Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 182

0

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO


TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

VŨ THỊ LUYẾN

THI PHÁP
THƠ NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Nghệ An, 2015

0
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

VŨ THỊ LUYẾN

THI PHÁP
THƠ NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG

Chuyên ngành: Lý luận văn học


Mã số: 60. 22. 01. 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:


TS. LÊ THỊ HỒ QUANG

Nghệ An, 2015


1

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn tới quý thầy cô trong khoa Ngữ
Văn, trường Đại học Vinh đã tận tình dìu dắt, truyền dạy kiến thức cho tôi
trong suốt thời gian học tập tại trường, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập cũng như nghiên cứu luận văn này. Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ
lòng kính trọng và tri ân sâu sắc nhất tới Tiến sĩ Lê Thị Hồ Quang, người đã
trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi giải quyết các vấn đề trong đề tài, định
hướng, gợi mở, truyền đạt cho tôi những kiến thức vô cùng quý báu và tận
tình chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, người thân, bạn
bè đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi, quan tâm, động viên, khích lệ tôi trong
suốt quá trình làm luận văn.
Với trình độ và kiến văn còn hạn chế, luận văn này không thể tránh
khỏi những thiếu sót, chúng tôi hy vọng sẽ nhận được những ý kiến đóng góp,
nhận xét từ phía quý thầy cô và bạn bè về những vấn đề thực hiện trong luận
văn này!
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Vinh, tháng 09/2015
Tác giả luận văn

Vũ Thị Luyến
NHÀ THƠ NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
QUY ƯỚC VIẾT TẮT

