Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 121

bé gi¸o dôc vµ ®µo t¹o

Trêng ®¹i häc vinh

TrÇn thÞ kim liªn

C¸i t«i tr÷ t×nh


Trong th¬ lu quang vò

chuyªn ngµnh: lý luËn v¨n häc


m· sè: 60.22.32

luËn v¨n th¹c sÜ ng÷ v¨n

Ngêi híng dÉn khoa häc:


Pgs.ts. lu kh¸nh th¬

Vinh - 2009

1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài.......................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề...........................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..............................................................7
4. Mục đích nghiên cứu.................................................................................7
5. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................7
6. Cấu trúc của luận văn................................................................................8
Chương 1. Từ nhận thức chung về cái tôi trữ tình đến việc tìm hiểu
sự nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ.....................................................9
1.1. Khái niệm “cái tôi” và “cái tôi trữ tình”................................................9
1.1.1. Cái tôi..................................................................................................9
1.1.2. Cái tôi trữ tình.....................................................................................10
1.2. Các hình thức biểu hiện cái tôi trữ tình trong văn học...........................13
1.2.1. Cái tôi trữ tình trong văn học dân gian...............................................13
1.2.2. Cái tôi trữ tình trong văn học cổ điển.................................................13
1.2.3. Cái tôi trữ tình trong thơ lãng mạn......................................................14
1.2.4. Cái tôi trữ tình trong thơ cách mạng...................................................15
1.3. Những thành tựu trong sự nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ.............15
Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ qua những nguồn
cảm hứng tiêu biểu......................................................................................23
2.1. Cái tôi tha thiết yêu thương đắm đuối....................................................24
2.1.1. Cảm xúc về quê hương đất nước........................................................24
2.1.2. Cảm xúc về người thân.......................................................................27
2.1.3. Cảm xúc về số phận của trẻ em..........................................................32
2.2. Cái tôi da diết và đầy biến động trong tình yêu.....................................35
2.2.1. Những cảm xúc trong trẻo tuổi học trò...............................................36
2.2.2. Tình yêu đầu đời và hạnh phúc ngắn ngủi..........................................38
2.2.3. Tình yêu “những năm tháng đau xót và hi vọng”...............................41

2
2.2.4. Tình yêu là lẽ sống “Anh yêu em và anh tồn tại”...............................44
2.3. Cái tôi trải nghiệm đau đớn trong những cảm nhận về chiến tranh.......52
2.3.1. Cảm xúc thơ mộng, lạc quan, tin tưởng thời kì đầu bước vào cuộc
chiến tranh.....................................................................................................53
2.3.2. Nhận thức về những bi kịch và tổn thất của chiến tranh.....................56
2.3.3. Những đau đớn xé lòng và những lời chất vấn bỏng rát
về chiến tranh................................................................................................60
2.4. Cái tôi khắc khoải trước hiện thực đời sống..........................................64
2.4.1. Nghèo đói, thiên tai.............................................................................65
2.4.2. Những dự cảm về tương lai.................................................................69
Chương 3. Nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ
Lưu Quang Vũ.............................................................................................73
3.1. Giọng điệu..............................................................................................73
3.1.1. Giọng trẻ trung, trong sáng.................................................................74
3.1.2. Giọng xót xa cay đắng .......................................................................76
3.1.3. Giọng đắm đuối nồng nàn...................................................................78
3.2. Thể thơ...................................................................................................82
3.2.1. Thể thơ 5 tiếng....................................................................................82
3.2.2. Thể thơ 7, 8 tiếng................................................................................84
3.2.3. Thể thơ tự do.......................................................................................87
3.3. Ngôn ngữ................................................................................................91
3.3.1. Ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm........................................................92
3.3.2. Ngôn ngữ đa nghĩa giàu tính tạo hình.................................................94
3.4. Một số môtip hình ảnh chủ đạo trong thơ Lưu Quang Vũ.....................97
3.4.1. Hình tượng gió....................................................................................98
3.4.2. Hình tượng mưa..................................................................................101
3.4.3. Hình tượng lửa....................................................................................104
3.4.4. Hình tượng quả chuông.......................................................................107
KẾT LUẬN.........................................................................................................110
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................114

3
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1.1. Từ trước đến nay, khi nhắc đến Lưu Quang Vũ, nhiều người thường
nghĩ đến một kịch gia nổi tiếng của sân khấu kịch nói Việt Nam. Chính sức
sáng tạo mãnh liệt ở mảng sáng tác này đã đem lại vinh quang cho anh. Trong
tư cách là một kịch gia, Lưu Quang Vũ đã khẳng định được vị trí vai trò và
ảnh hưởng của mình trên “địa hạt sân khấu hiện đại Việt Nam”. Với hơn 50
vở kịch và những giá trị của nó, anh đã được đánh giá là “nhà viết kịch lớn
nhất thế kỷ này của Việt Nam (thế kỉ XX)” (Phan Ngọc).
Tháng 9 năm 2000, Lưu Quang Vũ vinh dự nhận giải thưởng Hồ Chí
Minh về Văn học nghệ thuật cũng bởi những đóng góp to lớn ấy của anh cho
nền sân khấu nước nhà.
Nhưng đọc những tài liệu viết về Lưu Quang Vũ từ khi anh còn nhỏ cho
đến lúc trưởng thành và nổi tiếng, có lẽ chúng ta sẽ rất ngạc nhiên trước một
tâm hồn vô cùng nhạy cảm, tinh tế và dễ xúc động. Không những thế, anh còn
là một người hội tụ nhiều tài năng và ở mặt nào anh cũng tỏ ra xuất sắc, ẩn
chứa và báo hiệu sự tỏa sáng rực rỡ. Ở con người tài hoa này, có thể thấy “cốt
cách thi sĩ vẫn là nét nổi trội nhất”.
1.2. Lưu Quang Vũ là một tài thơ “thuộc loại bẩm sinh”. Ngay từ tập thơ
đầu tiên năm 1968 - khi vừa tròn 20 tuổi - in chung với nhà thơ Bằng Việt (tập
Hương cây- Bếp lửa) anh đã được xem là một trong những hiện tượng thơ của
thập niên 60 thế kỉ XX. Xuất hiện từ cao trào của cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước, trong dàn đồng ca của thơ trẻ thời kỳ này, thơ Lưu Quang Vũ đã
sớm định hình được một cá tính riêng. Với một giọng điệu riêng, một cách
biểu hiện riêng, anh đã góp một tiếng thơ sôi nổi, tươi mới, mát lành, có ý
nghĩa tích cực đối với sự phát triển và đổi mới của thơ ca thời kỳ này.

4
Từ tập thơ đầu tay cho đến khi cả hàng trăm bài thơ của anh được công
bố, bạn đọc yêu thơ đều bị hấp dẫn bởi một hồn thơ nồng nàn, đắm đuối mà
vô cùng chân thành, giản dị, không hề cầu kỳ chải chuốt câu chữ. Dù là
những rung động hồn nhiên, những cảm xúc rất chân thành và ngay cả những
lúc tâm trạng “bộn bề” nhất anh đều gửi gắm vào thơ. Quả là, đối với anh
“thơ mới là nơi anh ký thác nhiều nhất”. Với thơ, anh đã tìm thấy niềm vui, sự
chia sẻ và cả niềm tin yêu cuộc đời theo cách riêng của mình. Thể hiện điều
ấy trong thơ, Lưu Quang Vũ đã tạo nên một phong cách riêng, một giọng điệu
riêng, một cái tôi riêng, giàu sức ám ảnh trong thơ ca Việt Nam hiện đại.
Thế nhưng, đã có một thời gian, nhiều bài thơ của Lưu Quang Vũ bị coi
là lạc điệu, là không hợp với thời cuộc, bị đặt sang bên lề cuộc sống, không
được phổ biến. Đến mãi sau này, nó mới được tập hợp và ra mắt bạn đọc. Có
thể nói, những phần chưa công bố, phần bị xem là lạc điệu ấy mới chính là
con người thật nhất, chân thành mà tài hoa, giản dị mà tinh tế. Đó là một cái
tôi rất riêng, rất Lưu Quang Vũ.
1.3. Thơ Lưu Quang Vũ xứng đáng được quan tâm, nghiên cứu một cách
nghiêm túc, đầy đủ, toàn diện để thấy được đóng góp của anh đối với nền văn
học nước nhà.
Chọn đề tài Cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ, chúng tôi muốn
góp một cái nhìn đầy đủ hơn, có hệ thống hơn về một gương mặt thơ độc đáo,
một cá tính thơ mạnh mẽ, một phong cách thơ sắc nét trong thơ ca Việt Nam
thời kỳ hiện đại. Từ đó giúp người đọc có thể có được một cái nhìn đầy đủ
hơn về Lưu Quang Vũ: một nhà soạn kịch tài năng, một cá tính thơ độc đáo.
2. Lịch sử vấn đề
Trên thi đàn Việt Nam, Lưu Quang Vũ xuất hiện với một phong cách thơ
riêng biệt, độc đáo. Không sắc sảo, cũng không vồ vập ồn ào, hồn thơ Lưu
Quang Vũ đôn hậu, hiền hòa và thiết tha tình nghĩa. Chính vì thế, thơ anh dễ

5
đi vào lòng người, gây được cảm tình cho độc giả. Với Lưu Quang Vũ, thơ
luôn là một phần của tâm hồn, của cuộc đời, của lẽ sống, của tình yêu.
Chặng đường thơ của Lưu Quang Vũ trải dài từ những năm kháng chiến
chống Mĩ đến những năm tháng thời kỳ đất nước đổi mới và dừng lại khi anh
qua đời năm 1988.
Người đọc biết đến Lưu Quang Vũ ngay từ tập thơ đầu tay in chung với
Bằng Việt, tập Hương cây - Bếp lửa. Ngoài 20 bài thơ trong tập này, Lưu
Quang Vũ chưa được chú ý nhiều mặc dù cảm xúc tràn đầy anh vẫn sáng tác
thơ bên cạnh kịch và truyện ngắn. Rồi những năm 80 đầy những dự cảm và
biến đổi lớn lao trong đời sống dân tộc, Lưu Quang Vũ ào ạt cho ra đời hàng
loạt vở kịch. Chỉ hơn 5 năm, anh đã có hơn 50 vở kịch mà nhiều vở đã đạt
giải cao, được công chúng đón nhận nhiệt tình. Và người đọc đã có phần lãng
quên Lưu Quang Vũ - nhà thơ. Nhưng sau sự ra đi đột ngột của anh và vợ là
thi sĩ Xuân Quỳnh, thơ anh được công bố rộng rãi với nhiều tập thơ được in:
Mây trắng của đời tôi (1989), Bầy ong trong đêm sâu (1993), và một số tập
thơ đã tương đối hoàn chỉnh: Cuốn sách xếp lầm trang, Cỏ tóc tiên, và gần
đây nhất, năm 2008, cuốn Di cảo Nhật kí - thơ cũng vừa được ấn hành.
Mỗi vần thơ của Lưu Quang Vũ càng đọc càng thấy hấp dẫn bởi sự nhẹ
nhàng mà sâu lắng của nó. Và cũng bởi thơ anh không theo một khuôn khổ,
không chịu một sự ràng buộc, gò bó nào. Anh đã trải hồn mình vào thơ, đã
sống thật với thơ không hề dấu diếm. Từ đây gương mặt thơ Lưu Quang Vũ
được nhìn nhận, đánh giá một cách đầy đủ và rõ nét hơn.
Cuốn Lưu Quang Vũ thơ và đời do Lưu Khánh Thơ biên soạn, xuất bản
năm 1997, được coi là cuốn sách tổng hợp đầy đủ nhất về thơ Lưu Quang Vũ.
Cuốn sách được chia thành hai phần:
Phần đời gồm có hai bài viết về cuộc đời Lưu Quang Vũ của mẹ và em
gái anh. Ngoài ra, còn một bài nữa nói về thơ Lưu Quang Vũ của Vũ Quần

6
Phương: “Đọc hết những bản thảo của anh để lại, tôi thấy thơ mới là nơi anh
kí thác nhiều nhất và tôi tin nhiều bài thơ của anh sẽ thắng được thời gian”.
Đọc phần đời của Lưu Quang Vũ, người đọc chú ý đến số phận trắc trở với
những chặng đường gian truân, không bằng phẳng của một tài năng nghệ
thuật. Đồng thời hiểu được phần nào mối duyên nợ của anh với thơ, hiểu
được vì sao anh vẫn thường xuyên sáng tác thơ ngay cả những lúc anh tỏa
sáng trên sân khấu và thơ anh bị coi là “lạc điệu”.
Phần thơ gồm có121 bài, trong đó có nhiều bài trước đó chưa từng được
xuất bản.
Cuốn Lưu Quang Vũ tài năng và lao động nghệ thuật cũng do Lưu
Khánh Thơ sưu tầm và biên soạn, xuất bản năm 2001, ra đời nhân dịp Lưu
Quang Vũ được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật. Cuốn
sách đã giới thiệu rất nhiều bài viết, bài phê bình của nhiều tác giả như Hoài
Thanh, Lê Đình Kỵ, Vũ Quần Phương, Phạm Xuân Nguyên, Anh Ngọc, Bích
Thu, Hoàng Sơn,... Những bài viết này đã cho thấy sự đánh giá của giới phê
bình về thơ Lưu Quang Vũ từ nhiều góc độ.
Điểm lại những bài viết, bài phê bình về thơ Lưu Quang Vũ chúng ta có
thể tổng kết ở những nội dung sau:
2.1. Các bài nghiên cứu đã tập trung chủ yếu vào việc khẳng định tài
năng thơ ca của Lưu Quang Vũ.
Hoài Thanh trong bài viết Một cây bút nhiều triển vọng đã đánh giá
những vần thơ của Lưu Quang Vũ “nó là vàng thật, đúng nó là thơ. Lưu
Quang Vũ có nhiều câu, nhiều đoạn đúng là thơ, lại có cả một bài thơ rất
hay. Năng khiếu của anh đã rõ. Miễn là anh đi đúng nhất định anh sẽ đi xa”
[43, 22].
Vũ Quần Phương trong bài Đọc thơ Lưu Quang Vũ đã nhận xét “Tôi
thấy trước sau cốt cách thi sỹ vẫn là nét nổi trội nhất trong tâm hồn anh. Tôi

7
trộm nghĩ, về lâu dài sự đóng góp của Lưu Quang Vũ về thơ còn lớn hơn về
kịch” [43, 33]. Lê Minh Khuê cũng đã có đánh giá tương tự trong bài viết
Truyện ngắn Lưu Quang Vũ: “Vũ là thơ”, “Bản thân anh cũng luôn đánh giá
thơ là quan trọng của đời anh” [43, 134].
Tác giả Anh Ngọc cũng cho rằng, chỉ chiếm phân nửa trong tập Hương
cây - Bếp lửa cũng đủ để Lưu Quang Vũ: “có một vị trí vững vàng, bởi một
hồn thơ dào dạt, một tài thơ sắc sảo với vẻ hồn nhiên đến như là ngẫu hứng,
với một mạch nguồn hình ảnh và từ ngữ đầy trực cảm và đột biến tuôn ra
dường như bất tận” [43, 109]. Còn Nguyễn Thị Minh Thái trong bài viết Thơ
tình Lưu Quang Vũ cũng đã cảm nhận được rằng: “Trong tính cách sáng tạo
của con người tài hoa trẻ trung Lưu Quang Vũ thì thơ là hồn cốt thâm hậu
nhất” [43, 92], và “đi suốt chiều dài đời thơ Lưu Quang Vũ, tôi có cảm giác
như đi vào kho báu. Ở những câu thơ ta nhặt vô tình nhất cũng óng ánh một
vẻ đẹp riêng, không hiểu sao chỉ có ở thơ Lưu Quang Vũ - một vẻ đẹp trong
vắt của thi ca” [43, 95], và chỉ rõ thơ Lưu Quang Vũ còn rất nhiều điều cần
khám phá.
Như vậy qua những đánh giá cảm nhận ở trên, ta thấy các nhà phê bình
nghiên cứu đã khẳng định Lưu Quang Vũ trước hết và trên hết là một nhà thơ
tài hoa.
2.2. Nhiều bài nghiên cứu, phê bình cũng đã đi sâu vào tìm hiểu các
phương diện thể hiện trong thơ Lưu Quang Vũ.
* Đề cập đến những nội dung lớn trong thơ Lưu Quang Vũ
- Về quê hương đất nước
Các tác giả như Vũ Quần Phương, Phạm Xuân Nguyên đều thống nhất
trong đánh giá nhận xét về cảm hứng dân tộc trong thơ Lưu Quang Vũ: quan
tâm đến vẻ đẹp đất nước, “ngợi ca tầm vóc vĩ đại và sự hi sinh cao cả của
người dân”[43, 49].
- Về thơ tình

8
Thơ tình chiếm một số lượng khá lớn trong sự nghiệp sáng tác của Lưu
Quang Vũ. Trong những bài viết của mình, các tác giả Vũ Quần Phương, Vũ
Quang Vinh, Phạm Xuân Nguyên đều có phát hiện chung về thơ tình Lưu
Quang Vũ: với Lưu Quang Vũ tình yêu là số phận. Tình yêu trong anh có
nhiều cung bậc phong phú, nhưng bao trùm lên trên hết vẫn là sự cao thượng,
là niềm tin ở con người và tình yêu. Ở mảng sáng tác này trong thơ Lưu
Quang Vũ, Lưu Khánh Thơ, Nguyễn Thị Minh Thái đặc biệt chú ý nhiều đến
hình ảnh người con gái: “Hình ảnh người con gái trong thơ tình Lưu Quang
Vũ thường rất đẹp”, “Cuối cùng con thuyền thơ của Lưu Quang Vũ đã cập
bờ đạt tới hình ảnh hoàn hảo về nhân vật trữ tình Em trong tập thơ” [43, 94].
* Nhiều bài đi sâu tìm hiểu cách thức thể hiện trong thơ Lưu Quang Vũ.
- Một yếu tố được các nhà phê bình rất chú ý đó là những biểu tượng của
thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ.
Trong bài viết Lưu Quang Vũ một tâm hồn trở gió, tác giả Phạm Xuân
Nguyên đã phát hiện gió là một biểu tượng, biểu trưng cho toàn bộ thế giới
thơ Lưu Quang Vũ, làm nên bản sắc của riêng thế giới nghệ thuật ấy. Tác giả
đã đánh giá: “Những trang thơ anh có rất nhiều gió” [43, 77].
Vương Trí Nhàn lại khám phá một biểu tượng khác: mưa - biểu tượng
này thường gắn với rất nhiều bài thơ tài hoa của Lưu Quang Vũ: “Trong các
thi sỹ đương thời, Vũ là người nhạy cảm với mưa, thân thuộc với mưa hơn ai
hết”.
- Yếu tố thứ hai về cách thức biểu hiện trong thơ Lưu Quang Vũ được
nói đến khá tập trung là giọng điệu.
Hoài Thanh đã nhận thấy “Câu thơ Lưu Quang Vũ thường ngọt ngào hiền
hậu”. Lưu Khánh Thơ, Bích Thu cũng dùng từ “đắm đuối” để nói về giọng
điệu thơ Lưu Quang Vũ.
Như vậy, có thể thấy rằng những bài viết, nghiên cứu về thơ Lưu Quang
Vũ, các nhà nghiên cứu phê bình đã có đóng góp nhất định trong việc phát

9
hiện những nét đặc sắc trong thơ của Lưu Quang Vũ. Tuy nhiên, những bài
viết đó mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một vài khía cạnh riêng lẻ chứ
chưa có một chuyên luận nào, một công trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên
cứu thơ Lưu Quang Vũ mà cụ thể là cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ.
Chính vì vậy chúng tôi đi vào phạm vi đề tài còn bỏ ngỏ này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Vì đối tượng nghiên cứu của đề tài là cách thể hiện cái tôi trữ tình trong
thơ cho nên nguồn dẫn liệu mà chúng tôi khảo sát là tất cả các tập thơ đã xuất
bản của Lưu Quang Vũ:
- Hương cây - Bếp lửa (in chung với Bằng Việt - 1968)
- Mây trắng của đời tôi (1989)
- Bầy ong trong đêm sâu (1993)
- Lưu Quang Vũ - Thơ và đời (1997)
- Lưu Quang Vũ - Di cảo (2008)
4. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nhằm làm sáng tỏ vấn đề sau:
- Tìm hiểu về cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ qua những nguồn
cảm hứng tiêu biểu và nghệ thuật thể hiện nó để thấy được sự đóng góp của
một gương mặt thơ rất riêng, giàu cá tính.
- Góp phần làm sáng tỏ phong cách thơ Lưu Quang Vũ và những đóng
góp của thơ Lưu Quang Vũ trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn phối hợp vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, trong đó
chủ yếu là sử dụng các phương pháp sau:

5.1. Phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp


5.2. Phương pháp hệ thống

10
5.3. Phương pháp so sánh đối chiếu
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung của luận văn được triển khai
trong 3 chương:
Chương 1. Từ nhận thức chung về cái tôi trữ tình đến việc tìm hiểu sự
nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ
Chương 2. Cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ qua những nguồn
cảm hứng tiêu biểu
Chương 3. Nghệ thuật thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ

11
Chương 1
TỪ NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH ĐẾN VIỆC
TÌM HIỂU SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA LƯU QUANG VŨ

1.1. Khái niệm “cái tôi” và “cái tôi trữ tình”


1.1.1. Cái tôi
Cái tôi là một trong những khái niệm triết học cổ nhất đánh dấu ý thức
đầu tiên của con người về bản thể tồn tại của mình, từ đó nhận ra mình là một
con người khác với tự nhiên, là một cá thể độc lập khác với người khác.
Khái niệm cái tôi là một khái niệm có nội hàm rộng. Ở đây chúng tôi xin
dừng lại ở một số quan niệm triết học về cái tôi có liên quan trực tiếp hoặc
gần gũi với việc tìm hiểu cái tôi trữ tình.
Các nhà triết học duy tâm là những người đầu tiên chú ý đến cái tôi khi
đề cao ý thức, lý tính trong quan hệ vật chất - ý thức, chủ quan - khách quan,
cá nhân - xã hội.
Theo Đề Các (1596 - 1650), cái tôi thể hiện ra như một cái thuộc về thực
thể biết tư duy, như căn nguyên của nhận thức duy lí và do đó, cái tôi thể hiện
tính độc lập của mình với định nghĩa nổi tiếng: “tôi tư duy tức là tôi tồn tại”.
Theo Kant (1724 - 1804), cái tôi bao gồm hai phương diện: cái tôi với tư
cách chủ thể tư duy, chủ thể nhận thức thế giới và cái tôi với tư cách là cách là
khách thể của chính nhận thức.
Đồng thời Kant cũng nhấn mạnh tuyệt đối khả năng nhận thức của cái
tôi: “tính thống nhất của tự nhiên không phải ở trong tính vật chất của nó mà
ở trong tính thống nhất của chủ thể nhận thức, của cái tôi”.
Heghen (1770 - 1831) một mặt xem cái tôi như là sự tha hóa của “ý thức
tuyệt đối”, một mặt nhấn mạnh vai trò tuyệt đối của cái tôi: cái tôi như là
trung tâm của tồn tại, cái tôi có khả năng, khát vọng và sức mạnh để thể hiện
mình trong hiện thực.

12
Becxong (1858 - 1941) đã chú ý đến cái tôi thuần túy trong ý thức khi
nhấn mạnh đến đời sống bên trong cá nhân. Theo ông, trong con người có hai
cái tôi: đó là cái tôi bề mặt và cái tôi bề sâu. Trong đó, cái tôi bề mặt là các
quan hệ của con người đối với xã hội. Cái tôi bề sâu là phần sâu thẳm của ý
thức. Đó mới chính là đối tượng của nghệ thuật.
Các quan điểm duy tâm về cái tôi là khẳng định: cái tôi là phương diện
trung tâm của tinh thần con người, là cốt lõi của ý thức có khả năng chi phối
hoạt động và là sự khẳng định nhân cách con người trong thế giới. Tuy vậy,
các quan điểm trên đã tách cái tôi khỏi con người xã hội sinh động, chưa nhìn
thấy cơ sở lịch sử cụ thể và tính tích cực chủ động của cái tôi.
Đối lập với những quan điểm tuyệt đối hóa cái tôi cá nhân, tách nó ra
khỏi các mối quan hệ hiện thực xã hội, triết học Mác xác định giá trị con
người cá nhân từ bản thân con người với tư cách là chủ thể và khách thể của
các mối quan hệ xã hội. Theo Mác, mỗi cá nhân có ý nghĩa như là một bộ mặt
xã hội của con người, như là kết quả của việc xã hội hóa cá thể con người và
cá nhân cũng tìm thấy mình trong xã hội. Lí tưởng về giải phóng cá nhân của
triết học Mác là tự do cho mỗi cái tôi cá nhân trong tự do của tất cả mọi
người. Đồng thời vai trò của cái tôi cũng được khẳng định “cái tôi là trung
tâm tinh thần của con người, của cá tính con người có quan hệ tích cực đối
với thế giới và với chính bản thân mình”
Những quan niệm về cái tôi trong triết học và khoa học nhân văn hoặc
đóng vai trò phạm trù, hoặc có mối liên hệ chi phối, quen thuộc với cái tôi trữ
tình trong thơ ở các thời đại.
Vậy cái tôi trữ tình sẽ được hiểu như thế nào?
1.1.2. Cái tôi trữ tình
Cái tôi trữ tình là sự thể hiện một cách nhận thức và cảm xúc đối với thế
giới và con người thông qua lăng kính cá nhân của chủ thể và thông qua việc

13
tổ chức các phương tiện của thơ trữ tình, tạo ra một thế giới tinh thần riêng
biệt độc đáo mang tính thẩm mĩ, nhằm truyền đạt tinh thần đến người đọc.
Bản chất của cái tôi trữ tình là một khái niệm tổng hòa nhiều yếu tố hội
tụ theo quy luật nghệ thuật, bao gồm cả ba phương diện: bản chất chủ quan cá
nhân, đây là mối quan hệ giữa tác giả và cái tôi trữ tình được thể hiện trong
tác phẩm; bản chất xã hội của cái tôi trữ tình là mối quan hệ giữa cái tôi trữ
tình và cái ta cộng đồng; bản chất thẩm mĩ của cái tôi trữ tình là trung tâm
sáng tạo và tổ chức văn bản.
Cả ba phương diện: cá nhân, xã hội và thẩm mĩ đều nằm trong hình thức
thể loại trữ tình.
Cái tôi trữ tình khác về chất so với cái tôi nhà thơ. Đó là sự khác nhau
giữa cuộc đời và nghệ thuật, giữa chủ nghĩa tự nhiên và chủ nghĩa hiện thực,
giữa nguyên mẫu và điển hình, giữa “gốc rễ” và những “cành lá” nảy nở sinh
động của nó. Cái tôi trữ tình không chỉ là cái tôi nhà thơ, nó còn là cái tôi thứ
hai hoặc cái tôi được khách thể hóa, được thăng hoa trong nghệ thuật và bằng
nghệ thuật. Nó có quan hệ chặt chẽ với cái tôi nhà thơ. Nhưng từ cái tôi nhà
thơ đến cái tôi trữ tình còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác.
Cái tôi trữ tình chính là trung tâm sáng tạo và tổ chức văn bản trữ tình.
Nếu quan niệm một tác phẩm trữ tình là một hệ thống với các cấp độ, các yếu
tố thì có thể nói mọi thành tố cấu tạo nên bài thơ, từ các biện pháp tu từ cho
đến thể thơ, nhịp và vần điệu... đều nằm trong ảnh hưởng của một trung tâm
quy chiếu là cái tôi trữ tình. Đó cũng là cơ sở để có thể nói đến các loại hình
với tư cách những đặc điểm hình thức tiêu biểu tương ứng với các kiểu cái tôi
trữ tình.
Văn chương không chỉ là bức tranh đời sống mà còn là bức chân dung
tinh thần của chủ thể sáng tạo. Chủ thể không chỉ là người sáng tạo ra những
giá trị tinh thần mà còn là đối tượng miêu tả biểu hiện, chủ thể không chỉ

14
được xem như là một yếu tố tạo nên nội dung tác phẩm mà còn được xem như
là một phương tiện bộc lộ nội dung của tác phẩm, là một thành tố của thế giới
nghệ thuật do tác phẩm tạo ra. Ở những nhà thơ có cá tính sáng tạo độc đáo,
dấu ấn của chủ thể còn in đậm trong từng từ, từng hình ảnh, từng dòng thơ,
bài thơ...
Vấn đề cần giới thuyết ở đây là mối quan hệ giữa chủ thể với hình tượng
nhân vật trữ tình, là những hình thức biểu hiện của chủ thể với tư cách là hình
tượng trung tâm của tác phẩm thơ trữ tình. Để thấy rõ mối quan hệ này, cần
thiết phải phân biệt chủ thể và cái tôi, cái tôi của nhà thơ và cái tôi trữ tình
trong tác phẩm. Chủ thể là một phạm trù được xem xét trong mối quan hệ với
khách thể, là phạm trù đối lập với khách thể ở tính tích cực, thể hiện ở ý thức,
ý chí và khả năng nhận thức, chiếm lĩnh hiện thực khách quan. Cái tôi là yếu
tố của chủ thể làm cho chủ thể ý thức được chính mình, là chức năng tự nhận
thức của chủ thể.
Cái tôi của nhà thơ có mối quan hệ trực tiếp và thống nhất với cái tôi trữ
tình trong thơ. Nhà thơ là nhân vật chính, là hình bóng trung tâm, là cái tôi
bao quát trong toàn bộ sáng tác. Những sự kiện, hành động, tâm tình và kí ức
trong cuộc đời riêng cũng in đậm nét trong thơ. Cái tôi của nhà thơ có lúc thể
hiện trực tiếp qua những cảnh ngộ riêng, trực tiếp giãi bày những nỗi niềm
thầm kín. Cái tôi của nhà thơ còn hiện diện qua các cách nhìn, cách nghĩ, qua
tình cảm thái độ trước thế giới. Tuy nhiên, cái tôi trữ tình trong thơ và cái tôi
của nhà thơ không hề đồng nhất. Cái tôi của nhà thơ ngoài đời thuộc phạm trù
xã hội học, còn cái tôi trữ tình trong thơ thuộc phạm trù nghệ thuật. Cái tôi trữ
tình là cái tôi nhà thơ đã được nghệ thuật hóa và trở thành một yếu tố nghệ
thuật phổ quát trong thơ trữ tình, là một thành tố trong thế giới nghệ thuật của
tác phẩm.

