Professional Documents
Culture Documents
Đ NG Kinh
Đ NG Kinh
Đ NG Kinh
Động kinh là bệnh lý phổ biến không chỉ ở nước ta mà còn ở các nước khác trên thế giới. Đồng
thời đây cũng một trong những bệnh thần kinh có lịch sử lâu đời nhất và để lại tổn hại thần kinh
nặng nề cho bệnh nhân. Theo ước tính của Tổ chức Y Tế Thế Giới (WHO), trên thế giới hiện có
khoảng 50 triệu người mắc bệnh động kinh. Ở Việt Nam, động kinh đứng hàng thứ 2 trong các
loại bệnh thần kinh và theo số liệu thống kê nhiều trung tâm, khoảng 0.6 - 1% dân số ảnh hưởng
bởi bệnh này.
Điều trị chủ yếu động kinh là sử dụng thuốc chống động kinh; trong một số trường hợp kháng
thuốc, các phương pháp điều trị khác như phẫu thuật, kích thích dây thần kinh X, chế độ ăn sinh
keton…sẽ được xem xét.
Năm 1850, bromides là thuốc chống động kinh đầu tiên chính thức được ra đời. Nhiều năm sau
đó hàng loại các thuốc khác như phenolbarbital, phenyltoin, carbamazepine, valproate… lần lượt
xuất hiện. Đến những năm thập niên một số thuốc mới như lamotrigine, oxcarbamazepine,
topiramate, gabapentin, levetiracetam..ban đầu được sử dụng như thuốc điều trị phối hợp với các
thuốc kinh điển thế hệ trước. Về sau nhiều nghiên cứu chứng minh các thuốc thế hệ mới có tác
dụng chống động kinh tương đương lại ít gây tác dụng phụ cho bệnh nhân, từ đó chúng được sử
dụng đơn trị liệu cho loại bệnh lý này.
Sự lựa chọn thuốc khi bắt đầu điều trị có vai trò quan trọng vì đây có thể là thuốc duy nhất được
sử dụng cho bệnh nhân trong nhiều năm. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy có đến 37% các
trường hợp bệnh nhân không còn cơn động kinh khi bắt đầu quá trình điều trị, chính vì thế loại
thuốc sử dụng khởi đầu có xu hướng được duy trì trong thời gian dài nếu không xảy ra các tác
dụng ngoại ý nghiêm trọng. Do đó thuốc được chọn để bắt đầu quá trình điều trị là loại thuốc
được bác sĩ kì vọng vừa đem lại hiệu quả tốt nhất trong kiểm soát cơn động kinh vừa có tính
dung nạp cao nhất đối với từng bệnh nhân.
Những năm gần đây, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm so sánh trực tiếp các thuốc
chống động kinh thế hệ thứ hai so với thế hệ thứ nhất. Từ đó bước đầu nhận thấy các thuốc
chống động kinh thế hệ sau có hiệu quả kiểm soát cơn tương đương với thế hệ trước đồng thời có
tính dung nạp tốt hơn.
Trước đây, các khuyến cáo về điều trị động kinh cho rằng nên sử dụng lần lượt từng loại thuốc
chống động kinh vì e ngại tác dụng phụ tăng lên khi phối hợp nhiều thuốc cùng lúc. Tuy nhiên
với sự ra đời của các thuốc thế hệ hai, hiện nay việc sử dụng đồng thời các loại thuốc ngày càng
trở nên phổ biến. Trên nhiều trường hợp đáp ứng không tốt với đơn trị liệu, các bác sĩ sử dụng
phối hợp hai, ba hoặc thậm chí bốn thuốc cùng lúc để cố gắng kiểm soát cơn tốt nhất có thể
nhằm đem lại chất lương cuộc sống cao nhất cho bệnh nhân.
Việc phối hợp nhiều thuốc chống động kinh cũng tương đối phức tạp, nó đòi hỏi kiến thức y
khoa chuyên sâu trong việc chọn lựa chọn phác đồ phối hợp thích hợp cũng như liều điều trị hợp
lý cho từng trường hợp. Hai yếu tố được quan tâm nhất khi phối hợp thuốc là tương tác dược lực
học giữa các thuốc cũng như tác dụng phụ khi kết hợp. Dưới đây là một số ví dụ về sự phức tạp
trong phối hợp thuốc:
1. Phenobarbital phối hợp valproate: gây tăng ngầy ngật và dễ lên cân.
2. Phenyltoin và carbamazepine: gây tăng choáng váng và nhìn đôi, khó duy trì nồng độ
điều trị do tương tác thuốc.
3. Valproate và lamotrigine: cần giảm liều lamotrigine do một số trường hợp có thể choáng
váng, phản ứng da (tuy nhiên đây là một phác đồ có hiệu quả cao trong kiểm soát cơn).