Nxb: Nhà xuất bản

TP: Thành phố

Tr: Trang

Cách chú thích tài liệu trích dẫn: số thứ tự tài liệu đứng trước, số
trang đứng sau. Ví dụ: [40; 12] nghĩa là số thứ tự của tài liệu trong mục Tài
liệu tham khảo là 40, nhận định trích dẫn nằm ở trang 12 của tài liệu này.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu..............................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát...................................................4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.......................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu................................................................................5
6. Đóng góp của luận văn....................................................................................5
7. Cấu trúc luận văn............................................................................................5
Chương 1...............................................................................................................6
THƠ TRÊN HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO..........................................................6
CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG......................................................................6
1.1. Nguyễn Bình Phương – con người và văn nghiệp......................................6
1.1.1. Cuộc đời, con người...................................................................................6
Nói đến ấn tượng về Nguyễn Bình Phương, có thể gói gọn trong một chữ
“lặng”. Là một nhà văn được tôi luyện trong môi trường quân đội, ông chọn
cho mình lối sống trầm lặng, không ồn ào, ngại tiếp xúc và ít xuất hiện chốn
đông người... Trong cuộc trò chuyện với Hạnh Đỗ, phóng viên báo Tiền
Phong, ông chia sẻ: “Tôi vẫn gặp gỡ, uống rượu với bạn bè. Nhưng không
ham. Vài ba người tụ tập có thể là tinh túy, nhưng năm người trở nên là nhức
đầu” [10]. Ấn tượng rụt rè, khó tính, ngại giao tiếp mà nhiều người nhận thấy
ở Nguyễn Bình Phương cũng làm ta khó hình dung về tác giả này. Hạnh Đỗ
cũng chia sẻ cảm nhận của mình về ông: dáng vẻ nhỏ nhắn, thư sinh, mang vẻ
nghệ sĩ hơn nhà quản lý của tác giả khi trực tiếp gặp mặt đã xóa nhòa ấn
tượng về sự khó gần ấy. Nói về bản thân mình, nhà thơ tự nhận: “Là một công
chức đơn điệu, điển hình. Sớm vác ô đi, tối vác về” [10]. Nguyễn Bình
Phương cũng tự nhận “tạng” của mình “có lẽ hơi u uất một chút”. Thực tế,
theo như cảm nhận của Việt Quỳnh: “Gần anh, sẽ cảm giác một sự chan hòa,
ấm áp, giản dị, gần gũi từ ánh mắt đến nụ cười. Anh thường nói ít, nhưng câu
nào cũng ngấm vào lòng người nghe” [48]...........................................................6
Sách là một phần không thể thiếu được trong cuộc sống của ông. Ông ham
đọc sách, có thể dành cả đêm để đọc sách và nghiễn ngẫm về chúng. Ban
ngày chính là thời điểm sáng tác của ông. Nguyễn Bình Phương là một người
rất “thèm” viết, cẩn thận và tỉ mỉ trong sáng tác. Viết đối với Nguyễn Bình
Phương “giống như đi theo một lực hút bí ẩn không biết phía trước là gì. Tôi
kệ bản năng dẫn dắt. Để nó trôi dạt lênh đênh” [10]. Nhà thơ cũng chia sẻ:
“Viết ra được thì thích. Thấy người khỏe ra” [10].................................................7
Nguyễn Bình Phương là một người lính gắn bó thời thanh xuân của mình
trong quân đội, một nhà văn, nhà thơ đầy những trang viết trữ tình, chủ yếu
phản ánh cuộc sống bề bộn, đầy lo toan, bất an. Đây là tác giả có tâm và có
tầm, hứa hẹn nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam đương đại....................7
1.1.2. Văn nghiệp..................................................................................................7
Mỗi tác phẩm là một trải nghiệm và chắt lọc tinh tế từ trái tim đến lý trí, sự
thực. Dù là sáng tác thơ trữ tình hay văn xuôi thì tác giả cũng phải chuẩn bị
cho mình một góc riêng của cái tôi để tiếp nhận, thích nghi và “chiều lòng”
nó. Việc chuyển đổi luân phiên trong tâm hồn của một nhà văn sang tâm hồn
của một thi sĩ đôi khi không phải điều dễ dàng. Ít có nhà thơ nào chọn con
đường sáng tác bền bỉ và đầy khó nhọc như Nguyễn Bình Phương. Ông đã
dành rất nhiều thời gian và tâm huyết của mình để mang đến cho bạn đọc một
tác phẩm nghệ thuật trọn vẹn. Nỗ lực đó đã giúp Nguyễn Bình Phương gặt hái
được nhiều kết quả đáng ngưỡng mộ và thành công khi thể nghiệm trên cả hai
thể loại thơ và tiểu thuyết......................................................................................7
1.1.2.1. Về tiểu thuyết............................................................................................8
Nguyễn Bình Phương là một trong những gương mặt văn xuôi đương đại nổi
bật, một nhà văn có sức sáng tác dồi dào. Hầu hết các tác phẩm mới của ông
khi ra đời đều được đón nhận nồng nhiệt và tạo nên sức hút đặc biệt với bạn
đọc. Sức hấp dẫn từ những cuốn tiểu thuyết của ông không chỉ được tính bằng
số lượng độc giả mà còn được đông đảo giới nghiên cứu, phê bình, báo chí,
dư luận quan tâm tìm hiểu.....................................................................................8
Văn học Việt Nam đang vận động theo hướng “hòa nhập với tiến trình văn
học thế giới” như một tất yếu. Đây là lẽ tồn tại của văn học nói chung và
của tiểu thuyết nói riêng. Cuộc vận động đã thúc đẩy những nhà tiểu thuyết
của ta nỗ lực hơn nữa trong cuộc đổi mới đầy nhọc nhằn này, đem đến cho
tiểu thuyết những thể nghiệm đầy mới mẻ cả về nội dung lần hình thức thể
hiện. Những năm đầu thế kỷ XXI, cùng với Nguyễn Bình Phương, văn học
Việt Nam xuất hiện một số gương mặt mới với những thể nghiệm đáng ghi
nhận như: Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh, …
Trong đó có những lối viết hấp dẫn thực sự, có những giọng văn còn chưa
sâu, có những thể nghiệm còn chưa tới đích, song các nhà văn đều cháy hết
mình trên từng trang viết trong một nỗ lực chung, làm mới văn chương.
Nguyễn Bình Phương cũng không nằm ngoài đường đua ấy. Ông được
đánh giá là một cây bút trẻ có nhiều đóng góp cho công cuộc hiện đại hoá
tiểu thuyết..............................................................................................................8
Nguyễn Bình Phương không phải là cái tên mới mẻ đối với giới phê bình và
các nhà nghiên cứu nhưng đối với nhiều độc giả đây còn là một cái tên khá xa
lạ. Tuy nhiên, khi nhắc đến những tiểu thuyết của ông thì người đọc dễ dàng
nhận ra một lối viết lạ, đầy hấp dẫn. Ông được biết đến nhiều với hàng loạt
tiểu thuyết nổi bật như: Vào cõi (Nxb Thanh niên, 1991), Những đứa trẻ chết
già (Nxb Văn học, 1994), Người đi vắng (Nxb Văn học, 1999), Trí nhớ suy
tàn (Nxb Thanh niên, 2000), Bả giời (Nxb Quân đội nhân dân, 2004), Thoạt
kỳ thủy (Nxb Hội nhà văn, 2005), Ngồi (Nxb Đà Nẵng, 2006), Mình và họ
(Nxb Trẻ, 2014)….................................................................................................9
Từ Bả giời, Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn, Thoạt kỳ thủy đến Ngồi – là
sự hoàn tất một phong cách mới. Sự trưởng thành trong ngòi bút qua từng tác
phẩm gắn với thời gian lịch sử đất nước, Nguyễn Bình Phương đã mang đến
cho người đọc những cảm quan mới mẻ và phong phú. Nhà văn luôn có ý
thức tiếp thu cái mới và đã táo bạo đặt những dấu ấn đầu tiên trên hành trình
khai mở vùng đất mới với những cách tân độc đáo cả về mặt nội dung và
phương thức thể hiện. Đó là những đóng góp đáng ghi nhận của một nhà văn
luôn nỗ lực sáng tạo, làm mới tiểu thuyết Việt Nam.............................................9
1.1.2.2. Về thơ........................................................................................................9
Trước khi đến với con đường tiểu thuyết, Nguyễn Bình Phương đã gắn bó với
thơ. Với tác giả, thơ chính là bản ngã sáng tác chính, là nơi tác giả có thể
thoải mái thể hiện cái tôi của mình. Ông là một trong số những gương mặt nổi
bật trong khuynh hướng thơ cách tân thơ đương đại. Bằng tài năng và tư duy
nhạy bén của một nhà thơ hiện đại, Nguyễn Bình Phương không mất quá
nhiều công sức cho việc tìm đường, tìm kiếm thủ pháp nghệ thuật hay khuynh
hướng sáng tác. Nhà thơ chọn cho mình một lối đi riêng, một phong cách khó
trộn lẫn trong biết bao gương mặt thơ tiêu biểu hiện nay. Phong cách này đã
làm cho thơ của Nguyễn Bình Phương khó để hiểu và mọi cố gắng giải mã
thơ ông theo lối thông thường đều không thành công. Tuy vậy, người yêu thơ
Nguyễn Bình Phương vẫn nhận thấy trong đó những vần thơ thoáng buồn,
thoáng hụt hẫng, không giống như không khí ảo ảnh mơ mộng, chập chờn
trong từng trong tiểu thuyết của ông. Ta còn bắt gặp trong thơ ông một đời
sống khác, một thế giới khác, một ngôn ngữ thi ca, một miền thẩm mỹ khác
với đời sống thực tại nhiều bộn bề, cô đơn. Điều này đã làm nên nét đặc biệt
và sức hút đầy ma mị của thơ Nguyễn Bình Phương............................................9
Cho đến nay, nhà thơ đã cho ra đời các thi phẩm: Lam chướng (1992), Khách
của của trần gian (1996), Xa thân (1997), Từ chết sang trời biếc (2001), Buổi
câu hờ hững (2011), Gõ cửa xa xăm (2015). Ở mỗi tập thơ đều thể hiện những
ngã rẽ khác nhau của tâm hồn Nguyễn Bình Phương..........................................10
1.2. Hành trình thơ Nguyễn Bình Phương......................................................10
1.2.1. Đường thơ Nguyễn Bình Phương – nhìn từ tác phẩm...........................10
Cảm hứng thi ca trong thơ Nguyễn Bình Phương được chuyển đổi qua mỗi
tập thơ cũng chính là hành trình trở về miền đất của tâm linh, vô thức của cái
tôi trữ tình, hành trình tìm về với bản thể. Đó là một cuộc hành trình đầy gian
nan, vất vả, đơn độc và luôn bị ám ảnh bởi máu, cái chết và những dự cảm mơ
hồ, bất an..............................................................................................................10
1.2.2. Sự đổi mới thi pháp trong thơ Nguyễn Bình Phương.................................15
1.2.2.1. Khái niệm thi pháp và thi pháp học...........................................................15
Thi pháp, thi pháp học là những khái niệm không còn mới mẻ đối với giới nghiên
cứu văn học hiện nay. Bởi lẽ, thi pháp học là một ngành nghiên cứu có cội nguồn
xa xưa và có ảnh hưởng lớn trong ngành nghiên cứu văn học thế kỷ XX. Trên
thực tế, khái niệm thi pháp và thi pháp học đã được sử dụng khá phổ biến trong
các công trình nghiên cứu văn học.........................................................................15
Vậy thi pháp là gì?................................................................................................16
Thi pháp là khái niệm ra đời từ rất lâu trong lịch sử (khoảng 2.400 năm). Nó
có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “Poietike”, xuất hiện lần đầu tiên trong công
trình Poetica (Nghệ thuật thơ ca) của Aristote (384 – 322)................................16
Có nhiều cách hiểu khác nhau về thi pháp. Chung quy có hai cách:........................16
Thứ nhất: coi thi pháp là nguyên tắc, biện pháp chung tạo ra tác phẩm nghệ thuật.
Thứ hai: hiểu thi pháp là nguyên tắc, biện pháp sáng tạo cụ thể tạo thành đặc sắc
nghệ thuật của một tác giả, tác, tác phẩm, trào lưu, thể loại, v.v… Lĩnh vực nghiên
cứu về thi pháp gọi là Thi pháp học.......................................................................16
1.2.2.2. Nhìn chung về sự đổi mới thi pháp trong thơ Nguyễn Bình Phương............17
Từ khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới những năm 1986, thơ Việt Nam đã có
những bước phát triển đáng kể. Thơ giai đoạn này vận động theo nhiều khuynh
hướng khác nhau nhưng trên cơ sở là sự cách tân về nội dung thể tài và cách tân
hình thức thể loại. Sự cách tân thơ giai đoạn này như được đón nhận một luồng
gió mới, thơ có một không gian rộng mở hơn để mặc sức phô bày vẻ lộng lẫy của
nó. Hòa mình vào cuộc vận động chung đó, không ít nhà thơ đã tìm ra cho mình
một hướng đi riêng bằng việc đổi mới thi pháp sáng tác. Điều này đã thúc đẩy thơ
cách tân Việt Nam ngày càng đến gần hơn với thơ cách tân trên thế giới, trở thành
một mạch nguồn chuyển động không ngừng nghỉ trong nền văn học Việt Nam
đương đại..............................................................................................................17
Cùng với các tác giả Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Quang Thiều, Dương Kiều
Minh, Mai Văn Phấn…, Nguyễn Bình Phương đã trở thành một trong những tay
bút xuất sắc của thế hệ nhà thơ Đổi mới, mang khát vọng cách tân mạnh mẽ thơ
Việt và trở thành một tác giả có sự đổi mới thi pháp sáng tác rất rõ ràng, tiến bộ.
Sự đổi mới thi pháp trong thơ Nguyễn Bình Phương tập trung thể hiện trên các
phương diện: hình tượng cái tôi trữ tình, hình tượng thế giới nghệ thuật, hình
tượng con người, ngôn ngữ, kết cấu, giọng điệu, hình ảnh, biểu tượng và bút
pháp tạo hình.......................................................................................................17
Nếu thơ Mai Văn Phấn cách tân nương theo mọi nẻo đường, thơ Dương Kiều
Minh hướng về phương Đông nguồn cội để tạo nền cho những cuộc vong
thân sáng tạo, thơ Nguyễn Quang Thiều là độc đạo, thẳng tắp và mạo hiểm thì
thơ Nguyễn Bình Phương lại đưa người đọc lạc vào một thế giới đầy ma mị,
ám ảnh với những biểu tượng đa tuyến, phức điệu của vô thức, tiềm thức, tâm
linh.......................................................................................................................17
Ta có thể mượn lời của nhà thơ Dương Kiều Minh để nói thay những nhận xét
về sự đổi mới trong thi pháp thơ Nguyễn Bình Phương: “Đối với cuộc kiếm
tìm thì không bao giờ cũ, kể cả sự kiếm tìm cái cũ, thì cuộc kiếm tìm vẫn
mới. Cuộc cách tân tìm tòi thơ ca luôn tựa “luồng gió lao rừng rực” tới về
những miền bí ẩn của đời sống, của cuộc đời và của thiên nhiên trải ra vô tận
trước sự chiêm ngưỡng, chiêm nghiệm của con người” [28]..............................18
Với những đóng góp lớn cho nền thơ ca đương đại, Nguyễn Bình Phương
xứng đáng là một trong những gương mặt cách tân thơ ca xuất sắc thời kỳ đổi
mới.......................................................................................................................18
1.3. Cơ sở hình thành thi pháp thơ Nguyễn Bình Phương.............................20
1.3.1. Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam thời hậu chiến và Đổi mới.....................20
Văn học không thể đứng ngoài lịch sử và chính trị mà nó là tấm gương
phản chiếu hiện thực. Sự phát triển của văn học vừa có quan hệ mật thiết
vừa có tính độc lập tương đối với lịch sử, xã hội. Từng giai đoạn phát triển
của nền văn học đều được đánh dấu bằng những mốc son quan trọng trong
lịch sử nước nhà. Không ai có thể phủ nhận tầm ảnh hưởng sâu rộng của
lịch sử, chính trị đến tư duy văn học. Có thể nói, lịch sử xã hội chính là
mảnh đất khơi nguồn cảm hứng vô tận cho nhiều nghệ sĩ tự do thể hiện hồn
thơ của mình.......................................................................................................20
1.3.2. Sự đổi mới trong thơ Việt Nam sau 1986.................................................21
1.3.3. Tài năng và sự đổi mới trong tư duy sáng tạo của tác giả......................23
1.3.4. Quan niệm nghệ thuật của tác giả...........................................................25
Trong sáng tạo nghệ thuật, thông qua những đứa con tinh thần, mỗi tác giả tự
hình thành cho riêng mình một hướng đi đúng đắn, một thế giới nghệ thuật
mang tính quan niệm của chính mình. “Quan niệm nghệ thuật là nguyên tắc
cắt nghĩa thế giới và con người vốn có của hình thức nghệ thuật, đảm bảo cho
nó có khả năng thể hiện đời sống với một chiều sâu nào đó” [14; 273]. Quan
niệm nghệ thuật giống như một ngọn đuốc đi đầu, dẫn đường cho sác tác nghệ
thuật của các tác giả đi đúng quỹ đạo..................................................................25
Nguyễn Bình Phương là một nhà văn, nhà thơ có trách nhiệm cao trong nghề
nghiệp của mình. Giống như những nhà văn, nhà thơ khác, ông cũng xây
dựng cho mình một quan niệm nghệ thuật riêng, độc đáo...................................25
Trong quan niệm về bản năng và ý thức người cầm bút, Nguyễn Bình Phương
quan niệm: “Nhà văn là kẻ viết không giống ai và sống như mọi người”.
Người cầm bút phải là kẻ sống gần gũi với mọi người, sống bình thường
nhưng những trang văn, trang thơ của họ phải tạo nên được nét khác biệt, phải
có “tạng” riêng. Ông đòi hỏi cao tính sáng tạo của người nghệ sĩ: “Không có
sự sáng tạo, nhà văn sẽ tự tiêu diệt mình”. Trò chuyện với phóng viên báo
Văn nghệ trẻ, nhà thơ bộc bạch:“Tôi sợ bị bó buộc trong một khung cố định
nào đó. Văn chương bản thân nó là chân trời tự do, thì ta cứ nương theo thế,
đừng bó buộc nó” và “Tôi chỉ có một quan niệm bảo thủ là cố gắng viết gần
sát với quan niệm của mình về văn chương vậy thôi” [60]. Trong quan niệm
sáng tác, Nguyễn Bình Phương cũng thành thật: “không thích sự giả dối, lên
gân, nhưng cái đa dạng trong văn chương là cần thiết” [61]...............................25
Trên chặng đường kiếm tìm thơ ca của mình, Nguyễn Bình Phương luôn tự ý
thức mình về sứ mệnh của nghiệp bút mực, luôn luôn có những trăn trở và tự
vấn về nghề:.........................................................................................................26
Đứng dậy, sũng ướt, đi rồi tự hỏi........................................................................26
Viết là tìm thấy hay đánh mất?............................................................................26
(Chân dung khi trống trải)...................................................................................26
Với Nguyễn Bình Phương, mọi nhà thơ đều đơn độc trên chính con thuyền thi
ca của mình. Sự kiếm tìm nguồn sống trong thơ ông giống như phải vượt qua
một con thác lớn, phải vật lộn, nhọc nhằn và trải qua đủ mọi cảm giác trống
trải, cô đơn nhất, đôi khi tưởng chừng như “đuối sức”. Nhưng thi hứng ấy lại
trào lên như những con sóng mạnh mẽ, không thể khuất phục. Ở Nguyễn Bình
Phương, viết phải chăng là mất đi, một trò chơi của ngôn ngữ được giăng ra
để “câu” sự suy tưởng của chúng ta?...................................................................26
Quan niệm về mối quan hệ giữa sống và viết của Nguyễn Bình Phương không
tách rời. Ông quan niệm nhà văn phải lăn xả vào cuộc đời, phải “làm người”
trước khi cầm bút. Với tư cách một nhà thơ cũng vậy. Ông cũng có quan niệm
mang đậm cá tính riêng:......................................................................................26
Sống là viết vào đời câu cách ngôn bí ẩn............................................................26
Có ai đó đã nói rằng: viết là sự phản ứng của một kiểu người (nhà văn, nhà
thơ) chống lại sự dụ dỗ, sự giăng bẫy hay tha hóa của cuộc đời. Và Nguyễn
Bình Phương đã “phản ứng” và chống lại sự “giăng bẫy” của cuộc đời bằng
chính sự sáng tạo.................................................................................................26
Trong quan niệm về hiện thực, nhà thơ “từ chối một hiện thực “tả thực”, một
hiện thực chụp ảnh để đến với những chân trời mới, một hiện thực của tâm
linh, của trí nhớ và trí tưởng tượng đầy sáng tạo và bất ngờ” [15]. Ông hướng
ngòi bút của mình vào những mảnh vỡ hiện thực. Đó là một hiện thực bị lắp
ghép, phân mảnh, chắp nối với những sự kiện chồng lấp, khó lý giải. Nếu như
nhà thơ Mai Văn Phấn cố công sắp xếp lại hiện thực với một thế giới viên
mãn, thuần khiết, tương giao, hài hòa thì Nguyễn Bình Phương lại không có ý
sắp xếp và hàn gắn lại thế giới đó bởi ông cho sự tồn tại của chúng là tất yếu.
Hiện thực trong thơ của Nguyễn Bình Phương là hiện thực đa chiều, hư ảo.
Các yếu tố ma quái, kỳ lạ chảy tràn trên từng trang thơ của ông, ảo và thực
hòa quyện với nhau trong một thực thể thống nhất.............................................26
Bằng những quan niệm nghệ thuật rất riêng, Nguyễn Bình Phương đã mạnh
dạn chấp nhận đi con đường sáng tạo đầy chông gai, thử thách. Nhà thơ đã tự
khẳng định mình bằng những thành công nghệ thuật đáng trân trọng................27
Tiểu kết chương 1..............................................................................................27
Nguyễn Bình Phương là một nhà thơ đầy tài năng và trách nhiệm cao trong
công việc.Với tư duy nghệ thuật nhạy bén cùng sự sáng tạo dồi dào, ông đã
làm nên một cuộc cách tân thơ ca mạnh mẽ, bắt đầu là những đổi mới về thi
pháp thơ. Sự đổi mới này có nguồn gốc sâu xa từ sự thay đổi về bối cảnh lịch
sử xã hội thời hậu chiến và đổi mới với rất nhiều xô bồ, rối ren, bất trắc. Theo
đó, trong thơ ca Việt Nam đã có những bước chuyển mình đầy kinh ngạc. Qua
các chặng đường thơ của Nguyễn Bình Phương, chúng ta dễ dàng nhận ra
quan niệm nghệ thuật của tác giả về cuộc đời, về con người, về sống và viết,
về bản năng và ý thức người cầm bút (hay trách nhiệm, lương tâm người cầm
bút). Hơn hết, đằng sau những vần thơ đầy ám ảnh, day dứt về cuộc đời, về
thế giới tâm linh vô thức bên kia ấy là một hình dung đầy cần mẫn, trầm tư,
một trái tim tha thiết xoay tròn với từng con chữ................................................27
Chương 2.............................................................................................................28
HỆ THỐNG HÌNH TƯỢNG............................................................................28
TRONG THƠ NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG....................................................28
2.1. Hình tượng cái tôi trong thơ Nguyễn Bình Phương................................28
Cái tôi là biểu hiện của ý thức cá nhân về con người, cuộc đời, về bản thân
mình. Đó còn là sự tự nhận thức của cá nhân về phẩm chất, nhân cách, tài
năng cũng như giá trị của mình trong xã hội. Trong thi giới của bất kỳ nhà thơ
nào, chúng ta đều thấy xuất hiện chân dung tinh thần của chính nhà thơ ấy
hay nói cách khác, mỗi nhà thơ đều dựng lên trong thơ của mình một hình
tượng cái tôi riêng biệt, không lặp lại. Nói như Biêlinxki: “Thơ ca chủ yếu là
thơ ca chủ quan, nội tại, là sự thể hiện của chính bản thân nhà thơ”. Thơ
Nguyễn Bình Phương cũng không ngoại lệ.........................................................28
Qua thực tế khảo sát văn bản thơ, chúng tôi nhận thấy hình tượng cái tôi trong
thơ Nguyễn Bình Phương có những đặc điểm nổi bật sau:.................................28
Cái tôi có mỹ cảm khác thường...........................................................................28
Cái tôi luôn trăn trở, suy tư về bản thể................................................................28
Cái tôi chìm đắm trong trực giác, tiềm thức, tâm linh.........................................28
2.1.1. Cái tôi có mỹ cảm khác thường................................................................28
Thơ truyền thống là mảnh đất của những vẻ đẹp thanh cao, diễm lệ - những
vẻ đẹp của tự nhiên, của tạo vật mà ta có thể hình dung trong một thực thể
sống động, dễ nắm bắt, dễ hình dung. Thơ thời chiến khai thác tối đa vẻ
đẹp “toàn bích”, anh dũng của con người được ẩn tàng trong bom đạn chiến
tranh. Vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước trong thơ, nếu có, chỉ là những lát
cắt thuần thục, nhất quán, dễ hiểu, bị đóng khung trong những liên tưởng
khô cứng. Cùng với hơi hướng của thơ cách tân, sự thay đổi trong tư duy
sáng tạo nghệ thuật cũng làm biến màu những mỹ cảm xưa cũ trở nên giàu
ý nghĩa, tăng sự phiêu lưu của trí tưởng tượng, cái đẹp mang mỹ cảm mới
mẻ, độc đáo.........................................................................................................28
Ta hãy xem mùa thu hiện diện qua con mắt Nguyễn Bình Phương trong bộ
“xống áo” mỹ cảm mới:.......................................................................................29
Mang xống áo mùa thu........................................................................................29
Làm mùa thu........................................................................................................29
Nhớ giấc ngủ ngàn thu trong đài sen úa.............................................................29
Nhớ giấc ngủ mềm mại như bóng râm................................................................29
Chảy vào căn nhà đổ…........................................................................................29
(Bài mùa thu đầu tiên).........................................................................................29
Ở đây, thi nhân “cảm” mùa thu bằng xúc giác tinh nhẹ, một cảm giác da thịt
nhẹ nhàng, mơn trớn. Chiếc áo mùa thu khoác lơi lả, gợi cảm giác bồng bềnh,
thanh nhẹ như đang chìm đắm trong những mê man bất tận của giấc ngủ ngàn
thu. Đó còn là một mùa thu được cảm nhận bằng dư vị mềm mại, nữ tính.
Mùa thu đẹp, thuần khiết như một chất lỏng trong suốt chảy tràn vào từng
ngóc ngách của cảnh vật “chảy vào căn nhà đổ”. Bài thơ này dường như
không phải để đọc, nó để tan vào trong tâm hồn, sống dậy như những lời rủ rê
tình tứ:..................................................................................................................29
Mùa thu len lén ra khỏi cây.................................................................................29
Đi nào, đi với anh xuống đáy hồ xa thẳm............................................................29
(Bài thơ mùa thu đầu tiên)...................................................................................29
Du hành vào vũ trụ thơ của Nguyễn Bình Phương, chúng ta sẽ bắt gặp những
hình ảnh, sự vật lạ lùng, đầy mê dụ. Nó khiến ta cứ mải miết mà chìm sâu
trong đó khó thể dứt ra được. Với cách lý giải khác về hiện thực cùng nhãn
quan kiến tạo độc đáo, nhà thơ đã nhìn thi giới bằng một mỹ cảm mới lạ, đầy
mị hoặc: Qua con mắt khép hờ/ Mặt trăng đi thẳng vào giấc ngủ/ Cuối đường
gặp một ban mai bàng bạc/…Người đeo kính hết mọi nhớ mong/ Những quên
lãng lại hồi về trí nhớ/ Con mắt khép nửa vời là cạm bẫy thờ ơ/ Trong giấc
ngủ đầy mộng mị/ Trăng không thể bay ra…(Mắt).............................................29
“Con mắt khép hờ” giống như một cánh cửa thần kỳ ẩn chứa bao điều bí mật,
nó thu hút ngoại giới chìm sâu, mê man trong đó. Cuộc du ngoạn này đã đánh
thức giấc ngủ tiềm tàng của ký ức, sống dậy nó trong một “ban mai bàng
bạc” và “Con mắt khép hờ” (hay “con mắt khép nửa vời”) đã trở thành một
công cụ thẩm mĩ đặc biệt, một thứ cầu nối để mở ra một thế giới khác, ở đấy,
“mặt trăng đi thẳng vào giấc ngủ” và cũng ở đấy, “trong giấc ngủ đầy mộng
mị/ Trăng không thể bay ra”… Trong khoảnh khắc, cái nhìn ấy đã làm lộ diện
một thế giới khác, ẩn tàng sau bề mặt của thực tại” [44]. Thế giới ẩn tàng đó
không có gì rõ ràng, tất cả chỉ là một bức màn hư ảo:........................................30
Trong ký ức không phải dòng sông không phải bình minh..................................30
Không phải chú cá...............................................................................................30
Vàng.....................................................................................................................30
Như hoa mướp.....................................................................................................30
Trong ký ức chỉ một vệt trườn..............................................................................30
Giữa không trung đuôi dài uốn lượn...................................................................30
(Linh miêu)..........................................................................................................30
Sự xuất hiện hình ảnh của những chú mèo trong thơ Nguyễn Bình Phương
không đẹp theo dáng vẻ đơn thuần của màu và độ mềm mại của lông, màu
mắt. Mèo – xuất hiện trong vai trò người xứ giả của bóng tối, cùng với ánh
trăng, chúng hòa lẫn vào bóng đêm tràn trề bản năng hoang dã. Ẩn mình kín
đáo trong một góc khuất của vô thức, Nguyễn Bình Phương lặng lẽ quan sát
từng động thái của loài linh miêu, cảm nhận được cái nhẹ tênh không chút va
động của chúng giữa không trung. “Nhà thơ, kẻ thăm dò ẩn mặt, kẻ phát hiện
ra không có dấu vết của chú cá, dòng sông hay bình minh trong kí ức con
mèo, mà chỉ có cái gì đang trơn trượt, một vệt trườn giữa không trung, giữa
hư không, dấu vết hữu hình trong cái vô hình, cái dấu vết không thể còn dấu
vết” [59]...............................................................................................................30
Ở một không gian thơ khác, người yêu, con mèo, ánh trăng giống như ba
người bạn tâm giao nhưng lại không có bất kì mối liên tưởng nào. Người yêu,
con mèo và ánh trăng mở lời trò chuyện, tương giao bằng cách “ho húng
hắng”. Chỉ người trong cuộc mới hiểu được những tín hiệu thông tin đặc biệt
ấy. Đó là “một cuộc trò chuyện thi vị giữa các sinh thể sống (con người, loài
vật) và tạo vật thiên nhiên (ánh trăng) bằng ngôn ngữ riêng, thứ ngôn ngữ
nằm giữa tiếng người và những âm động tự nhiên” [59]:...................................31
Người yêu tôi nằm cạnh một con mèo.................................................................31
Cạnh một ánh trăng.............................................................................................31
Cả ba ho húng hắng.............................................................................................31
(Mở lời)................................................................................................................31
Cái đẹp, đôi khi khó hình dung chuẩn xác trong chiều liên tưởng thông
thường. Nó hiện diện trong một trạng thái ở giữa ranh giới thực và ảo, rõ nét
và huyễn hoặc:.....................................................................................................31
Nó đang ở cuối đường.........................................................................................31
Thân thể gầy còm vì chay tịnh.............................................................................31
Mỏng, nhàn nhạt, sạch bong như chú mèo trung tính.........................................31
Trộn lẫn vào những muộn phiền luyến ái của ta.................................................31
(Khoảng giữa)......................................................................................................31
Ta tạm gán cho “nó” cái tên gọi – sinh thể. Nhưng là một sinh thể còn
chưa chuyển hóa hết vào hư không mà “thân thể gầy còm vì chay tịnh”.
Đến trạng thái “nó” đã buông sạch sẽ những dấu vết của đời thực thì nay
“nó” đã mang một hình hài mới “Mỏng, nhàn nhạt, sạch bong như chú
mèo trung tính”..................................................................................................31
Bên cạnh những câu thơ viết về vùng đất Linh Sơn hoang vu, hư ảo với
đầy rẫy những điều kỳ dị, ta cũng ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của vùng đất cố
đô trong mắt người con của núi rừng Thái Nguyên: Mở mắt/ Đã Tịnh
Tâm/ Mưa gọi những đường cong hiển lộ/ Vậy là Huế đã làm anh ngờ
ngợ/ …Trăm năm Huế ngực vần tròn và trắng/ Lụa còn bay cuồn cuộn
như rồng… (Chớp mắt Huế)..............................................................................32
Huế cổ kính, diễm lệ đã được thi sĩ cảm nhận bằng cái nhắm mắt “tịnh tâm”,
buông lơi những cảm xúc hỗn độn, bon chen của cuộc sống và trở lại trong
Huế những vẻ đẹp độc và lạ lẫm. Huế khơi mở đôi mắt tâm hồn nhà thơ,
khiến ông “ngờ ngợ” Huế giống như một cô gái dịu dàng với những đường
cong mê hồn - những đường cong mềm mại của cơ thể được mưa tạo hình đầy
duyên dáng và e ấp. Câu thơ “Trăm năm Huế ngực vẫn tròn và trắng” đẹp cả
về hình thể và ngôn ngữ, câu thơ có đường nét, hình dáng, màu sắc..................32
Sự sống luôn đẹp, tất nhiên, ai cũng không thể phủ nhận. Nhưng với Nguyễn
Bình Phương, cái chết mới thực sự mang lại những trang thơ đẹp, đẹp trong
nỗi ám ảnh triền miên day dứt: Chết làm ngôi sao đen/ Chết trên giường
bình nhiên bí ẩn/ Chết không thở cùng hoa/ Thở cùng người đàn bà xa lạ…/
Ở trong khu rừng ma/Có những con hươu ma/ Chết nở một nụ cười sáng
nhẹ/ Chẳng vĩnh biệt em chẳng tiễn biệt ai/ Từ tốn mơ màng/ Bông cải cúc
ra đi (Nhẹ)...........................................................................................................32
Trạng thái chết trong thơ Nguyễn Bình Phương được diễn tả bằng những ngôn
từ đẹp, thanh, nhẹ và bí ẩn hay nói cách khác, “chết” đã được pha lọc qua con
mắt của nhà thơ, nhìn trong một mĩ cảm hoàn toàn mới. Đây hẳn không phải
là một trạng thái đông cứng, càng không phải là một trạng thái xa rời thực tại
hiện tồn. Nó là một quá trình chuyển giao đầy mộng mị, hư ảo từ một thế giới
thực tại sang thế giới siêu thực tại, từ hiện tại đến tương lai. Trạng thái chết
không mang dư cảm nặng nề mà nhẹ, bí ẩn và hấp dẫn như “thở cùng người
đàn bà xa lạ”. Cái tôi ( hay cái chết – sinh thể có hồn) chìm sâu bên dưới bề
mặt câu chữ “từ tốn mơ màng” trong “một nụ cười sáng nhẹ” muốn rũ bỏ
khỏi mộng mị của những “con hươu ma”, “khu rừng ma” để tan vào ngoại
giới. Hình ảnh “bông cải cúc ra đi” gợi cảm giác nhẹ nhàng, dứt khoát...........32
Có khi, mĩ cảm khác lạ ấy dừng lại bởi một “cái rùng mình”:...........................33
Đồi.......................................................................................................................33
Cái rùng mình trên làn da thanh vắng................................................................33
Một điều bí ẩn hơn người….................................................................................33
(Những trận chiến cài hoa).................................................................................33
Ngay cả những âm thanh tưởng chừng như vô nghĩa (Tiếng lạ, tiếng rền) lại
hiện lên sống động như tồn tại trong đó một thế giới trên từng trang thơ của
Nguyễn Bình Phương:.........................................................................................33
- Thiếu phụ quay đi xanh mơ màng.....................................................................33
Bỏ lại hồ xanh thẳm.............................................................................................33
Tiếng xanh............................................................................................................33
Giữa vòm cây mận trắng.....................................................................................33
Cơn sốt dậy sắc hồng run rẩy..............................................................................33
(Tiếng lạ)..............................................................................................................33
- Ông thầy lang áo vá..........................................................................................33
Đến thăm người bệnh ngắt hoa...........................................................................33
Giấc mơ còn có cuống.........................................................................................33
Những chiếc cuống run run.................................................................................33
Buồn heo may trúc lạ...........................................................................................33
Buồn vết chém hoang vu......................................................................................33
Chết trong nòng súng cỏ......................................................................................33
Những tiếng rền xa xa.........................................................................................33
(Tiếng rền)...........................................................................................................33
2.1.2. Cái tôi luôn trăn trở, suy tư về bản thể....................................................34
Lịch sử đã mở ra một bức màn khác kéo theo sự thay đổi của cảm hứng trữ
tình. Không còn những vần thơ ngợi ca, tự hào mà thay vào đó là những vần
thơ lắng đọng, suy tư. Các nhà thơ luôn khao khát được bộc bạch, được giãi
bày cái tôi bản thể trong dòng cảm xúc phức hợp, đa chiều. Hình tượng cái tôi
trong thơ Nguyễn Bình Phương cũng không nằm ngoài xu hướng này. Đâu
đó, trong dòng chảy cuộc đời, Nguyễn Bình Phương đã tìm được cho mình
một thế giới tĩnh lặng, một “ốc đảo” để ngẫm ngợi, suy tư. Ở đây, ta bắt gặp
sự xuất hiện của cái tôi luôn trăn trở, suy tư về bản thể của chính tác giả..........34
Thơ Nguyễn Bình Phương là mảnh đất nảy mầm sinh sôi của cái tôi có tâm
hồn phong phú, hướng nội, đa cảm, thể hiện qua nhiều mảng màu khác
nhau của cuộc sống. Qua hành trình thơ ấy, chân dung cái tôi bản thể của
Nguyễn Bình Phương đã hiện lên vô cùng rõ nét: đó là cái tôi ưa suy ngẫm
về các giá trị đời sống; luôn muốn khẳng định những giá trị “nhân vị”
riêng, độc sáng; yêu đắm đuối; luôn bị ám ảnh bởi sự cô độc, cảm giác bất
an và cái chết…..................................................................................................34
Có thể nói, thơ ca Việt Nam sau 1975 phần lớn đều giàu chất triết lý, suy
tưởng. Ở đó chủ thể trữ tình không chỉ suy tư về cuộc đời, mà còn trăn trở, cô
đơn trong cuộc tìm kiếm cái tôi bản thể của chính mình, tha thiết đi tìm câu
trả lời cho những câu hỏi hiện sinh. Nguyễn Bình Phương cũng vậy:................34
Ta là ai?...............................................................................................................35
Ta là gì trong ý nghĩ của ta?................................................................................35
(Hóa hình)............................................................................................................35
Thực tế, đó là một câu đố không có lời đáp. Con người sống trong xã hội hiện
đại với nhiều nỗi lo toan thường nhật sẽ không tránh khỏi những cảm giác bế
tắc, tù túng. Những lúc tự vấn như thế này, chỉ tồn tại sự cô đơn, trống vắng
khó định nghĩa :...................................................................................................35
Ta là gì trong ý nghĩ của ta..................................................................................35
Là gì nhỉ cái dãy phố con con treo đầy biển hiệu…............................................35
(Hóa hình)............................................................................................................35
Sự khô cứng, bất động, chật chội của cuộc sống đô thị hiện đại như phong kín
lấy cái tôi muốn bùng cháy, muốn thoát khỏi cuộc sống u mê, luẩn quẩn của
những dãy phố con con. Trong một thế giới đóng khung chật chội ấy, tất cả
đều nhòe mờ, “hóa hình” và dần trở thành “dấu chấm vời xa”. Cuộc sống đô
thị hiện đại không những làm cho con người tự đông cứng cả về thể xác, tâm
hồn. Hơn nữa, nó còn đóng kín mọi cố gắng vượt thoát khỏi không gian tù
túng và trở về trong một hình hài mới:................................................................35
Trong sự phong kín đê mê này.............................................................................35
Ta ngượng ngùng nghĩ mình là cánh cửa............................................................35
(Hóa hình)............................................................................................................35
Trong những vần thơ của mình, Nguyễn Bình Phương luôn muốn khẳng định
những giá trị “nhân vị” riêng, độc sáng. Ở thế giới đầy ngột ngạt này, nhà thơ
luôn bị vây kín trong những lo toan, bế tắc của cuộc sống, ông luôn khát khao
tự nhìn nhận lại chính bản thân mình, đối thoại với mình bằng những chuyển
động thầm lặng trong chính hình hài ấy:.............................................................35
Tôi cắt tóc............................................................................................................36
Kín đáo nhếch môi cười.......................................................................................36
Đi lìm lịm vào gương như khói............................................................................36
Tôi cắt tóc............................................................................................................36
Buông lơi.............................................................................................................36
Khuôn mặt ngoài mùa hạ.....................................................................................36
Sau bức tường kia những sự thật đã già..............................................................36
Tôi cắt tóc............................................................................................................36
Một người cực lạ..................................................................................................36
Rũ khăn choàng váng vất bước ra.......................................................................36
(Cắt tóc)...............................................................................................................36
Đằng sau những việc rất đời thường của con người cũng gợi lên cho tác giả
những trăn trở, suy tư về cuộc đời, về bản thể. Ngẫm về cuộc đời, đằng sau
cái cười nhếch môi hết sức kín đáo là nụ cười chua chát “buông lơi”. “Tôi”
cười vào những sự thật vốn đã tồn tại trong cuộc sống. Nó làm thay đổi chính
con người, đeo một cái mặt nạ được bao phủ bởi những dối trá cứng ngắc,
“tôi” muốn rũ bỏ nó và bắt gặp ngay cái hình hài xa lạ kia.................................36
Có khi, ta lại bắt gặp trong thơ Nguyễn Bình Phương một cái tôi ráo riết, mải
miết đi kiếm tìm một hình hài quen thuộc trong cuộc sống. Đó là “mặt bên
kia” của cái tôi, của cuộc đời. Nơi ấy, cái tôi lặng lẽ trở về nhìn ngắm những
vết thương lòng đang chảy sâu dưới bề mặt da thịt. Cái tôi bước vào mặt bên
kia của cuộc đời nhưng lại tự đánh đắm trong ảo ảnh do chính mình tưởng
tượng ra, chợt thấy khuôn mặt mình mờ đi sau những ảo giác xa vời, hư hao:
.............................................................................................................................36
Phía sau hiển nhiên là tôi....................................................................................36
Lẩn thẩn ngồi canh giữ vết thương......................................................................36
…Sau bao long lanh lý lẽ.....................................................................................36
Một người không tìm ra mặt................................................................................37
đi vòng vo trong ảo ảnh của mình.......................................................................37
trái tim mờ mờ lỗi nhịp…....................................................................................37
(Mặt bên kia).......................................................................................................37
Ông tiếp tục họa về mình qua những vần thơ trăn trở. Cái tôi phân thân đứng
một góc lặng lẽ quan sát, chiêm ngẫm về bản thân mình: Ông hàng xóm từ
chiến trường về/ Không có giấc mơ/ Ngón tay ốm o vùi lấp khuôn mặt ốm o/
Ai biết ông ta nghĩ gì/ Sau những ngón tay ấy (Ngỏ lần thứ nhất). Bức tranh
được vẽ lên bằng những đường nét nhòe nhòe, chỉ có cái gân guốc, rõ nét của
đôi bàn tay và khuôn mặt đã thấy được một cái tôi đầy trăn trở, suy tư. Sau
những ngón tay ấy phải chăng là sự buông bỏ những hoài niệm cũ hay sự níu
giữa những mảnh ghép từ giấc mơ trong quá khứ?.............................................37
Cũng đôi bàn tay ấy, cái tôi lại tự rũ bỏ chính bản thân mình, muốn thác đi
trong bản ngã hiện sinh đầy mạnh mẽ:................................................................37
Tự cấu mặt mình như cấu bùn.............................................................................37
Vứt ra xa..............................................................................................................37
Rơi vào đâu không biết…....................................................................................37
(Thác)...................................................................................................................37
Ta còn bắt gặp ở thơ Nguyễn Bình Phương một cái tôi ưa suy ngẫm về các giá
trị đời sống. Đó là cái tôi đầy mỏi mệt, bế tắc, tự cười vào chính cuộc đời
công chức của mình với sự đeo đuổi dai dẳng của nỗi cô đơn, bệnh tật: Một
cái chức nhỏ nhẹ/ Một cái chức lăn như cỏ lông chông/ Mơ đeo vào tay xòa
ra giữa nắng/ Mơ đeo vào gót chân mỗi bước mỗi khua vang rổn rảng/…Một
cái chức liu riu ánh vàng/…Một cái chức không đâu bỗng vỗ nên thành biển
(Gửi những khổ sở); Này tôi/ Một khuôn mặt công chức/ Đứng nhìn những
cuộc họp rạc rài/ Tiêu ma bao ý tưởng/ Xa xa trải một màu bệnh hoạn/ Bệnh
hoạn cũng cũ rồi (Bài thơ cũ). Ở đó còn là cái tôi bất an, tự vấn về bản thân
mình: Tôi châm thuốc ra ngoài gặp cỏ/ Nghĩ đến mình nghĩ đến mình thật
nhiều/ Nhắm mắt lại và từ từ hiển hiện/ Một vườn mía ngọt lúc trăng lên
(NBP); Tôi là một đỉnh núi/ Một nỗi buồn gieo neo nơi kí ức phai tàn/ Trời
xanh xanh vỗ trên đầu mê man/ Ngày mai có người sang đất lạ/ Ngày mai lạc
vào giấc mơ của ma/…Tôi là con đường chông gai chưa ai đi (Tự sáng)…......37
Nguyễn Bình Phương viết về thơ tình không nhiều nhưng những vần thơ của
ông rất đẹp, rất mộng và trong trẻo. Cái tôi trữ tình hiện lên trong thơ ông lúc
này là cái tôi yêu đắm đuối, say mê. Tuy nhiên, đây lại là những vần thơ
thoáng nét buồn thương, những dự cảm bất an, mặc cảm chia ly, từ biệt. Viết
về tình yêu, về “em”, thực chất, cũng là một cách mô tả, rọi chiếu về bản thể
của cái tôi thi nhân từ một góc khác:...................................................................38
- Thắp lửa lên bỗng thấy xa vời...........................................................................38
Em là ngọn nến nhỏ sáng dần đôi môi tôi...........................................................38
Yêu có nghĩa vừa bay vừa nghĩ ngợi...................................................................38
…Sông đã chảy sang bên kia giấc ngủ................................................................38
Em tỉnh dậy trời xanh thành người lạ..................................................................38
(Thơ ngắn về em).................................................................................................38
Những dự cảm chia ly, xa cách trở đi trở lại rất nhiều trong thơ Nguyễn Bình
Phương:................................................................................................................38
- Yêu em có nghĩa là yêu mây xa.........................................................................38
Nghĩa là yêu chiếc khăn màu cỏ úa.....................................................................38
Em nhìn tôi nhìn sông Hồng chìm đắm...............................................................38
Không ai chèo đò cho tình yêu qua sông.............................................................38
Lạ lùng ơi lạ lùng nổi sóng..................................................................................38
Sóng đưa hai ta trôi dạt về đâu…........................................................................38
(Than thở)............................................................................................................38
- Bao hoa trái mang nỗi buồn rụng xuống..........................................................39
Một cuộc tình nôn nao chia ly.............................................................................39
Lời hẹn cũ với em không còn nữa........................................................................39
Những buổi chiều mờ in trên hồ…......................................................................39
(Những chiều mờ)................................................................................................39
Tình yêu trong thơ Nguyễn Bình Phương chỉ sống dậy như những hoài niệm
xưa. Đó là ký ức về tình yêu vẫn còn vẹn nguyên trong tấm hình cũ:................39
Em đã bỏ ta đi......................................................................................................39
Em đã ngắt một nhành hoa nhỏ...........................................................................39
Chú chim sâu thuở ấy rất buồn............................................................................39
Không thể hẹn hò nhau được nữa........................................................................39
(Hình cũ)..............................................................................................................39
Trong con mắt Nguyễn Bình Phương, tình yêu giống như một bông hoa có
cuống. Sự phân rã của cuống hoa với hoa cũng là dự cảm của sự chia ly. Bài
thơ mang lại cảm giác về sự tái tê, run run của những bông hoa. “Bức hình
cũ” mang đầy vẻ tĩnh lặng, dịu dàng, tình yêu của sự vị tha, cao thượng: “có
đôi tay trần từ trời cao dịu dàng buông xuống”. Câu thơ còn nguyên trạng
thái bất toàn của tình yêu. Cũng có khi, sự ly biệt trong tình yêu lại được cảm
nhận qua ánh mắt xa xôi, là gần đấy nhưng lại xa đấy: Anh vẫn thấy em từ xa
bước lại/ Em nhìn anh/ Em xa xôi như cây/ Em quay đi/ Tiếng kêu dài lạnh
lẽo/ Hoàng hôn trên đầm tàn (Giấc ngủ nắng). Hình ảnh “em” tàn đi trong
ánh hoàng hôn xa xôi, chỉ còn vương lại bên này màu nhớ thương là những
tiếng kêu dài lạnh lẽo, băng giá đã làm nổi bật lên dấu hiệu biệt ly của một
cuộc tình. Chi tiết “hoàng hôn trên đầm tàn” chứng tỏ sự bất lực, buông bỏ
dứt khoát trong tình yêu không còn hy vọng. Tình yêu vừa mang lại cho con
người hạnh phúc, vừa đem đến cho con người những đau khổ triền miên
không dứt.............................................................................................................39
Suy tư về bản thể, cũng là suy tư về ý nghĩa của sự hiện sinh cá nhân, ý nghĩa
của sự mất/ còn, hữu hạn/ vô hạn; phù du/ vĩnh cửu… Có lẽ sự cô đơn, trống
vắng giống như một chất keo đặc bám lấy bức thành tâm hồn của thi sĩ, ông
cảm thấy sợ bóng đêm, bị ám ảnh về cái chết, ám ảnh về máu. Phải chăng
cũng vì lẽ đó mà thơ của ông ngập tràn máu và nỗi ám ảnh dai dẳng của cái
chết. Ám ảnh về máu và cái chết như phủ trùm mọi nơi, đâu đâu trước mắt
“Tôi” cũng là dòng chảy lặng lẽ của máu: Máu đã ra ngoài cỏ/ Chảy men
theo sườn đồi xuống hồ/ Máu không tắt không khô không ngơi nghỉ/ Chảy
miên man qua thớ đất nâu/ Máu còn chảy, chảy mãi/ Đến từng nhà từng
người con gái/ Đến từng kẻ thứ ba/…Máu còn chảy song hành bước chân/
Nơi nẻo vắng ngõ quê/ nơi ồn ào phố thị/ Trong yên tĩnh thư viện mênh mông/
Máu còn chảy/ Ngoài chúng ta/ Chảy qua thị xã tới kinh thành…(Chết)...........40
Nguyễn Bình Phương hay nói về cái chết, hay bị ám ảnh bởi cái chết nhưng
ông lại đón nhận nó trong từng trang thơ của mình rất nhẹ nhàng, như một
chủ định dửng dưng: Không ai nhìn thấy anh/Không ai nghe tiếng kêu im
lặng/ Lúc đó trên đồi Phủ Liễu/ Chiều mang cơn u mê phủ khắp ngọn cây/ Le
lói vài ba con bò gặm cỏ/…Ba phát súng thờ ơ/ Nổ vào lòng nhẫn nại…
(Chết).“Ba phát súng thờ ơ” diễn tả chân thật sự thờ ơ, lạnh lùng, dứt khoát
trước cái chết. Câu thơ mang niềm bi kịch của cái chết, chết trong cô độc khi
“không ai nhìn thấy anh”. Là cái chết của đá hay cái chết của “anh”?...............40
Trang viết đầu tay nhắc:......................................................................................40
- Đá sẽ chết vào lúc anh mỉm cười......................................................................40
Hãy cẩn thận!......................................................................................................40
(Ngỏ lần thứ nhất)...............................................................................................40
Bên cạnh những trăn trở, suy tư về cá nhân, về cuộc đời, con người, những dự
cảm chia ly trong tình yêu, suy nghĩ về cái chết, thơ Nguyễn Bình Phương
cũng bộc lộ những suy tư của cái tôi luôn trăn trở với sáng tác và nghiệp cầm
bút: Ta sinh ra cô đơn/ Giờ cô đơn đã cũ/ Ta trưởng thành bởi sự sợ hãi/ Sợ
hãi cũng cũ rồi/… Trong bóng râm lạnh lùng vang lên lời nhắc/ -Ta lớn lên
bởi sự kiếm tìm/ Giờ kiếm tìm đã cũ (Bài thơ cũ)................................................40
Với ông, nhà thơ sinh ra vốn đã mang nặng nỗi cô đơn, lớn lên trong sự sợ hãi
và kiếm tìm cái cũ. Nhưng đó là sự kiếm tìm mỏi mòn, không có điểm dừng
chân. Trong cuộc kiếm tìm những cái cũ, tác giả tìm cho mình bao ý tưởng
mới. Sự kiếm tìm cái cũ vì thế chưa bao giờ ngừng lại trong bản ngã sáng tạo
của Nguyễn Bình Phương. Vì thế, quá trình thai nghén một tác phẩm chưa
bao giờ là điều dễ dàng: Ta lặng im/ Chim hót/ Họ thì vỗ cánh bay/ Ta viết/
Chim bay đi/ Họ thẫn thờ đậu xuống/ Ta nhìn ta mai mái một làn sương (Nhà
thơ).......................................................................................................................41
Trong quá trình ấy, cái tỉnh táo phải phá bỏ sự bủa vây của trí tưởng tượng, trả
lại cho tác giả sự tĩnh lặng trong tâm hồn. Lặng im, để từ đó phân tách thành
những mảnh vụn khác nhau với muôn vàn trạng thái khác nhau. Sự sáng tác
đối với nhà thơ lúc này giống như một quá trình ăn mòn cơ thể, càng sáng tác,
tác giả càng không tìm thấy mình, cuối cùng chỉ còn lại mai mái một làn
sương. Đôi lúc, tác giả cũng có lúc tự hỏi mình bằng một câu hỏi không hồi
đáp:......................................................................................................................41
Đứng dậy, sũng ướt, đi rồi tự hỏi........................................................................41
Viết là tìm thấy hay đánh mất?............................................................................41
(Chân dung khi trống trải)...................................................................................41
2.1.3. Cái tôi chìm đắm trong trực giác, tiềm thức, tâm linh............................41
Thơ Nguyễn Bình Phương không phải là lối mòn dễ đi, cũng không phải một
bài toán có sẵn những lời giải đáp. Thơ ông là một thế giới chưa bao giờ
khám phá hết của cái tôi – thế giới trực giác, tiềm thức, tâm linh.......................41
Tiềm thức là vùng sâu thẳm trong tâm hồn con người mà bản thân người ấy
không ý thức được. Đó là sự ghi nhớ một cách vô thức những trải nghiệm của
cuộc đời, giúp ta nhìn và cảm nhận những việc chúng ta đã từng làm. Tiềm
thức vận hành từ những ký ức sâu kín nhất mà cấp độ ý thức không thể nhận
biết. Nói một cách đơn giản, tiềm thức chính là sự “phiên dịch” của ý thức, tất
cả những gì ta cảm nhận, nghe, nhìn và ngửi đều được tổng hợp lại và tiềm
thức giữ lại chúng................................................................................................41
Trực giác là sự nhận thức trực tiếp bằng cảm tính, không thông qua suy luận,
tư duy của lý trí. Người nghệ sĩ luôn mang trong mình bản ngã sáng tạo nhờ
khả năng thiên bẩm. Đứng trước một đối tượng nghệ thuật, khi cảm hứng
dâng trào, họ có thể nảy sinh một nhận thức ngẫu nhiên (nhưng chính xác) về
đối tượng ấy mà không cần bất kỳ sự can thiệp nào của lý trí. Đây chính là
yếu tố trực giác trong sáng tạo nghệ thuật...........................................................42
Tâm linh là một phần đặc biệt trong đời sống tinh thần con người. Theo tác
giả Nguyễn Đăng Dung trong cuốn Văn hóa tâm linh: “Tâm linh là cái thiêng
liêng cao cả trong cuộc đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống
tín ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng liêng, cao cả ấy đọng lại ở những hình ảnh,
biểu tượng, ý niệm” [5; 12]. Một số tác giả khác cho rằng tâm linh “thường
được hiểu như đời sống tinh thần đầy bí ẩn của con người, đối lập với “ý
thức” kiểu lý tính thuần túy. Nó bao gồm cái phi lý tính, cái tiềm thức, vô
thức, bản năng thiên phú “có thể nhấn mạnh phần trực cảm, linh giác, những
khả năng bí ẩn” (nhưng vẫn có ý thức của con người)........................................42
2.2. Hình tượng thế giới trong thơ Nguyễn Bình Phương..............................47
2.2.1. Hình tượng không gian............................................................................47
Hình tượng không gian hay không gian nghệ thuật là một khái niệm thuộc thi
pháp học hiện đại được giới nghiên cứu rất quan tâm.........................................47
Trong giáo trình Dẫn luận thi pháp học, tác giả Trần Đình Sử cho rằng:
“Không gian nghệ thuật là mô hình không gian của thế giới nghệ thuật và
cũng là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật”. Trong thực tế, “không có
hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, và bản thân người kể chuyện
hay nhà thơ trữ tình cũng nhìn sự vật trong một khoảng cách, góc nhìn nhất
định. Nhờ có điểm nhìn của chủ thể mà không gian có chiều cao – thấp, rộng
– hẹp, xa – gần, sâu – cạn, … Có thể nói không gian nghệ thuật là sản phẩm
sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một phương
diện nhất định của của cuộc sống” [52; 107 - 108].............................................47
Hình tượng không gian hay không gian nghệ thuật mang đậm dấu ấn chủ
quan của chủ thể sáng tạo. Đó là không gian tinh thần của con người, là
không gian sống mà con người cảm thấy. Bên cạnh đó, không gian nghệ thuật
còn là không gian mang tính quan niệm, tượng trưng. Điều này có nghĩa là
chủ thể sáng tạo luôn tạo ra một không gian nghệ thuật để thể hiện một quan
niệm nhất định của mình về con người, về thế giới............................................47
Trong thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Bình Phương, chúng tôi nghiên cứu
không gian nghệ thuật ở ba khía cạnh: Không gian của những vùng đất thực,
không gian của những giấc mơ và không gian tự nhiên khác thường.................47
2.2.1.1. Không gian của những vùng đất thực.....................................................47
Nguyễn Bình Phương là một người con sinh ra trên mảnh đất Thái Nguyên.
Như một lẽ thường tình, quê hương đi vào trong sáng tác của ông rất tự nhiên.
Thi sĩ đã dựng lên trong thơ của mình một không gian sống thực, tồn tại như
nó vốn có. Đó là không gian của núi rừng Thái Nguyên gắn liền với những
địa danh, những tên riêng có thực của vùng đất ấy như: Linh Sơn, Linh Nham,
làng Phan, chùa Hang, gò Trẹo, cống Bù Rùm, Đội Cấn, đồi Phủ Liễu, chè
Tân Cương, sông Cầu, sông Cái, …....................................................................48
Sự xuất hiện của những địa danh, tên riêng trên của đất Thái Nguyên đã giúp
người đọc hình dung về một vùng rừng núi hoang vu, một vùng đất thiêng
liêng ẩn chứa những điều kỳ ảo: Bầy ngựa phi tím tái lưng trăng/ Qua chùa
Hang, làng Phan, gò Trẹo (Canh Ngọ); Lúc đó trên đồi Phù Liễu/ Chiều
mang cơn u mê phủ khắp ngọn cây/ Le lói vài ba con bò gặm cỏ/ Lúc đó sông
Cầu lừ đừ trôi dưới ánh thiên dương (Thái Nguyên)…......................................48
Linh Sơn là địa danh được nhắc đến khá nhiều trong thơ Nguyễn Bình
Phương. Trong từng trang viết của ông, Linh Sơn hiện lên với nhiều vẻ ảo mị,
mênh mông, đầy mê hoặc:...................................................................................48
Linh Sơn mênh mông,..........................................................................................48
Linh Sơn những rào mây xệch xoạc....................................................................48
Hỡi ai mà bỏ trăng đi lác đác..............................................................................48
Bỏ trăng đi ướt mướt cây vườn…........................................................................48
(Cái bóng)............................................................................................................48
Linh Sơn ở lại......................................................................................................48
Ở lại thằng bạn điên sớm tối chỉ cười.................................................................48
Cống Bù Rùm ban trưa nghe rắn quấn…............................................................48
(Khách)................................................................................................................48
Có khi, đó chỉ là một nét vẽ lướt qua nhưng cũng đủ làm sống dậy hồi ức về
một vùng quê “trong veo” với lối sinh hoạt văn hóa lâu đời trong tâm thức
người đọc:............................................................................................................49
Thị xã nhỏ và xám................................................................................................49
Chợ mở phiên hai ba hai tám..............................................................................49
Nón lá trong veo..................................................................................................49
(Thái Nguyên)......................................................................................................49
Trong thơ Nguyễn Bình Phương, chúng ta không chỉ bắt gặp những địa
danh thực của vùng đất Thái Nguyên mà ở đó còn có sự xuất hiện của
nhiều địa danh ở Hà Nội như: Hồ Tây, sông Hồng, sông Ngân, hồ Dâm
Đàm, cầu Long Biên, chùa Trấn Vũ, … Không gian thủ đô cũng được
Nguyễn Bình Phương thổi vào đó một vẻ “mộng du”, tái hiện lại bằng
những thước phim không đầu, không cuối, nhòe lẫn và lấp lánh những sắc
màu kỳ lạ: Đêm Hàng Ngang rừng cháy/ Khi người dậy đất dậy trời/ Mây
tái mặt buồn ra bốn phía/ Ngày Hàng Đào mộng du thung lũng hoẵng/
Ngây ngất sốt bàn chân nhà quê/…Hà Nội xích lô (Tới kinh thành); Em
còn lạc bước những buổi sương mù/ Cầu Long Biên vắng sông Hồng
hoang vu (Thời soi sáng); Trên phù sa sông Cầu với sông Hồng/ Vết chân
cổ lấp lánh niềm hy vọng (Những thứ tự)…......................................................49
Huế hiện lên dưới con mắt Nguyễn Bình Phương thật đậm đà, duyên dáng và
như được dẫn dắt bởi những giấc mơ đẹp:..........................................................49
Có thể sông Hương chảy vì những giấc mơ........................................................49
Có thể vì giấc mơ mà Ngự Bình hóa núi.............................................................49
Cả tiếng dạ lành hiền trên bờ Phu Văn Lâu kia..................................................49
vì giấc mơ cũng nhuốm chút bùi ngùi..................................................................49
-Rứa một mình anh vô Huế mơ chi?....................................................................49
(Chớp mắt Huế)...................................................................................................49
Dù viết về vùng đất nào thì ngòi bút của Nguyễn Bình Phương cũng không
ngăn được sự tiết ra từ ngòi bút những chất khói ảo đầy mộng mị. Đó là
những không gian thực mang màu sắc chủ quan rõ rệt, nửa ảo, nửa thực,
mênh mang, bí ẩn, kỳ lạ do chính Nguyễn Bình Phương tạo dựng lên...............50
Nguyễn Bình Phương có tài miêu tả về làng quê, về thị xã nơi ông sống. Đó là
một vùng quê mang vẻ đẹp mông lung, huyền ảo được bao phủ bởi một lớp
sương mù dày đặc, bầu không khí xanh xao, mỏng manh gợi cảm giác bí ẩn,
kỳ dị. Bên cạnh đó, ông cũng tạo dựng trong thơ của mình một không gian rất
đời thường của cuộc sống đô thị hiện đại với: những dãy phố con con treo
đầy biển hiệu, hàng ngàn xe máy phóng như bay, lũ trẻ online, đám @ đánh
võng, khuôn mặt công chức mệt mỏi, bàn giấy, những cuộc họp rạc dài, …
Những hiện diện về cuộc sống đô thị trong thơ Nguyễn Bình Phương nếu có
xuất hiện chỉ là những không gian tù túng, chật hẹp khiến con người mệt mỏi,
chán chường, cô đơn............................................................................................50
Đó là căn phòng nơi cái tôi trữ tình trải nghiệm nỗi cô đơn, tự đối thoại với
chính mình, suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời, về con người và về cái
chết với bao trăn trở, hoài nghi, mặc cảm dồn nén trong một thân xác, một
hình hài mới: Với hình hài của gió/ Mở một nẻo chênh vênh trên nóc phố/
Anh kín đáo đi xa hơn họ (Không đề nữa); Xa xôi trong căn phòng hẹp/ Bầy
sẻ bay theo vệt sáng hoang hoang/ Nhịp thảng thốt như tin nhắn lạc/ Xa
không chỉ từ thân xác/ Cái tổ ong nhỏ nhoi kết bằng ý nghĩ về nhau/ cũng quá
đỗi xa xôi (Vời vợi xa)….....................................................................................50
Đó là không khí ngột ngạt, xô bồ của đô thị với hàng dài phương tiện chen
chúc chật chội: Chênh chênh ánh đèn cốt/ Kiêu hãnh ánh đèn pha/ Trên phố
dài xe máy reo vang lừng/ Những vòng quay chóng mặt/…Các chấm đỏ lại
nôn nao xuất hiện/ Trong đường cua quái đản (Xe máy)…................................50
Buông mình giữa vòng quay của cuộc sống đô thị, chúng ta dường như nhìn
thấy khuôn mặt đầy mệt mỏi của Nguyễn Bình Phương ẩn hiện giữa những
khuôn mặt lạ lẫm kia. Sự cô đơn, bế tắc, mỏi mệt này kéo dài tạo thành một
khoảng trống vô tận trong tâm hồn cái tôi trữ tình. Một cái tôi lạc lõng, hư vô
giữa dòng người vô định:.....................................................................................51
Ngàn xe máy chở ngàn khoảng trống..................................................................51
Phóng như bay vào nỗi chán chường..................................................................51
(Bâng quơ)...........................................................................................................51
Cái tôi mệt mỏi, nhạt nhòa khao khát thu vào những khoảng trống, chế ngự sự
vây tỏa của nỗi cô đơn, trống trải trong lòng:......................................................51
Chiếc cầu cong đổ bóng tròn...............................................................................51
Xích các khoảng trống vào vô tận.......................................................................51
(Chạm mặt)..........................................................................................................51
Không gian đô thị những ngày nắng cũng được Nguyễn Bình Phương miêu tả
bằng những ngôn từ giản dị, đời thường nhưng đầy ám ảnh. Độc giả dễ dàng
bắt gặp những “khoảng trống thơ” của ông: Có thấy ngàn ngàn khoảng trống/
Áp vào một mẩu đời riêng (Một mùa hè mọi thứ áp vào nhau); Một bầu trời
phẳng lì/ Không mây không gì cả/ Tường chói tiếng nói chói/ Chói tấm biển
chỉ đường ra ga/ Gương chiếu hậu quắc lên quái gở/ Hè phố vắng thành
khoảng trống của thơ/ Gạch ngói rền vang bao cỗ máy (Miêu tả những ngày
nắng)…................................................................................................................51
Như vậy, qua từng nét vẽ trong thơ Nguyễn Bình Phương, không gian của
cuộc đời thực đã hiện lên với muôn vàn hình ảnh, màu sắc, đường nét ấn
tượng. Đó là một không gian có vẻ đẹp của thiên nhiên thơ mộng, hư ảo, có
vẻ hoang vu, thâm sâu, huyền bí của núi rừng Thái Nguyên và có cái chật
hẹp của phố phường hiện đại. Không gian thơ ấy vừa cho thấy tài quan sát
tinh tế của nhà thơ, vừa gợi lên hình ảnh một cái tôi mang nặng tâm trạng
cô đơn, mệt mỏi, chán chường với những khoảng trống không thể lấp đầy
của tâm hồn.........................................................................................................51
2.2.1.2. Không gian của những giấc mơ..............................................................52
Khi bước vào thế giới thơ của Nguyễn Bình Phương, độc giả sẽ được đắm
chìm trong một không gian mông lung, xa vời đầy bí ẩn với vẻ đẹp ma mị,
được vẽ lên bởi những đường nét nhòe mờ, không đầu không cuối – không
gian của những giấc mơ. Thực ra, “không gian của những giấc mơ” là một
cách diễn đạt/ định danh mang tính quy ước, nó nhằm chỉ một kiểu không
gian mang tính đặc thù trong thơ Nguyễn Bình Phương. Ấy là một không gian
như được kiến tạo nên trong những giấc mơ không đầu không cuối, với dày
đặc những ảo giác, ảo ảnh phi thực, lạ lùng, kỳ dị… Không gian ấy có thể có
tên hoặc không tên, những cái tên hoặc xa lạ hoặc gần gũi, song chúng luôn
được bao bọc, vây phủ bởi “tiểu vùng khí hậu” mơ, mộng đặc thù ấy................52
Đó là vùng đất Linh Nham với khí núi hoang vu được nhấn chìm trong màn
sương dày đặc, cái chuếnh choáng, ướt mướt của vầng trăng đêm hiện lên
trong đêm tối thâm u cùng với tiếng vọng đầy “âm ỉ”, huyền bí của những
quả đồi già: Ai rót rượu vào trăng/ Sương như mắt thiếu phụ về dĩ vãng/
Đêm/ Lang thang lang thang lang thang/ Ngực đồi già lau lách bỏ hoang/
Nghe trong đất lời tiên tri huyền bí/ Chẳng biết dữ hay lành/ Những vì sao
âm ỉ (Linh Nham đêm)........................................................................................52
Đó là không gian vùng Định Hóa ẩm ướt những tiếng nai kêu “tận máu” tĩnh
lặng đến ghê rợn: Ừ nai kêu, nai kêu tận máu/ Trách làm chi/ Rừng ẩm/
Sương mù/ Sau mái lán một đốm vàng dần nhú/ Và tiếng trăng va xuống cỏ
mơ màng/ Và lẳng lặng (Ở Định Hóa)................................................................52
Câu thơ cho ta cảm nhận được sự va động “mơ màng” của trăng. Không phải sự
vỡ vụn, ồn ào, trăng vỡ nguyên trạng thái hiện thực của chính nó. Một mùi ẩm
mốc, thối rữa của cỏ cây, động vật bốc lên trong không khí hòa lẫn với mùi ngai
ngái, lành lạnh của sương đêm càng tăng thêm sự rờn rợn của không khí nơi đây.
Nếu hình ảnh mặt trăng, mặt trời hiện lên trong thơ Nguyễn Bình Phương với
nhiều trạng thái kỳ dị: như ai rót rượu vào trăng, trăng vàng rên xiết, tiếng
trăng va xuống cỏ, răng sao rụng như sung, …thì trong tiểu thuyết của ông,
trăng cũng mang vẹn nguyên trạng thái kỳ dị, bất thường đó: “Vừa ra đời, Tính
đã thấy trăng. Mặt trăng to bằng chiếc nong lừ lừ rọi qua vách liếp tạo thành một
quầng trong suốt…Trăng không đi hình vòng cung lên cao. Trăng tiến theo
đường thẳng, lừng lững áp lại. To bằng miệng giếng, bằng cái hủng, rồi trăng
choán kín bầu trời. Tính ngợp trong thứ ánh sáng vàng trắng, lạnh lẽo, rên
riết” [40; 14 – 15].................................................................................................52
Ngày đông là những lát cắt hư ảo, mông lung của cả người và cảnh trong đêm
đông. Nó gợi chính xác không gian đầy ảo ảnh, mơ hồ ấy. Tôi hình dung tới
những quả đồi âm u đầy sương, đầy mưa, những con người nhạt nhòa đi trong
đêm tối: Những quả đồi lơ mơ tối/ Lơ mơ vạt cỏ gianh/ Ngôi nhà rét/ Chiếc
cần giếng cong queo/…Ngoài chuồng trâu vọn tiếng cọ sừng/ Một người
nựng con/ Phát con/ Rồi ru/ Một người xách đèn đi vào sương mù....................53
Vùng đất Linh Sơn hoang vu, vắng lặng, huyền ảo với những hình ảnh mơ hồ,
kỳ dị trở đi trở lại rất nhiều trong thơ Nguyễn Bình Phương như một ám ảnh
mặc định đối với bạn đọc:...................................................................................53
Bãi tha ma Linh Sơn hoang vu............................................................................53
Cây Cậm Cam rờn xám.......................................................................................53
Cơn sốt dậy sắc hồng quái dị…...........................................................................53
(Giờ sinh).............................................................................................................53
Cái bóng nhòa nhòa quẩn trong mơ....................................................................53
Nhẹ thênh không va động....................................................................................53
Linh Sơn mênh mông...........................................................................................53
Linh Sơn những rào mây xệch xoạc….................................................................53
(Cái bóng)............................................................................................................53
Từ Linh Sơn mưa ra một cụ già...........................................................................54
Gậy trúc đầu rồng................................................................................................54
Chậm rãi tiến vào thị xã…...................................................................................54
(Thái Nguyên)......................................................................................................54
Làng Phan dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Bình Phương cũng đầy vẻ kỳ
dị, ma quái, ghê rợn với những bóng người lặng lẽ đi trong đêm tối: Làng bao
nhiêu gò đất/ Dáng nhà nằm thiêm thiếp dưới hơi trăng/ Điều gì kia/ Trú trớ /
Rùng mình/ Khuya khoắt thế còn lội ngoài đồng vắng/ Vệt lân tinh nhẹ bẫng
(Làng Phan). Khoảnh khắc rùng mình bí ẩn, tiếng “trú trớ” thoát ra từ miệng
người ngủ mê giữa đêm khua khoắt, những vệt lân tinh sáng xanh kỳ ảo cứ
loang ra trong bầu khí lạ càng làm cho không khí làng Phan như chìm trong
nỗi ám ảnh, sợ hãi mơ hồ, bất định......................................................................54
Không gian mơ hồ, xa xăm, đầy ám ảnh, kỳ dị và ma quái của làng Phan hay
Linh Nham không chỉ xuất hiện trong thơ mà còn là không gian quen thuộc
trong nhiều tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương: Bả giời, Những đứa trẻ
chết già, Người đi vắng, Thoạt kì thủy, …...........................................................54
Trong Những đứa trẻ chết già, chúng ta bắt gặp “không khí ảm đạm và lưu
cữu. Hoàng hôn trung du bao giờ cũng rề rà, mỏi mệt. Những quả đồi chầm
chậm lùi lại, chầm chậm xuất hiện. Đôi chỗ chè hoang mọc xanh đậm lên tận
chóp đồi. Hương chè nhả ra chát đặc” [34; 15]. Làng Linh Nham được miêu tả
trong tiểu thuyết là làng của những người điên đêm đêm nắm tay nhau đi thành
vòng tròn trắng đục ma quái. Cảnh vật Linh Nham luôn luôn như chìm trong ao
Lang “thì thầm đen thẫm như mặt người câm”, không khí trong làng lúc nào
cũng nghi ngút “cuồn cuộn hương khói” của mùi hương trầm tỏa ra từ ngôi
miếu thờ của dì Lãm, gốc si già đêm đêm rì rầm tiếng nói chuyện của những
hồn ma và thi thoảng lại thấy một vài bộ xương người hiện hình, nơi đó người
làng dù chết ở nơi đâu cũng lần lượt tìm về. Đó là ngôi làng vây bọc bởi sự kì
bí của con sông Linh Nham “ẩn hiện chẳng khác gì con rắn khổng lồ đang
trườn giữa rừng cây um tùm” đêm đêm gào thét, sự xuất hiện của con Nghê bí
ẩn, … Rõ ràng, kiểu không gian này đã ám ảnh tâm thức và trở thành đặc trưng
tư duy nghệ thuật về không gian của Nguyễn Bình Phương ở cả địa hạt thơ và
tiểu thuyết.............................................................................................................54
Cái tài của Nguyễn Bình Phương ở đây chính là ông đã kiến tạo một thế giới
đầy những ảo ảnh, chập chờn, vụt tắt, một thế giới tồn tại như chính nó mà
không phải là nó, hữu hình mà vô hình, hư mà thực. Tất cả đã tụ lại trong
từng câu thơ ám ảnh, quái dị: Rừng chết chìm khi mặt trời dội nắng/ Qua
tháng này xe ma sẽ đến/ Đôi rồng bay lồng lộn bụi trần/ …Nơi ấy tháp nhà
thờ đen chuông cầu nguyện/ Ai mở vòng tay sáng xanh kỳ ảo/ Đón bầy người
hốc hác/ …Ao lang câm rờn rợn/ Đêm ra nghi ngút hơi người (Bước khởi đầu
nan)......................................................................................................................55
Một thế giới trong trí tưởng tượng hay những ảo ảnh vụt hiện trong đầu đã
được Nguyễn Bình Phương ghi lại. Hệ sinh vật trong thơ ông như bị tiêm
nhiễm bởi một chất độc ma quái, chúng biến thành những linh hồn nhòa nhòa,
những bóng ma èo uột, xanh xao:........................................................................55
- Bầy ngựa phi.....................................................................................................55
Hồi chuông đen mượt..........................................................................................55
Lam chướng mọc lên ngun ngún mép thềm.........................................................55
Mái lạnh đền thiêng lặng đứng............................................................................55
Cây hay người......................................................................................................55
Rưng rưng............................................................................................................55
(Canh ngọ)...........................................................................................................55
- Xa xa đền trống.................................................................................................55
Nghê già thấp thoáng..........................................................................................55
Lưng phủ đầy rêu.................................................................................................55
Mắt tròn lá mục...................................................................................................55
Cười xô vào đâu?.................................................................................................55
(Ngỏ lần thứ nhất)...............................................................................................55
Sự xuất hiện của con người càng làm tăng thêm tính chất kỳ dị, ma quái của
không gian thơ: Họ đột ngột xuất hiện/ Tựa bóng ma thôi ra từ sương/ Đàn
ông trên lưng ngựa đen/ Đàn bà mang bạc lạnh/ Không khí kêu trầm trầm
quanh họ/ Như tiếng kêu của những con dao (Chợ núi), Qua rãnh nước thấy
vô số mặt người/ Cười không sáng buồn không ra tối/ Gã làm thuê lưng gù/
Cầm nón rách quành về đằng tây/ Nơi ấy chưa mưa nên mặt trời bị cháy/ Lũ
kiến giăng hàng ngang/ có nốt chân hờ hững/ In lên tổ kiến vàng (Mùa)…......56
Những điều lạ lùng, kỳ dị, hư ảo trong thơ Nguyễn Bình Phương như được vẽ
lên bởi những lát cắt của giấc mơ nhưng cũng mang những vẻ chân thực khó
tả. Phải chăng những ảo cảnh kỳ dị đó được nhà thơ thôi ra từ thẳm sâu trong
tiềm thức, vô thức, là bản nguyên của thế giới được tác giả sáng tạo lên trong
một hình hài mới? Rừng núi Thái Nguyên chính là nơi khơi nguồn mạch sáng
tạo ấy cho Nguyễn Bình Phương. Vẻ hoang vu, huyền ảo của vùng đất này
như gắn chặt lấy tư duy sáng tạo của tác giả “như thể không có gì làm anh xa
rời nó, những bí ẩn của vùng núi Thái Nguyên, vẻ mù mịt hoang dại của sông
nước, vẻ lạnh lẽo trong vắt của bầu khí thở, của cây lá, những chuyển dạng
âm u của mây lúc chuyển mưa giông hay chiều về, vầng trăng vàng lạnh u ẩn
đính hờ đâu đó trong bầu trời, làm kẻ chứng cho những cuộc tình đến và tan
loãng trong bầu trời ấy…” [59]...........................................................................56
Như vậy, bằng tư duy nghệ thuật độc đáo, Nguyễn Bình Phương đã tạo dựng
lên một thế giới thơ độc đáo đầy vẻ kỳ dị, huyền ảo với những ảo ảnh nhòe
lẫn, mơ hồ. Nguồn năng lượng sáng tạo ấy tạo thành một thượng nguồn thơ
thâm u, huyễn uẩn, một mạch sống riêng lẻ, một không gian thơ khác biệt,
biểu cảm. Nói như Nhã Thuyên: “Thơ Nguyễn Bình Phương không cho hiện
diện những cơn khát dục tính, cái ác từ vô minh, những tiếng nói bản năng
cùng quẫn vì bị đè nén hoặc được thả nổi đầy năng lượng và hỗn loạn trong
đời sống bỏ hoang. Vẫn là không gian của những vùng đồi âm u lam chướng,
đã quẫy đạp trong văn xuôi của anh. Hay thơ ca, cái đẹp u uẩn, vẻ giản dị
mang đầy bí mật của nó, là một phía khác của tâm hồn, một phía khác của
tình yêu, là một áng mây xa luôn vừa bay vừa phân rã, đổi hình dạng, không
thể nắm bắt và định hình” [59]............................................................................56
2.2.1.3. Một không gian tự nhiên khác thường....................................................57
Nhà phê bình Lê Hồ Quang đã chỉ ra rằng: “Việc “đọc” thơ Nguyễn Bình
Phương là một hành trình tìm đường vào cõi lạ đầy nhọc nhằn, với nhiều cảm
giác bất an, nghi hoặc. Nhưng dù có lúc cảm thấy mê man, đuối sức trên hành
trình phiêu lưu vào thế giới ấy, ta vẫn khó phủ nhận vẻ đẹp đầy ma mị của nó”
[50]. Đúng vậy, thơ Nguyễn Bình Phương là một “cõi lạ đầy nhọc nhằn”
nhưng lại có sức hút ma mị đối với độc giả. Bởi lẽ, thế giới thơ của ông ngập
tràn những biểu tượng, hình ảnh đẹp của thiên nhiên - đó là cái đẹp toát ra từ
ngôn ngữ, hệ hình ảnh kỳ lạ, khác thường mà ta chỉ thấy xuất hiện trong thơ
Nguyễn Bình Phương..........................................................................................57
Qua “con mắt khép hờ”, nhà thơ Nguyễn Bình Phương đã biến đổi hiện thực
hiện hữu trước mắt thành một “thực tại mộng mị” với một hệ sinh – thực vật
khác thường. Đó là thế giới của những: Linh miêu, con trăn gió, con hổ trầm,
con báo hoa, con hươu ma, con phượng non, con phượng đen, bầy nghê đá
cười, quạ vàng, cỏ trắng, bông hoa nâu, cây ngô đồng trăm tuổi, cây ngải
vàng, rừng tím, ong tím, ánh sáng màu hung, vầng trăng xanh, ánh sáng màu
huyết thanh, ….....................................................................................................57
Khi bước vào thế giới thơ này, độc giả vừa có cảm giác thích thú, vừa cảm
thấy rờn rợn bởi không gian:...............................................................................57
Linh Sơn/ Con trăn gió quăng mình tìm gió/ Con hổ trầm bên suối vỗ trăng/
Con phượng non mất ngủ đứng dưới gốc ngô đồng/ Cây ngộ đồng trăm tuổi/
… Khúc sông quanh ngải vàng chưa mọc/ Trời héo mòn ngự ở cành tươi
(Khách); Thiếu phụ nhìn hàng cây rờn xám/ Nhớ một con chuồn chuồn/ Nhớ
khuôn mặt đã tắt/…Không mọc cây ngải vàng/…Giữa vòm cây mận trắng/
Cơn sốt dậy sắc hồng run rẩy (Tiếng lạ)….........................................................57
Hình ảnh của những con trăn gió, con hổ trầm, con phượng non, cây ngải
vàng gợi một cái gì đó bí ẩn, huyễn hoặc. Đây là những sự vật chỉ có trong
tưởng tượng về một thế giới vời xa, ngập ngụa những ám ảnh, ma quái............58
“Nở” là một trạng thái thường gặp trong thơ Nguyễn Bình Phương. Nó phản
ánh đầy đủ chuyển động khác thường trong chính bản thân nội tại sự vật. Là
một cái gì khó diễn tả, một phương thức giao cảm của người và hệ sinh vật
tồn tại bên ngoài thế giới thực. Trạng thái này luôn gắn với một không gian rũ
buồn, mệt mỏi, với những hình ảnh kỳ dị, ám gợi: Nở/ Một con hươu sừng
cụt/ Tổ tiên của bầy hươu ma (Bước khởi đầu nan); Nở như người ác ngồi tự
lự/ Nở như nỗi buồn đi mang là môi xanh/ Nở như ngọn đèn trôi êm ru từ bãi
tha ma về (Vườn khuya)…...................................................................................58
Thế giới ấy mở ra vừa khiến ta sờ sợ nhưng lại như có một lực hút mạnh mẽ
kéo ta chìm sâu vào đó. Thế giới này khi bước vào, để hiểu và thấu nhận nó,
buộc chúng ta phải buông bỏ ít nhiều phần tỉnh táo của lý trí, khơi dậy điểm
sáng của trực giác, tâm linh và sự phiêu lưu của trí tưởng tượng: Chết làm
ngôi sao đen/ Nằm trên giường bình nhiên bí ẩn/…Ở trong khu rừng ma/ Có
những con hươu ma (Nhẹ); Con đom đóm về/ Con Cậm Cam về/ Về/ Tất cả/
Để lại hằng hà vết chân mờ sáng/ Ngược đường máu chảy (Giờ về)… Trong
không gian thơ đầy những sự vật là lùng, kỳ dị ấy, sự xuất hiện của “bầu trời
hóa thạch” càng trở nên khó lý giải hơn bao giờ hết: Mười con rồng/ Mười
cây thông đen tạc sững/ Bầu trời hóa thạch (Về trời); Những ngôi sao màu
hung/ Quay mãi vòm lá héo/…Qua ô cửa bầu trời hóa thạch/ Cái bóng già
nua lử lả tan dần (Mở lời)… Hình ảnh của mười cây thông đen, ngôi sao màu
hung, cái bóng lử lả chính là những biểu hiện “nổi loạn” mê dụ của sinh vật.
Ta tưởng tượng không gian dường như biến sắc, sự vật chuyển động dữ dội,
đứt nối trong thân xác khô khốc của chúng, bầu trời như đông cứng lại thành
mảng “hóa thạch” khổng lồ, đè nặng xuống thế giới sinh vật bên dưới. Con
người chỉ còn lại là “cái bóng già nua lử lả”, không va động, dần tan loãng đi
trong không khí....................................................................................................58
Những con chim ngủ yên trong mặt trăng bằng nước.........................................59
Mưa phùn bay giấc mơ màu ngọc.......................................................................59
(Tháng mười một)................................................................................................59
Đó là một không gian đêm thanh tĩnh, có vẻ lành lạnh của những cơn mưa
phùn. Câu thơ gợi một trạng thái bình yên hiếm thấy xuất hiện trong thơ
ông. Hình ảnh “mặt trăng bằng nước” là một hình ảnh đẹp, khác thường
của thiên nhiên, gợi lên nhiều mĩ cảm độc đáo. Đây là một mặt trăng mềm
mại, ướt át và trong suốt, gợi cảm giác êm ái vô tận giống như một thứ
nhung mềm, ấm áp, bồng bềnh. Chính trong không gian ấy, một giấc mơ
màu ngọc nhè nhẹ bay ra giữa hơi mưa phùn phảng phất. Một không gian
kỳ ảo, long lanh, một thế giới lạ lùng khẽ hiện ra trên bầu trời… Và
Nguyễn Bình Phương sẵn sàng dâng tặng “em” – nàng thơ, cả thế giới
huyền ảo, hư mặc, phiêu diêu này:...................................................................59
Một chiếc lá vàng................................................................................................60
Một vầng trăng xanh............................................................................................60
…Một dải cầu vồng trắng đen.............................................................................60
Một bụi cây không gió…......................................................................................60
(Tặng em).............................................................................................................60
2.2.2. Hình tượng thời gian................................................................................60
Thời gian nghệ thuật là phạm trù đặc trưng của văn học, là hình thức cảm
nhận thế giới của con người với một quan niệm nhất định về thế giới. Thi
pháp học hiện đại định nghĩa: “Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể
thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó,
với nhịp độ nhanh hay chậm, với các chiều thời gian hiện tại, quá khứ hay
tương lai. Thời gian nghệ thuật do được sáng tạo nên mang tính chủ quan, gắn
với thời gian tâm lí. Nó có thể kéo dài hay rút ngắn thời gian thực tế. Nó có
thể đảo ngược hay vượt tới tương lai” [52; 77]...................................................60
Thời gian của thực tế khách quan được đo bằng đồng hồ, bằng lịch… và có
tính chất vận động theo quy luật một chiều: từ quá khứ đến hiện tại, tương lai.
Còn thời gian nghệ thuật, dưới lăng kính sáng tạo chủ quan của người nghệ sĩ,
có sự vận động tự do, đa chiều hơn. Nó có thể được đảo ngược: từ hiện tại
quay về quá khứ, bay xa tới tương lai hoặc vận động theo chiều sâu tâm lí của
chủ thể sáng tạo. Thế nên thời gian nghệ thuật được đo bằng nhiều thước đo
khác nhau và nó gắn liền với tổ chức bên trong của hình tượng nghệ thuật
dưới cảm nhận chủ quan của tác giả....................................................................60
Để hiểu được thế giới nghệ thuật đòi hỏi ta phải đặt thời gian nghệ thuật trong
mối quan hệ với không gian nghệ thuật và trong mối tương quan thời gian mà
nó thể hiện. Thời gian nghệ thuật thể hiện sự cảm thụ độc đáo của tác giả về
phương thức tồn tại của con người trong thế giới và là tín hiệu để người đọc
khám phá đặc điểm thế giới nghệ thuật, tư duy nghệ thuật của tác giả...............60
2.2.2.1. Thời gian của tự nhiên............................................................................61
Trên thi đàn, bất cứ nhà thơ nào cũng bị ảnh hưởng bởi những mốc thời
gian cụ thể, nhất định. Sự chảy trôi của thời gian dù nhanh hay chậm đều
hằn in trong từng ngôn từ thơ của thi sĩ qua nhiều thế hệ. Mỗi thi sĩ đều
chọn riêng cho mình một biểu tượng thời gian rất riêng để thả hồn thơ vào
đó. Hàn Mặc Tử là nhà thơ của những đêm trăng đầy ma quái, Xuân Diệu,
Tố Hữu là nhà thơ của bình minh, Lưu Quang Vũ lại chọn riêng cho mình
bóng tối để bầu bạn............................................................................................61
Thời gian được tái hiện trong thơ Nguyễn Bình Phương một cách cụ thể, sống
động, trở thành phương thức để đi vào thế giới tâm linh của tác giả. Thời gian
của tự nhiên được thể hiện tập trung qua các hình tượng khác nhau. Một trong
những hình tượng thời gian điển hình trong thơ Nguyễn Bình Phương là đêm
(hay các biến thể của nó như bóng tối, khuya). Dường như thế giới thơ của ông
luôn ngập chìm trong thời gian của đêm, của bóng tối. Khảo sát 164 bài thơ của
Nguyễn Bình Phương, chúng tôi nhận thấy hình tượng đêm được nhắc đến 63
lần, bóng tối được nhắc đến 15 lần, khuya được nhắc đến 5 lần. Đêm được
Nguyễn Bình Phương mô tả với nhiều dạng thức khác nhau: đêm nay, đêm mưa,
đêm quẫn bách, đêm đêm, suốt đêm, đêm nằm, đêm màu lam, đêm dài, mây
đêm, nửa đêm, đêm ấy, dằng dặc đêm, cả đêm, đêm nào, đêm gào thét, đêm đêm,
đêm thứ một ngàn, đêm thành phố, đêm chầm chậm, trong đêm, đêm le lói sáng,
đêm giữa hạ, đêm đảo cánh, bóng đêm, đêm rằm, trời đêm, đêm vằn vện, đêm
ngật ngờ, đêm đo đỏ, đêm nhung huyền, đêm êm êm, … Bóng đêm giăng mắc
dày đặc trong thơ Nguyễn Bình Phương tựa như một tấm màn khổng lồ phong
kín cả không gian thơ............................................................................................61
Ngay cả tên tiêu đề những bài thơ của ông cũng có sự hiện hữu của đêm: Linh
Nham đêm, Đi đêm (I), Đi đêm (II), Khuya nào, Áo đêm, Đêm ngà ngà, Vườn
khuya, Đêm êm êm, … Điều này cho thấy tác giả đã bị ám ảnh bởi đêm, bóng
tối, một ám ảnh dai dẳng kéo đuôi dài uốn lượn tới tận những bài thơ cuối
cùng. Những trăn trở suy tư của tác giả đều được kí thác trong những câu thơ,
bài thơ viết về đêm từ tập thơ đầu tay đến tập thơ cuối cùng:.............................62
Đêm nay nước mắt giáng trần.............................................................................62
Con đom đóm nhỏ xiu đêm nay lạc mẹ................................................................62
Ngủ nhờ giấc ngủ trẻ con....................................................................................62
(Không đề)...........................................................................................................62
Đêm như hóa thân trong từng bước đi của con người:........................................62
Ai rót rượu vào trăng...........................................................................................62
Sương như mắt thiếu phụ về dĩ vãng...................................................................62
Đêm.....................................................................................................................62
Lang thang lang thang lang thang......................................................................62
(Linh Nham đêm).................................................................................................62
Qua con mắt Nguyễn Bình Phương, đêm hiện lênh sinh động nhưng kỳ lạ và
gợi lên nhiều ám ảnh: Đêm vằn vện của hổ/ Đêm ngật ngờ giấc mộng loài
chim/ Đêm đo đỏ khuôn mặt hút thuốc/ Đêm nhung êm làn nước xanh đen/
Chảy vào ngày trắng xóa (Đêm êm êm)…..........................................................62
Thông thường, đêm trong cuộc sống đời thực là khoảnh khắc lắng đọng lại
sau một ngày dài của cuộc sống thường nhật xô bồ, là khoảng thời gian tĩnh
tại tâm hồn, đem đến không gian yên tĩnh nhất để con người có thể suy ngẫm
nhưng đêm trong thơ Nguyễn Bình Phương lại chứa đựng những điều bí ẩn,
nhiều dự cảm bất an: Đêm ấy gái làng nhìn trăng buồn rười rượi/ Đêm ấy
đám người điên/ Khơi lên ngọn lửa hoang lạnh lẽo/ Đêm ấy những hàng cây
đại thụ/ Long rễ và héo úa (Giờ sinh); Và đêm nay/ Đêm thứ một ngàn/ Trẻ
con không ngủ/ Tìm đến nhau rồng rắn lên mây (Thái Nguyên)….....................62
Đêm đã trở thành biểu tượng thế giới mới, nơi con người chìm sâu trong đó
để suy tư về bản thể, về cuộc sống quá khứ, hiện tại và tương lai:.....................63
Những suy luận điên rồ rồi sẽ chìm sâu..............................................................63
Còn hơi thở đầu tiên và ý nghĩ............................................................................63
Tôi là con đường chông gai chưa ai đi................................................................63
Vươn về em..........................................................................................................63
trong đêm.............................................................................................................63
tôi.........................................................................................................................63
tự sáng.................................................................................................................63
(Tự sáng)..............................................................................................................63
Đêm cũng là khoảnh khắc mà tâm hồn thấy trống trải và cô đơn nhất để người
ta tìm đến thơ, trải nghiệm nỗi lòng. Đêm là thời khắc cái tôi đối diện với
chính mình, đối diện với nỗi cô đơn, đương bủa vây, giăng mắc trong từng
ngóc ngách tâm hồn. Đây cũng chính là thời khắc của những hỗn hợp cảm
xúc và suy nghĩ khó có thể định hình và phân biệt. Đọc thơ Nguyễn Bình
Phương ta mới tìm thấy những phút trải lòng đầy hoang hoải của tác giả: Tại
sao phải có đêm / Để phải ngủ (Khách); Trống trải/ Chiếc áo sơ mi khoác hờ
lên bóng đêm/ Là anh đấy (Nói với em từ trống trải)….....................................63
Thời gian đêm phủ trùm toàn bộ không gian thơ Nguyễn Bình Phương, đêm
xuất hiện đậm đặc nhất ở các tập thơ đầu Lam chướng, Khách của trần gian,
Xa thân. Cùng với sự ảo mờ của hơi sương, u uẩn của khí lam chướng, đêm
(khuya hay bóng tối) đã tham gia vào tạo hình cho một bức tranh thơ đẹp
huyền ảo, mang vẻ đẹp ma mị, ám ảnh không dứt. Cái tôi Nguyễn Bình
Phương như bị thôi miên để rồi đi lạc mãi trong bóng đêm. Đối diện với bóng
đêm, cái tôi đầy chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời và con người của ông mới
thực sự được đánh thức. Phải chăng Nguyễn Bình Phương đã tìm được lực
hấp dẫn từ trong đêm tối hay chỉ có trong đêm, cái tôi của ông mới thực sự
được trở về đúng với bản nguyên thuần khiết của mình?....................................63
Hồn thơ Nguyễn Bình Phương và Dương Kiều Minh đều có sự gặp gỡ nhau
trong khoảng đêm. Họ là những người gác cổng trung thành của đêm.
Tưởng tượng trong một thế giới phía bên kia bóng đêm, hai tâm hồn thi sĩ
gặp nhau, họ hàn huyên, tâm sự và chiêm nghiệm về nhân sinh, cuộc đời.
Dương Kiều Minh không thiếu những vẫn vần thơ như thế: Chúng ta kẻ tìm
hình bắt bóng?/ Trong cái đêm khổng lồ/ Trong cái đêm đổ vỡ/ Chúng ta
tự kiếm tìm/ Lưng chừng đêm … Như kẻ quỷ ám/ Nửa đêm tỉnh dậy bàng
hoàng (Bày tỏ)…................................................................................................64
Càng về sau, đêm càng thưa thớt, thay vào đó là sự xuất hiện dày đặc của
những khoảng thời gian mới: chiều, ban mai, bình minh, hoàng hôn, …Hình
ảnh chiều xuất hiện 15 lần, ban mai (hay ngày mai) xuất hiện 14 lần. Sự trở đi
trở lại của khoảng thời gian: chiều, bình mình, hoàng hôn, dĩ vãng, …không
mang lại những niềm vui, bình an trong tâm tưởng mà ngược lại, nó gợi về
những hồi ức buồn, chứa đựng nhiều ám ảnh, những dự cảm chia ly, sự buồn
thương: Không em/ Chiều thành chiều của ngày xưa/ Ý nghĩ là sông suối của
chiều/ …Không em/ Con chim gì tiếng hót như tiếng mưa/ Bóng tối gì như
bóng tối giữa đài hoa (Không em); Chiều lặng lẽ chảy xuôi về phố cũ/ Ngủ
giấc dài trong ly rượu nhỏ/Đá xanh cười nhoẻn miệng (Vĩnh cửu)…................64
Thời gian tương lai trong thơ Nguyễn Bình Phương cũng được nhắc tới qua
nhiều cách diễn đạt khác nhau: ban mai trắng, ngày mai, sớm mai, sau ban
mai, mai sau, …...................................................................................................64
Ngày mai câu một ngày mai khác.......................................................................64
Bằng gương mặt lơ vơ.........................................................................................64
(Buổi câu hờ hững)..............................................................................................64
Một giấc mơ lập lòe lập lòe.................................................................................65
Như tôi với em.....................................................................................................65
Sau ban mai chầm chậm hiện…..........................................................................65
(Tặng em).............................................................................................................65
Nguyễn Quang Thiều cũng bị ám ảnh bởi ban mai, ông chọn ban mai làm thời
khắc để “ra đi”, phiêu diêu tự tại trong thế giới xa xăm ngoài kia: Vào lúc ban
mai anh sẽ ra đi khỏi thế gian này, chuyến đi kỳ vĩ/ Cờ sẽ rực rỡ biết nhường
nào, âm nhạc sẽ tinh khiết đến nhường nào/ Giống cậu bé ham chơi/ trốn cha
mẹ ra khỏi giường ngủ, anh đi bằng cách nhón chân của mèo hoang/ Và cúi
xuống bên em đang thiếp ngủ, thì thầm anh nói:/ Đời sống này đôi lúc buồn
hơn cái chết (Buồn hơn cái chết)….....................................................................65
Năm 1965............................................................................................................65
Tháng Giêng.......................................................................................................65
Ngày 29................................................................................................................65
Con rắn mào rời núi............................................................................................65
Một chú bé ra đời cười sằng sặc.........................................................................65
…..........................................................................................................................65
(Giờ sinh).............................................................................................................65
Vào lúc sáu giờ ba mươi phút.............................................................................65
Người con trai thất tình uống rượu.....................................................................65
Khẩu K54 hiền lành trong túi áo.........................................................................65
…..........................................................................................................................65
(Chết)...................................................................................................................65
Nhan đề nhiều bài thơ của Nguyễn Bình Phương cũng cho ta thấy được sự ám
ảnh về thời gian luôn phủ trùm thế giới thơ ông: Viết lúc chín giờ, Một mùa
hè mọi thứ áp vào nhau, Bài mùa thu đầu tiên, Xuân ý, Ngày đông, Mùa,
Những ngày cô quạnh, Tháng mười một, Canh Ngọ, Tâm trạng ngày, Miêu tả
những ngày nắng, Miêu tả những ngày mưa, …Vòng tuần hoàn linh hoạt của
tạo hóa qua bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông, dưới ngòi bút của Nguyễn Bình
Phương hiện lên với nhiều vẻ màu khác biệt:.....................................................66
Những buổi chiều lạc nhau trong ảo ảnh xa vời.................................................66
Trong giận dỗi cây xanh xao mất ngủ.................................................................66
Tôi cắm hoa cúc mùa đông em nghiêng về.........................................................66
xương rồng ngày thu...........................................................................................66
Tôi ngả sang mùa hè em quay vào tháng Chạp…..............................................66
(Những chiều mờ)................................................................................................66
và chứa đựng nhiều bí mật:.................................................................................66
Cuối cùng.............................................................................................................66
không ai nói cho lũ trẻ biết bí mật của ngày hè..................................................66
…Cuối cùng.........................................................................................................66
mùa hạ cũng giữ được cho riêng mình...............................................................66
một buổi chiều lành lạnh.....................................................................................66
(Ở nơi không có cánh).........................................................................................66
Đó là khoảng trống khẽ khàng, êm ru trong giấc mơ nhè nhẹ về mùa hạ năm
ấy: Ngủ/ Và mơ/ Mùa hạ/ Chạm vai mình rất khẽ/ Lời chia tay năm ấy chẳng
rõ ràng (Bài thơ cho một khoảng trống).............................................................66
Đêm tối chính là khoảnh khắc để nỗi nhớ định hình và thống trị tâm trạng của
nhà thơ. Cái giá rét lạnh lùng của mùa đông lại vô tình nuôi lớn nỗi cô đơn.
Chính trong lúc cô đơn ấy, nỗi nhớ nhung mới trở nên da diết đến ám ảnh:
Rượu một mình/ Mùa đông đỡ hoang tàn/ Nhớ tới em bằng câu thơ lạnh/
Ngày mai ta không đủ sức buồn/…Thế rồi vắng cả thời hoa niên/ Thế rồi
không đêm bông trăng vẫn nở/ Muôn trùng muôn nơi/ …Một chút rượu nồng/
Say hết mùa đông (Rượu một mình)....................................................................66
Cái tôi càng cô đơn, càng giam mình trong bóng tối, nơi không gian chật hẹp,
tù túng cùng với vòng quay vội vã của thời gian càng làm cho con người cảm
thấy mỏi mệt, rã rời hơn: Buổi sáng nhiều nắng/ Còn sót lại trên vòm cây
khuôn mặt tối cái nhìn hằn học/ Những đồng bạc tròn quay quay hối hả/Về
với căn phòng treo áo lạ/ Nơi chưa ngày đã ban mai/ Chưa ban mai đã
chiều (Sinh nhật).................................................................................................67
Sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố thời gian trong thơ ông nhằm tô đậm
những suy tư, trăn trở, đặc biệt nó diễn tả những khoảng trống cõi lòng mênh
mông, vô định, cô đơn đến hoang hoải trong lòng người. Đây cũng là điểm
hấp dẫn trong thơ Nguyễn Bình Phương. Ở thơ ông, ý thức cá nhân về sự
chảy trôi của thời gian rất mạnh mẽ. Nó gắn liền với ý thức về việc xác lập
một thế giới của tương lai, thế giới bên kia của những giấc mơ, những hoài
niệm đã mất.........................................................................................................67
2.2.2.2. Thời gian của thân phận con người – “khách của trần gian”.....................67
Không chỉ ghi lại những mốc thời gian chính xác, tuần tự của tự nhiên, thơ
Nguyễn Bình Phương còn là dòng chảy lặng lẽ, dở dang, ám ảnh, huyễn uẩn,
thời gian của thân phận con người – “khách của trần gian”................................67
Trong thế giới thơ hằn in dấu chân của những vị “khách của trần gian” ấy,
thời gian dường như mất đi tính chính xác vốn có. Sự xuất hiện của những
khoảng giữa thời gian cùng với khoảng thời gian đặc trưng, ám gợi như:
ngoài bóng tối, giữa hoàng hôn, giữa trời đông, sau ban mai, ngoài ban mai,
cuối chiều, qua mùa hạ, hoàng hôn bỏ ngỏ, hoàng hôn bất tận, ngày mai chết
lặng, … Hình tượng thời gian đầy ám ảnh này đã gợi lên sự chênh vênh của
tâm hồn người, của thân phận “khách của trần gian” giữa một khoảng không
vô định, bất an. Đó là thời gian của thế giới mới – thế giới nằm giữa ranh giới
của con người và vũ trụ, hạnh phúc và khổ đau, hữu hình và vô hình, …
Những khoảng giữa thời gian này cứ xuất hiện lớp lớp gợi lên nhiều day dứt,
đứt nối:.................................................................................................................67
- Công Cống đi ngang thăm lại mẹ già...............................................................68
Bao nhiêu đất cháu đất bà...................................................................................68
Lũ lượt cõng nhau vào hoàng hôn bỏ ngỏ…......................................................68
(Ngỏ lần thứ nhất)...............................................................................................68
- Ký ức tết tóc đuôi sam.......................................................................................68
Đi hài cỏ nhẹ nhàng qua mùa hạ........................................................................68
Nhớ không............................................................................................................68
Mây lành như trẻ.................................................................................................68
Hoàng hôn là lãng quên…..................................................................................68
(Đề từ cho một bức ảnh đen trắng).....................................................................68
- Tôi cắt tóc..........................................................................................................68
Buông lơi.............................................................................................................68
Khuôn mặt ngoài mùa hạ....................................................................................68
Sau bức tường kia những sự thật đã già…..........................................................68
(Cắt tóc)...............................................................................................................68
Đêm tối ẩn chứa tất cả những bí ẩn, sự hỗn mang, sự dày vò, sự hoảng sợ, sự
suy tưởng và cả vùng mờ mà con người chưa khám phá được. Thời gian dưới
con mắt của vị khách trần gian giống như một bóng ma không hình hài, cứ
phiêu dạt, lang bạt khắp cõi người này. Đó là sự di chuyển lẻ loi, đầy cô độc:
.............................................................................................................................68
Đêm.....................................................................................................................68
Lang thang lang thang lang thang…...................................................................68
(Linh Nham đêm).................................................................................................68
Cái tôi của thân phận con người luôn suy tư về sự vận động của thời gian,
cảm nhận về thời gian qua những bước đi sống động: Những cơn hoang
tưởng mờ/ Lảy bảy chết dọc theo kim phút/ Những tích tắc cố rướn thêm một
nhịp/ Rồi ngã vào hư không/…Nhưng ở nơi trống không rờn rợn ấy/ Nơi chết
lặng/ Vẫn tích tắc, tích tắc, tích tắc (Kẻ ngoài cuộc).........................................69
Ở một góc quan sát, “tôi” thấy bước chân của thời gian chợt run “lảy bảy”
theo từng cú nhích nặng nề, mỏi mệt của kim phút. Mọi cố gắng vượt thoát
khỏi bước đi chậm chạp của thời gian – kim phút, chỉ là một sự cố gắng vô
nghĩa, để rồi lại “ngã vào hư không” tăm tối, mơ hồ. Tuy nhiên, ở nơi “trống
không rờn rợn” ấy, dấu vết của thời gian vẫn âm ỉ, đều đều. Bằng sự phiêu lưu
của trí tưởng tượng, Nguyễn Bình Phương đã thể hiện những chiêm nghiệm,
suy tư sâu sắc của mình về cuộc đời, về thân phận con người qua từng bước đi
của thời gian........................................................................................................69
Cuộc đời, kiếp người vốn vô thường. Giữa cuộc sống bề bộn lo âu, dự
cảm bất an này, con người luôn mong muốn được chạy trốn thời gian thực
tại để thả lỏng tâm hồn vào chốn xa xăm mơ hồ, sống một cõi khác: Họ
không tới ngày mai những ngày mai chết lặng/ Lồng ngực thời tiết trái
tim chẳng rộn ràng/ Trái tim đập lầm lụi dưới gót chân/ Sau mỗi bước
cửa thời gian rùng mình lại mở/…Họ gánh muôn sặc sỡ/ Đi êm ru về
phía tờ mờ (Hàng mã rong)..............................................................................69
Thời gian trong thơ Nguyễn Bình Phương là thời gian của ám ảnh, khát vọng
và nuối tiếc “mơ màng”: Trong thời khắc cuối cùng của mùa đông/ Anh giã
từ chính mình thật khẽ khàng/ Và anh là núi đồi mơ màng/Chưa lìa xa bóng
tối (Ban mai)........................................................................................................69
Cũng ở đây, con người rũ bỏ mọi vướng vất, cồng kềnh của thể xác, “khẽ
khàng” giã từ chính hình hài chân thực của mình để tan vào núi đồi trong
trạng thái “mơ màng”. Con người, thiên nhiên đã hòa vào nhau trong một nhất
thể có tên “ban mai”. “Thời khắc cuối cùng của mùa đông” gợi lên nhiều dự
cảm buồn..............................................................................................................69
Tồn tại song song với sự chảy trôi của thời gian, con người luôn muốn tìm về
với một bản thể khác, “xa thân” bằng nhiều cách, thành nhiều trạng thái khác
nhau. Từ đó, con người có thể tan loãng vào ngoại giới. Không còn ranh giới
giữa ánh ban mai hay chiều tà và anh. Thời gian đã lên tiếng chối bỏ mọi
ranh giới của nó trong cuộc đời này:...................................................................70
Không phân biệt cánh chim và cánh cửa............................................................70
Dĩ nhiên không phân biệt.....................................................................................70
Ánh ban mai với chiều tà, anh…........................................................................70
(Không phân biệt)................................................................................................70
Câu thơ đã cho thấy cái nhìn mới về thời gian, cuộc đời của con người, mong
muốn xác lập một thế giới ở “bên kia mùa hạ”hay “giữa hoàng hôn” – nơi tất
cả chỉ còn là hư vô, con người tìm thấy chính bản nguyên của mình.................70
Định nghĩa về thời gian – ngày mai qua nhãn tự của Nguyễn Bình Phương
mang những dấu ấn rõ nét, là thời gian của thân phận con người – “khách của
trần gian”:............................................................................................................70
Bà già lưng còng..................................................................................................70
Mặt trời bò trên lưng bà sang bên kia.................................................................70
làm thành cái ngày mai…...................................................................................70
(Khách)................................................................................................................70
Đây hẳn là một “ngày mai” đầy ám ảnh trong tâm thức con người. “Mặt trời”
- biểu tượng thiên nhiên vĩ đại, hóa thân trong những đường di chuyển của ốc
sên, bằng những đường “bò” chậm chạp, từ tốn, nặng nề trên lưng bà già lưng
còng. Sự tưởng tượng và góc miêu tả của câu thơ rất độc đáo. Câu thơ đầy sức
nặng, gợi liên tưởng về những áp lực của thời gian lên thân phận con người
nhỏ bé, tội nghiệp................................................................................................70
Là nhà thơ luôn mang trong mình ám ảnh của thời gian, Nguyễn Bình Phương
thể hiện trong thơ những nỗi buồn hoang hoải về thời gian. Thời gian dù trôi
nhanh, trôi chậm hay ngưng đọng đều ẩn chứa trong nó tâm trạng nặng nề,
nỗi niềm suy tư và trăn trở của những vị khách viếng thăm trần gian:...............71
Không đủ thời gian về thăm ký ức.......................................................................71
Không đủ sức cuỗm em........................................................................................71
Trăm bàn tay già nua giằng níu….......................................................................71
(Chốn xa người)...................................................................................................71
Thời gian trong thơ Nguyễn Bình Phương là cái cớ để tác giả thể hiện những
suy tư, chiêm nghiệm của mình về cuộc đời, con người. Cái tôi nhà thơ như
muốn đi ngược lại với quy luật của tự nhiên, giữ lại cho mình những khoảnh
khắc để có thể cảm nhận rõ hơn sự chảy trôi vô định của thời gian. Sự ngưng
đọng của thời gian cũng khiến cho những suy tư chiêm nghiệm về cuộc đời và
phận người thêm sâu sắc, những nỗi buồn, dự cảm xa cách, những bất an cũng
trở nên ám ảnh và kéo dài hơn. Hình tượng thời gian trong thơ Nguyễn Bình
Phương luôn là một màn đêm đầy bí ẩn, mê hoặc...............................................71
Nói thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bình Phương là thời gian tâm lý
quả không sai. Bởi lẽ, sau mỗi khoảng thời gian được tái hiện, ta thấy xuất
hiện thấp thoáng khuôn mặt ưu tư, trầm ngâm, mệt mỏi của tác giả. Trên mỗi
trang thơ của mình, viết về thời gian, nhà thơ thể hiện đa dạng dòng cảm thức
đầy mâu thuẫn. Thời gian trong thơ Nguyễn Bình Phương không theo nhịp
trôi chảy của thời gian tuyến tính mà luôn có sự đan xen, lặp lại như một ám
ảnh không dứt của nhà thơ...................................................................................71
Sự xóa mờ những mốc thời gian cụ thể, xác thực trong thơ Nguyễn Bình
Phương nhằm thể hiện những chiêm nghiệm của tác giả về thế giới, về con
người. Đó là một thế giới đầy sự rối ren, mập mờ với vô vàn những bất trắc, u
uẩn luôn ám ảnh con người. Với Nguyễn Bình Phương, thế giới được dựng
lên trong từng trang thơ của ông chính là nơi con người có thể rũ bỏ mọi hình
hài khô cứng của mình để trở về trong một trạng thái hoàn toàn thanh sạch,
nhẹ tênh, không vướng bận, nơi con người có thể “xa thân” theo cách của
chính mình. Và cũng ở đó, “nhà thơ dường như đã trình bày nguyên trạng cái
trạng thái “xa thân” của chính mình để “hồi lại” trong một trạng thái hiện sinh
khác, ở đó, mỗi “khách của trần gian”, nói theo cách của ông, có thể “mở lời”
trong những “tiếng lạ” ”[44]................................................................................71
2.2.3. Hình tượng con người..............................................................................72
Tiểu kết chương 2..............................................................................................86
Chương 3.............................................................................................................87
NGÔN NGỮ, KẾT CẤU VÀ BÚT PHÁP TẠO HÌNH..................................87
TRONG THƠ NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG....................................................87
3.1. Ngôn ngữ.....................................................................................................87
3.1.1. Cách sử dụng từ láy..................................................................................87
Trót gửi vào sương khói.......................................................................................90
Giữa mênh mông vịn nắng đợi âm thầm.............................................................90
Con tim nhỏ nhoi, con tim thui thủi lắm............................................................90
Hạnh phúc hoa treo mép vực mơ màng..............................................................90
(Nhập chiều)........................................................................................................90
Với sự xuất hiện của những từ láy độc, lạ, thế giới thơ của Nguyễn Bình
Phương nhuốm một màu hư ảo, ma mị, mông lung, khiến độc giả như bị
vướng vào thế giới ta bà: Làng bao nhiêu gò đất/ Dáng nhà nằm thiêm thiếp
dưới hơi trăng/ Điều gì kia/ Trú trớ / Rùng mình/ Khuya khoắt thế còn lội
ngoài đồng vắng/ Vệt lân tinh nhẹ bẫng (Làng Phan) ; Bầy ngựa phi/ Hồi
chuông đen mượt/ Lam chướng mọc lên ngun ngún mép thềm/ Mái lạnh đền
thiêng lặng đứng/ Cây hay người/ Rưng rưng/…Cô gái vặn lưng uể oải soi
đèn/ Người già nhả khói/ Luồng gió lao rừng rực…(Canh Ngọ).......................93
Điểm dễ dàng nhận ra trong thơ Nguyễn Bình Phương đó chính là sự dày
đặc các tính – động từ: đen ngùn ngụt, rì rầm đen, xanh mơ màng, xanh
chói lọi, sắc hồng run rẩy, mơn man sáng, đỏ trập trùng, hồng lang thang,
vàng mơ mộng, …tạo nên sức quyến rũ về âm điệu, độ mơ hồ của chữ
nghĩa, khởi thành những luồng thơ óng ả, trôi tuột vào thế giới cảm giác
của con người......................................................................................................94
Các cách kết hợp từ ngữ “nghịch dị”, ngẫu hứng, buông thả lý trí như: khoảng
trống mỡ màng, vực thẳm lặng lờ, quãng dài tê mê buông thả, khuôn mặt
miên man, sống mũi lạnh lùng, ngón thon gầy mát mượt như tơ, câu hỏi ngân
nga, mùa hè thấp thỏm, cuộc tình nôn nao chia ly, đường cong day dứt, quả
chuông âm thầm, …đã mang đến cho thơ Nguyễn Bình Phương một sắc thái
thẩm mĩ độc đáo, đồng thời cũng gợi lên nhiều khoảng trống, những mơ
mộng, bất an, nghi hoặc:......................................................................................94
Đây những hàng rào dang dở.............................................................................94
Lắng nghe lời bí mật tròn vành...........................................................................94
Tóc xưa giờ đã lạnh.............................................................................................94
Với nỗi buồn tình yêu thủy tinh............................................................................95
Đây sóng thần chờ anh nơi góc bàn....................................................................95
mênh mông thanh tĩnh........................................................................................95
…..........................................................................................................................95
Mây đêm bay về phía chân trời...........................................................................95
Chân trời run rẩy sáng…...................................................................................95
(Thật xa xôi).........................................................................................................95
Để xây dựng một thế giới nghệ thuật độc đáo, bên cạnh thao tác sử dụng các
lớp từ miêu tả, thơ Nguyễn Bình Phương còn sử dụng đa dạng các biện pháp
tu từ như: điệp, ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, phóng đại, …Ông đã phát huy tối đa
vai trò của các biện pháp tu từ trên, làm cho những câu thơ của ông mang đầy
ấn tượng và có sức ám ảnh lớn............................................................................95
Điệp từ, điệp ngữ là thủ pháp xuất hiện ở hầu hết các bài thơ của ông. Đó là
sự lặp lại một đơn vị từ ngữ ở rất nhiều câu, song không làm cho câu thơ của
Nguyễn Bình Phương trở nên nhàm chán: Tặng em một chiếc lá vàng/ Một
vầng trăng/ Một khuôn mặt xanh/ Một chiếc lá/ Một cô gái mơ màng trống
trải/ Một con mèo hoang đợi chủ bên thềm/ Một dải cầu vồng trắng đen/ Một
bụi cây không gió/ Một giọt nước miên man/ Một im lặng (Tặng em). “Một”
được điệp lại ở vị trí đầu câu thơ của toàn bài thơ. Đó là một sự liệt kê những
sự vật, hiện tượng mà “anh” muốn tặng cho “em”. Tất cả đều là những sự vật
gợi trạng thái nhẹ nhàng, dịu dàng, yên bình. Đó chính là sự phân tách của
những sự vật của một thế giới trong mơ mộng mà “anh” muốn dành hết cho
em. Qua đây chúng ta thấy được tình cảm dạt dào, nồng nàn, chung thủy của
chủ thể trữ tình. Trong Vĩnh biệt, Nguyễn Bình Phương cũng sử dụng thuần
thục vai trò của biện pháp điệp: Vĩnh biệt mùa hè con đường đi ngược/ Vĩnh
biệt phút khổ đau khi đối thoại với thầy/ Vĩnh biệt ánh trăng góc vườn héo rũ/
Vĩnh biệt những quả chuông/ Ta cắt dây/ Ngàn vạn giọt mưa rơi xuống/
Ngủ…ngủ…ngủ (Vĩnh biệt).................................................................................95
3.2. Kết cấu.........................................................................................................99
3.2.1. “Mờ hóa” cái tôi trên bề mặt văn bản nhằm tiết chế tối đa tính trữ tình...........99
3.2.2. Đẩy biểu tượng lên bình diện thứ nhất của kết cấu nhằm tô đậm
tiếng nói tự thân của biểu tượng......................................................................101
Qua con mắt thẩm mĩ độc đáo, nhà thơ đã nhìn thấy vô số điều tưởng chừng
như rất đơn giản, mộc mạc nhưng lại mang tính biểu trưng rõ nét. “Những ô
cửa sổ nghiêng” là hình tượng như vậy: Tôi chờ em bên hàng rào trường cũ/
Lớp học mở ra những ô cửa sổ nghiêng/…Rằng khu trường ngày càng lầm
lụi/ Những ô cửa sổ nghiêng vẫn mở/ Vô số bầu trời bí mật lại trôi qua (Tự sự
và những ô cửa sổ nghiêng)...............................................................................103
3.2.3. Thường xuyên tạo nên sự “đứt mạch” trong liên tưởng, diễn đạt............105
3.3. Bút pháp tạo hình.....................................................................................107
3.3.1. Tô đậm vẻ kỳ dị, lạ lùng, siêu thực của sự vật, hiện tượng..................107
3.3.2. Đặt sự vật, hiện tượng trong những liên tưởng bất ngờ, trái chiều.............110
3.3.3. Dùng mơ mộng, tưởng tượng như một biện pháp tạo hình......................113
3.3.4. Nhấn mạnh sự tương giao và chuyển đổi cảm giác giữa các sự vật, hiện
tượng..................................................................................................................115
Thiếu phụ quay đi xanh mơ màng......................................................................115
Bỏ lại hồ thẳm xanh...........................................................................................115
Tiếng xanh..........................................................................................................115
Giữa vòm cây mận trắng...................................................................................116
Cơn sốt dậy sắc hồng run rẩy............................................................................116
(Tiếng lạ)............................................................................................................116
3.3.5. Coi trọng mục đích gợi cảm, gợi nghĩ hơn tả thực....................................117
Tiểu kết chương 3............................................................................................120
KẾT LUẬN.......................................................................................................122
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................125
1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong nghiên cứu, phê bình văn học hiện đại, tiếp cận thơ ca từ góc
độ thi pháp là một hướng nghiên cứu khá mới mẻ. Nó góp phần nâng cao
năng lực chiếm lĩnh các giá trị văn học cho người đọc, mở rộng khả năng cảm
thụ tác phẩm, chiếm lĩnh đặc trưng bản chất nghệ thuật. Nghiên cứu thơ ca từ
góc độ thi pháp đã loại bỏ sự cảm nhận tác phẩm tùy hứng, ngẫu nhiên, đưa
việc nghiên cứu văn chương vào trong một thể thức, khuôn khổ nhất định,
mang tính tiêu chuẩn. Thơ Việt Nam sau 1975 là giai đoạn thơ có nhiều cách
tân mới mẻ cả về nội dung tư tưởng lẫn hình thức thể hiện. Sự xuất hiện của
hàng loạt các nhà thơ trẻ với những đổi mới về quan niệm sáng tạo và cách
tân về hình thức đã đẩy việc nghiên cứu thơ ca từ góc độ thi pháp phát triển
thêm một bước mới.
1.2. Trong văn học Việt Nam hiện đại, 1975 là mốc thời gian hết sức
quan trọng đánh dấu những sự kiện lịch sử - chính trị, lớn lao của đất nước và
đồng thời, cũng ghi dấu sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức, tư tưởng của
giới trí thức, văn nghệ sĩ. Nắm bắt được những đòi hỏi và thách thức của sinh
hoạt xã hội cùng với những đổi mới về thời cuộc, xu hướng nhận thức lại bản
thân và nhận thức lại thơ đã được các thế hệ nhà thơ nhiệt tình ủng hộ. Theo
đó, hàng loạt cuộc thử nghiệm trong thơ ca đã được khơi dậy. Các nhà thơ đã
nỗ lực phấn đấu và dấn thân vào con đường sáng tạo, tìm cho mình một
hướng đi phù hợp, nơi mà cái tôi bản thể được tự do quẫy đạp trong bể tràn
ngôn ngữ thơ. Sự sáng tạo và cách tân mới mẻ của thơ ca sau 1975 đã góp
phần khẳng định nhân cách, tài năng của người nghệ sĩ, đồng thời những cách
tân đổi mới thơ ca này cũng góp phần hình thành nên một hệ hình thi pháp
thơ mới – hệ hình thi pháp thơ sau 1975.
2