15
1.2. Các hình thức biểu hiện cái tôi trữ tình trong văn học
Lịch sử phát triển của thơ ca là lịch sử phát triển của cái tôi trữ tình, là sự
thay đổi mô hình quan hệ giữa cái tôi trữ tình và đời sống. Cái tôi trữ tình là
một hiện tượng lịch sử nên nó có những hình thái lịch sử.
Trong quá trình vận động và phát triển của lịch sử xã hội, thời đại, lịch
sử của cá thể, ý thức về cái tôi trữ tình trong lịch sử văn học cũng có sự khác nhau.
1.2.1. Cái tôi trữ tình trong văn học dân gian
Khi nói đến cái tôi trữ tình trong văn học dân gian thì có lẽ chiếm ưu thế
nhất vẫn là ở thể loại ca dao - dân ca. Cái tôi trữ tình trong ca dao - dân ca là
cái tôi tìm thấy tiếng nói chung của tập thể. Cái tôi ở đây không bộc lộ như
một cá nhân riêng biệt mà có thể chìm đi, biểu hiện cái tôi xã hội, cái tôi tập thể.
Cảm hứng của tác giả dân gian bắt nguồn từ nhu cầu được chia sẻ, giao
hưởng và đồng vọng trong những cảnh ngộ tương đồng. Nhân vật trữ tình
trong văn học dân gian chủ yếu là người dân lao động, họ có thể là những
người đang dãi nắng dầm mưa “trên đồng cạn, dưới đồng sâu”, là kẻ đang
nhọc nhằn lên đồng xuống truông... và không gian họ xuất hiện cũng gắn liền
với không gian lao động sản xuất: bến nước con đò, bãi dâu đồng cỏ, vườn
chè ao cá...
Cái tôi trữ tình dân gian về cơ bản là cái tôi phi cá thể hóa. Hình thức
của loại hình văn học dân gian là diễn xướng và truyền miệng. Thời gian và
không gian mang tính ước lệ, làm cho thời gian cá thể hóa của cái tôi tác giả
mờ nhạt hẳn đi. Không gian có thể thay đổi, chẳng hạn từ địa danh này sang
địa danh khác vì thế làm mất đi cá tính cụ thể của một hoàn cảnh cụ thể. Diện
mạo duy nhất của cái tôi dân gian là cái chung.
1.2.2. Cái tôi trữ tình trong văn học cổ điển
Trong văn học cổ nói chung, bản chất con người bắt nguồn từ quan hệ
cộng đồng, giá trị cá nhân nằm trong giá trị tập thể. Văn học chủ yếu phát

16
ngôn trên tư cách siêu cá nhân, với những vấn đề của gia đình, dòng họ, giai
cấp và của dân tộc. Điều đó tạo nên kiểu nhà thơ cổ điển “phi ngã”.
Trong văn học trung đại ý thức về cá nhân cá tính có xuất hiện nhưng tồn
tại trong những quy tắc luật lệ khuôn mẫu mà ta gọi là tính quy phạm. Cái tôi
trữ tình chủ yếu là cái tôi vũ trụ. Cái tôi cá tính đã khách thể hóa vũ trụ. Mỗi
sự việc, mỗi khung cảnh đều mang một ý nghĩa triết lí về quan hệ giữa con
người và vũ trụ. Do không tách mình khỏi vũ trụ, để từ những bí ẩn của vũ trụ
gián tiếp bộc lộ những bí ẩn của tâm hồn, vì thế biểu hiện tình cảm xã hội là
gián tiếp, kín đáo. Cái nhà thơ luôn đi tìm là sự hài hòa giữa cái hữu hạn và
vô cùng, giữa nhất thời và vĩnh cửu, giữa quá khứ và thực tại, giữa cái thực và
cái hư, giữa cái động và cái tĩnh.
Về sau cái tôi xa dần tính phi ngã quy phạm để bộc lộ tính chất tự nhiên.
Đó là sự xuất hiện trong văn học trung đại Việt Nam những Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Du, Cao Bá Quát... con người đã đối diện với chính mình, nói về mình.
1.2.3. Cái tôi trữ tình trong thơ lãng mạn
Bản chất của thơ lãng mạn là tiếng nói cá nhân. Kiểu nhà thơ lãng mạn
song hành với sự tự ý thức của cá nhân như là một cá thể độc đáo, riêng biệt,
nó không chống lại cái nhìn duy lí của chủ nghĩa cổ điển. Cái tôi cũng có khi
là cái tôi cá nhân tự biểu hiện, khép kín và cô đơn. Chất lãng mạn trong thơ
lãng mạn nằm ở cách cảm, cách nghĩ, sự biểu hiện thế giới và con người một
cách đặc thù. Đó chính là cái tôi nằm ở trung tâm cảm nhận, làm nguyên tắc
thế giới quan.
Thơ lãng mạn là thơ của tâm hồn, tâm hồn ấy đã thoát ra khỏi tính quy
phạm và nó đã bộc lộ hết mình, để “tâm hồn tiếp xúc trực tiếp với ngoại giới”.
Đồng thời thơ lãng mạn cũng lấy tâm hồn làm trung tâm, nó không ưa cõi
thực tầm thường mà thích những cái gì cá biệt khác thường, cái phi thường.
Cái tôi trữ tình vượt lên hoàn cảnh bằng những tưởng tượng khác thường,

17
bằng mộng ảo, hoài niệm, bằng tôn giáo, lịch sử... chỉ với mục đích là tự
khẳng định mình, khẳng định sự tự do của mình. Tuy thế đã là một con người
tự do thì sẽ tồn tại những mặt mạnh mặt yếu, vừa có sự kiêu hãnh nhưng cũng
không tránh khỏi sự yếu đuối, bơ vơ, buồn rầu, cô đơn, làm cho tâm hồn vừa
phong phú, phức tạp và cũng rất tinh tế trong sáng tạo nghệ thuật.
1.2.4. Cái tôi trữ tình trong thơ cách mạng
Gắn liền với hoàn cảnh và yêu cầu lịch sử, văn học lúc này đặt vấn đề
dân tộc lên trên tất cả. Vì thế theo dòng lịch sử, cái tôi trữ tình bộc lộ chủ yếu
trên các vấn đề dân tộc, lịch sử.
Các nhà thơ cách mạng luôn đứng trong những sự kiện lớn của đất
nước, với tư thế dân tộc, thời đại, giai cấp. Họ hiện hữu với trách nhiệm trước
cuộc đời hiện tại khẳng định niềm tin vào tương lai của dân tộc. Cái tôi lúc
này mang một sinh khí mới rất mạnh mẽ và kiêu hãnh. Đây là giai đoạn các
nhà thơ từ bỏ cái tôi cá nhân, để cái riêng tư hòa vào cái chung dân tộc.
Thơ cách mạng là thơ của cái tôi mới, cái tôi cộng đồng. Chủ thể không
còn là cái tôi riêng mà là một phạm trù đa thức. Đó là một cá nhân không lặp
lại hoặc là một nhóm người cùng chung ý chí, nguyện vọng có thể là toàn bộ
xã hội nói chung. Trong cái tôi mỗi người có cả một hệ thống cái tôi khác
nhau, trong quá trình tự nhận thức trước cuộc sống, cái tôi nào đó được lựa
chọn, vượt lên tự khẳng định. Cái tôi lúc này là cái tôi công dân xã hội, hướng
về tình cảm chung của cộng đồng, cái tôi hòa hợp với cái ta trong cộng đồng
mà khi giao tiếp thường được xưng là ta, chúng ta. Nó khác với cái tôi cá
nhân phân biệt người này với người khác. Cái tôi khẳng định sự chung sức
chung lòng cho sự nghiệp đánh giặc cứu nước.
1.3. Những thành tựu trong sự nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ
Lưu Quang Vũ sinh ngày 17 tháng 4 năm 1948, tại Phú Thọ. Quê gốc
của anh ở Đà Nẵng. Suốt cuộc đời Lưu Quang Vũ sống và gắn bó với Hà Nội.

18
Là con đầu lòng của nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận, Lưu Quang Vũ
chịu ảnh hưởng tích cực của người cha tài hoa. Ở con người ấy, năng khiếu
hội họa và cốt cách của một thi sĩ đã sớm được bộc lộ.
Năm mười ba tuổi, cậu bé Vũ đã giành được giải thưởng của thành phố
về cả văn và họa.
Lớn lên, Lưu Quang Vũ nhập ngũ và nhanh chóng được biết đến với tư
cách là một nhà thơ trẻ tài năng khi mới 20 tuổi qua phần thơ Hương cây in
chung với Bằng Việt trong tập Hương cây - Bếp lửa.
Năm 1970, Lưu Quang Vũ xuất ngũ và tiếp tục viết truyện, làm thơ trong
khi gặp nhiều trắc trở trong cuộc sống.
Năm 1973, đánh dấu một sự kiện quan trọng cuộc đời Lưu Quang Vũ,
gắn bó với Xuân Quỳnh, anh không chỉ có được một người bạn đời mà còn có
được một người bạn văn, cùng nhau vượt qua những năm tháng gian khổ, lận
đận.
Năm 1978, Lưu Quang Vũ làm biên tập ở Tạp chí sân khấu, anh viết
báo, và cuối năm 1979 cuốn Diễn viên và sân khấu ra đời. Cũng năm này vở
kịch đầu tay Sống mãi tuổi 17 của anh ra mắt công chúng và được đánh giá
cao.
Ngày 29 tháng 8 năm 1988, Lưu Quang Vũ đột ngột qua đời trong một
tai nạn giao thông cùng vợ và con trai út. Anh ra đi khi tuổi đời vừa mới 40.
Thế nhưng Lưu Quang Vũ đã kịp để lại cho đời rất nhiều tác phẩm có giá trị
nghệ thuật trên những thể loại mà anh đã tham gia sáng tác: thơ, truyện ngắn,
kịch. Với những đóng góp của mình, năm 2000 Lưu Quang Vũ được tặng giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Cho đến nay, Lưu Quang Vũ luôn giành được sự yêu mến của bạn đọc và
những người hâm mộ. Có lẽ cũng do bởi tài năng và những đóng góp lớn của
anh cho sự nghiệp văn học nghệ thuật nước nhà.

19
Có được điều này không phải là một sự may mắn ngẫu nhiên mà đó là
kết quả của quá trình kết hợp nhiều yếu tố tạo nên môi trường thuận lợi cho
hoạt động nghệ thuật. Có thể nói, ở Lưu Quang Vũ ta luôn nhìn thấy một
ngọn lửa say mê nghệ thuật đến miệt mài, một ý chí, nghị lực và lòng ham
học hỏi, lối làm việc đầy nhiệt tình, trách nhiệm. Cộng vào đó là sự định
hướng đúng đắn từ người cha: nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Thuận.
Nhưng sẽ là thiếu sót nếu trong những thành công của anh mà chúng ta không
nhắc đến người bạn đời, bạn nghề: nữ sĩ Xuân Quỳnh. Năm 1973, Lưu Quang
Vũ kết hôn với Xuân Quỳnh - đánh dấu một sự kiện quan trọng trong cuộc
đời Lưu Quang Vũ. Gắn bó cuộc đời mình với Xuân Quỳnh, anh không chỉ
gắn bó với một người bạn đời mà còn là một người bạn thơ, cùng nhau vượt
qua khó khăn lận đận và xác định hướng đi đúng đắn cho cuộc đời mình.
Chính sự động viên, thấu hiểu, sự chia sẻ hi sinh của người vợ đã giúp cho
Lưu Quang Vũ yên tâm, tự tin vững bước trên con đường nghệ thuật nhiều
vinh quang nhưng cũng lắm chông gai. Với cảm xúc, tài năng và trí tuệ của
mình, nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ đã được cổ vũ nhiệt thành bằng
những tràng vỗ tay tán thưởng, ngợi ca. Bây giờ, chúng ta và tin chắc cả
những thế hệ sau này nữa đều luôn nhớ đến Lưu Quang Vũ bởi tài năng, sự
lao động miệt mài và những đóng góp của anh ở cả thơ, truyện ngắn và kịch.
Năm 17 tuổi, Lưu Quang Vũ nhập ngũ, được biên chế về binh chủng
phòng không không quân. Đây là giai đoạn có nhiều thay đổi trong cuộc đời
anh. Anh sáng tác rất nhiều thơ. Chùm thơ đầu tay: Gửi tới các anh, Lá bưởi
lá chanh, Đêm hành quân được in trên tạp chí Văn nghệ quân đội. Và đặc
biệt, bằng sự xuất hiện trên văn đàn với phần thơ Hương cây in chung với
Bằng Việt trong tập Hương cây - Bếp lửa khi anh tròn hai mươi tuổi thì Lưu
Quang Vũ nhanh chóng được biết đến với tư cách là một nhà thơ trẻ tài năng
đầy triển vọng.

20
Lưu Quang Vũ đã sống trong lòng bạn đọc yêu thơ bằng những câu thơ,
bài thơ “không thể thay thế”. Độc giả như tìm thấy một cảm xúc rất riêng tư,
một cá tính rất độc đáo qua các tập thơ:
1. Hương cây - Bếp lửa - Tập thơ (in chung), Nxb Văn học, 1968
2. Mây trắng của đời tôi - Tập thơ, Nxb Tác phẩm mới, 1989
3. Bầy ong trong đêm sâu - Tập thơ, Nxb Tác phẩm mới, 1993
Ngoài ra, Lưu Quang Vũ có 12 tập thơ đã được đặt tên, có những tập đã
hoàn chỉnh: Cuốn sách xếp lầm trang, Cỏ tóc tiên,… và những tập thơ còn
dang dở.
Sau này phần lớn các bài thơ của anh đã được tập hợp trong cuốn Lưu
Quang Vũ thơ và đời, Nxb Văn hóa Thông tin, 1997. Và mới đây nhất là cuốn
Lưu Quang Vũ - di cảo, Nxb Lao động, 2008. Với thơ, anh đã có được giọng
điệu riêng, ổn định một bản sắc thơ nhất quán. Đọc thơ Lưu Quang Vũ, chúng
ta mới hiểu hết vì sao người ta lại nói: với thơ, anh đã được sống cho riêng
mình, cho chính mình. Đó là tấm lòng của một thi nhân nhiều trắc ẩn. Chính
Lưu Quang Vũ cũng đã nói:
Như tình yêu thơ đã sinh ra
Không phải vì tiền nhuận bút
Không sợ ngục tù bạo lực
Dù khổ sở dù phiền hà
Thơ không bao giờ câm lặng
Như nhịp đập của trái tim trung thực
Là nhân chứng của anh
(Nếu đó là tội lỗi)
Nếu như thơ và kịch đã ghi tên Lưu Quang Vũ trong lòng bạn đọc bao
thế hệ thì khi nhắc đến anh chúng ta cũng không thể không nhắc đến những
sáng tác truyện ngắn của anh. Truyện ngắn được xem là nhịp cầu nối liền

21
trong hành trình nghệ thuật của người nghệ sĩ, đúng như giáo sư Phong Lê đã
nhận xét: “Văn xuôi Lưu Quang Vũ - cầu nối giữa thơ và kịch. Nói đúng và
sát hơn là truyện ngắn Lưu Quang Vũ. Những truyện ngắn mang dư vị thơ.
Và những truyện ngắn hàm chứa nhiều chất kịch”.
Với những tập truyện ngắn: Người kép đóng hổ (1983), Mùa hè đang
đến (1983), Truyện ngắn Lưu Quang Vũ (1994), anh đã thể hiện được bản sắc
riêng của mình. “Truyện ngắn của Vũ đã là tiếng nói của những người
thường gặp, không to tát, không lên gân, ai cũng có thể tìm thấy chút riêng
của mình trong đó” (Lê Minh Khuê).
Những vấn đề trong văn xuôi của Lưu Quang Vũ khá nhẹ nhàng, không
gay gắt, gân guốc. Dù viết về cái tốt cái xấu, cái ác cái thiện thì ta đều tìm
thấy được cái khát khao mà Lưu Quang Vũ muốn bày tỏ là sao cho cuộc sống
và tình người đẹp hơn, trong trẻo hơn cho dù hiện tại có đục trong lẫn lộn, xấu
tốt đan xen. Chúng ta dễ dàng nhận thấy trên những trang viết của anh những
sắc màu cuộc sống, những bức chân dung khác nhau mà ta cũng có thể bắt
gặp đâu đó: một anh Bân “không bao giờ làm mất lòng ai vì không bao giờ
anh cãi lại ai”; “không bao giờ ngủ trên đường vì một lẽ rất giản đơn là anh
không đi đâu, anh đứng yên một chỗ”; “trong các cuộc họp anh thường ngồi
nghiêm chỉnh trên hàng ghế trên, thủ trưởng nói một câu anh gật đầu một
cái”. Quả là một “con người nhũn nhặn”. Nhưng ở Bân không có lập trường
quan điểm, không có sự đấu tranh thì tự mình cũng không đứng vững được.
Cuối cùng anh cũng bị lật tẩy để trơ ra là một con người nhạt nhẽo và vô tích sự.
Hoặc như anh Y một “cán bộ lâu năm”: đi nhiều nơi, chuyển nhiều cơ
quan, giữ nhiều cương vị khác nhau, biết nhiều lĩnh vực và quen rất nhiều
người. Nhiều người cứ ngỡ anh là thần tượng, xem anh như là một cuốn bách
khoa. Nhưng hóa ra anh chỉ là một cây tầm gửi, cuối đời rồi anh chẳng làm

22
được gì, hầu như không có nghề ngỗng gì, trước sau anh vẫn chỉ là một người
vô tích sự.
Lại nói đến nghề, các truyện ngắn: Người kép đóng hổ, Người chiếu đèn,
Trang viết cuối cùng, Đêm giao thừa năm ấy, Trước thềm lục địa,… là những
tác phẩm viết về con người của nghề nghiệp: nghề thuốc, nghề giáo, nghề
báo, nghề chiếu đèn, nghề văn. Qua đó ta có thể thấy được bức thông điệp của
tác giả: con người phải có nghề, sống với nghề và say mê nghề.
Đã từng làm thơ, làm báo (in trong tập Diễn viên và sân khấu - Nxb Văn
hóa, 1979), lại viết văn khá có duyên, quả là Lưu Quang Vũ đã chuẩn bị một
vốn liếng văn học và nghề nghiệp nhất định trước khi bước vào lĩnh vực sân
khấu. Ngay từ vở kịch đầu tay Sống mãi tuổi 17, nó đã đem lại vinh quang
cho anh khi anh được trao tặng huy chương vàng tại hội diễn sân khấu toàn
quốc năm 1980. Đó là một sự động viên, tạo niềm tin cho anh, để anh miệt
mài sáng tạo cho đến trước khi mất (1988). Hơn 50 vở kịch đã ra đời làm thay
đổi hẳn diện mạo của nền sân khấu nước nhà: từ tư duy của người diễn, người
xem cho đến người phê bình. Giờ đây nhắc đến anh có lẽ không ai quên được:
Lời nói dối cuối cùng, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Nàng Sita, Tôi và chúng
ta, Lời thề thứ 9,…
Xem kịch Lưu Quang Vũ ai cũng thấy hứng thú, không hề có cảm giác
nhàm chán là trước hết nhờ vào khả năng đặc biệt trong việc tạo tình thế kịch
của anh. Ngay cả những khi đó là một tình huống hoàn toàn bất ngờ không ai
lường trước được. Trong những tình huống kịch đó, Quang Vũ lại tạo ra được
một thế giới nhân vật, trong đó có những nhân vật làm người xem khó quên.
Ví dụ như: một giám đốc Việt trong Tôi và chúng ta, như Trương Ba, anh
hàng thịt trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt, và ở mỗi nhân vật, Quang Vũ
đều đặc biệt chú ý đến quá trình phát triển của tính cách nhân vật, cho dù đó
có thể là nhân vật phụ. Một nét khác nữa khi xem kịch của Lưu Quang Vũ

23
khiến ta luôn bị thu hút. Đó là trong khi ở nhiều vở kịch tính đơn nghĩa của
lời thoại, đối thoại chỉ là nhằm mục đích dẫn truyện, kéo dài những lớp thoại
nhạt nhẽo không mấy nội dung thì trong kịch Lưu Quang Vũ ngôn ngữ
thường rất tự nhiên, ngắn gọn, trong sáng, có nhiều sức gợi, nhiều lớp lang ý tứ.
Với những thành quả trong sự nghiệp sáng tác của mình, Lưu Quang Vũ
đã để lại trong lòng khán giả một phong cách kịch rất riêng: tính hiện đại
trong chủ đề tư tưởng các vở diễn ngay cả khi viết về đề tài lịch sử, dã sử,
truyện kể dân gian trong và ngoài nước. Anh đã nêu lên được cái muôn đời
trong cái bình thường, biến những chuyện từ trong cổ tích, huyền thoại thành
chuyện thời sự. Vì thế mà tác phẩm của anh đã đến gần được với đời sống, từ
đó gợi ra những ý nghĩa phổ biến và có sức khái quát cao.
Chính vì vậy mà cho đến nay, nhắc đến sân khấu kịch Việt Nam không ai
có thể quên nhắc đến Lưu Quang Vũ vì những tài năng và đóng góp của anh.
Lưu Quang Vũ chỉ sống tròn 40 năm trong thời kì đầy khó khăn và biến
động của đất nước: chiến tranh, hòa bình, bước vào thời kì đổi mới. Trong
cuộc đời ngắn ngủi với biết bao thăng trầm: gặp gỡ và chia li, hi vọng và thất
vọng, đắng cay và hạnh phúc, thất bại và thành công… chàng thi sĩ trẻ họ Lưu
đã kịp để lại cho đời nhiều tác phẩm có dấu ấn và đã kịp trở thành một trong
số những kịch gia lớn nhất của Việt Nam thế kỉ XX. Nhưng dù vậy, trước hết
anh là một nhà thơ. Với thơ anh đã được sống với chính mình. Sinh thời niềm
say mê lớn nhất của anh là: vẽ tranh, viết nhật kí và làm thơ. Thơ có thể
không mang lại cho anh những thành công rực rỡ, huy hoàng như kịch nhưng
“Thơ chính là nơi ẩn náu cuối chót của chàng thi sĩ buồn này. Thơ - với Lưu
Quang Vũ là tất cả sự hàm ơn, và trang trải riêng của tâm hồn chàng với đời
sống” (Nguyễn Thị Minh Thái). Thơ Lưu Quang Vũ vì thế mang nhiều tính
chất tự thuật, nó giống như những dòng nhật kí chia sẻ với anh những khi anh

24
đau khổ, vui sướng và hạnh phúc trong cuộc đời. Có lẽ với anh thơ ca cũng
giống như Raxun Gamzatop viết:
Khi tôi nhỏ thơ giống như bà mẹ
Tôi lớn lên thơ lại giống người yêu
Chăm sóc tuổi già thơ sẽ là con gái
Lúc từ giã cõi đời kỉ niệm hóa thơ lưu
(Thơ ca)

25
Chương 2
CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ LƯU QUANG VŨ
QUA NHỮNG NGUỒN CẢM HỨNG TIÊU BIỂU

Lê Quý Đôn từng cho rằng: “Thơ khởi phát trong lòng người ta”, còn
Ngô Thì Nhậm lại tha thiết: “Hãy xúc động hồn thơ cho ngòi bút có thần”.
Thơ trữ tình theo một quan niệm chung nhất là sự thể hiện trực tiếp những
cảm xúc và suy tư của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình trước các hiện tượng
đời sống. Bằng lăng kính chủ quan của mình, nhà thơ nhận thức và cảm xúc
trước thế giới và con người. Đồng thời thông qua việc tổ chức các phương
tiện để tạo ra một thế giới tinh thần riêng biệt, độc đáo mang tính thẩm mĩ và
nhằm truyền đạt tinh thần đó đến bạn đọc. Dù nhà thơ viết về đề tài nào, nhập
vai dưới dạng nào thì suy cho cùng tác phẩm đó cũng chính là tiếng nói chứa
đựng xúc cảm suy tư của anh, mang đậm dấu ấn cá thể của tâm hồn thi sĩ.
Như vậy, cái tôi trong trong thơ trữ tình cũng chính là chủ thể, là sự hóa thân
của nhà thơ mà theo Bêsô thì “bản chất của nhà thơ trữ tình là ở chỗ, qua thi
ca anh ta đã thành hình tượng”.
Lưu Quang Vũ làm thơ là để trút hết lòng mình trên trang giấy. Anh rất
yêu thơ, chính anh cũng đã nói: “phải khi nào viết được hết những gì của
mình mới có thể gọi là thơ”. Cuộc đời anh, 40 năm, thăng trầm đủ cả: có
những giọt nước mắt đau khổ, chia li, thất vọng chán chường; nhưng cũng có
những giọt nước mắt của hạnh phúc, của thành công rực rỡ. Chính vì thế mà
cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ không phải bất biến mà nó thay đổi
theo từng quãng đời, từng quãng đường thơ. Có khi là cái tôi đầy mâu thuẫn,
yếu đuối nhưng cũng có khi đầy say mê, đắm đuối. Cái tôi trữ tình trong thơ
anh được thể hiện đầy đủ qua những cung bậc cảm xúc: từ thất vọng, đau
buồn cho tới sướng vui, hạnh phúc.

26
2.1. Cái tôi tha thiết yêu thương đắm đuối
Đọc thơ Lưu Quang Vũ, có lẽ điều đầu tiên mà chúng ta dễ dàng cảm
nhận được là thơ anh chan chứa tình yêu thương với quê hương đất nước, với
bạn bè, với đồng đội, với những đứa trẻ nghèo. Tất cả đều được anh quan tâm
đến từng số phận, từng cảnh đời.
2.1.1. Cảm xúc về quê hương đất nước
Quê hương, đất nước - những tiếng gọi thiêng liêng luôn được khắc ghi
trong tâm hồn người Việt. Đã từ xưa, đó là một đề tài bất tận của thi, ca, nhạc,
họa.
Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông
(Chế Lan Viên)
Đọc thơ Lưu Quang Vũ, ta dễ dàng cảm nhận được những cảm xúc mãnh
liệt về đất nước, về quê hương. Một nước Việt Nam tươi đẹp sáng ngời, tràn
đầy sức sống có lẽ nào ta không yêu không giữ. Yêu quý giữ gìn là trách
nhiệm của chúng ta:
Đất nước mình tươi hoa đẹp nắng
Ta cùng gìn giữ phải không anh
(Gửi tới các anh )
Những cảm xúc như vậy rất gần gũi với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm:
Em ơi em, đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất nước muôn đời
(Đất nước)

27
Biết yêu quê hương đất nước, ý thức được đó là máu xương của mình
không phải sách vở nào cũng có thể dạy được. Cũng không thể gượng ép
mình nói lên những điều không phải xuất phát từ con tim. Chỉ khi nào những
tình cảm chân thành được nói ra từ sâu thẳm đáy lòng thì ta nghe vừa mộc
mạc, giản dị nhưng lại vừa ý nhị, đằm thắm.
Cây lá nơi này, cây lá quê hương
Ôi những mẹ những em ta hiền hậu
Những cô gái cùng ta chiến đấu
Giống như người con gái hôm xưa
(Lá bưởi lá chanh)
Yêu quê hương đất nước không phải vì những cái gì to tát mà nó đã
mang lại cho ta mà đất nước gắn với ta từ những cái gì nhỏ bé nhất, gần gũi
và thân quen nhất: cây lá nơi này cây lá quê hương. Ôi quê hương, nơi có mẹ,
có em ta những khuôn mặt hiền hậu, nơi những cô gái cùng ta chiến đấu. Tất
cả làm ta nhớ, ta thương. Những câu thơ giản dị, không hề cầu kì, chải chuốt
nhưng ta vẫn cảm nhận được những tình cảm sâu nặng của chính người viết
nên nó. Chính vì xuất phát từ những tình cảm chân thành nhất mà nhà thơ đã
thấy được niềm vui của mình khi ý thức về trách nhiệm bản thân. Đó là trách
nhiệm của một người công dân luôn nghĩ về quê hương, là niềm vui của đứa
con khi phải bảo vệ đất mẹ trong mọi hoàn cảnh. Trong chiến tranh, không có
nỗi đau nào đau bằng nỗi đau mất nước, không có nỗi nhục nào bằng nỗi nhục
của một người nô lệ, bởi vì “không có gì quý hơn độc lập tự do”. Làm sao nói
đến niềm vui riêng của cá nhân trong nỗi lo chung của dân tộc. Cho nên,
trong hoàn cảnh mưa bom bão đạn, có lẽ niềm vui lớn nhất là được góp sức
mình bảo vệ quê hương, con đường đi kháng chiến vui náo nức:
Tiếng ai hò? dáng lạ cũng thân quen
Đường nào vui bằng đường ra trận tuyến
(Đêm hành quân)

28
Giờ đây trên con đường hành quân ấy, tất cả những gương mặt dẫu lạ
cũng đã thành quen:
Tôi với anh đôi người xa lạ
Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau
(Đồng chí - Chính Hữu)
Bởi vì, tất cả lúc này cùng chung một dòng máu, dòng máu quê hương.
Chính vì thế mà cùng chung một niềm vui ra trận “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu
nước/ Mà lòng phới phới dậy tương lai” (Tố Hữu).
Con đường quê hương, con đường yêu thương
Nối với vạn nẻo đường đất nước
Náo nức ngày đêm xe xuôi ngược
Đi ra tiền tuyến xa gần
(Những con đường)
Nước Việt Nam là một, tất cả đều chung một mái nhà, cùng chung khát
vọng:
Ta đi giữ nước yêu thương lắm
Mỗi xóm thôn qua mỗi nghĩa tình
(Gửi tới các anh )
Bây giờ đây, hơn lúc nào hết các anh đã cảm nhận được mỗi tên xóm, tên
làng nơi các anh đã từng đi qua, đã trở thành những kỉ niệm không thể nguôi
quên “nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương?” và “Khi ta ở, chỉ là nơi đất
ở/ Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!” (Chế Lan Viên).
Chứng kiến những tháng ngày đất nước mình quằn quại dưới giày đinh
lũ giặc, tác giả đau đớn xót xa về những tội ác mà chúng gây ra:
Phố huyện mấy lần tàu bay giặc bắn
Nhà ta năm ấy cháy tan hoang
(Phố huyện)

29
Nhưng càng đau đớn bao nhiêu thì lại càng vui sướng bấy nhiêu về
những đổi thay của nó khi được chính bàn tay con người khôi phục, dựng xây:
Phố đổi thay nhiều nhìn quanh bỡ ngỡ
Đây cửa hàng mậu dịch đông vui
Đây nhà ga tàu hối hả ngược xuôi
(Phố huyện)
Như vậy, ta có thể thấy rằng trong những vần thơ Lưu Quang Vũ viết về
quê hương đất nước những cảm xúc nồng nàn, tha thiết. Tình cảm ấy là một
sự gắn bó, một niềm tin yêu nhẹ nhàng mà cũng rất mãnh liệt. Hơn tất cả mọi
thứ, cảm xúc của người con hướng về đất mẹ luôn chân thành, đẹp đẽ, lung linh.
2.1.2. Cảm xúc về người thân
Lưu Quang Vũ là một người sống rất nội tâm. Điều đó đã ảnh hưởng rất
nhiều đến thơ của anh - nơi mà anh nghĩ là có thể giãi bày tâm sự, kí gửi lòng
mình. Chính vì thế mà cái tôi trữ tình trong thơ anh là một cái tôi hướng nội.
Đối với những người thân xung quanh mình, Lưu Quang Vũ sáng tác
khá nhiều bài thơ dành cho họ: mẹ, vợ, con và cả những người bạn của anh:
Chúng ta tụm năm tụm ba
Họp hành, giễu nhau, uống trà, đọc thơ, đi thực tế
(Nói với mình và các bạn)
Bạn bè là nơi nhiều người tìm đến, kể cả những lúc vui và cả những lúc
buồn. Những khi muốn có người tâm sự thì chén rượu nhạt và những người
bạn thân cũng là điểm hẹn của Quang Vũ:
Hạnh phúc của tôi là được các bạn mến yêu
Là được mến yêu và tin các bạn
Thế hệ mình cần những người dũng cảm
Dũng cảm yêu thương dũng cảm căm thù
(Nói với mình và các bạn)

