You are on page 1of 302

NGƯỜI KHÔNG

CHÂN DUNG

MARKUS WOLF và
Anne McElvoy

HỒI KÝ CỦA TRÙM GIÁN ĐIỆP


CỘNG SẢN ĐÔNG ĐỨC
Mục Lục

Lời mở đầu

Lời tựa

Sơ Đồ Đảng, Nhà Nước và Bộ Công An

Sơ Đồ Tổ Chức của Bộ Công An

Chương 1 Cuộc đấu giá

Chương 2 Thoát khỏi ác bóng Hitler

Chương 3 Học trò của Stalin

Chương 4 Cộng Hòa Dân Chủ Đức lớn mạnh và tôi lớn theo

Chương 5 Vừa học vừa làm

Chương 6 Khrushchev mở mắt cho chúng tôi

Chương 7 Giải pháp bê-tông

Chương 8 Làm gián điệp vì tình

Chương 9 Hình bóng của Thủ Tướng

Chương 10 Nọc độc của sự phản bội

Chương 11 Tình báo và Phản gián

Chương 12 « Những biện pháp tích cực »

Chương 13 Phong trào khủng bố và nước CHDCĐ

Chương 14 Trong lòng địch

Chương 15 Cuba

Chương 16 Chấm dứt trật tự cũ

Chương 17 Lời kết


Mục Lục

Lời mở đầu

Lời tựa

Sơ Đồ Đảng, Nhà Nước và Bộ Công An

Sơ Đồ Tổ Chức của Bộ Công An

Chương 1 Cuộc đấu giá

Chương 2 Thoát khỏi ác bóng Hitler

Chương 3 Học trò của Stalin

Chương 4 Cộng Hòa Dân Chủ Đức lớn mạnh và tôi lớn theo

Chương 5 Vừa học vừa làm

Chương 6 Khrushchev mở mắt cho chúng tôi

Chương 7 Giải pháp bê-tông

Chương 8 Làm gián điệp vì tình

Chương 9 Hình bóng của Thủ Tướng

Chương 10 Nọc độc của sự phản bội

Chương 11 Tình báo và Phản gián

Chương 12 « Những biện pháp tích cực »

Chương 13 Phong trào khủng bố và nước CHDCĐ

Chương 14 Trong lòng địch

Chương 15 Cuba

Chương 16 Chấm dứt trật tự cũ

Chương 17 Lời kết


Markus Wolf: Người không chân dung
Hồi kí của trùm gián điệp Cộng Sản Đông Đức

Lời toà soạn: Chúng tôi xin gởi đến quý bạn, trong nhiều kỳ, toàn bộ bản dịch quyển
« Man Without A Face » của Markus Wolf, trùm gián điệp của Cộng Hòa Nhân Dân Đ ức.
Các hoạt động gián điệp của ông rất là tinh vi và lan tỏa khắp thế giới, nhưng chung quy
ông phục vụ cho quyền lợi của Liên Xô nhiều hơn là cho đất nước ông. Ông Wolf tin vào
hệ thống xã hội chủ nghĩa và từ đó tin vào người anh cả Xô Viết đã cưu mang gia đình
ông. Nhưng khi bức tường Bá Linh sụp đổ, ông đã không đư ợc người anh cả Liên Xô giúp
đỡ, trái lại chỉ muốn xua đuổi ông cho rảnh nợ. Bao nhiêu thông tin gom góp với bao
nhiêu hy sinh để cuối cùng chẳng giúp cho nước CHDC Đức tồn tại. Tất cả chỉ vì hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa đã hư h ỏng từ trong nội tạng, dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của
toàn khối xã hội chủ nghĩa Liên Bang Xô Vi ết và khối Đông Âu. Xin mời quý bạn theo dõi
nhật ký của ông Markus Wolf để thấy rõ nội tình và cách tổ chức tình báo của ông.

Lời Mở Đầu

Trong vòng ba mươi bốn năm tôi đã giữ chức vụ giám đốc cơ quan tình báo hải ngoại của
Bộ Công An của nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức. Ngay cả những kẻ thù gay gắt nhất của tôi
cũng công nhân đây có lẽ là cơ quan năng lực và hiệu dụng nhất lục địa châu Âu. Chúng
tôi thu thập nhiều bí mật chiến lược và kỹ thuật của những đội binh uy lực bày binh bố
trận để đánh chúng tôi và chuyển chúng,nhờ tay của tình báo Xô Viết, đến các bộ tư lệnh
của Hiệp Ước Warsaw tại Moscow. Có rất nhiều người nghĩ rằng tôi biết nhiều về những bí
mật của Cộng Hòa Liên Bang Đức hơn cả Thủ tướng tại Bonn. Thực ra, chúng tôi cài đặt
điệp viên trong văn phòng riêng c ủa hai vị thủ tướng, trong số khoảng một ngàn văn
phòng mà chúng tôi đã xâm nh ập vào trong tất cả mọi ngành của sinh hoạt chính trị Tây
Đức, kinh doanh và các lãnh vực khác của xã hội. Nhiều người trong số những điệp viên
này là công dân Tây Dức, họ phục vụ cho chúng tôi hoàn toàn vì lý tư ởng.

Tôi nhìn lại quãng đ ời cá nhân và nghề nghiệp của tôi như vòng cung l ớn khởi sự từ cái
gọi là lý tư ởng cao đẹp theo tiêu chuẩn khách quan. Chúng tôi, những người Đông Đức
theo đuổi xã hội chủ nghĩa, c ố gắng xây dựng nên một loại xã hội trong đó những tội ác
của nước Đức cũ sẽ không bao giờ có cơ hội lập lại. Trên hết mọi sự, chúng tôi quyết tâm
không muốn chiến tranh tái diễn trên nước Đức.

Những tội lỗi và những sai lầm của chúng tôi cũng là nh ững tội lỗi và sai lầm của tất cả
mọi cơ quan tình báo. Nếu chúng tôi có khuyết điểm, và chắc chắn chúng tôi có, đó là
những khuyết điểm của tính chất nghề nghiệp quá đam mê không được tôi luyện bởi
đường chỉ không viền của cuộc sống bình thường. Giống như hầu hết mọi người Đức,
chúng tôi tuân thủ kỷ luật đến độ sai lầm.Phương pháp của chúng tôi quá hữu hiệu nên
chúng tôi đã vô tình phá h ỏng sự nghiệp của một nhà chính trị có tầm nhìn xa nhất của
nước Đức hiện đại, ông Willy Brandt. Việc sát nhập cơ quan tình báo vào trong Bộ Công
An có nghĩa là cơ quan này và tôi gánh trách nhi ệm về những cuộc đàn áp trong nội bộ
nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức và hợp tác với bọn khủng bố quốc tế.

Thực không dễ kể chuyện về cuộc chiến tình báo từ khía cạnh của kẻ thua cuộc đứng ở
bên này Bức Màn Sắt để cho những người sông bên kia hiểu được trọn vẹn. Kể lại câu
chuyện của tôi về cuộc chiến độc nhất vô nhị thời Chiến Tranh Lạnh, tôi không có mục
đích van xin để được tha lỗi trong vị thế của một kẻ thua cuộc. Phía chúng tôi tranh đấu
chống lại sự hồi phục của chủ nghĩa phát -xít. Chúng tôi tranh đấu cho một mẫu mực xã
hội chủ nghĩa phối hợp với tự do, một mục tiêu cao cả nhưng đã hoàn toàn th ất bại,
nhưng tôi vẫn tin là vẫn có thể thực hiện được. Tôi vẫn giữ nguyên niềm tin của tôi, mặc
dù ngày nay niềm tin này đã b ị kiềm hãm vì thời gian và trải nghiệm. Nhưng tôi không
phải là kẻ đào ngũ , và hồi ký này không phải là một lời thú tội để xin được chuộc lại lỗi
lầm.

Từ khi tôi tiếp quản cơ quan tình báo h ải ngoại Đông Đức vào những thập niên 1950 cho
đến khi hình ảnh của tôi bị lén chụp năm 1979 và bị một kẻ đào thoát nhận dạng,
phương Tây không hề biết mặt mũi của tôi ra sao. Họ gọi tôi là « người không chân
dung », một biệt hiệu đã hầu như biến những sinh hoạt điệp báo của chúng tôi và cuộc
chiến tình báo giữa Đông và Tây thành ra lãng m ạn. Nhưng nó chẳng lãng mạn tí nào cả.
Người người đau khổ. Đời sống chật vật. Tha thứ hay nhân nhượng không có chỗ đứng
trong cuộc chiến giữa hai ý thức hệ. Cuộc chiến này đã bao trùm ph ần nửa thế kỷ của
chúng ta và một cách nghịch lý đã cho phép châu Âu có được một thời kỳ hòa bình lâu
dài nhất kể từ khi đế quốc La Mã sụp đổ. Đôi bên đều phạm những tội ác trong cuộc
chiến toàn cầu này. Giống như đa số những người trên thế giới, tôi cảm thấy hối hận.

Trong quyển hồi ký này, tôi cố gắng kể lại dưới nhãn quan của tôi toàn bộ những sự kiện
mà tôi được biết. Những độc giả, những nhà phê bình và các chuyên gia có thể xem xét
chúng, tin chúng và kiểm chứng chúng. Nhưng tôi phản bác những lời tố cáo của một vài
đông hương của tôi là tôi không có quyền kể lại và xem xét trong từng chi tiết những
thành công và những thất bại trong suốt cuộc đời nghề nghiệp của tôi. Tại Đức đã có
những nỗ lực, bằng phương tiện tòa án hoặc phương tiện khác, nhằm đưa ra quyết định
chỉ có một phương hướng duy nhất giải thích lịch sử được phổ biến. Tôi không đi tìm biện
luận đạo đức để tự bào chữa và cũng không đi tìm tha th ứ, nhưng sau một thời gian
tranh đấu khốc liệt đây là thời gian để cả đôi bên suy gẫm.

Bất cứ lịch sử nào đích thực có danh xưng là lịch sử không thể chỉ do kẻ thắng trận viết
ra.
Lời Tựa
(của Graig R. Whitney)
Khi một quốc gia là kẻ thù độc hại nhất của chính mình, có được một cơ quan tình
báo hải ngọai giỏi nhất thế giới cũng chẳng giúp nên trò trống gì, điều này các lãnh tụ
của Đông Đức đã khám phá ra khi chính quyền Cộng sản sụp đổ như một toà nhà bằng
giấy vào năm 1989. Sự trớ trêu này không thoát khỏi nhận xét của Markus Wolf, nhân
vật đã gầy dựng nên cơ quan tình báo Đông Đức và lãnh đạo trong vòng 34 năm với
những thành tích nổi bật . Đông Đức cần gián điệp, vì các cấp lãn h đạo Cộng Sản muốn
được an tâm trong những ngày đầu của cuộc Chiến Tranh Lạnh, vì vị thế vượt trội của
nền kinh tế Tây Đức, cộng với sức mạnh quân sự của khối Liên Minh Bắc Đại Tây Dương
(NATO) đe dọa chấn áp Đông Đức. Nhưng mặc dù h ọ có 4.000 nhân viên điệp báo,
109.000 điềm chỉ viên làm việc cho Cơ Quan Công An Nhà Nước và cứ 105 công dân thì
có một tên điềm chỉ, cấp lãnh đạo Cộng sản không nhận ra cho đến khi quá trễ là chính
những sai lầm nội tại, những đường lối chỉ đạo hỏng tự căn bản của tất cả những hệ
thống xây dựng trên sự đàn áp và cưỡng ép, đã đánh đổ họ .

Vì những lý do cá nhân, ông Wolf đã tự ý xin về hưu năm 1986 và dọn đến ở một
căn phòng lầu 6 nhìn xuống con sông Spree, nơi trước đây là trung tâm của Đông Đức.
Đây là một địa điểm chọn lọc chiếu theo mô hình tổ chức của Cộng Sản, kế cận một nơi
được chế độ tân trang để nhắc nhở lại không khí tiền chiến của Bá -linh (Berlin); đường
phố lót gạch xanh cho bộ hành và những cửa quán của những nghệ nhân chen lẫn vào
cao ốc với màu sắc nước sán g nhạt nhằm gợi lên hình ảnh dĩ vãng thế kỷ thứ 18. Sau khi
Bức Tường Bá -linh sụp đổ năm 1989, những tờ báo lá cải gọi căn phòng của Wolf là căn
phòng sang trọng, kiểu mẫu mà các chủ nhân ông trong Cơ Quan An Ninh Quốc Gia – các
vị « Stasi » đáng sợ, như người Đức thường gọi họ như vậy – tự dành riêng, không một
thường dân Đông Đức nào có được. Báo chí thường hay nói quá đáng.

Có tất cả 99 bậc thang để lên lầu 6 và cao ốc này không có thang máy. Mặc dù ở
vào trung tuần 70, ông Wolf vẫn còn sức để leo những bậc thang này. Trên lối đi xập xệ
đến căn phòng, có kẻ nguệch ngọac viết « Stasi chó má » trên hộp thư nhôm của ông
Wolf, một hành vi có thể đưa vào tù tức khắc trong những ngày cai trị của Cộng Sản.
Cách đó vài căn, con của ông Wolf trong cuộc hôn nhân trước đây nay kiếm tiền túi trong
một quán bán pizza nằm dưới gầm cầu xe lửa của nhà ga Friedrichstrasse S -bahn, ranh
giới đầu tiên giữa Đông và T ây khi quan khách đến trong những ngày Chiến Tranh Lạnh.
Ông Wolf là một người đã tu ột dốc từ trên cao.

Không như các đồng nghiệp Stasi của ông, ông Wolf không bao giờ dùng họat
động tình báo để làm giàu cho cá nhân mình . Bản thân ông Wolf có một sức quyến rũ
mạnh, ông cao 1 thước 83, người gọn ghẽ, đầu tóc màu xám, một khuông mặt cởi mở và
thon dài, đôi mắt nâu sâu sắc, bàn tay với ngón dài thon và thanh nhã của người trí thức.
Giọng nói Đức của ông lịch lãm và hùng hồn . Ông nói chuyện về Goethe và Brecht hoặc
về Tolstoi và Mayakovsky cùng một vẻ lưu loát. Để giết thời gian trong giai đọan ông bị
ép buộc l ưu đày (lần thứ hai) tại Moscow sau khi nước Đức thống nhất vào năm 1990,
ông tổng hợp được quyển sách mang tựa đề Những Bí Quyết Nấu Nướng của nước Nga
(Geheimnisse der russischen Küche), một mớ thực đơn hấp dẫn để thực hiện món bò
Stroganoff, blini, piroshki với hình ảnh và những mẩu chuyện dí dỏm từ công tác điệp
báo.

Nhưng nhìn ông ngày hôm nay, n gười ta không thể cầm lòng tự hỏi ông sẽ đóng
vai trò nào nếu ông là người Tây Đức : có thể là một ông tướng hay là một bộ trưởng
ngoại giao, hay là giám đốc của một xí nghiệp lớn của Đức. Có lẽ ông sẽ thành công, cố
nhiên là như vậy, giàu có và hãnh diện, có thể ông sẽ thêm ít ký -lô ở bụng và có một
chiếc Mercedès trên lối đi vào nhà. Nhưng thay vì vậy, ông sống theo lối tiểu tư sản của
cấp lãnh đạo Cộng Sản Đông Đức, những khuôn mẫu tầm thường già nua mà ông vẫn
trung thành nhưng đồng thời cũng tự cảm thấy vượt lên trên trình độ trí thức của họ .
Sống trong một trong những môi trường khắc nghiệt và đàn áp chính trị mạnh bạo nhất
tại Châu Âu, ông đã thành công và sống sót nhờ trí tuệ, nhờ biết ứng dụng khả năng học
hỏi và nét duyên dáng thu hút để thuyết phục người Tây Âu phản bội quốc gia mình và
phục vụ cho lý tưởn g Cộng Sản. Nhìn lại lý tưởng thảm não của Đông Đức , câu hỏi được
đặt ra là: làm sao một người tài giỏi và thông minh như vậy l ại có thể lãng phí tài sức cho
một hệ thống tồi tệ như vậy ?

Một cách trớ trêu, cuộc đời của Markus Wolf khởi sự tại Tây Đức. Sinh năm 1923
tại Hechingen, một thành phố nhỏ tại Württemberg, phiá Tây Nam nước Đức, ông là con
trai đầu lòng của một bi kịch sĩ, một tác giả và một y sĩ đồng liệu tương pháp tên
Friedrich Wolf, một người Do -thái tôn thờ chủ nghĩa Mác. Giống như chồng, Else, bà mẹ
của ông Wolf, là một thành viên năng động của Đảng Cộng Sản Đức. Khi Quốc Xã lên
nắm chính quyền năm 1933 và gia đình Wolf bị liệt kê vào danh sách truy nã, ông bố của
Markus chạy trốn sang Pháp. Bà Else, Markus và em trai Konrad sau đó theo ông bố, và
năm 1934 cả già đinh tị nạn chính trị tại Moscow .

Tại đây, trong vòng mười năm, hai cậu bé được uốn nắn theo kiểu mẫu giáo dục,
văn hóa và chính trị của Cộng Sản Nga. Konrad trở về Đức năm 1944 theo binh lính trong
Hồng Quân. Markus theo học ngành kỹ sư hàng không tại Nga và, năm 1945, lúc 22 tuổi,
được phái trở về Đức theo lệnh của Đảng Cộng Sản Đức để giúp xây dựng một đài phát
thanh tuyên truyền trong cảnh đổ nát của thành phố Bá -Linh.

Nhờ ăn nói lưu loát tiếng Nga và thấm nhuần tư tưởng cộng sản từ trong nôi, ông
Wolf giao hảo mật thiết với các cấp lãnh đạ o Hồng Quân trong vùng chiếm đóng của Nga
tại Đông Đức và với các người Đức lư u vong và còn sống sót, được đ ưa lên hàng lãnh đạo
Cộng Hoà Dân Chủ Đức năm 1949. Cho dù có làm điều gì khác đi n ữa, Stalin đã cứu gia
đình Wolf thóat nạn Tiêu Diệt (Holocaust) của Đức Quố c Xã. Sự kiện này cùng với cảm
giác say sưa trong quyền lực khởi sự từ lúc ông nhận lãnh trách nhiệm trong một nước
Cộng Sản đầu tiên trên mảnh đất Đức luôn luôn nặng cân hơn tất cả những gì Markus
Wolf sau này khám phá về bộ mặt đen tối và đàn áp của chế độ cộng sản .

Chẳng bao lâu các cấp chỉ huy nhận ra ông Wolf rất có tài . Họ gởi ông sang
Moscow với tư cách là nhà Ngọai Giao Đông Đức trong vòng vài năm và sau đó đưa ông
về lại cơ quan tình báo hải ngọa i Đông Đức đang phôi thai, giao cho ông trách vụ lãnh
đạo cơ quan này năm 1952, khi ông chưa đầy 30 tuổi . Một năm sau, cơ quan này được
sát nhập vào Cơ Quan An Ninh Quốc Gia, biến ông Wolf thành một phó giám đốc hầu như
độc lập của cơ quan Stasi trong chức vụ giám đốc của HVA - Hauptverwaltung
Aufklärung, « Tổng Cục Tình Báo Trung Ương », và ông mang quân hàm đại tướng trong
cơ quan này.

Trong nhữn g ngày đầu bấp bênh của Đông Đức, có rất nhiều mối đe dọa từ ngoài
đến cần phải lưu tâm . Cộng Hoà Liên Bang Đức, về mặt diện tích to lớn nhất trong hai
quốc gia hậu duệ của Quốc Xã Đức, đơn phương tuyên bố xác định tính cách chính thống
lịch sử của họ và sẽ không thiết lập ngọai giao với bất cứ quốc gia nào công nhận người
anh em láng giềng Đông Đức. Dưới con mắt của Tây Âu, chẳng có gì đáng gọi là dân chủ
trong nước Cộng Ho à Dân Chủ Đức, và phần đông những quốc gia d ám chọc giận Tây
Đức bằng cách thiết lậ p ngọai giao với Đông Đức là những nước vệ tinh chư hầu của Xô -
viết hoặc là những nước đồng hội đồng sàn.

Trong những ngày đầu ngắn ngủi này, Bộ Trưởng phụ trách về an ninh quốc gia
của Đông Đức là Erich Mielke, một anh Cộng sản cá o già chuyên luồn lách thuộc thế hệ
đàn anh hơn ông Wolf 16 tuổi. Hai nhân vật này là hai mẫu người thật tương phản hiếm
có. Mielke sinh trưởng trong một gia đình thuộc giới la o động tại Bá -Linh năm 1907,
trong một môi trường cực kỳ khó nhọc, và đã gia nhập Đảng Cộng Sản năm 193 0. Bị bỏ
tù sau khi ám sát hai cảnh sát viên Bá -Linh năm 1931, y đã đào thoát và trốn sang
Moscow. Sáu mươi hai năm sau, y bị kết án vì tội này theo những tang chứng mà y đã
cất khóa kĩ lưỡng trong tủ sắt Stasi của chính y . Trong suốt thời gian đứng đầu bộ máy
công an mật vụ của Cộng Hoà Dân Chủ Đức (GDR), Mielke, ám ảnh bởi mối đe dọa bị
khuynh đảo ngay trong nội bộ, đã biến Đông Đức thành một qu ốc gia công an hữu hiệu
và tàn bạo nhất Đông Âu.

Khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ, Mielke trở thành một đối tượng mà mọi người kinh
tởm. Cả ông Wolf cũng không có chút cảm tình nào đối với y. Ông mô tả Mielke là một
tên bạo chúa, một cấp lãnh đạo mà ông luôn phải đối đầu vật lộn trong những thủ tục
hành chánh để bảo vệ tính cách độc lập và tự trị của ngành điệp báo của ông.

Nhưng cùng lúc, Wolf phủ nhận trách nhiệm về những họat động của Stasi có dính líu ít
nhiều với điệp báo hải ngọai, chẳng hạn như những lệnh « bắn bỏ » được chỉ thị cho lính
biên phòng canh gác Bức Tường Bá -linh. Ông phủ nhận việc ra lệnh thủ tiêu các điệp viên
ngọai quốc. Ông phủ nhận mối quan hệ với Biệt Đoàn XXII của Stasi, biệt đoàn này chứa
chấp một thời gian ngắn bọn khủng bố và sử dụng bọn này như những thành phần
khuynh đảo Tây Âu.

Biệt đoàn XXII theo dõi rất sát những thành phần cực đoan như Đoàn Hồng Quân
(Red Army Faction) thô bạo của Tây Đức. Thành viên của Hồng Quân đã ám sát một chục
kỹ nghệ gia và các viên chức cao cấp vào những thập niên 70 ; Ilyich Ramirez Sanchez,
tên khủng bố quốc tế, mang bí danh là « Carlos »; và nhiều thành viên khác của Tổ Chức
Giải Phóng Pale stine (PLO). Cơ quan Stasi dùng những tên khủng bố này để biến chúng
thành những nhân tố khuynh đảo tại Tây Âu, giúp cơ sở lẩn trốn cho chúng tại Đông Đức.
Chính một đại tá của Stasi đã cung cấp hơn 22 ký chất nổ cực mạnh cho tên phụ tá của
Carlos tại Đức năm 1983 vào lúc trước ngày đánh bom lãnh sự Pháp tại Tây Đức . Cũng
như Wolf tường thuật lại trong quyển sách này, các sĩ quan của Stasi trong Biệt Đoàn
XXII biết rõ kế họach của các nhà ngọai giao Lybia đánh bom một hộp đêm tại Tây Bá -
Linh, nơi có đông đảo binh lính G.I. Mỹ th ường lui tới. Bom nổ giết chết bốn người và gây
thương tích cho hơn 200 người năm 1 986, một vài tháng trước khi Wo lf về hưu. Nhưng
Đông Đức không hề can thiệp để ngăn chặn việc này.

Ngay từ lúc đầu vào những thập niên 1950, nhiệm vụ chính của Wolf là tìm hiểu
những gì các cấp lãnh đạo Tây Đức bàn tính về cái nước Đông Đức thật nhỏ bé này. Dưới
sự lãnh đạo của ông, Đông Bá-linh hầu như đạt đến điểm cao chưa ai đạt được trong trò
chời gián điệp với Tây Đức. Cơ quan của Wolf « lật ngược » các điệp viên Tây Đức, đưa
họ trở qua lại Bức Tường Bá -linh để làm điệp viên ngược lại cho Cộng Sản. Họ kết nạp
các thương gia và các luật gia thuộc lẫn phe tả và phe hữu và nhờ họ xâm nhập để biết
được những thông tin về đường lối kinh tế và chính trị của Tây Đức. Họ gởi đi những anh
chàng « Romeo », những chàng trai độc thân quyến rũ, để tán tỉnh những phụ nữ độc
thân đầy mặc cảm, những cô chỉ biết miệt mài với công việc làm thư ký cho các chính trị
gia Bonn. Cơ quan của Wolf đã dẫn dụ quá nhiều thành phần chiêu hồi về với chủ nghĩa
Cộng Sản nên đã trở thành một mối bận tâm. Những thành phần chiêu hồi này bao gồm
những viên chức trong ngành tình báo và phản gián của Tây Đức, có vấn đề rượu chè , lo
lắng về tài chánh hoặc có lòng ngờ vực về viễn tượng phục vụ suốt đới cho chính nghĩa
của liên minh do Hoa Kỳ lãnh đạ o trên đất nước chia đôi của họ : « Probst », « Günter »,
« Kohle », « Komtess », « Mauerer », và cuối cùng « Topaz » - tên thật là Rainer Rupp,
một gián điệp thượng thặng của Wolf nằm trong tổng tham mưu Liên Minh Bắc Đại Tây
Dương (NATO) tại Brussels, không hề bị phát hiện cho đến khi Chiến Tranh Lạnh chấm
dứt. (Sau khi mãn hạn tù tháng 12 năm 1998, Rupp được Đảng tân Cộng Sản Dân Chủ
Xã Hội Chủ Nghĩa, trong một buổi họp sơ bộ của họ tại Quốc Hội Đức mời làm tham vấn,
nhưng cuối cùng đã không d ám mời vì bị đả kích dữ dội.)
*

Wolf cũng nếm mùi thất bại, một điều chắc chắn: các cá nhân trốn chạy chủ nghĩa
cộng sản như Werner Stiller, đã đưa cho tình báo Tây Đức những tài liệu vi phim tương
đương với 20.000 trang giấy, cho phép Tây Đức phát hiện các điệp viện ẩn nấp và, một
cách ngẫu nhiên, bức h ình đầu tiên của Wolf từ 30 năm nay, từ trước cho đến giờ trong
hồ sơ của họ vẫn là một « người không chân dung ». Nhưng những thất bại này không
đáng kể so với những thắng lợi của ông.

Cơ quan của Wolf gởi đi hàng chục những « con chuột chũi », nấp sâu trong lòng
của xã hội Tây Đức, suy tính rằng với thời gian và may mắn, một vài con chuột sẽ tìm
đường lên gần đỉnh cao của những chính đảng Tây Đức và sẽ cung cấp những tin tức có
giá trị liên quan đến kế họach điều động quân số của Tây Đức và, quan trọng hơn hết cho
mối quan hệ chiến lược của Đông Đức với Liên Bang Xô -viết, ý định quân sự và chiến lược
của Hoa kỳ trong trường hợp Chiến Tranh Lạnh trở nên nóng bỏng. Một trong những con
chuột nằm vùng là Günter Guillaume và bà vợ Christel, đã xâm nhập Tây Đức vào giữa
những thập niên 50 với bí danh là « Hansen » và « Heinze » để tìm đường đạt đến cấp
bậc cao của Đảng Dân Chủ Xã Hội tại Frankfurt . Họ đã thành công ngoài sức tưởng tượng
của Wolf khi Guillaume trở thành phụ tá cho Thủ Tướng Willy Brandt năm 1972.

Khi bị phát giác là gián điệp, Guillaume đã kéo ông Brandt ngã theo vào năm
1974. Có thể nói đây là một thất bại nặng nề nhất mà Đông Đức tự gieo lấy cho chính
mình trước khi sụp đổ 15 năm sau. « Ostpolitik » (Chính Sách Đông Âu) của ông Brandt
đã cải thiện mối bang giao giữa các nước vốn kèn cựa với nhau. Chính quyền Bonn cuối
cùng ngưng không đánh phá phe Cộng Sản và bắt đầu có những trao đổi ngọai giao.
Nhưng lãnh tụ Cộng Sản Erich Honecker không tin Ostpolitik (Đông Sách) của Brandt, xết
rằng mối giao hảo giữa Tây Đức và Moscow đe dọa đến tính cách chính thống của Đông
Đức. Chính vì vậy tại Đông Bá -linh, Wolf không bị khiển trách vì đã tác động đến việc ngã
đài của ông thủ tướng Tây Đức.

Danh sách liệt kê tất cả điệp viên của Ông Wolf có thể đón g thành nhiều tập. Ông
Wolf chỉ nhận diện những ai đã chết hoặc đã bị bắt và đem xử . Mặc dù có được một hệ
thống rộng lớn nhân viên nằm vùng và điệp viên, Ông Wolf đôi khi vẫn cảm thấy ấm ức
về kết quả của trò chơi gián điệp của ông. Các điệp viên của ông đã thực hiện được
những gì trên mô hình rộng lớn của các dữ kiện ? « Hầu hết tất cả những tài liệu mà Liên
Minh Bắc Đại Tây Dương sản xuất ra, đóng dấu « mật » và « tối mật », mà chúng tôi đã
bỏ bao nhiêu công sức để thu thập, truy xét c ho kỳ cùng chẳng đáng dùng làm giấy chùi
đít », ông viết trong quyển nhật ký vào cuối năm 1974. Về phía Cộng sản ông cũng đánh
giá như vậy – hệ thống rộng lớn và to phù của nhóm thư lại sản xuất nhữ ng núi giấy vô
dụng. Tại Moscow, tại Warsaw, tại Đông Bá-linh, bộ máy tiếp tục xay nghiền, cố gắng
che chở, bảo vệ và lưu truyền một hệ thống không thể cứu vớt được nữa vì đã lầm tưởng
từ căn bản rằng hạnh phúc và phồn thịnh của con người có thể áp đặt lên đầu người dâ n
bởi bộ máy hành chánh quyền uy của Cộng Sản.

Ở cả hai bên tuyến ng ăn cách ý thức hệ, nhóm thư lại mà John Le Carré mô tả là
« điệp lại » đào sâu vào lòng lãnh thổ địch, đưa những con chuột nằm vùng xâm nhập,
âm mưu và bàn định kế họach, nhưng rồi cuối cùng họ chẳng làm được gì nhiều để thay
đổi một cách cơ bản đời sống c ủa người dân ở cả hai phía. Tại A-phú-hãn (Afghanistan),
CIA gây điêu đứng cho Hồng Quân Nga, cung cấp cho nhóm chiến sĩ hồi giáo mujahidin
hỏa pháo không-không Stinger, và cuối cùng đánh đuổi quân đội Nga ra khỏi nước.
Nhưng thay thế vào đó là một bọn cuồ ng tín độc tài Hồi giáo đàn áp còn kinh khủng hơn
chế độ Cộng Sản, và chẳng bao lâu ai cũng lo ngại các hỏa pháo Stinger lọt vào tay bọn
khủng bố cuồng tín. Tại Đông Âu, không phải CIA hoặc cơ quan tình báo Tây Đức, cơ
quan BND, đã làm sụp đổ chủ nghĩa c ộng sản và khối Hiệp Ước Warsaw , nhưng là do
những dồn nén và những mâu thuẫn nội tại về chính trị, kinh tế và xã hội của xã hội
cộng sản.
Ông Wolf đã không chờ cho đến khi quá muộn để công khai phê bình những sai
lầm trong hệ thống Cộng Sản trong một hồi ký nói về tuổi trẻ và lý tưởng Cộng Sản xuất
bản tại Đông Đức chỉ cách vài tháng trước khi Bức Tường Bá -Linh sụp đổ năm 1989.
Quyển hồi ký Die Troika, tiếp nối công trình khởi sự bởi người em trai của ông Wolf, tên
Konrad, trước khi qua đời năm 1982, là một trong những cố gắng hiếm hoi tại Đông Đức
nhằm khảo sát, mặc dù là dè dặt, những lỗi lầm các cấp lãnh đạo Cộng Sản tại Moscowa
và những nơi khác nhân danh chủ thuyết Stalin. Mặc dù trước đó Nikita Khrushchev cũng
đã làm, nhưng những lời chỉ trích như vậy chỉ xuất hiện tại Liên Bang Xô-viết sau khi
Mikhail Gorbachev nắm quyền lãnh đạo năm 1985 và đưa ra chính sách perestroika , một
cố gắng nhằm cải tổ chủ nghĩa cộng sản, nh ưng thay vì vậy ông đã khai tử nó, đún g như
Khrushchev lo ngại vì cởi bỏ tất cả những hạn chế sẽ làm cho tan tành. Honecker không
phải đương đầu với tình trạng này tại Đông Đức và vì vậy sách của ông Wolf đã tạo nên
náo động .

Nhưng vị thế của ông Wolf vào lúc đó không được các đồng hương của ông đánh
giá đúng mức cho đến khi nhân dân Đông Đức rốt cuộc xuống đường vào mùa thu đó để
đòi hỏi tự do. Trong một bài diễn văn đọc tại Bá -linh tháng 10 năm 1989, Gorbachev nói
rõ là hơn nửa triệu Hồng Quân đồn trú tại Đông Đức sẽ không dùng súng và xe tăng để
đàn áp họ. Diễn ván này đánh dấu ngày tàn của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Đức. Chẳng
bao lâu các cuộc biểu tình thoát vòng kiểm soát, càng lúc càng lớn tràn ngập Leip zig,
Dresden và Bá-linh, và khi ông Wolf xuất hiện và đề nghị đem khả nă ng để giúp cải tổ
guồng máy, quần chúng tẩy chay và ông phải rút lui. Người Đông Đức muốn được tự do
đi lại, muốn có Đức Mã, muốn những xe hơi Mercedes và BMW, và tất cả những tiện nghi
vật chất mà Tây Đức có, họ không muốn một cuộc cải cách hâm nó ng chế độ cộng sản .
Kế họach thống nhất hai nước Đức đang trên đà tiến mà không sức nào có thể cản nổi.

Ngày 3 tháng 10 năm 1990, Đông Đức không còn nữa, bị khóa chặt và chôn vùi
trong nước Cộng Hoà Liên Bang Đức. Nước Đức thống nhất có nhu cầu thanh toán những
món nợ với Markus Wolf. Khi đồng hồ gõ đúng 12 giờ đêm vào ngày đã mong đợi từ lâu,
ông Wolf biết rằng mình sẽ vào tù. Một cách bình tĩnh, ông bắt đầu quay điên thọai gọi
bạn bè trong cơ quan KGB để bàn tính kế họach xin tị nạn tai Moscow.

Không những chính quyền Tây Đức có những món nợ cần thanh toán với ông Wolf,
cả CIA cũng có nhiều ân oán với ông. Khoảng năm 1990, cơ quan tình báo của Hoa K ỳ bị
khủng hoảng trầ m trọng. Liên Bang Xô -viết, kẻ thù chính và cũng là lẽ sống còn của CIA,
đang trên tiến trình giải thể. Nhưng khoảng một chục điệp viên Xô -viết mà CIA kết nạp
và nuôi dưỡng với bao nhiêu khó khăn đã bị lộ tẩy và bị hành quyết, do sự phản bội của
một công dân Hoa Kỳ. Hành vi phản bội này được phát giác khi Aldrich Ames bị bắt 4
năm sau, năm 1994. Năm 1990, CIA chỉ biết là có một người đang bán những bí mật sâu
kín nhất của họ và đã gây thiệ t hại chí mạng. CIA lúc đó nghĩ rằng ông Wolf có thể giúp
họ tìm ra tên phản bội.

Ngày 22 tháng Năm, Gardner A. Hathaway, gần đây đã về hưu rời chức vụ phụ tá
giám đốc về phản gián, đến căn nhà bồi d ưỡng của ô ng Wolf, một căn nhà gỗ nhỏ nấp
dưới những cây thông ở ngọai ô Đông Bắc Bá-Linh, tay cầm một bó hoa và một hộp xô -
cô-la để tặng bà vợ Andrea của ông Wolf. Hathaway đưa ra một đề nghị rất đặc biệt: xin
giúp chúng tôi và chúng tôi đưa ông ra khỏi Đức để sang Hoa Kỳ trước khi họ đến bắt
ông vào tháng Mười .

Đưa tôi sang Hoa Kỳ trước đã và chúng ta sẽ nói chuyện tại đó, ông Wolf đáp lời
đề nghị, nhưng ông Hathaway nhấn mạnh: không có thỏa thuận hợp tác thì không có vé
máy bay. Ông Wolf nhìn nhận rằng lời mời rất là hấp dẫn mặc dù ông chỉ ước định những
gì CIA muốn ông giúp đỡ. CIA đã có một danh sách ghi vào vi phim của tất cả những
nhân viên của ông, ông biết chắc chắn như vậy, vì danh sách này đã được bí mật thu
thập do các tay chiêu hồi hoặc tham lợi thuộc thành phần viên chức HVA cung cấp (CIA
sau này xác nhận là họ có những thông tin này nhưng vào năm 1999 họ từ chối t rao lại
danh sách này cho chính quyền Đức khi chính quyền Đức chính thức yêu cầu). Nhưng có
lẽ CIA muốn biết thêm tin tức nằm ngoài danh sách này. Có lẽ họ cũng muốn học hỏi ông
Wolf về những phương thức hành động của Xô -viết với mục đích huy động nhân viên
phản gián tại Langley (trụ sở của t ình báo CIA tại Hoa Kỳ) để truy tìm những nhân viên
của Moscow.

Khi ông quyết định không tiết lộ những gì ông biết, ông Wolf đã gây bực tức cho
Washington, và vì chính quyền Bonn đuổi sát bên nách, ông không còn lựa chọn con
đường nào khác là tr ốn chạy nước Đức một lần nữa, giống như cha của ông trước đây.
Ông vẫn còn những bàn tay giúp đỡ cao cấp tại Moscow , những người bạn như Vladimir
A. Kryuchkov, một người bạn Nga đồng nghiệp đã trở thành thủ lãnh của KGB. Sá u ngày
trước ngày 3 tháng 10 , ông Wolf và bà Andrea, người vợ nhỏ hơn ông 13 tuổi, đào thoát
ra khỏi Đông Bá-Linh và trốn qua biên giới Áo, và một vài tuần sau tìm đường tẩu thoát –
dầu sao ông Wolf cũng biết khá rõ kỹ thuật này - sang Hungaria rồi sang Ukraine và đến
Nga.

Nhưng khung cảnh mà ông Wolf đã đ ược biết tại Nga nay đang thay đổi một cách
mau chóng. Đối với Gorbachev, chià khóa cửa ngõ tương lại của Nga không phải là cơ
quan KGB nữa mà là m ối giao hảo với nước Đức và vị T hủ tướng, ông Helmut Kohl. Ông
Wolf là biểu tượng của một quá khứ không đáng tin cậy, và khi bạn của ông Wolf,
Kryuchkov gia nhập cuộc đảo chánh bất thành nhằm hạ bệ Gorbachev tháng 8 năm
1991, ông Wolf biết rằng nước Nga sẽ không còn chấp chứa ông nữa. Một tháng sau, ông
trở về lại nước Đức.

Ông Wolf ra đầu thú tại b iên giới Áo và lập tức bị bắt, sau đó được tại ngọai hậu
tra nhờ sự can thiệp của bạn bè và các cộng tác v iên cũ tại Đông Bá-Linh. Ông rất ngạc
nhiên khi nghe Cộng Hoà Liên Bang Đức có ý định kết án ông về tội phản bội. Vì ông chỉ
huy một cơ quan gián điệp chống lại Cộng Hoà Liên Bang từ Bá-Linh và Bá-Linh bây giờ
đã trở thành trở lại thủ đô của nước Đức, các công tố viên không muốn kết án ông Wolf
với tư cách là một điệp viên ngọai quốc, như ng buộc tội ông là một tên phản quốc.
Trường hợp của ông có vẻ đen tối. Klaus Kinkel, một cấp lãnh đạo cũ của cơ quan tình
báo Liên Bang Đức, đương giữ chức vụ Bộ Trưởng Tư Pháp của Đức và do một sự ngẫu
nhiện kỳ lạ, ông cũng sinh đẻ ở Hechingen.

Toà án xét xử ông Wolf nằm tại Düsseldorf, cũng cùng một phòng ốc trong một
toà nhà kiên cố, nơi mà trước đây gần 20 năm Günter Guillaume đã bị kết án, khởi sự
vào mùa xuân 1993 và kết thúc vào tháng 12 với bản án kết tội và á n lệnh 6 năm tù ở .
Phải chờ cho đến giữa năm 1995, Toà Án Đức tương đương với Tối Cao Pháp Viện mới
gác lại bản án này và ghi nhận tính cách vô lý của nó. Toà án tối cao phán quyết Ông
Wolf không thể nào phạm tội phản bội kh i ông ta lãnh đạo cơ quan điệp báo của Đông
Đức, bởi vì Đông Đức là một nước có chủ quyền mà lúc đó chính Tây Đức trong gần 20
năm đã thừa nhận . Ngoài ra, chính bản thân ông Wolf không hề đặt chân lên đất Tây Đức
để làm công tác điệp báo. Ông không thể nào phạm tội phản bội không khác gì Yevgueny
Primakov lúc đó chuẩn bị lãnh đạo cơ quan KGB tại Moscow .
Các công tố viên lại tìm một lý cớ khác, kết tội ông Wolf lần nữa vào năm 1997
dựa trên những tội hình nhẹ hơn – họ kết tội ông Wolf đã ra lệnh bắt cóc và đàn áp nhân
dân từ b ên kia bên giới Đông Đức vào những thập niên 1950 và 1960, những tội trạng
này cũng phạm pháp chiếu theo luật pháp Đông Đức vào thời điểm đó. Tháng 5 năm
1997, l ần nữa tại Düsseldorf, ông Wolf bị kết tội với ba tộ i trạn g như vậy và bị kết án hai
năm tù treo thay vì một năm tù ở. Vì thiếu tiền để trả chi phí toà án mỗi lúc một nhiều,
ông Wolf đã quyết định lên tiếng ghi nhận thắng lợi về mặt tinh thần và tiếp tục kháng
án.

Nhưng chính quyền vẫn không buông tha ông. Tháng Giêng năm 1998, họ lại mở
phiên toà, yêu cầu ông Wolf làm chứng nhân trong vụ án của Gerhard Flämig, một luật
gia của Tây Đức bị cáo buộc làm gián điệp cho Đông Đức trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh.
Ông Wolf từ chối trả lời những câu hỏi then chốt và, nhờ gần đến ngày sinh nhật 75 tuổi
của ông, đã bị bỏ tù ba ngày vì tội phỉ báng toà án. Đứa cháu trai 7 tuổi của ông đã gởi
cho ông bức hình vẽ bánh sinh nhật, trong đó có dán một cái dùi mài, làm như thể ông
có thể dùng nó để cưa chấ n song để vượt ngục, nhưng các luật sư của ông Wolf đã kháng
án để bác bỏ tội phỉ báng. Ông Wolf lại đ ượ c tự do lần nữa, nhưng tự do của ông khiến
cho các kẻ thù cũ của ông tại Đức phải nghiến răng vì họ quyết tâm muốn ông phải tiết
lộ khai báo.

Hoa kỳ, hoặc vì những lý do riêng của họ hoặc vì lời yêu cầu của chính phủ Đức
(Klaus Kinkel trở thành Bộ Trưởng Ngọai Giao của Đức năm 1992), cũng chơi cái trò đó
với Ông Wolf. Mặc dù Do -thái, từ trước đến nay vẫn e ngại những tên khủng bố tiềm
tàng, đã tiếp đón Ông Wolf năm 1996, Hoa kỳ đã từ chối không cho ông bước chân vào.
Khi các nhà xuất bản của ông Wolf mời ông sang Hoa Kỳ để giúp hoàn tất ấn bản đầu
tiên của quyển sách này, chính phủ Hoa Kỳ đã dùng những tình nghi liên lạc với khủng bố
của ông để viện cớ không cho ông đặt chân lên lãnh thổ của Hoa Kỳ.

Bức thư Ông Wolf nhận ngày 12 tháng Ba năm 1996 của Tổng Lãnh Sụ Hoa Kỳ tại
Bá-Linh tố cáo về tội phạm mà ngay cả chính quyền Tây Đức cũng không dám kết t hành
tội :

Thưa ông Wolf,

Qua những trao đổi điện thọai ngày hôm qua , chúng tôi xác nhận Bộ Ngọai Giao
Hoa K từ chối không cho ông vào Hoa Kỳ quy chiếu đoạn 212(a), chương 3(B) về Luật

Di Trú và Quốc Tịch của Hoa kỳ.

Theo chương 3(b), các ngọai kiều đã tham dự vào những hành vi khủng bố bị
khước từ không được vào Hoa Kỳ. Chương 3(b) liệt kê những loại hành vi khủng bố, trong
đó có việc chuẩn bị và bàn định kế họach hành động khủng bố cũng như cung cấp những
vật liệu hỗ trợ cho những cá nhân thực hiện hay hoạch định những hành vi khủng bố.

Bộ An Ninh Quốc Gia của GDR (Cộng Hoà Dân Chủ Đức) tích cực khuyến khích và
cổ võ khủng bố quốc tế và khủng bố do quốc gia hỗ trợ. Với chức vụ Thứ Trưởng Bộ An
Ninh Quốc Gia của GDR và là cựu thủ lãnh của điệp báo hải ngọai thuộc Bộ An Ninh Quốc
Gia của GDR, ông nắm giữ một vị thế quyết định và tham gia trong việc ấn định chính
sách và những đối tượng của Bộ này. Vì vậy ông có trách nhiệm trong những hành vi
phát xuất từ chính sách đó.

Dựa trên căn bản này chúng tôi thẩm định ông đã tham dự trong những hành vi
khủng bố.

Vào thời điểm này, Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ nghĩ không thuận lợi cho yêu cầu Sở Di
Trú và Quốc Tịch cấp cho ông giấy phép đặc biệt để ông vào đất Hoa Kỳ.

Nay kính,
Glen C. Keiser
Lãnh Sự Hoa Kỳ

Trong một lá thư b ằng tiếng Anh khống mấy l ưu loát của ông, Ông Wolf một tuần lễ sau
đã yêu cầu Clinton can thiệp.

“Thưa Tổng Thống,


Tin tưởng nơi cá nhân Tổng Thống cũng như những lo ngại của tôi về những thủ tục
hành chánh thư lại đã khiên tôi phải viết thư đích danh đến ông để xin ông phê chuẩn
cho đơn xin nhập cảnh của tôi vào Hoa Kỳ.

Viếng thăm quốc gia của ông có một tầm quan trọng vượt lên trên những lý do viện
dẫn của Bộ Ngọai Giao để từ ch ối đơn xin nhập cảnh của tôi. Tô i có ý định gặp tại New
York (Nữu Ước) nhà xuất bản của tôi để hoàn tất ấn bản dứt khoát của bản biên tập tay
của quyển sách của tôi. Những lý do từ chối cấp hộ chiếu cho tôi có những hàm ý mà tôi
nghĩ là mâu thuẫn, không thế chấp nhận được. Lẽ cố nhiên, có những lý lẽ nhằm đánh
giá và duyệt xét quãng đường đời của tôi, những nẻo đường được đề cập đến trong
quyển sách sẽ do Random House xuất bản. Tôi phải trả lời những câu hỏi li ên quan đến
câu chuyện, kể cả những câu hỏi gây đau đớn cho bản thân tôi.

Những quốc gia Âu Châu tự nhận mình xã hội chủ nghĩa, trong số này có Đông Đức, đã
thất bại và họ tự hào đã phụ c vụ cho một ảo vọng của nhân loại. Vào cuối cuộc đời của
tôi, tôi tự hỏi trong quyển sách sắp xuất bản đây, bắt đầu từ lúc nào và khởi sự từ đâu
chúng tôi đã sai lầm, bắt đầu từ thời điểm nào chúng tôi thấy những sai lầm nhưng đã
qua muộn và do đâu chúng tôi thành thủ phạm. Có rất nhiều câu hỏi được đặt ra. Vì vậy
tôi cũng không muốn mang gánh nặng bị gắn ép phạm tội. Lời tuyên bố trong quyết định
của Bộ Ngoại Giao cho rằng tôi dính líu đến những họat động khủng bố không có căn cơ
và không đúng sự thật. Ông có thể thấy điều này trong thơ kháng án đính kèm của tôi.

Có nhiều nét trong cuộc đời và trong đường lối chính trị của ông mang tính chất phá lệ
không khô cứng trong khuôn mẫu đã làm cho tôi thán phục như tôi đã thán phục Tổng
Thống John F. Kennedy và khuyến khích tôi bước một bước bất thường này. Đối với ông,
gánh nặng của những hàm ý vô căn cứ và võ đoán cũng không xa lạ gì. Tin tưởng vào
tinh thần công chính của ông, với lời cầu chúc tốt lành nhất cho ông, tôi luôn thành kính
nơi ông.”

Cho dù lá thư của Ông Wolf có giọng nịnh bợ họăc là một lối khiêu khích mỉa mai
– tổng thống Clinton đã có phán ứng gì đi nữa nếu ông có đọc qua – lá thư này chẳng
giúp ông Wolf đi đến đâu cả. Một năm sau, khi quyển sách xuất bản, phát ngôn nhân Bộ
Ngoại Giao Nicholas Burns nói ông Wolf vẫn không đuợc vào nước Mỹ. “ Chúng tôi nghĩ
rằng không thể cấp hộ chiếu cho một người đã ra công sức suốt cuộc đời mình chống lại
một nước Đức tự do , nước Tây Đức, chống lại nhân dân Đức, và một người có tinh thần
bài Mỹ và âm mưu lật đổ chính quyền của chúng tôi và đỡ đầu những họat động khủng
bố đánh vào chúng tôi ; tại sao chúng tôi phải cấp chiếu khán cho đương sự? Vì vậy
đương sự không vào đựoc đất Hoa Kỳ. Đương sự có thể viết những quyển sách bán chạy
nhất, nhưng đương sự không thể nào an hưởng cuộc đời trên đất nước Hoa Kỳ cho đến
mãn đời của đương sự, chúng t ôi chẳng liên ca n gì nữa”, ông Burns tuyên bố trong một
cuộc họp báo của Bộ Ngoại Giao.

Khi được hỏi tại sao ông Wolf bị khước từ ở mọi địa điểm vào, trong khi đó những
người như Bộ Trưởng Ngọai giao Primakov và lãnh tụ Palestin Yasser Arafat bây giờ đượ c
tiếp đón, ông Burn s trả lời “ Chúng tôi có mối liên hệ tốt với Yevgeny Primakov. Ông là Bộ
Trưởng Ngọai giao của một trong những nước bạn, một nước thân thiện với Hoa Kỳ .
Markus Wolf là một người Cộng Sản không biết cảnh tỉnh, vẫn chủ trương khủng bố trên
quy mô quốc gia chống lại Hoa kỳ. Đó là một sự khác biệt đáng kể”.

Cũng có một sự khác biệt khá lớn giữa việc kết tội chủ trương khủng bố và sự thật
tại sao chính quyền Hoa Kỳ không muốn cho Markus Wolf nhập cảnh Hoa Kỳ. Các vi ên
ch ức cao cấp Hoa Kỳ sau này thú nhận CIA tì nh nghi ông Wolf vẫn chưa nói hết những gì
ông bi t. Mãi mấy năm sau khi Liên Bang Xô-viết tan rã , cơ quan CIA mới hồi phục lại
ế
sau những tổn thất mà các tên phản bội làm việc cho KGB đã gây nên. CIA nghi ngờ ông
Wolf hoặc những đồng nghiệp cũ của Ông Wolf biết rõ những tên nội tuyến hiện vận còn
họat động. Họ muốn biết tên tuổi của những tên đó. Đầu năm 1998, đầu não của cơ
quan phản gián Đức, ông Volker Foertsch, bị điều tra vì tinh nghi ông họat động gián điệp
cho Nga. Cuộc điều tra không có kết quả vì thiếu bằng chứng.
Nếu chính quyền Hoa Kỳ mong đợi ông Wolf ra tay giúp họ, họ sẽ sớm thất vọng.
Tình báo thời Chiến Tranh Lạnh rất phức tạp và là một trò chơi tốn kém vô cùng, nó có
những lô -gích và những luật chơi của chính nó. Ngu yên tắc căn bản là khôn g để bị qua
mặt. Nhưng một khi bị qua mặt và lỡ rơi vào tay địch thủ, quý vị không nên bao giờ tiết
lộ những gì đối thủ đã biết rõ. Cả hai bên đã áp dụng luật chơi này trong thời Chiến
Tranh Lạnh và lặng lẽ duy trì hệ thống trao đổi điệp viên để tưởng thưở ng những ai biết
kín miệng. Mặc dù sống trong sự điêu tàn của một thất bại chính trí l ớn hơn, ông Wolf
vẫn tỏ ra hãnh diện một cách ngoan cố về những thành tích nghề nghiệp của ông. Ông
sẽ không bán danh dự để có một chuyến đi sang Hoa Kỳ. Vì vậy Yevgeny P rimakov, bây
giờ là Thủ Tướng của Nga, lúc nào cũng được tiếp đón niềm nở, và ông Wolf sẽ luôn mãi
là một người bất hảo (persona non grata).

Vì nhiều lý do, đây không phải là một quyển sách “thành thật khai báo ”. Ông Wolf
vẫn tiếp tục là một nhân vật gây n ên nhiều tranh cãi, một phần vì ông cố bày tỏ cuộc đời
của ông không phải là một thất bại đáng ghê tởm, trong khi đó các kẻ thù trước đây của
ông cho rằng đúng là như vậy. Những điều không nói ra trong sách sẽ làm thất vọ ng
những độc giả mong muốn tìm thấy lời khai thú trong đó, nhưng những lời khai thú trong
nghề điệp báo thường là táng mạng, và ông Wolf là một con người cũng muốn thụ hưởng
cuộc đời. Đọc ông Wolf để có một thoáng nhìn khâm phục, chỉ một thoáng thôi, để đi sâu
vào tâm não đầy sức thu hút của một trong những bầc thầy điệp báo lớn của thời đại
chúng ta, một người mang nặng ấn dấu của cuộc Hỏa Diệt Do Thái do quốc xã Đức phát
động và sau đó là của cuộc phân tranh ý thức hệ thời Chiến Tranh Lạnh, một người đứng
bên kia trận tuyến đối đầu với phần đông độc giả. Có lẽ ông có quyền đem một ít bí mật
theo ông xuống mồ.
Erich Honecker
Bộ chính trị Tổng Bí Thư
Đảng Trung Ương Đảng
Chủ Nghĩa Xã Hội Chủ tịch Hội Đồng Nhà Nước Nhà Nước
Thống nhất Lãnh tụ Đảng và Nhà Nước

Hermann Ãxen Günther Mittag Erich Mielke, Egon Krenz Heinz Kessler Erich Mückenberger
Bí Thư Bộ Chính Trị, Bộ Chính Trị Bộ Chính Trị Bộ Chính trị Bộ Chính Trị Bộ Chính Trị
Tỉnh Ủy Phụ trach Vấn đề Phụ trách vấn đề Bộ Trưởng Công An Phụ Trách về Bộ Trưởng Quốc
Quốc Tế Kinh tế An ninh Phòng

Liên Lạc Quốc Tế Bộ Ngoại Giao Alexznder Tổng Cục Trung Ương về Ủy Ban
Tổng Cục Ủy Ban Schalk-Golodkowski, Vấn Đề An Ninh Giám Sát Đảng
KoKo (Ủy Ban
Trung Uong Phối HợpMậu Dich)

Những Công Ty
đa dạng

Bộ Công An
Các Ngành Địa (Hành Chánh Trung
phương của Bộ Ương)
Công An
Chương 1
Cuộc Đấu Giá

Vào mùa hè năm 1990, hai nước Đức chuẩn bị thống nhất sau bốn mươi n ăm chia
cách và gây hấn khởi sự từ lúc trật tự hậu chiến do Đồng Minh chiến thắng đặt để vào
năm 1945 và được duy trì do sự xung đột tiếp nối của các cường quốc. Công trình đời tôi,
cống hiến cho lý tưởng xã hội chủ ng hiã, đang sụp đổ trước mắt tôi. Đất nước của tôi,
nước Đông Đức, đã thất bại không đáp ứng được với danh xưng Cộng Hoà Dân Chủ Đức,
đang phải chấp nhận một cuộc hôn nhân cưỡng ép với anh khổng lồ kinh tế Châu Âu,
nước Tây Đức. Tiến trình hình thành một nước Đức độc lập đang trên đường hoàn tất, và
dù tôi không rõ một nước Đức t hống nhất có ý nghĩa gì đối với Châu Âu, tôi biết chắc một
điều : Tôi sẽ bị truy lùng.

Ngày thống nhất được ấn định vào ngày 3 tháng 10 năm 1990. Đi đến đâu tôi
cũng thấy đất nước của tôi và hệ t hống đã gầy dựng nên nó đang trở thành vật phế thải.
Những kẻ tìm kiếm kỷ vật nhộn nhịp mua bán huy chương và đồng phục, những gì đã
từng tạo nên niềm hãnh diện cho những ai khoác mặc tại Đông Đức. Nhưng tâm hồn tôi
lúc đó không hề vui hoặc có một nỗi buồn man mác nào cả.

Mặc dù chúng tôi đều là người Đức , có cùng một ngôn ngữ và một nền văn hóa
sâu sắc hơn cả những chia cắt của hàng rào kẽm gai thời hậu chiến tại Châu Âu, tinh
thần của chúng tôi thuộc một loại tranh chấp đặc biệt. Đây không những là một cuộc
chiến huynh đệ tương tàn, giữa người Đức với người Đức. Đây là một cuộc đối đầu giữa
nước Đức tư bản với nước Đức cộng sản, nằm trong bối cảnh toàn diện nhằm thanh toán
những di sản của Mác và Lê-nin và những bất công thực hiện nhân danh chủ nghĩa xã
hội. Đất nước tôi là môt minh chứng hùng hồn nhất về sự chia rẽ giữa hai bên ý thức hệ
sau Đệ Nhị Thế Chiến. Sự chia cắt này chấm dứt với một tốc độ mà không một ai ngờ
trước được, cả Đông lẫn Tây.

Tôi vẫn luôn xác nhận công tác điều khiển cơ quan điệp báo mang một trách
nhiệm đặc biệt trong cuộc Chiến Tranh Lạnh. Trong một bài hát tôi giúp soạn tháo từ
khuôn mẫu Xô Vi ết để huy động tinh thần các tân binh, tôi đặt công tác của họ nằm
trong «Chiến Tuyến Vô Hình ». Đây không phải là một lối nói cường điệu. Trong vòng 40
năm sau khi Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt, chúng tôi luôn tự đặt mình vào vị thế chiến
đấu chống lại các thế lực của tư bản chủ nghĩa đang bủa vây chúng tôi.

Trung tâm điểm của công tác chúng tôi là Bá Linh, nơi phân chia giữa hai hệ thống
ý hệ nằm trong trạng thái đông đặc. Các chiến lược gia và các chính trị gia ở cả hai bên
đều nghĩ nếu có xảy ra chiến tranh thứ ba, có lẽ Bá Linh là điểm phát xuất. Nhưng tiếp
theo sự sụp đổ của Bức Tường Bá Linh tháng 11 năm 1989 và cánh cửa Đông Đức mở
toang ra thế giới, nước Cộng Hoà Dân Chủ Đức mau chóng tan biến và không còn là một
quốc gia nữa. Thực sự, tôi không thể nào mường tượng được công trình của đời tôi lại có
thể chôn vùi trong sự sụp đổ toàn diện của nước Đông Đức tôi đã từng phục vụ. Bốn năm
trước khi Bức Tường sụp đổ, vì cảm thấy ngột ngạt trong những cơ cấu hành chánh sơ
cứng quanh tôi, tôi về hưu và rút lui khỏi cơ quan để bắt đầu cầm viết ; dưới sự lãnh đạo
trì trệ của một Erich Honecker đau yếu, tôi không thấy một triển vọng thay đổi nào phát
xuất từ bên trong. Nhưng chính tôi cũng bị hoàn toàn bất ngờ vì tốc độ suy sụp của quốc
gia này. Đối với rất nhiều người, màn kế t khi đến không vui chút nào cả; có người kể cho
tôi nghe nỗi nhục nhã của họ.

Các nhân viên thuộc Cơ Quan Công An Đông Đức, một trong những cột trụ chính
của nước Cộng Hoà Dân Chủ Đức, đã bị kết tội bởi giới truyền thô ng, giới chính trị và tòa
án, họ trở thành Kẻ Thù Công C ộng Số Một. Đây là một diễn biến không thể tránh khỏi , ở
vào chừng mực nào đó, đây là một diễn tiến đau đớn mà những nguời công dân của một
chế độ sụp đổ phải gánh chịu và đương đầu với thực tế của quá khứ.

Ngày 15 tháng Giêng 1990, đám đông giận dữ tràn vào tổng tham mưu của Bộ Công An
Nhà Nước trên con đường Normannestrasse và tìm thấy một kho hồ sơ to lớn mà bộ đã
lưu trữ dùng để rình rập các công dân mình. Tôi như đang sống trong một cái bẫ y nghiệt
ngã đang xiết chặt lại. Tâm thần tôi lúc đó chỉ nghĩ đ ến rút lui và từ chức. Tôi biết tất cả
mọi hy vọng cải tổ nhà nước xã hội chủ nghĩa bây giờ đã tan tành (có một vài người nghĩ
rằng những năm tôi về hưu là để trở thành một nhà cải cách tương lai theo kiểu Mikhail
Gorbachev). Tôi cần một lối thoát tạm thời ra khỏi quốc gia nóng bỏng này.

Tôi hướng về Moscow , thành phố của thời niên thiếu của tôi, nơi đã cho gia đình
tôi trú ẩn tránh nạn Hitler và nơi tôi luôn ghi đậm tâm tình . Trái ngược với suy luận bình
thường, cuộc trốn chạy của tôi không có một kế hoạch r õ rệt nào cả. Tôi đang viết hồi ký
về những biến cố năm 1989 và tôi cần thời gian và không gian để hoàn tất nó trong lặng
lẽ. Nhưng tôi biết việc thống nhất có nghĩa là tôi sẽ bị giam cầm ; đã có trát lệnh bắt tôi
tại Tây Đức ngay trước ngày sụp đổ, tố cáo tôi về tội gián điệp và phản bội. Những con
cá mập đang bủa vây.

Cô em gái dị bào Lena Simonova cho tôi trú ngụ tại dacha và căn phò ng nằm
trong căn phố nổi tiếng Nhà trên Bờ Đổ Bộ, nhà của các thành phần uư đãi thuộc giới ưu
tú của Moscow kể từ những thập niên 1930. Mỗi lần tôi bước qua ngưỡng cửa đầy trang
trí của căn phố này, tôi không thể nào quên được hùng khí bừng lên trong lòng của thanh
niên Cộng Sản tại Moscow, nơi chúng tôi nương thân với cha mẹ chúng tôi để trốn chạy
Đệ Tam Đức Quốc (của Hitler). Bây giờ, nhìn xuống con Sông Moscow đông đặc vào
tháng Hai, tôi cảm thấy an toàn trở lại. Gió mùa đông giá buốt kích thích đầu óc suy
nghĩ. Tôi rảo bước thật lâu qua nh đường phố chật hẹp của khu Arbat cũ, suy gẫm về cuộc
đời mình và những thăng trầm đã đưa đẩy tôi, một người sanh đẻ ở miền Nam nước Đức,
đến Moscow vào tuổi thiếu niên, đến nước Đức chia cắt vào tuổi trung niên , và bây giờ
trở lại Moscow lúc tuổi hưu dư ỡng.

Mục đích khác của chuyến đi sang Moscow này của tôi nhằm xem những đồng
minh cũ trong KGB và điện Cẩm -linh có thể giúp đỡ tôi và các đồng nghiệp của tôi trong
cộng đồng điệp báo đến chừng mực nào, nay quốc gia của chúng tôi đã thực sự tan vỡ.
Chẳng có đồng chí anh em Moscow nào vồn vã hỗ tr ợ chúng tôi trong suốt mấy tháng
căng thẳng vừa qua. Giống như chúng tôi, họ cũng hoàn toàn bị bất ngờ khi biến cố xẩy
đến. Tình anh em muôn thuở vẫn thường được tán tụng năm này sang năm nọ nay trở
thành một mớ giẻ rách. Nơi trước đây các đường giây điện thọai ưu tiên vẫn suốt ngày
reo giữ a Moscow và Đông Bá Linh theo những cấp độ khác nhau giữa hai đồng minh, nay
chẳng còn trao đổi gì nữa. Thư từ không ai đáp lại. Im lặn g phủ kín.

Hộp thư tôi tràn ngập thư từ của các cựu sĩ quan trong cơ quan, cơ quan HVA
(Hauptverwaltung Aufklärung, « Tổng Cục Tình báo Trung Ương » - cơ quan điệp báo hải
ngọai), họ than phiền bị bỏ rơi và đơn độc gánh chịu cơn thịnh nộ của đồng hương, nay
tất cả những thái quá của Bộ Công An Nhà Nước đã được phơi bày. Quần chúng phẫn nộ
khi họ khám phá tầm kiểm soát rộng lớn của hệ thống công an trên khắp lãnh thổ. Mặc
dù công tác củ a tôi trong cơ quan HVA không bao giờ nhắm vào 17 triệu dân tại Đông
Đức mà mục tiêu chỉ nhắm tìm hiểu ý đồ của các quốc gia khác đối với khối Đông Âu, tôi
biết chẳng có mấy ai có chút tinh tế để phân biệt các ngành trong cơ quan Stasi (tên tắt
quần chúng thường đặc biệt dùng cho Ministerium für Staatssicherheit, mà cơ sở chúng
tôi cũng trực thuộc ; một danh từ không một nhân vi ên nào trong ngành sử dụng và chính
tôi cũng tránh dùng)*. Tôi muốn biết bây giờ chúng tôi còn trông nhờ được gì với tư cách
nhân viên của một cơ quan trước đây đã từng là cơ quan điệp báo giỏi nhất khối Xô Viết.

Khi tôi đến, tôi được tiếp đón như thường lệ ở ngọai ô phía Tây Nam Moscow tại
toà nhà lớn ở Yasenovo, trụ sở của Đại Tổng Cục KGB, trung tâm điều nghiên công tác
điệp báo q uốc tế. Giám Đốc điệp báo hải ngọai Leonid Shebarshin và ban điều hành chào
đón tôi thật là niềm nở. Chúng tôi biết nhau từ chục năm nay. Họ đem Vodka và ân cần
thăm hỏi về điều kiện sinh sống của tôi tại Moscow. Nhưng rồi sau đó cơ quan KGB xem
ra không còn khả năng giúp đỡ chúng tôi đuợc nữa, vì họ ở thế kẹt trong cuộc tranh
giành quyền lực, bùng nổ vào giai đọan cuối bấp bênh khi Gorbachev cầm quyền.

Vì trường hợp của tôi và số phận các sĩ quan, nhân viên và điệp viên trong ngành
điệp báo của Đông Đức quá sức tế nhị về mặt chính trị nên Tổng t hống Gorbachev đích
thân giám định. Tôi biết những mối liên hệ của tôi với điện Cẩm-linh đều qua trung gian
của Valentin Falin, một Ủy Viên Trung Ương có uy tín và cố vấn ngọai giao cho
Gorbachev, một người tôi hiể u rõ qua những nỗ lực quan trọng trong việc thắt chặt liên
hệ Xô Viết và Đức. Việc can thiệp của Falin, một người được Tây Đức biết tiếng và kính
trọng, báo cho tôi biết tôi là một mối phiền toái chính trị tiềm tàng. Ông được giao nhiệm
vụ không mấy gì là đẹp giúp đỡ tôi nhưng không được quá lộ liều để làm phiền phía Tây.

Đây không phải lần đầu trong cuộc đời của tôi, tôi nằm trong vị thế phải trông nhờ
Bà Mẹ Nga cứu vớt tôi. Nhưng trái với những lời đồn đãi, tôi chẳng có liên hệ chính thức
nào với thượng tần lãnh đạo Moscow khi tôi rời cơ quan điệp báo hải ngọai năm 1986.
Giám đốc KGB tại Bá Linh, trước đó là Wassily T. Shumilov và sau đó là Gennadi W.Titov,
cả hai đều liên lạc mật thiêt với Erich Mielke, Bộ trưởng Bộ Công A n nhà nước, và tránh
tiếp xúc với tôi. Có một vài người đồn đãi tôi cùng với ông Cộng Sản cải cách Hans
Modrow đang chuẩn bị đảo chánh Honecker. Nhưng mặc dù tôi đã cảnh báo Falin và các
đồng nghiệp khác tại Moscow chế độ Đông Bá Linh đang trên đà tan vỡ, tôi không hề yêu
cầu hoặc nhận trợ giúp để áp lực lên cơ cấu lãnh đạo sau khi Honecker bị hạ bệ nhằm
thúc đẩy một cuộc đảo chánh lật đổ ông ta ngay trong nội bộ Bộ Chính Trị.

Thực tế mà nói, tôi có thể đoan quyết lý do khiến cấp lãnh đạo Nga tránh liên lạc
v i tôi sau khi tôi về hưu nằm ngoài lý do trung tín và phép xã giáo. Trong thời gian ở

Moscow, Falin và Sherbashin bàn luận rất cởi mở về những ưu tư của tôi đối với Đông
Đức, nhưng họ bị lôi cuốn vào các vấn đề của perestroika. Sau khi Bức Tường sụp, các
biến cố dồn dập với một tốc độ hầu như không một ai bắt kịp. Có lẽ đã quá trễ khi tôi
viết một lá thư cho Gorbachev vào ngày 22 tháng 10 năm 1990 và trình bày như sau :

Chúng tôi là bạn của quý vị. C húng tôi đeo trên ngực rất nhiều huy chương của
quý quốc. Chúng tôi được tiếng đã đóng góp rất lớn cho an ninh của quý vị. Bây giờ, tôi
thiết nghĩ quý vị sẽ không từ chối giúp đỡ chúng tôi.

Bức thư tiếp tục yêu cầu lãnh tụ Xô Viết có thể nào xin ân xá cho tất cả những
điệp viên Đông Đức và lồng điều kiện này vào thỏa hiệp thống nhất nước Đức. Một bức
thư hồi âm của Vlad imir Kryuchkov, giám đốc KGB, nó i rằng Gorbachev đã phái Đại Sứ
đến Bonn để bàn thảo lời yêu cầu của tôi với Thủ T ướng Helmut Kohl. Thực ra ông Đại Sứ
được ông Horst Teltschick, Đổng lý Văn Phòng của ông Kohl, tiếp chuyện. Họ bàn thảo về
việc ân xá trong suốt mùa hè năm 1990 trước ngày Đồng Minh bàn đến việc thống nhất
nhưng họ không đạt đến một thỏa thuận nào cả. Kry uchkov nghĩ rằng Gorbachev sẽ khơi
động vấn đề này lại nhân cuộc họp thượng đỉnh tại Arys, miền Caucasus, để hoàn tất
những chi tiết trong việc thống nhất. Lời hồi đáp không cỏ vẻ gì khả quan. Lần đầu tiên,
tôi bắt đầu nghi ngờ về lò ng thành của Gorbachev. Có thể nào ông giao chúng tôi một
cách vô điều kiện cho chính quyền Tây Đức, kẻ thù trước đây của chúng tôi ?

Nhưng khi thỏa thuận việc thống nhất với Thủ Tướng Kohl tại Caucasus từ ngày 14
đến 16 tháng 7 năm 1990, Gorbachev hoàn toàn bỏ rơi chúng tôi. Vào những ngày cuối
của cuộc đàm phán , ông từ chối đưa ra bàn thảo lời yêu cầu miễn tố của chúng tôi. Lúc
bấy giờ mối quan tâm bức thiết của ông là trưng bày một hình ảnh đèp đẽ đối với Tây Âu
và gọn ghẽ quên đi trước đây ông c ũng là một ngườ i Cộng Sản. Chính quyền Tây Đức sẵn
sàng bàn thảo vấn đề miễn tố cho những ai đã phục vụ cho Đông Đức, nhưng khi vấn đề
được đề cập nhanh chóng tại cuộc hội thảo, Gorbachev khoác tay và nói với Kohl là người
Đức nên tìm cách khôn khéo giải quyết vấn đề với nhau. Đây là lần phản bội tột cùng của
Xô Viết đối với những người bạn Đông Đức, những người đã từng làm việc hơn 40 năm
nay để cung cố sức mạnh của Liên Bang Xô Viết tại châu Âu.

Trong khi các nhà đầu tư mua bán mặc cả các cơ sở kỹ nghệ và cơ quan của
Đông Đức, một cuộc đấu giá tuyệt mật khác khởi sự. Đó là cuộc đấu giá trên cá nhân tôi
họăc chính xác hơn trên những hiểu biết tình báo và họat độ ng của tôi. Và giá treo đắt
hơn hết mọi thứ : tự do của tôi.

Cuộc đấu giá bắt đầu từ một phía hoàn toàn bất ngờ, các địch thủ trước đây tại
Tây Đức, cơ quan BfV (Bundesamt für Verfassungsschutz) Văn Phòng Liên Bang Bảo Vệ
Hiến Pháp, môt tổ chức tôi đã cài đặt các điệp viên và gián điệp nhị trùng xâm nhập vào
ngõ ngách thâm sâu của n ó từ hàng chục năm nay.

Tháng 3 năm 1990, cuộc bầu cử đầu tiên sau năm 1945 diễn ra tại Đông Đức đưa
Đảng Dân Chủ Thiên Chúa lên cầm quyền, đuợc hỗ trợ mạnh mẽ bởi liên minh lãnh đạo
của Thủ Tướng Kohl tại Bonn. Đây là một chính phủ biết chăm lo; công tá c chính là nâng
cao Đông Đức theo kịp đà thống nhất và đồng thời giảm thiểu những nội lọan . Ông Bộ
Trưởng Nội Vụ là một người ăn mặc gọn ghẽ, một anh chàng có vẻ năng động tên Peter -
Michael Diestel, xuất hiện từ một trong những đảng bảo thủ thành lập tại Đông Đức vào
những ngày đầu Đông Đúc sụp đổ.

Lúc này, Erich Mielke, từng là Bộ Trưởng Bộ Công An của nước Cộng Hoà Dân Chủ
Đ ức và là cấp trên trực tiếp của tôi trước khi tôi về hưu, đã bị bắt và áp lực trên các nhân
viên và sĩ quan cũ trong cơ quan của ch úng tôi buộc họ phải tiết lộ những bí mật mỗi
ngày một gia tăng. Phản bội lan tràn và có những cuộc mặc cả giữa các nhân viên kỳ cựu
và chính quyền Tây Đức. Cuộc thương lượng thường xoay quanh vấn đề miễn truy tố đổi
lấy những bí mật của Đông Đức. Các sĩ quan tình báo lo sợ họ phải nằm tù vào những
ngày đầu của nước Đức thống nhất. Mỗi ngày t ôi nhận điện thọai của các nhân viên tuyệt
vọng yêu cầu tôi can thiệp. Tôi được biết hai nhân viên cao cấp trong Bộ đã tự vẫn. Bern,
thằng con rể của tôi, chỉ huy một ban trong cơ quan HVA đặc trách về điệp báo nhắm
vào cơ quan phản gián của Tây Đức, gần đây cũng được đề nghĩ miến tố và hưởng nửa
triệu Đức Mã đổi lấy những hiểu biết về họat động điệp báo và những mục tiêu trư ớc đây
của đương sự.

Đương sự bác bỏ lời đề nghị nhưng, vì tuyệt vọng bởi sự nghiệp đổ vỡ thình lình
và sụp đổ của một hệ thống mà đ ương sự đã từng tin tưởng với hết tâm can, rơi vào
khủng hoảng tinh thần và đã định tự sát. Giống như trường hợp của hàng chục người
khác cuộc đời dù đúng hay sai đã dính liền với hệ thống đổ nát này, đương sự cảm thấy
hết thời và vô dụng. Họ không đư ợc một trợ giúp tâm lý nào cả; tinh thần tự trọng và
lòng tin vào chủ nghĩa của họ qua một đêm sụp đổ cùng với Bức Tường Bá Linh.

Vào lúc này, Diestel gọi cho tôi tại dacha ở Prenden, gần Bá Linh, và mời tôi đến
gặp tại tư gia ông ta. Ngay từ lúc gặp gỡ đầu tiên tôi rõ biết ông ta làm việc theo lệnh
của Bộ Trưởng Nội Vụ Tây Đức, ông Wolfgang Schäuble. Nhưng khá c với các chính trị gia
mới, ông ta không lấy gì làm vui thú nhìn sự bất hạnh của tôi. Trái lại, anh ta mong
muốn tạo nên một bầu không khí thân thiện giữa hai chúng tôi. Mặc dù có những khác
biệt rất lớn trong chính trường Đông Đức (và tôi chắc chắn bất đồng với lập trư ờng cực kỳ
Bảo Thủ của ông Diestel) cùng chung một quá khứ giúp chúng tôi có được một chút tâm
cảm.

« Chúng ta cùng nhau dùng một bữa ăn tối và bàn thảo về những tiến triển tới,
nhé ? » ông ta hỏi một cách nhẹ nhàng. Ông nói người phụ tá sẽ thu xếp mọi v iệc.
Một vài ngày sau, một chiếc xe BMW xanh lơ đến rước tôi, lọai phuơng tiện di
chuyển mới của những kẻ có thế lực, thay thế cho những chiếc Citroën và Volvos trước
đây vẫn được các lãnh tụ Cộng Sản ưa chuộng. Tôi có ý định vặn hỏi ai trong cấ p lãnh
đạo trước đây được tài xế đưa rước cách đây vài tháng, nhưng tôi tế nhị không nói.

Tôi cảm thấy thú vị khi nhận ra những người hầu bữa ăn tối đều làm việc cho Bộ
Công An trước đây. Diest el nói : « Những gì tôi đề nghị với ông bây giờ là tuyệt mật ».
Ông giải thích chính quyền Tây Đức rất khổ sở trong cố gắng mổ x ẻ tìm hiểu những họat
động tình báo rộng lớn và tinh vi của Đông Đức, điều nghiên những tài liệu do hệ thống
cộng sản để rơi lại trong lúc sụp đổ không kèn không trống . Người kế vị tôi khi tôi rời bỏ
nhiệm sở năm 1986 ông Werner Grossmann và môt sĩ quan cao cấp khác, ông Bernd
Fisher, đã được lệnh hướng dẫn các viên chức Tây Đức trong sồ lượng khổng lồ tài liệu
nhưng họ không theo dõi kịp danh sách những nhân viên điệp báo và điệp viên, và không
có mộ t bảng tổng kết tương đối rõ rệt về những hiểu biết của họ. Ông Bộ Trưởng Nội Vụ
Schäuble rất nôn nóng, đoan chắc các nhân viên điều tra của ông đã thất bại trong việc
tìm hiểu toàn bộ công trình của chúng tôi.

« Ai là người có thể giải thích rõ cho họ ngoài tác giả đã xây dựng tất cả nền
móng này và điều khiển cho nó chạy như một cây kim đồng hồ? » Diestel thúc gịuc tôi
đồng thời châm nước vào ly của tôi. Ông không chỉ đơn thuần xin tôi một ơn huệ. Lẽ cố
nhiên là sẽ có phần thưởng : đuợc miễn truy tố về tội phản bội nhà nước Tây Đức. « Lên
xe của tôi », ông nói, « và đế n văn phòng của Boeden với tôi [ Gerhard Boeden lúc đó là
giám đốc cơ quan phản gián của Tây Đức, cơ quan BfV ]. Nói cho chúng tôi biết khoảng
10 hay 12 tên điệp viên cao cấp tại Tây Đức và giúp đỡ chúng tôi nhận diện những tai hại
mà phía các ông đã làm, và chúng tôi sẽ dàn xếp để ông không bị truy tố».

Boeden, ông ta nói tiếp, sẵn sàng bảo đảm cho tôi được tự do không có chuyện
bẳt bớ nếu tôi chấp nhận khai báo cho đương sự. Cuộc thảo luậ n đã được cẩn thận dàn
xếp từ trước, Boeden sẽ nhẫn nại chờ đón tôi cách đó vài dặm để xác minh cho lời mời
của Diestel. Chúng tôi cũng đề cập đến việc tôi cộng tác với cơ quan truy lùng khủng bố
của Tây Đức với những hiểu biết sâu rộng của tôi.

Bây giờ đến lượt tôi thương thuyết. Tôi nói tôi chân thành cảm tạ đề nghị miễn tố
nhưng tôi cũng có trách nhiệm với những thượng cấp và nhân viên của tôi trước đây.

Một đỗi sau Diestel cảm thấy chán ngán với cuộc dằng co này. « Ông Wolf » ông
nói, « Tôi thiết nghĩ ông biết rõ tất cả chúng ta sẽ vào tù không vì lý do này cũng vì lý do
khác. Vấn đề duy nhất là miếng ăn và điều kiện sẽ ra sao khi chúng ta vào trong đó».

Ông có ý ám chỉ những ai như chúng tôi đã từng phục vụ cho Đô ng Đức bây giờ
chẳng còn chỗ đứng nào trong nước Đức mới. Trường hợp của tôi nhất định không thể
nào thoát tội phản quốc và chùi bò vài năm trong xà -lim.

Tôi sẽ là kẻ nói láo nếu tôi không nhìn nhận lời mời có sức quyến rũ mãnh liệt. Tôi
muốn được tự do. Nhưng tôi cũng hiểu rõ tự do của tôi sẽ nguy hại đến tự do của các
nhân viên nam nữ đã cống hiến cuộc đời của họ cho cơ quan của tôi và, đối với các nhân
viên làm việc bí mật tại Tây Đức, nguy cơ ngồi tù nhiều năm. Họ sẽ đánh giá tôi như thế
nào, người mà họ vẫn gọi là Ông Xếp, nếu tôi bán đứng họ lúc này? Tôi cám ơn Diestel
về bữa cơm tối thân mật nhưng tôi từ chối lời đề nghị.

« Tôi để cho kẻ khác phản bội » tôi nói.


« Sẽ không thiếu người ghi danh, » ông nói và đồng thời quay lưng ra đi. « Nếu
ông thay đổi ý kiến , sẽ luôn có xe sẵn chờ đưa ông cùng với tôi đến văn phòng của
Boeden .»

Quả không thiếu những người muốn mua chuộc tôi. Một lời mời khác phát xuất từ
một nơi mà tôi không thể ngờ dù là trong những ước vọng điên cuồng nhất của tôi, giúp
tôi thẳng tiến trên đường tìm tự do.

Ngày 28 tháng 5 năm 1990, hai người Mỹ đến trước cổng nhà tôi ở dưới quê. Họ
tự giới thiệu với một vẻ bình thản lạ lùng , họ đại diện cho cơ quan tình báo CIA và đưa
một bó hoa to và một hộp chô -cô-la cho vợ tôi. Không hiểu bó hoa đó để khen tặng hay
để đưa đám.

Người đàn ông cao niên, bộ mặt ốm và tóc hoa râm, mặc một bộ đồ đen xậm, áo
sơ-mi trắng toát ủi ngay ngắn và đeo cà-vạt sọc. Ông ta tự giới thiệu là Hathaway và
người ủy nhiệm của ông William Webster, lúc đó là Giám đốc của Cơ Quan Trung Ương
Tình Báo của Hoa kỳ và thừa lệnh ông ta đến đây. Ông nói tiếng Đức chính xác và gãy
gọn.

« Một tên thư lại văn phòng » bà vợ Andrea tôi nói vậy, thì thầm nơi tai tôi khi
chúng tôi lui vào bếp để vợ đi kiếm bình bông, tôi đi kiếm thuốc lá và gạt tàn. Hathaway
là một trong những anh chàng cực đoan chống hút thuốc và yêu cầu tôi đừng mồi thuốc.
Tôi hỏi đùa đây có phải là một chi ến dịch mới của CIA không và ông cười một cách xã
giao không có vẻ gì thực thà cho lắm.

Người tháp tùng, trẻ và béo mập hơn, vui vẻ tự giới thiệu là Charles và xưng là
Trưởng Ban của cơ quan tại Bá Linh, nhưng theo nhận xét của tôi đương sự có vóc dán g
của một tên cận vệ. Hắn nói và phản ứng rất ít trong lúc trò chuyện, dù là mãi sau tôi
mới biết y cũng am hiểu tiếng Đức. Andrea nghĩ đến những anh chàng Mỹ đ ược thấy trên
phim truyền hình về chiến tranh Việt Nam .

Họ đã cẩn thận không dùng điện thoại để l iên lạc với tôi, hiển nhiên họ cảnh giác
việc KGB và chính phủ Tây Đức đặt đường giây nghe lén. Họ năm lấy cơ hội một người
sưu tầm quân phục tại Hoa Kỳ để liên lạc với tôi, và hỏi tôi có sẵn quân phục Đông Đức
để bán không. Qua đường dây tiếp cận mới này giữa Đông và Tây, họ quyết định liên lạc
với tôi.

Từ khi Bức Tườn g sụp đổ, tôi cũng có cơ hội bằng phương tiện fax nhận thơ thăm
hỏi của một người trước đây họat động cho CIA tại Âu Châu; đương sự hầu như chẳng
bao giờ moi móc tôi một điều gì ; lời lẽ của đương sự biểu hiện thái độ thán phục phong
cách của một địch thủ uy tín. Nhưng nay tôi tự hỏi đương sự có thể nằm trong kế họach
tiếp cận tôi.

Dù thế nào đi nữa, có người trong tổng tham mưu CIA đã tìm ra được tên và địa
chỉ của Eberhard Meier người phụ tá thân tín của tôi, và đã liên lạc với đương sự để dọ
hỏi xem tôi có muốn tiếp hai đối tác Mỹ không. Họ tỏ ra rất là chuyên nghiệp, không bao
giờ dùng điện thọai hoặc thơ từ để có thể bị tiếp thu, và luôn tìm những phương tiện khác
để gởi thông điệp đến tôi qua người phụ tá, không bao giờ trực tiếp. Tôi nói với anh phụ
tá mời họ đến biệt thư của tôi, một nơi gặp gỡ kín đáo hơn là căn phòng của tôi tại Bá
Linh. Tuy nhiên tôi vẫn ngẫm nghĩ không biết họ muốn gì. Đã 4 năm tôi rời cơ quan, tôi
đâu còn gì để bắt cóc tôi, họ đeo đuổi việ c gì đây?

Tôi không còn những phương tiện điệp báo như xưa nên tôi trở về với những
nguyên tắc thuở ban đầu và khôn khéo thu thanh cuộc họp mặt trong một máy ghi âm
giấu ở cạnh bàn. Bất cứ ai dù biết sơ sai kỹ thuật điệp báo cũng không bao giờ liên lạc
với một thế lực thù địch mà không ghi âm toàn bộ buổi họp để tự bảo vệ tránh sau này bị
nạn xăng-ta.

Hathaway bỏ ra cả nửa ngày trình bày nỗi thông cảm với những khó khăn của tôi
trong giờ phút thống nhất nước Đức và việc tất yếu tôi sẽ bị bắt giữ. Ông tâng bốc tôi cao
độ và tôi danh tiếng trở thành một trong những cấp lãnh đạo tình báo đứng đầu thế giới.
Tôi cảm nhận ông ấy biết rất nhiều về tôi và ông đang cố gắng lựa lọc những định
kiến của ông về tôi và chọn lựa những điều phù hợp với tình thế hiện tại. Thật ra, trong
phong cách của một nhân viên tình báo có bản lãnh, ông tiết lộ rất ít về cá nhân ông để
có được một tiết lộ quan trọng của người đối thọai. Ông nói ông đã từng họat động tại Bá
Linh vào những thập niên 1950 và theo dõi rất sát những năm đầu của tôi trong nghề.
Tôi ước đoán trong lúc đối thọai ông cũng đã từng lãnh đạo trụ sở CIA tại Moscow.

« Ông là một người làm việc cần mẫ n và thông minh, » Hathaway nói.

Đầu tiên là củ cà -rốt, tôi tự nhủ, sau đó là cây gậy. Chúng tôi uống hình như là
một biển cà -phê. Tôi hút thuốc và người khách của tôi bất bình ra mặt . Cuối cùng tôi
không chịu đựng được.

« Thưa hai ông », tôi nói, « tôi thiết nghĩ hai ông từ đường xa đến đây không phải
để ca ngợi cặp mắt tôi đẹp. Tôi đoan chắc hai ông cần tôi làm một chuyện gì đây ».

Cả hai đều phá lên cười, cảm thấy nhẹ nhọm , chiếc bánh rồi ra cũng được cắt đôi.
Giọng của Hathaway trầm xuống.

«Ông là một người Cộng Sản kiên định, chúng tôi biết điều này. Nhưng nếu ông cố
vấn và giúp chúng tôi, ông có thể làm việc chung với tôi. Không ai biết chuyện này cả.
Chúng tôi có thể dàn xếp, ông biết rõ. Chúng tôi có thể thực hiện được công việc này».

Đầu óc của tôi bắt ngay những tín hiệu của ngôn ngự mật mã và chuyển sang một
tốc độ cao hơn. Đây là phái viên của chính phủ Hoa Kỳ, kẻ thù chính trong cuộc Chiến
Tranh Lạnh, đang chuẩn bị cung cấp cho tôi nơi tá túc để tránh sự phục thù của một
đồng minh trong Liên Minh Bắc Đại Tây Dương (NATO), nước Đức thống nhất.

« California, » ông tiếp tục nói bằng tiếng Đức trôi chảy, « là một địa điểm rất
thoải mái. Khí hậu tốt quanh năm».

« Tây-bá-lợi -á cũng thoải mái lắm, » tôi nói đùa nhưng l ại đau sót thấy cách nói
chuyện trong ngành tình báo thực tế đôi lúc cũng giống văn phong của tiêu thuyết gián
điệp.

