguyệt
hữu dư. Tư nhĩ suất chúng chí Lê thành. Dục hướng Lê Duy Kỳ tuân vấn.

Quan binh tại bỉ. Khải hữu tọa thị chi lý. Toại nhĩ phấn dũng tiếp chiến. Nhĩ chúng úy tử để cự. Chí
thương ngã quan binh. Chí đề trấn đẳng chức ti tiễu ngự. Kỳ lâm trận tổn khu. Câu kham gia mẫn. Dĩ
tòng ưu nghị tuất. Tương Hứa Thế Hanh phong dĩ bá tước. Tổng binh nhị nhân. Giai dư thế chức.
Tịnh nhập Chiêu Trung Từ. Dĩ thị tưởng lệ.

Nhĩ dĩ An Nam đầu mục. Cảm ư kháng cự quan binh. Tường hại đề trấn đại viên. Hoạch tội thậm
trọng. Thị dĩ [29b] tương Phúc Khang An điều nhiệm Lưỡng Quảng tổng đốc. Nguyên lệnh điều tập
các lộ đại binh. Chỉnh quân vấn tội. Ðãn niệm nhĩ lũ thứ khiển nhân khấu quan thỉnh tội. Tịnh ư vị
xuất quan binh. Thiện vi thu dưỡng. Kính cẩn tống hồi. Thị nhĩ thượng tri úy cụ hối tội. Tùy mệnh
đốc thần Phúc Khang An đẳng. Tạm hoãn tiến thảo.

Kim nhĩ sở tiến biểu văn. Dĩ nhĩ dữ Lê thị tịnh vô thượng hạ chi phận. Thả xưng tường hại quan viên
chi nhân. Nghiệp mục đổ chính pháp đẳng ngữ. An Nam tịch tại hải tưu. Nhĩ dữ Lê thị hữu vô danh
phận. Nguyên vô biện chứng. Hiện tại câu bất gia thâm cứu. Kỳ tường hại đề trấn chi nhân. Tự do
lâm trận chi tế. Bỉ thử vị năng biện thức. Nhi Hứa Thế Hanh đẳng phục phấn bất phản cố. Dĩ chí
thâm nhập tổn khu. Nhĩ chúng thượng phi hữu tâm can phạm. Sở xưng mục đổ chính pháp chi ngữ.
Trẫm liên nhữ thành tâm hối tội. Bất phục thâm cứu hĩ.
Nhĩ ký phụ trách giảo trọng. Ứng cung nghệ khuyết đình tạ tội. Nhân quốc nội phủ li binh cách. Nhân
tình hoàng hoặc. Tiên khiển nhĩ điệt Nguyễn Quang Hiển tùy biểu nhập cận. Thực vi cung cẩn tiểu
tâm. Khả dĩ xá nhĩ tiền tội. Bất gia tiến thảo. Dĩ lệnh Tả Giang đạo Thang Hùng Nghiệp. Hộ tống nhĩ
điệt Nguyễn Quang Hiển lai kinh chiêm cận.

Ðãn nhĩ tuy tự tri hối cụ. Kỳ kháng cự quan binh. Thương cập đề trấn chi cữu. Cứu nan giải miễn.
Hiện tại thượng vị thân thân nghệ khuyết. Thỉnh tội khất ân. Cự tư ngưỡng yêu phong hiệu. Thiên
triều vô thử thể chế.

Nhĩ ký vị liệt phiên phục. Sở hữu cống vật. Diệc bất tiện thu nạp. Nhưng trứ lãnh hồi. Nhĩ ký dục
thâu thành nạp khoản. Thân nghệ khuyết đình. Càn Long ngũ thập ngũ niên bát nguyệt. Giới trẫm
bát tuần vạn thọ. Duy thời cự lệnh hựu việt niên dư. Nhĩ quốc nội diệc đương an tập. Tức khả bẩm
tri đốc thần. Thân tự phó kinh. Dĩ toại chiêm vân tựu nhật chi tư.

Kỳ đề trấn đẳng. Tuy hệ lâm trận vô tâm. Ngộ hành thương hại. Cứu nhân nhĩ dữ Lê thị cấu nạn sở
chí. Nhĩ diệc đương ư An Nam địa phương. Kiến lập từ vũ. Xuân thu kiền tế. Thứ khả sảo thục tiền
khiên. Tòng tiền Tây Tạng tư sự thời. Biến khởi thảng thốt. Trú Tạng đại thần Phó Thanh, Thập Bố
Ðôn đẳng. Tằng tổn khu dĩ tuẫn. Bình định hậu. Cai xứ nhân chúng vi chi kiến từ chí tế. Chí kim do
trứ linh cảm. Nhĩ năng khác tuân chiếu biện. Bất đặc Hứa Thế Hanh đẳng tử sự chi tâm. Ðắc dĩ sảo
ủy. Tức trung ngoại thần dân. Diệc khả cộng dụ nhĩ hối tội qui phụ chi thành. Giới thời trẫm giám nhĩ
úy cảm khổn thầm. Tự tất cách ngoại gia ân. Hoặc tức phong dĩ vương tước. Nhĩ thế thế tử tôn. Khả
dĩ trường thủ An Nam. Bỉ thời tái trình tiến cống vật. Diệc tức khả thưởng thu.
Nhưng đương gia chi hậu tứ. Dĩ thị ưu quyến.Trẫm lâm ngự ngũ thập dư niên. Phàm thứ bang phiên
bộ. Vô bất đãi dĩ thành tín. Tức như tòng tiền bình định Chuẩn Cát Nhĩ thời. Ách Lỗ Ðặc thai cát Xá
Lăng. Tằng tương phó đô thống Ðường Khách Lộc tường hại. Ðào chí Nga La Tư địa phương. Tự ư
Thổ Nhĩ Hỗ Ðặc đầu thuận thời. Xá Lăng tức tùy đồng đầu tiến. Trẫm niệm kỳ hối tội chi tâm. Ðặc gia
ân hựu. Nhưng phong vương tước. Thưởng cấp du mục địa phương cư trụ. Khả kiến trẫm phủ tuy
phương hạ. Vô bất nhân chí nghĩa tận.

Huống Lê Duy Kỳ nhu nọa vô năng. Khí ấn đào thoán. Nhược luật dĩ thiên triều thiện ly chức thủ chi
điều. Thượng đương trọng trị kỳ tội. Kim niệm y hệ thuộc ngoại phiên. Cẩn chỉ vô năng. Thượng vô
vi phạm. Bất nhẫn gia chi tru lục. Lệnh tại Quế Lâm tỉnh thành an tháp. Ðoạn vô thừa nhĩ nhập cận.
Phục tương Lê Duy Kỳ tống hồi An Nam. Lệnh kỳ chủ quốc chi lý.

Dĩ dụ đốc thần Phúc Khang An đẳng. Chuyển sức bạn tống quan viên. Ðồng nhĩ điệt Nguyễn Quang
Hiển. Ư kinh quá Quế Lâm tỉnh thành chi tiện. Thân hành khán thị Lê Duy Kỳ quang cảnh. Tịnh lệnh
nhĩ điệt tường suất ký nhĩ tri suất.

Tư đặc tứ nhĩ trân châu thủ xuyến nhất quải. Nhĩ đương để thừa ân mệnh. Hướng hóa canh tân. Dĩ
ký vĩnh ưng ác quyến.

Miễn chi.

Dịch nghĩa

Cứ theo Hiệp Biện đại học sĩ tổng đốc Lưỡng Quảng tước Công là Phúc Khang An tâu lên thì ngươi
đã sai cháu ruột là Nguyễn Quang Hiển kính cẩn đem cống biểu đến cửa quan xin hàng. Lại đem
nguyên biểu trình lên ngự lãm.

Trẫm xem trong biểu của ngươi nói là ngươi vốn đã có đất Quảng Nam, không phải có danh phận
trên dưới với họ Lê. Năm ngoái đã từng sai người gõ cửa quan nói rõ duyên do việc hiềm khích với
họ Lê nhưng biên thần trả về, không chịu đề đạt rồi đem quan binh xuất quan chinh tiễu, tiến thẳng
tới Lê thành.

Tháng Giêng năm nay, ngươi đến Lê thành muốn tra hỏi Lê Duy Kỳ vì sao lại mời đại binh đến,
không ngờ quan binh vừa thấy quân của ngươi đã xông tới chém giết. Các thủ hạ của ngươi không
thể thúc thủ chịu trói, lại thêm cầu trên sông gãy nên quan binh bị tổn thương. Ngươi xiết nỗi hoảng
sợ nên đã mấy lần sai người gõ cửa quan chịu tội, lại trả về các quan binh chưa kịp xuất quan còn
những ai giết hại đề trấn thì đã chính mắt trông thấy chính pháp rồi.
Bản thân ngươi muốn đích thân đến nơi khuyết đình, trần tình chịu tội nhưng vì nước mới qua cơn
binh lửa, nhân dân còn bàng hoàng chưa được an tập nên kính cẩn sai cháu ruột là Nguyễn Quang
Hiển đi theo biểu văn nhập cận.

Lại theo Nguyễn Quang Hiển bẩm xưng, ngươi đợi khi nào quốc sự tạm yên khi đó sẽ đích thân đến
kinh đô chiêm cận. Họ Lê ở nước An Nam lập quốc đã lâu, lại thờ thiên triều rất kính cẩn giữ phận
chức cống trên một trăm năm qua, rất là cung thuận. Ngươi ở Quảng Nam từ trước đến giờ chưa
từng triều cống. Năm ngoái mẹ và vợ Lê Duy Kỳ đến cửa quan tố cáo rằng ngươi nổi loạn đưa quân
chiếm lấy nước nên họ Lê phải bôn ba tan tác nên xin cứu viện.

Việc đó là thể thống tự tiểu tồn vong của thiên triều nắm giữ nên tổng đốc tiền nhiệm Tôn Sĩ Nghị tự
mình xin đưa binh xuất quan, việc làm như thế rất là chính đáng, không có gì không hợp. Ngươi tuy
đã từng sai người gõ cửa biện bạch việc tố cáo nhưng kẻ bầy tôi giữ biên cương chỉ biết rằng xưa
nay nước An Nam có họ Lê chứ không biết có họ Nguyễn nên đem nguyên bẩm trả về, làm như thế
vốn cũng phải.

Khi đốc thần Tôn Sĩ Nghị tâu rằng đã khắc phục được Lê thành, trẫm thấy ngay họ Lê những năm
gần đây có nhiều biến cố, Lê Duy Kỳ lại là người nhút nhát vô năng, nhu nhược lười biếng, xem ra
lòng trời đã chán ghét muốn bỏ họ Lê rồi.

Trẫm xưa nay biện lý công việc, chuyện gì cũng phải thuận thiên nhi hành nên đã gửi dụ cho Tôn Sĩ
Nghị rằng nay Lê thành đã thu phục, vậy lập tức triệt binh, cũng không ra lệnh cho y phải tiến tới
Quảng Nam để hỏi tội tại sao đem quân làm loạn.

Thế nhưng Tôn Sĩ Nghị lấy lại được Lê thành lại không tuân chỉ triệt binh, ở nơi đó lần lữa đến hơn
một tháng khiến cho ngươi kéo quân đến Lê thành ý muốn tra hỏi Lê Duy Kỳ.

Quan binh đóng ở đó không lẽ ngồi xem nên ra sức tiếp chiến, quân của ngươi sợ chết chống cự đến
nỗi làm chết quan binh của ta cho đến cả đề trấn và các quan chức. Việc đánh trận mà tử vong quả là
đáng thương nên đã theo thể lệ mà ưu tuất, phong Hứa Thế Hanh lên chức bá tước, tổng binh hai
người đều cho con thế chức lại được đưa vào Chiêu Trung Từ [昭忠祠] để tỏ lòng tưởng lệ.

Ngươi là đầu mục nước An Nam vậy mà dám kháng cự quan binh, giết hại đề trấn các viên chức lớn
như thế là gây tội rất nặng nên trẫm đã điều nhiệm Phúc Khang An sang làm tổng đốc Lưỡng Quảng,
vốn ra lệnh cho y điều tập các lộ đại binh, chỉnh quân vấn tội. Thế nhưng nghĩ đến ngươi mấy lần sai
người gõ cửa quan tạ tội, còn các quan binh chưa về được đều thu dưỡng đầy đủ, kính cẩn đưa về.
Vậy là ngươi biết sợ hãi hối tội nên trẫm đã ra lệnh cho đốc thần Phúc Khang An tạm hoãn tiến thảo.

Nay ngươi đã tiến biểu văn nói rằng ngươi và họ Lê vốn không có phận trên dưới, lại nói những
người giết hại quan binh đã chính mắt trông thấy bị đem ra chính pháp. An Nam ở nơi góc biển,
ngươi và họ Lê có hay không danh phận, vốn chẳng có chứng cớ gì nay không tra cứu thêm nữa. Còn
những người sát hại đề trấn ấy là lâm trận bên này không biết bên kia mà Hứa Thế Hanh thì quyết
sống mái tiến vào sâu nên mất mạng, người của ngươi cũng không có tâm phạm tội bảo rằng chính
mắt trông thấy chính pháp thì trẫm thương ngươi thành tâm hối tội nên cũng không tra cứu thêm.

Ngươi nay đang mang trọng nhiệm, muốn đích thân nghệ khuyết đình tạ tội nhưng vì nước vừa mới
binh đao, lòng người hoang mang nên sai cháu ngươi là Nguyễn Quang Hiển tùy biểu nhập cận
trước, thật là cẩn thận cung kính nên có thể tha cho tội cũ, không tiến thảo nữa. Trẫm đã ra lệnh cho
Tả Giang đạo Thang Hùng Nghiệp hộ tống cháu ngươi Nguyễn Quang Hiển đến kinh chiêm cận.

Thế nhưng tuy ngươi đã biết hối hận sợ hãi, việc kháng cự quan binh, làm chết đề trấn thì khó mà
giải miễn. Hiện nay ngươi chưa đích thân nghệ khuyết để tạ tội cầu ân đã vội vàng xin phong hiệu thì
thiên triều không có thể chế đó.

Ngươi chưa được liệt vào hàng phiên phục mà đã mang cống vật nên không tiện thu nạp vậy nên
lãnh về. Ngươi quả có dạ thâu thành nạp khoản, đích thân đến khuyết đình thì đến tháng Tám năm
Càn Long thứ 55 là lễ Bát Tuần Vạn Thọ của trẫm, khi đó còn hơn một năm nữa, lúc đó việc trong
nước của ngươi cũng đã an tập rồi thì có thể bẩm cho đốc thần biết để đích thân đến kinh đô cho
toại lòng chiêm vân tựu nhật.

Còn như các đề trấn tuy là không chủ tâm khi lâm chiến nên sát hại lầm nhưng cũng vì ngươi và họ
Lê gây chuyện mà ra. Vậy ngươi hãy kiến lập ở An Nam một ngôi đền, xuân thu cúng tế có thế mới
chuộc được lỗi xưa. Trước đây có việc ở Tây Tạng [西藏] bất ngờ biến đổi, đại thần trú đóng ở đây là
Phó Thanh [傅清] và Thập Bố Ðôn [拾布敦] cũng đã tuẫn nạn. Sau khi bình định, dân chúng các nơi
đó cũng đã lập đền cúng tế, đến nay hương khói vẫn còn. Vậy ngươi cũng nên thành kính tuân theo
mà làm để cho tấm lòng của Hứa Thế Hanh cũng có chút an ủi, mà nhân dân trong ngoài cũng biết rõ
việc ngươi thành tâm hối tội qui phụ để trẫm thấy ngươi có bụng thiết tha cách ngoại gia ân phong
cho vương tước để đời đời con cháu trường thủ An Nam, khi đó ngươi lại trình tiến cống vật thì lập
tức sẽ thu ngay mà lại còn ban thưởng hậu hĩ để tỏ lòng ưu quyến.

Trẫm lên ngôi hơn 50 năm qua, những việc của phiên bộ không gì là không thành tín, chẳng hạn như
trước đây bình định Chuẩn Cát Nhĩ, thai cát Ách Lỗ Ðặc [厄魯特] là Xá Lăng [舍楞] đã từng giết hại
phó đô thống Ðường Khách Lộc [唐喀禄] rồi chạy trốn đến Nga La Tư [俄羅斯].Ðến khi Thổ Nhĩ Hỗ
Ðặc [土爾扈特] đầu thuận, Xá Lăng cũng đi theo, trẫm nghĩ đến tấm lòng hối tội đã đặc biệc gia ân,
phong cho tước vương, thưởng cho đất du mục để ở, đủ thấy trẫm phủ ngự các nước không lúc nào
là không nhân chí nghĩa tận.

Huống chi Lê Duy Kỳ hèn yếu vô năng, bỏ ấn chạy trốn, nếu theo luật của thiên triều về việc tự tiện
rời bỏ chức vụ thì đã trị tội thật nặng nhưng nghĩ tình y là ngoại phiên, chỉ là vô năng chứ không vi
phạm chẳng nỡ tru lục nên an tháp tại tỉnh thành Quế Lâm chứ không phải nhân lúc ngươi nhập cận
mà đem Lê Duy Kỳ đưa trở về An Nam cho làm chủ nước đâu.

Trẫm đã dụ cho đốc thần Phúc Khang An chuyển sức cho các quan viên đi theo với cháu ngươi
Nguyễn Quang Hiển khi nào đi ngang qua tỉnh thành Quế Lâm tiện thể thân hành đến xem nơi ăn
chốn ở của Lê Duy Kỳ, lại dặn cháu ngươi trình lại cho tường tận.
Nay đặc biệt ban cho ngươi một vòng đeo tay bằng trân châu. Ngươi nay đã nhận được ân mệnh, vậy
hãy hướng hóa canh tân để mãi mãi nhận được quyến cố tràn đầy của trẫm.
Hãy cố lên.

Bỏ ra ngoài những bịa đặt cố ý mà hai bên cùng biết nhưng cốt cho qua chuyện, ngoài việc xác định
không yểm trợ Lê Duy Kỳ và chấp thuận cho Nguyễn Quang Hiển lên kinh đô, vua Càn Long còn ban
cho Nguyễn Quang Bình một vòng trân châu coi như công nhận Nguyễn Quang Bình đã ở trong vòng
phiên thuộc, tuy danh phận chưa chính thức ban phát.

Trong khoảng thời gian hơn 2 tháng [từ tháng Ba đến tháng Năm], những biến chuyển dồn dập đan
kẽ nhau nên ngờ rằng những đòi hỏi của nhà Thanh không có chủ đích hay mục tiêu rõ rệt, phần lớn
được nêu ra cho đủ bộ hơn là thực tâm muốn thế.

Tính theo thời gian, không biết những yêu cầu có được đưa ra theo một lịch trình hay chỉ là những
thăm dò nhằm gia tăng sức ép lên triều đình Quang Trung. Tuy nhiên, trong tư cách đàm phán,
Thanh triều đã không dấu được những nhượng bộ bất ngờ và đôi khi ngoài mong đợi. Khi nghe tin
phái đoàn An Nam đã gặp Phúc Khang An, vua Càn Long hoan hỉ gửi dụ sau đây cho Phúc Khang An,
Tôn Vĩnh Thanh và Hải Lộc:

Lần này Nguyễn Huệ lại sai cháu ruột là Nguyễn Quang Hiển đem biểu đến xin hàng, tình từ so với
trước đây cung thuận gấp bội, quả là từ lòng chí thành sợ uy nên nay đã minh giáng sắc dụ gửi lại.

Phúc Khang An hãy lập tức ra lệnh cho Nguyễn Quang Hiển sai người kính cẩn đem về, giao cho
Nguyễn Huệ đọc đợi khi nào có tin tức hãy tâu lên, đợi chỉ tuân hành.
Còn Nguyễn Quang Hiển khẩn khoản xin được tiến kinh chiêm cận thì chuẩn thuận cho lai kinh.
Hiện nay theo lời tâu của Phúc Khang An đã bảo Nguyễn Quang Hiển trở về Lạng Sơn. Phúc Khang
An nhận được chỉ này thì lại ra lệnh cho Nguyễn Quang Hiển từ Lạng Sơn khởi trình tiến kinh, nên
tính toán ngày giờ nhưng cũng không phải gấp gáp, miễn sao ngoài 20 tháng Bảy đến được Nhiệt Hà.
Khi đó chư vương công thai cát Mông Cổ cùng đến triều cận nên Nguyễn Quang Hiển thấy được cảnh
”xa thư nhất thống, vạn quốc hưởng vương chi thịnh”[10] sẽ cùng chư vương công thai cát vinh dự
vào dự yến thì càng hay hơn.

Lại cũng ra lệnh cho Thang Hùng Nghiệp cùng đi lên kinh, đi qua đường Quế Lâm để cho Nguyễn
Quang Hiểnđược gặp mặt Lê Duy Kỳ, lại bảo cho Nguyễn Quang Hiển biết rằng vì Lê Duy Kỳ đã làm
mất ấn tín mà đại hoàng đế trùng ban [ban cho lần thứ hai], theo điều luật đúng ra sẽ bị trị tội,
nhưng vì nhiều đời cung thuận, lại không vi phạm nên tha chết mà được an tháp, lẽ nào sau này còn
được trở về Lê thành làm chủ nước nữa.

Còn Nguyễn Huệ có nói là đợi sau khi mọi việc tạm yên, xin được sang năm đích thân sang kinh đô
chiêm cận, nếu quả có dạ hướng hóa thâu thành, bó thân nghệ khuyết, đại hoàng đế ắt sẽ gia ân vượt
mức, hoặc ban cho vương tước ngay để con cháu đời đời làm chủ An Namkhông chừng, nếu không
thì cũng phong thưởng thấm nhuần, vậy hãy ra lệnh cho Nguyễn Quang Hiển đem các điều đó, nói rõ
cho Nguyễn Huệ biết.
Sang năm khi nào Nguyễn Huệ khởi trình, Phúc Khang An hãy minh bạch cho y hay, bản bộ đường
sẽ cùng đi với ngài, có như thế Nguyễn Huệ mới kiên tâm vui vẻ. Thêm nữa, bài văn ngự chế An
Nam ký sự, trước đây đã sao cho Phúc Khang An, nay cũng tuyên thị cho Nguyễn Huệ đọc để cho rõ
ý của trẫm. Nếu như Phúc Khang An đã phát vãng thì thôi, còn như chưa gửi đi thì không cần trả về
coi như không nói đến.

Phúc Khang An lại tâu rằng, nơi quan ải nay hạ chướng đang nhiều, Tôn Sĩ Nghị không cần phải ở lâu
thêm, nên về Nam Ninh điều dưỡng ít ngày rồi hãy lên đường, vậy cứ như thế mà làm. Sau này khi
Tôn Sĩ Nghị khởi thân thì cũng cứ đi thong thả, không cần phải gấp gáp làm gì cho mệt nhọc.

Trước đây trẫm đã mấy lần giáng chỉ ra lệnh cho Phúc Khang An tự liệu định hoặc là di chuyển về
Nam Ninh, Thái Bình, hoặc trở về Quế Lâm để chỉ huy mọi việc, chỉ này chắc cũng đã nhận rồi. Nay
Nguyễn Quang Hiểncũng đã đến cửa quan, đại cục đã định, Phúc Khang An hãy tuân theo chỉ trước
di chuyển vào nội địa Quảng Tâylà nơi thủy thổ bình hòa, dễ dàng điều nhiếp để tỏ lòng thể tuất của
trẫm.

Nay đã đến tiết khí mới của trời đất, trẫm thưởng cho Phúc Khang An một đôi đại hà bao, hai đôi
tiểu hà bao, bốn cái túi hương, còn Hải Lộc và Tôn Vĩnh Thanh mỗi người thưởng cho một đôi đại hà
bao, hai đôi tiểu hà bao để tỏ lòng ưu quyến.[11]

Hành trình

Sau khi gặp quan lại nhà Thanh, Nguyễn Quang Hiển và phái đoàn quay vể châu Văn Uyên rồi hôm
sau [20 tháng Tư] trở về Lạng Sơn lên đường đi Thăng Long. Trong một tháng sau đó, Nguyễn Hữu
Trù cũng hai lần lên Nam Quan tiếp xúc với Thang Hùng Nghiệp để trao đổi tin tức.
Trong thời gian đó, sắc dụ chấp thuận của vua Càn Long kèm theo chuỗi vòng trân châu ban cho
Nguyễn Huệ cũng tới Trấn Nam Quan, Thang Hùng Nghiệp liền cho người đến Lạng Sơn báo cho
Nguyễn Hữu Trù biết tin để sắp xếp trần thiết Ngưỡng Đức Đài và chuẩn bị long đình[12] nghinh
đón. Ngưỡng Đức Đài là toà nhà ở phía nước ta đối xứng với Chiêu Đức Đài ở bên kia Nam Quan của
phía Trung Hoa. Hiệp trấn Lạng Sơn cũng đưa một số đông dân phu lên tu bổ lại đường sá, cầu cống
từ trấn thành đến Nam Quan. Như vậy là đúng một tháng, khoảng cách vừa đủ để chạy trạm theo lối
hoả tốc [600 dặm một ngày] lên kinh đô rồi quay lại chứng tỏ khi tin vừa đến nơi, vua Càn Long đã
gửi ngay dụ chỉ xuống Quảng Tây cho phép phái bộ tiến kinh.

Sau khi báo cáo tình hình cho vua Quang Trung, Nguyễn Quang Hiển trở lên Lạng Sơn. Ngày 21
tháng Năm, nước ta đã chuẩn bị xong các loại lễ vật và cống phẩm để sẵn sàng lên đường. Theo Việt
Nam Tập Lược của Từ Diên Húc thì lễ vật tạ ơn của nước ta bao gồm sừng tê hoa, sừng tê đen, ngà
voi, trầm hương, tốc hương năm loại.

Ngày 25 tháng Năm[13] Nguyễn Quang Hiển nhận được lệnh vua Càn Long thuận cho lên kinh đô bệ
kiến và phải đi gấp cho kịp đến kinh đô vào mùa thu để dự lễ thánh tiết (sinh nhật vua Càn Long).
Thang Hùng Nghiệp ra lệnh cho các binh sĩ trấn đóng ở Nam Quan xếp thành hàng ngũ, dựng bày cờ
sí ở Chiêu Ðức Ðài rồi mời sứ bộ nước ta sang đón sắc thư và quà của vua Thanh trao cho trấn thủ
Lạng Sơn Ðinh Công Thái (丁公彩) đem về Thăng Long. Về chuyến đi này, Vũ Huy Tấn thuật lại như
sau:

Cuối tháng Tư năm đó, ta về Mộ Trạch để từ biệt song thân, sau tiết Trùng Dương thì khởi hành bắt
đầu một chuyến đi vạn dặm. Ngày 25 tháng Năm, ta lại lên đến Nam Quan thì nhận được chỉ cho
phép sứ thần theo đường bộ để đến hành cung ở Nhiệt Hà để kịp tham dự đại lễ thánh tiết. Ấy là lần
đầu tiên được như vậy. [14]

Ngày 27 tháng Năm, phái đoàn nước ta do Nguyễn Quang Hiển cầm đầu, tất cả là 21 người, từ nhà
khách của tỉnh Quảng Tây do Thang Hùng Nghiệp dẫn đường đi lên kinh đô nhà Thanh. Hai mươi
mốt người đó gồm có:[15]

Đại diện quốc trưởng Nguyễn Quang Hiển (阮光顯)


– Ba vị sứ thần:
1. Chánh sứ Nguyễn Hữu Trù (阮有晭)
2. Phó sứ Vũ Huy Phác[16] (武輝璞)
3. Phó sứ Nguyễn Ninh Trực (阮寧直)
– Hành nhân 5 người:
1. Trương Gia Nghiễm (張嘉儼)
2. Phạm Bá Nhuận (范伯潤)
3. Tạ Hữu Ðịnh (謝有定)
4. Nông Ðình Cẩn (農廷謹)
5. Hoàng Huy Dực (黃煇翼)
– Tòng nhân 12 người:
1. Hồ Văn Tòng (胡文從)
2. Nguyễn Công Tuyết (阮公雪)
3. Nguyễn Văn Cự (阮文鉅)
4. Nguyễn Văn Bản (阮文本)
5. Nguyễn Văn Cơ (阮文璣)
6. Hoàng Văn Thành (黃文成)
7. Lê Văn Trọng (黎文仲)
8. Ngô Viết Kiệt (吳曰榤)
9. Nguyễn Văn Uyển (阮文琬)
10. Nguyễn Hữu Ðễ (阮有悌)
11. Trần Văn Dũng (陳文勇)
12. Ðỗ Ðình Lập (杜廷立)

Việc Nguyễn Quang Hiển dẫn đầu một phái bộ 21 người từ Quảng Tây lên Bắc Kinh đã đặt ra một
vấn đề ngoại giao khác với một sứ bộ bình thường. Theo Khâm Định An Nam Kỷ Lược, vua Càn Long
chỉ thị cho Phúc Khang An soạn một nghi thức đón tiếp gửi cho quan lại trên đường đi để các nơi thi
hành cho đồng nhất. Nghi lễ đó bao gồm cả việc chào hỏi khi gặp nhau lẫn các loại yến tiệc, diễn kịch
và hộ tống trong quản hạt của mình dựa theo việc năm trước tiếp đãi phái bộ Miến Điện.

Theo qui chế, một sứ đoàn ngoại quốc chỉ được địa phương đưa qua quản hạt nhưng lần này vua
Càn Long chỉ định Thang Hùng Nghiệp làm “bạn tống” [người đi cùng] cho phái đoàn, sắp xếp di
chuyển, nghỉ ngơi … và thay mặt triều đình tiếp xúc để điều động lễ nghi.
Vì Thang Hùng Nghiệp là một văn quan nên Phúc Khang An đặc biệt phái thêm Ðức Khắc Tinh
Ngạch (德克精額) là phó tướng mới của hiệp Tân Thái tỉnh Quảng Tây cùng đi, còn bản thân ông ta
khởi trình từ Nam Ninh, đến Quế Lâm ngày 11 tháng 5 (nhuận), và hôm sau, 12 tháng 5 thì Tôn Vĩnh
Thanh cũng tới. Việc đích thân tổng đốc Lưỡng Quảng và tuần phủ Quảng Tây cùng đến Quế Lâm để
bắt ép vua Lê và những người đi theo phải “thế phát cải phục”, không phải chỉ vì lý do cưỡng chế
luật lệ “ở đất Trung Hoa thì phải theo tục Trung Hoa” mà để minh xác với triều đình Tây Sơn về việc
họ không còn yểm trợ nhà Lê nữa. Tài liệu nước ta cũng còn lưu lại một số thư của quan nhà Thanh
thúc đẩy Nguyễn Quang Hiển viết thư yêu cầu vua Quang Trung xác định sẽ sang Trung Hoa vào
năm sau.[17]

Ở Quế Lâm, Phúc Khang An đã sắp đặt để cho phái đoàn An Nam được tận mắt chứng kiến vua Chiêu
Thống và những người đi theo nay là dân thiên triều được định cư [an tháp] tại Trung Hoa, đã thế
phát cải phục (cạo tóc, đổi y phục) và thúc ép Nguyễn Quang Hiển viết thư gấp cho vua Quang Trung
giao cho vệ úy Hồ Văn Tòng theo đường dịch trạm về Thăng Long rồi lại đích thân đem thư trả lời
quay trở lại giao cho phái đoàn mang đi.

Gặp Lê Duy Kì

Trước đây, khi muốn gia tăng tốc độ hòa nghị, Tôn Sĩ Nghị đã sai Thang Hùng Nghiệp bí mật liên lạc
với nước ta tiết lộ rằng gia đình vua Lê Chiêu Thống đã đến Quảng Tây để dùng họ như một áp lực
ngoại giao. Khi khẳng định rằng Thanh triều nay không còn ủng hộ họ Lê nữa được xem như
một minh định đồng thời cũng là một hăm dọa nếu triều đình Tây Sơnkhông đi theo con
đường họ đưa ra thì sẽ động binh lần nữa.

Việc vua Quang Trung chưa dứt khoát có sang chúc thọ hay không cũng tạo ra những vướng mắc.
Vua Càn Long vẫn đinh ninh rằng Nguyễn Quang Bình sẽ sang Yên Kinh nhưng các quan lại ở Quảng
Tây thì biết rằng lời hứa ỡm ờ “đợi khi đất nước ổn định sẽ sang triều kiến” chỉ là một lời hứa rơi
chưa có gì chắc chắn.

Phúc Khang An cũng tưởng rằng trong tờ biểu cầu phong mà Nguyễn Quang Hiển đem đi sẽ minh
xác điều đó nên khi thấy vẫn chưa đề cập đến việc này một cách minh bạch thì tổng đốc Lưỡng
Quảng phải đưa ra một kế hoạch cụ thể hơn và cũng quyết liệt hơn:

– Thứ nhất, thông báo cho vua Chiêu Thống và những người đi qua rằng họ nay trở thành dân thiên
triều và phải theo tục lệ Trung Hoa[18] nghĩa là phải cạo đầu thắt đuôi sam, mặc áo kiểu nhà Thanh
và không còn cơ hội được đưa về nước nữa. Lê Duy Kỳ và nhóm nhà Lê được di chuyển từ Ninh
Minh lên Quế Lâm cho xa biên giới để không thể liên lạc về trong nước tạo bất ổn và gây nghi kỵ cho
triều đình Tây Sơn.

– Tiến thêm một bước, thay vì đi từ Minh Ninh bằng đường thủy sang Quảng Đông lên kinh đô, Phúc
Khang An đưa phái đoàn Nguyễn Quang Hiển theo đường bộ ngang qua Quế Lâm và sắp xếp cho
Nguyễn Quang Hiển gặp Lê Duy Kỳ rồi yêu cầu viết thư rõ ràng việc gặp mặt đó cho người đưa về
Nam Quan để chuyển tới Thăng Long đồng thời thúc ép Nguyễn Quang Hiển yêu cầu vua Quang
Trung xác định yêu cầu xin nhập cận trong tờ biểu tạ ơn do một phái đoàn khác sẽ đưa sang khi
nhận được chiếc vòng trân châu.

Ngày 19 tháng Năm [nhuận] Phúc Khang An gửi cho Nguyễn Quang Hiển bức thư sau đây:

Chú ngươi là Nguyễn [Quang Bình] vì cùng họ Lê tranh hấn[19], đắc tội với thiên triều. Ðại hoàng đế
xét thấy vốn không có tâm kháng cự nên không chinh thảo lần nữa, lại chuẩn cho đầu thành[20] khâm
ban sắc thư có đóng ngự tỉ cùng trân châu thủ xuyến và cho phép ngươi tiến kinh nhập cận[21].
Những gia ân vượt mức như thế chú ngươi chắc chẳng bao giờ dám nghĩ tới.

Cho đến lúc này, chú ngươi cũng chỉ mới dựng nước, nếu không có phong hiệu của thiên triều thì
không thể chính danh định phận, yên là yên tạm mà thôi. Nếu chưa nhận được sắc thư thì việc trước
mắt là danh mục bất chính, thủ hạ thần dân có theo cũng chỉ ở ngoài mặt còn trong lòng không phục
làm sao có thể trông coi nhân dân để mà lập quốc được.

Bây giờ đại hoàng đế đã ban cho sắc thư có đóng ngự tỉ, lại hứa sẽ cho chú ngươi làm chủ An Nam,
ấy là thiên triều phủ ngự vạn quốc đều có pháp độ. Chú ngươi trước đây hành sự thực không hẳn đã
là vô tội, nhờ ơn đại hoàng đế lấy tấm lòng trời đất, xét thấy chú ngươi cùng họ Lê không có phận
quân thần nên tha chuyện cũ ban cho ân trạch vạn phần, thực chẳng vì cầu may mà được.

Chú ngươi nếu có thiên lương và là người biết chuyện thì hẳn là cảm kích vinh hạnh, nếu như không
đích thân đến kinh chiêm thiên ngưỡng thánh, khấu tạ hồng ân thì làm sao tỏ được tấm lòng sợ
thiên triều, thờ nước lớn[22], thành kính cung thuận? Nếu nói rằng chưa được phong hiệu nên trong
lòng ngượng nghịu, không mặt mũi nào mà cùng phiên vương các nước hân hoan tạ ơn thì việc đó
đâu có khó gì, đợi khi chú ngươi tiến quan bản tước các bộ đường sẽ xin ban ấn cấp phong cho chính
danh định phận, để chú ngươi đến kinh đô được cùng hàng với chư phiên vương thuộc quốc, lúc đó
thật sủng vinh biết mấy.
Năm nay khi Tôn đốc bộ đường[23] còn ở Trấn Nam Quan, chú ngươi ba lần xin hàng, Tôn đốc bộ
đường tâu lên nhưng chưa được ân chuẩn, đến khi qua bản tước các bộ đường, vì chú ngươi mà trần
tình tâu xin thì liền được đại hoàng đế đặc biệt cho nhiều ân điển, lại ban thưởng ưu hậu.

Huống chi sang năm là lễ bát tuần vạn thọ là thịnh điển thiên tải nan phùng[24], chú ngươi đích thân
đến kinh đô chúc ly triển cận[25] cũng là chuyện cát tường mỹ sự, thánh tâm ắt sẽ càng vui hơn nên
ban thưởng rất nhiều[26]mà một cái vòng trân châu như lần này không thể nào sánh được.

Còn việc xin tứ ấn thụ phong thì bản tước các bộ đường sẽ vì chú ngươi mà hết sức đảm trách, đừng
có ngờ vực gì nữa. Nếu như chú ngươi ngại rằng đường sá xa xôi, khí hậu nóng nực thì sang năm vào
khoảng hạ tuần tháng hai khởi thân tiến quan thì lúc đó thời giờ cũng rộng rãi. Sau khi tiến quan rồi,
từ châu Ninh Minh sẽ lên thuyền đi theo đường thủy đến thẳng kinh sư, như thế tránh được nóng
nực, hành trình cũng gần. Ấy là ta vì chú ngươi mà tính toán, không gì tốt hơn nữa.

Còn Lê Duy Kỳ[27] thì đã cắt tóc đổi y phục cho làm dân thường, sau này không thể trở về nước được,
chính mắt ngươi đã thấy rồi. Bản tước các bộ đường sợ chú ngươi không hiểu rõ nên đặc biệt mở
lòng thành công bố để cho ngươi biết, vậy nhà ngươi nên viết lại kỹ càng gửi về cho chú ngươi để
cho y an tâm hoan hỉ.

Tháng Năm nhuận, ngày mười chín [19] giờ Mão.

Trát dụ.[28]

Công việc hoàn tất, Phúc Khang An tâu lên Bắc Kinh báo cáo công việc như sau:

Ðến ngày 18, bọn Tả Giang đạo Thang Hùng Nghiệp hộ tống Nguyễn Quang Hiển đến tỉnh. Bọn thần
ra lệnh cho họ đến quán xá để nghỉ tạm, một mặt truyền gọi Lê Duy Kỳ cùng những cựu thần có tên
tuổi như bọn Hoàng Ích Hiểu vài ba người, đến công quán của thần Phúc Khang An chờ sẵn, sau đó
ra lệnh cho Thang Hùng Nghiệp đưa bọn Nguyễn Quang Hiển đến gặp. Bọn họ vọng về cung khuyết
hành lễ tạ ân tam quị cửu khấu xong, lại quay sang thần hành lễ nhất quị tam khấu. Thần ra lệnh cho
họ ngồi một bên rồi cho họ biết rằng chú của ngươi Nguyễn Quang Bình trước đây đã tiến biểu văn,
mong được thánh chúa trông xuống xét cho việc chú ngươi và họ Lê vốn không có phận quân thần,
khi đại binh tiến thảo, vốn không dám có bụng kháng cự.

Nay đã được hoàng thượng ân chuẩn cho đầu thành, lại thương mến ban cho sắc thư, thưởng cho
vòng trân châu. Cái ơn trời cao đất dày kia, chú của ngươi Quang Bình có nằm mơ cũng không dám
nghĩ đến. Còn Lê Duy Kỳ hiện nay đã được thu lưu ở nội địa, đại hoàng đế đã ra lệnh cho họ thế phát
cải phục, xếp vào hạng dân thường, không thể nào còn trở về An Nam được nữa nên đặc biệt ra lệnh
cho các ngươi được gặp nhau.

Nguyễn Quang Hiển nghe thần nói như thế bèn rời chỗ ngồi khấu đầu, vẻ mặt vui sướng nói rằng
chú tôi là Quang Bình vốn là kẻ áo vải đất Tây Sơn, chưa từng giao thông với Trung Quốc, nhân vì
việc tranh chấp với họ Lê mà phải nhọc đến đại binh để đến nỗi còn lưu lại vết tích kháng cự nên
trong lòng áy náy, ngày đêm không yên. Chú tôi đã hiểu dụ mọi người trong nước, phàm gặp quan
binh lạc đường rơi lại phía sau đều phải cấp cho họ quần áo giày dép lộ phí cơm ăn, hộ tống tiến
quan. Tháng Giêng năm nay ở bờ sông nơi các vị đại nhân trận vong đã lập đàn cúng tế, quả là lòng
thành hối tội úy thiên từ gan ruột. Nay được đại hoàng đế khoan ân vượt mức, thật còn hơn trời bể.
Chú tôi Quang Bình khi nhận được sắc thư và đồ quí, ắt rất là vui sướng hân hoan gửi tạ biểu
ngay.[29]
Bọn thần nghĩ Nguyễn Huệ lúc này mới vừa lập quốc, nếu như không được phong tước của thiên
triều thì không thể nào là hùng trưởng được, thành thử sẽ phải gấp gáp cầu phong, ân cần bức thiết
xuất tự chí thành.
Bọn thần sau đó lại tuân chỉ gọi Lê Duy Kỳ, ra lệnh cho gặp Nguyễn Quang Hiển. Y nói rằng tôi nay
đã là dân thiên triều rồi, không còn điều gì phải nói với y nữa, còn bọn cựu thần Hoàng Ích Hiểu tuy
có vẻ căm hận nhưng vì đông người đàn áp nên cũng không dám tỏ thái độ gì. Còn bọn Nguyễn
Quang Hiển vừa thấy Lê Duy Kỳ thì vẻ mặt hân hoan, dường như bao nhiêu nghi ngại đều nhẹ nhõm.

Ngày 19 bọn Nguyễn Quang Hiển nghỉ lại tỉnh một ngày để các tòng nhân mua thêm quần áo giày
dép. Ngày 20 tỉnh thành đãi yến một lần, lại cấp cho ngân lượng, vải vóc các thứ theo nghi văn thể
chế, lại tuân chỉ chiếu theo lệ đúng như đãi các cống sứ Miến Ðiện hồi năm trước, không hậu hơn mà
cũng không giản tiện.

Bọn họ về đến quán xá lập tức viết thư gửi báo cho Nguyễn Huệ biết, nhờ Thang Hùng
Nghiệp chuyển trình. Bọn thần duyệt khán giao cho tòng quan là vệ úy Hồ Văn Tòng [胡文從]đem về
tận mặt cáo tri Nguyễn Huệ mọi tình hình từ khi tiến quan đến nay. Bọn thần cũng phái người đưa y
xuất quan.[30]

Tính từ khi khởi hành ở Nam Quan ngày 27 tháng Năm đến khi tới Quế Lâm ngày 18 tháng Năm
[nhuận] là hơn 20 ngày. Theo tường thuật của Vũ Huy Tấn, phái đoàn được đi kiệu hoa, xuống
thuyền thì có treo đèn đỏ để cho người ngoài biết có quan lại đang đi để các địa phương đón chào
nên đâu đâu cũng được đón tiếp rất nồng hậu. Ông cũng thường nhắc đi nhắc lại là những ân điển
đó đều là “lần đầu” [葢創恩也] để biết rằng ông rất hân hạnh. Cũng nên biết thêm cha của Vũ Huy
Tấn là Vũ Huy Đĩnh, từng làm phó sứ sang Thanh năm Cảnh Hưng 32 (Càn Long 36, 1771) nên ông
cũng có ít nhiều có kinh nghiệm từ phụ thân. Đến Nam Ninh, phái đoàn rời thuyền lên đi theo đường
bộ đến Quế Lâm.

Ở đây phái đoàn được đi thăm chùa Tương Sơn [湘山] ngoài thành Toàn Châu (thuộc Quế Lâm).
Chùa nằm trên lưng chừng núi, có tháp cao hơn 10 trượng đâm vào mây, ở cửa vào có biển bằng
đồng viết ba chữ “Vô Lượng Động”, vào đại điện có biển viết bốn chữ “Chủ Nhân Thường Tại”, ngoài
điện có biển viết “Sở Nam Đệ Nhất Thiền Lâm”.[31]

Trên danh nghĩa phái đoàn được tiếp đãi ân cần nồng hậu nhưng cũng là thời gian mà Phúc Khang
An mưu tính ràng buộc triều đình Tây Sơn bằng cách chiêu dụ nhóm Lê Quýnh sang Trung Hoa
“bàn quốc sự” nhằm cô lập những nhóm chống đối để vua Quang Trung không thể lấy cớ việc nước
chưa yên mà từ chối sang chúc thọ.[32] Vì bị cô lập ở một nơi không thông tin tức, cho tới đầu tháng
Năm [nhuận], vua Lê và những người đi theo chưa biết gì về các diễn tiến ngoại giao nên vẫn hi vọng
vào thiện chí “tự tiểu tồn vong” của thượng quốc.