4. Topiramate, lamotrigine hoặc zonisamide và một số thuốc chống động kinh gây cảm ứng
men (VD carbamazepine, phenyltoin) cần phải tăng liều thuốc để đạt được hiệu quả điều
trị.
Một số sự kết hợp thuốc chống động khi có tác dụng phụ tương tự nhau đôi khi cũng mang lại
hiệu quả, tuy nhiên rất ít được sử dụng do dễ làm tăng tác dụng ngoại ý như choáng váng, nhìn
đôi, mất thăng bằng... Ví dụ:
Do vậy khi cần kết hợp thêm thuốc chống động kinh, đôi khi bác sĩ điều trị cần điều chỉnh liều
thuốc nhằm giúp cho bệnh nhân dung nạp thuốc tốt hơn cũng như đạt hiệu quả điều trị cao hơn.
Trong các trường hợp không thể kiểm soát cơn thành công với 2 thuốc chống động kinh thì bổ
sung thêm thuốc thứ 3, thứ 4 sẽ được đặt ra. Một số trường hợp kháng thuốc đôi khi bệnh nhân
phải sử dụng đến 5 thuốc hoặc hơn nữa nhằm cố gắng hạn chế số cơn động kinh. Bên cạnh việc
phối hợp thêm thuốc thì giảm bớt các loại thuốc ít có tác dụng hoặc nhiều tác dụng phụ cũng là
vấn đề luôn được các bác sĩ xem xét. Tuy nhiên việc giảm, ngưng các loại thuốc nếu thực hiện
không hợp lý có thể dẫn đến các tình huống nghiêm trọng như động kinh cơn chùm hoặc thậm
chí trạng thái động kinh. Chính vì thế, việc giảm thuốc thường được thực hiện dần dần kéo dài
trong nhiều tuần nhằm tránh làm tăng số cơn cho bệnh nhân, đặc biệt là với các bệnh nhân ngoại
trú. Ở một số trường hợp phức tạp, việc giảm thuốc dù thực hiện chậm trong thời gian kéo dài
vẫn làm tần số cơn tăng lên, do đó cần được nhập viện để theo dõi sát quá trình điều chỉnh thuốc.
Thuốc chống động kinh trong các trường hợp riêng biệt
Bệnh nhân có tiền căn mẫn cảm với thuốc, phản ứng da hoặc các cơ quan khác do thuốc cần phải
được tư vấn và điều trị với sự theo dõi y khoa nghiêm ngặt. Việc lựa chọn thuốc trong những
trường hợp này đóng vai trò thiết yếu trong thành công của điều trị. Một số thuốc như
phenyltoin, lamotrigine, carbamazepine, phenolbarbital thường được khuyến cáo hạn chế sử
dụng; trong khi đó levetiracetam, gabapentin, pregabalin và valproate với nguy cơ thấp đối với
các tác dụng phụ trên được ưu tiên chọn lựa điều trị.
Đối với bệnh nhân thừa cân, valproic acid, gabapentin, pregabalin, carbamazepine và ezogabine
không phải là lựa chọn tối ưu; trong khi đó với tác dụng có thể làm giảm cân, topiramate và
zonisamide lại có thể hợp lý hơn để sử dụng cho bệnh nhân. Tuy nhiên topiramate và zonisamide
thường hạn chế sử dụng trên bệnh nhân sỏi thận do có thể làm sỏi thận tăng lên.
Bệnh nhân giảm chức năng thận cũng thường được khuyến cáo giảm liều với các thuôc chống
động kinh thải qua thận, nhất là đối với một số loại thuốc như levetiracetam, gabapentin và
pregabalin. Tương tự đối với bệnh nhân suy giảm chức năng gan cũng cần điều chỉnh liều, trong
trường hợp này valproate và felbamate thường không được lựa chọn.
Ngoài ra, với một số thuốc chống động kinh có đặc tính cảm ứng men như phenyltoin,
carbamazepine, phenolbarbital và primidone thường hạn chế được sử dụng trên những bệnh nhân
có các bệnh lý mãn tính cần được điều trị kéo dài bằng các loại thuốc khác; trong trường hợp này
là các thuốc chống loạn nhịp, thuốc ức chế kênh canxi, thuốc kháng đông, kháng nấm, hạ mỡ
máu, chống virus, hóa trị, ức chế miễn dịch, chống trầm cảm và chống loạn thần. Nguyên nhân
của điều này là vì khi sử dụng chung đôi khi sẽ khó kiểm soát nồng độ thuốc trong cơ thể do sự
tương tác giữa chúng.
Chúng ta cũng cần lưu ý thuốc chống động kinh cũng có thể có tác dụng ổn định khí sắc hoặc
ngược lại gây ra một số vấn đề về hành vi. Ví như carbamazepine, lamotrigine, oxcarbamazepine
và valproate được dùng để điều trị rối loạn khí sắc. Trong khi đó levetiracetam (và
phenobarbital ở trẻ em) có thể làm cho bệnh nhân dễ bị kích thích; topiramate, phenobarbital,
mysoline, và vigabatrin lại là nguyên nhân của của khí sắc trầm cảm. Lamotrigine và felbamate
với tác dụng kích thích đôi khi làm bệnh nhân mệt mỏi, mât ngủ.