Chúng tôi đều phá cười, nhờ vậy tôi được một khoảnh khắc suy nghĩ.

« Vấn đề là tôi không biết rõ Hoa kỳ. Tôi không mường tư ợng được cuộc sống của
tôi tại đó ».

Hathaway nói Webster muốn mời tôi đến tổng hành dinh của CIA tại Langley,
Virginia, để bàn thảo. Ông tiếp tục : « Chúng tôi có thể cải trang hoặc sửa mặt cho ông
để ông có thể cảm thấy an toàn hơn».

Tôi phải cố gắng hết sức để không phi cười khi tôi nghĩ đến những năm đầu tập
tễnh học nghề gián điệp.

« Tôi mãn nguyện với hình thù nguyên vẹn của tôi », tôi trả lời.

Một lần nữa, người đối thọai với tôi cười gằn. Đương sự nói tiếp là một số tiền rất
lớn sẽ được trao cho tôi . Chúng tôi không đề cập đến những chi tiết, nhưng tôi biết một sĩ
quan c ủa tôi phụ trách về điệp báo nhắm vào Hoa Kỳ, Jürgen Rogalla , đã được một
trưởng b an CIA tại Bá Linh hứa trao một triệu Mỹ kim để đương sự khai hết những gì
đương sự biết, nhưng anh ta đã từ chối. Chún g tôi xã giao bàn về những hậu quả của sự
sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản và danh tiếng tốt của cơ quan do tôi chỉ huy.

« Lẽ cố nhiên, » ông nói « ông phải làm một việc gì đó cho chúng tôi ».
Lo ngại phải nhắc lại lời mời của chính quyền Đức trong việc khai tên các nhân
viên của tôi để bù lấy tự do, tôi trả lời tôi không sẵn sàng trao danh tánh của bất cứ nhân
viên nào của tôi.

« Chắc chắn sẽ có đền bù cho ông trong vấn đề này, lẽ cố nhiên là vậy »
Hathaway nói.

Câu này gây cho tôi một cảm giác khó chịu, có lẽ vì nó gợi lại phong cách của
chính tôi khi tôi dùng lối tâng bốc và kẻ cả để nói chuyện với nhân viên của tôi vào thời
vàng song của tôi. Cái đám người này là cái thá gì mà dám nói với tôi như vậy.

« Thưa quý ông », tôi trả lời, « Tôi có rất nhiều kinh nghiệm trong vi ệc các ông
đang cố gắng làm hôm nay. Tôi biết rất rõ các ông nghĩ gì. Các ông đòi hỏi đối tác của
các ông rất nhiều nhưng đối tác của các ông không lấy gì làm vồn vã. Các ông phải biết
kiên nhẫn. Các ông phải bàn thảo rất nhiều chuyện và mổ xẻ kỹ lưỡng vấn đề trước khi đ i
đến một quyết định chính thức ».

Đây là lối diễn tả khéo nhất những gì tôi suy nghĩ. Nhưng trong thâm tâm tôi chỉ
muốn nói toẹt với Hathaway là đương sự lầm to , đương sự nói chuyện với tôi như thể nói
chuyện với một nhân viên quèn mà đương sự có thể mua và bán dễ dàng. Tôi muốn nói
thẳng với đương sự làm việc như vậy không được, chúng ta phải nói chuyện một cách
nghiêm chỉnh trên cấp độ của hai người biết chuyện quá thành thạo.

« Nhưng ông phải giúp chúng tôi, » Hathaway nói.

«Có lẽ điều này đúng nếu tôi cầu cứu đến các ông » tôi nói, lần này không cần
d ấu diếm sự bực tức của tôi, « Các ông có thể vặn hỏi tôi đóng góp được gì cho các ô ng.
Nhưng đàng này tôi không nộp mình cho các ông. Chính các ông đến đây mời gọi tôi ».

« Vâng, vâng, » Hathaway vội vã nói « đúng là chúng tôi đặc biệt đến Bá Linh để
nói chuyện với ông ».

« Luôn luôn có giới hạn trong những cuộc bàn thảo như vậy, » tôi nói « Giới hạn
của tôi là tôi không bao giờ phản bội bất cứ ai làm việc cho tôi. Không tên tuổi gì hết.
Nếu các ông còn muốn nói chuyện với tôi, hãy mời tôi sang Hoa Kỳ một cách chính thức
và chúng ta sẽ nói chuyện nghiêm chỉnh, như nguời lớn. Tôi cần được biết đất nước của
quý ông để tôi có thể quyết định ».

« Nhưng an ninh của ông ở đây không khả quan chút nào, » Hathaway phản bác,
nhắc nhở cho tôi biết nếu tôi ở lại Đức, chỉ c òn một vài tuần nữa tôi sẽ bị bắt và điều này
tôi biết quá rõ.

« Nước Nga luôn chờ đón tôi », tôi đáp lại.

Khi nghe câu này, người đối thoại với tôi thình lình trỗi dậy, cảm nhận đương sự
đang đấu giá với một đối thủ uy thế khác.

« Chớ đi Moscow, » đương sự nói « Đời sống nơi đó cực lắm. Hãy nghĩ đến Andrea.
Hãy đến một nước mà mọi sự sẽ thoải mái cho ông, nơi đây ông có thể làm việc và viết
sách một cách yên tĩnh. Theo ý kiến cá nhân của tôi, điều này chỉ có thể th ực hiện được
tại Hoa kỳ mà thôi ».

Viễn tượng về hưu sung túc và nằm phơi nắng tại California hoặc Florida hơn là
nếm mùi vị của nhà tù Đức đối với tôi thật là quyến rũ. Nhưng tôi vẫn cảm thấy bất an
khi nhìn thấy viễn tượng nộp mạng làm con tin cho CIA. Chuyện gì sẽ xả y ra nếu họ
quyết định siết chặt gọng kềm lên tôi? Đoán chừng họ cũng ghi âm buổi nói chuyện, và
họ có thể hô hoán là tôi đã ngụy tạo cuộc họp nếu cuộc đàm phán bất thành. Tôi muốn
có được bảo đảm là họ thật tâm muốn tiến xa hơn nữa để tôi có thể tiếp tục nói chuyện ;
vì vậy tôi yêu cầu họ viết thư mời tôi sang Hoa Kỳ, qua trung gian của một cơ quan ngoại
vi của CIA.

Các vị khách của tôi không hài lòng với lời đề nghị của tôi , họ giải thích rằng họ
làm việc trong một khuôn khổ giới hạn số khách ngọai quốc được mời, khó vượt qua. Lẽ
cố nhiên họ lo ngại Tây Đức sẽ khám phá việc trao đổi này. Dù sao đi nữa, việc âm mưu
thu nhận một cán bộ cao cấp đã từng làm việc lâu năm cho kẻ thù như tôi được coi như
một phản bội lớn đối với các đồng minh tại Âu Châu và đặc biệt đối với Đức. Tôi đề nghị
họ tìm một nhà xuất bản hoặc một hãng phim gà n hà qua đó họ mời tôi với tư cách là tác
giả - một phương pháp hiệu nghiệm để ngụy trang một công tác. Đây chắc chắn l à
phương pháp để dàn xếp một cuộc trao đổi tại khối Đông Âu, và tôi thiết nghĩ CIA có
thừa phương tiện để kiếm ra một tổ chứ c viết thư mời rồi sau đó biến thành thường trú
tại Hoa Kỳ nếu cuộc trao đổi thành công.

Bầu không khí chìm trong im lặng một lúc lâu, sau đó Hathaway lắc đầu. Nhưng
rồi họ bỏ lửng, tiếp tục nhấn mạnh tôi có thể có những đóng góp giá tri cho cơ quan CIA
mà không phản bội các nhân viên của tôi. Lần hồi tôi mới hiểu rõ họ không như chính
phủ Tây Đức, họ không ưu tiên chú ý đến những việc làm của tôi với tình báo Đông Đức,
nhưng chú ý đến những hiểu biết của tôi về KGB và cơ cấu của cơ quan tình báo Xô Viết .

« Thưa quý ông, » tôi nói, với hy vọng đưa cuộc thảo luận đi mau chóng vì tôi bắt
đầu ưu tư, « tôi không biết rõ quý vị thuộc ngành nào trong cơ quan, nhưng tôi có thể
đoán chừng. Có phải quý ông muốn tôi cung cấp một sự kiện rất đặc biệt cho quý ông, có
phải thế không ? ».

Cuối cùng Hathaway nói toạc vấn đề .

« Ông Wolf, » ông nói nhỏ nhẹ, « chúng tôi đến đây vì chúng tôi biết ông có
những thông tin trong đường dây họat động có thể có ích cho chúng tôi trong một trường
hợp đặc biệt trầm trọng. Chúng tôi đang tìm một tên nằm vùng ngay trong cơ quan
chúng tôi. Y đã gây thiệt hại rất lớn cho chúng tôi. Đã xả y ra nhiều chuyện không tốt cho
chúng tôi khoảng năm 1985. Không những tại Bonn mà còn tại những nơi khác nữa,
những nơi mà ông rất quen thuộc . Chúng tôi đã thiệt mạng vài người – có thể từ 30 đến
35, và từ 5 đến 6 thuộc thành phần cao cấp ».

Ông có vẻ thông thạo Tình Báo Xô Viết và biết rõ ai chỉ huy ngành điệp vụ hải
ngọai và những công tác của ngành này. Điều này xác định nhận xét trước đây của tôi
trong lúc nói chuyện, ông là một nhân vật cao cấp trong tình báo Mỹ . Chúng tôi nói
chuyện dè dặt về những tên phản bội nổi tiếng của Xô Viết - Penkovsky, Gordievsky,
Popov – những người đã thay l òng đổi dạ giúp cho Hoa Kỳ theo kịp tình báo Xô Viết. Ông
cảm phục tướng Kireyev, một người bạn đồng nghiệp của tôi, đứng đầu phản gián hải
ngọai tại Moscow và tôi đã từng phối hợp với ông trong nhiều cộng tác chống lại CIA. Ông
cũng biết đôi chút về những cơ sở này và muốn quay cuộc thảo luận sang ông Felix
Bloch, một nhân viên ngoại giao Mỹ mà CIA tình nghi đã bị Moscow móc nối, nhưng họ
không đưa ra tòa xét xử vì thiếu tang chứng. Tôi đoán chừng trung tâm Langley đã rất
khổ sở tìm kiếm những mối giây liê n lạc của tôi với KGB và họ hy vọng trong vấn đề này
họ có thể biết được danh tính của tên nằm vùng mà họ tìm kiếm .

Tôi không rõ việc này. Loại tin tức này được mấy ông Xô Viết bảo vệ rất chặt chẽ.
Tôi cũng không hề báo cho Xô Viết biết danh tính của những điệp viên nằm vùng cao cấp
cũng như nhân viên của tôi, mặc dù ngoài mặt chúng có cùng chung chí hướng anh em.
Cùng l ắm chúng tôi nói nhẹ nhàng với nhau chúng tôi có « người ngồi » trong lòng của
địch thủ, và không thêm một chi tiết nào khác.

Qua lối tiếp cận khẩn khoản và những cố gắng dai dẳng của Hathaway để dẫn dụ
tôi ngả theo phiá Hoa Kỳ, rõ ràng là CIA đang ở trong trạng thái hoảng hốt vì bị xâm
nhập. Họ phải ngậm đắng nuốt cay để trình bày vấn đề của họ cho tôi. Hơn nữa, họ có
thể gây hiềm khích với đối tác Tây Đức khi họ tiếp xúc với tôi. Trong những trường hợp
vô vọng như vậy, ngay cả những gắn bó ý thức hệ cao độ nhất cũng vỡ tan.

Ngày 29 tháng 5 họ trở lại lần nữa , nhưng chúng tôi không đạt đến một thỏa hiệp
nào để chính thức mời tôi sang Hoa Kỳ. Hathaway nói ông sẽ báo cáo cho Webster và
nếu tôi muốn xúc tiến vấn đề này, tôi có thể liên lạc với ông. Họ thật sự hy vọng, với áp
lực mỗi ngày một kề cận tội bị bắt gia m, tôi sẽ chấp thuận khép mình duới lọng che của
họ, theo những điều kiện họ muốn. Đến đây Charles nhập vào chuyện và nói với Andrea,
mô tả những vui thú tại Hoa Kỳ. Trước khi lên đường, họ trao cho tôi một số điện thoại
miễn phí của trung tâm Langley, và chúng tôi trao đổi mật tự để liên lạc mai sau. Tôi
không cung cấp và cũng không hứa bất cứ điều gì với họ. Tôi biết họ đang chơi trò chờ
đợi và tình trạng của tôi mỗi ngày bi thảm hơn.

Vào trung tuần tháng 8 lời mời của chính quyền Đức do Peter-Michael Diestel đứng
ra làm trung gian mất đi hoàn toàn hiệu lực. Tôi nhận thấy những lựa chọn của tôi không
còn bao nhiêu. Cơ quan CIA lẽ cố nhiên cũng tiên đoán như vậy, vì họ liên lạc với tôi lần
nữa cũng theo con đường cũ. Chúng tôi thu xếp một cuộc gặp gỡ khác tại dacha của tôi
và Hathaway một lần nữa nhắc nhở điều ông gọi một cách tế nhị « tình thế khó khăn »
của tôi. Webster, ông nói tiếp, vẫn tiếp tục từ chối gởi lời mời đích danh cá nhân tôi,
nhưng họ vẫn sẵn sàng mở cửa đón nhận tôi tại Hoa Kỳ với điều kiện tôi giúp họ săn lùng
tên điệp viên nằm vùng. Lần này Charles có vẻ họat bát hơn. Y giải thích nếu tôi quyết
định kêu gọi sự giúp đỡ của họ, tôi có thể phái Andrea đến trạm xe hỏa Bahnhof Zoo nằm
phía Tây của Bá Linh và gọi một số điện thọai miễn phí. Andrea tự giới thiệu là Gertrud
và nói « Tôi muốn nói chuyện với Gustav ». Cuộc đào thoát của tôi như vậy đã được tính
toán tại Bá Linh và một người tên Charles sẽ đảm nhiệm trường hợp của tôi.

Tôi đoán chừng từ đó mật hiệu Gertrud sẽ tự động chuyển sang Trung Tâm
Langley và đồng thời cho cả đầu giây CIA tại Bá Linh. Bốc tôi ra khỏi nước Đức không
phải là một chuyên khó, có lẽ bằng máy bay, tương tự như Xô Viết đã làm khi họ đưa vị
lãnh tụ thất sủng Erich Honecker ra khỏ i Đông Đức trên một chiếc máy bay quân sự để
đến Moscow. Hồi tưởng năm 1945 ngồi trên một trong những chuyến bay đầu tiên trở về
nước Đức Cộng Sản từ Moscow sau khi Hitler sụp đổ , tôi suy gẫm tịnh huống trớ trêu của
tôi chấm dứt sự nghiệp 45 năm sau lại trốn bỏ Bá Linh dưới sự bảo trợ của Hoa kỳ.

Chúng tôi có thêm một lần họp nữa, lần này tại căn phòng trong thành phố của
tôi, và cuối tháng 9, nhưng không có một tiến triển nào trong lời mời của Hoa Kỳ.

Tới đây, Tòa Biện L ý Tây Đức trịnh trọ ng tuyên bố các sĩ quan cảnh sát đã bày
binh bố trận trước cửa nhà tôi vào đêm ngày 2 tháng 10 để bắt tôi. Tờ báo lá cải Bild-
Zeitung đã gởi một đại diện đến đề nghị trả chi phí tòa án bào chữa cho tôi bù lại họ được
độc quyền đăng tải về việc bắt giam tôi. Tôi nói với họ tôi sẽ nghĩ đến việc này. Đây là cả
một trò hề dàn cảnh mà tôi không muốn tham dự vào. Tôi nói với tờ Bild-Zeitung tôi
không có ý định rời bỏ nước Đức. Điều này hầu như là đúng, vì chắc chắn tôi có ý định rời
bỏ nước Đức một thời gian, như ng tôi không biết phải đi nơi nào. Vì khi tôi từ chối trở
thành một tên phản bội theo mệnh lệnh của Bonn, tôi đã từ bỏ mọi lựa chọn để ở lại Đức
để tránh không phải ra tòa và cố nhiên vào tù .

Mãi sau này tôi khám phá ra tên tuổi của tay nằm vùng đã làm đa u đầu CIA. Tên
của y l à Aldrich Ames, tên phản bội tai hại nhất trong lịch sử gián điệp Hoa Kỳ. Ames đã
lợi dụng vị thế của mình trong trách vụ truy lùng những công tác phản gián của Xô Viết
trên kh ắp thế giới để bán cho Xô Viết tên tuổi các điệp viên của Hoa Kỳ, và đã hữu hiệu
phá v ỡ mạng lưới tình báo của Hoa Kỳ tại Liên Bang Xô Viết từ bên trong. Hắn phục vụ
cho Moscow trong vòng 9 năm, cả dưới chế độ cộng sản và thời của Boris Yeltsin, trong
chức vụ này và sau này trong ngành bài trừ ma túy. Qua cuộc buôn bán, hắn đã nhận
2,7 triệu Mỹ kim; sự kiện này biến hắn trở thành tên nằm vùng đắt giá nhất trong lịch sử
điệp báo. Ông Gardner A. Hathaway, người khách từ Langley đến gặp tôi không chỉ là
một đặc phái viên của William Webster, nhưng, sau này tôi được biết, ông là Giám Đốc
ngành phản gián Hoa kỳ, về hưu vài tháng trước khi đến thăm tôi.

Gus Hathaway, một sĩ quan kỳ cựu của Nha Giám Đốc Điều hành Công tác của
CIA, nhận trách vụ được hơn một năm , ghi nhận một số tín hiệu càng ngày cà ng nhiều có
một tên phản bội ở cấp cao trong cơ quan. Ông là một trong những người hiếm hoi biết
rõ nhữn g tổn thất nặng nề của điệp báo Hoa Kỳ trong lòng Liên Bang Xô Viết – mười vụ
hành quyết và một chục bị kết án tù nặng – và ông am hiểu rất rõ sự hiện diện của tên
phản bội trong hàng ngũ đang làm xuất huyết tình báo Hoa Kỳ.

Tôi cũng tìm hiểu về Hathaway và có điều gì đó nơi ông làm cho tôi kính phục. Khi
tôi được biết ông ta vừa về hưu, tôi có phần tâm cảm với ông trong tư cách của một sĩ
quan tình báo về hưu. Giống như trường hợp của tôi, ông không có khả năng chấm dứt
cuộc đời sự nghiệp của ông và đơn sơ hưởng những năm còn lại để làm vườn, nghỉ mát,
và tận hưởng tất cả những thú vui gia đình mà c húng tôi mơ ước khi về hưu . Ông bị lôi
cuốn vào mớ bòng bong chết người mà ông đã bỏ những năm cuối làm việc để tìm cách
gỡ rối : Ai là kẻ phản bội liên tục ngay trong cơ quan của ông ? Tôi liên tưởng đến ánh
mắt của ông khi chúng tôi đối diện nhau ông thú nhận sự thất bại của CIA trong những
lời ngắn ngủi và đứt đọan. Có lẽ ông đã hy sinh tự ái rất nhiều để đi sang Bá Linh cầu cứu
với kẻ thù trước đây. Nhưng vì lương tâm nghề nghiệp và vì cá tính, ông bị ám ảnh trong
việc truy tìm tên Ames. Đơn vị truy lùng cũng được giữ bí mật ngay trong nội bộ CIA. Đội
truy lùng phần đông gồm những sĩ quan về hưu để b ảo vệ bí mật và được gọi là Toán
Công Tác Đặc Biệt. Toán này có một nữ sĩ quan cao cấp trong ngành điều nghiên – một
sự kiện hiếm có trong CIA hoặc trong các cơ quan tình báo khác. Bà này đã tìm hiểu
trường hợp của một tên nằm vùng gốc Trung Hoa làm việc cho CIA trong vòng 30 năm
mà không hề bị phát giác và trường hợp của một đồng nghiệp đá ng kính trong cơ quan
tình báo Xô Viết. Tôi khâm phục khả năng điều hành của Hathaway. Trong vị thế của ông
tôi sẽ hành sử đúng như ông đã hành sử và giữ số người trong đội càng ít càng tốt. Dùng
những sĩ quan đã về hưu là một phuơng thức hành sử càng khôn ngoan hơn nữa, vì dùng
những nhân viên làm việc trong Ban Điều Nghiên Xô -viêt của CIA sẽ có nguy cơ báo động
và ngay cả tuyển chọn tên nằm vù ng. Phương sách hoạt động trong nh ững trường hợp
này phải là : bủa lưới một cách nhẹ nhàng.

Cuối cùng cơ quan FBI, đối thủ của CIA, phát giác hành tung của Ames. Tôi ngờ
những khó khăn Hathaway vấp phải là do thiếu kinh nghiệm hoặc thiếu hiểu biết. Hơn
thế nữa, ông không phải là một người có nhiều sáng kiến và, theo lời của một vài đồng
nghiệp của ông, ông là người của bàn giấy. Nhưng tôi không trách lỗi ông đã thất bại
trong việc nhận dạng tên phản bội đã đánh phá tình báo Hoa Kỳ như con vi khuẩn độc
hại nằm trong ruột. Công việc bội bạc và mệt nhọc để truy lùng tên phản phé lúc nào
cũng có vẻ giản dị khi nhìn lại hơn là lúc đang lâm cuộc. Những điểm then chốt lúc nào
cũng có vẻ hiển nhiên – nhưng chỉ sau khi lùng bắt đuợc con mồi.

Tìm những điểm lạ trong phong cách của một tên nằm vùng là phương pháp đúng
đắn. Nhưng rất nhiều người trong bất cứ ngành nghề nào - chưa kể đến nghề điệp báo
đầy bức xúc - cũng có vấn đề rượu chè, tư cách hoặc vấn đề gia đình, họ cảm thấy không
được cấp t rên đánh giá đúng mức hoặc cần tiền nhiều hơn mức thu nhập lương thiện của
họ. Các nhân viên trong ngành đi ệp báo do môi trường bưng kín họ sống hoặc làm việc
được khuyến khích cảm nhận những nguyên tắc áp dụng cho những người khác nhưng lại
không áp dụng cho họ. Các nhân viên CIA nỗ lực làm việc trong ngành phản gián Xô Viết
phải biết rõ tâm não của kẻ địch để rồi càng ngày càng dễ rơi vào lối suy nghĩ của địch
thủ và rồi, như trong trường hợp của Ames, những mối ràng buộc với quốc gia và cơ
quan của mình tự nhiên tan biến do những mặc cảm thua kém và ấm ức dồn nén.

Khi Xô Viết móc nối Ames vào năm 1985, đương sự đuợc điều khiển bởi Stanislav
Androsov, một nhân viên KGB thường trú ( sĩ quan KGB được chính thức bổ nhiệm) tại Đại
Sứ Quán Xô Viết tại Washington. Một năm sau Ivan Semyonovich Gromakov thay thế
Androsov. Tôi quen biết Gromakov từ năm 1960 khi ông làm giám đốc đơn vị KGB tại
Đức ( Cục 4 của Đệ Nhất Tổng Cục ). Tôi biết Gromakov nói được tiếng Đức, tôi không rõ
về khả năng tiếng Anh của ông, vì vậy tôi hơi ngạc nhiên nghe tin bổ nhiệm ông tại
Washington. Người ông dáng dấp thấp béo và vui tính, mắt đeo gương. Ông có thói quen
khó chịu gầm thét làm người khác nhảy nhổm mỗi khi ông nâng ly chúc mừng sự thành
công của KGB. Tôi không hề được nghe ông nói về việc bắt con mồi lớn này, như tôi có
thể mư ờng tượng nỗi vui sướng của ông, khi ông làm việc ngay trong lòng địch và Ames
rơi vào trong rọ của ông.

Khi câu chuyện phản bội của Ames được tiết lộ, tôi thật sửng sốt không ngờ hắn
làm việc không bị phát giác một thời gian khá lâu và phản gián Hoa Kỳ tỏ ra quá bất tài
và quá tuyệt vọng để buộc phải cầu cứu cấp lãnh đạo điệp báo của kẻ thù để tìm hắn.

Quý vị có thể lấy làm lạ vì tôi sẵn sàng nói chuyên với CIA. Dù sao đi nữa, tôi
không có ý định rời nước Đức và tôi đã chính thức tuyên bố tôi không có ý định di cư. Tôi
phản đối Tây Đức với tư cách kẻ chiến thắng Chiến Tranh Lạnh đòi áp đặt hình thức pháp
luật của họ lên tôi và các đồng nghiệp của tôi; đối với tôi đòi hỏi này mang sắc thái một
đòn trả thù. Lời mời của CIA lôi cuốn tôi chỉ vì nó cho phép tôi tam thời rời đất nước tôi
trong những ngày đầu thống nhất hai nước. Tôi biết trong những tuần lễ và tháng đầu
lòng hăm hở trả thù lên cao . Nếu có thể, tôi muốn tránh giải p háp lánh nạn sang
Moscow, vì sự biệt tích của tôi tại Moscow là một tín hiệu không tốt cho mối liên lạc của
tôi với nước Đức mới, tạo nên lý cớ khuyến khích những người trong nước két án tôi. Tôi
sẽ bị tố cáo là trốn sang Moscow để đưa tên tuổi những điệp viên, lời đồn này đã được
tung ra khi tôi chạy sang Moscow ở hai tháng vào đầu năm 1990. Thực tế không phải
như vậy. Tôi quá nhiều lo lắng trong việc tìm cách tránh đỡ cho cá nhân tôi cũng như cho
các nhân viên cũ của tôi, các điệp viên và các người nằm vù ng không bị truy tố để tôi có
thời giờ chơi trò nước đôi với Xô Viết.

Giả như CIA chuẩn bị đón nhận tôi sang Hoa Kỳ, có lẽ tôi sẽ đắn đo suy tính chấp
nhận lời mời này như một giải pháp tạ m thời hữu lý. Nhưng tôi nghi ngại một khi thỏa
thuận xong xuôi và tôi bay sang Hoa Kỳ không có lời mời chính thức , CIA có thể phao tin
tôi xin đầu thú và ép tôi hợp tác với họ theo điều kiện của họ. Với phong cách hống hách
của một cơ quan tình báo lớn, CIA chắc mẩm tôi mong ước làm việc với họ nên tôi sẵn
sàng tự đặt vào một vị thế yếu kém, một trường hợp mà mọi người đào thoát khôn
ngoan đều muốn tránh – bị ép buộc phải thương luợng trên lãnh thổ của kẻ địch. Mặc dù
Hathaway đích thân sang Bá Linh ngày 26 tháng 9 và chúng tôi đã chuẩn bị hành lý, cuộc
thảo luận cuối cùng của chúng tôi cũng chỉ mệt nhọc quay luẩn quẩn không đi đến đâu
cả.

Điều mà không một ai có thể ngờ kể cả Hoa Kỳ, Nga vả Tây Đức, có một tay bí
mật khác nhảy vào đấu giá. Đó là Do -thái. Tôi là người Do thái, một điều không bình
thường trong giới lãnh đạo tình báo cao cấp của khối Xô Viết. Chính xác hơn, tôi có nửa
phần Do thái vì mẹ tôi là Gentile (người không theo đạo Do Thái). Nhưng cũng đủ thành
người Do thái để bị phân loại và bị bách hại theo luật pháp phân biệt chủng tộc
Nuremberg được ban bố năm 1936 , nếu gia đình của tôi bị Đức Quốc Xã bắt kịp khi
chúng tôi trốn chay sang Pháp rồi sau đó sang Nga. Chủ thuyết tôi theo đuổi một khi
Chiến Tranh Lạnh chấm dứt có thể biến tôi thành kẻ kình địch của Israel . Nhưng tôi luôn
quan tâm theo dõi tình hình Do thái, và gia đình tôi đã cho phép tôi thừa hưởng truyền
thống Do thái, chưa kể đến đức tin Do thái.

Mối liên lạc của tôi với Tel Aviv (thủ đô Do thái) đến rất trễ nếu khô ng muốn nói là
b ất ngờ , do sự xuất hiện của tôi nhân một buổi họp ngày 4 tháng11 năm 1989 tôi kêu
gọi cải cách trong chế độ Đông Đức. Tại đây tôi gặp một phụ nữ tên Irene Runge, người
điều khiển trung t âm Văn Hóa Do thái, thành lập tại Đông Bá Linh vào những thập niên
1980 sau hàng chục năm truyền thống Do thái bị đà n áp tại Đông Âu, do sự cấu kết giữa
Cộng Hòa Dân Chủ Đức với khối Ả -rập. Tôi trả lời cuộc phỏng vấn của Irene để đăng trên
một nhật báo Do thái, và tôi tham dự một cuộc họp của hội bà ta với tư cách là khách,
sau đó tôi không màng đến nữa.

Vào mùa hè năm1990, thình lình bà ấy gọi tôi để báo tin ông Rabbi Tsvi Weinman,
một vị lãnh đạo cao cấp của Chính Thống Giao tại Jerusalem, muốn làm quen với tôi.
Đúng hôm đó rơi vào ngày thứ sáu, có nghĩa là Ngày Sabbath Do thái sẽ khởi sự lúc mặt
trời lặn và vị này không thể nào gặp gỡ tôi tối nay được. Tôi điện thoại cho ông và chúng
tôi vui vẻ đùa cợt với nhau và đồng ý gặp nhau lần tới khi ông ghé Bá Linh. Không bao
lâu sau ông xuất hiện trở lại nói rằng lý do chính ông đến đây là để thăm trung tâm Văn
Hóa Do-thái. Tôi mời ông đến căn phòng của tôi. Ông đến rất đúng giờ hẹn. Ông trạc 50
tuổi, đội nón vành tròn đen và không có một dấu hiệu nào khác chứng tỏ ông là Do thái
chính thống giáo. Ông ân cần hỏi thăm tình trạng của tôi, ở vị trí của một người có bản
sắc Do thái và kinh nghiệm bách hại, trước tình thế sắp đương đầu với tòa án chính trị
của nước Đức. Ông khôn khéo tránh đề cập đến công việc trước đây của tôi, nhưng hỏi
tôi có muốn thăm viếng Israel không. Tôi liền suy nghĩ mục đích của ông Weinman kh ông
lẽ chỉ vì vấn đề văn hóa. Liền sau đó tôi nhận được thư của một nhật báo Do -thái tờ
Yediot Abranoth mời tôi sang thăm viếng Israel.

Tìm hiểu về Weinmann tôi được biết có lời đồn ông l àm việc cho Mossad (tình báo
Do thái) hồi còn thanh niên. Ông đích thân phản bác chuyện này và nói ông đã phục vụ
trong quân đội nhưng không hề làm việc cho ngành tình báo. Chúng tôi thường xuyên
điện thoại cho nhau và trông chờ chuyến đi của tôi, và tôi hình dung bộ mặt thiểu não
của Bonn, Moscow và Washington khi họ thấy những hàng tựa lớn đăng tin sự xuất hiện
thình lình của tôi tại Israel. Tôi đoán chừng Mossad cũng muốn dò xét những hiểu biết
của tôi về những nhóm Palestine và hoạt động của họ, một điều mà tôi biết rất ít, nhưng
tôi quyết định bước qua cầu khi tôi đặt chân xuống Đất Thánh. Dù gì đi nữa, cuộc viếng
thăm này cho tôi một cơ hội mới để thoát ra khỏi n ước Đức . Tôi không thể nào để cho
miếng mồi này vuột khỏi tay tôi.

Hai tuần trước ngày thống nhất nước Đức, tôi nhận cú điện thoại bất ngờ của
Weinmann. Ông có vẻ thất thần và hơi ngượng ngùng. Cuộc viếng thăm bị bãi bỏ. Tờ báo
không còn chú ý đến tôi, ông nói, vì sự xuất hiện của một quyển sách chỉ trích Mossad và
phương pháp làm việc của cơ quan này đã gây phẫn nộ trong quần chúng. Bây giờ không
đúng thời điểm để mời tôi sang. Tôi hiểu ngay là Do thái lạnh cẳng vào giờ phút chót,
chắc chắn họ e sợ tất cả những dịch vụ tôi cung cấp cho họ không bù lại những tai hại
mà tôi có thể gây nên cho mối giao hảo của họ với Tây Đức vì sự hiện diện của tôi tại
Israel. Cánh cửa hy vọng vừa hé mở đã bị đóng xầm lại. Nhưng Tel Aviv không cắt đứt
hoàn toan mối dây liên lạc với tôi. Sau cuộc điện đàm với Weinmann, tôi nhận được một
cú điện thọai khác từ tòa báo, hứa cấp cho tôi chiếu khán và vé máy bay vào một ngày
khác. Tôi dàn xếp để họ cất giữ cho tôi tại Vienna. Nhưng khi tôi kiểm soát lại một vài
tuần sau, tôi không nhận được gì cả. Nếu quả vé đó nằm tại đây thì nay nó không còn đó
nữa.

Đến đây áp lực rất mãnh liệt, và tôi biết chính quyền Đức nông nón nhìn thấy tôi
đứng trước vành móng ngựa. Tôi trốn nơi nào đây? Và giá phải trả là bao nhiêu ? Tôi
không còn lựa chọn nào đáng trông đợi nữa, và tôi không còn đủ thời giờ nữa.
Chương 2
Thoát khỏi ác bóng Hitler

Cha tôi, Friedrich Wolf, sinh tại Rhineland năm 188 8, xuất thân từ một gia đình Do thái
ngoan đạo. Buổi thiếu thời, bố mẹ muốn ông trở thành thầy cả Rabbi, nhưng ông kháng
cự và đ òi học y khoa. Lòng tôn thờ chủ nghĩa Mác -xít đạt đến cao độ năm 1928, vào lúc
ông 40 tuổi, và ông thấm nhập chủ thuyết này qua những nẻo đường ngoằn ngo èo. Ông
không thuộc diện trí thức phải bắn bỏ lúc khởi sự Cách Mạng Tháng Mười năm 1917 tại
Nga. Xuất thân từ một gia đình tiểu tư sản Do thái - cha của ông là một thương gia - cha
tôi trôi nổi trong phong trào hiếu hòa và mộng tưởng, góp nhặt tư tưởng của Tolstoy,
Strindberg, Upton Sinclair, Nietzsche và Kropotkin, trước thời kỳ hãi hùng Thế Chiến Thứ
Nhất. Ông ta phục vụ trong quâ n đội của Kaiser (tước hiệu Đế Vương của nước Đức từ
1871-1918) và bị trọng thương nhưng đồng thời ông cũng bị cấp sĩ quan Đức hất hủi
khinh thường, khiến ông trở nên cực đoan và bài bác tinh thần quốc gia. Thất vọng vì sự
thất bại của các nhà cách mạng Đức trong nỗ lực xây dựng một quốc gia công bằng và
bình đẳng vào năm 1918 và sau đó vào những năm đầu của Đệ Nhất Cộng Hòa Đức, ông
chuyển hướng sang ôm ấp những lời hứa hẹn đem hài hòa xã hội và kinh tế do Mác và
Lê-nin đề xướng .

Friedrich Wolf với vợ Else và hai con Markus và Konrad

1
Nhưng gia đình chúng tôi luôn có khuynh hướng cực đoan. Cha tôi thường nói với tôi giáo
dục chính trị của ông bắt đầu lúc ông 5 tuổi, khi bà ông bế ông đi xem Kaiser kéo màn
khai trương pho tượng của Friedrich Wilhelm, một nhà lãnh đạo Đức vào thế kỷ thứ 19.
Trong lúc quần chúng tung hô vị lãnh tụ và ngóng cổ để nhìn cho rõ pho tượng, bà nâng
cao thằng bé lên và nói thẳng thừng, « Fritzsche, đây không phải là tay anh hùng, đây là
một quan vua ham chuộng súng đ ạn đã ra lệnh bắn các công nhân ». Bà ám chỉ cuộc tàn
sát đẫm máu của Friedrich Wilhelm dẹp cuộc nổi loạn đòi tự do năm 1848 tại Đức. Else,
mẹ của tôi , cũng có đầu óc trái khoái. T rẻ hơn cha tôi 10 tuổi, có bộ tó c vàng của miền
Rhineland, mẹ tôi đã đoạn tuyệt với gia đìn h khi quyết định lấy một anh Do thái.
Cả đến khi chết cha tôi vẫn còn để lại một hình ảnh nhiều mâu thuẫn . Tại trung tâm
bùng binh gọn ghẽ của thành phố nhỏ Neuwied, trên bờ sông Rhine về phía Nam của
Bonn, có treo một tấm bảng tưởng nhớ ghi sinh nhật của ông ngày 23 tháng 12 năm
1888. Gần đó cũng có một con đường mang tên ông, kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhật
của ông. Việc treo dựng tấm bảng này suýt nữa tạo nên một cuộc nội chiến nhỏ chưa
từng thấy tại thành phố Neuwied, vì cha tôi, ngoài danh tiếng quanh vùng là một y sĩ
nhiều kinh nghiêm và là một nhà biên sọan kịch, ông cũng là một người Cộng Sản năng
nổ, một lọai anh hùng địa phương ít được tưởng niệm tại những thành phố ấm cúng của
nước Đức.

Sau ngày xụp đổ của Đông Bá L inh, tôi may mắn được thăm viếng trở lại Neuwied. Tôi có
cảm giác ngỡ ngàng khi rảo bước trê n những con đường thuộc nửa phần đất nước của tôi,
những con đường tôi quen thuộc rất nhiều mà tôi chỉ nhìn thấy rất ít. Suốt thời gian
Chiến Tranh Lạnh, tôi không hề liều bước trên đường phố Tây Đức. Những chuyến đi ra
ngoài khối Đông Âu trong những chục năm tôi làm giám đốc điệp báo Đông Đức chỉ nằm
trong dịch vụ những công tác cần thiết, thường để gặp gỡ các điệp viên vì vấn đề an ninh
ngăn cản họ di chuyển đến chúng tôi.

Friedrich Wolf Ảnh: Stadt Remscheid

Tôi sinh đẻ tại Hechingen, một thị trấn nhỏ theo đạo Công giáo vùng nông thôn nằm phía
Nam nước Đức. Đó là ngày 19 tháng Giêng năm 1923, vào những năm lạm phát hoành
hành đến độ cha mẹ tôi cảm thấy an tâm mỗi khi cha tôi thu được y phí của các bệnh
nhân vùng nông thôn dưới dạng bơ và trứng. Chúng tôi là một gia đình năng động, khác
thường so với lối sống của phần đông dân cư trong vùng. Cuộc sống không thay đổi bao
nhiêu khi chúng tôi dọn đến ở Höllsteig, phiá Nam nước Đức gần biên giới Thụy S ĩ.

Cha tôi là một tín đồ điên cuồng của thể dục thể lực , ông ưa chuộng nhào nặn thân hình
lực sĩ của ông đến mức toàn hảo. Ông cũng là người tiên phong chủ trương sống khỏa
thân. Vì vây trong gia đình có nhiều bức hình để lộ cha tôi, tôi và Konrad em trai nhỏ hơn
tôi gần ba tuổi trần truồng chồng chất lên nhau trong một tư thế thể thao uốn éo. Koni
và tôi nghĩ chuyện này bình thường, mặc dù các bạn học cùng lớp khúc khích cuời mỗi
khi chúng tôi đưa hình cho họ xem. Nhiều tấm hình như vậy được dùng làm mẫu cách trí
và in trên sách của cha tôi, một quyển sách bán rất chạy tựa Die Naturols Arzt und

2
Helfer(Dùng Thiên nhiên làm Thầy Thuốc và Thầy Trợ Giú p), một tiểu luận về đồng liệu
tương pháp ông viết khi chúng tôi ở Höllsteig, ông nói về mối tương quan giữa sức khỏe
và điều kiện sống và làm việc của mỗi cá nhân. Những phát kiến như vậy sau này trở
thành những hiểu biết thường thức ngày nay chúng ta gọi là y học phòng bệnh. Tuy
nhiên,vào thời đó, những điều này không được công nhận là chính thống, và cộng đoàn y
sĩ tỏ ra khó chịu với cha tôi, vì họ thấy công trình nghiên cứu của cha tôi về những
nguyên nhân bệnh tật sẽ dẫn đến một cu ộc thảo luận rộng lớn hơn về xã hội và tình cảnh
của người nghèo, điều mà họ muổn tránh.

Nhưng quyển sách đạt thành công lớn trong quần chúng, bán được hàng ngàn bản, và trở
thành một loại thánh kinh về sức khỏe mọi người bình thường phải có. Sách này đã trở
thành một bài khoa học thường thức, và mấy năm về sau, nó thoát cao trào Đức Quốc Xã
cấm đoán sách của tác giả Do thái. Thành tựu tài chánh của quyển sách đã cho phép gia
đình chúng tôi dọn đến một căn nhà khang trang tại Stuttgart, một thành phố có truyền
thống yêu chuộng nghệ thuật từ thời các vị vương công cấp tiến cùng với quần thần với
tư tưởng phóng khoáng.

Mẹ tôi là người điềm đạm và hiền hậu nhưng không thiếu can đảm, cho dù phải chịu
đựng những lục soát thô bạo của Quốc Xã trong nhà hoặc của công an mật vụ Stalin.
Dưới triều đại khung bố của Stalin , đã có lần bà cho trú ẩn gia đình của một người bị tù,
một hành động có thể khiến bà vào tù hoặc tệ hơn nữa. Cũng vào thời kỳ gia đình chúng
tôi lưu ngụ tại Nga, khi nghe mẹ của Lena, em gái cùng cha khác mẹ của tôi, bị bắt tại
vùng Volga, mẹ tôi từ thủ đô tìm đuờng đến cứu giúp và đem Lena về ở với chúng tôi.
Chính mẹ chúng tôi nuôi dưỡng chúng tôi khi cha chúng tôi lâu ngày vắng mặt vì đi tình
tự hoặc vì hoạt động chính trị. Nhưng mặc dù vắng mặt cha chúng tôi vẫn đóng vai trò
quan trọng khi ông gởi thơ nhắn nhủ và dậy dỗ cách ăn ở để trở nên con người xã hội
chủ nghĩa đứng đắn và tự trọng . Lẽ tất nhiên ông là người có ảnh hưởng chính trị mạnh
mẽ nhất vào thời niên thiếu của tôi. Mẹ chúng tôi phiền muộn rất nhiều vì những mối tìn h
của ông với những người đàn bà khác. Do sự kiện này, ông có đầy con cái, anh em và chị
em dị bào với tôi và Koni và chính con cháu của họ cũng rải rác hai bên bờ giới tuyến của
Cuộc Chiến Tranh Lạnh. Đến nay, tôi có họ hàng tại Đức, tại Nga, và tại Hoa Kỳ do kết
quả những mối duyên tình của ông.

Người ngoại cuộc nhăn mày vì những mối tình lãng du này, nhưng tôi và Koni chẳng
thèm để ý. Nó đã trở thành một phần thiếu th ời của chúng tôi mỗi khi cha tôi tuyên bố
chúng tôi sẽ gặp gỡ một anh em hay chị em dị bào mới. Những đứa con khác mẹ này
được mẹ tôi đối xử như người trong gia đình với lòng rộng mở. Cuộc hôn nhân của họ vẫn
tồn tại vượt qua những mối tình kia và cha mẹ chúng tôi vẫn sống chung với nhau cho
đến khi ông qua đời tại Đông Đức năm 1953.

Tinh thần năng động của Friedrich thật đáng nể. Ông từ bỏ Đảng Dân Chủ Xã Hội Độc
Lập năm 1928, gia nhập Đảng Cộng Sản Đức, và ra ứng cử hội đồng xã Stuttgart với tư
cách đảng viên Cộng Sản ; ông nhận được 20 phần trăm số phiếu. Vở kịch « Cyanide »
ủng hộ việc trụy thai năm 1929 đã đưa ông vào tù một thời gian ngắn ngủi và biến ông
thành phát ngôn nhân chính thức của cánh chính trị cực đoan. Năm 1931 ông vào tù lần
nữa, lần này ông bị tố cáo phá thai để tìm lợi nhuận. Sau khi ông và người biện hộ cho
ông, cả hai được tha bổng, hai người rời Đức để đi Liên Xô, và sau đó trở lại Đức cùng
năm.

Koni và tôi theo học trường các nhà cải cách giáo dục có tinh thần cấp tiến mạnh mẽ của
Đức vào thời đó và chúng tôi được khuyến khích tìm hiểu vùng nông thôn và phát biểu
một cách tự do. Cha mẹ chúng tôi bấy giờ cả hai đều là Cộng Sản ; em trai Koni và tôi gia
nhập tổ chức thanh niên Cộng Sản, Thiếu Niên Tiền Phong, ngay khi chúng tôi còn ở Đứ c.
Chúng tôi thắt khăn quàng đỏ với niềm hãnh diện lớn và chăm chú nghe những câu
chuyện về Cách Mạng tại « Liên Bang Xô Viết vĩ đại ». Không khí trong gia đình đã có ảnh
hưởng quyết định trên suốt cuộc đời chúng tôi, trừ việc kiêng chay vì cha mẹ tôi chỉ ăn
thực vật. Chúng tôi thèm chảy dãi nhìn những miếng thịt nguội và nước tương Đức trong

3
hộp đựng thức ăn trưa của các bạn cùng trường, và thằn g em trai tuyên bố « khi nào em
lớn, em sẽ ăn cả một con bò ». Nhưng ấn tượng sâu xa và lâu bền nhất họ để lại cho
chúng tôi là lòng yêu quí thiên nhiên và thể dục thể lực, và con đường chính trị cực tả
lồng trong những vở kịch của cha tôi phô bày cuộc đấu tr anh của nông dân và công nhân
đuợc Đoàn Kịch Công Nhân Tây Nam lưu diễn. Tôi bắt đầu cảm thấy tô i là chiến sĩ chính
trị, quyên góp ủng hộ cho nhưng công nhân thép đình công, tham dự các chiến dịch, và
lắng nghe những biện luận mạnh mẽ của người lớn trong n hững ngày cuối trước khi Hitler
lên nắm chính quyền.

Với đầu óc non nớt của một cậu bé trong một gia đình bố mẹ Cộng Sản tại Đức, tôi cảm
nhận Stalin như một mẫu người khôn ngoan và xa cách, giống như một ông ảo thuật gia
giàu lòng nhân từ trong những câu chuyện thần tiên. Tôi thường mộng tưởng và tự hỏi
đời sống tại « Liên Bang Xô Viết vĩ đại » ra sao – trong hàng nhiều năm tôi vẫn nghĩ đó là
tên chính thức của một quốc gia – và kết luận đó là một nước trắng xóa, tuyết bao phủ
và đầy những người tốt lành dưới sự hướng dẫn của vị phù thủy tốt lành. Koni, em trai
tôi, có năng khiếu hơn tôi, đặt bút chuyển đổi ý tưởng ra hình, đã bỏ ra hàng giờ phóng
vẽ những bức họa của vị lãnh tụ vĩ đại dưới hình dạng vị anh hùng trong chuyện thần
tiên. Nhưng vào thơì điểm đó, tôi không trông mong gì tiếp cận được thực cảnh của Xô
Viết.

Sau khi Quốc Xã lên nắm chính quyền năm 1933, đời sống của chúng tôi tại Đức trở nên
bất kham. Việc đốt cháy Quốc Hội Đức tại Bá Linh và lời cáo buộc gian trá đổ tội bọn
Cộng Sản có trách nhiệm trong vụ này đã gây nên một cuộc săn lùng các thành phần Tả
Phái. Cha tôi, cảm thấy lâm nguy vì vừa là Do Thái vừa là Cộng sản , bỏ trốn sang Áo.
Trong một trong những cuộc lục soát nhà cửa tiếp theo đó, tôi trả lời một cách trơ tráo
với một trong những tên áo nâu SS . Y đẩy ép tôi vào tường và hăm dọa đưa tôi « vào trại
Heuberg » nếu tôi không khai báo hành tung của cha tôi. Heuberg là trại tập trung đầu
tiên ở trong vùng, nơi các người đối lập chính trị bị giam giữ. Người lớn khi đề cập đến nơi
này họ chỉ thì thầm, và tôi bối rối không hiểu rõ những gì xảy ra trong đó; vào lúc thiếu
thời, tôi nhìn xung đột giữa hai bên Quốc Xã và Phe Tả như một lọai đụng độ giữa hai
băng đảng. Tôi biết những người mặc áo nâ u, biểu lộ tính chất bộ lạc, khác rất xa với gia
đình chúng tôi; và tôi cảm thấy mình là một chiến sĩ trẻ sẵn sàng chiến đấu.

Vào thời điểm này, lần đầu tiên tôi ý thức được căn cước Do Thái của tôi. Tôi còn nhớ sau
một cuộc lục soát đặc biệt thô bạo, anh em chúng tôi rất đỗi phẫn n ộ vì bọn côn đồ nhảy
xổ vào phòng chơi của anh em chúng tôi , hất vung vãi đồ chơi và sách vở quý báu của
chúng tôi, và mẹ tôi, lấy tất cả bình tĩnh để che giấu nỗi kinh hoàng trong lòng, đưa
chúng tôi đi xe đạp dạo qua cánh đồng tươi tốt vùng nông thôn Swabian để thăm Moritz
Meyer, cậu của cha tôi mà chúng tôi thân mật gọi là « Öhmchen.»

Dân thành phố nhỏ Hechingen coi Öhmchen là một người hơi kỳ dị. Sau thời gian làm
việc chăm chỉ, ông về hưu để sống với ngỗng trong rừng và có một chút ít danh tiếng
nhờ tài chữa bệnh thấn kỳ. Điều hầu như chắc chắn là ông đã ảnh hưởng đến cha tôi,
khiến cha tôi chuyển từ ngành y khoa thông thường sang ngành điều trị đồng vi phân
kháng tính và điều khoa dùng dược liệu thiên nhiên, và cha tôi hiến tặng quyển sách về
cách điều trị theo thiên nhiên của ông của cho ông cậu . Cuộc thăm viếng bằng xe đạp
của chúng tôi nhằm ngày lễ Vượt Qua (lời của dịch giả : lễ Vượt Qua là ngày lễ người Do
Thái kỷ niệm ngày Thượng Đế trừng phạt dân Ai-cập, giết những đứa bé đầu lòng của
người Ai-cập và « vượt qua» những nhà có con cái Do -thái. Để nhận biết nhà Do thái,
Thượng Đế nhắn dân Do Thái bôi máu cừu lên cửa nhà của họ. Dưới thời vua Ramsès Đệ
Nhị, dân Do Thái làm nô lệ cho Ai- Cập, và Môi -sen đã làm phép lạ rẽ đôi Biển Đỏ để đưa
dân Do Thái ra khỏi đất Ai-cập và tiến về miền đất hứa đi tìm tự do ), vì vậy ông cậu chỉ
cho chúng tôi ăn bánh mì không men, không tạo hứng thú cho khẩu vị trẻ con của chúng
tôi, vì vậy để bù trừ thiệt thòi này, ông cậu kể cho chúng tôi nghe câu truyện trang
nghiêm và khích động lấy từ quyển Thánh Kinh Torah và giải thích ý nghĩa những ngày lễ
Do-thái.

4
Một vài tháng sau, mẹ tôi, em trai tôi và tôi được đem đi trốn sáng Thụy sĩ với sự trợ giúp
của các đảng viên Cộng Sản tại đây, đảng Cộng Sản lúc bấy giờ trở thành bất hợp pháp.
Từ đó chúng tôi chạy sang Pháp, tại đây chúng tôi chính thức được xem là « những người
ngoại quốc bất hảo » và được đem đi trốn trên hòn đảo nhỏ Bréhat ở Brittany ; nơi đây
cha tôi gặp gỡ lại gia đình. Tại đây cha tôi biên sọan xong vở k ịch Professor Mamlock,
một áng văn chương đầu tiên làm chứng cho cảnh bách h ại dân Do Thái tại Đức. Trước
khi đem trình diễn lần đầu bằng tiếng Đức tại Zurich, vở kịch đã được diễn xuất tại các
nhà hát Do Thái tại Warsawa và Tel Aviv, và đã gạt hái những t hành công rực rỡ khắp nơi
trên thế giới. Một phim dựa trên vở kịch đã được quay tại Liên Bang Xô Viết và mãi sau
này Koni em trai tôi quay lại lần thứ hai. Nhờ phim được trình chiếu tại New York vào
năm 1939, tên tuổi cha tôi được biết đến tại Hoa kỳ.
Không bao lâu sau bọn Quốc Xã phản ứng vì sức thành công của vở kịch này, - lẽ đương
nhiên chưa bao giờ được trình diễn tại Đức đương lúc họ cầm quyền. Tất cả của cải của
chúng tôi bị tịch biên và tên của cha tôi được liệt kê trong danh sách những tác giả « có
bài viết tác hại và bất hảo ». Sau đó tất cả gia đình bị tước quyền công dân Đức và vào
khỏang năm 1937, không những tên tuổi của ông, mà tên tuổi mẹ tôi, tô i và em trai tôi
đều xuất hiện trong danh sách truy nã của Nhà Nước. Điều này khiến mấy đứa th iếu niên
chúng tôi cảm thấy mình đã thành người lớn. Nếu chỉ có một biến cố định hướng cuộc
đời chính trị của một người, đ ối với tôi đây chính là biến cố : bị liệt kê là kẻ tội phạm bởi
chính đất nước của mình.

Nếu chúng tôi không lẩn trốn sang Thụy-sĩ, có lẽ chúng tôi đã chia sẻ số phận của các
thân bằng quyến thuộc Do Thái mà sau này tên tuổi được luôn mãi ghi tạc trên Bia Tưởng
Niệm Yad Vashem tại Jerusalem. Tỉ dụ như ông cậu Öhmchen, ông đã không thoát khỏi
Họa Hỏa Diệt. Một tù binh Đức tại Moscow kể lại cho tôi ông cậu đã bị bắt đi và đã chết
trong trại tập trung Mauthausen tại Áo. Ông được tám mươi tuổi khi ông chết .
Sáu mươi năm sau, dạo trên đường phố sạch bóng Hechingen, tôi tưởng nhớ đến ông cậu
và không khỏi rùng mình lạnh xương sống, một cảm gi ác chỉ có người Đức nhận biết khi
đương sự nhìn tận mặt những người đàn ông đối diện cùng lứa tuôi và trộm nghĩ họ h ành
sử ra sao dưới thời Quốc Xã : Họ đã chứng kiến bao nhiêu việc và họ đã xóa bỏ bao nhiêu
ký ức tội lỗi ? Có lẽ thành phố lớn dễ xóa nhòa dấ u vết dĩ vang mau hơn các thị trấn nhỏ
tại Đức vì đầu óc tôi bất an khi suy nghĩ đến các đồng hương tôi khi tôi đến các thị trấn
nhỏ.

Đến đây Quốc Xã thu hồi trương mục của chúng tôi trong ngân hàng và tịch thu tài sản
của chúng tôi. Việc Liên Bang Xô Viết đón nhận chúng tôi là một cái phao cứu mạng cha
mẹ chúng tôi, Koni và tôi. Nhờ sự trợ giúp của Vsevolod Vishnevsky, bạn của cha tôi và
cũng là sọan giả bi kịch , cha tôi kiếm được m ột căn nhà nhỏ hai phòng tại Lộ Nizhny
Kizlovsky, một trong những con đường quanh co của thế kỷ 19 nằm trong trung tâm cổ
của Moscow, nấp đàng sau đại lộ chính, khu Arbat, nơi các n hà văn và trí thức yêu
chuộng. Vào tháng Ba năm 1934, mẹ tôi, em trai tôi và tôi theo ông đến đây.

Chúng tôi hội nhập từ từ với ngôn ngữ và văn hóa lạ lùng, e ngại lối hành sử mạnh bạo
của những đứa trẻ chơi cùng sân. «Nemets-perets, kolbassa, kislaya kapusta, » bọn
chúng hò hét: Bọn Đức - muối tiêu, tương, cải chua ». Bọn chúng cũng chế diễu áo khoác
ngắ n của chúng tôi và chúng tôi nài nỉ mẹ tôi cho chúng tôi cái dài hơn. Cuối cùng bà
xiêu lòng và thở dài: «Chúng bay trở thành người lớn sạch sẽ rồi đấy ».

Chẳng bao lâu chúng tôi bị lôi cuốn bởi môi trường bao quanh. Trải qua thời niên thiếu
trong một làng xã Đức quốc, chúng tôi choáng ngộp vì cảnh sinh động của thành thị với
phong cách mạnh bạo và sắp sẵn. Thời kỳ này thiên hạ vẫn còn khạc nhổ vỏ hạt hướng
dương xuống đất và cỗ xe ngựa kéo vẫn còn cọc cạch trên đường phố Moscow vẫn là một
«ngôi làng lớn », một thành phố với lối sống của nông dân. Đầu tiên chúng tôi theo học
trường Đức Karl Liebknecht (một trường học cho con cái của những bố mẹ nói tiếng Đức,
lấy tên của một nhà lãnh tụ Xã Hội theo phong trào nổi dậy Spartacist tháng Giêng năm
1919, bị ám sát sau đó không bao lâu), sau đó, chúng tôi vào trường Trung Học Nga. Ở
tuổi niên thiếu khó mà phân biệt chúng tôi với các bạn gốc bản xứ học cùng trường, vì

5
chúng tôi dùng ngôn ngữ đàm thọai Nga với giọng Nga. Chúng tôi có hai người bạn đặc
biệt, đó là G eorge và Victor Fischer, hai người con trai của ký giả Hoa Kỳ Louis Fischer.
Chính họ đã gắn cho tôi biệt h iệu «Mischa»,và từ đó gắn chặt vào tên tôi. Em tôi, Koni, e
ngại bị ngồi chầu rìa lấy tên Nga thu ngắn là «Kolia».

Thành phố Moscow vào thập niên 30 trong ký ức của tôi luôn là thời tranh tối tranh sáng.
Thành phố thay đổi trước mắt chúng tôi. Bấy giờ tôi trở thành một thanh niên khá chững
chặc và không còn xem Stalin là ông ảo thuật gia nữa. Các cao ốc mới với nhiều tầng bắt
đầu xuất hiện quanh điện Cẩm-linh và số lượng xe cộ di chuyển bất thình lình gia tăng,
các xe sedan đen láy thay thế cho những xe ngựa kéo, làm như thể có ai vẫy một chiếc
đũa thần biến Moscow của qua khứ trở thành một phong cảnh vị lai. Các hầm xe điện
khang trang, với những bóng đèn kiểu Art Déco và cầu tháng máy thẳng giốc làm choáng
váng mặt mày, ồn ào sinh động, và chúng tôi bỏ cả một buổi trưa sau khi tan trường đi
xem những vòm trần,vang dội như ngôi nhà thờ lớn dưới hầm . Thảm cánh thiếu ăn thập
niên 20 chợt đến, nhưng mặc dù cảnh cao ốc mới mẻ, các bạn bè của gia đình chúng tôi,
phần đông là trí thức Nga, phải sống chật chội trong những căn phong nhỏ bé. Diễn hành
ngày 1 tháng Năm (Ngày Quốc Tế Lao Động) thật là ngọan mục. Những tin tức khích lệ
trong ngày đem lại cảnh rực rờ của thời đại, chẳng hạn như cảnh cứu thoát can truờng
của đội thám hiểm Chelyushkin khỏi băng đá trong vùng Biển Arctic sau khi họ chiếm
đóng Bắc Cực. Chúng tôi theo dõi những biến cố này với hứng thú của những đứa trẻ Tây
Âu xay mê đội bóng đá hoặc đội baseball của mình.

Với cùng một đam mê Koni và tôi, cả hai đều gia nhập Thanh Niên Tiền Phong Xô Viết –
một tố chức thiếu niên Cộng Sản tương đương với Hướng Đạo – và chúng tôi học những
bài hát chiến trận ca tụng đấu tranh gia i cấp và Tổ Quốc. Là Thanh Niên Tiền Phong,
chúng tôi diễn hành trong ngày trọng đại Cách mạng tháng 11 tại Quảng Trường Đỏ kỷ
niệm Cách Mạng Xô Viết, hô to những khẩu hiệu vinh danh trước hình tượng nhỏ bé mặc
áo choàng đứng ở lan can phía trên mộ của Lê -nin.Chúng tôi nghỉ cuối tuần ở ngọai ô
nông thôn Moscow, đi lượm nhặt dâu và nấm bởi vì cha chúng tôi mặc dù sinh sống tại
thành phố nhất quyết bảo tồn lòng yêu mến thiên nhiên theo quan niệm sống của ông.
Tôi vẫn thèm những món ăn của Đức và thấy chương trình ăn uống Nga với món ăn chính
lúa mạch đen và thịt ba rọi cùng với sữa chua, thật là tẻ nhạt. Nhưng từ khi tôi bắt đầu
ưa thích các thức ăn đa dạng của Nga, và nếu buộc lòng nói, tôi giỏi nhất về món nhồi
Pelmini ở vùng Tây-Bá-Lợi-Á. Nhưng tôi chẳng bao giờ ưa thích món thịt ba rọi với lúa
mạch đen, có lẽ vì tôi tiêu thụ hàng tấn món này hồi thiếu thời.

Mùa hè tôi được phái vào trại Thanh Niên Tiền Phong và được phong chúc trưởng ban
lãnh đạo. Tôi viết thơ than phiền với cha tôi về kỷ luật quân đội dữ t ợn và hèn hạ tại đây.
Tôi nhận trở lại một lá thơ đặc biệt lạc quan , khuyến khích tôi kháng cự lại chế độ kỷ
luật này bằng cách thành lập một ủy ban bao gồm những bạn đồng đội thiêu niên. « Hay
nói với họ Đồng Chí Sta-lin và Đảng không thể chấp nhận lãng phí này. Phẩm chất là
quan trọng. Bất cứ ở hoàn cảnh nào, với cương vị một Thanh Niên Tiền Phong và đặc biệt
là cấp lãnh đạo, con không nên cãi vã! Con và các trưởng nhóm khác phải đồng thanh lên
tiếng với ban quản trị trại... Con không có quyền nản chí ».

Liên Bang Xô Viết bây giờ là gia đình duy nhất của chúng tôi, và vào ngày sinh nhật tôi
tròn 16 tuổi, năm 1939, tôi nhận căn cước Xô Viết đầu tiên của tôi. Cha tôi viết cho tôi từ
Paris « Bây giờ con đã trở thành công dân thực thụ của Nhân dân Xô Viết », điều làm cho
tôi cảm thấy hãnh diện. Nhưng càng lớn lên, tôi ý thức được tinh thần mộng tưởng lây
lan của cha tôi không phải là sở trường của tôi. Bản tính tôi thực tiễn hơn cha tôi. Lẽ cố
nhiên, đây là một thời gian say đắm nhưng đồng t hời cũng là thời k ỳ thanh trừng; những
người đã từng được ca tụng là anh hùng Cách Mạng nay bị tố cáo một cách dã man đã
phạm tội và thường bị kết án tử hình hoặc bị giam tại các trại tù ở miền Bắc Cực. Mạng
lưới do NKVD – cơ quan công an mật vụ tiền thân của Sở Mật Vụ KGB – bủa ra xiết chặt
vòng vây các bạn di cư và nh ững người thân thuộc. Tình trạng này khiến các thanh niên
chúng tôi bối rối, mù tịt và khó hiểu, vì chúng tôi được dậy dỗ trong truyền thống tin
tưởng Liên Bang Xô Viết là hải đăng của tiến bộ và tinh thần nhâ n bản.

6
Nhưng trẻ con rất bén nhạy trước những im lặng và tránh né, và chúng tôi thầm hiểu
chúng tôi không thể nào biết toàn bộ sự thật về môi trường quanh c húng tôi. Rất nhiều
giáo viên giảng dạy cho chúng tôi mất tích trong khoảng thời kỳ thanh trừng 1936 -38.
Trường học đặc biệt dậy tiếng Đức cũng đóng cửa. Trẻ con chúng tôi để ý người lớn
không bao giờ nói đến những người « mất tích » trước mặt mọi người trong gia đình, và
chúng tôi tự động kiêng dè thói tục xã giao kỳ lạ này. Cho đến khi chúng tôi chạm trán
tính cách quy mô và kinh hoàng của những tội ác của Stalin và trách nhiệm của ông
trong những vụ này. Nhớ lại thuở trước, ông là lãnh tụ, là hình ả nh của một người cha,
với khuôn mặt chữ điền, với bộ râu ria, ánh mắt nhìn thẳng của một người có viễn kiến
qua những bức hình treo trong các lớp học của chúng tôi. Con người và công trình của
ông đứng trên mọi phê bình, đứn g trên mọi nghi vấn. Năm 1937 , khi guồng máy tàn sát
bắt đầu chạy với mức độ hữu hiệu khủng khiếp, một trong những người quen biết của gia
đình chúng tôi, Whilhelm Wloch, người đã liều lĩnh làm việc cho Comintern (Cộng Sản
Quốc Tế) trong bóng tối tại Đức và hải ngoại , bị bắt. Những lời cuối cùng ông nói với vợ
như sau: «Đồng chí Stalin không hề biết việc này».

Lẽ cố nhiên, cha mẹ chúng tôi che dấu chúng tôi những nỗi lo sợ về cảnh đổ máu này.
Trong tâm trí của họ , mặc dù họ có những mối nghi ngờ và thất vọng, Liên Bang Xô Viết
luôn là «nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên » mà họ đã hã nh diện báo cho chúng tôi biết sau
khi họ thăm viếng năm 1931.

Cha tôi, bây giờ tôi biết, lo sợ cho tính mạnh của ông mặc dù vợ và các con ông có quốc
tịch Xô Viết vì chúng tôi sống nơi này, ông sống phần lớn thời gian ở ngọai quốc và vì vậy
ông không có quốc tịch này. Tuy nhiên , ông vẫn có thể di chuyển với thông hành Đức,
dù là quốc tịch này của ông đã bị thu hồi. Ông cũng đã nộp đơn xin phép chính quyền Xô
Viết rời Moscow để đi Tây-Ban-Nha, tại đây ông muốn đem tài bác sĩ để phục vụ cho
Chiến Đòan Quốc Tế đánh lại chế độ Phát-xít của tướng Franco thời kỳ nội chiến tại đây.
Tây-Ban-Nha là một đấu trường quân đội Quốc Xã dùng để thử nghiệm tiềm năng tiêu
diệt của họ, họ thực tập để chuẩn bị tấn công sau này các thế lực yếu kém khác. Khắp
châu Âu, các chí nguyện quân thiên tả đổ x ô vào để giúp cánh Cộng Hòa chống lại nhóm
quân đội nổi dậy của Tây-Ban-Nha. Đối với nhiều người tại Liên Bang Xô Viết, tham dự
chiến trận tại đây có nghĩa là rời khỏi Liên Bang Xô Viết và tránh xa không khí đàn áp của
những cuộc thanh trừng. Một chục năm sau, một người bạn tin cậy trong gia đình kể cho
tôi nghe cha tôi tìm cách để đi Tây-Ban-Nha: «Mình không lẽ ngồi đây mãi để chúng đến
bắt». Tiết lộ này khiến tôi đau lòng, mặc dù tôi đ ã trưởng thành, vì sự kiện này cho tôi
thấy cha mẹ chúng tôi che dấu rất nhiều phiền muộn và chuyện thầm kín không cho trẻ
con chúng tôi biết vào thập niên 1930, và không biết bao nhiêu sầu muộn đã được cất
giấu quanh chúng tôi trong đám bạn bè của chúng tôi tại Moscow.

Cha tôi chẳng bao giờ đi được Tây -Ban-Nha. Đơn xin chiếu khán cả năm không được trả
lời. Càng ngày càng nhiều bạn bè và người quen biết trong cộng đồng Đức bị mất tích và
cha mẹ chúng tôi không còn che dấu được mối lo âu. Có một hôm giữa đêm thình lình
chuông cửa reo, cha tôi thói thường bình tĩnh đã nhảy nhổm và phát cáu. Khi được biết
người khách lạ chỉ là ông láng giềng đến mượn một món vật gì đó, cha tôi bình tĩnh trở
lại, nhưng tay ông run bần bật đến nửa tiếng đồng hồ mới hết.

Có lẽ ông có người đỡ đầu che chở trong cấp lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Đức lưu vong.
Tôi biết ông liên lạc với Whilhelm Pieck, một trong những khuôn mặt lớn vào thời đó và
Pieck kính trọng cha tôi. Hay có lẽ ông gặp may. Dù sao đi nữa, ông được phép rời
Moscow năm 1938 và đi sang Pháp; tại đây vào lúc khởi sự Đệ Nhị Thế Chiến ông bị bắt
giữ một cách oái oăm vì là kẻ thù ngọai lai mang thông hành Đức. Tệ hại hơn nữa, sau
khi Quốc Xã chiếm nước Pháp năm 1940, ông và các bạn cùng tù trong trại Le Vernet
phải được trao trả cho chính quy ền Đức, có nghĩa là chắc chắn ông sẽ bị giết. Nhưng
cũng có thể nhờ vậy ông có cơ hội di cư sang Hoa Kỳ, nhưng trên đơn xin ông phải tuyên
bố ông không bao giờ là đảng viên Cộng Sản, điều ông từ chối vì tính ông trung thành.
Mẹ tôi ba năm trước đó đã hạch sách các cơ quan chính phủ tại Moscow, nơi ông tìm cách

7
bỏ đi, để cha tôi có được quốc tịch Xô Viết và hồi hương. Cuối cùng ông trở thành công
dân Xô Viết vào tháng 8 năm 1940.

Nhưng đến đây Hiệp Uớc Hitler – Stalin ký kết tháng Tám năm 1939 khiến cho đời sống
các di dân Đức tại Moscow khó khăn hơn bao giờ hết. Các cơ quan đã từng tiếp đón
chúng tôi như những nạn nhân của nhà nước ác độc Đức nay nhận lệnh không được khơi
động những cảm nghĩ xấu về Hitler. Đặc biệt đối với những gia đình như chúng tôi , đã
phải trốn chạy khỏi nước Đức để tránh họa Quốc Xã, thật là khó hiểu khi cấp lãnh đạo Xô
Viết lại có thể thỏa hiệp với họ . Vì chúng tôi là những thành phần năng động trong
Komsomol (Đoàn Thanh Niên Cộng Sản), chúng tôi được thông báo đó là cách duy nhất
của Stalin để tránh Liên Bang Xô Viết bị tấn công, và các cường quốc Tây Âu mong muốn
Nước Cộng Sản của chúng ta phải « xuất huyết cho tới chết » vì ngọn gươm của Quốc Xã.
Lối giải thích này có phần thuyết phục vào lúc đó, mặc dù chúng tôi cảm nhận đối với
cha mẹ chúng tôi đó là một xúc phạm khi Cộng Sản thỏa hiệp với tên độc tài mà họ trốn
chạy.

Để hòa nhập vào môi trường mới của chúng tôi, Koni và tôi, chúng tôi tự Nga hóa chúng
tôi một cách mau chóng. Chúng tôi nói tiếng Nga suốt ngày tại trường học cùng với các
bạn học, chỉ nghe tiếng Đức khi tối về trong phòng chúng tôi. Tôi cảm thấy thích thú khi
các đứa trẻ khác kêu tôi Mischa, có nghĩa là người ta có thể nhận lầm tôi là người Nga.
Chúng tôi lên giường ngủ, tai nghe đài phát thanh giọng thét của Hitler tung hô vinh
quang của Đế quốc Đức.

Khi tôi kết thúc chương trình trung học, tôi bắt đầu học ngành kỹ sư hàng không. Nhưng
thình lình tình hình biến đổi khi Quân Đội Hitler tấn công Liên Bang Xô Viết với một mãnh
lực hung bao trong chiến dịch B arbarossa. Khi quân đội Đức tiến đến gần Moscow năm
1941, gia đình các thành viên của Hội Đoàn Kết Văn Sĩ, trong đó có gia đình chúng tôi,
được di tản đến Alma-Ata, thủ đô của Kazakhstan, cách Moscow 4 ngàn dặm ( khoảng
640 cây số). Nỗi hãi hùng trong chuyến đi ba tuần lễ vượt qua vùng Ural vẫn còn sống
động trong ký ức của tôi. Chuyến xe hỏa của chúng tôi bò trên tuyến đường sắt, và cứ
một tiếng đồng hồ xe chúng tôi phải rẽ tránh sang một bên để chuy ến xe hỏa đi ngược
chiều tiến về phía trận tuyến. Cha tôi chăm sóc bà Anna Akhmatova , thi sĩ nổi tiếng của
Nga, tiều tụy và đau yếu. Hai người chồng của bà đều mất tích trong cuộc thanh lọc và
một đứa con trai nằm trong trại tập trung. Tôi được phép lấy ch o bà phần thức ăn cấp
dưỡng gồm bốn trăm gram bánh mì đen và một ít nước ấm. Linh hồn của văn học Nga
nằm hôn mê và mệt mỏi, nay chính quyền chính thức coi bà như « vô danh », nhưng vẫn
được giới trí thức thờ phụng như một thần tượng đúng lúc họ đi cùng mộ t chuyến xe hỏa
của Hội Đoàn Kết Văn Sĩ.

Alma-Ata là một nơi hẻo lánh và lạnh lẽo, chúng tôi cách biệt thông tin với Moscow, đừng
nói chi đến thế giới. Phong cảnh đẹp, dân số chỉ gồm bốn ngàn người, Alma-Ata bỗng
nhiên tràn ngập với một triệu dân tị nạn, và cuộc sống trở nên chen chúc và khổ cực.
Năm 1942, Koni gia nhập Hồng Quân, nhưng vào lúc đó tôi được miễn vì ngành kỹ sư
hàng không là một công tác quan trong. Tôi vẫn đang ở tuổi lạc quan và nghĩ không một
tai họa nào có thể đổ lên đầu tôi, mặc dù xôn xao có tin quân đội Nga t ổn thất nặng nề.
Mặc dù được miễ n, tôi vẫn được huấn luyện quân sự, và vì tôi lớn nhất trong nhóm, tôi
luôn phải vác trên cái chân chạng ba đại liên nặn g nề, nóng hơn một trăm độ Fahrenheit.
Phần lương thực của chúng tôi bớt đi chỉ còn năm trăm gram, và tôi có thể nói thật đó là
lần duy nhất trong đời tôi biết thế nào là đói. Nhưng có một vài trợ giúp và thay đổi nhờ
giới trí thức lưu đày Nga, đặc biệt là văn phòng quay phim Moscow. Buổi tối chúng tôi tìm
kiếm đến nhà đạo diễn đại t ài Sergei Eisenstein, và ông đọc cho chúng tôi nghe những vở
đọan của phim Ivan The Terrible( Ivan Khủng Khiếp) . Khi họ khởi sự quay phim, chúng
tôi đóng những vai phụ, nhận làm hiệp sĩ Đức xâm chiếm nhưng rồi bị đẩy lui. Nhờ có tập
luyện nhảy dù, tôi giữ những vai trò mạo hiểm, nhờ đó tiền lương tôi tăng gấp ba và điều
này giúp tôi trút bớt được gánh nặng buồn nản và thiếu thốn.

8
Đang học hành nửa chừng, t ôi nhận được một điện tín bí mật, ký tên « EKKI Vilkov ».
Bốn chữ EKKI thay cho Executive Committee Communist International (Ủy Ban Điều
Hành Quốc Tế Cộng Sản) của tổ chức Comintern , và do cấp lãnh đạo ngành nhân sự và
cán bộ ký tên. Tôi được lệnh di chuyển đ ến Ufa trước tiên, thủ đô cộng hòa tự trị
Bashkiria, nơi Cộng Sản Quốc Tế ( Comintern) và cấp lãnh đạo lưu vong của Đảng Cộng
Sản Đức được thuyên chuyển ra khỏi vòng vây Moscow.

Đảng quyết định gởi tôi đến trường Cộng Sản Quốc Tế, tại một ngôi làng nhỏ
Kushnarenkovo, cách Ufa 60 cây số, nơi các đảng viên Cộng Sản của các nước Âu Châu bị
chiếm đóng và nước Đại Hàn chuẩn bị giải phóng tổ quốc của họ và được huấn luyện để
đảm nhận trách nhiệm tương lai của họ . Tôi được dậy dỗ trong khuôn phép Thanh Niên
Cộng Sản nên tôi không thắc mắ c về các quyết định, mặc dù tôi nuối tiếc giấc mơ phác
thảo họa đồ phi cơ Xô Viết bây giờ khó lòng thực hiện được. Ngoài những nuối tiếc này,
tôi đoan quyết cuộc đấu tranh chống Hitler quan trọng v à vinh dự hơn việc học hành của
tôi.

Đời sống tại trường Quốc Tế Cộng Sản, một tổ chức có nhiệm vụ đẩy mạnh cách mạng vô
sản quốc tế, được tổ chức trong không khí bí mật, điều làm tôi tự cảm thấy rất trưởng
thành. Ấn dấu của Đảng ăn sâu vào tâm khảm của tôi nên khi Đảng đòi hỏi nơi chúng tôi
một việc gì, chúng tôi ngoan ngoan tuân thủ. Họ nói « Nhảy », chúng tôi trả lới « Cao
đến đâu?». Tính bí mật ngự trị tuyệt đối trong trường học. Người ta đạt cho chúng tôi
những bí danh – của tôi là Kurt Förster, theo tôi tên này nghe rất là hăng hái. Mặc dù tất
cả những thanh niên Đức biết nhau từ Moscow, chúng tôi dùng những tên nay để gọi
nhau – một cách huấn luyện sơ khới trong phương pháp ngụy trang. Chúng tôi được huấn
luyện cách xử dụng tiểu liên, súng trường,và súng lục, chất nổ và lựu đạn , cách sử dụng
« kỹ thuật hoạch định mưu kế » trong các buổi họp và việc chuyển thông tin , căn bản
trong ngành điệp báo. Việc huấn luyện chính trị của chúng tôi đều nhắm vào thời gian
thắng lợi sau khi lật đổ Hitler. Chúng tôi quyết tâm thành lập một mặt trận chung bao
gồm tất cả các lực lượng chống phát -xít và dân chủ.
Chúng tôi cũng được huấn luyện kỹ lưỡng về kỹ thuật tuyên truyền. Trong một lớp huấn
luyện, một người được chỉ định để trình bày những lý luận của kẻ thù Quốc Xã đạt đến
mức thuyết phục tối đa, trong khi đó những người khác phản bác lại với những luận cứ
chống phát -xít. Tôi thích thú nhận thách đố đi sâu vào tư tưởng của kẻ thù và trình bày
rất rành mạch và với nhiều nhiệt huyết những lý luận ủng hộ Quốc Xã. Trong khi đó các
học viên chậm chạp hơn, có lẽ vì e ngại điểm sấu trong học bạ bi ghi nhận là thanh niên
Cộng Sản không kiên định, chỉ nhắc lại như con vẹt bài bản đã ghi giải thích sẵn không
lấy gì làm phấn khởi. Có một lần, các bạn học của tôi bị quở trách vì trả lời không đủ sâu
sắc và gẫy gọn ch ống lại những luận điệu của phát-xít, tôi nghĩ thế. Ông thầy chúng tôi
la hét: «Chúng bay làm nên trò trống gì nếu chúng bay phải lý l uận với một tên Quốc Xã
thực sự? ». Tôi tranh đua thực sự trong những đấu trường ý thức hệ kỳ lạ này với
Wolfgang Leonhard; ông này vài năm sau, năm 1949, trốn chạy Đông Đức đế đi Nam Tư
(Yougoslavia) và trở nên một nhà nghiên cứu lỗi lạc về Liên Xô tạ i Đức và sau này tại các
đại học Harvard và Yale. Một trong n hững oan trái của đời tôi là khi Giáo Sư Leonhard
dùng tài biện luận ông đã mài dũa trong trường Quốc Tế Cộng Sản (Comintern) để chống
lại hệ thống Xô Viết, còn tôi, tôi vẫn tiếp dùng khả năng của mình để bào chữa cho nó.
Tại trường Quốc Tế Cộng Sản, tôi gặp Emmi Stenzer, người vợ tương lai của tôi. Tôi chưa
bao giời gặ p một người đàn bà nào đem hết tâm can vào công tác chính trị như vậy, một
công tác mà cô ta cống hiến cho người cha , ông Franz Stenzer, môt dân biểu Quốc Hội bị
Quốc Xã giết tại Dachau năm 1933. Cô có mộ t người bạn trai người Tây-Ban-Nha khi
chúng tôi gặp nhau lần đầu, và chỉ sau khi chúng tôi rời trường Quốc Tế Cộng Sản và gặp
nhau lại tại Moscow, chúng tôi yêu nhau. Tôi thán phục tinh thần độc lập và ý chí của cô
sau bao nhiêu khó khăn thời niên thiếu. Cô đã trải cuộc đời trong cô nhi viên của một
thành phố kỹ nghệ thê lương của Ivanovo sau khi mẹ cô bị bắt tại Moscow vào những
thập niên 30 trong một cuộc bố ráp toàn diện các người ngọai quốc thường trú vì tình
nghi có họat động chống Xô Viết (mẹ cô sau này được thả ra).

Bertolt Brecht viết cho vợ Helene Weigel và nói đến tầm quan trọng của « sự vật

9
thứ ba » luôn luôn nằm giữa hai người – chia sẻ cùng một Hoài Bão – và trở nên một
thành phần sinh động của mối tình của họ. Thời buổi bây giờ, thiên hạ có thể chế diểu,
nhưng vào thời buổi tư tưởng chính trị có thể đưa đến cái chết hoặc tù tội, chúng trở
thành cơ cấu tình cảm và trí t hức của đời người. Mặc dù tôi đã ly dị với Emmi sau gần ba
mươi năm ăn ở và đã tái giá hai lần, cô ta vẫn tiếp tục là bạn tri kỷ và giữ mối giây liên
kết tước đây với tất cả gia đình tôi qua việc quản thủ Thư Viện Friedrich Wolf tại Bá Linh.
Ngày 16 tháng Năm, cuộc đờ i của tôi thay đổi bất chợt qua một khúc quanh khác. Chúng
tôi đến lớp học và thấy trên bảng ghi một thông báo giải thích vì « những sự khác biệt về
điều kiện giữa các nước nâng đỡ chế độ độc đoán Quốc Xã và các dân tộc yêu chuộng
hòa bình », Đảng Cộng Sản Quốc Tế và trường học cần phải giải tán. Lẽ cố nhiên có
những lý do chính trị nấp đàng sau. Giải tán Quốc Tế Cộng Sản là một thỏa hiệp giữa
Stalin và các nước Đồng Minh Tây Âu, vì các nước này xem Quốc Tế Cộng Sản là một cơ
quan xách động cách mạng trong nước của họ.

Tôi cực kỳ may mắn vào thời điểm tôi được tuyển dụng. Lớp tố t nghiệp trước tôi đã được
thả dù vào nước Đức nhưng họ rơi vào bẫy của phản gián Đệ Tam Quốc Xã , vì Quốc xã
truyền đi những tần sóng phát thanh đánh lừa các cơ quan trách nhiệm Xô Viết. Họ bị cơ
quan Gestapo (Mật vụ của Đức Quốc Xã) và cơ quan phản gián quân đội của Hitler bắt và
đem tử hình. Hy sinh của họ giúp cho đội xâm nhập của chúng tôi tránh chia sẻ cùng một
số phận với họ. Chúng tôi chuẩn bị một đội bảo trì máy móc ở trong m ột nhà nông trại và
chúng tôi chuyển nhưng kiện vật liệu lên trên bờ sông Belaya.

Tuy nhiên chúng tôi không khỏi bỡ ngỡ vì quyết đị nh này. Phải chăng các vị giáo
sư của chúng tôi nói rằng Quốc Tế Cộng Sản là muôn năm, là thành tố cao đẹp nhất củ a
Đảng? Nhưng toàn bộ huấn luyện nhằm mục đích dậy cho chúng tôi tuân lệnh không đặt
vấn đề. Chúng tôi được học tập để chấp nhận tất cả những gì Đảng ra lệnh là đúng, và
chờ đợi những mệnh lệnh mới.

Có lẽ vì tôi là con của một tác giả có tiếng, cấp lãn h đạo Đảng nhận xét tôi thích
hợp với nhiệm vụ thông báo và bình luận trên Đài Phát Thanh của Nhân Dân Đức
(Deutsche Volksender), tiếng nói của Đảng Cộng Sản Đức trên đài Moscow, vì vậy tôi trở
về Moscow . Tôi trở thành đảng viên chính thức lúc tôi hai mươi tuổi và tham dự các cuộc
hội họp trong khách sạn Hotel Lux cũ tại căn phòng của Wilhelm Piecke,

Wilhelm Piecke

sau này trở thành tổng thống đầu tiên của nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức. Chính tại đây,
trong khách sạn sau này trở thành trung tâm thanh lọ c các đảng viên cộng sản ngọai
quốc, tôi gặp lần đầu các vị, như Walter Ulbricht và những người khác nữa, sau này sẽ
quản lý đất nước sau chiến tranh.

10
Walter Ulbricht

Emmi trong khi đó được gởi ra ngoài mặt trận để tuyên truyền tiêu cực qua máy vi âm
phát thanh bằng tiếng Đức trong chiến dịch chiến tranh tâm lý . Cô ta đi qua đi lại sát
chiến tuyến địch, la vang trong máy phóng thanh tuyên truyền chiến tranh đã chấm dứt
và kêu gọi binh lính Đức đầu hàng. Cô ta bị trọng thương tại Gomel, và vào ngày 24
tháng 9 năm 1944, ngại rằng chúng tôi sẽ chẳng còn bao giờ gặp mặt nhau nữa, chúng
tôi làm đám cưới. Tuy nhiên chúng tôi vẫn xa cách nhau trong những ngày tháng cuối
của cuộc chiến.

Ngày Mừng chiến thắng Đức Quốc Xã cuối cùng được cử hành vào tháng 5 và chúng tôi
không bao giờ quên nỗi vui mừng của cha mẹ chúng tôi và tôi hòa nhịp với đám đông
Moscow hoan hỉ. Koni đã có mặt trên đất nước Đức và đã tham dự vào cuộc tiến công sau
cùng vào Bá Linh và được sáu huy chương khen thưởng vì lòng anh dũng. Em tôi gởi thơ
nói rằng nó đang chờ chúng tôi, và tôi bắt đầu đóng thùng tất cả tài sản của thời niên
thiếu Nga. Tại trường Quốc Tế Cộng sản, chúng tôi biết chúng tô i đang chuẩn bị để trở về
Đức s au khi Đồng Minh chiến thắng. Thời cơ này đã đến.

11
Chương 3
Đệ tử của Stalin
Năm tôi mười một tuổi tô i rời nước Đức và đi Moscow và thêm mười một năm tôi
mới trở về Đức. Có người thường gọi đùa tôi có « nửa máu Nga », hàm ý có vẻ khen
nhưng đôi khi cũng soi bói, nhưng tôi không hề coi đó là một lời mắng nhiếc , việc bảo trợ
của người Nga là một yếu tố thiết yếu trong sự nghiệp của bản thân tôi. Các bạn đồng chí
Cộng Sản Đức biết cuộc đời niên thiếu của tôi được nhào nặn tại Liên Bang Xô Viết cùng
với tinh thần sâu xa của dân tộc Nga. Việc tiếp cận khắng khít với Liên Bang Xô Viết cho
phép tôi có một thẩm quyền hiểu biết mà tôi có thể dùng để á p đảo trong những cuộc
tranh luận.

Khi tôi trở lại thăm viếng Moscow sau này trong những chuyến công tác, tôi gỡ bỏ
mau chóng căn cước chính thức quốc tịch Đức của tôi để hòa nhập vào dáng dấp quen
thuộc của một người dân Moscow , lang thang trên đường phố và trò truyện với mọi ngườ i
một cách thân thuộc hơn cả đối với thành phố Bá Linh và người Bá Linh. Tôi tiến đến căn
nhà cũ của chúng tôi tại Đại Lộ Nizhn y Kizlovsky, bây giờ có bảng ghi dấu tưởng nhớ cha
tôi và em tôi, và tôi thăm viếng rất nhiều bạn bè cũ tại khu phố Arbat. Tôi sẽ cùng với
ông bạn Alik, mất một chân vì chiến tranh và nay là Giáo Sư dạy tiếng Đứ c, đi dạo ngang
qua phố láng giềng cũ đến đường Gorky, bây giờ được gọi trở lại là Tverskaya như hồi
trước Cách Mạng . Khi còn là sinh viên, chúng tôi đứng xếp hàng cả giờ để kiếm ghế ngồi
tại Nhà Hát Nghệ Thuật Moscow xem tài nghệ diễn xuất của đại kịch gia Tarasova trong
vở Anna Karenina, hoặc xem Michoels, một ngôi sao sáng của kịch trường Do Thái, nằm
bên cạnh trường học chúng tôi.

Chúng tôi yêu thích văn học cổ điển Nga và các nhà văn hào Châu Âu thế kỷ thứ
mười chín – Heine, Balzac – cũng như Galsworthy, Roger Martin du Gard và cú pháp chặt
chẽ và mạnh mẽ của Hemingway. Khi chúng tôi có một buổi họp vào hè năm 1941,
chúng tôi chèo ghe đến dưới một v òm cầu hẻo lánh của Sông Moscow và ngâm những
câu thơ của Aleksandr Blok và Sergei Yesenin.

Mấy năm nay, mỗi khi tôi rời Moscow, tôi đau quặn lòng vì nhớ quê nhà, nhưng
khác v các bạn Đức của tôi đã định cư tại đây, tôi chẳng bao giờ muốn ở lại Moscow cho
ới
đến mãn đời tôi. Nước Đức vẫn là Heimat (Tổ Quốc) của tôi , và đây là nơi tôi được mời về
để thi thố những gì Quốc Tế Cộng Sản đã đào luyện cho tôi và áp dụng kinh nghiệm phát
tuyến tôi đã học hỏi . Tôi tròn hai mươi ba tuổi và là một thanh niên khôn ngoan và nhiều
tham vong nhưng đầu óc vẫn còn khờ dại khi tôi trở về lại Đức đối diện những thực tế tôi
phải đương đầu . Việc huấn luyện chúng tôi đặt rất nặng trên nền tảng ý thức hệ và chú
tâm đến chiến dịch tẩy sạch những vùng lãnh thổ Quốc Xã b ị đánh bại. Chúng tôi không
thể hình dung được sức chấn động nội tâm khi chúng tôi đối diện với các người đồng
hương sau khi thế giới của họ sụp đổ, một cuộc bại trận to lớn của một quốc gia và màn
kết thúc nhục nhã của tên độc tài đã làm cho họ say mê.