Ngày 21 tháng Năm [nhuận], Nguyễn Quang Hiển gửi thư sai vệ úy Hồ Văn Tòng đem về

Thăng Long kèm theo một bức thư Phúc Khang An gửi vua Quang Trung:
Trước đây nhờ ơn thánh chúa chiếu xuống lòng thành tha thiết của quốc trưởng nên khâm ban sắc
thư, ân thưởng trân châu thủ xuyến[33]. Bản tước các bộ đường lập tức sai người kính cẩn mang đến
Trấn Nam Quangiao cho Tả Giang đạo chuyển cho cháu ruột của quốc trưởng là Quang Hiển kính
cẩn nhận lãnh rồi sai người đem đến Lê thành, lại soạn một hịch văn gửi kèm theo, hẳn là quốc
trưởng đã sớm kính cẩn nhận lãnh và viết tạ biểu cho người mang đến cửa quan.
Cháu của quốc trưởng Quang Hiển và bồi giới[34] là Nguyễn Hữu Trù [阮有啁] ngày mười tám [18]
tháng này đi đến tỉnh thành Quế Lâm [桂林], đã được bản tước các bộ đường tiếp kiến, hỏi han về
ăn uống đi đứng trên đường mọi việc đều ổn thỏa, những người đi cùng cũng đều khỏe mạnh.

Ngày hai mươi [20], thiết yến khoản đãi Quang Hiển cùng bồi giới[35], ai nấy ăn uống no nê vui vẻ rồi
về công quán nghỉ ngơi. Chúng tôi cũng chuẩn bị cho họ mũ áo bằng sa mỏng để mặc trên đường đi
cho mát mẻ, sảng khoái. Lại nghĩ đến sau này chiêm ngưỡng thiên nhan, ra khỏi kinh đô trở về nước
thì đã vào cuối thu, khí hậu khi đó cần đồ ngự hàn nên trước khi đi cũng dự bị may sẵn các loại áo da
và bông để mang theo. Lại ra lệnh cho Tả Giang đạo Thang [Hùng Nghiệp] lo liệu việc khởi trình
cùng thông báo cho các địa phương trên đường đi để những nơi nào có đường thủy thông qua được
thì lập tức dự bị thuyền để thừa tọa cho thoải mái.

Bản tước các bộ đường ngưỡng thể tấm lòng vỗ về chăm lo của đại hoàng đế đã gia ân vượt mực nên
hết sức lo liệu cho chu đáo để bọn Quang Hiển đi đường dài sẽ không bị mệt mỏi, lại sai người đi
theo là vệ úy Hồ Văn Tòng [胡文從] đem gia tín và tình hình mọi việc trở về nước kể lại cho quốc
trưởng, hẳn quốc trưởng biết được sẽ vạn phần cảm kích thiên ân, sung sướng không biết chừng
nào.

Lúc này trời đương mùa hạ là lúc nóng nhất, trong nước trên dưới có bình an không? Mùa xuân sang
năm, bản tước các bộ đường sẽ ở tại Trấn Nam Quan đợi quốc trưởng để cùng lên kinh đô chúc ly
triển cận[36], hưởng ân trạch của hoàng đế.

Sức ép và những thủ đoạn tinh vi của nhà Thanh khiến cho triều đình Quang Trung phải thay đổi ít
nhiều trong tờ biểu cầu phong xác định sẽ sang chúc thọ. Bản văn sau cùng còn lưu lại trong
KDANKL có đoạn như sau:

Trước đây thần đã sai cháu là Nguyễn Quang Hiển đến cửa quan, thay mặt hành lễ đã từng chính
miệng cáo rằng đợi khi quốc sự tạm yên sẽ nhập cận kinh sư, tấm lòng chân thành của thần, chỉ
biết sợ mệnh trời tuân theo thiên tử, là chuyện đương nhiên của chức phận vậy.

Cúi lạy thánh thiên tử trời sinh là bậc chí đức, vị lộc danh thọ, tất cả đều gồm đủ. Sang năm tháng
Tám là dịp khánh tiết bát tuần vạn thọ, là thịnh sự cát tường, cả doanh hoàn đều vui mừng
nếu như thần được hưởng chung ánh sáng của nhật nguyệt, cùng được vinh hoa đến chúc thọ
thực là chí nguyện nên mong sao quốc sự sớm được yên phận, để đến khoảng xuân hạ sang năm có
thể bẩm với tổng đốc Lưỡng Quảngchuyển tấu để cho phép chiêm cận cho thỏa lòng thành kính,
mong được bệ hạ chiếu xuống nơi uyên động thì hân hoan cảm kích biết chừng nào.

Điểm quan trọng nhất trong biểu văn này là việc vua Quang Trung xin được qua chúc thọ vào
năm Canh Tuất khiến cho vua Càn Long vô cùng hoan hỉ nên mọi ân sủng về sau đều hơn mực
thường. Để trả lời việc xin được phong vương để khi sang Bắc Kinh không bị kém vế, vua Càn Long
liền hạ chỉ cho hay khi Nguyễn Quang Bình đến Nam Quan sẽ được phong vương, vào triều được xếp
ngang hàng thân vương ngoại phiên, đứng trên quận vương tông thất.[37] Thân vương là tước vị
cao nhất của nhà Thanh chỉ sau hoàng đế.
cách tiếp đãi của thanh triều

Ngày mồng 6 tháng Năm nhuận, Quân Cơ Xứ theo lệnh vua Càn Long gửi một dụ chỉ xuống tất cả các
quan lại địa phương trên đường đi của Nguyễn Quang Hiển để chỉ thị về việc tiếp đãi như sau:
Mới đây Nguyễn Huệ đã sai cháu ruột là Nguyễn Quang Hiển đến trấn Nam Quan tiến biểu xin hàng
lại khẩn cầu lên kinh đô nhập cận [triều kiến hoàng đế]. Trẫm đã giáng chỉ thuận cho lên kinh đô cốt
sao cho trước ngày 20 tháng Bảy đến được Nhiệt Hà, lại ra lệnh cho Tả Giang Thang Hùng Nghiệp đi
cùng, còn các đốc phủ ở những địa phương nào đi qua chi cấp cũng đừng phí phạm.

Nay nghĩ lại Nguyễn Huệ hối tội thành thực qui thuận vốn định đích thân đến cửa quan tự mình nạp
khoản nhưng vì trong nước dân chúng vừa qua loạn lạc [甫罹] chưa được an tập nên không thể đi xa
nên mới sai cháu ruột đến cửa quan lại xin tiến kinh chiêm cận, tình thế cấp bách nhưng thật là chí
thành. Nguyễn Quang Hiển lại là cháu ruột của Nguyễn Huệ không thể sánh ngang với các đầu mục
khác được, vậy những nơi đi qua việc chi ứng cũng không nên quá xa hoa nhưng cũng không nên
giản lược.

Huống chi An Nam và Miến Điện hai bên tin tức qua lại nên lần này quá ư giản lược mà họ hay biết
thì sẽ nghĩ rằng thiên triều phủ ngự ngoại di có phân ra dày mỏng, ấy không phải là đạo nhất thị
đồng nhân [đối với ai ai cũng cùng một lỏng nhân]. Vậy hãy chiếu theo năm ngoái cống sứ Miến
Điện đi qua tiếp đãi thế nào thì cũng như vậy không hơn mà cũng không kém.

Nếu như Nguyễn Huệ sang năm đích thân nghệ khuyết thì việc tiếp đãi so với Nguyễn Quang Hiển có
hậu hĩ hơn một chút cũng không phải không được. Các đốc phủ hãy thể theo ý thương mến của trẫm
mà sắp xếp biện lý.[38]

Tuân theo dụ chỉ của vua Càn Long, các quan địa phương ra sức làm đẹp lòng kim thượng bằng cách
tu sửa đường sá cầu cống, chỗ nào mấp mô đều đắp cho bằng phẳng, các đầm hào doanh trại đều
dọn dẹp sạch sẽ cho khách quan chiêm. Tại các nơi đóng quân cũng chọn những lính tráng khoẻ
mạnh giao cho quần áo khí giới mới tập hợp thành đội ngũ chỉnh tề để khi phái đoàn đến ranh giới
hai tỉnh thì đón rước. Sứ đoàn nước ta mỗi khi đến đâu lập tức tuần phủ nơi đó đem quan văn võ ra
đón và hộ tống cho đến khi ra khỏi địa giới. Mỗi phủ tổ chức yến tiệc nhưng khi đến tỉnh thành ngoài
yến tiệc đều có thêm các màn kịch [diễn tuồng] để tỏ đạo nhu viễn của hoàng đế. [39]
Cũng nên thêm, các sứ bộ nước ta trước đây đi theo đường sông, nay vì vua Càn Long muốn thêm
long trọng nên cho đi đường bộ để quan viên có dịp gặp gỡ tiếp đãi và sứ đoàn nước ta cũng chứng
kiến cảnh trù phú của Trung Hoa.[40]

Vì vai trò đặc biệt của Nguyễn Quang Hiển không phải như một phái đoàn phiên thuộc bình thường
nên việc tiếp kiến cũng có tiêu chuẩn riêng. Vua Càn Long đặc biệt gửi dụ chỉ cho các đốc phủ trên
đường phái đoàn đi qua để nhất loạt áp dụng nghi lễ mà Phúc Khang An đã thi hành ở Quảng Tây để
các nơi thi hành cho đồng nhất.[41]

Theo tài liệu nhà Thanh, phái đoàn đi từ Nam Quan đến Ninh Minh đi vòng qua Quế Lâm để gặp gia
đình Lê Duy Kỳ, ngày 22 tháng Năm [nhuận] từ Quế Lâm khởi trình theo đường thủy đi thẳng tới
Trường Sa qua những địa phương như Đông An, Vĩnh Châu, Hoành Châu. Phái đoàn cũng thăm vách
núi Binh Thư [兵書岩] ở hữu ngạn của ghềnh Xứng Vật [秤勿灘]. Vách đá cao hơn trăm trượng màu
đỏ tục truyền là nơi Gia Cát Lượng xưa dùng binh.

Vũ Huy Tấn và mọi người cũng đi thăm Ngô Sơn (tên cũ Dương Ngô) [浯山] trên đó có Ngô Khê, Ngô
Đình và Ngô Đài là ba thắng cảnh mà người đời xưng lả Tam Tuyệt.[42] Trong văn thơ của ông cũng
còn những bài vịnh hồ Động Đình, sông Võ Xương, am Vạn Niên là những nơi đi ngang qua.
Ngày 4 tháng Sáu, phái đoàn đến tỉnh thành Trường Sa. Giờ Ngọ hôm đó, tuần phủ Hồ Nam Phố Sâm
đưa tất cả các quan trong tỉnh ra đón, trần thiết nghi vệ và dàn đội ngũ tại đại đường tiếp kiến và
cho Nguyễn Quang Hiển biết rằng “đại hoàng đế nghĩ tình các ông phụng sứ từ xa đến có bụng thành
kính qui phục, lại là lần đầu triển cận nên thương xót mà ra lệnh cho các nơi tiếp đón hậu hĩ hơn
bình thường”. Sau khi nghe thông sự dịch lại, Nguyễn Quang Hiển vui mừng vọng về cung khuyết
khấu đầu tạ ơn.[43] Sau đó quan nhà Thanh mở tiệc đón chào, lại cho diễn kịch, lại đem các loại vải
vóc sa đoạn, trù lăng (các loại vải khác nhau), trà thuốc, ngân bài ra biếu.

Ngày mồng 9 tháng Sáu, phái đoàn Nguyễn Quang Hiển đến huyện Bồ Kỳ [蒲圻), tỉnh Hồ Bắc được
tuần phủ Huệ Linh [惠齡] sai Mạnh Ngọc [孟鈺] đạo Hoàng Đức và tri phủ Võ Xương Mục Thông A
[穆通阿] và thủ doanh là tham tướng Lặc Phúc [勒福] qua lại đón tiếp, ngày 12 cùng tháng thì đến
tỉnh thành được tổng đốc Hồ Quảng Tất Nguyên [畢沅] đem tất cả quan lại địa phương nghênh đón,
mở tiệc diễn kịch và đem biếu các loại vải vóc thổ sản cho mọi người.

Ngày 17 tháng Sáu, phái đoàn vào Tín Dương thuộc tỉnh Hà Nam được tuần phủ Lương Khẳng
Đường [梁肯堂] sai Vạn Ninh đạo Nhữ Quang, tri phủ Nhữ Ninh Bành Như Cán [彭如幹] ra đón.

Ngày 29 tháng Sáu, Nguyễn Quang Hiển được tuần phủ Lương Khẳng Đường đãi tiệc rồi sau đó đích
thân đưa tiễn ra khỏi cảnh giới Hà Nam. Đến Phong Lạc phái đoàn chuẩn bị qua sông Chương [漳河]
nhưng nước dâng cao, sóng lớn, thuyền bè không dám mạo hiểm nên phải nghỉ lại công quán đợi
đến mồng 1 tháng Bảy nước rút, đích thân tri phủ Chương Đức là Lý Chu [李 đưa qua sông sang Từ
Châu thuộc tỉnh Trực Lệ.[44]

Tổng đốc Trực Lệ Lưu Nga [劉峩] đã nhận được tin từ Hà Nam nên sai người tiếp đón và hộ tống.
Phái đoàn đi qua các phủ Cố An, Trác Châu, Tân Thành, Định Hưng đang vụ mùa nên cũng đi chậm
lại. Ngày mồng 6 tháng Bảy, phái đoàn đến huyện Chính Định, nước sông Hô Đà [滹沱] dâng cao nên
dừng lại chờ đến ngày mồng 8 mới qua sông được.[45]

Ngày 13 tháng Bảy, phái đoàn đến tỉnh thành Trực Lệ được tổng đốc và các quan ra nghinh đón đãi
yến, xem kịch và đem biếu các loại vải vóc. Ngày 24 tháng Bảy, phái đoàn lên đường đi tiếp đến
Nhiệt Hà là hành tại của vua Thanh ngày mồng 3 tháng Tám và ở lại đây cho đến sau ngày sinh nhật
vua Càn Long (13 tháng Tám).

Nguyễn Quang Hiển và hai sứ thần Nguyễn Hữu Trù và Vũ Huy Tấn và tất cả hành nhân cùng các
vương công, đại thần và các bối lặc, bối tử Mông Cổ, ngạch phò, đài cát …. nhập cận [vào triều kiến
vua Càn Long] tại thắng cảnh Quyển A [卷阿], sau đó mọi người được ăn yến và xem kịch tại Quan
Âm Các.

Vũ Huy Tấn kể lại như sau:

Ngày hôm sau [26 tháng Năm] tiến quan thẳng một đường Quảng Tây, Hồ Quảng, Hà Nam, Trực Lệ
mà đi. Ngày đêm không nghỉ.
Ngày mồng ba tháng Tám đến công quán. Ngày 13 tháng Tám vào làm lễ triều hạ [mừng sinh nhật
vua Càn Long] xong được lệnh cho về nước. Lại theo đường bộ về đến tỉnh thành Quế Lâm thì lên
thuyền xuôi dòng đến phủ Ngô Châu. Khi đó là ngày rằm tháng Một …[46]

Sau khi triều kiến vua Càn Long trở về, Vũ Huy Tấn hết sức sung sướng nên đã làm bài thơ sau đây
để nói lên tâm sự mình.

朝回喜賦
書生幾得面君王,愧我遠來偏近光。
墀下趍蹌陳賀表,御前揮洒和宸章。
恩綸驚接龍文筆,朝袖欣沾獸鼎香。
公驛歸來清不寐,滿窻風月又相將。
欽承賜覲鳳書宣,晨夕馳驅路十千。
海不波辰知有聖,山從梯後喜瞻天。
翠花日煖濃春色,御鼎香浮靄瑞煙。
歌宴侍陪無別頌,願賡周雅九如篇。

Dịch âm
Triều hồi hỉ phú
Thư sinh kỷ đắc diện quân vương,
Quí ngã viễn lai thiên cận quang.
Trì hạ xu thương trần hạ biểu,
Ngự tiền huy sái họa thần chương.
Ân luân kinh tiếp long văn bút,
Triều tụ hân triêm thú đỉnh hương.
Công dịch qui lai thanh bất mị,
Mãn song phong nguyệt hựu tương tương.
Khâm thừa tứ cận phượng thư tuyên,
Thần tịch trì khu lộ thập thiên.
Hải bất ba thời tri hữu thánh,
Sơn tòng thê hậu hỉ chiêm thiên.
Thuý hoa nhật noãn nùng xuân sắc,
Ngự đỉnh hương phù ái thuỵ yên.
Ca yến thị bồi vô biệt tụng,
Nguyện canh Chu Nhã Cửu Như thiên.

Dịch nghĩa

Đã mấy khi kẻ đọc sách được diện kiến quân vương,


Thật thẹn thùng cho người ở xa được gần ánh sáng [thiên tử].
Dưới bệ trang trọng đưa lên tờ biểu trần tình chúc thọ,
Trước mặt nhà vua ta múa bút họa bài thơ thần.
Kinh hãi nhận được lời của nhà vua ban cho từ bút có vẽ rồng,
Áo triều còn vương mùi thơm từ chiếc đỉnh hình con thú.
Trở về nhà dịch ta đêm không ngủ được,
Qua cửa sổ đầy gió trăng quyện lấy nhau.
Nhận được phượng thư cho phép lên triều cận,
Không kể ngày đêm bôn ba mười nghìn dặm.
Biển không có sóng nên biết rằng có thánh nhân,
Vượt núi trèo non vui mừng được chiêm ngưỡng thiên tử.
Hoa biếc mặt trời ấm áp mùa xuân nồng nàn,
Đỉnh ngự hương tỏa ra khói lành mù mịt.
Ca hát yến tiệc hầu vua không còn biết ca tụng gì hơn nữa,
Mong được nối theo các khúc Chu Nhã, Cửu Như.

Ngày 28 tháng Bảy, phái đoàn vào triều sớm. Hôm đó nhà vua mới đi săn về có bắn được một con
hươu sao nên sai làm thịt đãi yến ban cho sứ thần để phô cho mọi người biết tuy thiên tử tuổi đã cao
nhưng còn nhanh nhẹn. Trên bàn tiệc, Vũ Huy Tấn đã làm một bài thơ và được ban cho một hộp
mực thơm [御藏香墨] gồm 10 thỏi.

獮禽古禮正秋佳,天子躬身射獵回。
神武尚嫌弓力粢,仙乘更逐矢頭來。
咸聞車馬欣王豫,好詠騶虞頌聖才。
遠价幸霑分豆惠,上林奏賦乏鴻裁。

Dịch âm

Tiển cầm cổ lễ chính thu giai,


Thiên tử cung thân xạ liệp hồi.
Thần võ thượng hiềm cung lực tế,
Tiên thừa cánh trục thỉ đầu lai.
Hàm văn xa mã hân vương dự,
Hảo vịnh sô ngu tụng thánh tài.
Viễn giới hạnh triêm phân đậu huệ,
Thượng lâm tấu phú phạp hồng tai.

Dịch nghĩa
Đi săn mùa thu là một lễ cổ đẹp
Đích thân thiên tử đi bắn thú về
Thần võ hiềm rằng sức cung mạnh
Cưỡi ngựa đuổi theo mũi tên bay ra
Ai nấy đều nghe xe ngựa vui mừng đến
Những kẻ theo hầu đều ca tụng tài của thánh nhân
Kẻ ở xa tới may mắn được một phần ân huệ
Dâng lên một bài thơ không hợp vào đâu cả

Cũng nhân dịp thánh tiết [sinh nhật vua Càn Long], sứ đoàn An Nam cũng dâng lên một bài thơ
mừng thọ và một bài biểu như sau:
天錫純禧萃一人,祥光縹緲捧楓宸。
半千此日今重旦,億萬斯年始八旬。
方國環觀皇極夀。群漦咸頌昊乾仁。
幸同虎拜陪桃宴,虔上蕪章祝大春。

Dịch âm
Thiên tích thuần hi tuỵ nhất nhân,
Tường quang phiếu diểu phủng phong thần.
Bán thiên thử nhật kim trùng đán,
Ức vạn tư niên thuỷ bát tuần.
Phương quốc hoàn quan hoàng cực thọ.
Quần li hàm tụng hạo càn nhân.
Hạnh đồng hổ bái bồi đào yến,
Kiền thượng vu chương chúc đại xuân.

Dịch nghĩa
Trời ban cho những phúc lành tập hợp vào một người,
Ánh sáng tốt đẹp toả đầy trong cung vua.
Năm trăm năm mới có một ngày như hôm nay.
Trong muôn vạn năm nay thọ được đến tám mươi là đầu tiên.
Dưới trần hoàn sống thọ ngang với trời đất,
Lòng nhân trải ra khắp cõi càn khôn..
May mắn được cùng mọi người ăn yến vườn đào,
Kính cẩn dâng lên một bài thơ vụng về để chúc mùa xuân lớn.
伏以
欽明有文
八表仰堯勲之放。祿名兼夀。
兩間昭舞德之華。慶集一人。
騰歡萬海。
臣等竊惟。
昊天生蒸民立之司牧。葢必惟最靈最粹之才。
皇極歛五福先曰夀康。將求建至正至中之準。
於皇今日。允協昌期。
欽惟
皇帝陛下。
仁孝格天。
孚誠享帝。撫百四十載累洽重煕之運。
水止一心。作五十四年盛治備祉之君。
綴旈萬國。
和泰昭回盛旦。
重申允迓宏休。
海籌初進耄旬。
方川至山增之未殳。
秋呂近臨月夕。
適虹流電遶之重逢。
南極瞻而兆姓雀歡。
北辰拱而群方鰲怍。
臣等來從午徼。
喜見丁纒。
虎拜齊趍。稱藕幸陪華宴。
嵩呼媚祝。獻芹敢効蕪章。

Dịch âm

Phục dĩ
Khâm minh hữu văn
Bát biểu ngưỡng Nghiêu huân chi phóng. Lộc danh kiêm thọ.
Lưỡng gian thiệu Vũ đức chi hoa. Khánh tập nhất nhân.
Đằng hoan vạn hải.
Thần đẳng thiết duy.
Hạo thiên sinh chưng dân lập chi tư mục. Cái tất duy tối linh tối tuý chi tài.
Hoàng cực liễm ngũ phúc tiên viết thọ khang. Tương cầu kiến chí chính chí trung chi chuẩn.
Ư hoàng kim nhật. Doãn hiệp xương kỳ.
Khâm duy
Hoàng đế bệ hạ.
Nhân hiếu cách thiên.
Phu thành hưởng đế. Phủ bách tứ thập tải luỵ hiệp trùng hi chi vận.
Thuỷ chỉ nhất tâm. Tác ngũ thập tứ niên thịnh trị bị chỉ chi quân.
Xuyết lưu vạn quốc.
Hoà thái thiệu hồi thịnh đán.
Trùng thân doãn nhạ hoành hưu.
Hải trù sơ tiến mạo tuần.
Phương xuyên chí sơn tăng chi vị thù.
Thu lữ cận lâm nguyệt tịch.
Thích hồng lưu điện nhiễu chi trùng phùng.
Nam cực chiêm nhi triệu tính tước hoan.
Bắc thần củng nhi quần phương ngao tộ.
Thần đẳng lai tòng ngọ khiếu.
Hỉ kiến đinh triền.
Hổ bái tề xu. Xứng ngẫu hạnh bồi hoa yến.
Tung hô mị chúc. Hiến cần cảm hiệu vu chương.

Dịch nghĩa
Cúi lạy
Ngày xưa sách có viết rằng
Tám cõi đều ngước về mong được vua Nghiêu ban bố tới,
Cả lộc danh lẫn thọ
Trời đất bừng sáng của vua Vũ mà ca tụng vẻ vinh hoa
Tập trung cả vào một người
Vui mừng vượt qua vạn biển
Bọn thầm trộm nghĩ rằng
Trời mênh mông nuôi nấng muôn dân
Ấy phải là cái tài tối linh cực tinh túy
Hoàng cực ban cho năm phúc thì trước hết phải là thọ khang
Rồi mới mong được chuẩn mực thật chính thật trung
Được ngày hôm nay
Hợp kỳ tốt đẹp
Kính thay hoàng đế bệ hạ
Đức nhân đức hiếu như trời
Tin thành nên hưởng vai đế
Tiếp nối việc vỗ về vận sáng một trăm bốn mươi năm
Vẫn chỉ một lòng
Làm vua trong năm mươi bốn năm thịnh trị
Nối liền vạn nước
Hòa thái soi sáng ngày thịnh
Rộng thêm phúc lớn tốt lành
Tính ra mới đến bát tuần
Sẽ còn dài như sông núi
Sáng vằng vặc như trăng thu
Ánh cầu vồng quấn quít
Thấy nam cực mà trăm họ reo vui
Chầu bề sao bắc mà mọi phương cúi đầu
Bọn thần từ nơi xa xôi hoang vắng
Vui mừng thấy người người lũ lượt
Hổ báo cùng đến
Được may mắn dự vào hoa yến
Tung hô chúc tụng
Dâng lên nhỏ mọn vài câu vụng về

Việc vua Quang Trung sai Nguyễn Quang Hiển mang biểu văn cầu phong được triều đình nhà Thanh
đánh giá như một biến cố trọng đại, “chiến thắng mà không cần dụng binh” nên đã được vẽ thành
bức tranh “Nguyễn Huệkhiển điệt Nguyễn Quang Hiển nhập cận tứ yến”trong An Nam Chiến Đồ.
Trong bức tranh này, vua Càn Long ngự tại Quan Âm Các là một trong ba đại kịch trường ở kinh đô
[ba tầng có các nhạc công], phái đoàn nước ta có Nguyễn Quang Hiển và hai sứ thần [mặc áo tía],
năm hành nhân [mặc áo đỏ], phía bên trái nhà vua là nơi chuẩn bị tiệc.

Trong dịp này, vua Càn Long thưởng cho Nguyễn Quang Bình [vua Quang Trung] tượng Quan Âm
bằng ngọc, thanh như ý bằng ngọc, gấm đoạn sợi vàng, triều châu [chuỗi đeo cổ theo phẩm phục nhà
Thanh] … Nguyễn Quang Hiển cũng được thưởng tượng La Hán bằng sứ, ngọc như ý, gấm đoạn sợi
vàng và hộp bằng bạc … Các sứ thần hành nhân đi theo cũng được thưởng nhiều món khác
nhau.[47]

Ngày 28 tháng Bảy, vua Càn Long ban cho vua Quang Trung một bộ kinh Kim Cương (hộp lớn) còn
Nguyễn Quang Hiển cũng được một bộ (hộp nhỏ). Bộ kinh này có ghi những lời chú thích và bình
giải của chính vua Càn Long.[48]

Ngày mồng 2 tháng Tám, sắc và ấn mới đúc đã được trình lên vua Càn Long ngự lãm, sau đó được
giao cho bộ Lễ chuyển về kinh đô để làm lễ giao cho Nguyễn Quang Hiển.
Ngày 10 tháng Tám, vua Càn Long tổ chức đại yến phái đoàn lại được thưởng thêm.
Theo Từ Diên Húc trong Việt Nam Tập Lược, trong năm Kỷ Dậu nước ta được thưởng 5 lần nhưng
không ghi rõ thời gian nào vì có nhiều phái đoàn đến Nhiệt Hà với nhiệm vụ khác nhau.[49] Sau khi
gặp vua Càn Long ở Nhiệt Hà, phài đoàn trở về Bắc Kinh[50].
Ngày 22 tháng Tám trong một đại lễ ở điện Thái Hòa, Nguyễn Quang Hiển đã nhận sắc và ấn do bộ
Lễ soạn và đúc sẵn. Phía Thanh đình, đại học sĩ A Quế đứng ra giao ấn, đại học sĩ Kê Hoàng đứng ra
trao sắc và nghi lễ đã được vua Càn Long minh bạch sắp xếp.[51] Sắc phong này đề ngày 22 tháng Sáu
năm Kỷ Dậu, do Quân Cơ đại thần thảo ra, trình lên ngự lãm rồi, sau đó do thư ký trong nội các viết
bằng hai thứ chữ Mãn – Hán, đóng ngự bảo (dấu của nhà vua).

Nguyên văn

朕惟王化遐覃,伐罪因而舍服,侯封恪守,事大所以畏天,鑒誠悃於荒陬,貰其既往,沛恩膏於

屬國,嘉與維新,賁玆寵命之頒,以訓行之率。

維安南地居炎徼,開十三道之封彊,而黎氏臣事天朝,修百餘年之職貢,每趨王會,舊附方輿。

自遭難以流離,遂式微而控愬,方謂興師復國,字小堪與圖存,何期棄印委城,積弱仍歸失守,

殆天心厭其薄德,致世祚訖於終淪。

爾阮光平起自西山,界斯南服,向匪君臣之分,寢成婚媾之讐,釁起交訌,情殊負固,抗顏行於

倉猝,雖無心而難掩前愆,悔罪疚以湔除。

願革面而自深痛艾,表箋籲切,使先猶子以抒忱,琛獻憬來,躬與明年之祝嘏,自非仰邀封爵,

榮藉龍光,曷由下蒞臣氓,妥玆鳩集。

凡此陳詞以實,胥徵効順彌虔,况王者無分民,詎在版章其土宇,而生人有司牧,是宜輯寧爾邦

家,爰布寵綏,俾憑鎮撫,今封爾為安南國王,錫之新印。

於戲!

有興有廢,天子唯順天而行,無貳無虞,國人咸舉國以聽,王其懋將丹款,肅矢冰競,固圉以長

其子孫,勿使偪滋他族,悉心以勤於夙夜,罔令逸欲有邦,益敬奉夫明威,庶永承乎渥典。

欽哉!

毋替朕命。[52]

Dịch âm
Trẫm duy vương hoá hà đàm, phạt tội nhân nhi xá phục, hầu phong khác thủ, sự đại sở dĩ uý thiên,
giám thành khổn ư hoang tưu, thế kỳ ký vãng, bái ân cao ư thuộc quốc, gia dữ duy tân, bí tư sủng
mệnh chi ban, dĩ huấn hành chi suất.
Duy An Nam địa cư viêm kiếu, khai thập tam đạo chi phong cương, nhi Lê thị thần sự thiên triều, tu
bách dư niên chi chức cống, mỗi xu vương hội, cựu phụ phương dư.
Tự tao nạn dĩ lưu ly, toại thức vi nhi khống tố, phương vị hưng sư phục quốc, tự tiểu kham dữ đồ
tồn, hà kỳ khí ấn uỷ thành, tích nhược nhưng qui thất thủ, đãi thiên tâm yếm kỳ bạc đức, chí thế tộ
cật ư chung luân.
Nhĩ Nguyễn Quang Bình khởi tự Tây Sơn, giới tư nam phục, hướng phỉ quân thần chi phân, tẩm
thành hôn cấu chi thù, hấn khởi giao hồng, tình thù phụ cố, kháng nhan hàng ư thương thốt, tuy vô
tâm nhi nan yểm tiền khiên, hối tội cứu dĩ tiền trừ.
Nguyện cách diện nhi tự thâm thống ngải, biểu tiên dụ thiết, sử tiên do tử dĩ trữ thầm, sâm hiến
cảnh lai, cung dữ minh niên chi chúc hỗ, tự phi ngưỡng yêu phong tước, vinh tạ long quang, hạt do
hạ lị thần manh, thoả tư cưu tập.
Phàm thử trần tự dĩ thực, tư trưng hiệu thuận di kiền, huống vương giả vô phận dân, cự tại bản
chương kỳ thổ vũ, nhi sinh nhân hữu ti mục, thị nghi tập ninh nhĩ bang gia, viên bố sủng tuy, tỉ bằng
trấn vũ, kim phong nhĩ vi An Nam quốc vương, tích chi tân ấn.
Ô hô!
Hữu hưng hữu phế, thiên tử duy thuận thiên nhi hành, vô nhị vô ngu, quốc nhân hàm cử quốc dĩ
thính, vương kỳ mậu tương đan khoản, túc thỉ băng cạnh, cố ngữ dĩ trường kỳ tử tôn, vật sử bức tư
tha tộc, tất tâm dĩ cần ư túc dạ, võng lệnh dật dục hữu bang, ích kính phụng phù minh uy, thứ vĩnh
thừa hồ ác điển.
Khâm tai.
Vô thế trẫm mệnh.

Dịch nghĩa

Trẫm vốn chỉ dùng vương hoá để trải rộng đến tận phương xa, phạt kẻ có tội nhưng vẫn tha kẻ quay
về, phong cho chư hầu biết kính cẩn giữ lễ, coi việc lớn là sợ trời, xét lòng thành của kẻ nơi hoang
dã, bỏ qua những chuyện cũ, đem ân ban bố cho thuộc quốc, tán thành việc đổi mới, (nên) thương
mà giao việc xuống, thuận mà hết sức làm theo.
Đất An Nam ở nơi nóng nực phương nam, mở mang cương vực mười ba đạo, họ Lê là bề tôi thờ
thiên triều, giữ việc cống lễ hơn trăm năm qua, tuân theo vương hoá, làm chủ một cõi. Đến khi gặp
nạn ly tán, chạy đến kêu xin, (thiên triều) đã hưng sư lấy lại nước tưởng mong giữ được cơ đồ, nào
hay vứt ấn bỏ thành, rốt cuộc rồi cũng trắng tay, hẳn là trời cũng ghét bỏ kẻ đức mỏng, không cho
giữ quyền thừa kế nên rồi cũng để mất.

Ngươi Nguyễn Quang Bình khởi từ đất Tây Sơn, vốn dĩ sống ở phương nam, đối với kẻ kia không có
nghĩa quân thần, chỉ có tình hôn nhân, dần dà hai bên gây hấn, tình nghĩa dứt rồi, lúc hoảng hốt ra
tay chống lại, dẫu không phải là cố ý nhưng tội lỗi không dễ xoá nhoà. Nay biết thống hối, dâng tờ
biểu thiết tha, sai cháu làm sứ thần từ xa xôi sang trình bày, đem cống hiến đồ quí báu, (còn) bản
thân sang năm sẽ qua chúc thọ, chẳng phải vì mong được phong tước để được vinh quang, mà để
cho thần tử đang ngơ ngác, lang thang có nơi tụ tập yên ổn.

Những lời trần tình ấy quả là thành thực, cung kính mà quy thuận, huống chi vương đạo không phân
biệt ai, há lại coi chỗ này hơn chỗ khác, người sống phải có kẻ chăn dắt, kẻ hoà hợp cần được yên ổn
gia đình, người nghèo được nâng đỡ, kẻ kém được vỗ về, nay phong cho ngươi làm An Nam quốc
vương, ban cho ấn mới.
Than ôi!

Đời có lúc hưng lúc phế, thiên tử cứ theo mệnh trời mà làm, không ngờ vực, không sợ hãi, người
trong nước tất cả đều nghe theo, để cho vương đạo tràn lan khắp cõi, truyền cho đến cháu con,
không để vào tay họ khác, hết lòng hết dạ chăm chỉ sớm hôm, không trễ nải việc nước, luôn luôn
kính trọng oai trời, để được thấm nhuần ơn mưa móc mãi mãi.
Kính thay!

Chớ bỏ qua lệnh của trẫm.


Hình 1: Phái đoàn Nguyễn Quang Hiển triều kiến vua Càn Long ở Nhiệt Hà

Hình 2: Kim tiên đời Cảnh Thịnh gửi sang nhà Thanh có đóng dấu An Nam quốc vương

Sau khi lễ nhận sắc ấn hoàn tất, phái đoàn Nguyễn Quang Hiển lưu lại Bắc Kinh hai ngày để mua
nhân sâm.[53]Ngày 24 tháng Tám, phái đoàn Nguyễn Quang Hiển khởi trình theo đường bộ về nước.

Cũng thời gian này, một mặt vua Càn Long chuyên tâm theo dõi việc sứ thần Thành Lâm sang Thăng
Long làm lễ phong vương, tiếp đó là đốc thúc các địa phương đưa phái bộ Nguyễn Hoành Khuông
lên kinh đô cho kịp dịp tết Nguyên Đán nên việc phái bộ Nguyễn Quang Hiển trở về tương đối mờ
nhạt. Đáng án nhà Thanh chỉ có một số báo cáo của quan địa phương tiếp đãi khi phái đoàn đi ngang
qua cảnh giới của họ. Tuy nhiên, theo văn thơ của Vũ Huy Tấn trong Hoa Nguyên Tuỳ Bộ Tập thì
trên đường về vì không phải đi gấp ngày đêm không nghỉ như khi tiến kinh nên có nhiều dịp thăm
viếng, trao đổi với quan chức địa phương, làm thơ xướng hoạ.

Ngày Trùng Dương mồng 9 tháng Chín, phái đoàn đến Chương Đức (彰德) và ghé ngang Lạc Đình,
thưởng tuyết ở Trác Châu, quay lại chùa Hưng Long để từ biệt thiền sư Liên Thành, thăm lầu Nhạc
Dương và cung điện cũ của vua nước Việt rồi xuống thuyền trở về Quảng Tây.
Ngày 27 tháng Mười, theo lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh thì Nguyễn Quang Hiển đã đến Quế Lâm và
được tiếp đãi khá trọng thể. Phái đoàn nghỉ lại một ngày sau đó theo đường thuỷ đến Ngô Châu và
được quan lại nhà Thanh lưu lại đến gần 10 ngày để thăm 8 nơi thắng cảnh danh tiếng. Sau đó Tả
Giang đạo Thang Hùng Nghiệp và phó tướng Đức Khắc Tinh Ngạch đưa tất cả về nghỉ lại công quán
phủ Thái Bình.

Ngày 12 tháng Một, Ngô Văn Sở và Nguyễn Văn Danh đưa các vệ sĩ và chuẩn bị long đình đến đón ở
Nam Quan.[54] Cũng dịp này, Ngô Văn Sở lại nhờ quan nhà Thanh tâu lên để ông được cùng với quốc
vương tới kinh đô vào năm sau.[55]

Trong bữa tiệc tiễn phái đoàn, Ngô Văn Sở có tiết lộ một chi tiết cho ta thấy tình hình trong dân
chúng về việc vua Quang Trung dự tính sang Trung Hoa dự lễ khánh thọ như thế nào? Theo thượng
dụ của vua Càn Long ngày mồng 5 tháng Giêng năm Canh Tuất thì:
Cứ như lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh tâu lên báo rằng Nguyễn Quang Bình sai bọn Ngô Văn Sởđến
quan [Trấn Nam] nghênh tiếp sắc ấn và cung tiến tạ biểu nên sai người chuyển lên trước, trẫm đã
dùng bút son phê lên trên biểu để cho sứ thần nước đó là Nguyễn Hoành Khuông hiện đã đến kinh
đô đợi khi về nước sẽ mang châu phê biểu văn cùng với tuyên dụ đem về để tỏ lòng sủng quyến.
Nguyễn Quang Bình khi nhận được rồi sẽ đem lòng cảm kích về thi ân vượt mực này để y kiên tâm
hơn về lòng thành chiêm cận.

Tôn Vĩnh Thanh cũng tâu rằng theo lời bẩm của Thang Hùng Nghiệp thì Ngô Văn Sở gặp mặt có cho
y hay rằngLê Quýnh khi chưa ra khỏi ải khẩu [sang Trung Hoa] đã truyền bá dao ngôn rằng đợi khi
quốc vương tiến kinh thì đại binh sẽ lập tức xuất quan để giúp họ Lê, [vua] nước kia tuy không tin
hẳn nhưng cũng hơi nghi ngại.

Viên đạo này [Thang Hùng Nghiệp] dụ rằng đã đưa Lê Duy Kỳ lên kinh đô còn Lê Quýnh cũng bị an
tháp ở nơi xa xôi. Bọn Ngô Văn Sở nói rằng họ cũng đã nhận được tin đó nên không nghi ngại gì và
khẩn cầu với quốc vương khi tiến kinh cho được đi theo cho thoả lòng thành tâm chiêm cận.

Trước đây trẫm thấy rằng Ngô Văn Sở là người đắc lực của quốc vương nếu đi theo lên cung khuyết
thì không có người cư thủ nên đã giáng chỉ ra lệnh cho Nguyễn Quang Bình khi từ kinh đô về nước
rồi đến kỳ tiến cống sau thì hãy cho đi. Trong bẩm thiếp mà quốc vương kia gửi Thang Hùng
Nghiệp cũng có nói rằng sẽ để cho Ngô Văn Sở ở lại giữ quốc đô.

Nay Ngô Văn Sở lại tận mặt nói với Thang Hùng Nghiệp khẩn khoản xin đi cùng chiêm cận chắc là
viên bồi thần đó nghe Lê Quýnh truyền bá lời sằng trong lòng nghi ngại nên mới xin đi theo
để thăm chừng tình hình. Viên tuần phủ thấy thế mới đem chỉ dụ trước dẫn cho rằng đại hoàng đế
nghĩ rằng nước ngươi mới dựng được phong làm phiên nên đặc biệt thể tuất cho quốc vương lên
kinh đô nên đã ra lệnh cho ngươi ở lại giữ nước, vậy ngươi hãy kính cẩn tuân theo ân dụ tạm hoãn
việc tiến kinh. Ngô Văn Sở thấy thế không còn nghi ngại gì nữa nên mọi việc đều ổn thoả.

Tôn Vĩnh Thanh chưa từng thấy đặc mệnh do quân cơ đại thần gửi cho Phúc Khang An vậy nay tả
một hịch dụ gửi cho viên tuần phủ để y viết lại cho rõ ràng gửi cho nước kia để khi nào được trả lời
thì mau mau tâu lên.

Ngày mồng 6 tháng Giêng, tổng đốc Lưỡng Quảng và tuần phủ Quảng Tây gửi thư cho vua Quang
Trung về việc này như sau:
Cứ như Tả Giang đạo Thang Hùng Nghiệp bẩm báo thì quốc vương đã sai người nghinh tiếp sắc ấn
và cung tiến biểu tạ ơn đủ thấy thành tâm qui thuận nên chúng tôi đã tâu lên đại hoàng đế. Còn việc
Ngô Văn Sở nói với Tả Giang đạo Thang Hùng Nghiệp được thánh thượng gia ân thể tuất ra lệnh đợi
đến kỳ cống sau sẽ tiến kinh thì y rất là cảm kích nhưng hiện nay đã có Phan Văn Lân, Nguyễn Văn
Danh đều là những người có thể tín nhiệm, vậy xin chuẩn cho đồng hành để sớm được chiêm
ngưỡng thiên nhật.

Ngô Văn Sở thấy quốc vương nhận được tước phong của thiên triều nên có toàn cõi An Nam, lại
được mấy lần ân sủng nên cả vua tôi đều vinh dự, nguyện theo quốc vương cùng đến khuyết đình để
toại lòng chiêm thiên ngưỡng thánh, niềm vui đó quả là từ dạ chí thành.
Lần trước Ngô Văn Sở đã nói với Thành Lâm tình nguyện đi theo quốc vương tiến kinh, bản tước các
bộ đường đã lập tức tâu lên đại hoàng đế thể tuất cho nguyện vọng này.Thế nhưng nước kia vốn
mới dựng mọi việc cần người lo toan.

Ngô Văn Sở nếu như đi theo đến cung khuyết e rằng không có người cư thủ có thể liên quan đến
quốc sự. Chi bằng đợi khi quốc vương chúc thọ trở về lần tiến cống sau sẽ ra lệnh cho Ngô Văn Sở đi.
Ấy là ân vượt mức của đại hoàng đế, lo nghĩ đến mọi điều nên sai bản tước các bộ đường báo cho
quốc vương biết.

Đến nay Ngô Văn Sở lại khẩn khoản xin đi theo lên kinh, ấy là tấm lòng tha thiết muốn sớm được
chiêm cận thiên nhan, nhưng Ngô Văn Sở trước sau phụ trợ quốc vương, nay qui mô mới định, việc
trong chính sự trong nước đều cần phải chỉnh đốn lo liệu. Huống chi Lê Quýnh trước khi qua ải đến
đây cũng đã từng loan truyền dao ngôn rằng y sang nội địa cầu viện để khi quốc vương tiến kinh thì
đại binh lập tức kéo ra khỏi cửa quan giúp cho họ Lê.

Quốc vương đã nhận được sủng mệnh làm phên dậu cõi Nam giao, trông vào uy linh vỗ về dân
chúng, mọi người trong nước đều hướng về Nghệ An, hẳn không coi lời bịa đặt của Lê Quýnh vào
đâu. Hiện nay bọn Lê Quýnh đã bị giải lên kinh xem xét để an tháp ở các nơi xa xôi. Lê Duy Kỳ đã gia
nhập kỳ binh cấp cho bổng lộc tá lãnh cho tuyệt hậu hoạn. Thế nhưng vì Lê Quýnh loan truyền lời
sằng bậy mà Ngô Văn Sở lại là bầy tôi đắc lực của quốc vương nếu ở lại giữ quốc đô không để cho
những việc đó bén rễ có thể trấn tĩnh nhân tâm …[56]

Cũng vì việc này, vua Càn Long ra lệnh gấp rút phát phối nhóm tòng vong nhà Lê đi Giang Nam,
Chiết Giang, Tứ Xuyên … còn vua Chiêu Thống và gia quyến bị đưa lên Bắc Kinh. Bọn Lê Quýnh 4
người không chịu gióc tóc đổi y phục nên bị giam ở bộ Hình.

Theo một lá thư của vua Quang Trung gửi Thang Hùng Nghiệp – là người đã bạn tống Nguyễn Quang
Hiển lên kinh đô – nhan đề “Ký Chuyển Quốc Thư dữ bồi giới Nguyễn Hoành
Du”[57](寄轉國書與陪价阮宏猷) thì ngày 18 tháng Một, Nguyễn Quang Hiển đem sắc ấn về đến
Thăng Long và trình bày chi tiết chuyến đi.[58] Ngày 20 tháng Một, Nguyễn Quang Hiển lên đường về
Phú Xuân.