30
Tất nhiên họ gặp nhau là để nói những câu chuyện của lòng mình, của
thế sự, của nhân gian. Và cũng có thể là “Đêm đông chí, uống rượu với bác
Lâm và bác Khánh, nói về những cuộc chia tay thời loạn”:
Thôi nhé mai ngày tiễn Khánh đi
Đường xa bom phá tàu không về
Những cuộc chia tay làm sao không nhớ, không hụt hẫng bởi cái thời
loạn lạc của chiến tranh: “Cuộc chiến còn dai dẳng/ Hai bên chĩa súng vào
nhau”. Chính vì thế mà cảm xúc về những chuyến đi xa càng sâu nặng: “Mai
Nguyễn mặc áo lính, khoác ba lô/ Khánh xuôi về Phòng, mình ở lại” lòng
buồn không thể nói nên câu “Đốm thuốc cháy môi không nói”.
Nếu như đối với bạn bè những cảm xúc là nhẹ nhàng, thanh thản thì đối
với vợ, con, đặc biệt là mẹ có phần anh suy nghĩ nhiều về trách nhiệm của bản
thân, về bổn phận của người con.
Đọc những vần thơ của Lưu Quang Vũ ta thấy ở anh một tâm hồn vừa
nhạy cảm, tinh tế nhưng cũng rất sâu kín, nội tâm. Đó là một sự thấu hiểu
lòng mình, lòng người khác. Anh cảm nhận được niềm vui của bản thân
những ngày đầu tiên chờ đón đứa con ra đời và anh cũng hiểu được những
khó nhọc và cả những đổi thay của người mẹ khi chín tháng mang thai đứa
con: “Lần đầu tiên nghe con trở đạp/ Em quặn lòng nhưng náo nức yêu
thương/ Tháng thứ tám mang thai em mệt/ Da xanh gầy đôi mắt cũng to hơn/
…Mẹ bấm móng tay mong con lắm đấy/ Cha chờ con càng yêu mẹ của con”.
Khi viết về người bạn đời, anh cảm thấy đó là người luôn chở che và lo
lắng cho anh. Cho nên trong bài Thư viết cho Quỳnh trên máy bay khi “Mẹ
của các con anh/ Một tháng nay nằm viện” thì anh lại suy nghĩ và băn khoăn
nhiều hơn: “Có phải vì mười lăm năm yêu anh/ Trái tim em đã mệt” và “Một
mình em với giấc ngủ chập chờn/ Thương trái tim nhiều vất vả lo buồn/ Trái
tim lỡ yêu người trai phiêu bạt”. Đối với vợ, anh luôn tự cho mình là người

31
trai phiêu bạt, là “người chồng đoảng của em” và cho rằng chính anh là
người làm em đau khổ “Người yêu ơi/ Có nhịp tim nào buồn khổ vì anh?”.
Dường như lúc này, mọi sự lo lắng của anh đều dồn hết cho người vợ thân
yêu. Sự mong mỏi lớn nhất lúc này cũng chính là “Trái tim hãy vì anh mà
khỏe mạnh/ Trái tim của mùa hè, tổ ấm chở che anh”.
Mẹ là mái che đời cha mưa nắng
Con là cánh buồm cha gửi đến mai sau
(Gửi em và con)
Nói đến con, Lưu Quang Vũ đã dành rất nhiều tình cảm trong những vần
thơ viết về con. Tình cảm cha con, tình phụ tử thiêng liêng cao qúi, có thể đối
với những nhà thơ khác, ta không gặp nhiều bài thơ viết về nó. Nhưng trong
thơ Lưu Quang Vũ, ta lại thấy nhiều. Với những trạng thái cảm xúc khác
nhau, những hoàn cảnh khác nhau, anh luôn xem đứa con nhỏ là niềm vui lớn,
là nơi anh gửi gắm tâm sự của người cha. Từ buổi “Anh mong đợi ngày cha
con gặp mặt” khi đứa con mới chỉ tháng thứ tám trong bụng mẹ cho đến khi
con vừa tròn một tuổi “Miệng bi bô tập nói/ Làm gà ò ó o” thì tình cảm của
người cha dành cho con đã rất sâu nặng.
Đọc những vần thơ:
Tháng tư, nắng trở trời
Con thường hay ốm vặt
Mẹ lo, đêm thức suốt
Bố thương, ngày bế hoài
(Thằng Mí)
hay:
Sau mỗi ngày bận rộn
Bố có niềm vui lớn
Buổi chiều đi đón con
(Buổi chiều đón con)

32
chúng ta như thấy một cái tôi tràn đầy cảm xúc. Giọng thơ nhẹ nhàng nhưng
ngập tràn tình cảm. Phải là một con người đa cảm, sống nội tâm thì mới có
thể cảm nhận hết những niềm vui lớn lao từ những việc bé nhỏ như vậy. Rồi
khi hoàn cảnh bản thân gặp nhiều ngang trái, phải chia tay với vợ khi đứa con
đầu lòng vừa tròn một tuổi, hơn ai hết không chỉ thấy đau khổ riêng mình mà
anh còn nghĩ đến tội lỗi mình gây ra cho con và nỗi buồn mà đứa con bé bỏng
phải gánh lấy. Anh tâm sự:
Con ơi hãy tha thứ cho cha
Cha chẳng thể nào sống cùng mẹ được
đời cha nắng gắt
mẹ con cần suối mát của đồng vui.
Con khôn lớn trên đời
hãy yêu thương mẹ
và hãy hiểu cho cha
(Nói với con cuối năm)
Anh yêu con, dành nhiều tình cảm cho những đứa con của mình. Và anh
hiểu đứa con là niềm vui, là hạnh phúc, là lẽ sống của người làm cha, làm mẹ.
Cũng chính vì thế, Lưu Quang Vũ cũng đã dành tình cảm và nhiều trang viết
cho người mẹ của mình:
Trên đời chẳng ai lo cho ta bằng mẹ
Cũng chẳng ai ta làm khổ nhiều như mẹ của ta
(Gửi mẹ)
Dường như đối với ai, anh cũng cảm thấy mình là người có lỗi và nhận
phần trách nhiệm về mình.
Viết về mảng thơ này, PGS.TS. Lưu Khánh Thơ - em gái Lưu Quang Vũ
- đã nhận xét: “Ấn tượng về những ngày kháng chiến gian khổ đã in đậm
trong tâm hồn cậu bé Lưu Quang Vũ, mà nổi bật lên vẫn là hình ảnh người

33
mẹ tần tảo một nắng hai sương… Những kỉ niệm ấy trở thành nguồn cảm
hứng và trở đi trở lại trong các bài thơ sáng tác sau này của anh”; hay “Biết
bao nhà thơ đã dành cho mẹ những lời đẹp nhất. Đến lượt Lưu Quang Vũ,
anh lại thể hiện tình cảm của mình theo một cách riêng: giản dị, chân thành
nhưng không kém phần tha thiết, đằm thắm”:
Mẹ vá áo mới biết con chóng lớn
Mẹ không còn rõ chỉ để xâu kim
Áo con có đường khâu tay mẹ vá
Thương mẹ nhiều con càng yêu áo thêm
(Áo cũ)
Những câu thơ trên được viết vào năm 1963, tức là khi Lưu Quang Vũ
vừa tròn mười lăm tuổi. Một cậu học sinh lớp chín mà đã ý thức được những
vất vả của người mẹ, và cả sự già nua của mẹ theo năm tháng, để rồi từ đó
yêu mẹ hơn bởi từng đường kim mũi chỉ khi mặc áo do tay mẹ vá. Đối với
mẹ, con vẫn còn rất bé nhỏ, chỉ là “đứa con trai nhiều lỗi lầm ương ngạnh”.
Nhìn thấy mẹ mỗi năm thêm một tuổi, nắng mưa làm tóc mẹ bạc đi nhiều, bây
giờ con chỉ:
Ước mẹ trẻ hoài như buổi mới gặp cha
Ước con được sống suốt đời bên mẹ
Mẹ muốn ăn cá thu con chẳng nề xuống bể
Chẳng ngại lên ngàn kiếm đọt măng mai
(Gửi mẹ)
Dường như đến lúc này tất cả tấm lòng của người con đã dành cho sự lo
lắng khi nghĩ về mẹ:
Đêm nay con nằm rừng xa gió lạnh
Mẹ nghỉ chưa hay đã thức rồi
(Gửi mẹ)

34
Như vậy đến đây, chúng ta có thể nhận thấy có những cảm xúc tràn đầy
trong những câu thơ Lưu Quang Vũ viết về những người thân yêu nhất của
mình. Đó là những tình cảm chân thành mà tha thiết. Quả là “có những điều
chỉ nói được bằng thơ” (Maiacopxki). Những vần thơ nói hộ lòng anh. Vì
những người thân yêu anh muốn mang đến cho họ niềm vui trong cuộc đời.
Những tình cảm của lòng mình anh muốn dành cho tất cả.
2.1.3. Cảm xúc về số phận của trẻ em
Với một trái tim nhạy cảm và con mắt quan sát tinh tế, Lưu Quang Vũ đã
trăn trở nhiều về cuộc sống của những em bé trong hoàn cảnh đất nước có
chiến tranh. Sự tàn khốc của chiến tranh không chỉ làm cho người lớn phải lo
toan, vất vả mà cuộc sống của trẻ thơ cũng trở nên khác thường. Lưu Quang
Vũ đã rất xúc động, xót xa khi dựng lại bức chân dung của các em.
“Trẻ em như búp trên cành”, đó là những thế hệ tương lai của đất nước
dù trong hoàn cảnh nào vẫn cần được chăm sóc nâng niu. Mỗi đứa trẻ là một
gương mặt sinh ra để đón nhận cuộc sống bình yên, hạnh phúc, một tương lai
tốt đẹp. Nhưng trong chiến tranh, những điều tưởng chừng tất nhiên ấy lại thật
xa vời:
Nhớ lũ em giờ sơ tán nơi xa
Mưa này lội đường trơn đi học
(Thức với quê hương)
Một hình ảnh dễ bắt gặp trong khói bom lửa đạn: đó là những ngày sơ
tán nơi xa. Nhưng dù khó khăn, vất vả đến đâu thì các em vẫn cố gắng vượt
lên hoàn cảnh để chống chọi và chiến thắng kẻ thù. Công việc của các em lúc
này, sự cống hiến của các em lúc này là trau dồi trên trang sách. Muốn xây
dựng tương lai đất nước thì phải tới trường cho dù là những ngày nắng hay
ngày mưa.

35
Nhưng rồi muốn yên cũng thật khó. Tội ác của kẻ thù không chừa một
ai. Nếu như trước đây Nguyễn Trãi khi tố cáo tội ác của giặc Minh đã nói:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
thì nay, chúng ta cũng thấy số phận mong manh nhỏ bé của các em trong thơ
Lưu Quang Vũ:
Lũ trẻ nhỏ ngụp chìm trong đạn lửa
Bao nấm mồ nằm lại những đồi hoang
(Thị trấn biển)
Khi đọc thơ Lưu Quang Vũ viết về trẻ em, một điều ta dễ nhận thấy là dù
trong hoàn cảnh nào thì những cảnh đời của những đứa trẻ nghèo vẫn luôn
làm trái tim anh nhức nhối.
Những em bé mồ côi
ra sông vớt củi mục
Những em bé lang thang
bán báo trên tàu điện
Đó là nhũng số phận thật mong manh, tương lai không định hướng. Hi
vọng của các em chỉ là làm sao để sống cho qua từng ngày cho dù phải giành
giật từng miếng cơm manh áo. Bây giờ các em là:
Những tuổi thơ không có tuổi thơ
Những đôi mắt tráo trơ mà tội nghiệp
Chúng ăn cắp, đánh nhau, chửi tục
Lang thang hè đường, tàu điện, quán bia
Những bông hoa chưa nở đã tàn đi
Những cành cây chưa xanh đã cỗi
(Những tuổi thơ)

36
Những “con chim non trong trắng” đáng lẽ cần được che chở, nâng niu
thì giờ đây tuổi thơ của các em như đã chết: “Em gái mười lăm đã không còn
thiếu nữ/… Người ta đã đánh em/ Trong toa tàu chật chội/ Người ta làm nhục
em/ Dưới bẩn thỉu những lùm cây tối”, để em từ nay “Đôi môi không trong
vắt nụ cười”, điều em mơ ước không còn nguyên lành nữa. Nhìn thấy hình
ảnh đó mà lòng người như thắt lại: “Lặng đứng nhìn em đi/ Cổ tôi chừng
nghẹn đắng” (Những tuổi thơ).
Có thể không còn những lời nào để nói hết sự mất mát của tuổi thơ em.
Tất cả là lỗi của ai?: “Mọi người đều có tội/ Trước tuổi thơ đã chết của em”.
Như vậy là hoàn cảnh xã hội, đất nước chiến tranh, những tuổi thơ không
được sống trong thanh bình, không được che chở. Chiến tranh đã cướp đi của
các em tất cả.
Lưu Quang Vũ rất thương cảm, xót xa cho những mảnh đời nhỏ bé như
vậy. Những con chim non chưa đủ lông đủ cánh, chưa thể tự mình lo cho cuộc
sống của mình mà đã phải chịu những nỗi đau mất mát:
nhìn bao em bé mồ côi
mà sao chiều nay
giết xong quân giặc
chẳng thấy lòng thảnh thơi nhẹ nhõm.
Giờ đây, anh chỉ muốn nói với các em những lời động viên, an ủi; muốn
thổi vào các em ngọn lửa của niềm tin; muốn các em vững vàng bước tiếp,
phải giành lại từ kẻ thù niềm tin vào cuộc sống:
Đừng sợ, bé em ơi đừng sợ hãi
Chúng ta cần phải sống
Làm chứng nhân tấn kịch thảm thê này
(Ghi vội một đêm 1972)

37
Đúng vậy, các em cần phải sống, mà phải sống cho mạnh mẽ bởi chính
các em là chứng nhân của tội ác, là lời tố cáo mà mãi đến đời sau vẫn còn
nhức nhối.
Biết bao yêu thương, bao trìu mến, bao xót xa xen lẫn tự hào khi Lưu
Quang Vũ viết những câu thơ về tuổi thơ. Những em bé lớn lên trong gian
khó, nụ cười trong trẻo của các em giờ đây chất chứa bao đau thương mất
mát. Tội ác của kẻ thù hằn sâu trong mỗi tâm hồn thơ trẻ. Những đồng cảm,
xót xa của tác giả chính là những bằng chứng lên án chiến tranh, sự hủy diệt
đồng thời ca ngợi sức sống mãnh liệt của mỗi con người Việt Nam. Đúng là,
sự sống gieo mầm từ cái chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những đau khổ hi
sinh.
2.2. Cái tôi da diết và đầy biến động trong tình yêu
Tình yêu là một tình cảm thiêng liêng và cao đẹp của con người. Từ lâu
nó vẫn luôn là một địa hạt hấp dẫn của những người yêu thơ, người sáng tác
thơ và thu hút sự chú ý của các nhà phê bình văn học. Lưu Quang Vũ không
phải là một ngoại lệ. Thơ tình là một phần quan trọng trong đời thơ của anh,
nhất là khi bản thân Lưu Quang Vũ là một chàng trai đa sầu đa cảm với nhiều
rung động và lắm cảm xúc.
Với Lưu Quang Vũ, tình yêu không chỉ là điểm tựa, là nguồn sống, mà
nó còn là nguồn cảm hứng nghệ thuật dạt dào. Đi qua từng giai đoạn trong
cuộc đời với những mối tình, những cuộc hôn nhân, thơ tình Lưu Quang Vũ
cũng luôn biến chuyển với những giọng điệu riêng, những cung bậc khác
nhau. Điều đặc biệt ở thơ tình Lưu Quang Vũ là qua mỗi giai đoạn thơ, người
ta lại thấy sự có mặt của những mối tình, những người phụ nữ. Hay nói một
cách khác, mỗi người con gái đến với Lưu Quang Vũ đều để lại những dấu ấn
nhất định trong thơ anh.

38
2.2.1. Những cảm xúc trong trẻo tuổi học trò
Lưu Quang Vũ là một chàng trai tài hoa và nhạy cảm. Từ thuở còn cắp
sách đến trường, mỗi ánh mắt, mỗi nụ cười đều làm anh xao xuyến: “Mấy
bữa nay, trước khi xa trường mình thấy nhiều đôi mắt ngập ngừng, phân vân
nhìn mình làm cho trái tim trẻ dại đôi lúc phải rung lên” (Nhật kí Lưu Quang
Vũ ngày 29/5/1963). Đây là những thổ lộ của một cậu học sinh lớp 9. Nhật kí
thời đi học của anh còn ghi lại rất nhiều những cảm xúc bâng khuâng, mơ hồ,
những tình cảm dịu nhẹ, những ấn tượng tươi rói của tình yêu tuổi học trò đầy
mơ mộng. Đó là những cảm xúc trong trẻo về một cô bạn gái cùng lớp:
Cô bé con có đôi mắt mở to
Đã đánh mất kho vàng và tiếng hát
(Những ngày chưa có em)
Người ta thường nói, khi yêu đôi mắt nói lên được tất cả. Có những
người yêu nhau từ cái nhìn đầu tiên hoặc cảm nhận được tình yêu khi “tay
nắm chặt tay/ mắt dừng lâu trong mắt”. Nhìn vào đôi mắt ta hiểu được nhiều
điều: “Em bảo anh đi đi/ Sao anh không đứng lại/ Em bảo anh đứng lại/ Sao
anh vội đi ngay/ Lời nói thoảng gió bay/ Sao mà anh ngốc thế/ Không nhìn
vào mắt em” như lời của một nhà thơ nào đó đã nói. Và với Lưu Quang Vũ
cũng vậy, thời gian này đã có nhiều ánh mắt làm cho cậu học trò phải bâng
khuâng:
Cho anh hái một nhành mi xanh biếc
…Nắng rụng vào khóe mắt thoảng bóng mây
(Chia tay)
hay là:
Mắt người trong như giếng nước ban đầu
Mảnh trăng liềm nghiêng một nỗi nhớ nhau
(Đêm hành quân)

39
Đó là những câu thơ rất hay, vừa trong trẻo nhưng cũng giàu cảm xúc
của chàng trai tuổi mười bảy, mười tám. Có một cái gì đó rất lãng mạn của
những rung cảm ban đầu. Ngôn từ, hình ảnh được sử dụng ở đây cũng thật
trong sáng, hồn nhiên: hái một nhành mi, nắng rụng vào khóe mắt thoảng
bóng mây. Ánh mắt lúc này không gợn chút lo âu: “trong như giếng nước ban
đầu”. Đặc biệt là từ những rung động của lòng mình đó anh đã sáng tạo và
liên tưởng đến một hình ảnh rất đẹp: “Mảnh trăng liềm nghiêng một nỗi nhớ
nhau”.
Trong sổ tay của anh ngày ấy đã ghi lại những kỉ niệm của tuổi học trò
nhiều mộng mơ. Ở đó chúng ta có thể đã tìm thấy được những tình cảm nhẹ
nhàng nào đó của thời cắp sách để rồi theo anh mãi về sau:
Một dòng sông, một con đường xa vắng
Với niềm thương nhớ khôn nguôi
trong đó cũng có thể đã có vị chua chát, xót xa:
Hai sắc hoa ti-gôn
Bài thơ xưa của T.T.K.H
Bài thơ thời đi học nhớ không em?
Bài thơ đắng cay tuy điệu mà buồn
Nay đọc lại chẳng còn rơi nước mắt
… Hoa ti-gôn như trái tim vỡ nát
Chết âm thầm dưới những bước chân quen
Điều đáng nói là những rung động ngọt ngào của tuổi học trò đã tưới mát
tâm hồn anh. Anh đã có được những ngày mơ mộng và vô tư trong sáng. Đặc
biệt là nó đã nuôi dưỡng và chắp cánh cho những vần thơ của anh. Cũng một
phần từ những rung động đầu đời đó mà chúng ta có thể hiểu nhiều hơn về
chàng thi sĩ họ Lưu.

40
2.2.2. Tình yêu đầu đời và hạnh phúc ngắn ngủi
Cũng như bao chàng trai khác ở lứa tuổi yêu đương, mối tình đầu của
Lưu Quang Vũ thật đẹp đẽ, lung linh và không dễ gì quên được. Đó là tình
yêu của chàng trai ở tuổi hai mươi. Khi đó, tâm hồn trong sáng, lạc quan, dạt
dào ước vọng và tình yêu là mộng đẹp trong đời, tình yêu làm cuộc sống trở
nên bay bổng, diệu kì:
Trong thành phố có một vườn cây mát
Trong triệu người có em của ta
(Vườn trong phố)
Tình yêu không chỉ dành riêng cho ai, cho lứa tuổi nào, cho giai cấp nào.
Ai cũng có có thể có những rung động, những cảm xúc và cũng có thể tìm cho
mình một tình yêu đích thực. Và như vậy thì ai cũng có thể hi vọng “trong
triệu người có em của ta” chỉ có điều như ai đó đã nói: “Có khi nào trên
đường đời tấp nập/ Ta vô tình đi lướt qua nhau”.
Đến lúc này, Lưu Quang Vũ đã tìm thấy “em” trong “đường đời tấp
nập” đó: “Anh đã gặp em, em là tia nắng”:
Vườn em là nơi đọng gió trời xa
Hoa tím chim kêu bàng thưa lá nắng
Con nhện đi về giăng tơ trắng
Trái tròn căng mập nhựa sinh sôi

Nơi ban mai cỏ ướt sương rơi


Một hạt nhỏ mơ hồ trên má
Hơi lạnh nào ngón tay cầm se giá
Suốt cuộc đời cũng chẳng hiểu vì sao…
(Vườn trong phố)
Với mối tình đầu, Lưu Quang Vũ đã yêu rất “say sưa”, rất tin tưởng. Anh
đang ngập tràn trong hạnh phúc. Bao nhiêu mĩ từ anh đã dành cho tình yêu

41
của anh và em. Đây là những cảm xúc rất dễ thấy ở những người đang yêu.
Với Lưu Quang Vũ, giờ đây dường như mọi chiều hướng suy nghĩ đều quay
về một hướng: hướng em. Em và tình yêu của em đã chắp thêm đôi cánh cho
anh. Có em anh cảm thấy yêu đời hơn, yêu cuộc sống hơn, thấy mình sống
phải có trách nhiệm hơn và gắn cuộc đời mình vào tất cả:
Em ơi, em là Hà Nội
Anh chưa bao giờ yêu Hà Nội như hôm nay
(Chưa bao giờ)
Cám ơn thời gian, cám ơn hôm nay
Người chiến đấu mang nụ cười đẹp nhất
Ngày ấy ta chưa thấy hết tầm đất nước
Ngày ấy ta chưa hiểu rõ lòng ta
Anh chưa biết yêu em như bây giờ
(Ngày ấy)
Vậy là tình cảm tuổi học trò giữa Lưu Quang Vũ và Tố Uyên ngày càng
trở nên nồng nàn, say đắm. Anh đã giành cho người con gái của đời mình
những lời thơ đẹp nhất. Anh đã yêu bằng tất cả sự đam mê, sự rối rít của tâm
hồn: “Biết bao điều anh còn chưa nói được/ Rối rít trong lòng một nỗi em
em”. Tất cả đã trở thành nguồn năng lượng, nguồn cảm hứng để cho anh sáng
tác Vườn trong phố, Hơi ấm bàn tay,… với những vần thơ “nổi gió”:
Em có nghe đất trời đang náo động
Như tình em nổi gió giữa hồn anh .
Và rồi tình yêu đầu tiên của anh đã có bến đỗ, con thuyền tình yêu đã
cập bến an toàn. Tình yêu trở nên chín chắn hơn với một cuộc hôn nhân. Có
hạnh phúc nào hơn khi hai người yêu nhau đã đến được với nhau. Anh hồi
hộp, vui mừng chờ đón đứa con đầu lòng. Cây tình yêu đã đơm hoa kết trái.

42
Nhưng mối tình đẹp đẽ ấy cũng không kéo dài được bao lâu. Khi đứa
con của hai người lẫm chẫm biết đi, những dấu hiệu tan vỡ đã bắt đầu xuất
hiện. Anh đã sống với tình yêu như một trái đắng, như một sự hành hạ. Những
đau khổ về tình yêu khi cuộc hôn nhân tan vỡ. Hạnh phúc ngắn ngủi. Đó là
những tháng ngày mất mát, buồn bã và chua xót: hạnh phúc gia đình tan vỡ,
đất nước đang thời kì khó khăn, cuộc sống riêng tư đầy những đa đoan, lận
đận. Những vần thơ như nói hộ tâm trạng của anh: “Có những lúc tâm hồn tôi
rách nát/ Như một chiếc lá khô, như một chồng gạch vụn” (Có những lúc).
Cuộc hôn nhân tan vỡ. Như tất cả mọi người, Lưu Quang Vũ nuối tiếc
cuộc tình đẹp đẽ ban đầu: “Em là ngọn gió chiều nức nở/ Em là ngày xưa run
rẫy cả lòng anh”, “Những ngày qua không dễ nguôi quên/ Em lạc đến đời
anh tia nắng rọi/ Anh thuở ấy lòng thơm trang giấy mới/ Mối tình đầu tóc dại
tuổi mười lăm” (Từ biệt). Trước ngày ra tòa li hôn chính thức, Lưu Quang Vũ
viết cho Tố Uyên bài thơ từ biệt. Những vần thơ đắng cay, chua chát, nó cũng
đau đớn, mệt mỏi như chính tình cảnh của anh lúc đó:
Hai ta không đi chung một ngả đường dài
Không chung khổ đau, không cùng nhịp thở
Những gì em cần anh chẳng có
Em không màng những ngọn gió anh trao
Chiếc cốc tan không thể khác đâu em
Anh nào muốn nói những lời độc ác
Như dao cắt, lòng anh như giấy nát
Phố ngoài kia ngột ngạt những toa tàu
(Từ biệt)
Và anh nói với con trai:
Con ơi con hãy tha thứ cho cha
Cha chẳng thể nào sống cùng mẹ được

43
đời cha nắng gắt
mẹ con cần suối mát của đồng vui
Con khôn lớn trên đời
Hãy yêu thương mẹ
Và hãy hiểu cho cha
(Nói với con cuối năm)
Tình yêu đầu đời của Lưu Quang Vũ thật ngọt ngào nhưng cũng thật cay
đắng. Anh đã yêu bằng tất cả trái tim mình. Anh đã hi vọng và vun vén cho nó
rất nhiều. Tiếc rằng nó lại chóng tàn phai. Người phụ nữ đầu tiên trong cuộc
đời anh ra đi để lại cho anh một khoảng trống ghê ghớm trong tâm hồn. Anh
sống những tháng ngày đau khổ nhất của cuộc đời. Anh tìm đến với thơ và
làm thơ rất nhiều. Là một người sống rất nội tâm nhưng chúng ta đều có thể
tin rằng anh sẽ viết tiếp những vần thơ tình nống cháy và có độ chín hơn.
2.2.3. Tình yêu “những năm tháng đau xót và hi vọng”
Chia tay với Tố Uyên, mối tình đầu đẹp nhưng buồn như nhiều người
vẫn nghĩ. Đây là thời gian đau buồn và bế tắc nhất trong đời chàng thi sĩ. Hôn
nhân thất bại, công việc không ổn định, đất nước đang trong thời kì khó
khăn… anh nhận ra, cuộc đời ngang trái không như anh mơ ước. Lúc bấy giờ,
Lưu Quang Vũ hoang mang và gần như đổ vỡ về tất cả. Tình yêu lại đến với
anh. Những người con gái khác đi qua cuộc đời anh mặc dù lúc này tình yêu
chưa có đích để đến. Hầu như tất cả những người phụ nữ, người yêu, người
vợ đến với đời anh đều để lại dấu ấn trong thơ anh, đều trở thành thi hứng cho
những vần thơ “nổi gió”.
Nỗi đau về tình yêu tan vỡ dần lắng lại. Lưu Quang Vũ đã tìm thấy sự an
ủi ở một cuộc tình khác. Trong những tháng ngày đau khổ ấy, tình yêu với cô
họa sĩ đã trả lại cho anh niềm vui và ước mơ trong cuộc sống. Trước đây có
những lúc anh hoài nghi, sợ sệt dường như mất phương hướng:

44
Tôi biết làm gì, tôi biết đi đâu
Tôi chẳng còn điếu thuốc nào
đốt lên cho đỡ sợ
Yếu đuối đến cộc cằn thô lỗ
Tôi xấu xí mù lòa như đứa trẻ mồ côi
Tình yêu trong lòng tôi chẳng có ích cho ai
Những gì mọi người cần tôi chẳng thiết
Tôi khao khát yêu người
Mà không sao yêu được
(Có những lúc)
Chính sự đau xót bế tắc của anh đã khiến anh trở thành người một mình
một góc, thơ anh lầm lụi bên cạnh những dòng thơ hào sảng lúc bấy giờ.
Nhưng thất vọng mà không ngừng hi vọng. Bóng hình một nữ họa sĩ trở đi trở
lại trong thơ anh: “Tóc em rối và áo em đỏ thắm/ Những bức tranh nổi gió ở
trên tường”. Khác với cô diễn viên trẻ đẹp trước đây, người bạn mới của anh
lúc này là một họa sĩ. Chị có vẻ ngoài khắc khổ, tính tình kín đáo và thâm
trầm. Ngày ấy, trên bốn bức tường căn phòng nhỏ của anh treo kín những bức
tranh của chị. Ngoài thơ ra, từ nhỏ Lưu Quang Vũ đã say mê hội họa, “những
bức tranh, những gam màu sáng tối vẫn cuốn hút anh như một nỗi ám ảnh”.
Phải chăng đó cũng là một lí do để anh tìm thấy sự đồng cảm từ tình yêu mới.
Và tình yêu đó đã phần nào đem lại cho anh những cân bằng trong cuộc sống.
Lưu Quang Vũ là người vẫn luôn khát khao tình yêu, đi tìm tình yêu: “Quen
thất vọng tôi hồ nghi mọi chuyện/ Tìm trong mắt em náo động những chân
trời”. “Quả là chỉ có tình yêu mới đền bù được cho tình yêu, chỉ tình yêu mới
băng bó được cho vết thương tình yêu” [51, 43]. Đây là thời gian Lưu Quang
Vũ sáng tác thơ rất nhiều. Nhưng chỉ khác là những vần thơ của anh lúc này

45
không còn mang vẻ đắm đuối sôi nổi như ngày trước nữa, “nó chua chát, sắc
sảo và cay đắng hơn”:
Điều tôi nói phải chăng là quá muộn
Em u buồn em có nhận hay không

Em tê dại âm thầm kiêu hãnh
Em cô đơn như biển lạ lùng ơi
Đi tìm nhau suốt đời
Sao bây giờ mới gặp
Đúng là những vần thơ được viết ra bằng chính những trải nghiệm mất
mát của đời mình. Tình yêu “những năm tháng đau xót và hi vọng” - theo
cách nói của Lưu Quang Vũ - là tình yêu mà anh dành nhiều hi vọng. Nhưng
đây không phải là những hi vọng của chàng thanh niên mới tuổi hai mươi, cho
nên dù có tin tưởng thì anh vẫn cứ sợ là ảo tưởng:
Môi tôi run những lời nói dại khờ
Em ẩn hiện sao còn xa lạ thế
Tôi ảo tưởng quá nhiều ư? Có lẽ.
Em cần gì gió lốc của đời tôi
(Lá thu)
Có lẽ đây là nỗi hoài nghi của một con người quá nhiều tin tưởng, quá
nhiều khao khát - khao khát được yêu, được trao gửi: “Lòng tôi như buổi sớm
nguyên lành/ Em nhận lấy, em đừng e ngại mãi”. Nhưng rồi nó chỉ mãi là nỗi
khát khao, là hi vọng khi tình yêu ấy không có nơi để đến. Rất yêu nhau
nhưng cuối cùng vẫn không đến được với nhau. Anh lại phải trải qua nỗi đau
của tình yêu tan vỡ.
Mỗi người con gái bước ra khỏi đời chàng thi sĩ này đều để lại cho anh
một vết thương lòng. Và chính những tuyệt vọng đau khổ ấy đã ngưng kết