Các thuốc tăng cường hoạt động hệ thống enzyme của gan như phenyltoin, carbamazepine,
phenolbarbital và primidone hay thuốc ức chế hệ thống này như valproate có thể làm thay đổi
nồng độ thuốc ngừa thai, hormones steroid và nồng độ các vitamin; từ đó có thể làm thay đổi chu
kỳ kinh nguyệt, chu kỳ rụng trứng cũng như làm tăng nguy cơ loãng xương cho phụ nữ. Tuy
nhiên sự ảnh hưởng của thuốc chống động kinh lên khả năng mang thai hiện nay vẫn còn đang
được tìm hiểu.
Lựa chọn thuốc chống động kinh cho phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ cũng là một trong những vấn
đề được các bác sĩ lâm sàng quan tâm. Một số dị tật thai nhi như dị tật tim, sứt môi, hở hàm ếch,
bệnh đầu nhỏ, chậm phát triển…dễ xuất hiện hơn khi mẹ sử dụng thuốc chống động kinh trong
quá trình mang thai. Tỉ lệ khiếm khuyết ống thần kinh khi mẹ sử dụng carbamazepine là 0.5%,
valproate là 1%. Một số nghiên cứu gần đây cũng nhận thấy tỉ lệ quái thai khi mẹ sử dụng
valproate cao hơn so với khi sử dụng các thuốc chống động kinh khác. Nhìn chung các khuyến
cáo gần đây đều cho rằng nên sử dụng các thuốc ít gây tác dụng phụ, hạn chế sử dụng valproate
cũng như hạn chế phối hợp nhiều thuốc chống động kinh trên phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ nhằm
làm giảm tỉ lệ dị tật thai nhi. Nếu bắt buộc phải sử dụng thì cố gắng duy trì liều thấp nhất và đơn
trị liệu nếu có thể.
Người lớn tuổi nguy cơ động kinh cao hơn dân số chung. Hơn nữa do cả chức năng của gan và
thận đều suy giảm nên người lớn tuổi cũng dễ bị tác dụng phụ của thuốc chống động kinh hơn
người trẻ. Các tác dụng phụ hay gặp gồm giảm nhận thức, lừ đừ, mất thăng bằng dáng đi..Chính
vì thế ở người cao tuổi, thuốc chống động kinh cần được sử dụng ở liều thấp, tăng liều chậm
nhằm hạn chế các tác dụng bất lợi. Hơn nữa cần lưu ý một số thuốc chống động kinh như
phenyltoin, carbamazepine và valproate làm tăng tỉ lệ loãng xương cho bệnh nhân, từ đó càng dễ
dẫn đến nguy cơ gãy xương ở nhóm đối tượng vốn đã mang nguy cơ cao loại bệnh lý này.
Kết luận
Mỗi thuốc chống động kinh có những ưu và khuyết điểm khác nhau; mỗi một bệnh nhân cũng có
những đặc trưng riêng. Chính vì thế người bác sĩ lâm sàng sẽ căn cứ vào từng trường hợp cụ thể
để lựa chọn thuốc chống động kinh phù hợp nhất cho từng bệnh nhân, nhằm đạt được mục tiêu
cuối cùng là bệnh nhân không còn cơn động kinh cũng như ít chịu tác dụng phụ do thuốc gây ra,
từ đó mang lại chất lượng sống cao nhất cho người bệnh.
+ Khởi đầu cục bộ (partial onset) (focal seizures : động kinh cục bộ)
– Động kinh cục bộ đơn thuần (simple partial seizures) : “ aura ” (không bị biến đổi tri
giác)
– Động kinh cục bộ phức hợp (complex partial seizures) (với biến đổi tri giác)
– Động kinh cục bộ toàn thể hóa thứ phát (secondarily generalized partial seizures)
+ Khởi đầu toàn phát (generalized onset) (generalized seizures : động kinh toàn thể)
– Vắng ý thức (absence) : điển hình và không điển hình
– Co cứng – co giật (tonic-clonic) (cơn co cứng-co giật)
– Co cứng (tonic) (cơn co cứng)
– Co giật (clonic) (cơn co giật)
– Giật rung cơ (myoclonic)
– Vô trương lực (atonic)
– Infantile spasm
+ Không được xếp loại
+ Các thương tổn thực thể mắc phải : để dễ nhớ sử dụng những chữ đầu của VITAMIN
Vascular (xuất huyết, dị dạng động-tĩnh mạch, huyết khối tĩnh mạch, cavernous
angiomas)
6/ VÀI NGUYÊN NHÂN CỦA TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH LIÊN TỤC ?