[1]Thành ngữ từ sách Trang Tử, thiên Tắc Dương. Man là tiểu quốc ở sừng [râu] bên phải con ốc
sên, Xúc là nước ở sừng [râu] bên trái con ốc sên, hai nước tranh chấp đánh nhau chết hàng vạn. Ý
nói chỉ là việc nhỏ nhặt của tiểu quốc.
[2] Thanh Sử Biên Soạn Uỷ Viên Hội, Thanh Sử, Tập 7 (Đài Bắc, 1961) tr. 5757 (tức Thanh Sử Cảo,
bản đã tu đính, in ở Đài Loan)
[3] Trong lịch sử bang giao đời Tây Sơn, nhiều thân thuộc của vua Quang Trung cũng tham gia trong
các sứ bộ sang Trung Hoa [tài liệu thường chép là “quốc thân” (người trong họ của quốc vương)] cụ
thể nhất có Nguyễn Quang Hiển, Phạm Công Trị, Đặng Văn Chân … nên cũng gây nhiều nghi vấn cho
rằng những người này có thể đã đóng giả Nguyễn Huệ.
[4] Một triều đại mới theo quan niệm thời cổ không chỉ là một dòng họ mới mà cũng là một nước
mới (nên có khi đổi quốc hiệu), những người có công được gọi là “khai quốc công thần” (bấy tôi mở
nước).
[5] …Có điều Lê thành vừa mới trải qua binh lửa, lòng người chưa yên, công việc vỗ về cho ổn định
còn chưa thư thả không thể đi khỏi quốc thành nên đã sai người thân là Nguyễn Quang Hiển

[阮光顯] đến cửa quan, thay mặt hành lễ ấy là trước sau một lòng tuy đại do thân [雖代猶親] (tuy

thay mặt nhưng cũng như chính mình vậy). Lời tâu của Phúc Khang An, KDANKL, q. XIX, 9b
[6] Việc xin thay đổi dòng họ, đổi quốc hiệu, cầu phong và nghi lễ qua lại chúng ta có thể tham khảo
thêm các sứ bộ đời Gia Long là những hình thức không bị tiết giảm. Vua Gia Long thoạt tiên gửi phái
đoàn Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Hoàng Ngọc Uẩn sang Trung Hoa năm Nhâm Tuất (1802 ) để
trình bày việc xin thay nhà Tây Sơn, đến năm Quí Hợi (1803) lại cử sứ bộ Lê Quang Định, Lê Chính
Lộ, Nguyễn Gia Cát sang xin đổi quốc hiệu và phong vương. Đầu năm Giáp Tí (1804), nhà Thanh sai
Tề Bố Sâm sang phong cho vua Gia Long làm Việt Nam quốc vương. Khâm Định Đại Nam Hội Điển
Sự Lệ, q. 128 [tập IV] (2005) tr. 426-7, Đại Nam Thực Lục, đệ Nhất kỷ [tập I] (2002) tr. 580-1. Nói
tóm lại, thông thường dù không có gì trở ngại cũng mất khoảng 3 năm. Trong khi đó, mọi thủ tục
xem ra còn rườm rà hơn trong việc công nhận vua Quang Trung thay nhà Lê lại chỉ mất có 4, 5
tháng.
[7] Sách vở nước ta có khi viết là vái ba lần (tam bái) nhưng theo nghi lễ nhà Thanh thì là rập đầu
(tam khấu).
[8] KDANKL, q. XIX, trang 17 b
[9] Khi Mạc Đăng Dung hàng phục nhà Minh, đích thân ông cũng phài qua Nam Quan để dâng biểu.
Nay Phúc Khang An cũng muốn Nguyễn Quang Hiển thay mặt vua Quang Trung sang đất Thanh đưa
biểu cho ông ta gửi đi. Tuy hình thức giống nhau nhưng tư cách hai bên một trời một vực, họ Phúc
chỉ muốn áp dụng điển lệ cũ để cho đẹp lòng vua Càn Long và chứng minh được rằng ông ta đã
khuất phục được đối phương. So sánh số người và nghi lễ, Nguyễn Quang Hiển được Phúc Khang An
đón tiếp một cách bình đẳng, không sợ hãi, khép nép … như tâu lên.
[10] [禮記·中庸:車書一統,萬國享王之盛] (Lễ Ký, Trung Dung: xa thư nhất thống, vạn quốc hưởng

vương chi thịnh)xe cùng cỡ trục, sách cùng văn tự ý nói tất cả cùng chung một chế độ
[11] KDANKL, q. XIX, tr. 24-6 (bản dịch NDC)
[12] Long đình (châsse aux dragons) theo miêu tả của linh mục L. Cadière còn có tên Cửu Long Đình
là một cái hương án để trên một cái kiệu có màn che, do bốn binh sĩ khiêng trên vai. “Comment
l’Empereur de Chine confera l’investiture a Tu-Duc” [theo lời tường thuật của Giám mục
Pellerin], BAVH, 1916 tr.299.
[13] Vũ Huy Tấn, Hoa Nguyên Tuỳ Bộ Tập. YHVH, q. VI, tr. 293-4
[14] Bài Tựa Hoa Nguyên Tuỳ Bộ Tập. YHVH, q. VI, tr. 293-4
[15] Danh sách này tìm thấy trong Quân Cơ Xứ, nguyệt triệp bao, hòm 2778, bao 163, số hiệu 39114
(Trang Cát Phát, sđd chú thích 102, tr. 389)
[16] Đây là theo tài liệu nhà Thanh nhưng trong tài liệu nước luôn luôn ghi là Vũ Huy Tấn.
[17] DVQT, tập 1. Thư Phúc Khang An gửi Nguyễn Quang Hiển và thư của viên quan họ Ngô gửi
Nguyễn Quang Hiển. Ngay khi tiếp Nguyễn Quang Hiển ở Nam Quan, Phúc Khang An đã tâu lên vua
Càn Long rằng Nguyễn Quang Bình sẽ tâu lên xin đích thân sang triều cận [nhưng thực ra ông ta chỉ
dặn Nguyễn Quang Hiển về nhắc vua Quang Trung đưa đề nghị đó trong biểu văn gửi lên vua Càn
Long để xin phong vương. Tuy nhiên khi Nguyễn Quang Hiển sang lần thứ hai và được vua Càn Long
cho phép lên kinh đô, tờ biểu không ghi việc này khiến cho Phúc Khang An phải vội vã đốc thúc
Nguyễn Quang Hiển báo cáo về việc đã gặp gia đình Lê Duy Kỳ cạo đầu, thay áo và thêm chi tiết xin
triều cận vào biểu văn cho người chạy trạm đưa lên Nam Quan để quan nhà Thanh thay thế bản văn
cũ mà Nguyễn Quang Hiển đang cầm. Chúng ta biết được bản văn cẩu phong còn lưu trữ là bản viết
sau, không phải bản gốc nguyên thuỷ vua Quang Trung muốn gửi lên.

[18] 爾旣履中華之土,卽當從中華之制,一體薙髮改服,不得仍循舊俗. Nay các ngươi đã ở trên

đất Trung Hoa, vậy phải theo chế độ Trung Hoa, tất cả đều phải cạo đầu đổi y phục, không được theo
tục cũ của nước ngươi nữa.KDANKL, q. XXI, tr. 14 (bản dịch NDC)
[19] Tranh chấp nên gây hấn với nhau
[20] Nhận cho qui thuận làm phiên thuộc
[21] Đi lên kinh đô để ra mắt hoàng đế

[22] 畏天事大 – úy thiên sự đại. Trích từ lời Mạnh Tử [Lương Huệ Vương hạ] ý nói việc sợ trời thờ

nước lớn là kế sách khôn ngoan để bảo vệ mình khỏi bị xâm lăng, thường dùng để giải thích và biện
minh cho việc Trung Hoa áp đặt tương quan thiên triều – phiên thuộc lên các tiểu quốc chung
quanh. Nói là sợ trời nhưng vì thiên tử Trung Hoa là “con trời” nên cũng đồng nghĩa thần phục thiên
tử.
[23] Tức Tôn Sĩ Nghị
[24] Nghìn năm khó gặp
[25] Gặp hoàng đế chúc thọ

[26] biền la – 駢羅 viết tắt của biền tỉ la liệt [駢比羅列] xe ngựa sắp thành hàng, ý nói rất nhiều

[27] Tức vua Chiêu Thống là vị vua sau cùng của Lê triều
[28] DVQT, q. I (trong nguyên bản ghi là tập)
[29] Việc lập đàn cùng tế là có thực nhưng chưa hẳn do yêu cầu của Thanh triều mà do tập tục dân
nước ta. Hiện nay, trong các tài liệu của Việt Nam còn tìm được hai bản văn tế tướng sĩ trận vong,
một bản chữ Hán do Vũ Huy Tấn soạn (xem nguyên tác nhan đề “Phụng Soạn Tôn Tế Bắc Lai Trận

Vong Chư Tướng Văn” [奉撰尊祭北來陣亡諸將文] trong Hoa Nguyên Tùy Bộ Tập [華原隨步集 ] và

một bản chữ Nôm nhan đề “Thiên Triều Văn” do Nguyễn thị Lâm (Viện Nghiên Cứu Hán Nôm) sưu
tầm và phiên dịch từ sách Cúng Văn Tạp Lục (Thông Báo Hán Nôm Học năm 2005, Hà Nội, KHXH,
2006).
[30] KDANKL, q. XXI, tr, 14-7 (bản dịch NDC)

[31] Chú bài “Đề Tương Giang Tự” [題湘江寺], Hoa Nguyên Tuỳ Bộ Tập, YHVH, q. VI, tr. 309

[32] Xem thêm “Lê Duy Kỳ, đáng thương hay đáng trách?” và “Lê Quýnh”, biên khảo của NDC.
[33] Vòng đeo bằng ngọc trai, tuy gọi là thủ xuyến nhưng lại đeo ở thắt lưng như một loại trang sức
[34] Người đi theo
[35] Những người đi theo trong phái đoàn
[36] Triều kiến hoàng đế để chúc thọ
[37] Đương phong vi thân vương, thị dữ tông thất ngoại phiên thân vương nhất thể, ban tại tông
thất ngoại phiên quận vương chi thượng

(當封爲親王,視與宗室外藩親王一體,班在宗室外藩郡王之上) Trang Cát Phát, TTVC(1982) tr.

391.
[38] Trích từ tấu thư của tuần phủ Hồ Nam Phổ Sâm ngày 15 tháng Năm [nhuận], Càn Long 54. Cung
Trung Đáng Càn Long Triều Tấu Triệp, tập 72 [tháng Năm – Bảy, Càn Long 54], Quốc Lập Cố Cung
Bác Vật Viện Đài Bắc, 1988 tr. 236-7
[39] Cung Trung Đáng Càn Long Triều Tấu Triệp, tập 72, tr. 237
[40] Cung Trung Đáng Càn Long Triều Tấu Triệp, tập 72, tr. 238
[41] Tấu thư của tuần phủ Hồ Nam Phổ Sâm ngày 25 tháng Năm [nhuận], Càn Long 54. Cung Trung
Đáng Càn Long Triều Tấu Triệp, tập 72, tr. 334-5
[42] YHVH, q. VI tr. 310-3
[43] Tấu thư của tuần phủ Hồ Nam Phổ Sâm ngày 5 tháng Sáu, Càn Long 54. Cung Trung Đáng Càn
Long Triều Tấu Triệp, tập 72, tr. 413-4
[44] Tấu thư của tuần phủ Hà Nam Lương Khẳng Đường ngày mồng 4 tháng Bảy, Càn Long 54. Cung
Trung Đáng Càn Long Triều Tấu Triệp, tập 72, tr. 762
[45] Tấu thư của tổng đốc Trực Lệ Lưu Nga, ngày mồng 10 tháng Bảy, Càn Long 54. Cung Trung
Đáng Càn Long Triều Tấu Triệp, tập 72, tr. 829
[46] Bài Tựa Hoa Nguyên Tuỳ Bộ Tập. Việt Nam Hán Văn Yên Hành Văn Hiến Tập Thành (đệ Lục
sách) tr. 293-4
[47] Càn Long Triều Thượng Dụ Đáng, q. XV [254] tr. 123-4. Thượng Dụ ngày 24 tháng Bảy năm Càn
Long 54 v/v Nguyễn Quang Hiển bệ kiến.
[48] Càn Long Triều Thượng Dụ Đáng, q. XV [263] tr. 128.
[49] Trang Cát Phát, Thanh Cao Tông Thập Toàn Võ Công Nghiên Cứu (1982), chú thích 108, tr. 414
[50] Vua Thanh ở hai nơi, mùa rét ở kinh đô và mùa nóng ở Nhiệt Hà [Tị Thử Sơn Trang] nên sử gọi
là Dương Kinh và Âm Kinh.
[51] Càn Long Triều Thượng Dụ Đáng, q. XV [302] tr. 142.
[52] Nguyên bản trích từ Thanh Thực Lục, q. 1333, sách văn ngày Bính Tý (12), tháng 6 năm Càn
Long 54 và cũng được chép lại trong Thanh Cao Tông Thập Toàn Võ Công Nghiên Cứu, Trang Cát
Phát, tr. 393-4
[53] Kể từ lần này, sứ bộ An Nam mỗi lần qua được vua Càn Long cho phép mua 500 cân thuốc bắc
đủ loại đem về nước. Càn Long Triều Thượng Dụ Đáng (1991) tr. 266-7
[54] Cung Trung Đáng Càn Long Triều Tấu Triệp (1988), q. 73 tr. 840
[55] KDANKL, 26.3 tr. 5-7
[56] Càn Long Triều Thượng Dụ Đáng, q. XV (1991) tr. 408 [916]
[57] Tức là Nguyễn Hoành Khuông (viết nhầm)
[58] Ngô Thì Nhậm tác phẩm I (2001) nguyên văn chữ Hán tr. 707

Chương IV: Đại Lễ Phong Vương


Trì hoãn trước khi thành lâm sang

– Thành Lâm đến Nam Quan khoảng cuối tháng Tám năm Kỷ Dậu (Càn Long 54) nhưng phải ngừng
lại ở Quảng Tây đến 13 tháng Chín mới qua cửa Nam Quan.

– Trong khoảng thời gian đó, nước ta đưa ra nhiều lý do trì hoãn (vua Quang Trung bị bệnh không
thể ra Thăng Long, có tàu ô xâm phạm vùng biển …) và đề nghị sẽ sai Nguyễn Quang Thuỳ, Ngô Văn
Sở, Ngô Thì Nhậm ra đón phái đoàn đưa vào Nghệ An rồi cùng vua Quang Trung vào Phú Xuân làm
lễ.

Lý do: Không muốn làm lễ mà không có sắc ấn

– Sứ thần nhà Thanh từ Nam Quan đi Thăng Long (13 tháng Chín đến 22 tháng Chín) Vì sứ thần nhà
Thanh không đồng ý vào Phú Xuân, hai bên qua lại tranh biện nên họ phải ở lại công quán Gia Quất
thêm 20 ngày nữa (từ 22 tháng Chín đến 13 tháng Mười) đợi vua Quang Trung ra Thăng Long.

– Đầu tháng Mười, vua Quang Trung từ Nghệ An ra Thăng Long lấy cớ bệnh chưa khỏi hẳn nên di
chuyển tương đối chậm. Ngày 14 tới Thăng Long, ngày 15 làm lễ phong vương ở điện Kính Thiên.

Lý do: Đợi cho Nguyễn Quang Hiển đem sắc ấn về nước

Nguyên nhân chính:

Thanh triều tự ý thay đổi gom việc thông báo tiền sát và phong vương làm một nên nước ta không
hài lòng. Vua Quang Trung e ngại việc phong vương ở Thăng Long là một dấu hiệu không tốt theo
truyền thống Nam Á và nhất là không có sắc thư và ấn vàng trong đại lễ này.

Nguyên nhân phụ:

Vua Quang Trung bị bệnh và có tàu ô xâm phạm vùng biển.

Phái đoàn Nguyễn Quang Hiển được chuẩn thuận cho đem tờ biểu cầu phong lên Bắc Kinh đưa bang
giao Thanh Việt qua một bước tiến mới. Vấn đề nhà Thanh chấp nhận triều đình Tây Sơn coi như đã
xong, nay làm sao sớm hoàn tất nghi lễ hầu chuẩn bị cho phái đoàn vua Quang Trung sang chúc thọ.

Để giải thích việc công nhận một dòng họ mới ở An Nam, [và cũng để khỏa lấp cái nhục bại trận] vua
Càn Long nêu cao cái tài “thắng mà không cần dụng binh”, qui phục ngoại phiên bằng đường lối
nhân trị nên đã khoản đãi trọng thể phái đoàn Tây Sơn ở Nhiệt Hà và sức cho các tỉnh trên đường đi
về tiếp đón nồng hậu [tương đương như khi phái đoàn Miến Điện sang thần phục]. Chính sự huê
dạng của hoàng đế đã ít nhiều làm kế hoạch khống chế An Nam của Phúc Khang An bị lỡ bước.
Kế hoạch của Phúc Khang An

Như đã trình bày, kế hoạch của Phúc Khang An chủ yếu dùng hình thức phong vương để ràng buộc
và tiến hành nghi lễ ngay tại biên giới cũng bảo đảm rằng Nguyễn Quang Bình không thể thoái thác
việc đích thân sang Bắc Kinh chúc thọ. Trong dự tính đó, Phúc Khang An thực hiện nhiều việc cùng
một lúc, lấy việc nọ làm đòn bẩy cho việc kia.
1. Công khai hoá việc từ bỏ nhà Lê và để ngỏ việc công nhận một triều đại mới.

2. Dụ dỗ những nhóm còn trung thành với nhà Lê sang Trung Hoa để vừa làm ơn cho vua Quang
Trung, vừa giữ những con tin làm sức ép.

3. Nhân danh chính sách của thiên triều dung chứa những triều đại thất thế để ép vua Chiêu
Thống và những người đi sang cạo đầu, đổi y phục.

4. Dùng lễ phong vương như mặc cả sau cùng để vua Quang Trung không thể thoái thác.

Những hình thức vừa doạ nạt, vừa dụ dỗ ấy được tiến hành có lớp lang mang một chủ đích nhất
định. Tuy bề trong nhà Thanh tiếp tục gây sức ép nhưng đồng thời bề ngoài hõ cũng gia tăng mật độ
giao thiệp, quà cáp qua lại để triều đình Tây Sơn yên tâm về thiện chí và sự thành thực của thiên
triều.

Sự thay đổi của vua Càn Long

Tuy kế hoạch của Phúc Khang An khá chu đáo và từng bước lúc nắm lúc buông nhưng ông ta cũng
không lường trước được những trở ngại và biến chuyển.

Về phía Tây Sơn, khi thấy Phúc Khang An khăng khăng đòi phong vương ở Nam Quan, vua Quang
Trung tìm cách biện bạch rằng khi đến triều đình sẽ “không biết đứng vào đâu” để yêu cầu phải làm
lễ cho chính danh trước. Phúc Khang An vội vàng xác định rằng vị thế đã rõ ràng là “trên quận
vương, dưới thân vương” tức là tước cao quí nhất chứ không phải kém hơn như đời nhà Mạc, nhà Lê
[trung hưng].

Để đáp lại triều đình Tây Sơn cũng ỡm ờ rằng một khi nước ổn định vua Quang Trung sẽ qua triều
kiến nhưng không hứa chắc vào lúc nào. Lấy lý do tình hình đất nước là một việc hết sức chính đáng
làm gia tăng áp lực đòi hỏi Thanh triều phải công khai từ bỏ ủng hộ nhà Lê, mặt khác cũng làm cho
việc chúc thọ thêm bấp bênh vì nếu sau này nước ta không [hay chưa] thi hành thì cũng không phải
là bội tín.

Hơn thế nữa, trong hoàn cảnh gấp rút như lửa cháy lông mày, dù vua Quang Trung có thực lòng
muốn sang Trung Hoa thì việc chuẩn bị một phái đoàn với nhiều nghi thức, quà cáp, hành trang …
thực không dễ dàng mà việc tiếp đón phía Thanh triều cũng không đơn giản.
Trong thế giằng co, tuy không chủ động nhưng nước ta có yếu tố thời gian làm chỗ dựa, chậm một
ngày là đối phương bị thất thế thêm một ngày. Đó chính là nguyên nhân gây ra chuyển biến mà
Thanh triều phải liên tiếp nhượng bộ, dứt khoát hơn với nhà Lê và cũng khiến Phúc Khang An phải
tiến hành một số biện pháp nhằm khai thông những bế tắc để có được sự đồng thuận của phía An
Nam.

Khi Nguyễn Quang Hiển đến Quế Lâm, Phúc Khang An được lệnh cho gặp vua Lê và tuỳ tòng đã cắt
tóc thay áo nhưng tới lúc đó Thanh triều vẫn chưa nhận được một khẳng định nào rằng vua Quang
Trung sẽ qua chúc thọ vào năm sau. Sở dĩ chúng ta biết được điều đó vì trong Đại Việt Quốc Thư vẫn
còn lưu hai văn thư của Phúc Khang An và một viên chức họ Ngô bắt ép Nguyễn Quang Hiển phải
cho người về yêu cầu vua Quang Trung minh xác sẽ qua chúc thọ trên tờ biểu.[1]

Sở dĩ cần có sự minh xác đó vì trên tờ biểu đem sang không có đoạn nào vua Quang Trungxác nhận
việc qua chúc thọ còn khi Phúc Khang An hỏi đến thì Nguyễn Quang Hiển cũng ậm ừ trả lời là ông ta
không nhận được lệnh nào chính thức về chuyện này. Phúc Khang An khi đó mới bảo rằng nếu khi
hoàng đế hỏi đến mà không trả lời được thì sẽ tưởng đây chỉ là một tiểu lại tầm thường, không xứng
đáng với vai trò “tuy đại do thân” nêu ra từ trước. Chính vì vậy, Phúc Khang An mới bắt vệ uý Hồ
Văn Tòng phải đem một lá thư của Nguyễn Quang Hiển về Thăng Long yêu cầu vua Quang Trung xác
nhận chắc chắn để Nguyễn Quang Hiển tâu lên vua Càn Long khi kiến diện. Để sửa lại sai lầm này, họ
Phúc cũng yêu cầu triều đình Tây Sơn viết rõ ràng trên những tờ biểu tạ ơn và trần tình như chúng
ta sẽ thấy sau này.

Việc xác định giấy trắng mực đen đó coi như một lời hứa chắc chắn đáp ứng mong mỏi sâu kín khiến
vua Càn Long hết sức đẹp lòng nên ông lập tức quyết định phong vương cho vua Quang
Trung [thay vì để đến khi sang Trung Hoa như đã đòi hỏi] và ra lệnh cho bộ Lễ đúc ấn, soạn sắc để
giao cho Nguyễn Quang Hiển mang về. Thêm một bước, ông lại viết một đặc dụ – một hình thức
thư riêng – gửi báo tin cho Nguyễn Quang Bình và ban cho một bài ngự thi giải thích về
chuyện đó.

Để khỏi quá lộ liễu khiến nước ta biết được sự khát khao của Thanh triều, vua Càn Long sai Phúc
Khang An cử người sang giao tận tay vua Quang Trung ở Thăng Long lấy lý do thanh sát việc chuẩn
bị đón tiếp phái đoàn sắp qua làm lễ phong vương. Theo cựu lệ, khi có liên lạc với nước ta Thanh
triều chỉ đưa sắc dụ đến Nam Quan giao cho trấn thủ Lạng Sơn chuyển về Thăng Long, nay giao cho
một sứ thần đem đi khiến mọi việc trở nên phức tạp. Tuy trong văn thư ngoại giao nước ta vẫn dùng
những lời lẽ ôn hoà, nhũn nhặn nhưng thực tế chắc không khỏi khó chịu về nghi lễ phiền toái và tốn
kém.

Một trong những sự việc khiến cho triều đình Tây Sơn phải cảnh giác là cũng lúc đó cựu thần nhà Lê
tung tin rằng họ sẽ cùng với quân Thanh trở về khi vua Quang Trung sang chúc thọ.[2]Sở dĩ có những
tin tức trái ngược nhau cũng vì cùng lúc đó Phúc Khang An bí mật cho người đòi Lê Quýnh sang “bàn
quốc sự” mà theo suy luận chủ quan của nhóm nhà Lê thì đồng nghĩa với kế hoạch đưa vua Chiêu
Thống về nước. Có lẽ họ cho rằng nhà Thanh đang tính kế “điệu hổ ly sơn”, tìm cách dụ vua Quang
Trung ra bên ngoài để bất ngờ đem quân sang. Tin tức ấy lọt ra không khỏi dẫn tới nghi ngại cho
triều đình Tây Sơn. Chính những giải thích khác nhau khiến cho sau này Phúc Khang An phải cử một
nhân vật thân tín sang để biện bạch cho rõ ràng.

Theo ý định của vua Càn Long việc phong vương nay tiến triển thành hai giai đoạn:

1. Sai một viên chức cấp nhỏ [quan lại cấp đạo phủ người Mãn Châu] đem sang Thăng Long tận mặt
giao cho vua Quang Trung tờ sắc dụ [thông báo đã chấp thuận] và bài ngự thi. Phái đoàn này cũng
kiểm điểm việc sắp xếp công quán, tổ chức nghi lễ và dĩ nhiên bàn thảo những thoả hiệp cho việc
vua Quang Trung sang Trung Hoa vào năm sau.
2. Một khi phái đoàn Nguyễn Quang Hiển về đến Nam Quan, vua Thanh sẽ cho Phúc Khang An đưa
về Thăng Long làm lễ phong vương chính thức, trao sắc ấn cho trịnh trọng. Trước đây vua Chiêu
Thống được một tổng đốc [người Hán] làm lễ thì vua Quang Trung phải được một tổng đốc [người
Mãn] cho hơn một chút.

Đại lễ phong vương

Vì thời giờ gấp rút, kế hoạch rềnh rang của vua Càn Long không thể thực hiện được nên phái bộ
Thành Lâm đáng lẽ chỉ đóng vai tiền sát lại phải đảm trách luôn nghi lễ phong vương cho vua Quang
Trung. Chính sự bất nhất này đã khiến cho vua Quang Trung cảm thấy bị xúc phạm nên tìm cách trì
hoãn, hoặc ít nhất cũng phải vào quốc đô [nay là Nghệ An] hay Phú Xuân [ là cựu đô của chúa
Nguyễn mà thành quách còn nguyên vẹn]. Thành Lâm lấy cớ chỉ được lệnh đến Thăng Long nên
không đi xa hơn và sau cùng đại lễ phong vương được tổ chức tại đây ngày 15 tháng Mười năm Kỷ
Dậu.

Nhân dịp này, triều đình Tây Sơn cũng yêu cầu nhà Thanh mở lại các cửa quan thông qua biên giới
và lập những nha hãng để trao đổi thương mại, ban lịch chính sóc và chính thức thông báo từ nay
kinh đô mới là Nghệ An.

Nhân dịp này Thành Lâm và phái đoàn nhà Thanh cũng tới tế ở miếu thờ mới xây cho các tướng sĩ
nhà Thanh tử trận trong lần giao tranh hồi đầu năm.

Ấn bạc mạ vàng (núm hình lạc đà) nhà Thanh phong cho phiên thuộc
Dấu An Nam quốc vương chi ấn do nhà Thanh ban cho vua Quang Trung
Bước ngoặt Quế Lâm
Từ trước đến nay việc giao thiệp giữa Trung Hoa với nước ta luôn luôn tuần tự theo một tiến trình,
xong việc nọ đến việc kia, thời gian không phải là vấn đề mà nghi lễ mới thực quan trọng. Riêng
trong trường hợp phong vương cho vua Quang Trung, một thay đổi nhỏ do vua Càn Long vẽ ra đã
làm đảo lộn mọi sắp đặt.

Cùng lúc với việc nhận thư của Nguyễn Quang Hiển và của Phúc Khang An do Hồ Văn Tòng đem về,
thì cũng trong khoảng thời gian ấy, ngày mồng 5 tháng Sáu vua Quang Trung đã sai Hoàng Ðạo Tú
[黄道秀], Ðào Xuân Lãng [陶春閬][3] đem hai đạo biểu văn và lễ vật sang trần tình về việc can qua và
tạ ơn về việc được ban thủ xuyến bằng trân châu [ban cho khi chấp thuận cho phái đoàn Nguyễn
Quang Hiển lên kinh đô].

Bản sao hai tờ biểu được Tôn Vĩnh Thanh chuyển ngay lên Phúc Khang An ngày 12 tháng Sáu để
trình lên vua Càn Long xin quyết định về việc nhận lễ vật và chấp thuận cho sứ bộ lên kinh đô triều
kiến, tuy trên danh nghĩa tạ ơn nhưng đồng thời cũng là dịp để trình bày về khó khăn nếu Thanh
triều chỉ làm lễ phong vương khi vua Quang Trung qua chúc thọ.
Ngày 23 tháng Sáu, Lâm Hổ Bảng vội vã thông báo diễn tiến sự việc cho trấn mục nước ta ở Lạng
Sơn là Lê Nho Hứa (trấn thủ) và Lê Doãn Điều (hiệp trấn) để báo về Thăng Long.

Hai tờ biểu của vua Quang Trung [KDANKL, quyển XXII][4] như sau:

1/ Biểu tấu sự

Thần là tiểu mục nước An Nam Nguyễn Quang Bình kính cẩn tâu lên mong giãi bầy về việc thành
khẩn xin được chiêm cận để mong thánh thượng nghe đến.
Thần khâm phụng sắc thư tuyên dụ rằng đừng mắc những sai lầm cũ, hãy cố sức đổi mới. Ðức của
thánh thượng như trời không bỏ sót kẻ hoang vắng, xa xôi. Thần hết sức vui mừng, cảm kích không
biết chừng nào.

Kính thay đại hoàng đế bệ hạ, đức sánh với Hi Viêm, đạo cao như Hiên Hạo, là bậc thiên tử thái bình
hơn năm mươi năm. Cai trị lớn lao, phúc đức đầy đủ, xưa nay chưa từng có.
Thần sinh trưởng ở đất Quảng Nam, tuy không thông với Trung Hoa nhưng thuyền bè Mân Quảng
qua lại tấp nập nên cũng thường nghe đến sự thịnh vượng văn minh của Trung Quốc, lại càng
ngưỡng vọng nhân nghĩa đạo đức tràn đầy của đại hoàng đế. Thần thành tâm nguyện sẽ phổ tại bảo
thư, chiêm ngưỡng như trời cao, chẳng phải chỉ vì biển không dậy sóng mới biết rằng Trung Quốc
đang có bậc thánh nhân.

Trước đây thần sai cháu là Nguyễn Quang Hiển đến cửa quan, thay mặt hành lễ đã từng chính miệng
cáo rằng đợi khi quốc sự tạm yên sẽ nhập cận kinh sư, tấm lòng chân thành của thần, chỉ biết sợ
mệnh trời tuân theo thiên tử, là chuyện đương nhiên của chức phận vậy.
Cúi lạy thánh thiên tử trời sinh là bậc chí đức, vị lộc danh thọ, tất cả đều gồm đủ.

Sang năm tháng Tám là dịp khánh tiết bát tuần vạn thọ, là thịnh sự cát tường, cả gầm trời
đều vui mừng nếu như thần được hưởng chung ánh sáng của nhật nguyệt, cùng được vinh
hoa đến chúc thọ thực là chí nguyện nên mong sao quốc sự sớm được yên phận, để đến
khoảng xuân hạ sang năm có thể bẩm với Tổng đốc Lưỡng Quảng chuyển tấu để cho phép
chiêm cận cho thỏa lòng thành kính, mong được bệ hạ chiếu xuống nơi hang vực thì hân
hoan cảm kích biết chừng nào.

Còn về việc đề trấn đại viên của thiên triều trước đây bị thuộc hạ của thần lỡ tay giết hại, thần thật
đau lòng hối hận, hoảng hốt không yên nên đã lập đàn tế lễ, lại kính cẩn chọn nơi đất lành, lập miếu
ở nam quốc đô, xuân thu cúng bái để tỏ lòng thành thờ nước lớn, đáp lại thánh chỉ dặn phải hiếu
trung. Có điều quan hàm thụy hiệu của các đề trấn đại thần cúi mong hoàng thượng giáng chỉ cho
Tổng đốc Lưỡng Quảng công ban cho bản quốc để khâm tuân phụng tự, hầu chuộc được lỗi lầm xưa.
Về chiếc ấn cũ của An Nam cùng chiếc ấn năm ngoái bổ cấp đều là thưởng cho họ Lê. Thế nhưng
trong khi binh hỏa loạn lạc, không biết ở đâu. Thần đã cho tìm kiếm khắp nơi khi nào thấy được sẽ
đem nạp lại đổi lấy ấn mới may mắn hơn để truyền lại cho con cháu, ấy là đại nguyện của thần vậy.
Chỉ một điều sang năm thần tiến kinh, cùng các quân trưởng nước khác cung chúc vạn thọ hay
khi liệt vào trong triều hạ, thần là kẻ hoang viễn thổ tù được ghé thêm trong vương hội,
loanh quanh không biết đứng vào đâu, thật là sượng sùng e ngại.[5] Lại thêm nước thần từ khi
Lê tộ cáo chung, binh lửa khắp nơi, nhân dân đồ thán, già trẻ ngơ ngác mong được sớm an cư, dự
vào hệ thuộc để cho quốc nội ngày thêm hòa ninh.

Cúi mong thánh đức chiếu sáng chỗ tình nhỏ bé ấy, gia ân vượt bực ban cho thần phong hiệu để có
được danh phận, nhờ cậy thiên sủng mà tiểu bang sớm cưu tập. Ấy là đức sinh thành trời che đất
chở của thánh thiên tử để thần đời đời giữ một cõi nam, làm phên dậu cho thiên triều, một lòng
cung thuận hầu mãi mãi hưởng thiên ân không bỏ mất.
Thần ở xa vọng về cung khuyết, ngưỡng vọng ân từ, hết sức cảm kích sợ hãi, kính cẩn dâng biểu
này.[6]

2/ Biểu tạ ân

Tiểu mục nước An Nam thần Nguyễn Quang Bình kính cẩn tâu lên. Thần nhận được ngự tứ sắc thư,
lại ban cho thần một vòng đeo bằng trân châu. Thánh ân dày nặng như thế, thần cảm kích thực
không bến bờ nên vọng về cung khuyết phương bắc, đốt hương vái chín lần, xem nước thần trong
lịch sử từ khi mở nước đến nay, chưa bao giờ được hưởng ân thịnh như thế.
Thần ngày đêm tự hỏi làm cách nào để báo đáp ơn trời che đất chở của thánh thượng, không lời nói
nào tả xiết nên kính cẩn phụng biểu tạ ơn.

Cúi lạy

Mây sao xán lạn, rọi sáng mùa xuân của thời đế thế.
Mưa móc tràn đầy, ngưỡng vọng ân trạch của bậc thánh nhân.
Ơn lồng lộng ban xuống cho kẻ dưới, khắc sâu tấm lòng thành.
Ðại hoàng đế bệ hạ nguy nga như trời cao, chiếu xuống ôn hòa như gió mát.
Thể thì kiện toàn đầy đủ cả tứ thời tứ đức, bày ra đầu mối của vạn vật. Hợp tất cả thành một nhà
một người, xiển dương vận thái hòa trinh nguyên.

Thần ở nơi hẻo lánh xa xôi nay được ơn trên trông xuống. Ðọc tỉ thư mà biết được lòng nhân
khuyên nhủ vỗ về. Thuận theo mệnh thì gần gũi trong gang tấc. Ðeo vòng châu mà thấy được nghĩa
thân thuộc hòa hợp.

Nguyện gắng sức qui phụ năm nghìn, khăng khăng một lòng hướng hóa, mãi mãi thụ hưởng tốt lành.
Sợ thiên tử, thờ nước lớn nguyện bước đi vạn dặm một lòng. Giữ đất làm phên, ưu sủng phò cửu
tiêu thấm ướt.

Thần hạ cảm kích không biết chừng nào nên kính cẩn gửi biểu tạ ơn này.

Xin tâu lên.

Liên tiếp từ giữa đến cuối tháng Sáu, Phúc Khang An gửi nhiều thư đến vua Quang Trung [ hiện nay
về phía nước ta còn sao bản ngày 15 tháng Sáu, 28 tháng Sáu trong Đại Việt Quốc Thư (quyển I) và
tài liệu Trung Hoa cũng còn một chiếu hội đề ngày 22 tháng Sáu]. Xem như thế, thời gian này thư từ
qua lại giữa nước ta và quan nhà Thanh ở Quảng Tây rất xít xao chứng tỏ việc đang gấp rút.

Lá thư Phúc Khang An phúc đáp ngày 15 tháng Sáu trong Đại Việt Quốc Thư như sau:
Trước đây cháu của quốc trưởng Quang Hiển, cùng bọn bồi giới Nguyễn Hữu Trù tiến quan, đi đến
Quế Lâm đã sai vệ úy Hồ Văn Tòng mang thư trở về Lê thành, bản tước các bộ đường cũng gửi kèm
hịch văn phát vãng, chắc quốc trưởng đã biết cả rồi.

Nay quan viên văn võ đóng ở Trấn Nam Quan đệ lên một biểu văn tạ ơn, một biểu văn tấu sự của
quốc trưởng, bản tước các bộ đường đã xem kỹ thấy trong biểu lời lẽ khẩn khoản, đầy vẻ cung cẩn
cảm kích chân thành màtrong đoạn xin sang năm sẽ tiến kinh nhập cận chúc thọ thì lại càng
tha thiết, rất thích hợp với đạo úy thiên sự đại[7] của thuộc quốc. Bản tước các bộ đường đã vì
quốc trưởng mà tâu lên đại hoàng đế rồi, việc đó chắc sẽ được chấp thuận.

Còn như cống vật đem đến, có được thưởng thu hay không thì phải đợi thánh chỉ rồi tuân hành.
Hiện bản tước đã sức cho quan viên trú đóng ở cửa quan, chuyển cho sứ giả đem biểu đến để người
đó đem về Lạng Sơn đợi lệnh. Từ ngày hai mươi ba tháng Năm nhuận về sau, cháu quốc trưởng
Quang Hiển từ Quế Lâm đi bằng đường thủy, mới đây theo lời quan hộ tống là Tả Giang đạo Thang
[Hùng Nghiệp] bẩm xưng thì ngày mồng bốn [4] tháng Sáu đi đến tỉnh thành Trường Sa, Hồ Nam, đi
đường bình an, tính toán thì vào khoảng trên dưới hai mươi [20] tháng Bảy có thể chiêm ngưỡng
thiên nhan để được hưởng ân trạch.

Còn trong tờ biểu của quốc trưởng có nói là đã tuân chỉ vì các đề trấn[8] tử vong, lập miếu để thờ
cúng, khẩn xin ban phát quan hàm,[9] thụy hiệu, bản tước các bộ đường[10] sẽ thay mặt trình lên, đợi
khi nào khâm ban tới nơi sẽ gửi đến để tiện việc lập bài vị cúng tế cho cung kính.

Trong tờ biểu cũng có đoạn xin được thưởng phong hiệu. Bản tước các bộ đường trong hịch văn lần
trước đã nói rõ ràng, hẳn là khi quốc trưởng gửi biểu đi chưa nhận được hịch trước. Quốc trưởng
mới dựng nước nên ngẩng xin thánh chúa ban thưởng phong hiệu để thu phục nhân dân, tính từ nay
cho đến mùa xuân sang năm cũng chỉ còn vài tháng, việc nước khi đó phần lớn cũng đã giải quyết
xong, quốc trưởng sớm đến cửa quan thì có thể xin phong điển, bản tước các bộ đường sẽ chờ quốc
trưởng ở Trấn Nam Quan cùng đến khuyết đình, yết kiến chúc thọ để tỏ lòng thành cảm kích cùng
thỏa nguyện chiêm ngưỡng thiên nhan, thực là mỹ sự đáng mừng.

Còn Lê Duy Kỳ thì nay đã được thu nhận và giữ lại an tháp tại nội địa, các tông tộc cựu thần lần lượt
chạy sang cũng phụng chỉ chia ra an tháp. Ấy là vì đức hiếu sinh của đại hoàng đế, bất kể người dân
trong hay ngoài cũng đều đối đãi một chữ nhân, không để cho vất vưởng không nơi chốn. Những
người đó đều là người cũ của họ Lê, nếu để lại An Nam thì quốc trưởng phải lưu tâm phòng phạm.
Nay an tháp ở nội địa thì cả hai bên đều an toàn vô sự. Bọn họ an tháp rồi cũng chỉ được cấp lương
ăn và tiền bạc qua ngày mà thôi. Nay quốc trưởng đã thành tâm qui thuận, tiến biểu xin được đích
thân nhập cận, đại hoàng đế giáng chỉ bằng lòng rồi thì quốc trưởng đã vào hàng phiên phục của
thiên triều, đại hoàng đế cúi xem lòng thành kính ắt sẽ càng khen ngợi, lẽ nào lại dễ dàng nghe lời kẻ
dân dã chạy qua để họ gây rắc rối.

Quốc trưởng xưa nay ở nơi Quảng Nam hẻo lánh nên việc ở Trung Quốc chưa hẳn đã tường, chẳng
hạn như trước đây đại hoàng đế bình định Chuẩn Bộ xong, có người Ách Lỗ Ðặc [厄魯特][11] bị Cáp
Tát Khắc[12] bắt giữ, về sau từ Cáp Tát Khắc trốn qua đều được thiên triều thu nhận an tháp, cũng
chẳng nghe lời người Ách Lỗ Ðặc mà hưng sư vấn tội Cáp Tát Khắc. Hiện nay Cáp Tát Khắc cũng đã
thành thực đầu phục để nhận được ân điển, đủ thấy đại hoàng đế phủ ngự vạn quốc, ai chống lại thì
đánh dẹp, ai thuận theo thì vỗ về, ân tín khắp nơi, trong ngoài không đâu không nghe thấy.

Nay lại vì quốc trưởng mà mở lòng thành thực, bày ra công đạo hiểu dụ thật rõ ràng. Đức hiếu sinh
của đại hoàng đế không khác gì trời đất nên đã trù hoạch cho thật an toàn để quốc trưởng nhìn lên
càng thêm cảm kích, đội ơn mà hết nghi ngại, ngõ hầu mãi mãi nhận được thiên ân, mong cầu phúc
nhiều thêm nữa.[13]

Được tin này, ngày 22 tháng Sáu vua Quang Trung gửi lại cho Phúc Khang An một bẩm văn như sau:

… Nay được thánh chỉ ban cho ưu đẳng khác thường, trước nay chưa từng có, cho phép tiểu phiên
đến triều đình chúc thọ, ấy chẳng phải ơn tràn vượt lẽ, thật là đại nguyện hay sao? Thế nhưng có
chút lòng thành, cũng đã tâu lên ở tấu sự biểu lần trước, kính mong tôn đài rộng lòng thẩm tất.

Phàm là nước mới dựng mà được dự vào hàng thân vương, quang vinh thịnh mỹ đến thế thì lẽ nào
lại trì hoãn mà không mau mau chiêm cận cho sớm sủa, để được hưởng cái phúc vô cùng, cái việc
tôn đại nhân lo cho tiểu phiên, ấy cũng là cái kế lo cho sinh linh của bản quốc.
Thế nhưng khi tiểu phiên đến quan thì sẽ nhận được phong điển, người hiểu biết thì nói rằng ấy là
vì thiên triều đã định sẵn như thế rồi, còn kẻ không biết thì lại bảo rằng đại hoàng đế xử với người
dưới có điều phân biệt. Kẻ biết thì ít, kẻ không biết thì nhiều, đen trắng khác nhau, hai đằng lẫn lộn
cho nên tiểu phiên mới thiết tha đến việc sớm định danh phận, ấy là do lòng chí thành mà ra, chứ
không phải dám rức lác ở trước nơi đài giám mà chỉ là tấm chân tình xin đại nhân giúp mà ngọc
thành cho …[14]

Ngày 22 tháng Sáu, Phúc Khang An gửi một lá thư có đoạn như sau:

…Đại hoàng đế thấy quốc vương mới mở nước cần dựa vào sủng linh của thiên triều mới có thể tập
hòa dân chúng nên đã thực tình tâu lên, hết sức khen ngợi đặc biệt giáng chỉ ban cho phong hiệu, lại
làm một bài thơ, đích thân ngự bút, ra lệnh cho bản tước các bộ đường giao cho quốc vương nhận
lãnh. Còn cống vật đưa lên cũng gia ơn thu nhận.

Quốc vương vốn là người áo vải đất Tây Sơn được vinh hạnh dự vào hàng phiên phong, thật quang
vinh đến cực điểm, tôi không thể không vui mừng. Trước đây vì quốc vương chưa nhận được phong
hiệu, nên trong các hịch văn phải dùng chữ ông tôi mà gọi. Nay quốc vương đã được thụ phong, bản
tước các bộ đường và quốc vương cùng là bầy tôi của thiên triều, cùng một thể với các phiên vương
khác, từ nay thư từ qua lại không còn dùng ông tôi gọi nhau nữa. Còn cháu của quốc vương là Quang
Hiển thì trung tuần tháng Sáu đã qua cảnh giới tỉnh Hồ Bắc, đến khoảng 20 tháng Bảy có thể chiêm
ngưỡng thiên nhan, được cấp cho ấn tín sắc thư mang về.

Quốc vương trong khoảng mùa Xuân sang năm đến cửa quan, bản tước các bộ đường sẽ chờ ở đấy
cùng lên khuyết đình, triển cận chúc thọ để cho thỏa lòng chiêm vân tựu nhật. Trong tờ biểu quốc
vương cũng cho biết đã tuân chỉ lập miếu thờ các đề trấn đại viên tử trận nên xin quan hàm thuỵ
hiệu thì tôi cũng đã thay mặt tâu lên mong đại hoàng đế khen tặng mà chuẩn thuận rồi ban phát.