46
thành những giọt lệ trong như ngọc. Thời gian này anh có nhiều bài thơ tình
rất hay và dữ dội. Vốn là một chàng trai đa sầu đa cảm nên anh đã kí thác vào
thơ tất cả nỗi lòng mình. Những bài thơ da diết cháy bỏng cho dù khi anh đau
đớn hay hạnh phúc. Viết về tình yêu, Lưu Quang Vũ luôn viết đầy nội tâm,
đầy cảm xúc. Những lời thơ nồng nàn, say đắm. Anh yêu thành thực cuộc đời,
yêu thành thực những người đàn bà và cũng thành thực buồn khi họ bỏ ra đi
“như những dòng sông nhỏ” mà lỗi hẹn thề rốt cuộc chỉ là “những cơn
mưa”.
2.2.4. Tình yêu là lẽ sống “Anh yêu em và anh tồn tại”
Qua những lần thất bại trong tình yêu, Lưu Quang Vũ đã rút ra được
nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống và những chiêm nghiệm trong thơ ca. Có
lẽ sự từng trải đó đã giúp cho anh có được quyết định táo bạo: vượt qua mọi
rào cản để cùng đi chung với nữ sĩ Xuân Quỳnh hết quãng đời còn lại. Con
người luôn “mắc nợ những chuyến đi, những giấc mơ điên rồ, những ngọn
lửa không có thật” ấy cuối cùng cũng tìm được bến đỗ cho cuộc đời mình.
Yên lành và vững chãi, cuộc đời anh như mảnh vườn tốt tươi trở lại, tiếp tục
nở hoa khoe sắc khoe hương. Và lần này hương thơm của nó đậm đà hơn,
mặn mà hơn và tỏa ngát hơn.
Đúng là “đằng sau thành công của người đàn ông luôn có bóng dáng
của người đàn bà”. Có thể không quá khi nói như vậy đối với Xuân Quỳnh
trước những thành công của Lưu Quang Vũ. Thời kì này anh viết rất nhiều, có
nhiều bài thơ hay. Nhưng đặc biệt là ở sức sáng tạo và thành công của anh
trên lĩnh vực sân khấu. Với những thành công này không thể không nhắc đến
sự có mặt của Xuân Quỳnh trong cuộc đời Lưu Quang Vũ. Đúng như Xuân
Quỳnh đã nói: “Chỉ có thuyền mới hiểu/ Biển mênh mông nhường nào”.
Đến với nhau không dễ dàng, khi cả hai đều đã trải qua nhiều mất mát,
lỡ làng, đổ vỡ: “Bao nhiêu ngày tháng, bao đường sá/ Biết mấy vui buồn để

47
có em”. Cả hai đã bù khuyết cho nhau và để lại trong thi ca Việt Nam một
mối tình thơ rất đẹp.
Nhân vật trữ tình “em” trong thơ Lưu Quang Vũ trước hết là những
người phụ nữ có thực trong cuộc đời anh. Nhưng phải đến bây giờ thì nó đã
đạt tới hình ảnh hoàn hảo nhất:
Dù sao cuộc đời đã dành em lại cho anh
Điều mong ước đầu tiên, điều ở lại sau cùng
Chúng ta đi bên nhau trên mặt đất
Dẫu chỉ riêng điều đó là có thật
Đủ cho anh mãi mãi biết ơn đời
(Em)
Trong thơ Lưu Quang Vũ, đặc biệt là ở những bài thơ tình, chúng ta vẫn
có thể thấy thấp thoáng hình ảnh nhân vật em “có khi chỉ là một hình bóng
mơ hồ, một nỗi khát khao không đạt đến, một sự cứu rỗi cho tâm hồn cô đơn
của anh”. Nó biểu hiện qua những vần “thơ tình gửi người đàn bà không có
tên I, II, III” với hình ảnh: người đàn bà mặc áo mưa xám, người đàn bà
không tên,… Đó là những “người trong cõi mộng” của thi sĩ, một sự kiếm tìm
không bao giờ đạt đến. Những hình ảnh đó nó ám ảnh đời anh. Đó là những
bài thơ “bắt nguồn từ trí tưởng tượng, từ sự mơ ước về một vẻ đẹp hoàn thiện
của người tình lí tưởng” [51, 45]. Điều đó cũng không có gì là khó hiểu khi
chính Lưu Quang Vũ vốn là người nhiều cảm xúc, lắm suy tư, hay mơ mộng.
Và rồi sự có mặt của Xuân Quỳnh, giản dị và bình yên, là hiện thân của
đời thường, là hạnh phúc có thật.
Em đến giữa một ngày trong những ngày
sống thực của anh
…Một thực tại rất gần, một thực tại có thể đưa tay là nắm được
(Em)

48
Giờ đây anh không phải yêu trong sự lo âu, khắc khoải như tình yêu với
những người phụ nữ trước: “Em như gần như xa như lẩn khuất”, “Em làm gì
có thật mà mong”. Cùng trải qua nỗi bất hạnh gia đình đổ vỡ, trải qua những
cuộc tình không may mắn, Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ đã đến được với
nhau. Có Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ đã thay đổi, đã định được hướng đi
cho mình, chấm dứt thời kì viển vông, cay dắng, u buồn. Lần này đây anh
thừa nhận: “chúng ta nhận ra nhau giữa triệu con người”, nhận ra nhau để
đến với nhau, để bù đắp cho nhau và cùng nhau hát những bài thơ cuộc đời
tràn đầy niềm tin yêu hạnh phúc. Những bài thơ tình bất tử cũng bắt đầu từ
đó. Chúng ta đều phải đồng tình với những suy nghĩ của anh:
Có em anh hiểu lại cuộc đời
Có em anh bắt đầu tất cả
(Chiều chuyển gió)
Hôm qua đời anh chẳng có ích cho ai
Như cái vỏ diêm ướt lạnh giữa trời
Anh đo niềm vui bằng những gì anh nhận được
Nay bằng những gì anh mang cho người khác
Anh nhập vào hơi thở lớn hôm nay
Anh có lại niềm vui và sức lực
Nhờ em, cho em - đời sống của anh ơi!
(Suy tưởng)
Tình yêu đến với anh lúc này thật giản dị nhưng cũng thật lớn lao, nó lớn
lao nhưng cũng làm cho anh rất tin tưởng. Anh không đắm đuối một cách
choáng ngợp và say mê một cách mơ tưởng như trước nữa. Mà giờ đây anh
hiểu được: anh đang sở hữu trong tay một tình yêu lí tưởng, một hạnh phúc
đời thường:

49
Khi tàu đông anh lỡ chuyến đi dài
Chỉ một người ở lại với anh thôi
Lúc anh vắng người ấy thường thức đợi
Khi anh khổ chỉ riêng người ấy tới
Anh yên lòng bên lửa ấm yêu thương
Người ấy chỉ vui khi anh hết lo buồn
Anh lạc bước, em đưa anh trở lại
Khi cằn cỗi thấy tháng ngày mệt mỏi
Em là sớm mai là tuổi trẻ của anh
Khi những điều giả dối vây quanh
Bàn tay ấy chở che và gìn giữ
Biết ơn em, em từ miền gió cát
Về với anh bông cúc nhỏ hoa vàng
(… Và anh tồn tại)
Vậy đấy, đi theo hành trình đến với tình yêu của Lưu Quang Vũ, chúng
ta mới hiểu được rằng: tình yêu có vai trò quan trọng và có tác động lớn đến
mỗi một con người chúng ta. Đến đây thì anh đã nhận ra: “Giữa thế giới
mong manh nhiều biến đổi/ Anh yêu em và anh tồn tại”.
Tìm hiểu những bài thơ viết về tình yêu của Lưu Quang Vũ, chúng ta dễ
dàng bắt gặp một số hình ảnh luôn “đi về” trong những vần thơ tình của anh.
Đó là những hình ảnh: đôi mắt, đôi bàn tay và đôi vai,… Ta cũng có thể tìm
thấy chúng đâu đó trong nhiều bài thơ của các nhà thơ khác. Nhưng trong thơ
tình của chàng thi sĩ họ Lưu thì nó nhiều đến nỗi mà ta có cảm giác như nó đã
trở thành một nỗi ám ảnh, như là một cái gì đó đã hằn in trong tâm thức của
anh khi anh viết về tình yêu. Chính sự xuất hiện với tần số cao như vậy, cho
nên nó đã trở thành một tín hiệu nghệ thuật để chúng ta tìm hiểu về thơ tình
Lưu Quang Vũ. Nếu cần chỉ ra một con số cụ thể thì thật là khó. Khi chúng

50
tôi khảo sát cuốn Lưu Quang Vũ - thơ và đời (tập thơ được xem là khá đầy đủ
gồm 121 bài) thì thấy nó xuất hiện rất nhiều. Nhưng vì ở đây có những bài có
những hơi hướng màu sắc thơ tình đậm nhạt khác nhau cho nên khó chỉ ra
được một con số chính xác. Nhưng khi khảo sát cuốn: “Đối thoại tình yêu:
Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ” với 40 bài thơ của Lưu Quang Vũ thì chúng
tôi thấy nó cũng có tần số xuất hiện không nhỏ: hình ảnh đôi mắt là 29 lần/ 40
bài, hình ảnh đôi vai 10 lần/ 40 bài và hình ảnh đôi tay là 50 lần/ 40 bài. Có lẽ
đấy cũng là những con số biết nói đáng để chúng ta suy nghĩ. Mặc dù vậy, khi
đi tìm hiểu sâu kĩ hơn về nó thì ta nhận thấy: ở những bài thơ được viết trong
thời gian đầu, Lưu Quang Vũ đã đặc biệt nói rất nhiều về hình ảnh đôi mắt.
“Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”, và dường như khi yêu, ánh mắt đã thể hiện được
mọi cung bậc: “Cầm tay nhau run rẩy cả trời đêm/ Trong mắt ướt một vì sao
thoáng hiện” (Mùa gió), “Trong đáy mắt có gì như ánh lửa” (Gửi em và
con), “Em chong đèn ngồi bên cửa sổ/ Mong anh về trong khóe mắt đăm
đăm” (Không đề).
Trong thời gian đầu, anh đi tìm một tình yêu đích thực của đời mình, tìm
cho tình yêu một bến đậu thì ánh mắt cũng như mông lung ẩn hiện: “Vai em,
mắt em lẫn vào mắt lá” (Mùa xoài chín); “Cô bé con có đôi mắt ngây thơ/
Đã đánh mất kho vàng và tiếng hát” (Những ngày chưa có em); “Quen thất
vọng tôi hồ nghi mọi chuyện/ Tìm trong mắt em náo động những chân trời” (Lá
thu).
Lúc này anh dường như chỉ nhìn thấy những ánh mắt mênh mông, xa
vời, nó chưa có gì là cụ thể: “Em mênh mông đôi mắt mở to nhìn”(Không
đề); “Người đàn bà ấy đến bên tôi/ Mắt mênh mông lặng lẽ ngón tay
gầy”(Thơ tình viết về người đàn bà không có tên III). Nhưng đôi mắt ở đây
gợi lên một cái gì đó như lãng mạn, xa vời, mờ ảo. Có khi nó chỉ là một

51
nhành mi mỏng manh thôi: hái một nhành mi, một nhành mi xanh biếc, một
nhành mi thôi,...
Còn hình ảnh bàn tay, bờ vai là thể hiện cho những khát khao được gần
gũi, được sưởi ấm, được chở che, được chia sẻ. Thế nhưng, cũng giống như
hình ảnh đôi mắt, hình ảnh đôi tay, đôi vai xuất hiện trong thơ Lưu Quang Vũ
thời gian đầu nhiều khi còn xa vời, mờ ảo và không cụ thể.
Nhưng đặc biệt, khi đến với Xuân Quỳnh, cây tình yêu thắm tươi trở lại
và đơm hoa kết trái, Lưu Quang Vũ tìm thấy chỗ dựa của “đôi vai rực rỡ”,
của “cánh tay em dài và ấm”. Đến lúc này dễ dàng nhận thấy sự xuất hiện
nhiều lần của những hình ảnh này với một tần số cao. Nếu như lấy dấu mốc là
khi Vũ gặp Quỳnh thì trước đó thơ anh xuất hiện nhiều hình ảnh đôi mắt
nhưng về sau có ít hơn. Còn hình ảnh bàn tay, bờ vai thì trước đó xuất hiện
khá nhiều nhưng càng về sau càng nhiều hơn, cụ thể hơn và gần gũi hơn. Có
phải chăng trước đó anh còn kiếm tìm một tình yêu mơ mộng, yêu bằng ánh
mắt “non tơ” của một chàng thi sĩ. Nhưng trải qua những cuộc tình duyên trắc
trở, éo le thì anh đã vỡ ra cái anh cần là một tình yêu đích thực: hiểu nhau,
biết cảm thông và chia sẻ cho nhau. Đó là một tình yêu rất thực trong đời. Và
có lẽ thế cho nên mặc dù Quỳnh hơn Vũ nhiều tuổi, hai người trước khi đến
với nhau đều đã có những vết thương lòng nhưng tình yêu đã chữa lành vết
thương tình yêu để người sau nhớ đến Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ là nhớ
đến một mối tình thật đẹp đẽ và đáng trân trọng.
Có thể nói, Xuân Quỳnh đã có một ảnh hưởng rất lớn đối với Lưu Quang
Vũ. Chị đã kéo anh về với cuộc đời thực. Tình yêu của Quỳnh đã cho anh sức
mạnh. Anh đã sống và làm việc. Rồi thành công nối tiếp thành công. Thành
công ấy có cả công lao của Xuân Quỳnh. Đó là điều không thể phủ nhận.
Chính Lưu Quang Vũ cũng nói: Chúng ta có hai bàn tay để giữ gìn vun trồng
và làm việc. Bây giờ đây có bàn tay em, bờ vai em anh không sợ cô đơn, giá

52
lạnh và cả những điều giả dối vây quanh nữa. Bàn tay em bây giờ thật gần
gũi, thật cụ thể. Đó là sự chăm sóc thực sự: “Khi những điều giả dối vây
quanh/ Bàn tay ấy chở che và gìn giữ/ Biết ơn em từ miền gió cát/ Về với anh
bông cúc nhỏ hoa vàng/ Em của anh đôi vai ấm dịu dàng/ Người nhóm bếp
mỗi chiều, người thức dậy lúc tinh sương/ Em ở đấy, đời chẳng còn đáng
ngại/ Em ở đấy, bàn tay tin cậy/ Bàn tay đỏ lên vì giặt giũ mỗi ngày” (Và anh
tồn tại).
Chị đã đón nhận những giọt nước mắt của cuộc đời anh để thổi vào đó
những hơi ấm làm tan biến nó. Rất thông minh, sắc sảo và có một tâm hồn
rộng lớn, chị đã nhận ra tài năng của anh không phải lúc anh chói sáng mà là
lúc anh đang khó khăn, u buồn nhất. Mặc dù lúc này đã là một cây bút khá nổi
tiếng và giành được nhiều sự mến mộ nhưng chị vẫn chấp nhận hi sinh để
giành hết tình yêu vun đắp cho sự nghiệp của anh:
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Biết khao khát những điều anh mơ ước
Biết xúc động qua nhiều nhận thức
Biết yêu anh và biết được anh yêu
(Tự hát - Xuân Quỳnh)
Đối với Xuân Quỳnh có lẽ cũng dễ hiểu bởi tình yêu của chị giành cho
anh là vô bờ bến, sự hi sinh cũng bởi mỗi giây phút của hơi thở, mỗi nhịp tim
trong lồng ngực đều cất lên hai tiếng: tình yêu: “Chỉ riêng điều được sống
cùng nhau/ Niềm sung sướng với em là lớn nhất/ Trái tim nhỏ nằm trong lồng
ngực/ Giây phút nào chẳng đập vì anh”.
Lưu Quang Vũ cũng vậy, với Xuân Quỳnh anh không những được sống,
được yêu, được sáng tạo mà còn được dâng hiến. Nếu ai đó nói, tình yêu nó
gắn liền với sự khám phá, dâng hiến và tự hoàn thiện mình thì quả không sai.
Khi yêu muốn dâng hết cho người mình yêu, bao nhiêu cũng thấy không đủ:

53
Dành cho em, nồng nhiệt của tình anh
… Dành cho em, tha thiết của mùa hè
… Dành cho em, sức lực của đời anh
… Dành cho em, thao thức của đời anh
… Dành cho em, mơ tưởng của đời anh
(Dành cho em)
Trước những gì người bạn đời Xuân Quỳnh đem lại cho mình, nhiều lúc
trong suy nghĩ anh tỏ ra áy náy về một chút lỗi lầm của mình. Thương cho
Quỳnh bao nhiêu anh lại thấy mình còn nhiều thiếu sót. Tất nhiên đây là sự
thiếu sót của một người đã giành quá nhiều thời gian cho công việc:
Thương trái tim nhiều vất vả lo buồn
Trái tim lỡ yêu người trai phiêu bạt
Luôn mắc nợ những chuyến đi, những giấc mơ
điên rồ, những ngọn lửa không có thật
Vẫn là gã trai nông nổi của của em
Người chồng đoảng của em
15 mùa hè chói lọi, 15 mùa đông dài
Người yêu ơi
Có nhịp tim nào buồn khổ vì anh?
Thôi đừng buồn nữa, đừng lo phiền
Rồi em sẽ khỏe lên
Em phải khỏe lên
(Thư viết cho Quỳnh trên máy
bay)
Những mùa hè nóng rực, những mùa đông lạnh giá cùng với bao khó
khăn vất vả ta đã cùng nhau vượt qua. Mười lăm năm, nhưng tình yêu của
Quỳnh và Vũ vẫn đẹp như hồi nào. Năm 1987, trong những bức thư gửi cho

54
nhau, Xuân Quỳnh viết: “lấy nhau gần mười bốn năm rồi mà xa nhau em vẫn
nhớ thương anh như thế”. Còn Lưu Quang Vũ: “Anh rất nhớ em. Chúng ta
sống với nhau đã mười bốn năm, nhiều gian khổ nhưng cũng lắm niềm vui.
Anh đã làm được nhiều việc, một phần cũng nhờ em, và biết rằng dù ở trên
đời vẫn có nhiều cô gái khác - những “yêu tinh” như em vẫn nói - nhưng chỉ
em là yêu thương và hiểu anh, hiểu cả những thói tật đến công việc và những
nỗi đam mê”. Đúng là tất cả vẫn như mới bắt đầu:
Ta chỉ mới bắt đầu những ngày đẹp nhất
Vở kịch lớn, bài thơ hay nhất
Dành cho em, chưa kịp viết tặng em
(Thư viết cho Quỳnh trên máy bay)
Những vần thơ được Lưu Quang Vũ sáng tác vào ngày 7 tháng 5 năm
1988. Chúng ta thật xúc động. Tất cả trong anh vẫn như mới bắt đầu. Bài thơ
hay nhất muốn viết cho Quỳnh nhưng anh chưa kịp viết. Và không kịp nữa
rồi. Anh chị ra đi khi ngọn lửa tình yêu vẫn rực cháy. Mối tình thơ, tình đời rất
đẹp ấy sẽ vẫn mãi cháy nóng trong tim chúng ta. Chắc chắn thế…
2.3. Cái tôi trải nghiệm đau đớn trong những cảm nhận về chiến tranh
Lịch sử dân tộc ta khi nhắc lại cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước vĩ
đại vẫn luôn có một cảm giác hừng hực và nóng rực trong tim. Đó là một thời
kì nhiều mất mát đau thương nhưng cũng vô cùng anh dũng, vẻ vang. Và như
một lẽ tất yếu, thơ ca trở thành vũ khí tinh thần trong cuộc chiến đấu, gắn bó
với vận mệnh đất nước.
Trong khí thế bừng lên của cuộc kháng chiến, diện mạo của nền thơ
chống Mĩ đã hình thành với bao thế hệ nhà thơ cùng góp chung tiếng nói. Bên
cạnh các nhà thơ xuất hiện từ trước cách mạng như Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế
Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh,… và thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng
chiến chống Pháp như Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đình Thi,…

55
là thế hệ những nhà thơ trẻ trong kháng chiến chống Mĩ. Đó là sự xuất hiện
liên tiếp của nhiều gương mặt: Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Xuân Quỳnh,
Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Phạm Tiến Duật, Vũ Quần Phương, Nguyễn Khoa
Điềm, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Phan Thị Thanh Nhàn, Hoàng Nhuận Cầm,
Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa,… Họ mang trong mình lí tưởng và bầu nhiệt
huyết của tuổi trẻ. Họ là những nhà thơ - chiến sĩ “viết những bài thơ trên
báng súng”. Lửa chiến trường đã tôi luyện ý chí, nung nấu suy nghĩ, tác động
mạnh mẽ vào cảm xúc, thúc đẩy quá trình trưởng thành và chín muồi về tư
tưởng cho họ. Và chính họ đã đem đến cho nền thơ chống Mĩ những tiếng thơ
trẻ trung, tươi tắn, sôi nổi. Những cảm xúc còn trong trẻo thiêng liêng nhưng
tràn đầy niềm tin yêu, chân thành đối với cuộc sống, quê hương đất nước.
Trong thơ họ ngập tràn chất men say nồng của tuổi trẻ khát khao được cầm súng.
Với Lưu Quang Vũ cũng vậy, hiện thực chiến tranh đã góp nên những
giọng điệu riêng trong thơ anh và trong dàn đồng ca chung thời đó. Giọng thơ
trẻ trung, tươi tắn, sôi nổi và cả đau đớn trong cảm nhận về những mất mát và
đồng thời là những lời chất vấn bỏng rát về chiến tranh.
2.3.1. Cảm xúc thơ mộng, lạc quan, tin tưởng thời kì đầu bước vào
cuộc chiến tranh
Ở chặng đường này với các tác giả như Bằng Việt, Lê Anh Xuân, Xuân
Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Mỹ… đã đem đến cho thơ ca chống Mĩ
những vần thơ trẻ trung, sôi nổi. Theo tiếng gọi Tổ quốc họ lên đường. Nhịp
tim trẻ nhanh chóng hòa nhập với nhịp sống mới:
Khi con đi đến với lòng chân thật
Để trong lành đôi mắt
Để trong lành gương mặt
Như luống khoai con khát trận mưa mùa
Như giọt nước con thèm hòa tận biển

56
(Thanh Thảo)
Ta đi hôm nay không là sớm
Đất nước hành quân mấy chục năm rồi
Ta đến hôm nay cũng chưa là muộn
Đất nước còn đánh giặc chưa thôi
(Phạm Tiến Duật)
Và Lưu Quang Vũ cũng có chung tâm trạng đó:
Em vẫn cùng đội dân quân tập bắn
Đất nước mình tươi hoa đẹp nắng
Ta cùng gìn giữ phải không anh?
(Gửi tới các anh)
Cuộc chiến trong cảm nhận của chàng trai mười tám thật nhiều hứa hẹn
và háo hức. Đó là những suy nghĩ về sứ mạng của bản thân nói riêng cũng
như của mọi công dân nói chung trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh.
Mình phải làm gì? Tất nhiên rồi, tùy theo sức của mình:
Kể từ bữa đó
Em làm cỏ lúa
Em chăm ao bèo
Em hứa: đồng em xanh
Tay em cầm chắc súng
(Gửi tới các anh )

Giữa giờ chiến đấu


Mẹ già em bé trong thôn
Đã bẻ cả cây vườn
Cả cành chanh cành bưởi
Đem tới làm ngụy trang cho bộ đội
(Lá bưởi lá chanh)

57
Làm kẻ sinh sau giữa đời rộng mở
Mang khối căm hờn ngày trước chưa tan
Hờn căm mới lại chồng lên nợ cũ
Lửa cháy, bom rơi ta cầm súng lên đường
(Đêm hành quân)
Chiến tranh đổ ụp lên tất cả. Trong sự đối diện với sinh tồn đó, mọi
người đều phải lên tiếng, đều phải hành động. Để lại tất cả hành trang sách vở
sau lưng lên đường theo tiếng gọi quê hương, ra đi mà lòng phơi phới.
Nếu như đọc những câu thơ của nhà thơ Bằng Việt ta thấy rõ niềm tự
hào, niềm tin vào cuộc chiến đấu:
Thôi từ giã tuổi thơ xốc hành lí lên vai
Ta tính nốt những chặng đường đánh Mĩ
Cái khó nhất chợt bây giờ hóa dễ
Khi nhìn thấu mình tận đáy xưa sau…
(Từ giã tuổi thơ)
thì ở Lưu Quang Vũ, ta cũng nghe được nhịp tim rộn ràng của một trái tim
tràn trề nhiệt huyết:
Tiếng ai hò? Dáng lạ cũng thân quen
Đường nào vui bằng đường ra trận tuyến
Nam Bắc lòng ta chung tiếng gọi mẹ hiền
Ta náo nức như suối về sông biển
(Đêm hành quân)
“Ta náo nức như suối về sông biển”. Đây quả là sự náo nức của những
trái tim thanh niên hồ hởi lên đường. Như những đứa con phải thấy được
trách nhiệm của mình trước tiếng kêu của đất mẹ. Hành quân mà không gợn
chút băn khoăn, do dự. Lên đường với khát khao được cầm súng, được chiến

58
đấu. Họ gửi gắm tất cả tuổi trẻ niềm tin vào cuộc chiến. Đó là cái nhìn đầy lạc
quan, tin tưởng, nhiều hứa hẹn, mong chờ:

Lớn lên trong những năm đánh giặc


Lòng ta đẹp như đất nước
Như gió vui rung ngọn lá trên cành
Từ nơi này mai đơn vị hành quân
Suốt mùa hạ, suốt tình yêu xứ sở
Với cây súng với vần thơ viết dở
Như nhãn thơm thấm mát giọt mưa đầu
Như tia nắng sáng niềm tin giản dị
Đất nhận lấy tâm hồn người lính trẻ
Đêm sâu này thức trắng với quê hương
(Thức với quê hương)
Như vậy một phần trong sáng tác của Lưu Quang Vũ, chúng ta đọc thấy
những vần thơ tràn đầy cảm xúc, thơ mộng, lạc quan, tin tưởng vào cuộc
kháng chiến của dân tộc. Chỉ với những tin tưởng ấy cũng đã là một yếu tố
quan trọng làm nên sức mạnh chiến thắng. Lưu Quang Vũ đã góp một tiếng
thơ trong trẻo vào những trang thơ chống Mĩ. Đây là những cảm xúc rất thật
của anh những ngày đầu bước vào cuộc chiến.
2.3.2. Nhận thức về những bi kịch và tổn thất của chiến tranh
Chiến tranh đã lùi xa, một khi nhớ về nó chúng ta thật tự hào về những
chiến công oanh liệt của cha ông. Vẫn còn nguyên những cảm xúc vui mừng
khôn xiết của ngày chiến thắng. Cái ngày mà những tên lính cuối cùng bước
chân ra khỏi đất nước, cái ngày mà “Bắc - Nam sum họp xuân nào vui hơn”
ấy có lẽ không thể nào nhạt phai đối với những ai đã được chứng kiến. Lịch
sử dân tộc ta thật tự hào hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước. Chiến

59
công của chúng ta là sự cống hiến hết mình của cả một dân tộc anh hùng đi
lên từ ngọn lúa củ khoai nhưng vô cùng anh dũng: “Nước Việt Nam từ máu
lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Nguyễn Đình Thi). Nhưng cũng phải thấy
rằng: có chiến công nào không ghi nhớ những hi sinh, có niềm vui nào không
che dấu nỗi đau thương, có nụ cười nào không hằn sâu nước mắt. Chiến tranh
là thế. Những vết thương của nó vẫn còn đó. Vết thương trên thịt da và vết
sẹo trong tâm hồn vẫn rất khó vẹn lành. Đó là chứng tích của một thời bom đạn:
Cuộc chiến tranh dằng dặc
rừng đầy muỗi độc
Chiến hào lở loét khói bom
(Những đứa trẻ buồn)
Tất nhiên, không phải đợi đến thơ ca chống Mĩ hiện thực đời sống chiến
trường mới xuất hiện trong thơ. Lịch sử dân tộc ta là lịch sử chống giặc ngoại
xâm. Như một lẽ tất yếu, thơ ca trở thành một thứ vũ khí sắc bén và gắn bó
với vận mệnh đất nước. Các nhà thơ đã tìm thấy trong cái đau thương mất
mát, trong hi sinh chết chóc, trong khói bom lửa đạn chất thơ cuộc sống. Bên
cạnh những trang thơ hào sảng đầy dũng khí, đầy chất lửa thì hiện thực đau
thương mất mát của chiến tranh cũng đi vào thơ như một sự tất yếu. Lưu
Quang Vũ đã đi sát thực tế để ghi lại chứng tích của một thời:
những đứa trẻ con bị giết
nằm kín hàng hiên
những khu rừng muỗi độc
tôi đi tìm em hầm hố chật
bom nổ tung bụi đất
(Em)
Chiến tranh, nghe đâu cũng ầm ầm tiếng bom, nhìn đâu cũng chi chít
hầm hố. Lúc này đối với người chiến sĩ, rừng xanh là nhà, áo khoác người là

60
những lá ngụy trang, sống chung với muỗi độc, thú dữ. Vẫn còn lưu mãi trong
ta hình ảnh về một đoàn binh Tây Tiến: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”
(Quang Dũng) - một phần cũng là do muỗi độc, rừng thiêng. Ai bảo chiến
tranh không tàn ác? Để lại khắp nơi vẫn là hình ảnh: “Rải rác biên cương mồ
viễn xứ” (Quang Dũng). Những nạn nhân chiến tranh trong thơ Lưu Quang
Vũ chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều, đủ mọi lứa tuổi. Nhưng nhiều nhất và
sâu đậm nhất vẫn là hình ảnh những cụ già và các em nhỏ:
Gió hú ầm ào qua gạch vỡ
Người chết vùi thân dưới hố bom
Kẻ sống vật vờ không chốn ở
Lang thang trẻ ốm ngủ bên đường
(Đêm đông chí, uống rượu với bác Lâm và bác
Khánh nói về những cuộc chia tay thời loạn)
Lũ trẻ nhỏ ngụp chìm trong đạn lửa
Bao nấm mồ nằm lại giữa đồi hoang
(Thị trấn biển)
Bác đưa thư già tóc bạc
trên thềm nhà bưu điện hi sinh
túi thư chưa kịp khoác lên mình
tiểu đội nữ cứu thương
ngã xuống miệng còn ca hát
(Sông Hồng - lời từ giã của Trung đoàn Thủ đô)
Nhiều khi tự hỏi: Thơ có mãnh lực gì mà khiến cung đàn cảm xúc triệu
triệu con người trên trái đất này không ngừng lay động, thổn thức, xuyến xao?
Phải chăng thơ ở đây như trong lời bình của nhà văn Nga V. Bielinxki (1811
-1848): “Thơ, trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật”.