1.3. Nhà thơ Nguyễn Bình Phương là một trong số những gương mặt
cách tân tiêu biểu của thơ Việt Nam sau 1975. Ông là một tác giả có quan
niệm, tư tưởng sáng tạo hết sức mới mẻ, độc đáo. Điều này chi phối rất rõ đến
thế giới nghệ thuật thơ ông, với hệ thống hình tượng cũng như bút pháp, ngôn
từ, thi ảnh… riêng biệt, không trộn lẫn. Nhắc đến thế hệ thơ đổi mới sau 1975
không thể không nhắc đến Nguyễn Bình Phương.
Tuy nhiên, cho đến nay, bởi nhiều lý do, thơ Nguyễn Bình Phương vẫn rất ít
người tìm hiểu, đặc biệt trên phương diện thi pháp. Vì những lí do trên, chúng tôi
quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài: Thi pháp thơ Nguyễn Bình Phương.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nguyễn Bình Phương là cây bút có nhiều đóng góp nổi bật trong hành
trình cách tân chung của văn học Việt Nam đương đại. Ông viết nhiều thể
loại: thơ, tiểu thuyết… Nghiên cứu thơ Nguyễn Bình Phương đã có rất nhiều
công trình, bài viết mang tính học thuật cao, thu hút được sự quan tâm của
giới nghiên cứu văn học.
Bên cạnh các công trình, bài viết tìm hiểu và tập trung khai thác về tiểu
thuyết của Nguyễn Bình Phương, thơ cũng là một lĩnh vực nhận được sự quan
tâm của các nhà phê bình.
Các công trình nghiên cứu về thơ của Nguyễn Bình Phương không nhiều.
Sau đây, chúng tôi sẽ trình bày những ý kiến nhận xét, đánh giá tiêu biểu.
Tác giả Lê Hồ Quang trong bài Đọc thơ Nguyễn Bình Phương đăng trên
Tạp chí Thơ đã nhận định: “Đọc thơ Nguyễn Bình Phương không dễ…việc
“đọc” thơ Nguyễn Bình Phương là một hành trình tìm đường vào “cõi lạ” đầy
nhọc nhằn, với nhiều cảm giác bất an, nghi hoặc. Nhưng dù có lúc cảm thấy
mê man, đuối sức trên hành trình phiêu lưu vào thế giới ấy, ta vẫn khó phủ
nhận vẻ đẹp đầy ma mị của nó. Nó đánh thức và mở ra những đường biên
ranh giới khác, độc sáng, trong cách ta tri giác về thế giới” [44].
3

Tác giả Đoàn Minh Tâm với Nguyễn Bình Phương – Một hồn thơ “tinh
quái”, lại đặc biệt chú ý đến dấu ấn của “thiền” tập trung ở tập thơ Buổi câu
hờ hững của Nguyễn Bình Phương. Theo tác giả: “Tâm thế Nguyễn Bình
Phương trải giữa một bên là hiện thực cuộc sống và một bên là những trạng
thái tĩnh lặng mang dấu ấn thiền - nỗi day dứt về tự thân bộc lộ qua câu thơ
mà tôi cho là đề từ của thi tập này: Đó là đời hay thơ/ Đó là anh hay Phật?
Đôi lúc có cảm giác như ở bất cứ đâu, trong bất cứ hoàn cảnh nào, suy tưởng
của Nguyễn Bình Phương đều hướng về thiền” [54].
Nhã Thuyên trong Phía khác của mặt trăng đã nhận xét về thế giới thơ
Nguyễn Bình Phương như sau: “Thế giới thơ của Nguyễn Bình Phương
không phải là một hư cấu, nó là một hiện thực khác. Nó có hệ sinh vật riêng,
vừa trùng khít với không gian sống của con người, vừa trở nên khác biệt: linh
miêu, con hươu ma, những quả đồi lơ mơ, ngôi nhà rét, sương mù, khuôn mặt
xanh, những ngôi sao màu hung…”. Tác giả còn nhấn mạnh: “Sự khó hiểu
của thơ Nguyễn Bình Phương, nếu có, có thể có nguyên nhân từ chính người
đọc (thơ): chúng ta thường lơ là việc nhìn ngắm chính cảm giác của mình đến
nỗi, khi lạc vào một thế giới của một tâm hồn khác, ta vẫn giữ thói quen quan
sát và nhìn ngắm một cái gì xa lạ, một cái gì ngoài ta” [59].
Luận văn thạc sĩ Thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Bình Phương của Phạm
Ngọc Lan, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã đi sâu tìm hiểu thế giới
thơ của tác giả Nguyễn Bình Phương, phân tích các yếu tố làm nên thế giới
nghệ thuật thơ trên các phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật. Đồng
thời luận văn cũng chỉ ra mối quan hệ giữa thế giới nghệ thuật thơ và thế giới
nghệ thuật tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương.
Nông Hồng Diệu trong bài viết Nguyễn Bình Phương: Sống bình thường,
viết không bình thường, đã nhận định: “Chẳng dại khen văn chương Nguyễn
Bình Phương. Ngay khi tập thơ “Buổi câu hờ hững” xôn xao văn đàn, trước
4

cơn mưa ca tụng, anh chỉ buông câu: “Tôi thấy đã làm một việc là gói lại một
quãng thời gian sáng tác”. Nhưng cũng chẳng chê Nguyễn Bình Phương làm
gì cho nhọc. Anh thú nhận: “Ở góc độ khen, chê, tôi là người bảo thủ. Tôi chỉ
nghe chính tôi” [4].
Hiện nay, chưa có công trình, bài viết nào nghiên cứu chuyên biệt và hệ
thống vấn đề thi pháp thơ Nguyễn Bình Phương. Các công trình chủ yếu chỉ
đề cập tới một khía cạnh trong thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Bình Phương,
bàn về một khía cạnh trong một tác phẩm thơ ông, hay phân tích những khó
khăn trong giải mã tín hiệu thơ của tác giả. Như vậy, qua khảo sát các tư liệu,
bài viết, công trình nghiên cứu về Nguyễn Bình Phương, chúng tôi nhận thấy
vấn đề thi pháp thơ Nguyễn Bình Phương chưa được nghiên cứu một cách cụ
thể và có hệ thống.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là Thi pháp thơ Nguyễn Bình Phương.
3.2. Phạm vi khảo sát
Với đề tài này, chúng tôi đi sâu khảo sát các tập thơ Nguyễn Bình
Phương, cụ thể:
- Lam chướng (1992)
- Khách của của trần gian (1996)
- Xa thân (1997)
- Từ chết sang trời biếc (2001)
- Thơ Nguyễn Bình Phương (2004)
- Buổi câu hờ hững (2011)
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi xác định một số nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản sau:
- Đặt thơ Nguyễn Bình Phương trong dòng chảy chung của thơ ca Việt
Nam đương đại để làm nổi rõ được nét chung và nét riêng tạo nên phong cách
nghệ thuật Nguyễn Bình Phương. Từ đó xác định vị trí của nhà thơ Nguyễn
Bình Phương trong thế hệ các nhà thơ sau 1975.
5

- Phân tích đặc điểm thi pháp thơ Nguyễn Bình Phương trên phương diện
tổ chức hình tượng nghệ thuật và tổ chức lời thơ. Trên cơ sở đó, thấy được
những đóng góp của ông trên hành trình cách tân thơ Việt Nam sau 1975.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp cấu trúc hệ thống
- Phương pháp loại hình
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp thống kê, khảo sát
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn nghiên cứu thơ của Nguyễn Bình Phương từ góc độ thi pháp.
Do vậy, nó thể hiện những đánh giá, tìm tòi của người viết về mặt hình thức,
giúp người đọc dễ dàng tiếp cận và hiểu đúng về thơ ông. Đồng thời, luận văn
góp phần khẳng định phong cách thơ độc đáo của Nguyễn Bình Phương và
những đóng góp của ông trong hành trình cách tân thơ Việt Nam sau 1975.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Thơ trên hành trình sáng tạo của Nguyễn Bình Phương
Chương 2: Hệ thống hình tượng trong thơ Nguyễn Bình Phương
Chương 3: Ngôn ngữ, kết cấu và bút pháp tạo hình trong thơ Nguyễn Bình Phương.
Chương 1
THƠ TRÊN HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO
CỦA NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG
6

1.1. Nguyễn Bình Phương – con người và văn nghiệp


1.1.1. Cuộc đời, con người
Nhà thơ, nhà văn Nguyễn Bình Phương sinh ngày 29 tháng 12 năm
1965 tại một vùng quê của Thái Nguyên. Thời chiến tranh, tác giả cùng gia
đình đã sơ tán về xã Linh Nham thuộc huyện Đồng Hỷ và trở lại thành phố
Thái Nguyên năm 1979.
Nguyễn Bình Phương học hết phổ thông trung học năm 1985 rồi vào
bộ đội; học khóa IV trường viết văn Nguyễn Du, bắt đầu viết từ năm 1986.
Sau khi ra trường, Nguyễn Bình Phương công tác ở Đoàn kịch nói quân đội,
tiếp đó làm biên tập viên của Nhà xuất bản Quân đội. Hiện nay, ông là Tổng
biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nguyễn Bình Phương được đánh giá là
một trong những gương mặt văn xuôi đương đại nổi bật.
Trong Đại hội Hội nhà văn Việt Nam lần thứ 9 diễn ra tại Hà Nội từ
ngày 9 đến ngày 11 tháng 7 năm 2015, Nguyễn Bình Phương đã được bầu vào
Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam. Ông đứng giữa những bậc lão luyện
trong nền văn chương Việt Nam hiện đại và trở thành người trẻ tuổi nhất
trong 6 tác giả được bầu vào Ban chấp hành.
Nói đến ấn tượng về Nguyễn Bình Phương, có thể gói gọn trong một
chữ “lặng”. Là một nhà văn được tôi luyện trong môi trường quân đội, ông
chọn cho mình lối sống trầm lặng, không ồn ào, ngại tiếp xúc và ít xuất hiện
chốn đông người... Trong cuộc trò chuyện với Hạnh Đỗ, phóng viên báo Tiền
Phong, ông chia sẻ: “Tôi vẫn gặp gỡ, uống rượu với bạn bè. Nhưng không
ham. Vài ba người tụ tập có thể là tinh túy, nhưng năm người trở nên là nhức
đầu” [10]. Ấn tượng rụt rè, khó tính, ngại giao tiếp mà nhiều người nhận thấy
ở Nguyễn Bình Phương cũng làm ta khó hình dung về tác giả này. Hạnh Đỗ
cũng chia sẻ cảm nhận của mình về ông: dáng vẻ nhỏ nhắn, thư sinh, mang vẻ
nghệ sĩ hơn nhà quản lý của tác giả khi trực tiếp gặp mặt đã xóa nhòa ấn
7

tượng về sự khó gần ấy. Nói về bản thân mình, nhà thơ tự nhận: “Là một công
chức đơn điệu, điển hình. Sớm vác ô đi, tối vác về” [10]. Nguyễn Bình
Phương cũng tự nhận “tạng” của mình “có lẽ hơi u uất một chút”. Thực tế,
theo như cảm nhận của Việt Quỳnh: “Gần anh, sẽ cảm giác một sự chan hòa,
ấm áp, giản dị, gần gũi từ ánh mắt đến nụ cười. Anh thường nói ít, nhưng câu
nào cũng ngấm vào lòng người nghe” [48].
Sách là một phần không thể thiếu được trong cuộc sống của ông. Ông
ham đọc sách, có thể dành cả đêm để đọc sách và nghiễn ngẫm về chúng. Ban
ngày chính là thời điểm sáng tác của ông. Nguyễn Bình Phương là một người
rất “thèm” viết, cẩn thận và tỉ mỉ trong sáng tác. Viết đối với Nguyễn Bình
Phương “giống như đi theo một lực hút bí ẩn không biết phía trước là gì. Tôi
kệ bản năng dẫn dắt. Để nó trôi dạt lênh đênh” [10]. Nhà thơ cũng chia sẻ:
“Viết ra được thì thích. Thấy người khỏe ra” [10].
Nguyễn Bình Phương là một người lính gắn bó thời thanh xuân của
mình trong quân đội, một nhà văn, nhà thơ đầy những trang viết trữ tình, chủ
yếu phản ánh cuộc sống bề bộn, đầy lo toan, bất an. Đây là tác giả có tâm và
có tầm, hứa hẹn nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam đương đại.
1.1.2. Văn nghiệp
Mỗi tác phẩm là một trải nghiệm và chắt lọc tinh tế từ trái tim đến lý
trí, sự thực. Dù là sáng tác thơ trữ tình hay văn xuôi thì tác giả cũng phải
chuẩn bị cho mình một góc riêng của cái tôi để tiếp nhận, thích nghi và “chiều
lòng” nó. Việc chuyển đổi luân phiên trong tâm hồn của một nhà văn sang
tâm hồn của một thi sĩ đôi khi không phải điều dễ dàng. Ít có nhà thơ nào
chọn con đường sáng tác bền bỉ và đầy khó nhọc như Nguyễn Bình Phương.
Ông đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết của mình để mang đến cho bạn
đọc một tác phẩm nghệ thuật trọn vẹn. Nỗ lực đó đã giúp Nguyễn Bình
8

Phương gặt hái được nhiều kết quả đáng ngưỡng mộ và thành công khi thể
nghiệm trên cả hai thể loại thơ và tiểu thuyết.
1.1.2.1. Về tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương là một trong những gương mặt văn xuôi đương
đại nổi bật, một nhà văn có sức sáng tác dồi dào. Hầu hết các tác phẩm mới
của ông khi ra đời đều được đón nhận nồng nhiệt và tạo nên sức hút đặc biệt
với bạn đọc. Sức hấp dẫn từ những cuốn tiểu thuyết của ông không chỉ được
tính bằng số lượng độc giả mà còn được đông đảo giới nghiên cứu, phê bình,
báo chí, dư luận quan tâm tìm hiểu.
Văn học Việt Nam đang vận động theo hướng “hòa nhập với tiến
trình văn học thế giới” như một tất yếu. Đây là lẽ tồn tại của văn học nói
chung và của tiểu thuyết nói riêng. Cuộc vận động đã thúc đẩy những nhà
tiểu thuyết của ta nỗ lực hơn nữa trong cuộc đổi mới đầy nhọc nhằn này,
đem đến cho tiểu thuyết những thể nghiệm đầy mới mẻ cả về nội dung lần
hình thức thể hiện. Những năm đầu thế kỷ XXI, cùng với Nguyễn Bình
Phương, văn học Việt Nam xuất hiện một số gương mặt mới với những thể
nghiệm đáng ghi nhận như: Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Tạ
Duy Anh, … Trong đó có những lối viết hấp dẫn thực sự, có những giọng
văn còn chưa sâu, có những thể nghiệm còn chưa tới đích, song các nhà
văn đều cháy hết mình trên từng trang viết trong một nỗ lực chung, làm
mới văn chương. Nguyễn Bình Phương cũng không nằm ngoài đường đua
ấy. Ông được đánh giá là một cây bút trẻ có nhiều đóng góp cho công cuộc
hiện đại hoá tiểu thuyết.
Nguyễn Bình Phương không phải là cái tên mới mẻ đối với giới phê
bình và các nhà nghiên cứu nhưng đối với nhiều độc giả đây còn là một cái
tên khá xa lạ. Tuy nhiên, khi nhắc đến những tiểu thuyết của ông thì người
đọc dễ dàng nhận ra một lối viết lạ, đầy hấp dẫn. Ông được biết đến nhiều với
9

hàng loạt tiểu thuyết nổi bật như: Vào cõi (Nxb Thanh niên, 1991), Những
đứa trẻ chết già (Nxb Văn học, 1994), Người đi vắng (Nxb Văn học, 1999),
Trí nhớ suy tàn (Nxb Thanh niên, 2000), Bả giời (Nxb Quân đội nhân dân,
2004), Thoạt kỳ thủy (Nxb Hội nhà văn, 2005), Ngồi (Nxb Đà Nẵng, 2006),
Mình và họ (Nxb Trẻ, 2014)…
Từ Bả giời, Người đi vắng, Trí nhớ suy tàn, Thoạt kỳ thủy đến Ngồi – là
sự hoàn tất một phong cách mới. Sự trưởng thành trong ngòi bút qua từng tác
phẩm gắn với thời gian lịch sử đất nước, Nguyễn Bình Phương đã mang đến
cho người đọc những cảm quan mới mẻ và phong phú. Nhà văn luôn có ý
thức tiếp thu cái mới và đã táo bạo đặt những dấu ấn đầu tiên trên hành trình
khai mở vùng đất mới với những cách tân độc đáo cả về mặt nội dung và
phương thức thể hiện. Đó là những đóng góp đáng ghi nhận của một nhà văn
luôn nỗ lực sáng tạo, làm mới tiểu thuyết Việt Nam.
1.1.2.2. Về thơ
Trước khi đến với con đường tiểu thuyết, Nguyễn Bình Phương đã gắn
bó với thơ. Với tác giả, thơ chính là bản ngã sáng tác chính, là nơi tác giả có
thể thoải mái thể hiện cái tôi của mình. Ông là một trong số những gương mặt
nổi bật trong khuynh hướng thơ cách tân thơ đương đại. Bằng tài năng và tư
duy nhạy bén của một nhà thơ hiện đại, Nguyễn Bình Phương không mất quá
nhiều công sức cho việc tìm đường, tìm kiếm thủ pháp nghệ thuật hay khuynh
hướng sáng tác. Nhà thơ chọn cho mình một lối đi riêng, một phong cách khó
trộn lẫn trong biết bao gương mặt thơ tiêu biểu hiện nay. Phong cách này đã
làm cho thơ của Nguyễn Bình Phương khó để hiểu và mọi cố gắng giải mã
thơ ông theo lối thông thường đều không thành công. Tuy vậy, người yêu thơ
Nguyễn Bình Phương vẫn nhận thấy trong đó những vần thơ thoáng buồn,
thoáng hụt hẫng, không giống như không khí ảo ảnh mơ mộng, chập chờn
trong từng trong tiểu thuyết của ông. Ta còn bắt gặp trong thơ ông một đời
10

sống khác, một thế giới khác, một ngôn ngữ thi ca, một miền thẩm mỹ khác
với đời sống thực tại nhiều bộn bề, cô đơn. Điều này đã làm nên nét đặc biệt
và sức hút đầy ma mị của thơ Nguyễn Bình Phương.
Cho đến nay, nhà thơ đã cho ra đời các thi phẩm: Lam chướng (1992),
Khách của của trần gian (1996), Xa thân (1997), Từ chết sang trời biếc
(2001), Buổi câu hờ hững (2011), Gõ cửa xa xăm (2015). Ở mỗi tập thơ đều
thể hiện những ngã rẽ khác nhau của tâm hồn Nguyễn Bình Phương.
1.2. Hành trình thơ Nguyễn Bình Phương
1.2.1. Đường thơ Nguyễn Bình Phương – nhìn từ tác phẩm
Cảm hứng thi ca trong thơ Nguyễn Bình Phương được chuyển đổi qua
mỗi tập thơ cũng chính là hành trình trở về miền đất của tâm linh, vô thức của
cái tôi trữ tình, hành trình tìm về với bản thể. Đó là một cuộc hành trình đầy
gian nan, vất vả, đơn độc và luôn bị ám ảnh bởi máu, cái chết và những dự
cảm mơ hồ, bất an.
1.2.1.1. Lam chướng (1992)
Lam chướng là tập thơ mở đầu cho hành trình thơ của Nguyễn Bình
Phương. Khi mới ra mắt độc giả, tập thơ đã nhận được nhiều thiện cảm, bởi
xúc cảm tinh tế, liên tưởng tự do, câu chữ được chọn lọc kỹ lưỡng, nhưng
không gò gẫm, cố ý, tạo nên một phong vị thơ rất riêng, đầy trẻ trung. Ngay
từ những vần thơ đầu tiên, thơ ông đã mang tới một sức hút khó cưỡng. Đó là
bầu không khí bảng lảng, cái mờ mờ, ảo ảo của màn sương. Chìm trong bầu
không khí ấy có sắc màu lạnh lẽo của lam chướng, vẻ mịt mù của sông nước,
cái thâm u, lạnh lẽo cô đơn của: một ngôi sao chết trắng, những giông bão u
uẩn, những lối mòn mất hút giữa vườn khuya, ... Lam chướng không chứa một
giọng thơ liền mạch, các hình ảnh và biểu tượng trong thơ chỉ là sự vu vơ, sự
lắp ghép ngẫu nhiên của ngôn từ.
Lam chướng như được Nguyễn Bình Phương giăng mắc bởi một tấm
màn được dệt đan bởi mưa và hơi sương, trong đó nổi lên là cảm giác đầy ám
11

ảnh bởi vẻ âm u, hoang lạnh của núi rừng, vẻ ma mị của đêm vắng với những
vệt lân tinh nhẹ bẫng trong các ngôi làng, sắc màu kỳ dị của cảnh vật nơi
chân trời dĩ vãng.
Trong Lam chướng, ta bắt gặp những trạng thái cảm xúc đa dạng. Đó
chính là cảm xúc của con người ở một vỉa tầng sâu nhất của vô thức, tâm
linh. Từ cái giật mình thảng thốt của con cánh cam chấm đỏ đến sự biến
mất đột ngột của những ngôi sao là một quá trình diễn ra nhanh, khiến độc
giả cảm thấy hụt hẫng vô cùng. Tiếp nối là những trạng thái cảm xúc, cảm
giác liên tục ùa vào cả chùm thơ: sự trống vắng, cô đơn, cảm giác cô
quạnh, những hoài niệm và sự xuất hiện dày đặc của những giấc mơ, ... Tất
cả những biểu tượng và cảm giác trên đã mở ra một thế giới mới lạ trong
thơ Nguyễn Bình Phương.
1.2.1.2. Khách của của trần gian (1996)
Ngay nhan đề tập thơ đã giúp chúng ta thấy được phần nào ý niệm về
thế giới và về con người của tác giả. Với Nguyễn Bình Phương, sự tồn tại
của con người trong cuộc sống này giống như một vị khách của trần gian, dễ
đến, dễ đi, không ràng buộc, không lưu luyến, con người sống tạm và gửi
nhờ thế giới này.
Qua Khách của trần gian, ta cảm nhận cuộc đời của con người giống
như một chuyến hành trình dài mà trên chuyến đi ấy, con người phải đối
mặt với nhiều biến chuyển trong cảm xúc. Đó là cảm giác ngột ngạt khó
thở, sự giãy giụa của vô thức đang quẫy đạp trong chính những vần thơ
đầy ám ảnh của Nguyễn Bình Phương. Ám ảnh về máu, về cái chết, sự
biến mất đột ngột, sự tan rã của thế giới xung quanh đã gợi lên cảm giác bị
bào mòn của vô thức.
Tiếp nối Lam chướng, với Khách của trần gian, Nguyễn Bình Phương
lại mang đến cho độc giả một sự mê hoặc khó cưỡng. Khách của trần gian
vẫn là một thế giới thơ đầy hư ảo, kỳ dị, khác thường, một thế giới đầy
những giấc mơ lạ lùng. Tuy nhiên, ở tập thơ này, tất cả vẻ lạ lùng, hư ảo ấy
12

lại được tô đậm lên rất nhiều, những giấc mơ không chỉ xuất hiện nhiều lần
mà chúng kỳ lạ hơn, khó lý giải hơn: Mơ:/ Cái tai cưỡi trên lưng ngựa già/
Phi vào bể sương (Bước khởi đầu nan)
Trong Khách của trần gian, trí tưởng tượng của tác giả đã được đẩy tới
mức cao nhất. Thế giới vẽ ra trong thơ chính là một vùng đất thực - Linh
Sơn. Linh Sơn đã khơi nguồn cảm hứng cho Nguyễn Bình Phương phóng bút
và tạc lên những đường nét ám ảnh, lại ẩn chứa đầy bí mật của rừng thiêng u
lạnh, hoang vu với những sự vật, hiện tượng kỳ dị, lạ lùng, thế giới ngập tràn
sự chết chóc, thế giới của những người điên. Khách của trần gian vẽ ra một
thế giới trong tâm linh, tiềm thức của tác giả với những mạch liên tưởng
ngồn ngộn, những điều khó lý giải.
1.2.1.3. Xa thân (1997)
Nếu như ở Lam chướng và Khách của trần gian, người đọc bị ám ảnh
bởi khói lam chướng, vẻ ma mị của cảnh vật, những cái chết, máu thì đến Xa
thân, cảm hứng của tác giả đã nghiêng về bộc lộ những trạng thái tinh thần
phổ quát của cái tôi.
Theo Nhã Thuyên, “.Xa thân là cuộc tìm nơi trú ngụ của những linh
hồn, những cái mất trở lại, những hồn say trong đêm: bóng những bông
hoa bị ngắt run run về đậu trên cuống, hồn hoa lảo đảo trên đường, những
giọng nói mềm mại như bóng râm, bóng áo nâu trên bức tường hoa sứ...
Con người chỉ còn là những cái bóng, nhẹ bước trong sương mù, không rõ
mặt, hiện diện bằng giọng nói không âm thanh, mà chỉ được cảm nhận
bằng độ mềm mại, một cảm giác da thịt. Con người “xa thân” bằng nhiều
cách: ngủ, mơ, say điên, bay, đứng, ngồi, nhớ lại để bay vào một miền
không gian khác” [59].
Xa thân chính là trạng thái mà ở đó con người lìa xa cái bản ngã, cái
thân xác bằng da thịt của mình để dấn thân vào một vùng tiềm thức tâm
linh hoàn toàn hư ảo, đầy ám ảnh. Cái tôi trong Xa thân cứ thế trôi dạt
vào thế giới ấy và rất khó thoát ra được, cảm nhận được trạng thái tĩnh
13

lặng hư không của những đám mây, cảm nhận được khoảnh khắc chuyển
giao đầy nghịch lý của Những đám mây không có bầu trời/ Những ngọn
nước chảy ngược.
Không chỉ vậy, ở tập thơ này ta còn bắt gặp nhiều cảm giác, trạng thái
tinh thần rất riêng, mang đậm dấu ấn của cái tôi Nguyễn Bình Phương. Đó là
cái tôi “từ tốn mơ màng”, an nhiên, cái tôi u uất, cô đơn. Là cái tôi mê man
trong trạng thái ngủ mơ hồ bất định, giàu chiêm nghiệm. Cái tôi trong Xa
thân hiện lên với nhiều dáng vẻ khác nhau đã góp phần làm nên vẻ mị hoặc,
lôi cuốn cho toàn bộ tập thơ. Cái tôi như một sự thử nghiệm thành công cho
những sáng tác tiếp theo của Nguyễn Bình Phương. Đâu đó ở Xa thân ta
cũng bắt gặp những chuyến viếng thăm nhẹ nhàng của những vị “khách của
trần gian”.
1.2.1.4. Từ chết sang trời biếc (2001)
Từ chết sang trời biếc tiếp tục nối kết dòng cảm xúc trong cả chặng
đường thơ của Nguyễn Bình Phương. Ở đó, chúng ta lại thấy sự xuất hiện dày
đặc của những vần thơ mang đầy ám ảnh về cái chết. Người đọc có thể dễ
dàng nhận ra thấp thoáng trong chùm thơ là những cửa sổ, bước chân, những
ban mai, hoa và em, có cả những nỗi sợ, là những than thở mỏi mệt, là những
giấc mơ lạc lõng xa vời vào một cõi lạ lùng, điên rồ - “giấc mơ của ma”.
Không gian âm u, mờ sương, ảo diệu dường như là “đặc sản” trong
thơ của Nguyễn Bình Phương. Và Từ chết sang trời biếc cũng không nằm
ngoài không gian này. Tập thơ còn là một thế giới ngập tràn sắc màu với
đủ mức độ khác nhau, ánh sáng loang đầy những câu thơ một sự ám ảnh
ma mị đầy hấp dẫn.
Nguyễn Bình Phương đã khéo léo dùng thơ như một sợi dây nối những
ký ức nhỏ vụn trong vô thức lại với nhau. Sự lắp ghép không hoàn hảo những
ký ức về người điên, những buổi chiều, những mùa đông hoang tàn đã đưa
người đọc vào một thế giới âm u, lạnh lẽo, về một miền sâu thẳm của ký ức,
về một khoảng trời biếc đầy mơ mộng.
14

1.2.1.5. Buổi câu hờ hững (2011)


Nguyễn Bình Phương đã chuyển từ không khí đậm sắc màu lam
chướng huyền ảo, bảng lảng của vùng rừng thiêng sang một không khí đầy xô
bồ, mệt mỏi, uể oải của đời sống đô thị. Trong thơ ông lúc này xuất hiện đầy
rẫy những phố, những biển hiệu, những hàng cây, những phương tiện giao
thông và đời sống công chức, ...
Trong Buổi câu hờ hững, Nguyễn Bình Phương cũng không thể giấu
nổi tiếng thở dài, những cái nhìn đăm chiêu, hụt hẫng, cảm giác bất an. Trong
cuộc sống đầy mỏi mệt, nhàn nhạt của một công chức theo như ông tự nhận
“sáng vác ô đi, tối vác về”, con người lướt qua nhau vô tình, quên nhau có
chủ định như một điều hiên nhiên có báo trước. Bức tranh cuộc sống nhộn
nhịp nơi đô thị hiện đại không thể làm cho tác giả thấy mình đang “sống” mà
chỉ làm cho ông thấy ở cuộc sống này mọi thứ đều nhòe mờ, nhòa đi, cạn đi.
Thậm chí nó làm cho tác giả cảm thấy muốn thoát khỏi cuộc sống này.
Buổi câu hờ hững tái hiện lên một cuộc sống đô thị bon chen, chật
chội, con người không có đủ thời gian để nghĩ về mình, không định nghĩa
nổi mình. Buổi câu hờ hững hay chính là sự hờ hững của Nguyễn Bình
Phương trước dòng chảy hối hả của đời sống đô thị. Ở đó, tác giả như đi lạc
giữa dòng xe cộ tấp nập, giữa những khuôn mặt người mệt mỏi. Tác giả mải
miết đi tìm mặt mình giữa hàng ngàn khuôn mặt khác. Cảm giác cô đơn
chính là thứ bủa vây lấy nhà thơ lúc này. Ta hãy xem cảm nhận của Nhã
Thuyên: “ Buổi câu hờ hững dường như “lạc loài” vì vẻ hiện thực, tính chất
sáng rõ của không gian, thiếu màu sương mù xanh xao và khí núi lạnh lẽo.
Bị chi phối bởi nỗ lực tìm tới thượng nguồn của tâm hồn, cái động năng xao
xuyến trong mỗi con người, cuộc du hành của thơ ca thường tìm lại không
gian sống tuổi thơ như một nguồn sinh khí, một nỗi hoài nhớ, cưỡng lại sức
hấp dẫn, sự quên lãng của đô thị” [59].
1.2.1.6. Gõ cửa xa xăm
15

Tập thơ gồm các tác phẩm đã xuất bản cùng với một số bài thơ khác
của Nguyễn Bình Phương. Xa xăm gõ cửa ra mắt độc giả khi Nguyễn Bình
Phương vừa tròn 50 xuân, sức sáng tạo và cảm hứng của tác giả vẫn đang rất
dồi dào.Có thể nói tuyển thơ là tập hợp những gì tinh túy nhất của tác giả cho
đến thời điểm hiện tại. Xa xăm gõ cửa đánh dấu một bước mới trong sự
nghiệp sáng tác của Nguyễn Bình Phương, giúp độc giả hình dung bao quát
một chặng đường thơ của ông.
1.2.2. Sự đổi mới thi pháp trong thơ Nguyễn Bình Phương
1.2.2.1. Khái niệm thi pháp và thi pháp học
Thi pháp, thi pháp học là những khái niệm không còn mới mẻ đối với giới
nghiên cứu văn học hiện nay. Bởi lẽ, thi pháp học là một ngành nghiên cứu có cội
nguồn xa xưa và có ảnh hưởng lớn trong ngành nghiên cứu văn học thế kỷ XX.
Trên thực tế, khái niệm thi pháp và thi pháp học đã được sử dụng khá phổ biến
trong các công trình nghiên cứu văn học.
Vậy thi pháp là gì?
Thi pháp là khái niệm ra đời từ rất lâu trong lịch sử (khoảng 2.400
năm). Nó có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “Poietike”, xuất hiện lần đầu tiên
trong công trình Poetica (Nghệ thuật thơ ca) của Aristote (384 – 322).
Có nhiều cách hiểu khác nhau về thi pháp. Chung quy có hai cách:
Thứ nhất: coi thi pháp là nguyên tắc, biện pháp chung tạo ra tác phẩm nghệ
thuật. Thứ hai: hiểu thi pháp là nguyên tắc, biện pháp sáng tạo cụ thể tạo thành
đặc sắc nghệ thuật của một tác giả, tác, tác phẩm, trào lưu, thể loại, v.v… Lĩnh vực
nghiên cứu về thi pháp gọi là Thi pháp học.
Trong Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần
Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) định nghĩa: “Thi pháp học là
khoa học nghiên cứu thi pháp, tức là hệ thống các phương thức, phương tiện,
thủ pháp biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn
16

học” [14; 304]. Trong công trình Thi pháp hiện đại, tác giả Đỗ Đức Hiểu viết:
“Nghiên cứu thi pháp là “nghiên cứu, phê bình tác phẩm văn học từ hình thức
biểu hiện bằng ngôn từ nghệ thuật, để tìm hiểu ý nghĩa hiển hiện hoặc chìm
ẩn của tác phẩm: ý nghĩa mỹ học, triết học, đạo đức học, lịch sử, xã hội học
v.v…” [17; 9].