Còn Lê Duy Kỳ thì hiện đã thu lưu an tháp tại nội địa, như thế cả hai bên đều yên ổn vô sự, ấy cũng là
vì quốc vương mà trù liệu một kế sách thiện toàn. Bọn họ sau khi đã an định rồi chẳng qua cũng chỉ
được cấp lương ăn, sống qua ngày, còn quốc vương nay đã là phiên phục thiên triều, chẳng ai nghe
lời những người dân chạy qua nội địa để thêm rắc rối. Quốc vương như vậy dứt hẳn nghi ngờ, càng
thêm cảm kích mãi mãi nhận được ân quyến đời đời truyền cho con cháu, nay báo tin này.[15]

Lá thư ngày 28 tháng Sáu nội dung như sau:

Trước đây quốc trưởng đã nhận được sắc thư và vòng trân châu của đại hoàng đế ban cho nên đã
cung kính dâng tạ biểu, tấu sự biểu sai người đem đến cửa quan. Bản tước các bộ đường đã xem kỹ
những tờ biểu đó thấy lời lẽ tình tiết cực kỳ cung cẩn, khẩn thiết, quả là từ lòng chí thành, thật thích
hợp với nghĩa sợ mệnh trời thờ nước lớn [畏天事大 – úy thiên sự đại][16] nên bản tước đã thay quốc
trưởng tâu lên, đại hoàng đế cũng đã viết một hịch văn[gửi cho quốc trưởng] dụ mọi việc rõ ràng.

Hiện thời đã qua tiết Lập Thu, bấm đốt ngón tay, đến kỳ xuân sang năm quốc trưởng tiến kinh nhập
cận chỉ chớp mắt đã tới, hẳn là quốc trưởng đang sai người thay quyền đảm trách việc nước để qui
tụ nhân dân là việc trước nhất mà người khai quốc tạo bang phải trải qua.

Cháu quốc trưởng Quang Hiển khi đến tỉnh có nói rằng vì quốc trưởng chưa được thụ phong, sang
năm cùng những người đứng đầu nước khác cùng đến khánh chúc không khỏi tủi thẹn.[17] Bản tước
hiểu rằng quốc trưởng thấy đại hoàng đế chưa ban phong hiệu nên trong lòng thiết tha mong mỏi,
có biết đâu đại hoàng đế độ lượng như trời, ân tràn như biển, sang năm quốc trưởng tiến kinh khi
đến cửa quan thì lập tức có thể xin phong điển.

Những điều đó bản tước các bộ đường đã phân tích rõ ràng trong hịch dụ cùng khi xem biểu văn
quốc trưởng gửi đến cũng đề cập đến rồi, có lẽ vì chưa nhận được hịch văn lần trước nên mới sơ sót.

Ðại hoàng đế thống ngự hoàn vũ, ban tước định chế đều có cấp bậc. Tước vương vượt trên cả năm
cấp,[18] thân vương lại đứng đầu các phiên, không chỉ trong tông thất có thân vương, quận vương mà
vương tước của ngoại phiên cũng chia ra thân vương, quận vương nữa.

An Nam vốn là nước phên dậu, từ trước đến nay đều được phong tước vương, quốc trưởng nay đã
hối tội đầu thành, sang năm đích thân đến kinh đô, cung chúc vạn thọ, đại hoàng đế rất vui
mừng, hiện bản tước đã nhận được dụ chỉ rằng khi nào nhập cận sẽ phong cho chức thân vương,
cùng một thể với tông thất ngoại phiên thân vương, xếp ở trên tông thất ngoại phiên quận vương.
Như thế đại hoàng đế không những đã chuẩn cấp phong tước mà cũng còn đã sắp xếp đẳng cấp vị
thứ rồi chỉ còn đợi ban cấp thôi.

Quốc trưởng vốn là người áo vải[19] đất Tây Sơn, nhân thời thế mà khởi sự nên bao trùm cả đất Giao
Nam nay được cùng hưởng ân sủng với hàng tông thất phiên phong. Còn bản thân quốc trưởng
được phong chức ưu đãi, để lại cho con cháu vô cùng quang vinh thịnh mỹ thật không gì sánh kịp,
bản tước các bộ đường xin chúc mừng quốc trưởng mà cũng chúc mừng luôn toàn thể thần dân nữa,
vậy thì còn gì mà trì hoãn không sớm khởi trình ư.

Hồi năm ngoái khi đại binh chưa xuất quan,[20] thủ hạ của quốc trưởng là đốc đồng trấn Mục
Mã [牧馬] Nguyễn Viễn Du [阮遠猷], cai kỵ Chu Ðình Lý [朱廷理], bị các thổ ti bắt trói cùng với
những người đi theo thủ hạ quốc trưởng là bọn Bùi Danh Vượng [裴名旺] sáu người do nghĩa dân
quan ngoại giải lên, đều đang giam tại phủ Thái Bình. Nay quốc trưởng đã thành thực qui phục và
bản tước các bộ đường cũng đã tâu lên đại hoàng đế nên nhận được ân chỉ không trị tội thêm mà
phóng thích cho về nước.

Ngoại trừ một người là Nguyễn Viễn Du đã bị bệnh chết hồi tháng tư, còn bọn Chu Ðình Lýtất cả 7
người đã chuyển sức cho hộ đạo Tả Giang Lâm [tức Lâm Hổ Bảng] cấp cho họ lương ăn, y phục rồi
cho người hộ tống xuất quan, giao lại cho trấn mục Lạng Sơn. Ấy là những ân trạch phi thường, chắc
quốc trưởng biết rồi nên lại càng thêm kính trọng, cảm kích và vui mừng.

Mùa xuân sang năm, bản tước các bộ đường sẽ ở quan nội chờ quốc trưởng để cùng khởi thân nhập
cận, lạy ở khuyết đình để tỏ lòng thành. Ðại hoàng đế trong ngoài đều coi như một nhà, hạ di đều coi
như một thể, thần dân An Nam cũng đều được che chở ôm ấp. Vậy lúc này quốc trưởng nên kính cẩn
bố cáo lòng nhân của hoàng thượng, vỗ về để mọi người cùng qui về một mối không để sót một chỗ
nào, ai nấy hướng tới thì mọi người vui vẻ, trong biên cảnh ngày thêm an ninh như thế mới mãi mãi
được hưởng ưu quyến vậy.

Cháu quốc trưởng Quang Hiển đã đi tới tỉnh Hồ Bắc, trên đường tất cả đều tốt lành, không cần phải
lo lắng.

Ðặc hịch.
Càn Long năm thứ 54, ngày 28 tháng Sáu. [21]

Mật tấu của Phúc Khang An về việc đàm phán

Thần Phúc Khang An, thần Tôn Vĩnh Thanh, thần Hải Lộc tâu lên:

Nhận được dụ chỉ truyền cho Nguyễn Quang Hiển tiến quan để tuyên thị ân luân nên phúc tấu mong
thánh thượng xem xét.

Ngày 19 tháng này [đây là tháng Tư] bọn thần nhận được dụ chỉ trong đó nói rằng:
Nguyễn Quang Hiển đến quan xin hàng ắt là phải tuân lệnh Nguyễn Huệ mà làm chứ chưa hẳn đã vì
do Phúc Khang An đòi hỏi. Vậy nay minh giáng sắc dụ ra lệnh cho Nguyễn Quang Hiển sai người
kính cẩn mang về giao cho Nguyễn Huệ xem kỹ.

Còn như Nguyễn Quang Hiển khẩn khoản xin tiến kinh chiêm cận thì nay chuẩn cho lai kinh, làm sao
sau ngày 20 tháng Bảy đến được Nhiệt Hà, lúc đó chư vương công thai cát Mông Cổ cũng đến triều
để cùng được vinh dự hưởng yến tiệc thì rất hay.

Lại cũng ra lệnh cho Thang Hùng Nghiệp đưa họ lên kinh theo đường Quế Lâm để gặp Lê Duy Kỳ nói
cho họ biết rằng vì họ Lê nhiều đời cung thuận nên không nỡ xử tội mà đưa đi an tháp, mai sau
không thể nào đưa trở về Lê thành làm chủ nước nữa. Hãy ra lệnh cho Nguyễn Quang Hiển đem các
tình tiết đó viết rõ ràng gửi về cho Nguyễn Huệ bảo đừng có nghi kỵ sợ hãi và Phúc Khang An nói rõ
sang năm khi Nguyễn Huệ khởi hành thì bản bộ đường sẽ cùng đi.

Thế nhưng việc Nguyễn Huệ tình nguyện đến kinh đô cũng mới chỉ là do miệng Nguyễn Quang
Hiển nói, trong tờ biểu và tờ bẩm không thấy có lời này. Vậy Phúc Khang An hãy đem tình hình
lần đó gặp Nguyễn Quang Hiển thế nào cứ thực trình lên. Và bản sao thiên Ngự Chế An Nam Ký nếu
chưa gửi lại Phúc Khang An cũng hãy tuyên thị cho Nguyễn Huệ biết.

Còn như lời tâu xin thưởng cho Thang Hùng Nghiệp đeo hoa linh (lông chim trên mũ) thì nếu người
di nghe biết thì sẽ tưởng như thiên triều có ý muốn cho mau xong việc, sao Phúc Khang An không
nhìn ra chỗ đó, vậy đợi khi y [Thang Hùng Nghiệp] đến Nhiệt Hà lúc đó trẫm sẽ xem xét ra ơn.
Còn Lê Quýnh đã đến cửa quan chưa cũng phải tâu lên một thể, Nguyễn Huệ thái độ ra sao khi mở
coi tờ chỉ cũng phải tâu lên rõ ràng cho trẫm biết.

Nhân khi nhận được sắc dụ cho Nguyễn Quang Bình bằng hai thứ tiếng Thanh (Mãn) và Hán văn,
một vòng trân châu bọn thần quì đọc thấy thánh chúa chỉ thị rõ ràng quả đúng là đạo vừa trấn nhiếp
vừa chiêu dụ cho thấy phương sách phủ ngự của hoàng thượng trấn phục tứ di mấy chục năm qua,
đức ý uy thanh đều đầy tràn …
Từ khi Nguyễn Quang Hiển đến cửa quan tiến biểu xin hàng cùng bọn Nguyễn Hữu Trù về sau đến
quan tạ ơn mọi thứ tự đều do bọn thần tuân theo thánh dụ mà chỉ thị rằng sang năm khi Nguyễn
Huệ tiến kinh nhập cận nhân kỳ Bát Tuần Vạn Thọ sẽ được phong tước, lại cũng dụ cho y biết Lê
Duy Kỳ nay đang an tháp ở Quế Lâm, bất quá không bị tru diệt, chỉ cho làm thường dân, lẽ nào còn
đưa về nước, việc đó cũng đã tâu lên …

Bọn thần tra xét thấy nước An Nam từ họ Đinh đầu đời Tống đến nay đều nhận phong hiệu nhưng
cừ trưởng (người đứng đầu) chưa bao giờ đến Trung Quốc, gã di trưởng này tuy cách bang, ở nơi
vắng vẻ nhưng chắc cũng có sách vở để kê cứu. Nguyễn Huệ nhân gây hấn với họ Lê nên đến nỗi đắc
tội với thiên triều còn lưu lại dấu tích, nếu y không đích thân lên kinh triều cận thì không thể nào
xoá được vết cũ. Thế nhưng người di bản tính đa nghi mà trong sự ngờ vực y cũng còn sợ hãi chưa
dám đích thân sang nên sai cháu là Nguyễn Quang Hiển đến quan xin nhập cận.

Việc ấy chưa hẳn vì biết mình có tội sợ thiên triều không tha mà cũng còn nghi ngại nên mới nói
rằng Lê thành chưa yên không đi xa được, chẳng qua cũng là lời nói khéo che đậy việc sợ rằng một
khi sang Trung Quốc thì thiên triều nhân dịp đó sẽ đưa Lê Duy Kỳ đang ở nội địa về.

Thần từ khi đến Trấn Nam Quan rồi quay về Nam Ninh tới nay tính ra cũng đã tròn hai tháng, ngày
đêm tính toán làm cách nào để giải trừ nghi ngại sợ hãi [cho Nguyễn Huệ], suy đi tính lại mà chưa có
chủ kiến. Nay nhờ hoàng thượng chuẩn thuận cho Nguyễn Quang Hiển lên kinh đô nhập cận đến
thẳng sơn trang để cùng vương công thai cát Mông Cổ dự yến cho bọn họ vốn ở nơi hoang vắng man
tục được dịp xem mây gần ánh sáng (mặt trời), biết Trung Quốc rộng lớn thế nào, thiên triều uy
nghiêm thế nào, thánh ân tràn khắp thế nào để y đời đời đều được vinh hạnh.

Dụ chỉ lại ra lệnh đổi lộ trình qua Quế Lâm để gặp Lê Duy Kỳ, cho biết đứa trẻ hèn yếu vong quốc kia
hưởng đức hiếu sinh của hoàng thượng, tuy không giam cấm nhưng cũng không vun trồng. Nguyễn
Quang Hiển đem tình hình đó viết thư cho Nguyễn Huệ chắc nghi ngờ sợ hãi đều tiêu tan …

Trước đây bọn thần có tâu lên rằng Nguyễn Huệ tình nguyện đến kinh đô, trong biểu văn và bẩm
thiếp tuy không có những lời ấy nhưng hôm trước khi Nguyễn Quang Hiển tiến quan thì bọn thần
cũng đã giảng giải tường tận cho y biết đại nghĩa thì y có nói rằng chú y là Nguyễn Quang Bình đợi
cho việc nước tạm yên thì sẽ nhập kinh để triều cận thiên nhan. Bọn thần xem sắc mặt y và lời nói
cực kỳ cung kính hẳn là do lòng chí thành của Nguyễn Huệ, không phải là Nguyễn Quang Hiển đến
lúc đó mới nói như thế. Cũng vì lời nói đó do khi khẩn yếu e rằng thông sự dịch lại có khi không
đúng nên đã lấy giấy bút bảo y viết ra thì cũng giống như lời nói, bọn thần liền đem tờ giấy đó trình
lên.

Trộm nghĩ Trung Quốc chăn dắt ngoại di cốt trọng đại thể, bọn thần chịu ơn sâu nặng, chỉ biết tuyên
dương đức sáng, phô bày uy nghiêm đễ vỗ yên Giao Nam nhưng vì kiến thức không đủ, suy nghĩ
chưa thấu đáo nhưng lúc nào lời ăn tiếng nói cũng tuân theo thánh huấn không dám nói ngoa …

Còn Tả Giang đạo Thang Hùng Nghiệp từ năm ngoái bắt đầu việc An Nam thì đã theo thần Tôn Vĩnh
Thanh lo việc đài trạm lương hướng ở nội địa, không nề khó nhọc, tận tâm tận lực. Từ khi triệt binh
ở Lê thành về sau, viên đạo đó cùng người di trao đổi giao thiệp, việc gì cũng thoả đáng.

Bọn thần nhân vì chuyện y ra sức đã một năm nên mạo muội tâu lên xin thưởng cho hoa linh nhưng
không nghĩ đến lúc này lập tức ra ơn thì sẽ lộ ra là mong cho chóng xong việc, may được thánh
thượng sáng suốt chỉ thị mới biết xin như thế là sai lầm, thật sợ hãi không đâu kể xiết.
Thang Hùng Nghiệp hiện đang ở Nam Quan, bọn thần đã đem sắc dụ, vòng châu kính cẩn gói lại kỹ
càng rồi sai người đem đến cửa quan. Thần Phúc Khang An cũng đã viết một hịch văn giao cho
Thang Hùng Nghiệp bảo Nguyễn Quang Hiển gửi thư gửi về Lê thành báo cho Nguyễn Huệ biết, đồng
thời gấp rút chuẩn bị hành trang cùng đồng bọn khởi trình lên kinh đô.

Tính toán ngày giờ thì cuối tháng này Nguyễn Quang Hiển có thể tiến quan còn Nguyễn Huệ thì sau
ngày vọng tháng Năm nhuận sẽ có tạ biểu. Y cảm kích sợ hãi uy đức bao nhiêu nghi ngại sẽ không
còn, tuân chỉ sang năm nhập kinh chiêm cận để được dự vào hạng phiên phong, không nói từ xưa
đến nay chưa hề nghe đến mà cũng là lần đầu cho nước An Nam …

Nguyễn Huệ từ khi sai Nguyễn Quang Hiển đến cửa quan tiến biểu, ở Lê thành chờ đợi thánh chỉ,
những người di trên đường được Nguyễn Huệ hiểu dụ rằng nếu như gặp biền binh thiên triều đi lạc
tụt hậu thì hãy cho họ ăn uống, cấp kinh phí cho họ. Những ngày gần đây lại còn cho cả quần áo, mỗi
trạm còn cho cả tiền ăn đường, khi thì một nghìn đồng, khi thì vài trăm đồng, từ mồng 7 tháng Tư
đến nay bọn thần đã được báo rằng trong số binh phu tiến quan có cả thiên tổng Tống Phùng Chấn,
ngoại uỷ Lâm Đại Chương bà binh sĩ 60 người. Bọn thần tra hỏi từng người, Tống Phùng Chấn, Lâm
Đại Chương đều khai rằng chưa từng gặp Nguyễn Huệ, không dám dấu diếm,[22] bọn thần đã tuân
chỉ ra lệnh cho họ trở về bản doanh.

Còn Lê Quýnh thì bọn di mục Nguyễn Doãn Tuấn tiến quan có khai rằng y có dấu quả ấn trong người
đến xứ bắc thì bị bệnh không đi thêm được nên đang đi trốn trong núi ở đó. Bọn thần đã ra lệnh cho
Lê Huy Đông, Nguyễn Liêu là hai người đi cùng với Nguyễn Doãn Tuấn tiến quan trở về dò tìm tung
tích nhưng trong hơn một tháng nay không nghe tin gì về Lê Quýnh kể cả tra hỏi người di tiến quan
cũng không ai biết gì.

Nếu như Lê Quýnh không phải bị bệnh thì tin về ấn triện do lời bọn Nguyễn Doãn Tuấn nói ra thì
cũng chưa đủ làm bằng, bọn thần sẽ tìm hỏi thêm xem ở đâu và sẽ tâu lên ngay… Bọn thần kèm theo
bản hịch dụ Nguyễn Huệ để hoàng thượng xem xét.
Chuyển theo đường dịch năm trăm dặm (một ngày).
Càn Long năm 54 ngày 21 tháng Năm.
Thanh Quí Nội Các Đáng Án Toàn Tập
Minh Thanh Sử Liệu, Canh Biên

Bắc Kinh, Học Uyển 1999


Quyển 11, tr. 4220-3

Phản ứng của Thanh Triều

Hai tờ biểu của vua Quang Trung được chuyển lên theo cách hoả tốc khiến vua Thanh thay đổi chủ
ý. Khi hay tin Nguyễn Quang Bình công khai việc sang chúc thọ, vua Càn Long lập tức viết cho Phúc
Khang An một dụ chỉ minh xác thuận cho Nguyễn Quang Bình làm An Nam quốc vương. Ngoài lễ tiết
chính thức, vua Càn Long cũng gửi thêm một đặc dụ nêu rõ việc ấy kèm một bài ngự thi do chính tay
ông viết.

Theo nội dung chỉ dụ vua Càn Long gửi Phúc Khang An, ông muốn sai một viên quan cấp địa phương
[phủ đạo] mang sang giao cho Nguyễn Huệ bài thơ và sắc thư báo cho biết rằng hoàng đế đã thuận
phong cho ông làm quốc vương và khi Nguyễn Quang Hiển mang sắc thư và ấn về, một phái đoàn
chính thức sẽ sang nước ta thi hành đại lễ cho thật long trọng.

Ngày 13 tháng Bảy, binh bị đạo Tả Giang là Lâm Hổ Bảng gửi thư cho nước ta theo lối hoả tốc [600
dặm một ngày] thông báo cho biết sơ tuần tháng Tám thì khâm sứ nhà Thanh sẽ đến Nam Quan và
yêu cầu chuẩn bị các đồ dùng cần thiết trên đường đi, phu mã, tu bổ công quán,và tập luyện điển lễ
sách phong. Việc Lâm Hổ Bảng gửi thư cho nước ta cũng trùng với việc Phúc Khang An tâu lên vua
Càn Long rằng vì không có đạo phủ nào người Mãn Châu đang ở Quảng Tây để sai đem sắc dụ và
ngự thi sang nên ông ta xin cử một chương kinh là viên ngoại lang bộ Lễ Thành Lâm sang nước ta
làm việc này.[23]

Nghe tin này, phái đoàn nước ta lên đợi sẵn ở cửa quan từ tháng Bảy. Hai viên quan văn võ được
lệnh đón ở cửa quan là Dũng Phái Hầu Vũ Vĩnh Thành, chức vụ đô đốc[24] và Thuỵ Nham Hầu Phan
Huy Ích, chức vụ Hình bộ tả thị lang. Về sau Vũ Vĩnh Thành bị bệnh bất ngờ nên đô đốc Nguyễn Văn
Thọ lên thay, có đô đốc Lê Xuân Tài điều động 500 vệ sĩ lên cửa quan nghênh đón và hộ tống.

Ngoài hai viên trọng thần, còn có 4 viên hầu mệnh [đợi để tuỳ nghi lo công việc được giao phó] là Tô
Xuyên Hầu Lê Doãn Điều[25], hiệp trấn Lạng Sơn, Đạo Thành Hầu Phan Tú Đạo, chánh sứ phái đoàn
tạ ơn, Mi Xuyên Bá Đào Xuân Lan, nhiệm vụ phó sứ và Hải Phái Bá Đoàn Nguyễn Tuấn, hàn lân viện
hiệu thảo lo việc giấy tờ.

Đầu tháng Tám, Phúc Khang An sai Lâm Hổ Bảng thông báo cho nước ta biết phái bộ đem sắc thư và
ngự thi đến giao cho Nguyễn Huệ (ở Thăng Long) đồng thời phụng mệnh thanh tra và kiểm soát mọi
cung đốn trên đường đi, các công quán trạm nghỉ để bẩm lên trước khi sắc lệnh phong vương và ấn
bạc được đem sang làm lễ.

Trong lá thư của Lâm Hổ Bảng có chép nguyên văn lời của Phúc Khang An như sau:

Chiếu theo bản tước các bộ đường ngày hai mươi [20] tháng Sáu năm nay, quốc vương nước An
Nam là Nguyễn [Quang Bình] đã sai đầu mục cung kính mang một đạo biểu tạ ơn, và một tờ biểu xin
được sang năm tiến kinh triển cận chúc thọ, tất cả hai đạo, tiến quan được bản tước các bộ đường
đem nguyên biểu do dịch mã chuyển tấu.

Ngày mồng mười [10] tháng Bảy, tổng đốc khâm phụng dụ chỉ nói là biểu văn lời lẽ cung cẩn, việc
sang năm xin đích thân nhập cận quả là thành thực, thánh tâm rất vui mừng nên lập tức giáng ân chỉ
phong Nguyễn Quang Bình làm An Nam quốc vương.

Còn sắc thư phong tước và ấn thì sau khi Nguyễn Quang Hiển nhập cận sẽ ra lệnh đem về nước.
Ngoài tờ biểu trình tiến cống vật mong được thu nhận ra, hiện hoàng đế cũng ban cho một đạo sắc
thư và một bài thơ ngự chế do chính hoàng đế viết. Nay bản tước các bộ đường đặc phái hậu bổ đạo
Thành [Lâm] cùng thự[26] đồng tri phủ Nam Ninh, Quảng Tây Vương [Phủ Đường] cung kính mang
sắc thư và ngự chế thi xuất quan đến thẳng Lê thành đích thân giao cho quốc vương kính cẩn
nhận lãnh.

Xét lần này viên quan mang sắc thư và thơ ngự chế tuy do bản tước các bộ đường phái qua, không
phải là sắc sứ [sứ thần do vua sai đi] nhưng đã là người mang sắc thư và ngự chế thi thì phải phục
vụ một cách kính cẩn cũng như đại viên mang đến cho quốc vương vậy.

Còn như tiến biểu để xin ân tứ phong hiệu [tuy chưa được] nhưng được ban sắc thư và ngự thi để
tưởng lệ thì cũng là sủng vinh vượt bực rồi, ân điển, ưu quyến như thế là hay lắm. Quốc vương kia
từ khi nạp khoản thâu thành đến nay [tức là thành tâm thần phục nhà Thanh], phụng sự thiên triều
từ lời văn đến lễ nghi đều rất là cung cẩn nên được thánh chúa trông xuống ân sủng phi thường. Nay
nhận được sắc và thơ, cả nước đều thêm rực rỡ, quốc vương hẳn cảm kích gấp bội, càng vui sướng
nên đợi trước để đón tiếp.

Nghe nói từ Trấn Nam Quan đến Lê thành, đường sá cầu cống ngay từ lần trước nhận sắc thư và
châu xuyến quốc vương đã cho tu sửa, lần này chắc sẽ còn thêm nhiều. Còn việc phái quan viên sang
thì phu mã cần dùng đều do nội địa chuẩn bị từ trước khi xuất quan, không để cho quí quốc phải lo
liệu, cả đến những gì cần dùng khi nghỉ trên đường thì cũng tự mang theo. Thế nhưng bản tước các
bộ đường xem gốc tích quốc vương thấy luôn luôn chu đáo, làm việc gì cũng vuông tròn nên nay lúc
mới thụ phong, vui sướng kính cẩn nói không sao hết được. Cho nên khi người được sai đến biên
cảnh rồi thì việc cung ứng trên đường đi ắt vạn phần chu đáo, vạn phần ổn thỏa. Thế nhưng cũng
đừng có rườm rà tốn phí, chỉ nên dự bị phu mã để thay thế những phần bị mệt mỏi, đôi khi có việc
cần đến thì mua cho đủ dùng, như thế ủy viên[27] đi lại yên ổn và nhanh chóng.

Quốc vương được thụ phong sớm một ngày thì là một ngày sớm toại nguyện, chẳng phải là thịnh sự
tốt lành hay sao.
Chính vì thế, bản tước các bộ đường đã trát sức cho hộ đạo lâp tức theo hịch mà lo liệu, báo ngay
cho trấn mục Lạng Sơn tức tốc bẩm lên quốc vương kính cẩn tuân chiếu.[28]

Ngày 13 tháng Tám, Phan Văn Lân và Nguyễn Văn Danh [là hai đại thần lưu thủ Thăng Long] báo
cáo cho vua Quang Trung [đang ở Nghệ An] rằng Phúc Khang An đã gửi thư cho biết “[chế hiến] đã
nhận được dụ chỉ của đại hoàng đế chuẩn thuận cho Nguyễn Quang Bình làm vua ở An Nam và [chế
hiến] đã ủy cho đại viên bưng sắc thư đến An Nam tuyên cáo cho mọi người rõ, lại phụng mệnh
xem xét công quán, nhu dụng, phu mã, đệ dịch của bản quốc cùng điển phong, điển lễ và
chương trình đón tiếp, tất cả mọi việc liệt kê rồi bẩm báo trở lại để [chế hiến] theo đó mà tâu
lên”.

TẤU THƯ CỦA PHÚC KHANG AN

Thần Phúc Khang An quì tâu

Đã tuân chỉ cho người cung kính bưng sắc thư và ngự chế thi chương, kính cẩn đem sang An Nam
nên tâu lên.

Thần khâm phụng thượng dụ:

Phúc Khang An tâu rằng Nguyễn Huệ đưa biểu tạ ơn lại tha thiết xin được triển cận, trẫm thấy biểu
văn cực kỳ cung cẩn, thực quả xuất phát tự lòng cảm kích chí thành, còn phần xin được chiêm cận
chúc thọ thì lại càng thêm khẩn khoản.

[Quốc vương] nước đó trấn phủ dân chúng toàn do tước phong của thiên triều. Huống chi lúc mới
tạo bang mọi việc đều chưa yên định, càng phải chính danh định phận nên tuyên thị rõ ráng ấy là kế
lâu dài để phủ tuy kẻ ở xa.
Nay Nguyễn Huệ đã hối tội đầu thành nên không còn dám phản phúc nếu như đợi cho đến khi đích
thân nghệ khuyết rồi mới phong tước thì không khỏi khiến cho ngoại di coi nhẹ thiên triều. Cho nên
trẫm đã minh giáng dụ chỉ phong cho Nguyễn Huệ làm An Nam quốc vương, lại gửi sắc dụ để hiểu
thị trước cho rõ ràng đồng thời cải chính hịch văn trước đây Phúc Khang An đã gửi xuống.

Còn như sắc thư và ấn thì đợi khi Nguyễn Quang Hiểnnhập cận trở về sẽ ra lệnh đem theo. Việc trình
tiến cống vật thì hãy thu nạp đưa lên kinh đô đợi trẫm thưởng thêm.
Lại thêm nhân việc Nguyễn Huệ tiến biểu tạ ơn [nên trẫm] đã đặc biệt làm một bài thơ, chính tay
viết để ban cho, cùng với sắc dụ thưởng cho Nguyễn Huệ cùng gửi đến Phúc Khang An, lại ra lệnh sai
một viên chức phủ đạo nào có khả năng người Mãn Châu là người của tổng đốc đích thân đem sang
An Nam giao tận tay Nguyễn Huệ.

Nghi thức tương kiến khi gặp Nguyễn Huệ thì Phúc Khang An hãy tận mặt bảo đạo phủ kia nói với
quốc vương rằng đây là tổng đốc khâm tuân ngự thi, thượng dụ mà sai đại viên đem sang so
với sắc sứ không kém bao nhiêu, cũng không nên để nhẹ thể của mình. Nay nhận lệnh mang sang
một đạo sắc dụ, một bài thơ ngự chế đủ biết hoàng thượng ta nhìn xa trông rộng, lượng thánh bao
la, vỗ về kẻ dưới, hết lòng đối với các nước phiên phục.

Tra Nguyễn Quang Bình trước đây nhận được sắc thư ban cho một vòng trân châu đã gửi biểu tạ ơn
thật khẩn thiết chí thành còn tờ biểu xin được triển cận thì lời lẽ lại càng tha thiết, nói rằng vì chưa
có được tước hiệu nên trong lòng thấy sượng sùng thì quả là muốn được phong nhưng không dám
nói thẳng ra như vậy nên thần ngu muội mà bảo rằng việc nhập cận cầu phong thì sang năm nhập
quan sẽ được phong hiệu nên trong hịch văn gửi y lần trước đã nói rõ ràng.

Nay thánh huấn bừng bừng đem lẽ trời mà bảo rằng bậc vương giả “chia đất không chia dân”, con đỏ
đất An Nam cũng là dân không thể không có người chăn dắt nên đặc biệt giáng ân chỉ lập tức phong
cho Nguyễn Quang Bình làm An Nam quốc vương để có thể cai trị dân chúng, giữ yên bờ cõi nên
khâm ban sắc dụ, sủng tứ thi chương để cho con cháu đời đời gìn giữ dùng làm quốc bảo thánh mô
chiếu sáng rực rỡ như nhật nguyệt.

Nguyễn Quang Bình tuy trông ngóng ân trạch nhưng không thể nào liệu được rằng ơn trên lại nhanh
đến như thế, từ nay đã có phong hiệu, định phận chính danh, được như thế mới có thể vỗ về người
trong nước, tụ tập dân chúng thực là mừng không sao kể xiết, trong lòng cảm kích còn thêm vui
mừng hớn hở để sang năm mau mau nhập kinh chúc thọ triển cận cho thoả lòng thành chiêm tựu,
mà thần dân trong ngoài cũng cảm ngưỡng hoàng đế ta phủ ngự ngoại di, cả ân lẫn uy đều sáng chói.
Trừ kẻ nghịch, vỗ về người thuận, đại nghĩa được đề cao, biện lý toàn cục nước An Nam thật là vạn
phần tốt đẹp khiến thần khâm ngưỡng kính phục không thể sao cho hết.

Còn như phụng ban sắc dụ và ngự chế thi chương, sai thần phái một viên đạo phủ nào có khả năng
người Mãn Châu đem đi thì tra trong các đạo phủ ở Quảng Tây không có người Mãn Châu nào cả. Ở
Quảng Đông đạo Triệu La có A Chương A Huệ (阿彰阿惠), đạo Triều Gia có Đồ Tất Hách (圖畢赫) hai
người nhưng việc biện lý An Nam chưa từng đích thân trải qua.
Tra ra có người phụng chỉ cử đến Việt Tây để theo thần biện lý biên vụ là chương kinh trong Quân
Cơ Xứ người Mãn Châu là Lễ bộ viên ngoại lang Thành Lâm, trước đây thần tâu lên để cho viên này
ở lại đất Việt khi nào có chỗ khuyết thì bổ dụng. Viên này theo thần ở Trấn Nam Quan lo liệc việc
biên cương nên việc Nguyễn Quang Bình nạp khoản đầu thành đều qua tay y rất rành rẽ. Thành Lâm
là người biết tỏ tường lại hiểu thể diện, năm trước theo thần ở Đài Loan tiễu giặc đã được ân
thưởng đeo hoa linh (lông chim trên mũ) cũng đủ cho người ngoài trông vào, trước đây đã phái đi
các phủ duyên hải để tra án hiện đã phi hịch điều động trở về, tính ngày giờ thì chỉ trong hôm nay
chắc sẽ đến tỉnh.
Thần sẽ tuân chỉ để liệu định việc nghi thức gặp gỡ quốc vương kia như thế nào để cho người tới An
Nam kính cẩn tuyên thị hồng ân to lớn như trời đất của hoàng thượng, cúi xuống nghĩ đến nước kia
nay mới tạo bang thì cần có phong hiệu của thiên triều thì mới tập hòa giữ yên nên đã lập tức ban
ơn mà phong thưởng cho quốc tộ đời đời, đồng thời cho quốc vương kia biết rằng đây là do tổng đốc
tuân lệnh hoàng đế nên đem sắc dụ ngự thi sai người đưa sang, so với khâm sai sắc sứ không giống
nhau, nói cho y hiểu rằng mỗi nghi tiết làm sao cho đúng để làm sáng thể chế.

Chắc như thế thì quốc vương kia thấy được long ân cự điển, cản động vui mừng càng thêm sâu xa
nên việc dự bị tiếp đãi của nước kia cũng thêm cung cẩn bội phần, hết lòng thành kính mà người
được sai xuất quan cũng nở mày nở mặt, còn thuộc quốc phiên phong thấy qui mô vĩ đại của thiên
triều cũng thêm khâm phục.

Hiện tại những người phụ giúp thần đã tuyển một người hiểu việc, vài tên biền binh đi theo, phu mã
cần đến đều do nội địa chuẩn bị sẵn, sau khi xuất quan rồi nếu quốc vương kia cũng đã lo liệu thì chỉ
thay thế những thứ mệt nhọc yếu đuối nhưng sẽ thưởng tứ để cho họ thêm thành tâm cung kính và
tỏ đạo thể tuất ngoại phiên. Thần đợi khi Thành Lâm về tỉnh sẽ giao sắc dụ, ngự thi và hịch văn thay
đổi cùng khâm định các quan tước thụy hàm của các đề trấn đại viên, tất cả kính cẩn giao cho và ra
lệnh cho cung kính khởi hành, cùng nghi tiết khi gặp quốc vương kia chiếu theo hội điển giảng giải
rõ ràng rồi định kỳ hạn để dụ cho Thành Lâm theo đó mà biện lý. Từ nay về sau nếu như có nhận
được thư từ của quốc vương kia gửi thì hãy khâm tuân dụ chỉ trả lời rõ ràng nguyên do tuân chỉ
biện lý rồi theo đướng dịch tâu về.

Lại thêm cống vật do Nguyễn Quang Bình kèm trong tờ biểu thì thần đã sức cho di mục đem trở về
Lạng Sơn để đợi dụ chỉ. Nay có lệnh ra ơn thu nhận thì thần đã gửi hịch cho Tả Giang đạo Lâm Hổ
Bảng thông báo cho trấn mục Lạng Sơn tiến quan để đạo này cho người đem về cho tuần phủ Quảng
Tây Tôn Vĩnh Thanh nghiệm minh rồi cho người cẩn thận đưa lên kinh đô để hoàng thượng xem xét.
Cẩn tấu.

Càn Long năm 54, ngày 15 tháng Bảy.

DỤ CỦA VUA CÀN LONG VỀ VIỆC SẮP XẾP CHƯƠNG TRÌNH TIỀN SÁT CỦA THÀNH LÂM

Ngày 20 tháng Tám Thanh triều gửi thư sau đây ra lệnh cho sắp xếp chương trình gửi Thành Lâm
sang xem xét trước để chuẩn bị cho việc phong vương:

Xét ra Thành Lâm ngày mồng 1 tháng Tám đã từ Quảng Đông khởi hành cung kính mang sắc dụ để
lên đường đi An Nam. Cứ như lời tâu của Phúc Khang An thì viên chức này tính toán vào khoảng sau
ngày 20 tháng Tám sẽ đến Lê thành.

Thành Lâm đến nước đó rồi sẽ đem tình hình bẩm lại cho đốc phủ, tính ra khoảng 5, 6 ngày có thể
đến quan, từ cửa Nam Quan gửi sang Quế Lâm, cũng mất thêm 4, 5 ngày nữa. Tôn Vĩnh Thanh nhận
được bẩm thiếp lập tức chép lại cho rõ ràng gửi triệp theo đường trạm 600 dặm [hỏa tốc] một ngày
tâu lên thì khoảng 13, 14 ngày có thể đến kinh đô.
Các quan tính ra phúc tấu của Tôn Vĩnh Thanh độ chừng cuối tháng Chín có thể đến được.
Càn Long Triều Thượng Dụ Đáng quyển XV (Bắc Kinh: Đáng Án xbx, 1991) tr. 163 [tái liệu 357]

Từ những chi tiết này, cho đến giữa tháng Tám, nước ta chỉ biết nhà Thanh sẽ gửi một phái đoàn cấp
nhỏ sang thông báo và liên lạc về việc chuẩn bị phong vương trong tương lai gần nhưng không rõ
thời điểm nào. Với hai người cầm đầu là hậu bổ [đạo] và thự đồng tri [phủ][29], phẩm trật đều không
quá ngũ lục phẩm chắc chắn không phải là chủ ý của vua Càn Long đưa sang phong vương cho vua
Quang Trung. Trên nguyên tắc, sứ thần sang phong vương đều là người từ triều đình, do sắc dụ của
hoàng đế sai đi, ngạch trật phẩm hàm thường là nhất, nhị phẩm, không phải do lệnh dụ từ một quan
địa phương.

Theo bản ý vua Càn Long, ông muốn một đại quan người Mãn sang phong vương như một đặc ân
vô tiền khoáng hậu vì trước đây Tôn Sĩ Nghị [tổng đốc người Hán] đã phong vương cho Lê Duy Kỳ.
Trong hoàn cảnh này, nếu muốn trịnh trọng hơn phải do một tổng đốc [người Mãn Châu] đích thân
sang mà thực tế không ai xứng đáng hơn Phúc Khang An.

Qua những trao đổi và lệnh lạc từ phía Thanh triều, vào tháng Tám mọi sự vẫn bình thường và chỉ
sau khi vua Quang Trung bị bệnh trên đường lên Thăng Long thì Phúc Khang An mới tâu lên để thay
đổi kế hoạch.

Việc phái đoàn tiền sát Thành Lâm bất ngờ biến thành phái đoàn phong vương gây sửng sốt và nghi
hoặc. Chưa kể việc chuẩn bị đón tiếp phải gấp rút hơn, thay đổi đó cũng làm nghi lễ trở nên khập
khiễng vì sứ thần Trung Hoa không xứng vai mà khi làm lễ phong vương lại cũng thiếu hẳn một nghi
thức quan trọng: không có lễ trao ấn thụ sắc đánh dấu việc mở ra một triều đại mới.

Một điểm quan trọng khác là triều đình Tây Sơn bị ép phải làm lễ ở Thăng Long là nơi mà vua Quang
Trung tin rằng vượng khí đã hết còn vị trí địa lý thì không cân xứng với lãnh thổ Bắc Hà nay dài và
hẹp. Trước đây, để có đủ vật liệu xây cất kinh đô mới, vua Quang Trung đã đưa theo nhiều nhân
công, thợ khéo và cho tháo rỡ nhiều kiến trúc ở Thăng Long đem xuống Nghệ An. Do đó chúng ta
cũng hình dung được kinh đô cũ nay tiêu điều hoang phế, thiếu hẳn sinh khí của chốn kinh kỳ.

Có lẽ vì ảnh hưởng của văn hóa Nam Á, vua Quang Trung muốn thay đổi quốc đô để đánh dấu việc
mở đầu một thời kỳ mới nên nếu lễ phong vương không làm ở Nghệ An thì ít ra cũng phải làm lễ ở
Phú Xuân là cựu đô của chúa Nguyễn, nơi thành quách cung điện còn tương đối nguyên vẹn, qui mô
bề thế hơn.

Phủ Biên Tạp Lục(quyển II) chép:

… Đất Phú Xuân là nơi đại-địa, bằng-phẳng, đẹp-đẽ như lòng bàn tay, chu-vi có thể rộng hơn mười
dặm đất. Tại trấn-dinh, thị nội chính-dinh ở một nơi đất cao hơn, bốn phía đều thấp cả. Đó là ở giữa
một khoảng đất rộng-rãi, bằng-phẳng, bỗng đột khởi lên một ngôi đất cao.

Đất nầy toạ Càn-phương, hướng mặt về Tốn-phương, nương tựa ngang vào long tích. Ở phía trước,
có nhiều hòn núi bảo-vệ trấn-dinh được sắp-bày la-liệt, và đều thu nhận những giòng nước hổ-thuỷ.
Ấy là mạch đất đại phát tài, phát quyền-lực và giàu-sang thịnh-vượng … [30]

Nguyên từ năm Mậu Tuất (1788), Nguyễn Huệ đã có ý định nhờ Nguyễn Thiếp ở Nghệ An xem đất
tại đây làm chỗ xây cung điện, thành quách. Theo lá thư ông gửi cho Nguyễn Thiếp ngày mồng 1
tháng Sáu năm đó thì ý Nguyễn Huệ muốn đóng đô tại Phù Thạch ở trên sông Lam, dưới chân núi
Nghĩa Liệt. Đến tháng Bảy năm đó, theo một lá thư của trấn thủ Thận Trực Hầu Nguyễn Văn Thận thì
xây dựng đã định khởi công nhưng về sau nghe theo lời của La Sơn phu tử, vua Quang Trung lại
chuyển sang Yên Trường cũng gần đó.[31] Với quyết tâm và sử dụng nhiều tài lực, vật lực, nhân lực
vào công tác này, tính đến tháng 8 năm Kỷ Dậu đã tròn một năm chắc kinh đô mới cũng đã hình
thành được một số kiến trúc cơ bản.
Sự bất đồng khiến cho hai bên phải nhiều lần thương thảo để tìm một giải pháp dung hoà gây nghi
vấn cho người ngoài cuộc. Trước khi sang nước ta, Thành Lâm phải chờ ở Nam Quan đến vài ba
tuần vì vua Quang Trung không chịu ra Thăng Long làm lễ.

Theo tài liệu nước ta thì đầu tháng Tám, vua Quang Trung trên đường ra Thăng Long nhận sắc thư
và ngự thi thì bị bệnh phải quay về. Có lẽ khi biết rằng nhà Thanh đổi ý để Thành Lâm vốn chỉ là một
người đưa thư nay thành sắc sứ sang tuyên phong, vua Quang Trung không đồng ý ra Thăng Long
nữa mà đòi sứ thần nhà Thanh phải vào Nghệ An hay Phú Xuân cho đúng thể chế. Trong khoảng từ
cuối tháng Tám sang đầu tháng Chín, nước ta đã nhiều lần gửi người đến Nam Quan tranh biện về
nghi lễ như đã từng xảy ra trong lịch sử tuy không được ghi chép trong điển tịch.

Mãi tới ngày 13 tháng Chín, cửa Nam Quan mới chính thức mở ra đề phái đoàn sang nước ta. Tuy
nhiên, tình hình cũng chưa hoàn toàn xuôi chèo mát mái. Hai bên vẫn còn nhiều bất đồng và vua
Quang Trung cho con là Nguyễn Quang Thuỳ thay mình ra Thăng Long làm lễ nhưng Thành Lâm
không đồng ý. Rõ ràng Nguyễn Quang Bình muốn có một lễ phong vương khác, ít nhất cũng chờ khi
Nguyễn Quang Hiển đem sắc ấn về nước để lễ nghi được chính danh và trịnh trọng.

Việc hai bên tranh biện đưa đến phái đoàn nhà Thanh cũng phải dừng lại Gia Quất thêm nửa tháng
trước khi qua sông vào kinh đô. Đây không phải là lần đầu giữa triều đình nước ta và sứ thần Trung
Hoa có bất đồng nhưng lần này phía nhà Thanh ở vào thế bị động vì chính họ khiếm lễ trước khi
muốn phong vương “khống” cho vua Quang Trung.
diễn tiến phong vương

Tháng Tám năm Kỷ Dậu, Ngô Thì Nhậm thay lời Ngô Văn Sở gửi cho Thang Hùng Nghiệp một lá thư
khác để hỏi về việc sứ nhà Thanh đã khởi hành sang nước ta hay chưa? Cứ theo nội dung lá thư và
diễn tiến sự việc qua các sắc dụ của vua Càn Long, chủ tâm của Thanh triều cũng như ghi nhận của
phía nước ta thì đây chỉ là phái đoàn đem sắc dụ và bài thơ ngự chế sang trước đồng thời tìm hiểu
xem việc chuẩn bị như thế nào để làm tiền trạm cho phái đoàn phong vương sẽ qua sau. Lá thư đó
phần đầu như sau:

Trình lại về tình trạng đường đi, xin cho biết phái đoàn tạ ân [của nước ta] đi đứng thế nào?
[do quan lưu thủ bẩm]

Càn Long năm thứ 54, ngày … tháng Tám.

Nhận được một đạo công văn theo đường dịch của trấn mục Lạng Sơn gửi về trong đó có nói là
trong trát của đại nhân ngày … thàng Sáu đã phi đệ và tâu lên về hai đạo tấu sự và tạ ân biểu của
nước tôi, khâm phụng thánh chỉ vui vẻ khen ngợi, phong cho quốc trưởng bản quốc làm An
Nam quốc vương, còn sắc và ấn thì đợi khi Nguyễn Quang Hiển về nước sẽ ra lệnh bưng về. Còn các
cống phẩm trình tiến, cũng đã tuân chỉ mà thu nhận.