61
Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống. Cuộc sống là hiện thực của thơ. Và hiện
thực chiến tranh cũng chính là một nguồn cảm hứng lớn. Không giống như
nhà thơ Phạm Tiến Duật với những vần thơ “được chắt lọc từ sự sống đủ,
sống kĩ”, ông đã trải nghiệm trong đời sống chiến trường để có được những:
Bài thơ về Tiểu đội xe không kính; Gửi em cô thanh niên xung phong; Trường
Sơn đông, Trường Sơn tây…, Lưu Quang Vũ viết về chiến trường bằng sự
cảm nhận non tơ, đầy ngạc nhiên và chân thành của một tri thức trẻ. Anh
không có được tư thế bình thản, tự tin của người dày dạn và từng trải trong
bom đạn:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ mất rồi.
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
(Bài thơ về Tiểu đội xe không kính - Phạm Tiến Duật)
Đối diện với thực tế chiến trường, với một tấm lòng nhạy cảm suy tư,
Lưu Quang Vũ đã viết nên những vần thơ đầy xót xa: “B52 suốt đêm gầm rít/
Bom giết cụ già và trẻ nhỏ suốt đêm”. Với một hồn thơ hướng nội, nhạy cảm
và tinh tế, những kí ức về chiến tranh đã ám ảnh Lưu Quang Vũ rất nhiều.
Anh nhìn thấy những vất vả, gian truân, đau đớn tột cùng trong chiến tranh.
Đó là nỗi xót xa chân thành của một thi sĩ vốn đa sầu đa cảm. Anh ao ước:
Thành phố thân yêu không bé nhỏ như em
Để anh ôm trong vòng tay che chở
Nhưng đó vẫn chỉ là ao ước. Chiến tranh với sức tàn phá ghê ghớm của
nó buộc chúng ta phải đối diện và chấp nhận. Chính vì thế mà cuối cùng anh
cũng phải đau đớn thốt lên:
muốn kết thúc thơ mình
bằng những lời đẹp nhất
nhưng lòng tôi làm sao tươi sáng được

62
khi máu bầm khắp nơi
(Khâm Thiên)
Như vậy, dù có nói gì đi chăng nữa thì những thảm kịch của chiến tranh
vẫn không sao che dấu được. Nó vẫn còn đó trong kí ức của chúng ta. Đứng
từ một góc độ riêng để quan sát, Lưu Quang Vũ đã nhìn thấy điều đó và ghi
lại nó một cách chân thành, đau xót. Chính điều đó một phần làm cho anh có
cảm giác đau đớn xé lòng và đưa ra những lời chất vấn bỏng rát về chiến tranh.
2.3.3. Những đau đớn xé lòng và những lời chất vấn bỏng rát về
chiến tranh
Trước những tổn thất của chiến tranh, trái tim của chúng ta vẫn còn nhức
nhối như lời của một bài hát: “Những vết thương trên thịt da đã lành theo
năm tháng nhưng vết thương lòng mẹ vẫn còn nặng mang”. Nỗi đau còn đó
khi: “ba lần tiễn con đi hai lần khóc thầm lặng lẽ”, khi “Xưa yêu quê hương
vì có chim có bướm/ Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất/ Có một phần
xương thịt của em tôi”. Có những nỗi đau quặn lòng không nhìn thấy nhưng
cũng có nỗi đau phải chứng kiến hàng ngày bởi những di chứng của nó để lại:
những vết thương lúc trái gió trở trời “lại đau nhức nhối”, những chất độc
làm cho cơ thể không lành lặn của bao thế hệ,… Tất cả làm cho lòng ta như
quặn thắt khi nghĩ về những năm tháng đã qua.
Với Lưu Quang Vũ, mặc dù thời gian tham gia trực tiếp quân ngũ không
nhiều nhưng những gì được chứng kiến đã làm anh không khỏi nhức nhối:
xác người nằm ngổn ngang
báo đậy mặt, ruồi đậu bàn chân xám
bé ngẩng đầu ngơ ngác
bên xác anh, xác chị, xác mẹ cha
(Khâm Thiên)

63
Những mất mát, những tổn thất mà chiến tranh để lại không chỉ là vật
chất mà đau đớn hơn là nỗi đau về tinh thần: “ta đã qua/ bao phố làng đổ
sụp/ cổ nghẹn lòng thù hận/ nhìn bao em bé mồ côi/ mà sao chiều nay/ giết
xong quân giặc/ chẳng thấy lòng thảnh thơi nhẹ nhõm/ chỉ nỗi buồn trĩu
nặng/ dâng lên như đá trên mồ” (Những đứa trẻ buồn).
Trước thực tế đau buồn đó, “lòng muốn quên tất cả mọi điều” nhưng
làm sao có thể quên cho được: “chỉ xin được nói nỗi buồn có thực/ trong
ngực ta đau buốt chiều nay” (Những đứa trẻ buồn). Chính từ những nỗi đau,
nỗi buồn rất thực đó mà Lưu Quang Vũ có được những vần thơ đầy trăn trở.
Đó là những lời chất vấn bỏng rát về chiến tranh. Có lẽ giờ đây trong anh như
thấm thía những xúc cảm đau đớn bàng hoàng trước hiện thực đời sống chiến
trường. Đây là nỗi đau trong tâm hồn một thanh niên trẻ tha thiết yêu quê
hương mình “Cuộc đời ơi, ta yêu lắm lắm. Ta sẽ làm việc, sẽ cống hiến, sẽ
chiến đấu vì tất cả” (Nhật kí Lưu Quang Vũ ngày 3.12.1964) mà nay phải đối
diện với tất cả sự khốc liệt của chiến tranh. Hiện thực đã làm anh đau đớn,
băn khoăn. Bởi ra đi, các anh cất sách vở khoác ba lô lên đường trong niềm
vui háo hức “đường nào vui bằng đường ra trận tuyến”. Ra đi là sẵn sàng
hiến dâng tất cả: “Chúng tôi đi/ cơn bão dữ thổi hai đầu đất nước/ tuổi trẻ,
ước mong, những gì quý nhất/ đều trôi qua trong bụi xám chiến hào/ triệu
con người lên sống rừng sâu/ khoét núi làm đường, chặt cây nhóm lửa/ võng
bạt, lán tranh, đất bùn nhầy nhụa/ những đường dây, binh trạm, những sư
đoàn/ những sinh viên đi lái xe tăng/ những dân chài trở thành pháo thủ/ kế
toán, thợ nề, nông trường viên, thợ mỏ/ thành lính gỡ mìn và xung kích đâm
lê” (Cơn bão). Thế nhưng khói bom đạn lửa làm cho anh cuối cùng cũng phải
thốt lên: “từ bao giờ và còn bao giờ nữa/ những quy luật tàn khốc của loài
người/ lý lẽ của súng đạn/ những mục đích tốt đẹp/ những mưu đồ xấu xa/
những ý tưởng quá đà/ những ngẫu nhiên tai ác” (Cơn bão). Không biết đến

64
bao giờ nữa đây chiến tranh mới chấm dứt, tiếng súng mới ngưng lặng và bầu
trời mới trong xanh. Lưu Quang Vũ như lo lắng e sợ “cuộc chiến tranh này là
khoản thuế đò ngang”, cho nên trong lòng luôn chất vấn không nguôi:
mai đây bão táp lùi xa
những lớp người sau bình tâm nhìn lại
gọi chúng tôi là những người vĩ đại
hay chỉ là những thế hệ đáng thương?
sẽ xuýt xoa thán phục biết ơn
hay kinh hãi trước bạo tàn bắn giết?
(Cơn bão)
Như những lời chất vấn, thơ Lưu Quang Vũ đã sử dụng khá nhiều những
câu hỏi tu từ xoáy sâu và làm nhức nhối lòng người. Có phải chăng “chàng
Quang Vũ này có trái tim lớn quá, trái tim cứ muốn phá vỡ lồng ngực mà ra,
nên lúc nào chàng cũng đau đớn và day dứt” (Nhật kí Lưu Quang Vũ ngày
3.12.1964). Trong khi Phạm Tiến Duật có được những vần thơ vẫn đầy chất
lãng mạn khi nhìn về cuộc chiến: “Anh lên xe, trời đổ cơn mưa/ Cái gạt nước
xua tan nỗi nhớ/ Em xuống núi nắng về rực rỡ/ Cái nhành cây gạt nỗi riêng
tư”; hay như Bằng Việt với “Những âm vang trong đêm”:
Đêm ấy tôi mơ giấc mơ đẹp nhất
Ngay bên hố bom và vết lở những đường đi
Sao bắc đẩu mọc sau đồi cháy sém
Những cô gái phất cờ bên vực thẳm
Một đoàn thuyền băng băng trên thác bạc đầu
nhưng với Lưu Quang Vũ, một cái tôi tràn đầy cảm xúc hướng nội, anh băn
khoăn, day dứt rất nhiều. Suy nghĩ về cuộc chiến, về những hiện thực đang
trải dài trước mắt làm cho anh không thể không viết. Có lẽ vì thế mà anh luôn
cảm thấy cô đơn, lạc lõng:

65
Tôi là đứa con cô đơn ngay khi ngồi cạnh mẹ
Thằng bé lẻ loi giữa lớp học ồn ào
Bàn chân hồ nghi giữa đường phố xôn xao
Giữa sự thông minh của đông vui bè bạn
Vứt sách xuống gầm bàn đi ra mặt trận
Tôi là người lính cô đơn ở giữa trung đoàn
Bao lâu rồi vẫn chỉ có thế thôi
Nỗi cô đơn hoàn toàn nỗi cô đơn khủng khiếp
Trước và sau trong và ngoài cuộc đời và trang
sách…
(Mấy đoạn thơ…)
Trong một lớp các nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ đầy nhiệt
huyết và tài năng, Lưu Quang Vũ có một số phận thơ khác hẳn. Bước vào
dòng cảm hứng anh hùng ca ấy với bao tin tưởng dâng hiến nhưng rồi chính
anh lại tự bước ra khi nhận thấy thực tế nghiệt ngã, những mặt khuất tối, cuộc
sống không thể và không như mình mong đợi. Nhưng phải thấy rằng có cô
đơn lẻ loi hay hồ nghi thế nào đi chăng nữa thì đó cũng là sự cô đơn của một
tâm hồn quá ư nhạy cảm. Tâm hồn ấy ắt phải cất lên những lời như thế khi
phải chứng kiến:
Bây giờ lại bắt đầu những khó khăn của thời hậu
chiến
Chưa ai dựng nhà trên bãi nền đổ nát
Nơi máu đổ quá nhiều, chưa ai dám trồng hoa
Chưa ai yêu thương bên huyệt mộ căm thù
(Tháng 5)
Nhưng rồi cái đích cuối cùng mà chàng trai này vẫn luôn hướng đến là
một tương lai tươi sáng với những hi vọng tràn trề, với những niềm tin cháy bỏng:

66
Đứng bên thềm, em lặng lẽ nhìn con
Chúng sẽ nối lại chiếc vòng sẽ đi hết con đường
Bằng hi vọng của em trên mặt đất
(Tháng 5)

và kết thúc chiến tranh trở về:


Ta vẫn bên nhau như chưa hề ngăn cách
Như đất nước chưa bao giờ chia cắt
Bao đổi thay rồi, anh có nhận ra em?
Lịch sử hôm nay và mai sau vẫn luôn khẳng định một điều rằng: niềm
lạc quan và sức mạnh của niềm tin tưởng là một yếu tố quan trọng để giúp
chúng ta có được chiến thắng. Dân tộc Việt Nam đã làm nên bao kì tích vĩ đại
mà kẻ thù phải khiếp sợ một phần cũng là nhờ sức mạnh của niềm tin bất diệt:
Những bạn bè đã chết
Cũng sẽ trở về như những bông hoa
Cắt xuân trước, tháng giêng sau lại mọc
Những bông hoa không chết bao giờ
(Những bông hoa không chết)
Đúng! Đó là “những bông hoa không chết”. Các anh ngã xuống, sự hi
sinh cao cả, máu các anh đã thấm vào từng thớ đất để nở ra những bông hoa
thơm ngát:
“Trên mộ người cộng sản/ Hoa hồng nở và nở/ Hương thơm bay và
bay” (Mồ anh hoa nở - Thanh Hải). Và chính các anh đã làm nên chiến thắng,
đã tạo nên khúc vĩ thanh hùng tráng của một bản nhạc trầm hùng.
2.4. Cái tôi khắc khoải trước hiện thực đời sống
Với một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế trước hiện thực đời sống, Lưu Quang
Vũ đã suy nghĩ rất nhiều về cuộc đời, về thế thái nhân tình. Từ những suy

67
nghĩ, chiêm nghiệm, anh đã đưa vào thơ, những vần thơ triết luận sâu sắc. Đó
cũng là một phần tạo nên sức hấp dẫn riêng của thơ Lưu Quang Vũ.
Trải nghiệm về nhân sinh thế sự, Lưu Quang Vũ đã đứng vào vị trí của
một con người đời thường để quan sát, để rồi rút ra được những suy ngẫm
lắng sâu về cuộc đời, về con người và về thơ ca. Đây là lúc anh trăn trở rất
nhiều về tất cả những điều: tốt - xấu, phải - trái, giàu - nghèo, được - mất của
số phận con người và cả những khắc khoải lo âu giữa những cái: thật - giả,
trắng - đen của hiện thực đời sống. Bên cạnh những nghịch lí cuộc đời do con
người tạo nên thì thơ Lưu Quang Vũ còn thể hiện những xót xa trước cuộc
sống đói nghèo của con người, trước những tai họa của thế giới tự nhiên như
thiên tai lũ lụt. Tất cả đã đi vào thơ anh rất tự nhiên bởi tất cả những gì là bình
thường của cuộc sống đều được anh quan tâm. Đó là nhũng nỗi niềm rất riêng
của Lưu Quang Vũ về quá khứ, về hiện tại và về tương lai - vốn là những vấn
đề mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
2.4.1. Nghèo đói, thiên tai
Nghèo đói, thiên tai có lẽ là những vấn đề luôn thường trực trong những
mối lo của con người. Đọc thơ Lưu Quang Vũ, chúng ta có thể không thấy
trực tiếp những bài thơ viết về nó nhưng lại thấy rất rõ hơi hướng màu sắc của
nó trong nhiều bài. Dường như nó đã trở thành một nỗi ám ảnh trong anh mà
khi anh sáng tác nó đã có những tác động không nhỏ:
Đồng trăng mênh mông
năm lũ lớn

mắt đói mở trừng
trán gầy đen lõm
ăn hết củ rào lộc sung nõn chuối
ăn cả thằn lằn chuột bọ
cái đói giày vò cắn xé

68
nhục nhã kinh hoàng điên dại
giành nhau mẩu bánh giữa chợ
nuốt vội nghẹn ngào máu ứa
đi lên thành phố
gục chết nằm đầy các cửa ô
(Sông Hồng - năm mẹ sinh em)
Đây có lẽ là những tháng ngày mà nghèo đói, lũ lụt hoành hành ghê
ghớm. Cái năm lũ lớn ấy mọi người giành giật cắn xé nhau bởi miếng ăn.
Những câu thơ rất có sức ám ảnh. Và cùng chung cảnh ngộ ấy:
mẹ sinh em năm ấy

mẹ sinh em
ngực gầy thở dốc
áo rách đẫm máu
phản lạnh nhà xiêu không hớp cháo
những bàn tay đói
đỡ em ra đời

em sinh ra từ cơn đói xé lòng
(Sông Hồng - năm mẹ sinh em)
Đây là những câu thơ đau đớn xé lòng nói về những thiên tai mà con
người phải gánh chịu. Đi liền với nó là cái đói, cái nghèo. Đói nghèo đeo
đẳng con người và ám ảnh cả những đứa trẻ ra đời trong hoàn cảnh ấy. Là một
người sinh ra từ những năm tháng gian khổ, đói nghèo của đất nước. Lại là
người chứng kiến nhiều tổn thất, mất mát do chiến tranh gây ra nên tâm hồn
Lưu Quang Vũ dễ “đau”, dễ xúc động trăn trở trước những hiện thực đời sống:
những trang sách khiến lòng tôi hoảng sợ

69
khi xóm giềng vẫn chật chội kiếm ăn
mà còng vai công nợ
nước sông gạo chợ khó khăn
(Những gương mặt)
Trong tâm hồn nhà thơ giàu cảm xúc, dễ rung động như Lưu Quang Vũ
thì cái đói cái nghèo đã trở thành một điều nhức nhối, một nỗi ám ảnh:
Tết hòa bình đầu tiên
Đất nước nghèo xơ xác
(Nói với con cuối năm)
hay:
Phố nghèo hút gió
Dưới vòm cây run rẩy tối đen
Cho nên vào cái đêm Nô-en, anh đã cầu nguyện chân thành:
Tôi thì thầm lời cầu nguyện của mình
Sao cho máu đừng chảy nữa
Sao cho người lính trở về
Lũ trẻ ngủ ngon
Cái chết không cắt ngang giấc mộng
Nguyện cho phố tôi
Không ai phải quanh năm nghèo đói
(Cầu nguyện)
Từ một góc độ nào đó có thể nhận thấy, cái đói cái nghèo đeo đẳng anh
từ chính cuộc sống của bản thân: “may ra năm nay không lũ lụt/… trang giấy
bên bàn gió thổi/ xôn xao bao việc phải làm/ còn phải đong gạo mua dầu,
nuôi nấng các con/ còn bao rối ren còn bao vất vả” (Những ngày hè cuối).
Ngay cả anh, hai vợ chồng và ba đứa con, sinh hoạt, ngủ nghỉ và làm việc chỉ
trong một căn phòng rộng 6m2: “Nhà chỉ mấy thước vuông, sách vở xếp cạnh

70
nồi/ Nếu nằm mơ, em quờ tay là chạm vào thùng gạo/ Ô tường nhỏ treo tranh
và phơi áo/ Ta chỉ có mấy thước vuông cho hạnh phúc của mình/… Khoảng
không gian của anh và em/ khi buồn bã em không thể quay mặt đi nơi khác/
anh không dấu em một nghĩ lo nào được/ ta chỉ có mấy thước vuông để cùng
khổ cùng vui” (Nhà chật). Vậy mà chỉ trong cái không gian chật đó với xung
quanh mình là bao nỗi lo âu, Quỳnh và Vũ đã có “những ngày vui sướng
nhất”. Có lẽ chỉ có tình yêu, sự chia sẻ là làm cho tâm hồn cất cánh. Những
vần thơ vẫn bay lên, những vở kịch vẫn còn nguyên trên sàn diễn. Rồi những
ngày Quỳnh đi xa, nỗi lo lắng của anh vẫn là: “Anh và con ở đây/ Tháng sáu
trời thật nóng/ Vẫn nỗi lo thiếu ăn/ Vẫn nỗi lo lũ lụt” (Cho Quỳnh những ngày xa).
Như vậy là cùng với hoàn cảnh chung của đất nước, những tháng ngày
gian lao vất vả, cuộc sống của gia đình Lưu Quang Vũ cũng gặp không ít khó
khăn. Từ những ngày xưa, kí ức tuổi thơ về người cha “Vai áo cha ướt đẫm
trận mưa chiều/ Chiếc mũ nan, tấm khăn dù, lưng gạo trong bao/ Đã lâu lắm
mẹ và chúng con chỉ ăn ngô cùng sắn” đã hằn in trong anh cuộc sống đói
nghèo tù túng:
Những năm ấy nhà mình thật nghèo
Mấy đứa lớn đều đi xa
Các em còn nhỏ cả
Con đọc thư mẹ kể
Cha làm việc thâu đêm
Chỉ ấm chè xanh với mấy củ khoai lang
Làng sơ tán ngọn đèn dầu thao thức
(Buổi chiều ấy)
Rồi kể đến những tháng ngày khi mà anh đã gặt hái được nhiều thành
công trong sự nghiệp thì anh vẫn chưa dễ nguôi quên những kí ức đó. Bởi tất
cả những điều đó đã trở thành một phần trong hành trang của anh.

71
Có thể nói từ chính những trải nghiệm của cuộc sống bản thân và cùng
với đôi mắt quan sát của người nghệ sĩ, Lưu Quang Vũ đã đưa vào thơ những
trang thơ chứa chất biết bao nỗi ám ảnh, nỗi lo âu về cuộc sống nghèo đói
cùng với những thiên tai: lũ lụt, hạn hán. Đây là những dòng thơ đầy tâm sự
của Lưu Quang Vũ. Nó thật chân thành. Dường như tất cả mọi nỗi lo của con
người đều được anh đưa vào thơ một cách nhẹ nhàng nhưng cũng sâu sắc,
nhiều ý nghĩa. Nó đã tạo nên những cảm xúc rất trữ tình với một giọng điệu
riêng trong thơ Lưu Quang Vũ.
2.4.2. Những dự cảm về tương lai
Thời đi học, Lưu Quang Vũ có ba niềm say mê lớn: ghi nhật kí, vẽ tranh
và làm thơ. Anh có thói quen ghi nhật kí rất đều đặn. Và anh làm thơ cũng
như ghi nhật kí. Đọc thơ Lưu Quang Vũ, ta thấy được những cảm xúc chân
thành của một trái tim nhiều băn khoăn trước thực tại và cả những dự cảm về
tương lai. Quả thật, văn học bên cạnh các chức năng cơ bản nhất của mình thì
nó còn có chức năng dự báo. Tất nhiên, những dự cảm về tương lai trong thơ
Lưu Quang Vũ là những day dứt trăn trở rất nội tâm của một chàng thi sĩ:
chim én bay trên nóc nhà xa
sau cuộc đời này một cuộc đời mới nữa
Nơi không có lo âu buồn khổ
con người được nghỉ ngơi ở giữa con người
anh đưa em đi hết ánh trăng này
một dòng sông khác một vầng trăng khác
một bài ca rì rầm trên cỏ mát
một nụ cười mới gặp đã thân yêu.
(Một thành phố khác một bờ bến khác)
Có lẽ đây là những dòng thơ tươi sáng của Lưu Quang Vũ mà qua những
tháng ngày tuổi trẻ đầy mộng mơ thì đến bây giờ ta mới được gặp lại. Phải
chăng lúc này anh đã có được những độ chín nhất định trong suy nghĩ. Anh đã

72
lấy lại được cân bằng trong cuộc sống. Thơ anh đã có được một cái gì đó già
dặn hơn: chất suy tư và chiêm nghiệm. Có những khi tưởng chừng như anh
không vượt qua nổi hiện thực của cuộc đời mình, và anh tự cảm thấy “Bây
giờ anh chỉ còn là một chiếc cốc vỡ, một vết thương”. Đó là những dòng thơ
đầy nước mắt của đau khổ, tuyệt vọng. Ta những tưởng như một con người
yêu đời, yêu cuộc sống như Lưu Quang Vũ lúc này khó mà gượng dậy được.
Nhưng rồi chỉ có liều thuốc tinh thần mới chữa khỏi vết thương tinh thần. Anh
đã có lại niềm vui trong cuộc sống. “Những vần thơ anh viết đã vui hơn”. Tất
nhiên sẽ không phải là niềm vui hồn nhiên như những câu thơ thời cắp sách
hay những ngày đầu tham gia nhập ngũ nữa. Lúc này là những niềm tin yêu,
lạc quan ở tương lai theo một cách khác. Đó là những “triết lí” của chính bản
thân anh:
Hôm qua anh chẳng có ích cho ai
Như một cái vỏ diêm ướt lạnh giữa trời
Anh đo niềm vui bằng những gì anh nhận được
Nay bằng những gì anh mang cho người khác
Chẳng khoanh tay chờ đợi ở ngày mai
Anh nhập vào hơi thở lớn hôm nay
(Suy tưởng)
Vâng. Niềm vui từ cuộc sống không phải chỉ đo bằng những gì mình
nhận được mà còn phải thấy niềm vui ấy còn lớn hơn từ những gì mình có thể
mang cho người khác. Ý nghĩa của nó thật sâu sắc. Hiểu được điều đó nên
anh biết mình không thể khoanh tay chờ đợi ngày mai mà phải chung tay
dựng xây nó.
Nếu như trước đây Lưu Quang Vũ quan tâm đến những mảnh đời nhỏ bé
bất hạnh vì tương lai của chúng không biết sẽ ra sao, sẽ đi về đâu thì giờ đây
anh đã có niềm tin. Tin rằng những cuộc đời nhỏ bé đó sẽ làm nên tất cả,
chúng sẽ đưa lại niềm vui cho mọi người, sẽ làm nên tương lai cho đất nước:

73
Và những đứa trẻ con
Lớn lên trong những tháng ngày nối tiếp
Những đứa trẻ không bị ai giết chết
không bị ai làm nhục
Mang niềm vui cho tất cả mọi người.
(Mặt trời trong trí nhớ)
Đó là một tương lai tươi sáng. Lưu Quang Vũ đã dự cảm thế. Niềm tin
trong anh lúc này không có những hồ nghi và những cảm giác mệt mỏi như ở
giai đoạn trước. Có được điều này cũng một phần xuất phát từ đời sống cá
nhân của anh. Thời gian này anh đã có được cảm giác yên ổn trong cuộc sống,
có được niềm tin ở cuộc đời. Điều rất cần thiết cho anh và cho cả thơ anh cất
cánh. Lúc này, Lưu Quang Vũ đã mở rộng lòng mình đón gió từ bốn phương
thổi tới để cảm nhận được tất cả những đổi thay:
Em có nghe từ phương nào đang tới
Trên những ngả đường trở gió chiều nay
Sau mỗi ngôi nhà, trên mỗi vòm cây
Một cái gì chúng ta còn chưa biết
Một cái gì chưa ai đoán được
Đang rung rinh xao động cả đất trời
(Em có nghe)
Và bây giờ anh tinh tế nhận ra: “một cái gì mong manh, thấp thoáng/
đang bồn chồn chuyển động giữa không gian/ một cái gì mới mẻ, khác
thường/ chúng ta chưa hề gặp/ chưa hề có trong những ngày ta sống/ ngỡ
cuộc đời ta giờ mới bắt đầu/ bắt đầu tình yêu, hi vọng, khát khao/ năm tháng
cũ như con tàu ở lại/ lòng chưa biết những gì đang ngóng đợi/ nào em yêu,
chúng ta lại lên đường…” (Em có nghe). Hơn ai hết bây giờ anh hiểu, anh
không thể đóng khép lòng mình được nữa. Những thay đổi bên ngoài ấy, dù
cho thi nhân muốn trốn tránh, muốn náu mình cũng không thể được. Thời

74
gian cứ trôi. Nó không chờ đợi ai. Vậy chỉ có một cách là chúng ta phải đối
diện với nó và hơn nữa ta phải biết tự làm gì cho mình:
Đã có lần tôi muốn nguôi yên
Khép cánh cửa lòng mình cho gió lặng
Nhưng vô ích làm sao quên được
Những yêu thương khao khát của đời tôi
(Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi)
Bây giờ dù nhìn về tương lai đất nước còn nhiều khó khăn vất vả nhưng
ánh mắt vẫn tràn đầy tin tưởng:
Dẫu đêm nay ngọn gió mùa hè
Còn bề bộn một vùng gạch ngói
Lịch sử quay những vòng xoáy gian nan
Đất nước tôi như một con thuyền
Lướt trên sóng những ngực buồm trắng xóa
(Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi)
Đất nước như một con thuyền đang lướt mình trên đại dương, trên sóng
biển. Những câu thơ tràn đầy niềm tin hi vọng hơn bao giờ hết. Cũng với cảm
giác đó ta đã từng gặp trong những câu thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi:
“Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Đất nước). Ta tìm
thấy những dự cảm về tương lai trong thơ Lưu Quang Vũ là một tương lai
tươi sáng, rạng ngời. Ở đó mọi người cùng nắm tay nhau cùng dựng xây, cùng
tiếp bước.
Như vậy bằng những cảm xúc nhẹ nhàng và sâu lắng của riêng mình,
Lưu Quang Vũ đã đưa vào thơ tất cả những dằn vặt, ưu tư của nỗi lòng và cả
những buồn vui sướng khổ của cuộc đời. Đọc thơ anh, chúng ta như thấy anh
đã trải hết lòng mình vào thơ. Thơ đúng là một người bạn để cho anh kí thác
tâm sự không hề dấu diếm. Đến đây ta như nhớ lại những câu thơ của Raxun
Gamzatop:
Là tất cả thơ ơi chỉ trừ không chịu là yên tĩnh

75
Tôi nguyện suốt đời trung thực sống cho thơ
Không giống như những thể loại khác, thơ trữ tình được nói đến chủ yếu
như một “bản tự thuật tâm trạng”. Để có được thơ hay, người làm thơ phải
gặp chính mình trong sáng tác. Thơ chính là những mảnh tâm trạng điển hình,
những nhát cắt của cảm xúc mãnh liệt, cho nên nó thường mang ngữ điệu của
chính tác giả hoặc của nhân vật trữ tình. Lưu Quang Vũ đã thể hiện được điều
đó trong thơ của anh một cách thật hiệu quả.
Chương 3
NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH
TRONG THƠ LƯU QUANG VŨ

3.1. Giọng điệu


Thơ ca là cuộc đời, nhưng thơ ca không phải là những trang giấy in
nguyên vẹn bóng của cuộc đời rộng lớn. Nhà thơ biết chắt lọc những tinh hoa
cuộc sống cộng với đó là việc sử dụng một chất liệu phù hợp thì từ đó mới tạo
nên những vần thơ hay, làm rung động lòng người. Thơ ca gắn liền với cảm
xúc. Nhà thơ không thể hiện cuộc đời qua những cảnh ngộ hay qua những sự
kiện như các nhà văn. Nhưng thơ cũng không phải chỉ cần sự tỉnh táo trong
cảm xúc, chất trữ tình trong suy tưởng mà còn là sự im lặng giữa các từ, là
giọng điệu, là ngôn ngữ, là hình ảnh.
Trước hết mỗi nhà văn, nhà thơ đều thể hiện thái độ của mình đối với
hiện thực được miêu tả với một giọng điệu riêng. Trong lịch sử văn học, các
nhà thơ lớn bao giờ cũng biết vươn lên để xác lập một giọng điệu cá nhân:
giọng thơ Hồ Xuân Hương mỉa mai, khinh bạc mà đầy cảm thông, chua xót;
Nguyễn Du giọng đau đớn, xót xa trước thế thái nhân tình; Tú Xương giọng
bỡn cợt mà cười ra nước mắt… Rồi Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận…
mỗi nhà thơ đều có một giọng điệu riêng không nhòe lẫn.