Từ các định nghĩa trên, ta thấy Thi pháp học chủ yếu nghiên cứu về đặc
trưng, tổ chức, các phương thức, phương tiện, nguyên tắc làm nên giá trị thẩm
mĩ của văn học trong tính chỉnh thể của văn bản.

Nghiên cứu bình phẩm thơ ca từ góc độ thi pháp trở thành bước đột phá
quan trọng và mới mẻ trong văn chương thế kỉ 20. Nó giúp cũng ta khám phá
một cách chính xác cấu trúc hình thức mang tính nội dung của tác phẩm văn
học, dễ dàng trong việc tìm hiểu nội dung tác phẩm, tránh những gán ghép
hoặc cảm nhận thiếu cơ sở. Bên cạnh đó, nghiên cứu thơ ca từ góc độ thi pháp
còn giúp chúng ta hiểu đúng, hiểu sâu các tác phẩm văn chương trong quá
trình phát triển tư duy nghệ thuật của mỗi tác phẩm văn chương và hình tượng
tác giả. Nghiên cứu phê bình thơ ca dưới ánh sáng của thi pháp học đến nay
đã đạt được nhiều thành tựu to lớn.

1.2.2.2. Nhìn chung về sự đổi mới thi pháp trong thơ Nguyễn Bình Phương
Từ khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới những năm 1986, thơ Việt
Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Thơ giai đoạn này vận động theo nhiều
khuynh hướng khác nhau nhưng trên cơ sở là sự cách tân về nội dung thể tài và
cách tân hình thức thể loại. Sự cách tân thơ giai đoạn này như được đón nhận một
luồng gió mới, thơ có một không gian rộng mở hơn để mặc sức phô bày vẻ lộng
lẫy của nó. Hòa mình vào cuộc vận động chung đó, không ít nhà thơ đã tìm ra cho
mình một hướng đi riêng bằng việc đổi mới thi pháp sáng tác. Điều này đã thúc
đẩy thơ cách tân Việt Nam ngày càng đến gần hơn với thơ cách tân trên thế giới,
17

trở thành một mạch nguồn chuyển động không ngừng nghỉ trong nền văn học Việt
Nam đương đại.
Cùng với các tác giả Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Quang Thiều, Dương
Kiều Minh, Mai Văn Phấn…, Nguyễn Bình Phương đã trở thành một trong những
tay bút xuất sắc của thế hệ nhà thơ Đổi mới, mang khát vọng cách tân mạnh mẽ
thơ Việt và trở thành một tác giả có sự đổi mới thi pháp sáng tác rất rõ ràng, tiến
bộ. Sự đổi mới thi pháp trong thơ Nguyễn Bình Phương tập trung thể hiện trên
các phương diện: hình tượng cái tôi trữ tình, hình tượng thế giới nghệ thuật,
hình tượng con người, ngôn ngữ, kết cấu, giọng điệu, hình ảnh, biểu tượng và
bút pháp tạo hình.
Nếu thơ Mai Văn Phấn cách tân nương theo mọi nẻo đường, thơ Dương
Kiều Minh hướng về phương Đông nguồn cội để tạo nền cho những cuộc
vong thân sáng tạo, thơ Nguyễn Quang Thiều là độc đạo, thẳng tắp và mạo
hiểm thì thơ Nguyễn Bình Phương lại đưa người đọc lạc vào một thế giới đầy
ma mị, ám ảnh với những biểu tượng đa tuyến, phức điệu của vô thức, tiềm
thức, tâm linh.
Ta có thể mượn lời của nhà thơ Dương Kiều Minh để nói thay những
nhận xét về sự đổi mới trong thi pháp thơ Nguyễn Bình Phương: “Đối với
cuộc kiếm tìm thì không bao giờ cũ, kể cả sự kiếm tìm cái cũ, thì cuộc kiếm
tìm vẫn mới. Cuộc cách tân tìm tòi thơ ca luôn tựa “luồng gió lao rừng
rực” tới về những miền bí ẩn của đời sống, của cuộc đời và của thiên nhiên
trải ra vô tận trước sự chiêm ngưỡng, chiêm nghiệm của con người” [28].
Với những đóng góp lớn cho nền thơ ca đương đại, Nguyễn Bình
Phương xứng đáng là một trong những gương mặt cách tân thơ ca xuất sắc
thời kỳ đổi mới.
1.2.2.3. Những đóng góp và giới hạn của sự tìm tòi thi pháp trong thơ
Nguyễn Bình Phương
18

Nguyễn Bình Phương có rất nhiều đóng góp cho nền thơ ca đương đại.
Ông đã mang đến cho thơ ca giai đoạn này một cách cảm nhận mới mẻ, một
lối đi hoàn toàn khác biệt với những cách tân thi pháp đặc sắc. Sự tìm tòi thi
pháp trong thơ Nguyễn Bình Phương đã tác động mạnh mẽ đến hành trình
sáng tạo của chính ông và những người cùng thế hệ, đặc biệt là những cây bút
trẻ thế hệ sau.
Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp, cách tân rất mạnh mẽ và đáng
trân trọng, chúng tôi nhận thấy những tìm tòi thi pháp trong thơ Nguyễn Bình
Phương cũng có những giới hạn nhất định. Dấn sâu vào cõi vô thức, thơ ông
nhiều nằm chênh vênh giữa một bên là cái "khả giải" và một bên là cái "bất
khả giải", thậm chí tối tăm, vô nghĩa ; Sự "đứt mạch" trong cảm xúc, liên
tưởng đôi khi bị đẩy đến cực đoan. Một số hình ảnh, biểu tượng bị trùng lặp
lại khá nhiều; ngôn ngữ nhiều khi rườm rà, lan man...; Ấn tượng về “cái kỳ
dị”, “ma quái”, “điên dại” trong thế giới thơ ấy quá nhiều, quá đậm đặc, có
thể khiến người đọc “yếu bóng vía” khó lòng bước tiếp.
Có thể ví thơ Nguyễn Bình Phương giống như một trái sầu riêng chín,
người ăn được thì cảm thấy thích, thấy ham, rồi “nghiện” lúc nào không hay
nhưng kẻ không hoặc chưa thể ăn được lại nhìn “trái sầu riêng” ấy bằng một
cái nhìn thờ ơ, hững hờ thậm chí khó chịu vì sự rối rắm của nó. Điều này hẳn
có cơ sở riêng. Nhà phê bình Lê Hồ Quang đánh giá: “ Đọc thơ Nguyễn Bình
Phương không dễ. Có thể nói, thơ ông có một thứ “ngôn ngữ” khác thường:
thứ ngôn ngữ của mộng mị, của những ảo giác chập chờn, phi thực, hư ảo...
Ngôn ngữ ấy “đòi hỏi” ta phải bớt đi cái tỉnh táo ráo riết của lí trí, gia tăng sự
phiên lưu của trí tưởng tượng, sự buông bắt xa lạ và ngẫu hứng của trực giác,
nó buộc ta phải “buông thả” thật hoàn toàn trong tầng tầng liên tưởng và sự
mơ hồ bất định của nó” [44]. Đây là một nhận xét rất chuẩn xác về thơ
Nguyễn Bình Phương. Quả thật, thơ ông rất khác lạ, quyện hòa giữa hư và
19

thực. Đọc thơ ông giống như mò mẫm trong đêm tối, lại như đi vô thức, phiêu
lưu vào một thế giới hoàn toàn khác. Ngay chính nhà thơ cũng công nhận hồn
thơ của ông không đơn giản: “Thơ tôi là loại phức tạp bởi tâm trạng phức tạp.
Tôi hay nói đùa mà cũng là nói thật: Trong mỗi bài thơ của tôi có bóng dáng
một con ma, một cái bóng lẩn khuất, một tâm trạng gì đó không nắm bắt
được” [4]. Từ góc độ tiếp nhận, nhà phê bình Nhã Thuyên cho rằng: “Sự khó
hiểu của thơ Nguyễn Bình Phương, nếu có, có thể có nguyên nhân từ chính
người đọc (thơ): chúng ta thường lơ là việc nhìn ngắm chính cảm giác của
mình đến nỗi, khi lạc vào một thế giới của một tâm hồn khác, ta vẫn giữ thói
quen quan sát và nhìn ngắm một cái gì xa lạ, một cái gì ngoài ta. Tâm hồn của
một con người, một con mèo, một tạo vật, một cái cây, một bông hoa, một cái
bóng, có bao giờ là dễ hiểu?” [59].
Dù là thơ hay truyện, thế giới nghệ thuật Nguyễn Bình Phương đều
mang một màu sắc huyền ảo, mộng mị, một sự vỡ ra của trí tưởng tượng và
đầy ám mị. Thơ Nguyễn Bình Phương không phải để hiểu, mà để cảm bằng
sự nhanh nhạy của trực giác, cần người đọc khám phá nó ở cảm giác, ở trạng
thái tĩnh lặng của vô thức. Do đó, theo chúng tôi, dù có những hạn chế dễ
nhận thấy, thế giới thơ của Nguyễn Bình Phương vẫn là một "vùng tối" thẩm
mĩ đầy sức hấp dẫn.

1.3. Cơ sở hình thành thi pháp thơ Nguyễn Bình Phương


1.3.1. Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam thời hậu chiến và Đổi mới
Văn học không thể đứng ngoài lịch sử và chính trị mà nó là tấm
gương phản chiếu hiện thực. Sự phát triển của văn học vừa có quan hệ mật
thiết vừa có tính độc lập tương đối với lịch sử, xã hội. Từng giai đoạn phát
triển của nền văn học đều được đánh dấu bằng những mốc son quan trọng
trong lịch sử nước nhà. Không ai có thể phủ nhận tầm ảnh hưởng sâu rộng
của lịch sử, chính trị đến tư duy văn học. Có thể nói, lịch sử xã hội chính
20

là mảnh đất khơi nguồn cảm hứng vô tận cho nhiều nghệ sĩ tự do thể hiện
hồn thơ của mình.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 của quân dân ta là một sự kiện lịch sử
có ý nghĩa trọng đại và mang tầm vóc thế giới. Sự kiện này đánh dấu một
bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, kết thúc vẻ vang ba mươi năm chiến
tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc. Con người mang tâm thế phấn
khởi bước vào một cuộc sống mới đầy hứa hẹn. Bên cạnh hào quang của
cuộc chiến thắng, những tàn tích của cuộc chiến tranh cùng với những khó
khăn chất chồng của một đất nước vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh làm
cho đời sống của nhân dân ta vô cùng cực khổ, khắc nghiệt. Vừa rút chân ra
khỏi chiến hào của cuộc kháng chiến chống Mĩ, hai cuộc chiến tranh biên
giới Tây Nam và phía Bắc lại nổ ra tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời
sống xã hội, làm đảo lộn cuộc sống thời bình của đất nước. Ngoài ra, do cơ
chế quản lý quan liêu bao cấp với nhiều tàn dư nặng nề, mô hình xã hội chủ
nghĩa thời chiến nay không còn phù hợp, chính sách cấm vận độc ác của đế
quốc Mỹ, ... đã đẩy đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng vô cùng trầm trọng.
Thời hậu chiến với những khó khăn chất chồng buộc thơ ca không thể tiếp
tục duy trì cảm hứng và giọng điệu sử thi anh hùng như trước nữa.
Năm 1986 được đánh dấu bằng Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đây là một dấu mốc quan trọng, mở ra một trang mới cho lịch sử đất
nước nói chung và văn học nghệ thuật nói riêng. Đại hội đã kịp thời nhìn
thẳng sự thật, đề ra đường lối đổi mới đúng đắn về mọi lĩnh vực trong đó có
thơ ca. Theo đó, công cuộc đổi mới đã làm thay đổi hoàn toàn diện mạo đất
nước trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, xã hội và tác động trực tiếp đến
đời sống văn hóa xã hội, trong đó có cả văn học nghệ thuật.
Sự nghiệp đổi mới đã từng bước đưa nước ta đến gần với nền văn minh
của nhân loại, hòa nhập với xu thế phát triển chung của thế giới. Việt Nam từ
21

một nền văn hóa mang đậm tính cộng đồng, làng quê đang chuyển mình
thành một nền văn hóa dân tộc – hiện đại. Nền văn hóa đó không những đề
cao những giá trị truyền thống, những giá trị cộng đồng mà còn đánh thức
tiềm năng sáng tạo kỳ diệu của con người, thúc đẩy xã hội đi lên trên cơ sở
hình thành ý thức cá nhân hiện đại.
1.3.2. Sự đổi mới trong thơ Việt Nam sau 1986
Năm 1986, công cuộc đổi mới văn học chính thức bắt đầu. Bên cạnh
phong trào Thơ mới 1932 – 1945, đây cũng có thể được coi là một cuộc cách
mạng trong văn học. Những đổi mới quan trọng năm 1986 đã “cởi trói”, giải
phóng năng lượng sáng tạo của các nhà thơ, giúp các thi sĩ có điều kiện trở
lại chính mình theo đúng quy luật nội tại của nó.
Thơ Việt Nam sau 1986 cách tân mạnh mẽ và đáng kể trên nhiều
phương diện. Trước hết phải kể đến sự xuất hiện của thế hệ nhà thơ đổi mới
với nhiều phong cách đa dạng và những cách tân thi pháp đặc sắc. Quan
niệm về bản chất thơ ca của thơ Việt Nam sau 1986 cũng có nhiều thay đổi.
Trong văn học trung đại, thơ ca để chở đạo, giáo huấn đạo lý, thơ ca hiện đại
ngoài chức năng xã hội, chức năng giáo dục, thơ ca còn đề cao chức năng
thẩm mỹ. Ở thơ ca đương đại, thơ vẫn là địa hạt của cái thanh cao, diễm lệ,
mỹ học thơ thể hiện sự tín nhiệm về cái đẹp đến giới hạn của tính thiêng. Sự
đổi mới về bản chất thẩm mỹ của thơ ca sau 1986 thể hiện rất rõ ở việc: các
thi sĩ đương đại luôn kiếm tìm nguồn sống mới, khai thác sâu hơn vào những
tầng vỉa của đời sống tâm linh, vô thức, những ẩn ức khuất chìm trong vùng
tối của bản năng sống, bản năng người, …Với quan niệm này, đề tài và chủ
đề của thơ sau 1975 trở nên phong phú và đa dạng hơn.
Quan niệm tư tưởng sáng tạo thay đổi, tất yếu kéo theo sự thay đổi
về hình thức, ngôn ngữ, bút pháp tạo hình… Nhiều kỹ thuật viết hiện đại,
các khuynh hướng văn học mới trên thế giới được các nhà thơ mạnh dạn
22

vận dụng và tiếp thu, tạo nên những cách tân mang tính đột phá trong thi
pháp thơ.
Thơ trước đổi mới 1986, đặc biệt là thơ sau 1975 thường xây dựng hình
tượng con người anh hùng kì vĩ, có tầm vóc lớn lao, mang tính sử thi, đại
diện cho dân tộc thì thơ sau 1975 thường quan tâm đến con người với những
lo toan thường nhật trong cuộc sống. Thơ hướng về hiện thực với những bề
bộn, phức tạp như nó vốn có. Đồng thời, thơ cũng tập trung đi sâu vào thế
giới bên trong tâm hồn con người những chiêm nghiệm, suy ngẫm về thế
giới. Cùng với xu hướng đưa thơ về gần với hơi thở của đời sống là xu
hướng đi sâu vào vùng vô thức của con người, gia tăng “chất ảo” trong thơ
buộc người đọc phải giải mã các tín hiệu nghệ thuật qua nhiều tầng liên
tưởng khác nhau.
Như vậy, những đổi mới về thi pháp trong thơ Việt Nam sau 1986 đã
mang lại cho thơ một diện mạo mới, tạo cơ sở xuất hiện nhiều cây bút sáng
tạo với những thể nghiệm xuất sắc.
1.3.3. Tài năng và sự đổi mới trong tư duy sáng tạo của tác giả
Tư duy sáng tạo chính là việc tìm ra các phương án, biện pháp thích
hợp để kích hoạt khả năng sáng tạo và để tăng khả năng tư duy của một cá
nhân. Đó là sự cân bằng, hòa hợp giữa thực tế và lý tưởng. Trong sáng tạo
nghệ thuật, đổi mới tư duy văn học là lẽ tất yếu của chủ thể sáng tạo, góp một
phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm.

Trước hoàn cảnh lịch sử xã hội mới, đời sống bắt đầu nảy sinh nhiều
vấn đề phức tạp, rối ren, thơ ca lúc này lại ưa lối công thức, giả tạo, sáo mòn.
Thực tế ấy đã khiến giới văn nghệ sĩ nói chung và giới thi ca nói riêng buộc
phải dấn thân vào cuộc đời, sáng tạo những vần thơ giàu ý nghĩa, dần khẳng
định tài năng nghệ sĩ của chính mình. Các thế hệ nhà thơ đương đại rất tích
cực tham gia vào đổi mới tư duy sáng tạo. Điều này bắt nguồn từ sự đổi mới
23

quan niệm về thực tại, cách thức chiếm lĩnh thực tại và cách thức biểu hiện
quan niệm ấy. Tư duy sáng tạo đã thể hiện cách nhà thơ tái tạo, sáng tạo lại
thế giới trong thi phẩm bằng cảm quan cá nhân, một thế giới mang tính quan
niệm, một thế giới của tưởng tượng nhưng không xa rời những vấn đề của đời
sống con người, những hoài niệm về quá khứ, dự cảm về tương lai. Qua con
mắt của các tác giả đương đại, cuộc sống đã được nhìn nhận bằng con mắt
hoàn toàn khác, có đủ mọi chiều hướng đa hình đa tuyến. Thực tế cuộc sống
không cho phép nhà thơ tô vẽ, bóp méo sự thật mà phải nhìn bằng một cái
nhìn trung thực, khách quan. Nhà thơ cần phải trung thực với chính bản thân
mình và với thơ. Nhờ đó, qua từng trang thơ ta thấy hiện lên một đời sống
sinh động như nó vốn ở ngoài đời.

Sự đổi mới trong tư duy sáng tạo của tác giả còn thể hiện ở những phản
tư, phản tỉnh, những chủ đề, đề tài, cảm hứng mới. Hiện thực lúc này như là
cách hiểu về thế giới mà nhà thơ sinh tồn, thụ hưởng, kiến tạo, … được mở
rộng với sự trỗi dậy của những vùng tối vô thức, tiềm thức, những khoảng
trống tâm linh.

Trong quan niệm về bản chất của thơ cũng có nhiều thay đổi quan
trọng. Nếu như thơ xưa thường đề cao chức năng xã hội của thơ, nội dung thơ
thường bị đóng lại trong một khuôn khổ chật hẹp về niêm, luật, vần, đối đã
được định sẵn; thơ cách mạng mang sứ mệnh là “người thư ký trung thành
của thời đại”, thơ để tuyên truyền cách mạng, “thơ là tiếng nói của tình đồng
chí, đồng ý, đồng tình” (Tố Hữu) thì thơ sau 1975, tư duy sáng tạo thơ đã thay
đổi mạnh mẽ. Bên cạnh chức năng xã hội, chức năng thẩm mỹ của thơ ca, các
nhà thơ còn quan tâm đến những vấn đề thi pháp thơ như: hình thức thể hiện,
hình ảnh, bút pháp tạo hình ngôn từ và cách tổ chức hình tượng thơ…Vì vậy,
thơ ca đương đại xuất hiện nhiều gương mặt có thể nghiệm độc đáo, nhiều sự
24

phá cách mới lạ như: Trần Dần, Dương Tường, Lê Đạt, Hoàng Hưng, Nguyễn
Quang Thiều, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Bình Phương, Mai Văn Phấn,
Dương Kiều Minh, Inrasara, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Vi Thùy Linh,...

Nguyễn Bình Phương được đánh giá là một gương mặt cách tân tiêu
biểu và có nhiều thay đổi mang tính “độc sáng” về tư duy sáng tạo. Những
sáng tác của Nguyễn Bình Phương đã từng bước thoát khỏi tư duy văn học
của thời kỳ tiền đổi mới, kiến tạo những cấu trúc nghệ thuật mới. Sự đổi mới
trong tư duy sáng tạo của Nguyễn Bình Phương đã giúp độc giả nhìn ra, phát
hiện ra một sự thật toàn nguyên, sự thật như nó đang diễn ra và vây bọc lấy
thế giới con người.

1.3.4. Quan niệm nghệ thuật của tác giả


Trong sáng tạo nghệ thuật, thông qua những đứa con tinh thần, mỗi tác
giả tự hình thành cho riêng mình một hướng đi đúng đắn, một thế giới nghệ
thuật mang tính quan niệm của chính mình. “Quan niệm nghệ thuật là nguyên
tắc cắt nghĩa thế giới và con người vốn có của hình thức nghệ thuật, đảm bảo
cho nó có khả năng thể hiện đời sống với một chiều sâu nào đó” [14; 273].
Quan niệm nghệ thuật giống như một ngọn đuốc đi đầu, dẫn đường cho sác
tác nghệ thuật của các tác giả đi đúng quỹ đạo.
Nguyễn Bình Phương là một nhà văn, nhà thơ có trách nhiệm cao trong
nghề nghiệp của mình. Giống như những nhà văn, nhà thơ khác, ông cũng xây
dựng cho mình một quan niệm nghệ thuật riêng, độc đáo.
Trong quan niệm về bản năng và ý thức người cầm bút, Nguyễn Bình
Phương quan niệm: “Nhà văn là kẻ viết không giống ai và sống như mọi
người”. Người cầm bút phải là kẻ sống gần gũi với mọi người, sống bình
thường nhưng những trang văn, trang thơ của họ phải tạo nên được nét khác
biệt, phải có “tạng” riêng. Ông đòi hỏi cao tính sáng tạo của người nghệ sĩ:
25

“Không có sự sáng tạo, nhà văn sẽ tự tiêu diệt mình”. Trò chuyện với phóng
viên báo Văn nghệ trẻ, nhà thơ bộc bạch:“Tôi sợ bị bó buộc trong một khung
cố định nào đó. Văn chương bản thân nó là chân trời tự do, thì ta cứ nương
theo thế, đừng bó buộc nó” và “Tôi chỉ có một quan niệm bảo thủ là cố gắng
viết gần sát với quan niệm của mình về văn chương vậy thôi” [60]. Trong
quan niệm sáng tác, Nguyễn Bình Phương cũng thành thật: “không thích sự
giả dối, lên gân, nhưng cái đa dạng trong văn chương là cần thiết” [61].
Trên chặng đường kiếm tìm thơ ca của mình, Nguyễn Bình Phương
luôn tự ý thức mình về sứ mệnh của nghiệp bút mực, luôn luôn có những trăn
trở và tự vấn về nghề:
Đứng dậy, sũng ướt, đi rồi tự hỏi
Viết là tìm thấy hay đánh mất?
(Chân dung khi trống trải)
Với Nguyễn Bình Phương, mọi nhà thơ đều đơn độc trên chính con
thuyền thi ca của mình. Sự kiếm tìm nguồn sống trong thơ ông giống như
phải vượt qua một con thác lớn, phải vật lộn, nhọc nhằn và trải qua đủ mọi
cảm giác trống trải, cô đơn nhất, đôi khi tưởng chừng như “đuối sức”. Nhưng
thi hứng ấy lại trào lên như những con sóng mạnh mẽ, không thể khuất phục.
Ở Nguyễn Bình Phương, viết phải chăng là mất đi, một trò chơi của ngôn ngữ
được giăng ra để “câu” sự suy tưởng của chúng ta?
Quan niệm về mối quan hệ giữa sống và viết của Nguyễn Bình Phương
không tách rời. Ông quan niệm nhà văn phải lăn xả vào cuộc đời, phải “làm
người” trước khi cầm bút. Với tư cách một nhà thơ cũng vậy. Ông cũng có
quan niệm mang đậm cá tính riêng:
Sống là viết vào đời câu cách ngôn bí ẩn
Có ai đó đã nói rằng: viết là sự phản ứng của một kiểu người (nhà văn,
nhà thơ) chống lại sự dụ dỗ, sự giăng bẫy hay tha hóa của cuộc đời. Và
26

Nguyễn Bình Phương đã “phản ứng” và chống lại sự “giăng bẫy” của cuộc
đời bằng chính sự sáng tạo.
Trong quan niệm về hiện thực, nhà thơ “từ chối một hiện thực “tả
thực”, một hiện thực chụp ảnh để đến với những chân trời mới, một hiện thực
của tâm linh, của trí nhớ và trí tưởng tượng đầy sáng tạo và bất ngờ” [15].
Ông hướng ngòi bút của mình vào những mảnh vỡ hiện thực. Đó là một hiện
thực bị lắp ghép, phân mảnh, chắp nối với những sự kiện chồng lấp, khó lý
giải. Nếu như nhà thơ Mai Văn Phấn cố công sắp xếp lại hiện thực với một
thế giới viên mãn, thuần khiết, tương giao, hài hòa thì Nguyễn Bình Phương
lại không có ý sắp xếp và hàn gắn lại thế giới đó bởi ông cho sự tồn tại của
chúng là tất yếu. Hiện thực trong thơ của Nguyễn Bình Phương là hiện thực
đa chiều, hư ảo. Các yếu tố ma quái, kỳ lạ chảy tràn trên từng trang thơ của
ông, ảo và thực hòa quyện với nhau trong một thực thể thống nhất.
Bằng những quan niệm nghệ thuật rất riêng, Nguyễn Bình Phương đã
mạnh dạn chấp nhận đi con đường sáng tạo đầy chông gai, thử thách. Nhà thơ
đã tự khẳng định mình bằng những thành công nghệ thuật đáng trân trọng.
Tiểu kết chương 1
Nguyễn Bình Phương là một nhà thơ đầy tài năng và trách nhiệm cao
trong công việc.Với tư duy nghệ thuật nhạy bén cùng sự sáng tạo dồi dào, ông
đã làm nên một cuộc cách tân thơ ca mạnh mẽ, bắt đầu là những đổi mới về
thi pháp thơ. Sự đổi mới này có nguồn gốc sâu xa từ sự thay đổi về bối cảnh
lịch sử xã hội thời hậu chiến và đổi mới với rất nhiều xô bồ, rối ren, bất trắc.
Theo đó, trong thơ ca Việt Nam đã có những bước chuyển mình đầy kinh
ngạc. Qua các chặng đường thơ của Nguyễn Bình Phương, chúng ta dễ dàng
nhận ra quan niệm nghệ thuật của tác giả về cuộc đời, về con người, về sống
và viết, về bản năng và ý thức người cầm bút (hay trách nhiệm, lương tâm
người cầm bút). Hơn hết, đằng sau những vần thơ đầy ám ảnh, day dứt về
27

cuộc đời, về thế giới tâm linh vô thức bên kia ấy là một hình dung đầy cần
mẫn, trầm tư, một trái tim tha thiết xoay tròn với từng con chữ.
28

Chương 2
HỆ THỐNG HÌNH TƯỢNG
TRONG THƠ NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG

2.1. Hình tượng cái tôi trong thơ Nguyễn Bình Phương
Cái tôi là biểu hiện của ý thức cá nhân về con người, cuộc đời, về bản
thân mình. Đó còn là sự tự nhận thức của cá nhân về phẩm chất, nhân cách,
tài năng cũng như giá trị của mình trong xã hội. Trong thi giới của bất kỳ nhà
thơ nào, chúng ta đều thấy xuất hiện chân dung tinh thần của chính nhà thơ ấy
hay nói cách khác, mỗi nhà thơ đều dựng lên trong thơ của mình một hình
tượng cái tôi riêng biệt, không lặp lại. Nói như Biêlinxki: “Thơ ca chủ yếu là
thơ ca chủ quan, nội tại, là sự thể hiện của chính bản thân nhà thơ”. Thơ
Nguyễn Bình Phương cũng không ngoại lệ.
Qua thực tế khảo sát văn bản thơ, chúng tôi nhận thấy hình tượng cái
tôi trong thơ Nguyễn Bình Phương có những đặc điểm nổi bật sau:
Cái tôi có mỹ cảm khác thường
Cái tôi luôn trăn trở, suy tư về bản thể
Cái tôi chìm đắm trong trực giác, tiềm thức, tâm linh
2.1.1. Cái tôi có mỹ cảm khác thường
Thơ truyền thống là mảnh đất của những vẻ đẹp thanh cao, diễm lệ -
những vẻ đẹp của tự nhiên, của tạo vật mà ta có thể hình dung trong một
thực thể sống động, dễ nắm bắt, dễ hình dung. Thơ thời chiến khai thác tối
đa vẻ đẹp “toàn bích”, anh dũng của con người được ẩn tàng trong bom đạn
chiến tranh. Vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước trong thơ, nếu có, chỉ là
những lát cắt thuần thục, nhất quán, dễ hiểu, bị đóng khung trong những
liên tưởng khô cứng. Cùng với hơi hướng của thơ cách tân, sự thay đổi
trong tư duy sáng tạo nghệ thuật cũng làm biến màu những mỹ cảm xưa cũ
29

trở nên giàu ý nghĩa, tăng sự phiêu lưu của trí tưởng tượng, cái đẹp mang
mỹ cảm mới mẻ, độc đáo.
Ta hãy xem mùa thu hiện diện qua con mắt Nguyễn Bình Phương trong
bộ “xống áo” mỹ cảm mới:
Mang xống áo mùa thu
Làm mùa thu
Nhớ giấc ngủ ngàn thu trong đài sen úa
Nhớ giấc ngủ mềm mại như bóng râm
Chảy vào căn nhà đổ…
(Bài mùa thu đầu tiên)
Ở đây, thi nhân “cảm” mùa thu bằng xúc giác tinh nhẹ, một cảm giác da
thịt nhẹ nhàng, mơn trớn. Chiếc áo mùa thu khoác lơi lả, gợi cảm giác bồng
bềnh, thanh nhẹ như đang chìm đắm trong những mê man bất tận của giấc
ngủ ngàn thu. Đó còn là một mùa thu được cảm nhận bằng dư vị mềm mại, nữ
tính. Mùa thu đẹp, thuần khiết như một chất lỏng trong suốt chảy tràn vào
từng ngóc ngách của cảnh vật “chảy vào căn nhà đổ”. Bài thơ này dường như
không phải để đọc, nó để tan vào trong tâm hồn, sống dậy như những lời rủ rê
tình tứ:
Mùa thu len lén ra khỏi cây
Đi nào, đi với anh xuống đáy hồ xa thẳm.
(Bài thơ mùa thu đầu tiên)
Du hành vào vũ trụ thơ của Nguyễn Bình Phương, chúng ta sẽ bắt gặp
những hình ảnh, sự vật lạ lùng, đầy mê dụ. Nó khiến ta cứ mải miết mà chìm
sâu trong đó khó thể dứt ra được. Với cách lý giải khác về hiện thực cùng
nhãn quan kiến tạo độc đáo, nhà thơ đã nhìn thi giới bằng một mỹ cảm mới lạ,
đầy mị hoặc: Qua con mắt khép hờ/ Mặt trăng đi thẳng vào giấc ngủ/ Cuối
đường gặp một ban mai bàng bạc/…Người đeo kính hết mọi nhớ mong/
30

Những quên lãng lại hồi về trí nhớ/ Con mắt khép nửa vời là cạm bẫy thờ ơ/
Trong giấc ngủ đầy mộng mị/ Trăng không thể bay ra…(Mắt)
“Con mắt khép hờ” giống như một cánh cửa thần kỳ ẩn chứa bao điều
bí mật, nó thu hút ngoại giới chìm sâu, mê man trong đó. Cuộc du ngoạn này
đã đánh thức giấc ngủ tiềm tàng của ký ức, sống dậy nó trong một “ban mai
bàng bạc” và “Con mắt khép hờ” (hay “con mắt khép nửa vời”) đã trở thành
một công cụ thẩm mĩ đặc biệt, một thứ cầu nối để mở ra một thế giới khác, ở
đấy, “mặt trăng đi thẳng vào giấc ngủ” và cũng ở đấy, “trong giấc ngủ đầy
mộng mị/ Trăng không thể bay ra”… Trong khoảnh khắc, cái nhìn ấy đã làm
lộ diện một thế giới khác, ẩn tàng sau bề mặt của thực tại” [44]. Thế giới ẩn
tàng đó không có gì rõ ràng, tất cả chỉ là một bức màn hư ảo:
Trong ký ức không phải dòng sông không phải bình minh
Không phải chú cá
Vàng
Như hoa mướp
Trong ký ức chỉ một vệt trườn
Giữa không trung đuôi dài uốn lượn.
(Linh miêu)
Sự xuất hiện hình ảnh của những chú mèo trong thơ Nguyễn Bình
Phương không đẹp theo dáng vẻ đơn thuần của màu và độ mềm mại của lông,
màu mắt. Mèo – xuất hiện trong vai trò người xứ giả của bóng tối, cùng với
ánh trăng, chúng hòa lẫn vào bóng đêm tràn trề bản năng hoang dã. Ẩn mình
kín đáo trong một góc khuất của vô thức, Nguyễn Bình Phương lặng lẽ quan
sát từng động thái của loài linh miêu, cảm nhận được cái nhẹ tênh không chút
va động của chúng giữa không trung. “Nhà thơ, kẻ thăm dò ẩn mặt, kẻ phát
hiện ra không có dấu vết của chú cá, dòng sông hay bình minh trong kí ức con
mèo, mà chỉ có cái gì đang trơn trượt, một vệt trườn giữa không trung, giữa
31

hư không, dấu vết hữu hình trong cái vô hình, cái dấu vết không thể còn dấu
vết” [59].
Ở một không gian thơ khác, người yêu, con mèo, ánh trăng giống như
ba người bạn tâm giao nhưng lại không có bất kì mối liên tưởng nào. Người
yêu, con mèo và ánh trăng mở lời trò chuyện, tương giao bằng cách “ho húng
hắng”. Chỉ người trong cuộc mới hiểu được những tín hiệu thông tin đặc biệt
ấy. Đó là “một cuộc trò chuyện thi vị giữa các sinh thể sống (con người, loài
vật) và tạo vật thiên nhiên (ánh trăng) bằng ngôn ngữ riêng, thứ ngôn ngữ
nằm giữa tiếng người và những âm động tự nhiên” [59]:
Người yêu tôi nằm cạnh một con mèo
Cạnh một ánh trăng
Cả ba ho húng hắng.
(Mở lời)
Cái đẹp, đôi khi khó hình dung chuẩn xác trong chiều liên tưởng thông
thường. Nó hiện diện trong một trạng thái ở giữa ranh giới thực và ảo, rõ nét
và huyễn hoặc:
Nó đang ở cuối đường
Thân thể gầy còm vì chay tịnh
Mỏng, nhàn nhạt, sạch bong như chú mèo trung tính
Trộn lẫn vào những muộn phiền luyến ái của ta.
(Khoảng giữa)
Ta tạm gán cho “nó” cái tên gọi – sinh thể. Nhưng là một sinh thể
còn chưa chuyển hóa hết vào hư không mà “thân thể gầy còm vì chay
tịnh”. Đến trạng thái “nó” đã buông sạch sẽ những dấu vết của đời thực
thì nay “nó” đã mang một hình hài mới “Mỏng, nhàn nhạt, sạch bong như
chú mèo trung tính”
32

Bên cạnh những câu thơ viết về vùng đất Linh Sơn hoang vu, hư ảo
với đầy rẫy những điều kỳ dị, ta cũng ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của vùng
đất cố đô trong mắt người con của núi rừng Thái Nguyên: Mở mắt/ Đã
Tịnh Tâm/ Mưa gọi những đường cong hiển lộ/ Vậy là Huế đã làm anh
ngờ ngợ/ …Trăm năm Huế ngực vần tròn và trắng/ Lụa còn bay cuồn
cuộn như rồng… (Chớp mắt Huế).
Huế cổ kính, diễm lệ đã được thi sĩ cảm nhận bằng cái nhắm mắt “tịnh
tâm”, buông lơi những cảm xúc hỗn độn, bon chen của cuộc sống và trở lại
trong Huế những vẻ đẹp độc và lạ lẫm. Huế khơi mở đôi mắt tâm hồn nhà thơ,
khiến ông “ngờ ngợ” Huế giống như một cô gái dịu dàng với những đường
cong mê hồn - những đường cong mềm mại của cơ thể được mưa tạo hình đầy
duyên dáng và e ấp. Câu thơ “Trăm năm Huế ngực vẫn tròn và trắng” đẹp cả
về hình thể và ngôn ngữ, câu thơ có đường nét, hình dáng, màu sắc.
Sự sống luôn đẹp, tất nhiên, ai cũng không thể phủ nhận. Nhưng với
Nguyễn Bình Phương, cái chết mới thực sự mang lại những trang thơ đẹp,
đẹp trong nỗi ám ảnh triền miên day dứt: Chết làm ngôi sao đen/ Chết trên
giường bình nhiên bí ẩn/ Chết không thở cùng hoa/ Thở cùng người đàn bà
xa lạ…/ Ở trong khu rừng ma/Có những con hươu ma/ Chết nở một nụ cười
sáng nhẹ/ Chẳng vĩnh biệt em chẳng tiễn biệt ai/ Từ tốn mơ màng/ Bông cải
cúc ra đi (Nhẹ).
Trạng thái chết trong thơ Nguyễn Bình Phương được diễn tả bằng
những ngôn từ đẹp, thanh, nhẹ và bí ẩn hay nói cách khác, “chết” đã được pha
lọc qua con mắt của nhà thơ, nhìn trong một mĩ cảm hoàn toàn mới. Đây hẳn
không phải là một trạng thái đông cứng, càng không phải là một trạng thái xa
rời thực tại hiện tồn. Nó là một quá trình chuyển giao đầy mộng mị, hư ảo từ
một thế giới thực tại sang thế giới siêu thực tại, từ hiện tại đến tương lai.
Trạng thái chết không mang dư cảm nặng nề mà nhẹ, bí ẩn và hấp dẫn như
33

“thở cùng người đàn bà xa lạ”. Cái tôi ( hay cái chết – sinh thể có hồn) chìm
sâu bên dưới bề mặt câu chữ “từ tốn mơ màng” trong “một nụ cười sáng
nhẹ” muốn rũ bỏ khỏi mộng mị của những “con hươu ma”, “khu rừng ma”
để tan vào ngoại giới. Hình ảnh “bông cải cúc ra đi” gợi cảm giác nhẹ nhàng,
dứt khoát.
Có khi, mĩ cảm khác lạ ấy dừng lại bởi một “cái rùng mình”:
Đồi
Cái rùng mình trên làn da thanh vắng
Một điều bí ẩn hơn người…
(Những trận chiến cài hoa)
Ngay cả những âm thanh tưởng chừng như vô nghĩa (Tiếng lạ, tiếng
rền) lại hiện lên sống động như tồn tại trong đó một thế giới trên từng trang
thơ của Nguyễn Bình Phương:
- Thiếu phụ quay đi xanh mơ màng
Bỏ lại hồ xanh thẳm
Tiếng xanh
Giữa vòm cây mận trắng
Cơn sốt dậy sắc hồng run rẩy.
(Tiếng lạ)
- Ông thầy lang áo vá
Đến thăm người bệnh ngắt hoa
Giấc mơ còn có cuống
Những chiếc cuống run run
Buồn heo may trúc lạ
Buồn vết chém hoang vu
Chết trong nòng súng cỏ
Những tiếng rền xa xa.
(Tiếng rền)
34

Trong Phía khác của mặt trăng, Nhã Thuyên nhận định: “Thế giới thơ
của Nguyễn Bình Phương không phải là một hư cấu, nó là một hiện thực
khác. Nó có hệ sinh vật riêng, vừa trùng khít với không gian sống của con
người, vừa trở nên khác biệt” [59]. Thực chất, thế giới nghệ thuật này được
gợi mở, khai sinh, kiến tạo từ một con mắt mỹ cảm độc đáo, khác lạ của cái
tôi Nguyễn Bình Phương. Một cái tôi mang một quan niệm và cách nhìn khác
lạ về hiện thực, đầy nhạy cảm, tinh tế, luôn bị ám ảnh bởi cái đẹp của những
điều bí ẩn, lạ lùng, hư ảo, thậm chí kỳ dị trong cõi mơ hồ, bất định của trực
giác, vô thức, tâm linh.
2.1.2. Cái tôi luôn trăn trở, suy tư về bản thể
Lịch sử đã mở ra một bức màn khác kéo theo sự thay đổi của cảm hứng
trữ tình. Không còn những vần thơ ngợi ca, tự hào mà thay vào đó là những
vần thơ lắng đọng, suy tư. Các nhà thơ luôn khao khát được bộc bạch, được
giãi bày cái tôi bản thể trong dòng cảm xúc phức hợp, đa chiều. Hình tượng
cái tôi trong thơ Nguyễn Bình Phương cũng không nằm ngoài xu hướng này.
Đâu đó, trong dòng chảy cuộc đời, Nguyễn Bình Phương đã tìm được cho
mình một thế giới tĩnh lặng, một “ốc đảo” để ngẫm ngợi, suy tư. Ở đây, ta bắt
gặp sự xuất hiện của cái tôi luôn trăn trở, suy tư về bản thể của chính tác giả.
Thơ Nguyễn Bình Phương là mảnh đất nảy mầm sinh sôi của cái tôi
có tâm hồn phong phú, hướng nội, đa cảm, thể hiện qua nhiều mảng màu
khác nhau của cuộc sống. Qua hành trình thơ ấy, chân dung cái tôi bản thể
của Nguyễn Bình Phương đã hiện lên vô cùng rõ nét: đó là cái tôi ưa suy
ngẫm về các giá trị đời sống; luôn muốn khẳng định những giá trị “nhân
vị” riêng, độc sáng; yêu đắm đuối; luôn bị ám ảnh bởi sự cô độc, cảm giác
bất an và cái chết…
Có thể nói, thơ ca Việt Nam sau 1975 phần lớn đều giàu chất triết lý,
suy tưởng. Ở đó chủ thể trữ tình không chỉ suy tư về cuộc đời, mà còn trăn
35

trở, cô đơn trong cuộc tìm kiếm cái tôi bản thể của chính mình, tha thiết đi tìm
câu trả lời cho những câu hỏi hiện sinh. Nguyễn Bình Phương cũng vậy:
Ta là ai?
Ta là gì trong ý nghĩ của ta?
(Hóa hình)
Thực tế, đó là một câu đố không có lời đáp. Con người sống trong xã
hội hiện đại với nhiều nỗi lo toan thường nhật sẽ không tránh khỏi những cảm
giác bế tắc, tù túng. Những lúc tự vấn như thế này, chỉ tồn tại sự cô đơn, trống
vắng khó định nghĩa :
Ta là gì trong ý nghĩ của ta
Là gì nhỉ cái dãy phố con con treo đầy biển hiệu…
(Hóa hình)
Sự khô cứng, bất động, chật chội của cuộc sống đô thị hiện đại như
phong kín lấy cái tôi muốn bùng cháy, muốn thoát khỏi cuộc sống u mê, luẩn
quẩn của những dãy phố con con. Trong một thế giới đóng khung chật chội
ấy, tất cả đều nhòe mờ, “hóa hình” và dần trở thành “dấu chấm vời xa”.
Cuộc sống đô thị hiện đại không những làm cho con người tự đông cứng cả
về thể xác, tâm hồn. Hơn nữa, nó còn đóng kín mọi cố gắng vượt thoát khỏi
không gian tù túng và trở về trong một hình hài mới:
Trong sự phong kín đê mê này
Ta ngượng ngùng nghĩ mình là cánh cửa.
(Hóa hình)
Trong những vần thơ của mình, Nguyễn Bình Phương luôn muốn
khẳng định những giá trị “nhân vị” riêng, độc sáng. Ở thế giới đầy ngột ngạt
này, nhà thơ luôn bị vây kín trong những lo toan, bế tắc của cuộc sống, ông
luôn khát khao tự nhìn nhận lại chính bản thân mình, đối thoại với mình bằng
những chuyển động thầm lặng trong chính hình hài ấy:
36

Tôi cắt tóc


Kín đáo nhếch môi cười
Đi lìm lịm vào gương như khói
Tôi cắt tóc
Buông lơi
Khuôn mặt ngoài mùa hạ
Sau bức tường kia những sự thật đã già
Tôi cắt tóc
Một người cực lạ
Rũ khăn choàng váng vất bước ra
(Cắt tóc)
Đằng sau những việc rất đời thường của con người cũng gợi lên cho tác
giả những trăn trở, suy tư về cuộc đời, về bản thể. Ngẫm về cuộc đời, đằng
sau cái cười nhếch môi hết sức kín đáo là nụ cười chua chát “buông lơi”.
“Tôi” cười vào những sự thật vốn đã tồn tại trong cuộc sống. Nó làm thay đổi
chính con người, đeo một cái mặt nạ được bao phủ bởi những dối trá cứng
ngắc, “tôi” muốn rũ bỏ nó và bắt gặp ngay cái hình hài xa lạ kia.
Có khi, ta lại bắt gặp trong thơ Nguyễn Bình Phương một cái tôi ráo
riết, mải miết đi kiếm tìm một hình hài quen thuộc trong cuộc sống. Đó là
“mặt bên kia” của cái tôi, của cuộc đời. Nơi ấy, cái tôi lặng lẽ trở về nhìn
ngắm những vết thương lòng đang chảy sâu dưới bề mặt da thịt. Cái tôi bước
vào mặt bên kia của cuộc đời nhưng lại tự đánh đắm trong ảo ảnh do chính
mình tưởng tượng ra, chợt thấy khuôn mặt mình mờ đi sau những ảo giác xa
vời, hư hao:
Phía sau hiển nhiên là tôi
Lẩn thẩn ngồi canh giữ vết thương
…Sau bao long lanh lý lẽ
37