Hiện nay lại ban cho một đạo sắc thư, một bài thơ ngự chế và đã được công tước các bộ đường đặc
biệt sai hậu bổ đạo họ Thành, chính đường phủ Nam Ninh họ Vương cung kính mang sắc thư sang
đô thành nước tôi để tận mặt giao cho quốc trưởng nhận lãnh.

Ngước lên nhận ân tứ khen thưởng vinh hạnh, thật nước tôi bao nhiêu đời trước mở nước phong
cương chưa từng được thấm ướt như thế bao giờ mà quốc trưởng bản quốc cũng chẳng dám mong
được ân sủng khác thường là trang trọng đọc thư ngài, biết được tin vui như thế.
Quốc trưởng nước tôi hiện nay đang ở kinh đô mới Nghệ An, bọn ti chức lập tức kính cản phi đệ tờ
khải báo cho biết, lần này được hưởng hưu mệnh, vui mừng hiếm có thật là vui mừng yên ủi, không
biết nói sao cho vừa.

Bọn ti chức được uỷ cho cư thủ, biết sự việc quan hệ rất lớn nên không dám bê trễ, ngoài việc chiếu
theo lệ cũ mà sắp đặt công quán, đồ dùng, dịch đệ, phu mã cũng còn tu sửa đường sá, cầu cống để
đợi nghinh tiếp. Cũng đã hai lần bẩm lên tất cả tình hình trong nước cùng điển lễ chương trình,
chiếu theo sách vở hiện còn để mà tuân theo. Chúng tôi cũng đã chọn các viên chức văn võ tiến quan
chờ đợi, mong được đại nhân giúp cho chu toàn.

Nay nhận được trát nói rằng công tước đốc bộ đường thể cho cái tình của người ở xa nên sức xuống
cho nước tôi rằng khi uỷ viên [người được giao cho sứ mạng mang sắc thư sang] đến biên cảnh thì
việc cung đốn trên đường đi không cần phải phiền toái, chỉ cần dự bị phu và ngựa để thay thế khi
mệt nhọc, còn như trên đường có cần thứ gì thì sẽ mua để dùng, ngoài ra không phải điều động sai
bảo gì cả.[32]

Những yêu cầu mà Phúc Khang An gửi lại cho Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân thật rõ ràng là chuẩn bị cho
một phái đoàn tiền sát, không phải là sứ thần sang phong vương. Vua Quang Trung cũng định sẽ đến
Thăng Long nhận sắc thư và ngự thi để hai bên có thể trực tiếp trao đổi những dự định kế tiếp. Có lẽ
nhân dịp này vua Quang Trung cũng chính thức báo cho nhà Thanh là kinh đô mới của ông nay ở
Nghệ An và phái đoàn sang phong vương sẽ tới đó như một dấu hiệu tốt cho việc mở nước theo
truyền thống Nam Á.

Ngày mồng 1 tháng Tám năm Kỷ Dậu, Thành Lâm bắt đầu khởi hành từ Quảng Châu đi Nam Quan để
chuẩn bị sang nước ta. Đầu tháng Tám, Lâm Hổ Bảng cũng thay lời Phúc Khang An báo cho nước ta
biết rằng hậu bổ [đạo] Thành Lâm và thự đồng tri [phủ] Nam Ninh là Vương Phủ Đường sẽ từ Nam
Quan xuống Thăng Long mang theo sắc thư tưởng lệ và bài thơ ngự bút và vua Càn Long đã cho thu
nhận các món tiến cống để đưa lên Bắc Kinh.[33]
trì hoãn lần thứ nhất

Khi nghe tin sứ thần nhà Thanh sắp đến Nam Quan, vua Quang Trung cũng thông báo cho Trung
Hoa biết vào hạ tuần tháng Tám ông sẽ khởi hành từ Nghệ An về Thăng Long để nhận đặc dụ và ngự
thi vào trung tuần tháng Chín.

Theo nội dung các văn thư trao đổi với nhà Thanh trong Bang Giao Hảo Thoại, triều đình Tây Sơn
hiểu rằng sứ bộ nhà Thanh sang An Nam không ngoài mục đích ngoại giao, bề ngoài là xác định việc
vua Quang Trung đã được chính thức công nhận, bên trong có thể là những trao đổi về việc sẽ sang
chúc thọ năm Canh Tuất.

Khi biết tin rằng nhà Thanh cũng nhân dịp này sẽ làm lễ phong vương tại Thăng Long, ngày 20
tháng Tám, vua Quang Trung gửi một lá thư cho Lâm Hổ Bảng nói rằng ông trên đường xuống
Thăng Long thì bị bệnh nên phải quay về Nghệ An điều trị và xin sứ thần xuống thẳng Nghệ An rồi
sau đó sẽ cùng đi xuống Phú Xuân làm lễ phong vương tại đây. Lá thư có đoạn như sau:

Kẻ hèn này ở thành Nghệ An [乂安] trước đây nhận được các công văn trang trọng đọc tôn dụ mới
thấy lòng dạ của đại nhân tốt là nhường nào, đức của đại nhân đẹp là nhường nào. Tôi vừa nghe tin
có ân phong lập tức sắp xếp tướng sĩ định rằng ngày hai mươi tám [28] tháng này sẽ từ Nghệ An đi
lên thẳng Thăng Long phụng nghinh sắc thư và ngự thi để thỏa lòng chiêm ngưỡng.
Có điều bản quốc gần đây có nhiều trắc trở. Kẻ hèn này từ khi dựng nước gian lao[34], tên gai cung gỗ
lúc nào cũng phải lo việc binh đao không nhàn rỗi, lại phải lo việc xây dựng kinh đô, chuyện gì cũng
phải đi lại từ đầu, cố gắng quá sức nên cảm mạo phong sương, mắc bệnh thương hàn. Mới đây
gượng ốm đi lên phương bắc [tức từ Nghệ An đi ra Thăng Long làm lễ phong vương], vừa mới tới
thành đông của Nghệ An, gặp giá mùa thu, khí trời mới lạnh khiến cho bệnh cũ tăng lên, nên phải
xuống thuyền về lại Nghệ An điều trị.
Ấy là sự tình như thế, nay trình lên để chế hiến tôn đại nhân [tức tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang
An] xem xét cho, lại cũng trình để nhị vị sắc sứ [đây là Thành Lâm và Vương Phủ Đường] được
biết.[35]

Cũng như trước đây sai cháu là Nguyễn Quang Hiển thay mình sang Bắc Kinh nhận sắc ấn, lần này
vua Quang Trung sai con trai là Nguyễn Quang Thuỳ đi cùng với hai viên đại thần là Ngô Văn Sở và
Ngô Thì Nhậm ra Thăng Long nghinh đón sứ bộ nhà Thanh, điều động binh mã khí giới hộ vệ long
đình xuống Nghệ An lấy cớ là “thành Thăng Long vượng khí đã hết, dân chúng thưa thớt, kẻ hèn này
chỉ lưu gia tướng cầm quân trấn giữ chứ không phải là nơi gốc rễ của tôi, nay được thần hàn tuyên
thị, ban cho mệnh lệnh mở nước, lại không ở nơi đô ấp dân cư đông đúc mà ở nơi thành cũ tiêu điều
hoang tàn để nhận ân mệnh thì trong lòng có chỗ không yên”.[36]

Nói tóm lại, nước ta đã hành xử theo đúng lễ nghi đưa Phan Huy Ích và Vũ Văn Dũng [sau Vũ Văn
Dũng bị bệnh nên đổi thành Nguyễn Văn Thọ] lên Lạng Sơn đón sứ thần, đưa Nguyễn Quang Thuỳ,
Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm đón ở Thăng Long rồi tất cả cùng vào Nghệ An làm lễ.

Trì hoãn lần thứ hai

Nghe tin đó, sứ thần Trung Hoa không đồng ý việc đi xa hơn, lấy cớ phụng mệnh đến Thăng Long thì
sẽ làm lễ ở đây, vua Quang Trung cũng biện bạch rằng quốc đô không còn ở miền bắc mà nay đã dời
xuống Nghệ An là nơi chính giữa của Phú Xuân và Thăng Long cho tiện việc cai trị. Đầu tháng
Chín,[37] vua Quang Trung lại gửi một bẩm văn cho Phúc Khang An nói rằng có tin một đoàn thuyền
cướp phá vùng Thuận Quảng:

Thế nhưng ngày hai mươi sáu [26] tháng đó [tức tháng Tám] tôi lại được tướng lãnh tuần dương ở
Nghệ An báo rằng ngoài biển có một đoàn thuyền [船艘] ước chừng hơn một trăm chiếc, từ phía
đông vùng Biện Sơn [卞山]của Nghệ An men theo bờ biển tiến xuống các cửa biển vùng Nhật
Lệ [日麗], Tư Dung [思容] thuộc Thuận Hóa, cờ quạt khí giới giống như mô dạng của nội địa, cướp
bóc dân chúng khổ không kể xiết.

Tiểu phiên đang sắp sửa hành trang để lên đường nghe được tin này, không biết những tàu biển đó
ở đâu ra, hay là đám giặc biển tề nguy [齊桅][38] vẫn thường hoành hành ở biển đông nước tôi, qua
lại vùng Bạch Long Vĩ[白龍尾], núi Thanh Long [青龍], núi Quan Lan [觀澜], Ô Nang [烏囊] núi đại,
tiểu Lão Thử [老鼠], núi Hoa Cẩu Đầu [華狗頭]… bị Lâm phó tướng tạm quyền coi trấn Tả Dực vây
bắt nên kéo nhau chạy sang đến đây hay là quan binh đường bể nhân đuổi theo hải phỉ mà theo đến
đây cũng không biết được.[39]
Cứ theo như những lần trước tiễu trừ giặc bể thì sẽ nhận được công văn của thiên triều từ Cao đề
đốc [tức Cao Thư] quân vụ toàn tỉnh Quảng Đông, Lưu tổng trấn phủ Cao Lệ [高麗]tỉnh Quảng Đông
dụ cho trấn mục Yên Quảng bản quốc đuổi bắt cho rốt ráo. Nơi này bỗng dưng lại có quan binh đi
qua mà không có một đạo công văn nào, việc ngoài biển thật khó mà đo lường cho được.

Trộm nghĩ từ khi tiểu phiên thành thực qui thuận đến nay, được hưởng thánh độ nhu hoài của đại
hoàng đế, lại được liệt vị chế hiến tôn đại nhân hết lòng vỗ về nên mới có được như ngày hôm nay.

Nay bản quốc đã nội thuộc rồi, đã thành phên dậu của thiên triều, vậy quân đó là quân nào không lẽ
mặc kệ không hỏi đến? Còn như sau gia tướng ra biển đánh dẹp, nếu như là quan binh đi tuần ngoài
biển ngang qua đây mà giao phong thì có can hệ đến hiến lệnh của thiên triều rất là nghiêm trọng.

Còn như bọn hoành hành ngoài biển cả kia không ai biết đấy là đâu thì đất Thuận Hóa, Quảng Nam
hai trấn là đấy khởi sự cơ nghiệp của tiểu phiên, là đất gốc rễ, việc phòng bị chốn cửa ngõ không thể
sơ sót được.
Cũng vì tình hình nghiêm trọng, vua Quang Trung xin uỷ thác cho con và các đại thần ra đón:

Nhân vì ngày hai mươi bảy [27] tháng này, tiểu phiên từ tân ấp [kinh đô mới] ở Nghệ An vội vã lên
đường quay về thành Phú Xuân đất Thuận Hóa chuẩn bị phòng ngự nên kính cẩn sai con là Nguyễn
Quang Thùy, bầy tôi thân tín hàng võ là Ngô Văn Sở, loan hồi đại thân tín là Ngô Thì Nhậm đến
Thăng Long đợi để nghinh đón tham kiến sắc sứ tạm dừng ở công quán Gia Quất [嘉橘] bờ sông Phú
Lương.

Hiện nay tiểu phiên trở về Phú Xuân, xin chế hiến tôn đại nhân minh dụ những thuyền bè cướp bóc
ngoài khơi có phải là trấn binh đang truy nã bọn giặc tề nguy hay không để chúng tôi cùng ra phối
hợp bắt giữ.

Trước đây, các nhà nghiên cứu vẫn khẳng định vua Quang Trung không chịu ra Thăng Long là vì ông
coi thường việc phong vương. Tuy nhiên xét lại nhật kỳ thư gửi sang Quảng Tây, việc thoái thác
và những thay đổi bất ngờ đều xảy ra ở cuối tháng Tám vì có những thay đổi khiến triều đình
Tây Sơn phải e ngại:

– Vua Quang Trung biết được lần này phái bộ Trung Hoa đi sang nguyên thuỷ không phải có nhiệm
vụ sách phong mà chỉ là một phái bộ dò đường tương đối không cao lắm.

– Việc làm lễ phong vương tại Thăng Long tạo ra tâm lý bất ổn vì lúc đó kinh đô mới là Nghệ An –
một việc đã minh thị trong nhiều văn thư – còn kinh đô cũ của nhà Lê nay hoang phế, tiêu điều, cung
điện đổ nát.

– Vì Nguyễn Quang Hiển chưa về kịp, lễ phong vương thiếu cả sắc thư lẫn kim ấn, hữu quyền vô
lệnh là một điềm bất tường tạo ra những nghi hoặc về thiện chí của Thanh triều.

– Có đến ba nhân vật với ba nhiệm vụ khác nhau (Thành Lâm, Vương Phủ Đường và tổng quản đặc
nhiệm của Phúc Khang An) nhưng không người nào có đầy đủ thẩm quyền để đại diện cho vua
Thanh một cách chính thức.

Tuy không nói ra, những thay đổi bất ngờ vào lúc chót đã khiến cho nhiều thủ tục bị khập khiễng:
– Việc nhà Thanh thay đổi từ một phái bộ báo tin sang một sứ bộ phong vương đưa đến những bất
đồng và tranh biện về nghi lễ, địa điểm. Liên lạc giữa hai bên từ nước ta với phủ huyện địa đầu về
việc tiếp đón nay thành cuộc tranh chấp về nghi lễ.

– Việc chuẩn bị quán xá, trạm nghỉ không còn là một công tác chung phối hợp giữa quan nhà Thanh
và nước ta mà trở thành một công tác do trấn thủ các tỉnh lo liệu sao cho hợp thể chế chiếu theo cựu
điển thời nhà Lê.

Trong khi việc thứ nhất nặng tính chất ngoại giao, tranh luận thì việc thứ hai chuyên về hành chánh,
tiếp liệu và tổ chức. Theo Đại Việt Quốc Thư, vấn đề lễ tiết do tài từ lệnh của Ngô Thì Nhậm, việc chỉ
đạo và sắp xếp đón tiếp do Phan Văn Lân, Phan Huy Ích đảm trách. Theo các văn kiện để lại, việc
tranh biện về nghi thức không được đề cập tới, hoặc nếu có cũng không còn nhưng chắc chắn ngoài
vấn đề thủ tục, triều đình Tây Sơn cũng còn nhiều nghi hoặc về thiện chí thực sự của nhà Thanh, liệu
có thực lòng công nhận một triều đại mới hay chỉ là kế thanh đông kích tây, nhằm dụ cho vua Quang
Trung ra Thăng Long rồi bất ngờ tấn công bằng mặt biển.

Một điểm đáng nói là cũng vào thời gian này, Xiêm vương cũng điều động chúa Nguyễn Ánh đem
quân tấn công vào phía Nam. Theo những tài liệu của chính nhà Nguyễn, chúa Nguyễn quả thực có
động binh đồng thời đem gạo ra giúp quân Thanh nhưng bị mất cả, không biết là vì bị đánh chìm khi
đụng độ với thủy quân Tây Sơn hay bị tai nạn. Tuy Thực Lục chỉ ghi lại rất vắn tắt về việc cho người
liên lạc với Bắc Hà, chúng ta cũng nghi rằng việc này có thực và tuy một số văn bản có đến tay Phúc
Khang An nhưng Thanh triều dấu nhẹm đi vì tình hình giao thiệp với An Nam đã thay đổi.

Hai tháng sau khi việc lễ nghi đã xong, Ngô Văn Sở đưa một phái đoàn lên Nam Quan đón Nguyễn
Quang Hiển để hộ tống sắc ấn về Nghệ An. Trong dịp này tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh có tiết lộ rằng
khi theo đường Ải Điếm sang Quảng Tây [tháng Bảy năm Kỷ Dậu], Lê Quýnh có tiết lộ rằng trong
nước nhóm nhà Lê đang dao truyền một khi vua Quang Trung lên đường thì đại binh nhà Thanh sẽ
kéo sang đưa vua Lê phục vị.

Có lẽ những lời đồn đãi đó khiến triều đình Tây Sơn e ngại việc một lễ phong vương được vội vã
thực hiện chỉ nhằm che đậy một âm mưu chính trị và động thái quân sự mới. Vua Quang Trung e
ngại rằng sẽ nhân khi ông tập trung nhân lực ở Thăng Long, nhà Thanh sẽ bí mật đem quân bằng
đường thuỷ tập kích vào Phú Xuân nên khi nghe tin có những nhóm “tàu ô” xuất hiện dọc theo bờ
biển ông vội quay về bố trí phòng ngự.

Những trục trặc kỹ thuật cũng khiến nước ta tìm cách thoái thác để yêu cầu sứ thần xuống Nghệ An
hay Phú Xuân tuyên phong nên Thành Lâm phải ngừng lại ở Nam Quan khoảng 20 ngày và muốn
tránh thắc mắc vua Quang Trung lấy cớ là bị bệnh bất ngờ viết thư xin hoãn tuyên phong trình lên
vua Càn Long hầu kéo dài thời gian đàm phán. Vì lẽ đó, chúng ta không thấy Phúc Khang An đề cập
đến cách giải quyết những vấn đề này để tránh liên lụy cho ông ta.

Đến khi vua Càn Long sốt ruột gửi thư thúc giục, Thành Lâm đành mở cửa đi sang nhưng vẫn phải
ngừng lại ở công quán Gia Quất để chờ. Vua Quang Trung sai Nguyễn Quang Thuỳ, Ngô Văn Sở và
Ngô Thì Nhậm đến Gia Quất bên ngoài lấy tiếng là đón sứ bộ nhưng thực ra là tranh biện về lễ nghi
và tìm cách thuyết phục họ xuống Phú Xuân làm lễ. Việc trì hoãn cũng có thể là mua thời gian chờ
phái đoàn Nguyễn Quang Hiển mang sắc ấn về để lảm lễ cho đúng phép.
[1] Khi đối chiếu tài liệu, húng tôi tìm thấy nhiều dị bản (kể cả từ phía nước ta, Thanh triều và ảnh
chụp bản gốc nếu may mắn còn giữ được) không giống nhau hoàn toàn mà có thêm bớt sửa chữa
nhiều chữ hay cả đoạn.
[2] Ngô Văn Sở tiết lộ với Tôn Vĩnh Thanh khi đi đón phái đoàn Nguyễn Quang Hiển ở Nam Quan
[3] Bộ thảo 艸
[4] KDANKL, q. XXII, tr. 4-9 (bản dịch NDC)
[5] Nguyên văn: 跼蹐無地,愧懼交并 – cục tích vô địa, quí cụ giao bính.

[6] Nguyên văn

安南國小目臣阮光平謹奏上言。為敬陳瞻覲微忱。仰干天聽事。

臣欽奉敕書宣諭。不咎既往。嘉與維新。聖德如天。不遺荒逖。臣誠歡誠忭。無任感激。欽惟大皇帝

陛下德邁羲炎。道高軒昊。五十餘年太平天子。治隆福備。曠古所無。

臣生長廣南。雖其地不與中華通。而閩廣海舶。往來絡繹。竊嘗稔聞中國文物聲明之盛。尤仰望大皇

帝仁義道德之隆。

臣誠願譜在寶書。瞻就雲日。匪真以海不揚波。為中國有聖之驗也。

前臣親姪阮光顯款關。代躬行禮時。曾面告以俟國事稍定。入覲京師。蓋臣一片真誠。惟知畏天命尊

天子。循其職分之當然也。

伏惟聖天子天生至德。位祿名壽。兼而有之。來年八月。恭逢八旬萬壽聖節。吉祥盛事。慶滿寰瀛。

臣獲依日月之光。同效華封之祝。實為至願。

擬將國事早為處分。謹於明年春夏間。稟明兩廣總督公轉奏。候賜瞻覲。以抒下悃。仰惟宸淵洞照。

欣感實深。

再天朝提鎮大臣。前經臣屬下悟行傷害。臣痛自悔艾。惶悚靡寧。先經築壇奠祭。玆敬謹擇吉。立廟

於國都之南。春秋虔享。稍申事大之誠。仰答教忠之旨。

惟提鎮大臣官銜謚號。伏候旨下兩廣總督公。頒行本國。欽遵奉祀。以贖前愆。

至安南國舊印。及上年補給印信。俱係賞給黎氏。但兵火倥惚之中。未知下落。臣已徧行搜查。一俟

尋獲。即當繳進。候奉換給吉祥新印。以昭世守。實臣之大願也。

惟是臣明歲進京。恭祝萬壽時。庶邦君長。咸在朝賀之列。
臣荒遠土酋。忝與王會。跼蹐無地。愧懼交并。且臣本國自黎祚告終。干戈旁午。民墜塗炭。旄倪皇

皇。日顒綏輯。幸得早有繋屬。即國內日就和寧。伏望聖德洞燭微情。逾格加恩。假臣封號。俾得

奉有名分。憑籍天寵。鳩集小邦。實蒙聖天子覆載生成之德。

自臣及其子孫。世守南服。為天朝之蕃屏。惟有一心恭順。以期永荷天恩於勿替也。

臣遙瞻絳闕。仰望恩慈。不勝激切屏營之至。

兹奉表以聞。
[7] Sợ thiên tử thờ nước lớn
[8] Đề đốc và tổng binh. Ở đây chỉ Hứa Thế Hanh, Trương Triều Long, Thượng Duy Thăng là ba
người chết trận ở nước ta đầu năm Kỷ Dậu [1789].

[9] Trong bản chữ Hán chép thành quan ngự thụy hiệu [官御謚號], nhầm chữ hàm 銜 thành

chữ ngự 御

[10] Chỉ tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An


[11] Một giống dân du mục ở phía Tây Mông Cổ
[12] Nay là Mông Cổ
[13] DVQT, q. I “Hịch Phúc Khang An gửi vua Quang Trung ngày 15 tháng Sáu” (bản dịch NDC)
[14] Nguyệt Triệp Bao, Quân Cơ Xứ, hòm số 2778, trang 601, thư của Nguyễn Quang Bình ngày 22
tháng Sáu. Trích theo chú thích số 106 trong Trang Cát Phát, TTVC (1982) trang 391.
[15] Thượng Dụ Đáng, Phương Bản, Càn Long năm 54, Quí Đáng trang 601. Trang Cát Phát, TTVC
(1982) trang 392, chiếu hội ngày 22 tháng Sáu.
[16] Trích từ lời Mạnh Tử [Lương Huệ Vương hạ] ý nói việc sợ trời thờ nước lớn là kế sách khôn
ngoan để bảo vệ mình khỏi bị xâm lăng, thường dùng để giải thích và biện minh cho việc Trung Hoa
áp đặt tương quan thiên triều – phiên thuộc lên các tiểu quốc chung quanh. Nói là sợ trời nhưng vì
thiên tử Trung Hoa là “con trời” nên cũng đồng nghĩa thần phục thiên tử.

[17] Nguyên văn 慙赧 (tàm noãn)

[18] Tức công, hầu, bá, tử, nam


[19] Nghĩa là người dân thường chưa từng được quan tước
[20] Thua chạy về nước
[21] DVQT, q. I “Hịch Phúc Khang An gửi vua Quang Trung” ngày 28 tháng Sáu (bản dịch NDC)
[22] Luật nhà Thanh nghi ngại việc tù binh bị bắt rồi khi được trả về làm nội gián cho địch nên đều
phải khai việc có gặp thủ lãnh địch hay không.
[23] Khi xem lại các văn thư của nhà Thanh, việc thay đổi này đã bị dấu đi nên nhiều chi tiết không
thấy lưu lại trong các tài liệu căn bản như Thanh Thực Lục, Khâm Định An Nam Kỷ Lược … Tuy
nhiên trong những đáng án còn trong kho có nhiều văn thư mật đề cập đến việc này tương đối rõ
ràng, chẳng hạn tấu thư của Phúc Khang An ngày 15 tháng Bảy trong Minh Thanh sử liệu [Canh
Biên] trích trong Thanh Quí Nội Các Đáng Án Toàn Tập(Học Uyển, 1999) tr. 129-131 tức trang
4234-7 trong sách mà chúng tôi sao lục bên dưới.
[24] BGHT, Phúc Kê Điển Lễ (lởi bẩm của quan lưu thủ). Đây là Chiêu Viễn Hầu Vũ Văn Dũng nay đổi
tên, có lẽ vì hai chữ Chiêu Viễn có vẻ trịch thượng và khiếm lễ. Tuy nhiên sau đó Vũ Văn Dũng bị
bệnh nên người đến đón sứ thần Trung Hoa ở Lạng Sơn là đô đốc Nguyễn Văn Thọ và đô đốc Lê
Xuân Tài.
[25] Trong DVQT tên và chức vụ nhiều khi lẫn lộn giữa Duy Thiện Hầu Lê Doãn Điều và Tô Xuyên
Hầu Lê Nho Hứa [hay Phan Hứa]. Trong hai ông này một ông là quan văn, chức vụ trấn thủ Lạng Sơn
và một ông là quan võ chức vụ hiệp trấn Lạng Sơn. Đầu đời Tây Sơn, quan võ giữ chức vụ trấn thủ,
quan văn giữ chức vụ hiệp trấn [kém hơn trấn thủ một bậc]. Nếu xét nhiều công văn khác nhau thì
chúng ta biết được Lê Nho Hứa là trấn thủ Lạng Sơn và Lê Doãn Điều là hiệp trấn Lạng Sơn.
[26] Thự là đang tạm quyền, chưa được bổ nhiệm chính thức
[27] Ngưởi được giao phó nhiệm vụ
[28] DVQT, q. I “Thư Lâm Hổ Bảng gửi trấn mục Lạng Sơn” (bản dịch NDC)
[29] Đây là các chức vụ chưa chính thức (hậu bổ: chờ bổ dụng; thự: tạm quyền) ở cấp đạo và phủ là
các đơn vị hành chánh cấp trung, tương đương với những quan lại mới/đang được tuyển dụng.
[30] Lê Quí Đôn, Phủ Biên Tạp Lục (tập I q. 1, 2 & 3) bản dịch Lê Xuân Giáo (Saigon: Phủ Quốc Vụ
Khanh đặc trách văn hoá, 1972) tr. 189-90
[31] Hoàng Xuân Hãn, La Sơn Phu Tử (Paris: Minh Tân, 1952) tr. 118-25
[32] BGHT, “Phúc trình duyên đồ tình trạng, tịnh thỉnh báo thị tạ ân sứ thành hành chỉ”
[33] Trước đây khi Nguyễn Quang Hiển có mang cả cống vật nhưng Thanh triều ra lệnh đem về để ở
Lạng Sơn đợi chỉ từ kinh xuống. Nay đã có lệnh của vua Càn Long thu nhận các món cống vật này.

[34] Tất lam đề cấu [篳籃締構] gây dựng việc nước khó nhọc. Nguyên gốc tất lộ lam lũ [篳路藍縷] là

chế tạo xe bằng tre gai trông bệ rạc, quần áo rách rưới nói việc dựng nước rất gian lao, khổ cực
[35] DVQT, q. II tr. 78-79
[36] DVQT, q. II tr. 81-2
[37] Trong DVQT viết là 20 tháng Tám nhưng nếu viết vào thời điểm đó thì nội dung không thể đề
cập việc xảy ra vào ngày 26 tháng Tám được. Còn như nếu 20 tháng Chín mới viết thư hỏi thì quá
trễ. Chúng tôi cho rằng lá thư này phải viết vào đầu tháng Chín trước khi Thành Lâm qua cửa Nam
Quan.
[38] Tề nguy hay tề ngôi là thuyền của hải phỉ có ba cột buồm bằng nhau (nguy là cột buồm)
[39] Nguyên vùng đông bắc nước ta giáp với Quảng Đông có giặc bể hoành hành trước đây chúa
Trịnh nhiều lần sai quân đánh dẹp. Nay vua Quang Trung lấy cớ rằng có thể là hải phỉ bị quân Thanh
đánh đuổi chạy xuống phương nam để tránh tiếng nghi ngờ rằng họ lẻn sang tập kích.

PHÁI ĐOÀN THÀNH LÂM

Thủ tục phong vương như thế nào?

Nhà Thanh là triều đại lễ nghi phức tạp hơn hết trong lịch sử Trung Hoa. Mọi sinh hoạt đều được qui
định rất chi tiết nên chúng ta có thể hiểu được nhiều ẩn dấu nội bộ khi quan sát cặn kẽ từ bên ngoài.
Sự phân biệt về màu sắc, y phục, hay những vật dụng nho nhỏ tưởng như đồ trang sức thực ra đều
có ý nghĩa riêng. Thứ tự trong danh sách ban thưởng hay sắp đặt chỗ ngồi trên bàn tiệc phản ảnh rõ
rệt vị thế và uy vọng của từng người.

Ngay cả cách dùng chữ, cách xưng hô cũng được qui định rất chặt chẽ. Vua Ung Chính đã từng khiển
trách một viên quan người Hán vì tự xưng “nô tài” là danh hiệu chỉ người Mãn mới được dùng. Vua
Quang Trung trước khi được phong vương chỉ dám nhận là “tiểu phiên” chứ không dám xưng ‘thần”
và nhà Thanh cũng chỉ gọi ông là “quốc trưởng” chứ không gọi là “quốc vương”.

Theo Lễ Chí (禮志), phần Phiên Quốc Lễ (藩國禮) trong chương Tân Lễ (賓禮) thì “[…] Từ khi quốc
gia kiến tạo đến nay, cả đức lẫn uy đều lan rộng, thanh giáo tràn tới nên không đâu là không đến
triều đình … chiếu theo sách cũ cũng đều coi như nhau.” Cũng theo Phiên Quốc Lễ, Thanh triều qui
định rằng việc sách phong cho phiên thuộc thì sẽ sai đại thần mang “ tín ước”(信约) sang, khi [sứ
thần] đến biên giới của nước đó sẽ kiểm tra (验视) tín ước cùng chức danh của đại thần phụng sai
cùng nghi lễ sách phong phi báo cho thủ lãnh [quốc trưởng] nước đó. Quốc trưởng nước kia sẽ ra tới
nơi cách năm dặm, xuống ngựa quì ở bên phải đường đi, đợi khi chế sách đi qua sẽ cưỡi ngựa tuỳ
hành.[1]

Sứ thần cùng đi đến phủ đệ của thủ lãnh kia, bày hương án, sứ thần bưng chế sắc để trên hương án,
thủ lãnh làm lễ tam quị cửu khấu [ba lần quì, chín lần rập đầu], nghi độc quan [viên quan được chỉ
định đọc tờ sắc] sẽ đọc tờ chế phong, thủ lãnh kia lại làm lễ tam quị cửu khấu lần nữa, sau đó quay
qua cùng sứ thần hai người làm lễ nhị quị lục khấu [hai lần quì, sáu lần rập đầu], ấy là hoàn tất nghi
thức sách phong. [2]
Cũng trong sách này, việc sách phong cho hai nước Lưu Cầu, An Nam được chép như sau:
Định chế đời Sùng Đức [1636-1643], một khi ngoại bang qui thuận thì đều ban sách phong tích tước
vị để khi có điều gì tâu lên được dùng niên hiệu Đại Thanh. Nếu nước triều cống không có người nối
ngôi thì phải sai bồi thần sang xin phép thiên triều, khi đó bộ Lễ sẽ tâu lên để sai một chánh, một
phó sứ mang cờ tiết sang phong vương.Được đặc biệt ban cho triều phục nhất phẩm có thêu kỳ lân
để chuyến đi thêm long trọng.

Đến ngày đi, bộ Công sẽ cấp cho kỳ trượng (旗仗 –cờ và các món binh khí trang sức), bộ Binh cấp
cho thừa truyền (乘传 –xe dành riêng cho người đi xa), phong sứ sẽ đến bộ Lễ, một viên quan thuộc
Nghi Chế Ty sẽ cầm cờ tiết, một người cầm chiếu sắc trao cho quan lớn của bộ[Lễ] để trao lại cho
chánh , phó sứ quì nhận lấy, đứng lên. Hai người đi ra thay chinh y, ngồi xe lên đường. Khi đến cảnh
giới nước kia thì kẻ biên lại nước ấy đã chuẩn bị xe ngựa phu dịch sẵn sàng, những nơi nào phải đi
ngang qua đều có viên chức quì đón cùng bồi thần của người được nối ngôi nghinh tiếp, làm lễ tam
quị cửu khấu, sứ giả sẽ đáp lại nhất quị tam khấu, sau đó mới vào trong quán. Sau khi đã trần thiết
các loại cờ tiết long đình rồi, mọi người hành lễ theo nghi thức, ai đến yết kiến sứ thần thì khấu đầu
ba lần, sứ thần không phải đáp lễ.

Đến ngày làm lễ phong vương, nhà vua đem bồi thần đến quán, làm lễ [kiến diện] xong, vua về
trước. Khi rước long đình đi thì có cờ quạt và nhạc công đi đầu, phong sứ đi theo sau. Vào trong cửa
bày ra ở chính giữa, sứ giả và người đi theo xuống ngựa. Chánh sứ cầm cờ tiết, phó sứ bưng chiếu
sắc, vào trong điện để lên trên án, lui ra đứng ở bên cạnh phía đông.

Nhà vua dẫn trăm quan đứng quay mặt về hướng bắc làm lễ tam quị cửu khấu, đứng lên đi đến vị trí
phong vương rồi quì xuống. Phó sứ bưng chiếu thư giao cho tuyên độc quan (viên quan đọc chiếu).
Đọc xong, nhà vua hành lễ, làm như lúc trước sau đó ra khỏi điện. Sứ giả đi ra, các quan quì tiễn rồi
đãi tiệc ở công quán. Khi sứ giả trở về triều, nhà vua soạn biểu văn cùng các phương vật sai bồi thần
đến cửa quan tạ ơn.[3]

Chính vì những qui định chặt chẽ như thế, chúng ta có thể nhận ra một số chi tiết không đúng cách
khiến cho quan lại nước ta đặt thành nghi vấn chẳng hạn sứ giả không phải do hoàng đế chỉ định
[qua sự đề nghị của bộ Lễ và sự sắp xếp của bộ Công, bộ Binh] trong khi Thành Lâm lại đi từ Quảng
Đông, không đem theo sắc thư, bảo tỉ mà mang ngự thi, đặc dụ …

Thoạt đầu, Phúc Khang An cử Thành Lâm, một viên ngoại lang đang đi thanh tra và chờ bổ nhiệm
coi một đạo [đơn vị nhỏ hơn tỉnh] là người Mãn Châu duy nhất có mặt tại địa phương đem tờ đặc dụ
và bài ngự thi sang cho vua Quang Trung. Có lẽ cũng nhận ra rằng nếu tổ chức rềnh rang như ý
muốn của vua Càn Long [cho một sứ bộ sang báo tin và thanh tra các dịch trạm, công quán trước rồi
một phái đoàn phong vương sang sau] thì Phúc Khang An phải chờ cho Nguyễn Quang Hiển về đến
Quảng Tây rồi sẽ cùng sang An Nam làm lễ. Việc hai sứ đoàn không những gây tốn kém, khó nhọc lại
mất thì giờ và thêm phức tạp nên sau đó chính Phúc Khang An đã ngầm tâu lên để gộp lại làm một
gây quan ngại cho nước ta đã đành mà còn khó khăn trong việc tổ chức nghi lễ.

Chúng ta không biết quyết định thay đổi đó xảy ra lúc nào – có lẽ trong khoảng cuối tháng Tám và
chi tiết [nếu có] cũng nằm trong những tấu triệp mật viết bằng Mãn văn chúng tôi chưa được tham
khảo. Cũng vì sự thay đổi gấp rút và nhiều vấn đề chưa giải quyết thoả đáng nên Phúc Khang An
phải gửi riêng một đặc sứ [tổng quản] đi cùng với phái đoàn để bàn luận về việc Nguyễn Quang Bình
sang chúc thọ vua Càn Long.
Chính vì có sự lấn cấn và phải trì hoãn ngoài ý muốn nên Thành Lâm đến Quảng Tây từ tháng Bảy
nhưng phải đến tháng Chín mới làm lễ mở cửa đi sang nước ta còn triều đình Quang Trung thì chưa
thấy Nguyễn Quang Hiển trở về nên cũng nghi ngại khi một thủ tục dạo đầu nay trở thành lễ phong
vương mà lại không có sắc ấn.

Do đó, vua Quang Trung tuy đã thụ phong từ ngày 15 tháng Mười nhưng đến tháng Chạp thì ấn và
sắc mới về đến Thăng Long nên các tờ biểu gửi lên vua Càn Long cũng phải chờ đến sau lễ khai ấn
đầu năm Canh Tuất mới chính thức áp triện An Nam quốc vương.
ĐẶC DỤ

Tờ đặc dụ[4] của vua Càn Long [mà Thành Lâm mang sang cùng với bài thơ ngự chế] nguyên văn ghi
lại trong KDANKL (quyển XXII) như sau:

Dịch nghĩa

Theo như Hiệp Biện đại học sĩ tước công là tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An tâu lên thì trong
biểu tạ ân ngươi đã giãi bày thành thực mọi điều. Trẫm phê duyệt biểu văn thấy lời lẽ khẩn khoản,
lại xin được sang năm tiến kinh nhập cận chúc thọ, ân cần tha thiết, thực là cung cẩn. Những cống
vật mà ngươi mang tới trẫm đã gửi dụ ra lệnh thu nhận để toại lòng dâng tiến những món quà nhỏ
mọn[5] của ngươi.

Trong biểu cũng xin được gia ân vượt mức ban cho phong hiệu để có danh phận cưu tập tiểu bang.
Nước An Nam trước đây Lê Duy Kỳ tầm thường kém cỏi không có tài năng nên trời ghét bỏ, quốc tộ
cáo chung. Ngươi hiện đã hối tội đầu thành, sai cháu ruột là Nguyễn Quang Hiển mang biểu chiêm
cận, cầu xin khẩn thiết đến mấy lần.

Trẫm thuận theo trời mà làm, có phế có hưng điều gì cũng đều đại công chí chính. Trước đây vốn
định rằng đợi sang năm khi ngươi thân hành khấu cận sẽ thưởng cho tước vương. Thế nhưng khi
xem những điều ngươi viết trong biểu, là lúc mới tạo bang nên cần được vinh sủng của thiên triều
mới có thể giá ngự được dân chúng.

Lại nghĩ nước ngươi vừa trải qua nhiều cơn binh lửa, dân chúng chưa an cư tập hợp, nếu không
được phong hiệu của thiên triều, thì e rằng gọi không có người thưa, tình hình quả như thế, ngươi
đã cứ thực mà trình bày, không vẽ vời chút nào, trẫm rất là khen ngợi.
Vả lại bậc vương giả chia đất nhưng không chia dân, An Nam tuy ở nơi viêm hoang xa xôi nhưng
cũng đều là con đỏ của trẫm cả, trung ngoại cũng đều như nhau. Ngươi phải dựa vàoân sủng của
thiên triều mới có thể vỗ về sắp đặt để cho dân gian trong nước ai nấy an ninh làm ăn, đó là thâm
nguyện của trẫm vậy.

Vì thế nay giáng ân luân, phong ngươi làm An Nam quốc vương để có danh hiệu mà cai trị vỗ về, lại
đích thân làm một bài thơ ban cho ngươi để làm quốc bảo truyền đời. Từ nay mỗi khi trình tiến biểu
từ cùng hành văn trong nước đều chuẩn cho viết theo danh hiệu quốc vương. Còn việc phát cấp ấn
tín, sắc thư, hiện trẫm đã giao cho các nha môn soạn văn đúc triện, đợi cháu ngươi Nguyễn Quang
Hiển đến kinh, giao cho đem về.

Về việc các đề trấn đại viên của thiên triều, bỏ mình trong khi lâm trận, trong nước ngươi đã lập
miếu thờ cúng đủ biết đã hối tội sợ hãi nên xin quan hàm húy hiệu, trẫm cũng đã sắc cho bộ ban
phát sau. Vậy ngươi hãy chăm lo kính sợ, giữ phận phiên phong để mãi mãi thừa hưởng ân quyến.
Ðặc dụ.
NGỰ THI

Bài thơ ngự chế do chính vua Càn Long viết để ban cho vua Quang Trung như sau:

三藩耆武匪佳兵,昨歲安南重有征。
無奈復黎黎厭德,爰教封阮阮輸城。
守封彊勿滋他族,傳子孫恆奉大清。
幸沐天恩欽久道,不遑日監凜持盈。

Dịch âm
Tam phiên kỳ võ phỉ giai binh,[6]
Tạc tuế An Nam trọng hữu chinh.
Vô nại phục Lê Lê yếm đức,
Viên giao phong Nguyễn Nguyễn thâu thành. [7]
Thủ phong cương vật tư tha tộc,
Truyền tử tôn hằng phụng Ðại Thanh.
Hạnh mộc thiên ân khâm cửu đạo,
Bất hoàn nhật giám lẫm trì doanh.

Dịch nghĩa

Ba phen dụng binh không phải là chuyện tốt lành,


Năm ngoái đem quân sang nước Nam cũng chỉ để chinh phạt.
Không nề lấy lại nước cho nhà Lê nhưng nhà Lê thiếu đức,
Giao lại cho nhà Nguyễn (Tây Sơn) vì đã thành tâm qui phục.
Cố gắng giữ gìn đừng để rơi vào tay họ khác,
Truyền cho con cháu giốc lòng phụng nhà Thanh.
May mắn được tắm gội ơn trời cho lâu dài,
Ngày ngày phải kính cẩn như bưng bát nước đầy.

Trong dịp bệ kiến ở Nhiệt Hà, Vũ Huy Tấn đã hoạ bài thơ này được nhà vua khen ngợi và thưởng
cho một hộp mười cây bút Khuê Tảo Long Chương [奎藻龍章].
聖世衣裳代甲兵,服人言正匪言征。
未能寸土供常貢,早荷重天監至誠。
伊昔海瀕猶附國,如今藩服屬皇清。
鴻私深覺無階答,臣子長孚易缶盈。

Dịch âm

Thánh thế y thường đại giáp binh,


Phục nhân ngôn chính phỉ ngôn chinh.
Vị năng thốn thổ cung thường cống,
Tảo hạ trùng thiên giám chí thành.
Y tích hải tần do phụ quốc,
Như kim phiên phục thuộc hoàng Thanh.
Hồng tư thâm giác vô giai đáp,
Thần tử trường phù dị phẫu doanh.

Dịch nghĩa

Đời thánh nhân lấy y thường thay cho binh giáp,


Hàng phục bằng lời nói chính đáng chứ không phải bằng chinh phạt.
Chưa từng lấy một tấc đất để thay việc triều cống,
Sớm đem gánh nặng thiên tử để xét cho dạ chí thành.
Như xưa kia nước ở góc bể cũng cho phụ vào,
Thì hôm nay phên dậu cũng thuộc nhà Thanh.
Ơn to lớn biết rằng không có thể đáp đền được,
Đạo tôi con tin tưởng lâu dài chẳng khác gì chum đầy.

Sơ lược về giao thiệp với Trung Hoa

Nước ta là nước nhỏ ở cạnh một nước lớn thường xuyên bị xâm lấn nên trong việc đối xử với Trung
Hoa luôn luôn phải nhún nhường nhưng lúc nào cũng thận trọng cảnh giác. Nhờ vị trí địa lý cách
bức với lục địa bằng những dãy núi hiểm trở, lại thêm tính khí quật cường nên sau hàng nghìn năm
nội thuộc ông cha ta vẫn giành lại được quyền tự chủ. Phan Huy Chú chép trong LTHCLC, quyển
XLVI, mục Bang Giao Chí như sau:

Nước Việt ta có cả cõi đất phía nam mà thông hiếu với Trung-hoa, tuy nuôi dân dựng nước có quy
mô riêng, nhưng ở trong thì xưng đế, mà đối ngoài thì xưng vương, vẫn chịu phong hiệu, xét lý thế
thực phải như thế. Cho nên lễ sách phong, lễ cống sính, việc bang giao các đời đều xem là quan
trọng. Kỳ gian thể lệ có khinh có trọng, có giản có phiền, trước sau hoặc có khác nhau, không thể
không cho biết rõ.[8]

Khi mới được độc lập, vua nước ta đời Đinh, Lê chỉ được phong là Giao chỉ quận vương, cuối đời Lý
mới được phong An Nam quốc vương.
Năm Thiên-cảm-chí-bảo thứ 2 [1175] (ngang với năm Thuần-hy thứ 2 nhà Tống), nhà Tống phong
vua làm An-nam quốc vương. Bấy giờ sứ nước ta tự xa đến sính, vua Tống rất vui lòng, lại cho là vua
được phong nối ngôi đã lâu ngày, biệt đãi bằng lễ khác thường, bèn chiếu cho các quan bàn bạc điển
cố về việc cho tên nước mà tâu lên. [Vua Tống] đặc cách cho tên là An-nam quốc, ban ấn vàng quốc
vương. Nước ta xưng là An-nam bắt đầu từ đấy.[9]

Khi nhà Tống sắp sửa diệt vong, nhà Nguyên đang mạnh, không đợi nước ta cầu xin, cả hai triều
đình nhà Tống và nhà Nguyên đều cho người sang phong cho vua Trần Thánh Tông làm An-nam
quốc vương. Phan Huy Chú nhận định rằng:

Các vua nhà Trần được nhường ngôi, chưa từng cầu phong ở Trung-quốc. Nhân-tông được lập, nhà
Nguyên thường cho sứ sang trách là không xin mệnh mà tự lập, dụ vào chầu, nhưng Nhân-tông
không nghe, cho nên Nguyên Thái-tổ chứa giận đã lâu, bèn muốn sinh sự. Năm ấy [tức là năm
Trùng-hưng thứ 2,1286] muốn đưa Trần Ích Tắc về nước không được, mới đem quân xâm lược,
nhưng rốt cuộc bị thua. Vì nhà Nguyên rất bất bình với nhà Trần, cho nên về sau dù có sính sứ đi lại,
mà lễ sách phong suốt đời nhà Nguyên không thi hành nữa.[10]

Khi nhà Minh mới lập, vua Trần Dụ Tông sai sứ sang Trung Hoa, sau đó Minh Thái Tổ cho thị độc
học sĩ Trương Dĩ Ninh và điển tịch Ngưu Lượng sang phong cho vua Trần làm An Nam quốc vương,
ban cho quả ấn bằng bạc mạ vàng, núm hình lạc đà nhưng sứ giả chưa đến thì nghe tin vua Dụ Tông
mất nên lại trở về.