Thương tổn cấp tính của hệ thần kinh trung ương (50%), thay đổi thuốc ở những bệnh nhân động
kinh (20%), và những nguyên nhân không được biết (30%).
10/ NHỮNG GÌ PHÂN BIỆT CO GIẬT DO TÂM LÝ VỚI CO GIẬT ĐỘNG KINH ?
Co giật nguyên nhân tâm thần (psychogenic seizures) thường kéo dài hơn co giật động kinh
(epileptic seizures) ( > 5 phút, thường lặp đi lặp lại), thường không liên kết với són đái hay
thương tổn vật lý, và thường liên kết với những cử động đẩy xương chậu ra trước (pelvic
thrusting) và quay đầu qua lại, và đề kháng với các thuốc chống co giật.
11/ NHỮNG YẾU TỐ BỆNH SỬ NÀO GIÚP XẾP LOẠI CÁC CO GIẬT ?
AURA tóm tắc những yếu tố bệnh sử cần thiết :
A : Automatisms (tính tự động) (hoạt động không có mục đích lặp đi lặp lại), aura (tiền triệu)
(những mùi bất thường, cảm giác thượng vị), altered consciousness (tri giác bị biến đổi)/ acute
confusional postictal state (trạng thái lú lẫn cấp tính sau cơn vật) (điển hình xảy ra với tất cả các
động kinh, ngoại trừ các cơn động kinh cục bộ đơn thuần (simple partial), động kinh giật rung cơ
(myoclonic), và các động kinh vắng thức (absence) ; những hiện tượng sau cơn vật không điển
hình gồm có phù phổi do nguyên nhân thần kinh (neurogenic pulmonary edema) (thường sau
trạng thái động kinh và bại liệt Todd (bại liệt thần kinh khu trú tạm thời kéo dài dưới 48 giờ),
accidents (các tai nạn) (thí dụ són đái, cắn lưỡi).
U : unprovoked (thường không được phát khởi bởi những kích thích xúc cảm)
R : Retrograde amnesia (mất trí nhớ về trước)
A : Abrupt onset (phát khởi đột ngột), thời gian ngắn (< 90-120 giây). Các người quan sát
thường đánh giá quá mức thời gian.
12/ NHỮNG YẾU TỐ NÀO KHÁC NÊN ĐƯỢC ĐƯA VÀO TRONG BỆNH SỬ ?
Tiền sử cá nhân và gia đình về bệnh tâm thần hay các cơn động kinh ; tần số và kiểu co giật xảy
ra ; sốt cao co giật lúc nhỏ ; các bất thường bẩm sinh ; đột quy trước đây, nhiễm trùng hệ thần
kinh trung ương, hay chấn thương đầu ; bệnh đái đường, bệnh thận hay gan, sickle cell,
HIV/acquired immunodeficiency syndrome (AIDS); ung thư ; thuốc bao gồm thuốc không cần
toa và herbal remidies), những thay đổi liều lượng mới đây, những thuốc mới, sự tuân thủ điều
trị, lạm dụng chất mà túy hay rượu ; và thiếu ngủ.
13/ NHỮNG DẤU HIỆU VẬT LÝ CHỦ YẾU CẦN TÌM KIẾM ?
– Những dấu hiệu sau cơn vật : Tăng phản xạ, phản xạ Babinski, giãn đồng tử, liệt Todd.
– Những hậu quả của một cơn co giật : són đái, tăng thân nhiệt, cao huyết áp (khởi đầu), theo sau
bởi hạ huyết áp, loạn nhịp tim, phù phổi, cắn lưỡi, bầm tím, gãy xương, sai khớp.
14/ NHỮNG XÉT NGHIỆM NÀO NÊN ĐƯỢC THỰC HIỆN Ở CÁC BỆNH NHÂN VỚI
CO GIẬT MỚI KHỞI PHÁT ?
Bảo hòa oxy, glucose, sodium, calcium, magnesium, BUN, creatinine, các enzyme gan,
hemoglobin, các tiểu cầu, đếm bạch cầu, phân tích nước tiểu, trắc nghiệm giang mai, và thăm dò
độc chất. Hãy xét trắc nghiệm HIV ở những vùng có mức độ lưu hành cao hay nếu có những yếu
tố nguy cơ. Tất cả các bệnh nhân với những cơn động kinh mới phát khởi nên cho thực hiện CT
hay MRI vào lúc thăm khám để loại bỏ những thương tổn thực thể. Nếu thăm dò ban đầu là CT
Scan, một MRI theo dõi nội trú nên được dự kiến
15/ NHỮNG BẤT THƯỜNG NÀO CÓ THỂ THẤY ĐƯỢC TRONG CÁC KẾT QUẢ XÉT
NGHIỆM SAU MỘT CƠN ĐỘNG KINH CO CỨNG-CO GIẬT TOÀN THỂ ?