Chúng tôi, thanh niên Cộng Sản từ Moscow trở về, cảm nhận mình là những bó
đuốc chính trị soi sáng, minh chứng bằng chính gương sáng của chúng tôi cho thấy phe
Tả tốt lành hơn phe Hữu. Lệnh ban đầu chúng tôi nhận được là không áp đặt cơ cấu Cộng
Sản trên những vùng chiếm đóng của Xô Viết trên nước Đức, nhưng tạo nên một liên
minh rộng lớn chống phát-xít do chính chúng tôi thành lập. Đây không phải đơn thuần là
một chiến thuật mà đối với chúng tôi và tất cả các đảng viên Cộng Sản, đó là một nhu
cầu. Chúng tôi học hỏi kinh nghiệm từ Hitler làm thế nào để tiêu diệt cánh Tả. Stalin,
trên thực tế và thoạt tiên không hy vọng có cơ may xây dựng được một chính quyền theo
kiểu Xô Viết trên phần đất của Đức và muốn có những chọn lựa mở ngỏ với Đồng Minh
Tây Phương.
Chúng tôi trở về nước Đức tiếp cận thực tế tàn nhẫn và khó chịu hơn hẳn những gì
chúng tôi dự đoán. Em tôi, Koni, phản ánh sự kiện này mấy năm sau trong một bộ phim
diễn tả tâm trạng các thanh niên phải đối đầu với những cảnh tượng man rợ không bút
nào tả xiết, Tôi Tròn Mười Chín Tuổi. Em tôi tô đậm nét tương phản giữa hình ảnh tuổi
thơ của trang thiếu niên anh hùng với một xã hội hỗn loạn , trong đó các thị trưởng thành
phố vội vã thu cất lá cờ Quốc Xã – hoặc đôi khi chỉ cắt vòng tròn và chữ vạn đen ở trung
tâm lá cờ – khi Hồng Quân tiến đến gần.

Trong khi Koni, với trách nhiệm của một sĩ quan lãnh đạo của quân đội Xô Viết ,
góp sức thiết lập nền tảng guồng máy hành chánh hậu Quốc Xã trong vùng chiếm đóng
của Liên Bang Xô Viết, tôi được lệnh đến Bá Linh tháp tùng bộ tham mưu Đảng. Ông
Walter Ulbricht, với đầu óc sắc bén và khuôn mặt râu rậm, hiện thân là lãnh tụ của Đảng
Cộng Sản Đức lưu vong, đã rời Moscow để đến Bá Linh hồi tháng 4 cùng với khuôn mặt
khả ái của Whilhelm Pieck và một nhóm nhỏ tiên phong của đảng. Phần còn lại trong
nhóm của chúng tôi bay về Đức một tháng sau, vào ngày 27 tháng Năm , trên chuyến phi
cơ quân sự Douglas DC-3 ; tất cả chúng tôi đều mặc quần áo dân sự mới cắt chỉ. Từ trên
không trung, chúng tôi nhìn xuống chỉ thấy những tàn phá của chiến tranh.

Đoàn chúng tôi rất là hỗn tạp – Cộng Sản cũ và tù binh Đức con cái của những
đảng viên cộng sản cũ. Không ai có một chút ý niệm gì về những gì sẽ diễn ra và chúng
tôi nói chuyện và bàn bạc về những gì chúng tôi có thể sẽ gặp. Chúng tôi cũng không
biết rõ Đảng Cộng Sản có được phép họat động tại Đức không . Không thấy ai đề cập đến
ý thức hệ để xây dựng một nước Đức mới. Công việc đầu tiên chúng tôi phải làm là một
công việc căn bản: tổ chức lại cuộc sống thường ngày để người Đức sinh sống .

Emmi cùng đi với tôi, lần đầu tiên chúng tôi sống chung với nhau như vợ chồng.
Đ ối với cả hai chúng tôi, hành trình trở về quê nhà vừa phấn khởi vừa đau đớn khi chúng
tôi nhìn thấy cảnh thảm não và tan nát của các thị xã và thành thị Đức . Chúng tôi cũng
đã thoáng nhìn cảnh tàn phá của Warsaw trên đường bay về Bá Linh. Nó hoàn toàn bị tàn
phá, khói nghi ngút bay lên từ những đống gạch vụn như thể trong nhà táng. Phi cơ của
chúng tôi là chiếc đầu tiên đáp xuống phi trường Tempelhof vừa mới mở lại ; phi trường
này ba năm sau đã được dùng làm trạm liên lạc không vận của Đồng Minh khi Bá Linh bị
bế môn phong tỏa . Sự tàn phá của Bá Linh hầu như toàn diện không ai nghĩ có thể t ái
thiết lại được.

Vì chúng tôi là những đứa con của Quốc Tế Cộng Sản, chúng tôi có tinh thần quả
quyết rất cao. Chúng tôi muốn gột rửa cho nhân dân vết nhơ quá khứ Quốc Xã và hết
lòng tin tưởng vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa chúng tôi được nuôi dưỡng để có thể rửa
sạch và tái tạo nước Đức. Tôi không ngờ việc hòa nhập sống chung với những người đã
từng tung hô Hitler và Goebbels khó khăn hơn tôi nghĩ. Phần đông hầu như không có khả
năng hoặc không muốn hiểu những gì Quốc Xã đã làm với sự trợ giúp của họ ho ặc nhân
danh họ. Chẳng có mấy ai cảm thấy có tội hoặc có trách nhiệm với những gì đã xẩy ra.
Emmi có lần nghe trộm một nhóm phụ nữ bàn thảo về báo cáo tội ác chiến tranh của Đức
do đài phát thanh do tôi điều khiển loan truyền. Họ nói và dùng những ngôn ngữ của
nhóm quốc gia cực đoan Hitler mà họ đã nghe từ mười hai năm nay « Người Đức không
bao giờ làm một việc như vậy ».

Dưới nhãn quan của nhiều người Đức và của phần đông thế giới, chúng tôi trở lại
từ phía Đông mang theo với chúng tôi một chế độ độc tài khác. Nhưng chúng tôi không
tự xem chúng tôi là những người thay thế chế độ độc tài Nâu bằng một chế độ độc tài
Đ ỏ, như Tâ y Âu sau này vẫn nhìn chúng tôi. Chúng tôi người Cộng Sản Đ ức có lẽ là
nh ững người ngoại quốc mù tịt nhất về những tội ác của Stalin, vì chúng tôi đã được Liên
Bang Xô Viết cứu khỏi cái chết hoặc tù tội tại Đức. Tất cả những mối nghi ngờ về những
gì đang xẩy ra bị che lấp bởi những biến cố dưới chế độ hung bạo của Hitler, và tôi không
thể nào nhìn thấy hệ thống xã hội chủ nghĩa là một chế độ độc đoán. Đối với tôi và đối
với thế hệ Cộng Sản chúng tôi, đó là một lực lượng giải phóng . Có thể phương pháp của
họ mạnh bạo, nhưng chúng tôi luôn luôn cảm thấy đó thực sự là một lực lượng lương
thiện và những cố gắng để thuyết phục tôi phải thay đổi suy nghĩ hầu như vô hiệu .

Nếp suy nghĩ này quyết định não trạng của chúng tôi tr ong suốt thời gian Chiến
Tranh Lạnh. Điều này có nghĩa mỗi lần chúng tôi nghe mô tả một hình ảnh không đẹp đẽ
của phía chúng tôi, câu hỏi xuất hiện đầu tiên trong đầu óc không phải là « Điều này có
đúng không?» mà là « Bọn họ đang tìm cách che đậy gì đây khi họ tố cáo chúng ta điều
này?». Một khi hệ thống phòng thủ trí não đã được hoàn chỉnh, ít lời c hỉ trích nào có thể
làm suy xuyển nổi tinh thần chúng tôi.

Chúng tôi cũng còn ngây thơ. Tôi hy vọng sẽ có thêm nhiều người Đức, sau khi bị
chấn động vì bại trận, tỏ ra biết ơn được cởi bỏ ách của Hitler và ôm chầm đoàn quân Xô
Viết như đoàn quân giải phóng. Thực tế có phần hơi khác. Nơi cư xá tôi ở, tôi nghe trộm
các người láng giềng cãi cọ xem ai là người sẽ được dời đến những căn phòng rộng rãi và
thông thoáng nằm đối diện với căn phố chúng tôi, nơi đây một gia đình Quốc Xã bị trụ c
xuất. Sự sụp đổ của nước Đức, một cường quốc thế giới, đã không hủy diệt ước vọng của
người dân mong muốn có được « Lebensraum » (Không gian sinh tồn) * Lời dịch giả :
Thuyết « không gian sinh tồn » được Quốc Xã sử dụng để biện minh cho chính sách bành
trướng lãnh thổ của nước Đức .

Tôi cảm thấy đau xót vì vấn nạn này. Tôi tức điên tiết khi tôi nghe người khác kể lại gia
đình đòi căn phố này dựa trên chứng cớ họ không là đảng viên của Quốc X ã, nhưng thực
ra họ bị ghi trong sổ hộ tịch địa phượng là « những kẻ tố cáo », họ đã tố giác năm đảng
viên Công Sản cho chính quyền.

Làm sao tôi có thể ngu muội trước cảnh mỉa mai của lời kêu gọi của chúng tôi
nhằm thiết lập một trật tự nhân bản và yêu chuộng hòa bình ? Tôi chỉ có thể trả lời là một
phần con người của tôi trải qua những năm tháng tại Liên Bang Xô Viết đã trở thành nửa
Nga và nhìn nhận phần nảo khát vọng trả thù vì những kinh hoàng mà Quốc Xã đã gieo
rắc. Tôi thiết nghĩ sau một cuộc tháo chạy tán lọan như vậy khát vọng trả thù sẽ lắng dịu
và sau đó chúng tôi có thể xây dựng mối liên hệ Đức Nga, không chút tham vọng chế
ngự lẫn nhau.

Một vài ngày sau khi chúng tôi đến, chúng tôi được lệnh trình diện Ulbricht từng
người một. Ngắn gọn, ông vạch rõ vai trò hành chánh của chúng tôi trong vùng kiểm
soát của Liên Bang Xô Viết. Tôi đuợc chuyển sang Đài Phát Thanh Bá Linh làm biên tập
viên; đây là một công thự đồ sộ tại Charlottenburg, nằm trong vùng kiểm soát của Anh
quốc, trước đây là Đài Phát Thanh của Josef Goebbels nay rơi vào tay của quân đội Xô
Viết . Lúc đầu tôi cự nự lệnh của Ulbricht, vì tôi được huấn luyện để trở thành kỹ sư hàng
không và tôi không biết gì nhiều về kỹ thuật sách động – mặc dù khi tôi còn nhỏ tôi
sống trong khung cảnh đó, nhưng đây là một chương tình huấn luyện để chống lại chủ
thuyết Quốc Xã. Khi tôi hỏi ông Ulbricht đến khi nào tôi được phép hoàn tất học vấn về
hàng không tại Moscow, ông quát mắng « Anh thi hành công tác của anh đi. Chúng ta có
nhiều việc phải lo toan hơn là làm tàu bay ». Mặc dù lo sợ lúc ban đầu, nhưng khi tôi làm
phóng sự và bình giải chính sách ngoại giao (với bí danh là « Michael Storm ») tôi cảm
thấy công việc hấp dẫn. Nằm xa khu vực kiểm soát Xô Viết , ngay trong khu vực Anh
quốc, đài phát thanh của chúng tôi đúng là tiền đồn trong cuộc Chiến Tranh Lạnh bắt đầu
khởi sự. Khoảng cách giữa Bộ Tham Mưu Đảng tại Bá Linh với nơi chúng tôi làm việc cho
phép chúng tôi hoạt động có ít nhiều phần độc lập. Tôi có một tập nhỏ do Ulbricht viết
khi còn ở Moscow chỉ thị đường hướng của Đảng và nhấn mạnh công cuộc đấu tranh
chung chốn g phát-xít, nhưng, trong thuở ban đầu , đó là tất cả chỉ thị chính trị mà tôi
nhận được.

Đôi khi tôi đụng độ với Ulbricht. Trong một chương trình tôi điều khiển gọi là
« Diễn Đàn Dân Chủ », ông là phát ngôn viên của Đảng Thống Nhất Xã Hội Chủ Nghĩa
(SED) (hiện nay là Đảng Cộng Sản, đượ c thành lập do sự phối hợp của đảng viên Cộng
Sản với đảng viên Dân Chủ Xã Hội trong vùng chiếm đóng của Xô Viết năm 1946). Giọng
the thé pha trộn với tiếng dân miền Saxon của ông tạo nên một cảm giác không lấy gì
làm thú vị cho thính giả. Với lòng cương trực nguy hiểm của tuổi niên thiếu, tôi đề nghị
ông nên để một xướng ngôn viên đọc bài của ông đồng thời ông nên trau dồi luyện giọng.
Ông tỏ ra khó chịu ra mặt. Thật là một chuyện lạ, sự nghiệp tôi vẫn thăng tiến tại Bá
Linh với một bước đầu thật là vụng về .

Chúng tôi cố gắng đưa đài phát thanh đến gần quần chúng một các h sống động
bằng cách trả lời những câu hỏi về những vấn đề xem như cấm kị chẳng hạn như số phận
của trăm ngàn tù binh Đức giam giữ tại Liên Bang Xô Viết, số phận của các công chức
nhỏ của Quốc Xã được xét xử như thế nào và biên giới mới thâu ngắn của nước Đức trên
dòng sông Oder và Neisse ; điều đáng ngạc nhiên , những đề tài này không cấm kị đối với
các sĩ quan Xô Viết giám sát đài phát thanh. Cuộc tranh đấu gay go của chúng tôi là
chống lại lệnh các sĩ quan Xô Viết phải phá t thanh giờ này sang giờ k hác những bài diễn
văn chán ngấy . Có một bài diễn văn hầu như dài vô tận đọc tại Liên Hiệp Quốc của bộ
trưởng ngọai giao Andrei Vishinsky, rêu rao những cọ sát tro ng môi tương quan giữa
Moscow và Đồng Minh phía Tây. Tuyên truyền loại này đưa đẩy thính giả vào tay của đài
phát thanh mới thành lập RIAS ( Radio in American Sector) đài phát thanh trong vùng
kiểm soát của Hoa Kỳ.

Cũng có những vấn đề khác nữa. Chúng tôi không được phép tự do thông tin về
mối tương quan giữa nhân dân Đức với quân đội chiếm đóng Xô Viết, cũng không được
nói về những vụ hãm hiếp v à cướp bóc diễn ra cùng với bước tiến của Hồng Quân vào Bá
Linh. Chiến dịch đối xử bạo tàn đối với đám quần chúng bại trận, đặc biệt tại Đông Phổ
(East Prussia) không còn là một bí mật nữa. Như mọi người dân Đức, chúng tôi khiếp
đảm vì những tin này, và chúng tôi cảm nhận phương cách duy nhất để dân Nga và dân
Đức xích lại gầ n nhau là công khai nói về mọi tội ác chiến tranh. Cấp lãn h đạo Cộng Sản
Đức tỏ ra phẫn nộ vì cách hàng xử của đám quân tội lệ của Hồng Quân khiến cho việc
thu hút nhân tâm về phía chúng tôi càng trở nên khó khăn thêm. Chúng tôi cũng có ý
kiến của chúng tôi nhưng chúng tôi không thể phát biểu công khai, và các sĩ quan Xô Viết
có trình độ văn hóa cao hơn cũng âm thầm nhìn nhận những trò thô bạo như vậy không
được phép xả y ra. Nhưng chính ngay từ ngữ « Nga » đã được bộ máy tuyên truyền của
Quốc Xã liên tục sử dụng không ngừng nghỉ để khơi động lòng căm thù sơ đẳng, nay một
lần nữa được gán ghép với sự sợ hãi.

Là đảng viên của Đảng Cộng Sản Đức, chúng tôi không lên tiếng phản đối những
lối hành xử tàn ác này mà đáng lý ra chúng tôi phải lên tiếng vì hai lý do chính. Thứ nhất
một người Đức tỏ ra bất nhã khi chỉ trích người Nga về tính thô bạo, so với những tàn
phá của Quân đội Đức đã gieo trên đất của Liên Bang Xô Viết khi họ chiếm đóng. Trong
lòng chúng tôi, những người trốn chạy nước Đức của Hitl er, có lẽ vẫn còn một chút hận
thù đối với chính những người dân đã chấp nhận trở thành công cụ của Đệ Tam Quốc Đức
(Third Reich). Lý do thứ hai đơn giản là chúng tôi gạt bỏ những mối nghi ngờ về hành vi
của quân đội Nga vì đề vấn đề ý thức hệ .

Có người hỏi tại sao tôi một thanh niên có giáo dục trong một gia đình có văn hóa
lại có thể gạt bỏ ra khỏi trí tu ệ bao nhiêu những biến cố bất ổn định như vậy. Tôi cũng tò
mò muốn biết những nhận định này, nhưng những từ ngữ chỉ thoáng lướt qua trong đầu
óc của tô i, bởi vì chúng được gạn lọc bởi một màn g lưới ý thức hệ. Vào thời kỳ đảo lộn
của thời hậu chiến, lòng thù hận mong muốn báo thù phá lẫn với lòng đố kị, nơi đâu cũng
có bất công cả, tuy nhiên chúng tôi chú tâm đến việc ngăn chặn không cho chủ thuyết
Quốc Xã tiêm nhiễm trở lại nước Đức. Thực vậy, phần đông các thính giả viết thư cho
chúng tôi đều quan tâm đến việc xóa bỏ những tàn dư của Quốc Xã hơn là số phần của
một vài người có thể bị thương tổn trong quá trình của sự việc.

Khi các viên chức chiếm đóng Xô Viết tổ chức bắt giam hàng lọat các cựu đảng
viên Quốc Xã và các thành phần chống đối Stalin, hàng ngàn đảng viên Dân Chủ Xã Hội
chống đối Quốc Xã cũng bị càn quét và một vài người bị đưa vào trại lao động, được
chính Quốc Xã một cách trớ trêu vừa mới xây dựng xong. Chúng tôi biết rất ít về những
sự kiện này, và những gì chúng tôi biết chúng tôi cho đó là trò tuyên truyền gian ác của
Tây phương. Ví dụ, tờ báo của Đảng Dân Chủ Xã Hội tại Tây Bá Linh, tờ Telegraph, đăng
một câu chuyện nói rằng tại một căn phòng của một ngôi nhà tôi ở, có người bị một biệt
đội cảnh sát K-5 thẩm vấn và tra tấn. Tôi công khai phủ nhận hoàn toàn điều này và tố
cáo tờ báo đã bịa đặt không những cảnh tra tấn mà ngay cả sự hiện hữu của biệt đội K -5.
Mãi sau này, khi tôi được bổ nh iệm làm việc tại Bộ An Ninh Nhà Nước, tôi mới khám phá
đội K-5 có thật và họ đã tra tấn những người tình nghi ngay dưới hầm că n nhà đó.

Trong suốt sự nghiệp của tôi, tôi bỏ qua, tôi cho là tiểu tiết hoặc tôi biện luận về
những giai đọan như vậy, và tôi chỉ biết nhắc nhở độc giả rằng tâm tính của tôi được
huấn luyện để chống chủ nghĩa phát-xít; chúng tôi cảm nhận đối với một địch thủ độc
đoán như vậy, hầu hết mọi phương tiện chống lại nó đều tốt. Trong tiến trình suy luận,
chịu ảnh hưởng của bài diễn văn bí mật Nikita Khrushchev đọc trước Đại Hội lần thứ Hai
Mươi của Đảng Cộng Sản năm 1953, trong đó ông tiết lộ những tội ác của Stalin cho các
đảng viên Cộng Sản ủng hộ Stalin và sau đó tiết lộ cho thế giới , tôi bắt đầu có những
cảm nhận khác. Nhưng vào lúc đó và trong hầu hết quãng đời của tôi, tôi tin tưởng chúng
tôi, những người Cộng Sản, đứng về phía canh tân và công bằng xã hôi. Điều này giúp
châm chế Moscow những kịch án thanh trừng, và bây giờ những bắt buộc của tình thế
Chiến Tranh Lạnh khiến cho chúng tôi bỏ qua những hành vi tấn công Đảng Dân Chủ Xã
Hội Đức, một đảng vẫn còn tồn tại sau Quốc Xã. Trong những trường hợp cá biệt, tôi
xoay sở trong phạm vi khả năng của tôi, nhưng tôi không gặp nhiều những trường hợp
này. Có lẽ tôi cảm thấy tôi miễn nhiễm với mốt số tiêu chuẩn đạo đức, một cảm nhận
được hỗ trợ bởi lòng tin rằng guồng máy Cộng Sản sẽ không bao giờ quật ngược lại tôi, vì
tôi là một đứa con của guồng máy. Tôi không bao giờ nghĩ tôi có thể là nạn nhân. Cả cha
tôi cũng vậy, và có lẽ đó là một lý do chúng tôi còn tồn tại. Cha tôi có lần đã viết cho
Stalin năm 1945, than phiền ông không trở về được nước Đức trên danh nghĩa một người
Do Thái, và khi cao trào tố cáo « bọn bác sĩ mưu đồ » vào những năm cuối của Stal in
nhằm tạo nên cớ bài miệt Do Thái tại Liên Bang Xô Viết, cha tôi và tôi không ai đụng
chạm đến. Cũng như vào lúc tình trạng bất an toàn diện và mối đe dọa trướ c chiến tranh,
trong sự hỗn loạn sau chiến tranh, tôi không cảm thấy có nhiệm vụ làm suy yếu nh ững
người đứng cùng phía với tôi để đấu tranh chống lại ác độc.

Lẽ cố nhiên tôi biết rất nhiếu về những tội ác kinh khủng vào thời Stalin ngay cả
khi chúng còn trong vòng dự mưu thực hiện. Người nào nói không biết gì cả là một thằng
nói láo. Có nhiều điều tôi nhìn lại tôi cảm thấy không hãnh diện chút nào. Có lúc tôi đề
cập đến vấn đề này với các cấp lãnh đạo Cộng Sản Đông Đức. Nhưng trong quá khứ cũng
như hiện tại, tôi không bao giờ đem tội ác của chế độ Cộng Sản lên bàn cân so sánh với
tội ác của Quốc Xã . Điều khiến tôi đoan chắc không thể nào cân bằng hai thể chế đó là
những sự kiện ghê r ợn nổi bật trong những vụ xét xử tội ác chiến tranh của các cấp lãnh
đạo Quốc Xã tại Nuremberg.

Tháng Chín năm 1945, tôi được đài phát thanh phái đến tòa án xét xử tội ác chiến
tranh Nuremberg để làm phóng sự. Chúng tôi chỉ được biết những sự kiện xẩy ra tại Quốc
Xã Đức qua bộ máy tuyên truyền của Xô Viết , chú trọng đến số phần của các đảng viên
Cộng Sản Đức. Chúng tôi cũng được biết một số chuyện do lời kể của chính gia đình
chúng tôi đến tai chúng tôi tại Moscow và từ những thư từ của cha tôi nói về những sự
kiện khai mào sau này mọi người được biết là H ỏa Diệt (Holocaust). Tuy nhiên mãi sau
này chúng tôi mới khám phá chiều sâu độc nhất vô nhị thảm cảnh tàn sát dân Do Thái
nằm trong căn gốc của chủ nghĩa Quốc Gia Xã Hội (Quốc Xã). Nhưng tại tòa án, tương tự
như trên bàn giải phẫu, bộ mặt thật của chủ nghĩ a Quốc Xã được phơi bày rõ rệt và tất
cả thảm cảnh Hỏa Diệt dân Do Thái lần đầu tiên hiện ra trước mắt tôi.

Vì tôi là một người con của một gia đình Do Thái Cộng Sản, tôi rùng mình khi tôi
ngồi đối diện những khuôn mặt đại diện còn sống sót của thời kỳ Quốc Xã. Lang thang
trên nhưng đổ nát của thành phố Nuremberg, trước đây được xem là « hộp quý trang của
nước Đức » nhưng nay bị gắn liền với những luật pháp kỳ thị chủng tộc mà hàng triệu
dân Do Thái là nạn nhân, tôi bất chợt, lạnh lùng bừng tỉnh và nhận định chúng tôi đảng
viên Cộng Sản và các đối thủ khác của Hitler đã hoàn toàn thất bại trong việc ngăn ngừa
cảnh tàn sát này, và tôi nguyện thề không để tình trạng này tái diễn một lần nữa trên
đất nước Đức.

Chính vì lý do đó tô i thấy lòng căm phẫn của người Đức bại trận đối với quân đội
chiếm đóng Xô Viết khiến cho tôi tức giận thêm hơn. Tôi viết thư cho cha mẹ tôi một cách
ngây ngô cho rằng «lòng hảo tâm của Hồng Quân coi như quần chúng đương nhiên được
thụ hưởng mà quần chúng vẫn luôn than vãn. Hình như họ không nhìn thấy được tầm
mức thảm họa Hitler đem đến cho nước Đức. Họ không hiểu cơ may mộ t trang sử mới
đang đến với họ ».

Nước Đức chính thức chia ra làm hai thực th ể chính trị sau cuộc cải cách tiền tệ
năm 1948 tại ba vùng chiếm đóng của Tây Âu đưa đến sự củng cố nước Cộng Hòa Đức (
Bundesrepublik) hay là Liên Bang Đức . Để trả lời, nước Công Hòa Dân Chủ Đức được
chính thức thành lập tháng 10 năm 1949 cùng với diễn hành đêm đuốc, diễn h ành đông
đáo quần chúng và những bài ca ái quốc. Đối với một số thành viên Xã hội chủ nghĩa có
nhiều cảm tính, tất cả những cảnh này giống một cách khó chịu như hệt họat cảnh cũ
của chính quyền Quốc Xã. Nhưng tôi thấy đây là giây phút lịch sử của mối bang giao Đức
Nga. Không bao lâu tôi được Trung Uơng Đảng vời về và tôi được thông báo tôi là người
trách nhiệm giúp thắt chặt tình hữu nghị này. Ngày 1 tháng 11, tôi được lệnh t rở về
Moscow với chức vụ Tham Vụ cho Tòa Đại Sứ Đông Đứ c tại đây. Để nhận nhiệm vụ này
tôi phải từ bỏ quốc tịch Xô Viết của tôi và một lần nữa tôi chính thức trở thành người
Đức. Chúng tôi đến Moscow vào ngày 3 tháng 11 năm 1949.

Vẻ sang trong và tính khoan thái của ngành ngoại giao mở lòng chúng tôi sau
những ngày sống trong cảnh hoang tàn của Bá Linh, và chúng tôi an hưởng trọn vẹn đời
sống gia đình tại Moscow. Đúng l à một đời sống gia đình ấm cúng : Trong khi tôi làm
phóng viên tại Tòa Án Nuremberg năm 1946, đứa con đầu lòng của tôi, tốc vàng, mắt
xám, được đặt tên là Michael, ra đời, sau đó là em bé gái tên Tatjana, sinh năm 1949.
Emmi, không ưa thích vẻ bề ngoài của không khí trong Tòa Đại Sứ , được cơ hội chìm đắm
trong văn học Nga và khởi sự học trình lấy bằng tiến sĩ về Dostoyevsky.

Với tư cách đệ nhất tham vụ của Tòa Đại Sứ nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức, cuối
cùng tôi được gặp Stalin, một biến cố đáng ghi nhận đối với tôi mặc dù bao năm đã qua.
Nói chuyện với các bạn bè cùng thế hệ, tôi thấy Stalin vẫn đôi lúc xuất hiện trong giấc
mơ của chúng tôi , có lẽ d o một thoáng hồi nhớ cảnh diễn hành quần chúng chúng tôi
chứng kiến tại Quảng Trường Đỏ, vào lúc đó nhiệt độ thờ phụng của quần chúng che lấp
tất cả những cảm giác khác, hoặc nhớ lại những hình ảnh và tượ ng đài của Stalin – đã
biến mất từ lâu khỏi thành phố Moscow – tất cả những điều này khiến cho chúng tôi có
cảm giác đang sống với một vị á thần.

Thực ra, cho dù tôi cố chú tâm với hiểu biết của con người trưở ng thành để khách
quan đánh giá nhữ ng tội ác của ông, khía cạnh gần như huyền bí trong tâm trạng của tôi
đối với Stalin không thể nào xóa nhòa được. Hình ảnh không thể xóa nhòa hoàn toàn này
có thể có ích cho tôi, vì điều này luôn nhắc nhở tôi hấp lực của kẻ độc tài vẫn quan trọng
và mạnh mẽ, vẫn tồn tại ngay cả sau khi những bất công y gây ra đ ã được phơi bày.

Ấn tượng sống động nhất trong cuộc đời nghề nghiệp của tôi tại Tòa Đại Sứ là buổi
tiếp tân khoản đại l ãnh đạo Trung Quốc ông Mao Trạch Đông tại đại sảnh tròn của Khách
Sạn Metropol vào tháng Hai năm 1950. Tôi đang đứng lưng quay ra cửa r a vào, thình lình
tôi nghe tiếng xôn xao trong phòng. Quay trở ra, tôi thấy Josef Vissarionovich Stalin
đứng cách tôi vài thước. Ông mang bộ Litevka nổi tiếng với cổ áo may cao. Ông không
đeo một huy hiệu hoặc huy chương nào cả. Với vóc dáng thấp bé và trò n trịa lạ lùng, ông
có đầu hói bóng lưỡng. Những chi tiết này hoàn toàn trái ngược với hình ảnh của Vozhd,
« Vị Lãnh Tụ Vĩ Đại », được nuôi dưỡng trên phim ảnh và trình diễn trên những bức chân
dung. Tôi choáng váng trước tiên vì thất vọ ng nhưng sau đó vì hãnh diện. «Thì ra ông
cũng như một người bình thường », tôi nghĩ. « Tất cả những câu chuyện để tôn vinh cá
nhân ông đã được thêu dệt nhưng ông không được biết đến » .

Với tư cách là Tham Vụ Ngọai Giao, tôi thay mặt cho Đại Sứ vào dịp này , ngồi đối
diện với nơi các cấp lãnh đạo của cả hai phái đoàn nâng chén chúc mừng nhau. Trong khi
Chu Ân Lai, Bộ Trưởng Ngoại Giao của Trung Quốc và đồng nghiệp Xô Viết, ông Andrei
Vishinsky trò chuyện với nhau, Stalin mồi hết điếu thuốc nọ đến hết điếu thuốc kia, điếu
thuốc nặng mùi mang hiệu Herzegovina Flor (một lọai thuốc lá Nga dài đặc biệt quấn
giấy papyrosi mà ông ưa thích). Sau đó ông đọc nhiều bài diễn văn chào mừng theo kiểu
của ông. Trong một bài, ông ca ngợi tính khiêm nhường và tinh thần đoàn kết của cấp
lãnh đạo Trung Quốc. Rồi, với vẻ đầy hăm dọa, ông nâng chén chúc mừng nhân dân Nam
Tư (Yougoslavia), mà ông hy vọng một ngày gần đây lấy lại chỗ đứng của mình trong gia
đình các nước Xã Hội Chủ Nghĩa . Chỉ cách đó hai năm trước đây, Nam Tư đá bị khai trừ
đưa vào bóng tối do lệnh của Stalin, sau khi lãnh tụ Nam Tư đầy hấp lực Josip Broz Tito
đã từ chối khép mình theo phong hóa tôn vin h cá nhân lãnh tụ của điện Cẩm Linh và yêu
cầu được thêm phần tự trị nhiều hơn nữa trong việc cai quản quốc gia Balkan đa chủng
trong khi Moscow không muốn như vậy . Chúng tôi, tại các nước trung thành với đường lối
của Xô Viết, nhìn nước Nam Tư với lòng sợ hại và kinh ngạc lẫn lộn là Tito đã cả gan
thách thức ý nguyện của Stalin.

Chúng tôi nuốt từng lời của các vị lãnh đạo Xô Viết một cách kính cẩn. Đối với tôi,
cũng như đối với tất cả các quan khách có mặt trong buổi tiếp tân, Stalin và Mao không
ph ải là những người phàm tục. Họ là đền đài của lịch sử. Tôi không hề nghĩ đến viễn
tượng Trung Hoa - Xô Viết sẽ rạn nứt, nhưng tôi nhớ rõ một điều đáng chú ý họ Mao
không hề nói một câu nào suốt đêm đó . Tôi tự hỏi có phải đây là chỉ dâu tinh thần hội
nhập nổi tiếng của người Trung Hoa.

Không phải tất cả biến cố trong hai năm trong ngành ngọai giao đều để lại ấn
tượng mạnh mẽ trong trí ó c của tôi. Trong một cuộc tiếp tân kỷ niệm hai năm thành lầp
nước Đông Đức, việc tranh chấp không liên quan gì đến vấn đề rạn nứt trong liên minh
hoặc về một quốc gia Cộng Sản phản động, nhưng lại liên quan đến y phục phải mặ c
hôm đó. Như thuờng lệ, các nhân viên ngọai giao trẻ bàn luận với ông trưởng phái đoàn,
vị này muốn chúng tôi mặc y phục tiếp tân ban ngày áo đuôi tôm để đánh dấu vẻ trọng
thể của ngày lễ. Vì không có áo đuôi tôm, chúng tôi chọn y phục thượ ng khách. Cuối
cùng chúng tôi đi đến thỏa thuận mặc y phục thực khách mầu đậm với cà-vạt đen. Tuy
nhiên vào thời buổi đó chỉ có những nước xã hội chủ nghĩa công nhận Nước Cộng Hòa
Dân Chủ Đức, và đa số, họ phủ nhận cà -vạt đen cho rằng đó là trang sức của bọn tiểu tư
sản. Với tất cả danh tiếng sau này của chúng tôi là nô bộc Cộng Sản ngoan ngoãn nghe
lệnh, nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức rõ ràng vẫn mang ấn dấu c ủa quá khứ Phổ trong
những năm phôi thai. Chúng tôi bối rối cực độ vì những người duy nhất tham dự mặc y
phục như chúng tôi là những người hầu b àn. Khi ông Nikolai Krutitsky, Giám Mục Chính
Thống Giáo Kinh Thành của tất cả tín đồ Nga, đứng dậy để từ giã và tôi xã giao tiễn ông
đến phòng mắc ao, ông lục lọi một lúc trong áo choàng nặng nể của ông để rồi mó c ra ba
rúp và trao cho tôi một cách trịnh trọng để làm quà.

Tháng 8 năm 1951, tôi nhận văn thư khẩn cấp kêu tôi trở về Đông Bá Linh để gặp
Anton Ackermann - tên thật là Eugen Hanisch – Bộ Trưởng Ngoại Giao Đông Đức và cũng
là một chiến lược gia lãnh đạo trong Bộ Chính Trị. Ông chào đón tôi tại Bộ Ngoại Giao ban
sáng, thăm hỏi sức khỏe của tôi và dặn tôi sau bữa ăn trưa cùng ngày đến một căn
phòng nào đó trong dinh thự vĩ đại của Trung Ương Đảng. Tôi cảm thấy có gì bí mật –
cho đến khi đến nơi gạp gỡ để rồi cũng gặp lại Đồng Chí Ackermann ngồi đàng sau một
chiếc bàn khác, lần này trong chức vụ ủy viên Trung Ương Đảng. Cái trò vô lý này bày ra
là do Ackermann nhất quyết bảo mật và thực thi phân cách quyền hành giữa Đảng và
Nhà Nước, trên thực tệ tỏ ra kịch cỡm.

Anton Ackermann
Ackermann đã được giao phó công tác thành lập một cơ quan tình báo chính trị,
và tôi được chỉ định để làm việc này, chia sẻ trách nhiệm để « soi sáng quốc gia tân
lập ». Nói trắng ra, tôi trở thành gián điệp. Đây một lần nữa là một mệnh lệnh , và theo
thói thường lúc đó, tôi chẳng thắc mắc gì hoặc thậm chí suy gẫm về quyết định này có
ảnh hưởng gì đến cuộc đời của tôi. Đảng đã cho tôi đi học trường Quốc Tế Cộng Sản.
Đảng đã chỉ định tôi đi đến Moscow và đến trạm vô tuyên truyền thanh tại Bá Linh. Đảng
đã phái tôi đi đến Moscow để làm nhân viên ngọai giao. Nếu Đảng nghĩ rằng tôi hữu ích
trong ngành tình báo, tôi cũng tuân lệnh. Tôi hãnh diện vì cấp lãnh đạo đã tin tưởng giao
phó cho tôi công tác mật. Tinh thần kỷ luật mù quáng là một điều khó hiểu nhất đối với
các quan sát viên Tây phương tì m hiểu hệ thống của chúng tôi, nhưng nếu không hiểu
được mãnh lực của Đảng trên tinh thần chúng tôi và phương pháp họ chỉ định công tác
cho thế hệ Cộng Sản chúng tôi, thì không thể nào hiểu nổi, chưa nói đến phán đoán về
cuộc sống của chúng tôi.

Ngày 16 tháng 8 năm 1951, tôi bắt đầu làm việc tại một cơ sở hoàn toàn mới Viện
Nghiên Cứu Khoa Học Kinh Tế, một tên ngụy trang cho cao ốc nơi làm việc của hệ thống
tình báo phôi thai của Đông Đức. Sự nghiệp mới của tôi bắt đầu với cuộc diện kiến với
Richard Stahlmann trên một chuyến xe Tatra li-mu-sin to lớn có tám xy-lanh, rất sang
trọng vào thời đó. Stahlman, mang trách vụ thiết lập công tác cho chúng tôi, là một nhà
cách mạng chuyên nghiệp và tôi kính phục tác phong đường bệ của ông. Tên thật của
ông là Artur Illner, nhưng vì ông công tác quá lâu trong thế giới bí mật Cộng Sản nên mọi
người, kể cả vợ ông, dùng bí danh của ông như tên thật của ông. Ông là thành viên của
Đảng Cộng Sản Đức từ năm 1918 và ông trở thành ủy viên trong « Hội đồng Quân Sự »
của Đảng năm 1923. Như mọi thành viên cựu trào, ô ng ít khi nói về quá khứ với quá
nhiều bí ẩn. Tuy nhiên ông chia sẻ với tôi những mẩu chuyện về những công tác của ông
tại Liên Bang Xô Viết , Anh quốc, Trung quốc, Tây-ban-nha, Pháp, Thụy Đi ển và Hoa Kỳ.
Ông nhận lãn h tước hiệu bất hủ « Richard Kháng Chiến Quân» trong cuộc nội chiến tai
Tây-ban-nha và ông là bạn thân tín của Goergy Dimitrov, đảng viên Cộng Sản Bulgari bị
Quốc Xã tố cáo âm mưu đốt tòa nhà Quốc Hội. Stalhmann đi cùng với Dimitrov khi mật
vụ Gestapo đến bắt Dimitrov, nhưng cả hai đều giữ bình tĩnh, mặc dù bị bắt và bị hạch
hỏi một cách thô bạo. Sau này nhắc đến Stalhmann, Dimitrov luôn gọi ông « con ngựa
tốt nhất trong chuồng », một tước hi ệu giúp ông thăng tiến trong giới lãnh đạo Đông Đức
mới . Ông là ngườ i đầu tiên được tham khảo trong mọi vấn đề, và mỗi khi có trở ngại
trong việc thiết lập hệ thống tình báo, ông đến gặp Thủ Tướng Otto Grotewohl tại tư gia
và các vấn đề được nhanh chóng giải quyết. Thường các vấn đề liên quan đến tiền bạc và
nguồn tài trợ. Chúng tôi đói khát tiền bạc trong những năm đầu, và tiền mặt phải đợi đến
cả tháng để đi qua các cửa ngõ công quyền. Đôi khi Stalhmann đến gặp bộ trưởng tài
chánh và trở về với cặp sách tay chứa đầy ghi chú. Khi Czechoslovakia (Nam Tư) có nhã
ý tặng hai m ươi bốn chiếc xe Tatra cho chính quyền Đông Đức, Stahlmann đã khéo léo
chuyển nửa số xe sang cơ quan còn nhỏ bé của chúng tôi, nhờ vậy khi chúng tôi hoạt
động ngoài phạm vi của cớ sở chật hẹp của chúng tôi, chúng tôi có thể di chuyển trong
một tư thế sang trọng. Stahlmann hiểu rõ những tiểu tiết này giúp nâng cao vị thế của cơ
quan đối với chính phủ, và những cơ quan nào cố gắng hoạt động trong vòng eo hẹp
thường gây chú ý hay bị cắt giảm ngân sách.
Lần đầu chúng tôi gặp gỡ t ại Bohnsdorf, một ngoại ô phía Đông Nam Bá Linh.
Chẳng ai nhớ rõ ngày họp mặt, và chúng tôi cũng chẳng ghi sổ sách, vì vậ y chúng tôi
chọn ngày 1 tháng 9 năm 1951 là ngày thành lập cơ quan tình báo. Ngay sau đó chúng
tôi dời cơ quan đến một ngôi trường cũ trong khu vực P ankow của Đông Bá Linh, sát
cạnh khu bảo vệ nơi các cấp lãnh đạo Đảng và nhà nước cư ngụ - một dấu hiệu chứng tỏ
chúng tôi được nể trọng .

Lúc ban đầu chúng tôi chỉ có tám người và bốn cố vấn Xô Viết, trong số đó có một
nhân viên điệp báo NKVD lão thành tự xưng mình là «Đồng chí Grauer». Andrei Grauer
đã từng là sĩ quan tình báo của Sứ Quan Liên Bang Xô Viết tại Stockholm. Ông giàu kinh
nghiệm họat động và chúng tôi chăm chú và thán phục nghe những thành tích phát hiện
điệp viên nằm vùng, xâm nhập cơ quan và các nhân viê n anh dũng. Chúng tôi học hỏi nơi
ông cách xây dựng hạ tầng cơ sở tình báo, biết phân nhiệm và tìm đánh vào điểm yếu
của địch thủ. Than ôi, sự nghiệp của ông kết thúc một cách thả m não vài năm sau đó.
Ông càng lúc càng trở nên đố kỵ vì ông méo mó nghề nghi ệp trong môi trường sinh họat
thời Liên Bang Xô Viết của Stalin. Ông và Ackermann, người lãnh đạo chính thức cơ quan
tình báo, trở thành những kẻ thù gay gắt, và Gra uer luôn ám ảnh nghi ngờ Ackermann.
Một thời gian sau Grauer bị triệu hồi về Moscow. Sau này tôi nghe các bạn trong ngành
tình báo Xô Viết xấu hộ thú nhận ông bị bệnh tâm thần bách hại cuồng, nhìn đâu cũng
thấy kẻ thù. Tinh thần cảnh giác cao độ của ông trước đây khiến ông trở nên một sĩ quan
tình báo tinh nhuệ nay đã lôi keo ông đi.

Trong nội bộ chính quyền và đảng, tên ngụy trang của cơ quan của chúng tôi là
Tổng Cục Nghiên Cứu Kinh Tế và Khoa Học (Hauptverwaltung für Wirtchafts -
Wissenschaftliche Forschung). Danh xưng này chẳng có gì là bí mật, vì ngay cụm từ
“tổng cục” nhắc nhở cho mọi n gười biết những biệt môn của Pervoye Glavnoye
Upravleniye, “Tổng Cục Số Một” của KGB, phụ trách về các công tác gián điệp. Năm
1956, cơ quan tình báo hải ngoại được đặt tên là Die Hauptverwaltung Aufklärung – gọi
tắt là HVA – có thể dịch là “Tổng Cục Tìn h Báo”.

Các cố vấn Xô Viết của chúng tôi giữ một vai trò lớn, có thể nói là bao trùm. Lúc
đầu các cấp lãnh đạo ngành của chúng tôi soạn thảo tất cả kế hoạch dưới sự kiểm soát
của các cố vấn. Các vị này nhất mực theo phuơng pháp cực kỳ hành chánh của Xô Viết,
làm cho chúng tôi phải điên đầu. Ngoài việc sao chép các điều lệ và các giấy tờ khác
bằng tay, chúng tôi phải mất hàng giờ đóng chúng gọn ghẽ thành tập, một thủ tục du
nhập của công an mật vụ Nga Hoàng trước thời Cách Mạng. Không ai hiểu nguyên ủy của
thủ tục này, nhưng cũng chẳng có ai đặt câu hỏi thắc mắc.

Cơ cấu tổ chức của cơ quan chúng tôi phản ánh tru ng thực mẫu mực Xô Viết .
Những ngôn từ trong đường hướng chỉ đạo để lộ nét phiên dịch từ tiếng Nga và vạch rõ
những mục tiêu công tác tương lai củ a chúng tôi. Đó là thâu thập tình báo chính trị của
nước Tây Đức và Tây Bá Linh; tình báo khoa học và kỹ thuật trong lãnh vực vũ khí hạt
nhân và hệ thống phân phối, về năng lượng hạt nhân, hóa học, thiết kế điện lực và điện
tử, hàng không và vũ khí quy ước , và sau cùng nhưng không phải là cuối cùng, tinh báo
về các đồng minh Tây Âu và những tính toán của họ đối với nước Đức và Bá Linh.

Một chi nhánh nhỏ, độc lập của Tổng Cục Tình Báo, gọi là “phản gián” ( Abwehr)
được ành lập để giám sát và xâm nhập các cơ quan tình báo Tây Âu; nhưng nó xung
th
đột trực tiếp với Bộ An Ninh Nhà Nước, vì bộ này cũng có một bộ phận giám sát tinh vi
hơn. Ngay cả khi chúng tôi sát nhập vào Bộ này năm 1953, cuộc xung đột vẫn tiếp di ễn
và phản gián vẫn nằm dưới sự kiểm sóat trực tiếp của Bộ. Những cuộc chiến hành chánh
này khiến cho những tin tức bức thiết li ên quan đến nhữ ng công tác trong ngay nội bộ
của chúng tôi không đến tay chúng tôi , đặc biệt những năm sau này khi các nhân viên
phản gián bắt đầu làm việc với bọn khủng bố hải ngọai.

Người ta thường hỏi tại sao Moscow lại thành lập một cơ quan do người Đức chúng
tôi điểu khiển để tranh đua với họ. Nhưng Stalin nhận định chính xác nước Đức thời hậu
chiến sẽ là một khu vực các cơ quan Nga khó mà xâm nhập, và mộ t cơ quan vững chắc
của chính quốc gia đó như trong trường hợp cơ quan Đông Đức trong khu vực của Xô Viết
sẽ tạo niềm hãnh diện cho chúng tôi và nhờ đó bảo vệ quyền lợi của Xô Viết. Thọat tiên
các cố vấn Xô Viết nhận tất cả tin tức chúng tôi có, ngay cả đến bí danh của các nguồn
tin và các đơn vị cá nhân, mặc dù chúng tôi bắt đầu bảo vệ nguồn tin và cung cấp cho
các sĩ quan liên lạc Xô Viết những tin tức chọn lọc.

Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là phụ tá điều nghiên cho Robert Korb, một bạn đồng
nghiệp cũ của tôi tại Radio Moscow. Korb hiểu biết sâu rộng về chính trị v à thấu hiểu các
sự kiện, và trình độ hiểu biết của ông rất cao. Tôi học hỏi rất nhiều nơi ông về những vấn
đề không liên quan gì đến công tác của chúng tôi, ví dụ như Islam, lịch sử khúc mắc của
Israel và những xung đột tôn giáo tại bán lục đị a Ấn Độ. Ông là một chuyên gia điều
nghiên sáng suốt; ông dậy cho tôi biết phân xét các bản báo cáo tại địa bàn công tác một
cách lãnh đạm, và chúng tôi sớm đi đến kết luận việc duyệt đọc kỹ lưỡng báo chí thường
đem lại kết quả hữu hiệu hơn là các báo cáo mật của điệp viên, và các chuyên viên điều
nghiên phải biết rút tỉa kết luận từ nhiều nguồn tin khác nhau để có thể thẩm định các
thông tin tình báo. Từ đó nhận định này luôn là hành trang cùng đi với tôi.

Korb, trong cung cách cũng như trong suy nghĩ cá biệt của ông, có thể gợi chú ý
của cử tọa với óc tinh tế và lời lẽ mỉa mại ông thường biểu lộ khi ông trình bày vấn đề
trước các bậc trưởng thượng. Vì tôi chia sẻ tính bất nể phục này nên chúng tôi có nhiều
điểm giống nhau. Mặc dù c húng tôi là những bày tôi trung kiên của nhà nước, chúng tôi
cố gắng giữ khoảng cách với tinh thần tận tụy quá đáng của các cấp lãnh đạo chính trị
trong việc truyền bá chủ nghĩa.

Cơ quan chúng tôi phát triển nhanh chóng và chúng tôi lại di chuyển từ khu Bá
Linh – Pankow đến một cao ốc lớn hơn trong khu vực Rolandufer tại trung tâm Đông Bá
Linh. Tôi sớm được thăng chức phụ tá giám đốc cơ quan tình báo hải ngọai vừa mới thành
lập bên cạnh ông Gustav Szinda , một người có hàng chục năm kinh nghiệm trong các
công tác mật tại Tây-ban-nha và các nơi khác cho tình báo Xô Viết.

Không may cho cả hai chúng tôi, ông Szinda và tôi không ai biết cách thức khởi sự
đối phó với tình báo Tây Đức ra sao; một cơ quan vừa được thành lập từ sự sụp đổ của
chế độ Quốc Xã không hề bị một thiết hại nào. Các cấp lãnh đạo tình báo phục vụ cho
Hitler nay làm việc với các chủ nhân mới tại một cái làng nhỏ, bao trùm nhiều bí mất của
vùng Bavaria gọi là Pullach. Chúng tôi phải tìm kiếm tên của ngôi làng trên bản đồ khi
tên làng này xuất hiện trên báo chí . Đây là một thế giới xa lạ với chúng tôi và hầu như
chúng tôi không với tới được, mặc dù với thời gian, chúng tôi rất quen thuộc với lề lối làm
việc của họ.

Tôi được biết đến danh tính của Tướng Reinhard Gehlen, cấp lãnh đạo đấu tiên của
tình báo Tây Đức, trên trang nhất của tờ Daily Express tại Luân-đôn; tờ nay ghi rõ
Tướng Của Hitler làm G ián Điệp trở lại – lần này với Mỹ kim.
Reinhard Gehlen thời Quốc Xã

Reinhard Gehlen sau này


Sefton Delmer, một ký giả được biết có liên lạc với tình báo Anh, đã viết hàng
tựa này; vào thời kỳ chiến tranh, ông phụ trách phản gián Anh quốc tại đài phát thanh
Soldatensender Calais. Bản tin của Delmer gây phẫn nộ. Nó không những tiết lộ hệ thống
tình báo cũ của Quốc Xã vẫn còn nguyên vẹn, mà còn cho biết cơ quan tình báo mới của
Cộng Hòa Liên Bang chứa chấp nhiều cựu sĩ quan SS và chuyên viên an ninh quân đội đã
hoạt động dưới thời Hitler tại Pháp và nhiều nơi khác. Chính Gehlen đã từng chỉ huy đơn
vị điệp báo quân đội của Quốc Xã chống lại Hồng Quân. Nhờ Cơ Quan của Gehlen, sau
này được biết, Hoa kỳ tiếp cận với tất cả các đường dây hệ thống tình báo cũ của Quốc
Xã; Hoa Kỳ ra lệnh cho giới tình báo Tây Đức cũng giống như Nga ra lệnh cho khối Đông
Âu.

Cũng có tin đồn Tướng George S. Patton Jr. bao che cho một số sĩ quan cao cấp
của Đức. Tôi lo âu nhận thứ c mục tiêu để đạt đến một Châu Âu hòa bình toàn diện khó
thức
lòng thành tựu. Dây khóa mõm đã được cài đặt ở cả hai phía. Viễn ảnh hòa bình với bao
nhiêu hy sinh vừa qua rất mong manh. Châu Âu bị chia cắt và đường chia cắt nằm ngay
trên nước Đức.

Thủ tướng Tây Đức Konrad Adenauer dốc toàn lực ủng hộ “chính sách mạnh” của
Hoa Kỳ và chiến lược đẩy lui chủ nghĩa công sản do John Foster Dulles đề xướng; người
em tên Allen Dulles chính là giám Đốc Cơ Quan Tình Báo Hoa Kỳ (C.I.A.).
Allen Dulles, Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ từ 1953 đến 1959

Giám đốc CIA từ 1953 đến 1961

Liên Bang Xô Viết đã giúp các nước Tây Âu đặt được hòa bình; nay Hoa -thịnh -đốn đang
chuẩn bị huy động tất cả sức mạnh chính trị, tình báo, kinh tế và, nếu cần, sức mạnh
quân sự của Hoa kỳ và đồng minh để phản công. Ge hlen nhận biết lần xung đột mới này
là cơ hội cho đương sự tạo ảnh hưởng trực tiếp lên đường hướng chính trị. Ông gặp gỡ
Adenauer trước khi Tây Đức thu hồi cơ quan tình báo khỏi tay CIA và ông được hỗ trợ và
có quyền lực rất lớn . Điều này có nghĩa ông kiểm soát và dùng những hồ sơ để đánh các
đối thủ chính trị trong nước, trong dó có đảng Dân Chủ Xã Hội đối lập với chính quyền
Dân Chủ Thiên Chúa G iáo tại Quốc Hội. Trong quân đội và các cơ quan hành chánh Tây
Đức, các bày tôi trung kiên của Đệ Tam Quốc Xã một lần nữa giữ những địa vị then chốt,
và các cựu sĩ quan Quốc Xã chỉ huy tổ chức của Gehlen.

Tên của Hans Globke, một trong những cố vấn thân tín của Adenauer và là đổng lý văn
phòng của Thủ Tướng, đồng nghĩa với phương thức xâm nhập này. Là một cựu viên chức
cao cấp trong Bộ Nội Vụ của Hitler, Globke là tác giả của bài bình luận nặ ng cân về luật
phân biệt chủng tộc Nuremberg nhằm hợp thức hóa việc phận biệt bằng võ lực và đưa
đến “Giải Pháp Cuối Cùng” của Quốc Xã. Globke làm đổng lý văn phòng cho Adenauer
trong vòng mười năm.
HansJosef Maria Globke

Trong bầu không khí xôi động này, thành phố Bá Linh vào thập niên 1950 thừa kế Vienna
trở nên trung tâm điệp báo Châu Âu. Có khoảng tám mươi cơ quan điệp báo cùng với
nhiều ngành khác và tổ chức ngụy trang họat động tại thủ đô này . Tại các văn phòng
ngụy trang của Hoa Kỳ và của Nga được che đậy qua bình phong đủ các thứ hãng, từ
công ty sửa ống nước và xuất khẩu mứt cho đến những việ n hàn lâm và các cơ quan
nghiên cứu, có cả một đội ngũ sĩ quan chuyên kết nạp và điều khiển các điệp viên c ủa
mình và những điệp viên này có thể di chuyển dễ dàng trong những khu vực Bá Linh và
cả hai phần của nước Đức vào những ngày trước khi Bức Tường, chia cắt thành phố và
đất nước Đức, được xây dựng vào năm 1961.

Đây cũng là lúc trước khi phép lạ kinh tế Tây Đức bắt đầu và do đó cũng là thời buổi
thiếu thốn và tan tác kinh tế. Hứa hẹn cung cấp thực phẩm hoặc được thăng tiến xã hội
đã khiến thiên hạ đi vào con đường điệp báo. Nhưng trong khi chính quyềnTây Đức có
thể dễ dàng trông cậy vào nguồn tài chánh, chúng tôi vẫn hoạt động trong cảnh nghèo
nàn và phải theo đuổi một lối tiếp cận có tính cách ý thức hệ hơn. Nhiểu điệp viên nằm
vùng của chúng tôi tại Tây Đức, đặc biệt trong môi trường chính trị và kỹ nghệ, không
phải là Cộng Sản nhưng họ làm việc cho chúng tôi vì họ muốn khuất phục tình trạng chia
đôi nước Đức và nghĩ rằng chính sách của các Đồng Minh Tây Âu đang củng cố nó. Sau
này chúng tôi mất một số điệp viên như vậy khi Bức Tường được xây và cho họ thấy biểu
tượng của nước Đức chia hai theo nghĩa đen đã được xây dựng bằng bê -tông.

Những chi tiết nhỏ nhặt trong việc xây dựng một cơ quan tình báo hoàn toàn mới chiếm
hầu hết thời gian của tôi. Tôi chú ý đến các nước phương Tây và tôi cố gắng làm que n với
những chuyển biến chính trị tại Hoa Kỳ và tại Tây Âu và tôi theo dõi sát những tiến triển
trong ngành tình báo hậu chiến.

Chúng tôi phải thu thập những nguồn tin mới tại các trung tâm chính trị, quân sự, kinh tế
và khoa họ c kỹ thuật của phía bên kia. Điề u này nói dễ hơn là làm, vì những đòi hỏi an
ninh trong chính guồng máy của chúng tôi, do tình báo Xô Viết áp đặt, rất là gắt gao. Cả
ngàn thí sinh được gửi gắm đến phải được sàn lọc để có được một nhúm nhỏ khả dĩ chấp
nhận được. Những ai có thân nhân ở Tâ y Âu đều bị loại bỏ, cũng như những người trải
qua những năm tháng chiến tranh làm người tị nạn hoặc là tù binh chiến tranh ở Tây Âu.
Trái ngược với những lời đồn đãi cho đến nay vẫn còn, chúng tôi không có ý dùng những
cựu đảng viên Quốc Xã trong bộ máy c ủa chúng tôi và chúng tôi kiêu hãnh có đạo đức
hơn Tây Đức về mặt này .

Chúng tôi tiếp cận một số hồ sơ đảng viên Quốc Xã của Đệ Tam Đức Quốc và chúng tôi
dùng những hồ sơ này để thuyết phục những người Tây Đức đã xóa bỏ quá khứ cộng tác
với Quốc Xã về cộng tác với chúng tôi. Nhiều người khác tình nguyện làm việc cho chúng
tôi và họ cho đó là một loại đền bù tinh thần cho những tổn hại họ đã gây ra trong quá
khứ. Thoạt nhìn phong thái này có vẻ tử tế. Lý do thực sự là họ muốn được an toàn và
bảo vệ sự nghiệp mới của họ ở Tây Đức để tránh không bị chúng tôi lật tẩy sau này. Theo
ngôn từ Đức, chúng tôi gọi là Rückversicherung, có nghĩa nguyên văn là “tái bảo hiểm”
cho quá khứ. Nhờ Đảng Cộng Sản Tây Đức chúng tôi thừa hưởng được sự cộng tác của
một chính trị gia trong Đảng Dân Chủ Tự Do tên là Lothar Weihrauch ( au này làm việc
trong Bộ Xử Lý Các Vấn Đề Chung Nước Đức của Tây Đức), người này cung cấp cho
chúng tôi rất nhiều tin tức chính trị cho đến khi chúng tôi khám phá đương sự đã phạm
những tội ác chiến tranh khi đương sự giữ một chức vụ quan trọng vào thời kỳ Đức chiếm
đóng Ba Lan. Chúng tôi cắt đứt liên lạc với y. Chúng tôi cũng đã kết nạp một cựu đảng
viên Quốc Xã, trước đây là một đội viên xung kích, mang bí danh là Moritz. Người này đã
giúp chúng tôi trong cuộc đấu tranh chính trị chống lại sự thành lập của Cộng Đồng Quốc
Phòng Châu Âu (cuối cùng đã bị ngăn chặn vì tinh thần chủ nghĩa quốc gia của nước Pháp
chứ không phải vì cơ quan tình báo chúng tôi phá vỡ dự án thành lập) .

Quá khứ là một vũ khĩ lợi hại trong ngành tình báo và cả hai bên không ngần gại dùng nó
để hăm dọa. Đúng vào lúc chúng tôi tìm phương kế để hạ bệ những chính trị gia hoặc
những khuôn mặt kỳ cựu có ý đánh phá chúng tôi bằng cách tiết lộ sự đồng l õa của họ
với Quốc Xã, một tổ chức ch ống Cộng tên là Ủy Ban Luật Sư Tự Do Tây Bá Linh do các
luật gia trốn chạy Đông Đức thành lập, cho xuất bản một quyển sách nhỏ ghi tên những
công chức Đông Đức đã tìm cách gia nhập đảng Quốc Xã. Nhưng vì phần đông các sĩ
quan tình báo cao cấp và cấp lãnh đ ạo chính trị của chúng tôi đều sống lưu vong hoặc ẩn
núp vào thời Đệ Tam Quốc, chúng tôi ở Đông Đức chúng tôi đã thắng trong chiến trận
tuyên truyền này.

Một vài thành phần Quốc Xã tìm cách chuyển hướng sang phía chúng tôi bằng cách che
dâu quá khứ. Không bao lâu sau khi tôi bắt tay vào việc, một nhân viên trẻ trong đội đến
gặp tôi và nói với tinh thần vô cùng hoang mang anh để ý thấy một người làm việc tại
ban thẩm vấn trên cánh tay có xâm huy hiệu SS. Ban thẩm vấn là ban thô bạo nhất ở
trong Bộ, và tôi không muốn mang tai tiếng vì có những tay côn đồ này làm việc tại đây.
Tôi mường tượng một kẻ nào đó ưa thích những việc làm như vậy ở chế độ trước lại cảm
thấy an nhiên tự tại ở đây. Chúng tô i lặng lẽ thuyên chuyển y khỏi vị trí này.

Những màn hăm dọa đang diễn ra là một trò bần thỉu và tác hại nhưng cả hai bên đều
dùng nó. Một vài thành phần Quốc Xã cũ ở Tây Đức giúp việc cho chúng tôi vì có lòng hối
cải, một vài kẻ khác vì tiền, hoặc để phò ng bị không bị lộ là người cộng tác với chế độ
Quốc Xã. Xô Viết có nhiều cơ hội đẻ hăm dọa hơn vì họ nắm giữ những hồ sơ của Quốc
Xã, và sai khiến những người này chẳng hạn như cựu chiến binh SS Heinz Felfe, đã từng
giữ chức vụ Obersturmführer (* ldg : tương đương với cấp Trung Úy) trong tổ chức tình
báo Quốc Xã, Cơ Quan An Ninh Quốc Gia (Reichssicherheitshauptamt), và làm việc với Tổ
Chức của Gehlen thời hậu chiến. Felfe đã trở thành gián điệp nhị trùng của Xô Viết, tiết lộ
tất cả những thành quả của cơ quan tình báo Tây Đức cho Moscow và đã gây thiệt hại
không thua những gián điệp nhị trùng có tầm cỡ như Kim Philby, George Blake và
Aldrich Ames.

Heinz Felfe Kim Philby George Blake Aldrich Ames

Một trong những cơ hội đầu tiên của chúng tôi để xam nhập các cơ quan của Đồng Minh
là nhờ vào tình báo Đảng Cộng Sản ở Đức. Vào thế kỷ thứ mười chín phong trào Dân Chủ
Xã Hội Đức đã tổ chức những nhóm bí mật để đối phó với sự đàn áp của Kaiser. Đảng
Cộng Sản Đức (Kommunische Partei Deutsclands hoặc gọi tắt là KPD) đã được tôi luyện
bởi những đối xử hà khắc thô bạo của chính quyền (lịch sử khởi đầu của họ đã ghi khắc
việc tàn sát những đảng viên Spartacist Rosa Luxemburg và Karl Liebnecht), bắt chước
các đảng viên Dân Chủ Xã Hội bằng cách phát triển hệ thống t ình báo riêng của họ. Cơ
cấu này đã tạo mối liên hệ chặt chẽ với cấp lãnh đạo của Comintern tại Moscow và các cơ
quan tình báo tại đây.

Đầu não đứng sau hệ thống tình báo của Đảng vào thế kỷ thứ hai mư ơi là Ernst
Schneller, bị ám sát năm 1944 do lệnh của Hitler, và Hans Kippenberger, mà sau này
được biết là bị giết năm 1937 do lệnh của Stalin . Hệ thống này, chuyên thu thập những
tin tức khoa học kỹ thuật và quân sự để chuyển cho Liên Bang Xô Viết, là ng uồn cung
cấp tin tức, vào thời Hitler cầm quyền, cho hệ thống tình báo danh tiếng Rote Kapelle –
dịch sang tiếng Anh gọi là “Dàn Hòa Tấu Đỏ”.

Dàn Hòa Tấu Đỏ là một trong những tổ chức kháng chiến lớn nhất. Một vài thành viên
trong đó là Cộng Sản, và một phần ít ỏi là những nhân viên của các cơ quan tình báo Xô
Viết (NKVD và GRU, quân báo).

Tem thư kỷ niệm Ernst Sneller năm 1960 ở nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức

Thử thách đầu tiên tôi phải đương đầu là kiểm nghiệm năng lực xây dựng một hệ thống
tình báo Cộng Sản mới. Tôi sớm biết hệ thống mới đặt trên con đường hệ thống cũ không
thể nào tin tưởng được. Đ ặc biệt người Anh đã khéo đánh tráo một số những đảng viên
cộng sản trước đây là những tù binh chiến tranh . Họ cũng đã vô cùng thành công trong
việc đánh tráo một vài người Cộng Sản di dân thời chiến cũng như nhiều điệp viên mới
trẻ của hệ thống tình báo mới thành lập này.

Một ví dụ điển hình để thấy hệ thống mới này đã bị lũng đoạn là trường hợp của Merkur,
tên thật là Hans Joachim Schlomm. Tôi được biết đến đương sự trong lúc kiểm soát trong
núi hồ sơ, phần đông chưa được đối chiếu, để tìm những đầu mối trong những cơ quan
tình báo của Tây phương. Tôi nghiên cứu những hồ sơ cho biết đương sự có liên hệ với
phản gián Tây Đức, được mệnh danh là Văn Phòng Bảo Vệ Hiến Pháp (Bundesamt für
Verfassungsschutz, BfV), đặt trụ sở tại Cologne. Đương sự cũng có nhiều mối liên hệ với
giới hoạt động chính trị tại Bonn. Những báo cáo của đương sự về cho Đảng gây ấn tượng
mạnh vì có nhiều chi tiết, đa dạng v à sâu sắc, trong đó có cả những thông tin nội bộ của
các đảng phái chính trị trong quốc hội Tây Đức, những hồ sơ mật của bộ ngoại giao và
các bộ khác. Trên bề mặt, đương sự có vẻ như là một nguôn tin lý tưởng, vì vậy tôi phái
người đi tìm đương sự ở Schles wig –Holstein, theo như hồ sơ cho biết chỗ ở của đương
sự. Merkur nói rằng y đã kiên nhẫn chờ đợi cú điện thoại của chúng tôi và không chú t
ngần ngại chấp nhận lời mời để đến Bá Linh. Đương sự là điệp viên đầu tiên của tôi.

Đương sự đến nhà an toàn đúng giờ hẹn tại một biệt thư ở ngoại ô Bá Linh. Dáng người
cao ốm, độ chạc ba mươi tuổi, đương sự có vẻ thích hợp với nghề nghiệp của mình , nghề
của một kỹ sư điện. Đương sự giải thích đương sự đã cộng tác với Đảng Cộng Sản khi con
là sinh viên ở đại học Hambu rg, làm việc cho cơ quan tình báo của Đảng, và theo lệnh
đảng đã gia nhập tổ chức thanh niên cánh hữu, cuối cùng đến làm thư ký cho Bác Sĩ Fritz
Dorls tại Bonn. Rồi tôi hỏi đương sự khá lâu, nhưng có nhiều điều lạ; những câu trả lời
của y về những người y nói y quen biết không phụ hợp với những lời ghi trong hồ sơ.
Chúng tôi đưa y trở về Tây Bá Linh và mời y đến lại ngày hôm sau. Tôi lại dở xem những
hồ sơ của y.

Khi y trở lại, tôi đóng vai trò người trí thức và Szinda , kẻ thô bạo. “Đủ rồi, đồ khốn nạn”,
Szinda nói đê báo hiệu là không còn đủ kiên nhẫn với anh điệp viên t iềm năng này. Khi
những mâu thuẫn trong những lời khai man của y bị lột trần, Merkur cuối cùng nhận là
đầu năm 1948 y đã được tình báo Anh cài vào tổ chức tình báo Cộng Sản, hiện nay y vẫn
tiếp tục làm việc cho họ và những hồ sơ y cung cấp là những hồ sơ do họ cài đặt.
Cuộc điều tra được giao phó cho Erich Mielke, người số hai làm việc tại Bộ Công An (được
thành lập vào ngày 8 tháng Hai năm 1950) và là cấp lãnh đạo tại đây, vốn nghi ngờ cơ
quan của chúng tôi vì ông nghĩ nó cạnh tranh với bộ của ông. Ông này là một tay Stalin -
nít kỳ cựu thô bạo và không mấy ưa thích Szinda từ những ngày còn là đồng chí thời Nội
Chiến Tây Ban Nha, và ông cũng chẳng ưa gì tôi. Mielke bắt giam Merkur vì tôi gián điệp
nhị trùng và đem ra xử án, kết quả là án lệnh chín năm tù ở .

Trường hợp của Merkur gây báo động khô ng những ở Tây phương mà ngay cả trong cơ
quan của chúng tôi. Chúng tôi kế t luận từ những cuộc thẩm vấn và lời khai của y là y biết
quá nhiều về tổ chức tình báo của Đảng Cộng Sản và những mối liên hệ của tổ chức này
với các tổ chức khác, nhiều hơn mức độ của điệp viên ngụy trang. Ở thời điểm này chúng
tôi nhận thức là chúng tôi phải kiểm tra lại tất cả mọi người trong c ác nhóm tình báo
Cộng Sản bí mật, mà tổng số lên đến từ bốn mươi đến năm mươi người. Giống như để
kết hợp những mẩu hình ghép, tôi bắt đầu hỏi những những sĩ quan giao liên và những
người chuyển thư đã được gởi sang Tây Đức từ nước CHDCĐ, để cho những mối nghi n gờ
không bị đánh điên đi c ho chính các điệp viên. Những gì họ nói cho tôi biết về những vi
phạm nguyên tắc trong công tác bí mật làm cho tôi nghi ngờ có nguy cơ bị xâm nhập.

Do đó tôi ngồi vào bàn và bắt đầu vẽ một sơ đồ những mối liên lạc ngang và chéo trong
những hệ thống tình báo hiện có, nó giống như một màng nhện khổng lồ. Với kỹ năng
của một kỹ sư hàng không kinh nghiệm, tôi thảo cái mà tôi gọi là “màng nhện” trên một
trang giấy. Trên sơ đồ tôi liên kết tất cả các thư tín viên, các nhà an toàn, và những điều
tương tự. Tôi tô màu đỏ những điệp viên tình nghi là nhị trùng, màu xanh dương những
nguồn tin và màu xanh lá cây các điệp viên thường trú. Những đường vẽ và những ô
vuông cũng ghi dấu những trường hợp đáng nghi hoặc những mối liên lạc đáng nghi với
tổ chức địch. Đối với những người không hiểu biết, sơ đồ chẳng có ý nghĩa gì cả, như ng
đối với tôi, nó bắt đầu làm rõ nét khả năng khai triển và đào xâu công tác của chúng tôi.
Có được một hình ảnh rõ rệt để tìm hiểu cơ quan này đã bị xâm nhập sâu đậm như thế
nào là một điều cầ n thiết.

Tôi cuối cùng kết luận là nếu các cơ quan tình báo Tây phương muốn, họ có thể tiêu diệt
toàn bộ hệ thống này. Trên mặt thực tế, họ chưa chắc đã khôn ngoan hoặc hữu hiệu như
vậy, nhưng nguy cơ vẫn còn đó, đặc biệt đối với đảng Cộng Sản nếu hệ thố ng tình báo cũ
bị cài ngược hoặc bị bại lộ. Vì vậy tôi quyết định tốt hơn hết là giải tán hệ thống này và
bỏ rơi những mối liên hệ với điệp viên Cộng Sản ở Tây Đức.

Sơ đồ màng nhện của tôi được cuộn lại và kẹp dưới nách, tôi xin hẹn gặp Walter Ulbricht,
là người phụ trách về tất cả các cơ quan tình báo vào lúc đó. Tôi nhấn mạnh về tính cách
bí mật tuyệt đối về những gì tôi báo cáo cho ông. Thay vì gọi tôi vào văn phòng của ông,
ông mời tôi đế n nhà ông ở khu Pankow, nơi mà người Đông Đức không thích mấy và họ
gọi là “thành phố nhỏ”. Những căn phòng của nhà lãnh đạo cho thấy sở thích của một
anh thợ mộc chuyên nghệ ưa chuộng những đồ đạc rắn rỏi củ a giới trung lưu, có trạm
trổ.

Tôi trải sơ đồ lên trên bàn ăn của ông Ulbricht và trình bày những khám phá của tôi trong
từng chi tiết. Với sự đồng ý của Ackermann, tôi đã nói chuyện trước khi tôi đến đây, tôi
quyết định cắt đứt tất cả mối liên lạc với hệ thống tình báo Cộng Sản tại Tây Đức và loại
tất cả những điệp viên có ít nhiều dính líu đến nó. Sự kiên chính q uyền Tây Đức đã chuẩn
bị đặt đảng Cộng Sản ra ngoài vòng pháp luật – cuối cùng việc này bị xét là vi hiến vào
năm 1956 – giữ một vai trò quan trọng trong những tính toán của chúng tôi. Ulbricht
chấp nhận lợi đề nghị của tôi, và từ đó trở đi Đảng Cộng Sản Q uốc Gia Đức ở Tây Đức là
vùng cấm địa của cơ quan chúng tôi, cũng như tổ chức kế tục Đảng Cộng Sản Đức được
thành lập trở lại năm 1968 vào thời buổi tư do hơn.

Năm 1952 chúng tôi triệu hồi tất cả điệp viên về, ngay cả những người Cộng Sản trung
kiên nhất cũng bị cô lập trong một loại “giam biệt thự” và bị tra khảo gắt ga o. Thiên hạ
thường hỏi chúng tôi dùng phương pháp gì trong những trường hợp như vậy. Đây là một
loại áp lực tâm lý trên những người đàn ông và đàn bà đã gắn liền căn cước và lòng tự
trọng bản thân với tinh thần li ên thuộc vào một nhóm cùng chung một lý tưởng. Khi
thình lình lòng tín nhiệm này không còn nữa , áp lực tâm lý trở nên gay gắt hơn. Ở đây
không cần phải đe dọa hoặc trình lệnh để bắt họ. Nói chuyện với họ và coi họ như những
kẻ tình nghi và giám sát những lời khai của họ cũng đủ để cho chúng tôi biết là họ vô tội
và chúng tôi không thấy một điệp viên nhị trùng nào khác. Lẽ cố nhiên, vấn đề cài đặt họ
lại ở Tây Phương không được đặt ra. Họ được cảnh báo không nên tiết lộ những gì đã x ảy
ra. Tất cả mọi người đều giữ lời hứa đưng như tư cách của những đồng chí tốt.

Có một vài người đã có chiến công hiển hách chống lại Quốc Xã. Một người đã từng ở
chung trại với cha tôi ở bên Pháp; chúng tôi cô lập đương sự trong một căn phòng trong
nhiều tuần và sau đó đánh tan mọi nghi ngờ đối với đương sự.

Năm 1956, sau khi Khrushchev đọc bài diễn văn bí mật trong Đại Hội Đảng lần thứ Hai
Mươi, chúng tôi phục hồi danh dự cho phần lớn những đồng chí đã bị triệu hồi này, trao
cho họ huy chương và huân chương. Bruno H aid, đã từng chiến đấu với kháng chiến Pháp
thời chiến và đã bị triệu hồi và phái đến một cơ xưởng tại Karl -Marx-Stadt để làm một
công chức nhỏ và sau đó được phong chức phó ủy viên công tố của nước C HDCĐ. Ông tố
cáo tôi đã dùng những phương pháp thô bạo gợi lại việc Lavrenti Beria, tổng giám đốc
mật vụ của Stalin, phá vỡ hệ thống của Đảng – điều tôi không làm – nhưng cuối cùng,
nếu không muốn nói là miễn cưỡng, ông chấp nhận quan điểm của tôi khi ông được biết
trường hợp của gián điệp nhị trùng Merkur.

Một vài nguôn tin “bảo tồn” của chúng tôi không bị triệu hội và sau đó được phục hoạt,
tuy nhiên vẫn phân cách hoàn toàn không hề liên hệ với những đường dây mới. Tại sao
chúng tôi làm việc này? Đơn giản thôi, chúng tôi khám phá việc xâm nhập không có sâu
đậm như chúng tôi lo sợ. Tây phương không có những phép lạ an ninh như chúng tôi.
Chương 4
Cộng Hòa Dân Chủ Đức lớn mạnh
và tôi lớn theo
Tháng Chạp năm 1952, tôi nhận được thơ của Walter Ulbricht, lãnh tụ Đông Đức, ra lệnh
vời tôi về cao ốc của Ủy Ban Trung Ương, nằm trên giao điểm nhộn nhịp đường
Lothringer Strasse (sau này trở thành Whilhelm Pieck Strasse) và đường Prenzlauer Allee
tại trung tâm của Đông Bá Linh, không xa quảng trường Alexanderp latz. Tại cổ ng ra vào
tôi nhận giấy phép thông hành, người canh gác cửa cẩn thận xem xét căn cước của tôi,
mặc dù vấn đề an ninh không chặt chẽ và cao ốc không đồ sộ như tại Bộ Tham Mưu sau
này được đặt tại Werderscher Markt. Mặc dù vậy, người ta cũng cảm nhận được sự lớn
mạnh của thành phần ưu tú nhưng sau này tự cô lập với quần chúng.

Tôi trình diện tại văn phòng chờ đời của Ulbricht. Ông đang họp, sau một thời gian ngắn
ông xuất hiện, ăn mặc gọn ghẽ với hàm râu dựng đứng . Ông mời tôi sang văn phòng kế
cận với văn phòng của vợ ông , bà Lotte, một cộng sự viên thân tín nh ất. Tôi biết rõ bà
khi chúng tôi làm việc chung tại Đài Phát Thanh Nhân Dân Đức tại Moscow. Bà ân cần
chào hỏi tôi. Ulbricht mời tôi ngồi và ra dấu cho bà vợ đi ra. Tôi đã gặp ông nhiều lần và
ông hay đùa bỡn, nhưng sau đó đi thẳng ngay vào vấn đề. Đó là phong cách của ông:
Ngắn gọn, theo cung cách thương gia, tập trung vào những nét chính và không bao gi ờ
nhìn thẳng người đối thọai. Thản nhiên, Ulbricht báo cho tôi biết Anton Ackermann, người
đứng đầu cơ quan tình báo hải ngọai từ khi thành lập, xin từ nh iệm vì lý do sức khỏe . Tôi
biết tình trạng sức khỏe của Ackermann không phải là lý do chính, nhưng Ulbricht bất tín
nhiệm Ackermann vì Ackermann nói đến "con đường xã hội chủ nghĩa Đức" riêng biệt,
khác với khuông mẫu Xô Viết. Ulbricht có khả năng đánh bật Ackermann vì Ackermann bị
bắt quả tang phạm tội ngoại tình, điều cấm kị trong môi trường thanh khiết Đông Đức
vào những thập niên 1950.

Walter Ulbricht

Ulbricht nói: "Chúng tôi nghĩ anh phải đứng ra quản lý cơ quan". Danh từ "chúng tôi"
mang tính cách kẻ cả – hoặc, chính xác hơn, "chúng tôi" có nghĩa là cấp lãnh đạo Đảng.
Ông không hỏi tôi nghĩ thế nào về khả năng của tôi với chức vụ và cũng không muốn bàn
luận xa hơn nữa.

Tôi hầu như bị bất ngờ. Tôi chưa đầy ba mươi tuổi và tôi chẳng có một địa vị nổi bật nào
trong cơ cấu thứ bậc của Đảng. Tôi hỏi Ulbricht cơ quan tình báo hải ngọai báo cáo thế
nào cho cấp lãnh đạo đảng và ông trả lời tôi có trách nhiệm trực tiếp với ông.

Không đầy mười lăm phút sau, tôi đã bách bộ ngoài đường , đầu óc lùng bùng. Khi tôi trở
về văn phong của tôi, Richard Stahlman, xử lý thường vụ cơ quan từ lúc Ackermann từ
nhiệm, đang chờ đợi tôi. Tôi băn khoăn về thái độ của ông; một người có trọng lượng và
kinh nghiệm như ông ta không thể nà o chuyển nhượng quyền lực cho một tên trẻ tuổi
mới tập tễnh một cách tầm thường như vậy được . Nhưng ông lại tươi cười một cách sảng
khoái khi ông mở tủ sắt kín và trao cho tôi một số hồ sơ bên trong; giấy tờ không bao giờ
là sở trường của ông và công việc hành chánh này sẽ là một phần quan trọng trong việc
làm của tôi. Ông lướt chìa khóa trên bàn về phía tôi và nói: "Tất cả những thứ này là của
anh. Chúc anh may mắn. Tôi sẽ có mặt khi anh cần đến tôi". Lòng tôi đầy hãnh diện khi
tôi vội bước ra ngoài đi mua một bộ quần áo mới để khởi sự ngày đầu tiên ngồi vào bàn
làm việc to lớn.

Lý do họ tuyển chọn tôi chỉ sau mười sáu tháng làm việc tại cơ quan tình báo cho đến
nay tôi vẫn không rõ. Nhưng Công Hòa Liên Bang Dân Chủ mới chỉ được thành lập vào
tháng Mười năm 1949 và tất cả các quan chức phải học hỏi ngay trong khi l àm việc.
Ackermann dường như đã đề nghị tôi làm người kế vị ông và tôi đoan chắc việc cất nhắc
của tôi liên quan mật thiết với những mối liên hệ của tôi với Moscow. Đôi khi tôi tự hỏi tại
sao tôi chấp nhận chức vụ này trong một cơ quan nằm trong một cơ cấu đàn áp . Trước
tiên, tôi nghĩ rằng cơ quan tình báo không phải là một bộ phận trong cơ cấu đàn áp. Và
việc từ chối không thể biện bạch được vì tinh thần trách nhiệm của tôi, vì kỷ luật của
Đảng và vì nhu cầu của chiến tranh lạnh.

Một trong những lời trách móc rất thường xuyên được đề cầp từ phía Tây về phong cách
của chúng tôi trong những thập niên 1950 là chúng tôi không thể nào đui mù không thấy
những gì đã xây ra trong thời gian thanh trừng tại Moscow vì chúng tôi đã thấy những
dấu hiệu trải qua những năm tháng kinh nghiệm tại đây. Điều này không đúng. Kinh
nghiêm sống tại Moscow của chúng tôi lại có tác dụng trái ngược. Trong đầu óc chúng tôi
chúng tôi luôn có những bào chữa : Stalin phải tỏ chí phục thù vì ông đang chiến đấu
chống một kẻ thù man rợ. Chúng tôi không bao giờ chấp nhận quy mô dối tra dàn dựng
tại Liên Bang Xô Viết trong thập niên 1920 và 1930, vì vậy chúng tôi không nhận ra
những dối trá, những nửa sự thật và những đòn trả thù đi kèm theo nỗ lực của chúng tôi
để bảo toàn những thắng lợi chiến lược của Liên Bang Xô Viết tại Đông Đức.

Trái lại chúng tôi tìm cách thích ứng lý tưởng của chúng tôi với những hành vi bẩn thỉu
bởi vì Hoa Kỳ và Đồng Minh Âu châu đang tìm cách phá hủy những nỗ lực xây dựng xã
hội chủ nghĩa của ch úng tôi trên đất nước Đức. Và tị nh huống viện cớ cứ tiếp tục như
vậy, cho đến khi chúng tôi thức tỉnh ra khỏi cơn m ê năm 1989. Tôi vẫn phủ nhận thái độ
quyết đoán cho rằng chế độ chúng tôi hoàn toàn dựa trên sự Dối Trá, nhưng tôi phải
công nhận phần lớn nó được xây dựng trên những bào chữa.

Khi tôi đứng ra lãnh đạo cơ quan tình báo hải ngoại, Ulbricht trực tiếp kiểm soát trong
vòng nửa năm. Mùa Xuân năm 1953, cơ quan được đặt dưới quyền của Wilhelm Zaisser,
một ủy viên của Bộ Chính Trị và đồng thời lãnh đạo Bộ Công An Nhà Nước. Ông có một
quá khứ khiến mọi người Đông Đức phải kính phục. Trước Thế Chiến Thứ Hai, ông tổ chức
những công tác mật tại Trung Hoa và điều khiển Quân Đoàn 11 Quốc Tế tại Tây -ban-nha.
Ông Zaisser và tôi làm việc nhịp nhàng với nhau, có nghĩa là ông phó mặc hoàn toàn
công việc cho tôi. Ông chỉ dành cho tôi một tiếng đồng hồ mỗi tuần và thời gian qua mau
tôi không kịp trình bày những ưu tư của tôi. Là một sinh viên đam mê học thuyết Mác -
xít, ông thích bàn thảo về các vấn đề chuyển ngữ tuyển tập Lê -nin sang ấn bản mới tiếng
Đức, mà ông phụ trách in đăng hơn là nghe báo cáo của tôi. Những bản thảo thường nằm
đầy trên bàn của ông thay vì những báo cáo tình báo.

Wilhelm Zaisser năm 1947

Ngay sau lễ Phục Sinh năm 1953 , quả bom đầu tiên trong nghề nghiệp của tôi nổ. Một
biến cố sau này mọi người được biết đến là vụ Vulkan ( Vulkan, tiếng Đức có nghĩa là "núi
lửa"). Gotthold Kraus, làm việc trong đơn vị tình báo kinh tế của chúng t ôi, trở thành
nhân viên đào thoát đầu tiên của chúng tôi. Tôi xem việc này như một thất bại cá nh ân
lớn khiến cho tôi khám phá cơ quan chúng tôi còn kém cẩn mật. Hơn nữa, y ra đi vào
ngày nghỉ cuối tuần và sự vắng mặt của y không ai để ý trong vòng nhiều ngày. Cơ quan
phản giản Tây Đức có thời gian rộng rãi để khai thác những gì y biết về những điệp v iên
Đông Đức trên lãnh thổ của họ và bắt họ trước khi chúng t ôi biết họ gặp nguy, chưa nói
đến việc triệu hồi họ về. Franz Blücher, Phó Thủ Tướng Tây Đức, tuyên bố trong một cuộc
họp báo ba mươi lăm điệp viên đã bị bắt nhờ thông tin của Vulkan. Con số này thái quá
vì không một viên chức nào có thể biết danh tính của quá nhiều điệp viên họat động trên
đất địch. Hóa ra phản gián Tây Đức, quá hồ hởi vì lần đầu tiên đã bắt được một mẻ lớn,
quơ vào lưới một số thương gia vô t ội buôn bán với Đông Đức nhưng họ chắc chắn không
phải là gián điệp.

Tuy nhiên chúng tôi phải trả giá đắt vì sự phản bội của Gotthold Kraus: ít nhất nửa chục
điệp viên họat động toàn thời bị bắt, trong đó có Andrew Thorndike, một nhà làm phim
tài liệu có tài mà chúng tôi mượn nghề nghiệp để làm bình phong cho những họat động
gián điệp của ông. Ông xuất thân từ giòng họ nổi tiếng thuộc hiệp hội buôn bán Hanse và
qua những mối liên hệ của ông chúng tôi tìm cách xâ m nhập các câu -lạc -bộ có thế lực
chính trị và kinh tế vùng Hamburg. Vào lúc đó ông không có mặt tại Tây Đức nhưng ông
ở Đông Đức, ông bị bắt vì một trò lừa thường tình: Phản gián Tây Đức gởi cho ông điện
tín báo bà cô bị đau ốm. Ông đi sang Tây Đức và ông bị bắt. May mắn cho ông, họ không
có bằng chứng về những họat động của ông và đ ược thả ra. Ông về Đông Đức và sống
cuộc đời thanh bạch quay phim ở phía bên này biên giới. Zaisser khi ển trách tôi một cách
nhẹ nhàng : "Mischa này, anh cần phải học hỏi nhiều hơn nữa ".

Vào những ngày tháng sau này chúng tôi ráo riết tổ chức lại toàn bộ công tác trên những
đường dây hữu hiệu hơn . Việc tìm kiếm những thí sinh thích ứng và đáng tin cậy xem ra
khó khăn và tốn kém. Điều tra về mức độ tín cẩn chính trị, những mối liên hệ cá nhân và
tính tình của họ đòi hỏi thời gian. Chúng tôi tìm kiếm những c ông dân trẻ, có động cơ
chính trị, có quyết tâm với xã hội chủ nghĩa và tin tưởng vào sứ mạng phục vụ đất nước
và chính nghĩa. Chúng tôi không quan tâm cho dù các thí sinh có họ hàng bên Tây Đức,
trái ngược với chính sách tuyển dụng các sĩ quan tại tổng th am mưu, họ bị loại trừ nếu
họ có họ hàng. Trên thực tế, họ hàng bên Tây Đức xem ra hữu dụng để giúp các điệp
viên không phải qua các trại tị nạn để vào Cộng Hòa Liên Bang Đức.