76
Là một nhà thơ trẻ trưởng thành trong phong trào thơ chống Mĩ. Lưu
Quang Vũ đã nhanh chóng tạo cho mình một giọng điệu riêng. Đó là một
giọng điệu trẻ trung trong sáng, tràn đầy niềm tin yêu cuộc sống trong thời kì
đầu; đó là giọng điệu cay đắng xót xa trước những va vấp và những mất mát
của bản thân; đặc biệt có thể nói, xuyên suốt những bài thơ của Lưu Quang
Vũ là một giọng điệu đắm đuối nồng nàn. Những biểu hiện đó có thể nói là
khác hẳn với giọng ngợi ca, cổ vũ - vốn là giọng điệu chính của thơ ca giai
đoạn này.
3.1.1. Giọng trẻ trung, trong sáng
Lưu Quang Vũ bước vào đời với những niềm tin yêu cuộc sống của một
chàng trai trẻ:
Hoa nào đẹp bằng hoa tuổi thơ
Ổi nào ngon bằng ổi năm xưa
Suối nào mát bằng suối hồi còn bé
Vẫn tắm mùa hè xao động nắng trưa

Võng nào êm bằng võng ru ngày ấy


Trang giấy nào thơm bằng trang giấy khai trường
Câu thơ nào hay bằng câu ca dao tập đọc
Ai xinh bằng cô bạn nhỏ mến thương
(Tuổi thơ)
Những câu thơ rất trẻ trung mà có phần “thơ ngây” của một cậu học trò
tuổi mười lăm. Khi đó là vào năm 1963, Lưu Quang Vũ còn là một học sinh
lớp 9H. Qua những so sánh hồn nhiên đó mà ta hiểu được phần nào những
cảm nhận của anh trước hiện thực cuộc sống. Đúng như anh đã nói qua câu
thơ: “Cuộc đời ơi ta yêu lắm lắm”. Lúc này đối với chàng thi sĩ, mỗi con
người, mỗi ngôi nhà, mỗi xóm làng đều để lòng anh phải yêu thương:

77
Con suối nhỏ xuyên rừng nơi ấy
Là ngọn nguồn sông biển yêu thương
Ra biển ra sông còn nhớ mãi
Trắng hoa rừng…ôi Chu Hưng, Chu Hưng
(Thôn Chu Hưng)
và để rồi những hương vị quê hương ấy sẽ đi vào tâm hồn anh như một miền
kí ức không dễ nguôi quên:

Đi xa lòng vẫn nhớ


Dáng quê hương trong cây lá hiền lành
Lá chanh đầu ai thường gội
Mái tóc dài ai cài hoa bưởi
Buổi ban đầu vấn vương…
(Lá bưởi lá chanh)
Đó là một giọng điệu thơ trẻ trung trong sáng của hồn thơ Lưu Quang
Vũ. Đúng thật, “Thơ là tiếng lòng”, hay “Thơ chỉ bật ra khi cuộc sống đã
tràn đầy” (Tố Hữu). Những cảm xúc rất thật được gửi gắm vào thơ. Có thật
sự yêu cuộc sống đến như thế nào thì mới có được những vần thơ chân thành
đến vậy:
Nghe sông gọi người đi đánh giặc
Đất nước này tình phù sa bát ngát
Tâm hồn ta tắm với bóng mây trong
Yêu quá sông Thương nước chảy đôi dòng
(Qua sông Thương)
Sự trẻ trung trong sáng của giọng thơ Lưu Quang Vũ còn được thể hiện
ngay trong cách cảm nhận của anh về tình yêu, mà trước hết là những cảm
xúc trong trẻo tuổi học trò:

78
Thôi chào người em gái thuở chăn trâu
Biết nói gì lúc xa quê đi vội
Lòng anh những chiến trường đang gọi
Như nắng vàng giục thóc đến sân phơi
(Trưa nay)
và:
Trong thành phố có một vườn cây mát
Trong triệu người có em của ta
Buổi trưa nắng bầy ong đi kiếm mật
Vào vườn rồi ong chẳng nhớ lối ra

Vườn em là nơi đọng gió trời xa


Hoa tím chim kêu bàng thưa lá nắng
Con nhện đi về giăng tơ trắng
Trái tim tròn căng mập nhựa sinh sôi

Mảnh vườn em vẫn là mảnh vườn xanh
Nơi ban đầu lòng ta ươm tổ mật
Nơi ta hái những chùm thơ thứ nhất
Nơi thu sang mây trắng vẫn bay về
(Vườn trong phố)
Như vậy, một trong những giọng điệu trong thơ và cũng đã góp phần tạo
nên phong cách thơ Lưu Quang Vũ, đó là giọng điệu trẻ trung trong sáng.
Chính sự trẻ trung trong sáng đó mà bạn đọc đã biết đến anh yêu mến anh
ngay từ những bài thơ đầu tiên, tập thơ đầu tiên.
3.1.2. Giọng xót xa cay đắng
Có công việc làm, hẳn có lúc ngừng tay

79
Có cuộc hành trình, phải có mươi phút nghỉ
Thơ vừa là nghỉ ngơi, vừa là việc đầy lao lực
Thơ vừa là chỗ dừng chân, vừa là cuộc hành trình
(Thơ ca - Raxun Gamzatop)
Sáng tác thơ ca là một công việc cao cả, nó không thể ép buộc được ai.
Thơ là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn. Do đó, nó không
giản đơn mà cũng không huyền bí thiêng liêng. Cảm xúc của chúng ta cứ trào
dâng mãnh liệt, cuộc sống cứ cuộn xoáy lên từng mảng, từng mảng tràn đầy
trong tâm hồn. Cảm xúc đó đối với nhiều người thì chỉ có thơ mới giãi bày hết
được. Đúng là thiếu cuộc sống thơ sẽ lụi tàn, cuộc sống thiếu thơ sẽ mất đi
nhiều ý nghĩa. Bởi vì “có những điều chỉ nói được bằng thơ” (Maiacopxki).
Cùng với ý nghĩa đó mà trong những tháng ngày đau khổ nhất của đời
mình, Lưu Quang Vũ đã sáng tác rất nhiều thơ. “Làm việc, làm việc để chiến
thắng thời gian và bóng tối” là dòng chữ ghi trên bàn viết của anh trong
những ngày này. Tất cả những cô đơn, hoài nghi, thất vọng và cả sự tan vỡ
của những mối tình anh đều dồn hết vào thơ. Bởi vậy đọc thơ anh, ta thấy có
một giọng điệu riêng hoàn toàn khác biệt giọng điệu chung của thơ ca giai
đoạn này. Đó là một giọng thơ đầy xót xa cay đắng của Lưu Quang Vũ:
Cuộc chém giết lặng dần
Các dũng sĩ thân tàn ma dại
Đập nát những cây đàn quý
Ngồi nướng thịt cóc ăn
Con mèo đi hai chân
Kêu lên tiếng trẻ khóc
(Chiều cuối)
Anh cảm thấy thất vọng và lạc lõng trước cuộc đời:
Bộ lạc ấy bây giờ tàn lụi cả

80
Lạnh chân đồi những mộ đã hoang sơ
Con quạ xám và hàm răng ngựa
Cắn vầng trăng thèm hát đêm đêm
(Móng tay trên đá)
Gã đàn ông quầng mắt tối đen
Trong cuốn sách buồn
Nói với tôi lời buồn bã
Con người chỉ là ống sậy cô đơn
Trái đất giữa không trung
Như một giọt nước mắt
Như cái đầu bị chặt
Bay trong uất hận ngàn năm
(Hoa cẩm chướng trong mưa)
Những câu thơ chứa nhiều gam màu lạnh. Đây là khi bản thân người viết
mang nặng cảm giác hụt hẫng. Sự hụt hẫng làm cho anh phải suy nghĩ, phải tự
mình nhìn nhận lại cuộc đời. Liệu đó có phải là một khoảng lặng trong bản
nhạc để chuẩn bị cho một sự vút cao của nó ở phần sau. Lưu Quang Vũ khi
đối diện với từng bước lịch sử anh luôn tự vấn lòng mình. Đó là một quá trình
ngoại nội sinh tổng hợp đã biến đổi Lưu Quang Vũ, khiến thơ anh không
ngừng trưởng thành, chín chắn, sâu sắc và nhiều cung bậc hơn:
Nịnh đời dễ, chửi đời cũng dễ
Chỉ dựng xây đời là khó khăn thôi
(Nói với mình và các bạn)
Giọng thơ xót xa cay đắng trong thơ Lưu Quang Vũ, đặc biệt ở giai đoạn
này là một điều dễ hiểu. Nhưng có lẽ cũng chính nhờ có nó mà về sau đã xuất
hiện một Lưu Quang Vũ khác hẳn - anh đã trưởng thành hơn rất nhiều. Thơ

81
anh cũng nhiều chiêm nghiệm suy tư, và đặc biệt độ chín đó được thể hiện rõ
trong các vở kịch của anh.
3.1.3. Giọng đắm đuối nồng nàn
Nhìn một cách xuyên suốt đời thơ Lưu Quang Vũ có thể khẳng định
được cái tôi trữ tình trong thơ anh là một cái tôi hướng nội, giàu cảm xúc,
nhiều suy nghĩ. Và nhìn chung lại thì trong niềm vui, nỗi buồn, sự say mê,
yêu thương, hy vọng… tất cả đều được nhà thơ thể hiện với một giọng điệu
đắm đuối, nồng nàn: “Đắm đuối đó là một đặc điểm của suốt đời thơ Lưu
Quang Vũ” (Vũ Quần Phương).
Ngay từ tập thơ đầu tay in chung với nhà thơ Bằng Việt, phần thơ
“Hương cây” của Lưu Quang Vũ đã được bạn đọc hồi ấy yêu mến không
phải vì sự khám phá những chân lí đời sống mà chủ yếu vì những cảm xúc
tươi trong, tin cậy của anh. Ngay từ đó, anh đã có một giọng thơ miên man,
đắm đuối. Đây cũng chính là điểm khiến cho thơ Lưu Quang Vũ khác người
và hơn người, cũng là nét để người đọc khi đã đọc thơ anh thì cũng sẽ say, sẽ
mê như thế:
Buổi sáng tôi ra vườn
Hoa móng rồng thơm ngát
Lá xương xông mọc quanh vại nước
Dây trầu không quấn quýt hàng cau
Đất rụng vàng hoa ngâu
Nước mưa rơi tí tách
Tôi lắng nghe như chú dế mèn con
Đi ra đồng cỏ ban đêm
(Đất nước đàn bầu)
Lưu Quang Vũ đắm đuối không chỉ ở cách nói, ở thủ pháp diễn đạt mà
còn ở cái cách cảm thụ đời sống của anh. Anh cảm thụ bằng cảm giác. Điều

82
này cũng dễ hiểu bởi chính tác giả vốn là một con người rất nhạy cảm, tinh tế.
Anh nhạy cảm trước những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống và nhạy cảm
trong cả những biến đổi rất bé nhỏ của tạo vật. Chính vì vậy nên anh nắm bắt
thực tại bằng giác quan rất phong phú:
Vườn em là nơi đọng gió trời xa
Hoa tím chim kêu bàng thưa lá nắng
Con nhện đi về giăng tơ trắng
Trái tròn căng mập nhựa sinh sôi

Nơi ban mai cỏ ướt sương rơi


Một hạt nhỏ mơ hồ trên má
Hơi lạnh nào ngón tay cầm se giá
Suốt cuộc đời cũng chẳng hiểu vì sao
(Vườn trong phố)
Bài thơ Vườn trong phố của anh đọc lên người ta cứ có cảm giác nó như
là một “bản giao hưởng tưng bừng của hình ảnh, màu sắc, âm thanh, mùi vị
và xúc giác đập vào mọi giác quan ngỡ như luôn mở hết cỡ của một con
người là chàng thi sĩ đa cảm” (Anh Ngọc). Chỉ với mấy câu thơ thôi nhưng
chúng ta đã thấy được những cảm xúc run rẩy, tinh vi: “Nơi ban mai cỏ ướt
sương rơi/ Nơi hạt nhỏ mơ hồ trên má”. Thật nhạy cảm và tinh tế. Và dường
như đối với Lưu Quang Vũ chính cảm giác cứ gọi ý thơ tuôn chảy. Kể cả sau
này khi những nhà thơ cùng thời đã “tỉnh táo hơn”, “chân chân thực thực”
hơn thì Lưu Quang Vũ vẫn không thay đổi. Anh nuôi dưỡng sự đắm đuối với
thơ một cách bền bỉ chưa bao giờ hụt hơi đuối sức.
Đọc thơ Lưu Quang Vũ, chúng ta ít thấy dấu vết của bố cục. Có lẽ vì tứ
thơ của nó như tự hình thành từ quá trình cảm thụ. Ở các bài thơ dài như
Tiếng Việt, Viết cho em từ cửa biển, Đất nước đàn bầu,… ta bắt gặp những

83
cảm xúc mạnh mẽ, cuộn chảy, nó cuốn đi những gì thuộc về sự sắp đặt và cố
ý. Có thể nói thơ anh đắm đuối trong sự tự nhiên, mạch lạc, dẫn dắt người đọc
từ đầu đến cuối. Đặc biệt, cái đắm đuối nồng nàn trong thơ Lưu Quang Vũ thể
hiện khá rõ nét ở những bài thơ viết về tình yêu. Khi yêu anh luôn muốn được
đóng vai một người tình yêu hết mình, khao khát gửi trao và khao khát nhận
về. Yêu bằng cả con tim và mong được nhận lại bằng những gì chân thành
nhất của nó: “Em có nghe đất trời đang náo động/ Như tình em nổi gió giữa
hồn anh” (Mùa gió).
Ngoài những cảm nhận, những rung động tinh tế của anh trước những
biến đổi tinh vi nhất của cuộc sống đã làm nên giọng điệu đắm đuối nồng nàn
thì ta còn nhìn thấy trong thơ Lưu Quang Vũ một thế giới của tưởng tượng.
Nó cũng góp phần làm nên cái mê đắm chăng?
Trung Hoa của tuổi thơ
Tiếng ngựa hí đêm khuya
Đoàn xe Chiến Quốc đi trong tuyết
Rũ rượi tóc râu, đao thương sáng quắc
Não bạt thanh la xủng xẻng
Dữ tợn mà sầu thương
(Trung Hoa)
Những hình ảnh trong thơ được hiện lên có lẽ là nhờ vào sự tưởng tượng
phong phú của nhà thơ. Sự phong phú đó cũng đã làm cho thơ Lưu Quang Vũ
trở nên đa dạng hơn trong cách cảm nhận. Nhưng dù ở trạng thái nào thì
người đọc cũng bị mê say bởi những tình cảm chân thành của anh gửi gắm
trong thơ. Tình cảm chân thành đắm đuối đã phần nào quy định hình thức thể
hiện trong thơ. Thơ anh dường như đã phá vỡ mọi quy luật, khuôn khổ, mọi
định hướng, dẫn dắt người đọc thoải mái bước vào một thế giới cảm xúc và
cùng với nhà thơ ngẫm nghĩ về thế thái nhân tình.

84
Như vậy, khi xem xét giọng điệu trong thơ Lưu Quang Vũ, chúng ta đã
bị cuốn hút bởi những giọng thơ rất khác nhau: giọng trẻ trung trong sáng,
giọng xót xa cay đắng, và đặc biệt là giọng đắm đuối nồng nàn. Tất cả làm
nên sự hấp dẫn riêng của thơ Lưu Quang Vũ. Cho nên khi nghe những tình
cảm, tâm sự anh gửi gắm vào trong thơ mà ta vẫn thấy được sự chân thành
của nó chứ không hề có cảm giác trùng lặp hay nhàm chán. Vũ Quần Phương
cho rằng chính “nó đã tạo nên sức lôi cuốn ma quái ở thơ anh” là vì vậy.

3.2. Thể thơ


Khi tìm hiểu nội dung tư tưởng của một bài thơ chúng ta khó có thể bỏ
qua thể thơ mà tác giả đã sử dụng. Ta biết rằng một phần nào đó cái tứ của bài
thơ nó quy định việc lựa chọn cho mình một thể thơ phù hợp. Lịch sử phát
triển của các thể thơ Việt Nam gắn liền với sự phát triển của Văn học.
Qua tìm hiểu cách phân loại các thể thơ, ta nhận thấy cơ sở của việc xác
định thể thơ là số tiếng và vần.
Căn cứ vào số âm tiết trong dòng thơ, người ta đã chia ra nhiều thể thơ
khác nhau: 3 tiếng, 4 tiếng, 5 tiếng, 6 tiếng, 7 tiếng, 8 tiếng, lục bát, thể thơ tự
do,…
Căn cứ vào vần luật có hai loại: Thơ cách luật (thơ có quy tắc và luật lệ
ổn định) và thơ không cách luật (thơ tự do về số tiếng, số câu, về vần…).
Khi khảo sát cuốn Lưu Quang Vũ thơ và đời và cuốn Lưu Quang Vũ di
cảo với 155 bài thơ, chúng tôi nhận thấy Lưu Quang Vũ sáng tác trên các thể
thơ 5 tiếng, 6 tiếng, 7 tiếng, 8 tiếng, lục bát và thơ tự do. Nhưng chủ yếu vẫn
là thơ 5 tiếng, thơ 7, 8 tiếng và thơ tự do, đặc biệt là thơ tự do chiếm số lượng
lớn. Cụ thể thơ 5 tiếng là 6 bài, chiếm 3,9%; thơ 6 tiếng là 1 bài, chiếm 0,6%;
thơ lục bát là 1 bài, chiếm 0,6%; thơ 7, 8 tiếng là 31 bài, chiếm 20%; thơ tự
do là 116 bài, chiếm 74,8%.

85
3.2.1. Thể thơ 5 tiếng
Thể thơ 5 tiếng là một hình thức quen thuộc của thơ hiện đại Việt Nam.
Thể loại này được các nhà thơ hiện đại Việt Nam kế thừa những tinh hoa của
hát dặm và thơ ngụ ngôn (Đường luật) nhưng đồng thời có sự sáng tạo phá
cách, tạo nhiều vần điệu. Về ngắt nhịp thì có sự kết hợp hài hòa cả nhịp 2/3 và
3/2. Đây là thể thơ thường kết hợp với giọng kể thủ thỉ tâm tình, đó là những
lời tâm sự rất nhẹ nhàng mà tình cảm.
Qua khảo sát hầu hết các bài thơ của Lưu Quang Vũ, ta thấy số lượng bài
thơ 5 tiếng không nhiều. Mặc dù ít ỏi nhưng Lưu Quang Vũ đã có những bài
thơ hay:
Trưa nay mẹ đi vắng
Các anh mải chạy chơi
Chỉ bố với con thôi
Bố nằm ru con ngủ
Cái giọng bố thì khàn
Lời ru thì đã cũ
(Thằng Mí)
Đó là lời tâm sự của người cha với đứa con vừa lên một về những câu
chuyện nhỏ to: “Buổi chờ con ra đời/ Cả nhà mong con gái/ Cứ tưởng nếu là
trai/ Chẳng yêu như thế này”, rồi đến khi con lớn khôn hơn một tí “Miệng bi
bô tập nói/ Làm gà ò ó o”, cả những ngày “Tháng tư nắng trở trời/ Con
thường hay ốm vặt/ Mẹ lo đêm thức suốt/ Bố thương ngày bế hoài”, và về
tương lai của con “Ôi ngày mai của con/ Chắc sẽ nhiều mới lạ/ Bố mẹ thì đã
già/ Như lời ru đã cũ/ Chẳng được cùng con qua/ Những mùa thu mùa hạ/
Dòng sông và biển cả/ Cánh buồm nào chờ con?”.

86
Đối với con, Lưu Quang Vũ luôn tâm sự bằng những tình cảm chân
thành của người cha, những hạnh phúc khi được ru con ngủ và những niềm
vui bình dị:
Sau mỗi ngày bận rộn
Bố có niềm vui lớn
Buổi chiều đi đón con
(Buổi chiều đón con)
Những bài thơ 5 tiếng là một minh chứng cho thơ Lưu Quang Vũ về việc
anh không hề cầu kì, gọt giũa câu chữ mà vẫn để lại trong lòng người đọc một
ấn tượng sâu đậm về cảm xúc. Những vần thơ đầy ắp vẻ đẹp của thiên nhiên
và vẻ đẹp hào hùng của Hà Nội những ngày chống Mĩ:
Chim chiều kêu thơ ngây
Trời chiều xanh đắm đuối
Nắng chiều trong liễu rối
Gác chiều nghe gió xa
Cơn mưa vừa thoảng qua
Hơi mưa vừa dịu mát
(Chiều)
Khi đọc những bài thơ 5 tiếng, người đọc như được thả mình vào một
nhịp điệu êm ái, nhẹ nhàng và có phần thong thả (Ngày hè trở rét, Em sang
bên kia sông,…). Cảm xúc ở đây cũng thường dàn trải, đều đặn. Nhưng với
bài thơ viết về tình yêu thì cảm xúc của nhà thơ đã được đẩy lên ở một cung
bậc cao hơn (Thơ tình viết về một người đàn bà không có tên II).
Tóm lại, thơ 5 tiếng của Lưu Quang Vũ vừa có sự phong phú đa dạng
của thiên nhiên, của cuộc sống, vừa có độ dài rộng và sâu lắng của nội cảm.
Cho nên, khi đọc những bài thơ này, ta thấy có sự đối lập giữa dung lượng

87
ngắn ngủi, nhỏ hẹp của câu chữ với sự tràn trề mãnh liệt của tình cảm, tâm
trạng. Đây chính là một khám phá rất sáng tạo của Lưu Quang Vũ.
3.2.2. Thể thơ 7, 8 tiếng
Thể thơ 7 tiếng trong thơ ca hiện đại có xuất xứ từ thơ cổ điển thất ngôn
và thơ Đường luật (Thất ngôn bát cú, Thất ngôn tứ tuyệt). Hình thức gồm
nhiều khổ, mỗi khổ 4 câu là phổ biến hơn cả. Nhịp thơ quen thuộc của nó là
3/4 và 4/3.
Thể thơ 8 tiếng được xem là một sáng tạo của phong trào Thơ mới.
“Thực chất thể thơ 8 tiếng có nguồn gốc từ thể thơ ca dân tộc - Thể hát nói
nhưng có sự sáng tạo nâng cao” [24, 96]. Câu thơ 8 tiếng thường ngắt nhịp
5/3; 3/5 hoặc 3/2/3. Vần trong thơ 8 tiếng thường được sử dụng là vần chân
bao gồm các dạng vần chân giãn cách, ôm, hỗn hợp.
Trong hai tập thơ được xem là khá đầy đủ của Lưu Quang Vũ (như đã
nói ở trên) thì số lượng các bài thơ làm theo thể thơ này là 31 bài, chiếm 20%.
Ngoài một bài thơ Mùa xuân lên núi có số tiếng ổn định là 7 tiếng thì còn lại
tất cá các bài thơ có số tiếng dao động từ 7 - 10 tiếng. Tuy vậy, số dòng 9
tiếng, 10 tiếng, thậm chí có bài có dòng 5 tiếng, 11 tiếng nhưng là không
nhiều trong một bài (chỉ có 1 đến 2 câu). Còn đa số chỉ dừng lại ở 7, 8 tiếng
trong một câu. Và phần lớn trong các bài thơ 7, 8 tiếng của Lưu Quang Vũ có
cấu trúc các khổ thơ phổ biến gồm 4 câu.
Tuy có sự phá cách và biến thể như vậy nhưng phải nhận thấy rằng
những bài thơ này vẫn mang đậm âm hưởng trang trọng của thể thơ 7 tiếng và
sự thiết tha sôi nổi, phóng khoáng của thể thơ 8 tiếng.
Đây là một thể thơ mà Lưu Quang Vũ tâm đắc và sử dụng khá thành
công. Cảm hứng trong thơ được mở rộng hơn, tạo nên chất trữ tình vừa sâu
lắng nhuần nhị vừa mãnh liệt đắm đuối.
Đọc thơ 7, 8 tiếng của nhà thơ Lưu Quang Vũ, chúng ta thấy anh đã khai
thác triệt để những ưu thế của thể thơ trong những cảm xúc về quê hương, đất

88
nước. Trong những ngày kháng chiến chống Mĩ đầy gian khổ nhưng cũng đẹp
đẽ vô cùng, anh được có được nhiều bài thơ hay:
Chim cu ơi, mùa đã chín vàng
Tin chiến thắng bay về muôn xóm ngõ
Đêm náo nức giục bình minh hớn hở
Một khúc quân hành cả nước ngân vang
(Đêm hành quân)
Đó là giai điệu sôi nổi, thiết tha, đầy phóng khoáng của thể thơ 8 tiếng
nhằm tái hiện lại không khí rạo rực của những ngày tưng bừng ra trận, của
những đêm hành quân náo nức: “Tiếng ai hò? Dáng lạ cũng thân quen/
Đường nào vui bằng đường ra trận tuyến”. Niềm vui hân hoan phấn khởi,
gác sách vở khoác ba lô lên đường. Những gương mặt vốn xa lạ, nhưng “Từ
phương trời chẳng hẹn quen nhau” (Đồng chí - Chính Hữu). Tất cả đã góp
phần làm nên chiến thắng.
Ngoài ra, Lưu Quang Vũ còn thể hiện tình cảm đối với quê hương trong
việc hướng ngòi bút khám phá vẻ đẹp của ngôn ngữ dân tộc: “Tiếng tha thiết
nói thường nghe như hát/ Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh/ Như gió nước
không thể nào nắm bắt/ Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh” (Tiếng Việt)
để rồi thấy được trong cái bình dị của tiếng nói là sức mạnh của hồn văn hóa
Việt. Đó là sức mạnh kêu gọi, lay tỉnh lương tâm, tình cảm con người.
Ngoài những tình cảm lớn lao dành cho quê hương đất nước thì anh còn
thể hiện cảm động, chân thành những tình cảm đối với người thân: mẹ, vợ,
con… Lưu Quang Vũ đã vận dụng khá nhuần nhuyễn thể thơ này để xúc động
biểu đạt tình cảm của mình. Đó là những tình cảm xuất phát từ con tim mà
không cần phải “đao to búa lớn”, không cần phải so sánh với những cái gì vĩ
đại mà ta vẫn thấy hết những chân thành của người viết. Khi con nghĩ về mẹ:
“Con chẳng nỡ mỗi lần thay áo mới” vì chiếc áo cũ “có đường khâu tay mẹ
vá”. Nghĩ về vợ, anh thương yêu trong những cảm nhận của người chồng khi:

89
“Tháng thứ tám mang thai, em mệt/ Da xanh gầy đôi mắt cũng to hơn”, và
niềm vui: “Mẹ bấm mong tay mong con lắm đấy/ Cha chờ con càng yêu mẹ
của con”.
Nhưng có lẽ nhiều hơn cả vẫn là những bài thơ viết về tình yêu: Hơi ấm
bàn tay, Vườn trong phố, Bài thơ khó hiểu về em, Mùa gió, Dành cho em,…
Em có thấy những hồ xa vụt biến
Những con đường những nhà cửa rung rinh
Em có nghe đất trời đang náo động
Như tình em nổi gió giữa hồn anh
(Mùa gió)
Những câu thơ trang trọng nhưng cũng không kém phần sôi nổi, thiết
tha. Cũng nhờ sự phóng khoáng của thể thơ 8 tiếng mà anh đã luôn dành cho
tình yêu những vần thơ nổi gió. Để rồi với đề tài tình yêu anh đã có được
những bài thơ đằm thắm nhưng cũng rất đỗi lắng sâu.
Những bài thơ viết với thể thơ 7, 8 tiếng là một thành công của Lưu
Quang Vũ trên nhiều đề tài. Không chỉ thiết tha, sâu lắng trong những bài thơ
anh viết về người thân, cồn cào mãnh liệt trong những bài thơ tình mà ở đây
ta còn thấy được cả một thế giới tâm hồn giàu yêu thương nhân hậu, lạc quan
và cả niềm tin yêu cuộc đời (Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi). Nếu như
Xuân Quỳnh thành công ở thể thơ 5 tiếng thì đây là thể thơ sở trường của Lưu
Quang Vũ. Những sáng tác ở thể thơ này đã đưa người đọc đến với một giọng
thơ đắm đuối rất riêng của anh.
3.2.3. Thể thơ tự do
Khác với các thể thơ khác phải gò mình theo một khuôn mẫu nhất định
thì đặc điểm nổi bật của thơ tự do là không tuân theo những quy tắc về cách
luật. Thơ tự do xuất hiện ngay từ khi phong trào Thơ mới ra đời và ngày càng
khẳng định được vị trí của mình trong nền thơ hiện đại với những tìm tòi mới.

90
Thơ tự do phóng túng trong cách biểu đạt, nhịp điệu phóng khoáng, được
cấu tạo bằng những câu thơ tự nhiên đa dạng về tổ chức kết cấu, có số lượng
từ ngữ co giãn linh hoạt. Về mặt hình thức, thơ tự do có thể có vần nhưng nó
không trở thành một quy tắc chặt chẽ mà nhịp điệu lại nổi lên như một yếu tố
chủ đạo. Nhịp điệu ở đây không do các yếu tố cách luật xác định (như thơ
Đường luật, lục bát…) mà do những quy tắc nội tại, cảm xúc của nhà thơ.
Sự phát triển của thơ tự do là để đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thơ ca là
phải đi sâu vào các đề tài rộng lớn, đa dạng của cuộc sống, bắt nhịp với hơi
thở của thời đại. Thường với thể thơ này nó không phải là một hình thức định
trước của các nhà thơ khi sáng tác mà là một hình thức được nhà thơ tìm đến
với độ chín của tâm hồn, tìm thấy ở đó sự diễn tả phù hợp nhất cho những
trạng thái tinh vi của đời sống tinh thần.
Với những ưu thế ấy của thơ tự do. Lưu Quang Vũ đã có những vận
dụng trong sáng tác của mình. Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy thể thơ tự do
được Lưu Quang Vũ sáng tác với số lượng lớn. Trong tập thơ Lưu Quang Vũ
thơ và đời và cuốn Lưu Quang Vũ di cảo với 155 bài thơ thì trong đó Lưu
Quang Vũ đã có đến 116 bài viết theo thể thơ tự do, chiếm 74,8%. Và cũng
với thể thơ này anh đã có nhiều bài xuất sắc, in đậm dấu ấn phong cách thơ
Lưu Quang Vũ.
Cha lên làng sơ tán thăm con
hoa mận nở trắng vườn
năm sắp hết
chợ quê rộn rịp
vàng hương nếp lá rong xanh

hai cha con ngồi trên bờ đê cao


sông chiều ngút khói

91
gió rạp mình cỏ dại
sau lưng Hà Nội sương mờ
thành phố vừa trải qua
những trận bom hủy diệt
lòng cha giờ dập nát
những xác người máu loang
biết nói gì với con
đôi mắt trẻ đen tròn ngơ ngác thế.
(Nói với con cuối năm)
Những tâm sự của người cha đối với đứa con trai ta có cảm giác như
cảm xúc của người viết cứ tuôn chảy trên trang giấy mà không cần phải gò ép
mình vào một cách lựa chọn hình thức thể hiện nào cả.
Khi xét về hình thức của các bài thơ tự do của Lưu Quang Vũ, ta thấy
hầu hết các bài thơ có hiện tượng phối xen câu thơ, dòng thơ dài ngắn khác
nhau. Dòng thơ có thể là 3, 4, 5 tiếng, cũng có thể kéo dài đến 13, 14 tiếng.
Những bài thơ khác thường là cốt 8 hoặc cốt 5. Tất nhiên ở đây, số lượng các
tiếng trong bài thơ tự do chưa phải là điều kiện tiên quyết thể hiện sự sáng tạo
của nhà thơ, mà điều đáng nói chính là ở cách tổ chức sắp xếp sao cho đạt
hiệu quả cao nhất. Chính ở cách sắp xếp các âm tiết với sự co duỗi nhịp nhàng
không ổn định, câu thơ đã có được hiệu quả cao trong việc thực hiện nhiệm
vụ là “bản tự thuật tâm trạng” của mình.
Vẫn đang là mùa xuân ngoài đường tấp nập
Tiếng người, tiếng xe, tiếng cuộc đời náo động
Đi một mình im lặng
Giờ cha đang ở đâu
Có lẽ nào
Khi cánh cửa cuối cùng khép lại

92
Chẳng còn gì ngoài cõi hư vô?
(Buổi chiều ấy)
Đang từ hai câu thơ kéo dài đến 9 âm tiết để gợi lên sự sôi động tự nhiên
của cuộc đời, đoạn thơ co lại với hai dòng 5 âm tiết và đặc biệt là nó đột ngột
thu hẹp với một dòng thơ 3 âm tiết với một câu hỏi xoáy sâu ở giữa đoạn để
diễn tả nỗi đau đớn lặng người của đứa con trước sự mất mát không gì bù đắp
nổi. Đây là một điểm dừng, một nốt lặng của tâm trạng. Câu thơ rất có sức
gợi. Nó gợi lên bao xót xa trong lòng người đọc: ngơ ngác, bàng hoàng, thảng
thốt…
Như vậy, chính hình thức câu thơ phối xen dài ngắn khác nhau trong thơ
tự do mà người viết có điều kiện thả sức tung bút tùy theo cảm hứng của
người nghệ sĩ. Và sự đa dạng trong cảm xúc đó đã tạo ra được một nhịp điệu
riêng. Đó là thứ nhịp điệu bên trong, thứ nhịp điệu của tâm hồn tình ý: lúc
trầm bổng thiết tha, lúc dứt khoát mạnh mẽ, nhưng cũng có lúc nhẹ nhàng sâu
lắng, thậm chí có lúc bi quan sầu nản. Điều này là một yếu tố thuận lợi cho
phép anh đưa vào thơ những bộn bề của cuộc sống và cả ngổn ngang nhiều
suy tư trăn trở, dằn vặt. Thơ anh là tiếng nói độc thoại nội tâm của một con
người đa sầu đa cảm lắm mộng mơ, da diết hướng về kí ức. Đặc biệt khi anh
gặp những muộn phiền trong cuộc sống, anh đã tìm đến thơ. Giai đoạn từ
1971 đến 1975, Lưu Quang Vũ đã lặng lẽ làm thơ. Làm rất nhiều thơ. Làm
thơ như ghi nhật kí. Và thể thơ mà anh lựa chọn nhiều nhất vẫn là thể thơ tự
do. Nó cho phép anh kí gửi hết lòng mình, nhận thức lại cuộc sống và khám
phá chính bản thân mình. Dù có lúc thất vọng cô đơn và cả những khi bế tắc
nữa nhưng ta vẫn thấy ở đây “một Lưu Quang Vũ của những ước nguyện tha
thiết muốn vượt lên trên mệt mỏi, hoài nghi để yêu thương, đế sống và để
viết” (Lưu Khánh Thơ).