Nhiễm toan chuyển hóa, hạ đường huyết/tăng đường huyết, giảm oxy-mô, tăng bạch cầu, tăng
prolactine-huyết (mười phút đầu), đông máu rải rác trong lòng mạch, tan cơ vân
(rhabdomyolysis).
17/ KHI NÀO NÊN THỰC HIỆN MỘT ĐIỆN NÃO ĐỒ CẤP CỨU ?
Trong các trường hợp (1) trạng thái tâm thần bị biến đổi kéo dài hay không phản ứng sau một
cơn co giật có người chứng kiến để loại trừ tình trạng động kinh không co giật (nonconvulsive
status epilepticus) đang tiếp tục. (2) tình trạng động kinh đề kháng (refractory status epilepticus),
được điều trị bằng hôn mê thuốc gây mê (anesthetic coma) hay bại liệt dược lý (pharmacologic
paralysis), hoặc (3) trạng thái tâm thần bị biến đổi không rõ nguyên nhân.
19/ NHƯNG XÉT NGHIỆM NÀO KHÁC CÓ THỂ ĐƯỢC THỰC HIỆN KHI BỆNH
CẢNH KHÔNG RÕ RÀNG ?
Siêu âm tim, Holter monitor; tilt-table test, sleep study, và EEG-video monitoring.
20/ MÔ TẢ XỬ TRÍ BAN ĐẦU MỘT TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH LIÊN TỤC ĐƯỢC
CHỨNG KIẾN ?
Bảo vệ bệnh nhân khỏi bị tự gây chấn thương. Nếu bệnh nhân đứng, hãy giúp bệnh nhân nằm
xuống, lót nệm nếu có thể được, giữ vững cổ bệnh nhân, bất động cổ nếu có vấn đề thương tổn
cột sống. Đừng đặt gì vào miệng bệnh nhân. Lăn bệnh nhân về một bên và khai thông đường hô
hấp vào cuối cơn co giật. Điều trị nguyên nhân nếu biết. Hầu hết các cơn co giật tự chấm dứt.
Nếu tiếp tục hơn 5 phút, tiến hành điều trị cắt cơn (benzodiazepines).
21/ MÔ TẢ XỬ TRÍ CHUNG CỦA TRẠNG THÁI ĐỘNG KINH LIÊN TỤC.
Mục đích chủ yếu là làm chấm dứt co giật càng nhanh càng tốt để giảm thiểu các biến chứng bởi
vì thời gian co giật là yếu tố quyết định quan trọng của tỷ lệ bệnh và tử vong. Điều trị bao gồm
bảo vệ đường khí của bệnh nhân (nội thông khí quản nếu cần) ; thiết lập đường tĩnh mạch và
thực hiện các xét nghiệm thích hợp ; cho thiamine + dextrose, và tiêm tĩnh mạch benzodiazepine,
tiếp theo sau bởi phenytoin (Diphantoine hay Dilantin) hay fosphenytoin (ProDilantin). Nếu co
giật kéo dài, monitoring điện não đồ và điều trị với phenobarbital (Gardénal), pentobarbital,
midazolam (Dormicum), hay propofol (Diprivan). Các bệnh nhân nên được theo dõi liên tục và
nên được đưa vào đơn vị ICU với hội chẩn thần kinh.
23/ KHI NÀO NÊN BẮT ĐẦU CHO CÁC THUỐC CHỐNG CO GIẬT ?
Các thuốc chống co giật được chỉ định với các co giật tái diễn, không do kích thích (động kinh).
Hãy xét bắt đầu điều trị với một thuốc chống động kinh sau một cơn co giật duy nhất trong
những tình huống sau đây : thương tổn thực thể hay nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương, điện
não đồ cho thấy hoạt động dạng động kinh (epileptiform activity), bệnh sử gia đình động kinh,
bệnh nhân bị bệnh nặng hay không ổn định, ở những bệnh nhân này có thêm các cơn co giật có
thể gây nên những hậu quả chuyển hóa hay tim mạch nghiêm trọng, sau trạng thái động kinh liên
tục (status epilepticus) nếu nguyên nhân có thể hồi phục hiển nhiên không được nhận thấy, và ở
những bệnh nhân huyết thanh dương tính (HIV-positive) không có nguyên nhân đảo ngược rõ
ràng.
24/ NHỮNG YẾU TỐ NÀO ẢNH HƯỞNG SỰ LỰA CHỌN THUỐC CHỐNG ĐỘNG
KINH ?
Sự chọn lựa thuốc chống động kinh bị ảnh hưởng bởi các bệnh lý nội khoa mà bệnh nhân vốn có,
có thể ảnh hưởng lên chuyển hóa của bệnh nhân, các thuốc đang được sử dụng (khả năng tương
tác giữa các thuốc), những phản ứng phụ, tần số các liều lượng, phí tổn thuốc, và thể thức của
các hãng bảo hiểm. 2/3 các co giật được kiểm soát bởi các thuốc chống co giật ; hay nghĩ bệnh
nhân không tuân thủ điều trị thuốc (medication nonadherence) nếu điều trị thất bại.