Mỗi một điệp viên được một người phụ t rách công tác tương lai huấn luyện theo từng cá
nhân, và có thêm phần huấn luyện đặc biệt nếu đó là mục tiêu khoa học và kỹ thuật. Một
khi đã vào được Tây Đức, các điệp viên thường bắt đầu công tác qua một thời gian âm
thầm lao động tay chân để vượt qua hàng rao hành chánh và lập nghiệp tại Tây Đức. Vì
vậy chúng tôi lựa chọn những thí sinh có tay nghề sành sỏi hoặc có kinh nghiệm thực tiễn
trong ngành nghề. Hầu hết tất cả các sinh viên và khoa học gia mới tập tễnh di cư sang
Tây Đức vào những năm đầu đều kiếm được việc làm trong các công sở nghiê n cứu họăc
các hãng mà chúng tôi để tâm đến – các cơ sở nghiên cứu hạt nhân của chính quyền liên
bang tại Jülich, Karlsruhe và Hamburg; viện Batelle Institute tại Frankfurt, được Hoa Kỳ
xây dựng; Siemens, hãng điện tử lớn nhất của Đức; hãng IBM Đức hoặc hã ng hóa học
khổng lồ Đức BASF, Hoechst và Bayer. Vì chúng tôi dự kiến các nhà sản xuất vũ khí
truyền thống của Đức – sau cơn bão tố về việc quân sự hóa nước Đức lắng động – có thể
sẽ tiếp tục sản xuất những trang bị quân sự, nên chúng tôi cũng c ài người vào các hãng
như Messerschmidt và Bölkow.

Có một v ài điệp viên của chúng tôi đã le n lỏi vào những cơ quan rất chặt chẽ về mật an
ninh bảo mật, một số khác nắm chức vụ quản lý với lương bổng rất cao. Chúng tôi cũng
khai thác các mối liên hệ chính thức và cá nhân giữa các khoa học gia của hai vùng nước
Đức. Vấn đề cũng đơn giản vì khuynh hướng lúc bấy giờ khiến cho họ cảm thấy bất an về
hiểm họa vũ khí hạt nhân, sinh trùng và hóa học. Những ai đã từng cực kỳ xúc động vì
những hệ lụy trong việc nghiên cứu vũ kh í hạt nhân trong thời chiến, họ đặc biệt là
những đối tượng tốt của nhân viên chúng tôi.

Cái chết của Stalin vào tháng 3 năm 1953 là một chấn động lớn đối với khối chính trị
Cộng Sản, khởi sự cho một cuộc chiến tra nh giành quyền lực tại điện Cẩm Linh và tạo
nên bất ổn trong giới lãnh đạo của các nước trong khối Đông Âu. Phản ứng của tôi, cũng
như phản ứng của mọi tín đồ của Stalin, là một nỗi buồn vô hạn pha lẫn với cảm giác hỗn
độn ngổn ngang. Chúng tôi sống quá lâu dưới sự hướng dẫn của Stalin nê n cuộc sống sau
cái chết của ông khó mà mường tượng .

Ulbricht hy vọng vào thắng lợi của các lực lượng cứng rắn nhấ t trong các lực lượng cứng
rắn thân cận Stalin. Để có được sự hỗ trợ của thể chế mới , ông nhất nhất theo đuổi chính
sách "tiến nhanh lên xã h ội chủ nghĩa", có nghĩa là sưu thuế cao và trợ cấp xiết chặt,
khiến cho các xí nghiệp tầm cỡ nhỏ bị đình trệ và các xí nghiệp tự túc khánh tận. Các
nông trại và các hãng nông nghiệp phải điêu đ ứng vì phải thình lình theo chiều hướng
kinh tế xã hội chủ nghĩ a toàn diện . Sinh họat tôn giáo của giáo hội Công giáo sau đó bị
đình chỉ.

Chính sách này gặp sức kháng cự mãnh liệt . Các nông dân và các nhà sản xuất nhỏ phản
ứng bằng cách làm việc không có hiệu năng hoặc, nếu họ thoát tội, chẳng làm gì cả.
Tháng Chạp năm 1952, Thủ Tướng Đông Đức, Otto Grotewohl, cảnh báo nguy cơ thiếu
hụt thực phẩm và những gia dụng cầ n thiết. Nhưng U lbricht chẳng thèm để ý. Ông đánh
giá những kháng cự chống lại kế hoạch của ông qua lăng kính của chủ nghĩa Stalin chân
chính, theo đó cuộc đấu tranh giai cấp sẽ gia tăng cường độ và tốc độ khi những thay đổi
chuyển dứt khóat sang xã hội chủ nghĩa .

Vào mùa Xuân năm 1953, lệnh gia tăng chỉ tiêu 10 phần trăm trong sản xuất được ban
hành cho các nhà máy, công xưởng và công trường xây cất lớn, kèm theo giá cả tăng vọt
của các lọai thực phẩm căn bản. Không chịu đựng được gánh nặng của những biện pháp
bất công đặt để từ trên xuống, quần chúng bắt đầu than phiền công khai tại các hàng
quán và các cơ xưởng. Bốn tháng đầu năm 1953, hơn 120.000 người trốn chạy Đông
Đức. Điều này cũng xảy ra ba mươi sáu năm sau, năm 1989; trong cả hai trường hợp,
giới lãnh đạo quá sơ cứng để phản ứng trước cảnh đào thoát và không làm gì hơn ngoài
việc oai dũng trách móch. “Chúng ta sẽ trong sạch hơn khi bọn kẻ thù giai cấp ra đi”,
Ulbricht nghe đâu đã nhận định như vậy khi các công nhân cơ xưởng, các giáo viên, các
kỹ sư, các bác sĩ và các y tá gia nhập đoàn người ra đi .

Lo ngại cho sự bất ổn có thể dẫn đến sự xụp đổ hoàn toàn của quốc gia Đông Đức và bực
dọc vì sự cứng đầu của Ulbricht, Moscow can thiệp. Lavrenti Beria, lúc đó đang tranh
giành quyền lực trong giới lãnh đạo sau cái ch ết của Stalin, đảm trách việc soạn thảo một
tài liệu nhan đề "Biện Pháp Để Cải Thiên Tình Trạng tại Nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức".
Sự kiện điện Cẩm Linh thú nhận tình trạng này trong khối Đông Âu xét ra ngày nay là
một th ú nhận đáng ngạc nhiên trước thời kỳ "glasnost" khá lâu.

Giống như những cậu học trò ng ỗ nghịch, giới lãnh đạo của Bộ C hính Trị chúng tôi được
mời sang Moscow và được lệnh phải đem ý kiến của Beria ra thực hành sớm chừng nào
hay chừng đó. Điều này có nghĩa là phải khuyến khích các xí nghiệp nhỏ, bỏ rơi kinh tế
điều khiển của Ulbricht và nới rộng những hạn chế hà khắc chẳng hạn như đối với những
«kẻ thù nội tại » của chủ nghĩa, trí thức tiến bộ và giáo hội Công Giáo. Mặc dù giới lãnh
đạo Đông Đức không lấy gì làm hứng thú, mục đích của Beria là nuôi béo Đông Đức để
bán cho Tây Đức hầu nước Đức có được quy ch ế trung lập họăc ngay cả quy chế phi quân
sự.

Từ những ngày đầu cho đến cuộc nổi dậy năm 1953 tại Đông Bá Linh, tôi nghỉ mát tại
Biển Baltic, đọc tiểu thuyết Hemingway và chơi đùa với các con. Đối với cấp lãnh đạo của
một cơ quan tình báo thú nhận điều này không lấy gì làm xây dựng cho lắm. Những ngày
nghỉ hiếm hoi này có được là nhờ sự can thiệp của Wilhelm Zaisser, cấp trên của tôi. Ông
gay gắt với tôi khi tôi thúc dục rất nhiều lần về tình trạng tài chánh nghèo nàn của cơ
quan tình báo hải ngoại.

“Mischa, có những điều quan trọng đang diễn ra ngay lúc này”, ông nói và rồi để xoa dịu
“Anh đã không lấy ngày nghỉ từ bao lâu rồi? Anh lái xe đến Nhà Nghỉ Mát Xanh, rồi chúng
mình sẽ tính”.

Thật là một vinh dự lớn cho tôi khi tôi được mời đến Nhà Nghỉ Mát Xanh tại Prerow, nơi
bồi dưỡng của Bộ An Ninh trên vùng biển Balt ic. Tại đây, trong ngôi biệt thự dacha khang
trang của chính phủ , tôi được biết đến lời thú nhận hoảng hốt đầu tiên của Bộ Chính Trị
ngày 16 tháng 6. Đó là một bản thông báo trong đó cả Bộ Chính Trị lẫn chính phủ chấp
nhận sai lầm trầm trọng và tuyên bố thay đổi ngược lại tất cả những biện pháp gia tăng
sản xuất và giá cả thực phẩm. Đầu tư vào kỹ nghệ nặng bị cắt giảm, sản xuất sản phẩm
tiêu dùng gia tăng và các cơ sở tư nhân đã bị chính sác h khắc nghiệt của Ulbricht buộc
phải đóng cửa nay được phép mở lại. Đây là một bước ngọăt chữ U của Ulbricht, nhưng
đã quá trễ.

Vào sáng ngày 17 tháng Sáu, Đài Phát Thanh Khu Vực Hoa Kỳ (Radio in the American
Sector – RIAS) thông báo các công nhân xây cất đang tiến từ đại lộ Stalinallee đến Dinh
Các Bộ (cũng là nơi trước đây Bộ Hàng K hông của Hermann Goering tọa lạc thời Đức
Quốc Xã). Các công nhân đòi hủy bỏ những chỉ tiêu mới trong sản xuất kỹ nghệ và cải
thiện lương bổng và điều kiện làm việc. Tòa nhà đ ược cảnh sát ngăn rào và tình thế rất là
căng thẳng. Các công nhân đình công mời gọi Ulbricht và Grotewohl. Fritz Selbmann, Bộ
trưởng Bộ Kỹ nghệ, xuất hiện để chấn an đám đông, nhưng vô hiệu quả.

Có những ý kiến khác nhau về mức độ can thiệp của cơ quan tình báo Tây Âu, nói cho
chính xác hơn các mặt trận Tây Đức hàng đầu do Hoa Kỳ hỡ trợ, vào việc xúi giục cuộc
nổi dậy này. Đã có những xâm nhập trong các xí nghiệp và cho những ai mong muốn sự
sụp đổ của Tây Đức, đưa đến thống nhất hai nước, theo diễn biến của những ngày này
đây là một cơ hội lớn. Nhưng ở đây lối quản lý kinh tế tồi dở của Đảng và tính chất lãnh
đạo đàn áp của Ulbricht đã khiến dẫn đến tình trạng này. Ulbricht sau đó cũng cố gắng
muốn xuất hiện, nhưng ông không đương đầu với đám biểu tình, lúc đó đang gào thét
"Đả đảo Spitzbart!" (Đả đảo Râu nhọn!), họ liên tưởng đến chòm râu cằm nhọn của ông,
trau truốt theo kiểu Lê -nin. Ông lựa cách xuất hiện tương đối an toàn hơn trong một cuộc
hội họp với các thành phần họat động để trả l ời; tại đây phong cách cục mịch độc đoán
của ông biến mất, ông tỏ ra lập lững và thiếu tập trung.

Đến chiều tối, Đài Phát Thanh Vùng Hoa Kỳ đóng vai trò điều hợp các biến chuyển, kêu
gọi biểu tì nh và thông báo rõ thời điểm và địa điểm. Các hãng xưởng lần hồi gia nhập
cuộc đình công. Đoàn người biểu tình kéo nhau về công trường Postdamer Platz của Bá
Linh, nơi cả bốn vùng kiểm soát của Đồng Minh gặp nhau. Từ phía Tây, những nhóm gào
thét đòi lật đổ chế độ Cộng Sản c ũng đang tiến đến Cổng Brandenburg. Một giờ chiều,
quản trị viên Xô Viết của thành phố t uyên bố thiết quân luật và xe tăng di chuyển vào
thành.

Tôi quyết định trở về Bá Linh. Khi tôi đến gần thành phố Neustrelitz, khoảng giữa đường
từ bờ biển Baltic đến Bá Linh, xe của chúng tôi bị quân đội Xô Viết chặn tại một đọan
đường. Thẻ căn cước đặc biệt của tôi tỏ ra vô dụng. Mặc dù chúng tôi phản đối, chúng tôi
bị giam giữ với các "phần tử đáng nghi" trong một căn phòng của trạm kiểm soát. Tại
đây tôi rủa thầm vài tiếng đồng hồ và tự hỏi ai là ng ười quản lý thực sự phần đất này của
nước Đức. Nhờ về kiến thức tiếng Nga, trong đó có cả những tiếng lóng nặng nề, cuối
cùng tôi được phép nói chuyện với cấp chỉ huy, tự giới thiệu mình một cách minh bạch và
tiếp tục cuộc hành trình.

Sau đó tôi về đến nhà tại khu Pankow của Đông Bá Linh, khu vực thành phố nơi cấp lãnh
đạo ở. Các công nhân từ Bergmann -Borsig, một tập đoàn sản xuất các máy móc dụng cụ
lớn dùng cho kỹ nghệ nặng và vật liệu gia dụng, đi ngang trước nhà tôi và cha tôi thoát
hiểm trong đường tơ kẽ tóc , suýt bị đám đông đánh tại trung tâm thành phố. Ông chắc
chắn phần đông thành phần thanh niên biểu tình đến từ Tây Bá Linh và ông hồi tưởng
đến bọn áo nâu tràn đầy thành phố thời buổi ban đầu của Hitler. Bây giờ lối phát ngôn
này có thể bị đánh giá là kiểu tuyên truyền Cộng Sản, nhưng tưởng cũng không kém
phần quan trọng nhắc nhở những biến cố trên xảy ra ch ỉ có tám năm sau sự sụp đổ chủ
nghĩa Quốc Xã tại Đức, và là điều rất là thường tình khi người ta cảm nhận, mượn lời của
Bertolt Brecht, "con đĩ đã đẻ ra nó vẫn còn muốn động cỡn ".

Chúng tôi sửng sốt vì sức bạo động và lòng hận thù dâng cao xung quanh chúng tôi. Đối
với những ai như tôi sống trong lòng của xã hội mới này đây là một bừng tỉnh khó khăn
để nhận thức hệ thống chúng tôi hàng mến chuộng đã làm mất lòng dân. Số lượng chính
xác người chết không hề được biết rõ, nhưng tổng số lên đến k hoảng 100 và 200 người.
Tôi thấy rõ ý niệm "chủ nghĩa phiêu lưu phát -xít" và "lật đổ phản cách mạng" phát xuất
từ cấp lãnh đạo chỉ dùng để làm dụng cụ tuyên truyền mà thôi. Điều này không làm cho
tinh thần tôi bị lay chuyển. Tôi thích thú mường tượng chúng tôi học hỏi được từ cuộc nổi
dạy và đem áp dụng những kinh nghiệm tốt của bài học nà y cho việc quản lý tương lai
nhà nước.

Với trách nhiệm giám đốc cơ quan tình báo hải ngọai, công việc của tôi là tìm kiếm chứng
liệu can thiệp của những lực lượng bên ngoài trong cuộc nổi dậy này. Tôi biết rõ, ngay lúc
đó, đây cũng là một tiểu sảo để cung cấp những biện minh cho giới lãnh đạo trong lúc
quân dội Xô Viết phơi bày sự bất lực của họ. Việc thâu thập bài vở trên nhật báo và tuần
báo, sách vở và những tài liệu khác phơi bày kế hoạch của Tây Đức và Hoa kỳ nhằm xóa
bỏ Cộng Hòa chúng tôi không phải là một điều khó; lúc đó có một khuynh hướng hòa tấu
chung trong mối bang giao quốc tế. Lý thuyết gia Hoa Kỳ James Burnham, trong quyển
sách nhan đề Defeating Soviet Imperialism (Đánh bại Chủ Nghĩa Đế Quốc Xô Viết), đã hô
hào dùng những phương pháp khuynh đảo trên lãnh thổ của khối Đông Âu, kể cả việc
dùng những "câu-lạc-bộ chui " để xúi giục, "phối hợp hành động để lật đổ chính quyền
Cộng Sản", do các ông bạn được CIA trợ giúp tiên phong dẫn đầu tại Tây Bá Linh, Đạo
Quân Chống Phản Nhân Đạo (Kampfgruppe gegen Unmenschlichke it –KGU) và Ủy Ban
Điều Tra của Các Luật Gia Tự Do (Untersuchungousschuss Freitheitlicher Juristen – UFJ).
Chúng tôi khám phá, nhờ một điệp viên của chúng tôi trong phái bộ Quân Sự Mỹ, giám
đốc CIA, Allen Dulles và cô em gái, Eleanor Lansing Dulles, một viên chức của Bộ Ngọai
Giao Hoa Kỳ, đã có mặt tại Tây Đức một tuần trước khi xảy ra cuộc nổi loạn. (Điệp viên,
tên Bielke, là thông dịch viên cho đại diện địa phương của AFL -CIO tên là Baker. Công tác
của Baker là xâm nhập các tổ chức công đoàn thương mại của Cộng Hòa Dân Chủ Đức.)
Chúng tôi cũng bắt được điện tín của Walter Sullivan, phóng viên của tờ New York Times
tại Bá Linh, gởi cho trụ sở tại Manhat tan, điện tín ghi: “Bất mãn sẽ không bao giờ bộc lộ
nếu không có đài Phát Thanh Hoa Kỳ RIAS. Từ 5 giờ sá ng thứ Tư, đài phát thanh tuyên
truyền của Hoa kỳ tại Bá Linh phóng đi những chỉ thị chi tiết trên toàn lãnh thổ nước
Đức”.

Công việc của chúng tôi là thâu thập tin tức tình báo trong hậu trường của cuộc nổi dậy,
nhưng chúng tôi không rõ cấp lãnh đạo rút tiả kết luận nào từ những báo cáo này.
Ulbricht bất ngờ đặt nặng trong tâm lên một bản tin mà chúng tôi không mấy chú ý đến.
Vào tối ngày 16 tháng Sáu, tố chức công đoàn thương mại tại Tây Đức dự trù một cuộc
du thuyền trên tàu hơi và mời các đồng nghiệp còn rơi rớt lại trong các công đoàn Đông
Bá Linh. Nguồn tin của chúng tôi báo rằng lời mời không gởi qua bưu điện nhưng qua
điện thoại và các chữ "du ngọan trên thuyền hơi" đã được nhắc đi nhắc lại trong các lần
điện thọai. Ulbri cht lập tức xem đây là những mật mã khơi động những biến cố ngày 17
tháng 6. Nhưng đây rõ ràng là một suy đoán thái quá.

Cuộc nổi dậy trớ trêu hơn nữa lại củng cố quyền lực của Ulbricht. Sau một cuộc nổi dậy
tầm cỡ lớn như vậy, cấp lãnh đạo Xô Viết không thể nào phiêu lưu tạo thêm bất ổn hất
chân ông ta và đằng nào cũng vậy Beria vừa mới bị thanh toán trong đợt khai trừ hậu
Stalin đầu tiên.

Zaisser và Rudolf Herrnstadt, ch ủ nhiệm tờ báo của Đảng Neues Deutschland, cả hai đều
ủng hộ một cuộc cải cách và Ulbricht nhờ vậy có cớ chính đáng đẩy hai đối thủ này đi. Cả
hai được thay thế bởi những người ủng hộ ông vô đ iều kiện. Ngay chính Ulbricht cũ ng
hành xử một cách thô bạo như Stalin để tiêu diệt những kẻ đối kháng.

Một bầu không khí bất ổn và bất t ín nhiệm bao trùm khiến cuộc sống trở nên khó khăn
cùng khắp Đông Đức, và tôi cảm nhận điều này. Nhưng cái nhìn về thế giới và lòng thâm
tín của tôi không hề suy xuyển, một điều mà các độc giả Tây phương cảm thấy bí ẩn. Tại
sao, sau cuộc đổ máu trên đường phố và việc Ulbricht thanh lọc những phần tử mà chúng
tôi biết là tốt, chúng tôi không tìm cách lánh xa ông hoặc phê bình chỉ trích ông. Chiếu
theo tín thuyết và thực hành của tất cả các đảng Cộng Sản sau khi Lê-nin chết, bất cứ ai
công khai tấn công Tổng Bí Thư đương nhiệm , người đó phục vụ cho quyền lợi của kẻ thù
giai cấp. Đối với một người Cộng Sản, điều này tương đương với việc xúc phạm của một
tín đồ Công Giáo ngoan đạo.

Những người bị Ulbricht thanh trừng chấp nhận những cáo buộc một cách lặng lẽ. V iệc họ
không phát biểu để tự bào chữa có lẽ chỉ có thể hiểu được bởi những ai đã từng trải qua
các cuộc thanh trừng của Stalin và hiểu rằng kỷ luật trong Đảng là sức mạnh keo sơn.
Những người này đã cống hiến cả cuộc đời của họ cho phong trào cách mạng và đối đầu
với Đảng sẽ là một đổ vỡ toàn diện. Họ giữ im lặng cũng vì một lý do khác : họ biết rằng
tình trạng đã trở nên vô vọng , nói điều gì đi nữa cũng chỉ l àm cho tình hình tệ hại hơn
nữa.
Rudolf Herrnstadt, 1953

Rudolf Herrnstadt và Wilhelm Zaisser là hai trong những nạn nhân trong tiến trình củng
cố quyền lực của Ulbricht. Trước thời chiến, Herrnstadt làm việc cho GRU (Glanoye
Razvedyvatelnoye Upravleniye) cơ quan tình báo quân đội Xô Viết và đã gầy dựng một
hệ thống tình báo tuyệt hảo tại Warsaw. Hai điệp viên ông kết nạp Ilse Stöbe, người vợ
thứ nhất của ông, và Gerhard Kegel trong Tòa Đại Sứ Đức tại Moscow đã cung cấp tin tức
tiên khởi về cuộc tấn công của Đức năm 1941. Có lẽ ông phiền l òng vì được biết những
công tác trước đây của ông hiện không còn nghĩa lý gì cả. Trường hợp của Herrnstadt làm
cho tôi xúc động mãnh liệt. Mặc dù ông là một viên chức không nổi tiếng , vào những
thập niên 1980 , tôi thu xếp để ra lệnh phát hành một phim tài liệu cho các nhân viên trẻ
ghi lại thành tích tình báo của ông. Ít ra ông cũng được vinh dự trong giới tình báo, mặc
dù không chính thức.

Mãi sau này, tôi đọc được những giòng chữ Herrnstadt để lại trong khi ông làm việc tại
Thư Khố Trung Uơng Nhà Nước tại Merseburg . Ngay tại đây, một câu hỏi nhức nhối luôn
ám ảnh ông: "Tôi khôn ngoan hơn Đảng chăng?" Câu hỏi này dày vò ông mặc dù ông là
nạn nhân của sự bất công do Đảng đỡ đầu và ông thấy những hệ quả sơ cứng của giáo
điều của Đảng. Như Zaiser và Ackermann, ông giữ kín mối nghi ngờ trong lòn g và ghi
những giòng suy tư này trên những trang giấy cho thế hệ mai sau; họ bị ràng buộc bởi
một im lặng đồng loã mà phần đông các đảng viên Cộng Sản thất sủng mắc phải. Họ
kiên định với nguyên tắc căn bản của một đảng viên Cộng Sản : Không bao giờ gây thịêt
hại cho Đảng.

Không một ai trong họ có thể sống được với tâm trạng hồ nghi nghĩ rằng họ cung cấp vũ
khí cho những kẻ đánh phá quyền lực mà chúng tôi nhọc nhằn chiếm được. Giới trí thức
còn phải mang thêm gănh nặng khác là phải phấn đấu để được lòng tín cẩn của một đảng
cống hiến cho sự toàn thắng của giới công nhân. Cha tôi, các văn sĩ và các triết gia
thường xuyên nuốt nhục phải hạ mình xuống trước những kẻ tra vấn hằn học trong
những buổi họp của Đảng. Tại Đông Bá Linh, danh từ "trí thức" nghe ra lạc lõng trong nội
bộ Đảng và Bộ Công An. Nhiều người đã cố gắng tự bào chữa để không bị tố cáo có "lối
suy nghĩ trưởng thượng" hoặ c "thiếu khiêm nhường", họ bày tỏ lòng phục tùng chấp nhận
vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và phải ngậm họng trước những hành vi ngu
xuẩn nhân danh giai cấp. Đối với những ai không hiều rõ sức m ạnh của não trạng này,
tôi khó mà giải thích làm sao tôi có thể giữ được niềm tin trong những tháng năm săp tới.
Việc cất chức Wilhelm Zaisser khỏi chức vụ Bộ Trưởng Bộ Công An đưa đến những hậu
quả vừa có tính cách cá nhân và cũng vừa có tính cách tổ chức đối với cơ quan chúng tôi.
Tôi vẫn giữ chức vụ của tôi và tôi được phong làm phụ tá cho Ernst Wollweber, vị giám
đốc mới của cơ quan. Vị này không màng đến những chi tiết công tác nhưng đặc biệt chú
trọng đến những tin tức chính trị mà chúng tôi thâu thập. Khi đề cập đến vấn đề này, ông
bước tới bước lui trên chiếc thảm đặt trong văn phòng của ông. Người ông nhỏ nhắn, tròn
trịa, miệng luôn ngậm điếu xì-gà đã tắt ngẩm. Ông không thể nào ngồi yên trước bàn
một khi ông bắt đầu bàn về những nhân vật, những mối liên lạc và những mâu thuẫn bên
Tây phương và khả năng ảnh hưởng của chúng đối với chúng tôi.

Ernst Wollweber

Wollweber cũng chẳng khác biệt gì nhiều với Erich Mielke, người trách nhiệm về phản
gián và khử trừ gián điệp trong hàng ngũ chúng tôi. Mielke chống đối quyền kiểm soát
của tôi trên tình báo hải ngoại; ông tự xem là đối thủ của tôi và luôn tìm cách phá tôi ,
không những lúc chúng tôi ngang hàng với nhau mà ngay cả khi ông trở thành cấp trên
của tôi sau này trong chức vụ Giám Đốc Bộ Công An. Ông thuộc đạo quân tiêu diệt của
Đảng Cộng Sản nhằm vào các băng đảng Quốc Xã năm 1930 và ông thẳng tay trừng trị
kẻ thù. Tuy nhiên, năm 1953, ông vẫn còn đang bối rối vì một quyết đ ịnh Đảng xem xét
khả năng của ông do hệ lụy của cuộc nổi dậy năm 1953. Tôi được nâng quy chế , lên làm
một trong những phụ tá của Wollweber trước ông ta, điều mà ông vẫn còn hằn học cho
đến mãn đời của ông. Mấy năm sau, tôi được biết khi Wollweber bị cách chức, đại diện
của KGB tại Bá Linh, ông Yevgeni P.Pitovranov, và Đại Sứ Xô Viết tại Công Hoà Nhân Dân
Đức, ông Georgi M.Pushkin, ban thảo với Ulbricht để tìm kiếm người thay thế Wollweber.
Pitovranov nói :"Tại sao ông phải kiếm? Ông có người kế vị rồi – Wolf đấy". Nhưng Mielke
được đề c ử vào chức vụ này; ông là tai mắt của Ulbricht.

Mielke có một cá tính đầy uẩn khúc cho dù xét dưới khía cạnh đạo đức thông thường áp
dụng cho thế giới điệp viên. Ông đam mê thể thao thể lực. Ông có thói tật thu thập dữ
kiện không những về những người tình nghi đối lập mà ngay cả các bạn đồng nghiệp.
Ông cố moi tìm kiếm cho ra những tên phản bội trong giới lãnh đạo, ôn g hứa cho tôi
quyền cao chức trọ ng nếu tôi tìm được trong Trung Tâm Tài Liệu Hoa Kỳ tại Bá Linh, nơi
dự trữ tài liệu của Quốc Xã sau năm 1945, một loại bằng chứng cho thấy chính tri gia
Đông Đức cộng tác với Đệ Tam Cộng Hòa. Không có một sự kiện nào thoát sự chú ý của
ông, không có một chi tiết nhỏ nào không rơi vào hồ sơ đỏ mà ông cất kín trong tủ sắt
văn phong.

Erich Mielke

Có một lần tôi nhận báo cáo của một nhân viên sửng sốt trong cơ quan của tôi, anh thấy
Erich Honecker, sau này là lãnh tụ Đông Đức, nhưng lúc đó ông đứng đầu tổ chức Thanh
niên Đức Tự Do, rón rén qua các ngõ ngách đường phố sau khi ra lệnh cho tài xế về nghỉ
vào lúc trạng vạng tối. Đối với tôi điều này chứng tỏ là Honecker đang thăm viếng một cô
bạn gái vụng trộm, mặc dù lúc đó ông đã thành hôn vớ i một cô bạn đồng nghiệp công
chức. Tôi đùa bỡn việc này với Mielke: “ Này, chúng ta đâu cần giữ sự kiện này tron g hồ
sơ”, và tôi làm ra vẻ vứt báo cáo đó đi. “Không, không”, ông giám đốc phản gián vội
vàng trả lời “Để tôi cất giữ nó. Mình phải cẩn thận khô ng biết chuyện gì sẽ xảy ra sau
này”. Báo cáo này đóng góp thêm chi tiết về những thành tích không lấy gì làm đẹp đẽ
của ông Honecker vào trong hộp đỏ của Mielke, để rồi hàng chục năm sau này vào năm
1989 được phơi bày khi ông uỷ viên công tố tìm tòi trong văn phòng của Mielke.

Một khi đã khởi sự, c ác cuộc thanh trừng thật khó mà ngừng lại. Bốn năm sau, Wollwever
bị khai trừ do một thủ đoạn khác của Ulbricht và Mielke chiếm chức vụ Bộ Trưởng Bộ
Công An. Có lẽ Mielke vẫn giữ chức vụ đầu não công an nếu không có ngày ra đi lố bịch
vào năm 1989, khi ông rời bỏ nhiệm sở với lời từ biệt miễn cưỡng trước quốc hội Đông
Đức: "Tôi thương yêu hết mọi người ".
Chương 5
Vừa học vừa làm
Nước Đức vào những năm đầu của thập niên 1950 là một mạng lưới khổng lồ của những
mối liện hệ công khai và ngấm ngầm, những nỗi nhục thầm kín và lòng trung thành giấu
kín ở cả hai phía Hữu và Tả. Không có gì là chắc chắn, không thể tin ai một cách tuyệt
đối, dễ lầm khi nhìn bề ngoài. Kết quả là một xúc cảm mãnh liệt và tính đa nghi, một bầu
không khí đã được Billy Wilder ghi nhận trong những bộ phim về cuộc sống trong vùng
Hoa Kỳ chiếm đóng – đặc biệt trong phim Foreign Affair – và được chính em tôi quay lại
trong những phim nói về những năm đầu trong vùng Ng a chiếm đóng. Báo cáo chính
thức do người dân tự thẩm định chỉ là vỏ bề ngoài . "Cứ hai người trong nước là có một
người tham gia kháng chiến bí mật" cha tôi thuờng hay miả mai đùa cợt sa u khi nghe
những báo cáo vô căn cứ của người dân Bá Linh về cách họ chống Hitler một cách ngấm
ngầm. "Nhưng rủi thay, họ chẳng bao giờ thấy người này ".

Cả hai nước Đức đều hô hào mục đích của họ là thống nhất đất nước. Chính tôi
cũng không tin điều này có thể thực hiện được trong tương lai gần vì những xung đột
quyền lợi của những thế lực chiến thắng đã chia cắt nước Đức thời hậu chiến. Ngay cả tại
Washington và Luân-đôn, biến động tháng Sáu năm 1953 tại Đông Đức tạo thêm xác
quyết là chiến lược đẩy lui quyền lực của Xô Viết sẽ thành công. Hy vọng thống nhất sau
này tiêu tan dần vì áp lực chính trị, kinh tế và, chưa hẳn là tác động cuối, quân sự – việc
tái quân trang Tây Đức và việc Tây Đức gia nhập liên minh quân sự Tây phương là n hững
ưu tiên trong lịch trình của Tây Phương. Tuy nhiên cấp lãnh đạo của Cộng Hoà Dân Chủ
Đức vẫn tiếp tục bám víu vào khẩu hiệu thống nhất nước Đức, mặc dù quá nhiều công
dân của họ đã bỏ nước ra đi.

Mối ưu tư hàng đầu của giới cầm quyền là cuộc đấu tra nh thiết lập một bộ mặt
khác biệt của phương Đông. Tình cảnh bấp bênh nội tại của "quố c gia Đức thứ hai" luôn
đeo đuổi trí não của họ. Điếu này buộc họ phải phát động việc tôn sùng lòng ái quốc đến
độ vô lý. Chúng tôi mặc quân phục, tôi có ít nhất năm bộ, đây là một thành tích đáng kể
cho một người không bao giờ phục vụ trong quân đội. Một trong những ý kiến kỳ quặc
nhất của Ulbricht áp dụng vào thời kỳ này là việc sử dụng biểu tượng quân sự - một cuộc
xoay chiều thấy rõ, vì chúng tôi chỉ trích việc dân Tây Đức vẫn tiếp tục truyền thống quốc
gia quân sự của quân đội Hitler. Nhạc quân sự truyền thống cũng được phục hồi và công
khai hoà tấu lần đầu tiên tại Đông Bá Linh tại Thế Vận Hội Thanh Niên khối Xô Viết năm
1951. Như phần đông các đảng viên Cộng Sản đã đ ược đào tạo để đánh giá cách pha
trộn quân sự với nhạc này chuẩn bị con đường đi đến chế độ Quốc Xã, tôi cảm thấy khó
chịu. Khi những bài quân nhạc trổ lên, tôi quay sang nhà văn Nga gốc Do thái Ilya
Ehrenburg, đứng bên cạnh tôi trên khán đài, và hỏi ông n ghĩ thế nào về quang cảnh này.
Ông nhún vai theo kiểu cách nhẫn nhục của người Nga và nói : "Người Đ ức lúc nào cũng
thích diễn hành".

Trong khi đó, cơ quan non nớt của chúng tôi cố gắng học hỏi xây dựng cơ sở với
phong cách ít phô trương hơn. Mặc dù vậy, không phải lúc nào cũng được êm t hắm. Vào
những năm đầu việc quản lý cơ quan điệp báo mới luôn có khuynh hướng ngả theo luật
của Murphy (Lời dịch giả: Murphy's Law: Điều gì mình nghĩ là hỏng nó sẽ hỏng) và môi
trường khoa học kỹ thuật tạo vô số cơ hội để lầm lẫn và tính toán sai lầm.

Trong những thập niên 1950, hàng ngàn công dân Nước Cộng Hoà Dân Chủ Đức
tràn qua biên giới Tây Bá Linh và Tây Đức lúc đó hầu như mở ngỏ. Con số gia tăng nhanh
chóng sau cuộc nổi dậy tháng 6 năm 1953, và gần 500.000 ngườ i của một nước có dân
số 18 triệu người bỏ trốn trong vòng ba năm kế tiếp.
Điệp viên của chúng tôi trà trộn trong làn sóng người này không khó. Họ thường là
thanh niên, có lý tưởng Cộng Sản cao độ và họ đặt nền tảng cho nhiều thành công của
chúng tôi sau này. Mặc dù họ thường bị mời lên tra vấn tại các trại tị nạn một khi họ
sang phiá Tây, họ vẫn có cơ hội tốt để hoà nhập với đám đông mới đến nếu họ được
trang bị một lý lịch khả tín , chẳng hạn như ước muốn đoàn tụ với thân nhân bên Tây
Đức. Chúng tôi dùng nhiều lý cớ khác nhau : Một điệp viên có thể trình bày là y bị bắt tại
trận man khai quá khứ đảng vi ên Đảng Quốc Xã h oặc tố chức Waffen SS, hoặc y tỏ ý phê
bình nét xấu của những chính sách của chính phủ. Chúng tôi đi xa hơn nữa cài đặt
"những vết nhơ" trong lý lị ch cá nhân của các điệp viên trong hồ sơ các bộ để tăng cường
độ khả tín nếu phản gián Tây Đức bằng phương cách nào đó lấy được hồ sơ của họ.
Chúng tôi tránh kết nạp vào cơ sở chúng tôi nhữn g người có thân nhân bên Tây Đức, vì
tôi nghĩ rằng những cơ quan tình báo Tây phương có thể dễ dàng xâm nhập cơ quan
chúng tôi – như chúng tôi đã xâm nhập họ - qua liên hệ và áp lực gia đình.

Mỗi một người chúng tôi gởi đi đều có một công tác nhất định và mỗi một điệp
viên được huấn luyện bởi một đội trách nhiệm về công tác này. Chúng tôi giới hạn việc
huấn luyện trong những nguyên tắc sơ đẳng về tình báo và phương cách thu thập những
tin tức mà chúng tôi muốn. Việc huấn luyện những điệp viên về những v ấn đề và phương
thức không liên quan đến công tác của họ xét ra không cần thiết; trên một phương diện
nào đó, điều này có thể khiến cho công tác của họ nguy hiểm hơn vì công tác của họ sẽ
trở nên phức tạp hơn một cách không cần thiết . Trong một vài trường hợp chúng tôi triệu
hồi điệp viên từ Tây Đức và đưa họ trở về Đông Đức để huấn luyện bổ túc khi có thời cơ
thuận tiện.

Sự kiện chúng tôi gởi điệp viên sang Tây Đức, một nước có cùng ngôn ngữ và văn
hoá, rõ ràng là một điểm lợi. Quả nhi ên, việc đưa người của Liên Bang Xô Viết xâm nhập
Hoa Kỳ và ngược lại là một việc khó khăn hơn nhiều. Khi cả hai nước Đức trưởng thành
theo hai chiều chương khác nhau, công tác xa m nhập trở nên khó khăn hơn, và việc xây
cất Bức Tường Bá Linh hạn chế hẳn làn sóng di dân trong đó chúng tôi cài điệp viên. Điều
này có nghĩa là lý lịch ngụy tạo phải tinh vi hơn. Nhưng vào thời điểm này Tây Đức vẫn
lép vế hơn, vì việc di dân từ Tây sang Đông rất hiếm và bị quan sát kỹ lưỡng. Mặt khác,
Tây Đức không có nhu cầu gửi người đi: Họ có thể mua chuộc người trong đám đông
công dân bất mãn tại Đông Đức chúng tôi.

Để khắc phục những khó khăn hành chánh trong việc định cư tại Tây Đức, phần
đông điệp viên của chúng tôi thường bắt đầu công tác bằng cách trải qua một thời gian
lao động chân tay đơn sơ. Vì lý do này, chúng tôi thường chọn các thí sinh có tay nghề
khéo léo và có kính nghiệm thực tiễn trong một ngành nghề. Tuy nhiên, không phải ai
cũng đi qua nẻo đường này. Như đã đề cập trước đây , hầu hết các khoa học gia và sinh
viên ngành khoa học di cư vào thời đó đều kiếm đuợc việc tại các hãng hoặc cơ sở nghiên
cứu mà chúng tôi chú ý. Chúng tôi cũng thâu thập tin tức qua các mối liên lạc không
chính thức với các khoa học gia Tây Đức. Nhiều người cảm thấy bồn chồn về hiểm họa
hạt nhân, vũ khi sinh trùng và hoá học. Họ bị chấn động mạnh vì hai quả bom nguyên tử
thả xuống Hiroshima và Nagasaki, họ cung cấp cho các điệp viên chúng tôi rất nhiều cơ
hội và đề tài để bàn thảo.

Có một vài người của chúng tôi xâm nhập vào các khu vực có những nguyên tắc
bảo mật khắt khe . Những người khác vào được những vị trí lãnh đạo , lương bổng cao
trong các tổ chức xí nghiệp. Nhưng việc xâm nhập vào thâm cung của các trung tâm
quân sự và chính trị tại Bonn, nơi những quyết định lớn được thực hiện, khó hơn nhiều.

Sau những cuộc nổi dậy năm 1953, cuộc họp thượng đỉnh của các Bộ Trưởng Bộ Ngoại
Giao của phía Đông Minh năm sau đó là một mối quan tâm bức xúc nhất của chúng tôi .
Đây là lần đầu tiên một biến cố như vậy diễn ra trước ngưỡng cửa chúng tôi và tôi không
rõ tôi phải có những hoạt động tình báo nào. Như thường lệ, ông bạn Xô Viết yêu cầu
chúng tôi có một kế hoạch hành động chính xác. Trong tinh thần ước vọng hơn là trông
chờ, tôi cố gắng chuẩn bị một kế hoạch nhằm tạo nên nhu câu bức thiết để có được tin
tức phẩm chất cao từ các nhân viên của tôi .

Moscow phái một cố vấn đặc biệt đến để xem xét bản sơ đồ lớn nằm trên bàn của
tôi và, giố ng như một anh thợ phát giác một lỗ hở trong máy, y nói : "Lẽ cố nhi ên, quý vị
cần có một "malina" trong thời gian công tác này". Tôi đâm ra bối rối. Malina theo tiếng
Nga có nghĩa là "quả mâm xôi", nhưn g chắc chắn ông bạn KGB không nó i về trái c ây ăn
tráng miệng. Hóa ra đương sự dùng tiếng lóng để chỉ động chị em ta, nơi đây các nhân
viên của chúng tôi quyến rũ các viên chức lạc lối từ hội nghị ra trút bớt gánh nặng vào
nơi có chút xa hoa.

Việc này diễn ra hàng mấy năm trước khi tôi khai triển chiến lược sử dụng tình dục
trong nghề điệp báo, nhưng tôi không muốn để lộ cho ông bạn đồng nghiệp Nga biế t là
tôi quá ngây ngô. Chúng tôi cấp tốc biến một căn nhà nhỏ mà chúng tôi đôi khi dùng ở
phía nam ngoại ô Đông Bá Linh thành vừa là nhà chứa và là trung tâm gài bẫy với đầy
dụng cụ nghe lén và máy quay phim có đèn hồng ngoại tuyến, gi ấu trong phòng ngủ có
ánh sáng thích hợp. Ngày nay những dụng cụ này tỏ vẻ rất thô sơ, chính vì vậy các nhiếp
ảnh viên phải luồn lách trong tủ quần áo nhỏ và đứng chờ cho đến khi đối tượng họ quan
sát ra đi.

Vấn đề kế tiếp là kiếm các giai nhân. Chúng t ôi tiếp xúc một ông cảnh sát cao
niên đã từng chỉ huy đội tuần tra thuần phong mỹ tục tại Bá Linh.(Điều ngộ nghĩnh, việc
kiểm soát mãi dâm và hình ảnh khiêu dâm được cả hai bên Đông và Tây cùng thực hiện
giữa những năm 1945 và 1949). Ông đi mòn giầy cao su biết hết những nơi hành nghề
của chị em ta và những nơi họ trú ngụ vì nay cái nghề xưa nhất trái đất đã đi vào bóng
tối trong một xã hội mới trong sạch của chúng tôi. Nhưng không may, ông dẫn chúng tôi
đến khu Mulackstrasse, một khu từ xưa đến này luôn biểu tượng cho thị trường buôn bán
da thịt hạ cấp nhất Bá Linh. Cấp trên của tôi lúc đó, đã từng trải cuộc đời trong nghề điệp
báo mặc dù điềm nhiên trước những sự kiện này, điện thoại cho tôi với giọng nhăn nhó :
"Anh không thể nào đặt chân đến những nơi như vậy cho dù chỉ tốn một Đức Mã".

Đi ngược lại với chủ thuyết, chúng tôi hành động theo bản năng của một xí nghiệp
tự do. Tại một quán bán sữa trên đại lộ Karl Marx chúng tôi kiếm r a được nhiều cô gái
hấp dẫn, mặc dù sống cuộc đời đáng kính ban ngày, chấp nhận sống một cuộc đời kém
trang trọng hơn về đêm nhân danh Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa. Kế hoạch dự tính gởi một
đám điệp viên của chúng tôi đến trung tâm báo chí tại Tây Bá Linh và các quán ăn, quán
rượu nằm xung quanh những nơi hội họp của các bộ trưởng ngoại giao. Họ có công tác
mời mọc các viên chức và cố vấn đến giải khát và, nếu tình hình có vẻ khả quan, đưa họ
đến tham gia một "nhóm nhỏ" tại căn " malina", nơi đây bảo đảm có sự h iện diện của
phái nữ.

Sự việc diễn tiến êm xuôi. Nhưng vào giữa đ êm, điện thoại của tôi reo vì xả y ra
một "biến chuyển bất ngờ". Bà Tám yêu cầu kiểm soát vệ sinh kỹ lưỡng và khám phá
một trong những cô nàng không lấy gì làm cảnh vẻ cho lắm. Cô ta có rận. Tôi ra lệnh rút
cô ta ra khỏi nhóm công tác.

Cuộc họp bắt đầu, đội công tác chúng tôi trông chờ hành động, nhưng không thấy
xuất hiện một anh bạn nào cả. Nhân viên tháp tùng năm nay hình như đạo đức một cách
bất thường, vì người duy nhất lọt bẫy, lại vào đêm cuối, là một ký giả Tây Đức. Nước và
thức ăn khai vị được trưng bày thịnh soạn, các giai nhân đứng vào vị trí của mình. Nhưng
trong lúc cao hứng, nhân viên trách nhiệm của chúng tôi đêm đó uống nhầm ly rượu
chứa thuốc cường dương dành cho khách. Để k ết thúc đẹp, có chiếu phim khiêu dâm. Lẽ
cố nhiên những loại phim này bị cấm tại Đông Đức, nhưng cũng đuợc ông cựu cấp chỉ
huy đội tuần tra thuần phong trình chiếu mỗi khi có dịp cần đến. Trong khi người của
chúng tôi không phút nào rời đoạn phim, con mồi chúng tôi không hề chú ý một chút nào
đến màn ảnh hoặc các cô gái và rút lui vào trong bếp để nói chuyện gẫu với cô gia nhân.

Ngày hôm sau, anh ký giả là n gười duy nhất có đầu ốc tỉnh táo . Anh ta hiểu chò
trơi và nói sẵn sàng làm việc cho chúng tôi. Đây cũng là một loại chiến thắng, nhưng quá
bất xứng với công lao bỏ ra. Chúng tôi trả l ương các cô chiêu đãi thất vọng và mời họ về
với chỉ thị họ triệt để không được bàn tán về vở kịch hỏng n ày.

Sau đó sự vụ này tiếp diễn một cách kỳ lạ. Khi chúng tôi gởi điệp viên đến gặp
anh ký giả, một người bạn đồng nghiệp đến thay anh ta, tên là Heinz Losecaat van
Nouhuys, tự nhân làm việc tờ tuần bán danh tiếng Tây Đức Der Spiegel. Hoặc giả họ tự
dàn xếp cuộc trao đổi hoặc việc này do phản gián Tây Đức tổ chức, tôi chẳng bao giờ
đoán ra sự thật. Nhưng ông van Nouhuys tỏ ra là một đi ệp có tinh thần cộng tác cao độ.
Mặc dù tôi nghi ngờ lời nói của ông cho rằng những tin tức của ông lấy từ các Bộ ra, tin
tức ông cung cấp cho chúng tôi năm này qua tháng nọ ăn khớp với những báo cáo khác.
Sau đó ông vào ban biên tập của tờ Quick. Tờ tuần báo cán h hữu rất phổ biến này chống
Đông Đức mãnh liệt, nhưng nơi đây ông vẫn tiếp tục làm việc cho chúng tôi.

Chúng tôi bắt đầu sử dụng hội chợ thương mại Leipzig để bắt liên lạc với giới
thương dân, và qua họ bắt mối liên hệ với các chính trị gia bảo thủ và các khuông mặt
nổi bật có lòng tin trong việc công tác với Đông Đức, họ bằng cách này hay cách nọ
muốn duy trì không cắt đứt hoàn toàn mối liên hệ giữa hai mảnh nước Đức. Các giao ước
thương mại Đông Tây tại đây phải tuân thủ lệnh cấm vấn của phương Tây trên những
mặt hàng có tinh chiến lược , ví dụ như những vật liệu căn bản như ống thép. Những hạn
chế này khiến các thươ ng gia phải lập nên những mối liên lạc đáng tin cậy và gian xếp
các giao dịch kinh doanh bất hợp pháp, và một bộ phận của Uỷ Ban Trung Ương Đảng
phụ trách về thượng lượng đút lót, cho dù sau này chúng tôi đảm nhiệm công việc này.
Tôi thường hay đi Leipzig đóng vai trò nghiêm trang của một viên chức cao cấp thương
mại hoặc một đại diện của Hội Đồng các Bộ Trưởng.

Nhờ vậy tôi gặp Christian Steinrücke, người liên quan đến việc buôn bán thép tại Tây
Đức. Steinrücke giao hảo với các kỹ nghệ gia lớn như Otto Wol ff von Amerongen, gia đình
ông quản trị một công ty thép tiên phong giao thương với Liên Bang Xô Viết vào đầu
những thập niên 1920 và giúp xây dựng đường xe hoả Mãn-châu. Một hôm ngồi ăn tối
với Steinrücke, tôi nói với ông tôi là một vị tướng trong Bộ Nội Vụ Đông Đức, và từ đó
chúng tôi tâm đầu ý hợp. Sáng hôm sau, tại một buổi họp kín của Liên đoàn Sắt và Thép
Tây Đức, ông giới thiệu tôi là đồng nghiệp của ông ta cho vị giám đốc, ông Ernst Wolf
Mommsen. Nhờ sự bảo trợ của Steinrücke, không một ai trong nh óm tinh anh kín đáo
này để ý đến sự hiện diện của tôi, nói gì đến chú ý đến tôi. Steinrücke có vợ thuộc gia
đình Wehrhahn, một trong những gia đình thế lực nhất của tư bản Đức. Anh của cô vợ là
rể của Adenauer – tai tôi rung động vui mừng khi tôi nghe điều này – và hơn thế nữa, chị
dâu của cô vợ là cháu của Hồng Y Frings, gương mặt kỳ cựu của giáo hội Công Giáo Tây
Đức.

Mối liên lạc của chúng tôi kéo dài nhiều năm. Để duy trì mối hữu nghị này, đôi khi
tôi mời Steinrücke đến dùng cơm tối với tôi và ngụy tạo một gia đình thứ hai. Tôi chọn
một biệt thự tại Rauchfangwerder và một cô xướng ngôn viên xinh xắn tại đài truyền
hình Đông Đức để làm vợ . Hình con cái của cô ta được treo trên tường mỗi khi Steinrücke
ghé thăm tôi. Khi vấn đề buôn bán vũ khí trở nên phức tạp hơn, những cuộc đối thoại với
đương sự càng lúc trở nên hữu ích, và đến kho ảng giữa thập niên 1970 ông là cố vấn của
Lockheed Corporation với nhiều mối liên hệ với cấp lãnh đạo của Không Quân Tây Đức và
quan hệ với những sinh hoạt của Franz-Josef Strauss, lãnh tụ chính trị vùng Bavaria
đồng thời là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng Tây Đức. Tôi c hưa hề đề nghị hoặc mời ông làm
việc cho chúng tôi, mặc dù ông cũng đoán được vai trò nếu không muốn nói đến tên tuổi
đích thực của tôi. Mối liên lạc giữa chúng tôi bất đắc dĩ chấm dứt vì tôi cắt đứt do sự hiện
dịên của người bạn Steinrücke, bác sĩ Walter Bauer.

Bauer tỏ ra vẻ là một thương gia khiêm tốn buôn bán mỡ của Tây Đức để đổi lấy
nỉ của Đông Đức trong vùng Lausitz của Đông Đức. Điều này không phù hợp với tài sản
Bauer đương có. Mối nghi ngờ của chúng tôi không sai. Vào khoảng trước năm 1945, ông
giữ một chức vụ cao trong tổ hợp kỹ nghệ Flick, sở hữu tiền chiến của mỏ than phát đạt
của vùng Lausitz. Hình ảnh của một thương gia tầm thường và tồi tàn của ông phản
nghịch với bức hình chụp chúng tôi tìm thấy ông ta đứng cạnh Konrad Adenauer trong
một h ội nghị công giáo. Chúng tôi tình nghi nhiệm vụ chính của ông là giúp chủ nhân của
ông có chân đứng tại Đông Đức nhân danh các kỹ nghệ gia lớn trông chờ ngày thống
nhất đất nước Đức. Theo đạo luật hình sự của chúng tôi, công tác của ông bị kết tội gián
điệp lẫn hoạt động phản động. Điều này cho tôi lý cớ để đưa Bauer vào tròng, tôi nghĩ
như vậy.

Tôi biết ông cũng là cộng sự viên thân cận với một người tên Hans Bern Gisevius, người
đã từng trong Đại Chiến Thế Giới Thứ Hai là giao liên giữa kháng chiến trung lưu Đức và
OSS (Office of Strategic Services), tiền thân của CIA. Trang bị với dữ liệu này, tôi quyết
định tấn công trực diện với Bauer. Chúng tôi gặp nhau tại Johannishof, khách sạn dành
cho khách của chính phủ tại Đông Bá Linh. Trái với hình ảnh của một công tác viên nhã
nhạn và phóng khoáng, Bauer là một người tròn trịa khoác một bộ quần áo cũ kỹ.

Steinrücke, có vẻ thích thú với vai trò trung gian mới này, cho y biết tôi là một
viên chức cao cấp trong Bộ Nội Vụ đặc trách về những vấn đề kinh tế. Chúng tôi nói
chuyện hàng tiếng đồng hồ và tôi dùng hết lá bài này sang lá bài khác nhưng không có
kết quả. Bauer luôn có câu giải đáp hoặc lời giải thích cho những gì y làm v à y không tỏ
vẻ lo sợ hoặc do dự khi bị áp lực, kể cả lúc tôi báo cho y tôi biết những đường giây liên
lạc của y với Hoa Kỳ. Đây là lá bài tẩy của tôi nhưng tôi đã thất bại một cách thảm não.

Một thương gia chính tông hoá ra là một tay hoạt động điêu luyện , quá cứng rắn
để một sĩ quan trẻ háo thắng có thể áp đảo được. Ông cũng quen biết q ua nhiều để
chúng tôi hăm dọa. Điều này dạy cho tôi một bài học quý giá, cho những nhân viên điệp
vụ quá cường điệu.

Ước đoán của tôi về Bauer được xác nhận ngay sau đó khi Steinrücke không xuất
hiện trong lần hẹn sau với tôi. Ông bị cơ quan tình báo Hoa Kỳ gắt gao thẩm vấn. Họ cho
ông biết tôi thực sự là ai và cảnh báo ông nên tránh tiếp tục liên lạc với tôi và Steinrücke
đã siêu lòng. Ông tiếp tục củng cố mối liên hệ với những khối áp lực sản xuất vũ khí của
Đức và Hoa Kỳ, điều khiến tôi trước đây thắc mắc về ông.

Vì cách hành xử hống hách của tôi đối với Bauer, tôi đã đánh mất đi một đường
giây liên lạc quý báu, lý ra vẫn còn có thể tiếp tục trên căn bản hiểu biết đắn đo. Với thời
gian chúng tôi hoàn chỉnh kỹ thuật nhằm thuyết phục thiên hạ làm việc cho chúng tôi và
ghi nhận việc ép các đối tượng có khả năng trở thành điệp viên ký khế ước trên giấy tờ là
một điều dại dột, thiếu khôn ngoan. Phần đông những kẻ vì một lý do nào đó muốn
thương lượng với cơ quan tình báo đối nghịch sẽ lẩn tránh vì không muốn cam kết một
cách chính thức, họ muốn ở một vị thế trung hoà . Tôi khuyên các sĩ quan củ a tôi : nếu
các anh nghĩ câu trả lời là không, các an h đừng đặt câu hỏi. Đừng ép uổng con người vào
một khuôn mẫu đã được các cơ chế hành chánh định trước. Hàng mấy năm nay chúng tôi
cố gắng rũ bỏ những ám ảnh hành chánh của các quan thầy Xô Viết . Điều n ày thích hợp
với chúng tôi.

Chúng tôi rất ham muốn xâm nhập đế chế kỹ nghệ Krupp và cố thu nạp Carl
Hundhausen, một thành viên của ban quản trị vừa có năng khiếu nghệ sĩ vừa hiểu biết
Đông Đức nhiều hơn các đồng nghiệp. Ông chỉ trích thái độ của chính quyền Bonn đối với
việc giao thương liên quốc Đức , nhưng sau đó ông nhận ra mối liên l ạc với tôi vượt quá
mục tiêu tạo lợi nhuận cho nhóm Krupp.

Tại một hội nghị bàn về tính đồng nhất của nước Đức, chúng tôi gặp ông Heinrich
Wiedemann, một nhà hoạt động cho việc thống nhất của nước Đức và cũng là một người
bạn của Joseph Wirth, cựu thủ tướng của Cộng Hoà Weimar. Tôi rất thích thu khi nghe
Wiedemann nói rằng những diễn văn chống lại việc củng cố liên minh Washington – Bonn
vẫn chưa đủ và đương sự ngầm báo muốn chúng tôi đóng góp vốn liếng để thành lập một
cơ sở kinh doanh tại Bonn. Một bản giao kèo được soạn thảo bảo đảm cho chúng tôi được
thạm dự vào phần lợi nhuận của cơ sở. Đây là một phiêu lưu hiếm hoi của cơ quan tình
báo chúng tôi vào lãnh vực tư bản rủi ro; đồng thời với sự trợ giúp của chúng tôi,
Wiedemann mở Văn Phòng Hỗ Trợ Kinh Tế cho những người Có Lương Bổng Cố Định , một
nhóm áp lực có liên lạc với các bộ và nhân viên của họ . Qua ngã này, chúng tôi tạo được
liên lạc với Rudolf Kriele, một cơ quan tham mưu trong Phủ Thủ Tướng Liên Bang đặc
trách về chính sách quốc phòng và liên minh quân sự . Là một quan chức có thế lực
thường lui tới văn phòng lóp-bi của chúng tôi, Kriele chuốc rượu Rhine và nói chuyện tầm
phào về những công việc nội bộ của các chính trị gia Đức.

Điều này kích thích tham vọng của chúng tôi. Chúng tôi dự tính khuếch trương
văn phòng để trở thành một nơi trú ngụ bất hợp pháp (một danh từ trong trao đổi tình
báo để chỉ định một công tác ngụy trang lâu dài ), và sau này biến thành một điểm l iên
lạc vào những thời điểm căng thẳng giữa Đông và Tây. Chúng tôi cung cấp cho điệp viên
những dụng cụ để thu thanh những cuộc đối thoại của những viên chức ghé thăm và
nhận, chọn lọc và chuyển thông tin về cho chúng tôi. Chúng tôi cũng tuyển dụng cô bạn
gái của Wiedemann, cấp trên của cô này làm việc tại Phủ Thủ Tướng, và chúng tôi đặt
cho cô mã danh là Iris. Nhưng có một vấn đề khó xử. Wiedemann, mặc dù có năng khiếu
thuyết phục, không phải là một thương gia đặc biệt giỏi, và chi phí điều hành văn phòng
vượt quá xa lợi tức thu vào, một sự kiện khó có thể che dấu thiên hạ lâu được. Chúng tôi
làm việc với tâm niệm là phản gián Tây Đức có khả năng tìm được hồ sơ thuế vụ và sẽ
sớm tự hỏi tiền từ đâu ra. Công tác kết thúc nhanh chóng hơn dự định của tôi khi một kẻ
đào thoát trốn bộ tổng tham mưu của chúng tôi sang Tây Đức, và chúng tôi bó buộc phải
triệu hồi điệp viên của chúng tôi vì mối nguy kẻ đào tẩu sẽ tiết lộ hà nh tung cho chính
phủ Bonn .

Giải an ủy là Iris , dù là niềm vui của chúng tôi bị suy giảm vì thượng cấp của cô
được chuyển từ Phủ Thủ Tướng sang Bộ Khoa Học và Giáo Dục. Tại đây trong vòng 10
năm, cô ta chuyển cho chúng tôi những chi tiết về những dự án nghiên cứu bén nhạy của
chính quyền và g iúp chúng tôi lập kế hoạch do thám khoa học và kỹ thuật.

Trong thời gian văn phòng Wiedemann làm việc, một nữ khách đầy quyến rũ tại
Bonn cũng tỏ ra đầy hưa hẹn vào thập niên đầu 1950. Chúng tôi đã ước đoán tiềm năng
của cô ta khi chúng tôi biết đến tên Susanne Sievers trong khi duyệt xét danh sách các
tù bình Tây Đức bị giam giữ tại Đông Đức chờ ngày phóng thích do ân xá. Cô ấy bị cơ
quan phản gián của chúng tôi bắt trong một chuyến tham dự hội chợ Leipzig năm 1951
và bị kết án tám năm tù ở vì tội làm gián điệp. Hồ sơ ghi nghề nghiệp của cô là ký gi ả tự
do, điều này làm cho chúng tôi chú ý. Một đại tá dàn xếp một cuộc gặp gỡ trước khi cô ấy
biết sẽ được thả. Trong căn phòng thăm viếng, nhân viên của ch úng tôi đứng trước một
người đàn bà cao, mảnh khảnh vào khoảng trung tuần ba mươi. Phong cách nghiêm
trang và tự tin toát ra từ bộ áo tù và cô vẫn tiếp tục bàn cãi việc giam giữ cô là một bất
công, cô không hề tìm ân huệ của những người bắt giam cô. Nhưng cô cũng nói đến
những vấn đề của nước Đức và chính sách thân Mỹ của Adenauer. Nhân viên chúng tôi dọ
hỏi cô ấy có muốn tiếp tục cuộc đối thoại trong một tình cảnh khác không. Sau đó cô
được thả và họ gặp nhau trên Cầu Warsaw tại Đông Bá Linh, tại đây hai bên thỏa thuận
khi cô ấy về Tây Đức, cô sẽ cung cấp tin tức cho chúng tôi. Chúng tôi đặt cho cô ấy bí
danh là Lydia.

Chúng tôi vui sướng khi Susanne chọn nơi cư ngụ tại một căn phòng ấm cúng tại
Bonn, tại đây cô mở văn phòng tiếp khách có sự gặp gỡ của những khuông mắt thế giá
bàn về chính trị và văn hóa. Chúng tôi nhận được những thông tin quý giá về các tổ chức
cực hữu của Tây Đức gọi là Cứu Nguy Tự Do (Rettet die Freiheit), dưới sự lãnh đạo của
chính trị gia Dân Chủ Thiên Chúa Giáo Rainer Barzel. Tổ chức này có mối liên hệ với các
nước Đông Âu qua ngã người di dân và có liên minh với Otto van Hapsbur g, một hậu duệ
của gia đình hoàng gia Áo-Hung rất năng động trong lãnh vực chính trị. Sau này Barzel
luôn ám ảnh chúng tôi khi ông đạt đến chức vụ chủ tịch của CDU (Đoàn Kết Dân Chủ
Thiên Chúa Giáo) và ứng cử chống lại Willy Brandt, cương quyết chống lại n ỗ lực của
Brandt muốn Tây Âu chấp nhận liên hệ ngoại giao với Đông Đức.

Trước khi cô bị Đông Đức bắt, Susanne đã có một mối tình say đắm với Willy
Brandt khi ông là thị trưởng của Bá Linh. Ông đã viết một loạt thơ tình gởi cho cô, sau
này được các đối thủ của Brandt tiết lộ công khai trong một mùa bầu cử quốc hội năm
1961, trong đó có cả Franz -Josef Strauss. Chính nhờ những báo cáo của cô đã ép chúng
tôi phải suy nghĩ lại về hình ảnh rập khuôn mẫu về Strauss, mô tả đương sự như một kẻ
thù bất cộng đái thiên của chủ nghĩa xã hội, hình ảnh mà đương sự muốn trình cho quần
chúng. Cô nhận định Strauss là một người thực tiễn không đam mê. Khi cô tiết lộ Strauss
và Brandt có hẹn nhau để gặp gỡ tại căn phòng của cô , có tin đồn một liên minh lớn sẽ
đưa nhóm Dân Chủ Xã Hội vào chính quyền lần đầu tiên kể từ khi Đệ nhị thế chiến bùng
nổ. Brandt xác nhận những cuộc đàm đạo này trong hồi ký của ông nhưng không đề cập
đến khung cảnh và mối liên hệ của ông với Susanne.

Tôi thường hay tự hỏi điều gì đã khiến người đàn bà này quay ra thích thú với
những cuộc gặp gỡ mưu đồ tại Bá Linh và báo cáo về những tổ chức và cá nhân có quan
điểm chính trị gần gũi với cô hơn là chúng tôi, đặc biệt sau khi cô chịu cảnh tù đày vì
những tội mà tôi cho là ngụy tạo. Cô chắc chắn biết rõ cô đang tiếp xúc với ai. Nếu cô là
một gián điệp nhị trùng, chắc chắn cô sẽ hỏi một số chuyện về công tác của chúng tôi,
nhưng cô không bao giờ đặt vấn đề. Cô chỉ nhận những bù trừ cho những chi phí của cô,
ngoài ra không có gì khác. Để có cớ sang Bá Linh, cô tạo dựng ra một người bạn gái sinh
sống tại phía Tây thành phố.

Mối giây liên lạc với nguồn cung cấp cực kỳ quý giá này thình l ình bị cắt đứt vì Bức
Tường Bá Linh được xây năm 1961. Cô là một trong nhiều nguồn cung cấp bên Tây Đức
ngưng làm việc với chúng tôi kể từ đó. Nhưng tôi tin rằng Susanne đóng góp hơn thế
nữa ; có những chỉ dấu cho thấy cô bắt đầu làm việc với tình báo Tây Đức. Cô biệt tích
với Fred Sagner, một đại tá của quân đội Tây Đức ngườ i đầu tiên thong báo cho cô về tổ
chức Cứu Nguy Tự Do, để đi Viễn Đông, tại đây y đ ược bổ nhiệm vào các tòa đại sứ củ a
Cộng Hòa Liê n Bang Đức với chức vụ tham tán quân sự. Đến năm 1968, cô l àm việc cho
hệ thống tình báo dưới sự kiểm soát của một viên chức Tây Đức tên Hans Langemann,
một đường giây của CIA để kiểm soát nhân viên tại Âu Châu và Viễn Đông.

Sau này Susanne Sievers - đã có lần Lydia trợ giúp chúng tôi - trở thành trưởng
khối Tình Báo Tây Đức (Bundesnach -richtendienst- BND) tại Hồng Kông với bí số 150,
điều khiển các phó trạm tại Đông -kinh (Tokyo), Manila, Jakarta và Singapore. Hồ sơ của
tình báo Tây Đức mà chúng tôi xem được vào những thập niên 1970 ghi cô đã nhận một
tài khoản 96.000 Đức Mã, như vậy vai trò của cô chắc chắn phải quan trong. Kh i Klaus
Kinkel trở thành trùm điệp báo Tây Đức năm 1968 , công việc đầu tiên của ông là quét
sạch những điệp viên giả hiệu và chấm dứt những cơ cấu tổ chức vô lối do Gehlen để lại,
lúc bây giờ vẫn là tiêu chuẩn, mặc dù đã có hai người khác lãnh đạo BND sau Gehlen.
Susanne Sievers rời cơ quan và nghe nói đã nhận 300.000 Đức Mã để không tiết lộ việc
BND nhúng tay vào chính trị nội bộ. Tôi không còn tin gì về cô, và cho đến nay cô là một
khuôn mặt mà lòng trung thành và ý nghĩa hành động vẫn còn là một bí ẩn đố i với tôi.

Bị tổn thương vì lỗi lầm của tôi trong vụ Steinrücke , tôi nhận thức bí quyết để xâm nhập
chính trị Cộng Hòa Liên Bang nằm trong tính đa dạng của các nguồn tin và cách vận
dụng chúng một cách liên lỉ một khi đường dây đã được móc nối. Về phía cánh hữu,
chúng tôi đã xây dựng đường giây liên lạc với Gü nter Gereke, một người Đức ái quốc ,
một dân biểu tiền chiến đã bị bỏ tù vì chông đối Hitler và sa u này gia nhập nhóm âm
mưu ám sát Hitler năm 1944. Về mọi mặt Gereke là một mẫu mực của nhóm bảo thủ
kiên quyết những rồi cuối cùng hợ p tác với chúng tôi. Nhiều người không chịu đựng được
Adenauer, phản bác ý niệm của ông nhằm bảo toàn sự tái sinh của nước Đức phải trông
cậy vào bà đỡ người Mỹ. Gereke phản đối bằng cách gặp gỡ Ulbricht công khai và bị tr ục
xuất khỏi đảng của Adenauer. Chúng tôi bám vào ông vì ông là một nguồn tin quý giá
trong giới Dân Chủ Thiên Chúa Giáo, mà ông báo cáo một cách tường tận.
Günter Gereke

Khi có tin tiết lộ phụ tá của Giereke là một điệp viên của tình báo Anh quốc, đối
với Gereke rõ ràng là chính phủ Bonn hầu như chắc chắn đang lập hồ sơ để đánh phá
ông, đồng thời cũng hy vọng hạ uy tín tất cả các đối thủ của chính sách phò Mỹ cho họ là
những điệp viên cộng sản. Chúng tôi quyết định hành động nhanh và báo cho Gereke di
chuyển sang Bá Linh. Đây là điều ông không hề nghĩ đến trong vị thế xã hội của ông,
nhưng vào thời buổi này chúng tôi có phần bốp chát và ông không còn lựa chọn nào
khác. Dù sao danh tiếng của ông đã chấm dứt tại Tây Đức khi Adenauer quyết định biến
ông thành một thí dụ điển hình.

Chúng tôi đưa ông ra trước cuộc họp báo tại Đông Bá Linh và ông giải thích lý do
muốn giữ liên lạc như một người Đức yêu nước. Đây là một thắng lợi tuyên truyền đối với
chúng tôi, khiến cho cấp lãnh đạo của chúng tôi phải thích thú. Quá thích thú đến độ
khiến cho họ có một mối thèm khát bệnh hoạn xui khiến kẻ khác đào thoát ngoạn mục,
không thèm để ý đến sự kiện một điệp viên tốt tại chỗ thường đáng giá hơn một chục
người đào thoát. Tôi từng có một nguồn tin, bí danh là Tim m, một dân biểu CDU, tên
thậy là Karlfranz Schmidt -Wittmack. Là một thành viên của ủy ban cho Vấn đề An Ninh
châu Âu và đứng đầu ủy ban bảo vệ của ngành thanh niên CDU, đương sự đ ược các thế
lực kỹ nghệ đỡ đầu và trên đường công danh đi đến đỉnh cao của đả ng. Tôi trở về sau lần
nghỉ hè năm 1954 và thấy giấy báo của Wollweber nói rằng Schmidt-Wittmack phải được
rút về Đông Đức. Tôi phát cáu khi nghĩ một người cung cấp tài liệu cho chúng tôi ghi rõ
những chi tiết để Bonn gia nhập NATO (Liên Minh Bắc Đại Tây D ương) lại có thể bị hy
sinh cho một cuộc họp báo, và tôi biết đương sự sẽ miễn cường từ bỏ sự nghiệp thăng
tiến để chốn chạy sang Đông Đức. Nhưng thẩm quyền không thuộc về tôi. Mắc dù cơ
quan tình báo có bản năng bén nhạy đến đ âu đi nữa, họ luôn luôn là co n cờ của chính
quyền mà nó phục vụ.

Tôi nghĩ tôi phải đích thân báo cho Schmidt-Wittmack. Những biện luận chính trị
tôi cố bày vẽ không t huyết phục được đương sự tí nào : đương sự không muốn trở thành
một con tốt trong cỗ xe quay không ngừng của bộ máy tuyên truyền. Tôi không còn lựa
chọn nào khác là nói dối và báo rằng phản gián Tây Đức đang theo dõi y và cơ may duy
nhất để tránh tù tội là trốn sang Đông Đức. Đương sự quyết định c ùng lúc với sự thỏa
thuận của vợ y. Chúng tôi ước định , mặc dù cô vợ quen thuộc với công tác của y cho
Đông Đức, cô ấy chẳng vui sướng gì khi nghĩ đến việc phải rời về đó. Chúng tôi thuyết
phục đương sự viết cho cô vợ trước khi đương sự trở về Hamburg để thu xếp đồ đặc, và
thư tín đi trước, cho cô vợ có thời gian tiêu thụ tin chấn động này. Buộc phải lựa chọn
giữa một ông chồng bị thất sủng ở tù hoặc khởi đầu một cuộc sống mới nơi một căn nhà
sinh sắn gần bờ hồ ở Đông Đức, cô vợ chọn giải pháp thứ hai.

Ngày 26 tháng Tám năm 1954, Schmidt-Wittmack xuất hiện trong một cuộc họp
báo tại Đông Bá Linh. Đương sự tiết lộ Adenauer đã giấu những thông tin quan trọng về ý
định của ông trong chính sách đối ngoại và an ninh. Như mọi trường hợp tương tự , chúng
tôi bồi thêm cho tấn tuồng này bằng cách tiết lộ thông tin ngoại lệ từ những nguồn khác
- trong trường hợ p này là tình báo quân sự Liên X ô - để tố cáo rằng chính quyền Bonn,
trái với những tuyên bố công khai, đã hoạch định thiết lập một đội quân với hai mươi bốn
sư đoàn.
Schmidt-Wittmack được giao phó nhiệm vụ chủ tịch thương mại ngoại vụ, nhưng
tôi luôn tiếc quyết định triệu hồi ông về và đôi khi tự hỏi chúng tôi đã hy sinh một ông bộ
trưởng tương lai chỉ vì muốn nằm trên trang nhất của báo chí. Gereke trở thàn h một công
chức trong đảng Dân Chủ Quốc gia, một đảng tại Đông Đức đại diện cho cựu chiến binh,
nghệ nhân và tiểu thương. Đây không phải là một phương cách đặc biệt hữu í ch cho thân
già của Gereke sống qua những ngày tháng còn lại.

Người đào thoát ngoạn mục nhất của những năm đó đến với chúng tôi lại không
do chúng tôi chủ sự và đương sự cũng chẳng phải là một trong những nguồn cung cấp tin
của chúng tôi. Trái lại nghề nghiệp của đương sự là phát hiện và phơi bày các điệp viên
của chúng tôi, người đó tên là Otto John, trưởng khối phản gián Tây Đức (Văn Phòng Bảo
Vệ Hiến Pháp). Thời buổi bây giờ khó mà hình dung được cảm giác việc này gây nên lúc
các câu chuyện cá nhân và lòng trung thành buổi ấy của tất cả người Đức vẫn bị kẻ thù
trước đó nghi ngờ và phe tả vẫn còn uy tín.

Là một người chống đối Quốc Xã, John biệt tăm khỏi Tây Bá Linh sau một buổi lễ
kỷ niệm năm thứ mười ngày lật đổ thất bại chống lại Hitler ngày 20 tháng 7 năm 1944 .
Người ta thấy ông lần cuối tại Tây Đức đi cùng với một người quen thuộc , Bác sĩ
Wolfgang Wohlgemuth, một chuyên gia về sản phụ và cuối cùng xuất hiện ngày 21 tháng
7 năm 1954 tại căn cứ quân sự Xô Viết tại Karlshorst ở ngoại ô Bá Linh. Hiển nhiên cả hai
người đã di chuyển vào Đông Bá Linh trên xe của Wohlgemuth.

Tiếp theo đó Tây Đức bấn loạn, họ giải thích trường hợp này là một cuộc bắt cóc
gây hấn do tình báo Cộng Sản tổ chức. Nhưng với một thời đ iểm trùng hợp khôi hài,
đúng lúc phát ngôn nhân của chính phủ Bonn tuyên bố John không tự ý rời bỏ Liên Bang
Đức, ông trưởng khố i tình báo tuyên bố trên đài phát thanh Đông Đức là ông tự ý rời bỏ
vì Adenauer đã trở thành dụng cụ của Mỹ, « vì nhu cầu chiến tranh đánh lại binh sĩ Đông
Đức… vui mừng đón tiếp những ai chưa rút tỉa bài học từ đại họa qua và chờ đợi g iây
phút để phục hận năm 1945 » . Khi ông đồng thời tuyên bố nhóm Quốc Xã khống chế hệ
thống tình báo của Tây Đức, lời của ông rất nặng ký.

Nhưng cũng như mọi biến cố vào lúc cao điểm Chiến Tranh Lạnh, biến cố này
không hoàn toàn diễn biến như người ta tưởng. Đây là lần đầu tiên sự thật mà tôi biết
được về sự việc kỳ dị này.

Mấu chốt nằm ở kinh nghiệm của John trong thời chiến, khi ông trở thành người
tin cậy của nhóm kháng chiến nhỏ nằm trong cơ quan phản gián của Quốc Xã nhằm âm
mưu gi Hitler. Ông được giới thiệu với C laus Schenk Graf von Stauffenberg, sĩ quan đã
ết
tổ chức bất thành cuộc ám sát, và có nhiệm vụ ước định xem Đông Minh chấp nhận đề
nghị hòa bình của nhóm âm mưu nếu họ khử trừ được Hitler. John, lúc đó làm việc tại thủ
đô Madrid trung lập cho một hãng máy bay thương mại của Đức, hãng Lufthansa, có bắt
liên lạc với Tòa Đại Sứ Mỹ và đặc biệt với tùy viên quân sự đại tá William Hohenthal, vị
này có đường giây liên lạc ở cấp độ tối cao trong bộ tham mưu của Eisenhower. John
cũng có gởi thư tín để xin Luân Đ ôn hỗ trợ qua tòa đại sứ Anh tại Lisbon.

Mấy năm sau, John cho tôi biết ông nghĩ là bức điện của ông đã bị Kim Philby
ngăn chặn, vào lúc đó ở đỉnh cao quyền lực trong vai trò điệp viên KGB nằm trong lòng
tình báo Anh. Cấp lãnh đạo Nga chống đối quyết liệt mọi thương thuyết giữa phe đối lập
Hitler tại Đức và Đồng Minh, vì họ lo sợ có một cuộc đảo chánh bảo thủ đánh tan tất cả
và kết hợp lại để chống lại Nga. « Những tài liệu tôi chuyển cho Philby có lẽ đã biến mất
trong đống hồ sơ của ông » John kể c ho tôi nghe mãi sau khi Philby chết . « Tôi nghĩ rằng
chúng tôi chẳng bao giờ đến Luân Đ ôn ».

Khi âm mưu thất bại và các kẻ âm mưu bị truy lùng và ám sát không nương tay,
John tìm cách trốn sang Anh qua ngã Madrid và Lisbon. Ký giả Sefton Delmer bao che
cho ông và giao cho ông công việc của ngành ước tính trong hệ thống thông tấn. Sau thế
chiến, John trưng bày bằng chứng cho tình báo Anh đương sự rất quen thuộc với những
vụ án của các Thống Tướng von Brauchitsch, von Rundstedt và von Manstein. Với quá
trình như vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi ông được bổ nhiệm đứng đầu cơ
quan phản gián Tây Đức, đặt trụ sở tại Cologne trong vùng chiếm đóng của Anh.

John không phải là một đồng minh khách quan của cựu quốc xã Reinhard Gehlen ,
người đã được Hoa Kỳ đặt vào chức v ụ cai quản tình báo hải ngoại, kể cả các viên chức
Quốc Xã vây quanh Adenauer và ngay cả chính Adenauer cũng không ưa Gehlen vì giống
như phần đông cánh thủ cựu Tây Đức họ nhận xét âm mưu của nhóm Stauffenberg
mang tính chất phiêu lưu. John muốn được bổ n hiệm trong ngành ngoại giao mới hình
thành, nhưng, sau này ông cho tôi biết, ông không muốn gây dựng sự nghiệp trong
ngành này bởi vì toàn bộ tham mưu vẫn là một nhóm ngoại giao trước đây làm việc với
bộ trưởng ngoại giao Quốc Xã, Joachim von Ribbentrop. B ồi thêm nhục mạ vào phần
thương tổn , phó chủ tịch của cơ quan Gehlen, Olaf Radtke, được thuyên chuyển sang
ngành phản giản, mục đích rõ ràng để kiểm soát John. Người ta không lấy làm ngac
nhiên là vào năm 1954 ông cảm thấy thất vọng và lần xuất hiện của ông bên Đông Đức
vào một ngày đẹp trời tháng Bảy được xem là một cảnh đào thoát.

Sụ thật hoàn toàn trái ngược và kỳ quặc hơn nhiều. John không hề có ý định đào
thoát. Bác sĩ Wohl gemuth là một điệp viên của Nga Xô, ông quyết định lợi dụng tinh thần
sa sút của anh bạn để lừa y sang Đông Đức. Các bạn đồng nghiệp Xô Viết của tôi thề
rằng họ không khuyến khích ông làm việc này, nhưng tôi có thể mường tượng
Wohlgemuth nói với sĩ quan điều hợp : «Tôi có thể đưa Otto John về cho anh ». Và sĩ quan
điệp báo Xô Viết lòng phân vân trả lời: «Được, chúng tôi tin anh nếu chúng tôi thấy
đương sự ở đây».

Tuy nhiên, điều chắc chắn là nguồn tin kiểm chứng độc lập thấy John lần cuối là
trên xe của Wohlgemuth khi cả hai người băng qua biên giới Đông Bá L inh vào lúc nửa
đêm. Tôi đoán chừng John hoặc là đã say khượt hoặc đã bị ông bạn đánh thuốc. Cả hai
người được thấy chệnh choạng đi qua các một dãy các hộp đêm, uống rượu để tưởng nhớ
các bạn hữu chết trong lúc kháng chiến. Khi người lữ hành bất đắc dĩ thức giấc , vỡ lẽ
mình nằm trong khu quân đội Xô Viết tại Karlshorst, một ác mộng đối với một người đã
từng là trưởng khối phản gián của Tây Đức. Tôi nghĩ rằng họ cũng kinh ngạc về sự xuất
hiện của John trong tay họ cũng như chính John vì họ gọi tướng Yevgeni P. Pitovranov,
trưởng trạm KGB tại Bá Linh, và một người tên Turgarinov, đại diện cho Ủy Ban Thông
Tin của Bộ Ngoại Giao dưới quyền của W.M.Molotov, để quyết định phương cách tốt nhất
để khai thác John. John biết là số phần mình bấp bênh tột độ và, coi như đương sự là
một tù bi nh thực thụ tại Karlshorst, Nga Xô nắm sinh mệnh của y trong tay. Đương sự sẽ
vào tù khi trở về quê quán và sự nghiệp của đương sự coi như chấm dứt.

Sau khi đương sự xuất hiện công khai và cơn chấn độn g đã chìm lặng tại Cologne,
Nga Xô như thường lệ vứt đồ phế thải lại cho chúng tôi. John tỏ ra cực kỳ lạc lõng, vì vậy
ưu tư đầu tiên của chúng tôi là tạo cho John một nhóm bạn để hỗ trợ . Chúng tôi để cho
John bắt liên lạc với Hermann Henselmann, kiến trúc sư trưởng của thành phố Đông Bá
Linh và Wilhelm Girnus, một người tôi quen biế t vào thời tôi làm việc cho Đài phát thanh
Bá Linh, đồng thời chia sẻ một số bạn bè cũ chống Quốc Xã của John. Bộ An Ninh Quốc
Gia phái cận vệ để bảo vệ John không cho tình báo Tây Âu bắt cóc , nhưng họ làm việc
bất cẩn. Mười bảy tháng sau khi xuât hiện bên Đông Đức, John biến mất, không kèn
không trống, rời một cuộc họp mặt tại Đại Học Humboldt, Đông Bá Linh để nói chuyện
với một ký giả Đan Mạch tên Bonde-Henrickson. Cả hai người lên xe của Henrickson và
vội vã đi về hương Tây qua của ngõ Brandenburg.

Chuyện xảy ra năm 1955. Ba mươi bảy năm sau, tháng Tư năm 1992, tôi ngồi với
một ông John tám mươi ba tuổi trong một quán ăn, nhìn sang cạnh Đại Học Humboldt nơi
ông đã trốn chạy trở về Tây Đức. Ông vẫn còn hậm hực khi ông t rở về Tây Đức, ông bị
kết án bốn năm tù ở vì tội phản bội tổ quốc. Ông ta chỉ bị mười tám tháng, điều này cho
thấy chính phủ Tây Đức không quả quyêt về tội trạng của ông. Về vấn đề « đào thoát »
sang Đông Đức, ông kể cho tôi rằng « Tôi bất tỉnh và tôi thức dạy tại Karlshorst. Tôi
không hề có ý định sang Đông Đức ». Ông nói ông không bao giờ cảm nhận Đông Đức là
nhà của ông và ông quyết định một cách giản dị sau một năm ông quá chán ngán, ông
tìm cách liên lạc với ai đó để giúp ông trốn thoát.
Khi mọi việc đã xong , những kẻ đào thoát nổi d anh không có một giá trị chiến lược
nào. Đúng vậy, Adenauer vì lời tiết lộ của một kẻ đào thoát bắt buộc phải công nhậ n ông
thương thảo để tái võ trang nước Đức. Và ảnh hưởng vương vất của cánh cựu Quốc Xã tại
Bonn cũng đã được tiết lộ trong một trạng huốn g đầy kịch tích nên đối tượng vẫn trỗi d ậy
trong tiến trình chính trị và vẫn lưu lại. Nhưng Tây Đức rồi ra cũng gia nhập khối NATO
(Liên Minh Bắc Đại Tây Dương). Chúng tôi đã không thành công trong mục tiêu ngăn
chặn họ gia nhập liên minh Tây Âu, ngay cả t rì hoãn cũng không được.
Chương 6

Khrushchev mở mắt cho chúng tôi


Như mọi người sống trong thế giới Cộng Sản, tôi không có khả năng từ bỏ lòng kính phục
đối với Stalin và chủ nghĩa Stalin trong hàng nhiều năm. Động cơ xúc tác khiến c ho tôi
tỉnh ngộ là diễn văn bí mật nhưng lại công khai nhất thế giới của Nikita Khrushchev tại
Hội Nghị Thứ Hai Mươi của Đảng Cộng Sản tại Moscow tháng Hai năm 1956 . Nguồn gốc
đích xác của trình tự lâu dài và đau đớn của việc tôi cắt đứt với chủ nghĩa Stalin rất khó
xác định; những nhen nhúm nghi ngờ thấm nhập hàng rào phòng thủ ý thức hệ của tôi
trong không khí ái ngại của Đông Đức trong những những thập ni ên đầu 1950 có lẽ là
khởi đầu. Nhưng biến cố là m lay động thế giới quan mà tôi đã dầy công nuôi dưỡng cùng
với rất đông các đảng viên Cộng sản vào thế hệ của tôi chính là diễn văn của
Khrushchev, trong đó ông tiết lộ những tội ác của Stalin. Sau sự cố đó, mặc dù chúng tôi
vẫn còn tự xưng là những đảng viên trung kiên nhưng chúng tôi không thể nào tuyên bố
chúng tôi vô tội được.

Nikita Khruschev

Cho đến mãi tháng Hai năm 1956, chân dung của Stalin vẫn treo phía trên bàn làm việc
của tôi, tay đang mồi ống điếu, gợi nên hình ảnh của một cha già dân tộc đầy lòng ưu ái.
Một ngày trong tháng đó, báo chí Tây phương đến từng sấp dày như thương lệ. Tôi luôn
luôn đọc The New York Times và ấn bản Paris của tờ International Herald Tribune để ước
định khuynh hướng của người Mỹ . Tôi cũng đọc một số tờ báo và tuần b áo Tây Đức, kể
cả tờ lá cải Bild-Zeitung, mặc dù nó có tính cách thỏa mãn thị hiếu quần chúng, đôi khi
nó có những tin tức cục bộ và tình báo chính xác hơn những đối thủ sang giá hơn nó. Tôi
cũng đọc The Times của Luân-đôn và tờ Le Monde. Việc đọc toàn bộ báo chí này là một
đặc quyền trong công tác của tôi. Báo chí Tây phương bị cấm bên Đông Âu, lấy cớ không
xác thực là c húng hàm chứa những luận điệu gây loạn chống thế giới Cộ ng Sản, nhưng lý
do thực sự là Bộ C hính trị biết trong tận đáy lòng thâm kín của họ những bài tường thuật
về cuộc sống đàng sau bức Màn Sắt trong rất nhiều chi tiết quá sát với sự thực khiến cho
họ không thể an tam.

Tại Đại Hội Đảng, Khrushchev cuối cùng đã thắng trong cuộc tranh giành quyền
lực phức tạp và đẫm máu sau cái chết của Stalin, tố giác kẻ độc tài, tiết lộ rằng trong số
139 thành viên và ứng cử viên đắc cử vào Trung Ương Đảng năm 1934 tại Đại Hội lần
thứ Bảy của Đảng Cộng Sản Liên Xô, 98 người đã bị bắt giam và xử bắn. Trong số 1936
đại biểu tại Đại Hội mà bậc cha mẹ chúng tôi long trọng báo cho thiếu niên chúng tôi lễ
tiến cử, quá nửa đã bị kết tội phản cách mạng và rất ít người sống sót. Khrushchev kết
luận cuộc đàn áp tàn bạo của Stalin đã vi phạm tất cả những quy chế chính thống cách
mạng.

Đây là một ngôn ngữ mà người cộn g sản chúng tôi, vì quen với lối tẩy rửa tinh
thần chao đao dù nhỏ nhặt đến đâu trong tổ chức, chưa bao giờ gặp. Bây giờ cái thây xác
của hệ thống này đã được phơi bày công khai qua một cuộc mổ xẻ tận tình , chúng tôi
cảm nhận ngôn ngữ tố cáo Stalin của Khrushchev có vẻ mơ hồ và thiên kiến. Nhưng vào
lúc đó, chẳng khác gì chúng tôi bị một nhát búa trên đầu. Khi tôi đọc xong bản diễn văn
trên báo chí Tây phương, phản ứng đầu tiên của tôi là đem bức chân dung của Stalin treo
trên tường xuố ng và đá nó vào một góc. Tôi không thể nói rằng những gì tôi vừa đọc gâ y
chấn động cực kỳ nơi bản thân - vì tôi biết quá nhiều qua những kinh nghiệm cá nhân
của tôi trong cuộc sống ở Liên Xô - nhưng từ đó xuất phát nỗi đau khi tôi nhìn xuống vực
thẳm hiển hiện những tội ác của ông. Cảm giác giống như chỉ một thoáng những sợ hãi
kinh hoàng nhất về chế độ mà chúng tôi gắn liền cuộc sống đã trở thành sự thật.