Sang đời Lê, sau khi đánh đuổi được giặc Minh, Lê Lợi giả lập Trần Cảo làm vua dâng biểu cầu
phong, nhà Minh không thuận nên lại phải gửi thư trần tình và xin nạp người vàng thế thân. Vua
Minh bằng lòng sai Lý Kỳ mang chiếu dụ và sắc phong Trần Cảo làm An Nam quốc vương.

Sau khi Trần Cảo qua đời [1428], Lê Lợi trình rằng con cháu nhà Trần không còn ai để xin phong
vương nhưng mãi đến 3 năm sau [1431] mới được nhà Minh mang ấn sang cho “quyền thự An
Nam quốc sự” nghĩa là chỉ tạm thời trông coi việc nước mà thôi. Phan Huy Chú nhận xét:

Buổi đầu nhà Lê, sau khi đã bình giặc Ngô, chưa tiện nói rõ cầu phong, bấy giờ phải quyền nghi cho
xong việc, cho nên trước hết giả lập con cháu họ Trần, dùng lời nói dịu dàng mềm dẻo để nhà Minh
thôi việc binh mà nhận việc hoà hiếu. Đến khi Trần Cảo đã chết mới lại một phen bày tỏ, nói rõ cầu
phong, thế mà vua Minh hãy còn lần lữa chưa cho trải ba năm mà mới cho tạm quyền việc nước,
chưa chính thức phong vương vị. Như thế cũng đủ thấy sự thể bấy giờ là khó.[11]

Năm 1434, vua Lê Thái Tông sai sứ sang báo tang vua Thái Tổ nhưng nhà Minh cũng vẫn chỉ phong
cho vua Lê làm “quyền thự quốc sự”. Đến năm 1443, sau khi vua Thái Tông mất, nhà Minh khi đó
mới chính thức phong cho vua Lê Nhân Tông làm An Nam quốc vương. Từ đó về sau các vua nhà Lê
đều được phong làm quốc vương.

Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi, truyền đến đời cháu là Mạc Phúc Hải, năm Gia Tĩnh 19 (1540) nhà
Minh thuận cho đầu phục nhưng không phong vương mà chỉ cho làm An Nam đô thống sứ, đổi nước
ta thành đô thống sứ ti coi như một phần đất nội thuộc. Đô thống sứ ti là chức vụ ngang hàng tòng
nhị phẩm nhưng được thế tập, ấn bằng bạc. Mạc Đăng Dung phải dâng cho nhà Minh bốn động Tê
Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát thuộc về Khâm Châu và bảy châu Quảng Lăng và các trại Hồng Y và
những nơi phụ cận thuộc về Vân Nam cùng đúc người vàng thế mạng. Trong tờ chiếu của vua Minh
Thế Tông có đoạn như sau:

[…] Đất An-nam nhà ngươi, ở cõi Nam xa, đời đời chức cống, nhưng gần đây không đến triều cống,
trẫm đã xét ra duyên do tội đó là ở ông ngươi là Đăng Dung, cho nên đã phái quan sang khám xét và
đánh dẹp. Vì ông ngươi đã biết ăn năn sửa lỗi, dâng biểu xin hàng, nhận tội tự tiện truyền nối, xin
hiến đất và dân, để tuỳ lệnh triều đình phân xử. Thượng thư Mao Bá-ôn tâu báo, Binh bộ đã họp bàn
và đề thỉnh nói rằng ông ngươi là Đăng Dung đã biết sợ oai xin hàng và thực tình đợi tội. Trẫm trên
thể theo đức hiếu sinh của thượng đế, dưới thuận theo tình muốn yên của nhân dân, tha cho hết cả
mọi tội, nhưng bỏ quốc hiệu và tước vương, cho chức Đô thống sứ, và ấn bạc nha môn tòng nhị
phẩm để theo chính sóc và giữ triều cống, con cháu được nối đời giữ đất…[12]

Tới năm Vạn Lịch 25 (1597) khi vua Lê Thế Tông đã dẹp được nhà Mạc mới sai Phùng Khắc Khoan
sang xin phong vương, biện bạch mãi nhưng cũng chỉ được phong làm An Nam đô thống sứ, ban cho
ấn bạc mang về nước. Trải qua các đời vua Thế Tông, Kính Tông, Thần Tông đều chỉ được ban cho
chức Đô thống sứ. Mãi đến năm 1647, khi nhà Minh bị quân Thanh đánh bại phải chạy về Vân Nam,
cần nương cậy vào nước ta thì mới phong cho vua Lê Chân Tông làm An Nam quốc vương rồi sau đó
lại phong cho chúa Trịnh Tráng làm An Nam phó quốc vương đại nguyên soái tổng quốc chính
Thanh vương.[13] Phan Huy Chú nhận xét rằng:

Nhà Lê buổi đầu trung hưng cầu phong vương luôn luôn mà nhà Minh chưa cho. Đến đây nhà Minh
đã phong quốc vương, lại có mệnh phong phó quốc vương và phụ chính vương cho Trịnh, sứ giả
sách phong sang luôn không ngớt, so với trước thực khác hẳn. Đó là bởi bấy giờ nhà Minh phải chạy
về phương Nam, sự thế cùng quẫn, muốn cầu cứu ở nước ta, sớm chiều mong mỏi, cho nên ân mệnh
ban nhiều, không ngại gì phiền nhảm. Nay cứ đọc tờ cáo sách cũng có thể tưởng tượng biết được
tình trạng đó, mà vận hội thịnh suy của nhà Minh, cũng thực đáng than.[14]

Khi nhà Thanh lấy được trung nguyên, đời Thanh Thuận Trị có đưa sắc thư sang dụ nước ta nạp ấn
sắc nhà Minh ban cho nhưng lúc ấy vua Lê mới được nhà Minh phong vương nên không nhận. Khi
nhà Minh hoàn toàn bị diệt, nước ta mới đem giao nạp ấn cũ và được vua Khang Hi sai bảng nhãn
Trình Phương Triều và hoàng giáp Trương Dịch Bí sang phong cho vua Huyền Tông làm An Nam
quốc vương, ban cho ấn bạc mạ vàng, làm lễ ở kinh đô (1667).
Năm Quí Hợi (1683), vua Khang Hi sai Ô Hắc và Chu Xán sang phong cho vua Hi Tông làm An Nam
quốc vương, lại ban cho bốn chữ ngự bút đại tự “Trung Hiếu Thủ Bang” (忠孝守邦) để ban khen.

Lễ nghi nước ta tuy cũng có tham bác điển lệ nhà Thanh để hai bên không lệch nhau nhưng có qui
định riêng cho đúng thể thống. Nhà Thanh đặt trọng tâm vào việc phải đón rước bất cứ những gì
được ban cho như chính hoàng đế ở trước mặt nên phải làm lễ “tam quị cửu khấu” là lễ triều kiến
nhà vua. Ngoài ra, mỗi hành động, mỗi giai đoạn đều có qui luật sao cho đúng với điển lệ không thể
sai sót. Dưới triều Lê hai bên đã tranh biện nhiều lần về thể thức, có khi tranh cãi đến hàng tháng
vẫn chưa đi đến thoả hiệp.[15]

Về việc này sử Trung Hoa chép:

Vua Càn Long nghe thế rất khó chịu nói rằng: “An Nam nhiều đời là thuộc quốc, mỗi khi gặp sứ thần
của triều đình đến sách phong thì phải tuân theo lễ ba quì chín rập đầu, có điều vua nước kia quen
thói nước nhỏ kiến thức thô lậu … là ngoại phiên không biết thể chế, vậy bộ thần [quan bộ Lễ] phải
dự bị mà bảo cho biết trước để về sau khi có việc sách phong cho An Nam thì đem điển lễ phải làm
gì, cái nào trước cái nào sau nghi tiết quì lạy cho chánh phó sứ biết để mãi mãi từ nay tuân
hành.”[16]

Nghi lễ triều Tây Sơn

Trước khi cử phái đoàn sang nước ta, quan nhà Thanh gửi thư hỏi thủ tục nghi lễ nước ta thế nào, và
triều đình Tây Sơn trả lời như sau:

Trước đây chúng tôi có nhận được trát sức cho bản quốc tra chiếu điển lễ sách phong và chương
trình đón tiếp các loại sự nghi gửi triệp bẩm lên để đưa tới đài chế hiến tra xét.
Theo như thế chúng tôi kê cứu rõ ràng. Điển cố bản quốc từ khi binh lửa về sau không còn gì nữa.
Duy có năm Tân Tị (Càn Long 26, 1761), khâm phụng sắc phong cho vua Lê trước đây là Duy Đoan
thì điển lễ còn có thể khảo được 1, 2 phần…[17]

Năm Nhâm Ngọ Càn Long 27 (1762), vua Thanh sai sứ thần là Đức Bảo và Cố Nhữ Tu sang sách
phong cho Lê Duy Đoan (tức vua Hiển Tông) làm An Nam quốc vương. Nước ta xin được làm lễ “ngũ
bái sự thiên”[18] (五拜事天- năm vái thờ thiên tử) để thay cho lễ tam quị cửu khấu (三跪九叩)
nhưng sứ nhà Thanh không đồng ý.

Nguyên từ năm Canh Thân (1740), Trịnh Doanh ép vua Ý Tông truyền ngôi cho cháu là vua Hiển
Tông để lên làm Thái Thượng Hoàng nhưng đến năm Kỷ Mão (1759), thượng hoàng Ý Tông mất mới
sai Trần Huy Mật và Lê Quí Đôn sang tiến cống và cáo ai để xin phong vương cho vua Hiển Tông.
Thành thử khi được phong vương thì vua Lê đã lên ngôi hơn 20 năm rồi.[19]

Tính đến năm Kỷ Dậu (1789), tài liệu này là điển lệ gần nhất được dùng làm nghi thức tham chiếu và
chuẩn bị cho nghi lễ phong vương cho vua Quang Trung. Tuy mấy tháng trước đây, Tôn Sĩ Nghị có
làm lễ phong vương cho vua Chiêu Thống nhưng chỉ làm cho có lệ để báo cáo về triều đình nên
không theo điển cũ.

Theo như thế, điển lễ nước ta mỗi kỳ lại thay đổi nên Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích phải soạn
thành chương trình mới để gửi lên cho Phúc Khang An. Chúng ta cũng có thể đoán được đại lễ
phong vương soạn minh bạch và ghi lại chi tiết trên giấy trắng mực đen trong Đại ViệtQuốc Thư là
do hai ông Phan, Ngô đã châm chước những tài liệu cũ mà biên soạn cho đầy đủ. Việc này cũng cho
chúng ta biết điển lễ được biên chép cho rành mạch thành nguyên tắc là từ đời Tây Sơn, sau đó đời
Nguyễn kế thừa di sản này qua công trình của hai họ Phan Huy, Ngô Thì. Vì nước ta là thuộc quốc,
việc ghi chép chú trọng vào đón tiếp cung ứng sao cho phải đạo, còn nghi lễ thường phải tuỳ thuộc
vào sứ thần và đòi hỏi của Trung Hoa như GS Hoàng Xuân Hãn nhận xét.

Sứ thần Trung Hoa sang phong vương khi trở về đều ghi lại chi tiết và hành trình để tâu lên vua
Thanh, nước ta cũng có khi tường thuật nhưng không mấy tỏ tường, thường nặng về tranh biện
ngoại giao và thơ văn xướng hoạ. Dựa theo điển lệ và những công văn còn lưu lại, việc phong vương
năm Kỷ Dậu đánh dấu một thịnh sự của nước ta.

Phân phối và điều động nhân sự

Chính vì đặt nặng vấn đề tiếp đón nên nhiều trọng điểm ngoại giao không được quan tâm, hậu nhân
khó có thể biết được lập luận của người xưa như thế nào về những việc hai bên không đồng ý. Điều
may mắn cho người nghiên cứu là chính Phan Huy Ích lại trông coi việc giao thiệp với nhà Thanh
đầu triều Nguyễn vốn căn cứ vào các cuộc tiếp sứ đời Lê, đời Tây Sơn nên chúng ta có thể dựng lại
khá rõ ràng về tổ chức mặc dầu không nhiều về sự kiện. Cứ như các công văn qua lại trong Đại Việt
Quốc Thư chúng ta biết được việc phân phối nhân sự đại lược như sau:

Trong khi tiến hành đại lễ phong vương, vua Quang Trung tuy có qua lại giữa các trung tâm Phú
Xuân, Nghệ An và Thăng Long nhưng phần lớn ông lưu ngụ tại Nghệ An là kinh đô mới chọn và đang
xúc tiến việc xây dựng thành quách, cung điện. Khi mới lên ngôi, vua Quang Trung có sử dụng một
số văn quan đóng vai trò cố vấn trong đó Nguyễn Thiếp chuyên về phong thuỷ, đạo thuật liên quan
đến kiến trúc tân đô ở Nghệ An, Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích lo việc từ hàn giao thiệp với Trung
Hoa ở Thăng Long còn Trần Văn Kỷ lo việc nội trị và hành chánh chủ yếu ở Phú Xuân.

Trước đây, GS Hoàng Xuân Hãn – dựa trên vài lời khen ngợi trong một số văn thư – có khuynh
hướng cho rằng Nguyễn Thiếp là cố vấn cho vua Quang Trung về sách lược [một mẫu hình quân sư
trong tiểu thuyết chương hồi], nhưng cũng chỉ là suy đoán, không có chứng cớ gì rõ rệt. Xét trên tài
liệu còn để lại, Nguyễn Thiếp không hẳn đã thân cận hơn Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Vũ Huy Tấn
… nên những gì đề cao xem ra chỉ là những văn sức ngoại giao thường thấy trong thư từ ngày trước.

Theo sử triều Nguyễn và nhiều chi tiết trong gia phả họ Phan, vua Quang Trung uỷ nhiệm toàn
quyền về liên lạc với nhà Thanh và điều động nhân sự trong đại lễ phong vương cho hai ông Ngô Thì
Nhậm[20] và Phan Huy Ích.[21] Đại Việt Quốc Thư cũng còn một lá thư Ngô
Văn Sở gửi cho Ngô Thì Nhậm bằng chữ nôm như sau:

大都督振郡公肅詞于吏部左侍郎晴派侯照灼。自忝職回朝奉侍。如役使内地。饒柬扎往復。具賢侯
啟禀時忝㐌面奏德皇上御覽耒。吏判咧賢侯。忝㐌群當朝直。雙貞役使內地貝謁望賢侯。
丕沛敬修夬扎。以德聊情。如例役内地固柬牒之。賢侯沛朱歇飭。善於辭命。可經則經。可權則權。
爫牢濟國事。時賢侯料理朱十分穩當。耒遲急蔑。忝職拱羅妬同憂國事。關山萬里心事半箋兹詞。
光中二年七月十七日。

Đại đô đốc Chấn Quận Công kính gửi đến Lại Bộ Tả Thị Lang Tinh Phái Hầu được rõ:
Từ khi thiểm chức về triều phụng thị, những việc lo liệu cho sứ thần nội địa, thư từ qua lại và những
điều hiền hầu khải bẩm thì thiểm chức đã diện tấu hoàng thượng ngự lãm rồi.
Hoàng thượng lại ban lời hiền hầu, vì thiểm chức còn đương chầu chực nên riêng việc lo liệu cho sứ
thần nội địa thì trông vào hiền hầu cả.

Vậy phải kính sửa giấy trát lấy đức liệu tình, như rầy [từ nay] việc nội địa có thư từ đưa sang, hiền
hầu phải cho hết sức, khéo ở từ mệnh, cần kinh thì kinh, cần quyền thì quyền. Làm sao xong việc
nước thời hiền hầu liệu lý cho thập phần ổn thoả, rồi sớm muộn độ một hai tháng, thiểm chức cũng
ra đó cùng lo quốc sự. [22]

Quan san vạn dặm, tâm sự bán tiên, nay có mấy lời.
Quang Trung năm thứ hai, ngày mười bảy [17] tháng Bảy.[23]

Theo phối hợp hàng ngang, Ngô Thì Nhậm ở lại Thăng Long lo chuẩn bị nghi lễ ở Lễ Bộ Đường trong
kinh thành và trạm đón khách ở Kiên Nghĩa Đình[24] ở bờ sông Nhĩ Hà [còn gọi là Phú Lương
giang]. Phan Huy Ích lo liệu việc tiếp đón phái đoàn Thành Lâm ở Nam Quan rồi cùng đi từ Lạng Sơn
về kinh đô. Về hàng võ, tại Thăng Long có đại tư mã Ngô Văn Sở (tước Chấn Quận Công), nội hầu
Phan Văn Lân (tước Mưu Lược Hầu) cung ứng nhân sự, vệ sĩ và binh mã.

Trong dịp này, triều đình Quang Trung cũng lập riêng một bộ lấy tên lả Sách Phong Bộ (Đại Việt
Quốc Thư, tr. 226), một dạng cơ quan đặc nhiệm nhằm phối hợp và điều động văn võ các cấp từ
trung ương đến địa phương để lo công việc này từ lúc chuẩn bị cho đến khi hoàn tất. Theo các văn
thư trong Đại Việt Quốc Thư thì hai người được coi như chủ trì là Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm mặc
dù sau này vua Quang Trung có sai Nguyễn Quang Thuỳ thay mặt quốc vương ra Thăng Long đón
các sứ thần thì tuy là người đứng đầu mọi sự nhưng chỉ trên danh nghĩa.

HOÀNG THÀNH THĂNG LONG

Tháng Tám năm đó, trung thư tỉnh lại Nguyễn Chí gửi văn thư cho các huyện Cẩm Giang, Đường An,
Đường Hào triệu tập các quan văn võ cựu triều như Nguyễn Đình Huấn, Nguyễn Đình Bưu, Ngô
Trọng Cẩn, Nguyễn Thực Uyên, Lê Hữu Thể phải chuẩn bị áo mũ đến ứng trực ở kinh đô để diễn tập
nghi lễ. Những quan văn phải mặc áo thanh cát (áo dài màu xanh đen), khăn đội đầu (lương cân) và
giày vớ là y phục khi vào chầu trong phủ chúa trước đây. Những chi tiết đó cho thấy y phục và đội
ngũ nghinh đón sứ thẩn theo lễ nghi nước ta cũng không khác gì các đời trước. GS Hoàng Xuân Hãn
chép về nghi lễ tại hoàng cung trong kỳ tiếp sứ năm Quí Hợi (1683) như sau:

… Ngày 15 (tháng Mười) các quân bộ và thủy dàn bày trận theo đồ thứ. Hai bên đường sứ đi, bày
lính, voi, long kỳ, ngũ kỳ và vải mầu. Từ cửa Tam môn trở vào, thì dùng áo và mũ bằng nỉ đỏ; từ
ngoài cửa Tam môn trở ra thì dùng áo vải cát bá xanh và mũ nỉ đỏ. Các quan quản binh thì từ thự vệ
trở lên đã có phẩm phục, còn những người hầu nội điện từ tả hiệu điểm trở xuống thì mặc áo mũ cát
bá xanh, để đứng sắp hàng.

Trong điện Kính thiên có 180 lính đứng chực… Đứng đầu về phía nam thì có các quan Đề đốc quận
công và Tham đốc quận công. Trên sân điện Kính thiên, có 560 lính đứng hai bên, mỗi bên 4 hàng…

Trong sân điện Thị triều có 760 lính đứng hai bên, mỗi bên 4 hàng… Trong sân cửa Đoan môn có
1064 lính đứng hai bên, mỗi bên 4 hàng … Trong sân điện Triều nguyên có 792 lính đứng 2 bên, mỗi
bên 3 hàng.

Từ cửa Tam môn đến cửa Đại hưng, bộ binh sắp hàng hai bên đường, mỗi bên hai hàng. Từ cửa Đại
hưng đến dinh Tá lý ở Cấm chỉ cũng vậy. Từ Cấm chỉ đến Hàng Vải dàn 15 cơ đội bộ binh. Từ Ngã ba
Hàng Vải đến sông bến Chùa Mọc dàn 27 cơ đội thủy binh.

Cắt 60 quân đội Tả xa và Hữu xa để giữ ba cửa: Đoan môn, Tam môn và Đại hưng, mỗi cửa 20 người
đứng hai phía tả hữu ở trong và ngoài cửa.[25]

Xét như thế, việc bài trí, bài binh trong kỳ phong vương cho vua Quang Trung chắc cũng tương tự vì
chiếu theo cách thức đón tiếp đời Lê.

Theo Đại Việt Quốc Thư, Thận Đức Hầu (không rõ tên, có lẽ là đô đốc Nguyễn Văn Thận, trấn thủ
Nghệ An) được lệnh vẽ bản đồ đường đi từ đình Kiên Nghĩa “theo bờ sông vào cửa Ô Môn đến hàng
Mắm, qua hàng Buồm, xuống hàng Áo, đến hàng Đào, rẽ ra hàng Túi, qua ngã ba hàng Gương lên chợ
huyện, qua Cẩm Chỉ lên đình Quảng Văn vào cửa Vò Vò lên nội điện”[26]

Trong hoàng thành Thăng Long, ngoài điện Kính Thiên là nơi làm đại lễ phong vương còn có điện
Cần Chính [ở trước điện Kính Thiên] và điện Tiếp Thụ là nơi các sứ thần và phái đoàn ngừng lại.
Theo lệ, sứ giả nhà Thanh tới Nam Môn thì những người đi theo xuống ngựa tới bên ngoài cửa Đông
Trường An thì khâm sứ xuống kiệu, vua nước ta đón vào điện Kính Thiên.

Theo Đại Việt Quốc Thư, ngay giữa điện Kính Thiên là nơi để long đình, trước long đình bày hương
án, dưới đất trải chiếu hoa cạp điều. Vua Quang Trung sẽ làm lễ ở trước hương án, dưới lót nan tre
trải chiếu hoa cạp điều loại tốt.

Khâm sứ nhà Thanh sẽ đứng phía bên trái hương án chếch về hướng bắc, còn nhà vua đứng ở phía
bên phải hương án [cùng đều trải chiếu hoa cạp điều loại tốt].
Lại bộ tả thị lang Tinh Phái Hầu (tức Ngô Thì Nhậm) và lang trung bộ Hộ Liên Phong Bá (không rõ
tên) hai người đảm trách nhiệm vụ sắp xếp và bố trí mọi việc. Chúng ta thấy trong nghi lễ sách
phong những nhân vật sau đây được điều động tại bộ Lễ:
Đảm trách Số Nhân vật Chức vụ
lượng

Đổng cán
quan
董幹官 2 người Ngạn Đức Hầu [岸德侯] Chỉ huy

Long Ngọc
Hầu [龍玉侯] Cai cơ

Tuỳ đổng cán 1 huyện Thọ Xương [壽昌] Huyện

Cựu thiêm chi hộ


Hầu tiếp 1 người Ngô Thản Quì [吳坦逵] phiên

Kiên Trung Bá Nguyễn


Cựu Lễ bộ câu
Quốc Khuể
kê[27]khâm thủ
Thư ký 1 người [堅忠伯阮國] mật sự
Thành Thăng Long theo Hồng Đức Bản Đồ[28]
Kinh thành nhà Lê (tức Thăng Long)
Tiền Lê Nam Việt Bản Đồ Mô Bản (前黎南越版圖摹本)

Số
Nhiệm vụ Quan chức lượng Ghi chú
Điển Nghi Thượng
Cảnh Đức Hầu
(trông coi thư Bộ
mọi nghi lễ) 典儀 [璟德侯] 1 Hộ

Xuyên Trạch
Tuyên Sắc Tham
(đọc tờ sắc) 宣勅 Hầu [川澤侯] 1 mưu

Phó Tri
Luận Chính Hình
Hầu [論政侯] Phiên
Phó Tri
Khánh Trạch
Triển Sắc Hình
(mở tờ sắc) 展勅 Hầu [慶澤侯] 2 Phiên

Thụ Sắc Phó Tri


Luận Chính
(nhận tờ Hình
sắc) 受勅 Hầu [論政侯] 1 Phiên

Ngôn Thuận Phó Tri


Hầu [言順侯] Hộ
Nội Tán Phiên
Giới Đức Hầu
(xướng lễ Tham
trong điện) 內賛 [界德侯] 2 mưu

Củ Nghi
(kiểm soát
nghi lễ để
chỉnh sửa
nếu sai) 糾儀 8

(kiểm soát Hộ Bộ
Khánh Xuyên
xem có ai Chính Củ Tả Thị
lầm lỗi) Nghi Hầu [慶川侯] 1 Lang

Đồng Củ
Nghi 7

Nghị Thành
Hầu [誼誠侯] Cai Bạ[29]

Nghi Lễ Hầu
[儀禮侯] Cai Bạ

Lãng Nhuận
Lại Bộ Lang
Bá [朗潤伯] Trung

Hộ Bộ Lang
Liên Phong Trung
Bá [蓮峯伯]

Phượng Hoa
Binh Bộ Lang
Bá [鳳華伯] Trung

Hồng Liệt Bá
Hình Bộ Lang
[洪烈伯] Trung

Ninh Phái Bá
Lại Bộ Viên
[寧派伯] Ngoại Lang

Ngoại Tán
(xướng lễ
ngoài sân
còn gọi là
thông tán) 外賛 8

Hộ Bộ
Viên
Thanh Phái
Ngoại
Bá [清派伯] Lang

Binh
Bộ
Viên
Gia Đình Bá
Ngoại
[嘉亭伯] Lang

Hình
Bộ
Viên
Từ Xuyên Bá
Ngoại
[慈川伯] Lang

Công
Bộ
Viên
Đức Xuyên
Ngoại
Bá [德川伯] Lang

Cựu
Nguyễn
Tri
Trước [阮著] Phủ

Cựu
Nguyễn Gia
Trúng
Trữ [阮嘉竚] thức
Cựu
Nguyễn Gia
Tri
Tuy [阮嘉綏] Huyện

Nguyễn
Hoành
Giám
[阮宏] Sinh

điện kính thiên và điện cần chính [敬天勤政殿]


Địa Nhiệm Số
điểm vụ Quan chức lượng Ghi chú

Điện
Kính
Thiên
và Hoà Đức Hầu [和德侯]
điện Bài trí Tham luận
Thanh Xuyên Bá
Cần khâm Lễ bộ lang
Chính tiếp [青川伯] 2 trung

Số
Đảm trách lượng Nhân vật Chức vụ

Đổng cán
quan Ngạn Đức Hầu
董幹官 2 người [岸德侯] Chỉ huy

Long Ngọc
Hầu [龍玉侯] Cai cơ

Tuỳ đổng cán 1 huyện Thọ Xương [壽昌] Tri huyện

Ngô Thản Quì Cựu thiêm chi hộ


Hầu tiếp 1 người [吳坦逵] phiên

Kiên Trung Bá
Cựu Lễ bộ câu
Nguyễn Quốc Khuể
kê[30] khâm thủ mật
Thư ký 1 người [堅忠伯阮國] sự

Tên Chức vụ Xã Huyện

Sơn Minh
Cựu tham
Nguyễn Bá Sai [阮伯晐] nghị Cao Lãm [高覽] [山明]
Nguyễn Duy Hinh Tả Thanh Oai Thanh Oai
Cựu tri
[阮惟馨] huyện [左青威] [青威]

Thượng
Cựu tri
Lê Trần Hạo [黎陳灝] phủ Nhị Khê [蘂溪] Phúc [上福]

Nguyễn Huy Quýnh Hoà Triền Thạch Thất


Cựu giám
[阮輝泂] sinh [禾廛] [石室]

Hoà Triền Thạch Thất


Cựu giám
Chu Duy Trọng [周惟重] sinh [禾廛] [石室]

Hoàng Nguyễn Tuyển Lôi Trạch Thạch Thất


Cựu giám
[黄阮選] sinh [雷澤] [石室]

Tường Diễm Thạch Thất


Cựu giám
Kiều Văn Chí [喬文致] sinh [祥晱] [石室]

Khuất Đôn Hiếu Tường Diễm Thạch Thất


Cựu giám
[屈惇孝] sinh [祥晱] [石室]

Thạch Thất
Cựu giám
Đỗ Toản [杜鑽] sinh Canh Lậu [耕] [石室]

Nguyễn Duy Cự Nguyễn Xá Thạch Thất


Cựu giám
[阮惟岠] sinh [阮舍] [石室]

Cung Thận Thạch Thất


Cựu giám
Nguyễn Trù [阮璹] sinh [恭慎] [石室]

Kiên Nghĩa Đình theo miêu tả thì ở tả ngạn sông Nhĩ Hà rồi từ đó xuống đò qua sông mới vào hoàng
thành. Theo Đại Việt Quốc Thư người trông coi chịu trách nhiệm ở Kiên Nghĩa Đình là đô đốc Đông
Lĩnh Hầu (Đặng Tiến Đông?) có đô chỉ huy sứ Diên Xuyên Hầu phụ tá.
Đảm trách Số lượng Nhân vật Chức vụ

Đổng lý quan Đông Lĩnh Hầu


Đô đốc,
董理官 2 người [東嶺侯] đổng lý

Đô chỉ huy
Diên Xuyên Hầu
sứ, phó
[延川侯] đổng lý

2 tri
Tuỳ đổng lý 1 huyện Quảng Đức [廣德] huyện
Đức Phong Bá Nguyễn
Đề
Cựu lang
Hầu tiếp 2 người [德峯伯阮偍] trung

Trần Quang (Huy?)


Lịch
Cựu tri
[陳光爏] phủ

Hồ Trung Hầu
Thị nội
Thư ký 1 người [胡忠侯] mật sự

Gia Trung Bá Nguyễn


Khắc Gia
Hộ bộ câu
Đồng thư ký 1 người [嘉忠伯阮克嘉] kê

Hiến Trung Hầu Hoàng (cựu)


Trọng Hiến Binh bộ ti
[獻忠侯黄仲獻] lại
Hộ bộ ti
Tuỳ thư ký 2 người Vũ Tá Quỹ [武佐揆] lại

Trấn Kinh Bắc khi đó do trấn thủ Tân Nhuận Hầu Nguyễn Văn Thường và hiệp trấn Giảng Đức Hầu
Hoàng Công Phương trấn nhậm. Kinh Bắc từ nam lên bắc bao gồm các công quán là Gia Quất [嘉橘],
Lã Khôi [呂瑰], Thị Cầu [巿梂], Thọ Xương [壽昌], Cần Doanh [芹營], Tiên Lệ [先麗].

Các
huyện
phụ
trách
Công cung Ghi
quán đốn chú


thêm 3
huyện
Lương
Tài
[良才],
Yên
Phong
[安豊],
Kim
Hoa
Gia Võ
Quất 嘉橘 Gia Lâm 嘉林 Giang 武江 [金華]
vì sứ
thần ở
lại
thêm
nhiều
ngày

Lã Đông Văn
Khôi 呂瑰 Ngạn 東岸 Giang 文江

Thị Siêu Tiên


Cầu 市梂 Loại 超類 Du 僊遊

Thọ Quế Tiên


Xương 夀昌 Dương 桂陽 Phúc 先覆

Cần Yên Hiệp


Doanh 芹營 Dũng 安勇 Hoà 洽和

Bảo
Tiên Lệ 先麗 Yên Thế 安世 Lộc 保祿
Công quán Gia Quất

Gia Quất thuộc huyện Gia Lâm trấn Kinh Bắc là nơi gần kinh đô nên cũng đặc biệt quan trọng trong
việc cung ứng và hầu tiếp.
Nhiệm Quan Số
vụ chức lượng Ghi chú

Đổng
Cán
Quan Quí Ngọc Bá [貴玉伯]
董幹官 Cai Cơ 1 (Hầu?)
Xuân Lãnh Bá [椿嶺伯]
Hiệp
Nguyễn Duy Xuân
Đổng Cựu Võ
Cán Ban 1 [阮惟椿]

Nghi Lễ Bá [儀禮伯]
Câu Kê Thuỵ Đức Tử [瑞德子]
Cai Liên (Tuân?) Tài Tử
Hợp[31] [連才子]
Tuỳ Thủ
Cận (Tiến?) Đức Tử
Đổng Hợp[32] Công
Cán Thủ Hợp Bộ 4 [近德子]

Gia Lâm
[嘉林]
Võ Giang
[武江] quan huyện (phân tri và
phân suất)
Lương quan huyện (phân tri và
Tài phân suất)
[良才] quan huyện (phân tri và
An Phong 2 phân suất)
[安豊] 2 quan huyện (phân tri và
2 phân suất)
Kim Hoa
5 2 quan huyện (phân tri và
Tuỳ sai [金華] huyện 2 phân suất)

Ti Lại Lê Đình Nghi [黎廷儀]


Nghi Nguyễn Đức Trừu
Trung [阮德抽]
Trừu
Trung Tiêu Trung Tử [標忠子]
Ti Lại Hình Điều Trung Tử [條忠子]
Cai Hợp Bộ
Tân (Thực?) Trung Tử
Cai Hợp Công 2
Tuỳ sai Thủ Hợp Bộ 3 [賓忠子]

Đề đốc
Cựu trợ Học Nguyễn Đường [阮棠]
giáo chính Nguyễn Hiến [阮憲]
Cựu Quốc
Nguyễn Quốc Ninh
Hầu trúng Tử
tiếp thức Giám 3 [阮國寧]

Câu Kê
Tích Thiện Bá Đào Kim
Khâm
Thự
Thủ Mật
Thư ký Sự 1 [積善伯陶金曙]
Vân Trung Tử Hoàng Huy
Vân
[雲忠子黃輝雲]
Uẩn Trung Tử Hoàng Đức
Uẩn
Tuỳ Ti Lại Hộ Bộ
thư ký Ti Lại Hộ Bộ 2 [蘊忠子黃德蘊]
Công quán Lã Khôi
Nhiệm Số
vụ Quan chức lượng Ghi chú

Tân Nhuận Hầu


Đổng lý 1 [賓潤侯]

2 huyện
Đông Ngạn
[東岸] quan huyện (phân tri
và phân suất)
Văn Giang
2 quan huyện (phân tri
Tuỳ sai [文江] 2 và phân suất)

Hiệp
với Nguyễn Đăng Hiệu
quan [阮登校]
huyện Phạm Hữu Toại
thi Câu Kê Bộ Lại [范有遂]
hành Câu Kê và Bộ
công vụ Thủ Hợp Công 3 Đào Phan Ánh [陶潘映]

Kiện Trung Bá Phạm


Kiện
[徤忠伯范徤]
Cảo Trung Bá Lê Thế
Cảo
Thư Ký Câu Kê Bộ Hộ 2 [黎世縞]
Ngoà dụng hai danh sách trên, Đại Việt Quốc Thư cũng có đề cập cựu tri huyện Phạm Hữu Độ và cựu
nho sinh trúng thức Lưu Trần Dung điều động dưới danh nghĩa trưng sĩ [nhà nho được vua vời
ra].[33]
Công quán Thị Cầu
Nhiệm Quan Số
vụ chức lượng Ghi chú

Đổng lý 1 Tân Nhuận Hầu [賓潤侯]

2 2 Huyện quan (phân tri và phân


Tuỳ sai huyện 2 suất)
Siêu Huyện quan (phân tri và phân
Loại suất)
[超纇]
Tiên
Du
[仙遊]

Hiệp với huyện quan tuỳ hành


Thủ công vụ
hợp Đào Nhữ Đông [陶汝東]
Thủ Bộ
Ti lại hợp Binh 2 Nguyễn Thọ Vực [阮壽域]

Cựu ti
vụ
Cựu Trịnh Quí Thịnh [鄭貴晟]
Hầu huấn Bộ
tiếp đạo Công 2 Nguyễn Mậu [阮茂]

Ti lại
Thư ký Trung Phạm Đình Dục [范廷煜]
Sai từ Thư Bộ
các loại tỉnh lại Hộ 2 Nguyễn Đình Chí [阮廷志]
Công quán Thọ Xương
Nhiệm Quan Số
vụ chức lượng Ghi chú

Trấn
thủ
Kinh
Đổng lý Bắc 1 Tân Nhuận Hầu [賓潤侯]

2
huyện
Quế
Dương
[桂陽]
Tiên
Phúc
2 Huyện quan
Tuỳ sai [仙覆] 2 Huyện quan

Hiệp với huyện quan tuỳ


Bộ Hộ
hành công vụ
Hiệp
Trung Bá Dương Hữu Bân [楊有彬]
Ti lại Câu kê [洽忠伯] 3 Trần Đình Ban [陳廷班]
Nguyễn Lương [阮樑]

Cựu tự
thừa
Cựu Đặng Công Hạo [鄧公灝]
Hầu giám
tiếp sinh 2 Vũ Huy San [武輝珊]

Ti lại Nguyễn Khắc Nhuệ


Thư ký Trung [阮克銳]
Sai từ Thư
các loại tỉnh lại Bộ Lễ 2 Trần Đình Tại [陳廷在]

Công quán Cần Doanh


Nhiệm Quan Số
vụ chức lượng Ghi chú

Trấn thủ
Đổng lý Kinh Bắc 1 Tân Nhuận Hầu [賓閏侯]

2 huyện
Yên Dũng
[安勇]
Hiệp Hoà
2 Huyện quan
Tuỳ sai [洽和] 2 Huyện quan

Hiệp với huyện quan tuỳ


Bộ hành công vụ
Lễ Lê Đức Yên [黎德煙]
Ti lại Bộ 1
Ti lại Công 1 Vũ Trọng Hiểu [武仲曉]

Cựu tri Trương Bá Viện [張伯院]


phủ
Nguyễn Danh Diệu
Cựu tri
Hầu tiếp huyện 2 [阮名耀]

Ti lại Phạm Đăng Viên


Thư ký Trung [范登垣]
Sai từ Thư tỉnh Bộ
các loại lại Lễ 2 Bùi Xuân Tịnh [裴春並]

Công quán Tiên Lệ


Nhiệm Quan Số Ghi chú
vụ chức lượng

Trấn thủ
Đổng Kinh
lý Bắc 1 Tân Nhuận Hầu [賓閏侯]

2 huyện
Yên Thế
[安世]
Bảo Lộc
2 Huyện quan
Tuỳ sai [保祿] 2 Huyện quan

Hiệp với huyện quan tuỳ


hành công vụ
Câu kê Giám Trung Tử [鑑忠子]
Cai Bộ 1
hợp Công 1 Tiêm Trung Tử [暹忠子]

Cựu tri
huyện
Cựu nho
sinh Nguyễn Khuê [阮奎]
Hầu trúng
tiếp thức 2 Lê Đình Nghi [黎廷儀]

Trung
Thư tỉnh
Thư ký lại 1 Đỗ Đăng Thể [杜登體]
trấn lạng sơn
Lạng Sơn là cửa ngõ của nước ta giáp giới Trung Hoa, là nơi nhận tin tức để chuyển về Thăng Long.
Dịch phu 1000 người, ngựa 100 con do đô đốc Lê Xuân Tài [黎春材] tuyển mộ đưa đến cửa quan đợi
lệnh đón tiếp. Theo thứ tự từ nam lên đến cửa ải nước ta có những công quán và trạm dịch như sau:

Chi Lăng [支棱]


Nhân Lý [仁里]
Thành Đoàn [城團]
Pha Luỹ [坡壘]

Các công quán Thành Đoàn, Nhân Lý, Chi Lăng, Pha Luỹ thuộc địa phương Lạng Sơn, việc chuẩn bị
phòng ốc khí dụng các món cung đốn đều giống nhau.

Các dãy công đường thì chính giữa là một toà phương đình là nơi để bày long đình. Nơi nghỉ của
quan khâm sứ là 2 dãy, mỗi dãy 5 gian 2 chái. Hai bên tả hữu có 2 dãy nhà xuyên ra, mỗi bên 5 gian.
Nhà bếp là một dãy 5 gian, nghi môn một dãy 3 gian.
Chuồng ngựa một tàu 4 dãy, mỗi dãy 3 gian. Chuồng xí 4 nơi, mỗi nơi một gian. Chung quanh có rào
thưa và rào mau đều theo lệnh mới làm.

Khí dụng các món đợi đưa lên công đường hai vị khâm sứ đại nhân.
Số
Loại lượng Ghi chú

Công
đường
hai vị
khâm sứ

Giường 床 12 cái

Ghế ngồi 坐椅 4 cái

Bàn 卓子 4 cái

Chiếu tre 竹笆 40 cái

Mâm lớn 大盤 20 cái

Khay trà 茶盤 20 cái

Nồi gang
lớn 大鉄鍋 40 cái

Nồi gang
vừa 中鉄鍋 14 cái

Bát lớn 大碗 200 cái

Bát vừa 中碗 200 cái

Đĩa 磁 200 cái

Chén uống
trà 茶盃 200 cái

Chén uống
rượu 酒盃 200 cái

Chiếu 席 40 đôi

Chậu rửa 洗盆 16 cái


Chân đèn 灯檠 40 cái Có cả đĩa đèn

Nến 蠟燭 20 cây

400
Đũa 箸 đôi
Các món cung đốn chờ đưa lên công đường hai vị khâm sứ đại nhân [316]
Số
Loại lượng Ghi chú

Công
đường
hai vị
khâm
sứ

Heo 猪 4 con

Ngỗng 鵝 4 con

Gà 鷄 29 con

Vịt 鴨 29 con

300
Thịt heo 猪肉 cân

700
Gạo 米 cân

Rượu 酒 8 vò

Dầu 水油 20 cân

Dấm 醋 20 cân

200
Trứng 卵 trái

Trà 茶 20 cân

Gừng 姜 10 cân
Hành tỏi 葱,菻 10 cân

Muối 壏 20 cân

40
Củi 柴薪 gánh

Cỏ cho 40
ngựa ăn 馬草 gánh

Thóc
nuôi 100
ngựa 飼馬粟子 cân
Hình 1: Trấn Lạng Sơn

Theo Đại Việt Quốc Thư, việc sắp đặt nhân sự ở cửa Nam Quan gồm có:
Trọng chức hàng võ và hàng văn (hai người)
Dũng Phái Hầu
Vũ Vĩnh Thành 武永成 [勇派侯] đô đốc

Thuỵ Nham Hầu


[Hình bộ] tả thị
Phan Huy Ích 潘輝益 [瑞岩侯] lang
Hầu mệnh [tuỳ theo việc mà ra lệnh] (bốn người)
Tô Xuyên Hầu
hiệp trấn Lạng
Lê Doãn Điều 黎允調 [蘇川侯] Sơn

Đạo Thành Hầu


chánh sứ Tạ Ân
Phan Tú Đạo 潘秀道 [道成侯] Bộ

Đào Xuân Lan 陶春蘭 Mi Xuyên Bá [湄川伯] phó sứ Tạ Ân Bộ

Đoàn Nguyễn [Hàn Lâm Viện]


Tuấn 段阮俊 Hải Phái Bá [海派伯] hiệu thảo
Ngoài ra còn có Duy Thiện Hầu Lê Nho Hứa là trấn thủ Lạng Sơn được cắt đặt đứng ngoài phái đoàn
nhưng trông coi mọi việc sắp đặt nhân sự, phương tiện cho cả phái đoàn nước ta lẩn phái đoàn nhà
Thanh.

Cửa Nam Quan thông sang nước ta


Hình chụp cuối thế kỷ XIX
Nam Quan thế kỷ XIX
Đằng trước là Ngưỡng Đức Đài và các toà nhà là chỗ ở của sứ thần
Phía Bắc là Chiêu Đức Đài

Cách 10 dặm có một thủ bị đóng quân


Những hình vẽ này trích trong
Bắc Sứ Thuỷ Lục Địa Đồ (北使水陸地圖) năm Canh Thìn (1880) đời Tự Đức

PHẦN IV Nghi Lễ Đón Tiếp

Trước đây, khi định cử một phái đoàn tiền sát, nhà Thanh theo đúng lệ chuẩn bị mọi phương tiện và
chỉ nhờ nước ta điều động một số phu phen, xe ngựa để thay thế khi mệt nhọc.Vì có sự chuyển đổi
từ một phái đoàn báo tin thành sứ thần phong vương, việc tổ chức đón rước cũng thay đổi theo, cờ
quạt chiêng trống dài đến mấy dặm.