93
Một điều đáng nói nữa là với thể thơ tự do, Lưu Quang Vũ đã viết rất
nhiều bài nói về đề tài tình yêu (Thu, Mắt của trời xanh, Lá thu, Không đề,
Em vắng, Em,…). Có lẽ tình yêu với những trạng thái cảm xúc đa dạng của nó
thì chỉ có thơ tự do mới cho phép con người ta “tự do” bày tỏ lòng mình:
Những ngày chưa có em
Anh như suối lang thang trong núi
Chưa biết trung du chưa có bến có thuyền
(Những ngày chưa có em)
Em không bước ra từ một tấm gương câm
Không đến từ một con tàu trong trí nhớ
Không phải từ một giấc mơ một dòng sông
hay một lùm cây rực rỡ
Em đến giữa một ngày
trong những ngày sống thực của anh
(Em)
Trái tim anh trong ngực em rồi đó
Hãy giữ gìn cho anh
Đêm hãy mơ những giấc mơ lành
Ngày yên tĩnh như anh luôn ở cạnh
(Thư viết cho Quỳnh trên máy bay)
Đến đây chúng ta có thể thấy rằng việc lựa chọn một hình thức nào để
biểu đạt nội dung là nằm trong dụng ý của tác giả. Tuy nhiên có những lúc,
nội dung tư tưởng cần biểu đạt nó lại quy định nên khoác cho mình một chiếc
áo như thế nào, nên chọn thể thơ nào cho phù hợp. Với Lưu Quang Vũ, thể
thơ mà anh sử dụng nhiều nhất vẫn là thể thơ tự do bên cạnh các thể thơ khác:
thơ 7, 8 tiếng, thơ 5 tiếng, thơ 6 tiếng, thơ lục bát… Qua tìm hiểu nó ta thấy
được cách thể hiện cảm xúc tâm trạng rất riêng của nhà thơ. Đó là cái tôi trữ

94
tình rất Lưu Quang Vũ: một cái tôi hướng nội với những cảm xúc ngọt ngào
đắm đuối, da diết miên man.
3.3. Ngôn ngữ
Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Ngôn từ là phương tiện để chuyển tải
cảm xúc, quan niệm của tác giả. Toàn bộ hiện thực trữ tình được nhà thơ vật
thể hóa trong hình thức thơ và ngôn ngữ thơ. Nếu tự sự là sự trần thuật các sự
kiện, miêu tả các hành vi trong đời sống con người thì trữ tình là cung bậc
tình cảm. Trữ tình nắm bắt một cách nghệ thuật thế giới nội tâm của con
người và thể hiện ra bằng hình ảnh, ngôn từ xúc cảm và cụ thể. Chính vì vậy,
thơ trữ tình được xây dựng bằng một thứ ngôn ngữ đặc biệt. Đó là một kiểu
cấu trúc “quái đản”, hay nhà thơ chính là những “phu chữ” (chữ dùng của
Lê Đạt).
Việc lựa chọn sử dụng từ ngữ, tổ chức hệ thống ngôn từ thể hiện phần
nào nội dung mà tác giả cần biểu đạt. Cùng với các nhà thơ trẻ, Lưu Quang
Vũ đã có nhiều đóng góp trong việc hiện đại hóa thơ ca dân tộc. Cụ thể là về
ngôn ngữ thơ ca. Mặc dù trong thơ anh, chúng ta không tìm thấy sự cầu kì,
gọt dũa, chải chuốt câu chữ nhưng đó lại là thứ ngôn ngữ giàu sắc thái biểu
cảm, đa nghĩa và giàu tính tạo hình. Cộng với đó là việc tác giả đã sử dụng
một số biện pháp tư từ để làm tăng hiệu quả nghệ thuật cho bài thơ. Do đó,
Lưu Quang Vũ đã tạo nên được một sự độc đáo cho ngôn ngữ của mình.
3.3.1. Ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm
Ngôn ngữ thơ là ngôn ngữ của cảm xúc. Bởi thơ là tiếng lòng. Phương
tiện để cho nhà thơ trút bầu tâm sự của mình là ngôn ngữ. Lựa chọn cho mình
một thứ ngôn ngữ riêng là rất cần thiết. Nó góp phần làm nên diện mạo của
nhà thơ và thể hiện một phong cách rất riêng của họ:
Mỗi công dân đều có một dạng vân tay
Mỗi nhà thơ thứ thiệt có một dạng vân chữ

95
không trộn lẫn
(Vân chữ - Lê Đạt)
Ngôn ngữ trong thơ Lưu Quang Vũ là một thứ ngôn ngữ giàu sắc thái
biểu cảm: “Không biết nữa, anh là chàng thi sĩ/ Hay kẻ bộ hành sa mạc khát
sương mê/ Ngắt trên cành anh khóc một hoa lê/ Mặt trời tối sập xuống làn mi
và trăng mọc” (Bài thơ khó hiểu về em). Đó là những khát khao của một lữ
khách trên sa mạc. Lữ khách đó lại là một chàng thi sĩ. Anh tìm kiếm em và
“Anh đã gặp em, em là tia nắng” để “Thoảng qua rồi buổi chia li cay đắng”.
Tia nắng: nghĩa là rất khó nắm bắt. Nhìn thấy đó, hiện hình đó nhưng lại thật
khó đưa tay mà với được. Cho nên, cuối cùng anh phải chấp nhận một sự thật,
rằng em như hoa hồng nở giữa hoàng hôn mà “Gai nhọn đâm máu ứa cả tâm
hồn”. Ngôn ngữ đã thể hiện được sắc thái cảm xúc của con người. Đúng là
“Bài thơ khó hiểu về em”. Chính sự khó hiểu đó làm cho anh ngẩn ngơ, chấp
chới:
Để anh thành nai lạc khát suối lành
Để anh thành nhạn lẻ vọng trời xanh
Và để rồi từ bản thân mình anh đã rút ra được những chân lí ở đời: cái
đáng sợ nhất trên đời này là những khoảng cách:
Những khoảng cách giữa thực tại và ước mơ
giữa những điều ta mong và những gì ta có được
(Cho Quỳnh những ngày xa)
Ngôn ngữ biểu cảm ở đây giúp chúng ta cảm nhận được tâm hồn tinh tế
và bay bổng của người thi sĩ:
Lách tách chồi non đội vỏ lên
Gió xuân thổi hết những ưu phiền
Anh nhìn vô tận rừng xa thẳm
Nghĩ về đất nước nghĩ về em

96
Đêm tím nhòe đi hoa mận rơi
Cỏ mềm rạo rực gót chân nai
Lòng anh hồi hộp như con suối
Thao thức mùa xuân giữa đất trời
(Mùa xuân lên núi)
Những rạo rực, hồi hộp, thao thức là nỗi lòng của thi nhân khi một mùa
xuân mới lại về trên những thung lũng “khói mờ sương”. Kết hợp với thể thơ
bảy chữ, bài thơ tạo ra cảm giác đều đặn, từng bậc, từng bậc được khám phá
vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước.
Ngôn ngữ trong thơ Lưu Quang Vũ còn cho thấy cách nhìn của anh về
cuộc đời ngổn ngang ở ngoài kia với “những vai áo bạc màu, những bàn tay
lấm bụi/ những đứa trẻ ra đời giữa bắp đùi đẫm máu tạo vật”. Khác với
Phạm Tiến Duật đưa ngôn ngữ đời thường vào thơ để thấy được nét ngang
tàng, tinh nghịch, hóm hỉnh mà vẫn hồn nhiên: không có kính ừ thì có bụi, cái
vết thương xoàng mà đi viện, Em ở Thạch Kim sao lại lừa anh là Thạch
Nhọn,... Lưu Quang Vũ chú trọng đưa ngôn ngữ tự nhiên vào thơ theo cách
riêng của mình. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị gắn liền với những hình ảnh có
sức gợi đã cho thấy một sự chân thành mà xúc động: “những đứa trẻ ra đời
giữa bắp đùi đẫm máu của tạo vật” (Với triệu con người) - nhiều lúc nó giản
dị đến trần trụi như chính ngôn ngữ thuần túy đời thường tưởng như không hề
cần đến một chút công phu nghệ thuật nào. Nó đã cho thấy được một hình ảnh
có thật trong sự ra đời của những đứa trẻ. Nhưng nó còn cho ta thấy được, thế
giới đón chào các em trong một hoàn cảnh quá đau thương.
Nhiều khi chính sự biểu cảm của ngôn ngữ đã gợi lên được những điều
chân thực sinh động bằng một thứ ngôn ngữ mộc mạc đến nao lòng mà chẳng

97
có ngôn từ hoa mĩ nào có thể thay thế được. Bởi những câu thơ đó được viết
ra rất thực từ cảm xúc của người cầm bút.
Từ việc sử dụng một lớp ngôn từ giàu sắc thái biểu cảm mà Lưu Quang
Vũ đã trải hết được nỗi lòng của mình trên trang giấy. Nó đã góp phần thể
hiện cái tôi trữ tình của nhà thơ, góp phần làm nên phong cách riêng của nhà
thơ mà đúng như Lê Đạt nói: không trộn lẫn.
3.3.2. Ngôn ngữ đa nghĩa giàu tính tạo hình
Bên cạnh lớp từ ngữ giản dị đời thường giàu sắc thái biểu cảm, Lưu
Quang Vũ còn có xu hướng lựa chọn ngôn ngữ đa nghĩa giàu tính tạo hình.
Tính đa nghĩa là một đặc điểm trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật. Và
chính sự đa nghĩa giàu tính tạo hình đó đã thể hiện một Lưu Quang Vũ đầy
suy tư triết luận.
Sự đa nghĩa được thể hiện trong việc nhà thơ đã sử dụng rất nhiều từ ngữ
như một nỗi ám ảnh cứ lặp đi lặp lại. Ví dụ như: gió, mưa, ngọn lửa, quả
chuông… (sẽ nói kĩ ở phần sau) làm cho nó ngoài nét nghĩa vốn có thường
hay sử dụng thì còn mang những nét nghĩa riêng tùy theo dụng ý nghệ thuật
của người viết.
Để góp phần làm cho ngôn ngữ giàu tính tạo hình thì cần kể đến việc tác
giả đã sử dụng kết hợp nó với các biện pháp tu từ trong thơ. Sử dụng rất nhiều
các từ láy (có khi là rất nhiều trong một bài), nghệ thuật so sánh, phép lặp, liệt
kê… là những điều dễ thấy trong thơ Lưu Quang Vũ.
Ở tiếng Việt, trong từ láy có láy tượng thanh và láy tượng hình. Nghĩa là
những từ láy đó rất có sức gợi về âm thanh và hình ảnh đối với người đọc.
Vận dụng những ưu thế của nó mà những câu thơ của Quang Vũ rất đa dạng
về âm thanh, hình ảnh và có chiều sâu:
Thu chưa vàng/ nắng đã se se/ thu đến rồi ư/ gió đã về/ cây trớt xạc xào
bao lá nhỏ/ phập phồng sông đỏ cỏ ven đê/… ta ngước nhìn lên: hoa mướp

98
vàng/ rung rinh như những quả chuông con/ nắng lấp loáng trên buồm/
thuyền mịt mù trong khói/ sông thời gian trôi băng/ cây mùa thu ở lại/ lòng ta
như đất bãi/ rì rầm con sóng nâu/ lại gặp trời thu xa/ như buổi đầu cuộc đời/
trong xanh và rộng rãi/ ngỡ ngàng mà mến yêu/ anh vẫn như con tàu/ luôn
bồn chồn ra đi/ nhưng chiều nay bên em/ lòng như con chim nhỏ/ như rung
rinh là cỏ/ trên tay mình xanh non (Thu).
Cả bài thơ không có dấu chấm câu, không có viết hoa đầu dòng, sử dụng
nhiều từ láy và nhiều từ ngữ gợi hình ảnh. Đó là cảm xúc liền mạch, trôi chảy
của nhà thơ trước mùa thu.
Ngoài ra tác giả còn sự dụng từ láy với tần số cao trong nhiều bài thơ
khác. Tiêu biểu trong bài Giấc mộng đêm với một loạt những từ như: thủ thỉ,
chập chờn, nhăn nheo, chênh vênh, buồn bã, ràn rụa, run run, lập cập, nghi
ngút, lảo đảo, mù mịt, mê mẩn, xa xôi, ầm ì, rưng rưng, rách rưới, xanh xao,
đăm đắm, đau đớn, khát khao, sừng sững, phất phơ, xót xa, thăm thẳm, vằng
vặc, dập dìu, ào ào, vàng vọt, bát ngát, phập phồng, ròng ròng. Sự có mặt dày
đặc của nó đã tạo ra được một thế giới đầy sắc màu, hình ảnh xuất hiện trong
khi nhà thơ “một mình thức với canh khuya” mà nghĩ về cuộc đời. Trong con
người nhiều bộn bề, lo âu trăn trở đó thì không có gì lạ khi anh ngồi và lắng
nghe ngoài kia “những vang động của đời”.
Trong thế giới nghệ thuật thơ của mình, Lưu Quang Vũ còn rất hay sử
dụng các biện pháp tu từ so sánh để làm nổi bật vấn đề cần thể hiện:
Mưa ở đây như roi, nắng ở đây như lửa
Em là bờ cau xanh
Là quả vườn nhà là chim tu hú
Em yêu chốn này không
Em như sông êm ả một dòng
Có yêu giông trời chớp bể

99
Có hiểu lòng anh như đứa trẻ
Trong sạch và khát khao?
(Viết cho em từ cửa biển)
Em được nhà thơ so sánh như bờ cau, quả vườn, chim tu hú, em như
sông êm ả. Em có hiểu lòng anh không. Lòng anh như đứa trẻ. Nhiều khi
không cần phải nói nhiều mà qua đối tượng để so sánh mà ta đã hiểu tất cả rồi:
Cửa biển sẽ nắm tay anh
Như nắm một bàn tay có ích
(Viết cho em từ cửa biển)
Như ngôi sao trên cột buồm trơ trọi
Anh nhìn vào bóng tối
(Viết cho em từ cửa biển)
So sánh là cách diễn đạt tốt nhất mà dùng những ngôn từ khác thì rất khó
nói hết. Đặc biệt là trong thơ:
Ước mẹ trẻ hoài như buổi mới gặp cha
(Gửi mẹ)
Ngày ấy ta chưa hiểu rõ lòng ta
Anh chưa biết yêu em như bây giờ
(Ngày ấy)
Chúng ta gặp nhau quá muộn trong đời
Chúng ta cách nhau như buổi sáng cách buổi chiều
(Gửi…)
Em như thời khắc của anh như dáng hình
như trí nhớ
Phải xa em anh chẳng còn gì nữa
Chẳng còn gì, kể cả nỗi cô đơn
(Em vắng)

100
Ngoài ra, cùng với một số biện pháp nghệ thuật khác như liệt kê, phép
lặp,… mà giúp cho những vần thơ của Lưu Quang Vũ vừa đọc đã thấy say mê
bởi sự ngọt ngào và đầy màu sắc của nó. Nhiều câu thơ đưa chúng ta lạc vào
một thế giới đa dạng hình ảnh, của những câu chuyện đa thanh đa nghĩa. Qua
đó, ta càng thấy được sự phong phú và dạt dào trong tâm hồn thi sĩ.
3.4. Một số môtip hình ảnh chủ đạo trong thơ Lưu Quang Vũ
Khảo sát hơn 150 bài thơ của Lưu Quang Vũ trong Lưu Quang Vũ - Thơ
và đời và Lưu Quang Vũ di cảo, một sự ám ảnh cứ trở đi trở lại trong ta đó là
sự lặp lại rất nhiều lần của một số hình ảnh như: gió, mưa, ngọn lửa, quả
chuông,… Chính sự xuất hiện với tần số cao của các hình ảnh đó đã làm cho
nó trở thành một tín hiệu nghệ thuật khi chúng ta tìm hiểu về thơ Lưu Quang
Vũ. Qua đó, ta hiểu phần nào những tâm sự mà nhà thơ muốn gửi gắm.
Trong ngôn ngữ thơ, nghĩa của từ không chỉ phản ánh nhận thức của con
người về hiện thực được củng cố dưới vỏ âm thanh nhất định (nghĩa biểu vật)
mà còn có khả năng gợi ra tình cảm, cảm xúc, nhận thức về một nghĩa mới
hoàn toàn mới lạ so với nghĩa ban đầu. Đó chính là nghĩa hình tượng của từ.
Trong ngôn ngữ thi ca: “nghĩa hình tượng của từ thực chất là nghĩa tiềm
năng và nằm sâu trong cấu trúc ngữ nghĩa của từ và không đưa vào từ điển”
[11, 115]. Như vậy, nhiều trường hợp trong quá trình biểu trưng hóa tín hiệu
ngôn ngữ, một số từ đã mang nét nghĩa mới - nghĩa hình tượng. Từ đây chúng
ta có thể xem: gió, mưa, ngọn lửa, quả chuông,… là những hình tượng thơ
trong thơ Lưu Quang Vũ.
3.4.1. Hình tượng gió
Gió được xem như là một biểu tượng trung tâm của thế giới thơ Lưu
Quang Vũ. Gió với những nét nghĩa đối lập, mạnh mẽ khoáng đạt ào ạt, luôn
khao khát những chân trời rộng lớn đồng thời phóng túng, tự do tung phá,

101
không yên ổn… sẽ bao quát được toàn bộ những cảm hứng lớn, bạo liệt trong
thơ của anh.
Theo giáo sư Đỗ Hữu Châu, trong thơ Việt, hình tượng gió có thể quy
vào ba nét nghĩa chính: Buồn, sầu thảm; là sự giao cảm; tượng trưng cho sự
phóng khoáng bay bổng của một tài năng, một tâm hồn vượt khỏi cuộc sống
tù túng.
Khảo sát 155 bài thơ của Lưu Quang Vũ, chúng tôi tìm thấy có đến 94/
155 bài thơ nhắc đến gió chiếm 61%, 186 lượt câu thơ nhắc đến gió, trong đó
có 4 bài thơ có nhan đề liên quan và cả bài thơ cũng đề cập đến gió: Gió và
tình yêu thổi trên đất nước tôi, Mùa gió, Chiều chuyển gió, Trước biển và gió.
Có nhiều bài thơ của Lưu Quang Vũ, gió đã trở thành một cảm hứng lớn khi
tác giả đã rất nhiều lần nhắc đến nó: Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi: 26
lần, Chiều chuyển gió: 6 lần… Có lẽ đây là những con số biết nói về dụng ý
nghệ thuật của tác giả khi sử dụng gió là một hình tượng nghệ thuật tiêu biểu.
Tìm hiểu về hình tượng gió trong thơ Lưu Quang Vũ, chúng ta có thể
quy nó về một số nét nghĩa sau đây:
Trước hết nói đến gió là chúng ta nghĩ ngay đến một hiện tượng thiên
nhiên vừ dữ dội, khắc nghiệt nhưng cũng rất nồng hậu, nên thơ. Nó dường
như đã trở thành một yếu tố chủ đạo của một “bán đảo mưa rào và gió mặn”,
“mưa và gió ầm ào trên mặt đất”:
Với những hình ảnh như: “Gió rừng cao xạc xào lá đổ/ Gió mù mịt
những con đường bụi đỏ/ Những dòng sông ào ạt cánh buồm căng” (Gió và
tình yêu thổi trên đất nước tôi); “Quảng Trị mùa gió Lào/ Cuộc chiến còn dai
dẳng” (Tiễn bạn); “Gió thổi xạc xào lau sậy/ Rừng cọ bạt ngàn, núi tiếp
nhau/… Gió lạnh thổi trên đường phá hoại/ Dưới bến Việt Trì đồn Tây chẹn
lối” (Phố huyện) ; “Chỉ gió về quằn quại giữa đại dương/ Và sóng đập liên
hồi trên ngực đá” (Thị trấn biển); “Gió bấc thổi về từ xứ xa/ Bên kia núi cao

102
sừng sững/ Trung Hoa” (Trung Hoa); “Nước Lào ơi, gió nóng thổi từ đâu?/
Rừng săng lẻ nhìn lên cao chóng mặt” (Bài ca trên bán đảo); “Hun hút bờ
tre gió rét/ Mưa dầm lầy lội bùn trơn” (Những con đường)… thì gió đã trở
thành một chứng nhân “Thổi không yên suốt chiều dài lịch sử/ Qua đất đai
qua đời sống con người/ … Qua mọi điều, ngọn gió có qua đâu/ Luôn luôn ra
đi, luôn luôn mới đến” (Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi).
Gió không chỉ biểu trưng cho thiên nhiên khắc nghiệt mà còn một thiên
nhiên rất nên thơ: “Có con nghé trên lưng bùn ướt đẫm/ Nghe xạc xào gió
thổi giữa cau tre” (Tiếng Việt); “Chớm heo may trên những ngọn cau vàng/
Nồm nam thổi, khắp đồng bông gạo trắng” (Gió và tình yêu thổi trên đất
nước tôi); Gió thổi mây chiều/ Chim hót sớm mai” (Gửi tới các anh); “Em
mà ngọn gió chiều nức nở/ Em mà ngày xưa run rẩy cả lòng anh” (Anh đã
mất chi anh đã được gì); “Thu chưa vàng/ nắng đã se se/ thu đến rồi ư… gió
đã về/ cây trớt xạc xào bao lá nhỏ/ phập phồng sông đỏ cỏ ven đê” (Thu)…
Nói đến gió với ý nghĩa là biểu tượng cho thiên nhiên, Lưu Quang Vũ đã
miêu tả nó trong những trường hợp cụ thể gắn liền với các cụm từ rất có sức
gợi. Khi nó là hình ảnh làm rõ cho hiện tượng thiên nhiên khắc nghiệt thì là:
gió nóng, gió mặn, gió lốc, gió hú, gió độc, gió lạ, gió ngàn, gió lạnh, gió của
rừng già khắc nghiệt, gió thổi lồng, gió ầm ào,… Còn khi nó là biểu tượng
cho một thiên nhiên dữ dội mà nên thơ thì: gió nồm nam, gió heo may, gió
mùa thu, gió thổi mát, gió sưởi ấm,…
Ngoài ra, khi nói gió là một biểu tượng cho con người tinh thần Lưu
Quang Vũ thì ta có thể nhận thấy có hai tầng nghĩa: nó vừa khoáng đạt, mạnh
mẽ, tự do và có phần dữ dội như gió, nhưng nó cũng vừa dịu dàng, êm ả,
mượt mà như gió.

103
Như gió, anh phóng túng, tự do. “Dám sống đúng mình, dám nghĩ đúng
mình. Anh không thể yên ổn trong những cái mực thước, khuôn phép, vừa
phải, lưng chừng” (Phạm Xuân Nguyên).
Năm 1972, anh đã viết những câu thơ đầy gió của chiến tranh phá hoại
do đế quốc Mỹ gây ra: “Gió hú gầm gào qua gạch vỡ/ Người chết vùi thân
dưới hố bom/ Kẻ sống vật vờ không chốn ở/ Lang thang trẻ ốm ngủ bên
đường” (Ghi vội đêm 1972). Hồn thơ Lưu Quang Vũ cùng quăng quật với
“gió lốc” của mọi kiếp người. Họ như đang đòi hỏi một điều gì: “Muôn người
chết đứng lên cùng kẻ sống/ Những cánh tay như dấu hỏi chìa ra/ Những
cánh tay như buồm thẳng vươn xa/ Trên biển rộng đợi một lời giải đáp/ Tôi
muốn nói nhưng bốn bề gió lốc” (Giấc mộng đêm). Nếu chiến tranh xâm lược
thời anh sống là cơn bão lớn đang lồng lộn thổi trên thân mình đất nước, thì
“cơn gió” hồn anh đang dấy lên mạnh mẽ trong lòng anh làm anh không thể
nguôi quên khi nhắc đến hai tiếng Việt Nam - Tổ quốc thiêng liêng. Gió trong
thơ anh là gió lòng là gió tâm hồn luôn yêu thương, lo âu và khao khát: “Đã
có lần tôi muốn nguôi yên/ Khép cánh cửa lòng mình cho gió lặng/ Nhưng vô
ích làm sao quên được/ Những yêu thương khao khát của đời tôi” (Gió và
tình yêu thổi trên đất nước tôi).
Bên cạnh đó, gió trong thơ Lưu Quang Vũ cón gắn liền với những câu
chuyện tình của anh. Gió làm cho tình yêu xao động, phập phồng. Những băn
khoăn, rạo rực, nhớ thương trong tình yêu được anh mở tung ra với gió và
chuyển đến với người yêu dấu: “Anh vọng về em một sắc trời xanh/ Ở nơi xa
em có nhớ gió ân tình”; “Anh nhớ em dẫu ngày mai chẳng biết ra sao/ Anh
cố quên nhưng chiều gió cứ vào”. Tâm hồn anh trong yêu đương vẫn bay
bổng trên cánh gió. Anh đã có được những vần thơ hay, những vần thơ nổi
gió. Cuộc đời mình anh đã coi là gió. Nhưng nhiều khi nó lại là gió lốc. Mà vì
nó anh phải đau khổ chấp nhận: “Tôi ảo tưởng quá nhiều ư? có lẽ/ Em cần gì
gió lốc của đời tôi”. Sau này khi tìm thấy tình yêu là chổ dựa vững chãi cho
cuộc đời mình thì anh muốn nhỏ lại, muốn dịu đi cơn gió của mình: “Anh

104
muốn làm cánh cửa để em quên/ Ngọn gió nhỏ trên trán em kiêu hãnh”. Lúc
này anh chỉ muốn mình là cơn gió nhẹ vẫn êm trôi trong dòng chảy cuộc đời.
Gió đã đi cùng anh trong những niềm vui, nỗi buồn, trong đắng cay, hạnh
phúc và nói hộ anh rất thành thật nỗi lòng mình. Mọi người như hiểu thêm về
Lưu Quang Vũ qua những trạng thái khác nhau của gió: gió heo may, gió nhẹ,
gió thoảng qua, gió ân tình và cả gió lốc, gió xoáy.
3.4.2. Hình tượng mưa
Trong các hiện tượng của thế giới tự nhiên thì có thể nói mưa là một hiện
tượng có tác động lớn đến tâm trạng con người. Đặc biệt là ở những người
nhiều tâm sự ngổn ngang như Lưu Quang Vũ thì mưa như trở thành một nỗi
ám ảnh. Trong thơ anh rất nhiều lần chúng ta bắt gặp hình ảnh mưa. Trong số
155 bài thơ của Lưu Quang Vũ (theo khảo sát) thì có đến 90/155 bài có từ
mưa, chiếm 58%, trong đó có 169 lượt câu thơ nhắc đến mưa, 3 bài thơ có
nhan đề và nội dung liên quan trực tiếp đến mưa: Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa,
Mưa, Hoa cẩm chướng trong mưa. Riêng bài thơ: Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa
có 7 lần nhắc đến từ mưa và bài Mưa là 8 lần.
- Thành phố nghèo mù mịt mưa rơi
Cánh hoa nhòe trong mưa tơi tả
- Chiều nay bốn bề mưa xám
- Nay một mình trở lại ngoại ô mưa
Trong thơ Lưu Quang Vũ, trước hết mưa là một hiện tượng của tự nhiên.
Sự xuất hiện của nó đã có ảnh hưởng không nhỏ đến con người. Như đã nói ở
trên, trong nhiều mối băn khoăn lo nghĩ của mình, Lưu Quang Vũ đã dành
nhiều trang thơ sâu sắc viết về cảnh nghèo đói, thiên tai, lũ lụt. Mưa, gió làm
cho tâm hồn anh nhiều khi buồn đến lo âu. Lo âu cho bản thân, lo âu cho
những cảnh đời phải sống trong một: “Xứ sở mưa rào gai ngút mắt/ Vải dù
rách dưới máu đen” (Liên tưởng tháng hai):

105
Mẹ ơi thương mẹ nhiều mưa nắng
Những năm dài khoai sắn nuôi con
(Phố huyện)
Mưa dầm lầy lội bùn trơn
Bà lưng còng chống gậy bước run
(Những con đường)
Có những lúc trong tâm trạng của Lưu Quang Vũ thì mưa đã làm cho
hiện tại trở nên vô nghĩa và tương lai lờ mờ, không xác định. Nói nhiều đến
mưa vì cảm giác trong anh là thất vọng ngại ngần, không tin vào điều gì,
không hướng mình vào việc gì.
Cũng như gió, mưa làm cho con người ta phải chống chọi với nó, thậm
chí phải sống chung với nó:

Mưa cướp đi ánh sáng của ngày


Đường chập choạng trăm mối lo khó gỡ
Thức chẳng yên dở dang giấc ngủ
Hạnh phúc con người mong manh mưa sa
(Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa)
Những giọt nước mưa làm con người ta xao động. Nhìn mưa rơi mà lo
nghĩ nhiều điều. Sợ rằng mưa sẽ cuốn đi tất cả: xóa nhòa những điều em hứa,
trời chẳng còn xanh nữa, nắng không trong như nắng buổi ban đầu, mưa xóa
cả dấu chân em, mưa cướp đi ánh sáng của ngày,…
Nhưng rồi nói đi phải nói lại. Có nhiều khi mưa như là một sự mong đợi
của con người. Phải chăng lúc đó là để con người trút bầu tâm sự, muốn mưa
kia cuốn đi tất cả những lo phiền “Mưa rộng dài xóa những nỗi lo riêng”
(Mưa); “Nước mưa rơi tí tách/ Tôi lắng nghe như chú dế mèn con/ Đi ra
đồng cỏ ban đêm” (Đất nước đàn bầu), hay “Đêm mưa thức với nhau trong

106
quán cà phê/ Đốm thuốc cháy môi không nói” (Tiễn bạn). Lúc này đây mưa
trở thành người bạn: “Nay một mình trở lại ngoại ô mưa/ Lụp xụp quán cà
phê ngày cũ” (Quán cà phê ngoại ô) để ở đó anh tha thiết cùng mưa “Ngã tư
mưa nhớ em/ Vừa thương vừa trách giận/ Sao chân em dẫm đạp/ Lên những
gì tôi yêu?” (Ngã tư tháng chạp).
Mưa trở thành một niềm khao khát trong anh - con người luôn muốn tìm
một nơi để kí gửi nỗi lòng. Lòng anh như vơi đi những vướng bận cuộc đời.
Mưa đã tưới những giọt nước mát lành xuống đời anh. Không cần phải đắn đo
e ngại: “Anh hãy nghe tiếng mưa tiếng mưa tiếng mưa”, và mưa đã thay lời
anh, nói hộ cho anh:
Thôi anh đừng nhìn em đừng nhìn em nữa
Em hiểu điều gì đã gắn bó đôi ta
Em hiểu điều gì…Ôi tiếng mưa tiếng mưa…
(Mưa)
Nếu nói gió, mưa là “bệnh của trời” thì ở Lưu Quang Vũ nó còn đi xa
hơn, gắn bó hơn. Vui hay buồn: gió, mưa đã nói hộ cho anh. “Đời anh là gió,
thơ anh là mây. Gió thổi mát, mây che mát. Mây cho gió dừng chân và gió
cho mây bay bổng. Gió và mây hợp lại có thể là mưa, mưa tưới nhuần mặt
đất. Gió lòng anh đang thổi tới lòng ta” (Phạm Xuân Nguyên). Ở con người
này luôn muốn cởi hết lòng mình: muốn nói hết, nói hết “thế vẫn còn chưa đủ”.
3.4.3. Hình tượng lửa
Đã có đến 68/ 155 bài thơ của Lưu Quang Vũ có nhắc đến lửa, nó chiếm
đến 43,8 %, mà trong đó có 116 lượt câu thơ nhắc đến lửa, và anh đã dành
hẳn một bài thơ viết về lửa: Mấy đoạn thơ về lửa, trong bài có đến 12 lần tác
giả nhắc đến lửa và lửa đã trở thành cảm hứng chủ đạo, hình tượng trung tâm
của thi phẩm.