Thấm nhập qua Đông Âu qua ngã truyền thông của Tây phương và qua rỉ tai, diễn
văn nảy lửa của Khrushchev đã làm leo t hang những mối bất bình tại Ba Lan và Hungary .
Cuộc nổi dạy của Hung ary vào tháng Mười và tháng Mười Một là kết quả trực tiếp của
những lồi tố cáo của Khrushchev. Lãnh tụ cải cách của Hungary là Imre Nagy, người tôi
quen biết tại Moscow từ năm 1943 đến năm 1945 khi ông lãnh đạo đài phát thanh
Hungary lưu vong trong khi tôi là đặc phái viên của Đài Phát Thanh Nhân Dân Đức.
Chúng tôi cùng đi một chuyến xe buýt để về nhà khi phiên làm chấm dứt. Nagy, với bộ
râu mép đặc thù của người Hung và khuôn mặt tròn, luôn luôn tỏ ra điềm đạm và vui
tính và dễ kết bạn trong nhóm lưu vong quá khích. Bấy giờ tôi tin chắc ông với sự thỏa
thuận của cấp lãnh đạo Mo scow sẽ tìm ra phương cách để tá i lập lại ổn định tại Budapest.
Xe tăng rút ra khởi Budapest sau những ngày đầu nổi dạy và Nagy hứa sẽ có cởi mở tự
do.

Imre Nagy
Nhưng những lời lẽ đó không đủ và cũng quá trễ. Các cuộc phản đối và đổ máu
vẫn tiếp diễn và xe tăng của Liên Xô trở lại ngày 4 tháng Mười Một. Xô Viết luôn gọi trên
đường giây khẩn cấp của tôi và câu hỏi luôn đặt ra: NATO sẽ phản ứng ra sao ? Tôi cũng
chẳn g lấy gì làm tự tin lắm. Một mặt có rất nhiều chỉ dấu cho thấy NATO đang chuẩn bị
những công tác bí mật chống Liên Xô. Mặt khác, có những tín hiệu từ các nguồn tin của
chúng tôi cho chúng tôi biết Tây phương tự kềm chế vì sợ leo thang. Tôi đánh liều và điệ n
báo cho Moscow: “ NATO sẽ không can thiệp”.

Nếu tôi ước định sai - và tôi không lấy gì làm chắc chắn - sự nghiệp của tôi có lẽ đã chấm
dứt, cho dù đây là điều cùng cực. Nhưng tôi đá có lý, và Nagy trở thành con vật tế của
Liên-Xô. Họ hứa không truy tố Nagy và những người Hung khác tại tòa Đại sứ Nam -Tư,
nhưng họ nuốt lời hứa. Họ bắt cóc ông đưa ông ra khỏi tòa đại sứ Nam Tư, đưa ông sa ng
Roumany, và hạ sát ông sau một màn tòa án bí mật lố bịch; đây là một lập lại phương
pháp tồi tệ nhất của đường lối S talin. Sau này, lãnh đạo của tình báo hải ngoại Hung ary,
Sandor Rajnai, tâm sự với tôi là ông bị dày vò tội lỗi vì vai trò cá nhân của ông ta trong
việc thẩm vấn Nagy. Ông nói « Mischa, việc như thế này không bao giờ nên tái diễn
nữa ».
Xe tăng Liên Xô trên đường phố Budapest ngày 30 tháng 10

Hungary với hình ảnh tàn sát và hủy hoại là một bài học đắng cay cho tất cả anh
em chúng tôi. Việc này có thể nhất thời cho phép nhóm giáo điều của Moscow gắn nhãn
hiệu phản cách mạng cho thành phần cải cách, nhưng đối với những người Cộng sản biết
suy nghĩ, tính cách phức tạp của cuộc nổi dạy khó nắm bắt vì những thông điệp trộn lẫn
trong đó. Những câu hỏi khuôn mẫu cũ kiểu Lê -nin trở lại trong tâm não của tôi : Chúng
ta có nên hy sinh quyền lực mà chúng ta đã khổ nhọc chiếm đượ c? Tự do cho ai và chống
lại ai?

Chúng tôi có một cuộc họp tại Bộ An ninh Quốc gia vào tháng Ba năm 1956 để
bàn thảo về ý nghĩa của Đại Hội Moscow. Ernst Wollweber lúc đó vẫn còn tại chức, nhờ
vậy chúng tôi tránh được những loại hội họp kiểu Mielke, người kế vị của ông. Đối với
Mielke ý niệm thảo luận có nghĩa là đương sự nói hàng tiếng đồng hồ và sau đó giải tán
phiên họp. Tôi lên tiếng và chào mừng phương cách các đồng nghiệp Xô Viết tiếp cận với
quá khứ và bày tỏ lòng nhẹ nhõm bớt được gánh nặng nghi ngờ đã gây hoang mang nơi
tôi hàng mấy năm nay. Mielke tỏ vẻ kinh hoàng. Y nói « Tôi chưa bao giờ đau khổ phải
gánh chịu một gánh nặng nào. Tôi không hiểu đồ ng chí Wolf muốn ám chỉ điều gì ». Y
tiếp tục nói y không hề biết có một cuộc đàn áp nào tại Liên Bang Xô Viết và thòng một
câu để tỏ ra biết điều là Đông Đức cũng chẳ ng xảy ra việc này.

Lẽ cố nhiên nước chúng tôi không thể tránh khỏi một vài hệ quả của không khí
đầm ấm này. Tám mươi tám tù nhân Đức bị tòa án quân sự Xô Viết kết án được trả tự dọ
và thêm vào trước đó bảy trăm tội nhân được thả khỏi tù . Trong nội bộ Đảng, những biện
pháp kỷ luật đối với Anton Ackermann, Franz Dahlem, Hans Jendretzky và nhiều ủy viên
trong Trung Ương Đảng khác bị thất sủng (từ năm 1953) được bãi bỏ. Những kế hoạch
cải cách thình lình lại được lôi ra khỏi ngăn cất hồ sơ của các vị công chức. Ngay trong
Trung Ương Đảng, đã có những bàn thảo tìm kiếm cách xây dựng một nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa , một sự việc chỉ có thể xảy ra với một hình thức dân
chủ nào đó. Tôi phục vụ trong một ủy b an nghiên cứu hỗn hợp trong đó có những chuyên
viên về kinh tế, điều hành ngân hàng, chính trị , quân sự và các cơ quan an ninh. Kinh tế
không phải là bộ môn sở trường của tôi, nhưng tôi chăm chú nghe. Tôi cảm thấy , về mặt
tri thức, sẵn sàng chấp nhận cách phân bố về tài sản tư hữu nhiều hơn và sâu sắc đặt
vấn đề tương quan giữa tự do ngôn luận và giáo điều của nhà nước tuân theo những
huấn thị của Đảng.

Nhưng Ulricht vẫn muốn tiếp tục đóng kín. Đúng hai thán g sau Đại Hội Đảng tại
Moscow, Bộ Chính Trị Đông Đức bỏ phiếu chống lại tất những bàn luận về những sai lầm,
để tránh cung cấp đạn dược cho kẻ thù. Kỷ luật được tái lập qua những khẩu hiệu vô lý
như « khắc phục những sai trái trên con đường tiến tới của chúng ta ». Tôi là một trong
những người trong Đảng, đã có lần hy vong có những động lực mới, lại một lần nữa khép
mình tuân phục trước kỷ luật toàn năng. Tuy nhiên, Đại Hội lần Thứ Hai Mươi của Đảng là
bước đầu của một hành trình dài tiên tới điều mà sau này chúng tôi được biết đến là
perestroika và glasnost, khởi đầu của một vòng cung mà đoạn kết sẽ được mô tả vào
năm 1989.

Phần tôi, tôi cũng phải trải qua con đường gồ ghề cho đến lúc tôi chấp nhận những ý kiến
mới và bỏ lại đàng sau cơ quan tình báo và những nét sơ cứng trong suy nghĩ của tôi.

Những bùng nổ về địa lý chính trị năm 1956 càng sói mòn mọi hy vọng thay đổi. Những
sự cố tại Poznan - nơi, trước khi xảy ra vụ Khrushchev tiết lộ, một cuộc đình công của
công nhân Ba Lan đã bị chính quyền Ba Lan đàn áp đẫm máu - cuộc nổi dậy tại Hungary
và cuộc khủng hoảng kinh đào Suez, tất cả những dữ kiện nà y khiến cho chúng tôi phải
suy nghĩ trở lại theo chiều hướng Chiến T ranh Lạnh. Theo quan điểm của chúng tôi, tất
cả những gì chúng tôi chứng kiến là các đồng minh của hai siêu cường rất có kỷ luật kh i
họ cố gắng thực thi chính sách độc lập - Hungary do Moscow, và Anh và Pháp do
Washington. Thế giới được chia thành hai khối và chúng tôi biết chúng tôi thuộc khối nào.

Tôi tự hỏi nếu tôi cầm quyền tôi có hành động khác không. Tôi hy vong là có,
những tôi không dám đoan chắc. Khi tôi nói chuyện với Yuri Andropov vào thập niên
1980 về những vấn đề cải cách - đề tài đề cập đến liên quan đến Ba Lan, không phải là
Đức, nhưng vấn đề tương tự cho cả hai - tôi hỏi ông đảng viên Cộng sản tiến bộ này tạ i
sao ông có quá ít ảnh hưởng lên trên những vấn đề này. « Đồng chí Wolf, » ông đáp lại,
« khi bất cứ ai trở thành tổng bí thư , các anh có khoảng một năm để gây ảnh hưởng lên
đương sự. Nhưng khi những người vây quanh đương sự nói rằng đương sự là thiên hạ đệ
nhất và hoan hô từng cử chỉ của đương sự, và lúc đó đã quá trễ. » Andropov kể đến
Nicolae Ceaucescu ở Romania, vào những năm đầu có vẻ như đi con đường độc lập với
Moscow để rồi mau chóng trở thành một kẻ độc tài.

Tôi nghe văng vẳng những chỉ trích cho rằng tôi phải chờ đến hai mươi năm để
đem ra áp dụng những điều tôi suy nghĩ. Nhưng sự thể nó đã như vậy . Tất cả căn bản
suy tư của tôi về Chiến Tranh Lạnh là phương Tây và hệ thống xã hội của nó không trình
bày một phương hướng khác khả dĩ chấp nhận được. Vào thời điểm này và nhiều năm về
sau, tôi không dự tính một bước đi nào hết, ngay cả trong đường hướng tư duy, để giúp
cho đất nước của tôi và của các quốc gia khác trong khố i Warsaw tiếp cận hệ thống tư
bản. Tôi vẫn tin tưởng bất di bất dịch là hệ thống chủ nghĩa xã hội, cho dù nó có những
thất bại hãi hùng, biểu trưng một khuông mẫu có tiềm năng tốt đẹp hơn cho nhân loại
hơn là phương Tây. Vào lúc thời điểm quyết định, cho dù tôi có bao nhiêu mối nghi ngờ
về cách thực hiện của đảng Cộng Sản, tôi tin rằng chú ng tôi không nhượng bộ trước ảnh
hưởng của Tây phương. Tôi có viết trong đoạn mở đầu dài và khắc khoải của quyể n nhật
ký của tôi viết năm 1968:

Cơ cấu quyền lực trong thời kỳ quá độ đã triển khai con đường tiến tới Xã hội chủ
nghĩa đích thực, nó có những luật lệ riêng biệt và có sức sống độc lập. Chúng được điều
khiển bởi những yếu tố chủ quan và quyền lợi.

Những cơ cấu này, những bộ máy này và những công chức này có thể đôi khi lạm
d ụng quyền hành đối với quần chúng theo những đường hướng chẳng phụ hợp tí nào với
Cách M ạng.

Sụ pha trộn giữa lòng trung tín nồng nhiệt và mối nghi ngờ ray rứt thấm nhập trí
não của các đảng viên Cộng sản có trí tuệ. Nhưng cơn cám dỗ lúc nào cũng trực sẵn để
chôn vùi những câu hỏi bất an và thay vào đó tập trung vào những thắng lợi kỹ thuật và
khoa học do hệ thống của chúng tôi lập nên và ảnh hưởng cân tanh của nó đối với các xã
hội chậm tiến như Nga và Trung Hoa. Tất cả mọi thứ khác đều cho đóng băng cho đến
khi chủ nghĩa xã hội trở nên ổn định hơn. Nhữ ng thay đổi không thể xảy ra vào thời đó vì
sự kiện này nằm trong bản chất của chính hệ thống và mối căng thẳng của tình hình
quốc tế. Bất cứ một chấp nhận cải cách nào đều xem như họ chấp nhận thất bại, và tự
động biến thành chiến thắng của Tây phương. Đây là vòng tà ác mà tôi bị lôi cuốn vào
trong, liên tục năm này qua năm nọ .

Sau những cuộc nổi dậ y năm 1956, mối ưu tư chính của Khrushchev là làm dịu
bớt các xung đột và căng thẳng trong khối Đông Âu để có thể tập trung vào các kế hoạch
kinh tế đầy tham vọng của ông tại quê nhà. Một loạt những thống kê và diễn vă n lạc
quan của ông được các bạn đồng nghiệp đó n nhận với một chút hài hước, nhưng ông
thực sự tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của ông, đất nước không những bắt kịp nhưng
vượt trội sự phồn thịnh của Hoa Kỳ. Điều này đã được các cố vấn của Ulbricht chuyển
ngữ một cách kính cẩn nhưng vụng về là « vượt lên trên mà không cần bắt kịp »
(überholen ohne einzuholen), một câu mà ngài tổng bí thư của chúng tôi lập đi lập lại
nhiều lần cho đến khi có người bạo dạn báo cho ông biết đây là một nghich lý.

Cũng đã có một số người cười thầm về lòng say mê của Khrushchev đối với ngũ
cốc, ông tin tưởng đây là vũ khí bí mật để giải quyết nạn khan hiếm thực phẩm của đất
nước rộng lớn của ông ta. Trong dịp viếng thăm đầu tiên Đông Đức năm 1957 Mielke và
tôi đưa ông đến cánh đồng sản xuất ngu cốc to lớn nhất của cộng hòa trong vùng
Magdeburg. Tại đây ông gặp gỡ các kỹ sư nông nghiệp giúp soi sáng và làm vừa lòng
ông. Ông cẩn thận ghi lại tất cả các phương thức và s au này tôi nghe ông gây khốn khổ
cho các công chức của ông, mắng mỏ họ vì không bắt kịp được ngay cả mức sản xuất của
Cộng Hòa Dân Chủ Đức.

Phong cách thô kệch của Khrushchev và những diễn văn giông dài của ông khiến
cho một số người bực bội khi ông trở về nước, nhưng tại Đông Đức, nơi chúng tôi phải
chịu trận nghe lười gỗ của Ulbricht, tính chất hồn nhiên của Khrushchev đã gây một ấn
tượng mạnh. Ông được tiếng tốt nhất trong giới lãnh đạo Xô Viết cho đến khi Gorbachev
lên cầm quyền, như ng không như Gorbachev, ông là một người bình dị với một bản chất
bẩm sinh thấu hiểu được tâm tư của người dân bình thường. Ông có thể nói hàng giờ về
quê mẹ Kalinovka của ông với đầy lòng hãnh diện, đồng thời tỏ ra thái độ chê bai rõ rệt
phong cách ngoại giao mượt mà.

Tôi còn nhớ một sự việc sau buổi tiếp tân tiễn đưa tại Đông Đức để kết thú c
chuyến viếng thăm nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức của Khrushchev. Đoàn tùy tùng thân
cận được sắp xếp tiếp tân tại những căn phòng của Đại sứ Liên Xô tại tòa đại sứ để cất
chén tiễn đưa lần cuối. Anastas Mikoyan, ông chủ tich niên trưởng của Xô Viết Tối Cao
đột nhiên buồn ngủ sau một vài ly và không muốn di chuyển sang lâu đài
Niederschönhausen trong vùng ngoại ô Pankow, nơi nghỉ ngơi chính thức của các thượn g
khách, nhưng lại thích ngủ một đêm tại tòa Đại sứ. Ulbricht tỏ vẻ phiền lòng vì ông đã
sắp xếp trên con đường từ Niederschönhausen đến phi trường hàng dãy người Đông Đức
trung thành vãy chào từ giã các quan khách .

Một cuộc bàn cãi tiếp diễn sau đó, cho đến lúc Khrushchev can thiệp « Anastas
này, không thể nào biện luận với Ulbricht được đâu. Người Đức họ cực kỳ chi ly ».
Ulbricht giận tím gan nhưng không nói lời nào.

Ngày hôm sau, trên đường đi đến phi trường sau một đêm bắt buộc phải ngủ tại
lâu đài, Mikoyan tỏ vẻ khó chịu. Ông phàn nàn quyết định của chủ nhà buộc ông phải
đương đầu lần cuối với đám đông ngoan ngoãn đứng xếp ngay hàng đón tiếp trên đường
đi, rồi ông ngủ gục trên xe. Khr ushchev quay sang sang tôi và điềm đạm nói: «Trở về cơ
xưởng của chúng tôi tại Kalinovka, có lần chúng tôi có một nghệ nhân người Đức tên
Müller. Một hôm hè anh đưa vị hôn thê của anh từ bên Đức sang. Anh ta rất lấy làm hãnh
diện anh ta không hề đụng đến c ô ta cho đến khi hai người chính thức lấy nhau trước luật
pháp. Chuyện này đến tai những anh em trong cơ xưởng và một người bạn của tôi tên
Vaska chụp ngay cơ hội. Y phục vụ cô nàng suốt một mùa hè . Đồng chí Wolf thấy không,
tính chi ly của người Đức kh ông phải lúc nào cũng tốt đâu ».

Lẽ cố nhiên Khrushchev có thể là một người thô kệch, khả năng trí tuệ giới hạn và
kinh nghiệm yếu kém của ông về các quốc gia khác trên thế giới đã khiến cho ông không
thấy được những thiếu sót của chính đất nước ông. Ông cũn g không có khả năng thấu
hiểu những hậu quả sâu rộng của b ài diễn văn mật của ông, rốt cuộc điều này chứng tỏ
ông vẫn còn gắn chặt với hệ thống cũ và phương cách tư duy của nó. Nhưng ông là một
chính trị gia quả cảm, không phải là một anh thư lại và ông tin tưởng một cách cuồng
nhiệt vào ý thức hệ của ông, đến độ ông thường hy sinh những ưu đãi ngoại giao để chỉ
thỏa mãn lối biện giải.

Khoảng năm 1956, sự xung đột giữa các siêu cường đã trở nên cảnh tượng mà
Bertolt Brecht mô tả Ba Mươi năm Chiến tranh trong vở tuồng Người Mẹ Anh Dũng
(Mother Courage): Nó xác định đúng tình hình lúc bấy giờ. Cả hai bên, kỹ ng hệ súng ống,
các chính trị gia và các cơ quan tình báo sống thoải mái nhờ lối làm ăn thịnh vượng này.

Vào một buổi sáng sớm cuối tháng Tư năm 1956, người trông nhà đánh thức tôi
dạy với một câu chào hỏi bất thường : « Ông bộ trưởng đang chờ ông ở cửa vườn nhà ».
Tôi có lòng cảnh giác tức khắc. Nhìn qua kẽ màn, tôi thấy một chiếc xe Volkw agen nhỏ cũ
kỹ đậu ở dưới . Tôi đâm nghi ngờ thêm bội phần, vì đ ây không phải là phương tiên một bộ
trưởng của nhà nước Đông Đức di chuyển. Cực kỳ thắc mắc, tôi chụp khẩu súng lục đã
lên đạn tôi để trên tủ giường ngủ, bỏ vào trong túi áo ngủ, tôi bước xuống cầu thang,
đến trước cửa nhà.

Trước mặt tôi, bóng dáng Wollweber đứng sừng sững, với mẩu xì-gà trên môi. Ra
dấu về phía chiếc xe, tôi hỏi mọi sự đều bình thường chứ. Ông giải thích ông bị đánh thức
vì một cú điện thoại khẩn cấp của Xô Viết và để tiết kiệm thời gian, ông đã mượn chiế c
xe của người hàng xóm thay vì chờ các cận vệ và tài xế của ông . Ông quở trách tôi :
« Nhanh lên đi Mischa, anh không thể tưởng tượng những gì họ mới khám phá ».

Chúng tôi lạch cạch đi qua các đường phố vắng vẻ đến phi trường Schönefeld.
Phiá sau Alt-Glienecke, khoảng bốn trăm thước cách biên giới khu vực Hoa Kỳ và ngay
sát tường một ngh ĩa trang, chúng tôi thấy một nhóm bóng dáng hiện trong ánh sáng
màu xám ban mai. Một nửa là binh lính Xô Viết, đang hì hục đào . Những người khác đứn g
nhìn, tôi biết họ là những cấp chỉ huy cao cấp củ a tình báo quân sự Moscow tại Bá -linh.
Một đường hầm gián điệp vừa được khám phá.

Binh lính đã đào được một đường khá sâu và chúng tôi tiếp tục quan sát, sững sờ
khi thấy họ bước lên đó và đâm thọc vào một sườn sắt hình tròn nằm trong đất cứng.
Trong đó là một cánh cửa sắt. Ổ khóa chảy nhão ra dưới sức nóng củ a ngọn lửa hàn và
họ đẩy bật tung cánh cửa trước mắt chúng tôi. Một cách lạng lẽ, các anh lính dò mìn và
gỡ bom đi xuống để kiếm soát khoảng không gian trống vắng xem có bị gài mìn không.
Họ không thấy gì cả. Người lính gác mời chúng tôi bước vào trong.

Tôi đứng trong một căn phòng rộng lớn bằng một căn phòng đọc sách. Có hai
chiếc ghế và một cái bàn nhỏ ở giữa. Dọc theo tường là từng bó giây cáp, phân chia rõ
rệt. Mỗi một bó đều có bộ phận khuếch đại gắn liền tr ước khi chạy trở lại bó cáp chính ở
phía bên kia. Tín hiệu được đón bắt, được khuếch đại và tán phát đến một căn lều đặc
biệt được xây dựng cách đó năm trăm thước tại Tây Bá Linh. Đây là một đài nghe lén
nguy trang tài tình.
Sau này tôi mới biết những chi tiết về tính chất tối tân của con đường hầm nhờ
các đồng nghiệp Xô Viết. Người Mỹ đã khám phá dưới luống đất này đường giây cáp điện
thoại chính thời tiền chiến nối liền với miền Nam nay trở thành Đông Bá Linh. Nó gồm
luôn trong đó đướng giây gọi là Ve-Che (do danh từ viết tắt « tầng số cao » Vysokaya
chastota) nối liền Moscow với tổng tham mưu quân sự Xô Viết tại Wünsdorf, phía Nam Bá
Linh.

Không cần phải giàu tưởng tượng để biết đây là mộng ước củ a một điệp viên.
Người Mỹ có thể đón bắt những cuộc đối thoại về việc thu mua vũ khí, khan hiếm , những
sai sót kỹ thuật và bí danh về kỹ thuật vũ khí vừa mới khai triển giữa Bộ Quốc P hòng tại
Moscow và căn cứ Đông Bá Linh tại Karlshorst, căn cứ lớn nhất Đông Âu. Họ cũng có thể
nghe lén những kế hoạch công tác và những cuộc thảo luận về những khó khăn triền
miên về tài khoản của quân độ Xô Viết.

Người Nga họ tin tưởng mãnh liệt vào hệ thống bảo toà n an ninh đường dây liên
lạc Ve -Che của họ. Họ đã khai triển một kỹ thuật mới bơm hơi nén vào các trong các
đường dây nhỏ nằm trong cáp. Nó ghi nhận mọi biến động trong mạch điện đi qua đường
dây - điều này xảy ra mỗi khi một bộ phận nghe lén, dù cao siêu đến mấy, được gài đặt
lên trên.

Là đứa con của thời Stalin tại Nga, tôi khô ng bao giờ tin có một đường dâ y không
thể nghe lén và c ho đến nay tôi vẫn không tin . ( Mức độ người Nga tin tưởng vào đường
dây đặc biệt của họ ngay cả khi đã khám phá đường hầm kể trên được biểu lộ cho tôi
thấy đến mãi mấy năm sau này, khi, trong một cuộc viếng thăm đồng nghiệp KGB tại Bá
Linh, họ vui vẻ chià điện thoại cho tôi để nói chuyện với Yuri Andropov, lúc bấy giờ là
giám đốc KGB tại Moscow.)

Cơ quan tình báo Anh và Hoa kỳ trước tiên xây dựng một cái chòi sát biên giới bên
phiá Tây để đánh cắp những trao đổi một cách an toàn. Họ thiết lập một cái nắp vòng
cung để cho giống hình thù của một trạm tiên đoán thời tiết, đá nh lạc hướng ở phía trên
để không ai để ý sinh hoạt thực sự dưới hầm để thu thập mọi nguồn cung cấp tín hiệu
của làn sóng vô tuyến.

Để tránh bị phát giác gây dao động trên cường độ vào lúc đường dây bị đón bắt,
các kỹ sư Anh đã thiết kế một máy khuếch đại nhỏ cho mỗi một đường dây của hàng
trăm đường dây điện thoại nằm trong ba bó cáp lớn. Đây là một kỳ công kỹ thuật và tôi
đoán chừng nếu không có sự giúp đỡ của KGB, chúng tôi không dễ gì đơn phương tìm ra
đường hầm này.

Chúng tôi lần mò đường hầm trong bóng tối và im lắng, chúng tôi chỉ có ánh sáng
của bóng đèn tay hư ớng dẫn. Tôi bắt gặp một mẩu bià cứng trắng và roi đèn để xem. Nơi
đây, dưới lòng đất , qua lằn ranh chia cắt hai hệ thống và hai ý thức hệ, một nhân viên
tình báo có đầu óc hài hước cao độ đã đặt một c uộn kém gai nhỏ và một miếng bià cứng
trên đó ghi bằng mực đen « Quý vị bước sang khu vực của Hoa Kỳ ». Tôi, một trong
những kẻ thù bất công đái thiên của CIA, đến đây để chia sẻ trò khôi hải của mộ t anh
nhân viên tình báo Hoa Kỳ! Lần đầu tiên trong suốt buổi sáng bất hủ này, tôi tự véo mình
để đoan chắc tôi không nằm mơ.

Lẽ cố nhiên, có một điểm sơ sót trong công trình thiết lập kỳ công kỹ thuật này
mà ngay cả một chuyên viên kỹ thuật tài giỏi nhất cũng không có thể sửa chữa: Liên Xô
biết sự hiện hữu con đường hầm này ngay từ đầu, nhờ anh gián điệp nhị trùng Anh,
George Blake. Nhưng, trong khi họ bảo toàn những trao đổi bằng những phương tiện
này, họ không hề cho chúng tôi biết bất cứ chuyện gì, để mặc cho chúng tôi không phòng
bị và lộ trần . Đức tính tồi tệ này không nằm ngoài bản tính của Liên Xô. Đối với họ, tình
báo thông thường chỉ đi một chiều.

Tôi đã ngờ từ lâu có một điệp viên Anh cao cấp làm việc cho Liên Xô tại Tây Bá
Linh. Liên Xô đương nhiên tuyệt đối bí mật về điều này, nhưng một trong những ông
tướng của họ không kìm hãm nổi tính khoe khoang cho tôi biết ông đang điều khiển một
công tác lớn trong lòng nước Anh. Nhưng Liên Xô muốn để cho Hoa Kỳ hoàn tất công
trình vĩ đại này để có thể ước định trình độ kỹ thuật của họ. Hoa Kỳ rơi vào bẫy. Tình báo
Xô Viết quan sát công tác cài đặt trong khoảng một năm và sau đó công khai tiết lộ bí
mật.

Sau đó Blake bị bắt và vào tù năm 1961, để rồi ngoạn mục vượt ngục trốn khỏi
Luân Đôn sang Liên bang Xô Viết năm năm sau. Ngay sau khi ông đã định cư tại Moscow
và lập một gia đình mới, Nga Xô vẫn ngần ngại cho phép ông di chuyển. Cuối cùng họ
chấp nhận lời thình cầu của ông để ông đi nghỉ hè và cho phép ông đi cùng với người
canh gác đến một trong những nơi nghỉ mát của bộ chúng tôi tại đảo Usedom trên biển
Baltic. Blake đến thăm viếng Đông Bá Linh tất cả bốn lần, luôn luôn có hộ vệ KGB theo
sau. Tôi mời ông phát biểu trước nhóm điệp viện đang được huấn luyện về những cuộc
phiêu lưu của ông với hy vọng sẽ tạo tinh thần nhập thuộc và truyền thống trong cộng
đồng tình báo Cộng sản.

George Blake

Đến lượt thăm viếng lần thứ ba , những người tháp tùng Blake có vẻ nới lỏng và
cho phép người vợ Nga đi theo ông. Ông cũng xin gặp gỡ riêng với tôi. Chúng tôi cùng
lứ a tuổi với nhau và chúng tôi nhanh chóng kết thân với nhau. Tôi có ấn tượ ng đặc biệt
với thói quen hạ xưng của người Anh của ông. Trong khi vợ ông đi phố, vui hưởng sự
phồn thịnh của các cửa hàng quốc doanh Đông Đức sau những ngày tháng thiếu thốn tại
Nga, chúng tôi ngồi trò chuyện tại một quán trọ. Ông rất giỏi về ngô n ngữ, ông thông
thao tiếng Ả-rập, tiếng Pháp và tiếng Hòa Lan, ngay bây giờ ông cũng nói lưu loát tiếng
Đức và tiếng Nga, mặc dù ông có giọng nói của một người Anh lịch lãm có lẽ đã thấm
nhập khi ông học Đại Học Cambridge.

Blake cho tôi biết ý kiến về đường hầm nguyên ủy phát xuất từ phía Anh. Sau khi
ông từ Triều Tiên trở về, tại đây ông giữ chức phó trạm trưởng Cơ Quan Tình Báo Anh
trong vùng. Blake cũng đã giữ chứ c vụ tương tự tại Vienna. Kế hoạch đào hầm khởi xuất
từ tổng tham mưu Quân Cảnh Anh qua đường Simm eringstrasse tại Vienna đến phái bộ
quân sự Xô Viết gặp trở ngại kỹ thuật nhưng có vẻ là một tiến trình khả quan. Vì ông
tham dự trong dự án đó, ông được kêu gọi tham khảo với Hoa K ỳ về đường hầm Bá Linh.

Sau khi Blake ra khỏi tù và đào thoát sang Moscow, chúng tôi lại gặp nhau một
lần nữa, lúc đó tôi cùng đi với em Koni tô i, đến để trình chiếu ra mắt cuộn phim « Mama,
I’m alive!»(Mẹ ơi, con còn sống !). Chuyện kể về các tù binh Đức tại Nga. Hôm đó là một
buổi tối êm ả, chúng tôi nói về phim sách của Nga. Ngay cả với tư cách một cựu điệp
viên, ông kín đáo hơn thương lệ khi chúng tôi đ ề cập đến những chi tiết gút mắc về
thương trường. Ông nói tình bằng hữu với Kim Philby tại Moscow hỗ trợ cho ông vô kể.
Tôi ngạc nhiên khi Blake tỏ ra rất đau khổ vì mang tiếng là một điệp viên bẩn thỉu và
mong thiên hạ coi ông ta là một người có lý tưởng. Mặc dù ông dấn thân cho chính nghĩa
Xô Viết, tôi có cảm tưởng ông từ chối chấp nhận trên thực tế ông là kẻ phả n bội đối với
đất nước của ông và chính nước ông nhìn ông như kẻ phản bội. Có lẽ ông kém thông
minh hơn Philby, một người mà tôi cũng quen biết và thán phục vô cùng. Cả hai đều có
vẻ nhẹ nhõm khi có người để nói chuyện và người này thấu hiểu sự dấn thân của họ cho
hệ thống xã hội chủ nghĩa đồng thời chia sẻ cái nhìn phê phán trên tiến trình tại Moscow.
Đi trước Gorbachev, họ cũng tin tưởng cuộc thay đổi sẽ diễn ra từ bên trong.

Kim Philby

Mặc dù Philby và Blake cả hai đều có chức vụ thích hợp với hiểu biết của họ,
nhưng cuộc sống của những điệp viê n về vườn sau một cuộc sống náo động tại Tây
phương không thể nào dễ dàng, đặc biệt trong một nước đang vật lộn với nhiều mâu
thuẫn như Liên Bang Xô Viết . Philby có bản tính cởi mở hơn Blake, tự tin, mềm mỏ ng và
thoải mái trong giao tiếp. Ông cũng có đế n Đông Bá Linh nhiều lần để nghỉ hè và thụ
hưởng những đêm dài nói chuyện với bạn bè và đ ồng chí cũ, nhâm nhi vài chung rượu.
Nhưng sau một vài năm sống tại Moscow, c ái nhìn của ông về Liên Bang Xô V iết trở nên
khô khan hơn. Ông có lần than phiền với tôi về nền kinh tế khốn khó và hố ngăn cách
giữa người lãnh đạo và nhân dân. Tôi luôn cảm thấy thú vị vì người Anh nghĩ mình là
người đầu tiên khám phá ra những sự thật hiển nhiên nh ư sản phậm tiêu thụ khan hiếm
và hành chánh luộm thuộm. Philby không có nhiều cơ hội để nói chuyện với giới trí thức
tại Moscow, nhưng tôi không đồ ng ý với những thông tin của Tây ph ương cho rằng ông
sống khốn khổ tại Moscow. Sự thật là ông không còn lựa c họn nào khác, nhưng Philby có
khả năng xoay xở giỏi hơn các điệp viên khác.

Tôi có cảm nghĩ rằng KGB thu xếp cho họ đi nghi hè tại các nước như Đông Đức và
Hungary, nơi đây mức sống trung bình cao hơn tại Nga và đó là phương cách để những
người như Philb y và Blake xả xú-báp. KGB lo sợ những thành tích danh giá Tây phương
này sẽ trở về xứ sở và giáng một đò n nặng cho bộ máy tuyên truyền của điện Cẩm Linh
và những chuyện tẩu thoát không có gì là khó khăn. Philby cho tôi biết tình báo Anh tìm
cách đề nghị nhiều phương thức để mời ông trở về Anh.

Philby yêu chuộng cảnh đồng quê Đông Đức và khi ông đến thă m, chúng tôi bàn
về nhiều vấn đề - sách vở, tư tưởng, và ngay cả nấu nướng ; chúng tôi cùng làm bánh
Pelmeni để chúng tôi so tài về cách làm món này, vì cách chọn lựa gia vị mang tính cách
cá nhân cao độ. Có một lần viếng thăm, ông đưa cho tôi một ấn bản về hồi ký của ô ng
với lời đề tặng: « Gởi tặng đồng chí Thiếu Tướng Wolf , với lòng kính phục và biết ơn đã
được tiếp đón nồng hậu tại DDR, Kim Philby ». Đây là ấn bản Tây Đức và ông chua thêm
trong phần tái bút: « Bản dịch FRG (Cộng Hòa Liên Bang Đức) chưa được hoàn hảo .
K.P. » Có lẽ ông nghĩ cần phải lịch sự đánh Tây Đức khi gởi tặng một món quà cho cấp
lãnh đạo của tình báo hải ngoại Đông Đức. Cho dù thế nào đi nữa, phần phụ chú này làm
cho tôi cảm thấy thú vị về kiểu cách tỉ mỉ của Philby.

Philby và Blake có thứ hạng trong những khuôn mặt nổi tiếng trong lịch sử tình
báo. Những thành quả nghề nghiệp của họ rất lớn, bất kể khuynh hướng chính trị của họ .
Đặc biệt buồn cho số phận của Blake vì ông mất tổ quốc không những một lần, khi ông
rời bỏ nước Anh, nhưng đến hai l ần khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ và ông bị bỏ rơi, sống
một cuộc đời lầm lũi trên mảnh đất của một tổ quốc vay mượn đã từ bỏ lý tưởn g của
ông. Philby, đã từng tham dự những biến cố lớn của thế kỷ, khởi sự với Cuộc Nội Chiến
Tây Ban Nha, có lẽ là người may mắn nhất vì đã chết đúng lúc. Tôi không bận tâm việc
Philby là một tên phản bội đối với đất nước của ông, vì những gì ông làm là do quyết
đoán của ông. Ông đoan quyết ngay từ thuở ban đầu Liên Bang Xô Viết là quốc gia biểu
hiện rõ rệt nhất lý tưởng chống p hát-xít của ông. Nếu quý vị có quyết tâm trong cuộc
đời, quý vị đi theo con đường quý vị đã tự vạch sẵn và không đi lệch hướng - cho dù quý
vị có thể bắt gặp những điều kinh khủng trên đường đi. Lẽ cố nhiên, đường đi của mỗi
người mỗi khác và thứ tự ưu tiên cũng khác. Có những người như Arthur Koestler, đã
quyết định theo lý tưởng công bằng và bình đẳng của Cộng sản và sau đó quay lưng đi vì
những thái quá trong chế độ Xô Viết. Điều này cũng xảy ra cho người bạn cũ của tôi
Wolfgang Leonhard. Đã có lần tôi k hông hiểu được họ, nhưng tôi có nói chuyện với
Leonhard và tôi nghĩ rằng bây giờ chúng tôi đã hiểu nhau .

Nhờ quy chế hóa các luật lệ trong Chiến Tranh Lạnh, điệp viên không còn xuất
hiện như là những nhân tố ác độc của phía bên kia nhưng đúng hơn là những món vật -
đôi khi là con cờ - trong một cuộc chơi giữa Đông và Tây. Họ thường được giam giữ bởi
cơ quan tình báo đối nghich, sau khi bị bắt, chứ không bị xử bắn, mặc dù đôi lúc việc
hành quyết cũng xảy ra, rất thường khi một chính trị gia muốn gởi mộ t thông điệp cho
dân nước mình hoặc cho phía bên kia. Sự thay đổi này khiến cho tôi nhận biết những
cuộc trao đổi có thể trở thành một phần quan trọng trong kho vũ khí tình báo của chúng
tôi. Tôi khởi sự xem xét tỉ mỉ phiá chúng tôi giam giữ những ai để có thể trao đổi với
nhân viên chúng tôi bị bắt giam bên Tây Đức.

Tai Đức, lề lối này đã trờ thành thủ tục nhờ các dịch vụ của Wolfgang Vogel, luật
sư Đông Bá Linh đai diện cho quyền lợi quốc tế của Cộng Hòa Nhân Dân Đức (GDR), và
Jürgen Stange, đối tác bên Tây Đức. Ngày tháng trôi qua, việc thu xếp trao đổi qua bức
Bức Tường Sắt trở nên dễ dàng hơn. Vogel làm ăn khá phá t đạt nhờ làm trung gian giữa
hai cường quốc kình địch.

Wolfgang Vogel, 1997

Cuộc trao đổi quốc tế quan trọng đầu tiên giữa Tây và Đông liên quan đến Francis
Gary Powers, phi công của chiếc phi cơ thám thính bị bắn hạ năm 1960 trên không phận
của Liên Xô.
Tòa Án Liên Xô xét xử Francis Gary Powers tháng 8, năm 1960

Việc này tạo bối rối chính trị lớn cho Tổng thống Eisenhower v à sự cố tai hại này phá vỡ
cuộc họp thượng đỉnh với Khrushchev tại Paris. Tôi kinh qua một cảm giác ngại ngùng khi
tham dự phiên tòa xét xử Powers trong Đại Sảnh của Công Đoàn Thương Mại tại Moscow,
nơi đây những màn xét xử của Stalin đã diễn ra vào thập niên 1930. Lúc đó tôi đang ở
phố bận việc khác và quyết định đi xem. Tôi ngồi trên hàng ghế cứng dưới một trần nhà
màu lợt thật êm ả đối trọi với không khí lúc bấy giờ, trên bàn bày những chân đèn lóng
lánh thích hợp cho một phòng khiêu vũ hơn là một tòa án.

Đây là lấn đầu tiên kể từ khi Stalin chết, tòa án xét xử một gián điệp được công
khai mở rộng và thiên hạ bàn tán về việc xét xử Powers suốt mùa hè tại Moscow. Thường
dân Moscow đi vòng dinh tòa án, tò mò tìm kiếm anh Mỹ đã bị bắn hạ trên không phận
Xô Viết. Các bạn đồng nghiệp KGB rỉ tai rằng chính ông tổng thư ký sẽ đứng ra xác quyết
bản án và phán quyết.

Powers xuất hiện trong chiếc lồng tù, vẻ hơi bối rối vì những mệnh lệnh tòa án
được phát biểu bằng tiếng Nga. Anh có một khuông mặt dịu dàng và t hơ trẻ và có thói
quen nhíu mày thật mạnh khi anh không hiểu một câu hỏi. Phong cách nhã nhạn và phần
nào ngây ngô khiến tôi có chút cảm tình với anh ta, mặc dù anh ta làm việc cho phía bên
kia. Nhờ qua một thông dịch viên mặt lạnh lùng, anh trả lời suông sẻ và chi tiết những
câu hỏi của công tố viên, anh xác nhận nội dung của nhiệm vụ công tác của anh và anh
phục vụ cho ai. « Đồ điên » tôi thầm tự nhủ.

Rồi ra, chính sự ngây ngô của Powers và sự cộng tác với Liên Xô đã giúp các
cường quốc đơn giản hóa lần trao đổi gián điệp quan trọng đầu tiên. Powers chỉ bị kết án
mười năm tù ở, và các bạn của tôi trong KGB giải thích bản án khoan hồng này là một tín
hiệu của Moscow cho Washington biết rằng họ sẵn sàng trao đổi điệp viên.
Phia bên kia Đại Tây Dương, đại tá KGB Rudolf Ivanovich Abel bị giam trong tù
của Liên Bang tại Atlanta. Con của một công nhân sinh sống tại Saint Petersburg, giòng
dõi Đức, vui vẻ chọn theo chủ nghia b olshevik và gặp Lênin nhiều lần , Abel (tên thật là
William Fischer) đã được KGB lén lút cài đặt vào Hoa Kỳ nă m 1947, tại đây ông đội lốt
một nhiếp ảnh gia và họa sĩ tên Emil Goldfus. Từ căn nhà này tại Brooklyn ông điều khiển
một chuỗi điệp viên có chân trong chính quyền, cơ sở thương mại và cơ mật quân sự
trước khi ông bị bắt năm 1956 và sau đó bị kết an ba mươi năm tù ở. Vogel làm trung
gian thu xếp trao đổi Powers với Abel vào tháng 10 năm 1962.

Rudolph Abel khi bị FBI bắt năm 1956

Mấy năm sau, Abel đến Đông Bá Linh để thuyết trình cơ quan của tôi về những
kinh nghiệm của ông. KGB đã phong quân hàm đại tướng và giao cho ông nhiệm vụ lãnh
đạo hệ thống Anh-Mỹ. Ông cũng dạy các tân binh của tôi và tôi thu xếp nhiều lần gặp gỡ
với các sĩ quan cao cấp của tôi để vinh dự đón tiếp ông . Ông là người vui tính khi ông
gặp đúng đối tượng và sau khi nâng ly chúc mừng thành công trong công tác gián điệp
của mọi người, chúng tôi bàn về kịch trường của những thập niên 1920 và 1930, và luôn
cả các vở kịch của cha tôi. Abel là một người của thời Phục Hưng sống trong một thời đại
tân tiến, rất ham thích môn hóa học và vật lý và đặc biệt say mê Albert Einstein. Những
bức họa của ông - ông dùng tại Brooklyn để làm bình phong che dấu hoạt động gián điệp
của ông - tương đối đẹp. Tôi vẫn lưu giữ một vài phác họa nhỏ ông tặng tôi làm kỷ niệm .
Sau khi ông chết vào năm 1971, bà vợ góa của ông phải áp lực mạnh với Xô Viết để ghi
tên thật của ông dưới tên KGB của ông trên bia mộ. Họ không bỏ nổi thói quen giữ bí
mật, ngay cả khi một trong những điệp viên xuất sắc của họ đã chết và được chôn.

Một dấu hiệu khác về tạp quán gay gắt của Chiến Tranh lạnh xuất hiện sau cuộc
gặp gỡ thượng đỉnh giữa Khrushchev và Tổng thống Kennedy tại Vienna năm 1961. Tôi
được biết cuộc xung đột trở nên trầm trọng tột độ khi Khrushchev trở về nước tuyên bố
với quân đội và nâng cao vai trò của Tây Bá L inh. Do hai nguồn tin của chúng tôi - một
tại tư lệnh quân sự Anh tại Bá Linh và một tại tổng tham mưu NATO (Liên minh Bắc Đại
Tây Dương), chúng tôi biết những chuẩn bị nóng bỏng của phiá Hoa Kỳ để phản ứng
chống lại trong trường hợp Moscow ra lệnh phong tỏa Bá Linh lần thứ hai. Khi tôi đọc
những tài liệu lưu trữ được sắp xếp lại như m ột lắp lại những mẩu hình ghép rời rạc từ
một mớ vi phim, tôi nhận thấy chỉ lỡ một bước kém khôn ngoan của cả hai phía là có thể
đưa đến chiến tranh. Và nó sẽ khởi sự tại đây, tại Bá Linh.

Một tổ chức tối mật của Hoa Kỳ gọi là Live Oak (Cây Sồi Sống) đã được thành lập
năm 1958 bởi ngoại trưởng Hoa Kỳ John Foster Dulles, và đặt dưới quyền chỉ huy của
Tướng Lauris Norstad, chỉ huy trưởng khối NATO, cốt để phá vỡ việc phong tỏa Bá Linh
lần thứ hai. Một hôm có người trình cho tôi một tài liệu do Norstad ký tên ghi rõ những
phần thiết yếu trong « Ước định Sơ khởi về Ý đồ của Xô Viết ». Tài liệu này, tôi có được
qua một nguồn tin tại tổng tham mưu Anh tại Đức, vẫn còn được xem là mật tại Hoa Kỳ
mặt dù được viết cách đây 40 n ăm. Nếu việc hạch sách ở mức độ thấp cách loại xe của
quân đội di chuyền qua hành lang một trăm dặm nối liên Bá Linh với Tây Đức có chiều
hướng leo thang, kế hoạch của Li ve Oak đề nghị phái một đoàn quân xa để mở đường
vào phía Tây Bá Linh và thử phản ứng của Xô Viết. Tài liệu tiếp tục đề nghị những giải
pháp quân sự rộng lớn hơn. Trước hết là một tiểu đoàn gồm có binh lính Hoa Kỳ, Anh và
Pháp đi vào hành lang này. Rồi vào giai đoạn cuối của mức độ đọ sức, một sư đoàn gồm
có quân đội của ba nước đi vào hành lang để khẳng định quyền được vào thành phố Bá
Linh. Chỉ có quân đội Hoa Kỳ, Anh và Pháp gia nhập trong công tác này, vì họ là những
người duy nhất có quyền gởi quân đôi qua Đông Đức đế đến vùng chiếm đóng phía Tây
của Bá Linh.

Tôi không dễ hoảng sợ, nhưng kế hoạch Live Oak làm cho tôi lạnh xương sống.
Các nguồn tin tại Moscow cho tôi biết Khrushchev nói không ngừng về Bá Linh. Ông cũng
có nói với Đại sứ Hoa K ỳ Llewellin Thompson là giải quyết vấn đề Bá Linh là một vấn đề
« uy tín cá nhân » của ông và ông đã « chờ đợi khá lâu » để tiến hành. Vì biết rõ lòng tự
ái cố chấp của Khruschev nên tôi đâm ra lo ngại hơn. Các cường quốc thường gây chiến
với nhau chỉ vì muốn bảo vệ cái uy tín mong manh của các cấp lãnh đạo.

Điều mà tôi khô ng biết vào lúc đó , có một chống đối mãnh liệt kế hoạch Live Oak
trong nội bộ của NATO. Mấy năm sau, cơ quan tình báo CIA giải mật tài liệu cho biết
trưởng khối quốc phòng Anh, Thống đốc Lord Mountbatten, đã hạch hỏi Kennedy về kế
hoạch này:

Điều gì sẽ xảy ra cho sư đoàn nằm trên xa lộ? Nga sẽ cho nổ một chiếc cầu đàng
trước, một chiếc cầu đàng sau và lúc đó họ bán vé chỗ ngồi để thiên hạ đến xem và cười
vào mặt. Nếu đây là một trò cười, một tiểu đoàn sẽ là một thảm kịch. Phải trải một mặt
trận dài 30 dặ m để tiến tới và có thể họ xem đây là một cuộc xâm chiếm Đông Đức và
đưa đến một cuộc chiến toàn diện.

Tôi càm thấy nhẹ nhõm khi nghe thấy con ngựa chiến già của Anh đã tỏ ra hiểu biết hơn
về tính cách phiêu lưu của kế hoạch Live Oak. Bộ tham mưu của Live Oak mãi đến năm
1987 mới được NATO xác nhận, khi họ đeo huy hiệu SHAPE (Supreme Headquarters,
Allied Powers Europe, Tổng Tham M ưu Tối cao Lực Lượng Đồng Minh Âu C hâu) trên quân
phục của họ, giống như những đội khác của NATO. Tổ chức này vẫn chưa giải tán ngay cả
sau khi nước Đức đã thống nhất. May mắn thay, tầm quan trọng của cơ quan này trong
chiến lược của Hoa Kỳ đã giảm đi sau khi Khrushchev quyết định không phát động chiến
tranh cho một vấn đề riêng biệt của nước Đức. Ngược lại ông tìm kiếm một giải ph áp
khác và giải pháp này là đúc một bức tường bằng bê -tông.
Chương 7
Giải pháp bê-tông
Khi Chiến tranh Lạnh được nhắc đến như là một trong những xung đột của những đế
quốc lớn, và nước Cộng Hoà Dân Chủ Đức đã tr ở thành một lời ghi chú nhỏ trong các
sách lịch sử, đất nước của tôi có lẽ sẽ được ghi nhớ là một nước đã d ựng một bức tường
để giữ chính công dân của mình không cho họ đào thoát. Hình ảnh của Bức Tường Bá
Linh không những chia cắt một thành phố lớn mà cả hai ý thức hệ và hai khối quân sự
tranh đua nhau vì tương lai của nhân loại, bức tường luôn mãi là biểu tượng hùng hồn
nhất của sự chia rẽ hậu chiến của châu Âu và của sự tàn bạo và vô nghĩa c ủa chính cuộc
Chiến Tranh Lạnh.

Đối với tôi, một người đã sống và làm việc đàng sau bức tường sau khi nó được dựng vào
ngày 13 tháng 8 năm 1961 và cống hiến sức lức cho nền an ninh và sự phát triển của hệ
thống đã xây dựng nên nó, Bức Tường luôn luôn là biểu tượng của sức mạnh và sự yếu
kém. Chỉ có một hệ thống với sự tin tưởng mãnh liệt vào hệ tư tưởng chỉ đạo mới có thể
thu xếp để chia cắt một thành phố và tạo nên một biên giới gần kề giữa hai phần của
một nước. Và chỉ có một hệ thống yếu kém và hư hỏng từ căn bản như hệ thống của
chúng tôi mới phải làm như vậy trước tiên.

Vì vậy tôi biết trong thâm tâm, nước Cộng Hoà Dân Chủ Đức đã đ ến ngày tàn khi, vào
đêm ngày 9 tháng 11 năm 1989, tôi bật máy truyền hình và nghe tin các công dân
CHDCĐ được phép đi lại qua biên giới và thấy đám người đầu tiên đổ dồn về ngã biên giới
thình lình được mỏ ngỏ. Một nước như nước chúng tôi, mà sự sống còn lệ thuộc hoàn
toàn vào sự ổn định nội bộ, không thể nào tồn tại với biến cố chấn động này. Làm thể
như thực tại đã ngưng động. Bàng hoàng, tôi ngồi với vợ tôi nhìn hình ảnh người Đông và
Tây Đức ôm chầm lấy nhau trên vùng đất vô chủ (no man’s land) tại biên giới Bá Linh. Có
vài người đi dép ngủ, làm như họ mộng du trong một đêm quyết định cho định mệnh của
nước Đức và của châu Âu trong những năm tới.

Lẽ cố nhiên biên giới chưa bao giờ đóng cửa hoàn toàn. Nó được mở ngỏ cho những du
khách Đông Đức thi hành công vụ. Họ là những người đã đư ợc rà soát và thích hợp với
vai trò « cán bộ du lịch ». Điều này có nghĩa là h ọ đáng tin cậy về mặt chính trị, họ
không có thân nhân ở Tây Đức. Kể từ khi có sự nới lỏng những hạn chế vào thập niên
1970, vào lúc mối giây liên lạc giữa hai nước Đức đã cải thiện, các người về hưu được
phép du lịch dựa trên lý luận, tuy là lô-gíc nhưng không thiếu phần cay độc, nếu họ ở lại
Tây Đức họ không phương hại đến nền kinh tế của Đông Đức và ngay cả việc từ bỏ tiền
hưu trí. Và đương nhiên, các điệp viên của tôi làm việc tại chỗ và các tiếp liên trao đổi
thư tín cho những nguồn cung cấp được phép du lịch sang Tây Đức với lý lịch giả.

Những ai có phép đi ra ngước ngoài rất được quần chúng thèm muốn; cơn sốt du lịch lên
cao trong một quốc gia không có khách du lịch. Tôi đã du l ịch không vì thú vị bản thân
như phần đông các sinh viên trung lưu Hoa Kỳ. Mặc dù tôi có mọi đặc quyền, tôi chưa
bao giờ viếng thăm Viện Bảo Tàng Prado, Viện Bảo Tàng Anh Quốc, hoặc Viện Le Louvre.
Tất cả chúng tôi sống một cuộc đời thu hẹp, mặc dù cuộc sống của tôi ít hẹp hòi hơn vì
công tác gián điệp đưa tôi đến Đông Châu Phi, các vùng hoang dã c ủa Tây-bá-lợi-á,
những bờ biển Hắc Hải, những cánh rừng Thuỵ Điển và sự dịu dàng của vùng nhiệt đới
Cuba. Vì được ưu đãi nên tôi có một một căn phòng xinh x ắn, một chiếc xe hơi và một tài
xế, và được những ngày nghỉ thoải mái qua lời mời của các cơ quan tình báo khác trong
khối Đông Âu. Những biệt đãi này luôn liên h ệ đến công việc và trách vụ của tôi; xét ra
cuối cùng thế giới rộng mở bên ngoài nhưng đối với tôi cũng như khép kín.

Mặc dù bọn chúng tôi không hưởng được sự thoải mái và tinh thần độc lập của một công
dân tương đối khá giả của Tây Âu, tôi hoàn toàn cách biệt với những công việc cực nhọc
chi phối một công dân thường ở nước tôi. Chúng tôi thụ hưởng từ nhóm Xô Viết hệ thống
đặc quyền của giai cấp Nomenklatura. Sự việc khởi sự vào năm 1945, khi các công chức,
các khoa học gia và những kẻ hữu dụng cho lý tư ởng Cộng Sản nhận được một số ít phụ
trội về lương thực, mà chúng tôi gọi là payoks, mượn từ tiếng Nga để chỉ phần chia lương
thực. Sau đó thành thói quen, như mọi sự việc, và trở thành một định chế dưới danh
nghĩa m ột phân cục gọi là « an ninh cá nhân » và đã đương nhiên trở thành một đội ngũ
năm ngàn người. Rồi những đặc quyền của chúng tôi được hợp thức hoá trong hệ thống
liên lạc với Bộ Thương Mại Hải Ngoại, để đảm bảo các đầy tớ tối cao của quốc gia không
bị thu hẹp trong mớ sản phẩm thường là hạng nhì của chính quốc gia mình. Tất cả đều
được phân chia tuyệt đối theo thứ bậc. Có những cửa hàng đặc biệt dành những món
hàng của phương Tây để cung cấp cho Bộ Chính Trị. Sau khi họ đã ch ọn lựa, phần còn lại
được giao cho chúng tôi ở trong những cơ quan tình báo và tại đây các bộ khác và cơ
quan thương mại khác nhận phần của mình. Cuộc sống thật là đơn giản và thoải mái
cuộc sống. Tôi quá yếu đuối để từ chối những đặc quyền này, và những năm sau tôi thú
nhận điều này khi sinh viên hỏi tôi. Họ hài lòng với câu trả lời của tôi, vì họ hiểu những
yếu đuối của con người trước những đặc quyền như vậy. Lẽ cố nhiện, nếu tôi không được
sủng ái, những thứ này biến mất chỉ trong một đêm.

Ngoài những món ưu ái này và những nơi dừng chân đặc biệt, tôi sống một cuộc đời bàn
giấy, kẻ thi hành lệnh của những chủ nhân ông chính trị của tôi. Đầu tiên chúng tôi làm
việc về đêm - giờ làm việc của Stalin - giống hệt các thượng tầng cơ sở của giới thư lại Xô
Viết. Sau khi Stalin chết, Mielke làm việc suốt ngày, bắt đầu từ 7 giờ sáng và thường kết
thúc vào 10 giờ đêm, tuy nhiên sau này tôi nghĩ ông ta cố làm vẻ như ở trong văn phòng
nhưng ông ta không ở. Tôi thường thèm muốn sự độc lập của những người làm việc trong
cơ quan của tôi. Họ có thể đi công tác một cách thong dong và tự mình quyết định lấy giờ
làm việc của họ, nhưng ngày làm việc của tôi dính liền với thời khoá biểu của cấp trên
của tôi.

Tôi thức giấc vào lúc 6g30 sáng hoặc 7 giờ và tập thể dục cho cái lưng – tôi có vấn đề khi
con nhỏ - và đến sở làm việc lúc 8g15 sáng. Trước tiên, tôi có tài xế và một thư kí và sau
này hai thư kí và một người phụ tá đặc biệt, tiếng Đức gọi là người chỉ định. Các nhân
viên trong văn phòng riêng của tôi rất gần gũi với tôi và hiếm khi thay đổi; người thứ ký
chính của tôi bắt đầu làm việc với tôi năm 1954, vào năm thứ ba tôi làm Giám đốc Tình
Báo Hải Ngoại, và ở lại đó ba mươi ba năm cho đến khi tôi về hưu.

Tôi khởi sự ngày làm việc của tôi với những giấy tờ quan trọng, những báo cáo từ các chủ
nhiệm ngành và đôi khi từ các điệp viên. Vào mười năm cuối, giấy tờ trở nên quá nặng nề
và tôi phải trông cậy bản tóm tắt của ban nghiên cứu trong đó gồm có những hồ sơ mật,
tóm lược về những sự cố thường nhật và tài liệu của các thông tấn xã.

Cơ quan HVA được chia vào khoảng hai mươi ban, trong đó có cả những nhóm riêng biệt
để giám sát các điệp viên và những thông tin tại các Bộ, các đảng phái chính trị, các công
đoàn, các giáo phái và các định chế khác của Tây Đức; tình báo quân sự, Hoa Kỳ, Mexico
và phần còn lại của thế giới; Liên Minh Bắc Đại Tây Dương (NATO) và các tổng tham mưu
của Công Đồng Châu Âu tại Brussels; phản gián; phản thông tin; thông tin khoa học và
kinh tế của Tây Đức; ban gian điệp kỹ thuật chuyên về các hạ tầng cơ sở kỹ nghệ, những
dụng cụ điện tử và khoa học, và hàng không học và không gian vũ tr ụ học; các sứ quán,
các biên giới, huấn luyện và dịch thuật, và một ban để điều nghiên và đánh giá những
thông tin thô vẹn đổ về từ các ban khác.

Cứ bốn hoặc ba ngày tôi họp với các phụ tá của tôi và với giám đốc của mỗi ban dưới sự
điều khiển trực tiếp của tôi để thảo luận về những tiến triển của công tác và những dự án
quan trọng. Tôi phải đọc tất cả những báo cáo gởi lên ban lãnh đ ạo. Mielke không cắt xén
những báo cáo của tôi, nhưng giữ lại một vài bản không đưa cho Honecker, nói rằng « Họ
không lấy gì làm thích thú lắm đọc những thứ này ». Tôi thường ăn trưa với các phụ tá
của tôi cùng với thư ký c ủa Đảng tại sân của văn phòng b ộ trên đường
Normannenstrasse , quận Lichtenberg. Chúng tôi trao đổi tin tức và những mẩu chuyện,
nhưng ngay trong nơi kín đáo nhất của bộ chúng nói đến điệp viên của chúng tôi và ngay
cả «người thường trú hợp pháp » trong toà Đại Sứ của chúng tôi, chúng tôi đều dùng bí
danh để không tiết lộ danh tánh thật của họ và như vậy gây nguy hiểm cho họ nhiều
hơn.

Bộ Cộng An trên đường Normannenstrasse

Phạm vi to lớn của công việc này rất là nhàm chán. Tình báo chỉ là việc buôn bán bình
thường để sàng lọc mớ thông tin hỗn độn và tìm ra một viên đá quý h oặc một sợi giây
liên lạc đáng giá, vì vậy tôi thay đổi lề thói hằng ngày của tôi bằng cách điều khiển mười
hoặc mười hai điệp viên do tôi điều động trực tiếp. Theo như tôi được biết, tôi là một
giám đốc duy nhất trong tất cả các cơ quan tình báo trên thế giới làm điều này. Việc này
cho phép tôi đi ra ngoài và đôi khi gặp gỡ họ tại các nhà an toàn ở ngoại ô Bá Linh hoặc
– điều mà tôi ưa thích – tại Dresden và các nơi khác, nơi không có nhiều người phía Tây
để có thể chạm mặt với điệp viên đến đây.

Những tập quán này đương nhiên bị gián đoạn vì những sự việc bất ngờ, đặc biệt là việc
bắt giữ những điệp viên của chúng tôi tại hải ngoại. Thông thường những tin tức mới nhất
do báo chí loan tải, họ ít khi cho biết tên tuổi chính xác của điệp viên, vì vậy chúng tôi
phải đoán mò có phải là điệp viên của chúng tôi hay là ai khác. Đôi khi tôi phải đến gặp
giám đốc ban để đón nhận tin không tốt, đặc biệt nếu đó là một hành vi đào thoát.
Chúng tôi phải tự huấn luyện nhắm mắt làm ngơ những mất mát này qua từng giai đoạn
và cố gắng không loan truyền sự hoảng hốt; nỗi lo sợ đã quá đ ủ khi ông bộ trưởng đòi
hỏi lời giải thích.
Thay vì khiển trách, điều quan trong hơn là tìm ki ếm hoặc xét xem ai khác có thể bị đe
doạ vì việc bắt giữ hoặc đào tẩu. Chúng tôi phải thông tin vô tuyến nhanh chóng cho điệp
viên của chúng tôi bằng mật hiệu, nhưng vì điệp viên không phải lúc nào cũng bật máy
vô tuyến để nghe mỗi ngày, chúng tôi có thể dùng điện thoại để trực tiếp báo động cho
họ bằng mật hiệu. Nếu trong tường hợp điệp viên của chúng tôi là một doanh nhân, lời
báo động có thể là « Cuộc gặp gỡ tới của chúng ta được rời sang ngày khác ». Chúng tôi
tránh những chỉ dấu quá lộ liễu như « Bà cô ở Dresden bị bệnh nặng ». Chúng tôi có một
số tín hiệu, chẳng hạn như đinh đóng trên thân cây hoặc dấu thập trên một họp thơ mà
điệp viên đi qua mỗi ngày để anh ta kiểm chứng, nhưng không phải tất cả các điệp viên
đều dùng cách này.

Trong thời gian mười năm cuối trong nghề, tôi thường làm việc đến 9 giờ tối, sáu ngày
một tuần lễ, chỉ có Chủ Nhật là ngày nghỉ. Cuộc sống xã hội của tôi rất ít, mặc dù tôi cố
gắng đi xem kịch hoặc dàn hoà tấu ít nhất hai lần trong một tháng. Những thăm viếng
trao đổi với các cơ quan tình báo t ại các nước bạn, hoặc phái đoàn của họ đến thăm
viếng Bá Linh, cho chúng tôi những cơ hội hiếm có mà chúng tôi vui vẻ đón nhận để đi
thăm viếng các viện bảo tàng và nhà hát. Vào những ngày cuối tuần, tôi tìm cách về
dacha của tôi trong một ngôi làng nhỏ Prenden, cách xa Bá Linh hai mươi dặm về phía
Đông Bắc. Và ở đây tôi tìm đ ủ mọi cách để bảo vệ đời tư của tôi để không bị công vụ xâm
nhập. Khi những bàn bè tuổi thiếu thời ở Moscow, George và Louis Fischer ghé thăm Bá
Linh năm 1985, họ lấy làm ngạc nhiên khi khám phá tôi không có người hộ về bám sát
theo tôi và đi lại thong dong tự do. Mielke có người hộ tống bảo vệ và một lần ra lệnh bắt
tôi phải có một người hộ tống, nhưng rồi tôi xoay sở để đuổi anh này đi. Anh tài xế của
tôi được huấn luyện đặc biệt để bảo vệ tôi nhưng đương sự chẳng màng đeo súng. Súng
của tôi tôi cất trong tủ kín.

Cho dù tôi có mối nghi ngờ về hệ thống tôi đang phục vụ, một cuộc đời được ưu đãi, có
trách nhiệm và có lúc choáng ngộp sẽ khó lòng cho bất cứ ai từ bỏ việc vận động để thay
đổi, đặc biệt một người như tôi tin rằng thay đổi chỉ đến từ cấp cao. Điều này nghe có vẻ
lạ lùng đối với một người ở trong vị thế của tôi, tưởng chừng như có ảnh hưởng, nhưng
ảnh hưởng của tôi chỉ giới hạn trong cơ quan của tôi, nơi đây phạm vi không gian không
thuộc về tôi.

Günter Gaus, Đại Sứ Tây Đức đầu tiên tại Đông Đức, một người rất là thông minh, hiểu
biết rất rõ những vấn đề của chúng tôi, gọi nước CHDCĐ là một cộng đồng những hang
hốc. Phần lớn quần chúng không màng đến những vấn đề của đời sống công cộng, không
để ý đến những vấn đề của chính sách nhà nước, miệt mài thực hiện những mục tiêu cá
nhân và bảo vể không gian của bản thân. Tôi cũng có không gian riêng của tôi, và , xem
như có vẻ mâu thuẫn, không gian riêng này chính là cơ quan của tôi. Tôi không thể làm
khác hơn.

Việc mô tả đời sống chúng tôi có thể tạo nên cảm tưởng là tôi sống một cuộc đời tồi tan
của một anh nô chức, chỉ thi hành nhiệm vụ để có những đặc quyền hiếm hoi. Thưa
không phải như vậy.Tôi hài lòng với nhiệm vụ lãnh đạo cơ quan tình báo. Tôi thâm tín
rằng công việc này cần thiết và tôi cống hiến bản thân tôi cho công việc này. Tôi đã
thành công cố tình tránh né mọi cơ hội để leo lên những cấp bậc cao hơn và gần gũi v ới
trung tâm quyền lực hơn. Tôi cũng đã t ừ chối lời đề cử tôi trở thành cấp lãnh đạo về
truyền thông đại chúng, một chức vụ trông coi về tuyên truyền. Ngay cả các con tôi cũng
xin tôi từ chối việc thăng chức này, vì việc này sẽ đưa tôi đến gần kề chức vụ lãnh đạo
chính trị và chắc chắn sẽ tạo nên những mâu thuẫn.
Những ngày trước khi Bức Tường Bá Linh được dựng lên vào ngày 13 tháng 8 năm 1961,
tôi cảm nhận có một biến cố quyết liệt sẽ diễn ra. Không khí của phiá Đông thành phố
xem ra ảm đảm. Công ăn việc làm và thực phẩm mỗi tuần một khan hiếm. Một hôm, đi
ngang qua một nhóm người xếp hàng trước một cửa hàng, tôi nghe một bà già nguyền
rủa trong tiếng địa phương của Bá Linh « chúng phóng được vệ tinh Sputnik, nhưng ngay
giữa mùa hè chúng ta không có một cọng rau tươi. Đấy là xã hội chủ nghĩa ».

Ai có thể khiển trách những thanh niên nếu họ đem tài năng của mình đ ể làm việc bên
kia biên giới, nơi đây họ có thể kiếm ra tiền và mua những sản phẩm mà những người ở
lại mơ tưởng? Trong thâm tâm của họ, họ không phản bội một quốc gia, họ chỉ di chuyển
sang phần bên kia của nước Đức, nơi đây phần lớn có bạn bè hoặc thân nhân sẵn sàng
giúp họ lập nên sự nghiệp.

Từ ngày thành lập Đông Đức vào năm 1949, 2,7 triệu người đã b ỏ trốn sang Tây Đức,
hơn một nửa dưới 25 tuổi. Tôi cũng t ự hỏi mấy đứa trẻ trong gia đình cũng b ỏ đi nếu
chúng không nằm trong nhóm nhừng người sống chết với xã hội chủ nghĩa. Ngày 9 tháng
8 năm 1961, con số tị nạn ghi trong sổ tiếp nhận của các trại ở Tây Bá Linh lên đến 1926
người, con số cao nhất trong một ngày. Nhà nước đang mất đi nhân lực, mất đi những
người mà nhà nước đã bỏ tiền ra huấn luyện, không có sự đóng góp của họ mức sống sẽ
xuống thấp hơn nữa. Tôi cảm nhận chúng tôi đang bơi lội trong bùn.

Nhà Nước của chúng tôi tố cáo phương Tây hút máu của phương Đông. Lột bỏ luận điều
bệnh hoạn này, tôi biết điều này có nghĩa là s ức thu hút của Tây Đức đang gia tăng vì
những thịnh vượng mới và quần chúng sẵn sàng hy sinh những mối liên hệ huyết thống
và nền an ninh êm ấm của nhà nước xã hội chủ nghĩa đ ể đi đổi lấy những lời hứa hẹn
bâng quơ của chủ nghĩa tư b ản. Lẽ cố nhiên tôi chảng bao giờ tin lời giải thích của nhà
nước về Bức Tường – rằng việc đóng biên giới của chúng ta là một biện pháp để chống lại
sự tấn cộng hoặc xâm nhập của các điệp viên ngoại bang. Nhưng việc xây dựng cái mà
Đông Đức gọi là « hàng rao bảo vệ chống phát-xít » và phương Tây gọi là « bức tường ô
nhục » đã làm thay đổi cuộc sống của chúng tôi trong một đêm.

Tôi không những hiểu những nguyên nhân thật sự xây Bức Tường mà còn đồng tình ủng
hộ chúng. Tôi tin rằng không có phương cách nào khác để cứu nước chúng tôi vào thời
buổi đó. Chúng tôi thừa hưởng theo lịch sử phần yếu kém kinh tế của nước Đức và chúng
tôi khởi sự từ một căn bản thật thấp, chưa kể những cách quản lý sai trái tạo nên những
khó khăn. Thêm vào đó Tây Đức đã bị các lực lượng Xô Viết tước đoạt các máy móc kỹ
nghệ và ngay cả những dụng cụ nằm ở hạ tầng cơ sở chẳng hạn như đường sắt xe hoả
mà họ xem là lợi phẩm đền bù chiến tranh. Tây Đức ngược lại đã có khả năng xây dựng
lại đất nước nhờ vào tiền của Kế hoạch Marshall. Tôi vẫn nuôi mộng tưởng - bây giờ tôi
mới rõ là mộng tưởng - với những thay đổi tình hình quốc tế và những cải cách cần thiết
trong nước, mức sống của chúng tôi sẽ từng bước một bắt kịp phương Tây. Tôi tin giá trị
của chủ nghĩa xã h ội, trong một nền kinh tế chỉ định, sẽ xác định chỗ đứng của mình
cũng như chúng tôi thường nói với nhau, rồi sẽ có một ngày phương Tây sẽ chiếm đóng
Bức Tường để đuổi không cho quần chúng tới gần! Thực ra vào cuối những thập niên
1970 và 1980, một vài điệp viên và cảm tình viên ở phương Tây đặt câu hỏi chúng tôi
thực sự có cần hạn chế du lịch không bởi vì mức sống đã cải thiện đến độ những người du
lịch từ CHDC Đức đã quay tr ở về. Nhưng vào năm 1961, chúng tôi phải lựa chọn giữa Bức
Tường hay là đầu hàng.
Ngày 13 tháng Tám năm 1961, Bức Tường Bá Linh được dựng lên

Tôi phải thú nhần, với nguy cơ mất uy tín là người hiểu biết rõ những gì xảy ra tại Đông
Bá Linh, việc xây dựng Bức Tường Bá Linh cũng gây ng ạc nhiên cho tôi giống như mọi
người bình thường vào tháng 8 năm 1961. Tôi chỉ đoán chừng Eric Mielke, người điều
khiển kế hoạch bí mật này, không thông báo cho tôi vì muốn tinh nghịch chọc ghẹo tôi.
Như hàng triệu người khác, tôi nghe tin một bức tường đã đư ợc dựng ngang Bá Linh trên
đài phát thanh vào sáng ngày 13 tháng 8. Phản ứng đầu tiên của tôi là giận dữ vì nghề
nghiệp. Đáng lý ra tôi phải được báo trước về việc này vì tôi phải tiếp tục điều khiển các
điệp viên ở bên kia biên giới. Bản chất của biên giới này đã thay đ ổi toàn diện chỉ qua
một đêm. Kế hoạch xây dựng bức tường quá bí mật nên chúng tôi không kịp phối hợp
trước với tổng tham mưu quân đoàn biên giới để đảm bảo liên lạc viên vẫn tiếp tục qua
được Tây Bá Linh để thu thập nhũng tài li ệu mật của các điệp viên qua một biên giới
thinh lình trở nên khó xuyên thủng.

Những ngày kế tiếp tôi bỏ hầu hết thời gian để kiểm soát xem nhân viên của tôi đã nh ận
giấy tờ được vội vã thảo và đưa qua các trạm kiểm soát để cho họ kịp thời nhận công tác
bên Tây Đức. Đây không phải là một vấn đề tiện nghi. Mối giây liên lạc trong điệp vụ đặt
căn bản trên sự tin tưởng tuyệt đối. Một khi sợi giây bị đứt, những điệp viên yếu đuối
sanh ra lo sợ và guồng máy thu thập tình báo sẽ ngưng hoạt động.

Bây giờ chúng tôi phải dựng những câu truyện nguỵ trang cho những trạm tiêp liên để họ
cung cấp những lời giải thích thích hợp cho lính gác ở bên kia biên giới để nói lý do tại
sao họ được quyền đi qua phía Tây trong khi số còn lại không làm được. Đối với các cơ
quan phương Tây, biên giới khép kín là một quà tặng bất ngờ vì nó ngăn l ọc một số đông
thường dân và cho phép phản gián của đồng minh tập trung sức lực vào một số nhỏ công
dân bây giờ được phép qua biên giới, thường với tư cách là doanh nhân nhà nước, chẳng
hạn như những viên chức thương mại nhà nước, các giáo sư hàn lâm và công dân bình
thường lâu lâu được phép qua biên giới vì có việc gia đình khẩn cấp.

Khi tôi đi quanh Đông Bá Linh trên chiếc công xa, tôi đánh lạc hướng anh tài xế để tôi có
thể nhìn việc xây dụng bức tường trong lòng pha lẫn khâm phục và kinh hãi. Tất cả gia
đình thân thuộc nhất của tôi đều ở bên Đông, vì vậy tôi không mang vết đau thương của
sự xa cách. Nhưng Bức Tường tạo nên vố số sự việc lạ lùng, một trong những sự việc này
liên quan đến tôi và tên tuổi của cha tôi.

Con sông Spree tại Bá Linh

Trên một dải của con sông Spree, một đoàn những chiếc thuyền du ngoạn đi từ Treptow
Park cho đến tận biên giới sát với vùng Neukölln của Tây Đức rồi sau đó ngoan ngoãn trở
về bến tại Đông Đức. Những chiếc thuyền mang tên của các văn sĩ ngư ời Đức trong đó có
cha tôi. Một hôm, đúng sau ngày Bức Tường được dựng, con thuyền Friedich Wolf vui vẻ
đi về hướng Tây trong một trong những câu chuyện vượt biên lạ lùng vào thời đó. Nhân
dịp một đêm chiếc thuyền rời bến, ông đầu bếp và gia đình đã ph ục rượu ông thuyền
trưởng và xúi ông xả hết tốc lực đâm thuyền sang Tây Bá Linh trước sự kinh ngạc của
lính gác. Đến đây họ nhảy tàu và bơi vào bờ để tìm tự do. Ông thuyền trưởng say gục
trên boong tàu. Khi ông tỉnh giấc, ông thiểu não lái tàu trở về khiến cho lính gác biên giới
càng ngạc nhiên hơn. Ông sẽ phải bị trừng phạt. Người vợ tuyệt vọng của anh thuyền
trưởng điện thoại cho mẹ tôi, lúc ấy bà phụ trách Công khố Friedich Wolf , và van xin mẹ
tôi giúp đỡ.

« Con có giúp được gì không ?» mẹ tôi hỏi tôi trong bữa cơm tối hôm đó. Tôi biết cha tôi
sẽ xem câu chuyện phiêu lưu của chiếc thuyền là một chuyện khôi hài, vì vậy tôi kêu gọi
khoan hồng cho ông thuyền trưởng. Ông không bị vào tù nhưng tôi không cứu gỡ ông
khỏi sự nhục nhã bị thuyên chuyển ra khỏi Bá Linh. Cuối cùng ông làm việc trên một
chiếc tàu hơi trong một vùng kỹ nghệ nằm ở vùng an toàn cách xa biên giới.

Tình hình thay đổi cũng gia tăng căng th ẳng giữa cơ quan tình báo h ải ngoại của tôi
(Aufklarüng) và cơ quan phản gián (Abwehr) trách nhiệm về an ninh biên giới. Mối liên
hệ giữa hai ngành tình báo không bao giờ đằm thắm cả, cũng như những ai theo dõi lịch
sử cạnh tranh giữa CIA và FBI đều biết. Trường hợp của chúng tôi, mối liên hệ cũng l ạnh
lùng không ít. Tôi từ chối trao cho họ danh sách các điệp viên và các thông tín viên cần
phải qua biên giới, vì đi ều này có thể gây tổn thất cho chúng tôi nếu không may các sĩ
quan trong các cơ quan mà tôi không kiểm soát phản bội.

Chúng tôi phải mất nhiều tuần – có khi hàng tháng trong một vài trường hợp đặc biệt
khó khăn – để đạt được một thỏa ước sống chung mới. Chúng tôi ở trong một vị thế mâu
thuẫn là những kiểm soát bên phía chúng tôi có phần gắt gao và khó dàn xếp hơn là bên
phía Tây Đức. Một trường hợp làm cho tôi nhức đầu là trường hợp của Freddy (không
phải tên thật), một nguồn tin tức quan trọng nhất của chúng tôi nằm trong giới lãnh đạo
của đảng Dân Chủ Xã Hội tại Bá Linh. Tôi không gọi đích danh tên ông để tránh tai tiếng
cho gia đình ông, nhưng các đ ảng viên Dân Chủ Xã Hội vào thời đó sẽ nhận ra ông. Là
một nhân vật khác thường, thích hưởng thụ, ông có giọng nói lớn và thuyết phục trong
giới lãnh đ ạo đảng Dân Chủ Xã Hội (SPD) và có những mối giây liên lạc thân thiện với
Bonn – một người phò vua hơn vua, nhưng không phải vì vậy mà kém phần hữu dụng đối
với chung tôi. Ông trở về Đức mãi sau này khi chiến tranh chấm dứt sau thời gian bị Hoa
Kỳ giam giữ. Ông không có một kỷ niệm tốt về việc này. Vào lúc thiếu thời ông đã là
đảng viên, ông được đưa vào ngành tình báo. Th ật ra, ông xâm nhập đảng SPD năm
1950 theo lệnh của một trong những giới chỉ huy kỳ cựu của chúng tôi, Paul Laufer, và
sau này chính ông cũng điều khiển Günter Guillaume, gián điệp nằm trong Văn phòng
của Thử Tướng Willy Brandt.

Freddy bảo vệ hăng say lý tưởng của SPD, và thất vọng vì những sự cố bên Đông Đức,
không coi chủ nghĩa xã hội là biểu tượng nữa. Trong một thời gian dài, hầu như chúng tôi
mất liên lạc với đương sự. Nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục làm việc với những người chúng
tôi muốn giữ. Tôi đặc biệt chú trọng đến trường hợp của đương sự trong mục đích gặt hái
những tin tức có chất lượng cao mà tôi biết đương sự nắm giữ trong những cuộc bàn thảo
nội bộ của SPD về chính sách của họ đối với Đông Đức. Tuy nhiên, đương sự một mực từ
chối ghi âm hoặc nói bất cứ điều gì về các bạn đồng nghiệp làm việc tại Văn Phòng
Nghiên cứu Đông Đức của đảng SPD, một tổ chức tại Tây Bá Linh với mục đích tái lập dân
chủ xã hội bên Đông Đức – đối với chúng tôi đây là một cơ quan hắc ám nhất hoạt động
ở bên kia Bức Tường. Những cố gắng để dẫn dụ đương sự vào những cuộc thảo luận
chính trị hầu như luôn luôn kết thúc trong hãi hùng vì Freddy chửi Ulbricht là một thằng
ngốc theo chủ nghĩa Stalin.

Trước tiên Freddy và tôi có ý định gặp gỡ nhau tại những căn phòng nhỏ dùng làm nhà
an toàn cho cơ quan của chúng tôi tại vùng Bohnsdorf nằm về phía Nam của Đông Bá
Linh. Nhưng tình thế lúc đó căng thẳng và năm 1955, tôi nảy sáng kiến thay đổi nơi gặp
gỡ tại những căn nhà nhỏ kín đáo của những người quen khi tôi sống tại Moscow. Tôi lợi
dụng tinh thần lạc quan do Đại Hội Đảng lần thứ 20 thổi tới để điều chỉnh mối liên hệ
giữa chúng tôi. Freddy rất có ấn tượng với những lời bài bác của Khrushchev lên án Stalin
và tội ác của ông. « Anh thấy chưa, » y nói với vẻ đắc thắng, « tôi có lý. Tôi đã nói với
anh là tình thế phải thay đổi ». Tôi cũng chia sẻ nỗi vui với y về « Con Đường Mới » của
Moscow – bây giờ chúng tôi được tự do nói về quá khứ và bàn thảo về những vấn đề của
đảng, về tự do văn hoá, về kinh tế, vân vân… - và chúng tôi có thể ngồi hàng giờ trong
căn phòng đ ầy khói thuốc thảo luận về tương lai của Liên Bang Xô Viết và đồng minh.
Cuối cùng tôi đạt được một kết quả nào đó. Đối với tôi, Freddy chỉ chấp nhận vai trò đi ềm
chỉ viên nếu mối liên hệ của chúng tôi đặt trên căn bản tình bạn. Đương sự cũng không
từ chối việc lâu lâu nhậu nhẹt. Vì vậy trước ngày sinh nhật thứ 50 của y, tôi mời y đến
gặp gỡ tôi tại một biệt thự nhỏ ở Rauchfangswerder bên cạnh một cái hồ, cái hồ mà
chúng tôi đã dùng để dàn dựng cuộc du ngoạn malina một cách vô tích sự. Tại đây,
không ai dòm ngó chúng tôi, chúng tôi buổi trưa ngồi nhâm nhi ly rượu long lanh với đá
lạnh và, khi chiều về, một két bia. Tôi phải uống nhiều để bắt kịp anh bạn của tôi và báo
cho người phụ tá của tôi, có trách nhiệm đưa chúng tôi tới đây và trở về,và bảo đảm
chúng tôi không bị quấy rầy, phải tỉnh táo như một quan toà để khi chúng tôi đưa Freddy
trở về Tây Đức, ít nhất có một người trong chúng tôi biết rõ đường đi nước bước của ông
bạn.

Lúc này Freddy nói không ngững và thổ lộ hết những bực tức về tình trạng Mỹ Hoá của
Công Hoà Liên Bang Đức và chửi rủa thậm tệ các chính trị gia và bơi móc đời tư của ngôi
sao sáng đang lên tại Tây Bá Linh, Willy Brandt. Chúng tôi trở về thủ đô vừa đúng trước
12 giờ đêm. Tôi kêu anh tài xế đầu xe khá xa và hai đứa chúng tôi chập choạng đi ngang
qua Công Viên Treptow đến gần cửa biên giới. Chúng tôi tiến gần đến tầm tai của anh
lính gác thì Freddy thình lình nổi hứng hát những bài cách mạng và hát to « Khi chúng ta
cùng nhau lên đường » và bài « Quốc Tế Ca ». Tôi tỉnh cơn say tức khắc, nói Freddy im
miệng với giọng không thân thiện và kêu anh tài xế đưa chúng tôi tới điểm kiểm soát
biên giới kế tiếp, nơi đây chúng tôi thả y xuống. Sau khi dặn dò y phải cúi đầu và nói tối
thiểu khi qua biên giới, tôi nấp trong bóng tối nhìn y đi qua biên gi ới.

Tôi hầu như đứng tim, vì y đã say đ ến giai đoạn bất chấp hậu quả những gì mình nói hay
mình làm. Mối lo sợ lớn nhất của tôi là một trong những cảnh sát bên phía Tây Đức sẽ
nhận ra hắn là một nhân vật nổi tiếng trong vùng và để ý hắn đi qua biên giới trong lúc
say tuý luý vào lúc giữa đêm – một vụ tai tiếng đủ để chấm dứt sự nghiệp mặc dù đương
sự không bị tình nghi làm gián điệp. Bóng dáng lảo đảo của đương sự tiến về hướng trạm
kiệm soát. Vào giờ phút chót, y quay ngược trở lại, vẫy tay hùng dũng và la l ớn về phía
tôi : « Chúng ta sẽ uống cạn một ngàn ly với nhau, anh và tôi ! »

Tôi chửi thầm, nhưng không làm gì khác hơn đư ợc nữa. Những ngày sau đó, tôi lo âu rà
soát báo chí xem có âm hưởng gì không. Nhưng kẻ say sưa lại có trời độ và uy tín của
Freddy vẫn còn nguyên vẹn.

Đối với những nhân vật có tiếng tăm, việc tham dự những buổi họp bên Đông Đức qua
trung gian của chính quyền luôn luôn là một việc làm phiêu lưu. Freddy lần hồi xét lại ý
kiến của y đối với Willy Brandt và trở nên một cộng tác viên thân cận của ông thị trưởng
trẻ. Đương sự không thể mạo hiểm đến gặp gỡ chúng tôi một cách công khai, dù say hay
tỉnh táo. Chúng tôi bó buộc phải tìm ra một giải pháp mới và áp dụng một kế hoạch dàn
xếp tỉ mỉ và phức tạp để chúng tôi trao đổi quan điểm: Con đường thông quá của đồng
minh phải đi ngang qua lãnh thổ của Đông Đức để tới Bá Linh.

Chúng tôi ước tính phản gián Tây Đức kiểm soát chặt chẽ con đường này, cũng giống như
chúng tôi. Các sĩ quan kiểm soát ở cả hai phía ghi sổ ngày giờ mỗi chiếc xe đi vào và đi
ra khỏi xa lộ, hoặc ở bên Tây Bá Linh hoặc ở biên giới Tây Đức. Vận tốc bị giới hạn ở 100
cây số một giờ một cách triệt để, do đó thời gian phỏng định đi hết con đường có thể tính
ra khá chính xác, và không thể có khả năng ngừng lại để làm bất cứ chuyện gì ngoài trừ
việc trao đổi mau chóng những tài liệu.

Hơn nữa, cảnh sát lưu thông kiểm soát các trạm dừng và đặt máy quay phim trên những
tuyến đường ngoằn ngoèo. Tôi không thích cho cơ quan phản gián biết về những chi tiết
công tác của tôi, vì vậy tôi quyết định không làm thủ tục xin họ ngưng quan sát khi tôi
gặp gỡ điệp viên của tôi. Với sự đồng ý của Freddy, chúng tôi bày một phương kế hào
hứng và thoải mái để gặp nhau. Tôi hồi hộp chờ đón việc này, và cho dù tôi có kinh
nghiệm, một điệp viên vẫn luôn là một người phiêu lưu, và tôi vẫn thích thú sắn tay áo
để đôi lúc mạo hiểm. Chúng tôi đồng ý với nhau là Freddy sẽ rời Tây Bá Linh vào xế trưa
để khi chúng tôi gặp nhau trời đã ch ạng vạng. Y sắp xếp chuyến đi cho ăn khớp với buổi
dạ tiệc kinh doanh tại Bonn để phù hợp với nguỵ trang.

Trước khi y rời Tây Bá Linh, tôi rời Đông Bá Linh trên một chiếc xe Mercedès xanh dương
đậm với bảng số tỉnh Cologne và một anh tài xế với giấy tờ Tây Đức giả. Vì không ai bên
Tây Đức biết rõ mặt mũi c ủa tôi, tôi không cần phải cải trang và tôi đơn giản mặc y phục
của một thương gia. Tại trạm xăng đầu tiên ngoài ô trên con đường thông quá Bá Linh –
Munich, tôi kêu anh tài xế ngưng xe để đổ xăng và uống một ly cà-fê Đông Đức tại trạm
xãng. Tôi ngôi ở đây chờ cho đến khi xe của Freddy đi ngang.

Việc này xem ra rất là thú vị. Các anh tài xê xe vận tải, nhìn lầm tưởng tôi là một người
phương Tây sau khi tôi tặng họ thuốc lá phương Tây, bắt đầu than phiền tình thế ở bên
Đông Đức. Đây là cơ hội hiếm có để nghe người bình dân thực sự nghĩ gì trong khi tôi
ngồi cao chót vót trên cấp bậc kỳ cựu của Đông Đức. Nếu họ biết họ đang trực tiếp than
phiền với một sĩ quan cao c ấp của Stasi, họ sẽ hốt hoảng. Tôi nhớ một anh tài xế vận tải
chửi rủa những đặc quyền của giới lãnh đ ạo Đông Đức sau khi tôi bịa chuyện tôi là một
thương gia chào hàng dạo khá thành công xuất xứ từ vùng Ruhr. « Bọn đảng lại của
chúng có lẽ cũng sống thoải mái như ông, sự khác biệt là ông thực hiện được một việc gì
đó còn h ọ chẳng làm gì cả ». Markus Wolf chính hiệu cảm thấy hơi nhột vì lời nhận xét
này, nhưng tôi gật đầu đồng ý.