Một người không tìm ra mặt


đi vòng vo trong ảo ảnh của mình
trái tim mờ mờ lỗi nhịp…
(Mặt bên kia)
Ông tiếp tục họa về mình qua những vần thơ trăn trở. Cái tôi phân thân
đứng một góc lặng lẽ quan sát, chiêm ngẫm về bản thân mình: Ông hàng xóm
từ chiến trường về/ Không có giấc mơ/ Ngón tay ốm o vùi lấp khuôn mặt ốm
o/ Ai biết ông ta nghĩ gì/ Sau những ngón tay ấy (Ngỏ lần thứ nhất). Bức
tranh được vẽ lên bằng những đường nét nhòe nhòe, chỉ có cái gân guốc, rõ
nét của đôi bàn tay và khuôn mặt đã thấy được một cái tôi đầy trăn trở, suy tư.
Sau những ngón tay ấy phải chăng là sự buông bỏ những hoài niệm cũ hay sự
níu giữa những mảnh ghép từ giấc mơ trong quá khứ?
Cũng đôi bàn tay ấy, cái tôi lại tự rũ bỏ chính bản thân mình, muốn thác
đi trong bản ngã hiện sinh đầy mạnh mẽ:
Tự cấu mặt mình như cấu bùn
Vứt ra xa
Rơi vào đâu không biết…
(Thác)
Ta còn bắt gặp ở thơ Nguyễn Bình Phương một cái tôi ưa suy ngẫm về
các giá trị đời sống. Đó là cái tôi đầy mỏi mệt, bế tắc, tự cười vào chính cuộc
đời công chức của mình với sự đeo đuổi dai dẳng của nỗi cô đơn, bệnh tật:
Một cái chức nhỏ nhẹ/ Một cái chức lăn như cỏ lông chông/ Mơ đeo vào tay
xòa ra giữa nắng/ Mơ đeo vào gót chân mỗi bước mỗi khua vang rổn rảng/…
Một cái chức liu riu ánh vàng/…Một cái chức không đâu bỗng vỗ nên thành
biển (Gửi những khổ sở); Này tôi/ Một khuôn mặt công chức/ Đứng nhìn
những cuộc họp rạc rài/ Tiêu ma bao ý tưởng/ Xa xa trải một màu bệnh hoạn/
Bệnh hoạn cũng cũ rồi (Bài thơ cũ). Ở đó còn là cái tôi bất an, tự vấn về bản
38

thân mình: Tôi châm thuốc ra ngoài gặp cỏ/ Nghĩ đến mình nghĩ đến mình
thật nhiều/ Nhắm mắt lại và từ từ hiển hiện/ Một vườn mía ngọt lúc trăng lên
(NBP); Tôi là một đỉnh núi/ Một nỗi buồn gieo neo nơi kí ức phai tàn/ Trời
xanh xanh vỗ trên đầu mê man/ Ngày mai có người sang đất lạ/ Ngày mai lạc
vào giấc mơ của ma/…Tôi là con đường chông gai chưa ai đi (Tự sáng)…
Nguyễn Bình Phương viết về thơ tình không nhiều nhưng những vần
thơ của ông rất đẹp, rất mộng và trong trẻo. Cái tôi trữ tình hiện lên trong thơ
ông lúc này là cái tôi yêu đắm đuối, say mê. Tuy nhiên, đây lại là những vần
thơ thoáng nét buồn thương, những dự cảm bất an, mặc cảm chia ly, từ biệt.
Viết về tình yêu, về “em”, thực chất, cũng là một cách mô tả, rọi chiếu về bản
thể của cái tôi thi nhân từ một góc khác:
- Thắp lửa lên bỗng thấy xa vời
Em là ngọn nến nhỏ sáng dần đôi môi tôi
Yêu có nghĩa vừa bay vừa nghĩ ngợi
…Sông đã chảy sang bên kia giấc ngủ
Em tỉnh dậy trời xanh thành người lạ.
(Thơ ngắn về em)
Những dự cảm chia ly, xa cách trở đi trở lại rất nhiều trong thơ Nguyễn
Bình Phương:
- Yêu em có nghĩa là yêu mây xa
Nghĩa là yêu chiếc khăn màu cỏ úa
Em nhìn tôi nhìn sông Hồng chìm đắm
Không ai chèo đò cho tình yêu qua sông
Lạ lùng ơi lạ lùng nổi sóng
Sóng đưa hai ta trôi dạt về đâu…
(Than thở)
- Bao hoa trái mang nỗi buồn rụng xuống
39

Một cuộc tình nôn nao chia ly


Lời hẹn cũ với em không còn nữa
Những buổi chiều mờ in trên hồ…
(Những chiều mờ)
Tình yêu trong thơ Nguyễn Bình Phương chỉ sống dậy như những hoài
niệm xưa. Đó là ký ức về tình yêu vẫn còn vẹn nguyên trong tấm hình cũ:
Em đã bỏ ta đi
Em đã ngắt một nhành hoa nhỏ
Chú chim sâu thuở ấy rất buồn
Không thể hẹn hò nhau được nữa.
(Hình cũ)
Trong con mắt Nguyễn Bình Phương, tình yêu giống như một bông hoa
có cuống. Sự phân rã của cuống hoa với hoa cũng là dự cảm của sự chia ly.
Bài thơ mang lại cảm giác về sự tái tê, run run của những bông hoa. “Bức
hình cũ” mang đầy vẻ tĩnh lặng, dịu dàng, tình yêu của sự vị tha, cao thượng:
“có đôi tay trần từ trời cao dịu dàng buông xuống”. Câu thơ còn nguyên
trạng thái bất toàn của tình yêu. Cũng có khi, sự ly biệt trong tình yêu lại được
cảm nhận qua ánh mắt xa xôi, là gần đấy nhưng lại xa đấy: Anh vẫn thấy em
từ xa bước lại/ Em nhìn anh/ Em xa xôi như cây/ Em quay đi/ Tiếng kêu dài
lạnh lẽo/ Hoàng hôn trên đầm tàn (Giấc ngủ nắng). Hình ảnh “em” tàn đi
trong ánh hoàng hôn xa xôi, chỉ còn vương lại bên này màu nhớ thương là
những tiếng kêu dài lạnh lẽo, băng giá đã làm nổi bật lên dấu hiệu biệt ly của
một cuộc tình. Chi tiết “hoàng hôn trên đầm tàn” chứng tỏ sự bất lực, buông
bỏ dứt khoát trong tình yêu không còn hy vọng. Tình yêu vừa mang lại cho
con người hạnh phúc, vừa đem đến cho con người những đau khổ triền miên
không dứt.
40

Suy tư về bản thể, cũng là suy tư về ý nghĩa của sự hiện sinh cá nhân, ý
nghĩa của sự mất/ còn, hữu hạn/ vô hạn; phù du/ vĩnh cửu… Có lẽ sự cô đơn,
trống vắng giống như một chất keo đặc bám lấy bức thành tâm hồn của thi sĩ,
ông cảm thấy sợ bóng đêm, bị ám ảnh về cái chết, ám ảnh về máu. Phải chăng
cũng vì lẽ đó mà thơ của ông ngập tràn máu và nỗi ám ảnh dai dẳng của cái
chết. Ám ảnh về máu và cái chết như phủ trùm mọi nơi, đâu đâu trước mắt
“Tôi” cũng là dòng chảy lặng lẽ của máu: Máu đã ra ngoài cỏ/ Chảy men
theo sườn đồi xuống hồ/ Máu không tắt không khô không ngơi nghỉ/ Chảy
miên man qua thớ đất nâu/ Máu còn chảy, chảy mãi/ Đến từng nhà từng
người con gái/ Đến từng kẻ thứ ba/…Máu còn chảy song hành bước chân/
Nơi nẻo vắng ngõ quê/ nơi ồn ào phố thị/ Trong yên tĩnh thư viện mênh mông/
Máu còn chảy/ Ngoài chúng ta/ Chảy qua thị xã tới kinh thành…(Chết).
Nguyễn Bình Phương hay nói về cái chết, hay bị ám ảnh bởi cái chết
nhưng ông lại đón nhận nó trong từng trang thơ của mình rất nhẹ nhàng, như
một chủ định dửng dưng: Không ai nhìn thấy anh/Không ai nghe tiếng kêu im
lặng/ Lúc đó trên đồi Phủ Liễu/ Chiều mang cơn u mê phủ khắp ngọn cây/ Le
lói vài ba con bò gặm cỏ/…Ba phát súng thờ ơ/ Nổ vào lòng nhẫn nại…
(Chết).“Ba phát súng thờ ơ” diễn tả chân thật sự thờ ơ, lạnh lùng, dứt khoát
trước cái chết. Câu thơ mang niềm bi kịch của cái chết, chết trong cô độc khi
“không ai nhìn thấy anh”. Là cái chết của đá hay cái chết của “anh”?
Trang viết đầu tay nhắc:
- Đá sẽ chết vào lúc anh mỉm cười
Hãy cẩn thận!
(Ngỏ lần thứ nhất)
Bên cạnh những trăn trở, suy tư về cá nhân, về cuộc đời, con người,
những dự cảm chia ly trong tình yêu, suy nghĩ về cái chết, thơ Nguyễn Bình
Phương cũng bộc lộ những suy tư của cái tôi luôn trăn trở với sáng tác và
41

nghiệp cầm bút: Ta sinh ra cô đơn/ Giờ cô đơn đã cũ/ Ta trưởng thành bởi sự
sợ hãi/ Sợ hãi cũng cũ rồi/… Trong bóng râm lạnh lùng vang lên lời nhắc/
-Ta lớn lên bởi sự kiếm tìm/ Giờ kiếm tìm đã cũ (Bài thơ cũ).
Với ông, nhà thơ sinh ra vốn đã mang nặng nỗi cô đơn, lớn lên trong sự
sợ hãi và kiếm tìm cái cũ. Nhưng đó là sự kiếm tìm mỏi mòn, không có điểm
dừng chân. Trong cuộc kiếm tìm những cái cũ, tác giả tìm cho mình bao ý
tưởng mới. Sự kiếm tìm cái cũ vì thế chưa bao giờ ngừng lại trong bản ngã
sáng tạo của Nguyễn Bình Phương. Vì thế, quá trình thai nghén một tác phẩm
chưa bao giờ là điều dễ dàng: Ta lặng im/ Chim hót/ Họ thì vỗ cánh bay/ Ta
viết/ Chim bay đi/ Họ thẫn thờ đậu xuống/ Ta nhìn ta mai mái một làn sương
(Nhà thơ).
Trong quá trình ấy, cái tỉnh táo phải phá bỏ sự bủa vây của trí tưởng
tượng, trả lại cho tác giả sự tĩnh lặng trong tâm hồn. Lặng im, để từ đó phân
tách thành những mảnh vụn khác nhau với muôn vàn trạng thái khác nhau. Sự
sáng tác đối với nhà thơ lúc này giống như một quá trình ăn mòn cơ thể, càng
sáng tác, tác giả càng không tìm thấy mình, cuối cùng chỉ còn lại mai mái một
làn sương. Đôi lúc, tác giả cũng có lúc tự hỏi mình bằng một câu hỏi không
hồi đáp:
Đứng dậy, sũng ướt, đi rồi tự hỏi
Viết là tìm thấy hay đánh mất?
(Chân dung khi trống trải)
2.1.3. Cái tôi chìm đắm trong trực giác, tiềm thức, tâm linh
Thơ Nguyễn Bình Phương không phải là lối mòn dễ đi, cũng không
phải một bài toán có sẵn những lời giải đáp. Thơ ông là một thế giới chưa bao
giờ khám phá hết của cái tôi – thế giới trực giác, tiềm thức, tâm linh.
Tiềm thức là vùng sâu thẳm trong tâm hồn con người mà bản thân
người ấy không ý thức được. Đó là sự ghi nhớ một cách vô thức những trải
42

nghiệm của cuộc đời, giúp ta nhìn và cảm nhận những việc chúng ta đã từng
làm. Tiềm thức vận hành từ những ký ức sâu kín nhất mà cấp độ ý thức không
thể nhận biết. Nói một cách đơn giản, tiềm thức chính là sự “phiên dịch” của
ý thức, tất cả những gì ta cảm nhận, nghe, nhìn và ngửi đều được tổng hợp lại
và tiềm thức giữ lại chúng.
Trực giác là sự nhận thức trực tiếp bằng cảm tính, không thông qua suy
luận, tư duy của lý trí. Người nghệ sĩ luôn mang trong mình bản ngã sáng tạo
nhờ khả năng thiên bẩm. Đứng trước một đối tượng nghệ thuật, khi cảm hứng
dâng trào, họ có thể nảy sinh một nhận thức ngẫu nhiên (nhưng chính xác) về
đối tượng ấy mà không cần bất kỳ sự can thiệp nào của lý trí. Đây chính là
yếu tố trực giác trong sáng tạo nghệ thuật.
Tâm linh là một phần đặc biệt trong đời sống tinh thần con người. Theo
tác giả Nguyễn Đăng Dung trong cuốn Văn hóa tâm linh: “Tâm linh là cái
thiêng liêng cao cả trong cuộc đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc
sống tín ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng liêng, cao cả ấy đọng lại ở những hình
ảnh, biểu tượng, ý niệm” [5; 12]. Một số tác giả khác cho rằng tâm linh
“thường được hiểu như đời sống tinh thần đầy bí ẩn của con người, đối lập
với “ý thức” kiểu lý tính thuần túy. Nó bao gồm cái phi lý tính, cái tiềm thức,
vô thức, bản năng thiên phú “có thể nhấn mạnh phần trực cảm, linh giác,
những khả năng bí ẩn” (nhưng vẫn có ý thức của con người).
Có thể nói, trực giác, tiềm thức tâm linh là biểu hiện tính trội của cảm
hứng sáng tạo nghệ thuật. Thơ nếu thiếu đi tư duy trực giác, tiềm thức, tâm
linh thì sẽ hời hợt, khó nắm bắt thế giới trong tính “toàn nguyên” của nó, và
do vậy, hạn chế nhiều chiều suy tưởng.
Cái tôi trong thơ Nguyễn Bình Phương luôn chìm đắm trong thế giới
tâm linh với những mộng mị, hư ảo, những hình ảnh nhòe lẫn ẩn hiện của
cảnh vật trong màn sương. Tại đó, cái tôi tự do thả hồn mình phiêu dạt trong
43

thế giới khác lạ: Nai kêu/ Rừng ẩm ướt/ Sương mù lên che ngang mặt cây/ Đá
rì rầm rì rầm bên suối/ Điếu thuốc lập lòe con mắt thú rừng ơi/ Sao tán cọ tơ
non rười rượi thế/ Sao nửa muốn choàng ôm/ Nửa thu mình lặng lẽ (Ở Định
Hóa); Con đom đóm về/ Cây Cậm Cam về/ Về/ Tất cả/ Để lại hằng hà vết
chân mờ sáng/ Ngược đường máu chảy (Giờ về).
Câu thơ gợi những liên tưởng về một thế giới trong tâm linh, vô thức
với hằng hà sa số những con đom đóm, những cây Cậm Cam. Chúng không
còn tồn tại trong vỏ thể xác vô nghĩa mà trở về bằng những linh hồn mong
manh, hư ảo. Dấu vết chúng để lại trên cõi này chỉ còn là những “vết chân
mờ sáng”. Những hình ảnh hư hư, thực thực đầy huyền ảo, kỳ lạ ấy hiện lên
dày đặc trên từng trang thơ của Nguyễn Bình Phương. Chúng đan kết lại tạo
thành một tấm màn mờ sương giăng mắc khắp mọi ngóc ngách tâm hồn của
cái tôi. Cái tôi vì thế chỉ có thể chìm sâu trong ấy mà chiêm nghiệm, mà suy
tư: Linh Sơn có giếng mắt rồng/ Có cô Chín thượng ngàn ẩn trong ngôi miếu
cổ/ Đêm Linh Sơn vía bỏ nhà đi/ Vía bị con chuồn chuồn dỗ cõng qua sông/
Xác xơ cỏ hóa trên đồng (Khách); Ngôi sao chiếu mệnh đền Đội Cấn/ Sáng
âm u dải khói lam chiều/ Từ Linh Sơn mưa ra một cụ già/ Gậy trúc đầu rồng/
Chậm rãi tiến vào thị xã/ Không có phép màu xảy ra/ Không có phép màu xảy
ra (Thái Nguyên).
Thế giới ấy một khi bước vào, mọi ranh giới thông thường của sự vật
bị xóa nhòa, thực - ảo, phi lý – hợp lý, tồn tại – biến mất không phân định, chỉ
còn lại những đường biên được vẽ lên bởi tiềm thức, trực giác: Một thúng
nắng/ Một thúng mưa/ Một thúng vừa mưa vừa nắng/ Ba bà thong dong đội
lên chùa/ …Nào ai nghĩ sư ông đi vắng/ Chú tiểu ngồi hí hoáy đánh bi (Dằng
dặc); Bà già lưng còng/ Bà già lưng còng không sinh được người thì sinh ra
ma/ Ma về qua ngõ/ Làm đời thanh xuân/ Ma Cà Rồng đi hoang/ Ma Chơi
44

nhàn nhã, ma Đồng ru em/ Lúc ấy chim héc bay qua/ Cậm Cam vào mùa chín
(Khách)…
Khi cái tôi luôn đắm chìm trong trực giác, tiềm thức, tâm linh, nhà thơ
nhận ra “thế giới tâm hồn của con người thật không đơn giản mà chứa đựng
những quằn quại, giằng xé, giông bão, rối bời” [31; 115]. Chỉ có trong màn
đêm, cái tôi mới thực sự tìm được chính mình, bộc lộ được hết bản thân mình:
Tin vào đêm
Không tin vào bóng tối
Những ngôi đền rụt rè sáng cùng tôi.
(NBP)
“Đêm” chính là khoảnh khắc giao thoa của cõi tâm linh, vô thức, tiềm
thức. Chỉ trong “đêm”, cái tôi mới có thể nhẹ nhàng mà hòa lẫn với ngoại giới
trong một nhất thể sống động, đa chiều. Chỉ trong “đêm”, cái tôi mới cùng trò
chuyện với sự vật bằng những âm động tự nhiên, thuần khiết nhất, những
tiếng nói từ thẳm sâu tâm linh. Nó khác hẳn với bóng tối đầy ma quái, u mê
của thế giới đen tối bên kia. Cái tôi mê đi trong thế giới mông lung của tiếng
nói vang lên từ những giấc mơ, cất lên giữa nhập nhòa đêm tối rồi đột nhiên
“tự sáng”: Anh đã tới chỗ ấy/ Đã gặp cái vầng trăng mươn mướt của anh/ Nó
ngồi đó, một mình, không cô đơn/ nhưng tràn trề tĩnh lặng/ Nó tự sáng hay
em làm nó sáng (Nói với em từ trống trải). Cái tôi bước vào thế giới tiềm
thức, tâm linh của chính mình với vầng trăng đầy ảo mộng trong thế giới ấy
và cảm nhận trọn vẹn sự tĩnh lặng của cô đơn. Xung quanh nó toát ra một thứ
ánh sáng khiến sự vật xung quanh phải mịt mù, không rõ ràng, mơ hồ.

Cái tôi trữ tình luôn chìm đắm trong tiềm thức, hồi tưởng về quá khứ
xa xăm, về một “nàng” mĩ nhân mang vẻ đẹp bí ẩn, ma mị: Nàng tới khi nào/
Nàng đi khi nào/ Sao nàng gửi nhan sắc mình vào nước để đời sau bấn loạn
(Ngỏ lần thứ nhất). “Nàng” xuất hiện trong một không khí thiêng liêng, bí ẩn,
45

đầy hồi ức, mộng tưởng đẹp nhưng đầy đau đớn, ám ảnh – không gian được
tạo dựng lên bởi những phép màu:

Dưới bóng đàn dơi

Nàng đã chết

Nhưng trái tim còn đập nơi xa

Gót sen còn dạo chơi muôn nẻo…

(Ngỏ lần thứ nhất)

Có khi, cái tôi lại lặng lẽ trở về với một miền tâm linh, vô thức xa
vời. Nơi đó hiện lên những tàn khốc của chiến tranh, những đau thương,
mất mát. Những điều này hiện lên thật rõ nét, sống động, xé toạc sự mờ ảo,
nghi ngút của khói hương. Cái tôi như một sợi dây kết nối hiện thực với thế
giới tâm linh huyền bí phía bên kia: Đừng nhắc nữa những đường lê bỏng
cháy/ Vết thương đã trút lại cõi trần/ Đừng khói hương nhiều làm họ lẫn/
Bình yên không cần bóng bồ đề/ Họ là cây bồ đề mênh mông không tuổi
(Trên đồi cao)…

Chìm đắm trong trực giác, tiềm thức, tâm linh, Nguyễn Bình Phương
đã tạo dựng nên trong thơ ông một không gian thiêng liêng, một thế giới của
thần thánh, tin vào sự ngự trị của những đấng siêu hình. Những hình ảnh:
chùa Hang, Tịnh Tâm, Thiền Quang, động tiên, ngôi miếu cổ, đền thiêng, con
ngựa thần, sư ông, chú tiểu, cô Chín thượng ngàn, cổ nhân, bước chân hành
khất, tiếng chuông, đêm thánh địa, vòm tháp, ngọn tháp nâu trầm, ...càng tăng
thêm vẻ ma mị, tính chất tâm linh cho không gian thơ Nguyễn Bình Phương.
Ngay bản thân nhan đề các tác phẩm của nguyễn Bình Phương cũng mang
đậm màu sắc tâm linh linh thiêng: Khách của trần gian, Linh miêu, Chốn xa
46

người, Trò thiêng, Luân khúc, Linh Nham đêm, Biền biệt, Khách, Chớp được,
Con đường bí mật, Thời soi sáng, Tiếng rền, …

Nhận chân giá trị sự sống, Nguyễn Bình Phương hướng suy nghĩ đến
những miền siêu tưởng:

Sông Hồng đê mê hóa một nén hương

Dẫn ý nghĩ về nơi không thể biết…

(Bài thơ cũ)

Nén hương là một trong những biểu tượng của đời sống tâm linh. Sông
Hồng biến mình thành một nén hương là phép liên tưởng độc đáo của Nguyễn
Bình Phương. Sông Hồng khi uốn lượn quanh co, khi vươn mình thẳng tắp.
Sông Hồng là nén hương thân thẳng đứng nhưng khói từ đầu hương uốn lượn,
vây tỏa ra nhiều hướng khó nắm bắt. Sông Hồng cũng là một biểu tượng của
văn hóa. Nó đi vào tâm thức người Việt như một thành tố văn hóa trường tồn
vĩnh hằng với thời gian. Nhìn sông Hồng chảy con người ta thấy được cái vô
biên của đất, cái vô định của trời, cái vô cùng của lòng người. Sự chảy trôi
của sông Hồng hay nén hương đang cháy gợi lên cái mong manh của kiếp
người, cái mênh mang của lòng người và tiếng vọng về thì thầm dưới những
vỉa tầng đất sâu thẳm của quá khứ, hiện tại, tương lai. Con sông và nén hương
tưởng chừng là những liên tưởng không ăn nhập, rời rạc nhưng hóa ra lại gần
gũi đến vậy. Con mắt nghệ sĩ của Nguyễn Bình Phương phải thật tinh tế mới
nhìn ra được những mối liên hệ này.

Màu sắc tâm linh trong thơ Nguyễn Bình Phương rất đậm nét và phong
phú. Đó là tiếng kêu dài thoát lên giữa cuộc sống đô thị đầy rối ren, những
tiếng vọng về của vô thức, tiềm thức, tâm linh gợi một niềm suy tư thầm kín.
Tiếng vọng ấy đưa con người trở về với bản nguyên thuần khiết của mình,
47

thanh lọc tâm hồn thi sĩ. Một cái tôi thơ ca mạnh về trực giác, tiềm thức, tâm
linh như vậy chính là điều kiện giúp nhà thơ đi sâu vào nhiều góc khuất của
tâm hồn, những xúc cảm đa chiều, tinh tế. Thơ Nguyễn Bình Phương có sức
hút cũng vì lẽ đó.

2.2. Hình tượng thế giới trong thơ Nguyễn Bình Phương
2.2.1. Hình tượng không gian
Hình tượng không gian hay không gian nghệ thuật là một khái niệm
thuộc thi pháp học hiện đại được giới nghiên cứu rất quan tâm.
Trong giáo trình Dẫn luận thi pháp học, tác giả Trần Đình Sử cho rằng:
“Không gian nghệ thuật là mô hình không gian của thế giới nghệ thuật và
cũng là hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật”. Trong thực tế, “không có
hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, và bản thân người kể chuyện
hay nhà thơ trữ tình cũng nhìn sự vật trong một khoảng cách, góc nhìn nhất
định. Nhờ có điểm nhìn của chủ thể mà không gian có chiều cao – thấp, rộng
– hẹp, xa – gần, sâu – cạn, … Có thể nói không gian nghệ thuật là sản phẩm
sáng tạo của người nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một phương
diện nhất định của của cuộc sống” [52; 107 - 108].
Hình tượng không gian hay không gian nghệ thuật mang đậm dấu ấn
chủ quan của chủ thể sáng tạo. Đó là không gian tinh thần của con người, là
không gian sống mà con người cảm thấy. Bên cạnh đó, không gian nghệ thuật
còn là không gian mang tính quan niệm, tượng trưng. Điều này có nghĩa là
chủ thể sáng tạo luôn tạo ra một không gian nghệ thuật để thể hiện một quan
niệm nhất định của mình về con người, về thế giới.
Trong thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Bình Phương, chúng tôi nghiên
cứu không gian nghệ thuật ở ba khía cạnh: Không gian của những vùng đất
thực, không gian của những giấc mơ và không gian tự nhiên khác thường.
2.2.1.1. Không gian của những vùng đất thực
48

Nguyễn Bình Phương là một người con sinh ra trên mảnh đất Thái
Nguyên. Như một lẽ thường tình, quê hương đi vào trong sáng tác của ông rất
tự nhiên. Thi sĩ đã dựng lên trong thơ của mình một không gian sống thực, tồn
tại như nó vốn có. Đó là không gian của núi rừng Thái Nguyên gắn liền với
những địa danh, những tên riêng có thực của vùng đất ấy như: Linh Sơn, Linh
Nham, làng Phan, chùa Hang, gò Trẹo, cống Bù Rùm, Đội Cấn, đồi Phủ Liễu,
chè Tân Cương, sông Cầu, sông Cái, …
Sự xuất hiện của những địa danh, tên riêng trên của đất Thái Nguyên đã
giúp người đọc hình dung về một vùng rừng núi hoang vu, một vùng đất
thiêng liêng ẩn chứa những điều kỳ ảo: Bầy ngựa phi tím tái lưng trăng/ Qua
chùa Hang, làng Phan, gò Trẹo (Canh Ngọ); Lúc đó trên đồi Phù Liễu/ Chiều
mang cơn u mê phủ khắp ngọn cây/ Le lói vài ba con bò gặm cỏ/ Lúc đó sông
Cầu lừ đừ trôi dưới ánh thiên dương (Thái Nguyên)…
Linh Sơn là địa danh được nhắc đến khá nhiều trong thơ Nguyễn Bình
Phương. Trong từng trang viết của ông, Linh Sơn hiện lên với nhiều vẻ ảo mị,
mênh mông, đầy mê hoặc:
Linh Sơn mênh mông,
Linh Sơn những rào mây xệch xoạc
Hỡi ai mà bỏ trăng đi lác đác
Bỏ trăng đi ướt mướt cây vườn…
(Cái bóng)
Linh Sơn ở lại
Ở lại thằng bạn điên sớm tối chỉ cười
Cống Bù Rùm ban trưa nghe rắn quấn…
(Khách)
49

Có khi, đó chỉ là một nét vẽ lướt qua nhưng cũng đủ làm sống dậy hồi
ức về một vùng quê “trong veo” với lối sinh hoạt văn hóa lâu đời trong tâm
thức người đọc:
Thị xã nhỏ và xám
Chợ mở phiên hai ba hai tám
Nón lá trong veo
(Thái Nguyên)
Trong thơ Nguyễn Bình Phương, chúng ta không chỉ bắt gặp những
địa danh thực của vùng đất Thái Nguyên mà ở đó còn có sự xuất hiện của
nhiều địa danh ở Hà Nội như: Hồ Tây, sông Hồng, sông Ngân, hồ Dâm
Đàm, cầu Long Biên, chùa Trấn Vũ, … Không gian thủ đô cũng được
Nguyễn Bình Phương thổi vào đó một vẻ “mộng du”, tái hiện lại bằng
những thước phim không đầu, không cuối, nhòe lẫn và lấp lánh những sắc
màu kỳ lạ: Đêm Hàng Ngang rừng cháy/ Khi người dậy đất dậy trời/ Mây
tái mặt buồn ra bốn phía/ Ngày Hàng Đào mộng du thung lũng hoẵng/
Ngây ngất sốt bàn chân nhà quê/…Hà Nội xích lô (Tới kinh thành); Em
còn lạc bước những buổi sương mù/ Cầu Long Biên vắng sông Hồng
hoang vu (Thời soi sáng); Trên phù sa sông Cầu với sông Hồng/ Vết chân
cổ lấp lánh niềm hy vọng (Những thứ tự)…
Huế hiện lên dưới con mắt Nguyễn Bình Phương thật đậm đà, duyên
dáng và như được dẫn dắt bởi những giấc mơ đẹp:
Có thể sông Hương chảy vì những giấc mơ
Có thể vì giấc mơ mà Ngự Bình hóa núi
Cả tiếng dạ lành hiền trên bờ Phu Văn Lâu kia
vì giấc mơ cũng nhuốm chút bùi ngùi
-Rứa một mình anh vô Huế mơ chi?
(Chớp mắt Huế)
50

Dù viết về vùng đất nào thì ngòi bút của Nguyễn Bình Phương cũng
không ngăn được sự tiết ra từ ngòi bút những chất khói ảo đầy mộng mị. Đó
là những không gian thực mang màu sắc chủ quan rõ rệt, nửa ảo, nửa thực,
mênh mang, bí ẩn, kỳ lạ do chính Nguyễn Bình Phương tạo dựng lên.
Nguyễn Bình Phương có tài miêu tả về làng quê, về thị xã nơi ông
sống. Đó là một vùng quê mang vẻ đẹp mông lung, huyền ảo được bao phủ
bởi một lớp sương mù dày đặc, bầu không khí xanh xao, mỏng manh gợi cảm
giác bí ẩn, kỳ dị. Bên cạnh đó, ông cũng tạo dựng trong thơ của mình một
không gian rất đời thường của cuộc sống đô thị hiện đại với: những dãy phố
con con treo đầy biển hiệu, hàng ngàn xe máy phóng như bay, lũ trẻ online,
đám @ đánh võng, khuôn mặt công chức mệt mỏi, bàn giấy, những cuộc họp
rạc dài, … Những hiện diện về cuộc sống đô thị trong thơ Nguyễn Bình
Phương nếu có xuất hiện chỉ là những không gian tù túng, chật hẹp khiến con
người mệt mỏi, chán chường, cô đơn.
Đó là căn phòng nơi cái tôi trữ tình trải nghiệm nỗi cô đơn, tự đối thoại
với chính mình, suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời, về con người và về cái
chết với bao trăn trở, hoài nghi, mặc cảm dồn nén trong một thân xác, một
hình hài mới: Với hình hài của gió/ Mở một nẻo chênh vênh trên nóc phố/
Anh kín đáo đi xa hơn họ (Không đề nữa); Xa xôi trong căn phòng hẹp/ Bầy
sẻ bay theo vệt sáng hoang hoang/ Nhịp thảng thốt như tin nhắn lạc/ Xa
không chỉ từ thân xác/ Cái tổ ong nhỏ nhoi kết bằng ý nghĩ về nhau/ cũng quá
đỗi xa xôi (Vời vợi xa)…
Đó là không khí ngột ngạt, xô bồ của đô thị với hàng dài phương tiện
chen chúc chật chội: Chênh chênh ánh đèn cốt/ Kiêu hãnh ánh đèn pha/ Trên
phố dài xe máy reo vang lừng/ Những vòng quay chóng mặt/…Các chấm đỏ
lại nôn nao xuất hiện/ Trong đường cua quái đản (Xe máy)…
51

Buông mình giữa vòng quay của cuộc sống đô thị, chúng ta dường như
nhìn thấy khuôn mặt đầy mệt mỏi của Nguyễn Bình Phương ẩn hiện giữa
những khuôn mặt lạ lẫm kia. Sự cô đơn, bế tắc, mỏi mệt này kéo dài tạo thành
một khoảng trống vô tận trong tâm hồn cái tôi trữ tình. Một cái tôi lạc lõng,
hư vô giữa dòng người vô định:
Ngàn xe máy chở ngàn khoảng trống
Phóng như bay vào nỗi chán chường
(Bâng quơ)
Cái tôi mệt mỏi, nhạt nhòa khao khát thu vào những khoảng trống, chế
ngự sự vây tỏa của nỗi cô đơn, trống trải trong lòng:
Chiếc cầu cong đổ bóng tròn
Xích các khoảng trống vào vô tận
(Chạm mặt)
Không gian đô thị những ngày nắng cũng được Nguyễn Bình Phương
miêu tả bằng những ngôn từ giản dị, đời thường nhưng đầy ám ảnh. Độc giả
dễ dàng bắt gặp những “khoảng trống thơ” của ông: Có thấy ngàn ngàn
khoảng trống/ Áp vào một mẩu đời riêng (Một mùa hè mọi thứ áp vào nhau);
Một bầu trời phẳng lì/ Không mây không gì cả/ Tường chói tiếng nói chói/
Chói tấm biển chỉ đường ra ga/ Gương chiếu hậu quắc lên quái gở/ Hè phố
vắng thành khoảng trống của thơ/ Gạch ngói rền vang bao cỗ máy (Miêu tả
những ngày nắng)…
Như vậy, qua từng nét vẽ trong thơ Nguyễn Bình Phương, không
gian của cuộc đời thực đã hiện lên với muôn vàn hình ảnh, màu sắc, đường
nét ấn tượng. Đó là một không gian có vẻ đẹp của thiên nhiên thơ mộng, hư
ảo, có vẻ hoang vu, thâm sâu, huyền bí của núi rừng Thái Nguyên và có cái
chật hẹp của phố phường hiện đại. Không gian thơ ấy vừa cho thấy tài quan
sát tinh tế của nhà thơ, vừa gợi lên hình ảnh một cái tôi mang nặng tâm
52

trạng cô đơn, mệt mỏi, chán chường với những khoảng trống không thể lấp
đầy của tâm hồn.
2.2.1.2. Không gian của những giấc mơ
Khi bước vào thế giới thơ của Nguyễn Bình Phương, độc giả sẽ được
đắm chìm trong một không gian mông lung, xa vời đầy bí ẩn với vẻ đẹp ma
mị, được vẽ lên bởi những đường nét nhòe mờ, không đầu không cuối –
không gian của những giấc mơ. Thực ra, “không gian của những giấc mơ” là
một cách diễn đạt/ định danh mang tính quy ước, nó nhằm chỉ một kiểu không
gian mang tính đặc thù trong thơ Nguyễn Bình Phương. Ấy là một không gian
như được kiến tạo nên trong những giấc mơ không đầu không cuối, với dày
đặc những ảo giác, ảo ảnh phi thực, lạ lùng, kỳ dị… Không gian ấy có thể có
tên hoặc không tên, những cái tên hoặc xa lạ hoặc gần gũi, song chúng luôn
được bao bọc, vây phủ bởi “tiểu vùng khí hậu” mơ, mộng đặc thù ấy.
Đó là vùng đất Linh Nham với khí núi hoang vu được nhấn chìm
trong màn sương dày đặc, cái chuếnh choáng, ướt mướt của vầng trăng đêm
hiện lên trong đêm tối thâm u cùng với tiếng vọng đầy “âm ỉ”, huyền bí của
những quả đồi già: Ai rót rượu vào trăng/ Sương như mắt thiếu phụ về dĩ
vãng/ Đêm/ Lang thang lang thang lang thang/ Ngực đồi già lau lách bỏ
hoang/ Nghe trong đất lời tiên tri huyền bí/ Chẳng biết dữ hay lành/ Những
vì sao âm ỉ (Linh Nham đêm).
Đó là không gian vùng Định Hóa ẩm ướt những tiếng nai kêu “tận
máu” tĩnh lặng đến ghê rợn: Ừ nai kêu, nai kêu tận máu/ Trách làm chi/ Rừng
ẩm/ Sương mù/ Sau mái lán một đốm vàng dần nhú/ Và tiếng trăng va xuống
cỏ mơ màng/ Và lẳng lặng (Ở Định Hóa).
Câu thơ cho ta cảm nhận được sự va động “mơ màng” của trăng. Không
phải sự vỡ vụn, ồn ào, trăng vỡ nguyên trạng thái hiện thực của chính nó. Một
mùi ẩm mốc, thối rữa của cỏ cây, động vật bốc lên trong không khí hòa lẫn với
53

mùi ngai ngái, lành lạnh của sương đêm càng tăng thêm sự rờn rợn của không
khí nơi đây. Nếu hình ảnh mặt trăng, mặt trời hiện lên trong thơ Nguyễn Bình
Phương với nhiều trạng thái kỳ dị: như ai rót rượu vào trăng, trăng vàng rên
xiết, tiếng trăng va xuống cỏ, răng sao rụng như sung, …thì trong tiểu thuyết
của ông, trăng cũng mang vẹn nguyên trạng thái kỳ dị, bất thường đó: “Vừa ra
đời, Tính đã thấy trăng. Mặt trăng to bằng chiếc nong lừ lừ rọi qua vách liếp tạo
thành một quầng trong suốt…Trăng không đi hình vòng cung lên cao. Trăng tiến
theo đường thẳng, lừng lững áp lại. To bằng miệng giếng, bằng cái hủng, rồi
trăng choán kín bầu trời. Tính ngợp trong thứ ánh sáng vàng trắng, lạnh lẽo, rên
riết” [40; 14 – 15].
Ngày đông là những lát cắt hư ảo, mông lung của cả người và cảnh
trong đêm đông. Nó gợi chính xác không gian đầy ảo ảnh, mơ hồ ấy. Tôi hình
dung tới những quả đồi âm u đầy sương, đầy mưa, những con người nhạt
nhòa đi trong đêm tối: Những quả đồi lơ mơ tối/ Lơ mơ vạt cỏ gianh/ Ngôi
nhà rét/ Chiếc cần giếng cong queo/…Ngoài chuồng trâu vọn tiếng cọ sừng/
Một người nựng con/ Phát con/ Rồi ru/ Một người xách đèn đi vào sương mù.
Vùng đất Linh Sơn hoang vu, vắng lặng, huyền ảo với những hình ảnh
mơ hồ, kỳ dị trở đi trở lại rất nhiều trong thơ Nguyễn Bình Phương như một
ám ảnh mặc định đối với bạn đọc:
Bãi tha ma Linh Sơn hoang vu
Cây Cậm Cam rờn xám
Cơn sốt dậy sắc hồng quái dị…
(Giờ sinh)
Cái bóng nhòa nhòa quẩn trong mơ
Nhẹ thênh không va động
Linh Sơn mênh mông
Linh Sơn những rào mây xệch xoạc…
(Cái bóng)
54

Từ Linh Sơn mưa ra một cụ già


Gậy trúc đầu rồng
Chậm rãi tiến vào thị xã…
(Thái Nguyên)
Làng Phan dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Bình Phương cũng đầy
vẻ kỳ dị, ma quái, ghê rợn với những bóng người lặng lẽ đi trong đêm tối:
Làng bao nhiêu gò đất/ Dáng nhà nằm thiêm thiếp dưới hơi trăng/ Điều gì
kia/ Trú trớ / Rùng mình/ Khuya khoắt thế còn lội ngoài đồng vắng/ Vệt lân
tinh nhẹ bẫng (Làng Phan). Khoảnh khắc rùng mình bí ẩn, tiếng “trú trớ”
thoát ra từ miệng người ngủ mê giữa đêm khua khoắt, những vệt lân tinh sáng
xanh kỳ ảo cứ loang ra trong bầu khí lạ càng làm cho không khí làng Phan
như chìm trong nỗi ám ảnh, sợ hãi mơ hồ, bất định.
Không gian mơ hồ, xa xăm, đầy ám ảnh, kỳ dị và ma quái của làng
Phan hay Linh Nham không chỉ xuất hiện trong thơ mà còn là không gian
quen thuộc trong nhiều tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương: Bả giời, Những
đứa trẻ chết già, Người đi vắng, Thoạt kì thủy, …
Trong Những đứa trẻ chết già, chúng ta bắt gặp “không khí ảm đạm và
lưu cữu. Hoàng hôn trung du bao giờ cũng rề rà, mỏi mệt. Những quả đồi chầm
chậm lùi lại, chầm chậm xuất hiện. Đôi chỗ chè hoang mọc xanh đậm lên tận
chóp đồi. Hương chè nhả ra chát đặc” [34; 15]. Làng Linh Nham được miêu tả
trong tiểu thuyết là làng của những người điên đêm đêm nắm tay nhau đi thành
vòng tròn trắng đục ma quái. Cảnh vật Linh Nham luôn luôn như chìm trong ao
Lang “thì thầm đen thẫm như mặt người câm”, không khí trong làng lúc nào
cũng nghi ngút “cuồn cuộn hương khói” của mùi hương trầm tỏa ra từ ngôi
miếu thờ của dì Lãm, gốc si già đêm đêm rì rầm tiếng nói chuyện của những
hồn ma và thi thoảng lại thấy một vài bộ xương người hiện hình, nơi đó người
làng dù chết ở nơi đâu cũng lần lượt tìm về. Đó là ngôi làng vây bọc bởi sự kì
bí của con sông Linh Nham “ẩn hiện chẳng khác gì con rắn khổng lồ đang
55

trườn giữa rừng cây um tùm” đêm đêm gào thét, sự xuất hiện của con Nghê bí
ẩn, … Rõ ràng, kiểu không gian này đã ám ảnh tâm thức và trở thành đặc trưng
tư duy nghệ thuật về không gian của Nguyễn Bình Phương ở cả địa hạt thơ và
tiểu thuyết.
Cái tài của Nguyễn Bình Phương ở đây chính là ông đã kiến tạo một
thế giới đầy những ảo ảnh, chập chờn, vụt tắt, một thế giới tồn tại như chính
nó mà không phải là nó, hữu hình mà vô hình, hư mà thực. Tất cả đã tụ lại
trong từng câu thơ ám ảnh, quái dị: Rừng chết chìm khi mặt trời dội nắng/
Qua tháng này xe ma sẽ đến/ Đôi rồng bay lồng lộn bụi trần/ …Nơi ấy tháp
nhà thờ đen chuông cầu nguyện/ Ai mở vòng tay sáng xanh kỳ ảo/ Đón bầy
người hốc hác/ …Ao lang câm rờn rợn/ Đêm ra nghi ngút hơi người (Bước
khởi đầu nan)
Một thế giới trong trí tưởng tượng hay những ảo ảnh vụt hiện trong đầu
đã được Nguyễn Bình Phương ghi lại. Hệ sinh vật trong thơ ông như bị tiêm
nhiễm bởi một chất độc ma quái, chúng biến thành những linh hồn nhòa nhòa,
những bóng ma èo uột, xanh xao:
- Bầy ngựa phi
Hồi chuông đen mượt
Lam chướng mọc lên ngun ngún mép thềm
Mái lạnh đền thiêng lặng đứng
Cây hay người
Rưng rưng
(Canh ngọ)
- Xa xa đền trống
Nghê già thấp thoáng
Lưng phủ đầy rêu
Mắt tròn lá mục
Cười xô vào đâu?
(Ngỏ lần thứ nhất)
56

Sự xuất hiện của con người càng làm tăng thêm tính chất kỳ dị, ma quái
của không gian thơ: Họ đột ngột xuất hiện/ Tựa bóng ma thôi ra từ sương/
Đàn ông trên lưng ngựa đen/ Đàn bà mang bạc lạnh/ Không khí kêu trầm
trầm quanh họ/ Như tiếng kêu của những con dao (Chợ núi), Qua rãnh nước
thấy vô số mặt người/ Cười không sáng buồn không ra tối/ Gã làm thuê lưng
gù/ Cầm nón rách quành về đằng tây/ Nơi ấy chưa mưa nên mặt trời bị cháy/
Lũ kiến giăng hàng ngang/ có nốt chân hờ hững/ In lên tổ kiến vàng (Mùa)…
Những điều lạ lùng, kỳ dị, hư ảo trong thơ Nguyễn Bình Phương như
được vẽ lên bởi những lát cắt của giấc mơ nhưng cũng mang những vẻ chân
thực khó tả. Phải chăng những ảo cảnh kỳ dị đó được nhà thơ thôi ra từ thẳm
sâu trong tiềm thức, vô thức, là bản nguyên của thế giới được tác giả sáng tạo
lên trong một hình hài mới? Rừng núi Thái Nguyên chính là nơi khơi nguồn
mạch sáng tạo ấy cho Nguyễn Bình Phương. Vẻ hoang vu, huyền ảo của vùng
đất này như gắn chặt lấy tư duy sáng tạo của tác giả “như thể không có gì làm
anh xa rời nó, những bí ẩn của vùng núi Thái Nguyên, vẻ mù mịt hoang dại
của sông nước, vẻ lạnh lẽo trong vắt của bầu khí thở, của cây lá, những
chuyển dạng âm u của mây lúc chuyển mưa giông hay chiều về, vầng trăng
vàng lạnh u ẩn đính hờ đâu đó trong bầu trời, làm kẻ chứng cho những cuộc
tình đến và tan loãng trong bầu trời ấy…” [59].
Như vậy, bằng tư duy nghệ thuật độc đáo, Nguyễn Bình Phương đã tạo
dựng lên một thế giới thơ độc đáo đầy vẻ kỳ dị, huyền ảo với những ảo ảnh
nhòe lẫn, mơ hồ. Nguồn năng lượng sáng tạo ấy tạo thành một thượng nguồn
thơ thâm u, huyễn uẩn, một mạch sống riêng lẻ, một không gian thơ khác biệt,
biểu cảm. Nói như Nhã Thuyên: “Thơ Nguyễn Bình Phương không cho hiện
diện những cơn khát dục tính, cái ác từ vô minh, những tiếng nói bản năng
cùng quẫn vì bị đè nén hoặc được thả nổi đầy năng lượng và hỗn loạn trong
đời sống bỏ hoang. Vẫn là không gian của những vùng đồi âm u lam chướng,
57

đã quẫy đạp trong văn xuôi của anh. Hay thơ ca, cái đẹp u uẩn, vẻ giản dị
mang đầy bí mật của nó, là một phía khác của tâm hồn, một phía khác của
tình yêu, là một áng mây xa luôn vừa bay vừa phân rã, đổi hình dạng, không
thể nắm bắt và định hình” [59].
2.2.1.3. Một không gian tự nhiên khác thường
Nhà phê bình Lê Hồ Quang đã chỉ ra rằng: “Việc “đọc” thơ Nguyễn
Bình Phương là một hành trình tìm đường vào cõi lạ đầy nhọc nhằn, với nhiều
cảm giác bất an, nghi hoặc. Nhưng dù có lúc cảm thấy mê man, đuối sức trên
hành trình phiêu lưu vào thế giới ấy, ta vẫn khó phủ nhận vẻ đẹp đầy ma mị
của nó” [50]. Đúng vậy, thơ Nguyễn Bình Phương là một “cõi lạ đầy nhọc
nhằn” nhưng lại có sức hút ma mị đối với độc giả. Bởi lẽ, thế giới thơ của ông
ngập tràn những biểu tượng, hình ảnh đẹp của thiên nhiên - đó là cái đẹp toát
ra từ ngôn ngữ, hệ hình ảnh kỳ lạ, khác thường mà ta chỉ thấy xuất hiện trong
thơ Nguyễn Bình Phương.
Qua “con mắt khép hờ”, nhà thơ Nguyễn Bình Phương đã biến đổi hiện
thực hiện hữu trước mắt thành một “thực tại mộng mị” với một hệ sinh – thực
vật khác thường. Đó là thế giới của những: Linh miêu, con trăn gió, con hổ
trầm, con báo hoa, con hươu ma, con phượng non, con phượng đen, bầy nghê
đá cười, quạ vàng, cỏ trắng, bông hoa nâu, cây ngô đồng trăm tuổi, cây ngải
vàng, rừng tím, ong tím, ánh sáng màu hung, vầng trăng xanh, ánh sáng màu
huyết thanh, …
Khi bước vào thế giới thơ này, độc giả vừa có cảm giác thích thú, vừa
cảm thấy rờn rợn bởi không gian:
Linh Sơn/ Con trăn gió quăng mình tìm gió/ Con hổ trầm bên suối vỗ
trăng/ Con phượng non mất ngủ đứng dưới gốc ngô đồng/ Cây ngộ đồng
trăm tuổi/… Khúc sông quanh ngải vàng chưa mọc/ Trời héo mòn ngự ở cành
tươi (Khách); Thiếu phụ nhìn hàng cây rờn xám/ Nhớ một con chuồn chuồn/
58

Nhớ khuôn mặt đã tắt/…Không mọc cây ngải vàng/…Giữa vòm cây mận
trắng/ Cơn sốt dậy sắc hồng run rẩy (Tiếng lạ)…
Hình ảnh của những con trăn gió, con hổ trầm, con phượng non, cây
ngải vàng gợi một cái gì đó bí ẩn, huyễn hoặc. Đây là những sự vật chỉ có
trong tưởng tượng về một thế giới vời xa, ngập ngụa những ám ảnh, ma quái.
“Nở” là một trạng thái thường gặp trong thơ Nguyễn Bình Phương. Nó
phản ánh đầy đủ chuyển động khác thường trong chính bản thân nội tại sự
vật. Là một cái gì khó diễn tả, một phương thức giao cảm của người và hệ
sinh vật tồn tại bên ngoài thế giới thực. Trạng thái này luôn gắn với một
không gian rũ buồn, mệt mỏi, với những hình ảnh kỳ dị, ám gợi: Nở/ Một con
hươu sừng cụt/ Tổ tiên của bầy hươu ma (Bước khởi đầu nan); Nở như người
ác ngồi tự lự/ Nở như nỗi buồn đi mang là môi xanh/ Nở như ngọn đèn trôi
êm ru từ bãi tha ma về (Vườn khuya)…
Lấy cảm hứng từ không gian thực nhưng Nguyễn Bình Phương chỉ
dùng những nét phác họa mảnh nhẹ, đường nét chủ đạo của bức tranh thơ đã
được ông nhuộm một màu ma quái, hư ảo. Một thế giới thực song song tồn tại
với thế giới bên kia những ảo tưởng, mờ mờ ảo ảo trong những sắc màu lam
chướng ma mị giúp ta cảm nhận được cái chạng vạng của bóng đêm và cả
không gian hoang vu vắng lặng. Tất cả được toát lên trong những câu thơ đẹp,
hấp dẫn bởi những sự vật kỳ lạ chứa trong nó: Con ong đen mắt tím/ Dẫn
theo đàn ong tím mắt đen/ Băng qua những cánh rừng khô mục (Nở); Như
đường chùng con trăn gió/ Đường võng lưng con báo hoa (Ngỏ lần thứ hai)

Thế giới ấy mở ra vừa khiến ta sờ sợ nhưng lại như có một lực hút
mạnh mẽ kéo ta chìm sâu vào đó. Thế giới này khi bước vào, để hiểu và thấu
nhận nó, buộc chúng ta phải buông bỏ ít nhiều phần tỉnh táo của lý trí, khơi
dậy điểm sáng của trực giác, tâm linh và sự phiêu lưu của trí tưởng tượng:
59