107
Lửa trong thơ Lưu Quang Vũ không chỉ được diễn tả là ngọn lửa cụ thể
trong đời thường: “Mái nhà có bùi nhùi giữ lửa” (Đất nước đàn bầu),”Mái
nhà cũ đêm đêm ai nhóm lửa” (Thôn Chu Hưng), “Nhấp nháy lửa hàn vui
phố cũ” (Chưa bao giờ), “Ánh lửa hắt lên xanh xám thân cầu”, những “lò
rèn phập phù bể lửa”... “Em đi xuống Bát Tràng/ nhìn lò nung lửa thắm”
(Em sang bên kia sông), “Những người sơ tán, bản mịt mù mưa núi/ Áo em
hong bên bếp lửa nhà sàn” (Em có nghe) mà còn được nhà thơ sử dụng với ý
nghĩa là một biểu tượng đa nghĩa (hình tượng nghệ thuật).
Chúng ta có thể tìm thấy hình tượng lửa trong thơ Lưu Quang Vũ với nét
nghĩa thứ nhất: là biểu tượng cho chiến tranh, bom đạn. Trong chiến tranh
ngọn lửa đã được thổi bùng lên khắp mọi nơi. Đó là ngọn lửa có thật trong
đời: “Trận đánh xưa công đồn lửa đỏ” (Đêm hành quân), “Lũ trẻ nhỏ ngụp
chìm trong đạn lửa” (Thị trấn biển), hay “Lửa cháy đỏ trời bốn phía ngoại
ô” (Ghi vội đêm 1972). Từ những đau thương mất mát anh đã gói kết trong từ
“lửa” để rồi nó trở thành một yếu tố quan trọng, nói đúng hơn là một mục
đích chính để chúng ta cầm súng lên đường: “Lửa cháy bom rơi ta cầm súng
lên đường” (Đêm hành quân). Lửa đã trở thành một nổi ám ảnh trong chiến
tranh: lửa tượng trưng cho sự cháy rụi, sự độc ác của kẻ thù và cả sự mất mát;
lửa tượng trưng cho lòng căm hờn: “Nhân dân có gì giống như lửa phải
không anh/ Gió bão ngàn đời vẫn nối nhau chẳng tắt”; Nếu nhìn từ một góc
độ nào đó lửa là hình ảnh của chiến tranh thì đã nhiều lần anh nói đến “lửa
đạn”, “đạn lửa” như một rào cản chen vào cuộc sống bình yên của nhân dân:
“Em ở phía bên kia/ Giữa ta là đạn lửa” (Những vườn dâu đánh mất), “Em
xa cách trong cách chia lửa đạn/ hai mươi năm người cũ khác xưa không”
(Mùa xoài chín).
Nhưng rồi, như tất cả những con người Việt Nam anh dũng kiên cường,
như đất nước Việt Nam đau thương mà quật khởi, anh tin vào ngày mai, vào

108
tương lai tươi sáng của dân tộc: “Sau căm giận, cắt chia, sau lửa đạn/ Những
vườn cây còn lại với con người”. Và lúc này đây nhà thơ đã ví hòa bình như
ngọn gió để dập tắt ngọn lửa chiến tranh: “Ngọn gió lớn hòa bình/ Sẽ thổi
dập đống lửa tàn dĩ vãng”.
Bây giờ, mạnh hơn tất cả, lửa là biểu tượng cho sự sống bất diệt, cho sức
mạnh của nhân dân: “Sự sống là lửa/ Thiêu hủy và sinh nở/ Bình minh là lửa/
Mở ngày mới và xé toang ngày cũ”. Ngọn lửa có sức mạnh thổi tan và thiêu
đốt tất cả. Đó cũng là sức mạnh của ý chí đấu tranh quật khởi: “Những lửa
của tình yêu khi tức giận/ Sẽ ra tro mọi lồng cũi ngai vàng”. Ngọn lửa ấy sẽ
cháy mãi trong lòng ta và sẽ không bao giờ tắt, sẽ truyền đến mai sau: “Con
người trao lửa cho nhau/ Từ những lồng ngực tròn căng” (Mấy đoạn thơ về
lửa). Cho nên, đến đây với những ý nghĩa lớn lao của nó, con người đã khát
khao cháy bỏng “cho ta làm ngọn lửa” để cháy mãi muôn đời.
Cũng giống như Bằng Việt trong bài thơ Bếp lửa, ngọn lửa “ấp iu nồng
đượm” tình bà cháu: “Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn/ Một ngọn lửa chứa
niềm tin dai dẳng”, lửa trong thơ Lưu Quang Vũ còn là biểu tượng cho hơi
ấm yêu thương sưởi ấm lòng người. Với nét nghĩa biểu trưng này, nó thường
gắn liền với hình ảnh người con gái. Em như ngọn lửa nồng nàn, ấm áp:
“Người yêu như lửa và như lụa” (Mắt của trời xanh). Em là bếp lửa với
nghĩa là sự sưởi ấm: “Em là bóng cây, em là bếp lửa/ Che mát và sưởi ấm
lòng anh” (Không đề). Em còn là ánh lửa soi sáng cho con tàu anh vào ga:
“Những ngày chưa có em/ Anh như toa tàu bỏ vắng/ Rất nhiều gió thổi qua cửa
lạnh/ Nhưng thiếu lửa thiếu tiếng còi không biết lối vào ga” (Những ngày
chưa có em). Với anh, em là người nhóm lửa, người giữ lửa - ngọn lửa của
trái tim, của yêu thương hạnh phúc: “Em mua rau ở chợ về/ Em chụm diêm
nhóm lửa.../ Bóng em lung linh đêm không còn lạnh giá” (Em), hay: “Ngọn

109
lửa hồng em ủ giữa chiều mưa” (Nơi ấy). Nhờ có lửa của tình em mà “Anh
yên lòng bên lửa ấm yêu thương”.
Lửa là một ẩn dụ về người con gái, nó thể hiện quan niệm của Lưu
Quang Vũ về tình yêu như là sự chở che, gắn bó vừa nồng nàn cháy sáng vừa
yên ấm trong hạnh phúc đời thường. Cho nên, dù trong hoàn cảnh nào anh
cũng sẽ tìm về với lửa - với tình yêu và sự che chở của em: “Anh đi lủi thủi
trên đường/ Đánh mất niềm tin/ Tìm về với lửa”.
Qua việc tìm hiểu các hình tượng: gió, mưa, ngọn lửa nhằm để biểu đạt
cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ, chúng ta nhận thấy không chỉ trong
từng bài riêng lẻ mà ở nhiều bài thơ, tác giả đều sử dụng cả ba hình ảnh: gió,
mưa, ngọn lửa: Em sang bên kia sông, Mắt của trời xanh, Bài ca trên bán
đảo, Bài hát ấy vẫn còn là dang dở, Buổi chiều ấy, Hoa vàng ở lại, Thôn Chu
Hưng, Chưa bao giờ, Chiều, Lời cuối, Em, Người báo hiệu, Sông Hồng - lời
từ giã của Trung đoàn Thủ đô, Với triệu con người, Trước biển và gió, Phút
em đến, Hoa cẩm chướng trong mưa, Những gương mặt, Những đám mây
ban sớm, Nơi ấy, Mùa thu ấy vẫn còn nguyên ở đó…
3.4.4. Hình tượng quả chuông
Trong văn chương từ xưa đến nay, hình tượng quả chuông đã xuất hiện
không ít. Có lẽ là do nó như một phần ghi dấu trong đời sống tinh thần của
con người. Tiếng chuông được con người cảm thụ và biểu đạt với nhiều nét
nghĩa khác nhau.
Trước hết chuông gắn với sự hưng thịnh của tôn giáo trong đời sống xã
hội. Nơi có nhiều tháp chuông nhà thờ cao chót vót và tiếng chuông ngân nga
mỗi sớm, mỗi chiều là biểu hiện sự phồn vinh của cuộc sống. Ở Phương Đông
nói chung, Việt Nam nói riêng, chuông cũng mang nét nghĩa biểu trưng này.
Từ xa xưa trong thơ ca dân gian âm thanh tiếng chuông đã gợi lên cuộc sống
yên bình của dân ta: “Gió đưa cành trúc la đà/ Tiếng chuông Trấn Võ canh

110
gà Thọ Xương”. Chuông gắn với niềm vui, sự tốt lành hoặc có thể đẩy lùi
những ảnh hưởng xấu.
Trong thơ ca dân gian Việt Nam, hình ảnh quả chuông được nhắc đến
khá nhiều: “Người thanh nói tiếng cũng thanh/ Chuông kêu khẽ đánh bên
thành cũng kêu”, “Vác chuông đi đánh đất người/ Không kêu cũng gõ ba hồi
cho kêu”, hay “Em đây như cái chuông vàng/ Treo trong thành nội có ngàn
quân canh”. Tiếng chuông như điểm nhịp thời gian và biểu hiện của sự yên
vắng của không gian tĩnh mịch lúc chiều muộn hay khuya vắng... Những nét
nghĩa kể trên đều có điểm chung ở chỗ hình ảnh chuông gắn với sự cảm thụ
âm thanh và tiếng chuông gắn với nơi phát đi âm thanh nhất định (chùa, nhà
thờ), đồng thời chuông còn là tín hiệu giao tiếp giữa cõi trời đất với cõi tâm linh.
Còn hình ảnh quả chuông trong thơ Lưu Quang Vũ thì có ý nghĩa gì?
Trong số những bài thơ được khảo sát thì hình ảnh quả chuông trong thơ
Lưu Quang Vũ xuất hiện trong 22/ 155 bài, chiếm 14% và có đến 24 lượt câu
thơ nhắc đến từ chuông. Nhưng vấn đề là ta không tìm thấy những nét nghĩa
chung về nó như đã nói trên mà qua tìm hiểu về hình tượng quả chuông trong
thơ Lưu Quang Vũ ta lại thấy những nét nghĩa khác: chuông ở đây không chỉ
là âm thanh (hồi chuông, tiếng chuông) mà nó còn là hình ảnh (quả chuông)
với những biểu hiện mới mẻ, gợi cảm.
Trước hết quả chuông biểu hiện trong trạng thái vận động tỏa sáng rất
mạnh mẽ: chuông đánh, ngân vang, sáng lòe, run rẩy, ngả nghiêng. Đó là tinh
thần của nhà thơ: lúc khao khát cuồng dại, lúc phập phồng, lúc khắc khoải lo
âu, lúc trong vắt bay bổng. Hình ảnh quả chuông đi ra từ trong mơ ước muốn
tỏa sáng: “Quả chuông nào đánh ở nơi đâu/ Những mặt người như những
quả chuông sáng lòe chớp giật” (Giấc mộng đêm); hình ảnh quả chuông từ:
“Những nỗi khát khao cuồng dại còn nguyên/ Thành đám lửa loang dầu
trong đê / Tiếng hú cửa sông, tiếng cây buồm kéo mạnh/ Tiếng mưa gõ từng
nhà, tiếng còi vang lanh lảnh/ Muôn hồi chuông nghiêng ngả chào nhau” như

111
dự cảm về cuộc sống sắp tới “Cập bến đẹp của những ngày vui sướng”
(Những người bạn khuân vác); hình ảnh quả chuông là “khát vọng vô hình”
của con người Lưu Quang Vũ: “Con chim sẻ bay vù khung cửa vỡ/ Tiếng
chuông rung tiếng ngón tay ai gõ/ Hãy bình tĩnh, hãy bình tĩnh / Những
khuôn mặt những vòng xoáy những đám mây” (Mưa dữ dội trên đường phố
trên mái nhà); và cả hình ảnh quả chuông trong lời bài hát cũ “Quả chuông
rung ở cuối rừng sâu...” cũng đủ làm ngân lên nỗi lo âu trong lòng anh về
thời cuộc chiến tranh: “Bài hát ấy bây giờ ai hát lại/ Khói nghi ngút suốt mùa
hè bom dội/ Một chùm hoa bên suối báo vào thu” (Hoa vàng ở lại); hình ảnh
“những quả chuông thủy tinh ngân vang trong ánh sáng” như là một biểu
tượng dẫn dụ anh đến miền đất hứa: “Bàn chân dẫm lên vùng đất khác /
Những cánh đồng vụt mở bao la” (Một thành phố khác, một bến bờ khác).
Ngoài ra, quả chuông còn biểu hiện cho những trạng thái cảm xúc của
nhà thơ. Bên cạnh một quả chuông lớn biểu tượng cho văn hóa tôn giáo của
cộng đồng người Việt: “Không biết chữ, người làm ra tục ngữ/ Những thuyền
to, chuông lớn, những vườn cây” (Người cùng tôi) thì quả chuông còn là một
“tiểu vũ trụ” nhỏ bé như cuộc đời anh để góp âm thanh vào “hồi chuông vô tận”:
Sau cửa gương là đôi mắt yêu thương
Ôi vai em mềm ấm biết bao nhiêu
Em ngoảnh lại nhìn buổi chiều lộng gió
Tim anh đập như quả chuông bé nhỏ
Dưới hồi chuông vô tận của trời xanh
(Chiều chuyển gió)
Hồi chuông ngân vang trong “lồng ngực” của anh như nói hộ cho anh
những tình cảm yêu thương muốn gửi gắm. Trong niềm vui của tất cả mọi
người thì giờ đây anh đã có được “đôi mắt yêu thương” và đôi vai “mềm ấm”
của em. Niềm vui ấy được biểu hiện bằng những nhịp đập của con tim. Nhịp
đập trái tim anh như những quả chuông bé nhỏ hòa với hồi chuông vô tận của

112
trời xanh. Cũng gần với ý nghĩa đó, quả chuông trong thơ Lưu Quang Vũ còn
biểu trưng cho sự dâng hiến của tình yêu đôi lứa: “Những quả chuông ghép
từ ánh sáng/ Dành cho em vang và bóng của mùa hè”. Còn khi tình yêu gặp
nhiều éo le, trắc trở thì nó lại diễn tả tâm trạng: “Tình yêu tôi như một tiếng
chuông dài”. Tiếng chuông lúc này chính là tiếng lòng của con người. Âm
vang dài ngắn, trầm bổng, đục trong của tiếng chuông là những cảm xúc vui
buồn, sướng khổ lẫn lộn của con người.
Đến đây chúng ta có thể thấy việc sự dụng lặp lại nhiều lần của một số
môtip hình ảnh chủ đạo như: gió, mưa, ngọn lửa, quả chuông,... là phần nào
thể hiện những cung bậc tâm trạng của nhà thơ. Với những ngổn ngang,
những suy tư trăn trở trước các vấn đề trong cuộc sống, tác giả đã lựa chọn
cho mình một cách thể hiện rất riêng, rất ấn tượng. Qua đó giúp chúng ta có
được một cách tiếp cận khi tìm hiểu thơ Lưu Quang Vũ. Nó được xem như là
những tín hiệu nghệ thuật, là chìa khóa gợi mở để chúng ta khám phá thế giới
tâm hồn nhà thơ.

113
KẾT LUẬN

1. Mặc dù Lưu Quang Vũ đã giành nhiều tình cảm cho thơ nhưng có thể
nói từ trước đến nay nhiều người biết đến anh vẫn là trong tư cách một kịch
gia. Nhìn về thơ, Lưu Quang Vũ đã có những đóng góp quan trọng trong hành
trình phát triển và hoàn thiện thơ ca hiện đại Việt Nam, đặc biệt là nền thơ trẻ
chống Mĩ. Nhưng trong dàn đồng ca chung đó, Lưu Quang Vũ đã có được
một tiếng nói riêng, một phong cách riêng. Đó là một Lưu Quang Vũ rất trữ
tình, rất nội tâm, rất cá tính và giàu cảm xúc.
Chọn đề tài Cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ, chúng tôi muốn
góp một tiếng nói, một cách nhìn nhận, đánh giá thơ Lưu Quang Vũ để từ đó
có cái nhìn đầy đặn hơn, hoàn thiện hơn về những đóng góp của anh.
2. Để làm nổi bật cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ, luận văn đã đi
vào tìm hiểu một cách khái quát nhất những lí thuyết về “cái tôi” và “cái tôi
trữ tình” trong thơ. Đồng thời luận văn cũng đã tìm hiểu những đóng góp của
Lưu Quang Vũ trên cả lĩnh vực thơ, kịch, truyện ngắn để thấy được vị trí của
thơ trong sự nghiệp sáng tác của anh.
Lưu Quang Vũ làm thơ từ rất sớm. Anh được bạn đọc biết đến ngay từ
những bài thơ đầu tay và được đánh giá là cây bút có nhiều triển vọng. Trước
khi đến với kịch để mang lại những thành công rực rỡ cho mình, Lưu Quang
Vũ cũng đã có được một số truyện ngắn và được độc giả đón nhận. Truyện
ngắn của anh được xem như là một cái cầu nối giữa thơ và kịch.
Nhưng đứng ở một góc độ nào đó, ta có thể thấy rằng: thơ là tất cả nỗi
đam mê của Lưu Quang Vũ. Dường như lúc nào muốn chia sẻ lòng mình là
anh đều nghĩ đến thơ. Với thơ, Lưu Quang Vũ không chỉ đã trút được bầu tâm
sự mà nó còn là những đúc kết trải nghiệm của anh về con người, về cuộc đời
và về thơ ca nghệ thuật.

114
3. Từ những nguồn cảm hứng tiêu biểu của Lưu Quang Vũ trong những
mảng đề tài về tình yêu, chiến tranh hay về hiện thực đời sống, chúng ta đều
tìm thấy một cách thể hiện cái tôi rất riêng, rất cá tính. Điều đó cũng bởi Lưu
Quang Vũ luôn ý thức thơ trước hết là viết cho mình. Anh đã mạnh dạn giãi
bày và trải hết lòng mình trên những trang viết.
Những vần thơ nhẹ nhàng ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên cũng như con
người đất Việt cho ta thấy được tình yêu vô bờ bến của người con luôn hướng
quê hương đất nước. Bên cạnh những cảm xúc về quê hương đất nước là cảm
xúc về những người thân (mẹ, vợ, con,...) và cảm xúc về số phận của trẻ em.
Tất cả đều được anh thể hiện trong một cái tôi tha thiết yêu thương đắm đuối.
Đặc biệt, Lưu Quang Vũ đã giành nhiều trang thơ viết về tình yêu. Tình
yêu với nhiều cung bậc, nhiều trạng thái cảm xúc của nó. Chúng ta tìm thấy
được một cái tôi da diết và đầy biến động trong tình yêu từ những cảm xúc
trong trẻo tuổi học trò, từ tình yêu đầu đời và hạnh phúc ngắn ngủi, ngay cả
tình yêu “những năm tháng đau xót và hi vọng” cho đến khi anh nhận ra tình
yêu là lẽ sống “anh yêu em và anh tồn tại”.
Tìm hiểu trong thơ Lưu Quang Vũ những cảm xúc thơ mộng, lạc quan
tin tưởng thời kì đầu mới bước vào cuộc chiến tranh, chúng ta có được những
dòng thơ trẻ trung, trong sáng. Sau này khi nhận thức về những bi kịch và tổn
thất do nó gây ra, Lưu Quang Vũ lại có những vần thơ đau đớn xé lòng và cả
những lời chất vấn bỏng rát về chiến tranh.
Bên cạnh đó, hiện thực cuộc sống với sự nghèo đói và thiên tai, lũ lụt
cũng là một mối quan tâm, trăn trở của chàng thi sĩ này. Dường như tất cả
đều làm anh xúc động, suy tư. Đó là một cái tôi hướng nội, tinh tế, nhạy cảm,
giàu suy tư triết luận. Và do những trải nghiệm của cuộc đời mình về cuộc
sống nên ta có thể tìm thấy trong thơ anh ít nhiều những dự cảm về tương lai.
Dù trong hoàn cảnh khó khăn như thế nào và thực tại có bế tắc ra sao thì Lưu

115
Quang Vũ vẫn tràn đầy niềm tin, niềm lạc quan ở ngày mai. Đó là một điều
đáng quý. Nó lại còn đáng quý hơn ở con người mà cuộc đời gặp không ít
những đau thương, mất mát.
4 . Với một cái tôi trữ tình đắm đuối, với những mảng hiện thực nhiều
màu sắc khác nhau, Lưu Quang Vũ cũng đã lựa chọn cho mình những phương
thức thể hiện độc đáo. Giọng thơ bao trùm là giọng nồng nàn mê đắm mặc dù
có không ít lúc ta vẫn thấy một giọng điệu cay đắng, xót xa. Ngôn ngữ giàu
sắc thái biểu cảm, giàu tính tạo hình. Nhìn chung, chúng ta tìm thấy ở anh
một lối thơ giản dị, ngôn ngữ chân thành mà dường như chối bỏ mọi sự sắp
đặt gọt dũa. Nói về thể thơ, ta có thể nhận thấy bên cạnh thể thơ 5 tiếng, thể
thơ 7, 8 tiếng thì thể thơ mà Lưu Quang Vũ sử dụng nhiều nhất vẫn là thể thơ
tự do. Nó đã giúp anh phần nào “tự do” bày tỏ nỗi lòng mình. Đặc biệt, Lưu
Quang Vũ đã tìm cho mình được những biểu tượng mang sức ám ảnh lớn,
thậm chí đã trở thành những biểu tượng rất có sức lay động trong thơ anh,
như mưa, gió, lửa, quả chuông... Những biểu tượng này góp phần quan trọng
trong việc giúp nhà thơ thể hiện nội dung cảm xúc và thể hiện cái tôi trữ tình
rất riêng của mình.
5. Tìm hiểu về cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Quang Vũ qua những nguồn
cảm hứng tiêu biểu và qua những hình thức nghệ thuật mà anh đã sử dụng,
luận văn đã góp phần khẳng định Lưu Quang Vũ là một cá tính thơ mạnh mẽ,
một phong cách thơ sắc nét trong thơ ca kháng chiến chống Mỹ cũng như thơ
ca Việt Nam hiện đại.
Những đóng góp của Lưu Quang Vũ đối với nền thơ ca Việt Nam hiện
đại là rất đáng ghi nhận. Chính những vần thơ nhiều tâm trạng, suy tư trăn trở
của Lưu Quang Vũ đã cho thấy một tiếng nói mới mẻ, một hương vị độc đáo
không dễ nhầm lẫn trong dòng thơ cùng thời.

116
Với vị trí và vai trò đó, Lưu Quang Vũ xứng đáng trở thành đối tượng
nghiên cứu của nhiều đề tài khoa học. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng
tôi hi vọng gợi mở một hướng tiếp cận, đưa ra một cái nhìn toàn diện, có hệ
thống đối với sự nghiệp sáng tác của nhà thơ.
Chúng tôi thật sự biết ơn các nhà lí luận, nghiên cứu phê bình văn học,
các bạn đọc yêu mến thơ Lưu Quang Vũ đã có những nhận xét, đánh giá quý
báu làm cơ sở nền tảng cho việc tìm hiểu đề tài của chúng tôi.
Luận văn chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót, song với tấm lòng yêu mến
thơ Lưu Quang Vũ, mong muốn được tìm hiểu rõ hơn về cái tôi trữ tình trong
thơ anh, chúng tôi hi vọng sẽ góp phần nhỏ vào việc đánh giá, khẳng định một
cá tính thơ vừa đằm thắm trữ tình, vừa mạnh mẽ độc đáo; một phong cánh thơ
giàu truyền thống dân tộc và đậm đà màu sắc hiện đại.

117
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945 - 1995, Nxb Khoa
học Xã hội.
2. Vũ Tuấn Anh (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
3. Aristote (1992), Nghệ thuật thi ca, Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
5. Nguyễn Nhã Bản, Các bài giảng về ngôn ngữ thơ.
6. Nguyễn Phan Cảnh (2001), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
7. Mai Ngọc Chừ (2005), Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội
8. Hữu Đạt (1998), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
9. Nguyễn Đăng Điệp (1994), “Giọng điệu thơ trữ tình”, Văn học, (1).
10. Hà Minh Đức (1979), Nghĩ về sức sáng tạo của một nền thơ, Văn học.
11. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt, Từ loại, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
12. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề thơ Việt nam hiện đại, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
13. Phan Huy Dũng (2003), Kết cấu trong thơ trữ tình, Luận án tiến sĩ
Ngữ Văn.
14. Vũ Hà, Ngô Thảo (1988), Lưu Quang Vũ một tài năng một đời người,
Nxb Thông tin, Hà Nội.
15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên, 1992), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Nguyễn Trọng Hoàn (2002), Nhà văn trong mắt nhà văn, Nxb Giáo
dục.
17. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
18. Jakobson (Trịnh Bá Đĩnh dịch, 1996), “Thơ là gì”, Ngôn ngữ, (12).
19. M.B - Khrapchenkô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát

118
triển văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
20. Đinh Trọng Lạc (1996), 99 biện pháp tu từ Tiếng Việt, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
21. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (1998) Phong cách học tiếng Việt,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Nguyễn Lai (1991), Ngôn ngữ và sáng tạo văn học, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
23. Mã Giang Lân (2003), “Nhận xét ngôn ngữ thơ Việt Nam hiện đại”,
Văn học, (3).
24. Mã Giang Lân (2004), Thơ hình thành và tiếp nhận, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
25. Phong Lê (1998), “Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ - Tình yêu và số
phận”, Văn học, (8).
26. Nguyễn Thế Lịch (2005), “Yếu tố chuẩn trong cấu trúc so sánh”, Ngôn
ngữ, (8).
27. Đỗ Thị Kim Liên (2001), “Khảo sát câu “bất qui tắc” trong văn bản
thơ”, Những vấn đề lí thuyết lịch sử văn học và ngôn ngữ, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
28. Đỗ Thị Kim Liên (2005), Giáo trình Ngữ dụng học, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
29. Phương Lựu (2004), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội
30. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
31. Trần Nhuận Minh (2001), “Ngôn ngữ thơ hiểu thế nào cho phải”, Ngôn
ngữ, (6).
32. Nguyễn Xuân Nam (1985), Thơ - Tìm hiểu và thưởng thức, Nxb Tác
phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam.
33. Phan Ngọc (1991) “Thơ là gì?”, Văn học, (1).
34. Phan Ngọc (2002), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb
Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
35. Triều Nguyên (2006), Bình giải thơ từ góc độ cấu trúc ngôn ngữ, Nxb
Giáo dục.
36. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (2006), Thơ ca Việt Nam hình thức và

119
thể loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
37. Phan Đăng Nhật (1998), “Từ ngôn ngữ thông thường đến ngôn ngữ thơ
ca”, Văn học, (12).
38. Nhiều tác giả (1954), Thơ ca chống Mỹ cứu nước, Nxb Giáo dục.
39. Nhiều tác giả (1979), Văn học Việt Nam thời kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, Nxb Khoa học Xã hội.
40. Nhiều tác giả (1994), Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh gửi lại, Nxb Văn
học, Hà Nội.
41. Nhiều tác giả (1994), Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ tình yêu và sự
nghiệp, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
42. Nhiều tác giả (1999), Xuân Quỳnh Thơ và đời, Nxb Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
43. Nhiều tác giả (2001), Lưu Quang Vũ Tài năng và lao động nghệ thuật,
Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

44. Lê Lưu Oanh (1992), Thơ trữ tình Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
45. Hồ Thị Quỳnh Phương (2006) Từ chỉ màu sắc trong“Kho tàng ca dao
người Việt”, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
46. Trần Đình Sử (1995), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
47. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
48. Trần Đình Sử (1998), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
49. Nguyễn Thị Minh Thái (1996), Đối thoại mới với văn chương, Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội.
50. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
51. Lưu Khánh Thơ (1997), Lưu Quang Vũ thơ và đời, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Hà Nội.
52. Lưu Khánh Thơ (1998), “Lưu Quang Vũ những vần thơ gửi mẹ”, Văn
học tuổi trẻ, (1).
53. Lưu Khánh Thơ (2007), Đối thoại tình yêu Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ,
Nxb Hội Nhà văn.

120
54. Đỗ Lai Thúy (1994), Con mắt thơ, Nxb Lao động, Hà Nội.
55. Nguyễn Vũ Tiềm (2006), Đi tìm mật mã của thơ, Nxb Hội Nhà văn.
56. Lưu Quang Vũ (1989), Mây trắng của đời tôi, Nxb Tác phẩm mới, Hà
Nội.
57. Lưu Quang Vũ (1993), Bầy ong trong đêm sâu, Nxb Tác phẩm mới,
Hà Nội.
58. Lưu Quang Vũ, Bằng Việt (1968), Hương cây - Bếp lửa, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.

121

You might also like