Những chỉ định đối với các thuốc chống động kinh theo loại co giật
Khởi đầu toàn phát hay cục bộ Chỉ khởi đầu cục bộ
Những thuốc cũ Những thuốc cũ
-Ethosuximide (Zarontin) : chỉ dùng – Carbamazepine (Tegretol)
cho động kinh vắng ý thức (absence) – Phenobatbital
-Valproate (Depakote, Dépakine)Những – Phenytoin (Dilantin)
thuốc mới – Primidone (Mysoline)
– Felbamate (Felbatol, Taloxa) Những thuốc mới
– Lamotrigine (Lamictal) – Gabapentin (Neurontin)
– Topiramate (Topamax) – Levetiracetam (Keppra)
– Oxcarbazepine (Trileptal)
– Pregabalin (Lyrica)
– Tiagabine (Gabitril)
– Zonisamide (Zonegran)
25/ NHỮNG CHỈ THỊ NÀO CẦN THIẾT CHO NHỮNG BỆNH NHÂN BỊ CO GIẬT ?
– Đừng lái xe. Hầu hết luật liên bang đòi hỏi bệnh nhân không được lên cơn động kinh trong 6
đến 24 tháng trước khi lái lại.
– Tránh nâng vật nặng, thao tác máy móc lớn, leo cầu thang hay dây thừng, và bơi hay tắm một
mình. Hàng năm nhiều bệnh nhân chết trong bồn tắm hơn là do tai nạn xe cộ.
– Tránh các thuốc ma túy (cocaine, rượu) làm giảm ngưỡng gây co giật (seizure threshold)
– Ngủ đủ giấc
– Kiểm tra những tương tác thuốc với những thuốc mới được kê đơn
– Những người bị bệnh động kinh săn sóc các em bé nên thay quần áo và cho ăn ở sàn nhà và
nhờ một người trưởng thành khác hiện diện khi tắm đứa bé.
– Mang một bracelet ghi “ seizure disorder ”
CO GIẬT (SEIZURES)
1/ THẾ NÀO LÀ MỘT CƠN CO GIẬT ?
Co giật (seizures) là kết quả của sự phóng điện quá mức hay hỗn loạn (excessive or
chaotic discharge) từ các tế bào thần kinh não bộ. Mặc dầu hầu hết các nhà lâm sàng
gọi hậu quả của sự phóng điện này (ví dụ : các cử động giật, nhìn trừng) là một cơn co
giật (a seizure), nhưng cơn co giật tự bản thân là hoạt động của tế bào thần kinh
(neuronal activity). Những biểu hiện quan sát được được gọi là hoạt động co giật
(seizure activity).
Tầm quan trọng của các cơn co giật là rõ ràng. Cái gì đó cản trở sự hoạt động bình
thường của một nhóm tế bào thần kinh. Những công trình nghiên cứu kiểm tra sự tạo
nên các sản phẩm phụ chuyển hóa (metabolic by-products) cho thấy rằng chính hoạt
động điện bất thường, chứ không phải là sự tích tụ các sản phẩm phụ chuyển hóa, gây
nên sự thương tổn và chết tế bào. Vì những lý do không được biết rõ, thùy hải mã
(hippocampus) dường như đặc biệt nhạy cảm đối với thương tổn này.
2/ LÀM SAO NHẬN BIẾT MỘT CƠN CO GIẬT.
Điều này không hiển nhiên như có vẻ như vậy. Các cơn co giật có thể biểu hiện bằng
nhiều cách, tùy theo kích thước và định vị của vùng não bộ bị thương tổn. Nói chung,
các cơn co giật được xếp thành 3 loại : cục bộ, toàn thể, và cục bộ với toàn thể hóa thứ
phát. Một cơn co giật cục bộ (focal seizure) được giới hạn vào một vùng đặc biệt của
não bộ và chỉ ảnh hưởng một vùng nào đó của cơ thể. Một cơn co giật toàn thể
(generalized seizure) được biểu hiện bởi hoạt động co giật lên toàn bộ cơ thể. Một cơn
co giật cục bộ với toàn thể hóa thứ phát (focal seizure with secondary generalization)
khởi đầu chỉ ảnh hưởng lên một phần của não bộ nhưng sau đó lan rộng ra lên toàn bộ
não. Biểu hiện khởi đầu được tách biệt vào một vùng đặc biệt của cơ thể nhưng lan ra
ảnh hưởng lên toàn bộ cơ thể. Hoạt động co giật không điển hình (atypical seizure
activity) khó nhận biết hơn nhiều. Nếu một cơn co giật đã xảy ra nhưng đã dừng lại
trước khi khám bệnh nhân, phải tìm kiếm những dấu hiệu thứ phát, bao gồm sự lú lẩn
sau co giật, són đái hay phân, và cắn lưỡi hay niêm mạc miệng.