Khi Freddy đi ngang qua trặm dừng với vận tốc giới hạn 100 cây số một giờ, chúng tôi
móc một dấu hiệu đặc biệt cho phép chúng tôi, những giới chức cao cấp mà anh bạn tài
xế vừa mới chửi rủa, chạy nhanh hơn vận tốc ấn định. Chúng tôi chạy vào khoảng tốc độ
150 cây số/giờ, thời gian và khoảng cách đã tính sẵn để phù hợp với tốc độ xe của
Freddy chúng tôi đến một ngã rẽ trên xã lộ dành riêng cho xe vận tải gỗ rừng và cảnh
sát. Chúng tôi lái xe vào trong rừng để tránh tai mắt của những ống kính kiểm soát quay
phim và những tài xế khác. Lặng lẽ và nhanh nhẹn như thể xác đồ sộ của anh cho phép,
Freddy chui vào xe của tôi và tài xế của tôi chạy qua của anh. Cả hai xe đều lên đường
chạy ra khỏi nơi trốn, đèn tắt để tránh ống kính kiểm soát hoặc một đội tuần đi ngang.
Chúng tôi cảm thấy sung sướng khi chúng tôi biết rằng chúng tôi đã thành công trong trò
chơi này. « Việc này hay ho hơn cả chính trị » Freddy bâng quơ nói.

Có được giấy phép chạy nhanh cho phép chúng tôi có đủ thời gian để nói chuyện. Chạy
xe trên xa lộ, chúng tôi nói chuyện thoải mái và Freddy trao cho tôi một vài tài liệu. Tôi
cùng có cơ hội đưa ra một số chỉ thị hoàn toàn bí mật. Trước khi rẽ vào một lối ra xa lộ,
chúng tôi ngừng tại một trạm dừng xe trong bóng tối và chờ xe của Freddy (có tái xế của
tôi) đến. Freddy trở lại xe của mình. Điều phiền với mánh khoé này là chúng tôi không
phải là những người duy nhất khám phá ra nó. Với thời gian, các cơ quan phương Tây
cũng sử dụng nó và hàng chục những tổ chức giúp người Đông Đức giúp người trốn trong
những vận tải cũng dùng đ ến nó. Những ngõ ra xa lộ bất hợp pháp và các trạm xăng trở
thành trọng điểm kiểm soát của chính cơ quan phản gián của chúng tôi. Họ bắt đầu xiết
mỗi lúc một chặt chẽ hơn và tôi lo ngại một ngày nào đó các bạn đồng nghiệp trong cơ
quan phản gián sẽ khám phá một trong những cuộc gặp gỡ của tôi. Tôi phải duyệt xét lại
những quyết định trước đây của tôi và yêu cầu các ống kính kiểm soát được tắt trong lúc
chính tôi hoặc sĩ quan c ủa tôi thi hành công tác với các điệp viên nước ngoài.

Việc này tiến hành một thời gian, nhưng tôi lo ngại tình báo Tây Đ ức đã khám phá ra
phương cách kiểm soát chúng tôi, vì vậy nếu các ống kính bị tắt trong vòng mư ời phút
hoặc hơn, điều này có nghĩa là m ột số hoạt động đáng nghi đang tiến hành và việc kiểm
soát biên giới trở nên gắt gao hơn. Tôi trở lại với phương pháp cũ và li ều làm việc không
thông báo cơ quan phản gián. Vì tôi lanh lẹ và chuẩn mực nên tôi chưa hề bị hai bên bắt
gặp. Phương pháp này thành công không những với Freddy mà cả với một thông tín viên
chính trị ở Bonn, một chính trị gia thuộc phe cấp tiên tên là William Borm. Đương sự cung
cấp tin tức trong quốc hội Bonn.

Freddy qua đời một vài năm sau, tim của đương sự không làm việc một vài ngày sau khi
chúng tôi gặp nhau trên xa lộ. Tôi đoán chừng thể lực của đương sự không theo kịp cuộc
sống chính trị sôi động, lối ăn uống vương giả và những cố gắng quá mức trong công tác
nguỵ trang với chúng tôi của đương sự. Đương sự say mê với những kích thích và cảm
giác đương sự đang tạo nên những ảnh hưởng đặc biệt. Với cương vị của một chủ nhân
ông, chúng tôi luôn luôn giành tiền hưu trí cho những người vợ của các điệp viên, mặc dù
là, trong trường hợp của Freddy, bà không được thông báo về việc làm của y. Bây giờ
chúng tôi nằm trong một vị thế khó xử phải phái một sĩ quan đ ến báo cho bà biết là bà
có quyền hưởng tiền hưu trí bởi vì chồng của bà đã làm vi ệc cho Đông Đức. Tôi không rõ
bà ấy có nghi ngờ chồng mình không, nhưng bà tiếp nhận tin tức rất là bình thản. Có một
điều nghề nghiệp dạy tôi là đàn bà biết rõ về chồng mình nhiều hơn là các ông tưởng.

Ngay sau khi Bức Tường được dựng, một vài dải đất biên giới nằm trong vùng thôn quê
vẫn còn dễ thâm nhập. Nhân cơ hội này tôi thúc đẩy các điệp viên khoa học và kỹ thuật,
có một vài người chưa được huấn luyện kỹ lưỡng, sang Công Hoà Liên Bang Đức, nhưng
chúng tôi mỗi lúc một khôn ngoan hơn trong việc giả mạo căn cước. Các giới chức
phương Tây bẳt đầu đòi h ỏi chứng cớ căn cước và những chi tiết về đời tư. Việc sử dụng
các máy vi tính giúp cho họ kiểm soát tin tức dễ dàng hơn khi họ đem so với những hồ sơ
lưu trữ ở nơi khác hoặc do các cơ quan chính quyền lưu giữ.

Nhưng cùng lúc Tây Đức nhanh chóng tìm phương pháp kiểm soát những người xâm
nhập, chúng tôi tìm ra những phương pháp mới để đánh lừa họ. Đây là một cuộc chạy
đua tuyệt vời và nhiều hào hứng. Chúng tôi có lợi thế trong việc này, tôi lấy một ví dụ,
dùng căn cước của những người đã chết trong trận bom tại Dresden để làm bình phong
cho các điệp viên định cư bên phương Tây, nhưng luôn luôn có cái rủi là một người sống
sót tình cờ xuất hiện và phá hỏng nguỵ trang của điệp viên. Điều này mỗi lúc xảy ra
thường xuyên hơn vì hệ thống máy vi tính của phản gián Tây Đức được mở rộng và đào
sâu, vì vậy chúng tôi cuối cùng phải đình chỉ trò dựng xác chết dạy.

Nhưng tôi cũng gặp khó khăn với chính phe của tôi. Họ tìm cách tập trung hồ sơ. Erich
Mielke, cấp trên của tôi trong chức Bộ Trưởng Công An, nhất quyết buộc tôi cung cấp
danh sách tập trung các điệp viên của tôi. Tôi dứt khoát từ chối. Sự giằng co này keo dài
mãi cho đến ngày tôi từ chức. Tôi hãnh diện nói rằng dưới sự chỉ đạo của tôi không có
một nơi nào trong cơ quan của tôi lưu trữ danh sách của tất cả những điệp viên. Tôi
quyết định không lưu giữ một thẻ hoặc đĩa vi tính nào ghi lại tất cả các chi tiết hoạt động
của chúng tôi. Trái lại, tôi khai triển một phương pháp qua đó danh tính của người cung
cấp tin chỉ có thể biết nếu ba trên năm chi tiết được tiết lộ. Để có thể tiếp tục tìm kiếm,
mỗi một chi tiết cần phải được kiểm chứng với chi tiết khác. Chúng tôi có những thẻ của
hàng trăm ngàn cá nhân, trong đó có rất nhiều tên của phương Tây, từ dân biểu Quốc
Hội cho đến những giám đốc kỹ nghệ, những thành viên của Uỷ Ban Kiểm Soát Đồng
Minh. Những danh thẻ riêng biệt của nhân viên chúng tôi được lưu giữ tại mỗi cục; một
cục quản lý nhiều nhất là từ sáu chục cho đến một trăm nguồn tin, điệp viên, giao liên,
vân vân. Mỗi một thẻ ghi bí danh, địa chỉ, vùng và số hồ sơ. Con số quy chiếu về một hồ
sơ chứa đựng tên thực của cá nhân điệp viên. Chồng thẻ nhỏ này trong mỗi cục thường
được một sĩ quan cao cấp cất giữ. Bất kỳ ai muốn tìm kiếm hồ sơ phải trình bày lý do cho
sĩ quan này, và nếu hồ sơ liên quan đến một gián điệp, người phụ trách đã có s ẵn câu
chuyện nguỵ trang. Trong thời chiến hoặc những lúc căng thẳng, công việc của sĩ quan là
đem cất giấu hồ sơ của điệp viên ra khỏi bộ và đem về tổng tham mưu tạm thời của
chúng tôi.

Một người không thẩm quyền muốn xem những thẻ và hồ sơ này phải lặn lội qua một số
lượng khổng lồ giấy tờ để tìm ra hồ sơ thích hợp. Công tác tìm kiếm bí danh của một điệp
viên cho ăn khớp với tên thật của y chắc chắn sẽ gây chú ý, trái ngư ợc với những gì sẽ
xảy ra nếu những hồ sơ này nằm trên đĩa vi tính. Tính cách vô b ổ của công tác tìm kiếm
này không phiền hà tôi tí nào vì tôi và các sĩ quan cao c ấp của tôi lưu giữ tên tuổi của
những điệp viên quan trọng nhất trong trí óc của chúng tôi. Từ đó trở đi, tôi dùng khuôn
mẫu màng nhện để nhận diện những mối giấy liên lạc giữa các hệ thống điệp viên tại Đức
thời hậu chiến. Tôi nhận thấy quả thật dễ dàng nhét những tên mới vào đầu tôi. Với
phương cách này, việc đem tản mác hồ sơ đem lại an toàn cho chúng tôi. Khi chúng tôi
gặp phản bội trong hàng ngũ, sĩ quan đào thoát ch ỉ biết những mối giây y điều khiển
hoặc là những tin đồn y nghe ngóng qua những lời bất cẩn – mặc dù chúng tôi nghiêm
cấm việc này, thường hay xảy ra trong những tổ chức rộng lớn.

Vào thập niên 1950, chúng tôi tiếp cận khá sâu sát với các gia đình quý tộc của Tây Đức.
Một vài người trong giới này cảm thấy họ có bổn phận làm nguôi đi mặc cảm tội lỗi của
giai cấp của họ vì họ đã không ngăn c ản được việc Hitler lên nắm chính quyền. Một số
khác không đóng một vai trò nổi bật nào và đôi khi không được quyền sử dụng danh tước
của mình trong chế độ Cộng Hoà Liên Bang mới này. Nhiều người bị ông thủ tướng
Adenauer, một người bài bác chủ nghĩa quốc gia, ủng hộ Hoa kỳ, loại trừ ra khỏi chính
trường. Họ vẫn có một ước vọng mãnh liệt tham gia chính sự và nhiều người xem việc
cộng tác với chúng tôi như là một cố gắng ngoại giao bí mật. Tôi chứa gặp một ai tự nhận
mình là kẻ phản bội cả.

Tuy nhiên có một vài người bị Max Heim phản bội. Max Heim là giám đốc phụ trách đánh
phá đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo của Tây Đức, một phó cục của Cục 2. Đương sự đào
thoát hai năm trước khi Bức Tường sụp đổ, tiết lộ tình hình hiểu biết của chúng tôi về các
đảng lãnh đạo tại Bonn và chỉ đường cho cơ quan phản gián Tây Đức đến bắt nhiều điệp
viên của chúng tôi.

Trong số những người này có Wolfram von Hanstein. Nhờ vị thế xã hội cao ở phương Tây,
ông đã xây dựng được một số đường giây liên lạc hữu dụng. Cha của ông và ông nội của
ông là những giáo sư đại học và văn sĩ nổi tiếng, và Hanstein muốn tiếp tục truyền thống
gia đình của những người trí thức phong lưu. Trước thế chiến ông sống và có được chút
uy danh bằng nghề viết tiểu thuyết dã sử . Ông từ chối không nhập ngũ và s ống ẩn dật
vào thời kỳ chiến tranh, ông được đưa vào trại giam của Xô Viết và tại đây ông trở thành
cộng sản. Ông định cư tại Dresden và cống hiến cuộc đời cho chủ nghĩa cộng sản. Trước
khi von Hanstein và vợ sang phương Tây do lời yêu cầu của chúng tôi, họ cống hiến đất
và biệt thự Dresden của họ cho nhà nước và sau đó giao cho Bộ Công An. Tại Bonn, viễn
kiến nhân bản và tên tuổi của gia đình ông giúp ông nhanh chóng bước lên chức vị cao
nhất trong giới vận động nhân quyền. Ông thân thiện với Heinrich Krone, bộ trưởng đặc
trách về vấn đề an ninh của Adenauer, và Ernst Lemmer, bộ trưởng thuộc đảng Dân Chủ
Thiên Chúa Giáo, trông coi về bang giao giữa hai nước Đức. Ông cũng thông báo tư ờng
tận về những hoạt động của Văn Phòng Đông c ủa đảng SPD và xâm nhập nhiều tổ chức
chống cộng. Ngay cả lúc bị giam giữ sáu năm trong tù, ông tiếp tục chăm chỉ làm việc và
bắt liên lạc được với các bạn tù sau này cho chúng tôi. Sau khi ông được thả ra, von
Hanstein xin được trở về Đông Đức, nơi đây ông qua đời năm 1965.

Một điệp viên khác bị Heim phản bội là Baron von Epp. Là một hậu duệ của một nhà quý
tộc đã h ỗ trợ Hitler từ những ngày đầu của phong trào Quốc Xã, von Epp làm việc cho
chúng tôi để tìm cách chuộc lại mối nhục của gia đình. Khi ông bị bại lộ và bỏ tù, tôi thấy
tiếc việc ông ra đi, mặc dù tôi không lấy làm ngạc nhiên. Là một con bài bất kham, ông
công tước tiếp cận với cơ quan chúng tôi và tuyên bố sẵn sàng hoạt động khủng bố,
nhưng ông thất vọng vì chúng tôi nói chúng tôi cần những trợ giúp kín đáo và liên lỉ để
thu thập những tài liệu mật có tính hữu dụng.

Trước những ngày bầu cử năm 1969, chúng tôi phải đặc biệt theo dõi những thay đổi
trong phong cảnh chính trị tại Bonn. Trong cuộc bầu cử này đảng Dân Chủ Xã hội đạt kết
quả tốt đẹp nhất trong thời hậu chiến và chuẩn bị con đường đưa họ lên đỉnh cao của
quyền lực. Vào đúng lúc này, xuất hiện một trong những điệp viên quái đản nhất mà tôi
sung sướng gặp gỡ, tài phiệt Hannsheinz Porst. Tôi đã t ừng gặp nhiều cỡ trí thức ủng hộ
chủ nghĩa Cộng Sản vì tất cả mọi lý do, cao cả và tầm thường có, nhưng tôi chưa bao giờ
gặp một nhân vật có sức thuyết phục và lương thiên như ông, trong phong cách đặc biệt
của ông. Với dáng người bé nhỏ nhưng có uy lực, ông có phong cách của một doanh nhân
trẻ nhiều sinh lực. Điều đầu tiên tôi phải làm quen là trong khi nói chuyện chỉ có một con
mắt của ông nhìn tôi, con mắt kia đã b ị hư hỏng vào ngày cuối chiến tranh vì một quả
lựu đạn nổ kề mặt ông.

Mối giấy liên lạc với Porst được kết là nhờ một người anh em họ của ông, một người tên
Karl Böhm. Cả hai người đều sinh trưởng tại Nuremberg, và vào lúc thiếu thời của Porst,
Böhm đóng vai trò ngư ời anh cả, người tâm sự và mẫu mực. Khi nhóm Quốc Xã nắm
chính quyền, Böhm bị bắt vì là đảng viên Cộng sản và bị kết án sáu năm tù trong trại tập
trung Dachau. Cậu bé Porst không hiểu tại sao người thân thuộc đáng kính đã bị bắt đi
và mong người ấy trở về, mặc dù cha mẹ của cậu nói nhỏ cho cậu biết là đôi khi có người
không trở về từ các trại này.

Khi hạn tù chấm dứt, cha của Hannsheinz giao việc làm cho Karl trong một cửa hàng
chụp ảnh nhỏ. Đây là một bước can đảm của một người phi chính trị, nhưng ông có tiếng
là một người cần cù liêm chính. Nghề nhiếp ảnh phát triển vào thập niên 30, và khi chiến
tranh bùng nổ, ông bố của Porst đã gầy dựng nên một kinh doanh phồn thịnh nhờ chụp
hình những chàng thanh niên bảnh bao mặc quân phục, thường là tấm ảnh cuối cùng mà
vợ và gia đình của họ còn giữ lại.

Vì mang lý lịch của một đảng viên Cộng Sản, Böhm bị đưa vào sư đoàn trừng giới đáng
sợ. Quốc Xã Đức xem những người này như những tên lính không đáng tin cậy về mặt ý
thức hệ và đối xử thích nghi với họ bằng cách đẩy họ vào những công tác tự sát. Nhưng
Böhm vẫn sồng sót sau chiến tranh. Porst lúc đó làm sĩ quan phòng không ở đầu trận
tuyến. Và khi họ được đoàn tụ trở lại, họ quyết định thành lập một nhà xuất bản. Porst
sau này kể lại cho tôi « Karl nói về ý thức tuyệt đối để xây dựng một xã hội mới, an bình,
và trong không khí giả dối của những năm tiếp sau 1945, tôi rất sung sướng được nghe
một người nói lên điều này, một người đã từng đương đầu với bách hại, một người có
phong cách tri hành hợp nhất ».

Chiến tranh chấm dứt, Böhm tiếp tục công khai ủng hộ chủ nghĩa c ộng sản, và kết quả là
chính quyền Hoa Kỳ không cấp môn bài kinh doanh cho các anh em họ Böhm. Böhm tức
giận chạy sang Đông Đức và Porst ở lại Tây Đức. Porst tiếp tục làm việc với người cha và
tỏ ra là một doanh nhân trẻ tài giỏi, đứng đầu một công ty trên đà phát triển trong vòng
mười năm. Với cổ phần còn lại của công ty, ông mua máy in đặt ở ngoại ô Nuremberg và
cuối cùng trở thành một nhà in lớn nhất và có lợi nhuận cao nhất tại nước Tây Đức mới.

Böhm cũng tìm đường sinh sống, mặc dù nằm trong một thế giới khác với những giá trị
khác. Böhm đã thành công trong ngh ề xuất bản tại Đông Đức, một ngành dưới sự kiểm
soát của nhà nước do Bộ Văn Hoá quản lý. Böhm là giám đốc của Văn Phòng Văn Hoá
(Amt für Literatur). Văn phòng này che gi ấu cái gọi là trụ sở hợp pháp của cục tình báo
hải ngoại của tôi, trong đó gồm một đội từ một đến hai sĩ quan làm vi ệc cho ngành xuất
bản của bộ. Tôi không rõ có phải là Böhm bắt liên lạc với Porst cho họ hoặc là theo như
tôi được biết lúc đó, mối giấy liên lạc chỉ là một sự tình cờ. Nhưng dù gì đi n ữa, vào
những nửa thập niên 1950, hai điệp viên nguỵ trang gặp gỡ anh thanh niên chủ nhân
kinh doanh tại phiên chợ Leipzig và thấy anh ta có cảm tình với mối lo âu của phía Đông
Đức với việc tái vũ trang c ủa Tây Đức. Chúng tôi tiếp cận với Porst và chúng tôi yêu cầu
đương sự gia nhập đảng Đoàn Kết Dân Chủ Thiên Chúa Giáo của Adenauer và thông báo
cho chúng tôi về những sinh hoạt của đảng này.

Đây là một bước quá xa đối với một nhà kinh doanh có đầu óc độc lập. Anh ta thu xếp để
gặp người anh họ và cho biết anh ta rất sung sướng giúp Đông Đức biết về đường lối
chính trị của Tây Đức, nhưng anh ta không thể là con cờ của họ. May mắn thay tôi ghé
thăm Böhm vào mùa hè nắm đó tại Karlsbad, một trung tâm suối kháng của Tiệp, tại đây
Böhm đến chữa trị bệnh cao huyết áp. « Em họ của tôi có tính khí độc lập» Böhm nói với
tôi. « Nó không chịu ai dạy bảo hoặc bị sai khiến. Nhưng nó muốn nói chuyện về bối cảnh
chính trị của hai nước Đức. Tại sao ông không liên lạc trực tiếp với nó ?».

Cuộc gặp gỡ đầu tiên với Porst là ở nhà nghỉ mát cuối tuần Böhm nằm ở ngoại ô Đông Bá
Linh. Porst không ngừng chỉ trích Cộng Hoà Dân Chủ Đức. Khi tôi cố gắng phản kháng
rằng phần lớn những thái quá của chúng tôi là do phản ứng chống lại những mối đe doạ
của phương Tây, đương sự lắc đầu giống như một chuyên viên tham vấn về quản lý đang
xem xét một cơ xưởng không được quan lý tốt và nói với tôi rằng những vấn đề của
chúng tôi phần lớn là do chúng tôi tự tạo ra, khởi sự là việc đối xử bất nhã đối với du
khách tại biên giới và kết thúc với tệ quan liệu hành chánh và tính chất không hiệu năng
đang gây xáo trộn trong nền kinh tế của chúng tôi. « Cứ nhìn các cửa hàng quốc doanh
tồi tệ của nhà nước, » đương sự lắp bắp nói. « Nếu tôi điều khiển chúng, chúng sẽ trở
nên hấp dẫn và tạo lợi nhuận giống như những cửa hàng chụp ảnh của tôi ở nhà».

Lúc đó, tôi vẫn còn nhạy cảm đối với những lời phê bình như vậy, vì tôi bị vây hãm trong
não trạng phải nhìn những khía cạnh tốt của phe xã hội chủ nghĩa. Tôi bực tức ngồi nghe
liệt kê danh sách những thất bại được trưng bày giống như làm kinh doanh. Nhưng có
một vài điểm tôi phải công nhận, chẳng hạn như sự trì độn khủng khiếp và tính cách một
chiều của giới truyền thông chúng tôi.

Mặc dù hiểu biết về những khuyết điểm của Đông Đức, Porst tin rằng hệ thống xã hội
chủ nghĩa ở đây, đặc biệt về hệ thống an sinh xã hội và truyền thống chống phát-xít,
biểu trưng cho một đường lối đáng tin cậy khác với chủ nghĩa t ư bản của Tây Đức. Một
trong những chỉ dấu tinh tế và khuynh hướng chính trị của ông là phương thức ông khai
triển để chia sẻ quyền sở hữu cơ xưởng với nhân viên của ông. Giống như nhiều điệp viên
kinh doanh của chúng tôi, Porst luôn luôn tìm cách khai triển sáng kiến của mình. Ông có
thể xoay tức khắc từ những phân tích cứng rắn trong quyết định nhập cảng những máy
chụp hình và các sản phẩm điện tử của Nhật Bản vào Tây Đức - phương cách này đã giúp
cho ông trở thành triệu phú - sang viễn kiến lãng mạn của một nước Châu Âu công bình
và xã hội hơn.

Tôi sửng sốt vì những chi tiết trong công trình của ông và tôi hăm hở muốn biết thêm về
thế giới của đại tư bản, một chủ nghĩa chúng tôi lên án nh ững chúng tôi chưa thực sự
hiểu rõ. Mặt khác ông lại muốn bàn về lý thuyết của Mác. Có lẽ tôi muốn trở thành một
tay tư bản để thoát khỏi con người xã hội chủ nghĩa c ủa tôi. Nhưng dù sao đi nữa, chúng
tôi trở thành một mối hợp tác vượt lên trên những chi tiết tình báo.

Ông nói ông không thích gia nhập đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo vì họ có đầu óc quân
binh và tôn thờ những giá trị người Phổ. Họ làm cho ông liên tưởng đến đàng bảo thủ
Trung Tâm Công Giáo tiền chiến. Đảng này tỏ ra vô hiệu khi đối đầu với mối đe doạ của
Hitler. Trái lại, ông tham gia đảng Dân Chủ Tự do, một nơi trú ngụ chính trị tự nhiên của
các nhà kinh doanh. Nhờ vào những mối liên hệ chặt chẽ với đảng trung hoà hậu chiến
này, ông có khả năng thăm dò nh ững nhân vật lãnh đạo như Walter Scheel, sau này trở
thành tổng thống của Tây Đức, và cấp lãnh đ ạo của Dân Chủ Tự Do, Erich Mende. Mende
không biết Porst là một điệp viên nhưng biết ông có liên hệ với Cộng Hoà Nhân Dân Đức.
Có một số nhân vật tiếng tăm vạch một lằn ranh mỏng giữa lời nói và việc cộng tác với
một thế lực ngoại bang.

Khi ông già Adenauer cuối cùng bắt buộc phải từ chức năm 1963, người kế vị, ông
Ludwig Erhard, mời ông Mende gia nhập chính phủ. Ông Mende, một người chủ xướng tự
do, không muốn đưa đảng của mình vào một liên minh với một chính quyền thủ cựu,
nhưng tôi nhận biết ông Mende có cảm tình với ý nghĩ hoà hợp và yêu cầu Porst thuyết
phục bạn của mình gia nhập chính phủ. Cuối cùng Mende trở thành bộ trưởng Bộ Nội Vụ
Tây Đức, một vị thế từ đó chúng tôi có thể tạo ảnh hưởng.

Chúng tôi không bao giờ tiếp cận với một bộ trưởng và ngu si đề nghi ông ấy trở thành
nguồn tin cho chúng tôi. Nhưng bao lâu ông ấy bàn chuyện với những người bạn cũ và
các đồng nghiệp, và những người này báo cáo cho chúng tôi, chúng tôi không dùng
phương pháp này. Chúng tôi đặt một bí danh cho Mende là Elk. Những trường hợp như
vậy khi một nhân vật có tiếng tăm lại có bí danh trong một hồ sơ ghi lại những quan
điểm của mình, gây nên xáo trộn sau khi Đông Đức xụp đổ. Người ta cho rằng một tấm
thẻ trong hồ sơ của chúng tôi có nghĩa là đ ối tượng đã ký kết hợp tác với chúng tôi.
Nhưng chúng tôi hài lòng với rất nhiều người ở vị trị trung hoà xám không cần phải buộc
họ đi quá xa, để cho họ vẫn trung thành với quốc gia của họ và xa lánh chúng tôi.

Khi chúng tôi quyết định săn lùng những thông tin có thể gây nguy hại về quá khứ của
Bộ Trưởng Ngoại Giao Hans-Dietrich Genscher, chúng tôi đặt cho ông bí danh là Tulip.
Ông ta hết sức khó chịu khám phá sự việc này sau năm 1989. Ông đặc biết rất cẩn thận
trong những mối liên lạc của ông bởi vì ông sinh trưởng ở Halle, thuộc Đống Đức, và ông
biết rõ phương pháp của chúng tôi và đoán chừng chúng tôi chú ý rất kỹ đến ông . Lẽ cố
nhiên chúng bới tìm quá khứ của ông, đọc tất cả các thơ ông viết cho ban bè cũ và gia
đình tại Halle và chúng tôi theo dõi ông khi ông viếng thăm. Có những vấn đề về mối
quan hệ của ông Genscher với chính quyền Xô Viết trong thời gian ông còn là sinh viên
tại Halle và chúng tôi điều tra rất kỹ việc này. Và tôi có thể khẳng định là ông Genscher
không có gì phải che dấu về thời quá khứ niên thiếu của ông.

Sau khi gia nhập đảng Dân Chủ Tự Do theo lời yêu cầu của chúng tôi, Porst có một thỉnh
nguyện bất thường. Ông muốn trở thành đảng viên của đảng Thống Nhất Xã Hội Chủ
Nghĩa c ủa chúng tôi. Điều này thật mới lạ đối với tôi. Tôi tham khảo các đồng chí biết rõ
về quy chế nội bộ đảng. Họ nói, theo thủ túc triệt để, không một ai có thể trở thành đảng
viên nếu không là công dân của Đông Đức. Ngay cả chi nhánh Tây Đức của đảng chúng
tôi cũng đư ợc đăng ký là m ột tổ chức biệt lập, đảng Thống Nhất Xã Hội Chủ Nghĩa t ại Tây
Bá Linh.

Nhưng tôi phản đối là chúng ta khó có thể từ chối tư cách đảng viên của một người làm
việc cho chúng ta tại Tây Đức và sau đó có đặc cách. Sau hai năm dự bị đảng viên, thời
gian để các thành viên trẻ chứng minh tinh thần trưởng thành và trách nhiệm của mình,
nhà kinh doanh của chúng tôi được chấp nhận là đảng viên chính thức, người triệu phú
đầu tiên và cũng là ngư ời triệu phú cuối cùng trong hàng ngũ của chúng tôi. Chúng tôi
đưa cho ông xem quyển sổ đảng viên nhỏ màu đỏ, nhưng chúng tôi cất giữ nó kỹ trong
tủ sắt kín tại Đông Bá Linh. Ông có vẻ hơi thất vộng vì chuyện này, nhưng chúng tôi
không bao giờ để lọt một tài liệu như vậy ra ngoài khi người sở hữu đang làm việc ở hải
ngoại. « Anh không thể nào mang thẻ này theo anh được, » tôi an ủi ông ta. « Anh thử
tượng điều gì sẽ xảy ra nếu anh đánh rơi nó và cảnh sát khám phá nhà tài phiệt
Hannsheinz Porst là một tay cộng sảng Đông Đức !».

Đường giây liên lạc của Porst trong giới kinh doanh và chính trị đối với chúng tôi quá ư
quan trọng nên chúng tôi quyết gởi đi một sĩ quan liên l ạc để cho việc chuyển giao báo
cáo của ông được dễ dàng. Ông không nghĩ ông là gián đi ệp và vì vậy không thể có
chuyện huấn luyện đượng sự theo kiểu lén lút. Một sĩ quan bí danh Optic được đặc phái
đến phụ giúp ông với một ly lịch giả và một câu chuyện nguỵ trang là sĩ quan này đã
vượt biên giới Đông Đức. Optic trở thành giáo viên riêng cho con cái của Porst, để tạo cớ
cho sĩ quan có mặt trong gia đình. Nhưng Optic không ph ải là chỉ làm liên lạc viên mà
thôi, đương sự cộng thêm vào với các báo cáo của Porst những đường giây liên lạc tại
Bonn cũng như trong Vi ện Kỹ Nghê Tây Đức và nhiều hiệp hội các nhà kinh doanh khác.
Tổ chức phát triển cho đến khi chúng tôi phải bổ nhiệm thêm một nhân viên nằm vùng
khác mang bí danh Eisert để hỗ trợ cho Porst và Optic.

Những mối lo ngại đầu tiên về Porst xuất hiện vào đầu thập niên 60, khi tôi khám phá
đương sự chia sẻ những bí mật hoạt động của mình cho thư ký riêng c ủa ông, Peter
Neumann. Tôi ngờ lỗi lầm này là do bản tính đặc biệt vừa ngây ngô vừa kiêu hãnh của
Porst. Với tư cách là một nhà kinh doanh có ngàn nhân viên, có nhiều biệt thự và một
chiếc phi cơ riêng, đương sự nghĩ là cu ộc sống sẽ thoải mái và đội ngũ cộng tác trung
thành tuyệt đối với mình. Nhưng đương sự lầm to.

Tuy nhiên, vào lúc này, mọi việc đều trôi chảy. Porst và tôi bỏ hàng giờ để bàn bạc về
phương cách thúc đẩy kỹ nghệ và thương mại giữa hai khối Tây và Đông Đức để đánh bại
chủ thuyết Hallstein của chính quyền Bonn. Chủ thuyết này không công nhận một quốc
gia thứ ba khác nếu quốc gia này công nhận Đông Đức, ép buộc quốc gia này phải lựa
chọn và ngăn cản những quốc gia khác công nhận Đông Đức trừ các nước theo khối Liên
Bang Xô Viết. Theo một chiều hướng nào đó, những mối giây liên lạc với những người
như Porst cho phép chúng tôi có được một mối liên hệ ngoại giao với phương Tây, mặc dù
nó nằm trên bình diện nguỵ trang.

Porst có bàn tới việc lập một nguyệt san để đề xướng tính cách hoà hoãn trong mối bang
giao giữa hai nước Đức vào lúc giới truyền thông Tây Đức cực lực chống đối. Tôi hoài nghi
một tờ báo ngoài luồng có thể đảo ngược tình thế, nhưng tôi ngạc nhiên khi biết ông đã
tìm cách lập một đài truyền hình và một phụ trang báo giấy cho đài phát thanh tên là
RTV để làm nền tảng cho một tập san có tầm ảnh hưởng chính trị lớn hơn.
Nhưng rồi năm 1967 tai hoạ xảy đến. Porst bị Neumann phản bội và chúng tôi bị chấn
động mạnh vì tang chứng không ai khác hơn là Optic, nhân viên của chúng tôi. Anh này
để tự cứu lấy mạng sống đã t ố cáo Porst.

Sau khi bị bắt, Porst tiếp tục khẳng định sự hợp tác của ông ta với cơ quan của tôi không
mang tính chất phản bội. Ông tuyên bố :

Đúng tôi là một triệu phú theo Mác. Tôi đã từng là đảng viên của Đảng Dân Chủ Tự do
của Đức và Đảng Thống Nhất Xã Hội Chủ Nghĩa c ủa Đức. Tôi cung cấp tiền bạc cho Đảng
Dân Chủ Tự Do để họ vận động tranh cử và đồng thời tôi đóng góp phần liễm của tôi cho
Đảng Thống Nhất Xã Hội Chủ Nghĩa.
Tôi sống tại đây và tôi bàn luận chính trị ở nơi khác. Có sự mâu thuẫn nào không?
Tôi xin thưa là không.

Không may, chánh án biện lý không chấp nhận lô-gíc của ông và toà đã k ết án hai năm,
chín tháng tù ở. Phong cách của Porst không hề suy xuyển trong suốt phiên toà. Được hỏi
về những liên hệ với tôi, ông trả lời toà :

Tướng Markus Johannes Wolf… tôi xem ông như một người bạn, mặc dù ông ông ấy dè
dặt. Ông không tự hạn chế trong việc trao đổi ý kiến, ngay cả khi những ý kiến này
không nằm trong sự chỉ đạo của chính quyền. Ông cùng thể cách với tôi, ông ăn mặc
chỉnh tề và không thiếu tính hài hước. Tôi phải nói là họ không như ông ta.

Cách mô tả này về tôi đã xu ất hiện hàng nhiều năm trên tất cả báo chí, đính kèm với
hình ảnh của một người đàn ông nhã nhặn chắc chắn không phải là tôi. Tôi không hề biết
đương sự là ai, nhưng tôi đoán chừng vì họ không có hình của tôi nên họ tự sáng chế.

Lẽ cố nhiên thời nay, tại Đông Đức cũ, các đèn màu của các cửa hàng ảnh Porst tiếp tục
nhấp nháy tại các trung tâm thành phố cũng trên khắp nước Đức. Do đó cuối cùng anh
bạn của tôi thực hiện được ước nguyện của mình, thấy được cơ cấu thị trường gây lợi
nhuận và có hiệu năng ở phía Đông. Điều đáng buồn và bạc bẽo của cuộc sống của hai
chúng tôi là để thực hiện được điều này là hệ thống mà một phần nửa tâm hồn của Porst
và tất cả tâm hồn của tôi tin tưởng vào phải sụp đổ.

Việc đóng cửa biên giới có nghĩa là phương pháp c ủa cơ quan chúng tôi chắc chắn trở nên
khó khăn hơn và không may lại tốn kém hơn. Việc liên lạc với các nguồn tin, việc chuyên
chở nhân viên, việc chuẩn bị những gặp gỡ mới, tất cả đòi h ỏi phải có tiền bạc mặt và
thời buổi này càng lúc càng khó kiếm. Tôi cũng cần tiền mặt để mua phụ tùng hỗ trợ kỹ
thuật cho nhân viên, máy nghe lén, máy khuếch đại làn sóng cao tần đài phát thanh,
máy giải mã và những dụng cụ khác chúng tôi thua kém xa Hoa Kỳ và Tây Đức. Hy vọng
lớn nhất của chúng tôi là được một bộ phận mới nhất của một dụng cụ và cố gắng sao
chép lại với giá rẻ. Hầu hết các dụng cụ này đều nằm trong danh sách các món hàng cấm
xuất cảng sang khối Đông Âu, vì vậy chúng tôi phải tìm người để thu mua những dụng cụ
này mà không bị phát hiện. Tôi cũng cần tiền mặt để trả cho các nhân viên ở phương Tây
và giữ mối liên lạc với các nguồn tin có tiềm năng. Tôi không dè sẻn trong việc này.
Người phương Tây thích được một cơ quan tình báo vuốt ve, càng tiếp đón hoang phí
chừng nào, cơ may họ cảm thấy được tân bốc và việc hợp tác càng cao. Nếu một trong
những nhân viên của tôi ở Tây Đức đã xoay sở để tiếp cận với một nhân vật chính trị,
ngoại giao hoặc kinh doanh tại Bonn và mời người này đi uống nước hoặc đi ăn, nhân
viên này muốn một quán ăn sang trọng – không quá lộ liệu hoặc quá thời trang, nhưng là
một nơi có tiếng biểu hiện tiền tài cho khách sành điệu. Rượu cũng là m ột yếu tố quan
trọng. Tất cả những người phương Tây có địa vị và có ý nghĩ cung c ấp bí mật cho chúng
tôi phải cảm thấy là họ đang nói chuyện với một cơ sở đáng tin cậy và có nguồn tài trợ
lớn. Tôi chẳng bao giờ nghĩ ph ải làm việc trong sự eo hẹp như các đồng nghiệp Xô Viết
của tôi, vì tính chất bủn xỉn tiền bạc của họ ai cũng bi ết và phong cách của họ để lộ tầm
nhìn giới hạn của họ.

Trong những ngày đầu, việc thu nhập tiền mặt để chi phí cho những nhu cầu trên chưa
được tổ chức có hệ thống. Nhưng khi tổ chức phát triển và những công tác cũng đư ợc xúc
tiến và đồng thời Bức Tường được dựng, chúng tôi cần tiền mặt nhiều hơn nữa. Vì nhu
cầu này nên tôi biết đến ông phù thuỷ tài chánh của Đông Đức Alexander Schalck-
Golodkowski. Shalck hay là Alex, như mọi người được biết, là một người to lớn với chiếc
cằm bạnh, ngực to rộng và tiếng nói oang oang. Tôi gặp ông ta vào giữa thập niên 1960
do lời giới thiệu của một giám đốc trong cơ quan tôi, tướng Hans Fruck, người đã t ừng là
Giám đốc của ngành công an rộng lớn Đông Bá Linh của Bộ Công An. Tại đây ông đã ti ếp
xúc với nhà kinh doanh Đông Bá Linh Simon Goldenberg và Michael Wischniewski. Trái
với lời đồn đãi ở phương Tây, các nhà kinh doanh tư nhân hiện diện trong khối Đông,
nhưng họ chiếm một vị trí ẩn khuất trong xã hội và tất cả những hoạt động của họ bị nhà
nước kiểm soát cẩn thận, và vì vậy cuối cùng, phần đông các cơ sở này được đặt dưới
quyền kiểm soát của Bộ Công An.

Alexander Schalck- Golodkowski và Franz Josef Strauss

Nhu cầu về tiền mặt của nước DCCH Đức bao giờ cũng l ớn hơn lợi tức thu vào của ngành
xuất khẩu khiêm tốn của họ. Goldenberg và Wischniewski dàn xếp để chia sẻ lợi nhuận
với nhà nước bù lại họ được phép tự do buôn bán hàng hoá và dự trữ. Schalk với tư cách
là một giới chức nhiều tham vọng trong Bộ Liên Đức và Ngoại Thương đã ký k ết thoả
thuận này. Tiền được chuyển qua trung gian của Schalk cho Uỷ Ban Trung Ương Đảng
Thống Nhất Xã Hội Chủ Nghĩa và đư ợc dùng một phần để tài trợ một vài nhóm tại Tây
Đức và các nước khác. Nhưng Schalk là một chuyên gia giỏi nên đương sự không ngừng
tại đây. Kể từ cuối thập niên 1960 trở đi, khi Tây Đức và Đông Đức bắt đầu xích lại gần
nhau, giới lãnh đạo tách rời phần bộ này ra khỏi cơ quan ngoại thương và tạo dựng một
tổ chức mới được nguỵ trang và do Schalk điều khiển. Mục đích thật đơn giản: đem tiền
mặt về cho CHDC Đức bằng hầu hết mọi phương cách.
Chúng tôi cần một con thoi đi lại biết rõ thị trường phương Tây, biết những thủ tục của
những nhà băng và những quy tắc không thành văn của họ, và Schalk là một thí sinh
toàn hảo. Đương sự được sự tự trị nhưng xét ra không được độc lập. Các thương gia và
các cấp lãnh đ ạo phương Tây tiếp cận với đương sự không biết Schalk là một đại tá của
Bộ Công An và chủ nhân thực sự của y là Mielke. Schalk cũng báo cáo trực tiếp cho Erich
Honecker, người lãnh đ ạo đảng kế vị Ulbricht và Günter Mittag, một uỷ viên trong bộ
chính trị phụ trách về kinh tế. Chức vụ của Schalk là « sĩ quan đặc vụ », và nhờ mối liên
hệ mật thiết với Cục Khoa Học và Kỹ Thuật của HVA (Cơ Quan Tình Báo H ải Ngoại),
đương sự có khả năng lấy được những dụng cụ vi tính và hàng hoá siêu kỹ thuật bị cấm
vận. Cơ quan của tôi giúp Schalk xem xét những nhà cung cấp phương Tây nào sẵn sàng
bán cho phương Đông. Giới kỹ nghệ và quân sự chúng tôi sẵn sàng trả giá gấp đôi giá cả
hiện hành.

Schalk đặt tên cho văn phò ng của mình là Kommerziale Koordination (Phối Họp Thương
Mại) gọi tắt là Koko. Đây là một phương cách thận trọng để tạo nên bề thế và đồng thời
tạo nên hình ảnh năng động và tân tiến đối với người phương Tây. Tổ chức này phát triển
nhanh chóng dưới sự quản lý của Schalk – trên thực tế Schalk được mọi người biết đến
dưới biệt hiệu Devisenbeschaffer – « người kiếm ra tiến »

Nguồn tài chánh dồi dào nhất đến từ những cuộc thương thuyết bí mật giữa nước CHDC
Đức và chính phủ Tây Đức và các giáo hội lớn tại đây. Con tính vô cảm và đơn giản:
chúng tôi buôn bán người đổi lấy hàng hoá mà chúng tôi có thể dùng hoặc bán lại để lấy
tiền mặt. Vào khoảng giữa những năm 1964 và 1990 nước CHDC Đức đã thả hơn 33.000
tù binh chính trị và hơn 215.000 công dân để họ đoàn tụ gia đình và nhận tiền của Tây
Đức hơn 3,4 tỷ Đức Mã. Schalk quản lý phần lớn số tiền này.

Cho đến năm 1989, hành tung của Schalk và sự hiện diện của Koko là một bí mật đối với
những ai nằm ngoài thế giới khép kín của giới tài chánh cao cấp của Tây Đức, và đương
nhiên đối với dân chúng Đông Đức. Những dịch vụ cá biệt của tôi với Schalk thường diễn
ra tại hội chợ Leipzig, nơi này là một cơ hội bằng vàng cho tôi để tìm những người có
tiềm năng trở thành điệp viên mới trong giới kinh doanh Tây Đức. Tướng Hans Fruck, phụ
tá của tôi, phụ trách về tất cả công tác An Ninh trong lúc hội chợ. Tất cả màn kịch này
giống như một trò chơi đến độ Fruck, phản lại mọi quy tắc tình báo, trở thành một vị
khách quý tại khách sạn cổ kính Astoria và mỗi tối ngồi ở cuối bàn ăn, có những nhà kinh
doanh Đông Đức và các đại diện thương mại ngoại quốc, trong số đó có Schalk, bao
quanh đương sự.

Tất cả các Cục trong Bộ Công An đều muốn nắm bắt Schalk để học hỏi và nhất là để lấy
được dụng cụ và tiền bạc. Trong công việc này, có nhiều kẽ hở dễ thất thoát tài chánh vì
kế toán cẩu thả. Năm 1982, Mielke và Schalk đều đồng ý phải xiết chặt kiểm soát những
dịch vụ giữa Bộ Công An và Koko. Tất cả các dịch vụ của các ngành trong Bộ thay vì đi
trực tiếp với các hãng phương Tây theo lời dặn của Schalk nay phải qua văn phòng của
Schalk. Mỗi năm một lần đều có một cuộc họp với sự có mặt của Schalk, của người phụ
tá, Manfred Seidel, của Werner Grossman và tôi để hoạch địch kế hoạch cho năm tới. Tôi
có ngân quỹ vào khoảng một triệu Đức Mã trích từ quý đặc biệt của Koko – ít hơn 10%
chi phí tiền mặt hàng năm của chúng tôi. Phấn còn lại là do ngân quỹ Nhà Nước.

Bộ Công An cũng dùng hàng ch ục hãng bình phong mà Schalk đã thi ết lập để che đậy
mọi việc buôn bán từ việc nhập cảng xe hơi cho đến việc chuyên chở lén lút những mỹ
thuật của nhà nước bán cho những con buôn phương Tây để bù đắp ngân quỹ thâm
thủng của chúng tôi. Ngân quỹ trung ương của bộ chúng tôi tài trợ cho những công tác
kỹ thuật – làm giấy thông hành giả, điều hành những phòng thực nghiệm đặc biệt về
phim ảnh và những vấn đề tương tự - trong khi đó những công ty này cung cấp cho
chúng tôi những hàng hoá bị cấm vận chẳng hạn như những chất hoá học và những dụng
cụ vi điện tử. Schalk có thể cung cấp xe hơi, đầu máy vidéo, vật dụng và những hàng xa
xỉ khác.

Tôi không thân thiết với Schalk, nhưng chúng tôi chúng tôi có gặp nhau một lần ở bờ biển
Hắc Hải, nơi đây cả hai chúng tôi đã ghi danh đ ể nghỉ hè. Tôi ấn tượng với sự bén nhậy
của ông và phong cách ông hoán chuyển từ một công chức trong ngành thương mại của
Đông Đức để trở thành một nhân vật hoạt bát đứng lên trên những cãi cọ ý thức hệ. Ông
xem sự xung đột giữa Đông và Tây như là một ngăn trở không đáng kể trong việc điều
hành kinh doanh, một điều mà ông yêu thích. Nhưng ông biết dùng người, bất kể những
thâm tín của họ. Ông là một người khôn ngoan và lạnh lùng.

Đến năm 1983, ảnh hưởng của Schalk quan trọng đến độ ông được Honecker và Mielke
giao phó cho một trong những nhiệm vụ nhạy cảm nhất về tài chành : giúp cho nền tài
chánh không bị phá sản. Ông thương lượng tiền vay một tỉ Đức Mã đ ể nhà nước Đông
Đức đặc biệt cho các nhà băng Tây Đức vay. Honecker, nhất quyết muốn mua chuộc lòng
dân, đã cho nh ập cảng một số lượng gia tăng thực phẩm và đã chi phi một số tiền lớn
cho chương trình xây dựng nhà cửa và sổ sách kế toán không thể quân bình được. Nhờ
trung gian của anh em März , người gốc Bavaria chuyên bán sỉ thịt bò xuất xứ từ Đông
Đức (họ sản xuất những miếng thịt lườn rất khó kiếm ở nước chúng tôi, mặc dù mức sản
xuất thịt bò cao), Franz-Jozef Strauss hỗ trợ số tiền vay này, bù lại những cải tiến trong
việc du lịch của người Đức muốn thăm gia đình bên Đông Đ ức. Schalk và Strauss trở
thành những người tín cậy về mặt chính trị và tạo nên những lời đồn đãi ở cấp cao, và
Schalk báo cáo trở về cho Bộ Công An. Nhìn vào những số tiền vay đa phương, việc xuất
khẩu thịt, những điều kiện để qua biên giới và việc công nhận thể chế có lợi nhiều hơn là
có hại, tôi nghĩ là như vậy. Nhưng tôi cũng nghi ngờ có một số cá nhân làm giàu theo
những phương pháp không phù hợp triệt để với luật lệ.

Sau khi nước Đức thống nhất, các toà án Đức đã phí công bỏ mất nhiều năm để xét xem
những hoạt động này có hợp pháp không. Có vài người chỉ trích Strauss đã h ỗ trợ cho
việc vay tiền vì việc này chỉ giúp cho Đông Đức tiếp tục tồn tại. Nhưng cuối cùng kết số
phá sản về mặt chính trị, kinh tế và nhân sự đã gi ết chết quốc gia này, chứ không phải là
do những kẻ thù tài chánh.

Nhìn lại quá khứ, tôi thường tự hỏi có thể nào sự việc có thể khác đi được không. Tôi
quyết đoán Đông Đức không thể nào tồn tại dưới hệ thống nhà nước xã hội chủ nghĩa mãi
sau năm 1961 nếu biên giới không khép kín. Áp lực kinh tế, cộng thêm với sự bất ổn nội
tại vì chỉ còn là một phần nửa nước Đức (và theo truyền thống là một phần nửa nghèo
nhất) xem ra quá sức chịu đựng. Nhưng mầm mống của sự thoái hoá của nước Đức chia
đôi bắt đầu xuất hiện khi biên giới được củng cố và bức tường bê-tông được dựng lên dọc
theo đường chia cắt. Cắt đứt sự tiếp cận với phần hấp dẫn của nước Đức bên kia là một
giải pháp thô bạo và hữu hiệu, nhưng đó chỉ là một giải pháp ngắn hạn. Về dài hạn đó là
một tai hoạ. Nay tôi thấy trong chiến dịch chống Đông Đức mỗi lúc một mạnh thêm và có
tính thuyết phục vì biểu tượng sừng sững của Bức Tường, một trong những lý do quyết
định kết quả của Chiến Tranh lạnh. Không có một chuyên gia nào bên phiá chúng tôi
trong hoạch định, kể cả ngành ngoại giao hoặc những nghệ thuật đen tối của ngành điệp
báo có thể phòng đoán đư ợc chuyện này.
Chương 8
Làm Gián Điệp Vì Tình
Liên kết tình tự và điệp vụ không phải là một sáng chế của tôi. Từ thuở xa xưa, các cơ
quan an ninh đã dùng trò chơi c ặp lứa này để gần gũi với những nhân vật đáng chú ý.
Nhưng nếu tên tuổi của tôi đi vào lich sử gián điệp, có thể là tôi làm hoàn hảo thêm việc
dùng phái tính để thi hành điệp vụ. Những anh chàng Romeo điệp viên của tôi có danh
tiếng khắp thế giới trong việc thu hút trái tim của phụ nữ để thu thập những bí mật quốc
gia và chính trị mà những mục tiêu của họ có quyền tiếp cận. Khi mới bắt đầu, tôi không
trông mong sẽ thu thập được thành quả. Về phần tôi, đó là một dụng cụ trong nhiều
dụng cụ khác của một cơ quan tình báo thi ếu tài chánh và thiếu kinh nghiệm. Tuy nhiên,
những tiền lệ lịch sử xem ra rất đáng khích lệ.

Trong quyển thánh kinh thứ tư của Moi-sen, chúng ta được biết Thượng Đế ra lệnh cho
Moi-sen phái người đi đến vùng Canaan và thu thập tin tức về. Mười hai người được chọn,
một người trong mỗi một bộ tộc, và một người mang tên giả - Joshua, tên thật là Hosea,
con của Noon – hoàn toàn phù hợp với phương pháp làm việc của các cơ quan tình báo.
Sau khi thu thập những tin tức về những người khổng lồ ở Canaan và chính sách nông
nghiệp của xứ sở đầy sữa và mật này, họ đốn một gốc nho sai trái đến độ hai người trong
nhóm điệp viên phải dùng đòn gánh để khiêng về. Khi Joshua kế vị Moi-sen, hai trong số
những phái viên đi đến Jericho ngủ đêm tại nhà của Rahab, một người đàn bà nhẹ nết.
Do đó hai nghề xưa nhất trên thế giới lần đầu tiên gặp nhau. Các thuộc hạ phản gián của
Vua của thành Jericho báo cho ông biết là có hai kẻ lạ ngủ đêm tại nhà Rahab. Khi Rahab
biết được các vệ binh đạo đức sắp đến nhà, cô giấu những anh gián điệp lên trên nóc nhà
và nói với nhân viên điều tra là cô thực ra đã có tiếp hai người khách, nhưng họ đã đi r ồi.
Tôi mường tượng hình ảnh bà ra tay cứu mạng hai tay gián điệp cực kỳ hoảng sợ. Một
trong những người thừa kế của Rahab trong nghiệp vụ tình ái và gián điệp là Mata Hari,
một người đàn bà Hòa Lan đã thực hiện những nghiệp vụ hữu dụng cho nước Đức trong
Đệ Nhất Thế Chiến, nhưng là một điệp viên kém cỏi và đã b ị Pháp xử bắn năm 1917. Tôi
chắc chắn không ghi cô nàng này vào sổ phát lương của tôi.

Mata Hari, tên thật Margaretha Geertruida Zelle

Vào thế kỷ thứ hai mươi, phụ nữ bắt đầu trở nên hữu dụng tại các cơ quan tình báo trong
những vai trò khác ngoài vài trò bán chôn và quyến rũ nam phái. H ọ nhận lãnh công việc
trước đây của đàn ông, làm thư ký cho các ông tai to mặt lớn và nhờ phong trào giải
phóng phụ nữ, họ trở thành những bộ trưởng, những cố vấn cho các chính trị gia, những
giáo sư đại học và những người nắm giữ những bí mật quốc gia. Vì vậy không có gì là lạ
khi đối tác nam phái của Mata Hari xuất hiện và trở thành gián điệp Romeo.

Anh chàng Romeo đầu tiên của tôi bắt đầu làm việc vào đầu thập niên 1950. Bí danh của
đương sự là Felix và danh tính thật của đương sự vẫn được giữ kín cho đến ngày nay. Khi
còn là sinh viên, anh đã gây s ự chú ý của các sĩ quan cao c ấp trong lúc họ trên đường rảo
tìm tại các tỉnh lỵ những điệp viên tiềm năng. Những chuyến đi này giống hệt những sinh
hoạt trinh sát cho đội thể thao Đông Đức – vào lúc đó nhóm này được một ban khác
trong Bộ Công An điều khiển và họ đi lùng tài năng để tìm những vận động viên thể lực
nhỏ bé và các lực sĩ khác t ại các sân chơi trường học. Tôi lấy làm hãnh diện là cơ quan
của tôi đã có nh ững thành tích tương tự trên tầm vóc quốc tế về gián điệp Romeo.

Tiến trình tuyển lựa của chúng tôi rất khắt khe. Cứ trên một trăm thí sinh ban tuyển
dụng chúng tôi tìm thấy trong Đảng, tại các đại học hoặc trong các tổ chức thanh niên,
chúng tôi chỉ phỏng vấn mười người, sau khi chúng tôi đã nghiên c ứu quá trình lý lịch và
thành tích của họ. Mùa Xuân 1952, tôi du hành với một đồng nghiệp cao cấp đến một
thành phố nhỏ ở Đông Nam nước Đức, nơi đây Felix đang là sinh viên kỹ sư. Anh là một
nghiên cứu sinh thông minh và sốt sắng, nhưng khi chúng tôi tiết lộ chúng tôi là ai và
chúng tôi muốn gì, anh ngạc nhiên và không hồ hởi lắm bởi vì anh lo lắng phải bở dở học
trình. Nhưng chúng tôi rất cần người làm việc ngụy trang ở Tây Đức và cố gắng thuyết
phục anh là đời sống của một điệp viên không đến nỗi tệ. Chắc chắn anh sẽ được trả
lương hậu hĩnh hơn là m ột một công việc nào đó trong guồng máy của nhà nước.

Giống như mọi tân binh, chúng tôi trao cho Felix một công tác để thi hành. Anh đến
Hamburg. Chúng tôi báo cho anh biết đây là cơ hội thực tế để chúng tôi đánh giá khả
năng phán đoán và hành dộng của anh trong lúc căng thẳng. Sau khi gặp gỡ sơ khởi với
một giao liên tại nhà ga lớn, anh phải thu thập tài liệu trên sân ga. Chúng tôi đã dạy cho
Felix những phương pháp để biết là mình có bị theo dõi không. Anh chăm chỉ học những
sơ đồ chúng tôi vẽ để chỉ vẽ những góc độ nhìn từ đó dễ quan sát và làm sao tránh một
vài vị thế trong đám đống. Lẽ cố nhiên, cho dù có nghiên cứu bao nhiêu sơ đồ đi nữa,
không ai có thể quyết đoán được sự thể. Tôi đã biết có nhiều điệp viên có hàng chục năm
kinh nghiệm bị thất bại vì họ đoan chắc họ không bị theo dõi khi họ đang trong tầm
ngắm của địch. Nguyên tắc căn bản, ngay cả cho cả điệp viên kỳ cựu nhất, là không bao
giờ cho rằng mình không bị theo dõi.

Nghiên cứu sinh của chúng tôi xuống toa xe hỏa và lập tức nhận biết có người theo dõi
anh. Anh toát mồ hôi lạnh nhưng lại không tài nào vứt bỏ cái đuôi này, một người mặc áo
khoác xám xuất hiện mỗi khi anh rảo bước. Khi anh bước tới gần chiếc cầu, anh đoan
chắc là một đội binh khoác áo xám đi theo sau anh. Sự thật là những trang phục chẳng
lấy gì hấp dẫn này đang là thời trang vào lúc đó nhưng không làm cho anh ngừng suy
nghĩ là b ất cứ một người mặc áo khoác xám nào anh thấy có thể là nhân viên phản gián
ngụy trang của phía bên kia. Do đó anh ra tín hiệu cho người liên lạc đang chờ anh ở trên
cầu một tín hiệu báo động đã th ỏa thuận trước, bằng cách thay đổi vị trí của tờ nhật báo
anh cặp dưới nách sang một góc độ đặc biệt để báo là công tác phải được hủy bỏ. Việc
chuyển giao tài liệu đã không xảy ra.

Sau này, khi Felix đã tr ở thành một tay hoạt động lão luyện tại Bonn, chúng tôi cười đùa
về buổi ban đầu hụt hẫng. Nhưng đây cũng là m ột bài học sinh tử cho tôi khi tôi phải
giám định những buổi làm việc thử thách. Không phải điệp viên nào cũng điêu luy ện như
James Bond. Trong những trường hợp hiểm nghèo, chính điệp viên nào dày kinh nghiệm,
cẩn thận và có phương pháp mới có nghị lực cần thiết để tỏ ra bình tĩnh và khôn ngoan
cân nhắc lợi hại.

Felix lập nghiệp tại Tây Đức với những giấy tờ giả và làm đại diện thương mại cho một
công ty có trụ sở ở Cologne bán dụng cụ làm tóc và mỹ phẩm. Chúng tôi muốn anh xâm
nhập cơ quan phản gián của Tây Đức (Văn Phòng Liên Bang B ảo Vệ Hiến Pháp), có trụ sở
tại Cologne. Những chuyến đi trình bán c ủa đương sự tại Bonn chẳng bao lâu khiến chúng
tôi chú ý đến Văn phòng Th ủ Tướng, lúc đó do Hans Globke cầm đầu. Hans Globke là một
cựu đảng viên Quốc Xã và tái sinh thành dân chủ và là một người thân tín của Thủ Tướng
Adenauer và chống đối mãnh liệt chủ nghĩa cộng sản.

Adenauer và Hans Globke

Chúng tôi không hài lòng với phẩm chất thông tin mà chúng tôi lấy ra từ giới thân cận
Adenauer. Chúng tôi không có đầu mối xác thực, cũng không có dụng cụ căn bản để tìm
hiểu bất cứ định chế nào của chính phủ, thư mục số điện thoại nội bộ văn phòng – chưa
kể đến những thông tin liên quan đến những người nằm trong danh sách nào. Chúng tôi
chưa nghĩ ra được cách làm thế nào một anh chàng bán thuốc gội đầu có thể xâm nhập
một nơi canh gác cẩn mật như vậy, nhưng vì muốn hiểu biết Adenauer và vì thiếu thông
tin nội bộ và đầu mối liên lạc nên chúng tôi không có lựa chọn nào khác để Felix thử thời
vận.

Chính Felix đưa ra sáng kiến đầu tiên. Anh nói anh sẽ trà trộn vào trong đám đông ở một
trạm xe buýt gần công thự nhất vào cuối ngày làm việc và thử xem có làm quen được với
ai không. Sau một vài lần hụt cẳng, cuối cùng anh gặp được một cô thư ký tóc xậm làm
việc trong văn phòng của thủ tướng, và chúng tôi đặt bí danh cho cô là Norma. Họ trở
thành bạn và không bao lâu họ tình tứ và anh tìm hiểu được chút ít công tác của văn
phòng thủ tướng.

Khi anh đã chính thức trở thành người bạn trai của Norma, Felix được mời đến gặp gỡ các
đồng nghiệp của cô để chơi lăn bóng gỗ hoặc tham dự những cuộc du ngoạn thuyền trên
sông Rhine do văn phòng tổ chức. Nhờ có được duyên dáng của người miền Nam, anh trở
thành cột trụ và linh hồn của buổi liên hoan, kể chuyện hài hước, nhảy đầm với mấy bà
và uống rượu vui vẻ với mấy ông. Norma vui sướng vì có được bạn trai. Cô không có
nhan sắc và đối với chúng tôi cô là phương tiện để chúng tôi đạt mục đích. Nhưng bản
chất con người khó tiên đoán. Felix thực tình yêu cô này.

Họ dọn nhà về chúng sống với nhau, nhưng vấn đề hôn nhân không thể có được vì bất cứ
điệp của nào của chúng tôi cũng đều mang căn cước giả, thường là mượn từ những công
dân đã ch ết hoặc di cư. Chính quyền Tây Đức kiểm soát ngày sinh và sổ rửa tội ky-tô
giáo của những người muốn làm đám cưới và trong trường hợp của Norma, quy chế của
cô tại phủ thủ thướng bắt buộc cô phải trải qua một cuộc điều tra an ninh về người
chồng tương lai của cô. Vì vậy phần đông các điệp viên của chúng tôi phải nhấn mạnh họ
không phải là loại để cưới hỏi, họ là những người đã có v ợ hoặc bịa những chuyện tương
tự như vậy.

Điệp vụ Romeo đầu tiên diễn tiến tốt đẹp trong nhiều năm. Felix không bao giờ nói công
việc thực sự của anh vì có thể việc này sẽ làm chấm dứt mối liên hệ hoặc tệ hơn nữa. Một
hôm chúng tôi được một điệp viên nằm vùng trong Văn Phòng Bảo Về Hiến Pháp là ban
an ninh đang để ý đến người bạn của Norma và đang rà soát lý lịch về y. Chúng tôi phải
triệu hồi Felix có tốc độ về Đông Đức. Một hôm cô trở về nhà sau công việc sở và thấy
người tình biến mất không lời giải thích. Người phụ nữ xấu số chắc phải đau khổ vô cùng
khi khám phá ra người tình đã ra đi, nhưng trong s ự chọn lựa giữa việc cứu một nhân
viên và một cuộc tình, tôi phải nhẫn tâm quyết định.

Đây không phải là lần cuối tôi phải đóng vai một ông chú đau khổ. Tội nghiệp cho Felix,
anh ở trong tình trạng khốn khổ khi anh trở về Đông Bá Linh. Cả hai chúng tôi cạn hai
chai vodka trong một đêm tại một trong những nhà an toàn trong khi anh giải bảy hết
tâm sự của mình. Nhưng trong khi trái tim anh đau khổ, đầu óc của anh may thay vẫn
làm việc. Anh mách cho chúng tôi đầu mối liên quan đến một phụ nữ mà anh nghĩ s ẵn
sàng chấp nhận liên hệ với chúng tôi, một phụ nữ trung niên, vui đời, làm thư ký văn
phòng của Globke tại phủ Thủ Tướng.

Chúng tôi không thấy một lý do hiển nhiên nào để đoan chắc người đàn bà này sẽ làm
việc với chúng tôi. Nhưng nhờ tiếp xúc trực tiếp nên Felix có cảm nghĩ một người đàn ông
bảnh trai với một lý lịch ngụy trang tốt có thể gây ảnh hưởng đến cô này. Chúng tôi đang
ở vào thập niên 1950, và cảnh trai thiếu thời hậu chiến được cảm nhận rõ ràng nơi các cô
thư ký trung niên, cô đơn, mong m ỏi tìm kiếm một tấm chồng, một thiếu sót trên thị
trường mà chúng tôi giúp khỏa lấp với những anh chàng độc thân của chúng tôi.

Sau khi xem xét kỹ lưỡng một số các thí sinh, chúng tôi chọn Herbert Söhler, bí danh
Astor. Anh là một phi công tài tử, đã từng nằm trong đội ngũ của Thống chế Kesselring
thời chiến. Sau khi bị bắt làm tù binh của Xô Viết, ông đã chuyển hướng đi theo chủ
nghĩa cộng sản. Vì ông là đảng viên của Đảng Quốc Xã và những mối liên hệ của với các
sĩ quan khác đã làm việc cho Kesselring, con đường sự nghiệp của ông bị ngăn chặn ở
nước CHDCĐ, do đó ông chấp nhận xâm nhập Tây Đức vì chúng tôi với lòng vui vẻ và
tính chuẩn xác của quân đội.

Một vài người bạn của ông đã an cư ở Bonn khi Tây Đức bắt đầu tính đến việc tái vũ
trang. Đây là lúc thuận lợi để cho các cựu quân nhân quyết định mình đứng phía bên nào
cuộc chiến trên đất nước phân chia của họ. Chúng tôi không gặp khó khăn khi đưa ông
về hướng này, đặc biệt là sau cuộc binh biến bất thành năm 1953 đã cho thấy mức độ
kiểm soát của Xô Viết tại Đông Đức và đã đ ẩy một số người do dự chay sang Tây Đức.

Söhler di chuyển về Bonn và tìm được việc làm trong ngành địa ốc. Ông gia nhập câu lạc
bộ phi công tại Hangelar gần đó. Những thành viên ở đây bao gồm những nhân viên
chính phủ đì tìm phiêu lưu cu ối tuần. Không bao lâu ông bắt được liên lạc với Gudrun, bí
danh chúng tôi đặt cho cô thư ký mà Felix đã nói đ ến. Lòng mong ư ớc của chúng tôi mau
chóng được toại nguyện. Cô bắt nhãn với Söhler, trong khi đó Söhler khám phá những sổ
ghi chép những mối liên hệ của Adenauer với Reinhard Gehlen, giám đốc tình báo, đi
ngang qua bàn làm việc của Gudrun . Sau một thời gian, ông đề nghị ông sẽ thử kết nạp
cô trong vai trò của một sĩ quan tình báo Xô Vi ết. Việc này quả là lạ, nhưng chúng tôi
nhận thấy ông có trực giác bén nhạy. Gudrun công nhận Liên Bang Xô Viết là một cường
quốc có tầm vóc quốc tế trong khi đó cô không xem yêu sách của CHDC Đức muốn mình
trở thành một quốc gia – nhà nước là một việc chính đáng. Söhler kể lại những kinh
nghiệm thời chiến: Những tàn phá do quân đội Hitler
gây ra và sĩ quan ngư ời Nga có văn hóa cao đã t huyết giảng cho ông nghe trong trại tù
về mối quan hệ giữa nhân dân Nga và nhân dân Đức.

Reinhard Gehlen

Chúng tôi quyết định chính thức kết nạp cô tại một địa điểm nghỉ hè hẻo lánh trên vùng
núi Alps ở Thuy Sĩ để lo toán việc chúng tôi có thể rút lui mau chóng với Söhler nếu cô
phản ứng không thuận lợi với đề nghị của chúng tôi. Chúng tôi luôn cố gắng tránh trực
tiếp đề nghị kết nạp một người Tây Đức trên lãnh thổ của nước Cộng Hòa Liên Bang
Đức, vì cơ quan phản gián Tây Đức dở trò xưa cũ theo dõi m ột kẻ tình nghi là kết nạp
viên, gài mục tiêu của đương sự làm mồi nhử, và sau đó quay phim việc kết nạp để có
tang chứng sinh hoạt gián điệp và bằng cớ để bắt tức khắc. Việc mời một đối tượng kết
nạp đến gặp gỡ những sĩ quan cao cấp tại Đông Đức hoặc ở nơi nào khác cũng là m ột lối
thử nghiệm cuối cùng để xem đối tượng kết nạp đã sẵn sàng chấp nhận mối liên hệ điệp
viên chưa. Vào thời điểm này, người tăm tối đến mấy đi nữa cũng hiểu bản chất của lời
mời mà không cần phải nói điều gì cả.

Trong trường hợp này, kế hoạch kỹ lưỡng của chúng tôi để o bế Gudrun, đưa cô đến một
quán ăn đắt tiền Thuy Sĩ hóa ra thừa thãi. Söhler có lẽ là bậc thầy trong nghệ thuật
thuyết phục, bởi vì việc kết nạp cô trở thành một thủ tục. Điều này chứng minh cho tôi
thấy nhiều phụ nữ được người đàn ông họ thương yêu tuyển dụng thường cảm nhận
người đối tác làm việc cho phía bên kia, mặc dù trong thâm tâm họ không chấp nhận sự
kiện này trong một thời gian dài. Sau vụ này, chúng tôi không bao giờ đánh giá thấp sự
kiện các cô thư ký có th ể nghi ngờ người chúng tôi là gián điệp, mặc dù điều này không
được tiết lộ. Điều này cũng có nghĩa là anh chàng Romeo ph ải có đường thoái lui nhanh
chóng và an toàn về Đông Bá Linh nếu đối tượng Juliet dở chứng.

Không may Söhler bị chứng đau phổi trầm trọng nên kết thúc cộng tác với chúng tôi.
Chúng tôi triệu hồi đương sự về Đông Đức và không bao lâu qua đời vì bệnh này. Tất cả
mọi cố gắng để dẫn dụ Gudrun vào một cuộc tình đi ệp báo khác đều thất bại. Có một vài
phụ nữ bám víu vào ngành điệp báo – lòng phấn chấn và thân mật cùng chia sẻ một bí
mật – và họ có thể chuyển hướng sang một đối tác khác nếu người đầu tiên biệt tích vì lý
do an ninh. Nhiều phụ nữ chỉ thích một người duy nhất, và chúng tôi không tài nào nài ép
họ được. Gudrun là một trong những phụ nữ này. Nguy cơ họ trở về với Tây Đức, với lòng
đầy ân hận và đem theo với họ những câu chuyện thích hợp cho tuyên truyền, quá lớn,
và chính vì vậy chúng tôi chào tạm biệt cô Godrun.

Tuy nhiên, với những thông tin mà cô cung cấp, cuối cùng chúng tôi đã tung ra đư ợc
chiến dịch đánh phá Globke. Việc này dẫn đến sự từ chức của y năm 1963, một thắng lọi
lớn cho chúng tôi trong việc khử trù một địch thủ ngoan cố của Đông Đức đồng thời tạo
được sự chú ý của phương Tây về mức độ xâm nhập của các cựu đảng viên Quốc Xã phục
vụ trong chính quyền Tây Đức.

Mỗi lúc tôi thêm tin tưởng là các phụ nữ được những Romeo của chúng tôi kết nạp có thể
cung cấp những thông tin chất lượng cao, nhưng càng dùng chiến thuật này càng nhiều
thì nguy cơ bị khám phá càng cao. Sớm hay muộn gì quả bóng phải nổ, nhưng lạ lùng
thay, nó chỉ xảy ra vào năm 1979. Ingrid Garbe, môt cô thư ký trong phái đoàn Tây Đ ức
làm việc tại NATO ở Brussels, bị Tây Đức bắt vì tội làm gián điệp cho Đông Đức. Giới
truyền thông ở đây trình bày sự việc như một trường hợp phản bội trầm trọng nhất trong
lịch sử của nước Cộng Hòa Liên Bang Đức. Sự thật là, về mặt tình báo, Garbe là một
thành tố quan trọng nhưng không phải là thiết yếu. Chúng còn có những điệp viên khác.
Nhưng bởi vì cô là phụ nữ nên đã đánh động những hồi ức xa mờ của Mata Hari. Hình ảnh
cố hữu của “gián điệp vì tình” xuất hiện và báo chí không ngớt nói đến.

Tháng Ba, các hãng thông tấn báo tin Ursel Lorenzen, một nhân viên trong văn phòng
Tổng Thư Ký NATO, đã đào thoát sang Đông Đ ức. Trước sự ngỡ ngàng của những đồng
nghiệp của cô tại NATO, cô thình lình xuất hiện trên đài truyền hình Đông Đức, giải thích
là cô đã chọn tiết lộ những hiểu biệt về nội bộ tổ chức này.

Ursel làm việc cho NATO được mười hai năm, gần đây nhất trong Cục Công Tác, tại đây
cô tiếp cận với những tài liệu định hoạch và những chi tiết trong cách quản lý khủng
hoảng tại bộ tư lệnh. Những điều đáng chú ý mà cô cung cấp cho chúng tôi là những
thông tin liên quan đến những thủ tục tại văn phòng tư lệnh khẩn, nơi đây tất cả những
báo cáo chính trị, quân sự và tình báo được tập trung và thẩm định và NATO soạn thảo
những báo cáo quan trọng nhất, những hồ sơ Nghiên Cứu về Đông Tây.

Sau khi Ursel đào tẩu, Imelda Verrept, một cô thư ký Bỉ tại NATO, cũng xin tị nạn tại
Đông Đức. Trong khi cấp lãnh đạo Đông Bá Linh lên mặt với những vụ đào thoát này, tôi
hết sức phiền lòng vì những chuyện này. Những vụ xuất hiện đột ngột của những cô thư
ký này ở Đông Bá Linh, mặc dù làm lợi cho đường lối tuyên truyền của cấp lãnh đạo, trên
thực tế là một mất mát thông tin cho cơ quan chúng tôi. Thắng lợi vì có được những
nhân viên của NATO xin tị nạn ở Đông Đức, cho dù sự thay đổi có thú vị và có khác với
việc người Đông Đức xin tị nạn ở Tây Đức, xem ra thật mờ nhạt so với sự hữu ích có được
họ trong lòng địch và cung cấp những bí mật tình báo có giá trị.

Vào mùa Xuân năm 1979, trong lúc tôi đi nghỉ trượt tuyết, một báo cáo khác lại đến cho
biết một cô tên là Ursula Höfs, một cô thư ký làm trong bộ tham mưu của Đảng Dân Chủ
Thiên Chúa Giáo. Lúc đầu tôi không đoán ra cô là ai, vị tại bộ tư lệnh chúng tôi chỉ dùng
tên ngụy trang của các điệp viên và cất giấu tên thật của họ trên căn bản phân cách. Vì
không muốn liều lĩnh đi ện thoại về Đông Bá Linh để xem cô là điệp viên nào của chúng
tôi, tôi vội vã trở về, nghe báo cáo trên đài phát thanh Tây Đức và cố đoán xem người
nào đã b ị bại lộ.
Một tuần lễ sau khi Ursula Höfs mất tích, việc đào thoát của hai cô thư ký nữa ở Bonn
xuất trên trang nhất của báo chí. Inge Goliath đã làm vi ệc cho Werner Marx, một đầu
não của đảng CDU chuyên về chính sách ngoại giao, quốc phòng, Châu Âu, và liên Đức.
Cô đã cung cấp những tài liệu chiến lược về quốc phòng và chính sách thời Chiến Tranh
Lạnh trong mười năm nay, và trong bầu không khí căng thẳng này, chúng tôi nghĩ an
toàn hơn hết là rút cô về. Ngày hôm sau, tờ Bild-Zeitung đăng trên trang nhất : BÂY GIỜ
THƯ KÝ C ỦA BIEDENKOPF’S CŨNG CH ẠY LUÔN. Một bức hình của Kurt BiedenKopf, chủ
tích nổi danh của đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo và là dân biểu lãnh đ ạo của đảng, đang
tươi cười chụp chung với người phụ tá, cô Christel Broszey. Christel đã hành x ử một cách
tuyệt vời khi nhận được lệnh phải rời bỏ nhiệm sở. Cô không để lộ sự sợ hãi, vui vẻ vẫy
chào chủ nhân của mình với những lời sau : “Tôi đi tiệm uốn tóc. Hẹn gặp ông ngày mai.”
để rồi không bao giờ trở lại.

Báo chí nói cô là “siêu thư ký”, vì cô thường đứng trong số năm người đầu trong những
giải vô địch nghề nghiệp trong ngành đánh máy và tốc ký. Những đức tính này gây ấn
tượng nơi ông Biedenkopf và hai người tiền nhiệm và hóa ra cũng c ực kỳ hữu dụng cho
chúng tôi. Bởi vì Christel đã làm vi ệc cho ba vị chủ tịch của Đảng Dân Chủ Thiên Chúa
Giáo trong một thời gian dài, cho nên chính quyền Tây Đức không thể hình dung ra được
mức độ hiểu biết của cô và những tổn hại do cô gây ra một cách chính xác. Một tuần lễ
sau Helga Rödiger, thư ký của ông Manfred Lahnstein, một công chức cao cấp trong Bộ
Tài Chánh, cũng đã giã t ừ chủ nhân và chạy sang Đông Bá Linh. Rödiger là một nguồn tin
giá trị, vì Lahnstein là một chuyên gia cố vấn cho Helmud Schmidt khi ông này rời chức
Bộ trưởng Tài chánh để lên làm Thủ Tướng.

Con đường để cho những điệp viên chúng tôi đào thoát đã được chuẩn bị từ trước. Điệp
viên được lệnh bay qua những quốc gia được xem là ít nguy hiểm, chẳng hạn như Bỉ, Hòa
Lan hoặc Thụy Sĩ và đến một trạm kiểm soát biên giới Đông Đức với bià giấy thông hành
Tây Đức không có ruột. Các viên chức tại biên giới biết dấu hiệu thỏa thuận này. Người
lính biên phòng gọi cấp trên đến và cấp trên này vẫy gọi người kia bước qua biên giới, rồi
đưa những điệp viên đào thoát sang một phòng bên cạnh và liên lạc với chúng tôi bằng
đường dây điện thoại đặc biệt.

Tôi bàng hoàng và mất hẳn tinh thần. Phần lớn các cô thư ký chỉ giống nhau ở một điểm
là chồng hoặc người đàn ông họ sống chung đều là những điệp viên mang tên giả ở Tây
Đức. Có thể những người đàn ông này đã ghi danh ma và lấy tên của những người Tây
Đức đã di cư nư ớc ngoài. Có thể các cô Juliet nghĩ rằng ngụy trang của các cô đã bị lộ.
Nhưng làm thế nào chính quyền lại có thể khám phá tên thật của các điệp viên của chúng
tôi.

Tôi thấy rõ chính quyền Tây Đức đã khám phá những phương pháp xâm nhập của chúng
tôi. Từ trước đến nay chúng tôi ngạo mạn cho rằng những phương pháp này an toàn,
nhưng tôi nhanh chóng quyết định chúng tôi phải làm lại từ đầu. Chúng tôi đi đến một
quyết định đau đớn nhưng cần thiết là triệu hồi một vài điệp viên nữ nữa về cùng với
những chàng Romeo. Lệnh này đến quá trệ với Ursula Höfs và người chồng. Họ bị xét xử
và kết án hai năm tù ở.

Những cuộc lùng bắt năm 1979 là do hậu quả của việc Bác Sĩ Richard Meier lên thay th ế
Günther Nollau nắm giữ vai trò lãnh đạo Văn Phòng B ảo Vệ Hiến Pháp (Cơ Quan Phản
Gián Tây Đức). Ông nâng cơ quan lên một mức độ chuyên nghiệp cao – quá cao để tôi có
thể vừa ý – và cho mọi người thấy rằng lòng trung thành với cơ quan quan trọng hơn
những môi liên hệ với đảng hoặc hệ phái chính trị. Ông phát động cái gọi là Chiến Dịch
Đăng Ký, một cuộc khảo sát tỉ mỉ lý lịch của tất cả những kẻ khả nghi.

Lúc đầu tôi không tài nào thấy được những thất bại của chúng tôi có điểm gì chung. Tôi
ghi trong sổ nhật ký của tôi. :

Việc rà soát lại tường tận tất cả những cuộc tái định cư và thăm viếng từ hải ngoại về đã
được cơ quan tình báoTây Đ ức khởi động, một điều cho đến nay chúng tôi nghĩ khó xảy
ra hoặc không thể thực hiện được. Điều này làm cho ta điên đầu. Dù sao đi nữa, chúng ta
phải chấp nhận một phần thất bại và kiềm chế bớt việc đưa người xâm nhập, hoặc, trong
một vài trường hợp, chấp nhận rủi ro lớn. Đây là một cuộc đấu tranh sống chết thực sự
và địch thù đang hà hơi lên trên gáy của chúng ta. Bên ngoài không ai thấy có gì bi thảm
cả, nhưng sự việc này tạo nên sự căng thẳng và bất an trong nội bộ. Ta phải có tinh thần
mạnh mẽ để sinh tồn, nhưng ta không nên quá chai lì.

Tôi không bao giờ quên đàng sau mỗi một trường hợp là một con người đã đ ặt tin tưởng
nơi chúng tôi và đem tính mạng của mình ra chiến tuyến. Một giám đốc tình báo nhẫn
tâm hy sinh điệp viên của mình để theo đuổi mục đích riêng chẳng bao lâu mất đi lòng
kính trọng và lòng tin tưởng của những người xông pha trong mặt trận vô hình.

Tôi vẫn bối rối và tiếp tục nghi vấn về phương pháp điều tra của chính quyền Tây Đức
trong lúc những tổn thất của chúng tôi gia tăng. Thường sau khi một điệp viên bị bắt ở
Tây Đức, chúng tôi bắt đầu điều tra tại bộ tham mưu vì tình nghi có kẻ nằm vùng đang
hoạt động trong lòng của ban ngành phụ trách làm giấy thông hành giả. Những nghi ngờ
như vậy là một loại độc dược nguy hại nhất trong cơ quan tình báo, phá hoại sự tin tưởng
mà tất cả công tác đặt lên trên đó và đôi khi làm nó khựng lại. Việc bắt giữ những nguồn
tin giá trị do sự bại lộ và thẩm vấn của các cán bộ điều khiển mà chúng tôi đã cài vào
Tây Đức đặc biệt gây nhiều thiệt hại. Chúng tôi phải triệu hồi nhiều điệp viên về Đông
Đức, nhưng vẫn chưa đoán được làm cách nào Tây Đức khám phá ra được những bí mật
của chúng tôi.

Trước tiên chúng tôi phải xem xét những đầu mối do một trong những nguồn tin cung
cấp về một cuộc khảo sát tỉ mỉ của phản gián tại Cologne về tất cả những chuyến du lịch
qua biên giới để vào Tây Đức. Chúng tôi được thông báo có một đội ngũ làm việc văn
phòng, phần lớn là những người về hưu, đã lập bản doanh tại các văn phòng kiểm soát
những khách viếng thăm ngoại quốc hoặc những người di chuyển từ vùng này sang vùng
khác buộc phải ghi tên nơi trú ngụ mới. Đội ngũ các ông cụ này phối hợp cẩn thận các hồ
sơ theo một số tiêu chuẩn. Chúng tôi không hình dung ra được họ tìm kiếm cái gì, mặc
dù danh từ “thanh tra lý lịch” tiếp tục xuất hiện trên tất cả những báo cáo từ Tây Đức về.
Tôi thành lập một nhóm làm việc trực tiếp báo cáo cho tôi, để tìm xem Tây Đức dùng tiêu
chuẩn nào để loại bỏ những thành phần khả nghi.

Chúng tôi đã biết những du khách phái nam độc thân vào khoảng hai mươi lăm đến bốn
mươi lăm đều có thể bị hỏi nếu họ mang một số ít hành trang hoặc nếu cách ăn mặc và
kiểu cắt tóc không ăn khớp hoàn toàn với giấy căn cước của họ. Điều chúng tôi không
biết, chỉ mãi sau này mới biết là tình báo Tây Đức để phát hiện một vài nét đặc thù của
người Đông Đức. Vào lúc phong trào híp-pi lan rộng khắp Tay Âu nhưng lại bị ngan cấm
tại Đông Âu, các chàng trai híp-pi, đặc biệt nếu phải đi đây đó, có khuynh hướng để tóc
dài. Những tân binh của chúng tôi, thường là giáo viên, đầu tác cắt ngắn, và ngay kiểu
tóc ngắn cũng khác bi ệt giữa hai nước Đức. Đối với các giáo viên Đông Đức, việc tập
luyện có thể cải thiện họ nhiều, nhưng biến họ thành một anh chàng híp-pi chân chính
gần như không thể thực hiện được.

Một khi được nhân viên bảo an xe lửa báo cho biết, những nhân viên ngụy trang nằm
tại các trạm xe lửa theo dõi hành tung của kẻ khả nghi sau khi y rời trạm. Ví dụ, rất ít
người Đông Đức có thể tự kềm chế không đánh một vòng qua các cửa hành nằm bên
cạnh trạm xe lửa để ngắm nhìn những sản phẩm không thông thường bày bán ở tủ kính,
mà người Tây Đức chẳng mấy ai để ý. Nhũng đi ểm dị biệt nhỏ này được quan sát một
cách kỹ lưỡng.

Mãi sau này chúng tôi mới khám phá ra những mưu mẹo này của Chiến Dịch Đăng Ký
sau nhiều năm bối rối. Một cách oái oăm, chính Meier là người đã ti ết lộ trò chơi này. Ông
giới tự thiệu mình là ngư ời lãnh đạo mới của tổ chức phản gián một cách khoa trương và
tuyên bố đã b ắt được mười sáu điệp viên Đông Đức đã lu ồn lọt vào Tây Đức qua ngõ các
nước thứ ba. Báo chí đề cập tổng số bốn mươi vụ điều tra tiếp theo. Những tin tức này
chấm dứt những suy đoán của chúng tôi xét xem Tây Đức làm cách nào để sàn lọc con số
chính xác người của chúng tôi đang trà trộn trong hàng trăm ngàn du khách. Meier do đó
chính thức xác nhận phương pháp ông đang dùng để khám phá những điệp viên của
chúng tôi. Mặc dù thất bại của chúng tôi đau đớn thật, nhưng chúng tôi đã tri ệu hồi được
một số những điệp viên đang lâm nguy về và đình chỉ việc xâm nhập. Nếu ông giữ im
lặng chiến thắng của ông, có thể ông buộc chúng tôi phải đoán mò trong m ột thời gian
dài phương pháp của ông. Bằng cách khoanh vùng mục tiêu để bắt giữ cẩn thận hơn
hoặc chờ đợi cho đến khi kẻ khả nghi móc nối với một loạt các nguồn tin xong rồi ông
mới ụp tới, có lẽ ông gây thiệt hại cho chúng tôi nhiều hơn nữa. Tính khoa trương của cấp
lãnh đạo cơ quan có chiều hướng tạo nên một hình ảnh mỹ miều nhưng có nguy cơ hy
sinh những thành quả của mình.

Như thói thường trong những chiến dịch chiến tranh tâm lý, Bộ Nội VụTây Đức nhanh
chóng yêu cầu các điệp viên của chúng tôi ra đầu thú trước khi bị bắt – một trò lừa bịp
thông thường trong trò chơi gián điệp giữa hai nước Đức. Tuy nhiên, thủ đoạn này không
có ảnh hưởng gì lớn. Việc cộng tác với chúng tôi là một phần lẽ sống của phần lớn các
nguồn thông tin và các điệp viên ngụy trang, và nói chung họ miễn nhiễm với những lời
mời như vậy. Đối với phần lớn các điệp viên của tôi, tính miễn nhiễm này là do sự pha
trộn giữa thành ý chính trị, một sức đề kháng – do chúng tôi nuôi dưỡng – chống lại
chiến tranh tâm lý,và ác cảm tự nhiên không muốn ra đầu thú. Tất cả mọi con người đều
muốn sống với hy vọng là mình, dù là đàn ông hay đàn bà, sẽ không phải uống chén
đắng. Và tình hình vẫn không thay đổi, ít ra cho phần lớn và nếu không được như vậy,
làm gì đi nữa cũng đã quá mu ộn để rút lui.

Hansjoachim Tiedge, một viên chức cao cấp làm việc trong Văn Phòng Bảo Vệ Hiến Pháp,
đã đào thoát sang phía chúng tôi năm 1985, nói cho chúng tôi bi ết là Cologne đã khám
phá ra không dưới hai trăm người tình nghi măng căn cước giả trong vòng mười năm.
Giữa những năm 1972 và 1982, con số tổng kết, theo sự hiểu biết của tôi, lến đến
khoảng ba mươi điệp viên của chúng tôi bị lộ, có nghĩa là b ị bắt tại Tây Đức, và gấp ba
con số điệp viên này đã được chúng tôi triệu hồi về Đông Đức kịp thời. Vì các đi ệp viên
một khi được kéo về không thể nào được dùng lại trên lãnh thổ cũ một lần nữa, Chiến
Dịch Đăng Ký đã làm cho chúng tôi ph ải mất khoảng một trăm điệp viên giá trị - một
thiệt hại lớn.

Mặc dù ông thích làm nổi đình đám, tôi ph ải phục tài Meier đã bi ết khôn khéo điều khiển
chiến dịch phá vỡ hệ thống điệp báo và các trung tâm điều khiền của chúng tôi tại Tây
Đức. Kế tiếp đó ông quay sang đánh phá cá nhân tôi và tung tin đồn tôi “sắp bị cất
chức”. Tờ International Herald Tribune in ở trang đầu cột tin “MISCHA ĐÃ M ẤT TAY
NGHỀ?” Một tờ báo phương Tây khác nằm trên bàn tôi có ghi ở trang nhất WOLF LÀM
VIỆC QUÁ ĐỘ.