Từ Nam Quan xuống Thăng Long phải đi qua hai trấn là Lạng Sơn gồm 4 trạm và Kinh Bắc gồm 6
trạm rồi mới tới kinh đô. Đường sá nước ta thì 6 trạm đầu [4 trạm Lạng Sơn và 2 trạm Kinh Bắc] là
đường núi nên việc đi lại khó khăn, mỗi trạm cách nhau 3 trống canh (tính ra đi khoảng 6 giờ ngày
nay) vì dịp này là những tháng mưa dầm, lầy lội nên xa mã không thể đi nhanh. Từ Thọ Xương
xuống kinh đô đường sá bằng phẳng rộng rãi nên cần biểu dương cờ quạt tiền hô hậu ủng để dân
chúng có dịp chiêm ngưỡng.
tổ chức nghi lễ

Tổ chức các trạm đón tiếp

Cho đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, sứ thần Trung Hoa sang phong vương cho vua nước ta
đều làm lễ ở Thăng Long. Việc tiếp đãi và cung đốn cho phái đoàn được điển chế qui định rõ ràng.

Trong lễ phong vương cho vua Quang Trung, việc tổ chức các trạm và công quán liệt kê như sau:
Quán Khoảng
dịch cách Ghi chú

Trấn 13 tháng Chín mở cửa


Nam ải đến Văn Uyên nghỉ
Quan lại

Trấn
Lạng
Sơn
Văn 1 dặm bằng 270 tầm
[諒山] Uyên 10 dặm hay 540 mét

14 khởi hành đến


Lạng Sơn nghỉ lại

Tức Đồng Đăng,


Pha Luỹ [坡壘] huyện lỵ Văn Uyên

Trấn sở Lạng Sơn và


phủ lỵ Trường Khánh
Thành 15 khởi hành đến
Đoàn[34] [城團] 30 dặm Nhân Lý nghỉ lại

Huyện lỵ Ôn châu, Quỷ


Môn quan có đền thờ
Mã Viện
16 khởi hành đến Chi
Nhân Lý [仁里] 30 dặm Lăng nghỉ lại

Phía nam Quỷ Môn


quan
17 khởi hành đến Tiên
Chi Lăng [支陵] 30 dặm Lệ nghỉ lại

Trấn
Kinh
Bắc
[京北]
18 khởi hành đến Cần
Tiên Lệ [先麗] Doanh nghỉ lại

Huyện Bảo Lộc còn có


tên Trà Sơn hay Kép
Cần 18 khởi hành đến Thọ
Doanh [芹營] 40 dặm Xương nghỉ lại

Phủ lỵ Lạng Giang, bờ


bắc sông Thương
Thọ 19 khởi hành đến Thị
Xương [壽昌] 40 dặm Cầu nghỉ lại

Trấn sở Kinh Bắc, phía


nam sông Cầu
20 khởi hành đến Lã
Thị Cầu [巿梂] 40 dặm Khôi nghỉ lại

Bờ nam sông Thiên


Đức
Lã 21 khởi hành đến Gia
Khôi[35] [呂瑰] 10 dặm Quất nghỉ lại

22 tháng Chín đến Gia


Công Quất
quán Gia Quất [嘉橘] 5 dặm Huyện Gia Lâm

Kinh
đô
Thăng
Long

Kiên
Nghĩa
Đình [堅義亭] Bên bờ sông Nhĩ Hà

Trong quốc đô
Lễ Bộ Làm lễ ngày 15 tháng
Đường [禮部堂] Mười

Việc cung đốn ở các công quán được ghi lại kỹ lưỡng trong Đại Việt Quốc Thư, tập III. Nói chung,
cách thức bài trí, tiếp đãi, sắp đặt và cung ứng cho từng địa điểm được coi như lề luật chung cho mọi
thời kỳ. GS Hoàng Xuân Hãn viết như sau:

… Phần lớn, trong vùng núi, nhà lợp tranh, chia làm hai khu, có rào kín hai tầng. Vào địa phận Kinh-
bắc, trạm thường có nhà gỗ, nhưng khi sứ tới thì làm thêm nhà tre. Các trạm Thọ-xương, Thị-cầu và
Lã-côi ở tại những làng lớn, thì dùng đình làng làm nhà chính. Ý chừng Công-quán ở Gia-quất có
dinh-thự đàng hoàng vĩnh viễn, cho nên không thấy Phan Huy Chúnói gì tới.[36] Còn dụng cụ thì kể ra
cũng thô sơ trừ ở Công quán, nơi các sứ trú lại khá lâu. Ở đấy mỗi Chánh sứ được cấp: 1 bộ đài chén
bạc, 1 bình rượu bạc, 6 bát sứ bít bạc, 12 đĩa bít bạc, 2 chậu thau, một bằng thau, một bằng gỗ sơn
son, 4 đôi đũa ngà cắm giá khảm xà cừ, 1 ghế tréo sơn son, 1 bàn sơn cánh gián, 1 đẳng, 1 giường, 1
phản đều sơn cánh gián, vân vân … Tại các trạm, có lệ cung đốn các thức ăn uống, do các địa phương
nộp. Riêng ở Công quán, triều đình thường mời mọc dự yến tiệc …[37]

Theo Đại Việt Quốc Thư (tr. 96-101), ngày 13 tháng Chín (Kỷ Dậu), giờ Mùi, hai bên đã làm lễ mở
cửa quan để sứ thần Thành Lâm, Vương Phủ Đường và phái đoàn từ Lạng Sơn xuống Thăng Long
làm lễ phong vương cho vua Quang Trung. Nghi thức đó được nhà Thanh tường thuật như sau:

Ngày hôm đó văn võ quan viên đã đến cửa quan từ trước. Quan binh người Hán đã sắp hàng chỉnh
tề thành đội ngũ. Chấp sự các ti ai vào việc nấy đợi đại nhân từ mạc phủ khởi hành, trước hết báo
hiệu đã qua núi rồi đến nghi trượng của đội đi đầu, chiêng trống đưa tòa long đình, hai đôi lính cầm
giáo, ngựa và lọng quạt các loại, sau đó đại nhân [tức sứ thần nhà Thanh Thành Lâm] qua cửa quan.
Nhạc trổi lên rồi nổ ba tiếng pháo bắn lên trời. Các quan viên văn võ ở Chiêu Đức đài [昭德臺] quì
xuống đón tiếp long đình vào trong đài xếp đặt. Sau đó mời đại nhân tiến vào trong các an tọa.

Đến giờ tốt bẩm sự quan mời sứ thần rời Chiêu Đức đài cùng các quan văn võ đứng hầu bên trái
phải long đình.

Bẩm sự quan xướng:

– Tế thổ thần, quan thần [thần đất và thần coi cửa Nam Quan]
Lễ sinh dẫn quan viên tế thổ thần. Lễ xong, bẩm sự quan quì dưới đài xướng:
– Phát cổ lôi [đánh trống]
Quan đánh trống gióng ba hồi. Bẩm sự quan lại xướng:
– Cổ báo tất [trống báo hiệu đã xong]
Rồi ở dưới đài bẩm xin lệnh vua để mở cửa quan. Hai viên hoàng lệnh quan quì dưới đài xướng:
– Lãnh hoàng lệnh [nhận lệnh vua]
Hai viên quan phát hoàng lệnh bưng hoàng lệnh đưa cho chấp hoàng lệnh quan nhận chìa

khóa [鎖鑰 –tỏa dược]quì xuống dưới đài xướng:

– Tỏa thược phát [đưa chìa khóa]


Viên tỏa thược quan đưa chìa khóa cho viên lãnh tỏa thược quan rồi cùng với chấp hoàng lệnh quan
cầm lệnh vua đến mở cửa quan. Lễ sinh lại xướng:
– Khai quan [mở cửa]
Lãnh tỏa dược quan cầm chìa khóa mở cửa. Nhạc trổi lên. Ba tiếng pháo lệnh. Quan binh người Hán
đâm nhứ ba lượt giáo. Lãnh tỏa dược quan và quan cầm hoàng lệnh đều quay về dưới đài chia ra
đứng hai bên tả hữu. Lãnh tỏa dược quan lại xướng:
– Kiểu tỏa dược [cất chìa khóa]
Viên quan giữ chìa khóa nhận lại để lên bàn. Bẩm sự quan quì dưới đài xướng:
– Mời hoàng lệnh đưa di quan nhập quan.
Hai viên chấp hoàng lệnh quan cùng đem hoàng lệnh tới cửa quan, dụ cho hai người thông sự ra
khỏi cửa quan đưa các di quan vào, tới dưới đài hướng về long đình hành lễ. Nhạc lại trổi lên, lễ sinh
xướng:
– Bài ban, ban tề [xếp thành hàng ngang, quay mặt vào long đình]

Sau đó làm lễ tam quị cửu khấu [ba lần quì, chín lần khấu đầu là lễ bái kiến hoàng đế. Ở đây tuy
không có vua Thanh nhưng sắc thư cũng là đại diện của nhà vua].

Chấp hoàng lệnh quan dẫn các di quan [các nước bên ngoài Trung Hoa gọi là di quốc nên quan nước
ta họ gọi là di quan] ra khỏi cửa quan đem các đồ dự bị đón long đình vào Chiêu Đức đài, các nghi
trượng cũng vào theo. Nhạc lại trổi.

Quan bưng sắc cùng quan bưng ngự thi trao cho di quan. Di quan quì xuống nhận lấy, đứng lên chia
ra hai bên, cung kính để lên long đình. Lại ba tiếng pháo thăng thiên [pháo lệnh] nổ, các nghi trượng
đi trước, kế đến là văn võ quan viên chia ra hai bên quì xuống đưa tiễn long đình xuất quan.
Đoàn người tạm dừng ở đài Ngưỡng Đức [đài Ngưỡng Đức ở phía nước ta, đối xứng với đài Chiêu
Đức ở phía Trung Hoa]. Bẩm sự quan lại xướng:

– Xin đại nhân lên nội các.


Viên thông ngôn dẫn các di quan tiến vào, lễ sinh xướng:
– Làm lễ nhất quị tam khấu đầu.

Đại nhân [tức sứ thần nhà Thanh] đứng dậy chắp tay rồi ngồi xuống ra lệnh cho di quan ngồi trên
tấm chăn đỏ trải dưới đất ở phía bên phải, ban cho trà. Uống trà xong, thông sự dẫn di quan đứng
lên rồi mời sứ thần lên ngựa ra khỏi cửa quan, những người được sai đi hộ tống cũng ra theo. Các
quan văn võ, hai người lễ sinh, hai người thông sự [thông ngôn], các chấp sự, binh dịch mang hành
trang xuất quan sau cùng.

Nhạc lại trổi lên, súng bắn lên ba lần, các quan viên văn võ đứng trước cửa quan đưa tiễn xong,
những người ra khỏi cửa quan lên đường, Nghi trượng và tiếng hiệu quá sơn, những người tấu nhạc
các loại đi đầu, kế đến là long đình, sau nữa là hai chiếc lọng đi ngang bên ngựa. Đi sau là sứ thần rồi
đến tọa kỵ các người tùy tòng rồi đến các viên mục đến đón, các vệ sĩ có nhiệm vụ áp tống nghi
trượng và viên mục, liền được lệnh đi trước để tiện việc ước thúc binh lính, phu dịch, để không ai đi
nhanh lên trước hay lạc ở sau. Còn các thùng hòm hành lý thì đưa cho người mang đi đến các trạm
trước, đến trạm sắp đặt cung ứng.[38]

Nghi thức này cũng phù hợp với những thủ tục chép trong sử nước ta đời Lê hay đời Nguyễn. Đại
Nam Hội Điển Sự Lệ quyển 129 chép:

…Khi tiếp được tin báo ngày mở cửa quan [ngày 13 tháng Chín], lập tức đem số mục nhân viên sứ
bộ cùng số rương gánh phi báo cho các địa phương, tề tựu 2 đài Ngưỡng Đức trên cửa quan, bài trí
sẵn voi, ngựa, cờ, giáo.
Sứ Thanh đến cửa quan, bắn 3 phát pháo lệnh rồi mở khoá cửa. Bên ta cũng bắn 3 phát pháo lệnh
trả lời; quân sĩ mở cờ, đồng thanh dạ ran hưởng ứng. Kế đó súng điểu sang đều bắn 3 phát.

Chờ khi nước Thanh uỷ người đến mời thời quan đón mệnh, quan tỉnh Lạng Sơn cùng các viên thù
phụng thư ký đều mặc mũ áo đến trước đài Chiêu Đức làm lễ triều bái. Sứ Thanh mời vào hậu
đường thời đưa thơ và phẩm vật ra mừng các viên đi hộ tống sứ bộ, làm lễ chào yết. Chờ họ sai
người đem những rương tải đến giao nhận xong, liền sai vệ sĩ đem long đình, hương án, nghi hương,
nhã nhạc đến trước đài Chiêu Đức. Sứ nước Thanh bưng cáo văn, sắc thư đặt vào 1 long đình, lại
bưng dụ văn đặt vào một long đình nữa.[39] Bên Thanh và bên ta đều bắn 3 phát pháo lệnh rồi qua
cửa quan. Quân sĩ đồng thanh dạ ran đều bắn 3 phát điểu sang rồi chiếu theo lệ hành quân, nổi trống
lớn tiến hành. Nghi trượng đi trước, nhã nhạc tiếp theo – nhã nhạc rước đi nhưng không cử nhạc –
Thứ đến gươm trường, thứ đến long đình, thứ đến kiệu sứ Thanh, thứ nữa đến ngựa nhân viên tuỳ
tòng. Võng ngựa các quan đợi mệnh tiếp theo đi hộ tống. Biền binh, voi, ngựa đều lần lượt theo sau.
Những viên thù phụng, thư ký đều theo đi. Khi đến công quán Lãng (sic) Mai [Lạng Mai là Mai Pha
thuộc Lạng Sơn, tức Đồng Đăng], Các viên đón mệnh đem theo và phẩm vật đến làm lễ chào yết sứ
nước Thanh.[40]

Khi qua khỏi Nam Quan, nước ta làm lễ khao thưởng sứ đoàn nhà Thanh, lễ vật bao gồm:[41]
Loại Số lượng Nguyên bản

Trâu 1 con 水牛

Heo 2 con 豬

Ngỗng 5 con 鵝

Vịt 10 con 鴨

Dê 1 con 羊

Gà 10 con 鷄

Chim 10 con 鴒

Rượu 2 vò [圩] 酒

Trong tấu thư của Phúc Khang An dựa theo bẩm thiếp của Thành Lâm gửi từ trạm Nhân Lý thì hành
trình như sau:

Cứ như bẩm thiếp của Thành Lâm tại trạm Nhân Lý [仁里] nước An Nam gửi đến trong đó định ngày
xuất quan là 13 tháng Chín.
Trước đó 12 ngày, quốc vương đã ủy thác cho Lê Xuân Tài đưa một nghìn nhân phu, một trăm con
ngựa cùng năm trăm vệ sĩ cung kính dàn nghi trượng ở trước cửa quan, nghinh đón sắc thư và ngự
thi.
Lê Xuân Tài tiến quan đến trước long đình đặt ở Chiêu Ðức Ðài hành tam quị cửu khấu lễ rồi lui ra
quan ngoại ở đó. Ngày 13 mở cửa xuất quan thấy nghi trượng đầy đủ, di quan văn võ lớn nhỏ suất
lãnh vệ sĩ, hộ vệ long đình, kèn trống chấp sự kéo dài đến bảy tám dặm, khi đi ngang qua thôn xã
nào thì người dân đỡ già bồng trẻ đứng dọc hai bên đường hoan nghênh.
Ngày hôm đó đến châu Văn Uyên, thấy ngoài thôn dọn sạch một khoảnh đất rộng, thiết lập một tòa
công quán cực kỳ sạch sẽ, cung kính rước long đình lên đặt ngay giữa sảnh đường, các quan viên
binh biền ở những phòng ốc phía sau và hai bên tả hữu. Theo lời Lê Xuân Tàibẩm xin yết kiến nói
rằng quốc trưởng nước tôi được ơn lớn như trời của đại hoàng đế ban cho phong hiệu, toàn dân
trong nước ai ai cũng chắp tay lên trán nói rằng bách tính An Namtừ nay được hưởng thái bình mãi
mãi.

Ðây là trạm đầu tiên ở ngoài quan ải già trẻ chiêm ngưỡng long đình, ai nấy đều rập đầu tận đất lạy
tạ thánh ân. Năm nay nước mưa thu quá nhiều, đường sá lầy lội hiện đang tu sửa gấp gáp nhưng lúc
mưa lúc tạnh bất thường.

Từ Lê thành đến Trấn Nam Quan chia ra chuẩn bị mười trạm để phòng giữa đường có trở ngại. Quốc
trưởng nước tôi hiện đang từ Nghĩa An trở về Lê thành nên sai chúng tôi đến trước cung kính
nghinh đón ân phong và chuẩn bị mọi việc.

Y lại bẩm rằng đã đem đến bò dê gà lợn cùng các loại củi gạo rau xin cho biết cần dùng bao nhiêu để
chuẩn bị đem đến. Các ủy viên nói rằng đồ ăn thức uống cùng vật dụng cần dùng hàng ngày cũng đã
chuẩn bị mang theo còn củi gạo rau dưa và những nhu cầu bất thường thì có thể mua sắm tại địa
phương, các ông không phải lo liệu nhiều.

Bọn họ khẩn khoản nài nỉ nói rằng chúng tôi được sai đến đây chỉ để cung nghinh sắc thư và ngự thi
cùng chiếu liệu phu mã trên đường, các đồ ăn uống đã chuẩn bị đầy đủ, nếu không thưởng thu để
quốc trưởng biết được thì sẽ khiển trách. Chúng tôi trao trả các loại bò dê và thực phẩm sống, các
loại khác mười phần chỉ lấy một hai. Lại xem trong số phu mã xuất quan chọn ra những người ngựa
mệt mỏi theo đúng số lượng đổi với họ nhưng cũng thưởng cấp ngân lượng.

Chiều tối hôm đó các di quan nghỉ ngơi ngay bên cạnh long đình. Lê Xuân Tài ở ngoài cửa chỉ huy vệ
sĩ bố trí canh gác chung quanh, cực kỳ nghiêm túc. Sáng sớm ngày 14 lại rước long đình ra đi, nghi
trượng kèn trống giống như trước, đến Lạng Sơn nghỉ lại. Ngày 15 đến trạm Nhân Lý, nơi đây cũng
đã thiết lập công quán.

Quan ngoại từ Lạng Sơn trở về nam hầu hết là núi non, khe suối sông ngòi đều đã dựng cầu, đường
đi cũng tu bổ nên không trở ngại. Hỏi thì các di quan nói rằng lúc này đã qua mùa hoàng mao
chướng, khí hậu mát hơn xin cứ an tâm mà đi. Sau khi xuất quan hỏi thăm tình hình các nơi trong
nước thì đều an ninh.[42]

Sứ thần nhà Thanh ghi chép về việc đi xuống Thăng Long tương đối giản lược:
… Nói về long đình cùng đại nhân [sứ thần nhà Thanh] trên đường đi, di quan nghinh tiếp, mỗi khi
long đình đến đều ở hai bên đường quỳ đón. Mỗi khi đến quán xá đều đặt ngay tại chính giữa phòng
cho tiện việc tiếp đón.
Các viên mục đều làm lễ tam quị cửu khấu thủ [ba lần quì, chín lần rập đầu] nhưng người đi qua thì
được miễn. Nếu gặp sứ thần đến thì di mục nghinh tiếp, quì ở bên đường mà đón, đại nhân ngồi
trong kiệu chắp tay nói miễn lễ.

Khi đến Lê thành rồi, quốc vương nước này nghinh tiếp long đình đúng như điển lễ đã qui định gửi
đến từ trước và kính cẩn tuân theo nghi lễ đã bày ra.[43]

Tính theo hành trình, chúng ta thấy:


13 tháng Chín xuất quan đến châu Văn Uyên
14 tháng Chín đến Lạng Sơn
15 tháng Chín đến Nhân Lý
16 tháng Chín đến Chi Lăng
17 tháng Chín đến Tiên Lệ
18 tháng Chín đến Cần Doanh
19 tháng Chín đến Thọ Xương
20 tháng Chín đến Thị Cầu
21 tháng Chín đến Lã Khôi
22 tháng Chín đến Gia Quất
Ngày 20 tháng Chín, con thứ vua Quang Trung là Nguyễn Quang Thuỳ cùng các đại thần Ngô Văn Sở,
Ngô Thì Nhậm và các viên chức lưu thủ thành Thăng Long là Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Danh, Đặng
Văn Chân, Nguyễn Văn Dụng … thay mặt quốc vương đến đón sứ thần.
Các văn thư của nước ta cho thấy phái đoàn nhà Thanh có tới ba thành phần đảm trách ba nhiệm vụ
khác nhau:

– Thành Lâm đóng vai chính sứ sang trao đặc dụ của vua Càn Long [nhưng nói lấp lửng là sắc thư],

– Vương Phủ Đường mang bài thơ do chính tay vua Càn Long viết [ngự thi],

– Tổng quản thay mặt Phúc Khang An “mang chỉ thừa lệnh công tước các bộ đường”[44] và quà riêng
của tổng đốc Lưỡng Quảng mừng vua Quang Trung.

Đại Việt Quốc Thư còn lưu một lá thư gửi tới sứ thần nhà Thanh kèm theo lễ vật kiến diện như sau:
Lời thiên tử ban xuống, chín tầng ơn mưa móc khắp nơi
Người đeo lan rạng rỡ, vạn dặm vẻ tốt tươi sông núi.
Ân sáng bạch trĩ, mừng khắp Chu Diên
Cung duy hai vị đại nhân
Vẻ sáng như sao Thai, sao Đẩu
Nguy nga như núi Thái, cây Kiều.
Khí nghiệp vốn cõi trung châu,
Uy nghi ở nơi trâm giải.[45]
Xuống hạ quốc để thành khuôn phép,
Khi ra đi dân vẫn nhớ ơn.
Vốn có lượng khoan hồng hoà dị,
Nên đức nhân rủ xuống rạng vẻ nhu hoài.
Bọn ti chức
Ở gần vẻ sáng, càng thêm kính mộ.
Buộc con ngựa trắng, ngưỡng khúc hoàng hoa.
Đã từ lâu nghe tiếng nhập thất chi hương,
Lấy chút rau dưa tỏ lòng thành ngõ vắng,
Đem gạo thô dâng hiến trước nhà cao.
Cẩn bẩm.[46]
Theo tài liệu nước ta chuẩn bị hai mâm cỗ ngọc và 12 mâm cỗ yến cùng heo quay, xôi và nhiều loại
gia súc để đãi sứ đoàn tại Gia Quất.

水牛
Trâu 5 con


Heo 5 con


Dê 5 con


Vịt 5 con


Ngỗng 5 con

5 nia [圓箕] 白米
Gạo trắng

1 rổ [簍] 芙留
Trầu không

1 rổ [簍] 檳榔
Cau

Vì vua Quang Trung chưa ra kịp, phái đoàn nhà Thanh phải ngừng lại ở công quán Gia Quất từ ngày
22 tháng Chín đến ngày 15 tháng Mười. Trong suốt thời gian phải tạm trú tại đây tuy không có biến
cố nào lớn nhưng cũng có một vài việc đáng ghi nhận.

Trước hết, việc một phái đoàn tiền hô hậu ủng của nhà Thanh ngừng lại đây trong một thời gian khá
dài cũng tạo nên sự tò mò của dân chúng miền Bắc. Coi đây là một hỉ sự muôn đời khó gặp nhiều
người ở xa cũng lặn lội đến xem long đình, trong đó có hai viên mục tuổi đã ngoại bát tuần là Đinh
Phụ Tể và Cấn Danh Văn.[47] Dân chúng cũng đến mỗi ngày mấy đợt như thói thường của người
dân quê nước ta.

Theo báo cáo của quan nhà Thanh, hàng ngày Ngô Văn Sở và Ngô Thì Nhậm đều đến thăm hỏi và
trao đổi tin tức nhưng có lẽ không phải chỉ xã giao bình thường mà đến để biện bác về việc nước ta
đòi sứ thần nhà Thanh phải xuống Nghệ An hay Phú Xuân làm lễ cho chính thống. Rất tiếc rằng
chúng ta không biết rõ nội dung hai bên đưa ra như thế nào vì chưa tìm thấy những ghi chép về việc
này. Năm Quí Hợi (1683) khi nhà Thanh sang phong vương cho vua Lê Hi Tông, hai bên đã tranh
luận rất nhiều về việc trả lại ấn cũ, dụ tế và sách phong nhưng vì nước ta có ghi diễn tiến trong một
tập hồi ký nhan đề Thiên Triều Khâm Sứ Sách Phong Tứ Tuất Nhị Bộ Lược Biên và quan nhà Thanh
có chép nội vụ trong Sứ Giao Kỷ Sự nên chi tiết tương đối tường tận.[48]

Cũng dịp này, nước ta cũng thông báo năm Kỷ Dậu đúng kỳ tuế cống nên dự định sẽ đưa sứ thần đi
cùng với phái đoàn tạ ơn sang Bắc Kinh sau khi làm lễ xong.

Ngô Văn Sở cũng xin được tham gia trong phái đoàn đi cùng với vua Quang Trung sang chúc thọ.
Đáng để ý hơn cả, vì phái đoàn phải ở lại Gia Quất khá lâu nên không biết vô tình hay có sắp xếp
trước, một người đàn bà nước ta tên là Nguyễn Thị Tam đã đến và tặng cho sứ giả một thiên trường
thi (không rõ bao nhiêu bài chỉ biết rằng bao gồm cả thể luật thi đời Đường lẫn từ khúc đời Tống),
Thành Lâm lấy cớ bận rộn nên chỉ hoạ lại một bài như sau:

嘉橘空摠駐使幢,敢云國士號無雙。

交驩自昔多佳士,文物而今萃此邦。

七字賦成唐律句,片詞羞落宋人腔。

可知聖世文明盛,詩教昭垂到富江。[49]

Dịch âm
Gia Quất đồng song trụ sứ tràng,
Cảm vân quốc sĩ hiệu vô song.
Giao Hoan tự tích đa giai sĩ,
Văn vật nhi kim tuỵ thử bang.
Thất tự phú thành Đường luật cú,
Phiến từ tu lạc Tống nhân xoang.
Khả tri thánh thế văn minh thịnh,
Thi giáo chiêu thuỳ đáo Phú Giang.

Dịch nghĩa
Đi đến Gia Quất sứ thần ngừng lại nghỉ,
Phải nói rằng bậc quốc sĩ quả là vô song.
Giao Châu, Hoan Châu từ xưa vẫn nhiều người đọc sách,
Vì là đất văn vật nên đến nay nước vẫn đông.
Bảy chữ làm thành thơ Đường luật,
Còn lời từ thì người đời Tống cũng không bằng.
Thế mới biết đời thánh nhân nên văn minh thịnh trị,
Thơ ở nơi biên thuỳ tới tận sông Phú Lương.

Xem như thế, có lẽ người nước ta cũng chờ đợi nếu có dịp sẽ thử tài sứ thần Trung Hoa như truyền
tụng trong sử sách. Ở đây là một người đàn bà chứng tỏ nữ lưu thời Lê Trịnh cũng có nhiều người
được học hành chu đáo. Có lẽ việc thù tạc, trao đổi văn chương khi được truyền ra ngoài đã bị bình
dân hoá thành những câu chuyện cười như kiểu Trạng Quỳnh, Đoàn Thị Điểm trong dân gian.

Vì lưu lại lâu, sứ thần nhà Thanh cũng hỏi mượn sách của nước ta để đọc cho qua ngày giờ.[50] Họ
cũng tặng cho các quan ta một số trà Tàu và hỏi thăm về tình hình trong nước.
Cũng dịp đó, một đoàn hát gồm 10 người ả đào cũng đến phô diễn những điệu múa của nước ta và
được thưởng mỗi người một lượng bạc trong bữa tiệc và sau đó giúp vui nên được thưởng 60 lượng
cho cả đội nên có lời tạ ơn như sau:

Con hát Phan Ngọc Đào [蕃玉桃], Trần Cẩm Liên [陳錦蓮], Nguyễn Thuý Tiêu [阮翠綃], Dư Kim

Tuyết [余金雪],Đặng Quang Đát [鄧光妲], Lưu Bích Đại [劉碧黛], Phạm Hồng Niễu [范紅裊],Hoàng

Cúc Phương [黃菊芳], Trần Lan Anh [陳蘭英], Trịnh Tú Quỳnh [鄭秀瓊] trăm lạy bẩm lên trước

trướng các vị đại nhân để soi xét


Bọn tiện thiếp vốn phận liễu bồ, may được dự vào vườn lê, ca hát không uyển chuyển, múa may
không đẹp đẽ, nay nhún nhẩy chốn lữ đình trông lên cùng hỉ khánh. Phượng kêu buổi sớm, được ơn
ban thưởng.
Bọn tiện thiếp khấu đầu trăm lạy, cung kính giãi bày chút lòng thành để đáp lại thịnh tâm.
Cẩn bẩm.
Số bạc ban thưởng 60 lượng bạc chúng tôi kính cẩn chia đều cho nhau.[51]

Cũng nên biết thêm, người Trung Hoa tuy có các kỹ nữ đánh đàn ngâm thơ giúp vui nhưng trong
trình diễn tuồng tích không dùng đàn bà mà do nam nhân đóng giả gái, việc các phụ nữ ca múa hẳn
khiến cho các sứ thần Trung Hoa ngạc nhiên và cảm phục.
Tài liệu duy nhất mà chúng tôi kiếm được là một đoạn ngắn ghi chép lễ sách phong cho vua Quang
Trung trongLịch Triều Tạp Kỷ, quyển VI như sau:

十五日。天朝將事使部成大人,王大人,總管老家。恭置勅書,御詩于龍亭。仍自嘉橘公舘帶同部

屬進渡珥河。王子阮光垂及文武陪臣。陳列兵船象馬旗鎗儀仗。前後隨行。扈衛入昇龍城内殿宇。該

使部奉行宣賜。國王阮光平拜領。禮成。該使部復嘉橘公舘安歇整裝。訂以十七日起程囬國。

Ngày 15. Những người có nhiệm vụ trong sứ bộ thiên triều như đại nhân họ Thành (Lâm), đại nhân
họ Vương (Phủ Đường) và ngài tổng quản cung kính đặt sắc thư, ngự thi vào long đình rồi từ công
quán Gia Quất dẫn các bộ thuộc vượt sông Nhĩ Hà.

Vương tử Nguyễn Quang Thuỳ cùng văn võ bồi thần bày dàn binh lính, thuyền bè, voi ngựa, cờ súng
các loại nghi trượng, dẫn trước và theo sau phái đoàn, hộ vệ tiến vào nội điện thành Thăng Long.

Sứ bộ phụng mệnh làm lễ tuyên phong và ban tứ (ngự thi). Quốc vương Nguyễn Quang Bình bái
lãnh. Lễ xong, sứ bộ quay trở về công quán Gia Quất nghỉ ngơi sẽ chuẩn bị hành trang, định ngày 17
sẽ lên đường về nước.

Vì đây là tài liệu duy nhất ghi lại buổi lễ trọng đại này nên chúng ta muốn biết tường tận hơn thì
phải tham khảo một số điển lệ khác. Tuy nhiên, theo những tường thuật ngắn ngủi này, vua Quang
Trung không đi ra khỏi hoàng thành để đón long đình như qui định trong điển lệ nhà Thanh mà chỉ
chờ ở nội điện, tránh được những nghi lễ có thể làm thương tổn đến quốc thể.

Tài liệu qui định các nguyên tắc của triều đình ghi trong bộ Khâm Định Đại Thanh Hội Điển Sự Lệ.
Việc giao thiệp với các quốc gia ngoại phiên được qui định trong Lễ Bộ [Triều Cống] từ quyển 502
đến 508. Tuy nhiên lễ sách phong chỉ được chép rất giản lược, có lẽ lễ nghi mỗi nơi một khác ngoại
trừ qui định chung là đối với những gì thuộc về hoàng đế nhà Thanh, quốc vương hay bồi thần phải
làm lễ tam quị cửu khấu. Từ khi nhà Thanh phong vương cho vua Lê, lễ nghi bấy giờ mới ổn định,
cung cách tiếp đón, điển tịch minh bạch được ghi lại rất kỹ càng làm khuôn mẫu cho đời sau.
1. Đại Việt Quốc Thư: DVQT là một tập hợp các văn thư nước ta trao đổi với Trung Hoa lẫn các
trao đổi nội bộ ngắn giống như những “memo” thời nay. Việc sưu tập đầy đủ các văn kiện ghi
chép “việc phải làm” và danh sách “cung ứng cho sứ thần” giúp chúng ta biết rằng tập tài liệu
này được dùng để tham khảo cho các đại lễ phong vương và tiếp đón sứ thần đời Tây Sơn và
sau này.

Qua những văn thư này, chúng ta có thể dựng lại khá chi tiết sinh hoạt và hành trình của sứ thần nhà
Thanh cùng diễn tiến việc phong vương cho vua Quang Trung ở Thăng Long năm Kỷ Dậu [1789].
Tuy không hoàn toàn là một loại “thủ sách” (manual) nhưng với lối biên chép kỹ lưỡng, chúng ta có
thể phục dựng lại diễn tiến đại lễ này tương đối đầy đủ. Có lẽ chính Phan Huy Ích là người đã sưu
tập những văn thư mà ông trực tiếp tham gia trong tiến trình giao thiệp với nhà Thanh trong hai
năm Kỷ Dậu và Canh Tuất (1789, 1790). [52]

Khi nghiên cứu về Phan Huy Ích, hầu như các sử gia đã bỏ quên vai trò quan trọng của ông trong
những năm đầu triều Gia Long rồi tiếp tục trong đời Minh Mạng. Chính vì vai trò có một không
hai này, những văn thư giao thiệp với Trung Hoa đã không bị rơi vào số phận nghiệt ngã như các tài
liệu cung đình khác đời Tây Sơn.

Để bổ túc và tìm hiểu cho kỹ lưỡng về việc tiếp đón sứ thần, chúng ta có thể tham khảo thêm hai
biên khảo của GS Hoàng Xuân Hãn về nghi thức phong vương, dụ tế … đời Lê-Trịnh:
1. Cuộc tiếp sứ Thanh năm 1683 (Tập san KHXH, Paris số 3 tháng 11/1977) được in lại trong
bộ La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II (Hà Nội: Giáo Dục, 1998) từ trang 747-827.
2. Vụ Bắc Sứ năm Canh-thìn đời Cảnh-hưng với Lê Quý-Đôn và bài trình bằng văn
nômđăng trong Tập San Sử Địa Saigon số 6-1967 và 11-1968 (nhưng chưa hoàn tất). Bài này
được đăng lại trong La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II (Hà Nội: Giáo Dục, 1998) từ trang
828-864.

Ngoài hai biên khảo rất công phu nêu trên, hai bộ điển lệ quan trọng khác tuy được soạn dưới triều
Nguyễn nhưng nhiều chi tiết, văn kiện ghi lại từ thư tịch các triều đại cũ.

1. Lịch Triều Hiến Chương Loại Chú do Phan Huy Chú soạn, hoàn thành năm Gia Long 18
(1819) và đem dâng vua Minh Mạng năm 1821 khi làm biên tu ở Viện Hàn Lâm.[53]
2. Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ do Nội Các Triều Nguyễn soạn đã được dịch Viện Sử
Học Hà Nội dịch và ấn hành.[54] Trong bộ sách này, từ quyển 128 đến quyển 131 là điển lệ
bang giao riêng với Trung Hoa, ghi rõ chuyện đi sứ và các lễ tuyên phong, dụ tế và các việc ở
biên giới … trong giao thiệp với tông chủ quốc là nhà Thanh. Từ quyển 132 đến quyển 136 ghi
các điển lệ giao thiệp với các nước chung quanh.[55]

Chúng ta cũng có thể đọc thêm một số chi tiết trong Tang Thương Ngẫu Lục và Vũ Trung Tuỳ Bút
của Phạm Đình Hổ để biết rằng nước ta vẫn thường phải tranh luận về nghi lễ với sứ thần Trung
Hoa. Riêng việc đón tiếp long đình, sứ nhà Thanh là Chu Xán chép:

至於迎接龍亭必在國門之外。王旣佇立。使者降輿相接。而升階至階下。觀瞻旣肅豫順彌昭。[56]

Còn như nghinh tiếp long đình thì vua đứng chờ ở bên ngoài quốc môn, khi sứ giả xuống kiệu thì
nghinh tiếp đưa lên thềm xuống thềm. Người ngoài trông vào thấy nghiêm túc mà cung thuận.

Theo như thế, nhà Thanh không đòi hỏi vua nước ta phải quì đón long đình như Triều Tiên mà chỉ
đứng đợi để đón ở ngoài cửa và tương kiến với sứ giả rồi đưa và trong điện làm lễ. Nghi lễ này cũng
đúng như đã chép trongLịch Triều Tạp Kỷ rằng chỉ có vương tử Nguyễn Quang Thuỳ và văn võ quan
viên đến Gia Quất đưa phái đoàn đến Thăng Long để làm lễ còn quốc vương không phải ra khỏi
thành để nghinh đón như qui định.

NHỮNG BẤT ĐẲNG TRONG LỄ PHONG VƯƠNG

Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu đều cho rằng việc vua Quang Trung lần khân không chịu ra
Thăng Long là do những nghi ngại và hiềm khích, có người còn diễn dịch một cách chủ quan là
“không thèm” chịu phong vương.

Nguyễn Thị Tây Sơn Ký và Liệt Truyện chép như sau:


…惠復上謝表請以開年入覲。清帝信之卽册封爲安南國王命廣西候補成林前往。旣抵關,惠托言昇
龍旺氣消歇邀請往富春。成林以非例不肯往。惠遂托病牽延,始以甥范公治詐冒行之…

[…] Huệ gửi biểu tạ ơn, xin được mùa xuân năm sau nhập cận. Thanh đế tin là thật nên lập tức sách
phong làm An Nam quốc vương, ra lệnh cho hậu bổ Quảng Tây Thành Lâm đi sang. Khi Thành Lâm
đến cửa quan [sang phong vương], Huệ thác rằng Thăng Long vượng khí nay không còn, xin đến
Phú Xuân nhưng Thành Lâm cho rằng không đúng thể lệ nên không bằng lòng.

Huệ bèn cáo bệnh để diên trì rồi sai cháu là Phạm Công Trị giả mạo mình thụ phong …”

Lối chép sơ sài không phản ảnh trung thực những biến chuyển phức tạp và sẽ không hiểu được
những gì đã xảy ra nếu không quay trở lại các chặng đường phong vương.
thanh triều
Theo Khâm Định Đại Thanh Hội Điển Sự Lệ (欽定大清會典事例) quyển 502-504 (Lễ Bộ – Triều
Cống), nghi lễ sách phong [viết về Triều Tiên nhưng qui định chung cho mọi phiên thuộc] đại lược
như sau:

…Nếu nước kia có việc tập phong thì Thanh triều sai chánh và phó sứ đi làm lễ.
Khi qua khỏi biên cảnh rồi thì bồi thần của vua nước ấy đã chờ sẵn, cung nghinh chiếu sắc và long
đình về kinh đô. Bồi thần [nước ấy] hành lễ tam quị cửu khấu [ba quì, chín khấu đầu] long đình
đựng sắc thư. Hành lễ xong, quay sang gặp sứ thần hành lễ nhất quị tam khấu [một quì, ba khấu
đầu]. (đây là lễ giao tiếp, hai bên cùng nhất quị, tam khấu chào nhau bình đẳng)

Đến ngày hành lễ [tại kinh đô] bưng chiếu sắc và các món khí vật ban thưởng đặt tại sứ quán. Sau
khi hành lễ, bồi thần nước đó vào yết kiến sứ thần đều làm lễ tam khấu (ba lần khấu đầu). Chánh
phó sứ nhận lễ rồi chọn ngày để tuyên đọc chiếu sắc.

Quốc vương dẫn thế tử và bối thần đến công quán nghinh đón. [Sứ thần] bưng chiếu sắc đặt vào
long đình, hành lễ xong, quốc vương trở về trước. Chiếu sắc và long đình cùng các món được ban
cho sẽ được đưa lên kiệu khiêng đi. Trống nhạc và nghi trượng dẫn đường. Chánh phó sứ đi theo.
Đoàn đi theo cửa chính giữa, chánh phó sứ bưng chiếu sắc lên điện, để trên chiếc án thư màu vàng.
Các món khí tệ được ban đặt tại bàn bên cạnh.

Quốc vương vào bái vị (nơi quốc vương sẽ quì để nhận lễ sách phong) cùng với thế tử và bồi thần
làm lễ tam quị cửu khấu. Đứng lên tới vị trí nhận chiếu sắc quì xuống. Sứ giả tuyên đọc chiếu sắc.
Tuyên đọc xong bưng lên để trên án. Quốc vương phủ phục làm lễ tam quị cửu khấu rồi đứng lên.
Chánh phó sứ đi ra, quốc vương dẫn thuộc hạ tống tiễn rồi quay vể.

Xem như vậy, điển lệ nhà Thanh chỉ qui định tổng quát về nghi lễ khi tiếp nhận sắc phong, các
việc tổ chức đón tiếp khác, yến tiệc, quà cáp, trao đổi thì tuỳ nghi theo từng nơi. Theo qui mô
trong việc chuẩn bị công quán, đồ đạc cung ứng cùng nghi vệ trên đường đi cho thấy việc đưa đón
sứ thần tuỳ tùng cũng là một cách phô diễn và chứng tỏ văn hiến của nước ta.

[…] Ngày Quí Mão, làm đại lễ bang giao. Hôm ấy sáng sớm, đặt lỗ bộ đại giá ở sân điện Kính Thiên
đến cửa Chu tước, ngoài cửa đến bến sông Nhị Hà thì bày nghi vệ binh tượng; sai thân thần Tôn
Thất Chương đến công quán Gia Quất, Ðô thống chế Phan Văn Triệu, Hộ bộ Nguyễn Văn Khiêm,
Tham tri Hộ bộ Nguyễn Ðình Ðức đến nhà tiếp sứ ở bến sông để nghinh tiếp.
Vua ngự ở cửa Chu tước, hoàng thân và trăm quan theo hầu. Sứ giả nhà Thanh đến, vào điện Kính
thiên làm lễ tuyên phong. Chưởng Tiền quân Nguyễn Văn Thành sung việc thụ sắc, chưởng Thần võ
quân Phạm Văn Nhân sung việc thụ ấn. Lễ xong, mời Bố Sâm đến điện Cần Chánh, thong thả mời trà
rồi lui...[57]

Trên đây là trích đoạn trong Đại Nam Thực Lục về lễ sách phong cho vua Gia Long. Trên nguyên tắc,
việc sách phong cho vua Quang Trung cũng tương tự vì cả hai đều là người khởi đầu một triều đại,
nhận sắc phong và ấn bạc củng một lúc.

Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất là khi Thành Lâm sang nước ta, phái đoàn nhà Thanh không phải
là một khâm sai đại thần từ Bắc Kinh đem theo sắc và ấn sang phong vương như Tề Bố Sâm. Thành
Lâm chỉ là người do Phúc Khang An cử đi, mang một đặc dụ và một bài ngự thi mà trên danh nghĩa
không thể so với một sắc thư phong vương.
Việc phái đoàn không mang theo ấn bạc tạo nên rất nhiều nghi vấn cho các đại thần phụ trách nghi
lễ của nước ta đưa đến việc tìm cách diên trì để chờ phái đoàn Nguyễn Quang Hiển về tới cho hợp
thể chế. Đó chính là đầu mối của những bất thường khi phái đoàn Thành Lâm tới Thăng Long.

Lịch sử nước ta không thấy có tài liệu nào ghi chép diễn tiến buổi đại lễ phong vương cho vua Quang
Trung, hoặc vì người nước ta không có thói quen tường thuật những biến cố, nếu có chắc cũng đã bị
huỷ hoại theo binh lửa. Tuy nhiên, theo truyền thồng, nghi lễ phong vương của nước ta đã thành
định chế từ lâu nên mọi động tác đều có cơ sở. Dưới triều Lê, nhà Thanh cử người sang nước ta làm
lễ phong vương nhiều lần, được ghi lại tương đối kỹ lưỡng nên dù không có tài liệu đầu tay
(firsthand accounts) nào về thời Tây Sơn nhưng đối chiếu với các đại lễ trước và sau chúng ta cũng
có thể hình dung được các chi tiết.

Như đã tường thuật, nghi lễ phong vương về phía nhà Thanh chú trọng vào việc tiếp nhận, làm lễ
tam quị cửu khấu như một động thái thần phục thiên triều,[58] trong trường hợp có cả trao ấn và sắc
thì phía nước ta phải có hai đại thần đầu triều đứng ra nhận, một người hàng văn nhận sắc, một
người hàng võ nhận ấn. Các nghi lễ lỗ bộ và hình thức tiếp đón, yến tiệc, quà cáp để làm cho đại lễ
thêm long trọng và huy hoàng chủ yếu là do qui định của nước ta.

Đời Tây Sơn, nghi lễ chủ yếu do hai đại thần là Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích sắp đặt. Vì cận thần
của vua Gia Long không có ai quen thuộc với nghi lễ nhà Thanh, hai ông này cũng được dùng làm cố
vấn dưới triều Nguyễn. Tuy Ngô Thì Nhậm chết sớm nhưng Phan Huy Ích vẫn trực tiếp trông coi các
lễ nghi, từ mệnh không phải chỉ trong đời Gia Long mà tới tận đầu đời Minh Mạng trước khi qua
đời.[59] Vai trò của ông đã giúp cho gia đình bảo tồn được gần như đầy đủ các văn thư liên quan
đến bang giao thời Quang Trung, Cảnh Thịnh và cả sau này đời Gia Long. Tuy con ông là Phan Huy
Chú không đề cập đến nghi lễ đời Tây Sơn nhưng chắc chắn những tài liệu viết về đời Lê cũng tham
bác từ chính thân phụ là Phan Huy Ích là người đảm trách nghi lễ triều đại này.