XẾP LOẠI CÁC CO GIẬT
3/ THÁI ĐỘ XỬ TRÍ BAN ĐẦU ĐOI VỚI MỘT BỆNH NHÂN ĐANG CO GIẬT ?
Hãy bắt đầu với ABC (airway, breathing, circulation), nhằm tất cả các dấu hiệu sinh
tồn. Trước hết nên hướng sự chú ý vào đường hô hấp (airway) của bệnh nhân. Có
nhiều kỹ thuật để mở hoặc có được một airway. Nên cho oxy bổ sung bởi vì nhu cầu
oxy gia tăng do sự co thắt cơ quá mức. Đánh giá tình trạng tim mạch với sự xác định
huyết áp và capillary refill và điều chỉnh với dịch (nước muối sinh lý hay dụng dịch
lactated ringer). Chú ý vào nhiệt độ và đáp ứng nhanh chóng với một bất thường là
điều quan trọng.
Hầu hết can thiệp tích cực nơi bệnh nhân bị co giật nhằm vào ngăn ngừa chấn thương
hay hít dịch. Bệnh nhân nên được kềm giữ (nhẹ nhàng) và, nếu có thể, nên được
nghiêng về một bên để làm giảm khả năng bị hít dịch. Hút dịch miệng bệnh nhân nên
được thực hiện trong lúc co giật. Điều quan trọng là không nên đặt bất cứ cái gì có thể
bị hít hay bị cắn (kể cả các ngón tay của anh) vào trong miệng của bệnh nhân. Oxy bổ
sung nên được cho bằng canun mũi (nasal cannula) hay mặt nạ, nhưng sự sử dụng
thông khí bổ sung hiếm khi cần thiết nơi bệnh nhân với co giật không biến chứng.
4/ CƠN ĐỘNG KINH LIÊN TỤC (STATUS EPILEPTICUS) LÀ GÌ ?
– đó là một “ một cơn co giật động kinh (epileptic seizure) lập lại thường xuyên hoặc
kéo dài tạo nên một tình trạng động kinh (epileptic condition) cố định và kéo dài ”.
– theo truyền thống được gọi là cơn động kinh liên tục (status epilepticus) nếu cơn co
giật kéo dài hơn 30 phút hoặc các cơn co giật tái diễn nhưng bệnh nhân không tỉnh
dậy giữa các cơn. Những khuyến nghị và mô tả hiện nay là hoạt động co giật kéo dài
hơn 5 phút và không thể ngừng lại một cách ngẫu nhiên nên được xem là cơn động
kinh liên tục (status epilepticus). Điều trị nên được bắt đầu trong vòng 5 phút này.
Những bệnh nhân với chẩn đoán cơn động kinh liên tục (status epilepticus) cần được
đánh giá kỹ và sâu rộng. Điều này bao gồm một đánh giá hoàn chỉnh để nhận diện và
điều trị bất cứ các nguyên nhân gây cơn động kinh liên tục có thể đảo ngược và can
thiệp nhanh để chấm dứt hoạt động neurone bất thường. Điều trị hỗ trợ đầy đủ để
ngăn ngừa những biến chứng do các cơn co giật và những điều trị chúng (ví dụ suy hô
hấp, tan cơ vân, hay sốt) là quan trọng.
5/ CÁC CO GIẬT ĐƯỢC LÀM NGỪNG NHƯ THẾ NÀO ?
Nếu một cơn co giật kéo dài hơn 5 phút, cần phải can thiệp ngay. Trong y khoa truyền
thống, chuỗi thông thường là chẩn đoán, sau đó mới điều trị. Thường trong y khoa cấp
cứu, cần chẩn đoán và điều trị đồng thời. Đừng chờ đợi cho đến khi đã lấy xong bệnh
sử, khám nghiệm vật lý hoàn chỉnh, cho y lệnh làm những xét nghiệm phụ, rồi mới
điều trị co giật. Các co giật làm thương tổn não bộ; càng để các cơn co giật diễn biến
liên tục, thì càng có nhiều tổn hại xảy ra.
Các benzodiazepine là những thuốc được lựa chọn đầu tiên để điều trị các cơn co giật
kéo dài hơn 5 phút. Lorazepam (Témesta) là benzodiazepine tuyến đầu được ưa thích
để điều trị các cơn co giật do tính hiệu quả gia tăng và thời gian bán hủy dài hơn trong
việc giữ cho các cơn co giật khỏi bị tái phát so với diazepam (Valium). Liều lượng
người trưởng thành của Lorazepam là 2-4 mg tiêm tĩnh mạch trực tiếp, với liều lượng
tối đa 10-15 mg. Nếu không có lorazepam, có thể cho diazepam với liều lượng 5-10
mg tiêm tĩnh mạch trực tiếp, không vượt quá 30 mg trong một thời gian 8 giờ. Nếu
nhiều liều benzodiazepine không làm ngừng co giật hay nếu benzodiazepines bị chống
chỉ định nơi bệnh nhân, nên cho một liều lượng tấn công của thuốc chống động kinh
nguyên phát (primary anticonvulsant).