Chết làm ngôi sao đen/ Nằm trên giường bình nhiên bí ẩn/…Ở trong khu
rừng ma/ Có những con hươu ma (Nhẹ); Con đom đóm về/ Con Cậm Cam về/
Về/ Tất cả/ Để lại hằng hà vết chân mờ sáng/ Ngược đường máu chảy (Giờ
về)… Trong không gian thơ đầy những sự vật là lùng, kỳ dị ấy, sự xuất hiện
của “bầu trời hóa thạch” càng trở nên khó lý giải hơn bao giờ hết: Mười con
rồng/ Mười cây thông đen tạc sững/ Bầu trời hóa thạch (Về trời); Những ngôi
sao màu hung/ Quay mãi vòm lá héo/…Qua ô cửa bầu trời hóa thạch/ Cái
bóng già nua lử lả tan dần (Mở lời)… Hình ảnh của mười cây thông đen,
ngôi sao màu hung, cái bóng lử lả chính là những biểu hiện “nổi loạn” mê dụ
của sinh vật. Ta tưởng tượng không gian dường như biến sắc, sự vật chuyển
động dữ dội, đứt nối trong thân xác khô khốc của chúng, bầu trời như đông
cứng lại thành mảng “hóa thạch” khổng lồ, đè nặng xuống thế giới sinh vật
bên dưới. Con người chỉ còn lại là “cái bóng già nua lử lả”, không va động,
dần tan loãng đi trong không khí.
Chỉ trong thơ Nguyễn Bình Phương, ta mới bắt gặp những câu thơ
“trong suốt” như thế này:
Những con chim ngủ yên trong mặt trăng bằng nước
Mưa phùn bay giấc mơ màu ngọc.
(Tháng mười một)
Đó là một không gian đêm thanh tĩnh, có vẻ lành lạnh của những
cơn mưa phùn. Câu thơ gợi một trạng thái bình yên hiếm thấy xuất hiện
trong thơ ông. Hình ảnh “mặt trăng bằng nước” là một hình ảnh đẹp,
khác thường của thiên nhiên, gợi lên nhiều mĩ cảm độc đáo. Đây là một
mặt trăng mềm mại, ướt át và trong suốt, gợi cảm giác êm ái vô tận giống
như một thứ nhung mềm, ấm áp, bồng bềnh. Chính trong không gian ấy,
một giấc mơ màu ngọc nhè nhẹ bay ra giữa hơi mưa phùn phảng phất.
Một không gian kỳ ảo, long lanh, một thế giới lạ lùng khẽ hiện ra trên bầu
60

trời… Và Nguyễn Bình Phương sẵn sàng dâng tặng “em” – nàng thơ, cả
thế giới huyền ảo, hư mặc, phiêu diêu này:
Một chiếc lá vàng
Một vầng trăng xanh
…Một dải cầu vồng trắng đen
Một bụi cây không gió…
(Tặng em)
2.2.2. Hình tượng thời gian
Thời gian nghệ thuật là phạm trù đặc trưng của văn học, là hình thức
cảm nhận thế giới của con người với một quan niệm nhất định về thế giới. Thi
pháp học hiện đại định nghĩa: “Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể
thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó,
với nhịp độ nhanh hay chậm, với các chiều thời gian hiện tại, quá khứ hay
tương lai. Thời gian nghệ thuật do được sáng tạo nên mang tính chủ quan, gắn
với thời gian tâm lí. Nó có thể kéo dài hay rút ngắn thời gian thực tế. Nó có
thể đảo ngược hay vượt tới tương lai” [52; 77].
Thời gian của thực tế khách quan được đo bằng đồng hồ, bằng lịch…
và có tính chất vận động theo quy luật một chiều: từ quá khứ đến hiện tại,
tương lai. Còn thời gian nghệ thuật, dưới lăng kính sáng tạo chủ quan của
người nghệ sĩ, có sự vận động tự do, đa chiều hơn. Nó có thể được đảo ngược:
từ hiện tại quay về quá khứ, bay xa tới tương lai hoặc vận động theo chiều sâu
tâm lí của chủ thể sáng tạo. Thế nên thời gian nghệ thuật được đo bằng nhiều
thước đo khác nhau và nó gắn liền với tổ chức bên trong của hình tượng nghệ
thuật dưới cảm nhận chủ quan của tác giả.
Để hiểu được thế giới nghệ thuật đòi hỏi ta phải đặt thời gian nghệ
thuật trong mối quan hệ với không gian nghệ thuật và trong mối tương quan
thời gian mà nó thể hiện. Thời gian nghệ thuật thể hiện sự cảm thụ độc đáo
61

của tác giả về phương thức tồn tại của con người trong thế giới và là tín hiệu
để người đọc khám phá đặc điểm thế giới nghệ thuật, tư duy nghệ thuật của
tác giả.
2.2.2.1. Thời gian của tự nhiên
Trên thi đàn, bất cứ nhà thơ nào cũng bị ảnh hưởng bởi những mốc
thời gian cụ thể, nhất định. Sự chảy trôi của thời gian dù nhanh hay chậm
đều hằn in trong từng ngôn từ thơ của thi sĩ qua nhiều thế hệ. Mỗi thi sĩ
đều chọn riêng cho mình một biểu tượng thời gian rất riêng để thả hồn thơ
vào đó. Hàn Mặc Tử là nhà thơ của những đêm trăng đầy ma quái, Xuân
Diệu, Tố Hữu là nhà thơ của bình minh, Lưu Quang Vũ lại chọn riêng cho
mình bóng tối để bầu bạn.
Thời gian được tái hiện trong thơ Nguyễn Bình Phương một cách cụ thể,
sống động, trở thành phương thức để đi vào thế giới tâm linh của tác giả. Thời
gian của tự nhiên được thể hiện tập trung qua các hình tượng khác nhau. Một
trong những hình tượng thời gian điển hình trong thơ Nguyễn Bình Phương là
đêm (hay các biến thể của nó như bóng tối, khuya). Dường như thế giới thơ của
ông luôn ngập chìm trong thời gian của đêm, của bóng tối. Khảo sát 164 bài thơ
của Nguyễn Bình Phương, chúng tôi nhận thấy hình tượng đêm được nhắc đến
63 lần, bóng tối được nhắc đến 15 lần, khuya được nhắc đến 5 lần. Đêm được
Nguyễn Bình Phương mô tả với nhiều dạng thức khác nhau: đêm nay, đêm mưa,
đêm quẫn bách, đêm đêm, suốt đêm, đêm nằm, đêm màu lam, đêm dài, mây
đêm, nửa đêm, đêm ấy, dằng dặc đêm, cả đêm, đêm nào, đêm gào thét, đêm đêm,
đêm thứ một ngàn, đêm thành phố, đêm chầm chậm, trong đêm, đêm le lói sáng,
đêm giữa hạ, đêm đảo cánh, bóng đêm, đêm rằm, trời đêm, đêm vằn vện, đêm
ngật ngờ, đêm đo đỏ, đêm nhung huyền, đêm êm êm, … Bóng đêm giăng mắc
dày đặc trong thơ Nguyễn Bình Phương tựa như một tấm màn khổng lồ phong
kín cả không gian thơ.
62

Ngay cả tên tiêu đề những bài thơ của ông cũng có sự hiện hữu của
đêm: Linh Nham đêm, Đi đêm (I), Đi đêm (II), Khuya nào, Áo đêm, Đêm ngà
ngà, Vườn khuya, Đêm êm êm, … Điều này cho thấy tác giả đã bị ám ảnh bởi
đêm, bóng tối, một ám ảnh dai dẳng kéo đuôi dài uốn lượn tới tận những bài
thơ cuối cùng. Những trăn trở suy tư của tác giả đều được kí thác trong những
câu thơ, bài thơ viết về đêm từ tập thơ đầu tay đến tập thơ cuối cùng:
Đêm nay nước mắt giáng trần
Con đom đóm nhỏ xiu đêm nay lạc mẹ
Ngủ nhờ giấc ngủ trẻ con.
(Không đề)
Đêm như hóa thân trong từng bước đi của con người:
Ai rót rượu vào trăng
Sương như mắt thiếu phụ về dĩ vãng
Đêm
Lang thang lang thang lang thang.
(Linh Nham đêm)
Qua con mắt Nguyễn Bình Phương, đêm hiện lênh sinh động nhưng kỳ
lạ và gợi lên nhiều ám ảnh: Đêm vằn vện của hổ/ Đêm ngật ngờ giấc mộng
loài chim/ Đêm đo đỏ khuôn mặt hút thuốc/ Đêm nhung êm làn nước xanh
đen/ Chảy vào ngày trắng xóa (Đêm êm êm)…
Thông thường, đêm trong cuộc sống đời thực là khoảnh khắc lắng đọng
lại sau một ngày dài của cuộc sống thường nhật xô bồ, là khoảng thời gian
tĩnh tại tâm hồn, đem đến không gian yên tĩnh nhất để con người có thể suy
ngẫm nhưng đêm trong thơ Nguyễn Bình Phương lại chứa đựng những điều bí
ẩn, nhiều dự cảm bất an: Đêm ấy gái làng nhìn trăng buồn rười rượi/ Đêm ấy
đám người điên/ Khơi lên ngọn lửa hoang lạnh lẽo/ Đêm ấy những hàng cây
63

đại thụ/ Long rễ và héo úa (Giờ sinh); Và đêm nay/ Đêm thứ một ngàn/ Trẻ
con không ngủ/ Tìm đến nhau rồng rắn lên mây (Thái Nguyên)…
Đêm đã trở thành biểu tượng thế giới mới, nơi con người chìm sâu
trong đó để suy tư về bản thể, về cuộc sống quá khứ, hiện tại và tương lai:
Những suy luận điên rồ rồi sẽ chìm sâu
Còn hơi thở đầu tiên và ý nghĩ
Tôi là con đường chông gai chưa ai đi
Vươn về em
trong đêm
tôi
tự sáng
(Tự sáng)
Đêm cũng là khoảnh khắc mà tâm hồn thấy trống trải và cô đơn nhất để
người ta tìm đến thơ, trải nghiệm nỗi lòng. Đêm là thời khắc cái tôi đối diện
với chính mình, đối diện với nỗi cô đơn, đương bủa vây, giăng mắc trong từng
ngóc ngách tâm hồn. Đây cũng chính là thời khắc của những hỗn hợp cảm
xúc và suy nghĩ khó có thể định hình và phân biệt. Đọc thơ Nguyễn Bình
Phương ta mới tìm thấy những phút trải lòng đầy hoang hoải của tác giả: Tại
sao phải có đêm / Để phải ngủ (Khách); Trống trải/ Chiếc áo sơ mi khoác hờ
lên bóng đêm/ Là anh đấy (Nói với em từ trống trải)…
Thời gian đêm phủ trùm toàn bộ không gian thơ Nguyễn Bình Phương,
đêm xuất hiện đậm đặc nhất ở các tập thơ đầu Lam chướng, Khách của trần
gian, Xa thân. Cùng với sự ảo mờ của hơi sương, u uẩn của khí lam chướng,
đêm (khuya hay bóng tối) đã tham gia vào tạo hình cho một bức tranh thơ đẹp
huyền ảo, mang vẻ đẹp ma mị, ám ảnh không dứt. Cái tôi Nguyễn Bình
Phương như bị thôi miên để rồi đi lạc mãi trong bóng đêm. Đối diện với bóng
đêm, cái tôi đầy chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời và con người của ông mới
64

thực sự được đánh thức. Phải chăng Nguyễn Bình Phương đã tìm được lực
hấp dẫn từ trong đêm tối hay chỉ có trong đêm, cái tôi của ông mới thực sự
được trở về đúng với bản nguyên thuần khiết của mình?
Hồn thơ Nguyễn Bình Phương và Dương Kiều Minh đều có sự gặp
gỡ nhau trong khoảng đêm. Họ là những người gác cổng trung thành của
đêm. Tưởng tượng trong một thế giới phía bên kia bóng đêm, hai tâm hồn
thi sĩ gặp nhau, họ hàn huyên, tâm sự và chiêm nghiệm về nhân sinh, cuộc
đời. Dương Kiều Minh không thiếu những vẫn vần thơ như thế: Chúng ta
kẻ tìm hình bắt bóng?/ Trong cái đêm khổng lồ/ Trong cái đêm đổ vỡ/
Chúng ta tự kiếm tìm/ Lưng chừng đêm … Như kẻ quỷ ám/ Nửa đêm tỉnh
dậy bàng hoàng (Bày tỏ)…
Càng về sau, đêm càng thưa thớt, thay vào đó là sự xuất hiện dày đặc
của những khoảng thời gian mới: chiều, ban mai, bình minh, hoàng hôn, …
Hình ảnh chiều xuất hiện 15 lần, ban mai (hay ngày mai) xuất hiện 14 lần. Sự
trở đi trở lại của khoảng thời gian: chiều, bình mình, hoàng hôn, dĩ vãng, …
không mang lại những niềm vui, bình an trong tâm tưởng mà ngược lại, nó
gợi về những hồi ức buồn, chứa đựng nhiều ám ảnh, những dự cảm chia ly, sự
buồn thương: Không em/ Chiều thành chiều của ngày xưa/ Ý nghĩ là sông
suối của chiều/ …Không em/ Con chim gì tiếng hót như tiếng mưa/ Bóng tối
gì như bóng tối giữa đài hoa (Không em); Chiều lặng lẽ chảy xuôi về phố cũ/
Ngủ giấc dài trong ly rượu nhỏ/Đá xanh cười nhoẻn miệng (Vĩnh cửu)…
Thời gian tương lai trong thơ Nguyễn Bình Phương cũng được nhắc tới
qua nhiều cách diễn đạt khác nhau: ban mai trắng, ngày mai, sớm mai, sau
ban mai, mai sau, …
Ngày mai câu một ngày mai khác
Bằng gương mặt lơ vơ
(Buổi câu hờ hững)
65

Một giấc mơ lập lòe lập lòe


Như tôi với em
Sau ban mai chầm chậm hiện…
(Tặng em)
Nguyễn Quang Thiều cũng bị ám ảnh bởi ban mai, ông chọn ban mai
làm thời khắc để “ra đi”, phiêu diêu tự tại trong thế giới xa xăm ngoài kia:
Vào lúc ban mai anh sẽ ra đi khỏi thế gian này, chuyến đi kỳ vĩ/ Cờ sẽ rực rỡ
biết nhường nào, âm nhạc sẽ tinh khiết đến nhường nào/ Giống cậu bé ham
chơi/ trốn cha mẹ ra khỏi giường ngủ, anh đi bằng cách nhón chân của mèo
hoang/ Và cúi xuống bên em đang thiếp ngủ, thì thầm anh nói:/ Đời sống này
đôi lúc buồn hơn cái chết (Buồn hơn cái chết)…
Bên cạnh đó, đơn vị thời gian được ghi lại trong thơ Nguyễn Bình
Phương rất chi tiết, cụ thể: thứ Bảy, tháng Hai, tháng Tư, Tháng Ba,
tháng Năm, tháng Tám, tháng Chín, canh ba, canh năm…thậm chí vô
cùng chính xác:
Năm 1965
Tháng Giêng
Ngày 29
Con rắn mào rời núi
Một chú bé ra đời cười sằng sặc

(Giờ sinh)
Vào lúc sáu giờ ba mươi phút
Người con trai thất tình uống rượu
Khẩu K54 hiền lành trong túi áo

(Chết)
66

Nhan đề nhiều bài thơ của Nguyễn Bình Phương cũng cho ta thấy được
sự ám ảnh về thời gian luôn phủ trùm thế giới thơ ông: Viết lúc chín giờ, Một
mùa hè mọi thứ áp vào nhau, Bài mùa thu đầu tiên, Xuân ý, Ngày đông, Mùa,
Những ngày cô quạnh, Tháng mười một, Canh Ngọ, Tâm trạng ngày, Miêu tả
những ngày nắng, Miêu tả những ngày mưa, …Vòng tuần hoàn linh hoạt của
tạo hóa qua bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông, dưới ngòi bút của Nguyễn Bình
Phương hiện lên với nhiều vẻ màu khác biệt:
Những buổi chiều lạc nhau trong ảo ảnh xa vời
Trong giận dỗi cây xanh xao mất ngủ
Tôi cắm hoa cúc mùa đông em nghiêng về
xương rồng ngày thu
Tôi ngả sang mùa hè em quay vào tháng Chạp…
(Những chiều mờ)
và chứa đựng nhiều bí mật:
Cuối cùng
không ai nói cho lũ trẻ biết bí mật của ngày hè
…Cuối cùng
mùa hạ cũng giữ được cho riêng mình
một buổi chiều lành lạnh.
(Ở nơi không có cánh)
Đó là khoảng trống khẽ khàng, êm ru trong giấc mơ nhè nhẹ về mùa hạ
năm ấy: Ngủ/ Và mơ/ Mùa hạ/ Chạm vai mình rất khẽ/ Lời chia tay năm ấy
chẳng rõ ràng (Bài thơ cho một khoảng trống)
Đêm tối chính là khoảnh khắc để nỗi nhớ định hình và thống trị tâm
trạng của nhà thơ. Cái giá rét lạnh lùng của mùa đông lại vô tình nuôi lớn nỗi
cô đơn. Chính trong lúc cô đơn ấy, nỗi nhớ nhung mới trở nên da diết đến ám
ảnh: Rượu một mình/ Mùa đông đỡ hoang tàn/ Nhớ tới em bằng câu thơ
67

lạnh/ Ngày mai ta không đủ sức buồn/…Thế rồi vắng cả thời hoa niên/ Thế
rồi không đêm bông trăng vẫn nở/ Muôn trùng muôn nơi/ …Một chút rượu
nồng/ Say hết mùa đông (Rượu một mình).
Cái tôi càng cô đơn, càng giam mình trong bóng tối, nơi không gian
chật hẹp, tù túng cùng với vòng quay vội vã của thời gian càng làm cho con
người cảm thấy mỏi mệt, rã rời hơn: Buổi sáng nhiều nắng/ Còn sót lại trên
vòm cây khuôn mặt tối cái nhìn hằn học/ Những đồng bạc tròn quay quay hối
hả/Về với căn phòng treo áo lạ/ Nơi chưa ngày đã ban mai/ Chưa ban mai
đã chiều (Sinh nhật).
Sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố thời gian trong thơ ông nhằm tô
đậm những suy tư, trăn trở, đặc biệt nó diễn tả những khoảng trống cõi lòng
mênh mông, vô định, cô đơn đến hoang hoải trong lòng người. Đây cũng là
điểm hấp dẫn trong thơ Nguyễn Bình Phương. Ở thơ ông, ý thức cá nhân về
sự chảy trôi của thời gian rất mạnh mẽ. Nó gắn liền với ý thức về việc xác lập
một thế giới của tương lai, thế giới bên kia của những giấc mơ, những hoài
niệm đã mất.
2.2.2.2. Thời gian của thân phận con người – “khách của trần gian”
Không chỉ ghi lại những mốc thời gian chính xác, tuần tự của tự nhiên,
thơ Nguyễn Bình Phương còn là dòng chảy lặng lẽ, dở dang, ám ảnh, huyễn
uẩn, thời gian của thân phận con người – “khách của trần gian”.
Trong thế giới thơ hằn in dấu chân của những vị “khách của trần gian”
ấy, thời gian dường như mất đi tính chính xác vốn có. Sự xuất hiện của những
khoảng giữa thời gian cùng với khoảng thời gian đặc trưng, ám gợi như:
ngoài bóng tối, giữa hoàng hôn, giữa trời đông, sau ban mai, ngoài ban mai,
cuối chiều, qua mùa hạ, hoàng hôn bỏ ngỏ, hoàng hôn bất tận, ngày mai chết
lặng, … Hình tượng thời gian đầy ám ảnh này đã gợi lên sự chênh vênh của
tâm hồn người, của thân phận “khách của trần gian” giữa một khoảng không
68

vô định, bất an. Đó là thời gian của thế giới mới – thế giới nằm giữa ranh giới
của con người và vũ trụ, hạnh phúc và khổ đau, hữu hình và vô hình, …
Những khoảng giữa thời gian này cứ xuất hiện lớp lớp gợi lên nhiều day dứt,
đứt nối:
- Công Cống đi ngang thăm lại mẹ già
Bao nhiêu đất cháu đất bà
Lũ lượt cõng nhau vào hoàng hôn bỏ ngỏ…
(Ngỏ lần thứ nhất)
- Ký ức tết tóc đuôi sam
Đi hài cỏ nhẹ nhàng qua mùa hạ
Nhớ không
Mây lành như trẻ
Hoàng hôn là lãng quên…
(Đề từ cho một bức ảnh đen trắng)
- Tôi cắt tóc
Buông lơi
Khuôn mặt ngoài mùa hạ
Sau bức tường kia những sự thật đã già…
(Cắt tóc)
Đêm tối ẩn chứa tất cả những bí ẩn, sự hỗn mang, sự dày vò, sự hoảng
sợ, sự suy tưởng và cả vùng mờ mà con người chưa khám phá được. Thời
gian dưới con mắt của vị khách trần gian giống như một bóng ma không hình
hài, cứ phiêu dạt, lang bạt khắp cõi người này. Đó là sự di chuyển lẻ loi, đầy
cô độc:
Đêm
Lang thang lang thang lang thang…
(Linh Nham đêm)
69

Cái tôi của thân phận con người luôn suy tư về sự vận động của thời
gian, cảm nhận về thời gian qua những bước đi sống động: Những cơn hoang
tưởng mờ/ Lảy bảy chết dọc theo kim phút/ Những tích tắc cố rướn thêm một
nhịp/ Rồi ngã vào hư không/…Nhưng ở nơi trống không rờn rợn ấy/ Nơi chết
lặng/ Vẫn tích tắc, tích tắc, tích tắc (Kẻ ngoài cuộc).
Ở một góc quan sát, “tôi” thấy bước chân của thời gian chợt run “lảy
bảy” theo từng cú nhích nặng nề, mỏi mệt của kim phút. Mọi cố gắng vượt
thoát khỏi bước đi chậm chạp của thời gian – kim phút, chỉ là một sự cố gắng
vô nghĩa, để rồi lại “ngã vào hư không” tăm tối, mơ hồ. Tuy nhiên, ở nơi
“trống không rờn rợn” ấy, dấu vết của thời gian vẫn âm ỉ, đều đều. Bằng sự
phiêu lưu của trí tưởng tượng, Nguyễn Bình Phương đã thể hiện những chiêm
nghiệm, suy tư sâu sắc của mình về cuộc đời, về thân phận con người qua
từng bước đi của thời gian.
Cuộc đời, kiếp người vốn vô thường. Giữa cuộc sống bề bộn lo âu,
dự cảm bất an này, con người luôn mong muốn được chạy trốn thời gian
thực tại để thả lỏng tâm hồn vào chốn xa xăm mơ hồ, sống một cõi khác:
Họ không tới ngày mai những ngày mai chết lặng/ Lồng ngực thời tiết
trái tim chẳng rộn ràng/ Trái tim đập lầm lụi dưới gót chân/ Sau mỗi
bước cửa thời gian rùng mình lại mở/…Họ gánh muôn sặc sỡ/ Đi êm ru
về phía tờ mờ (Hàng mã rong).
Thời gian trong thơ Nguyễn Bình Phương là thời gian của ám ảnh, khát
vọng và nuối tiếc “mơ màng”: Trong thời khắc cuối cùng của mùa đông/ Anh
giã từ chính mình thật khẽ khàng/ Và anh là núi đồi mơ màng/Chưa lìa xa
bóng tối (Ban mai).
Cũng ở đây, con người rũ bỏ mọi vướng vất, cồng kềnh của thể xác,
“khẽ khàng” giã từ chính hình hài chân thực của mình để tan vào núi đồi
trong trạng thái “mơ màng”. Con người, thiên nhiên đã hòa vào nhau trong
70

một nhất thể có tên “ban mai”. “Thời khắc cuối cùng của mùa đông” gợi lên
nhiều dự cảm buồn.
Tồn tại song song với sự chảy trôi của thời gian, con người luôn muốn
tìm về với một bản thể khác, “xa thân” bằng nhiều cách, thành nhiều trạng
thái khác nhau. Từ đó, con người có thể tan loãng vào ngoại giới. Không còn
ranh giới giữa ánh ban mai hay chiều tà và anh. Thời gian đã lên tiếng chối
bỏ mọi ranh giới của nó trong cuộc đời này:
Không phân biệt cánh chim và cánh cửa
Dĩ nhiên không phân biệt
Ánh ban mai với chiều tà, anh…
(Không phân biệt)
Câu thơ đã cho thấy cái nhìn mới về thời gian, cuộc đời của con người,
mong muốn xác lập một thế giới ở “bên kia mùa hạ”hay “giữa hoàng hôn” –
nơi tất cả chỉ còn là hư vô, con người tìm thấy chính bản nguyên của mình.
Định nghĩa về thời gian – ngày mai qua nhãn tự của Nguyễn Bình
Phương mang những dấu ấn rõ nét, là thời gian của thân phận con người –
“khách của trần gian”:
Bà già lưng còng
Mặt trời bò trên lưng bà sang bên kia
làm thành cái ngày mai…
(Khách)
Đây hẳn là một “ngày mai” đầy ám ảnh trong tâm thức con người. “Mặt
trời” - biểu tượng thiên nhiên vĩ đại, hóa thân trong những đường di chuyển
của ốc sên, bằng những đường “bò” chậm chạp, từ tốn, nặng nề trên lưng bà
già lưng còng. Sự tưởng tượng và góc miêu tả của câu thơ rất độc đáo. Câu
thơ đầy sức nặng, gợi liên tưởng về những áp lực của thời gian lên thân phận
con người nhỏ bé, tội nghiệp.
71

Là nhà thơ luôn mang trong mình ám ảnh của thời gian, Nguyễn Bình
Phương thể hiện trong thơ những nỗi buồn hoang hoải về thời gian. Thời gian
dù trôi nhanh, trôi chậm hay ngưng đọng đều ẩn chứa trong nó tâm trạng nặng
nề, nỗi niềm suy tư và trăn trở của những vị khách viếng thăm trần gian:

Không đủ thời gian về thăm ký ức


Không đủ sức cuỗm em
Trăm bàn tay già nua giằng níu…
(Chốn xa người)
Thời gian trong thơ Nguyễn Bình Phương là cái cớ để tác giả thể hiện
những suy tư, chiêm nghiệm của mình về cuộc đời, con người. Cái tôi nhà thơ
như muốn đi ngược lại với quy luật của tự nhiên, giữ lại cho mình những
khoảnh khắc để có thể cảm nhận rõ hơn sự chảy trôi vô định của thời gian. Sự
ngưng đọng của thời gian cũng khiến cho những suy tư chiêm nghiệm về cuộc
đời và phận người thêm sâu sắc, những nỗi buồn, dự cảm xa cách, những bất
an cũng trở nên ám ảnh và kéo dài hơn. Hình tượng thời gian trong thơ
Nguyễn Bình Phương luôn là một màn đêm đầy bí ẩn, mê hoặc.
Nói thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bình Phương là thời gian
tâm lý quả không sai. Bởi lẽ, sau mỗi khoảng thời gian được tái hiện, ta thấy
xuất hiện thấp thoáng khuôn mặt ưu tư, trầm ngâm, mệt mỏi của tác giả. Trên
mỗi trang thơ của mình, viết về thời gian, nhà thơ thể hiện đa dạng dòng cảm
thức đầy mâu thuẫn. Thời gian trong thơ Nguyễn Bình Phương không theo
nhịp trôi chảy của thời gian tuyến tính mà luôn có sự đan xen, lặp lại như một
ám ảnh không dứt của nhà thơ.
Sự xóa mờ những mốc thời gian cụ thể, xác thực trong thơ Nguyễn
Bình Phương nhằm thể hiện những chiêm nghiệm của tác giả về thế giới, về
con người. Đó là một thế giới đầy sự rối ren, mập mờ với vô vàn những bất
72

trắc, u uẩn luôn ám ảnh con người. Với Nguyễn Bình Phương, thế giới được
dựng lên trong từng trang thơ của ông chính là nơi con người có thể rũ bỏ mọi
hình hài khô cứng của mình để trở về trong một trạng thái hoàn toàn thanh
sạch, nhẹ tênh, không vướng bận, nơi con người có thể “xa thân” theo cách
của chính mình. Và cũng ở đó, “nhà thơ dường như đã trình bày nguyên trạng
cái trạng thái “xa thân” của chính mình để “hồi lại” trong một trạng thái hiện
sinh khác, ở đó, mỗi “khách của trần gian”, nói theo cách của ông, có thể “mở
lời” trong những “tiếng lạ” ”[44].
2.2.3. Hình tượng con người
Hình tượng con người trong thơ Nguyễn Bình Phương trở thành điểm
nhấn trong sáng tác thơ của ông. Ở đó, con người luôn “xa thân” theo nhiều
hình thức khác nhau: ngủ, mơ, say, điên. Đây cũng là một trạng thái tinh thần
thống ngự xuyên suốt tất cả các tập thơ của ông. Nói như Nhã Thuyên: “Con
người “xa thân”, bằng nhiều cách, ngủ, mơ, say, điên, bay, đứng, ngồi, nhớ lại
để bay vào một miền không gian khác, một phiên bản không gian khác, vừa
bay vừa cảm nhận sự phân rã của chính mình, bước di chuyển lảo đảo của tâm
hồn mình, sự luênh loang trôi nổi của xúc cảm, và để có thể nghe tiếng nói
khác”[59].
2.2.3.1. Con người ngủ, mơ
Trong thơ Nguyễn Bình Phương, hình tượng con người ngủ, mơ hiện
lên dày đặc từ những tập thơ đầu tiên đến tập thơ cuối cùng. Qua khảo sát, ta
thấy con người ngủ, mơ và trạng thái thiên quan đến ngủ được Nguyễn Bình
Phương nhắc lại 141 lần. Trong đó ngủ được nhắc tới 71 lần; mơ, mộng được
nhắc tới 62 lần:
73

Bảng 2.1.
Thống kê tần số xuất hiện của trạng thái ngủ, mơ

Ngủ Mơ (mộng, chiêm bao)


- Đêm nay nước mắt giáng trần/ Con đom - Ngày mai có người sang đất lạ
đóm nhỏ xiu đêm nay lạc mẹ/ Ngủ nhờ giấc Ngày mai lạc vào giấc mơ của ma
ngủ trẻ con (Không đề) (Tự sáng)
- Tôi nhón gót về/ Người chở đò góa chồng -Em cúi xuống giấc mơ yên ả/ Hôn lên mùa thu
rên trong mê ngủ (Làng Phan) không còn tôi
- Bè vó ngủ/ Giấc mù lòa màu đá gan gà (Em và hoa)
(Giờ sinh) - Lũ trẻ lạc trường ngẩn ngơ thành bướm dại/
- Những đứa trẻ chết già bên đường/ Những Ý nghĩ tàn những giấc mộng trưa (Những thứ
đứa trẻ ngủ mơ màng trong cỏ (Khách) tự)
- Em da trắng mùa hè thật xa xôi - Anh đang mơ chúng mình cầm tay/ Vòng
Giấc ngủ mỏng đường chỉ tay rất nhẹ quanh những quả đồi
(Ngợi ca) (Tình yêu khuất mặt)
- Mang xống áo màu thu làm mùa thu/ Nhớ - Không phân biệt/ Ngủ bên ngoài mái hiên
giấc ngủ ngàn thu trong đài sen úa (Bài hay ngủ trong lòng mẹ/ Đâu cũng là giấc mơ
mùa thu đầu tiên) (Không phân biệt)
- Hoàng hôn là lãng quên/ Giấc ngủ nhiều - Ngủ/ Và mơ/ Mùa hạ/ Chạm vai mình rất khẽ
thực tại (Đề từ cho một bức ảnh đen trắng) (Bài thơ cho một khoảng trống)
- Với một chút e dè trong buổi tối dông dài/ - Một người mơ thấy gió/ Người ấy nôn nao
Em là chiếc gối ru tôi ngủ/…Em nói về màu thổi qua bãi bờ/ Một người nữa thì mơ thấy
hồng cùng những vết xước/ Tôi vẫn ôm gối lửa/ Người này thành đám cháy giữa mưa/ Một
ngủ (Con đường bí mật) người be bé mơ thấy sóng…(Ẩn dụ)
- Chú bé lớn dề dà như cây si cổ/ Người mẹ - Tự do ngủ được không/ Mơ nằm sẽ tới/ Mơ
lo lắng ngủ quên (Ru) ngồi phải xa/ Mơ bạn gái cào cào bổ mắt
- Chiều lặng lẽ chảy xuôi về phố cũ/ Ngủ (Bước khởi đầu nan)
giấc dài trong ly rượu nhỏ (Vĩnh cửu) - Ông hàng xóm từ chiến trường về không có
-Người chưa ngủ hỏi người chưa biết ngủ/ giấc mơ (Ngỏ lần thứ nhất)
Người ngủ rồi vĩnh viễn nằm mơ (Khách) - Những con chim già ngủ mơ/ Giấc mơ lập
74

- Ngủ trên mây/ Trên ngàn/ Trên làn môi lòe phát sáng (Thác)
kiêu sa/ Ngủ trên đồng bằng thơm tho giấc - Con bướm cuối cùng nhẹ nhàng bay ra
trẻ/ Ngủ…/Ngủ…ngủ…ngủ/ Ngủ trong - Không khí kêu trầm trầm quanh họ/ Như
thân hình xa lạ (Vĩnh biệt) tiếng kêu của những con dao/ Gặp giấc mơ sát
- Những khuôn mặt thần tiên mơ màng ngủ/ chủ (Chợ núi)
Giấc ngủ như là con đường xa (Than thở) - Anh vừa đi vừa nghĩ trong giấc mơ đêm qua
… người ấy đến tìm anh/ …Rồi ngủ/ Đêm bắt đầu
từ đấy thật dài (Về một người thương binh
hỏng mắt)
- Người là con mắt buồn rũ rượi
Người là sợi tơ hồng không vào được chiêm
bao
(Những phụ đề)
-Tình còn thắm tươi
Ở tận phương nào
Bao nhiêu mắt sắc liếc vào chiêm bao
(Rượu một mình)
-Ta làm môi em đêm đêm hé mở
Làm con đường nhỏ dẫn vào chiêm bao
(Bài ca)
-Nhìn thật kĩ vào giữa chiêm bao
Ức vạn cánh buồm giăng trên mặt bể
(Đêm ngà ngà)

Ngủ, mơ là một trạng thái phổ quát của thế giới thơ Nguyễn Bình
Phương. Ngủ, mơ (hay giấc ngủ, giấc mơ, mơ mộng, chiêm bao) hiện lên
trong thơ với nhiều trạng thái khác nhau. Có giấc ngủ chìm giữa thế giới của
những sắc màu thơm tho, đẹp đẽ, chông chênh như nắng quẩn dưới chân cầu:
Dưới chân cầu có giấc ngủ nắng
75

Đom đóm xoay quanh những khóm lau vàng


(Giấc ngủ nắng)
Là giấc mộng ban trưa, ngẩn ngơ, thảng hoặc, trôi trong những ám ảnh
khác thường:
Lũ trẻ lạc trường ngẩn ngơ thành bướm dại
Ý nghĩ tàn những giấc mộng trưa
(Những thứ tự)
Lại có giấc ngủ tĩnh lặng, an nhiên và bồng bềnh như ngủ trong một
mặt trăng trong suốt kết bằng những giấc mơ màu ngọc:
Những con chim ngủ yên trong mặt trăng bằng nước

Mưa phùn bay giấc mơ màu ngọc

(Tháng 11)

Trong giấc ngủ ấy, cái tôi “xa thân” thực hiện những bước chuyển hóa
nhẹ nhàng, mơ hồ, cơ thể tan loãng đi trong chất lỏng đặc quánh của thời gian
và trong cái ngan ngát, ngà ngà còn vương lại trong đài sen úa. Một sự phân
rã nhanh, cô độc, đầy năng lượng: Mang xống áo mùa thu làm mùa thu/ Nhớ
giấc ngủ ngàn thu trong đài sen úa/ Nhớ giọng nói mềm mại như bóng râm/
Chảy vào căn nhà đổ (Bài mùa thu đầu tiên).
Ngủ, mơ trong thơ Nguyễn Bình Phương là một trạng thái sống đặc biệt
mà cái tôi tự phân tách mình ra khỏi thân xác để sống trọn vẹn với phần hồn.
Ở đó, tiếng nói bản năng, vô thức của con người trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao
giờ hết. Nó vượt thoát ra khỏi những ràng buộc nội tâm cố hữu, đè nén, vây
bủa phần hồn thanh sạch: Con bướm cuối cùng nhẹ nhàng bay ra ngoài giấc
mộng/ Bằng đôi cánh hoa mơ (Tình yêu khuất mặt); Qua con mắt khép hờ/
Mặt trăng đi thẳng vào giấc ngủ/ Cuối đường gặp một ban mai bàng bạc/ …
Trong giấc ngủ đầy mộng mị/ Trăng không thể bay ra (Mắt).
76

“Con mắt khép hờ” đã trở thành công cụ thẩm mĩ đặc biệt mở ra một
thế giới mới với những điều mới lạ, hấp dẫn phía bên kia tâm hồn. Nó là chiếc
cầu nối vô hình xích lại hai thế giới tách biệt bên trong và bên ngoài cánh cửa
kia để con người có thể tự do di chuyển giữa hai chiều thực tại – hư ảo ấy.

Trong thế giới thơ Nguyễn Bình Phương, con người tồn tại không phải
bằng hình hài tạo hóa đã nhào nặn, mà sự tồn tại ấy hiện diện qua những giấc
mơ, giấc ngủ. Con người cảm nhận thế giới, nhìn thế giới qua trạng thái ngủ,
mơ đầy “mơ màng”. Tuy nhiên, ngủ, mơ trong thơ ông không hoàn toàn là hồi
ức đẹp, nhẹ nhàng mà đầy ám gợi, gắn liền với thực tại đầy dấu hiệu bất an:
Những đứa trẻ chết già bên đường/ Những đứa trẻ ngủ mơ màng trong cỏ
(Khách), Những tiếng kêu trầm trầm quanh họ/ Như tiếng kêu của những con
dao/ Gặp giấc mơ sát chủ (Chợ núi), Nòng súng đen ngòm hát ru đứa bé lên
ba ngủ (Thái Nguyên).

Đó là một giấc ngủ, mộng mị đầy ám ảnh, mọi sự vật cũng bị lây lan
bởi trạng thái ngủ, mơ của con người: Con đường trắng lừ đừ đi xuống nước/
Bè vó ngủ/ Giấc mù lòa màu đá gan gà (Giờ sinh); Chú lính binh Nhì/ Một
đêm mưa lên tàu/ Rời quê không người đưa tiễn/ Thị xã ngủ những giấc u mê
trong cái bóng khổng lồ ám ảnh (Đồng ca).

Hình ảnh chú lính binh Nhì cô độc, lặng lẽ xuất hiện ở bến tàu trong
một đêm mưa gợi lên nhiều ẩn ức buồn bã. Sự cô độc như mách bảo anh về
một con đường mịt mù, tăm tối trước mắt. Không ai đưa tiễn anh. Buồn. Cô
độc. Bóng tối ru ngủ cả thị xã trong một màu đen khổng lồ ám ảnh tâm thức
con người. Cả thị xã như chết lặng trong giấc u mê. Câu thơ đã khép lại
nhưng những ám ảnh vẫn lởn vởn đâu đây.

Lạc vào thế giới của những giấc ngủ, mộng mị trong thơ Nguyễn Bình
Phương, ta dễ dàng bắt gặp những khoảnh khắc “mơ màng” như thế này:
77

Những khuôn mặt thần tiên mơ màng ngủ/ Giấc ngủ như là con đường xa
(Than thở); Em nhắc về một đấu trường/ Về đôi hài bỏ quên thềm hoa sữa/
Ngủ mơ màng bên cửa số không trăng (Chạm mặt).

Ngủ mơ màng là một trạng thái ngủ quen thuộc trong thơ Nguyễn Bình
Phương. Đây là một trạng thái tồn tại giữa những lằn ranh của thực tại –
mộng mị, ý thức – vô thức, tỉnh táo – điên rồ. “Đấy không phải là một sự tồn
tại chết lặng, đông cứng. Đấy là cái trạng thái chuyển hóa đầy mơ màng (mơ
màng là từ mà tác giả này rất hay dùng) của một nguồn năng lượng thiên
nhiên lớn lao và bí ẩn” [44].
Trạng thái ngủ của Nguyễn Bình Phương được thoát ra từ những bóng
hình ứ đọng, căng cứng, mệt mỏi của cuộc sống. Đó chính là tiếng nói của
bản năng vô thức đang trỗi dậy mạnh mẽ, khát khao muốn phá bỏ mọi rào
cản, bức bối đang giam hãm phần hồn để bỏ trốn cùng giấc ngủ hư ảo kia:
Ngủ trên mây/ Trên ngàn/ Trên làn môi kiêu sa/ Ngủ trên đồng bằng thơm
tho giấc trẻ/ Ngủ…/Ngủ…ngủ…ngủ/ Ngủ trong thân hình xa lạ (Vĩnh biệt).

Ngủ và mơ, hai trạng thái không tồn tại tách biệt mà hòa lẫn, chuyển
hóa trong nhau, cùng tồn tại trong một thực thể. Giống như một “khách của
trần gian”, trong giấc mơ, Nguyễn Bình Phương tìm đến những trạng thái mơ
đôi khi vu vơ, lãng đãng, đôi khi khẽ khàng, không có ranh giới cụ thể giữa
mơ và ngủ. Giấc mơ không rõ ràng, giấc ngủ chìm trong cõi mông lung, ngủ
trong giấc mơ của chính mình: Ngủ/ Và mơ/ Mùa hạ/ Chạm vai mình rất khẽ
(Bài thơ cho một khoảng trống); Không phân biệt/ Ngủ bên ngoài mái hiên
hay ngủ trong lòng mẹ/ Đâu cũng là giấc mơ (Không phân biệt).
Không phải đến Nguyễn Bình Phương, con người ngủ, mơ (hay giấc
ngủ, giấc mơ) mới hiện hữu trong thơ như một ám ảnh nghệ thuật. Ở Mai Văn
Phấn, giấc mơ, ngủ cũng mang những hình hài riêng biệt. Nhà thơ đã đem đến
78

cho thơ ca một thế giới xa lạ, tiềm ẩn sau những giấc mơ, giấc mộng đến bất
chợt trong ý nghĩ của con người. Ông đã kịp thời ghi lại, nắm bắt để rồi tái
hiện một cách sinh động trong thi ca: Anh mơ được em gieo trồng trên ngực/
Bàn tay dịu dàng vun vào da thịt/ Hôn lên tai anh lời chăm bón thì thào/ Anh
cựa mình nồng nàn tơi xốp (Bài ca buổi sớm), Em không ngủ yên dưới tàn lá
giật/ Một nhành cây vừa rơi xuống mái tôn/ Tiếng quả vỡ lăn trên thềm gạch
cũ (Buông tay cho trời rạng). Đặc biệt ở Tĩnh lặng, những giấc ngủ, mơ hiện
lên rõ nét hơn cả:
Tôi nhuộm sáng khi tỉnh thức
Còn khi ngủ
Phó mặc giấc mơ
Có giấc mơ
Không tìm thấy bóng tối
(Tĩnh lặng)
Hình tượng con người ngủ, mơ trong thơ Nguyễn Bình Phương diễn tả
chính xác trạng thái “xa thân” trong thơ ông. Nó cho thấy một thế giới khác vừa
xa lạ, vừa quen thuộc, ẩn tàng dưới những lớp ngôn từ giản dị. Hơn hết, thế giới
ngập tràn mộng mị trong thơ Nguyễn Bình Phương vẫn luôn là một ẩn số đối với
bạn yêu thơ.
2.2.3.2. Con người say
Nếu như con người ngủ, mơ trở thành hình tượng nổi bật, bao quát toàn
bộ không gian thơ Nguyễn Bình Phương thì hình tượng con người say chỉ
chiếm một góc nhỏ khiêm tốn nhưng lại góp phần không nhỏ vào làm nổi bật
thêm hình tượng con người trong thơ Nguyễn Bình Phương.
Có nhà nghiên cứu nhận định rằng: “Tập Xa thân là cuộc tìm nơi trú
ngụ của những linh hồn, những cái mất trở lại, những hồn say trong đêm:
bóng những bông hoa bị ngắt run run về đậu trên cuống, hồn hoa lảo đảo trên
79

đường, những giọng nói mềm mại như bóng râm, bóng áo nâu trên bức tường
hoa sứ…” [59]. Nhận xét này đã bao quát hầu như toàn bộ trạng thái của con
người trong Xa thân. Đọc thơ Nguyễn Bình Phương, người đọc không bị giật
mình bởi hình ảnh của những bóng người say èo uột, lả lướt bước đi trong
đêm tối mà chỉ cảm nhận được hơi men buông tỏa, tràn ngập giữa bóng đêm:
Sáng trong bóng tối
Một đôi mắt mèo
Một ngày không ai
Con đường vắng hồn hoa đi lảo đảo…
(Đêm ngà ngà)
Một đôi mắt mèo xanh xao, ánh lên những vệt màu ma quái chợt bừng
lên trong đêm tối. Nó điềm nhiên, lặng lẽ quan sát từng bước chân lảo đảo
của “hồn say” kia. Câu thơ lột tả trạng thái say của con người hay cái hồn hoa
với những cánh nhung mềm bị thấm nhiễm trong hơi rượu ngà ngà đêm? Sự
di chuyển nhẹ nhàng của những hồn say chuếnh choáng ấy gợi cảm giác bồng
bềnh, nổi trôi vào miền vô định:
…Nhìn thật kỹ bàn tay thành mây
Trôi đi
Trôi đi
Trôi đi mãi…
(Đêm ngà ngà)
Có lẽ, trạng thái say của con người bắt nguồn từ chính sự cô đơn, u
buồn, chán chường trong cuộc đời thực của Nguyễn Bình Phương. Vì buồn,
vì cô đơn, người ta có xu hướng tìm đến men say để được ru ngủ, để được
quên đi mọi muộn phiền, mọi đau thương đang khỏa lấp tâm hồn: Tình còn
thắm tươi/ Ở tận phương nào/ Bao nhiêu mắt sắc liếc vào chiêm bao/ Bao
80

nhiêu niềm đau lắng về quê mẹ/ Một chút rượu nồng/ Say hết mùa đông
(Rượu một mình).
Men rượu không phải lúc nào cũng đủ “độ” để làm con người say. Đôi
khi, trạng thái say lại đến từ những ký ức “lơ mơ” của tuổi trẻ và chìm khuất
trong những say mê vụng dại thuở ấy: Tôi áp về hôm qua/ Những đường lơ
mơ làm cuộc đời trẻ lại/ Chúng nhìn tôi như nhìn mùa hè/ Hỗn độn trong say
mê vụng dại (Một mùa hè mọi thứ áp vào nhau). “Lơ mơ” là từ để diễn tả
trạng thái mơ hồ, bất định (trạng thái say) của con người. Con người say trong
cái “lơ mơ” của cuộc đời, của tình yêu. Đó là say trong tình yêu hay say mê
man bên cạnh một câu thơ?
Trạng thái say của con người được nhắc đến với nhiều biểu hiện khác
nhau: Say sưa, say ngất ngưởng, say dề dà, say ngây ngất, say hết mùa đông,
…Tình yêu không mang theo men rượu nhưng nó khiến “ta” nguyện say mãi
không tỉnh. Tình yêu làm cho những trạng thái say kia trở nên vu vơ, lãng
đãng. Có lẽ không có cơn say nào lại đẹp như cơn say tình trong thơ Nguyễn
Bình Phương:
Bỗng dưng chới với ở nơi cuối nguồn
Đàn bướm bay xuôi dòng sông chảy ngược
Ngồng cải vàng mơ một đàn bướm khác
Ta say dề dà bên lề cuộc tình…
(Viết lúc chín giờ)
Ngay lúc này, “ta” thấy hiện lên ở nơi cuối nguồn một bức tranh thiên
nhiên đẹp, có sắc vàng mơ mộng của những ngồng cải, có cái chập chờn, e ấp,
khép nép của những cánh bướm. Và ở đó, “ta” thả hồn mình vào để tìm đến
với những cơn“say dề dà” triền miên, không dứt, tìm đến một thế giới nơi
con người được trở về với chính mình.
81

E. Kant có câu nói: Vẻ đẹp không nằm ở đôi má hồng của người thiếu
nữ mà nằm ở con mắt của kẻ si tình. Liên hệ với thơ Nguyễn Bình Phương:
Bước thứ nhất ngọn lửa xòe hoa/ Bước thứ hai bóng tối chan hòa/ Bước thứ
ba tuổi thơ hồi lại/ Bước thứ năm búp lá vươn cao/ Bước thứ sáu má em hồng
hào/ Ôm anh say ngây ngất (Bước chân). Phải chăng “anh” đã nhận ra được
vẻ đẹp nằm trên đôi má hồng đào của người con gái. Đó là vẻ đẹp khiến kẻ si
tình này lạc vào thế giới của những bước chân ẩn chứa bao điều bất ngờ, thú
vị và vẻ đẹp ấy một lần nữa khiến “anh” điên đảo, “say ngây ngất”.
Hình tượng con người trong thơ Nguyễn Bình Phương luôn chuyển
động dù bằng cách này hay cách khác, kể cả những chuyển động trong nội tại
sự vật. Con người say trong thơ ông cũng luôn chọn cho mình một cách phân
rã độc đáo – sự phân rã thành trăm mảnh. Chỉ có trong trạng thái say, con
người mới thực sự được sống với chính mình. Mỗi mảnh vỡ ra những suy tư,
những trăn trở, chiêm nghiệm hay trở về ký ức trong một hình hài mới không
rõ ràng. Trong sự phân rã đầy mỏi mệt đó, cái tôi giữ nguyên cho mình một
trạng thái “say ngất ngưởng” tọa ngang bầu trời, chi phối tất cả các mảnh vỡ
tâm hồn khác:Và một ngày ta hốt hoảng nhận ra/ Tự bao giờ mình chia thành
trăm mảnh/ Này một mảnh đi về ký ức/ Muộn mằn ơi chẳng ai đón bên
đường/…Một mảnh say ngất ngưởng tọa ngang trời/ Nghe sấm động mưa
thu về bất chợt (Tạm thời chưa có tên).
Con người say trong thơ Nguyễn Bình Phương là một hình tượng độc
đáo, nó cho thấy một trạng thái sống khác lạ. Con người sống, hồi tưởng về
thế giới qua những cơn say bất chợt, nhòe lẫn, không rõ ràng. Cùng với hình
tượng con người ngủ, mơ, hình tượng con người say góp phần hình thành lên
một thế giới mới trong thơ Nguyễn Bình Phương.
2.2.3.3. Con người điên
82

Nguyễn Bình Phương luôn bị ám ảnh bởi những giấc mơ, con người
ngủ, mơ, con người say. Con người điên cũng là một ám ảnh nghệ thuật bao
trùm toàn bộ thế giới thơ và tiểu thuyết của ông. Con người điên trong thơ
ông biểu hiện ở nhiều đối tượng với nhiều biến thể khác nhau:
Bảng 2.2.
Thống kê tần số xuất hiện của hình ảnh người điên
Đối tượng điên Trạng thái, hành động, tính chất điên
Linh Sơn ở lại/ Ở lại thằng bạn điên sớm
- Thằng bạn điên tối chỉ cười/ Cống Bù Rùm ban trưa nghe
- Những bà điên rắn quấn (Khách)
- Bầy người điên - Những đoàn người xếp hàng ăn phở/
- Cô gái điên Những bà điên thân xác còm nhom
- Người đàn ông điên - Người đàn ông lang thang bốn mươi năm
- Bụi tóc tiên dại diên điên về gọi mẹ dưới mồ (Bước khởi đầu
- Cơn điên lá mục nan)
- Sương loạn điên - Hôm qua cô gái điên lao xuống chân đồi/
Cuốn theo cơn điên lá mục (Thái Nguyên)
- Sương múa may cười nói loạn điên
Bảo: -Dựng lên âm thanh lạ! (Chạm mặt)
- Bụi tóc tiên dại điên miên man
Vang lên những tiếng nói rối bời
(Nói với em từ trống trải)
- Những người đàn bà điên/ Nở/ Những
khuôn mặt xa vời trong ánh sáng màu hung
buồn ủ rũ (Bước khởi đầu nan)
- Bà điên hát tìm những đứa con bị lạc.
Đứa bé vẽ một mái tóc non đẩy về phía bà
điên (Hoan ca III)
- Trong giấc ngủ thâm u bầy người điên
ngơ ngác/ Đã trở về/ Khuôn mặt giếng khơi
rạng rỡ (NBP)
83

- Trong ký ức người điên/ Đêm lửa chập


chờn tìm kiếm/ Những bức tường màu lam
(Tâm trạng ngày)
- Đêm ấy gái làng nhìn trăng buồn rượi/
Đêm ấy đám người điên/ Khơi lên ngọn lửa
hoang lạnh lẽo (Giờ sinh)