Theo lệ cũ, sáng sớm ngày 15 tháng Mười năm Kỷ Dậu, các quan lo tiếp sứ ở Kiên Nghĩa Đình là
Đông Lĩnh Hầu, Diên Xuyên Hầu, Đức Phong Bá (Nguyễn Đề) cùng các quan hầu tiếp đem hương án,
long đình, kết giá, tàn vàng, trượng son cùng các lực sĩ qua sông vào công quán Gia Quất đón sứ
thần, rước tới bến đò Ái Mộ để xuống thuyền qua sông vào hoàng thành. Khi thuyền đến Bến Mọc thì
rước long đình lên đường cái. Đường sá từ bến sông vào nội điện đã sửa sang và phái đoàn đi theo
hành trình sau đây:

…Quan khâm sứ lên kiệu từ đình Kiên Nghĩa (bến Cầu Cháy) đi tới do quan đề lĩnh và quân lính đi
trước phụng nghinh sắc qua cửa hàng Mắm, qua hàng Buồm, xuống hàng Áo, đến hàng Đào, rẽ ra
hàng Túi [Đũi?], qua ngã ba hàng Gương (Ngang?), lên chợ huyện, qua Cấm Chỉ, lên đình Quảng Văn,
vào qua cửa Vò Vò lên nội điện.[60]

Sách vở không ghi chép rõ và cũng không biết vua Quang Trung ra đón ở bên ngoài hoàng thành hay
vào tới điện mới làm lễ nghinh tiếp[61] tuy sau này Thăng Long về báo cáo là đã theo nghi thức mà
nhận tuyên phong nhưng cũng có thể ít nhiều tiết giảm nhất là việc điển lệ nhà Thanh đòi hỏi phải
quì đón ở ngoài đường, một nghi lễ mà nước ta trước nay vẫn từ chối không thực hiện vì nhẹ quốc
thể. Theo nghi lễ các triều trước, quốc vương chỉ làm lễ tam quị cửu khấu khi vào trong điện Kính
Thiên.

Về y phục của vua Quang Trung, sử sách không ghi rõ nay chỉ còn biết qua một số hình vẽ và miêu tả
từ bên ngoài vào lúc ông sang kinh đô nhà Thanh chúc thọ nên cũng không thực sự biết ông mặc
như thế nào khi làm lễ phong vương.[62]
NGHI THỨC SÁCH PHONG

Nghi lễ đời Lê-Trịnh theo Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí [Phan Huy Chú][63]

Trước ba ngày, Thượng thiết ty đặt long đình ở giữa điện Kính-thiên, đặt hương án ở phía nam
Long-đình, đặt vị bái của vua ở trước hương án (vị bái dưới dùng chiếu tre, trên trải chiếu cạp), đặt
vị đứng của khâm sứ ở trước hương án (hơi về hướng bắc, vị đứng dưới dùng chiếu tre, trên trải
chiếu cạp), đặt vị trí đứng của vua ở bên hữu hương án (vị đứng dưới dùng chiếu tre, trên trải chiếu
cạp).

Một viên điển nghi, một viên tuyên chiếu, hai viên triển chiếu, đều đứng ở bên tả điện, một viên thự
chiếu, hai viên nội tán, đều đứng ở bên hữu điện; tám viên củ nghi, hai viên đứng hai bên tả hữu sân
điện, hai viên đứng hai bên tả hữu long trì [thềm rồng, ở trong], hai viên đứng hai bên tả hữu đan trì
[thềm son, ở ngoài], hai viên đứng hai bên tả hữu ngoài cửa Đoan-môn; tám viên ngoại tán, hai viên
đứng hai bên tả hữu sân điện, hai viên đứng hai bên tả hữu long trì, hai viên đứng hai bên tả hữu
đan trì, hai viên đứng hai bên tả hữu cửa Đoan-môn, đều đứng dưới các quan củ nghi.

Trước hai ngày, vua phải ăn chay, cáo tế trời đất, điện Thái-miếu, điện Chí-kính.

Trước một ngày, 36 phố trong kinh đều kết hoa ở đường phố (dùng 50 tấm vừa lụa vàng, lụa đỏ,
trồng hai cột sơn đỏ, đầu cột có ngù nhọn). Tự ngoài bến sông cho đến cửa Đông tràng an, đường sá
các phường các xứ đều dọn dẹp sửa sang.

Sáng sớm hôm làm lễ, phụng chỉ của chúa, các quan vào đan trì trước. Dự sai ba viên văn võ trọng
thần đôn đốc các tướng tá binh mã, nhã nhạc, giáo phường và nghi trượng ra bài trí ở ngoài bến
sông; mặc áo mũ theo phẩm tước, đợi khi long đình đến thì làm lễ 5 lạy 3 vái (từ năm giáp dần đã
theo làm lễ 3 quì 9 vái).

Làm lễ xong, các văn võ trọng thần đi trước, rồi đến giáo phường, đến nghi trượng, đến nhã nhạc,
đến hương án, đến long đình, đến kiệu khâm sứ, đến người ngựa theo hầu khâm sứ.
Khi đến cửa Nam môn người theo hầu xuống ngựa. Đến ngoài cửa Đông tràng-an, viên thông sự mời
khâm sứ xuống kiệu. Vua đội mũ xung thiên, mặc áo hoàng bào, đeo đai ngọc, đứng đón ở bên hữu
ngoài ba cửa, các quan chia ban theo hầu.

Vua gặp khâm sứ vái chào.


Long đình tiến vào theo cửa chính. Khâm sứ tiến vào theo cửa tả. Vua tiến vào do cửa hữu. Khi vào
đến điện Kính thiên thì đặt long đình vào vị. Quan điển lễ mời khâm sứ đến vị đứng. Quan nội tán
tâu xin vua đến vị đứng, các quan chia ban đứng hai bên tả hữu sân điện, long trì và đan trì, và ngoài
cửa Đoan môn. Các viên chấp sự tựu vị, ai giữ việc nấy.

Viên nội tán tâu vua đến vị bái. Ngoại tán xướng: “Bài ban” (các quan đều đứng vào ban), lại xướng:
“Ban tề” (các quan quay mặt vào hương án). Nội tán: “Tấu tam bái ngũ khấu đầu”, “hưng”, “bình
thân”. Ngoại tán cũng xướng như thế.
Viên điển lễ xướng: “Tuyên chiếu”. Nội tán: “Tấu quỵ”. Ngoại tán cũng xướng như thế. Khâm sứ
bưng tờ chiếu trao cho quan tuyên chiếu. Hai viên triển chiếu đến mở tờ chiếu. Viên tuyên chiếu đọc
xong, bưng tờ chiếu đặt lên hương án rồi ra đứng ở vị mình.

Quan điển nghi: “Tấu thụ chiếu”. Viên khâm sứ bưng tờ chiếu trao cho vua, vua nhận tờ chiếu, giơ
lên ngang trán, rồi trao cho quan thụ chiếu, quan thụ chiếu quỳ xuống nhận tờ chiếu, đứng lên, ra
đứng ở chỗ trước. Khâm sứ ra đứng ở chỗ trước. Nội tán: “Tấu phủ phục”, “hưng”, “bình thân”. Ở
ngoài cũng xướng như thế. Nội tán: “Tấu phục vị”. Nội tán: “Tấu hành tạ ân lễ ngũ bái tam khấu đầu”.
[Tâu làm lễ tạ ơn ba lạy năm vái]. Ngoại tán cũng xướng như thế.

Nội tán: “Tấu lễ tất”. Các quan chia ban đứng hầu. Nội tán: “Tấu hoàng thượng hướng khâm sứ hành
nhị ấp lễ” [Tâu hoàng thượng làm lễ vái khâm sứ hai vái]. Khâm sứ xuống điện đi ra.

Vua đến điện Cần-chánh. Vua cùng khâm sứ chia hai phía đông tây cùng ngồi, làm lễ tiếp đãi (uống
nước chè, ăn trầu). Xong rồi lại tiễn sứ đến ngoài ba cửa. Vua vái chào xong, khâm sứ đi ra lên kiệu.
Sai quan nghinh tiếp khâm sứ vào nhà công quán (ở nha môn Lễ bộ) thết yến. Vua ngự về điện Cần-
chánh, các quan theo hầu, Khi đến điện, nội tán tâu vua ngự lên ngai, các quan làm lễ khánh hạ 5 lạy
3 vái. Vua về cung. Các quan lần lượt đi ra.

Ghi chú:

Ngoài ra, khi xem lại một số nghi lễ được ghi lại dưới đời Nguyễn chúng ta thấy việc tuyên phong
hầu như có chung một thể thức như dưới thời Lê-Trịnh hay Tây Sơn.- chẳng hạn như:

– Sách phong cho vua Minh Mạng năm Minh Mạng thứ hai do thượng thư bộ Lễ họ Huỳnh, được dịch
bởi Hoàng Yến, thông dịch toà Khâm Sứ dưới nhan đề “Minh-Mạng va Recevoir l’Investuture a
Hanoi”[64] (Vua Minh Mạng ra nhận lễ tuyên phong ở Hà Nội) do khâm sứ nhà Thanh là Án Sát
Quảng Tây Phan Cung Thì (潘恭時) làm lễ ngày 20 tháng Chạp năm Tân Tị (12-1-1822).

– Tường thuật “Comment l’Empereur de Chine conféra l’Investiture a Tu-Duc”[65] (Lễ sách phong
của hoàng đế Trung Hoa cho vua Tự Đức như thế nào?) của giám mục Pellerin do linh mục Cadière
trong Bộ Truyền Giáo kể lại về lễ sách phong cho vua Tự Đức ở Huế ngày 22 tháng Bảy (AL) năm Kỷ
Dậu (10-9-1849) ghi nhận những quan sát từ bên ngoài.

– Cũng lễ này, một tài liệu của thượng thư bộ Lễ ghi lại tương đối đầy đủ và tri huyện Ngô Đình Khôi
đã dịch trong “L’Ambassade Chinoise qui conféra l’Investiture a Tu-Duc”[66]
Cũng trong dịp này, Phúc Khang An đã gửi biếu vua Quang Trung ba thanh như ý bằng ngọc, và gấm
vóc thêu tuấn mã để chúc mừng nên sau đó nước ta gửi thư cảm ơn kèm một bài từ chúc mừng sinh
nhật viên tổng đốc. Lá thư đó còn lưu trong BGHT dưới nhan đề “Mông Tặng Ngọc Như Ý Cung
Thượng Thọ Từ Tạ Bẩm” [tr. 696-7] trong đó có đoạn như sau:

… Trước đây tiểu phiên thỉnh phong, từng được đại nhân trước sau ngọc thành cho nên mới sớm
được ân phong, điển sách long trọng thực nước tôi từ trước đến nay chưa bao giờ được vinh dự như
thế nên vua tôi ai ai cũng cảm kích, không thể nào hình dung cho hết. Lại được ban cho ba thanh
như ý bằng ngọc quí, cùng một tấm đoạn màu thêu hùng mã, sai tổng quản lão gia đem sang mừng,
ơn thi trùng điệp, sóng vỗ lại nhiều, từ xưa đến nay phong cương đại thần của triều đình Trung Hoa
chưa bao giờ đãi kẻ ngoại phiên mà thiết tha ưu dị như thế.
Ngày 27 tháng Mười, vua Càn Long gửi cho Phúc Khang An và Tôn Vĩnh Thanh để hỏi xem việc
tuyên phong đã xong chưa? Cũng nhân dịp này ông gửi ban cho vua Quang Trung một chuỗi triều
châu bằng san hô, một đôi ngự dụng đại hà bao lớn và 2 đôi hà bao nhỏ để chúc cho ông mau bình
phục.

Trong dụ chỉ này, vua Càn Long có hỏi đến việc Ngô Văn Sở xin được cùng đi với vua Quang Trung
sang Bắc Kinh vào năm sau và dụ rằng vì nước mới dựng còn nhiều việc phải làm nên nếu Ngô Văn
Sở đi theo vua Quang Trung thì không có người cư thủ, vậy hãy đợi khi vua Quang Trung trở về rồi,
đến kỳ tiến cống hãy sang triều cận.[67]

Theo BGHT, sau khi vua Quang Trung gặp Nguyễn Quang Hiển ở Thăng Long ngày 18 tháng Chạp
ông đã gửi biểu tạ ơn vào đầu năm. Tạ biểu này còn ghi trong KDANKL như sau:

新封安南國王臣阮光平謹奉上言。
玆欽奉諭旨。特賜臣珊瑚朝珠一盤。御用大荷包一對。小苛包二對。為臣偶染疴恙。幸於領封之日。
已就痊可。特准部臣題奏。即奉御旨加恩。誌臣安痊之喜。
伏思臣猥由寡昧。忝列藩封。重以爾書敕命。寵以親製詩章。又御賜珊瑚朝珠。及大小荷包。眷顧恩
榮。至優極渥。浩浩其天之德。莫可名狀。顧臣菲薄。無階報稱。惟有親覲闕廷。祝萬年於紫陛。世遵
侯度。修三譯於清藩。
謹奉表稱謝者。
伏以
峻德克明。薄海仰協和之化。隆施斯普。新邦蒙眷注之私。叩首重霄。捫心萬里。
欽惟大皇帝陛下。克君克長。乃聖乃神。握乾綱而允執厥中。九經八條。作用真如此熟。敷恒德而美
成在久。六服群辟。儀刑罔不是孚。柔懷於下國胥同。封植在微臣尤篤。
玉音以保守操持是訓。親愛如家人父子之情。珍物偕服食器用均頒。寵榮曠從古君臣之遇。慶賞既
便蕃於行殿。
恩施猶絡繹於即途。臣身幸保康強。不謂嵬瑣玷光明之燭。臣國初蒙啟建。何幸涓微覃浩蕩之波。
九重之體悉至宏。
三錫之霑濡更厚。珠串煌煌佛寶。覩聖朝遐邇一串之休風。荷包馥馥天香。見皇極大小併包之盛德。
臣敢不承休無斁。述職惟虔。
雲開閶闔拜堯衣。期千秋鑑獻聖壽南山之頌。
日朗都畿環禹服。願九采圖展侯邦北面之恭。
臣下情無任瞻天仰聖。欣忭感激之至。
謹奉表稱謝以聞。
奏入。
奉硃批曰。
欣悅覽之。卿所使陪臣適至。即交彼持迴。卿閱朕硃批。益當歡喜。相見在即。同此殷念也。

Dịch âm
Tân phong An Nam quốc vương thần Nguyễn Quang Bình cẩn phụng thượng ngôn.
Tư khâm phụng dụ chỉ. Ðặc tứ thần san hô triều châu nhất bàn. Ngự dụng đại hà bao nhất đối. Tiểu
hà bao nhị đối. Vi thần ngẫu nhiễm kha dạng. Hạnh ư lĩnh phong chi nhật. Dĩ tựu thuyên khả. Ðặc
chuẩn bộ thần đề tấu. Tức phụng ngự chỉ gia ân. Chí thần an thuyên chi hỉ.
Phục tư thần ổi do quả muội. Thiểm liệt phiên phong. Trọng dĩ nhĩ thư sắc mệnh. Sủng dĩ thân chế
thi chương. Hựu ngự tứ san hô triều châu. Cập đại tiểu hà bao. Quyến cố ân vinh. Chí ưu cực ác. Hạo
hạo kỳ thiên chi đức. Mạc khả danh trạng. Cố thần phỉ bạc. Vô giai báo xưng. Duy hữu thân cận
khuyết đình. Chúc vạn niên ư tử bệ. Thế tuân hầu độ. Tu tam dịch ư thanh phiên.
Cẩn phụng biểu xưng tạ giả.
Phục dĩ
Tuấn đức khắc minh. Bạc hải ngưỡng hiệp hòa chi hóa. Long thi tư phổ. Tân bang mông quyến chú
chi tư. Khấu thủ trọng tiêu. Môn tâm vạn lí.
Khâm duy đại hoàng đế bệ hạ. Khắc quân khắc trưởng. Nãi thánh nãi thần. Ác can cương nhi doãn
chấp quyết trung. Cửu kinh bát điều. Tác dụng chân như thử thục. Phu hằng đức nhi mĩ thành tại
cửu. Lục phục quần tích. Nghi hình võng bất thị phu. Nhu hoài ư hạ quốc tư đồng. Phong thực tại vi
thần vưu đốc.
Ngọc âm dĩ bảo thủ thao trì thị huấn. Thân ái như gia nhân phụ tử chi tình. Trân vật giai phục thực
Khí dụng quân ban. Sủng vinh khoáng tòng cổ quân thần chi ngộ. Khánh thưởng kí tiện phiền ư hành
điện.
Ân thi do lạc dịch ư tức đồ. Thần thân hạnh bảo khang cường. Bất vị ngôi tỏa điếm quang minh chi
chúc. Thần quốc sơ mông khải kiến. Hà hạnh quyên vi đàm hạo đãng chi ba. Cửu trọng chi thể tất chí
hoành.
Tam tích chi triêm nhu canh hậu. Châu xuyến hoàng hoàng phật bảo. Ðổ thánh triều hà nhĩ nhất
xuyến chi hưu phong. Hà bao phức phức thiên hương. Kiến hoàng cực đại tiểu tính bao chi thịnh
đức. Thần cảm bất thừa hưu vô dịch. Thuật chức duy kiền.
Vân khai xương hạp bái nghiêu y. Kỳ thiên thu giám hiến thánh thọ nam san chi tụng.
Nhật lãng đô kỳ hoàn vũ phục. Nguyện cửu thải đồ triển hầu bang bắc diện chi cung.
Thần hạ tình vô nhậm chiêm thiên ngưỡng thánh. Hân biện cảm kích chi chí.
Cẩn phụng biểu xưng tạ dĩ văn.
Xin tâu lên.
Phụng châu phê viết.
Hân duyệt lãm chi. Khanh sở sử bồi thần thích chí. Tức giao bỉ trì hồi. Khanh duyệt trẫm chu phê. Ích
đương hoan hỉ. Tương kiến tại tức. Ðồng thử ân niệm dã.
Dịch nghĩa
Thần là An Nam quốc vương mới được phong Nguyễn Quang Bình kính cẩn tâu lên hoàng thượng:

Khâm phụng dụ chỉ đặc biệt ban cho thần một chuỗi triều châu làm bằng san hô, một đôi ngự dụng
hà bao lớn, hai đôi hà bao nhỏ.
Vì thần đột nhiên bị bệnh, cũng may đến ngày lãnh phong thì đã thuyên giảm, đặc biệt được bộ thần
đề tấu nên lại thêm ngự chỉ gia ân nên thần vui vẻ mà khỏi bệnh.

Cúi nghĩ thần là kẻ kém đức ngu muội, nay được phong làm phiên thuộc, ban cho tỉ thư sắc mệnh,
thân chế thi chương, lại ngự tứ san hô triều châu, cùng hà bao lớn nhỏ, quyến cố ân vinh, thật là ưu
đãi thương mến đến cùng cực, lồng lộng như đức của trời, không đâu cho xiết.
Vì thần mỏng manh không biết lấy gì báo đáp, chỉ có đích thân nhập cận khuyết đình, chúc vạn niên
nơi bệ tía, nguyện đời đời tuân phục mong ba lần dịch để được làm kẻ phiên thần nên nay kính cẩn
dâng biểu tạ ơn.
Cúi lạy mà rằng

Ðức đẹp mong được sáng mãi, nơi biển xa kính ngưỡng ơn giáo hoá hiệp hoà. Ơn ban xuống khắp
mọi nơi, nước mới mong được trên ngó xuống.
Rập đầu trùng tiêu, dãi lòng vạn dặm
Kính mong đại hoàng đế bệ hạ
Như vua mà cũng như cha. Như thánh mà cũng như thần
Cầm cương càn khôn mà giữ lấy điều trung
Chín kinh tám điều
Tác dụng quả quen như thế
Ðức trải rộng mà đẹp đã từ lâu. Sáu loại chư hầu[68] cùng qui tụ,
Nay nước vừa mới mở, đạo nhu hoài hạ quốc cũng chẳng khác gì
Vun trồng vì nước nhỏ lại càng chăm sóc.
Lời vàng ngọc dạy rằng hãy giữ lấy, tình thân ái có khác gì cha con một nhà.
Món ăn ngon đều chia cho, khí dụng cũng ban xuống. Sủng vinh như thế xưa nay quân thần nào có
mấy ai.

Khánh thưởng bao lần nơi hành điện. Lại ân thi cho ngựa chạy đem đến.
Thần may mắn thân thể khang cường, cũng nhờ ánh quang minh cao trên tỏa xuống.
Thần nước vừa mới dựng, sao may được hưởng mênh mông sóng cả bao la.
Cửu trùng thể tất thật lớn rộng, ba lần ơn trên ban thật hậu.
Vòng châu rực rỡ là đồ báu nhà Phật, thấy thánh triều gần xa đều hưởng gió tốt lành.
Hà bao thơm ngát hương trời, thấy hoàng cực lớn nhỏ đều gói tròn trong thịnh đức.
Thần thật nhận ơn mà không chán, chỉ biết chăm chăm gìn giữ.
Cửa rồng mở nên thần được bái áo vua Nghiêu, xin chúc thánh thượng thọ như Nam sơn.
Mặt trời chiếu xuống kinh đô lên y phục vua Vũ, mong các chư hầu cung kính hướng về phương Bắc.
Thần hạ được chiêm ngưỡng thiên nhan, thật vui mừng khôn xiết. Kính cẩn dâng tờ biểu tạ ơn này.
Xin tâu lên.[69]
Hoàng thượng châu phê:
Trẫm đọc rất vui mừng, bồi thần của khanh vừa đến nên giao lại để đem về. Khanh đọc lời phê bằng
mực son của trẫm sẽ càng sung sướng. Chẳng bao lâu sẽ gặp, trẫm cũng vui như khanh vậy.

Đây là tờ biểu đầu tiên dùng ấn An Nam quốc vương mới được phong.
Ngoài ra, vua Quang Trung cũng sai Ngô Thì Nhậm viết thư cảm ơn Phúc Khang An, Thang Hùng
Nghiệp, Lâm Hổ Bảng …

PHẦN VI Tiễn Khách

Sau khi làm lễ xong, Thành Lâm hỏi han về tình hình trong nước thì vua Quang Trung nói là nước
vốn 13 đạo, nay 12 đạo qui phụ chỉ còn đạo Cao Bình còn do cựu thần nhà Lê chiếm giữ.[70] Về việc
gặp gỡ với Nguyễn Quang Bình, Thành Lâm trong lời khai với Quân Cơ đại thần khi được triệu lên
kinh nguyên văn như sau:

Tuân chỉ tra hỏi Thành Lâm khai rằng khi tương kiến với Nguyễn Quang Bình thì Nguyễn Quang
Bình nói y [vua Quang Trung] ở Quảng Nam xa xôi nóng nực chưa từng đến nội địa nhưng nghe rằng
đại hoàng đế lên ngôi đã 54 năm, bốn biển thăng bình, trong ngoài nhất thống, kể cà văn đức võ
công đều vượt lên hơn mọi đời trước. Thánh thượng nay đã đến tuổi bát tuần nhưng vẫn an khang
mạnh khoẻ người ở xa không biết, nay xin được nghe cho tỏ tường.

Thành Lâm nhân thế mới cho hay rằng đại hoàng đế kính trời, chăm lo cho dân, ngày ngày coi sóc
mọi việc không hề bê trễ, tuy ở ngôi cao đã 54 năm mà cũng như một ngày, vạn quốc cửu châu đâu
đâu cũng thành tâm quay về.

Hoàng thượng có đủ cả ân uy, những kẻ không chịu ở yên như Y Lê, Hồi bộ Lưỡng Kim Xuyên thì ra
quân hỏi tội, giáo trời chỉ xuống thì đều quét sạch, mở đất khai cương hơn hai vạn dặm khiến cho bờ
cõi rộng lớn sử sách ít khi nghe tới. Đến như tấu thư chương sớ, công việc của bề dưới trong triều
ngoài tỉnh, lớn nhỏ cũng đều xem hết, đích thân phê đáp.

Còn như các nghề thêm vào, thơ văn ngự chế đến mấy vạn thiên, không bài nào mà không lo lắng
đến dân, quan hoài đến chính vụ. Đến nay thánh thọ bát tuần, tinh thần vững chãi, thiên nhan chẳng
khác gì lúc tráng thời. Mỗi năm cử hành điển lễ thu tiển [秋獮- đi săn mùa thu] cưỡi ngựa vây bắt,
đích thân cung tên, bắn trúng như thần. Đến kỳ tế lễ giao miếu cũng đều tự mình hành lễ, đăng hiến
nghi văn đều nghiêm trang kính cẩn đủ biết thánh thượng khang cường, kiện hành bất
tức [健行不息][71]. Lại thêm năm đời một nhà, cháu chắt đầy đàn, thật là việc thịnh từ xưa chưa từng
có.

Nguyễn Quang Bình nghe xong rất là hân hoan, vui mừng quả là chí thành lộ ra hỏi lại về gia thế,
niên kỷ của Phúc Khang An cùng con cái thế nào, đang giữ chức gì.

Thành Lâm cho biết Phúc Khang An là cháu [thân điệt – cháu gọi bằng cô hay dì] hoàng hậu Hiếu
Hiền, là con trai của đại học sĩ Trung Dũng Công Phó Hằng [傅恒] nhân vì xuất sư Kim Xuyên bình
định giặc Hồi được phong Gia Dũng Hầu. Năm ngoái đem binh vượt biển tiêu diệt tặc phỉ Đài Loan
nên được tấn phong công tước, năm nay 36 tuổi, có 1 con trai còn nhỏ.
Nguyễn Quang Bình thấy Phúc Khang An vốn dòng dõi công thần lại mấy lần lập được công lao, còn
chuyện bình định Đài Loan thì Quảng Nam đường biển tương thông nên cũng đã từng nghe rồi.

Thành Lâm xem sắc mặt thấy có vẻ kính phục sợ hãi nên cũng hứa sẽ tâu lên lòng cung thuận thay y.
Nguyễn Quang Bình tỏ vẻ cảm kích lại hỏi đến gia thế tuổi tác Thành Lâm, có con cái chưa?

Thành Lâm nói rằng tôi là người Mãn Châu, 38 tuổi, cha là Hạc Niên [鹤年], anh là Quế
Lâm[桂林] cũng đều từng làm việc dưới quyền tổng đốc Lưỡng Quảng.[72]
Thành Lâm sau đó cùng quan lại nước ta đến tế các tướng sĩ trận vong ở miếu mới lập ở phía nam
bờ sông. Cũng nhân dịp này, nhà Thanh cũng thoả hiệp với nước ta để đem các thi thể binh sĩ nhà
Thanh tử trận đem về nước chôn cất [câu 43-4].

[1] Nhà Thanh gọi là lễ “nghinh tiếp” nhưng nước ta thường tranh biện để không làm lễ này vì quốc
vương phải quì ở bên đường đón sắc thư. Xem Hoàng Xuân Hãn, “Cuộc tiếp sứ Thanh năm 1683” La
Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II (Hà Nội: Giáo Dục, 1998) tr. 747-827

[2] Cố Cung Bác Vật Viện [故宮博物院]: Cố Cung Bác Vật Viện Bát Thập Niên Đản Ký Quốc Tế Thanh

Sử Học Thuật Nghiên Thảo Hội Luận Văn Tập [故宮博物院八十华诞暨国际清史学术研讨会论文集].

Bắc Kinh: Tử Cấm Thành xbx, 2006. Trần Duy Tân [陈维新], “Thanh Mạt Đối Nga Ngoại Giao Nghi Lễ

Thể Chế Thất Bại Nguyên Nhân Thám Thảo” [清末对俄外交仪礼体制失败原因探讨] tr. 194

[3] Trần Duy Tân, tlđd tr. 194-5. Thanh Sử (1961) [đệ nhị sách, q. 92, Lễ Chí Thập: Tân Lễ] tr. 1122
[4] Nguyên văn

據協辦大學士兩廣總督公福康安奏。
為爾具表謝恩。展陳覲悃。

朕披閱表內。詞義肫懇。並請於明年進京入覲祝釐祈籲殷切。具見恭謹。所有賫到貢物。已諭令

賞收以遂爾芹曝之獻。至表內懇請格外加恩。給以封號。俾得奉有名分。鳩集小邦等語。

安南以黎維祁庸憒無能。天厭其德。國祚告終。爾現已悔罪投誠。遣親姪阮光顯奉表瞻覲。祈求懇切

。不啻再三。

朕順天而行。有廢有興。悉歸大功至正。本擬俟明歲親行叩覲時。賞給王爵。

玆閱爾表內所稱。造邦伊始。必須仰賴天朝寵榮。方足以資駕馭。因念爾國甫經兵燹之餘。民人

未獲安輯。若不重以天朝封號。恐一切呼應不靈。自係實在情形。爾既據實陳明。並不稍事虛飾。

朕深為嘉與。

且王者有分土無分民。安南雖遠在炎荒。皆吾赤子。中外自當一體。爾能憑藉寵靈。撫綏整頓。使國

內民庶。悉就安寧。實朕所深願。

用是即降恩綸,封爾為安南國王。俾資鎮撫。並親御制詩章。賜為爾國世寶。

嗣後凡有呈進表詞。及本國行文之處。俱准其書寫國王名號。其應行發給印信敕書。現交各衙門撰

文鑄篆。俟爾姪阮光顯到京。交與賷回。

至天朝提鎮大員。臨陣損軀。爾國内立廟享祀。亦足徵悔懼之忱。所請官銜謚號。亦即敕部隨後頒發

。爾其益當小心敬畏。恪守藩封。永承恩眷。

特諭。

[5] [芹曝] (cần bộc) món quà nhỏ nhoi không đáng nói tới

[6] Những lời chú để trong ngoặc [] là của chính vua Càn Long trong nguyên thi. [Chú]: Trẫm từ khi
lên ngôi đến nay, bình Y Lê, định Hồi bộ, thu Kim Xuyên đều được trời dẫn dắt. Trong ba đại công ấy
thực là thuận cơ nên được phù hộ mới thành chứ chẳng phải dùng binh để xâm lấn đất đai.
[7] [Chú]: Quang Bình vốn sang năm nhập cận để cung chúc bát tuần vạn thọ rồi xin phong vương
nhưng trong tạ biểu có nói phong hiệu để thu phục lòng người, lời lẽ thật đáng khen. Trẫm đã sắc
phong cho làm An Nam quốc vương để đời đời giữ được cương thổ, đóng vai phiên phục.
[8] Phan Huy Chú, LTHCLC (tập III) [bản dịch Viện Sử Học] Hà Nội: KHXH, 1992 tr. 185
[9] Phan Huy Chú, sđd, tr. 189
[10] Phan Huy Chú, sđd, tr. 190
[11] Phan Huy Chú, sđd, tr. 195
[12] Phan Huy Chú, sđd, tr. 206
[13] Phan Huy Chú, sđd, tr. 210
[14] Phan Huy Chú, sđd, tr. 211
[15] Xem Hoàng Xuân Hãn, “Cuộc tiếp sứ Thanh năm 1683” La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II
(Hà Nội: Giáo Dục, 1998) tr. 747-827
[16] Thanh Triều Văn Hiến Thông Khảo, q. 296, tr. 7453, Đại Thanh Hội Điển Sự Lệ, q. 511, tr. 15
(dẫn theo Trần Duy Tân, tlđd tr. 195)
[17] Bang Giao Hảo Thoại, “Phúc Kê Điển Lễ, Lưu Thủ Quan Bẩm”.
[18] Còn gọi là kính thiên ngũ bái vốn là nghi lễ của triều Minh
[19] Cương Mục, q. 42, tr. 12. Đại Thanh Hội Điển, q. 503. Trong nhiều tài liệu dịch của Việt Nam vì
không biết trong biểu gửi sang nhà Thanh tên vua Hiển Tông là Duy Đoan nên đoán là Duy Vũ.

[20] Sách vở ghi nhiệm vụ của Ngô Thì Nhậm là “loan hồi đại” [欒回代] không rõ nghĩa là gì. Theo

chúng tôi suy đoán, đây có lẽ là một tiếng Mãn Châu được phiên âm ra Hán ngữ. Nghi lễ nhà Thanh
thường được cử hành theo tập tục Mãn Châu và người tham gia phải học tập và quen thuộc với một
số từ ngữ để khi tán lễ quan xướng lên thì biết mà làm theo. Lý Văn Phức trong Sứ Trình Tiện Lãm
Khúc [bài ca đi sứ] viết năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) có ghi rằng “khi lư” là khấu đầu, “khô ly” là quì
gối, “y ly” là đứng dậy, “bô ti” là lễ xong trở về hàng … (Nam Phong số 99, Sept. 1925 tr. 260).
[21] […] Huệ định được Bắc Hà nhưng trong lòng vẫn còn băn khoăn về việc nội bộ nên để Ngô Văn
Sở ở lại giữ Bắc thành, nói rằng: “Phàm việc từ lệnh với triều đình Trung Hoa, ta uỷ cho Ngô Nhậm
và Phan Huy Ích lo việc đối đáp, qua lại, tự tiện tuỳ nghi xử trí. Nếu không phải là việc quan trọng thì
không cần bẩm báo… ” Nguyễn thị Tây Sơn ký, tr. 62.
[22] Theo lối hiểu ngày nay: “Hoàng thượng lại dặn hiền hầu rằng vì tôi [đại tư mã Ngô Văn Sở] còn
đang ở tại triều nên việc lo liệu đón tiếp sứ thần Trung Hoa thì trông vào một mình ông [Ngô Thì
Nhậm]. Vậy phải cẩn thận kỹ lưỡng lo việc văn thư uyển chuyển liệu theo tình thế. Nếu từ nay nội
địa [Trung Hoa] có thư từ gì gửi sang thì ông cố gắng viết sao cho khéo, cần chính đáng thì chính
đáng, cần mềm dẻo thì mềm dẻo miễn sao việc nước ổn thoả mười phần rồi trong khoảng một, hai
tháng nữa tôi cũng sẽ ra kinh đô để cùng [với ông] lo quốc sự.”
[23] DVQT, tr. 225-6
[24] Đình Kiên Nghĩa là nơi vua Lê tiếp sứ thần Trung Hoa còn gọi là Cầu Cháy hay Đông Tân là nơi
Trương Phụ đời Minh bắc cầu phao để qua sông. Đối diện bên kia sông là bến thuyền, thương khách
người Thanh lập thành phố buôn bán, mái ngón san sát. Địa Chí Thăng Long Hà Nội trong thư tịch
Hán Nôm (2007) tr. 49
[25] “Cuộc tiếp sứ Thanh năm 1683”. La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II: Trước Tác (Phần II:
Lịch Sử) (1998) tr. 768-9.
[26] DVQT, quyền IV, tr. 293. Theo GS Hoàng Xuân Hãn thì con đường sứ bộ đi có thể là “[…] phố
hàng Buồm dọc sông Tô-lịch, phố Phúc-kiến đến Ngã ba hàng Vải; rồi quay bên trái, đi dọc theo
thành qua các phố Hàng Gà, hàng Điếu, hàng Da đến dinh Tá-lý tại Cấm-chỉ, ở chỗ giáp phố Hàng
Bông và phố Cửa Nam hay cửa Vò-vò. Từ đó tiến về phương Bắc để vào Hoàng-thành qua cửa Đông-
tràng-an ở bên trái […] “Cuộc tiếp sứ Thanh năm 1683”. La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II:
Trước Tác (Phần II: Lịch Sử) (1998) tr. 751. Đình Quảng Văn ở bên ngoài Hưng Môn, xây năm Hồng
Đức 22 (1491) là nơi công bố pháp lệnh của triều đình, sau bị đốt cháy tới đời Gia Long mới dựng
lầu gọi là đình Quảng Minh. Địa Chí Thăng Long Hà Nội trong thư tịch Hán Nôm (2007) tr. 52, 413
[27] Quan lo việc sổ sách kế toán (mandarin comptable). Đặng Phương Nghi, sđd tr. 135
[28] Hoàng Thành Thăng Long (2006) tr. 197
[29] Quan cấp nhỏ lo việc hành chánh (mandarin des services administratifs). Đặng Phương
Nghi: Les Institutions Publiques Du Viet-Nam au XVIIIe Siècle (Paris, 1969) Index Alphabétique tr.
135
[30] Quan lo việc sổ sách kế toán (mandarin comptable). Đặng Phương Nghi, sđd tr. 135
[31] Quan lo việc hành chánh
[32] Quan lo việc hành chánh cấp nhỏ hơn Cai Hợp
[33] DVQT, q. 4, tr. 257-8
[34] Theo các sách cũ thì là Mai Pha, có lẽ hai tên là một.
[35] Còn gọi là Lã Côi, Lữ Côi, Lữ Khôi
[36] Công quán Gia Quất theo DVQT thì như sau:
Chính đường : 3 dãy nhà ngói, mỗi dãy 5 gian . Quan khâm sứ nghỉ
Tả liên: 2 dãy, mỗi dãy 7 gian
Hữu liên : 2 dãy, mỗi dãy 7 gian
Bếp 1 dãy, 10 gian lợp tranh
Nghi môn : 1 dãy, 3 gian
Tả hãn môn: 1 dãy 5 gian
Hữu hãn môn : 1 dãy 5 gian
Chuồng ngựa : 2 dãy, mỗi dãy 3 gian
Nhà xí: 8 chỗ, mỗi chỗ 1 gian
Cô đình : 4 toà trên gò đất
[37] Hoàng Xuân Hãn: “Cuộc tiếp sứ Thanh năm 1683”. La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II:
Trước Tác (Phần II: Lịch Sử) (1998) tr. 751
[38] DVQT, q. 2 (tr. 95-100) (bản dịch NDC)
[39] Ở đây nói về trường hợp đem sắc phong vua mới và dụ văn để tế vua cũ đã qua đời. Trong
trường hợp sang phong cho vua Quang Trung, cũng dùng 2 long đình, một để sắc thư, một để ngự
thi [thơ vua Càn Long ban cho vua Quang Trung]. Sắc thư lần này chỉ là bản sao vì bản chính do
Nguyễn Quang Hiển nhận cùng với ấn bạc còn đang trên đường chưa về tới Quảng Tây.
[40] DNHDSL [tập IV] (2005) tr. 438-9
[41] DVQT, q. 4, tr. 231
[42] Tấu thư nhận ngày 29 tháng Mười của Phúc Khang An. KDANKL, q. XXIII, tr. 15-8
[43] DVQT, q. III (bản dịch NDC)
[44] DVQT, q. II (thư Nguyễn Quang Thuỳ gửi lên tổng quản thiên triều) tr. 132-4. Viên tổng quản
này sau bị bệnh qua đời quan tài đem về Quảng Tây.

[45] Nguyên tác trâm thân [簪紳] là cái kim cài đầu và giải áo, tượng trưng cho gia đình quyền quí,

cá nhân khoa bảng


[46] DVQT, q. III, tr. 170-2 (bản dịch NDC)
[47] KDANKL, q. XXIII, tr. 13
[48] Xem “Cuộc Tiếp Sứ Thanh năm 1683” của Hoàng Xuân Hãn. (Tập San KHXH Paris, số 3
11/1977) in lại trong La Sơn Yên Hồ tập II từ trang 747-827.
[49] DVQT, q. III tr. 202
[50] DVQT, q. III tr. 200
[51] DVQT, q. III tr. 173-4
[52] Từ nhiều nguồn khác nhau, việc phục dựng các chi tiết được bổ sung bằng những báo cáo
tương đối thường xuyên của sứ thần nhà Thanh vì vua Càn Long muốn theo dõi thật khít khao công
tác này và chính Phúc Khang An cũng muốn đóng một vai trò nổi bật trong việc tái lập bang giao với
Tây Sơn và mời vua Quang Trung sang dự lễ khánh thọ.
[53] Phan Huy Chú là con trai thứ ba của Phan Huy Ích, thân mẫu là bà Ngô Thị Thục, em gái Ngô Thì
Nhậm. Vì hai bên nội ngoại đều là gia đình khoa bảng nên ông có nhiều cơ hội đọc sách vở. Tuy chỉ
đỗ tú tài ông vẫn được triệu vào kinh giữ chức biên tu trong trường Quốc Tử Giám. Khi dâng bộ sách
này Phan Huy Chú được vua Minh Mạng thưởng 30 lạng bạc, 1 áo sa, 30 cái bút và 30 thỏi mực.
Tuy cuộc đời làm quan ngắn ngủi nhiều lận đận song ông để lại nhiều công trình lớn như Lịch Triều
Hiến Chương Loại Chí, Hoàng Việt Dư Địa Chí, Hải Trình Chí Lược … và nhiều tác phẩm mà hiện nay
chưa xác định được còn hay mất.
Về cuộc đời và di sản của Phan Huy chú có thể tham chiếu các tài liệu 1/ Nhiều tác giả. Phan Huy
Chú Và Dòng Văn Phan Huy. Hà Sơn Bình: Sở Văn Hoá Thông Tin, 1983, 2/ Nguyễn Ngọc Nhuận

(dịch và chú giải), Phan Huy Lê (hiệu đính). Phan Gia Công Phả (潘家公譜) Hà Nội: Thế Giới, 2006,

3/ Phan Huy Long & Phan Huy Uẩn. Gia Phả Họ Phan, tập I (bản in ronéo). Saigon, 1963, 4/ Phan
Huy Lê, Claudine Salmon & Tạ Trọng Hiệp (dịch và giới thiệu). Phan Huy Chú – Hải Trình Chí

Lược (潘輝注,海程誌畧) [Récit sommaire d’un voyage en mer, 1833]. France: Cahier d’Archipel 25,

1994.
[54] Nội Các Triều Nguyễn. Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (8 tập) [bản dịch Viện Sử Học Hà
Nội]. Huế: Thuận Hoá, 2005.
[55] Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (2005) tập IV.
[56] Vũ Trung Tuỳ Bút (bản dịch Trần Thị Kim Anh, KHXH, 2003), phần Hán Văn (Sách Phong) tr.
486-7
[57] Ðại Nam Thực Lục, đệ Nhất kỷ, q. XXIII [bản dịch Viện Sử Học] (Hà Nội: Giáo Dục, 2002) tr. 581
[58] Trong quá khứ cũng đã có những tranh biện về nghi thức này, nước ta muốn làm lễ 5 lạy 3 vái
theo đời Minh, nhà Thanh muốn phải lễ 3 quì 9 vái theo điển lệ của họ.
[59] Dụ Am Văn Tập, xem phần Giản Trát Loại hạ, đệ Tứ sách
[60] DVQT, q. IV. Đoạn này nguyên văn viết bằng chữ Nôm:

…行,戈行帆,行襖,旦行桃,址行襊,戈我行姜,蓮縣,戈錦紙,蓮廣文亭,戈宇宇蓮内殿。

[61] Theo Vũ Trung Tuỳ Bút của Phạm Đình Hổ (bản dịch Trần Thị Kim Anh, KHXH, 2003) trong bài
“Tây Sơn Đắc Địa” có chép là “chúa Tây Sơn đến đón trước ở bến Lã Côi” (tr. 269). Vì không ghi rõ
nên không biết chúa Tây Sơn chỉ vua Quang Trung hay nói về lễ sách phong cho vua Cảnh Thịnh sau
này. Tuy nhiên theo miêu tả trong Lịch Triều Tạp Kỷ thì vua Quang Trung cho con thứ là Nguyễn
Quang Thuỳ và bồi thần sang Gia Quất đón và chỉ gặp phái đoàn khi đã vào trong nội điện.
[62]…Quang Bình cốt cách khá thanh tú, hình dáng bệ vệ ra vẻ hào kiệt đất Giao Nam.
… Hôm đứng vào tế ban ở Tịch Nguyệt Ðàn nơi điện Thái Hoà mới thấy họ [tức sứ đoàn nước ta]
mặc y phục bản quốc. Vua của họ đầu bịt khăn lưới, đội mão vàng bảy ngấn, mình mặc long bào bằng
gấm màu, đeo đai bằng ngọc trắng. Tòng thần cũng quấn khăn, đội mão đen năm ngấn, thân mặc
mãng bào hoặc màu xanh, hoặc màu tía, đeo đai vàng, hình trên áo bác tạp, lạ lùng trông như trong

tuồng hát khác xa cổ chế nước An Nam. Từ Hạo Tu (徐浩修): Yên Hành Kỷ (燕行紀) Tuyển Tập V
(Soul: Minjok Munhwa Ch’ujinhoe,1976) q. II, phần nguyên tác chữ Hán. Xem thêm “Lễ Bát Tuần
Khánh Thọ và Phái Đoàn Đại Việt” biên khảo NDC.
[63] LTHCLC, Bản dịch Viện Sử Học (Hà Nội: KHXH, 1992) tập III: Binh Chế Chí, Văn Tịch Chí, Bang
Giao Chí tr. 213-4
[64] BAVH, Avril-Juin 1917, tr. 89-102
[65] BAVH, Juillet-Septembre 1916, tr. 297-308
[66] BAVH, Juillet-Septembre 1916, 309-314
[67] Càn Long Triều Thượng Dụ Đáng, q. XV (632), tr. 278

[68] [周王畿以外的諸侯邦國曰服。其等次有六:侯服,甸服,男服,採服,衛服,蠻服。]

(Chu vương kỳ dĩ ngoại đích chư hầu bang quốc viết phục, kỳ đẳng thứ hữu lục: hầu phục, điện phục,
nam phục, thái phục, vệ phục, man phục) Nhà Chu gọi các nước thần phục mình là chư hầu, chia ra
làm sáu loại: hầu, điện, nam, thái, vệ và man.
[69] KDANKL, 26.4 tr. 9-12
[70] KDANKL, q. XXIII tr. 20-1

[71]周易: 天行健,君子以自强不息 (quẻ Càn). Lời trong Kinh Dịch: Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự

cường bất tức. Trời hành động mạnh mẽ, người quân tử cũng vươn lên không nghỉ. Ý ca tụng vua
Càn Long là bậc thiên tử làm việc không ngừng.
[72] Càn Long Triều, Thượng Dụ Đáng q. XV [882] tr. 387-8

You might also like