Nếu không có đường tĩnh mạch, midazolam (Dormicum) có thể được sử dụng bằng
tiêm mông hay bằng đường trực tràng. Mặc dầu diazepam và lorazepam không được
khuyến nghị dùng bằng đường tiêm mông do sự hấp thụ thất thường, midazolam với
liều lượng 0,05 mg/kg đã được sử dụng để điều trị thành công cơn động kinh liên tục
(status epilepticus).
6/ KHI CO GIẬT ĐÃ DỪNG, LÀM SAO GIỮ CHO KHỎI TÁI PHÁT ?
Vấn đề này mang chúng ta đến một loại thuốc khác, các thuốc chống co giật
(anticonvulsant). Các thuốc chống co giật không chỉ giữ cho các co cơn giật khỏi tái
phát ở phòng cấp cứu mà còn được sử dụng để làm ngưng các cơn co giật đề kháng
với benzodiazepines.
THUỐC CHỐNG CO GIẬT
ĐƯỜNG
LIỀU
TÊN THUỐC CHO BÌNH LUẬN
LƯỢNG
THUỐC
Phenytoin Không nên cho nhanh hơn
(Dialantin, 18-20 Tiêm tĩnh 50mg/phút; bệnh nhân nên được
Diphantoine) mg/kg mạch monitor tim; ngưng truyền nếu độc
ampoules tính xuất hiện (QRS kéo dài hơn
250mg/5ml 50% căn bản, hạ huyết áp). Nếu
động kinh liên tục tiếp diễn, có thể
gia tăng liều lượng toàn bộ lên đến
30 mg/kg.
Đơn vị đo lường là PE (phenytoin
equivalent), được ghi chú trên chai
thuốc. Thuốc này là chất tiền thân
Tiêm tĩnh
của phenytoin, như vậy an toàn khi
Fosphenytoin 15-20 mạch,
tiêm truyền nhanh mà không gây
(ProDilantin) PE/kg Tiêm
các tác dụng huyết động nghịch.
mông
Một nồng độ điều trị của thuốc này
đạt được nhanh hơn nhiều so với
dilantin
Không nên cho nhanh hơn 100mg
/phút; liều lượng có thể được nhắc
Phenobarbital
lại một lần sau 30 phút nếu không
(Gardénal) lên đến Tiêm tĩnh
có hiệu quả; liều lượng tổng cộng
Flacons 40 mg 15mg/kg mạch
tối đa là 600 mg; coi chừng giảm áp
và 200mg
hô hấp, đặc biệt là nếu bệnh nhân đã
nhận diazepam
Tiêm tĩnh Chỉ sử dụng khi những loại thuốc
Pentobarbital 12mg/kg
mạch khác thất bại
1-1,5 Tiêm tĩnh Đã được ghi nhận là làm ngưng tình
Lidocaine
mg/kg mạch trạng động kinh liên tục
Có những báo cáo về sự sử dụng
propofol trong trường hợp cơn động
Propofol Tiêm tĩnh kinh liên tục đề kháng. Nên được sử
2mg/kg
(Diprivan) mạch dụng với nội thông khí quản và
thông khí cơ học. Coi chừng hạ
huyết áp và chuẩn bị để điều trị
Chấn thương sinh đẻ (giảm oxy mô, chấn thương nội sọ)
Nhiễm trùng (áp xe não, viêm màng não)
Nhũ nhi
Các bất thường điện giải (giảm natri-huyết, giảm canxi-
huyết, giảm magnesi-huyết)
Các dị dạng bẩm sinh (các nang trong não bộ, tràn dịch
não)
Các rối loạn di truyền (sai lầm chuyển hóa bẩm sinh,
thiếu hụt pyridoxine)
Co giật do sốt cao
Co giật không rõ nguyên nhân
Trẻ em
Chấn thương
Nhiễm trùng (viêm màng não)
Chấn thương
Co giật không rõ nguyên nhân
Thiếu niên
Ma túy hay rượu (ngộ độc hay cai cấp tính)
Dị dạng động-tĩnh mạch
Chấn thương
Thanh niên Rượu (ngộ độc hay cai cấp tính)
U não
U não
Đột quy
Xuất huyết trong não.
Người trưởng
Nghiện rượu
thành lớn tuổi hơn
Các rối loạn chuyển hóa (hạ natri-huyết, tăng natri-
huyết, giảm canxi-huyết, hạ đường huyết, uremia, suy
gan)