Độc giả vô tình bị lạc vào thế giới thơ của Nguyễn Bình Phương sẽ lạc
vào thế giới của màn đêm u tối, của những giấc mơ với “bầy người điên ngơ
ngác”, đó là một thế giới không nguôi thôi ra những bóng hình ám ảnh:
Người đàn ông lang thang bốn mươi năm điên
Về gọi mẹ dưới mồ:
“Mẹ ơi ban mai nào sáng nhất?”
(Bước khởi đầu nan)
Thế giới đó ngập tràn những mơ mộng, ảo ảnh, sự khác thường và hình
ảnh con người điên luôn vây hãm lấy tâm thức con người: Linh Sơn ở lại/ Ở
lại thằng bạn điên sớm tối chỉ cười/ Cống Bù Rùm ban trưa nghe rắn quấn
(Khách); Những đoàn người xếp hàng ăn phở/ Những bà điên thân xác còm
nhom/ Những đám mây hồng hào/ Những bộ áo quần xanh sĩ lâm đạp xe vào
Gang Thép/…Hôm qua cô gái điên lao xuống chân đồi/ Cuốn theo cơn điên
lá mục (Thái Nguyên).
Hình tượng con người điên hiện lên trong thơ Nguyễn Bình Phương với
những mảnh đời tội nghiệp, bất hạnh. Tất cả đều hiện lên với những dự cảm bất an:
Những người đàn bà điên
Nở
Những khuôn mặt xa vời trong ánh sáng
màu hung buồn ủ rũ
(Bước khởi đầu nan)
Mạch thơ với tiết tấu nhanh, dồn dập, đôi khi lại giật cục, kéo dài như
tiếng vọng của âm thanh dưới đáy vực sâu, Nguyễn Bình Phương đã chuyển
84

tải được không khí thâm u, mịt mù, ảo não, nhàn nhạt trong thế giới ngập tràn
hình ảnh của người điên. Đêm, bóng tối chính là phông nền chủ đạo để làm
nổi bật lên hình tượng con người điên. Từ đó, bầy người điên lầm lũi xuất
hiện với khuôn mặt “ngơ ngác”, “giếng khơi rạng rỡ”: Những bóng tối lảng
vảng trên tóc/ Trên mặt sông rút dải làn sương bạc/ Trong giấc ngủ thâm u
bầy người điên ngơ ngác/ Đã trở về/ Khuôn mặt giếng khơi rạng rỡ (NBP);
Trong ký ức người điên/ Đêm lửa chập chờn tìm kiếm/ Những bức tường màu
lam/ Ngoài chân trời một rừng mây tàn úa…(Tâm trạng ngày).
Trong thế giới chỉ có sự tồn tại của người điên, giấc mơ, ký ức chính
là tín hiệu kết nối chủ yếu giúp họ có thể đối thoại với nhau. Con người
điên trong thơ Nguyễn Bình Phương không xuất hiện đơn độc. Họ luôn
luôn xuất hiện cùng trăng, những đốm lửa chập chờn, lạnh lẽo, rừng cây và
trong bóng đêm. Mọi sự xuất hiện của nền cảnh không làm giảm đi sự cô
độc, ma quái của không gian mà càng làm tăng thêm tính chất kỳ dị, hoang
lạnh: Đêm ấy gái làng nhìn trăng buồn rượi/ Đêm ấy đám người điên/
Khơi lên ngọn lửa hoang lạnh lẽo/ Đêm ấy những hàng cây đại thụ/ Long
rễ và héo rũ (Giờ sinh).
Dường như cái điên dại của con người cũng thấm nhiễm dần vào cỏ
cây, hoa lá. Không gian thơ cứ thế chìm đắm trong tiếng nói mê man vọng về
từ những ký ức sâu thẳm, những giấc mơ nhiễu loạn của con người điên:
Sương múa may cười nói loạn điên
Bảo:
-Dựng lên âm thanh lạ!
(Chạm mặt)
Bụi tóc tiên dại điên miên man
Vang lên những tiếng nói rối bời…
(Nói với em từ trống trải)
Có lẽ Nguyễn Bình Phương bị ám ảnh sâu sắc bởi hình ảnh người điên.
Nếu như trong thơ, hình tượng con người điên xuất hiện thấp thoáng nhưng
85

cũng đủ gợi lên những ám ảnh buồn bã thì ở địa hạt tiểu thuyết, hình tượng
con người điên hiện lên dày đặc trở thành một tuyến nhân vật chủ đạo, chi
phối toàn bộ không gian, thời gian của cốt truyện.
Trong năm cuốn tiểu thuyết của nhà văn, cuốn nào cũng có nhân vật
người điên. Ở Trí nhớ suy tàn có hình ảnh một người đàn bà điên mặc áo vàng
hiện lên trong tâm tưởng của nhân vật “em”. Thoạt kỳ thuỷ xuất hiện rất nhiều
người điên; có khi là cả một lũ điên, một làng “nhiều người điên”; khi là
người điên ở hiện thực, cũng có khi là bóng dáng của người điên trong vô
thức... Có những người điên hoàn toàn, có người chỉ điên từng lúc do bị “tàn
khuyết về mặt tâm lý”... Nhân vật Tính trong Thoạt kỳ thủy là một nhân vật
điên nổi bật nhất của truyện. Tính không giống Đônkihôtê điên loạn về lý
tưởng hiệp sĩ, cũng không giống thằng Ngốc trong Nhật ký người điên của Lỗ
Tấn bị ám ảnh bởi cảm giác sắp bị ăn thịt. Tính “điên” trong cuộc sống của
một người “tỉnh”; đi đập đá kiếm tiền, lấy vợ như bao người đàn ông bình
thường. Tính thích chơi với đám người điên gồm lão già điên, cô gái Thổ, mụ
điên và thằng bé điên. Nhưng Tính lại giết người và tự giết mình như một kẻ
điên: “Tính quặt đầu dao, ấn mạnh vào cổ mình. Máu từ cổ Tính trào ra, ấm,
nóng. Tính buông dao, ngón trỏ vuốt vuốt dòng máu đang tràn theo khuy áo.
Tính cười khoái trá, khuỵu đầu gối, mặt gục lên chiếc vại đựng nước. Bả vai
Tính rung rung” [40;159]. Qua Tính, Nguyễn Bình Phương đã nhìn thấu nỗi
đau trong tâm hồn những người điên, sự dày vò về tinh thần của họ.
Có thể thấy, trong cảm quan nghệ thuật của mình, Nguyễn Bình
Phương bị ám ảnh bởi hình tượng con người điên. Phác họa những nét cơ bản
về con người điên trong thơ, cùng với các nhân vật người điên trong tiểu
thuyết, Nguyễn Bình Phương đã thành công trong việc xây dựng chân dung
các nhân vật và phản ánh chiều sâu tư tưởng của mình. Dấu hiệu của bút pháp
86

siêu thực phảng phất trên từng trang thơ của Nguyễn Bình Phương. Đây quả
là sự “dấn thân” trên con đường nghệ thuật đầy thử thách của nhà thơ.
Tiểu kết chương 2
Trong thơ Nguyễn Bình Phương, cái tôi trữ tình đã hiện lên với đủ mọi
chiều kích. Cái tôi Nguyễn Bình Phương mang trong mình những mỹ cảm
mới lạc, khác thường và vô cùng độc đáo. Sự nối kết những phân cảnh rời rạc,
sự liên tưởng đa chiều giữa những sự vật tưởng chừng như không liên quan
đến nhau đã tạo nên sức hút cho thơ. Đặc biệt, hình tượng cái tôi suy tư,
chiêm nghiệm về cuộc đời, con người trở thành hình tượng nổi bật chi phối
toàn bộ thế giới thơ Nguyễn Bình Phương. Ở thế giới đó, cái tôi luôn cô đơn,
sầu muộn, bị ám ảnh bởi máu và cái chết đã đi vào thơ ông như một lối mòn.
Từ lối mòn đó, cái tôi luôn tìm về với thế giới tâm linh, vô thức, tiềm thức,
chìm đắm và khắc tạc hình hài của mình trong một thế giới mới nằm bên kia
suy tưởng. Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật là hai hình tượng
đặc sắc trong thơ Nguyễn Bình Phương. Không gian nghệ thuật vừa là biểu
tượng của một thế giới với những điều bất an, nghi hoặc, không rõ ràng vừa là
thế giới của những mơ mộng, ảo giác chập chờn. Thời gian nghệ thuật trong
thơ Nguyễn Bình Phương là thời gian không cụ thể, xác thực, nó là thời gian
của thân phận con người – “khách của trần gian”, ở đó tác giả trăn trở, suy tư,
chiêm nghiệm về bản thể, về cuộc đời. Hình tượng con người “xa thân” với
nhiều cách khác nhau như ngủ, mơ, say điên hàm chứa nhiều quan niệm của
tác giả về nhân sinh quan. Bằng cái nhìn hiện thực đa chiều, Nguyễn Bình
Phương đã dựng lên một thế giới thơ thực - ảo, ngập tràn miền tâm linh đầy
mê hoặc. Đây chính là cảm quan thẩm mỹ nổi bật trong sáng tác của Nguyễn
Bình Phương nói riêng và rất nhiều thế hệ nhà thơ đổi mới nói chung.
87

Chương 3
NGÔN NGỮ, KẾT CẤU VÀ BÚT PHÁP TẠO HÌNH
TRONG THƠ NGUYỄN BÌNH PHƯƠNG

3.1. Ngôn ngữ


3.1.1. Cách sử dụng từ láy
Láy là một phương thức cấu tạo từ quan trọng của tiếng Việt. Nói đến
từ láy là nói đến một lớp từ có giá trị đặc biệt bởi khả năng gợi tả, gợi cảm,
tạo âm thanh hình ảnh cao của nó.
Một đặc điểm dễ nhận thấy ở thơ Nguyễn Bình Phương đó là sự xuất
hiện dày đặc của hệ thống từ láy. Khảo sát năm tập thơ và những bài thơ khác
của Nguyễn Bình Phương, chúng tôi có bảng thống kê sau:
Bảng 3.1.
Thống kê tần số xuất hiện của các từ láy
STT Tập thơ Số lần xuất hiện
1 Lam chướng 51
2 Khách của trần gian 115
3 Xa thân 99
4 Từ chết sang trời biếc 107
5 Buổi câu hờ hững 176
6 Những bài thơ khác 87

Nguyễn Bình Phương là nhà thơ có sở trường sử dụng từ láy và vốn từ


láy của ông rất phong phú, đa dạng. Minh chứng cho điều này chính là một
thế giới thơ được ông vẽ nên với đủ mọi màu sắc, hình hài, cảm giác, thể hiện
qua các từ láy vừa có từ láy bộ phận, vừa có từ láy toàn thể, vừa có láy âm
vừa có láy vần. Có thể chia từ láy trong thơ Nguyễn Bình Phương thành ba
lớp theo mục đích sử dụng: Lớp từ láy chỉ màu sắc, lớp từ láy chỉ trạng thái,
cảm giác và lớp từ láy chỉ tính chất, đặc điểm sự vật.
3.1.1.1. Lớp từ láy chỉ màu sắc
88

Từ nhỏ, Nguyễn Bình Phương đã là một người đam mê hội họa. Ông
từng bộc bạch rằng nếu không trở thành nhà văn, nhà thơ thì có khi ông đã trở
thành một họa sĩ. Thiên hướng hội họa ấy đã in đậm dấu ấn vào thơ ông thông
qua các tính từ miêu tả màu sắc. Có thể nói, thơ Nguyễn Bình Phương được
xây dựng bằng một hệ thống ngôn từ độc đáo, đặc biệt là những tính từ miêu
tả. Với con mắt của một nghệ sĩ lão luyện, Nguyễn Bình Phương đã vẽ ra một
thế giới thơ đa sắc màu. Dường như mọi gam màu của tạo hóa đã được ông
khéo léo gọi về đây trên từng trang thơ của mình. Các màu xanh, đỏ, tím,
vàng, đen, trắng, xám, lục, … kiêu hãnh phơi mình trên từng câu chữ của
Nguyễn Bình Phương. Với mỗi màu sắc, nhà thơ lại có cách miêu tả ở nhiều
mức độ khác nhau. Với màu xanh có: xanh xao, xanh mơ, xanh rêu, xanh đen,
xanh leo lẻo, xanh âm u, xanh mơ màng, xanh chói lọi, xanh khuây khỏa,
xanh quái đản, mơ hồ xanh, ú ớ xanh, đầm đậm xanh, rơn rớt xanh, xanh như
ngọc, …Với sắc đỏ có: đo đỏ, đỏ mờ, đỏ hoe, đỏ quạch, khé đỏ, đỏ như mực,
đỏ lang thang, đỏ trập trùng, mong manh đỏ, …Với màu đen có các mức độ:
đen tuyền, đen óng mượt, đen khôn tả, đen ngự trị, đen chờn vờn, đen sừng
sững, đen ngùn ngụt, đen loang lổ, đen trong trẻo, rì rầm đen, nhưng nhức
đen, …Với màu trắng có: muốt trắng, trắng bạc, trắng phong phanh, trắng
bồng bềnh, trắng rập rờn, trắng khôn cùng, ngổn ngang trắng, …Với sắc tím
có: tím bầm, lênh đênh tím, tím buồn và cô độc, …Sắc vàng có: vàng mơ
mộng, vàng mênh mông, vàng non, vàng pha lam, …Màu hồng có: hồng hào,
hồng quên lãng và khoan hòa, sắc hồng run rẩy, … Các màu sắc khác cũng
được ghi lại với nhiều mức độ khác nhau: rờn xám, xám thâm u, xám kiêu kỳ,
lục khổ tâm, chàm quyền uy, nâu hoang dại, màu hung cô đơn, màu ngọc
vang vang, loang loang đỏ xanh vàng, …
Thao tác sử dụng các từ láy và lớp từ chỉ màu sắc đã khẳng định được
tư duy sáng tạo vô cùng độc đáo của Nguyễn Bình Phương. Mặc dù các màu
89

sắc hiện lên trong thơ ông rất nhiều nhưng chúng không làm tăng thêm sức
sống và sự sinh động cho từng câu thơ. Những màu sắc ấy được nhà thơ pha
chế bằng một chất liệu buồn và cô độc. Màu sắc nhuốm trọn những tính chất,
cảm giác của con người. Tất cả đều là những gam màu cảm giác: Ý nghĩ đen
bên cạnh ý nghĩ trắng/ Đỏ lang thang vàng mơ mộng/ Xanh âm u vô số điều
kỳ vọng/ Triền miên hơn hoài niệm về em/…Lục khổ tâm/ Xám kiêu kỳ/
Chàm quyền uy/ Nâu hoang dại/ Trong mưa trắng và đen ngự trị/ Đỏ lang
thang vàng mơ mộng (Màu)…
Những sắc màu trong thơ Nguyễn Bình Phương có tính khơi gợi hình
ảnh rất cao. Ẩn tàng sau sắc màu ấy là cả một thế giới xanh xao, nhơn nhớt,
quái đản của khí núi: Bãi tha ma Linh Sơn hoang vu/ Con Cậm Cam rờn xám/
Cơn sốt dậy sắc hồng quái dị/…Con đường trắng lừ đừ đi xuống nước/ Bè vó
ngủ/ Giấc mù lòa màu đá gan gà/ Một cái bóng xanh xao trùm qua đỉnh núi
(Giờ sinh); cái ú ớ, cô độc và run rẩy của con người giữa đêm khuya; cái lênh
đênh, mong manh của kiếp người trên chuyến tàu số phận: Một bầu trời mảnh
dài sau cửa sổ kính nâu/ Lênh đênh tím như bóng người quái lạ/ Không thể
cùng em đi hết nẻo đường xa/ Mỗi cánh rụng nhẹ tênh một lời hứa/ Hoa sẽ
làm tôi như ngày xưa/ Đêm chầm chậm màu tím buồn và cô độc…(Về bằng
lăng); Những ô vuông nho nhỏ ảo huyền/ Số phận mi nằm ở đó/ Đen thì đen
chờn vờn/ Đỏ thì mong manh đỏ/ Vàng pha lam một cái bóng rùng rình/ …
Lừng lững đến/ Và trắng/ Lạnh/ Và im/…Hun hút hành lang hẹp…(Hỏi).
Trong sự pha trộn màu sắc, Nguyễn Bình Phương đã rất khéo léo khi
xếp đặt một gam màu vào trong một bài thơ, hay nhiều gam màu trong những
câu thơ liền kề. Chủ ý này của tác giả không làm cho bài thơ nhàm chán,
ngược lại, nó tạo ra hiệu ứng mới lạ: Nó đi trên những tiếng chuông/ Áo đỏ
phất ngang trời/ Hoa bằng lăng cũng đỏ/ Đỏ ngọn phi lao chiều/ Tháp rùa
đỏ/ Phố đỏ (Khách của trần gian); Thiếu phụ quay đi xanh mơ màng/ Bỏ lại
90

hồ xanh thẳm/ Tiếng xanh/ Giữa vòm cây mận trắng/ Cơn sốt dậy sắc hồng
run rẩy (Tiếng lạ)
3.1.1.2. Lớp từ láy chỉ trạng thái, cảm giác
Đọc thơ Nguyễn Bình Phương không dễ. Người đọc không thể cố
gắng cạy mở cánh cửa ngôn ngữ để thỏa mãn cuộc kiếm tìm những ý nghĩa.
Thơ Nguyễn Bình Phương là thơ cảm giác. Mọi thế giới trong thơ đều được
dựng lên bởi cảm giác cô đơn, trống vắng, bất an của chủ thể trong suốt
hành trình tìm về với cái tôi nguyên bản, hành trình trở về thế giới “bên kia
mùa hạ” – thế giới của những suy tưởng. Chính vì vậy, các tính từ chỉ trạng
thái, cảm giác xuất hiện với tần số cao trong thơ ông: run run, rưng rưng,
bâng khuâng, đê mê, tê mê, bơ phờ, miên man, mê man, mơ màng, khẽ
khàng, ngơ ngác, phờ phạc, u uất, ngây ngất, day dứt, chới với, rờn rợn,
lành lạnh, mềm mại, uể oải, mòn mỏi, não nề, ngơ ngẩn, ngán ngẩm, thẫn
thờ, hững hờ, nức nở, hớt hải, hối hả, nhẹ nhõm, chán chường, chập
chừng, lạnh lùng, ngượng ngùng, nhọc nhằn, dịu dàng, cồn cào, lủi thủi,
hổn hển, rũ rượi, run rẩy, rụt rè, …
Sự cô đơn, trống vắng của con người được khắc họa rõ nét hơn qua
những tính từ miêu tả: loay hoay, âm thầm, ngậm ngùi, tư lự, thui thủi, ủ rũ,
hững hờ, vật vờ, trống trải, …Thế giới thơ mà Nguyễn Bình Phương dựng lên
thật mênh mông, thật trống trải, con người vì thế cũng trở nên nhỏ bé hơn:
Trót gửi vào sương khói
Giữa mênh mông vịn nắng đợi âm thầm
Con tim nhỏ nhoi, con tim thui thủi lắm
Hạnh phúc hoa treo mép vực mơ màng
(Nhập chiều)
Trong thế giới đầy những điều dị thường, hư ảo, huyễn mộng, con
người luôn luôn xuất hiện những trạng thái, cảm giác rờn rợn, ngơ ngác, ngơ
ngẩn, thẫn thờ, ngây ngất, lơ ngơ, chênh vênh, bồn chồn, bâng khuâng, … Đó
là cảm giác vừa sợ hãi, vừa tò mò, ngạc nhiên nhưng canh cánh những lo âu,
91

bất an: Tự dưng thấy bồn chồn như gió/ sắp bước sang miền xa thẳm và mơ/
chiếc lá đỏ hoe lắc nhẹ/ vào cái bóng tàn thu ngả dài (Khoảnh khắc); Người
đọc chậm sang được phía bên kia/ sau chữ nghĩa là hoang tàn thân xác/ kẻ
viết vô tình để thời gian trôi lạc/ thấy đời mình còn lại chút bâng khuâng
(Mặt bên kia); Giọt trăng nằm ngơ ngác hốc cây/ Se se gió thốc lòng đất ẩm/
Em ngậm cỏ chìm trong mơ thẳm/ Gặp chị về/ Cổ trắng mắt nâu/…Con sáo
khoang kể gì rất khẽ/ Run run bóng lá rìa sông (Ngóng chị).
Sự trở đi trở lại của các từ láy như: uể oải, mệt mỏi, chán chường,
trống trải, … giúp độc giả hình dung được đời sống công chức với khuôn mặt
mệt mỏi, bệ rạc, hốc hác:
Trên mi mắt ta vươn dài những con đường mỏi mệt
Dưới tay ta hấp hối vạn bầu trời
Em khỏa thân nhẹ nhàng sau khung cửa
Uyển chuyển như là một chú cá đang bơi…
(Bài thơ cho một khoảng trống)
“Mơ màng” là trạng thái (hay cảm giác) của chủ thể được Nguyễn
Bình Phương nhắc đến nhiều (12 lần), nó xuất hiện xuyên suốt chặng đường
thơ của ông. Ở đó, “mơ màng” hiện ra nhiều vẻ màu khác nhau:
- Từ tốn mơ màng bông cải cúc ra đi
- Hạnh phúc hoa treo mép vực mơ màng
- Những đứa trẻ ngủ mơ màng trong cỏ
- Ngủ mơ màng dưới cửa sổ không trăng
- Câu nói cuối cùng vang lên rồi tắt để lại dải khói lam huyền diệu mơ
màng

3.1.1.3. Lớp từ láy chỉ tính chất, đặc điểm sự vật
92

Bằng lối diễn đạt dung dị, dễ hiểu, ngôn ngữ mộc mạc, thơ Nguyễn
Bình Phương đã xác lập một thế giới như nó vốn tồn tại bên ngoài trang giấy.
Cách sử dụng thuần thục các tính từ mô tả này đã đem lại cho thế giới thơ
Nguyễn Bình Phương những màu sắc siêu thực, hư ảo với những ảo giác chập
chờn, nhòe lẫn.
Những từ láy quen thuộc miêu tả tính chất, đặc điểm sự vật được
Nguyễn Bình Phương vận dụng tối đa trong thơ. Hệ thống từ láy giăng mắc
dày đặc như màn sương bao phủ lấy toàn bộ không gian thơ và hiện lên vô
cùng phong phú: mênh mông, bao la, nhập nhoạng, lập lòe, sừng sững, xa
xôi, lỏng lẻo, lanh lảnh, lác đác, thấp thoáng, lấp lánh, thoang thoảng, ẩm
ướt, lanh canh, le lói, hun hút, rập rình, dập dờn, cuồn cuộn, rờn rợn, xào
xạc, rừng rực, dằng dặc, …
Sự chêm xen các từ láy vào thơ tạo cho câu thơ một không gian đẹp,
mơ màng: Tháng Tám phơi áo bờ rào/ Chuồn chuồn ớt mắt tròn nhóng
nhánh/…Tháng Tám ru con/ Ngõ buồn chạng vạng/ Lũ trẻ gọi nhau ời ợi
góc làng/ Có ông lão độc thân la đà nghiêng chén/ Có vầng trăng lừng lững
vào trời (Bài hát vu vơ); Em lật bàn tay/ Biển ùa vào/ Rất nhiều ngôi sao lung
linh trên sóng/ Nhiều thơ tôi trôi lẫn với hoa vàng/ Xa xôi mênh mông…(Thơ
ngắn về em).
Bên cạnh lớp từ láy quen thuộc miêu tả đặc điểm, tính chất sự vật, hiện
tượng, Nguyễn Bình Phương còn sáng tạo và đưa vào thi phẩm của mình
nhiều từ láy khá lạ đối với không ít người như: than van, rổn rảng, ời ợi, ngời
ngợi, ngất ngư, nhóng nhánh, eo óc, trú trớ, ngun ngún, xệch xoạc, rười rượi,
rườm rườm, náo xáo, ẩn nhẫn, liêu nhiêu, lảy bảy, lù lì, lăm dăm, tạt nhạt,
tung tóa, lênh loang, lênh loáng, lễnh loãng, quẩy quầng, rơn rớt, lẫm
chẫm…Đây chính là sự sáng tạo độc đáo các từ láy mà chúng ta chỉ có thể tìm
thấy trong thơ Nguyễn Bình Phương.
93

Với sự xuất hiện của những từ láy độc, lạ, thế giới thơ của Nguyễn
Bình Phương nhuốm một màu hư ảo, ma mị, mông lung, khiến độc giả như bị
vướng vào thế giới ta bà: Làng bao nhiêu gò đất/ Dáng nhà nằm thiêm thiếp
dưới hơi trăng/ Điều gì kia/ Trú trớ / Rùng mình/ Khuya khoắt thế còn lội
ngoài đồng vắng/ Vệt lân tinh nhẹ bẫng (Làng Phan) ; Bầy ngựa phi/ Hồi
chuông đen mượt/ Lam chướng mọc lên ngun ngún mép thềm/ Mái lạnh đền
thiêng lặng đứng/ Cây hay người/ Rưng rưng/…Cô gái vặn lưng uể oải soi
đèn/ Người già nhả khói/ Luồng gió lao rừng rực…(Canh Ngọ).
3.1.1.4. Sự kết hợp từ ngữ theo hướng “lạ hóa”, nghịch dị và ý nghĩa
thẩm mĩ của chúng
Trong thơ, Nguyễn Bình Phương không chủ ý xây dựng một thế giới
nhưng với những thao tác không nhìn thấy được, thế giới trong thơ ông vẫn
hiện lên mông lung, huyền ảo, đầy màu sắc ma mị, mang lại những ám ảnh
nhất định. Tuy vậy, thế giới ấy vẫn được kiến tạo bởi những thao tác dễ dàng
quan sát được, chẳng hạn như sự kết hợp ngẫu hứng nhưng có chọn lọc kỹ
lưỡng những từ ngữ khác trường nghĩa cạnh nhau: xanh khuây khỏa, xanh
chói lọi, thiếu phụ quay đi xanh mơ màng, đen ngùn ngụt, hồi chuông đen
mượt, rì rầm đen, sắc hồng run rẩy, ánh sáng ủ rũ, sáng âm u, giấc mơ lập
lòe, mặt trời dâm dấp, bóng râm ẩm ướt, giọng nói mềm mại như bóng râm,
bóng tối lảng vảng, chuông rền loang loáng, bước chân sốt ruột, u uất những
khoảng vắng trên đồng, một giọt nước miên man, vực thẳm lặng lờ, ho húng
hắng, nhạc ngựa thoang thoảng, góc bàn mênh mông, hàng rào dang dở, …
Đây là sự sắp xếp ngôn từ nhằm đặt một ý niệm từ ngữ và một ý niệm
hiện thực cạnh nhau, một sự kết hợp độc đáo, mang tính “độc sáng” của
Nguyễn Bình Phương. Kết quả của sự xếp đặt này đã tạo nên một hiệu ứng
nghệ thuật ám gợi, sắc nét, thôi miên người đọc trên từng trang thơ. Do đó,
mặc dù sáng tác của nhà văn – nhà thơ quân đội này khá khó đọc nhưng vẫn
94

đầy hấp dẫn. Ta cùng chiêm ngưỡng vẻ đẹp ma mị hiện lên qua từng câu chữ
của Nguyễn Bình Phương: Mang xống áo mùa thu/ Làm mùa thu/ Nhớ giấc
ngủ ngàn thu trong đài sen úa/ Nhớ giấc ngủ mềm mại như bóng râm/ Chảy
vào căn nhà đổ/…/Vừa trăng trăng rập rờn/ Đã chuông rền loang loáng sóng
Hồ Tây/ Mùa thu len lén ra khỏi cây/ Đi nào, đi với anh xuống đáy hồ xa thẳm
(Bài mùa thu đầu tiên).
Điểm dễ dàng nhận ra trong thơ Nguyễn Bình Phương đó chính là sự
dày đặc các tính – động từ: đen ngùn ngụt, rì rầm đen, xanh mơ màng,
xanh chói lọi, sắc hồng run rẩy, mơn man sáng, đỏ trập trùng, hồng lang
thang, vàng mơ mộng, …tạo nên sức quyến rũ về âm điệu, độ mơ hồ của
chữ nghĩa, khởi thành những luồng thơ óng ả, trôi tuột vào thế giới cảm
giác của con người.
Các cách kết hợp từ ngữ “nghịch dị”, ngẫu hứng, buông thả lý trí như:
khoảng trống mỡ màng, vực thẳm lặng lờ, quãng dài tê mê buông thả, khuôn
mặt miên man, sống mũi lạnh lùng, ngón thon gầy mát mượt như tơ, câu hỏi
ngân nga, mùa hè thấp thỏm, cuộc tình nôn nao chia ly, đường cong day dứt,
quả chuông âm thầm, …đã mang đến cho thơ Nguyễn Bình Phương một sắc
thái thẩm mĩ độc đáo, đồng thời cũng gợi lên nhiều khoảng trống, những mơ
mộng, bất an, nghi hoặc:
Đây những hàng rào dang dở
Lắng nghe lời bí mật tròn vành
Tóc xưa giờ đã lạnh
Với nỗi buồn tình yêu thủy tinh
Đây sóng thần chờ anh nơi góc bàn
mênh mông thanh tĩnh

Mây đêm bay về phía chân trời
95

Chân trời run rẩy sáng…


(Thật xa xôi)
Những kết hợp từ ngữ theo hướng “lạ hóa”, “nghịch dị” đã giúp cho
nhà thơ cảm nhận về thế giới theo nhãn quan cá nhân đặc trưng của mình. Từ
đó, định hình được phong cách tác giả. Nhà thơ kết hợp tưởng như ngẫu hứng
nhưng thực chất là có chọn lọc kĩ lưỡng những từ khác trường nghĩa cạnh
nhau, tạo ra những biểu tượng ám dụ, những liên tưởng đứt quãng: Những
bóng tối lảng vảng trên tóc/ Trên mặt sông rút dải làn sương bạc/ Trong giấc
ngủ thâm u bầy người điên ngơ ngác/ Đã trở về/ Khuôn mặt nước giếng khơi
rạng rỡ (NBP); Ngủ trong thân hình xa lạ/ Một cái trán tục tằn/ Một hàng mi
bệ rạc/ Một bàn tay rối loạn/ Đặt lên bụng mơ màng/ Và nhè nhẹ bay về em...
(Vĩnh biệt).
Với thao tác kết hợp ngôn từ đặc biệt khác lạ, sự mơ hồ của câu chữ,
thơ Nguyễn Bình Phương đã chinh phục được nhiều trái tim yêu thơ và thơ
ông đã đọng lại những dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả.
3.1.2. Các biện pháp tu từ: điệp, ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, phóng đại
Để xây dựng một thế giới nghệ thuật độc đáo, bên cạnh thao tác sử
dụng các lớp từ miêu tả, thơ Nguyễn Bình Phương còn sử dụng đa dạng các
biện pháp tu từ như: điệp, ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, phóng đại, …Ông đã phát
huy tối đa vai trò của các biện pháp tu từ trên, làm cho những câu thơ của
ông mang đầy ấn tượng và có sức ám ảnh lớn.
Điệp từ, điệp ngữ là thủ pháp xuất hiện ở hầu hết các bài thơ của ông.
Đó là sự lặp lại một đơn vị từ ngữ ở rất nhiều câu, song không làm cho câu
thơ của Nguyễn Bình Phương trở nên nhàm chán: Tặng em một chiếc lá
vàng/ Một vầng trăng/ Một khuôn mặt xanh/ Một chiếc lá/ Một cô gái mơ
màng trống trải/ Một con mèo hoang đợi chủ bên thềm/ Một dải cầu vồng
trắng đen/ Một bụi cây không gió/ Một giọt nước miên man/ Một im lặng
96

(Tặng em). “Một” được điệp lại ở vị trí đầu câu thơ của toàn bài thơ. Đó là
một sự liệt kê những sự vật, hiện tượng mà “anh” muốn tặng cho “em”. Tất
cả đều là những sự vật gợi trạng thái nhẹ nhàng, dịu dàng, yên bình. Đó
chính là sự phân tách của những sự vật của một thế giới trong mơ mộng mà
“anh” muốn dành hết cho em. Qua đây chúng ta thấy được tình cảm dạt dào,
nồng nàn, chung thủy của chủ thể trữ tình. Trong Vĩnh biệt, Nguyễn Bình
Phương cũng sử dụng thuần thục vai trò của biện pháp điệp: Vĩnh biệt mùa
hè con đường đi ngược/ Vĩnh biệt phút khổ đau khi đối thoại với thầy/ Vĩnh
biệt ánh trăng góc vườn héo rũ/ Vĩnh biệt những quả chuông/ Ta cắt dây/
Ngàn vạn giọt mưa rơi xuống/ Ngủ…ngủ…ngủ (Vĩnh biệt).
“Vĩnh biệt” được đặc biệt nhấn mạnh trong bài thơ. Diễn tả sự dứt
khoát, không vướng bận của chủ thể với thế giới thực để “xa thân” vào một
trạng thái tinh thần phổ quát của thơ Nguyễn Bình Phương – trạng thái ngủ.
Sự lặp đi lặp lại các cụm từ trong một bài thơ nhiều khi gợi lên một
cảm giác “nôn nao chia ly”, những dự cảm buồn thương: Những buổi chiều
hai ta không hình dung/ Những buổi chiều lá bay quanh mình/ Những buổi
chiều lạc nhau trong ảo ảnh xa vời/ Những buổi chiều mờ in trên hồ…
(Những chiều mờ), cách lặp lại những câu hỏi liên tiếp như xoáy sâu vào nỗi
đau chia ly, sự cô đơn, day dứt về sự tan vỡ của tình yêu với những hồi ức
buồn: Những đèn lồng trôi nổi/ Dẫn vào đêm khôn cùng/…/Sao đèn lồng
không dẫn hai ta vào cõi khác?/Sao người thứ ba không biến mất nửa chừng?
Sao lời chào ngập ngừng làm anh cô đơn hơn? (Hoa đăng).
Trong Khách, Nguyễn Bình Phương đã dựng lên thế giới của trẻ thơ
với nhiều ám ảnh và những dự cảm bất an. Bằng việc sử dụng biện pháp tu từ
điệp ngữ, những ám ảnh đó càng được nhân lên: Những đứa trẻ tuổi trâu/
Những đứa trẻ tuổi hùm/ Những đứa trẻ chết già bên đường/ Những đứa trẻ
ngủ mơ màng trong cỏ/ Những đứa trẻ trên mây chăn chim/ Những đứa trẻ
97

dưới nước chăn cá/ Những đứa trẻ mồ côi vĩnh viễn/ Trôi như một nụ hoa tái
nhợt/ Trôi không nở bao giờ nở/ Những đứa trẻ cuồng nhiệt dứt một ngọn
lửa/ Những đứa trẻ thờ ơ nhập một cây khô/ Những đứa trẻ đêm đêm gào
thét (Khách).
Nghệ thuật ẩn dụ cũng được Nguyễn Bình Phương khai thác triệt để,
kết hợp ăn ý với các biện pháp điệp, so sánh càng tăng thêm tính gợi cảm cho
câu thơ. Ẩn tàng dưới bề mặt ngôn từ đó là những lớp nghĩa chưa được khơi
lên. Trong Bâng quơ, Nguyễn Bình Phương viết:
Ngàn xe máy chở ngàn khoảng trống
Phóng như bay vào nỗi chán chường
“Ngàn khoảng trống” là hình ảnh thay thế cho những tâm hồn trống
trải, cô đơn của con người. Hai câu thơ này được lặp lại ba lần trong bài thơ,
xen lẫn với các khổ thơ khác nhằm khắc họa được không gian đô thị ngột
ngạt, chán chường, mệt mỏi. “Ngàn khoảng trống” hay chính là ngàn nỗi cô
đơn đang bủa vây lấy tâm hồn mệt mỏi ngoài kia.
Hình ảnh “ta” bị chia thành trăm mảnh cũng là hình ảnh ẩn dụ độc đáo.
Nó lột tả được hết sự phân rã của tâm hồn thành nhiều mảnh vụn nhỏ. Ở đó,
mỗi mảnh của tâm hồn đều phiêu diêu, thả trôi mình trong nhiều liên tưởng:
Và một ngày ta hốt hoảng nhận ra/ Tự bao giờ mình chia thành trăm mảnh/
Này một mảnh đi về ký ức/ Muộn mằn ơi chẳng ai đón bên đường/…Một
mảnh say ngất ngưởng tọa ngang trời/…Một mảnh xuống hồ xem cá hát/…Ồ
cái mảnh kia rừng rực cháy/…Một mảnh lạc nhà giờ ở nơi đâu (Tạm thời
chưa có tên).
Đặc biệt, biện pháp tu từ so sánh được Nguyễn Bình Phương sử dụng
rất thành công. Những liên tưởng bất ngờ, so sánh tự do, không níu hãm trí
tưởng tượng đã tạo nên sự kỳ bí, hư ảo, mơ màng, hấp dẫn cho từng câu thơ
của ông:
98

- Không khí kêu trầm trầm quanh họ/ Như tiếng kêu của những con
dao/ Gặp giấc mơ sát chủ/ Như cây lim già dựng lá và hú/ Bãi đá cổ xưa khắc
một dấu rìu (Chợ núi).
- Nó đang ở cuối đường/ Thân thể còm nhom vì chay tịnh/ Mỏng, nhàn
nhạt, sạch bong như chú mèo trung tính… (Khoảng giữa).
- Ở khoảng giữa hơi thở đứt quãng/ Như đường chùng con trăn gió/
Đường võng lưng con báo hoa/ Vết lõm mai rùa vàng… (Ngỏ lần hai).
- Người yêu tôi ngồi vẽ cho mình/ Rặng cúc tần xanh xanh buồn bã/
Buồn như giấc mơ cô ấy hôn người lạ/ Đuổi theo một dấu chân… (Mở lời).
-Thì đôi khi/ Những âm thanh màu nâu/ Ngủ bên cạnh giấc ngủ/ Như
đàn bướm đậu trên đỉnh dốc… (Mình ta trước gương).
Phép tu từ hoán dụ đã trở thành công cụ đắc lực cho việc thể hiện thế
giới trong thơ Nguyễn Bình Phương. Ông biến tấu nhiều cách nói độc đáo để
gọi tên sự vật hiện tượng, hoặc thay thế cho chính chủ thể được nói đến trong
thơ. Chẳng hạn, ông gọi căn phòng làm việc của mình là “cái tổ ong nhỏ nhoi”:
Xa không chỉ từ thân xác/ Cái tổ ong nhỏ nhoi kết bằng ý nghĩ về nhau/ cũng
quá đỗi xa xôi (Vời vợi xa). Tuổi tác trong thơ ông được gọi bằng tên khác –
“hai mươi sáu mặt trăng”: Ngày sinh nhật một mình lạ lắm/ Hai mươi sáu mặt
trăng cùng ngời sáng trong hồ/ Nỗi khổ vì tình giấu sau tre trúc (Đề từ cho một
bức ảnh đen trắng). Cái tôi trữ tình được khai sinh bằng một tên khác –
“Buồn”: Buồn phóng xe áo phông trắng ngang trời/ Đeo kính khác nhìn sang
cuộc đời khác/ Buồn nghĩ miên man nhưng chẳng bao giờ lạc/ Một cái tên
lanh lảnh giữa trưa hè (Buồn)…
Nhằm tăng sắc thái thẩm mĩ của câu thơ, Nguyễn Bình Phương đã thổi
phồng, phóng đại tính chất, cảm giác của sự vật hiện tượng. Từ đó, sự kỳ dị,
khác thường của sự vật, hiện tượng được tô đậm và nhấn mạnh:
- Một chén rượu nồng/ Say hết mùa đông (Rượu một mình)
99

- Những cặp tình nhân thở dài/ Dắt nhau bỏ vào rừng tím/ Ba vạn chín
nghìn đom đóm/ Mơn man sáng giữa lòng sông (Cho người Thái Nguyên)
- Máu còn chảy song hành bước chân/ Nơi nẻo vắng ngõ quê/ nơi ồn
ào phố thị/ Trong yên tĩnh thư viện mênh mông/ Máu còn chảy/ Ngoài chúng
ta/ Chảy qua thị xã tới kinh thành…(Chết)

Với sự kết hợp linh hoạt, sáng tạo các lớp từ, các biện pháp tu từ, thơ
Nguyễn Bình Phương đã thu hút được sự chú ý của độc giả bởi ngôn ngữ
trong thơ ông không rối rắm, hỗn loạn mà giản dị, sáng sủa. Nhiều bài thơ của
ông rất tự nhiên, như được tuôn ra từ dòng chảy của vô thức, tiềm thức. Thơ
ông hấp dẫn cũng vì lẽ đó.
3.2. Kết cấu
3.2.1. “Mờ hóa” cái tôi trên bề mặt văn bản nhằm tiết chế tối đa tính trữ tình
Ở thơ Nguyễn Bình Phương, cái tôi không phải lúc nào cũng hiện ra
trên bề mặt câu chữ. Cái tài của ông là ông đã làm “mờ hóa” cái tôi trên bề
mặt văn bản, từ đó tiết chế tối đa tính trữ tình. Vì vậy, thơ của ông chứa đựng
nhiều ám gợi. Hành trình là một ví dụ cụ thể: Chầm chậm bò giữa nắng/ Mội
đoàn tàu pha lê/ Về đâu con sâu róm lạ lùng kia bốn bề là mê trận/ Những
cuộc đời quanh co vô tận/ Lơ mơ cỏ và sao/ Chẳng ai biết kết thúc ở nơi nào/
Chầm chậm chầm chậm bò giữa nắng (Hành trình).
“Chầm chậm” diễn tả trạng thái di chuyển đầy mỏi mệt của cái tôi giữa
những “mê trận”quanh co của cuộc đời. Đây là một chuyến hành trình vô tận,
không có điểm kết thúc. Nó chỉ cập bến những bờ âu lo, thương tổn, lỡ làng
những ước mơ đã bạc màu. Bài thơ viết về một chuyến hành trình đầy âu lo,
mệt mỏi của con người trước những rối ren, bất an của đời người. Tuy vậy,
hành trình “dằng dặc”này không vì thế mà ngưng lại trước những dự cảm bất
an đó mà giống như sự di chuyển của những con sâu róm – nhẫn nại, bền bỉ,
100

can trường. Cả bài thơ không có chữ “tôi”, “ta” nhưng người đọc vẫn có thể
cảm nhận được tính chất trữ tình đã được tiết chế trong bài thơ.
Cấu trúc câu thơ có sự đổi mới tạo nên sự chia cắt, ngắt khoảng của từ
theo nhiều cách khác nhau, tạo độ giằng níu trong thơ, có thể diễn đạt nhiều
điều chất chứa nội dung bên trong tâm hồn con người không thể giãi bày dù
cho cái tôi không xuất hiện trên bề mặt văn bản:
Cuối cùng
trời cũng ở sau lưng
Cuối cùng
con suối thuở bé cũng chảy kịp tuổi già
và trả ta ánh trăng
Cuối cùng
im lặng vẫn lồng vào im lặng

(Ở nơi không có cánh)
Ở Những phụ đề, dấu vết của cái tôi trữ tình cũng bị xóa mờ, chỉ còn lại
hơi thở, dấu chân hững hờ và đôi mắt buồn rũ rượi ẩn nhẫn sau lớp ngôn từ
mỏng nhẹ: Cửa đã khép hững hờ/ Chỉ còn hơi thở/ Dấu chân dừng lại bên
đồi/ Người là con mắt buồn rũ rượi/ Người là sợi tơ hồng không vào được
chiêm bao (Những phụ đề). Cái tôi không xâm nhập vào thế giới trong bài thơ
nhưng người đọc có thể dễ dàng nhận ra những cảm thức về nỗi buồn, sự cô
đơn, mong manh, mơ hồ đang trỗi dậy của con người trước cánh cửa “khép
hững hờ” của cuộc đời.
Có những khoảnh khắc, cái tôi không hiện diện trên văn bản thơ, đó là
sự hiện diện trong một hình hài khác: Buồn phóng xe áo phông trắng ngang
trời/ Đeo kính khác nhìn sang cuộc đời khác/ Buồn nghĩ miên man nhưng
chẳng bao giờ lạc/ Một cái tên lanh lảnh giữa trưa hè /…Lấp trên bóng sách
101

đổ trên ngực hững hờ/ Buồn tắt công tắc điện / Rồi đi…(Buồn). Cái tôi như là
hiện thân của nỗi buồn. Tính chất trữ tình đã được tiết chế một cách tối đa.
Nỗi buồn không hiện diện trong suy tư của con người, mà được chuyển hóa
thành cơ thể sống với đủ mọi hoạt động, trạng thái. Thấp thoáng sau “buồn”
phải chăng là một bức tranh tự họa về chính mình của Nguyễn Bình Phương:
nụ cười ai ái, đôi tai thật tinh, bước chân thật nhẹ…Hành động “Buồn tắt
công tắc điện/ Rồi đi…” gợi nhiều ám ảnh, day dứt trong lòng độc giả.
Những bài thơ “mờ hóa” cái tôi chiếm số lượng không ít trong thơ
Nguyễn Bình Phương: Đêm ngà ngà, Ngày đông, Áo đêm, Tiếng lạ, Hồi lại,
Khảo dị, Giao thừa, Những ngày cô quạnh, Với người trong cổ tích, …
Với thao tác “mờ hóa” cái tôi trên bề mặt văn bản, Nguyễn Bình
Phương đã thành công trong việc đưa đến cho người đọc một lớp văn bản
thuần túy với những sự vật, hiện tượng được xếp đặt bâng quơ, ngẫu nhiên.
Từ đó, bằng những “tầm đón nhận” khác nhau, người đọc có thể tự do khám
phá chất trữ tình được giấu kín trên văn từng bản thơ.
3.2.2. Đẩy biểu tượng lên bình diện thứ nhất của kết cấu nhằm tô
đậm tiếng nói tự thân của biểu tượng
Hòa nhịp với xu hướng chung của nhiều nhà thơ hiện đại, Nguyễn Bình
Phương cũng đặt sự chú ý của mình vào tổ chức cấu trúc chỉnh thể của văn
bản thông qua việc xây dựng hàng chuỗi biểu tượng. Trong kết cấu văn bản
thơ, các biểu tượng được ông xây dựng trong thơ đều được đẩy lên bình diện
thứ nhất, từ đó tiếng nói tự thân của biểu tượng được tô đậm. Hệ thống hình
tượng trong thơ Nguyễn Bình Phương rất đa dạng, được khắc họa sinh động
dưới ngòi bút của ông.
Sự tưởng tượng trong thế giới thơ Nguyễn Bình Phương đầy sức cuốn
hút, nó mở ra những cảm giác lạ tồn tại ngay bên cạnh cuộc đời phàm tục của
con người. Qua cánh cửa là “đôi mắt”, “mặt trăng” thực hiện cuộc lãng du của
102

mình xuyên qua giấc ngủ, cuối cuộc hành trình của mặt trăng, nó “gặp một
“ban mai bàng bạc”. Và cũng ở đó, nữ sĩ Hồ Xuân Hương “dựng nhà bằng
những cơn mưa”: Qua con mắt khép hờ/ Mặt trăng đi thẳng vào giấc ngủ/
Cuối đường gặp một ban mai bàng bạc/…Người đeo kính hết mọi nhớ mong/
Những quên lãng lại hồi về trí nhớ/ Con mắt khép nửa vời là cạm bẫy thờ ơ/
Trong giấc ngủ đầy mộng mị/ Trăng không thể bay ra…(Mắt).

“Mắt” (hay “con mắt khép hờ” hoặc “con mắt khép nửa vời”) là biểu
tượng độc đáo, là cánh cửa mở ra một thế giới mới với vô số điều lạ lùng, bí
ẩn. Mắt đã trở thành “một công cụ thẩm mĩ đặc biệt, một thứ cầu nối để mở ra
một thế giới khác”. Nói như nhà phê bình Lê Hồ Quang: “ Trong khoảnh
khắc, cái nhìn ấy đã làm lộ diện một thế giới khác, ẩn tàng sau bề mặt của
thực tại. Trong khoảnh khắc, nó loại bỏ và tạo dựng, kiến thiết và phá hủy, kết
hợp và xếp đặt lại tất cả hình ảnh hiện thực, biến chúng thành một “thực tại
mộng mị”, hoang ảo mà sắc nét, bị/được chế ngự bởi một sức mạnh nội tâm
mãnh liệt và dị thường. Điều đáng nói là giữa chủ - thể - của - cái - nhìn và
thế giới - được - nhìn - thấy ấy không tồn tại tách biệt, đối lập mà tồn tại trong
sự giao hòa và chuyển hóa” [44]. Có thể khẳng định, đây là biểu tượng mơ
hồ, đa nghĩa, đầy sức ám gợi trong thơ Nguyễn Bình Phương.