Hansjoachim Tiedge

Nhưng sự thật xem ra không lấy gì làm ngoạn mục lắm; công việc vẫn tiếp tục và trong
khi chúng tôi tìm phương pháp để ứng phó với Chiến Dịch Đăng Ký, chúng tôi không
ngừng cố gắng. Tôi xét đến trường hợp của Helga Rödiger, bí danh Hannelore. Người đàn
ông đã kết nạp cô phải bị triệu hồi bởi vì anh lo cho sự an toàn của anh. Vì không muốn
mất cô, chúng tôi tìm trong hồ sơ và kiếm ra được một thí sinh Romeo khác, một điêp
viên trẻ có bí danh là Gert đã đư ợc gài xâu trên lãnh thổ Cộng Hòa Liên Bang Dức. Anh
đã lấy căn cước của một công dân Tây Dức đã di cư sang Tân Tây Lan (New Zealan d).

Tôi quyết định đích thân giám sát cặp này, một phần bởi vì tôi tò mò muốn gặp Helga,
công việc cô làm cho chúng tôi thật là xuất sắc, và một phần vì cô cho chúng tôi biết cô
đang lưỡng lự không biết chọn giữa việc thuyên chuyển cùng với cấp chỉ huy của cô sang
Bộ Tài Chánh và việc ở lại văn phòng của thủ tướng. Cô gởi một lá thư mã hóa đ ến Đông
Bá linh qua một giao liên hỏi chúng tôi cô phải làm thế nào : Một sự bối rối bất thường
của kẻ có nhiều tài vật. Một mặt , một nguồn tin tại phủ Thủ Tướng đối với chúng tôi rất
là quan trọng. Mặt khác cô đã tạo được một mối liên hệ làm việc mật thiết với cấp trên
của cô; ông tin tưởng trao phó cho cô những thông tin mật liên quan đến tài khóa và
chính sách nội bộ. Chúng tôi không nghĩ rằng cô có thể đạt được những thành quả như
vậy ở tại phủ Thủ Tướng .

Thế vận hội mùa Đông tại Innsbruck, ở nước Áo, năm 1976 tạo một lý cơ t ốt để gặp gỡ.
Helga thuê một căn nhà nghỉ mát bun-ga-lô gần làng này. Ngay lần gặp gỡ đầu tiên, cô
tuyên bố sẵn sàng chấp nhận một trong những điệp viên của chúng tôi làm người trung
gian của cô ở Tây Đức. Chúng tôi nhanh chóng giới thiệu Gert. Chúng tôi quan sát họ vào
buổi ăn tối, lòng đ ầy hy vọng, nhưng không thấy có chỉ dấu sớm họ thu hút nhau. Dù gì
đi nữa, chúng tôi đi đến quyết định Bộ Tài Chánh là một lựa chọn an toàn hơn cho cô, và
do đó cô thuyên chuyển và tiếp tục chuyển tài liệu mật cho chúng tôi.

Với thời gian, mối tình giữa Helga và Gert chớm nở. Và sau đó là một mối tình chân thật
và lâu bên. Sau này, vào năm 1979 chúng tôi phải kéo cô về, Gert cũng đư ợc triều hồi về
Đông Đức, nơi đây cuối cùng họ được tự do cưới hỏi. Lễ cưới được tổ chức tại thành phố
đầy màu sắc Wernigerode ở trên núi và tôi trở thành thượng khách danh dự, vì tôi đứng
ra làm ông mai.

Như mọi người có thể dự đoán, các điệp viên Romeo của tôi đã trở thành đề tài nghiên
cứu loạn xạ của thế giới tình báo phương Tây. H ọ cũng gây hì nh ảnh ấn tượng nơi quần
chúng. Tờ Bild-Zeitung đã ghép hình c ủa mười hai phụ nữ làm việc cho chúng tôi và đăng
ở cột nhất hàng chữ NHỮNG CÔ THƯ KÝ LÀM GIÁN ĐIỆP VÌ TÌNH. Trang bìa của một tuần
báo đăng hình m ột cái mông trần truồng có gắn huy chương Đông Đức. Tôi cảm nhận là
các cơ quan tình báo phương Tây lo s ợ về mức độ thành công của chúng tôi và rõ ràng
đang bỏ thời giờ và tiền bạc để xây dựng cho mình hình ảnh của một nạn nhân trong giới
truyền thông. Các cô thư ký lúc nào cũng đư ợc mô tả như những nạn nhân đáng thương,
bị lợi dụng, tất cả đều đứng tuổi, độc thân và thèm khát tình yêu, tứ cố vô thân rơi vào
vòng tay bất hạnh.

Để gia tăng áp lực ngăn chặn, công an Tây Đức luôn cho rằng các gián điệp Romeo lợi
dụng lòng yêu thương của đối tượng chinh phục một cách lạnh lùng, sau đó biệt tích khi
đánh hơi thấy nguy hiểm rập rình. Nhưng một bản báo cáo nội bộ do Herbert
Hellenbroïch thảo, lúc đó là phó giám đốc cơ quan phản gián Tây Đức, huỵch toẹt thú
nhận “Phần lớn những môi liên hệ chớm nở không hề có áp lực hay có tính hăm dọa. Tiền
bạc cũng không đóng m ột vai trò quan trọng. Thông thường là một cuộc đối thoại về ý
thức hệ hoặc chỉ là sự mến mộ đã thú hút những phụ nữ này.”

Sụ thực là chúng tôi hiếm khi chấm mục tiêu những Cô Gái Choàng Khăn Đỏ yếu duối và
chỉ đặc biết nhắm họ khi – như trường hợp của Söhler – chúng tôi được một trong những
nhân viên của chúng tôi mách nước. Phương thức làm việc thông thường diễn tiến như
sau: Khi chúng tôi gởi một điệp viên nam sang Tây Đức với điệp vụ đặc biệt, chúng tôi
nói với đương sự “Được rồi, anh sẽ có một cuộc sông riêng như mọi người, nhưng nếu
anh rơi vào một cô thư ký, và cô thư ký này ở vị trí tốt đẹp, điều này càng có lợi cho
chúng ta”. Những việc còn lại là do anh này quyết định. Lẽ cố nhiên không phải anh đàn
ông nào cũng tự động để các cô thư ký thu hút, nhưng quý v ị phải nhớ rằng những điệp
viên của chúng tôi là những người tuyệt đối trung thành với lý tưởng, họ quen thuộc với
những hy sinh và chấp nhận những gò bó cá nhân để thực hiện điều mà họ tin tưởng.

Trái với những lời đồn đãi, họ không được huấn luyện trong nghệ thuật yêu đương khi họ
trở về Đông Bá Linh. Một vài người giỏi hơn người khác trong vấn đề này. Họ là những
người hoạt động, ý thức được tình dục có thể làm nên nhiều chuyện. Điều này đúng trong
kinh doanh và trong nghề điệp báo bởi vì nó mở những đường dây liên lạc nhanh hơn
những lối tiếp cận khác.

Tuy nhiên tôi không diễn tả trung thực hình ảnh của họ nếu tôi không tiết lộ chi tiết
những công tác kỳ lạ và ngoạn mục trong đó các nhân viên của tôi tham dự vào. Họ là
những siêu Romeo, mỗi người một vẻ và ở những địa bàn hoạt động khác nhau. Người
thứ nhất là Roland G., ông vua bi kịch.

Roland G. là giám đốc của nhà hát nhỏ nhưng nổi tiếng ở Đông Đức tại Annaberg trên
dãy núi Erzgebirge, một nơi mà các nghệ sĩ có tài mu ốn đáp an toàn khi họ thấy làm việc
tại các nhà hát lớn ở các thành phố quá nhiều rủi ro về mặt chính trị. Anh nổi tiếng nhờ
kiệt tài diễn xuất về Faust trong vở kịch của Goethe nói về một người thèm khát trên hết
mọi sự có được kinh nghiệm quyến rũ và ru ồng bỏ một cô gái tên là Margarete. Là một
người rất thông minh, nét mặt khôi ngô và có tài thay đổi hình dáng của một nghệ sĩ,
anh đúng là một thí sĩ Romeo tuy ệt hảo. Tôi có một văn phòng chi nhánh địa phương tại
Karl-Marx-Stadt ( sau ngày thống nhất đổi tên là Chemnitz), nổi tiếng vì tài thiết kế
những kế hoạch táo bạo và những dự án kỳ dị, và những sĩ quan t ại đây nhận diện tài
năng của Roland G. và lòng yêu sống của y. Năm 1961, anh được phái đi Bonn để tiếp
cận một phụ nữ tên Margerete, một thông dịch viên tại Tham Mưu Tối Cao Lực Lượng
Đồng Minh Âu Châu (SHAPE = Supreme Headquarters Allied Powers Europe), trung tâm
chỉ huy của NATO, lúc đó đặt tại Fontainebleau gần Paris.

Vì muốn công tác có tầm vóc quốc tế, Roland G khoác căn cước của một người ngoại
quốc. Không bao lâu anh thủ một cách hoàn hảo vai trò Kai Petersen, một ký giả Đan
Mạch, nói tiếng Đức giỏi có pha giọng nói của người vùng Scandinavia. – không có vấn đề
đối với một kịch sĩ giỏi. Margerete, môt cô gái dễ thương, độc thân và rất mực tôn sùng
Thiên Chúa Giáo, làm việc cần mẫn tại NATO và sống một cuộc đời bình thản. Ba trong
số các điệp viên của chúng tôi đã th ử thời vận nhưng không tài nào chinh phục được trái
tim cô. Roland G. thuộc loại rắn rỏi. Anh tìm cách dàn xếp để đi du lịch với cô sang
Vienna, chứng tỏ mình là một người đàn ông biết chăm sóc, giới thiệu cho cô gái nhút
nhát này những hình ảnh khỏa thân khêu gợi của các danh họa Ý trưng bày t ại
Kunsthistorisches Museum (Viện Bảo Tàng Lịch Sử Nghệ Thuật), đưa cô đến Trường
Huấn Luyện Ngựa Tây Ban Nha, và cuối cùng đến quán cà-phê đắt tiền Dehmel để ăn
bánh hảo hạng và uống cà-phê Vienna – tất cả, lẽ cố nhiên, do sự đài thọ của cơ quan
tình báo chúng tôi. Đôi khi số tiền chi tiêu của đương sự làm cho cán bộ điều khiển phải
xửng sốt vì quá cao, ngay cả đối với một đối tượng như vậy, nhưng cán bộ này là một
người khôn ngoan biết rằng ngành điệp vụ cung cấp cho Roland G. một tài khoản rộng rãi
và kếch sù để y có thể hưởng những hàng thượng lưu mà y không có tại nước Đông Đức
khắt khe.

Một đêm, sau một buổi dạ hội thành công tại Burgtheater, cô đền bù công lao chăm sóc
của đương sự với một nụ hôn và những lời : “Tôi chưa bao giờ được hưởng những giây
phút đẹp đẽ như thế này với bất cứ ai trước đây”. Họ qua đêm lần đầu tiền với nhau và
sáng hôm sau anh thổ lộ hết tâm sự của mình cho cô – một vài điều thôi. Anh kể cho
người tình mới biết anh là một sĩ quan trong ngành tình báo c ủa quân đội Đan Mạch, và
giải thích những nước như Đan Mạch thường bị cho ra rìa trong khối NATO và cần có
những thông tin để dùng trong nội bộ.

Margerite chấp nhận chuyện này và rất lấy làm sung sướng khi anh nói, trong lúc công
tác, anh thường đi ngang qua Paris và mong muốn gặp gỡ nàng ở đây. Cô chấp nhận
cung cấp cho anh những tài liệu mật của NATO. Đôi lúc, anh gặp cô tại một khách sạn
nhỏ và cô tiết lộ một số chi tiết trong công việc làm, đặc biệt là những chuẩn bị và ước
tính về các vận động quân sự của liên minh. Điều này cho chúng tôi có một cái nhìn
chính xác về cách tổ chức này tự xem xét sức lực và khuyết điểm của mình, một hiểu
biết có tính cách sinh tồn cho kế hoạch của khối Hiệp Ước Warsaw. Cô cũng cung cấp cho
chúng tôi những thông tin hữu dụng về hậu cần của hải quân và lực lượng bộ binh nơi cô
đôi lúc đến làm thông dịch viên.

Chính quyền Xô Viết – chúng tôi đương nhiên chia sẻ những thông tin này cho họ - không
hài lòng với kết quả này. Họ rất muốn chiếm đoạt giải tối thượng: Các kế hoạch dàn trải
của NATO và điểm đích cùng với thời điểm chính xác của những vũ khí h ạt nhân khi họ
phát động đợt đầu tiên tấn công Tây Âu. Thống Tướng Koshevoi, tổng tư lệnh quân đội
tại Đông Đức, đã có lúc vu ốt ve lòng tự ái của tôi khi ông dỗ ngọt để tôi trao kế hoạch
chiến tranh hạt nhân của NATO.

Thống Tướng Nga Xô Viết Petr Kirillovich Koshevoi

“Các anh, người Đông Đức, rất giỏi. Có thể nào các anh lấy cho chúng tôi thêm tọa độ
không?” ông vừa nói vừa ám chỉ địa đồ chính xác các căn cứ của NATO, mà người Xô Viết
muốn triệt hạ trước tiên trong cuộc xung đột hạt nhân. Với giọng nói đầy thiện cảm
nhưng hãi hùng ông nói : “Chúng tôi ch ẳng cần những giấy tờ của các ông. Chúng tôi chỉ
cần những tọa độ đó, và chúng ta có thể thả một quả bom lên đầu chúng và xẻ đường đi
vào Tây Âu.”

Tôi buồn phiền về chuyền này, vì tôi vẫn tự hào là cơ quan của tôi có khả năng cung cấp
những thông tin phân tích có chiều sâu hơn những đường vạch chằng chịt trên sơ đồ. Tuy
nhiên, lúc trong chúng tôi muốn giúp Moscow có được hầu hết những tọa độ này, chúng
tôi không tài nào thiết lập được toàn bộ sơ đồ, có lẽ bởi vì Ngũ Giác Đài khôn ngoan
không để cho đồng minh Tây Đức nắm giữ những dữ liệu quan trọng này, vì họ nghĩ rằng
Tây Đức không ngăn ngừa được việc tiết lộ - và họ làm việc này không phải không có lý
do chính đáng.

Trong khi đó, Margerete đau khổ vì lương tâm bị giằn vật giống như nhân vật cùng tên
trong vở kịch của Goethe. Cô không còn bình tâm nữa, trái tim của cô bị cấu xé, như nhà
bi kịch nổi tiếng người Đức đã biên soạn. Chúng tôi đã phải mất một thời gian dài để
thuyết phục cô trao tài liệu chúng tôi cần ngay cả cho người cô yêu và cũng là ngư ời của
cái gọi là cơ quan tình báo Đan Mạch vô hại kia. Và lòng sùng bái Thiên Chúa Giáo La Mã
đã khiến cho cô bứt rứt không an tâm để tiếp tục một cuộc tình đi ra ngoài vòng tôn
giáo.

Điểm các điệp viên của chúng tôi giống những anh hùng trong những quyển tiểu thuyết
gián điệp là cái thú mến mộ những phụ nữ xinh đẹp và những địa điểm đài các, do đó
cặp uyên ương này hủ hỉ với nhau nhân dịp lễ Giáng Sinh và Năm Mới 1962-1963 trong
khách sạn Arosa, ở Thụy Sĩ. Nơi đây cô nói v ới anh ta là cô không muốn tiếp tục làm gián
điệp và cuộc tình lãng mạng này nếu cô không gặp được một vị linh mục để được giải tội
và có lời cầu hôn chính thức. Roland G , suy nghĩ thực tế, nói rằng việc hôn nhân không
thể thực hiện được bởi vì công việc của y ở Copenhagen buộc y phải đi xa bất cứ lúc nào
trong một thời gian dài.
Để đáp ứng ước nguyện của Margarete được xưng tội, mặc dù Roland G. biết rõ luật lệ
của Tòa Thánh La Mã về tính cách tuyệt đối cẩn mật của tòa giải tội, anh cũng bi ết rõ
một điệp viên tốt không thể chấp nhận rủi ro. Vì vậy anh nói với Margarete đợi cho đến
lúc anh kiếm ra được một vị linh mục Đan Mạch. Để làm điều nay lẽ cố nhiên anh không
kiếm ở Đan Mạch nhưng tại một chi nhánh của bộ tư lệnh cơ quan tình báo c ủa chúng tôi
tại Karl-Marx-Stadt. Tại đây lời yêu cầu của anh đã h ầu như gây náo động. Chúng tôi
phải sắn tay áo, nhưng sản xuất theo yêu cầu những linh mục nói tiếng Đan Mạch không
phải là công việc của họ. Nhưng vì Roland G. đã h ứa nên cơ quan tình báo, như m ột
trượng phu, luôn cố gắng giữ lời hứa cho một trong những nhân viên của mình.

Chúng tôi dàn xếp để tạo nên một kiểu “hôn phối Potemkin” – trên bề mặt – biến một
nhân viên của chúng tôi thành một linh mục tuyên úy. Người này được huấn luyện để
đóng vai linh mục giải tội, nhưng giọng Đan Mạch của đương sự không có, vì vậy chúng
tôi phải gởi anh đi học một khóa cấp tốc để học một vài chữ chào hỏi và tiễn đưa cho phù
hợp với sự thực và quan trong hơn nữa là thay giọng mũi ph ổ cập của người dân miền
Saxony của Đức bằng một giọng người miền Bắc Âu thích hợp hơn. Chúng tôi tìm ra được
một ngồi nhà thờ nhỏ và ít người đến trong một làng ở Jutland và chờ lúc vắng vẻ, người
của chúng tôi luồn vào trong tòa giải tội và cô Margerete được mời vào để phơi bày tâm
hồn cho đương sự nghe. Không có gì đáng ng ạc nhiên là ông linh mục này tỏ ra thông
cảm hết mức và nói nàng cứ tiếp tục làm gián điệp với phúc lành của Thượng Đế.

Tôi lo sợ tất cả màn kịch này có thể kết thúc một cách lố bịch, nhưng tôi ngạc nhiên thấy
nó thành công. Đôi lúc trong trò chơi gián điệp, những mưu chước quái gở lại thành công
trong khi đó một chước tầm thường lại thất bại. Về mặt đạo đức, tôi thường được hỏi là
tôi có cảm thấy có tội hoặc xấu hổ đã dàn dựng lên những trò ma giáo này. Xét cho
cùng, câu trả lời lương thiện là không. Nhìn lại quá khứ, chúng tôi đã không kềm hạm
được một số việc, nhưng vào lúc đó chúng tôi nghĩ rằng cứu cánh biện minh cho phương
tiện.

Mối liên hệ của chúng tôi với Margarete chấm dứt khi chúng tôi triệu hội Roland G ra khỏi
Tây Đức vì chúng tôi lo ngại anh đang bị điều tra tại đây. Trong một thời gian ngắn cô
tiếp tục làm việc với một Romeo kế tiếp, nhưng sự phối hợp này không đem lại kết quả
mong muốn. Việc tham gia điệp vụ của cô chỉ là vì yêu Roland G.. Khi anh này đi, cô
không còn động lực để tiếp tục.

Một Romeo cao thủ khác, không giống Roland G., là một người không ai nghĩ rằng anh có
vóc dáng thích hợp với vai trò này. Tên của đương sự là Herber Schröter, một tên Đức
không lấy gì làm lịch sự, tướng ta của anh là của một người đô vật: Vạm vỡ, mặt vuông
vức, vai rộng và tiếng nói oang oang. Tôi vẫn không hiểu đương sự có điều gì để quyến
rũ đàn bà đ ến như vậy, nhưng anh ta phải có một điểm gì đặc biệt, bởi vì trong suốt quá
trình hoạt động của anh, anh đã xoay xở và thuyết phục hai cô thư ký ở vị trí cao và đầy
tài năng làm gián điệp cho chúng tôi. Nhưng tiếc thay đương sự không đem may mắn
đến cho những phụ nữ có liên hệ với y. Mặc dù không phải lỗi của đương sự, cả hai người
này đều bị bắt, và mỗi lần như vậy anh lại thoát thân. Câu chuyện của anh cho thấy
những điệp vụ Romeo là những trò may rủi ngẫu hợp. Đôi lúc chiến thuật này dẫn đến
những mối tình thành thực và lâu bền, đôi lúc nó dẫn đến thảm cảnh.

Chúng tôi phái Herbert đến Alliance Française tại Paris vào đầu thập niên 1960. Cơ sở
này là nơi tuyển dụng chúng tôi ưa chuộng, nổi tiếng là nơi tập trung các cô thư ký vì các
công chức được gởi tới đây để học Pháp ngữ. Tại đây đương sự làm quen với một cô mười
chín tuổi tên Gerda Osterrieder, một cô gái hoạt bát và mảnh khảnh. Họ thân mật với
nhau và đúng thời điểm đương sự tiết lộ lý lịch thực sự của mình. Cô chấp nhận thuyên
chuyển sang Văn Phòng H ải Ngoại và trở thành nguồn cung cấp tin tức cho chúng tôi,
một công tác cô thực hiện một cách hoan hỉ và hiệu quả. Đầu năm 1966 cô làm việc tại
Telco, trung tâm giải mã của Văn Phòng Ngo ại Giao Bonn, nơi đây tất cả các điện tín từ
các tòa đ ại sứ ở các nước khác gởi về để giải mã. Ngụy trang của Herbert tại Bonn là
nhân viên thương mại.

Phương pháp làm việc tại Telco, của đáng tội, thật là cẩu thả. Lúc đó, các báo cáo đều
được gởi về bằng băng giấy của máy in điện báo. Gerda đã b ỏ vào túi sách to của cô cả
mấy cuộn băng và đem ra ngoài cơ quan mà không hề có một ai kiểm soát. Năm 1968,
cô được gởi đi Washington ba tháng để xả hơi và cô làm việc giải mã tại tòa đại sứ Tây
Đức, tại đây cô đã n ỗ lực làm việc cho chúng tôi và chuyển những báo cáo về tình trạng
liên hệ giữa Bonn và Washington cũng như nh ững nhận xét của đại sứ về chính sách nội
bộ và ngoại giao của Hoa Kỳ. Sau này cũng cùng năm đ ó, Gerda và Herbert tiếp tục nỗ
lực làm việc cho chúng tôi tại Bonn. Năm năm sau, cô được thuyên chuyển sang Warsaw.
Mối liên hệ với Herbert bị gián đoạn và cô đau khổ phải xa cách, và bắt đầu say sưa rượu
chè, nhưng chúng tôi phải giữ Herbert ở lại Tây Đức, vì một cuộc di chuyển về hướng Ba
Lan sẽ gây nên nghi ngờ.

Không may cho chúng tôi, cô tìm an ủi nơi một ký giả Tây Đức, và người này được tiết lộ
là một nhân viên phản gián ngụy trang của Bonn. Cô tiết lộ cho người này là cô chuyển
thông tin cho chúng tôi, và y thuyết phục cô nên đầu thù. Ít ra sự trung thành của cô đối
với cá nhân Herbert vẫn còn nguyên vẹn nên cô đã điện thoại cho Herbert đúng lúc. Câu
nói – “Hãy đến tìm gặp những bàn bẹ của chúng ta. Quan trọng lắm” – là một tín hiệu
báo động đã hội ước trước để đương sự đào thoát sang Đông Bá Linh trước khi lưới bủa
sập vào.

Những gì xảy ra sau đó là một loại thảm kịch thường xảy ra trong tiểu thuyết gián điệp
giả tưởng nhưng ít khi xảy ra trong công tác tình báo thực sự. Herbert trở về với chúng
tôi, thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc. Gerda bị giam giữ trong một ngôi biệt thự của đại
sứ Tây Đức tại Warsaw để không còn cơ hội tiếp xúc với các chủ nhân ông cũ. Chúng tôi
nhận được tin là hai sĩ quan tình báo Tây Đ ức đến đây để thẩm vấn cô.

Đêm hôm đó những đường dây điện thoại khẩn cấp của tôi không ngừng reo bởi vì tôi
vẫn hy vọng là Gerda sẽ thay đổi ý nghĩ và chạy về với chúng tôi. Tôi liên lạc với các
đồng nghiệp ở bên tình báo hải ngoại Ba Lan và họ đồng ý với tôi là họ sẽ làm mọi cố
gắng để ngăn trở sự ra đi của cô. Công tác này không đơn giản. Tôi luôn cảm thấy phiền
phức khi một quốc gia xã hội chủ nghĩa khác bị lôi cuốn vào chuyện điệp báo của hai
nước Đức, đặc biệt là Ba Lan, vì lòng tự ái quốc gia của họ không chấp nhận sự kiện
chúng tôi giám sát mối liên hệ của họ với Tây Đức. Ngay cả trước khi công đoàn Đoàn
Kết nổi dạy, mối quan hệ giữa Đông Bá Linh và Warsaw rất nhạy cảm, và tôi đoán không
sai là nếu công tác chúng tôi thất bại, tôi sẽ nhận được một bài học lên lớp của đồng
nghiệp Miroslav Milevski, một người quốc gia cực đoan và là giám đốc của cơ quan tình
báo hải ngoại của Warsaw, sau này trở thành bộ trưởng nội vụ Ba Lan.

Chúng tôi thiết lập một “đường dây cứu cấp” cuối cùng. Trong lúc ông trưởng phái đoàn
Tây Đức đưa nguồn tin của chúng tôi ra phi trường và đi qua trạm kiểm soát cuối cùng,
một nhân viên tình báo Ba Lan ngụy trang bước ra và mời cô đi tị nạn. Trong một thoáng
chốc Gerda do dữ và nhân viên ngoại giao khựng lại, lòng hoảng hốt vì sẽ đi vào lich sử
ngoại giao như người đã đánh mất ngay tại đây trên phi đạo một điệp viên làm việc cho
Cộng Sản, đã đầu thú. Tuy nhiên cuối cùng, Gerda lắc đầu và bước lên phi cơ của
Lufthansa.

Trở về Düsseldorf, cô bị xử vị tội gián điệp “trong một trường hợp đặc biệt nghiêm trọng”
và bị kết án ba năm tù, ngắn hơn thời hạn bình thư ờng vì cô đã khai cho Tây Đ ức những
chi tiết công việc cô đã làm trong quá kh ứ. Chúng tôi đã táo b ạo thử cứu cô nhưng đã
thất bại. Tôi phiền muộn vì tất cả những sự kiện này và nghĩ r ằng chúng tôi đã đ ể vuột
mất cuộc tình giữa Gerda và Herbert vì chúng tôi quá ngạo mạn. Hơn thế nữa, chúng tôi
bây giờ bị kẹt với Herbert, một kẻ lừa phỉnh và vụng về. Đương sự không bao giờ có thể
thích hợp với công việc ở bộ tư lệnh và đã bại lộ tung tích gián điệp vì Gerda đã tr ở về
Tây Đức. Để có thời giờ suy nghĩ, chúng tôi cho h ắn đi nghỉ hẻ ở vùng biển Hắc Hải ở
Bulgaria.

Một vài tuần sau y trở về, trông có vẻ rất là tự mãn. “Tôi nghĩ là tôi đã tìm ra đư ợc một
cô bạn gái hữu dụng khác”. Tôi ngạc nhiên vô cùng.

Trên bãi biển, y đã g ặp được một cô gái tóc nâu cực kỳ hấp dẫn tên là Dagmar Kahlig-
Scheffel. Y tự giới thiệu với một tên giả khác (y thay đổi tên quá nhiều lần trong nhiều
năm, tôi tự hỏi không biết y có nhớ hết những tên đó không). Bây giờ y tên là Herbert
Richter. Dagmar nói với y là cô đi nghỉ hè để lấy lại tinh thần sau khi đã ph ải đau khổ ly
dị. Ông Richter nói rằng đương sự cũng là ngư ời đã từng ly dị và thông hiểu nỗi đau này.
Sau đó hai người tình tứ nghỉ hè với nhau. Một buổi trưa tại phòng của cô, y lần dở một
tạp chí trong tuần và rầu rĩ nhìn th ấy một bài phóng sự dài viết về vụ xử án của Gerda.
Và trên đó có hình của đương sự đứng sát bên cạnh Gerda và đương sự xuất hiện rất rõ
nét. Người yêu của cô được mô tả qua những chi tiết khủng khiếp như là một con quỷ
hiện thân, phá hoại đời của các phụ nữ. Đương sự không còn lựa chọn nào khác là thú
nhận đương sự là điệp viên Đông Đức Schröter với cô bạn gái mới này. [ Lời dịch giả
:Margarete tên thật là Margarethe Lubig và Roland G. tên thật là Roland Pandt
(http://archiviostorico.corriere.it/1997/marzo/30/spie_dell_Est_missione_speciale_co_0_
97033013773.shtml)]

May thay, cô lại thán phục tính chất lương thiện của y và hai người vẫn tiếp tục tình tứ.
Vì Herbert là người bất hảo tại Cộng Hòa Liên Bang Đức, chúng tôi phải mời cô sang
Đông Bá Linh vào cuối tuần. Cô đang làm phụ tá cho một ký giá ở Munich, việc này đối
với chúng tôi chẳng khai thác được gì. Thời gian trôi qua, cô muốn bày tỏ lòng biết ơn vì
đã trải qua những cuối tuần êm ấm ở Đông Đức và cô không từ chối làm việc cho chúng
tôi. Chúng tôi đề nghị cô nên học tiếng Pháp và tốc ký, trả lệ phí cho cô, và ngay cả đài
thọ cho đứa bé gái của cô vào học trong một trường nội trú ở Thụy Sĩ.

Dagmar di chuyển về Bonn theo lời yêu cầu của chúng tôi, nhưng việc huấn luyện của cô
vẫn chưa hoàn tất để cô kiếm được việc làm trong chính phủ. Nhưng chúng tôi không
chịu thua – tôi nghĩ lòng kiên nh ẫn của chúng tôi vượt xa tất cả những cơ quan tình báo
khác. Cô nhận một chân phụ tá cho một giáo sư đại học. Nhờ sự gởi gắm nồng nhiệt của
ông, sau một năm làm việc với ông, cô kiếm được việc làm tại văn phòng của Thủ Tướng
Helmut Schmidt vào mùa thu năm 1975.

Những tuần lễ đầu trong một cuộc dàn trận như vậy luôn luôn căng thẳng đối với chúng
tôi ở tại Đông Bá Linh. Vòng đai an ninh đã đư ợc xiết chặt và lúc đó thời hạn thử thách
mười tuần được thực hiện, trong thời gian này lý lịch của nhân viên mới và những người
quen biết được sưu tra kỹ lưỡng. Dagmar vượt qua thử thách này một cách tốt đẹp. Lẽ cố
nhiên, chúng tôi phải ngưng những chuyến đi của cô sang Đông Bá Linh và thu xếp cho
cô gặp Herbert tại Vienna, Geneva và Innsbruck.

Chúng tôi đạt bí danh cho cô là Inge và cô làm việc cho chúng tôi nhiều năm, chuyền cho
chúng tôi những thông tin về những công việc nội bộ của nhóm ông Schmidt và tinh thần
của cấp lãnh đạo tại Bonn. Chúng tôi đặc biệt chú ý đến những báo cáo của cô về không
khí căng thẳng vào lần tiếp xúc đầu tiên của ông Schmidt với Tổng Thống Carter để bàn
về an ninh của châu Âu. Cô là một thứ ký siêng năng, đư ợc các đồng nghiệp mến chuộng
vì cô sẵn lòng giúp và ở lại trễ nếu công việc đòi h ỏi và để thay thế vào giờ phủ chót hoặc
đổi ngày nghỉ cho những đồng nghiệp bận bịu với gia đình. Trong nh ững giờ yên tĩnh này,
cô bận rộn làm việc tại phòng sao chụp, chuẩn bị những bản sao cho chúng tôi hoặc chụp
vi phim những tài liệu quan trọng lúc không có ai dòm ngó.

Mối quan hệ của cô với Herbert rất là chặt chẽ, mặc dù họ xa cách nhau trên phương diện
địa lý. Dagmar rất mong muốn làm đám cưới. Nhưng theo luật lệ thông thường của
chúng tôi, chúng tôi muốn tránh việc này, nhưng e rằng cô sẽ rời bỏ tổ chức của chúng
tôi, chúng tôi lại dàn dựng một đám cưới Potemkin khác. Chúng tôi làm căn cước Đông
Đức cho cô với tên thời con gái của cô và đưa cô từ Bonn sang Vienna để đến Đông Bá
Linh, ở đây cô được đưa đến phòng hộ tịch ở quận Lichtenberg cách không xa bộ tư lệnh
của bộ chúng tôi tại Normannenstrasse.

Tất cả mọi thủ tục đều được tiến hành. Viên chúc hộ tịch hỏi Dagmar và Herbert họ có tự
do để làm đám cưới không và đọc một bài diễn văn về sự ràng buộc trong suốt cuộc đời
và tính chất hệ trọng của đời sống vợ chồng. Họ trao đổi nhẫn cho nhau và nhạc khúc
hôn phối trổi lên. Mặc dù hai người đều ký vào sổ hôn phối, cả hai đều không biết trang
này đã bị lấy ra khỏi sổ và bị tiêu hủy sau khi họ rời cao ốc. Mãi sau này khi Dagmar
khám phá, sau khi cô bị bắt, là hôn phối của cô, vì không được ghi rõ ràng vào sổ bạ nên
không có giá trị, cô lấy làm phẫn nộ.

Sự nghiệp của cô chấm dứt vào năm 1977 mặc dù không phải do lỗi của cô. Người ta tình
nghi Peter Goslar, cán bộ điều khiển của cô ở Tây Đức, được chúng tôi cài và cho định cư
ở Düsseldorf với người vợ tên Gudrun với căn cước giả. Vợ chồng Goslar được đưa vào
Cộng Hòa Liên Bang Đức qua ngã Luân Đôn, ở đây họ được cấp căn cước Anh với tên vợ
chồng Anthony Roge. Nhưng trong một cuộc sưu tra với máy vi tính về những vụ định cư
bất bình thường từ ngoại quốc vào Tây Đức, cặp vợ chồng này đã bị phản gián Tây Đức
để ý đến. Họ bị theo dõi một thời gian, và, khi căn phòng của họ bị lúc soát, các viên
chức nhà nước tìm thấy tài liệu giấu trong giỏ trái cây và trong phòng tắm. Những tài liệu
này gồm có những ghi chú của Schmidt về một cuộc đối thoại mật với Thủ Tướng Anh
James Callaghan, và vị này đã than phiền Tòa Bạch Ốc không nắm vững tình thình ở
Châu Âu và dùng danh từ “ngạo mạn” và “ngu xuẩn” để mô tả chính quyền Hoa Kỳ.

Đội điều tra không bao lâu khám phá những ghi chú này phát xuất từ đâu. Họ quay phim
những cuộc gặp gỡ của vợ chồng Goslar với Dagmar. Kế tiếp đó khi hai vợ chồng vắng
mặt, họ lục lọi căn phòng lần nữa, tìm thấy những tài liệu tang chứng của văn phòng Thủ
Tướng Schmidt về vị thế của Tây Đức tại hội nghị kinh tế thương đỉnh tại Luân Đôn năm
1978. Dagmar bị bắt, bị xử và bị kết án bốn năm và ba tháng tù ở. Trong lần xét xử
chính bản thân tôi, tôi gặp một linh gác thâm niên tại Tòa Án Düsseldorf đã từng gặp
một số cô thư ký gián đi ệp. Cô Dagmar nổi trội hơn những người trong ký ức của ông, và
ông nói với tôi : “Cô ấy là một người đàn bà đẹp tuyệt vời từ trước tới nay tôi chưa từng
thấy”. Về phần Schröter, những ngày vinh quang đã ch ấm dứt. Đương sự phải buộc trở
về sống một cuộc sống bình lặng ở Đông Đức, không còn những ngày nghỉ thơ mộng nới
xứ lạ nữa.

Cô Gabriele Gast là một nhân vật hiếm có trong môi trường phần đông là đàn ông và đã
trở nên người phụ nữ có địa vị cao nhất trong Cơ Quan Tình Báo Liên Bang (BND), lên
đến chức vụ chuyên viên phân tích cao cấp về Liên Bang Xô Viết và Đông Âu. Những báo
cáo xâu sắc của cô về sự phát triển của khối Đông Âu thường nằm trên bàn làm việc của
Thủ Tướng Helmut Kohl. Điều mà cả ông Thủ Tướng lẫn các cấp chi huy của cô trong sở
BND đều không biết là chúng cũng n ằm trên bàn làm việc của tôi.

Trường hợp của Gaby bắt đầu bằng một mối tình Romeo, tuy nhiên tôi miễn cưỡng mô tả
cô là một Juliet vì cô là một người phụ nữ xuất sắc, đã hành đ ộng theo thâm tín và ý nghĩ
của bản thân. Xuất thân từ một gia đình trung lưu b ảo thủ, cô là thành viên của Phong
Trào Thanh Niên Dân Chủ Thiên Chúa Giáo, một tổ chức cực hữu, và năm 1968 sang
thăm viếng Đông Đức để soạn một tiểu luận về vai trò chính trị của phụ nữ tại nước Cộng
Hòa Dân Chủ Đức.

Tại Karl-Marx-Stadt, cô gặp một công nhân cơ khí tên là Karl-Heinz Schmidt; phải mất
hai mười năm cô mới biết tên thật của đương sự là Schneider. Việc gặp gỡ này không có
gì là ngẫu nhiên. Schmidt/Schneider làm việc cho Bộ Công An tại Saxony và sau này
được thăng cấp thiếu tá. Là một con người mộc mạc dễ dãi, anh có nét duyên dáng của
kẻ vô sản đặc biệt gây sự thu hút đối với các phụ nữ trung lưu được cưng chiều. Cô thấy
tên công giáo cũ kỹ của anh quá cứng rắn và trìu mến gọi anh là Karlizcek. Anh tận tình
ve vãn và đưa cô đi du ngoạn ở vùng quê, và hưởng thụ một mùa hè thơ mộng với nhau.
Sau đó anh tiết lộ thân phận thực sự của anh và giới thiệu cô lên cấp trên của mình, một
sĩ quan tình báo giàu kinh nghi ệm tên là Gotthold Schramm.

Gaby choáng ngộp vì bất ngờ thấy được tận nguồn công tác nội bộ của Đông Đức. Khi
những người mới quen biết này yêu cầu cô hợp tác với họ, cô do dự cho đến lúc họ nói cô
sẽ không còn được gặp Karlizcek nếu cô từ chối. Sau đó cô chấp nhận và trở về Tây Đức
để tiếp tục học vấn tại Aachen nhưng cô sang Đông Đức mỗi ba tháng để được huấn
luyện điệp báo và gặp người bạn trai.

Các cán bộ điều khiển của cô tại Đông Đức chưa có kế hoạch rõ rệt cho cô lúc ban đầu
nhưng dự định hướng nghiệp cô về Bonn, có lẽ vào làm việc tại một bộ nào đó. Tuy
nhiên, ở thời điểm này, chúng tôi phó thác cho số mạng. Chúng tôi không phải là những
người duy nhất chú ý đến Gaby. Người đỡ đầu luận án của cô là một giáo sư nổi tiếng với
những nghiên cứu về các quốc gia Đông Âu, ông Klaus Mehnert. Ông Mehnert có liên hệ
với cơ quan tình báo BND và ai cũng nghĩ r ằng ông là một trong những người kết nạp cho
họ trong giới đại học. Gaby là một sinh viên sáng giá của ông và khi cô trình luận án năm
1973, cô được mời nhận một chức vụ ai cũng thèm muốn là chuyên viên phân tích chính
trị tại học viện Pullach của BND gần Munich, một học viên rất được ngưỡng mộ.

Chúng tôi lẽ cố nhiên sung sướng với chuyển biến này. Chúng tôi giữ lời hứa và cho phép
cô tiếp tục thăm viếng Karlizcek. Không bao lâu họ tổ chức lễ đính hôn tại một nhà an
toàn ở Đông Âu. Schramm nhận trách nhiệm khui rượu Champagne Nga và đem theo
một băng ca-xét với những lời chúc mừng của giám đốc tình báo địa phương. Chúng tôi
luôn luôn quan tâm đến khía cạnh thơ mộng của những mối liên hệ này.
Việc làm của Gaby không thể chê chỗ nào được. Cô cung cấp cho chúng tôi một bối cảnh
chính xác về sự hiểu biết của phía Tây và những phán đoán của họ về toàn bộ khối Đông
Âu. Điều này có tầm quan trọng sinh tử đối với chúng tôi để xử lý đà tiến của Công Đoàn
Đoàn Kết tại Ba Lan vào đầu thập niên1980. Nhờ có óc quan sát tinh tế để nhận diện
những tài liệu đáng chú ý, cô là một chuyên viên phân tích xuất sắc và không ngần ngại
tìm tòi trong những núi tài liệu mật của Tây Đức nói về sự phát triển chính trị và kinh tế
trong khối Đông Âu và Liên Bang Xô Viết, và tóm tắt lại những điểm mà cô nghĩ chúng tôi
cần ở Đông Bá Linh.

Nếu chúng tôi muốn có bản chính, cô chụp vi phim và cất giấu chúng trong những chai
khử mùi hôi nách giả.Chúng tôi lúc ban đầu dạy cho cô cách cất giấu trong những bồn
nước trong nhà tiêu trên toa xe lửa di chuyển từ Munich qua biến giới để tới Đông Đức.
Sau này chúng tôi xét thấy việc này quá mạo hiểu và bất tiện để theo kịp lượng thông tin
cô cung cấp cho chúng tôi. Một người đàn bà làm giao liên sẽ đến gặp cô tại hổ tắm ở
Munich và hai người sẽ trao đổi thông tin cho nhau trong phòng thay quần áo. Những
phòng này đã đư ợc ấn định qua những điện thư mã hóa đư ợc chuyển qua đài vô tuyến
chúng tôi gởi đi từ Đông Bá Linh.

Trong nhiều năm cô cộng tác với chúng tôi, Gaby rất hài lòng với những gì cô làm trên
phương diện nghề nghiệp. Cô vẫn tiếp tục gặp người tình Karliczek vào những lần nghỉ
hè. Chúng tôi chăm sóc kỹ lượng cho đôi uyên ương này, cho họ đi nghỉ ở vùng núi Alp
hoặc trên bờ biển Địa Trung Hải. Nhưng với thời gian mối liên hệ đã đư ợc cài đặt ban đầu
không còn quan trọng đối với cô. Tôi nghĩ cô bám víu vào con ngư ời chẳng lấy gì làm đặc
biệt của Karliczek bởi vì cô thích tiện nghi xuất phát từ mối liên hệ này và cô là một phụ
nữ kiên quyết và độc lập, không thích có mối liên hệ thông thường tại quê nhà.

Cô cũng mang theo một gánh nặng tình cảm phụ trội. Chị dâu của cô nhận nuôi một đứa
bé khuyết tật nặng, nhưng xem ra quá sức chịu đựng của họ. Vì không muốn gởi đứa bé
vào một cơ quan từ thiện, Gaby chịu chăm sóc thằng bé mặc dù việc này đòi hỏi thời giờ
và năng lực của cô. Cô cũng t ỏ ra lo lắng không biết chuyện gì sẽ xảy ra cho đứa bé nếu
cô bị phát hiện. Cô có những cơn sốt lo âu và đôi khi cô nói đến việc cắt đứt liên lạc với
chúng tôi.

Tôi quyết định phải giữ cô lại và năm 1975 bất thường đích thân đến gặp cô tại
Yugoslavia. Ban đầu bầu không khí xem ra căng thẳng, bởi vì chưa có một hình ảnh nào
của tôi xuất hiện ở Tây phương và đối với cô, tôi là một cấp lãnh đạo không chân dung
của tình báo Đông Đức. Nhưng không bao lâu cô lấy lại phong độ và thảo luận với rất
nhiều nhiệt huyết về chính sách Ostpolitik và tình hình nội bộ của Đông Đức, một thực
trạng mà cô không nuôi ảo tưởng. Tôi thăm hỏi tình trạng cá nhân và đời sống của cô tại
sở làm – lẽ cố nhiên Karliczek cũng có mặt tại đó – và chúng toi cũng bàn thảo về
phương cách để cô có thể tiến thân trong cơ quan BND. Tôi cam đoan với cô là tôi sẽ giữ
tuyệt đối bí mật danh tính của trong cơ quan và hỗ trợ cho cô tối đa. Sau đó, chúng tôi
gặp gỡ nhau ở những nơi khác chẳng hạn như tại một ngôi nhà sinh sắn ở Split trên bờ
biển Dalmatia của Yugoslav, một địa điểm nghỉ mát không nghi ngại cho các điệp viên
của chúng tôi ở Tây Đức và cũng không nguy hi ểm cho tôi.

Những chiến dịch của báo giới Tây Đức nhằm đánh phá tôi và đe dọa phơi bày những
những điệp viên của chúng tôi chỉ làm cho cô quyết tâm hơn nữa và sự dấn thân về ý
thức hệ của cô mỗi lúc mạnh mẽ thêm với thời gian. Giống như nhiều thanh niên Tây Đức
đã kinh qua những phong trào phản kháng năm 1968, cô quả quyết nghĩ rằng nước Cộng
Hòa Liên Bang Đ ức đã không thực tâm giải quyết quá khứ Quốc xã. Cô có lần gởi cho tôi
một quyển sách về tòa án Nuremberg, nơi các đảng viên Quốc Xã đã t ổ chức những cuộc
tập họp quy mô và cũng là nơi sau này phe Đ ồng Minh chiến thắng đã truy t ố họ về tội
ác của họ. Cô ghi trên quyển sách : “Đám cũ v ẫn còn lấp ló đằng sau bề mặt của Canh
Tân. Ba mươi năm sau vự xử Nuremberg, cuốc đấu tranh cho Canh Tân vẫn tiếp tục”.

Tôi không dám bạo miệng nói rằng, sau lần đầu hổ hởi gặp gỡ Karliczek, Gaby có thực sự
yêu y không. Nhưng tôi biết chắc chắn là cô đã khai tri ển một loại mối tình với cơ quan
của chúng tôi. Cô tỏ ra lãng mạng trong mối quan hệ với chúng tôi và cô cảm thấy hài
lòng về mặt tình cảm cũng như trên m ặt nghề nghiệp, tính chất lãng mạng này cô không
tìm thấy trong quan hệ với những người đàn ông. Sự so sánh này có vẻ kỳ lạ, nhưng
những xa xỉ cung cấp cho một gián điệp giỏi, những chăm sóc tận tình cho phúc lợi của
các điệp viên có thể thay thế cho những mối liên hệ cá nhân. Trong trường hợp của
Gaby, yếu tố con người đặc biệt quan trọng và chúng tôi quan tâm tới việc trọng thưởng
công việc tốt của cô bằng cách đưa cô sang Đông Đức hội họp. Những việc này đã nâng
đỡ mặt tình cảm của cô và do đó tạo nên nhiều thú vị cho cô.

Cô rất mến mộ hai sĩ quan cao c ấp đã coi cô như con. Khi m ột trong hai người chết, cô
thu xếp để gởi hoa đặt lên mộ của người này ở vùng quê Đông Đức. Cảm tình của cô đối
với tôi xem ra khó phân biện hơn. Cô muốn cảm nhận tôi cần cô và tôi đích thân quan
tâm đến cô. Tôi thực sự thích cô và sự khôn ngoan và sự nhạy cảm của cô thu hút cá
nhân tôi. Đây là mối liên hệ chặt chẽ nhất tôi chưa từng có với một điệp viên.

Đôi lúc những thư tín của cô hàm chứa giọng điệu đau buồn của một tình nhân được xem
như của trời cho. Nhưng những lần viếng thăm Đông Bá Linh tạo cho cảm giác liên thuộc
một điều mà cô không tìm thấy ở chính đất nước mình. Cô đến gặp Karliczek ở Vogtland,
một vùng đẹp đẽ không xa biên giới Bavaria. Đây là cảnh thơ mộng đồng quê pha với
một ít lãng mạng của thế kỷ thứ mười chín đang phát triển mau chóng tại những vùng
hẻo lánh của Đông Đức.Cô được bà chủ nhà tên Linda chăm sóc tận tình và cô thích món
bánh bao mịn mượt vùng Vogtland và giọng địa phương khó hiểu của bà chủ nhà. Tại đây
cô được nghe chính ngôn ngữ của cô như chưa bao giờ cô được nghe và cô được nếm
món ăn Đức như chưa bao giờ cô được nếm. Những kinh nghiệm này thường quyến rũ
những người Tây Đức được chúng tôi đưa sang Đông Đức. Chúng tôi phải cân nhắc kỹ
lưỡng để tổ chức những chuyến đi này vì nó cung cấp hỗ lực tình cảm nhưng mỗi lúc
càng trở nên nguy hiểm hơn. Mỗi chuyến đi Đông Đức thật là nguy hiểm đối với nhân
viên điệp báo không được phép đến đó do vị thế nhạy cảm của họ ở Tây Đức, đặc biệt là
trong những tổ chức như BND. Lần hồi chúng tôi rút ngắn những viếng thăm này bởi vì
có nguy cơ về mặt an ninh, và điều này làm cho cô đau khổ.

Đã có lần Gaby viết cho tôi để bày tỏ những lo ngại về những mối nguy cô có thể gặp
đương khi cô được thăng tiến trong sự nghiệp tại cơ quan tình báo Tây Đ ức. Tôi cảm
nhận cô đang cầu cứu để chúng tôi hỗ trợ cho cô được vững dạ hơn nữa và tôi mời cô
sang thăm viếng Đông Đức thêm một lần nữa. Cô trả lời : “Một lần gặp gỡ và trò chuyện
với ông ở một nơi ẩn náu đượm không khí gia đình thúc đẩy và sẽ luôn luôn thúc đẩy tôi
để tôi đặc biệt hoàn tất công tác, cho dù hoàn cảnh có khó khăn đến mấy đi nữa”. Tôi
phải đương đầu với một sự kiện là, với tất cả những đức tính của cô, cô không phải là
một điệp viên dễ tính. Chúng tôi gặp nhau bảy lần trong suốt thời gian cô làm việc.

Tôi thường để ý thấy cảm giác liên thuộc với một cộng đồng đặc biệt, một nhóm ưu tú và
một câu lạc bộ bí mật đấu tranh cho một lý tưởng cao đẹp có tầm quan trọng đặc biệt
đối với những người Tây phương thuộc giới thượng trung lưu có cá tính mạnh mẽ và phức
tạp. Có lẽ điều này phần nào trả lời câu hỏi thiên hạ không ngùng đặt cho tôi về lý do tại
sao những người như vậy kéo nhau vào làm việc cho chúng tôi. Những gì chúng tôi cúng
hiến cho họ là cơ hội để họ hòa lẫn lý tư ởng với sự dấn thân của cá nhân, một điều mà
phần lớn những xã hội tân tiến không có.

Vào thập niên 1980, Gaby dồn hết nỗ lực trong việc phân tích và nghiên cứu Đông Tây
của NATO và những hệ quả của chính sách chống cộng gây hấn của Ronald Reagan. Cô
chia sẻ mối lo âu của tôi về sự trì trệ sâu đậm của khối Xô Viết sau khi Andropov chết
năm 1984. Vào lúc này A Phú Hãn đã tr ở thành gánh nặng cho Moscow. Cả hai chúng tôi
đều thấy rõ những sai lầm trầm trọng trong chính sách của Xô Viết và hậu quả của nó
trên toàn thể cộng đồng xã hội chủ nghĩa.

Tôi ngạc nhiên khi bắt đầu cuối thập niên 1970 cô nói đến viễn tượng các phong trào cải
tiến tự trị lan rộng ra ngoài Ba Lan và lây sang các quốc gia chư hầu khác. Đây là một
quan điểm gây chấn động nơi tôi nhiều hơn hết bởi nó phản ánh những nhận thức mới
chớm nở trong trí óc của tôi, và tôi chưa sẵn sàng hoặc có khả năng đẻ bày tỏ mạch lạc.
Thực tế mỗi lúc một xa rời với những lời tuyên bố của chính quyền và đi trái ngược hoàn
toàn với lý thuyết Mác Xít. Một cảm giác khó chịu đang xâm chiếm lòng tôi nhưng tôi vẫn
tiếp tục đè nén nó.

Sự nghiệp của Gaby tiến triền nhảy vọt. Lòng tin cậy cô tạo được có thể đo lường qua sự
kiện năm 1986 cô nhận trọng trách thảo một báo cáo rất nhạy cảm cho Thủ Tướng về
việc các công ty Tây Đức dường như dính líu trong việc xây cất một xưởng chế tạo vũ khí
hóa học tại Lybia. Một năm sau cô được phong phó giám đốc ban nghiên cứu chính trị Xô
Viết của cơ quan BND, một vị thế cao choáng voáng đối với một phụ nữ. Chúng tôi để
cho cô tự ý quyết định những gì cô gởi cho chúng tôi. Giống như các đồng nghiệp của cô
ở Tây Đức, chúng tôi tin tưởng hoàn toàn nơi chuyên viên của chúng tôi.

Một câu hỏi được đặt ra trong thế giới gương phản chiếu: Cô là chuyên viên phân tích của
ai đây? Tôi có thể nói là cô cung cấp cho chúng tôi và cơ quan BND những phân tích hoàn
toàn khách quan. Cô biết những điều chúng tôi quan tâm và tóm tắt những thông tin
chúng tôi cần vào những câu ngắn gọn trong những báo cáo dài bốn hoặc năm trang. Cô
lẽ cô đền bù sự thiếu vắng tình cảm bằng cách đem hết trí tuệ và năng lực vào công việc
trước mắt của cô cho dù là cho chúng tôi hay cho kẻ thù của chúng tôi. Điều quan trọng
nhất đối với chúng tôi là những gì chúng tôi tìm hiểu qua cô cơ quan BND nghĩ gì v ề khối
Đông Âu và về chúng tôi, nhờ đó chúng tôi có thể thấy giới qua con mắt của họ. Gaby
làm việc cho chúng tôi vì lòng thâm tín ở một lý tưởng, nhưng – cũng như những trường
hợp của các nguồn tin giá trị khác – công việc hoàn bị cho phía bên kia là điều kiện cần
có để có thể tiếp cận những thông tin chúng tôi muốn có.

Qua những báo cáo, chúng tôi cũng bắt được đầu mối tìm ra những điệp viên có thể do
BND gài ở Đông Đức, mặc dù đây chỉ là chuyện thứ yếu. Điều quan trọng hơn là chúng
tôi có một tầm nhìn thế giới rộng rãi hơn nh ờ cái mà BND gọi là thông tin “băng vàng”,
mà cho đến nay ít ai biết đến. Đây là kết quả của việc cơ quan BND dòm ngó chính
những đồng minh của nước Cộng Hòa Liên Bang Đức, phần lớn phát xuất từ đài nghe
mang bí danh là “Eismeer” (biển băng giá) gần Conil và Cadiz trên bờ biển Đại Tây
Dương. Sự có mặt của đài nghe là do mối liên hệ mật thiết giữa nước Đức Quốc Xã và
nước Tây Ban Nha của Franco vào những thập niên 1930; chiến dịch có bí danh là
“Delikatesse” (điều tinh tế), giám sát những đường giây liên lạc từ châu Âu sang Tây Phi
Châu và Bắc và Nam Mỹ được các Tòa Đ ại Sứ Hoa Kỳ và các trạm của CIA xử dụng. Tất
cả những bản chuyển mã của BDN liên quan đến những đồng minh của Tây Đức đều được
đánh dấu bằng một vạch vàng để không chuyển lộn cho người khác, tiết lộ cho đồng
minh biết những gì Tây Đức đã nghe lóm. Tây Đ ức, với những sĩ quan điệp báo và cảnh
sát đã đư ợc huấn luyện kỹ thuật, trên lý thuyết có thể giải mã những tín hiệu của mười
bốn nước đồng minh. Họ có mối liên hệ chặt chẽ với tình báo Turkey, và trong cuộc chiến
Falklands năm 1982 là cơ quan duy nhất giải mã đư ợc lượng thông tin vô tuyến của
Argentina cho chính quyền Anh. Tay nghề của Tây Đức và khả năng của chúng tôi cài đặt
vào đây nhờ tay của Gaby và các nguồn tin khác đã cho phép chúng tôi giảm thiểu những
cố gắng thu thập tin tình báo. Tây Đ ức dở trò bẩn thỉu dòm ngó đ ồng minh Hoa Kỳ và
chúng tôi ăn cáp những thông tin này.

Mãi sau này, sau khi n ước Cộng Hòa Dân Chủ xụp đổ và Gaby bị lộ, tôi thường mong ước
cô ấy sớm rời chúng tôi để chúng tôi – và cô ấy – có thể tẩy xóa vết tích của cô một cách
hoàn hảo hơn. Cho đến giờ phút chót cô không phạm một sai lầm nào. Đầu năm 1990,
khi chúng tôi nhận biết việc thống nhất không thể tránh được, người thừa kế của tôi mời
cô đến họp tại Salzburg để nói với cô là chúng tôi chấm dứt công tác và tất cả những tài
liệu ghi chép những cộng tác của cô đã b ị tiêu hủy.

Nhưng trên đường đi đến thống nhất, một số nhân viên cũ trong cơ quan của chúng tôi
tìm cách đ ể được miễn truy tố bằng cách bán rẻ người khác. Sự phản bội tệ hại nhất là
do một trong những sĩ quan cao c ấp của chúng tôi, Đại Tá Karl- Christoph Grossmann (
không nên lẫn lộn với người kế vị tôi làm giám đốc tình báo hải ngoại Werner Grossman).
Mặc dù đương sự không biết trực tiếp danh tính của Gaby hoặc sinh hoạt của cô, đương
sự đã nghe lỏm được trong một cuộc đối thoại là cơ quan chúng tôi cài được một người
đàn bà rất giỏi có chức vị cao trong cơ quan tình báo Tây Đ ức và cô này có một đứa con
khuyết tật.

Bấy nhiêu cũng đủ để tố cáo đích danh cô, và sau này cô bị bắt vào năm 1990 khi cô đi
qua biên giới Đức Áo để gặp lần cuối cùng các cán bộ điều khiển. Tôi nghĩ rằng họ chuẩn
bị trao cho cô một phần thưởng danh dự vì công cộng tác lâu năm. Cho đến giờ phút
chót, những dấu hiệu biết ơn có nhiều ý nghĩa đối với cô.

Đã có nhiều bình luận và có nhiều sách báo phân tích tại sao những phụ nữ này đã hành
xử như họ đã hành xử. Tất cả đều là những công dân của Tây Đức làm việc cho cơ quan
của nhà nước trước khi họ nhận làm việc cho chúng tôi. Một vài người chấp nhận lý tưởng
xã hội chủ nghĩa vì lòn g thâm tín. Nhưng phần đông thực sự yêu đương và gắn liền với
chúng tôi vì đã g ắn liền với một người đàn ông. Họ biết họ phải hy sinh mối liên hệ gia
đình và mức sống cao sang ở Tây Đức để được sống an toàn tại Đông Đức, một quốc gia
ít người biết đến và hình ảnh của quốc gia này đối với quần chúng không lấy gì làm đẹp.
Nhiều người đã lập cuộc đời mời ở đây sau khi đã ch ấm dứt công tác gián điệp.

Ursel Höfs đã phải thi hành toàn bộ án lệnh của Cộng Hòa Liên Bang Đức bởi vì cô đã t ừ
chối thu hồi đơn xin sang Đông Đức của cô sau khi cô được trả tự do. Christel Broszey và
chồng sang định cư ở vùng Thuringia ở Đông Dức và nuôi một đứa con nuôi. Sau này cô
sung sướng vì hai vợ chồng cũng sanh đư ợc một đứa con ruột. Inge Goliath cuối cùng đã
về sống bình thản với người chồng ở vùng quê ngoại ô Bá Linh. Helga Rödiger đã di
chuyển cùng với chồng đến ở Bá Linh và ở lại đây sau khi chồng chết. Tôi chỉ gặp cô có
một lần tại một buổi liên hoan sinh nhật mùa hè năm 1996.

Cuộc chuyển đổi sang một hệ thống xã hội khác phải công nhận là khó đối với các phụ nữ
này. Phương sách của chúng tôi là giúp họ sống một cách thoải mái nhưng lại bình lặng
tối đa. Sau những năm phấn khởi phục vụ cho một cơ quan tình báo, đi ều này xem ra là
một phần cảm hứng trong cuộc đời của họ. Cô Christel Broszey là một trong những người
từ chối cuộc sống bình lặng. Cô nài ép giới lãnh đ ạo đảng ở địa phương để họ tìm cho cô
một công việc đầy thách đố trong ban thiết kế của một xưởng dệt. Tại đây cô chỉ trích dữ
dội lề lối vô hiệu quả của lối quan trị xã hội chủ nghĩa và c ải tiến phương thức làm việc
trong xưởng theo kinh nghiệm của cô ở Tây Đức.

Tôi không nghĩ là phương th ức để đạt thành công của cơ quan chúng tôi khác với phương
thức làm việc của các cơ quan tình báo h ải ngoại Tây Đức. Chúng tôi không độc quyền về
việc xử dụng gián điệp Romeo. Chính quyền Tây Đức cài một điệp viên ở Hoa Kỳ mang
tên là Karl Heinz Stohlze. Năm 1990 đương sự tiếp xúc một cô thư ký k ỳ cựu làm việc
cho một công ty quốc phòng ở Boston, quyến rũ cô và có ý đ ịnh kết nạp cô để hy vọng
lấy thông tin cho Bonn về kỹ thuật phân cách di tố của Hoa Kỳ. Đương sư lén thu băng
những mẩu đối thoại trong đó cô nói rằng cô sẵn sàng làm gián điệp kỹ nghệ cho Tây
Đức. Khi cô mất bình tĩnh, đương sự hăm dọa sẽ phanh phui chuyện này với những cuộn
băng thâu lén. Sự việc kết thúc một cách hỗn loạn vì cô này dự tính tự tử.

Một chàng Romeo của cơ quan BND được phái đến Paris năm 1984 và được lệnh quyến rũ
một vị phu nhân của một viên chức Đông Đức tại UNESCO và hăm dọa để buộc bà phải
chuyển thông tin về chinh sách của Đông Bá Linh và ý đ ịnh đầu phiếu của họ tại Liên
Hiệp Quốc. Những viên chức an ninh ở tòa Đ ại Sứ chúng tôi biết được chuyện này, và cả
hai vợ chồng đều được triệu hồi trước khi xảy ra chuyện không lành cho chúng tôi. Một
trường hợp đặc biệt khác xảy ra tại Oslo cũng vào th ời điểm này. Cơ quan phản gián Na
Uy khám phá qua đường dây nghe lén điện thoại bà vợ của một đại sứ Đông Đức dính líu
trong một mối liên hệ đồng tính luyến ái với một phụ nữ Na Uy. Qua những nguồn tin
khác chúng tôi khám phá ra Tây Đức đã có kế hoạch hăm dọa tố giác bà vợ của ông đại
sứ. Cặp vợ chồng này được hối hả triệu hồi về nước.

Những chàng Romeo tôi đã mô tả trong chương này không phải là những tay Don Juan có
kinh nghiệm, cũng không hẳn là những Adonis (* lời dịch giả = Adonis là một vị thần
trong huyền thoại Hy Lạp, rất đẹp trai, được hai nữ thần Aphrodite và Perséphone mến
mộ giành giựt lẫn nhau. Vị chúa tể các thần là Zeus, để giải quyết mối tranh chấp này đã
quyết định để cho Adonis một phần ba tháng ở với Aphrodite, một phần ba ở với
Perséphone và phần còn lại ở với người mà ông thích). Họ là những người tầm thường có
thể đi trên đường phố mà chẳng ai ngoái nhìn lại. Khi tôi ngẫm nghĩ về những đóng góp
của họ cho công trình của chúng tôi và một vài hệ quả liên lụy đến họ, tôi phải thú nhận
là trong nhiều trường hợp, giá phải trả về thương tổn nhân lực quả là cao vì có những
cuộc đời bị phân ly, những trái tim tan nát và những sự nghiệp bị tiêu hủy. Tôi cũng hối
hận vì đã để mối liên hệ giữa Roland G và cô Margarete của anh trở nên quá sâu đậm và
kéo dài quá lâu. Cứu cánh không phải lúc nào cũng biện minh được cho những phương
tiện mà chúng tôi đã dùng. Nhưng tôi phiền lòng là người Tây Đức lại có giọng điệu chát
chúa dạy đời với tôi trong vấn đề này. Bao lâu còn gián điệp, bấy lâu sẽ còn những
Romeo quyến rũ bất kể những cô Juliet nào tiếp cận với những điều bí mật. Dù sao đi
nữa, tôi điều khiển một cơ quan tình báo ch ứ không phải một câu lạc bộ của những trái
tim cô đơn.
Chương 9
Hình bóng của Thủ Tướng
Thủ Tướng Willy Brandt là một người nhiệt huyết, thông minh, có tinh thần đạo đức cao,
một nhân vật nổi bật trong lịch sử hậu chiến nước Đức. Ông có những phong thái thích
hợp – ông nghiêng mình quỳ gối để tưởng nhớ đến các người Do Thái bị sát hại khi ông
đến thăm vùng ghetto ở Warsaw – và thành tâm cúng hiến sức mình để khoả lấp hố
ngăn cách giữa Đông và Tây Đức, và giữa hai thế giới Cộng Sản và Tư Bản. Chúng tôi
biết ông từ khi ông là một trong những lãnh tụ chống Cộng ở Bá Linh vào thời chiến tranh
lạnh. Khi ông trở thành lãnh đ ạo của chính phủ ở Bonn và thực thi chính sách hoà giải với
Đông Âu – lẫn Đông Đức và tất cả các nước trong khối Đông Âu – được biết là Ostpolitik,
chúng tôi có tất cả những lý do để xem xét kỹ lưỡng rằng ông thực sự muốn trở thành
đối tác của chúng tôi và không còn là kẻ thù của chúng tôi.

Việc khám phá một nhân viên điệp báo của tôi đã xâm nhập văn phòng của Thủ Tướng
Brandt đã thình lình kết thúc sự nghiệp lãnh đạo nước Đức của ông Brandt. Đây là phần
trách nhiệm của tôi và tôi vẫn cảm thấy bồi hồi sau khi ông đã qua đ ời. Câu hỏi tại sao
tôi làm điều này, kèm theo những lời trách móc « trong số những chính khách, lại nhằm
ông Brandt », là một câu hỏi tôi luôn phải đối đầu. Lẽ công bằng duy nhất mà tôi có thể
trả lại cho người quá cố Willy Brandt là giải thích từng chi tiết trong vụ việc gián điệp xấu
xa vào thời nước Đức hậu chiến đã xảy ra như thế nào và lý do tại sao.

Ngày 21 tháng 10 năm 1969 Willy Brandt, khi còn là một thị trưởng trẻ của Bá Linh đã
buồn phiền nhìn Bức Tường dựng lên trước mắt ông tám năm về trước, được bầu làm Thủ
Tướng Tây Đức. Ba tuần lễ sau, một người tên là Günter Guillaume trình diện tại văn
phòng của ông Brandt ; ông được lãnh tụ công đoàn Georg Leber gởi gắm để đảm nhiệm
chức vụ phụ tá cấp thấp cho Thủ Tướng với trọng trách liên lạc với các thương đoàn vá
các tổ chức chính trị khác, và anh nhận công việc này. Chỉ đơn giản có thế, chúng tôi cài
đặt một gián điệp bên cạnh một vị lãnh tụ của một quốc gia nằm trong mục tiêu hàng
đầu của chúng tôi.

Chúng tôi không bao giờ từ bỏ hy vọng xâm nhập đầu não của Bonn, nhưng không một ai
có thể ngờ lại có thể gần gũi đến như vậy. Tôi cũng không trông mong Guillaume, với
mật danh là Hansen, sẽ là người hoàn tất sứ mạng gián điệp lịch sử. Giống như hàng
chục thanh niên trẻ khác, Günter, đã làm việc trong ngành ấn hành tại Bá-Linh, một chi
nhánh của Bộ Công An, và người vợ Christel, đã đư ợc phái sang Tây Đức theo chỉ thị của
chúng tôi vào giữa thập niên 1950, hoà nhập vào làn sóng di dân. Bà Erna Boom, mẹ của
Christel, một công dân Hoà Lan, đã đ ịnh cư tại Frankfurt-am-Main và mở một quán bán
thuốc lá. Tôi hồi tưởng Christel là một cô thư ký toàn hảo – vững chắc, tự tin, tầm
thường. Günter, trái lại, là một người vạm vỡ, vui tính và thích hợp với đám đông.
Thủ Tướng Willy Brandt từ 1969 đến 1974

Nhờ gia thế của gia đình Christel và sự hiện diện của bà mẹ cô tại Frankfurt, cặp vợ
chồng này may mắn không phải vào những trại giành cho người Đông Đức và thoát khỏi
hàng rào hành chánh do chính quyền dựng lên để giúp cơ quan phản gián giám sát
những người mới đến. Chúng tôi quyết định để cặp vợ chồng phải cố gắng tìm cách gây
dựng sự nghiệp trong đảng SPD để làm bình phong. Cả hai vợ chồng nhanh chóng thăng
tiến trong vai trò đ ảng viên Dân Chủ Xã Hội. Mục đích của họ không phải là lên đến cấp
lãnh đạo đảng ; họ được dùng để chỉ huy những nguồn cung cấp tin tức trong đảng SPD.
Nhưng họ đã t ỏ ra năng động và cần mẫn hơn mong ước của chúng tôi.

Vợ chồng Guillaume sống trong một căn phòng ấm cúng tại Frankfurt, tại đây họ mở một
quán sao in và có một đứa con trai tên Pierre. Cả hai đều làm việc cật lực, Günter kiếm
thêm tiền với nghề ký giả chụp ảnh độc lập. Trong môi trường thiên tả của Đảng Dân Chủ
Xã Hội, chẳng bao lâu các thành viên hữu khuynh chú ý đến anh chàng Guillaume rất ư là
bảo thủ. Christel làm bước nhảy vọt đầu tiên và được cử vào chức vụ chánh văn phòng
của Willy Birkelbach đầu thập niên 1960. Birkelbach một trong những người xốc vác mà
mỗi đảng đều có để điều động các vùng. Ông là thành viên trong uỷ ban điều hành của
Đảng, là chủ tịch của Nhóm Xã Hội trong Quốc Hội Châu Âu và là thứ trưởng trong vùng
sinh quán của ông tại Hessen. Ông tiếp cận những hồ sơ chiến lược của NATO (Liên Minh
Bắc Đại Tây Dương) ví dụ như tập nghiên cứu « Diện Mạo của Chiến Tranh » và những kế
hoạch phản ứng khẩn cấp về hạt nhân.

Günter chuyển những thông tin này qua vi phim, cất giấu trong một ống xì-gà rỗng trao
cho một người giao liên giả làm khách đến tiệm của bà mẹ vợ. Chúng tôi giữ liên lạc vô
tuyến điện với họ - có phần quá đáng vào lúc ban đầu - vào những thời điểm và ngày
nhất định trong tháng, dùng một chuỗi những con số mã hoá. Sau này chúng tôi ngắn
gọn thủ tục, giảm bớt sô lượng thông điệp và thay đổi tần số để rồi Günter tuy càu nhàu
nhưng hãnh diện tìm cách giải mã những thông tin gởi đến đương sự.

Khi đảng Dân Chủ Xã Hội chuẩn phê một chương trình làm việc không theo Marx tại hội
nghị Bad Godesberg năm 1959, chúng tôi bắt đầu chú ý đến đảng này. Việc chuyển
hướng chủ trương đã thăng ti ến đảng SPD về mặt chính trị và họ có cơ hội rõ rệt để tham
gia chính phủ. Chúng tôi khuyến khích Günter tập trung vào sự nghiệp chính trị của
mình, và khoảng năm 1964 anh trở thành quản trị viên điều hành thường vụ của đảng tại
Frankfurt. Chúng tôi nhận biết sự nghiệp của đương sự tiến rất nhanh nên chúng tôi phải
cẩn thận hơn nữa trong công tác điều hành đương sự. Điểm yếu trong quá trình lý lịch
của đương sự là đương sự là người tị nạn và đào tẩu khỏi Đông Đức, đương sự được xem
không còn mối liên hệ nào với Đông Bá-Linh. Có một lần, trên đường lái xe đến một địa
điểm gặp gỡ tại một căn phòng an toàn dùng cho vi ệc này tại Đông Bá Linh, đương sự
ngừng tại một ngã tư và bắt gặp một người bạn thân đã làm vi ệc trong quá khứ tại nhà
in lái xe ngược chiều. Người này sẽ nghĩ gì n ếu y ngước nhìn và thấy anh bạn Günter
Guillaume nghe nói đã đào thoát, tr ốn đi ? Pierre cũng t ạo nên những vấn đề của tất cả
mọi đứa bé vì lời nói thẳng. Trường hợp ở đây còn khó khăn hơn vì nó vô tình t ố giác cha
nó. Trong một lần Günter ghé thăm Đông Đức, đưa bé được một sĩ quan có gi ọng đặc
biệt của vùng Saxony đưa đi dạo vườn bách thú. Khi trở về Tây Đức, Pierre bắt chước
giọng địa phương của miền Đông và hỏi Günter tại sao người này nói kiểu này. Bố của nó
cảm nhận ngay sự căng thẳng mà mọi điệp viên phải kinh qua: Nhận biết rằng đời sống
hai mặt đã tư ớc đi quyền tự do mà mọi công dân cho là đương nhiên. Đương sự đồng ý
phải chấm dứt những cuộc viếng thăm bí mật tại bộ tham mưu của chúng tôi.

Nhưng tinh thần kỷ luật và lòng trung kiên của đương sự không hề suy giảm. Đương sự
trở nên thành viên của hội đồng thành phố Frankfurt và đứng đầu nhóm SPD. Do khả
năng tổ chức của Guillaume, cùng với tư thế bảo thủ cứng rắn vào thời buổi thay đổi lớn
về ý thức hệ trong lòng đảng SPD, Georg Leber đã chú ý đến Guillaume. Georg là người
lãnh đạo công đoàn công nhân xây cất và sau này là bộ trưởng giao thông trong đại liên
minh năm 1966 – 1969 giữa đảng SPD và đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo. Ông cần một
người cổ động để giúp ông đoạt chức đại diện quốc hội trong hàng ngũ cử tri của mình
đối địch với một ứng viên thiên tả trẻ Karsten Voigt. Mặc dù ông là một khuôn mặt nặng
ký và đáng kính nể ở chức vụ lãnh đạo đảng, Leber phải khó khăn tranh đấu để được đề
cử. Cánh Tả, được cao trào thiên tả cực đoan năm 1968 hỗ trợ, nhất quyết chống lại liên
minh chính phủ của chính đảng họ với đối thủ ý thức hệ đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo.

Với sự trợ giúp hành chánh không mệt mỏi của Guillaume, Leber đắc thắng trong cuộc
bầu cử tháng 9 năm 1969. Đảng Dân Chủ Xã Hội lần đầu tiên xuất hiện là một đảng lãnh
đạo sau đệ nhị thế chiến, và tình thế rất thuận lợi cho Guillaume, người đã có công đóng
góp trong kết quả của một trong những cuộc bầu cử gay go nhất của nước Đức. Leber lập
tức hứa sẽ đưa Guillaume đi Bonn. Chúng tôi quan sát từ Đông Bá Linh và cảm thấy thích
thú và ngạc nhiên nhưng cũng có phần lo ngại. Gốc tích làm việc trong ngành in ấn của
anh ở Đông Bá Linh không còn là một bí mật nữa, nhưng trong mọi trường hợp chúng tôi
biết việc đặt để anh vào một chức vụ trong chính phủ trung ương sẽ dẫn đến một cuộc
điều tra lý lịch tỉ mỉ hơn là lúc anh chỉ là một con ong thợ làm việc trong tổ của một đảng
tại Frankfurt.

Chúng tôi ra lệnh cho Günter và Christel phải chơi trò nấn na và không nên tiến thân vào
cơ quan hành chánh mới này. Họ phải an vị đợi chờ. Như chúng tôi đã dự đoán, bánh xe
an ninh nghiền nát rất nhuần nhuyễn. Heribert Hellenbroich, sau này là giám đốc Tình
Báo Hải Ngoại của Tây Đức (Bundesnachtrichtendienst), xác nhận rằng Guillaume đã
được điều tra kỹ lưỡng hơn hết mọi người – nhưng không phát hiện điều gì đáng kh ả nghi
cả. Tuy nhiên đã có hai l ời mách mơ hồ của các chuyên viên thẩm định trong ngành phản
gián của Tây Đức (Nha Bảo vệ Hiến Pháp, Bundesamt für Verfassungsschutz – BfV) và
Horst Ehmke, đổng lý văn phòng c ủa Brandt và vì vậy chịu trách nhiệm về nhân sự tại
đây, quyết định đối chất trực tiếp với Guillaume để làm sáng tỏ những mối nghi ngờ này.

Phản ứng và phong cách của Guillaume trong lúc giải thích việc làm của mình tại nhà
phát hành Volt und Velt xem ra quá tự nhiên, sau này Ehmke ngạc nhiên nhận xét, đến
độ mọi sự nghi ngờ đều được bỏ qua. Có một người vẫn tiếp tục không tin tưởng
Guilaume, đó là Egon Bahr, cố vấn thân tín nhất của Brandt và là kiến trúc sư của chính
sách Ostpolitik. Bahr nói với Ehmke là ông phiền lòng đưa Guillaume đ ến gấn Brandt và
nói « Có thể tôi làm khó với y nhưng quá khứ của y nguy hiểm quá .»

Những đắn đo của các cơ quan an ninh đều bị dẹp sang một bên với lời giải thích rằng
việc tố giác các người Đông Đức trốn chạy sang Tây Đức rất là thông thường. Có nhiều
người di dân cảm nhận họ phải vấy bẩn lên các người đồng hương để chứng minh thành
tích chống Cộng của họ với chính quyền Tây Đức. Dù sao đi nữa, có nhiều viên chức cao
cấp trong chính phủ Tây Đức xuất phát từ Đông Đức, trong đó có Hans Dietrich Gencher,
bộ trưởng nội vụ của Brandt và là đảng viên Đảng Dân Chủ Tự Do. Mặc dù gốc gác của
ông, ông phụ trách về đường hướng chính trị của cơ quan BfV.
Các đảng viên Dân Chủ Xã Hội đơn thuần không ưa phong cách lấy lòng của Guillaume và
thói quen lẩn quẩn hậu trường trong những cuộc thảo luận không liên quan gì đ ến anh.
Xét cho cùng, điều anh làm không có gì khó hiểu cả! Nhưng ban chấp hành mới này
quyết định dứt khoát đoạn tuyệt với quá khứ. Lòng dấn thân, năng lực và động lực quan
trọng hơn con đường xây dựng sự nghiệp truyền thống thư lại. Quan điểm mới này có lợi
cho những người như Guillaume, không có trình độ học vấn cao hoặc có liên hệ gia đình
hỗ trợ đàng sau sự nghiệp chính trị. Lẽ cố nhiện việc đỡ đầu cũng c ần thiết, và anh có
một Leber tương đắc và có thế lực bên cạnh anh. Do đó vào ngày 28 tháng Giêng năm
1970, anh nhậm chức và chúng tôi không phải cố gắng nhiều, chúng tôi có người của
chúng tôi trong văn phòng của Thủ Tướng .

Guillaume xem ra là một lựa chọn tế nhị. Leber và các đoàn viên nghiệp đoàn muốn có
một người đáng tin cậy nằm trong văn phòng Thủ Tướng để thúc đẩy chương trình cải
cách xã hội và chính trị, và sau này, ông Brandt muốn có đường dây liên lạc với các công
đoàn. Một năm sau khi được bổ nhiệm, Guillaume được tiến chức vào chức vụ mới tạo lập
là trưởng văn phòng ph ụ trách liên lạc với quốc hội, các cơ quan của chính phủ và các
chức sắc tôn giáo. Một năm sau, anh được thăng chức vào ngạch công chức cao cấp và
trực tiếp chịu trách nhiệm với đổng lý văn phòng của Thủ Tướng, ông Horst Ehmke.
Ehmke không nghi ngờ khả năng của Guillaume, nhưng không bao giờ quên hẳn sự bực
dọc của ông trong việc đề cử Guillaume.

Người ta vẫn thường hỏi tôi Guillaume có giúp cho cơ quan của chúng tôi đánh giá đúng
đắn ý nghĩa của chính sách Ostpolitik của ông Brandt không. Nói cách khác, nguy cơ gây
tổn hại cho chính sách của Brandt có tương xứng với những thành quả tình báo không?
Điều mà chúng tôi mong đợi trên hết mọi sự từ nguồn tin phát xuất tại văn phòng Thủ
Tướng là những cảnh báo đúng lúc về những khủng hoảng quốc tế có thể xảy ra. Ưu tiên
của Guillaume là cảnh tỉnh. Trước khi anh đi Bonn, tôi có nói với anh và những nhân viên
đặc tình khác là chúng tôi không trông chờ chính phủ mới của ông Brandt chệch hướng ra
khỏi chính sách của NATO hoặc từ bỏ việc gia tăng vũ khí. Nhưng tôi nghĩ đi ều này có thể
tiến theo chiều hướng làm giảm bớt căng thẳng tại Châu Âu, một triển vọng chúng tôi
cần phải để ý.

Công việc của Guillaume thuần túy là chính trị và chúng tôi dùng anh để giám sát tình
hình của chính phủ Brandt, ngay từ ban đầu đã có nh ững dằng co nội bộ và bất đồng về
những ý định trong đường hướng ngoại giao, đặc biệt là đối với Cộng Hòa Dân Chủ Đức
(GDR) và Moscow. Gần đến buổi họp giữa ông Brandt và Thủ Tướng GDR Willi Stoph vào
tháng Ba năm 1970, Guillaume tiếp cận một vài kế hoạch của Tây Đức, nhờ vậy, phối
hợp với những thông tin từ các nguồn khác, chúng tôi thấy rõ những ý định và lo âu của
ông Brandt.

Günter Guillaume và Willy Brandt

Günter đã trở thành một giá trị vững vàng hơn đối với chúng tôi. Để chuẩn bị cho đại hội
của đảng SPD tại Saarbrücken vào trung tuần tháng 5 năm1970, một văn phòng chính
phủ phải được thành lập để giải quyết những công việc thường nhật của đất nước.
Guillaume đảm trách văn phòng này và ngẫu nhiên biến anh là người liên lạc giữa văn
phòng và cơ quan tình báo h ải ngoại Tây Đức! Anh thành công dễ dàng trong cuộc trắc
nghiệm này – mọi người đều khen tính hiệu dụng và khả năng làm việc mạnh mẽ của
anh – và do đó anh hoàn toàn thông qua an ninh.

Tuy nhiên, tầm quan trọng của anh đối với chúng tôi là bản năng chính trị của anh. Nhờ
sự phán đoán của Guillaume, chúng tôi có thể kết luận sớm hơn thường lệ là chính sách
Ostpolitik của Brandt, mặc dù có những mâu thuẫn, đánh dấu một cuộc thay đổi thực sự
trong chính sách ngoại giao của Tây Đức. Dưới khía cạnh này, công việc của anh giúp làm
bớt căng thẳng giữa Đông và Tây, tạo cho chúng tôi lòng tin đ ể tiếp tục tin tưởng về ý
định của ông Brandt và đồng minh.

Ngôi sao của Guillaume tiếp tự bay cao. Peter Reuschenbach, giám đốc vận động tranh
cử của đảng SPD, đang tìm m ột ghế tại quốc hội và đề nghị anh thay thế chỗ của đương
sự để chuẩn bị bầu cử cho năm 1972. Brandt vừa mới nhậm chức vào năm 1969, vì v ậy
nhiệm kỳ của ông còn lâu mới chấm dứt, nhưng việc đầu phiếu tín nhiệm tại Quốc Hội
(Bundestag) về Hiệp Ước Căn Bản với Cộng Hòa Dân Chủ Đức hầu như thất bại. Chúng
tôi giúp ông Brandt thoát hiểm bằng cách mua chuộc Julius Steiner, một đảng viên của
Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo, năm chục ngàn Đức mã đ ể mua phiếu của y, nhưng số
phiếu quá ít đã khi ến cho vị Thủ Tướng phải sớm tổ chức một cuộc bầu cử vào ngày 27
tháng Tư năm 1972. Anh nhân viên nhanh trí, làm việc không biết mệt của chúng tôi
luôn ở bên cạnh ông trong thời gian đảng Dân Chủ Xã Hội Tây Đức đi vận động tranh cử
trên chiếc xe lửa đặc biệt.

Trong suốt thời gian này anh mỗi lúc gần gũi hơn với Brandt và có cơ hội để quan sát
những yếu điểm cá nhân của ông. Không phải là một bí mật gì vì ai cũng bi ết Willy
Brandt là một người thích gái gẩm và chuyện tình của ông với nữ ký giả Wiebke Bruns
vẫn tiếp tục trong thời gian vận động tranh cử. Trừ khi bà vợ Na-Uy, tên Rut, của Brandt
có mặt trên xe lửa (trong trường hợp này bà ở ngay phòng bên cạnh), căn phòng của
Guillaume và của ông Brandt được ngăn cách vỏn vẹn bằng một bức tường mỏng.
Guillaume khám phá ông Brandt rất thường xuyên ngoại tình và thay đổi đối tượng. Vào
giờ phút này, người của chúng tôi là một thành viên tín cẩn của nhóm này, và mối lo lắng
duy nhất của chúng tôi là những cơ hội anh phải cụng ly với những đồng nghiệp chính trị
có thể làm anh mất đi sự tập trung.

Liên minh hai đảng Dân Chủ Xã Hội và Dân Chủ Tự Do đắc thắng bất ngờ trong cuộc tổng
tuyển cử năm 1972. Lần đầu tiên trong lịch sử Tây Đức, một chính phủ không có đảng
Dân Chủ Thiên Chúa Giao chiếm đa số trong quốc hội, điều này có nghĩa là chính sách
Ostpolitik sẽ được tiến hành. Trong lúc đài truyền hình trình chiếu lễ hội ăn mừng của
đảng SPD sau ngày bầu cử, chúng tôi thấy Günter vui mừng cụng ly với ông tân Thủ
Tướng Brandt cùng với tất cả đội ngũ của ông.

Mùa hè năm đó, Willy Gronau một điệp viên khác của chúng tôi, bí danh Felix, bị bắt tại
Tây Bá-Linh. Đương sự là giám đốc của cái gọi là Văn Phòng Đông c ủa Hiệp Hội Thương
Đoàn Tây Đức và là một trong những đặc tình lâu năm của chúng tôi. Anh ta bị bắt trong
lúc gặp gỡ với sĩ quan ch ủ nhiệm đến từ Đông Đức. Chúng tôi không rõ anh hay là sĩ
quan chủ nhiệm đã b ị cơ quan phản gián BND chú ý.

Guillaume và Gronau có những mối liên lạc nghề nghiệp, nhưng cả hai đều không biết
người kia là đặc tình của Đông Đức. Chúng tôi không hề nghĩ những điệp viên làm việc
hiện trường có thể biết nhau, càng không thể gặp gỡ nhau. Nhưng có lẽ có một định luật
chưa được khoa học chứng minh ghi rằng những người lý ra không thể gặp gỡ nhau lại
luôn luôn tìm gặp nhau. Gronau lúc đó đến gặp chúng tôi và báo cho chúng tôi biết
Guillaume là một đối tượng kết nạp tốt và chúng tôi nên kết nạp anh ta! Điều này gây
nên một trận cười nhưng cũng báo động tại bộ tham mưu của chúng tôi. Chúng tôi đang
tìm cách tách hai người này ra và định mệnh đã can thiệp dưới hình dáng của phản gián
Tây Đức, và tội nghiệp cho Gronau, sự nghiệp coi như kết liễu.

Vì họ quen biết nhau và cùng đứng trong mặt trận chính trị, tôi không lấy làm là chính
quyền điều tra Gronau tới hỏi Guillaume về việc này. Nhưng tư cách cố vấn thân cận Thủ
Tướng là một đảm bảo gạt bỏ những nghi ngờ khi anh mới được tuyển dụng.

Lúc này Guillaume tham dự tất cả những cuộc họp của đảng và các cấp lãnh đạo của
đảng SPD trong quốc hội. Anh học hỏi được nhiều vì anh là người kín đáo và im lặng chịu
nghe ngóng trong những lần đối thoại của Brandt trong một nhóm nhỏ. Chúng tôi gia
tăng những biện pháp an ninh để bảo vệ Guillaume hơn nữa. Mối liên lạc của chúng tôi
với anh giảm thiểu đến mức tối thiếu. Chúng tôi không gởi những thiệp chúc mừng sinh
nhật nữa; chỉ có những tin tức đặc biệt quan trọng được gởi đi, và được chuyển qua bằng
lời.

Tháng Bảy năm 1973, đợt thương thuyết đầu tiên để thành lập Hội Đồng An Ninh và Hợp
Tác Châu Âu (CSCE) bắt đầu. Henry Kissinger, lúc đó là cố vấn an ninh cho Tổng Thống
Nixon, tuyên bố một chuyển hướng chiến lược gọi là Tuyên Bố Đại Tây Dương, theo đó
những thành viên châu Âu của Liên Minh Bắc Đại Tây Dướng (NATO) chấp nhận vai trò
đại cường quốc của Hoa Kỳ trong chiến lước quốc phòng bảo vệ lục địa châu Âu. Khi
Washington tiếp tục đàm phán riêng biệt với Luân Đôn và Bonn sau lưng các đối tác đồng
minh khác nhằm đẩy mạnh tiến trình này, sự bất bình gia tăng trong nội bộ đồng minh.
Đặc biệt là nước Pháp, họ phản đối điều mà họ xem là một nỗ lực cô lập họ.