Qua con mắt thẩm mĩ độc đáo, nhà thơ đã nhìn thấy vô số điều tưởng
chừng như rất đơn giản, mộc mạc nhưng lại mang tính biểu trưng rõ nét.
“Những ô cửa sổ nghiêng” là hình tượng như vậy: Tôi chờ em bên hàng rào
trường cũ/ Lớp học mở ra những ô cửa sổ nghiêng/…Rằng khu trường ngày
càng lầm lụi/ Những ô cửa sổ nghiêng vẫn mở/ Vô số bầu trời bí mật lại trôi
qua (Tự sự và những ô cửa sổ nghiêng).
Nguyễn Bình Phương nhìn cuộc đời bằng một con mắt lạ, đảo chiều
hiện thực. Ở đó, ông nhìn thấy những ô cửa sổ nghiêng nghiêng, xiêu vẹo đi
103

vì nặng gánh những hồi ức. “Những ô cửa sổ nghiêng” là hình ảnh đậm tính
biểu tượng, nơi chứa đựng những bí mật xa xưa, những ký ức nhòe mờ nhưng
hiển hiện trong những đường nét sống động. Đó là vật chứng thời gian cho
những mối tình hư không, những tình cảm ngây thơ chớm nở của tuổi học trò.
Thế giới ngổn ngang, hỗn loạn trên bàn cờ cũng được nhà thơ Thái
Nguyên khắc họa rõ nét qua Ngoài cờ: Tốt mới chạm mép sông sông nổi sóng
hàng hàng/ Trong sóng hiện triệu linh hồn u uẩn/ Triệu linh hồn nằm mê man
trên hoa/ Chúng ta lặng lẽ về biển cả/ Này con xe phong trần đi dọc ngang
thiên hạ/ Đạp chân lên giấc ngủ đôi sĩ gầy… Cùng với việc xây dựng hình
tượng những quân cờ: con pháo, con mã, con tốt, con xe, con tướng, …bài thơ
đã dựng lên một thế cờ tàn mà ở đó các quân cờ đều ẩn chứa những lo âu,
thấp thỏm, rủi ro và bất trắc. Bên ngoài những quân cờ kia phải chăng là
những khuôn mặt, những số phận người và những bi kịch khác nhau đang
trường mình ra giữa ván bài cuộc đời?
Dấu hiệu của cuộc sống đô thị hiện đại đã đi vào thơ Nguyễn Bình
Phương với những sắc thái rất tự nhiên. Sự xuất hiện của: những biển hiệu, xe
máy, đám @, lũ trẻ online, …đặc biệt là hình ảnh “những biển hiệu”, biểu
tượng cho cuộc sống đô thị hiện đại với biết bao uể oải, mỏi mệt, chán
chường đã được nhà thơ đẩy lên bình diện thứ nhất của kết cấu văn bản. Nhan
đề bài thơ cũng cũng cho thấy sự áp chế của biểu tượng lên toàn bộ bài thơ:
Những biển hiệu đồng thanh cất tiếng/ Bằng nét chữ sáng loà/ Qua tranh đấu
một ngày mệt lả/ Giọng khàn khàn tắt lịm nơi nao/ Trái tim đã te tua vì thời
cuộc/ Có ai nhìn thấy nhịp đập chăng?/…Những biển hiệu cười cợt/ Chữ
trắng múa trên nền đen loang lổ (Những biển hiệu).
Trong thơ Nguyễn Bình Phương có một hình ảnh rất ấn tượng, theo một
chiều giả tưởng, có thể coi nó là hình ảnh nằm trong sự ám ảnh khuất sâu nơi
tiềm thức của nhà thơ. Hình ảnh này nhiều khi hiện lên một cách đột ngột
104

mang tính tượng trưng, nhưng cũng có lúc nó hiện lên là một hình ảnh của
hiện thực. Đó là hình ảnh súng đạn trong thơ Nguyễn Bình Phương. Hình ảnh
– biểu tượng này xuất hiện khá nhiều trong thơ ông như một nỗi ám ảnh:
- Có người lính chống cằm nhìn vỏ đạn… (Không đề)
- Chú bé loay hoay cơn tỉnh cơn mê/ Khẩu súng nhựa đen nòng/ Cách gì làm
trắng nó… (Khách của trần gian)
- Này lính cũ mũ rơm cài hoa cải/ Loạt đạn say sưa ngủ trước cổng thành…
(Những trận chiến cài hoa)
- Ngày sinh viên đạn/ Chết trong nòng súng cỏ/ Chết trong lòng súng cỏ/
Một đứa trẻ nhoẻn cười… (Tiếng rền)
- Bánh xe màu lục, viên đạn vô hình/ Khẩu súng ấy trắng bong như bột lọc/
Tôi bắn gục thời gian không thèm tiếc… (Chơi với con)

Hình ảnh – biểu tượng súng đạn luôn hiện lên cùng với hình ảnh của
những đứa trẻ ngây thơ, hồn nhiên, trong sáng. Cách đặt một hình ảnh tượng
trưng cho chiến tranh bên cạnh một hình ảnh tượng trưng cho sự sống, ngây
thơ, thuần khiết trong một văn bản thơ đã tạo nên những liên tưởng ám gợi kỳ
dị, mơ hồ. Phải chăng Nguyễn Bình Phương muốn đặt ra những suy ngẫm về
nghịch lý tồn tại của cuộc đời? Đó là mối quan hệ giữa sự sống – cái chết,
hạnh phúc – khổ đau, chiến tranh – hòa bình…Súng và đạn là hai biểu tượng
vẫn luôn tồn tại trong thơ Nguyễn Bình Phương như một bí ẩn chưa được giải
mã, nó chìm khuất đâu đó dưới lớp sóng ngôn từ của nhà thơ.
3.2.3. Thường xuyên tạo nên sự “đứt mạch” trong liên tưởng, diễn đạt
Phần lớn thơ Nguyễn Bình Phương rất khó “cắt nghĩa” theo lối thông
thường. Thơ ông thường xuyên xuất hiện sự “nhảy cóc” và “đứt mạch” trong liên
tưởng. Điều này trở thành một thách thức lớn đối với độc giả trong việc khám phá
thế giới thơ của ông.
105

Những hình ảnh trong thế giới thơ Nguyễn Bình Phương luôn biến đổi,
chuyển hóa liên tục từ trạng thái này sang trạng thái khác tạo cảm giác kết cấu các
văn bản trên bề mặt rất lỏng lẻo: Những quả đồi lơ mơ tối/ Lơ mơ vạt cỏ gianh/
Ngôi nhà rét/ Chiếc cần giếng cong queo/ Và gió…/Gió đã từng đến reo/ Em
đã từng thờ ơ hoa trắng…/ Ngoài chuồng trâu vọng tiếng cọ sừng/ Một người
nựng con/ Phát con/ Rồi ru/ Một người xách đèn đi vào sương mù (Ngày
đông). Bài thơ không có mối liên hệ nào giữa: những quả đồi, cỏ gianh, ngôi
nhà rét, gió hay tiếng cọ sừng vọng từ chuồng trâu, …nhưng lại mang đến
những hiệu ứng thẩm mĩ sinh động, hấp dẫn. Tác giả đã dựng lên trong bài
thơ một “phân cảnh rời rạc”, không đầu, không cuối, các hình ảnh chỉ tồn tại
trong bài thơ như một cách “giữ chỗ” trên văn bản. Cách tổ chức, sắp xếp
hình ảnh làm cho mọi sự liên tưởng đều bị đóng băng. Bài thơ còn gây ấn
tượng với độc giả bởi những tính từ miêu tả: quả đồi lơ mơ tối, lơ mơ vạt cỏ
gianh, cần giếng cong queo… Nó đã dựng lên đầy đủ và chính xác khung
cảnh yên tĩnh, lặng thinh, tẻ nhạt, mỏi mệt của cảnh vật ngày đông. Trong
đêm, tiếng “cọ sừng” của con trâu nào đó, tiếng “một người nựng con” vọng
lên càng tăng thêm sự lạnh giá, tê mê, tĩnh lặng của cảnh vật. Hình ảnh“một
người xách đèn đi vào sương mù” gợi lên trạng thái cô độc, bất an của con
người giữa thiên nhiên.
Sự chuyển kênh đột ngột của các hình tượng thơ và việc đặt những sự vật
xa nhau cạnh nhau để xây dựng những hình ảnh thơ lạ, gợi cảm giác đã tạo nên
nét riêng biệt trong thơ Nguyễn Bình Phương:
Người yêu tôi nằm cạnh một con mèo
Cạnh một ánh trăng
Cả ba ho hung hắng.
(Mở lời)
106

Nét hấp dẫn của hình ảnh thơ chính là kết quả của sự cảm nhận sâu sắc vào
bản chất thế giới. Với Nguyễn Bình Phương, sự hấp dẫn này không nằm ở mối
gắn kết giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới mà đó chính là sự mơ hồ, khó
cắt nghĩa của sự vật trong vòng quay rời rạc, “đứt mạch” liên tưởng. Nhà thơ hoàn
toàn triệt tiêu các mối liên hệ logic giữa các hình ảnh, thể hiện một tư duy thẩm mĩ
độc đáo: Thế rồi đất xám làm cây ngã / Lũ trẻ nhọc nhằn hóa bướm đêm/ Ô tô bỏ
chạy sau đuôi ngựa/ Già lão ngồi chờ mẹ trong vườn (Khảo dị).
Đọc thơ Nguyễn Bình Phương, người đọc không nên cố gắng tìm cách hiểu
thơ ông, cũng không nên tìm một sợi dây liên tưởng chung cho cả bài thơ. Đó chỉ
là một thao tác vô nghĩa. Bởi lẽ, thế giới thơ của ông được xây dựng bằng nhiều
viên gạch với nhiều chất liệu khác nhau. Không có sự liên tưởng nào giống nhau,
không có một mô hình chung cho tất cả bài thơ. Thơ ông buông bắt, xa lạ, “đậu
xuống” rồi lại “bay”, hữu hình lại vô hình:
Chim
Trong phép màu khó hiểu
Bay và đậu xuống
Rồi lại bay
Mình ta trước gương.
(Hóa hình)
Câu thơ “mình ta trước gương” không nằm trong mối liên tưởng của
những câu thơ trên nhưng lại tạo nên một sự ám gợi, liên tưởng mơ hồ. Có cái
phân vân của cánh chim, có cái nhìn thảng thốt, nhẹ bẫng, xa vời của chủ thể
trữ tình. Thơ Nguyễn Bình Phương vì vậy là sự chuyển động khó hiểu, một sự
ám ảnh dai dẳng. Nó đến từ những hình ảnh về sự vật không có mạch liên
tưởng để diễn đạt nhưng vẫn lôi cuốn ta chìm sâu vào đó: Và họ ru mắt cá
chân của họ/ Cái ngủ dịu dàng ôm ngang lưng cái chết/ Những lưỡi cưa tán
107

tính những thân cây bằng nụ hôn mê mệt/ Nụ hôn sinh ra một lối mòn/ Họ
vẫn ru mắt cá chân của họ (Vọng từ giá sách).
Sự “đứt mạch” trong liên tưởng, diễn đạt ở thơ Nguyễn Bình Phương đến
từ một cảm quan nghệ thuật mới về thế giới. Ở đó, ông đã sáng tạo nhiều hình ảnh
thơ lạ, hấp dẫn, mở ra một thế giới tưởng tượng đánh thức những xúc cảm tiềm ẩn
trong đời sống tâm hồn của con người: Ngoài kia Cây cầu với mặt trăng cùng
sáng/ Những dải dài yên ả/ Đã buông rèm dọc theo triền sông/ Em và ngày
tháng / Đi biền biệt vào trời/ Con ngựa gỗ ốm rồi/ Kỷ niệm cũ hình như cũng
thế/ Hoa vẫn thức chờ ta chỉ giấc mơ là ngủ (Thầm).
3.3. Bút pháp tạo hình
3.3.1. Tô đậm vẻ kỳ dị, lạ lùng, siêu thực của sự vật, hiện tượng
Xuất hiện lần đầu vào những năm 90 của thế kỉ XX, thơ Nguyễn Bình
Phương đã gây ấn tượng đậm nét và khơi gợi trí tò mò của độc giả bởi chính
những hình ảnh thơ độc đáo. Bước vào thế giới thơ Nguyễn Bình Phương, người
ta thấy hiện lên dày đặc các hình ảnh đậm tính tượng trưng, siêu thực mang màu
sắc huyền ảo, kỳ dị, lạ lùng và phi logic: Máu đứt dây cương/ Lồng lộn phi
nước đại/…Cây cầu này tự hủy mình/ Chiếc cốc thủy tinh này tự vỡ/ Mặt bàn
này in mặt ma/ Cười nhăn nhở/ Đánh đắm giọt mực vào thớ gỗ (Ngỏ lần hai);
Bà già lưng còng/ Không sinh được người thì sinh ra ma/ Ma về qua ngõ/
Làm đời thanh xuân/ Ma Cà Rồng đi hoang/ Ma chơi nhàn nhã ma Đồng ru
em/ Lúc ấy chim Héc bay qua/ Cậm Cam vào mùa chín (Khách)…
Thơ Nguyễn Bình Phương là sự đan cài, lồng ghép giữa các yếu tố ảo
-thực – đời thường. Những hình ảnh tượng trưng, siêu thực càng dày đặc
trong thơ ông, nó xuất hiện trong những giấc mơ không đầu, không cuối, đòi
hỏi sự lắp ghép, chắp nối những mảnh vụn của giấc mơ mới hiểu hết được thế
giới mà tác giả gửi gắm. Tất cả như phơi bày trên trang thơ một thực tại hỗn
108

độn, kỳ dị như cơn ác mộng chập chờn luôn rình rập, bủa vây với những ảo
giác siêu thực:
Mơ:
Cái tai cưỡi trên lưng ngựa già
Phi vào bể sương
Mơ:
Thanh la bị hẫng nửa chừng
Ở đoạn cuối chênh vênh
Ông thiến lợn quăng dây thòng lọng
Không khí kêu eng éc

Mơ:
Tảng đã nổi gân hồng
Xù xì đeo giữa trán…
(Bước khỏi đầu nan)
Chọn cách miêu tả sự vật, hiện tượng ở những điều lạ lùng, kỳ dị, nhà
thơ đã tạo cho mình một lối đi riêng, nhiều điểm nhìn để soi chiếu, để tiếp cận
hiện thực đa chiều, từ đó tạo sự tự do, thoải mái cho độc giả khi bước vào thế
giới thơ của mình. Chỉ miêu tả về những ngày mưa như bao ngày mưa khác
nhưng dưới ngòi bút đậm chất siêu thực, Nguyễn Bình Phương đã phủ lên
cảnh vật một cái nhìn khác:
Cây cột xám con mắt tròn khé đỏ
Ủ dột dầm chân đứng trong mưa
Một người ủ dột nữa cúi đầu
Nhìn lênh loang cõi lòng tạo hóa…
(Miêu tả những ngày mưa)
109

Trong thế giới siêu thực, con người ta thường bị hút sâu vào những
thâm u, tĩnh lặng và những chuyển động tinh vi của tạo vật. Nhưng có lẽ,
những chuyển động lạ lùng ấy trong thơ Nguyễn Bình Phương còn dữ dội, âm
ỉ và phức tạp hơn:
Những cơn hoang tưởng mờ
Lảy bảy chết dọc theo kim phút
Những tích tắc cố rướn thêm một nhịp
Rồi ngã vào hư không…
(Kẻ ngoài cuộc)
Việc xây dựng một thế giới đậm chất lạ lùng, siêu thực trong thơ đã cho
thấy quan niệm của Nguyễn Bình Phương về thế giới. Đó là một thế giới
hoang mang, dằn vặt, đổ vỡ, lạc lõng với nhiều dự cảm bất an. Yếu tố kỳ ảo
trong thơ kết hợp với những hình ảnh dị thường nhiều khi ma quái càng tô
đậm hơn vẻ kỳ dị, siêu thực của sự vật, hiện tượng trong thơ ông:
- Và đuôi mắt bốc hơi/ Và đám ma lập lòe đi trên mặt nước/ Tất cả cùng rũ
đầu/ Ngắm mặt mình lẫn với rong rêu… (Đi đêm (II)).
- Tôi yêu người đến từ giữa cơn mưa/ Mặt đất bỗng hóa lời đường mật/ Áp
vào đâu thì vừa/ Những cột mốc vùng biên sóng trải liêu xiêu/ Dãy núi oằn
lên từng nhịp thở… (Một mùa hè mọi thứ áp vào nhau).
Trong thơ Mai Văn Phấn, ta cũng tìm thấy những thao tác tạo hình theo
nguyên tắc “ảo hóa”, tô đậm những đường nét kỳ dị, lạ lùng và siêu thực của
sự vật, hiện tượng. Ở đó, thế giới thơ tác giả này hiện lên thật dị dạng, méo
mó và khác thường:
- Khai sinh/ Khi quả chuông rơi xuống bất ngờ/ Chụp lên đầu người bõ
già/ Con cá nhảy vào đám mây tự vẫn/ Buông ngang trời ngàn vạn lưỡi câu/
Khai sinh/ Mực đổ dưới chân và máu/ vón cục ở yết hầu, phế quản/ Viết một
nét lên trang đầu/ thấm suốt cả ngàn trang sách… (Biến tấu con quạ).
110

- Lưỡi tôi bị thắt/ treo lên đỉnh cột/ mỗi lần nói/ chiếc lưỡi phải co rút/ kéo
thân thể béo ị lên cao/ Tôi giẫy giụa tựa mảnh vải quẫy trong gió mạnh (Ở
những đỉnh cột).
Sự kiếm tìm không mệt mỏi những hình ảnh mới, lạ từ “sự va đập chói
lòa của ngôn từ” trong thơ Nguyễn Bình Phương đã vẽ lên một thế giới đầy
siêu thực khơi gợi trí tò mò của độc giả. Cách tạo hình bằng thao tác tô đậm
sự lạ lùng, kỳ dị, siêu thực của sự vật, hiện tượng đã làm nổi bật nhận thức về
thế giới của ông, trong đó, sự kỳ dị, siêu thực luôn tồn tại như một phần của
thế giới con người.
3.3.2. Đặt sự vật, hiện tượng trong những liên tưởng bất ngờ, trái chiều
Thơ Nguyễn Bình Phương luôn mang đến sự hấp dẫn đối với người
đọc. Một trong số những lý do đó là ông luôn đặt sự vật, hiện tượng trong
những liên tưởng bất ngờ, trái chiều.
Bước vào thế giới thơ ông, độc giả sẽ có dịp chiêm ngưỡng sản phẩm
của sự liên tưởng bất ngờ ấy – những câu thơ rất lạ và độc đáo:
- Nước:
Khuôn mặt phù thũng
Con mèo chửa hoang đi tìm nơi ở cữ
Cặp môi người chết oan
Con đại bàng già gặp con sẻ nâu hiếu chiến
Nước:
Nòng súng đen ngòm hát ru đứa bé lên ba ngủ

(Thái Nguyên)
- Ai biết
Phù sa vùi lấp cơ thể của nước để tránh cái nhìn
săm soi dâm đãng

111

(Ngỏ lần thứ nhất)


Thơ Nguyễn Bình Phương không phải lúc nào cũng rõ ràng, đơn nghĩa.
Thơ ông nhiều khi vu vơ, hoặc chỉ là những lát cắt mơ hồ, tượng trưng.
Những lát cắt này dễ dàng bị phân tán, bỏ quên bởi những liên tưởng bất ngờ,
trái chiều khác. Vì vậy, đọc thơ ông, trí tò mò của bạn đọc bị đẩy đến cao độ,
nó cứ mải miết dấn bước, thôi thúc tìm tới điểm dừng cuối cùng của câu thơ:
Người nhổ đinh
Kẻ thờ ơ ngồi ngoài tầm mắt trần gian
ngoài lời cầu khẩn trần gian
Cơn khát tức ngực tụ vào rặng tre đằng ngà làm
tiếng hét thất thanh bay lượn uốn vòng
đi tìm minh chủ…
(Những chiếc đinh)
Nói câu thơ của Nguyễn Bình Phương là những câu thơ “gây nghiện”
quả không sai. Bởi lẽ, nếu lỡ “sa chân” vào thế giới của liên tưởng, tưởng
tượng trong thơ ông sẽ khó lòng dứt ra được. Người đọc tìm đến với câu thơ
thứ nhất sẽ bị mê hoặc đến câu thứ hai, từ câu thơ thứ hai lại bị dẫn dắt thêm
câu thứ ba, thứ tư, thứ n… mới có thể làm thỏa mãn phần nhỏ ham muốn
thưởng thức nghệ thuật của chính mình cũng như giải thoát một chút tò mò về
thế giới thơ đầy sức hút kia: Hàng vạn mối tình ngấu nghiến không sánh nổi
hạt mưa/ Hàng vạn đôi môi khờ khạo chợt dại đi khi chạm phải/ lời thề
nguyền thật thà không đúng lúc/ Những cặp yêu nhau chết bên sông/ Chết
trên bóng người tình/ Chết trong má ngón tay áp út/ Chết một con tính nhẩm/
Chết bốn phép cộng trừ nhân chia/ Những người ngớ ngẩn tìm nhau nơi
sương/ Những con mèo đốm nâu tìm rắn…(Ngỏ lần ba).
Không ai có thể phủ nhận vẻ đẹp ma mị, huyền ảo cùng chất siêu thực
đậm nét trong thế giới thơ Nguyễn Bình Phương. Thế giới ấy gắn liền với
những liên tưởng “lạ”, bất ngờ, “nghịch dị” đã tạo nên những ám ảnh liên hồi,
112

day dứt: Thế rồi đất xám làm cây ngã/ Lũ trẻ nhọc nhằn hóa bướm đêm/ Ô tô
bỏ chạy sau đuôi ngựa/ Già lão ngồi chờ mẹ trong vườn… (Khảo dị).
Dẫu biết người đọc bị ám ảnh và mê man trong trạng thái tỉnh – mê, hư
– thực của những liên tưởng bất ngờ trong thơ mình nhưng Nguyễn Bình
Phương vẫn không ngừng “giăng lưới”, “thả mồi” liên tưởng để thu về những
câu thơ đẹp, những cảm nhận đa chiều:
Chiều xuống
Cánh bướm khổng lồ lênh đênh qua hàng mận trắng
Tiếng trẻ hổn hển đuổi theo ngày mắc nạn…
(Ngỏ lần hai)
Trong chiều liên tưởng của Nguyễn Bình Phương, ký ức giống như một
cô gái dịu dàng, giản dị mang vẻ đẹp đằm thắm với những bước đi e lệ qua
thời gian. Tác giả đã tái hiện lại một vùng ký ức trong sáng, mơ hồ, xa xăm.
Sự tái hiện này được lưu lại dưới dạng đề từ trên một bức ảnh đen trắng. Đây
là một sự liên tưởng rất độc và lạ của nhà thơ: Ký ức tết tóc đuôi sam/ Đi hài
cỏ nhẹ nhàng qua mùa hạ/…Ký ức thẫn thờ trên chiếc dây phơi/ Lởn vởn khói
thơm lưng áo gấm (Đề từ cho một bức ảnh đen trắng).
Và cũng chỉ có Nguyễn Bình Phương mới nhìn thấy đường chân trời ẩn
hiện sau cú nhảy của một chú mèo:
Một cú nhảy vượt qua mặt tôi
Dưới bụng con mèo mờ mờ đường chân trời

(Những phụ đề)
Trong nghệ thuật tạo hình, Nguyễn Bình Phương giống như một người
thợ khéo tay, biết phối cảnh và lắp ráp những phân cảnh xa lạ thành một bức
tranh chung, tồn tại trong nhiều trường liên tưởng khác nhau. Đặc biệt, thao
tác đặt sự vật, hiện tượng trong những liên tưởng bất ngờ, trái chiều đã tạo
113

nên những hiệu ứng ngôn ngữ lạ tai, gây cảm giác “thèm thuồng” trên từng
câu chữ.
3.3.3. Dùng mơ mộng, tưởng tượng như một biện pháp tạo hình
Thơ Nguyễn Bình Phương là một thế giới ngập tràn những mơ mộng,
những ảo giác, tưởng tượng. Ở đó, thi giới luôn luôn hiện lên trước mắt người đọc
với gam màu “mai mái một làn sương” và tràn đầy hư ảo. Mơ mộng và tưởng
tượng có vai trò như một “đường dẫn” trong sáng tác của ông. Điểm nhấn trong
thơ Nguyễn Bình Phương chính là sử dụng mơ, mộng như một biện pháp tạo hình
đặc sắc.
Lạc trong thế giới thơ Nguyễn Bình Phương, độc giả như bị thôi miên bởi
không khí ngập tràn những hư ảo, một thế giới được vẽ nên bởi lát cắt ảo huyền
của giấc mơ: Tít phía chiều/ Chú bé gạt khói đến thăm tôi/ Chú vận chiếc áo
mỏng/ Hơn cả làn nước trong/ Bàn chân cựa quậy đôi giày cỏ (Không tên).
Trong thế giới ấy, ông tưởng tượng ra chuyến viếng thăm của những linh
hồn trẻ thơ. Chúng gặp gỡ, trò chuyện với nhau về những điều rất ngây ngô, hồn
nhiên: Chúng mình cầm sen quất mông nhau/ Chạy xa những tiếng gọi/ Chúng
mình ghét dép/ Ghét áo quần sạch sẽ (Khách). Thế giới lạ lẫm trong mắt chúng
đều gợi lên trí tò mò: Tại sao có đêm/ Để phải ngủ?. Trong miền phiêu du của trí
tưởng tượng, linh hồn những đứa trẻ hiện về trong những hình ảnh đầy ám gợi,
day dứt. Chúng tụ lại bên nhau, về hát những khúc hoan ca – “Bài ca không của
ai không của thế giới này”, hát cho chính sự cô đơn, bất hạnh của những đứa trẻ
trên cõi trần ai nhọc nhằn: Chú bé bẻ cành làm ngựa/ Dưới tán lá cháy dở những
đứa trẻ tụ nhau về hoan ca, /Bài ca không của ai không của thế giới này, /Những
đứa trẻ hoan ca cho từng đứa (Khách).
Bút pháp của Nguyễn Bình Phương luôn men theo dòng chảy của những
giấc mơ, những tưởng tượng không rõ ràng trong thơ ông thường bao trùm bởi
màn sương mờ ảo. Ông ghi lại những phút trở về của con người từ thế giới bên kia
114

qua một giấc mơ với niềm hoài niệm xót xa, nuối tiếc: Giọt trăng nằm ngơ ngác
hốc cây/ Se se gió thốc lòng đất ẩm/ Em ngậm cỏ chìm trong mơ thẳm/ Gặp chị
về/ Cổ trắng mắt nâu (Ngóng chị).
Không chỉ tưởng tượng, mơ mộng đến sự trở về của những linh hồn thuộc
thế giới bên kia, Nguyễn Bình Phương còn tưởng tượng ra một thế giới hiện tồn
chỉ bằng những nét chạm khắc. Qua con mắt sáng tạo của người nghệ sĩ, Nguyễn
Bình Phương đã làm sống dậy một thế giới sự vật, hiện tượng đầy sống động,
ngập tràn cảm giác, nằm ngay trên mặt trống đồng. Thế giới ấy, những sự vật, hiện
tượng, con người như mải miết chạy đua với nhau trong từng câu thơ: Trong gỉ
sét họ vẫn mải giao hoan/ Âm thanh còn lẩn quất quanh đây/ Tráng sĩ cuống
cuồng vung giáo/ Mùa xoay một vòng tròn hư ảo/ Đàn chim nối đuôi nhau…
Ngoài kia, lá, những đội quân rực buồn/ Rùng rùng đổ xuống trần gian/ Bầy thú
chạy lùi qua tiền sử/ Bỏ lại khoảng hư danh lấm lem...(Phiêu trên mặt trống
đồng).
Đôi khi, Nguyễn Bình Phương sử dụng tưởng tượng, mơ mộng như một
cách để miêu tả sự quẫy đạp, chuyển động dữ dội của thế giới. Tất cả đều được
lồng ghép, đan cài trong những giấc mơ sắc nét: Một người mơ thấy gió/ Người
ấy nôn nao thổi qua những bãi bờ/ Một người nữa thì mơ thấy lửa/ Người này
thành đám cháy giữa mưa/ Một người be bé mơ thấy sóng/ Sóng trở mình xóa
trắng mộng bể Đông (Ẩn dụ).
Những dấu hiệu của mơ, mộng, tưởng tượng xuất hiện dày đặc trong thơ
Nguyễn Bình Phương. Mơ, mộng đã trở thành trạng thái phổ biến, một bút pháp
tạo hình chi phối lối viết, cách hành văn và sử dụng phương tiện biểu hiện của thơ.
Chỉ với những ý niệm rất đơn giản nhưng dưới cái nhìn siêu tưởng tượng, câu thơ
ông đã được khoác lên những gam màu mơ hồ, khó hiểu, giàu ám gợi:
Phân chia bởi sắc màu
Bên này tím bên kia là ẩn dụ
115

Giữa im ắng chợt nhói lên ánh sáng của thịt da


Nhói lên tiếng rụng vỡ tan tành của quả…
(Chân dung khi trống trải)
Thao tác sử dụng mơ mộng như một biện pháp tạo hình cũng được Nguyễn
Bình Phương vận dụng tối đa trong nhiều thi phẩm khác như: Tượng đá cầm
gương, Nhẹ, Khách của trần gian, Cắt tóc, Buổi câu hờ hững, Chân dung khi
trống trải, Từ đồng hồ chờ trên máy vi tính, Hành trình, Quanh quanh, Mình ta
trước gương, …Đây cũng là một lối viết tạo nên sức hấp dẫn cho những câu thơ
của ông.
3.3.4. Nhấn mạnh sự tương giao và chuyển đổi cảm giác giữa các sự vật,
hiện tượng
Dấu ấn đặc biệt trong thơ Nguyễn Bình Phương chính là sự kết hợp một
cách ngẫu nhiên các từ ngữ không cùng một trường nghĩa, tạo nên sự tương giao,
chuyển đổi cảm giác rất đặc biệt giữa các sự vật, hiện tượng. Điều này đã tạo nên
nét độc đáo và sức hấp dẫn cho thơ ông:
Thiếu phụ quay đi xanh mơ màng
Bỏ lại hồ thẳm xanh
Tiếng xanh
Giữa vòm cây mận trắng
Cơn sốt dậy sắc hồng run rẩy.
(Tiếng lạ)
Thi giới của Nguyễn Bình Phương là những mảnh ghép tưởng chừng như
rời rạc từ những sự vật hiện tượng xa nhau, là một sự cắt dán ngẫu nhiên nhưng
vẫn dính lại với nhau bằng một chất keo vô hình. Sự tương giao và chuyển đổi
cảm giác giữa các câu thơ đã mở ra một trường liên tưởng rộng lớn, vượt xa ngoài
cái hiện thực đang được nói đến trong câu thơ:

Linh Sơn mênh mông, Linh Sơn những rào mây xệch xoạc
116

Hỡi ai mà bỏ đi trăng lác đác


Bỏ đi trăng ướt mướt dưới cây vườn…
(Cái bóng)
Thơ Nguyễn Bình Phương dày đặc các tính - động từ, đây là điểm nổi
bật tạo nên sự quyến rũ về âm điệu, độ mơ hồ của chữ nghĩa, tăng khả năng
diễn tả những chuyển hóa trong cảm giác của hình ảnh thơ: giọng nói mềm
mại như bóng râm, những ngọn đồi lơ mơ tối, … Các hình ảnh trong thơ
Nguyễn Bình Phương thường là sự kết hợp ngẫu nhiên, không có chủ định.
Dường như nhà thơ đã áp dụng thành công lối “viết tự động” trong từng câu thơ
của mình. Ông ghi chép lại nhanh chóng, tức thì, những từ, hình ảnh vụt xuất hiện
thoáng qua trong tiềm thức, vô thức, lưu lại nó bằng những đường nét ám gợi,
nhòe mờ. Vì vậy, kết cấu thơ ông có vẻ lỏng lẻo, câu chữ rời rạc, mơ hồ nhưng lại
tạo được sự tương giao, chuyển đổi cảm giác rất đặc thù:
Người yêu tôi nằm cạnh một con mèo
Cạnh một ánh trăng
Cả ba ho húng hắng.
(Mở lời)
Sự tương giao, chuyển đổi cảm giác này xuất phát từ một cảm nhận mới
mẻ của tác giả về thế giới. Đó là một thế giới đầy rẫy những điều lạ lùng, kỳ dị và
bí ẩn. Ở đó, mọi biến động tinh vi của sự vật đều là những bước di chuyển đầy ám
gợi, hình hài của sự vật luôn luôn là một hình khối đa diện, đa sắc màu.
3.3.5. Coi trọng mục đích gợi cảm, gợi nghĩ hơn tả thực
Trong bút pháp tạo hình, Nguyễn Bình Phương luôn coi trọng mục đích gợi
cảm, gợi nghĩ hơn tả thực. Đó là lý do ông sử dụng rất nhiều các thao tác kỹ thuật
như: tô đậm vẻ lạ lùng, siêu thực của sự vật, hiện tượng; nhấn mạnh sự tương
giao, chuyển đổi cảm giác, hình khối, đường nét…giữa các sự vật hiện tượng; đặt
chúng trong những liên tưởng bất ngờ, trái chiều… Để tăng sức gợi của thế giới
117

hình tượng, ông không ngần ngại làm nhòe mờ những đường nét cụ thể, xác thực
của chúng, đặt chúng trong những chiều không gian khác nhau: rộng – hẹp, sáng -
tối, xa – gần, …
Chính điều này khiến nhiều bài thơ của ông hiện lên như những “câu đố”
đầy bí ẩn, kích thích ham muốn khám phá, lý giải của độc giả. Chẳng hạn trong
bài thơ Nhẹ: Chết làm ngôi sao đen/ Nằm trên giường bình nhiên bí ẩn/ Chết
không thở cùng hoa/ Thở cùng người đàn bà xa lạ/ Ở trong khu rừng ma/ Có một
con hươu ma/ Chết nở một nụ cười sáng nhẹ/ Chẳng vĩnh biệt em chẳng tiễn biệt
ai/ Từ tốn mơ màng/ Bông cải cúc ra đi (Nhẹ). Trong thơ Nguyễn Bình Phương,
có những cái chết hiện lên rõ nét, gây ám ảnh nặng nề cho độc giả, lại có những
cái chết không rõ hình hài, chỉ là một chút khơi gợi, nhẹ tênh. Với Nhẹ, “chết”
được nhắc lại ba lần, không ồn ào, không náo động. Người đọc không cảm thấy
cái chết hiện lên trong từng câu chữ mà chỉ là sự “hóa hình” thành những “ngôi
sao đen”, là “không thở cùng hoa” và “thở cùng người đàn bà xa lạ”. “Chết”
không mang theo chiếc áo choàng đen tối, cầm những lưỡi liềm hình răng cưa sắc
nhọn mà hiền lành “nở một nụ cười sáng nhẹ”. Cái tài của Nguyễn Bình Phương
ở đây là ông miêu tả về cái chết, nhưng không gợi cho người đọc cảm giác sợ hãi,
bi thương. Đó là ấn tượng về một cái chết nhẹ, thanh sạch – cái chết “từ tốn mơ
màng” của một bông cải cúc. Chỉ với những đường nét ám gợi, nhòe mờ, xa lạ
nhưng tác giả đã vẽ nên hình hài một cái chết. Nhẹ là một sự liên tưởng độc đáo
của Nguyễn Bình Phương.
Ở Ban mai cũng vậy, mọi đường nét miêu tả cụ thể bị xóa sạch, nhà thơ
dành cho người đọc một câu đố ám gợi thông qua nhan đề có tính ẩn dụ sâu sắc:
Trong thời khắc cuối cùng của mùa đông
Anh giã từ chính mình thật khẽ khàng
Và anh là núi đồi mơ màng
Chưa lìa xa bóng tối…
118

(Ban mai)
Bài thơ cho ta cảm nhận về trạng thái buông tách, chuyển hóa của phần thể
xác và tâm hồn con người nhập thể với thiên nhiên. Đó là trạng thái chuyển thân
đầy mơ màng, hư ảo, không xác thực, nằm ở khoảng giữa thời khắc đầu tiên của
một ngày mới và khoảnh khắc “chưa lìa xa bóng tối”. Bằng sự nhạy bén nghệ
thuật cùng những nét vẽ ám gợi, Nguyễn Bình Phương đã nhanh chóng ghi lại
được thời khắc chuyển mình khẽ khàng, mơ màng của thiên nhiên. Những đường
di chuyển của mây, sao đã bị làm nhòe đi, đọng lại chỉ là những nét u hoài, mộng
mị của núi đồi trong thời khắc chuyển mình thiêng liêng ấy.
Với Hỏi, Nguyễn Bình Phương lại khắc họa sự vật chỉ qua một dấu chấm
là “những ô vuông nho nhỏ ảo huyền” tạc trên nền hư ảo: Những ô vuông nho
nhỏ ảo huyền/ Số phận mi nằm ở đó/ Đen thì đen chờn vờn/ Đỏ thì mong
manh đỏ/ Vàng pha lam một cái bóng rùng rình/…Lừng lững đến/ Và trắng/
Lạnh/ Và im/…Hun hút hành lang hẹp…(Hỏi). Nhà thơ không miêu tả trần
trụi, rõ nét về bệnh viện. Nhưng thông qua hành động “hỏi” với một “cô em
dáng hiền hiền xinh xinh” nào đó, tác giả đã khắc họa những đường nét mờ
ảo, lầm lì, ghê rợn của nơi này. Đó là một không gian yên ắng, chết chóc với
những ô vuông nhỏ chỉ le lói chút ánh sáng ảo huyền. Càng đi sâu vào không
gian đó, con người càng cảm thấy xúc giác tê liệt, cái lạnh tê tái, bủa vây một
cách ghê rợn. Sự xuất hiện của “một cái bóng rùng rình” nơi “hun hút hành
lang hẹp” đầy ám ảnh, dụ hoặc thực đã xóa tan mọi đường nét ảo mờ của
ngoại giới.
Có khi, chỉ với những chi tiết gợi nhiều hơn tả, ảo nhiều hơn mộng,
Nguyễn Bình Phương đã tạc thành một khuôn mặt ưu tư, chất chứa nhiều sầu
muộn, khó hiểu: Kìa nước mắt đứng khoanh tay ủ rũ/ Mang vị mặn khó hiểu/
Ai sẽ là người giữ tiếng khóc của em?/ Trống trải/ Chiếc áo sơ mi khoác hờ
lên bóng đêm/ Là anh đấy (Nói với em từ trống trải). Câu thơ mang những
119

đường nét ám gợi, không khắc tạc rõ hình hài của sự vật. Người ta chỉ có thể
nhìn thấy những lát cắt rời rạc của thân thể gầy gò, nước mắt đứng khoanh
tay ủ rũ, chiếc áo sơ mi ẩn hiện trong bài thơ. Mọi đường nét đều bị xóa nhòa.
Thực ra, bài thơ đã vẽ lên hình ảnh một con người với trái tim cô đơn, trống
trải. Bóng đêm như tồn tại trong một cơ thể sống, lặng lẽ, trầm uẩn, mang tâm
hồn trống trải, ưu tư. Hình ảnh “chiếc áo sơ mi khoác hờ lên bóng đêm” gợi
lên một dự cảm cô đơn, trống trải, buồn bã.
Sử dụng bút pháp tạo hình bằng cách tô đậm, nhấn mạnh hay làm nhòe mờ
một vài đặc điểm, đường nét hay hình ảnh của sự vật, hiện tượng, Nguyễn Bình
Phương đã góp phần làm tăng tính biểu cảm, tượng trưng, ám thị cho câu thơ,
khơi gợi ở người đọc một chiều liên tưởng rộng lớn, đa dạng. Hơn hết, ông muốn
đưa tới độc giả một quan niệm mới về thế giới qua cái nhìn từ “những ô cửa sổ
nghiêng”. Đó là một thế giới sống xanh xao, mơ hồ, bất định với những ảo ảnh,
ảo giác, những điều dị thường, ma mị. Đó là thế giới nằm giữa ranh giới của hư -
ảo, thực tại – mộng mị, sự sống – cái chết, hạnh phúc – khổ đau… Là thế giới tâm
linh, vô thức, tiềm thức trào ra từ những “bóng hình ứ đọng” của đời sống thực
với nhiều lo toan, mệt mỏi.
Với những đường nét mơ hồ, ám gợi, những ám thị trong xây dựng hình
ảnh, Nguyễn Bình Phương đã đem đến cho người đọc một thông điệp về thế giới:
cuộc sống không phải màu hồng bình yên như cái bề ngoài vốn đẹp đẽ của nó.
Cuộc sống là một chuỗi dài những chán chường, mệt mỏi, những dự cảm bất an,
nghi hoặc. Vì thế, ta thường thấy cái tôi trữ tình trong thơ ông hiện lên trong một
không gian tù túng, bế tắc, khao khát muốn vượt thoát khỏi thế giới này trong một
trạng thái chuyển hóa “mơ màng” của cơ thể, tâm hồn muốn tách khỏi thể xác để
bay vào một miền tâm linh, vô thức bên kia.
Tiểu kết chương 3
120

Ở phương diện tổ chức văn bản, thơ Nguyễn Bình Phương đã xây dựng
thành công những đặc điểm thi pháp nổi bật như: ngôn ngữ, kết cấu, hình ảnh,
biểu tượng và bút pháp tạo hình.
Trên phương diện ngôn ngữ, thơ Nguyễn Bình Phương đã tạo dựng một
hệ thống ngôn ngữ sáng tạo với các lớp từ chỉ màu sắc, cảm giác, sự vật hiện
tượng. Sự kết hợp các từ ngữ theo hướng “lạ hóa”, “nghịch dị” gợi lên nhiều
cảm giác mới mẻ, mang lại cho thơ ông một sắc màu hoàn toàn khác biệt, làm
điểm nhấn cho thơ. Cùng với cách vận dụng linh hoạt, tận dụng ưu thế của
các thủ pháp nghệ thuật: điệp, ẩn dụ, hoán dụ, so sánh, phóng đại, ...thơ
Nguyễn Bình Phương đã thực sự chinh phục được độc giả.
Trên phương diện kết cấu, các bài thơ của Nguyễn Bình Phương được
ông kết cấu theo 3 cách: mờ hóa cái tôi trên bề mặt văn bản, từ đó tiết chế tối
đa tính chất trữ tình; Đẩy biểu tượng lên bình diện thứ nhất của kết cấu văn
bản nhằm tô đậm tiếng nói tự thân của biểu tượng; Thường xuyên tạo nên sự
đứt mạch, trong liên tưởng, diễn đạt. Đây là những dạng kết cấu văn bản thơ
rất độc đáo theo hướng mở của thơ đương đại. Với cách tạo hình này, cái tôi
trữ tình bị mờ đi, vai trò của biểu tượng, liên tưởng trở nên rõ nét, các bài thơ
trở nên khó hiểu nhưng lại gợi nhiều ám ảnh, mở rộng chiều liên tưởng của
độc giả.
Cách sử dụng hình ảnh, biểu tượng và bút pháp tạo hình trong thơ
Nguyễn Bình Phương đã thể hiện sắc nét quan niệm thẩm mỹ độc đáo của
ông về thế giới. Đó là một thế giới ẩn tàng sau bề mặt thực tại với vẻ kỳ dị,
lạ lùng, siêu thực. Trong thế giới đó, sự vật, hiện tượng thường được xây
dựng bằng những đường nét nhòe mờ, ám gợi; được đặt trong những liên
tưởng bất ngờ, trái chiều và giữa chúng có sự tương giao, chuyển đổi cảm
giác, màu sắc, hình khối, đường nét, …rất rõ ràng. Điều này đã tạo nên nét
hấp dẫn trong thơ ông.
121
122

KẾT LUẬN

1. Nguyễn Bình Phương là một trong những gương mặt thi ca tiêu biểu
của thế hệ nhà thơ Đổi mới thơ sau 1975. Thơ ông là kết quả của một quá
trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, bền bỉ với những tìm tòi, cách tân thi
pháp mới mẻ. Bằng lối viết mang đậm dấu ấn cá nhân, ông đã chứng tỏ đầy
đủ phong cách cá nhân riêng biệt, không trộn lẫn của mình. Trong thơ,
Nguyễn Bình Phương đã kiến tạo nên một thế giới nghệ thuật hết sức độc đáo,
nổi bật.

2. Nghiên cứu thi pháp thơ Nguyễn Bình Phương, chúng tôi nhận thấy
ông đã xây dựng được một chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn, có cấu trúc nội tại
và quy luật vận động riêng với ba yếu tố cơ bản: Cái tôi trữ tình, không gian
nghệ thuật, thời gian nghệ thuật và hình tượng con người.

Cái tôi trữ tình là hình tượng trung tâm trong thế giới nghệ thuật thơ,
chi phối sâu sắc đến mạch cảm xúc của toàn bộ văn bản và mang dấu ấn cá
nhân của Nguyễn Bình Phương. Đó là một cái tôi mang những mỹ cảm khác
thường, độc đáo, cái tôi ấy cảm nhận thế giới qua con mắt “độc sáng”, tìm
thấy ở sự vật, hiện tượng những vẻ đẹp lạ lùng, nhìn ngắm thế giới bằng con
mắt khám phá đầy hứng thú của người nghệ sĩ yêu cái đẹp. Đó còn là một cái
tôi ưa hướng nội, suy tư, chiêm nghiệm về bản thể và cuộc đời. Cái tôi trữ
tình hiện lên giống như một người khách lạ cô đơn, lạc loài, lang thang giữa
thế giới này. Đó là một cái tôi luôn chiêm nghiệm về quá khứ, trăn trở về
nghiệp cầm bút, khát khao sáng tạo và kiếm tìm cái mới. Máu, sự sống - cái
chết, những dự cảm bất an trong cuộc sống luôn là nỗi ám ảnh day dứt, triền
miên trong con người thơ Nguyễn Bình Phương. Ở đây, ta còn bắt gặp cái tôi
trữ tình luôn chìm đắm trong thế giới của trực giác, tiềm thức, tâm linh. Trong
thế giới ấy, cái tôi luôn chìm sâu vào thế giới siêu nghiệm, cái tôi vùi mình
123

trong bóng đêm để tìm kiếm bản thể, để tự đối thoại với chính mình trong
những “âm động” tự nhiên nhất.

Không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bình Phương là không gian
gắn với những địa danh có thực của vùng núi Thái Nguyên – quê hương tác
giả. Tuy nhiên, không gian này đã được nhà thơ hóa phép thành một không
gian mơ, mộng với những ảo giác, ảo ảnh và không gian của những sự vật kỳ
dị, khác thường. Thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bình Phương là thời
gian tuần hoàn của tự nhiên, cùng với nó là thời gian quy ước, thời gian ám
gợi, liên tưởng, thời gian của thân phận con người – “khách của trần gian”. Sự
xóa mờ những mốc thời gian cụ thể, xác thực trong thời gian nghệ thuật càng
làm tăng thêm tính chất kỳ ảo, mơ hồ trong không gian thơ.

Hình tượng con người trong thơ Nguyễn Bình Phương là con người “xa
thân” với các biến thể của nó như: con người ngủ, mơ; con người say; con
người điên cũng được khắc họa với nhiều đường nét ám gợi, mơ hồ. Đây
chính là trạng thái tinh thần “thống ngự” trong thơ Nguyễn Bình Phương.

3. Trên phương diện tổ chức văn bản, thơ Nguyễn Bình Phương đã có
sự thể nghiệm thành công trên các mặt ngôn ngữ, kết cấu và bút pháp tạo
hình. Về mặt ngôn ngữ, thơ ông dày đặc các từ láy, là các lớp từ chỉ màu sắc,
trạng thái, cảm giác, tính chất và đặc điểm sự vật. Ông vận dụng kho từ láy
phong phú của mình đồng thời sáng tạo ra nhiều từ láy độc đáo, kết hợp
chúng theo hướng “lạ hóa”, “nghịch dị” nhằm tạo nên những sắc thái thẩm mĩ
rất riêng. Ở kết cấu văn bản thơ, Nguyễn Bình Phương vận dụng linh hoạt các
thao tác: làm “mờ hóa” cái tôi, đẩy biểu tượng lên bình diện thứ nhất của văn
bản, thường xuyên tạo nên sự “đứt mạch” trong liên tưởng, diễn đạt đã làm
cho văn bản thơ trở nên mơ hồ, ám gợi, khơi mở những liên tưởng đa chiều
của độc giả. Trong những thể nghiệm về bút pháp tạo hình, Nguyễn Bình
Phương đã vận dụng tối đa các biện pháp: tô đậm tính chất kỳ dị, lạ lùng của
124

sự vật; cách chuyển ý nhanh, đột ngột dẫn tới những liên tưởng bất ngờ, trái
chiều; nhấn mạnh sự tương giao, chuyển đổi cảm giác, hình khối, đường nét,
… giữa các sự vật, hiện tượng; làm nhòe mờ đường nét của sự vật, các thủ
pháp cắt dán cùng các kỹ xảo mới lạ đã tạo nên một sắc thái riêng cho thơ
ông, khó hòa lẫn với những nhà thơ khác.
4. Thơ Nguyễn Bình Phương đã có những tìm tòi, cách tân hết sức đáng
chú ý trên phương diện thi pháp. Tuy nhiên, thơ ông cũng không tránh khỏi
những hạn chế. Theo chúng tôi là những vấn đề sau: Thơ Nguyễn Bình
Phương đôi khi mơ hồ, rối rắm, khó lý giải và cắt nghĩa theo lối thông
thường. Hình tượng cái tôi trữ tình hiện lên trong thơ mang màu sắc bi quan,
luôn luôn cô đơn và bị ám ảnh bởi những điềm xấu, đôi khi đem lại một ấn
tượng hơi nặng nề. Kết cấu văn bản thơ chưa thực sự chặt chẽ, thiếu liền
mạch, đôi khi rườm và rối, gây khó hiểu cho tiếp nhận. Một số hình ảnh, biểu
tượng trong thơ ông còn trùng lặp, cách dùng từ ngữ nhiều khi cũng chưa thật
tinh lọc.
5. Tuy nhiên, vượt lên những hạn chế đó, Nguyễn Bình Phương vẫn là
một trong những gương mặt nổi trội của thế hệ nhà thơ sau 1975. Những tìm
tòi thi pháp của ông cần được ghi nhận như một sự đóng góp tích cực vào tiến
trình đổi mới thi ca Việt Nam đương đại và cũng phần nào nói lên hướng cách
tân thơ độc đáo mang “thương hiệu” Nguyễn Bình Phương, điều không phải
người cầm bút nào cũng có thể làm được.
125

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
2. Phạm Quốc Ca (2003), Mấy vấn đề thơ Việt Nam 1975 - 2000, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
3. Nguyễn Việt Chiến (2007), Thơ Việt Nam, tìm tòi và cách tân (1975-
2000), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
4. Nông Hồng Diệu (2013), “Nguyễn Bình Phương: Sống bình thường, viết
không bình thường”, http://www.tienphong.vn/
5. Vũ Dũng (chủ biên) (2000), Từ điển tâm lí học, Nxb Khoa học xã hội.
6. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
7. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
8. Nguyễn Đăng Điệp, Văn Giá, Lê Quang Hưng, Nguyễn Phượng, Chu
Văn Sơn (2005), Chân dung các nhà văn Việt Nam hiện đại, (tập 1), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
9. Nguyễn Đăng Điệp (2006), “Thơ Việt Nam sau 1975 - từ cái nhìn toàn
cảnh”, Nghiên cứu văn học, (11).
10. Hạnh Đỗ (2015), “Nguyễn Bình Phương: U uất, sợ người nhưng trời
nhiều mây trắng”, http://www.tienphong.vn/
11. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
12. Hà Minh Đức (chủ biên) ( 1992), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
13. Hà Minh Đức (1999), Văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Hà Nội.
126

14. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004), Từ
điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
15. Trương Thị Ngọc Hân (2006), “Những điểm nổi bật trong sáng tác của
Nguyễn Bình Phương”, http://www.tienve.org/
16. Hegel (1998), Mỹ học, tập 1 (Phan Ngọc dịch), Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
17. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
18. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
19. Mã Giang Lân, (2005), Văn học hiện đại Việt Nam vấn đề - Tác giả, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
20. Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
21. Phong Lê, Vũ Văn Sĩ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2000), Thơ Việt Nam
hiện đại, Nxb Lao động, Hà Nội.
22. Phong Lê (2005), Về văn học Việt Nam hiện đại nghĩ tiếp..., Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội.
23. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2005), Văn học Việt Nam sau 1975
những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
24. Phương Lựu (chủ biên) (2009), Lý luận văn học, tập 1: Văn học - nhà
văn - bạn đọc, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
25. Phương Lựu (chủ biên) ( 2009), Lý luận văn học, tập 3: Tiến trình văn học,
Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.
26. Phương Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La
Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình (2004), Lý luận văn học, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
127

27. Nguyễn Đăng Mạnh (1991), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
28. Dương Kiều Minh (2009), “Thi ca và cuộc kiếm tìm, có tên: Nguyễn
Bình Phương”, http://vanchuongviet.org/
29. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1990), Thơ ca Việt Nam - hình thức và
thể loại, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.
30. Nhiều tác giả (2000), Tuyển tập thơ Việt Nam giai đoạn 1975-2000 (3
tập), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
31. Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam (1975 - 1990), Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
32. Nguyễn Bình Phương (1991), Vào Cõi, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
33. Nguyễn Bình Phương (1992), Lam chướng, Nxb Văn học, Hà Nội.
34. Nguyễn Bình Phương (1994), Những đứa trẻ chết già, Nxb Văn học.
35. Nguyễn Bình Phương (1996), Khách của của trần gian, Nxb Văn học,
Hà Nội.
36. Nguyễn Bình Phương (1997), Xa thân, Nxb Hà Nội.
37. Nguyễn Bình Phương (1999), Người đi vắng, Nxb Văn học, Hà Nội.
38. Nguyễn Bình Phương (2000), Trí nhớ suy tàn, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
39. Nguyễn Bình Phương (2001), Từ chết sang trời biếc, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
40. Nguyễn Bình Phương (2004), Thoạt kỳ thủy, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
41. Nguyễn Bình Phương (2004), Thơ Nguyễn Bình Phương, Nxb Thanh
Niên, Hà Nội.
42. Nguyễn Bình Phương (2011), Buổi câu hờ hững, Nxb Văn học, Hà Nội.
43. Nguyễn Bình Phương (2015), Xa xăm gõ cửa, Nxb Văn học, Hà Nội.
44. Lê Hồ Quang (2011), “Đọc thơ Nguyễn Bình Phương”, Thơ, (8)
45. Lê Hồ Quang (2013), “Dương Kiều Minh - ra đi và trở về”, Thơ, (3)
46. Lê Hồ Quang (2014), “Đặc trưng nghệ thuật thơ Mai Văn Phấn ”, Thơ,
(1&2).
47. Nguyễn Hưng Quốc (1998), Sống với chữ, Nxb Văn nghệ, Califonia,
Hoa Kỳ.
128

48. Việt Quỳnh (2015), “Nhà văn, nhà thơ Nguyễn Bình Phương: Gây ám
ảnh, chứ không chỉ là nhớ”, http://thethaovanhoa.vn/
49. Roland Barthes (1997), Độ không của lối viết, Nguyên Ngọc dịch, Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội.
50. Trần Đình Sử (1990), Lí luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
51. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội
52. Trần Đình Sử (2001), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Đại học Huế - Trung
tâm đào tạo từ xa.
53. Trần Đình Sử (chủ biên ) (2007), Lí luận văn học, tập 2, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
54. Đoàn Minh Tâm (2011), “Nguyễn Bình Phương – Một hồn thơ “tinh
quái”, http://vanvn.net/
55. Hoài Thanh, Hoài Chân (2005), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
56. Nguyễn Bá Thành (1996), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt Nam,
Nxb Văn học, Hà Nội.
57. Đỗ Lai Thúy (1992), Con mắt thơ, Nxb Lao động, Hà Nội.
58. Đỗ Lai Thúy (2005), Bút pháp của ham muốn, Nxb Lao động, Hà Nội.
59. Nhã Thuyên (2012), “Phía khác của mặt trăng”, http://tiasang.com.vn/
60. Tuổi trẻ online (2005), Nguyễn Bình Phương: Văn học mênh mông như
cuộc sống”, Văn nghệ trẻ, http://tuoitre.vn/
61. VnExpress (2002), “Nguyễn Bình Phương tạo nét mới cho tiểu thuyết
Việt Nam”, Báo Thể thao Văn hóa, http://giaitri.vnexpress.net/

You might also like