Chúng tôi không lấy làm ngạc nhiên là phần lớn các thông tin vị Thủ Tướng nhận được về
chính sách ngoại giao trong thời gian ông nghỉ mát tại Na-Uy tập trung vào những cuộc
đàm phán trong nội bộ NATO về tương lai của Tuyên Bố Bắc Đại Tây Dương, lúc đó đã
đạt đến cao điểm. Guillaume phụ trách xem xét những telex và chuẩn bị các công văn
của Brandt nhận cùng lúc với thời báo mới ra. Một đội truyền hình đ ến để quay một phim
tài liệu tại nơi nghỉ mát và tĩnh tâm c ủa Thủ Tướng gần Hamar. Người cầm máy quay
phim ghi hình ảnh Guillaume ngồi cạnh máy giải mã đang đọc nhũng công văn t elex gởi
đến và không hề biết đương sự đang quay một tay trùm gián điệp đang làm việc. Tổng
kết lại, Guillaume đã b ỏ công chép được ba thông tin tối quan trọng.

Thứ nhất, vào ngày 3 tháng 7 năm 1973, là nội dung của một lá thơ bằng tiếng Anh do
Richard Nixon gởi đến trong đó ông tìm sự trợ giúp của Brandt để áp lực Pháp phải ký lời
tuyên bố này. Lá thơ được ghi « mật » và có chữ ký của Nixon. Thứ hai là một báo cáo
chi tiết của Đại Sứ Tây Đức tại Washington nói về những đàm phán mật giữa Bộ Trưởng
Ngoại Giao Tây Đức Walter Scheel và Kissinger và Nixon cho biết là bản tuyên bố là một
áp lực có tính toán do Nixon tạo ra để củng cố sức mạnh của Hoa Kỳ trước khi có đàm
phán tại Hội Đồng An Ninh và Hợp Tác Châu Âu, và ông không thấy có lý do nào đ ể người
châu Âu phải đương nhiên chấp nhận đường hướng này. Kissinger và Nixon cũng bày t ỏ
nỗi lo âu Liên Bang Xô Viết đã có nh ững tiến triển về chiến lược hạt nhân đến mức độ
Hoa Kỳ không thể nào báo đảm một cuộc tấn công tiên trước về hạt nhân chống lại
những tiến công trên bộ của Xô Viết nếu NATO không củng cố về mặt kỹ thuật. Tài liệu
thứ ba Guillaume lấy từ máy Telex của Thủ Tướng trong đó có ghi câu trả lời lãnh đ ạm
của cố vấn trên toàn bộ vấn đề, yêu cầu Brandt tảng lờ áp lực của Hoa Kỳ và tiếp tục mối
bang giao tốt với Pháp.

Có những phát biểu tố giác Hoa Kỳ của các đồng minh châu Âu xuất phát từ máy và rơi
trực tiếp vào bàn tay hăm hở của Günter Guillaume. Anh đọc qua những lời phản bác của
người Anh đối với chiến lược của Hoa kỳ. Paris nặng lời hơn nữa ; Bộ Trưởng Ngoại Giao
Pháp Michel Jobert tố cáo Hoa Kỳ hành động như những tay lính cứu hỏa nổi lửa đốt để
có thể chạy vào cứu.

Đã đ ến lúc Brandt phải viết một lá thư cho bộ trưởng ngoại giao của mình để bày tỏ thái
độ. Nhưng ông Thủ Tướng không hài lòng với bản thảo của anh cố vấn, đã đư ợc gởi đi
Bonn, và bỏ cả giờ để sửa chữa lại và dùng đầu bút nỉ xanh. Brandt trao cho Guillaume
bản đã đư ợc sửa chữa để gửi về Bonn qua máy telex. Guillaume, viện cớ bản chính không
được gọn ghẽ để chuyển vào phòng telex với dạng bừa bãi như vậy, đã đánh l ại một bản
sạch sẽ. Không ai hỏi bản chính của Brandt đã ra sao.

Sau này, khi Guillaume ra tước tòa, chánh án biện lý nhấn mạnh sự kiện chuyển giao cho
Liên Bang Xô Viết những thông tin về sự chia rẽ trong nội bộ NATO

Có thể làm suy giảm tiềm năng ngăn chặn của NATO đối với Liên Bang Xô Viết, một tiềm
năng xác định trên quyết tâm khả tín của các quốc gia thành viên để thành lập một nền
quốc phòng chung, một sự liên đới thực thụ giữa các đồng minh và một sự quân bình
chiến lược của các lực lượng quân sự. Điều này có thể khiến Liên Bang Xô Viết trong
những chọn lựa chính trị và chiến lược dùng những biện pháp nhằm phá vỡ liên minh Tây
phương và sau này biến chúng thành những biện pháp cưỡng ép chính trị.

Trong hồi ký của mình, viết ra một phần để tạo thêm bối rối cho Bonn trong vụ việc này
(sau khi được cơ quan của tôi cho nhào nặng và thiết kế để phổ biến phản tin – để bảo
vệ những nguồn tin khác của chúng tôi – và là một hình thức quảng cáo tốt cho công việc
của chúng tôi và sự cần thiết của chúng, Guillaume nhấn mạnh việc chuyển giao những
tài liệu của Brandt cho chúng tôi là một thành quả lớn của khối tình báo Xô Viết. Anh kết
luận về ngày nghỉ mát của ông Thủ Tướng tại Na-uy :
Thánh địa trên hết các thánh địa của Bonn bây giờ nằm ở thánh địa trên hết các thánh
địa tại Bá Linh.

Qua câu nói này, anh muốn nói là sau khi đã ch ụp những tài liệu và bỏ chúng vào một cái
cặp để chuyển sang Đông Bá Linh. Lời khoe khoang này, được xem từ đó là một dữ kiện,
mấy năm về sau này đã tr ở thành một câu định mệnh đối với tôi.

Sự thất đáng tiếc, chưa bao giờ được tiết lộ, là chúng tôi không nhận được những mẩu
đối thoại thú vị này phơi bày sự rạn nứt giữa Washington và các đối tác Châu Âu trong
những chi tiết bất cẩn như thế. Đây là lý do t ại sao : Những lo lắng của chúng tôi về vợ
chồng Guillaume bắt đầu từ mùa hè 1973. Ngay sau thời gian ở lại Na Uy, Christel bắt
đầu lo sợ mình đã bị theo dõi. Lúc đ ầu chúng tôi nghi ngờ mối lo âu này. Việc thường xảy
đến cho những điệp viên nằm vùng, ngay cả đối với những tay điêu luyện, là họ bắt đầu
thấy những con chuột trắng. Trong những trạng huống hoàn toàn bình thư ờng họ bắt đầu
tưởng tượng họ bị theo dõi hoặc tất cả hành tung của họ đều bị ghi nhận.

Nhưng sự thật mỗi lúc rõ ràng. Christel nhận biết một trường hợp bị theo dõi trong vư ờn
của một quán ăn Casselruhe tại Bonn, nơi đây cô đôi lúc gặp gỡ người giao liên. Có hai
người đàn ông ngồi sát bên cạnh bàn của cô. Một người mở cái cặp sách quay về phía cô
và cô thoáng thấy một ống kính quay phim bên trong. Hôm đó chính là ngày Christel gặp
giao liên Anita và trao những tài liệu vi phim phát xuất từ Na Uy, may mắn thay việc trao
đổi đã hoàn tất trước khi hai người đàn ông đến. Hai người phụ nữ hành động một cách
điêu luyện, thản nhiên uống hết ly nước của họ và rời bàn. Khi người giao liên rảo đi
trong thành phố với vi phim giấu trong bóp, cô đoan quyết có một người đàn ông đang
theo dõi. Cô lấy chuyến xe lửa nội địa đi Cologne, tại đây cô đổi xe tram nhiều lần, lẩn và
len lỏi vào đám đông, đúng phương cách một điệp viên đã đư ợc đào luyện.
Nhưng cô không làm sao dứt được cái đuôi. Khi cô ta tìm cách vượt xa người đàn ông và
rẽ vào một góc để đến gần bờ sông, cô chọn lựa an toàn và vứt cái gói xuống sông.
Heinrich Böll đã đ ề tặng quyển tiểu thuyết mới nhất của ông , « Những Phụ Nữ trong
Phong Cảnh Sông Ngòi» cho dòng sông Rhine và tất cả những bí mất nó chuyên chở. Tôi
có thể giúp ông với ví dụ điển hình này.

Khi Guillaume bị xử, chánh án biện lý cho rằng những tài liệu Na Uy đã đến tay chúng tôi.
Chúng tôi ra lệnh anh không được nói điều gì, những chúng tôi không muốn cho chính
quyền Tây Đức bẽ cái lầm là chúng tôi đã gây tác hại tối đa. Đây cũng là vấn đề thể diện
của Guillaume. Anh cũng đã chán ngán n hững lời kết án dài lê thê, nhưng có một điều
anh lấy làm an ủi –xem ra anh cũng là m ột người có tính tự đắc– anh biết anh nổi tiếng
thế giới là siêu gián điệp Đức. Với sự đồng ý của chúng tôi, anh tạo dựng nên huyền thoại
trong quyển sách của anh là việc trao những tài liệu từ Na Uy là một thành công tuyệt
hảo của anh.

Một trong những nhược điểm của chức vụ giám đốc tình báo là không ai tin mình khi
mình có nói thật. Nhưng ở đây tôi có thể nói là mọi tìm kiếm về những tài liệu Na Uy của
ông Brandt sẽ vô bổ, không phải vì chúng đã bị thiêu hủy năm 1989. Những tài liệu này
quá cũ không n ằm trong ưu tiên để xé vụn trong lúc hoảng hốt ngày sau khi Bức Tường
xụp đổ. Chúng không có ở đó bởi vì ngay cả tôi cũng như b ất cứ nhân viên nào của tôi
chưa hề đọc qua. Tin tức duy nhất chúng tôi biết được là do những tiết lộ tình cờ của phía
Tây Đức trong lúc xét xử Guillaume. Và chúng tương đối ít so với số lượng hồ sơ liên
quan nguyên bản.
Phản gián Tây Đức có đủ chứng tích để nghi ngờ những hoạt động của Guillaume vào
mùa hè năm 1973. Một nhân viên phản gián đã chú ý đ ến cái tên Guillaume trong khi
anh theo dõi một công tác khác. Anh đã quen thu ộc với hình ảnh của Guillaume là bạn
với Willy Gronau. Không có sợi giây nào liên kết hai người này với nhau, nhưng cái tên
Pháp nổi bật này lúc nào cũng xu ất hiện. Đặc biệt nguy hại là sự kiện sĩ quan đi ều khiển
tại bộ tư lệnh của chúng tôi, đã b ị bắt cùng lúc với Gronau ở Tây Bá Linh đã không tuân
thủ quy tắc sơ đẳng trong công tác tình báo: Y đã c ất giữ trong người một miếng giấy
nhỏ trong đó y ghi một vài chữ quan trọng để nhớ. Một trong những chữ đó là Guillaume.
Y viết chữ này vì y được lệnh yêu cầu Gronau không được tiếp tục liên lạc với Günter, vì
chúng tôi thấy hai người quá thân mật.

Tên bất thường của Guillaume đóng một vai trò định mệnh. Nếu anh tên là Meyer hoặc
Schultz, tai họa đã sớm xảy đến. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên quyết định số phần của
anh. Nhân viên phản gián Tây Đức đã ghi nh ận sự trùng lập của cái tên Gullaume một
hôm ngồi cùng bàn tại nhà ăn của sở với một bạn đồng nghiệp đang theo dõi nh ững tín
hiệu vô tuyến không rõ gốc tích. Hai nhân viên này nói về công tác của mình và tình cờ
đã phá hỏng sự nghiệp của Guillaume.

Trong thập niên 1950, cơ quan của tôi đã dùng h ệ thống giải mã của Xô Viết thời Đệ Nhị
Thế Chiến để giữ liên lạc với những điệp viên ở hải ngoại. Mỗi một điện thư bắt đầu bằng
một con số để chỉ định một cá nhân riêng biệt đàn ông hay đàn bà. Hệ thống này đã bị
các cơ quan Tây phương chọc thủng từ lâu nhờ máy vi tính. Một khi đã biết rõ một con số
ám chỉ một người đàn ông hay một người đàn bà đang sinh hoạt, mỗi lần điện đều được
ghi lại và đem ra đối chiếu. Những bức điện tín này được ghi chú và cuối cùng giải mã.
Mỗi một điệp viên nhận điện tín đều có một hồ sơ riêng. Công việc còn lại của phía bên
kia là đặt tên lên những con số của người nhận.

Ngay khi chúng tôi biết được sự việc này, chúng tôi lẽ cố nhiên đổi mã số và phương cách
liên lạc. Chúng tôi đặt quy tắc chung là không bao giờ nói đến tên người, địa điểm hoặc
các cuộc hội họp trên điện đài vô tuyến. Sau khi chúng tôi đã cho kiếm soát tất cả những
điên thư vô tuyến phát đi của chúng tôi, chúng tôi đoan chắc là những điện thư gởi cho
Guillaume không để tiết lộ những chỉ dấu về tên tuổi của họ. Than ôi, chúng đã quên
phứt đi thông lệ gởi điện chúc mừng sinh nhật, Năm Mới, hoặc những sự kiện trong gia
đình. Người Đức rất chi ly đối với những vấn đề này, và đối với các điệp viên điều này
nhấn mạnh họ là một phần thân thuộc của gia đình rộng lớn của chúng tôi. Nếu chúng tôi
bớt chi ly, có lẽ Guillaume sẽ không bị lộ.

Nhiều điện thư đã được gởi đi năm 1957 cho một điệp viên có tên là G. Một điện thư để
chúc mừng G, cái thứ hai cho vợ của G. Điện thư thứ hai ghi « Chúc mừng cho Người Thứ
Hai ». Mười sáu năm sau, trong căng-tin tại Cologne, nhân viên điều tra, vẫn chăm chỉ
theo dõi những trường hợp chưa được giải quyết về những điện thư đã đư ợc chặn bắt và
anh suy nghĩ về những lời của anh bạn đồng nghiệp, nhớ lại trường hợp chưa giải quyết
của một điệp viên tên G. Điệp viên này hoạt động từ cuối thấp niên 1950, có liên hệ với
SPD và có tầm quan trọng để nhận những lời chúc mừng của những chủ nhân ông.

Nhân viên theo dõi điện thư lấy hồ sơ ra và thấy bức điện thư trêu ngươi này. Bức điện
mơ hồ nói đến người thứ hai xem ra lạ nhất. Thực ra chúng tôi gởi nó đi vào ngày sinh
nhật của Pierre, người con trai đầu tiên và duy nhất của Günter và Christel. Hai nhân
viên phản gián suy nghĩ v ề việc này một thời gian cho đến khi một trong hai người nói
rằng điện thư này nói đến ngày sinh của một đứa bé trai. Họ luc lọi trong hồ sơ của các
đảng viên SPD trong đó xuất hiện tên tuổi những người đã nằm trong những cuộc điều
tra khác. Ở đây, do vụ của Gronau, tên của Guillaume xuất hiện. Tuy vậy, chúng tôi vẫn
còn cơ may thoát hi ểm. Sau này tôi được biết nhờ Kuron, điêp viên cao cấp nằm vùng
trong cơ quan phản gián Tây Đức, là lời đề nghị đầu tiên cho rằng người này là Guillaume
bị đội điều nghiên gạt bỏ sang một bên vì Guillaume chỉ cho một con và điện thư cho biết
đứa trẻ mới sanh là đứa thư hai. Phải có đầu óc bén nhạy hoặc là một gia trưởng theo lề
lối xưa mới biết giải thích người cha theo truyền thống là người đàn ông thứ nhất trong
gia đình và đ ứa con trai đầu lòng là ngư ời đàn ông thứ hai.

Giai đoạn kế tiếp là quyết định phương pháp thu thập tang chứng rõ ràng đ ể kết tội
Guillaume đồng thời tránh gây thêm thiệt hại cho những quyền lợi của Tây phương. Có
hai lựa chọn: Tìm ngay tức khắc những bằng chứng và điều tra nhanh chóng, hoặc để
nguyên Guillaume ở vị trí cũ và giám sát những mối liên hệ của anh. Cologne chọn
phương thức thứ hai. Để tránh gây sự nghi ngờ của Guillaume, trước tiên họ theo dõi vợ
của anh, theo như đúng dự đoán của họ là những mối liên lạc của chồng với Đông Đức
phải thông qua bà. Một cuộc trao đổi vật liệu của bà với một người giao liên sẽ cung cấp
tang chứng họ còn thiếu sót.

Hans-Dietrich Genscher - Klaus Kinkel

Cho đến giờ, mọi sự vẫn bình thư ờng. Nhưng những gì xảy ra kế tiếp đã g ợi nên nghi vấn
không phải tất cả những chính trị gia đều ưa thích đường lối của Brandt. Ngày 29 tháng 5
năm 1973, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Hans-Dietrich Genscher được Günter Nollau, giám đốc
cơ quan phản gián, thông báo về trường hợp của Guillaume. Trong lời chứng sau này của
họ trước ủy ban điều tra của Quốc Hội, hai người đã trình bày hai l ời giải thích khác nhau.
Genscher và người đổng lý văn phòng Klaus Kinkel – sau này làm giám đốc cơ quan tình
báo, Bộ Trưởng Tư Pháp và cuối cùng làm Bộ Trưởng Ngoại Giao sau khi Genscher về hưu
– nhấn mạnh là Nollau chỉ nói tình nghi và không hề nói đến những tang chứng mà cơ
quan của ông đã thu thạp được trong từng chi tiết. Khi Genscher thông báo cho Brandt
về cuộc đối thoại và những đề nghị của cơ quan phản gián có ý lưu giữ Guillaume để
giám sát, hình như ông đã trình bày m ột cách ngẫu nhiên để cho Brandt biết phớt qua và
không thèm để ý tới nữa.

Nollau nhấn mạnh cho đến lúc chết là anh đã lên tiếng cảnh báo mạnh mẽ, mặc dù vậy
ông vẫn phải chịu khiển trách và từ chức. Những mâu thẫn giữa lời chứng của Bộ Trưởng
Nội Vụ và giám đốc cơ quan tình báo tạo nên lời đồn đãi là Genscher đã cố ý giảm thiểu
mức độ quan trọng của những thông tin liên quan đến trường hợp của Guillaume và đổ
hoàn toàn trách nhiệm lên đầu của Brandt, như sự việc đã xảy ra.
Klaus Kinkel, Hans-Dietrich Genscher và Henry Kissinger

Những giả thuyết khả dĩ có thể giải thích sự việc là gì? Giả thuyết thứ nhất là Genscher
đầy tham vọng, thấy rõ chính quyền Brandt gặp khủng hoảng, đặt tin tưởng vào Đảng
Dân Chủ Tự Do của mình, lúc đó nắm giữ cán cân quyền lực trong Quốc Hôi, chuyển sự
hổ trợ sang cho Đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo và đã có nh ững gặp gỡ với Helmut Kohl.
Có lẽ, chúng ta giả sử Genscher và Nollau cùng quyết định, vì những lý do chinh đáng, đã
ra lệnh không thay đổi gì cả và để sự việc vẫn tiếp tục tiến hành để tìm thêm chứng cớ
đối với Guillaume. Trong trường hợp này, Guillaume không thể nào được phép tiếp tục
đảm nhận công tác nhạy cảm làm cố vấn cho Thủ Tướng. Nếu tôi là Willy Brandt, sự tức
giận của tôi sẽ trực chỉ trước tiên và trên hết nhắm vào Genscher.

Sự kiện rõ rệt là từ khi cơ quan phản gián thông báo cho Gencsher là họ đang theo dõi
Guillaume cho đến ngày anh bị bắt, họ không tìm thấy thêm được một tang chứng nào
khác với những gì họ đã có. Trong suốt một năm, khoảng thời gian Guillaume vẫn tiếp
tục được giao phó những hồ sơ tuyệt mật, những người biết rõ bí mật này chấp nhận có
một tay gián điệp sát bên cạnh Thủ Tướng và quản lý những hồ sơ mật của chính quyền
mà lý ra họ có bổn phận phải bảo vệ. Trong lúc chúng tôi chắc chắn không muốn nổi lửa
, những người khác, trong đó có Genscher và Kinkel, đã bật diêm nổi lửa đốt cháy Brandt
và họ cho phép nó cháy quá lâu và quá mức cần thiết.

Genscher có lẽ phải đau khổ che dấu vai trò kém minh bạch của mình khi ông trình trước
Quốc Hội sau khi Guillaume bị bắt là cả một hệ thống điệp viên đã bị càn quét. Đây là
phương cách duy nhất để biện minh sự chậm trễ trong việc bắt giữ người của chúng tôi.
Vì tôi chẳng có lợi lộc gì ở đây, tôi có thể nói là câu chuyện về hệ thống gián điệp chỉ là
bịa đặt. Vợ chồng Guillaume là cặp vợ chồng gián điệp đơn độc.

Sau lần báo động của Christel, chúng tôi ra lệnh cho cô và Günter cả hai phải ngưng hoạt
động điệp báo của họ. Tại sao chúng tôi không kéo họ về ngay lập tức? Chắc chắn đây là
một sai lầm lớn vì đã không k éo họ về, nhưng đây không phải chỉ là một vấn đề bất cẩn.
Tôi suy nghĩ r ất kỹ có nên rút Günter về hay không. Nhưng phương cách theo dõi thô
thiển Christel đã làm chúng tôi cho chúng tôi l ầm tưởng nghĩ r ằng tình hình của chồng
của cô chưa đến nỗi khẩn cấp. Georg Leber lúc bấy giờ đã tr ở thành Bộ Trưởng Quốc
Phòng và đề nghị Christel làm phụ tá trong văn phòng c ủa ông. Chúng tôi biết rằng điều
này sẽ dẫn đến một cuộc kiểm soát kỹ lưỡng về an ninh và cho rằng việc theo dõi cô là
hệ quả của lời đề nghị này. Cuối cùng chúng tôi để cho cặp vợ chồng họ tự quyết định,
cho họ cơ hội để trở về Đông Đức nếu họ nghĩ r ằng họ gặp nguy hiểm. Cả hai người đều
không thấy lý do gì đ ể trở về.

Thay vào đó, chúng tôi đồng ý nên có một thời gian lắng động. Ở thời điểm này, tôi báo
cáo cho Mielke. Như tôi đã trình bày, m ối liên hệ của chúng tôi không được mặn mà và
tôi vẫn muốn bảo vệ tính cách độc lập của ban ngành của tôi và tự tôi điều khiển điệp
viên của tôi. Chỉ khi nào kế hoạch của chúng tôi có nguy cơ dẵm lên lãnh vực chính trị
của cấp lãnh đạo, tôi mới phải làm sáng tỏ vấn đề với các cấp trên của tôi. Trong trường
hợp của Guillaume, vì vị thế chính trị tế nhị của anh, tôi phải báo cáo cho ông bộ trưởng.
Mielke đồng ý việc tốt nhất là chờ đợi. Tôi nghĩ ông không hề báo chuyện này cho
Honecker hoặc người nào khác.

Trong nhiều tháng không có chuyện gì xảy ra cả, cho đến tháng Hai năm 1974. Vợ chồng
Guillaume đề nghị phục hoạt công tác tình báo, nhưng tôi khuyên h ọ nên tạm ngưng sinh
hoạt cho đến mùa Thu năm 1974.

Trong thời gian nghỉ hè ở miền Nam nước Pháp vào tháng Tư, Günter để ý thấy anh bị
một đám xe Pháp cũng như xe Đ ức giám sát theo dõi anh một cách lỗ liễu. Nhưng đến
khi anh lái xe trở về nhà lúc đêm khuya qua ngã Paris và Bỉ đoàn xe này biến mất. Đây là
một cơ hội bằng vàng. Bản năng tự vệ và khả năng đào luyện của anh lý ra đã báo cho
anh biết đây là cơ hội để đào thoát. Anh vẫn còn khả năng lựa chọn.

Nhưng báo cáo đầu tiên cho biết họ đã bị bắt vào ngày 24 tháng Tư năm 1974 đã gây bất
ngờ cho tôi cũng như cho Willy B randt. Ông Brandt biết tin ở tại phi trường khi ông trở về
sau chuyến viếng thăm Ai Cập. Guillaume rời đấu trường với nhiều phong độ, nhưng
không theo phong độ mà chúng tôi trông đợi ở một điệp viên của chúng tôi. Khi cảnh sát
đến nhà vào lúc sớm sủa ban mai với trát lệnh bắt giữ, anh hô to : « Tôi là công dân của
nước CHDC Đức và là sĩ quan. Xin quý vị tôn trọng điều này. »

Điều này thật là tai hại, bởi vì nó giống như một lời thú tội nhưng lại chưa nghe lời kết
tối. Với lời tuyên bố này, anh đã trút đi sự lúng túng của phản gián Tây Đức và các cơ
quan hình sự tư pháp vì họ không có chứng cớ đích xác để kết tội anh. Tôi không tìm
được lời giải thích về sự thú nhận này. Sau khi anh trở về Đông Đức năm 1981 và được
phép viết hồi ký cho một số độc giả giới hạn, anh giải thích phản ứng của anh là do giờ
giấc sớm sủa và sự có mặt của đứa con trai. Chắc chắn Pierre đóng một vai trò lớn trong
đời của Günter, và người cha đã chịu đau khổ vì gánh nặng phải che dấu những thâm tín
thực sự của bản thân và nghề nghiệp của mình không cho con mình biết. Pierre đã lớn
lên và trở thành Thanh Niên Xã Hội Chủ Nghĩa của một đảng tả phái, lại thấy cha mình là
một kẻ phản bội đối với lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Thâm tâm của Günter muốn nói với
Pierre : « Ta không phải là người con lầm tưởng ». Có lần tôi có nói chuyện với Günter về
khả năng bị bắt giữ và dùng những lời : «Hãy vững tin ». Có lẽ trong lúc lờ mờ sáng và
Pierrre nhìn ông một cách sững sờ, kỹ năng và bản năng của anh đã bị rối loạn.

Nhưng thực sự việc này không thể biện minh được. Một gián điệp luôn chuẩn bị tinh thần
để ứng phó với trường hợp bị bắt giữ. Chúng tôi huấn luyện nhân viên của chúng tôi rất
là nghiêm ngặt trong vấn đề này. Đứng trước mặt một sĩ quan đến bắt mình, họ chỉ trình
tên tuổi, địa chỉ và ngày sinh theo như luật pháp Tây Đức bắt buộc và không nói gì khác
nữa ngoài việc yêu cầu được liên lạc với phái bộ Đông Đức ở Bonn, và ở đây họ sẽ đề cử
một luật sư kinh nghiệm đến. Nếu tiến trình này đư ợc tuân thủ chuẩn mức, bằng chứng
kết tội hoàn toàn do chính quyền Tây Đức phải tìm ra.
Nhưng sự thật – vẫn được che dấu cho đến nay – là hôn nhân của Guillaume đã g ặp khó
khăn từ lâu trước khi anh bị bắt. Anh có một cô tình nhân và muốn bảo vệ cô này; anh
trở về từ miền Nam nước Pháp để lấy đồ đặc của anh ra khỏi căn phòng của cô ta. Đây là
một sai lầm nặng nề và cũng là m ột cử chỉ vô ích đối với người phụ nữ này, một cô thư
ký, vì cô đã t ự quyên sinh khi cô nghe anh đã b ị bắt vì tội gián điệp.

Trong trại giam tạm thời ở Cologne, Guillaume đau khổ vì cảm thấy mình thất bại và
cũng vì môi trường khắc nghiết mới này. Nhưng điệp viên bại lộ của chúng tôi đã chuộc
lại lỗi lầm trong thời gian bị giam cầm vượt lên trên mong muốn của chúng tôi. Anh từ
chối tất cả những lời dỗ ngọt muốn anh trao đổi thông tin về những điệp viên khác để đổi
lấy việc giảm án.

Guillaume đã công nh ận lỗi lầm của mình. Nhưng còn l ỗi của chúng tôi thì sao? Có phải
chúng tôi đã không coi trọng việc theo dõi sớm sủa trước đây mà chúng tôi đã bi ết?
Trong việc phòng chống gián điệp, một việc khá thông thường là chính quyền sẽ giám sát
hàng loạt những người vô tội cũng như k ẻ phạm pháp. Người ta đôi khi có cảm tưởng là
nửa thành phố Bonn được dùng để canh chừng người kia. Trong trường hợp của
Guillaume, chúng tôi bị đánh lừa vì tính chất tài tử của những vụ theo dõi. Nhưng trên
hết mọi việc chúng tôi bị ru ngủ vì sự kiện anh vẫn được phép gần gũi v ới ông Thủ
Tướng. Chúng tôi nghĩ rằng việc một gián điệp được phép tiếp tục ở lại trong một thời
gian dài trong vòng thân cận của cấp lãnh đ ạo quốc gia không thể nào xảy ra được. Ông
Brandt và tôi có cùng ý nghĩ như nhau . Trong quyền hồi ký của ông, ông Brandt than
phiền là điệp viên này đã được lưu giữ sát bên cạnh ông và nói thêm : « Thay vi bảo vệ
Thủ Tướng, họ đã biến anh này thành gián điệp xách động của chính cơ quan tình báo
nước này».
Những sai lầm nghề nghiệp mà tôi và các cộng sự viên đã phạm phải thuộc một diện
khác. Trong lúc điều nghiên những nguy cơ Guillaume có thể gặp, chúng quên hoàn toàn
những điện thư vô tuyến đã gửi đi cách đó mười lăm năm, và chúng tôi biết rõ đã bị giải
mã. Chúng tôi thực tình không nhớ đến chúng. Chỉ sau này trong lúc chính quyền Tây
Đức điều tra chúng tôi mới nhớ đến ý nghĩa định mệnh của nó.

Sau nhiều tháng trong tiến trình tố tụng, tối cao pháp viện tại Düsseldorf kết án Christel
và Günter Guillaume. Cô ta bị kết án tám năm tù ở và anh ta mười ba năm. Án lệnh này
so với các quốc gia khác được xem là nhẹ, nhưng ở tại Đức việc kết án này xem ra khá
nặng. (Án lệnh của nước Đức liên quan đến điệp vụ thông thường là ngắn vì mọi người
đều biết sức quyến rũ và nhịp độ gián điệp giữa hai nước Đức). Trong suốt thời gian thử
thách, cặp vợ chồng này đã t ỏ cho thế giới họ kiên kết với nhau và can đảm không để lộ
một sứt mẻ nào trong hôn nhân của họ để người ta có thể lợi dụng khai thác tin tức của
cả hai người.

Con của Guillaume, Pierre, hoang mang tột độ và cha của em, hầu như bấn loạn vì lo âu,
đã viết cho tôi những thư khẩn cầu, buộc tôi phải hứa trông nom đứa bé và biến y thành
một công dân mà nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức lấy làm hãnh diện. Điều dễ nói hơn làm vì
nó đòi hỏi thời gian, nhân sự và năng lực tinh thần ví như chúng tôi cần cả một ban để
phục dịch đứa bé. Lẽ cố nhiên đây không phải là lỗi của nó. Nó đã đư ợc dạy dỗ trong một
môi trường hoàn toàn khác lạ và phản độc đoán, khuyến khích cá nhân tính trong cách
ăn mặc, lời nói và phong cách. Làn sóng này may mắn thay không tràn qua Bức Tường
Bá Linh và một loại trật tự Phổ vẫn còn ngự trị trong các trường hợ ở Đông Bá Linh.
Nhưng chúng tôi tìm đư ợc trường thích hợp nhất cho nó, nơi đây các cô giao quen đối phó
với những đứa trẻ xem ra hư hỏng trong các gia đình thư ợng lưu ở Đông Đức. Những
đoàn viên trung thành và tích cực trong tổ chức Thanh Niên Đức Tự Do và những người
thiện nguyện từ các gia đình mà cơ quan tình báo xét đáng tin c ậy được lệnh đến làm
bạn với đứa bé. Tất cả chẳng đem lại kết quả gì. Pierre chẳng thèm đến trường học, và
khi nó đến, nó tỏ ra phá phách và thiếu lễ độ. Không bao lâu sau, chúng tôi kinh hãi
nghe nó nói nó muốn trở về Bonn, nơi đây nó có một cô bạn gái mà người cha là đảng
viên Bảo Thủ trong Bộ Nội Vụ. Mỗi khi Pierre lên đường sang Tây Đức để thăm cha ở
trong tù, chúng tôi nghĩ chúng tôi có th ể mất nó.

Pierre Boom (con của Günter Guillaume) 2004

Do đó chúng tôi tìm mọi phương cách để giữ nó lại. Nó thích nhiếp ảnh, cơ quan chúng
tôi mua cho nó những dụng cụ mới nhất và cho nó học nghề mà ai cũng thèm muốn tại
một nhà in màu tối tân nhất chúng tôi kiếm được. Vào đúng thời điểm, nó kiếm được một
cô bạn gái mới, người Đông Đức mà người cha là một sĩ quan trong cơ quan c ủa tôi. Một
năm sau hoặc hơn nữa, tôi được biết cả hai đứa xin phép rời Đông Đức. Chúng tôi không
tài nào thuyết phục để chúng ở lại. Chúng tôi đành chịu thua và hết sức mau chóng làm
thủ tục hành chánh để chúng ra đi, từ biệt chúng với lòng nhẹ nhõm. Tôi đã h ết sức cố
gắng giữ lời hứa với Günter, nhưng anh tỏ ra thực sự thất vọng. Phải mất nhiều năm
trước khi hai cha con hàn gắn lại được sự rạn nứt.

Chúng tôi khuyên Guillaume giữ im lặng ở trong tù trong lúc chúng tôi âm thầm tìm cách
trao đổi anh với các điệp viên Tây phương. Nhưng cơ hội để trao đổi nhanh chóng tù bình
xa dần do việc ông Brandt bó buộc phải từ chức năm 1974. Helmut Schmidt, người kế vị
ông, nhấn mạnh Guillaume phải thi hành án lệnh «cho đến ngày cuối». Vụ này đã trở
thành mộtcuộc đá bóng chính trị và không riêng gì ở Đức. Washington và Moscow cũng
nhảy vào cuộc khi Anatoly Sharansky, người đối lấp Xô Viết gốc Do Thái đang bị cầm tù,
được đề nghị đem ra trao đổi. Nỗ lực này tiếp nối nỗ lực khác và ngày tháng trôi qua làm
nản lòng các nhân viên trẻ của chúng tôi. Tranh đấu để thu hồi những điệp viên bị bắt
của chúng tôi không những là một bổn phận tinh thần nhưng còn là một phương cách
quan trọng để tạo sự vững tâm của những bạn đồng nghiệp trong những công tác nguy
hiểm ở hiện tại và trong tương lai.

Tháng Ba năm 1981, Christel Guillaume được trả tự do trong chương trình trao đ ổi đa
phương nhân viên tình báo. Án tù của Günter còn kéo dài đến tám năm nữa. Một trong
người Tây Đức liên quan đến vụ trao đổi này tố giác chính quyền Bonn đã không ra công
để bốc những nhân viên của mình ra khỏi tù Đông Đức. Việc này đã th ức đẩy năng lực
guồng máy trao đổi và Guillaume cuối cùng được trao đổi vào cuối mùa thu năm đó.
Cầu Glienicke, nơi trao đổi tù binh

Vào một ngày mùa Thu ảm đạm anh trở về quê quán, nơi anh đã khởi sự phục vụ cách
đây hai mươi lăm năm. Tôi thu xếp một cuộc tiếp tân để đón mừng anh tại một trong
những địa điểm bí mật của chúng tôi ở vùng quê. Vì muốn ngày trở về của Günter là
ngày tưởng thưởng, chúng tôi phái các cán bộ điều khiển đến gặp anh ngay tại biên giới
và đưa anh đến thẳng nhà tiếp tân. Anh mặc bộ y phục sản xuất hàng loạt không đúng
khổ được các vị cai ngục tặng làm quà từ giã. Anh đến nơi tin thần bàng hoàng vì hít thở
không khí tự do. Chúng tôi quay phim ngày trở về của anh để làm một tập tài liệu nhan
đề Sứ Mạng Hoàn Tất, sau này chúng tôi dùng trong chương trình huấn luyện. Tôi biết
anh vẫn còn buồn phiền vì đã không đư ợc trao đổi sớm sủa, vì vậy tôi muốn cho anh biết
rõ chúng tôi xem anh như một vị anh hùng.

Sau những năm tháng tù và những lo lắng cho gia đình, anh trông xanh xao và bất an.
Mặc dù vậy, anh đáp lại lời chào của tôi: « Mừng anh đã v ề, Günter, may quá thời gian
chờ đợi đã qua. ». Anh đáp lại: « Cám ơn anh đã lo m ọi sự cho tôi ». Tôi vội vàng nói
ngay là chúng tôi phải cám ơn anh mới phải, và sau đó chúng tôi trao đổi qua lại dông
dài những lời cám ơn.

Sau đó anh gặp cô vợ Christel đứng chờ anh . Mặc dù hôn nhân họ gặp nhiều khó khăn
trước đây và họ sẽ phải tiếp tục đương đầu, hai người ôm chầm lấy nhau. Không thể nào
không cảm động trước cảnh này. Chúng tôi cung cấp cho họ một nơi trú ngụ tiện nghi và
cho họ được riêng tư một vài ngày để thu xếp công việc. Christel đã cho chúng tôi bi ết là
cô không muốn trở về với Günter, và đây là một cú sốc mạnh sau bao nhiêu hy vọng hàn
gắn trở lại được nuôi dưỡng trong thời gian dài bị cầm tù.
Tinh thần và sức khỏe của anh sa sút, nhưng ước vọng của anh rất cao. Tôi nghĩ anh
mong được làm cánh tay mặt của tôi, thình lình xuất hiện trong hành lang của cơ quan
để lý giải cách điều khiển điệp viên ở Tây Âu. Nhưng đã anh đã n ằm ngoài cuộc quá lâu.
Tôi nhớ có lần tôi hỏi vị bác sĩ chăm sóc b ệnh tình của anh chúng tôi nên hành xử ra sao
với Günter. Vị bác sĩ, đã t ừng chăm sóc nhiều vị cao tuổi trong số cán bộ chính trị cao
cấp và không trông mong gì nhiều vào khả năng của họ, có đầu óc hai hước nhưng lại tỏ
vẻ nghiêm nghị, và khi tôi nói rằng điều duy nhất có thể làm hài lòng Günter là được một
ghế trong Bộ Chính Trị, ông trả lời « Ồ, thêm một người hay bớt một người cũng chẳng
có khác gì bao nhiêu ».
Sự hiện diện của phụ nữ trong những lúc như vậy rất là cần thiết, và chúng tôi phái một
cô y tá tuổi trung tuần, dễ thương, thứ nhất là đến chăm sóc bệnh thận và bệnh tuần
hoàn của Guillaume, thứ hai là để thử tình tứ. Sự việc đã thành công và không bao lâu
sau họ làm đám cưới và định cư tại một căn nhà khang trang ở vùng quê ngoại ô Bá Linh,
một món quà tưởng thưởng cho Günter vì công vụ cho đất nước Cộng Hòa.

Phương Tây đánh giá và cho rằng Guillaume mắc chứng tâm thần phân lập. Người ngoài
khó mà hiểu được một người như Guillaume lại có thể phục vụ cho hai chủ nhân hoàn
toàn tương phản mà không gánh chịu những hậu quả tai hại về tâm lý. Để đạt được mục
đích mà anh đã được lệnh ấn định, một điệp viên ẩn nấp đàng sau vai trò mình đang
đóng phải trước tiên phải gìn giữ lòng sắt son với lý tư ởng đã thúc đ ẩy mình đóng vai trò
này. Guillaume đã thành công trong nhi ệm vụ của mình khi đ ạt mục đích đến gần ông
Brandt, nhưng điều này không ngăn cấm anh kính phục con người này vì những đặc tính
cá nhân và nghề nghiệp và những thành quả ông đã gạt hái. Trong lúc tiến hành chính
sách Ostpolitik, Guillaume tin rằng anh đã trong kh ả năng của mình đóng góp sự thông
hiểu mới giữa hai bên.

Tôi vẫn luôn xác định là vụ của Guillaume không phải là nguyên nhân mà chỉ là cớ để hạ
bệ ông Brandt vào ngày 4 tháng 5 năm 1974, không bao lâu sau khi Guillaume bị bắt.
Trong hồi ký, ông Brandt cho rằng việc khám phá một gián điệp trong vòng thân cận
không thể nào là lý do để buộc ông phải từ chức. Theo nhận xét của tôi, ông là nạn nhân
của những khó khăn nội bộ của đảng SPD và một cuộc khủng hoảng lòng tin nơi cấp lãnh
đạo, phát xuất ít ra từ mô hình quyền lực tam giác mà ông chiếm một góc. Herbert
Wehner, lúc đó là nghị viên phụ trách tổ chức của đảng SPD trong quốc hội, chiếm góc
thứ hai ; và

Willy Brandt, Helmut Schmidt và Herbert Wehner

Helmut Schmidt, Bộ Trưởng Tài Chánh và là người kế vị Brandt, chiếm góc thứ ba. Những
báo cáo của Guillaume cho thấy rõ ngay trước khi xảy ra vụ tai tiếng, những kẻ thủ của
Brandt nằm trong nội bộ văn phòng của ông không kém hung hãn so với những người
được gởi đi từ Đông Bá Linh. Người mạnh nhất trong nhóm này không ai ngoài Wehner.
Wehner với vẻ mặt đanh đá và miệng lưỡi bén nhạy là một di sản của thế giới mưu mô
của phe Tả Đức thời tiền chiến, cực kỳ phân hóa giữa Dân Chủ Xã Hội và Cộng Sản trước
thế chiến. Vào thập niên 1930, ông có chức vụ trong ban lãnh đạo của Comintern, tại
đây, sau này người ta mới phát hiện, ông đã ph ản bội một vài đồng chí và tố cao họ với
NKVD (lời dịch giả : NKVD = Narodnii Komissariat Vnoutrennikh Diél, Ủy Ban Nhân Dân
Đặc Trách Nội Vụ là một cơ quan công an chính trị Stalin dùng để kiểm soát dân chúng
và guồng máy nhà nước). Trong thời chiến, tại Thụy Điển, ông bị bắt và khai hết những
hiểu biết của ông về Đảng Cộng Sản và những đảng viên làm việc tại Đức cho cảnh sát
Thụy Điển. Sau này là đảng viên đảng Dân Chủ Xã Hội hậu chiến, ông là chính trị gia cao
cấp duy nhất của Tây Đức biết rõ những thành viên của ban lãnh đ ạo Đông Đức từ những
ngày tiền chiến, trong đó có Erich Honecker. Họ xa cách nhau trên nhiều năm, trên nhiều
bí mật; họ chua cay và đổ lỗi cho nhau về số phần của nước Đức, nhưng họ đặc biệt gắn
liền với nhau vì họ có cùng một quá khứ xã hội và ý thức hệ, giúp cho họ nối liền nhịp
cầu phân chia của Chiến Tranh Lạnh. Mặc dù vóc dáng hãi hùng của ông (có người nói
nửa đùa nửa thật là các gia súc trong nhà đều chui xuống gầm ghế trường kỷ mỗi khi
ông xuất hiện trên màn ảnh truyền hình), Wehner rất thông cảm với những khó khăn
trong đời sống cá nhân của người dân vì hậu quả chia cắt nước Đức. Ông giản dị hóa thủ
tục trao đổi tù binh trong cuộc hội họp mặt đối mặt với Honecker vào tháng 5 năm 1973.
Ông sợ Liên Bang Xô Viết một cách bệnh hoạn vì những kinh nghiệm thời chiến của ông
tại đây, ông có lần thú nhận ông run sợ trước khi lên đường du hành sang Moscow lần
đầu tiên. Nhưng ông và Honecker cảm nhận thời niên thiếu của họ trong phong trào
Cộng Sản giúp họ có được mối liên hệ gần gũi gi ống như tình bạn. Tôi có thể nói cuộc
hành trình của Wehner từ chủ nghĩa Cộng Sản chuyển sang dân chủ xã hội đã đưa ông
đến gần Đông Đức hơn vào cuối cuộc đời của ông – mặc dù ông không thuận ý về mặt ý
thức hệ – bởi vì ông cảm thấy gần gũi với nước CHDC Đức dưới sự chỉ đạo của Honecker
hơn là với đảng của ông.

Ngay từ ban đầu Brandt đã nghi ngờ Wehner có liên hệ với chúng tôi, ông đoan quyết
ông bạn đồng nghiệp đang thương lượng với chúng tôi đàng sau lưng ông. Tôi nghĩ rằng
ban lãnh đạo trong Đảng Dân Chủ Xã Hội biết rõ kể từ thập niên 1950 những liên hệ kín
đáo này, nhưng tôi không rõ ông Brandt biết được ở mức độ nào và bao nhiêu chi tiết.
Brandt nghi ngờ Karl Wienand, đồng nghiệp thân cận nhất của Wehner, làm việc cho KGB
hoặc cơ quan của tôi. Đây không phải là một mối nghi ngờ vô cớ; sau ngày thống nhất,
Wienand, đã từng là thư ký của đảng SPD tại Quốc Hội Đức, bị tố cáo làm gián điệp cho
cơ quan của tôi. Tất cả

Karl Wienand

Tất cả các chính trị gia lãnh đạo của đảng SPD làm chứng trong phiên tòa xét xử
Wienand, kết thúc vào giữa năm 1996, mọi người đều xác nhận là Wehner đã dùng
Wienand để duy trì mối liên hệ với chúng tôi. Tuy nhiên, không một ai trong họ biết rõ
những chi tiết của những mối liên hệ này. (*Lời chú thích của tác giả : Wienand bị kết án
hai năm rưỡi tù ở và được lệnh phải trả tiền phạt một triệu Đức Mã. Vẫn chưa thấy đương
sự kháng án)
Thực ra, Wehner và Honecker chẳng có âm mưu bí mật gì cả và cũng ch ẳng có những
liên hệ mờ ám gì giữa Wehner và Liên Bang Xô Viết. Tuy nhiên Brandt cảm thấy bị phản
bội và mối nghi ngờ của ông đã tr ở nên gần như bệnh hoạn. Nhưng, theo ngạn ngữ xưa,
ngay cả những kẻ mắc bệnh cuồng hãi cũng có k ẻ thù và tôi quyết đoán Wehner vì lý do
chính trị đã dùng sự hiểu biết của mình về sự giám sát bất bình thư ờng – và vi hiến –
những việc riêng tư của Brandt do cảnh sát hình sự Tây Đức điều động trong lúc xảy ra
sự vụ Guillaume. Sau khi Guillaume bị bại lộ, Horst Herold, giám đốc Nha Hình Sự Liên
Bang (Cảnh Sát) (Bunderskriminalamt) viết một bản báo cáo dựa trên bản thẩm vấn của
đội bảo vệ ông Brandt về đời sống cá nhân của ông thủ tướng, một bản mục lục về
những chuyện tình ái của ông với các cô ký giả, những quen biết ngẫu nhiên và các cô
gái mãi dâm. Bản báo cáo đã trình những luận điệu cho thấy Guillaume là người trách
nhiệm tìm gái cho ông Brandt.

Guillaume lẽ cố nhiên đã luôn báo cho chúng tôi về loại phong cách này và thường có ý
định làm áp lực ông Brandt về cuộc sống cá nhân của ông. Chúng tôi chẳng bao giờ thực
hiện việc này. Trước tiên vì chúng tôi biết báo giới, vì muốn bao che cho thế giới chính trị
tại Bonn, họ sẽ không đụng đến thông tin này. Trong mọi trường hợp, điều này không
đem điều lợi nào cho chúng tôi, vì chúng tôi chẳng được lợi ích khi đánh phá ông, nhất là
vì chúng tôi biết cách ứng xử với ông, biết rất rõ về ông, và tuân theo châm ngôn của tất
cả các cơ quan tình báo: thà làm việc với tên quỷ dữ ta quen biết còn hơn là bắt đầu làm
quen với tên quỷ mới.

Vốn là người muốn tỏ ra nết na, Wehner là người đầu tiên nhận xét những hệ luy của
phong cách của Brandt và khai thác chúng. Ông thẳng thắn cảnh báo Brandt về nguy cơ
tai tiếng nếu Guillaume tiết lộ những chi tiết sốt dẻo về đời sống tình dục của vị thủ
tướng. Wehner cũng cảnh báo Brandt đã trở thành đối tượng tống tình của Đông Bá Linh
mặc dù tôi không nghĩ rằng Wehner thực sự tin việc này có thể xảy ra. Nó không đem lợi
ich nhiều cho chúng tôi và Wehner hơn hết mọi người quá biết Honecker để thực hiện
việc tống tình loại này không thích hợp với phương cách làm việc cẩn thận của lãnh tụ
Đống Đức. Helmut Schmidt lúc đó đã có tham vọng thay Brandt trong chức vụ Thủ Tướng
tỏ ra kín đáo hơn nhiều nhưng ông cũng chẳng giúp được gì. Vì vậy ông Brandt tuy được
công đồng quốc tế trọng vọng lại bị cô lập trong chính đảng phái của ông để rồi nhận biết
mình không những đã bị một cơ quan địch thủ hải ngoại dò xét kể từ khi lên cầm quyền
mà chính cành sát và cơ quan an ninh của đất nước ông còn giám sát những sơ hở của
ông và những hồ sơ của họ địch thủ có thể dùng đánh phá ông bất cứ lúc nào. Ông đã bị
lọt bẫy, và theo sự ước lượng của ông, ông chỉ còn có mỗi một nước là từ chức.

Dự đoán trước những phán ứng không thuận lợi của khối Đông Âu và của Moscow khi họ
khám phá chúng tôi do thám ông Brandt, tôi đã viết một bài nghiên cứu nhan đề “Khai
triển về Khủng Hoảng Liên Minh và Việc Brandt Từ Chức” để trình lên Honecker. Tôi đề
cập đến vấn đề này vì Brezhnev và sau này Honecker tuyên bố họ phiền lòng khi
Guillaume bị phát hiện và họ nói họ không hề biết đến chuyện này, huống chi là điệp vụ
của anh. Điều này có lẽ đúng sự thật, nhưng một tháng sau khi Brandt từ chức, tôi được
Mielke thông báo là Moscow đồng ý với quan điểm của tôi cho rằng nguồn gốc phát sinh
chuyện tai tiếng là do chuyện nội bộ chính trị của Tây Đức. Tại Đông Đức, nơi đây người
dân thường mến mộ Brandt là vì chính sách Ostpolitik có nghĩa h ọ có thể gặp lại gia đình
thân nhân của họ ở Tây Đức, việc ông bị hạ bệ không được quần chúng ủng hộ. Tại
Neustrelitz, có những bàn tay bí mật viết lên bảng chỉ đường ĐƯỜNG WILLY BRANDT, và
tại Erfurt, nơi ông Brandt đặt chân lần đầu tiên trên đất Đông Đức năm 1970, có những
bích chương vô danh lên án việc phản bội ông. Trạm bưu điện ở phiá Bắc thành phố
Güstrow tiếp nhận một bức điện tín bày tỏ thiện cảm của ba phụ nữ có y định gởi cho
Brandt , ghi như sau : “Chúng tôi hy vọng người kế vị ông có can đảm hoàn thành tốt
đẹp tiến trình ông đã kh ởi động”. Mặc dù vậy, tôi khó có thể quên được việc hạ bệ ông là
một thảm họa cho cả hai bên Đông và Tây Đức và cơ quan của tôi đã bị khiển trách.

Ngược lại, có quan điểm cho rằng việc xâm nhập của Guillaume vào phủ Thủ Tướng là
thành quả lớn nhất của tôi. Những người ngưỡng mộ ông Willy Brandt – số người này rất
lớn ở tại Đông Đức cũ – không tha thứ cho tôi vì vai trò của tôi trong sự xụp đổ của ông.
Vì lý do này và đ ồng thời để cho mọi người biết, tôi phải nhấn mạnh là tôi xem trường
hợp của Guillaume là một thất bại lớn nhất mà tôi phải gánh chịu vào lúc đó. Vai trò c ủa
chúng tôi trong việc hạ bệ ông Brandt tương đương với việc xút bóng vào chính khung
thành của phe ta. Nhưng một khi chuỗi biến cố đã v ận chuyển, chúng có sức năng động
riêng của chúng. Tôi phải kêu chúng ngừng ở giai đoạn nào?

Mối liên hệ giữa chính trị và tình báo thông thư ờng là khó khăn. Từ lúc Andropov lên cầm
quyền tại Moscow và dưới thời của Gorbachev, đường hướng căn bản là việc do thám tình
báo không được phép gây trở ngại cho không khí hòa hoãn. Cùng vào lúc đó, h ọ lại gia
tăng áp lực để buộc chúng tôi tìm ra những bí mật của NATO. Chúng tôi, giống như ngạn
ngữ của nước Nga cổ xưa có nói, phải tắm rửa cho con gấu nhưng không để cho bộ lông
nó bị ướt. Một trong những phương pháp để tránh không bị chỉ trích trong trường hợp
này là tuyệt đối không làm gì cả. Mốt số bạn đồng nghiệp của tôi đã áp dụng chiêu thức
này, họ không đạt được thành quả lớn nhưng họ có một cuộc sống an bình. Thành công
có hai mặt tưởng thưởng và trừng phạt.

Hai tuần lễ sau khi ông Brandt từ chức, tôi cố gắng an định tâm thần và viết trong nhật
ký :

“B. đã để lại dấu ấn của mình trên thời đại của chúng ta và hướng đi của nó. Công trình
của ông không nhỏ. Ông được thiên hạ kính nể phần lớn chính là sự yếu đuối của ông
trong môi trường chính trị thực tế. Vì vậy, đột nhiên, chúng ta đã phải đóng vai trò
Nemesis bất đắc dĩ (lời dịch giả : Nemesis là một nữ thần trong huyền thoại Hy Lạp biểu
tượng cho sự rửa hận và công lý cào bằng, văn hóa Tây Âu dùng danh từ Nemesis để ám
chỉ kẻ thù không đội trời chung).

Bây giờ quý vị có thể tự hỏi công sức đầu tư vào việc này có quá nhiều không, nguy cơ có
quá lớn không khi chúng tôi lưu giữ Guillaume tại văn phòng của ông Brandt. Người lãnh
đạo phải luôn nhớ rằng tình hình có thể trở nên xấu và ước định giá phải trả khi thất bại
ngay từ ban đầu . Nhưng điều này thực hiện được không? Phải ngừng lại ở nơi nào? Hậu
quả tất yếu là dẹp tất cả các cơ quan tình báo. Đi ều này theo tôi nhận xét khó lòng có
thể xảy ra trên thế giới, ít ra chưa phải lúc này.

Mãi sau này, trong một tình huống khác, cá nhân tôi đã đ ặc biệt chứng kiến tấm lòng cao
thượng của ông Brandt, không bao lâu trước khi ông mất năm 1993, nhân dịp một cuộc
họp báo thông báo việc phát hành ấn bản tiếng Pháp quyển nhật ký của ông năm 199,
ông đã phát biểu chống lại việc khởi tố hình sự cá nhân tôi. Tôi trông mong có được cơ
hội đích thân xin lỗi ông, nhưng ông đã từ chối không muốn gặp tôi hoặc Guillaume, ông
viết “điều này sẽ gây cho tôi quá nhiều đau đớn”.

Vào giữa năm 1995, Guillaume chết sau một cơn bệnh kéo dài khá lâu. Tôi có đến dự
đám tang của anh tại một nghĩa trang m ới vô hồn ở Berlin-Marzahn, một công trình xây
cất dân cư rộng lớn để tỏ lòng tri ân Honecker vĩ đ ại, một viễn ảnh thiển cận của nước
Cộng Hòa của công nhân. Vào giờ phút cuối trước nghi lễ an táng thế tục bắt đầu, cánh
cửa của tòa cao ốc bật tung ra và một khuôn mặt dằm mưa dãi nắng vội vã bư ớc vào. Tôi
quay người nhìn về phía sau, lòng mong ư ớc gặp lại Christel hoặc Pierre, một đứa bé đã
trưởng thành quá sớm, nhưng lại biết quá muộn cha mình có hai cuộc sống, và nó chỉ
biết đến mặt giả. Trong danh sách các nạn nhân của những điệp vụ, trẻ con cần phải
được đề cập đến nhiều hơn và tác động liên quan đến đời sống của chúng cần được chú ý
nhiều hơn nữa.

Nhưng Pierre và Christel không ai đến cả. Cả hai người đều lẩn tránh, những vết thương
của quá khứ quá sâu đậm đã không lành l ại được trước khi anh chết. Người đến trễ là
Elke, người vợ thứ hai của anh, người phụ nữ chúng tôi đã l ựa chọn để chăm sóc cho anh
và trở thành ngươi yêu vào cuối cuộc đời của anh. Cô ngồi im lặng, mắt liếc nhìn các
quan khách lạ lẵm, tưởng nhớ đến một người mà cô đã quen bi ết và yêu thương, không
phải là anh chàng Guillaume nổi danh hay bỉ ổi nhưng là một người đã v ề hưu cố gắng
đem lại một ý nghĩa nào đó cho cu ộc sống của mình trong khi đó h ệ thống chính quyền
mà anh quen biết và đã ph ục vụ một cách quá can đảm đang xụp đổ bên cạnh anh.
Chúng tôi cùng nhau đi ra nghĩa trang đ ầy cỏ bụi, không người canh gác và chiếc quan
tải đi vào lòng đ ất. Theo truyền thống của đảng Cộng Sản, tôi đặt lên trên đó một cánh
bông hồng lẻ loi.
Chương 10
Nọc độc của sự phản bội
Việc phản bội không hạn hiếm như chúng ta tưởng. Trong đời sống thường ngày bạn bè
và người thân bỏ rơi chúng ta, và trong công việc làm, các cộng sự viên gần gũi v ới
chúng ta quay lưng lại chúng ta hoặc âm mưu đáng gục chúng ta để đi lên. Điều này
đáng ghét nhưng đó là một phần có thể tiên liệu được trong cuộc sống của chúng ta. Tuy
nhiên phản bội đất nước của mình đư ợc số đông xem là một vị phạm trầm trọng của
người công dân, bất luận quan điểm chính trị về hệ thống trong đó mình đang sống. Tôi
biết rất nhiều thành phần phản bội và họ hành động do những động cơ cao cả và thấp
hèn, và trong đó có những người đàn ông và đàn bà tôi đã đ ề cập đến, sẵn sàng tiết lộ bí
mật cho một thế lực ngoại bang vì ý thức hệ, vì tiền bạc, vì chính trị, hoặc vì những lý do
hoàn toàn cá nhân.

Nhưng có một hạng phản bội khiến cho người ta kinh hoàng nhưng đồng thời cuốn hút
con người một cách vô cùng mãnh liệt và cần được đặc biệt phân tích: kẻ phản bội nằm
trong một cơ quan tình báo tự bán mình và bán hiểu biết bí mật của mình cho kẻ khác.
Một vài người nghĩ rằng ý muốn phản trác các đồng nghiệp có thể khiến cho những ai
làm việc trong môi trường điệp báo được miễn nhiễm không bị ngỡ ngàng khi việc phản
bội xảy ra ngay trong hàng ngũ của mình. Điều này sai. Phản bội là một độc tố của tất cả
mọi cơ quan tình báo, thu ốc ngừa chủng mà chúng tôi có chỉ có hiệu quả giới hạn.

Văn hóa tâm lý của cơ quan tình báo giống như văn hóa của một nhóm hoặc của một bộ
tộc, trong đó cá nhân gắn bó với nhau vì một lý tưởng cao đẹp và chia sẻ với nhau cùng
một bản sắc, cùng một tư tưởng hoặc một điều gì đó. Khi hệ thống này bị mở toang, nọc
độc bất tín sẽ xâm nhập hệ thống. Các điệp viên trên chiến trận, ngay cả khi việc làm
của họ không dính líu gì đến khu vực bị phản bội, cảm thấy lạnh gáy và dễ bị thương tổn
khi họ đến gần hộp thư chết lần sau (một nơi bí mật mà điệp viên nhận và gởi một lá
thư, một thông điệp, vi phim và vân vân) hoặc bắt đài để nhận lệnh đã được mã hóa từ
bộ tham mưu. Ai cũng đều biết là thu nạp những điệp viên mới sau một lần đào thoát
ngoạn mục rất là khó khăn.

Đối với cán bộ điều khiển điều này cũng gây nên nh ững hậu quả khôn lường. Một cơ quan
tình báo đ ột nhiên trở thành đối tượng được các chính trị gia chú ý đến khi lòi ra có điều
gì không ổn đã xảy ra. Thí dụ, quý vị thử nhìn xem cơn động đất đã làm cho CIA hầu như
tê liệt sau khi họ khám phá sự phản bội của Aldrich Ames. Kẻ phản bội nằm trong lòng
của cơ quan tình báo phản bội bội phần các con số những điệp viên nam nữ mà y đã ti ết
lộ. Y phản bội sự toàn vẹn của cơ quan mình.

Lẽ cố nhiện có phương thức để giảm thiểu những rủi ro này. Một là tạo nên một cảm tình
đoàn kết mãnh liệt, tinh thần đồng đội trong đó mỗi một người chăm sóc cho sự an nguy
và an sinh của người khác trên phương diện cá nhân và nghề nghiệp. Một cách khác là
xây dựng trên những cơ cấu trung thành đã có sẵn - ý thức hệ, chính trị và địa lý – bắt
đầu từ thưở thơ ấu, bảo đảm mỗi một sĩ quan có ý nghĩ mu ốn trở thành kẻ phản bội có
cảm nhận là mình làm như v ậy mình phản bội chính bản thân của mình. Sự thống ngự
của nhóm WASP (ldg : White Anglo-Saxon Protestants = Người Da Trắng Anglô Saxon
theo đạo Tin Lành), nhóm East Coast (Người Mỹ vùng Biển Tây) trong CIA, mạng lưới
Oxford và Cambridge trong nội bộ cơ quan tình báo Anh, và nh ững triều đại dòng tộc
trong nội bộ tình báo Xô Viết tất cả là những cơ chế bảo về phòng chống phản bội.
Việc bội phản có những hậu quả quá đỗi trầm trọng cho nên ngay cả một mối nghi ngờ
nhỏ cũng phải được xem trọng. Tôi không bao giờ làm việc với ảo tưởng là các sĩ quan
của tôi không bị cám dỗ, mặc dù tôi biết trong các cơ quan khác của khối Đông Âu, các
giám đốc tình báo khó mà chấp nhận việc chứa chấp một nhân viên đặc tình phá hoại
trong hàng ngũ của họ.

Trong tất cả các mối liên hệ giữa các cơ quan tình báo Đông Âu, liên h ệ của nước Cộng
Hòa Dân Chủ Đức với người Ba Lan là đáng sợ nhất. Cho dù đảng viên Cộng Sản có trung
thành đến mấy với Moscow và đồng minh, lịch sử Châu Âu đã ghi d ấu ấn những hiềm
khích về quyền lực của cả hai nước Đức và nước Nga đã đ ể lại những vết thương. Những
công tác phối hợp của chúng tôi đòi h ỏi rất nhiều khéo léo trong vấn đề ngoại giao cũng
như tình báo .

Một lần tôi nhận được thông tin của một điệp viên nằm vùng trong cơ quan tình báo Tây
Đức báo cho biết có một nhân viên cao cấp của Bộ Nội Vụ Ba Lan sẵn sàng làm gián điệp
cho Tây Đức qua trung gian một viên chức làm việc trong ban giải mã của Tòa Đ ại Sứ
Bonn tại Warsaw. Tôi quyết định đến Ba Lan một cách âm thầm để cảnh báo cho các
đồng nghiệp của tôi và nhận lời mời đã có t ừ lâu của ông Thứ Trưởng Công An BaLan,
Franciszek Szlachcic để đi săn cuối tuần tròng vùng săn bắn dành riêng cho Bộ tại vùng
Thượng Silesia. Trong lúc chúng tôi lùng heo rừng trong các lùm cây rậm rạp, tôi báo cho
ông biết việc trên. Chúng tôi đồng ý phương th ức tốt nhất là gặp gỡ riêng với giám đốc
phản gián của ông và lập kế hoạch để gài bắt. Kế hoạch là bắt kẻ tình nghi tại trận bằng
cách vời y về để thi hành một công tác ma trong đó một vài sĩ quan của tôi sẽ giả dạng
là người Tây Đức.

Trong buổi họp mặt riêng với giám đốc cơ quan phản gián, tôi ngã ngửa thấy Szlachcic, vì
muốn chứng tỏ với tôi là ông quan tâm nhiều đến vấn đề này, mời một số sĩ quan cao
cấp để giúp hoàn thiện kế hoạch. Quá nhiều thầy thợ nên nồi cơm hỏng . Chúng tôi dàn
dựng bẫy và vô công chờ mãi không thấy người này đến điểm hẹn tại quán hoa. Một lần
hẹn khác cũng không thấy gì. Tôi thấy rõ là đã có thất thoát trong nội bộ Bộ Công An Ba
Lan từ một người trong số những người biết chuyện. Điều cuối cùng tôi nghe là kẻ chực
phản bội Ba Lan đã tiếp xúc với phía bên Anh. Tôi không còn hứng thú để bố trí lại toàn
bộ cộng tác và để mặc cho người Ba Lan giải quyết.

Tôi chưa bao giờ quả quyết cơ quan của tôi không có những phần tử xấu. Bài học đau
đớn trước đây của những vụ đào thoát không cho phép tôi tin vào tinh thần đạo đức cao
của nhân viên tôi, mặc dù tôi nghĩ rằng sự gắn bó ý thức hệ đã thắt chặt chúng tôi lại với
nhau là một gắn bó chặt chẽ. Thách đố của hai cơ quan tình báo của hai nước Đức sau
cuộc thế chiến là xây dựng một cảm nhận căn cơ đồng nhất và nhập thuộc mạnh mẽ để
giảm thiểu nguy cơ bị phản bội từ bên trong. Chúng tôi làm việc này hiệu quả hơn người
Tây Đức, vì họ luôn xem những hoạt động tình báo là một sinh hoạt phụ thuộc vào sinh
hoạt xã hội dân sự thay vì cố gắng thúc đẩy, như chúng tôi đã làm, tinh thần huynh đệ
chi binh, tình đồng chí để ứng phó với những hiểm nguy vốn sẵn có trong ngành điệp
báo.

Mỗi một cuộc đào thoát đều có tiến trình riêng và mỗi lần đều có bài học để rút tiả. Cuộc
đào thoát gây chấn thương mạnh nhất đối với tôi xảy ra năm 1979, lúc Chiến Tranh Lạnh
đặt đến độ căng thẳng nhất tại Châu Âu. Nó liên quan đến một sĩ quan nằm trong một
trong những ban bí mất và hiệu quả nhất của tôi, Ban B, thuộc Ngành Khoa Học và Kỹ
Thuật, được biết theo chữ tắt tiếng Đức là SWT (SektorWissenschaft und Technik).

Ngày 19 tháng Giêng năm 1979, ngày sinh nhật của tôi, tôi đang ngồi trong một buổi
họp với các giám đốc tình báo trong vùng Karl-Marx-Stadt. Buổi họp chưa kịp bắt đầu thì
có điện thoại gọi tôi. Một trong những phụ tá của tôi ở đầu giây và tôi cảm nhận sự căng
thẳng trong tiếng nói. Anh đi thẳng vào vấn đề : « Tại SWT, có người đã bỏ đi rồi!». Phản
ứng tức khắc của tôi, tôi nghĩ cũng đư ợc các giám đốc tình báo thế giới chia sẻ, là lên
tiếng chửi rủa thậm tệ. « Nhưng, thưa Xếp, chưa hết chuyện tai hại », giọng nói đầu giây
tiếp tục : «Tủ an toàn bị mở, có vài giấy tờ bị mất và, tổ sư nó, căn cước thông hành để
qua biên giới cũng đi luôn». Đây là thông hành - mỗi ban chỉ có một cái - để cho nhân
viên của ban này có kinh doanh dùng để di qua cửa ngõ chính biên giới Bá Linh, trạm
kiểm soát Friedrichstrasse. Các vệ binh canh gác biên giới Đông Bá Linh cho phép người
này đi qua phía Tây Bá Linh.

Hai ngày trước đó, tại một buổi họp cán bộ cao cấp của tôi trong khuôn khổ Đảng, tôi
ngỏ lời chúc mừng Năm Mới theo truyền thống. Tôi nói : « Các đồng chí, đừng bao giờ
quên, điều tệ hại nhất có thể đến với chúng ta là kẻ thù tìm cách len lỏi xâm nhập vào
hàng ngũ c ủa chúng ta». Đó là một huấn thị đạo đức, nhưng bây giờ việc này xảy ra và
tôi đâm ra bàng hoàng. Đặc biệt đau đớn cho tôi khi tôi được biết việc đào thoát xuất
phát từ SWT, một ban mà tôi đặc biệt chú ý vì tôi tin tư ởng là điệp báo giỏi nhất thế giới
cũng vô dụng nếu chúng tôi không bắt kịp với đà tiến triển khoa học và kỹ thuật của Tây
Phương.

Trong cuộc điều tra, vệ binh tại biên giới cho biết là thông hành đã đư ợc sử dụng vào lúc
9g 30 chiều hôm qua, như vậy kẻ đào thoát đã đi được 12 tiếng đồng hồ rồi mới bị phát
giác. Y đã cẩn thận chọn lựa thời điểm, vào mùa nghỉ mùa Đông. Tại bộ Tham Mưu của
Tình Báo Hải Ngoại HVA ở Đông Bá linh, một kiến trúc to lớn và kiên cố được bảo vệ chặt
chẽ tại đường Normannenstrasse, họ vẫn đang tiếp tục nghiên cứu những thu xếp ngày
nghỉ của nhân viên và điện thoại về nhà họ, với mục đích tìm kiếm sĩ quan đang vui thú
hưởng thụ ngày nghỉ mùa Đông và xem ai là kẻ phản bội.

Họ thiết lập danh sách các người tình nghi. Và khi tôi đến Đông Bá Linh ba giờ sau, chúng
tôi phát hiện người chúng tôi tìm là Đại Úy Werner Stiller, một sĩ quan Phó Ban 1, chuyên
về vật lý hạt nhân, hóa học và vi khuẩn học. Là một trong những sĩ quan xuất sắc trong
Ban, anh lả một người dễ thương, có nhiều tự tin và vừa mới được chọn làm đệ nhất bí
thư Đảng trong Ban của mình, một chức vụ trao cho một người được xem là đặc biệt
cứng cỏi và đáng tin cậy. Stiller chắc chắn là một biến cố đào thoát tệ hại nhất xảy ra
trong mười năm nay. (Năm 1959 Đại Tá Max Heim, một khuôn mặt trụ cột trong công tác
đánh phá đảng Dân Chủ Xã Hội đã đào thoát, d ẫn đến việc bắt giữ hành chục điệp viên
của chúng tôi. Năm 1961, Walter Glasse, một sĩ quan có trách nhi ệm công tác đánh phá
các tổ chức Hoa Kỳ tại Tây Đức, đào thoát và làm nguy hại đến một số công tác của
chúng tôi. Cả hai người sinh sống tại Bá Linh và hợp tác với tình báo Tây Đức mỗi khi họ
cần đến.
Tất cả những báo động cấp bách đều vận chuyển. Những điện thư được gởi đến các điệp
viên và mật báo viên do Stiller điều khiển ở Tây Đức, báo cho họ biết phải án binh bất
động và hủy bỏ tất cả những hồ sơ liên lụy, trong khi đó các chuyên viên nghiên cứu của
chúng tôi xem xét danh sách các hồ sơ, cố gắng tìm những vật liệu Stiller đã đánh c ắp.
Chúng tôi phải chạy đua gấp báo những người dễ bị tổn thương trước khi tình báo Tây
Đức khai thác những vật liệu do Stiller cung cấp để đánh vào những điểm này.

Họ nhận ra Stiller đã đánh c ắp những hồ sơ danh sách các mật báo viên. Trong hồ sơ có
những danh sách gọi là ban đồng hành thông tin của cả Ban Khoa Học và Kỹ Thuật,
những bản tóm tắt những báo cáo gần đây của các điệp viên và nguồn tin và bí danh của
những người đã soạn thảo. Chúng không tiết lộ danh tính và nơi ở của các điệp viên và
nguồn tin, nhưng phản gián tại Cologne có thể dùng chúng để xác định những nghi ngờ
họ có trước đó. Tôi phải thú nhận là Stiller bạo gan và chuẩn bị chu đáo việc đào tẩu của
y. Lấy cắp những hồ sơ của mật báo viên có nghĩa là đương s ự có món quà cụ thể để
biếu cho phiá bên kia khi anh sang đến Tây Bá Linh. Đương sự nhất quyết đào thoát để
sẵn sàng chấp nhận án tử hình nếu bị bắt trên tay với những vật liệu này. Điều này có
nghĩa là k ẻ thụ đã mua chuộc anh hoặc anh có ý định nhận sự mua chuộc.

Đúng vào lúc tôi nghĩ không còn gì t ệ hại hơn nữa thì sự việc xảy đến. Giọng nói hốt
hoảng của Mielke ở đầu bên kia đường giây điện thoại khẩn cấp báo cho tôi là một loạt
những hồ sơ không còn trong tủ sắt kín nữa: những hộp đựng những diễn văn và lệnh
của ông. Vì những lời tuyên bố thường lúc ngoắt nghéo và trùng lập của Mielke, việc này
khiến cho tôi không biết ăn nói làm sao và xem ra đây là một vấn đề trầm trọng nhất
trong ngày. Nhưng ông bộ trưởng không nhìn dưới khía cạnh này. Tôi không dứt ông ra
được khỏi đầu giây. « Đ. mẹ, lộn xộn quá! Mời mẹ kẻ thù nó đến họp với chúng ta và cấu
kết với chúng cho rồi! Tao chán bọn bay quá rồi».

Tôi bậm môi để kìm hãm cơn gi ận, mặc dù tôi vẫn muốn quát lại. Nhưng tôi đã kinh qua
những cơn giận trẻ con của ông và để cho ông xả hơi. Sau đó tôi làm bản sao những tài
liệu của ông từ một văn khố khác và gởi đi với ghi chú như sau: « Đính kèm đây là bản
sao những tài liệu có chữ ký của ông, hiện nay nằm trong tay kẻ địch». Điều này cho
ông thời gian để tiếp thu chấn động trước khi những tài liệu này được các kẻ thù trong
tình báo Tây Đ ức vui vẻ giao cho báo giới và theo đó được phát hành để cho mọi người
đọc.
Để hiểu sức công phá ghê gớm do việc đào thóat của Stiller gây nên, quý vị phải hiểu
tầm mức quan trọng của ngành điệp báo khoa học và kỹ thuật vào lúc đó tại các nước xã
hội chủ nghĩa. SWT đư ợc tổ chức vào thập niên 1950 dưới hình thức một tiểu ban nhỏ
giúp chúng tôi bắt kịp đà phát triển của Tây phương về kỹ thuật làm vũ khí h ạt nhân.
Nhiều chuyên viên cao cấp về vật lý học và sinh vật học của Tây Phương, lo sợ viễn
tượng Tây Đức tái trang bị vũ khí , bắt đầu báo cáo cho chúng tôi là việc xây cất các lò
nguyên tử tại Tây Đức được tổ chức sao cho những công trình biến hóa những nhiên liệu
và phân cách chất đồng vị có thể chuyển biến nhanh để dùng cho mục đích quân sự.

Đây là vào lúc chiến tranh tuyên truyền không ngừng nghỉ. Quần chúng phản ứng một
cách lo ngại đối với tất cả những ý kiến cho rằng tái trang bị quân sự có thể dùng cho
việc sản xuất vũ khí hạt nhân.Chúng tôi bận rộn theo dõi Tây Đức trong quá nhiều hoạt
động kín ; những tiến bộ kỹ thuật trong việc chiết xuất plutonium tiến nhanh, một thế hệ
doanh nhân mới thời hậu chiến đầu tư vào các nước Thế Giới Thứ Ba có tham vọng được
kỹ thuật hạt nhân, chẳng hạn như Brazil, Argentina, Libya, Pakistan và Nam Phi.

Nhưng vấn đề hạt nhân cũng rất nhạy cảm tại Đông Đức. Nước chúng tôi không có
chương trình khai thác tách biệt với Liên Bang Xô Viết. Moscow đã kiểm soát những hoạt
động khai thác quặng mỏ uranium của Đông Đức và tiếp tục kiểm soát chặt chẽ cho đến
khi Đông Đức sụp đổ và nước Đức thống nhất năm 1990. Hãng Wismut AG, có trụ sở
chính tại miền Nam CHDCĐ, ngoài mặt là do liên hợp Đức - Xô Viết quản lý nhưng trên
thực tế là một nước trong một nước do quân đội Nga điều khiển các quản trị viên, kỹ sư
và khoa học gia người Đức.

(Em trai của tôi, Koni, đã phát hành một trong những phim hay nhất về Wismut,
Sonnensucher - Đi tìm mặt trời – trong đó Koni mô tả thực tế của thế giới hầm mỏ
uranium trong những năm đầu, một loại Miền Đông Hoang Dã đầy những kẻ vô công rỗi
nghề, tội phạm và quân nhân giải giới tìm cách kiếm tiền nhanh chóng dưới sự giám sát
chặt chẽ của những mật báo viên và của quân đội. Koni dự định trình chiếu phim này để
trình bày lần đầu tiên một cách tương đối lương thiện về sự hiện diện của Xô Viết tại
Đông Đức và vết chấn thương tồn tại giữa hai quốc tịch trước đây là kẻ thù đáng ghét
nay cố gắng tìm cách hòa thuận với nhau. Bích chương của phim được gắn khắp cùng Bá
Linh vào năm 1956, và chúng tôi đang chuẩn bị trình chiếu lần đầu thì Walter Ulbricht
hoảng hốt vì ông được biết Đại Sứ Xô Viết, Pyotr Abrassimov, không muốn đề cập đến
những công trình hạt nhân. Các vệ binh của sư đoàn Felix Dzerzhinsky, các binh lính của
Bộ Công An được phái đi về đêm để gỡ bỏ những bích chương và cuộn phim được cất vào
kho chờ 10 năm nữa.)
Việc kiểm soát liên tục của Nga vẫn còn sau khi tất cả những hợp tác khác đã được giao
lại cho chúng tôi, đồng thời với việc Xô Viết chuyển tải những tài nguyên giá trị của Đông
Đức cho nhu cầu của quân đội họ, đã khi ến cho dự án về uranium là một dự án nhạy cảm
nhất về chính trị trong nước.

Tình thế bấp bênh về năng lượng và những vấn đề cán cân chi phó của nước chúng tôi
đưa đến những lời kêu gọi chúng tôi phải thiết lập chương trình năng lư ợng hạt nhân cho
chính nước chính tôi. Điều này đã đư ợc khoa học gia Klaus Fuchs ủng hộ. Klaus Fuchs đã
định cư tại Dresden sau khi ông ra khỏi nhà tù Anh Quốc vì tội chuyển giao những bí mật
của phưong Tây về bom hạt nhân cho Moscow. Fuchs cũng đoan quy ết Liên Bang Xô Viết
đã đánh l ừa nước CHDCĐ khi trả giá uranium quá thấp.

Tôi nghĩ là ông nói đúng và cơ quan c ủa tôi nằm ngay trong thế kẹt. Một mặt chúng tôi
trao cho Xô Viết phần lớn những thông tin khoa học và kỹ thuật chúng tôi thu thập được.
Mặt khác, các khoa học gia trong nước biện luận chúng tôi chỉ có thể cạnh tranh với
phương Tây bằng phương cách phát triển chính kỹ thuật của mình. Cấp lãnh đ ạo càng lúc
càng chú ý đ ến việc lượng định các loại máy phát điện và áp lực đè nặng lên Ban Khao
Học và Kỹ Thuật của tôi ép chúng tôi phải cung cấp những thông tin nhưng không cho
người Xô Viết biết chúng tôi đang tính đến chuyện này.

Tôi đến gặp Heinrich Weinberg, đầu óc già dặn khôn ngoan của SWT, để hỏi ý kiến về
đường hướng tình báo chúng tôi phải đi. Ông là một học giả hàn lâm và giống như một
loại quái nhân không phù hợp với nhóm thủ cựu Cộng Sản ẩn nấp thời tiền chiến và nay
chiếm giữ phần lớn những chức vụ quan trọng trong bộ máy Công An Nhà Nước. Thực ra,
kinh nghiệm chính trị duy nhất ông có là gia nhập Phong Trào Thể Thao Đỏ và ông là tay
đua xe đạp say mê. Ông không hề có lối suy nghi đẳng cấp, một lối suy nghĩ ph ổ biến
trong văn hóa văn phòng c ủa chúng tôi, khinh khi những lợi thế của chức vụ mình và
nhất quyết đi làm trên chiếc xe đạp. Điều này biến ông thành đối tượng chế diễu của các
nhân viên trung cấp và cao cấp vốn thích khoe khoang có được những chiếc xe ngoại
nhập Golf VW hoặc Citroën và Ford dành riêng cho những viên chức thượng cấp.

Weiberg muốn soi sáng cho tôi tất cả những chi tiết về máy phát điện, cho dù tôi có hiểu
hay không hiểu những gì ông nói. Tôi quen thuộc với những câu trả lời ngắn gọn của các
giám đốc ban, nhưng ông không biết cách chuyển đạt nào khác là thuyết trình dài dòng,
vì vậy tôi nhã nhặn xin đị học lớp tốt nghiệp về vật lý học. Weiberg tin tưởng mãnh liệt
vào các lò phản ứng hạt nhân trung tử nhanh nhạy đang được xây cất tại Tây Đức. Chúng
tôi bị kẹt với lò mẫu Xô Viết và Weiberg xét thấy có nhiều rủi ro. « Chúng ta phải tiến
lên, đồng chí Wolf. Anh có thể nói cho họ (Bộ Chính Trị) biết đây là đầu mối của tương
lai ».

May mắn cho chúng tôi quyết định khởi sự chương trình h ạt nhân của chúng tôi không
bao giờ được thực hiện, phần lớn vì chi phí nhưng cũng vì c ấp lãnh đạo lo ngài những hệ
lụy với Moscow. Một vài năm sau, sau giai đoạn này, Tây Đức bỏ rơi kỹ thuật trung tử
nhanh vì không giải quyết được vấn đề làm nguội sodium. Lợi ích duy nhất của khóa cấp
tốc về vật lý hạt nhân đem lại cho tôi là tiếng tăm không lấy gì làm thích đáng t ại
Moscow tôi là một loại người thời Phục Sinh có thể bắt nắm khoa học cũng như nh ững
lãnh vực chuyên môn khác của tôi. Tôi học hỏi khá nhiều những luận điểm của Weiberg
để có thể hỏi những câu hỏi chính xác khi tôi đến tham quan một trung tâm nghiên cứu
nguyên tử lực gần quê quán Ulyanovsk của Lênin trên sông Volga. Họ gởi báo cáo về cho
các đồng nghiệp Moscow khen ngợi sự ám tường vấn đề của tôi.

Vào giữa thập nhiên 1960, tôi thấy rõ Đông Đ ức lê lết trong cuộc chay đua về cải tiến kỹ
thuật. Hàng triệu bạc đã đư ợc đổ vào nghiên cứu và phát triển tại Tây Đức, trong khi giới
lãnh đạo của chúng tôi, ngăn chặn những cơ hội bộc phát phấn khởi trong một vài dự án
trong lúc ngẫu hứng, không cung cấp phương tiện cho các khoa học gia và phung phí tiền
tiết kiệm thay vì thỏa mãn nhu cầu của người tiêu thụ và nhờ đó ngăn ngừa quân chúng
dấy động. Sau một cuộc đối thoại với những khoa học gia nản chí mà tôi có quan hệ, tôi
chợt tìm ra phương thức để thoát khỏi cảnh khốn khổ này. Nếu các điệp viên của chúng
tôi có thể xâm nhập giới ưu việt chính trị ở Bonn và những bộ tham mư của NATO tại
châu Âu, không có lý do gì để họ không tiếp cận những bí mật kỹ thuật. Mặc dù kỹ năng
và trọng tâm chính của tôi nằm trong tình báo chính trị, càng lúc tôi càng lưu tâm tới
tiềm năng của ban SWT. Gia đình tôi nói đùa v ới tôi đây là phần đền bù chậm trễ cho
giấc mộng không thành lúc thiếu thời học làm kỹ sư hàng không tại Moscow ; tôi vẫn ghi
danh mua dài hạn những tập san hàng không tôi có dưới tay từ Đông sang Tây.

Nhưng tôi cũng thấy trong ngành hóa học, vi động cơ, động cơ học và quang học, chúng
tôi có những khoa học gia tài ba, vì phương Tây cấm vận xuất khẩu kỹ thuật sang khối
Đông Âu và chính quyền Đông Đức giới hạn những cơ hội di chuyển của họ, đang tìm
cách phát minh những kỹ thuật cao tương đương trong nỗ lực sáng chế lại bánh xe. Tôi lý
luận một chút tiếp cận không chính thức với ngành nghiên cứu cao đẳng của phương Tây
có thể giúp chúng tôi tiến xa và mặt khác, lòng ngưỡng mộ của cấp lãnh đạo đối với cơ
quan tình báo sẽ gia tăng nếu chúng tôi giúp họ làm cân bằng cán cân kỹ nghệ.

Chúng tôi cần những chuyên gia nhiều hơn con số hiện nay. Tôi thảo luận vấn đề với các
sĩ quan cao cấp của tôi và chúng tôi đồng ý việc khởi đầu là kết nạp đầu tàu trong số các
sinh viên ngành khoa học. Một trong những người đầu tiên được kết nạp là Werner
Stiller.

Một trong những người lùng kiếm tài năng địa phương tìm ra Stiller, một sinh viên khoa
học có khả năng tại Đại Học Karl Mã tại Leipzig. Khi chính quyển sở tại biết chắc đương
sự là một viễn tượng đáng tin cậy, họ gởi đương sự đến chúng tôi tại Bá-Linh, nơi đây
đương sự ký một tài liệu tuyên thệ « với lương tâm và tất cả sưc lực » phục vụ cho nước
Cộng Hòa Dân Chủ Đức trong Bộ Công An. Để ghi nhớ những chuyện phiêu lưu Cộng Sản
thời niên thiếu, đương sự dùng bí danh Stahlmann - « người thép » -, trùng với tên của
ông xếp cũ c ủa tôi. Vừa ký xong, y và hai sĩ quan trách nhi ệm rủ nhau cụng ly cognac.
Stiller là môt thanh niên đẹp trai, vạm vỡ, có vóc dáng cởi mở và thông minh. Tôi không
đích thân đến gặp anh ta vì anh ta thuộc lại tép riêu, mặc dù sau này anh khoác lác anh
đã gặp tôi. Do tính tình, tôi xếp anh vào loại người tính toán và cứng cỏi hơn là loại
chuyên cần ý thức hệ. Stiller được phái đến Tiểu ban 1. Tiểu ban này có mục tiêu là bắt
kịp những nghiên cứu hạt nhân của Tây Đức và giám sát sự triển khai tất cả những hệ
thống vũ khí mới tại đây.

Vào thời điểm y đào thoát, Stiller phụ trách khoảng một chục nguồn tin không chính thức
tại CHDCĐ và bảy điệp viên Tây Đức anh đã k ết nàp, trong đó có Rolf Dobbertin, một
nhà vật lý học chuyên về hạt nhân ở tại Paris (Sau năm năm ở tù Pháp, trong một phiên
tòa tái thẩm, Dobbertin được trắng án tội gián điệp. Dobbertin không bao giờ phủ nhận
đã trao thông tin, nhưng ông gọi đó là « giúp đỡ phát triển khoa học cho các đồng nghiệp
CHDCĐ); Reiner Fülle, một chuyên viên nghiên cứu lão thành tại Trung Tâm Nghiên Cứu
Hạt Nhân tại Karlsruhe; một doanh nhân làm việc cho Siemens và một người khác trong
kỹ nghệ hạt nhân tại Hanover. Stiller đem theo với y những thông tin giúp cho Tây Đức
khám phá giáo sư Karl Hauffe, giám đốc chương trình nghiên c ứu hạt nhân tại Đại Học
Göttingen, làm việc hco KGB, mặc dù chúng tôi điều khiển ông từ Bá Linh.

Ngoài những sinh hoạt đặt trọng tâm vào lãnh vực phát triển hạt nhân, ban này cũng
khuếch trương điệp báo trong kỹ nghệ, thăm dò kỹ nghệ rộ phát của phương Tây về kỹ
nghệ vi tính và tìm những mối liên lạc để gỡ thế cấm vận của phương Tây. Một trong
những điệp viên giỏi nhất của chúng tôi trong lãnh vực này là Gerhard Arnold, bí danh
Storm, một thanh niên đã đư ợc gởi sang Tây Đức để « nằm vùng ». Tứ đó anh leo cấp
bậc trong Hãng IBM Đức và chuyển những tài liệu nội bộ về khai triển hệ thống mới và
nhu liệu. Arnold là một trường hợp quái lạ vì anh ta từ lâu không gần gũi chính trị với
chúng tôi và từ chối nhận tiền của chúng tôi nhưng vẫn tiếp tục chuyển thông tin cho
chúng tôi bởi vì anh cảm thấy vẫn còn tình cảm quyến luyến với Đông Đức.

Nghiên cứu vi tính đặc biệt có giá trị đối với Đông Đức vì nó nhằm thúc đẩy hãng đứng
đầu về vi điện tử Robotron. Nhưng nghiên cứu của chúng tôi thua xa Hoa Kỳ và Nhật
Bản. Phương cách duy nhất để Robotron bắt kịp họ là thu thập những hiểu biết và nhu
liệu của phương Tây bị cấm vận ngăn chặn. Rập theo mô hình IBM, Robotron tùy thuộc
khá nhiều vào những tiến bộ kỹ thuật của IBM mà chúng tôi lén lút lấy được vì vậy, trên
thực chất, nó là một loại công ty chi nhánh bất hợp pháp.

Nhờ gạt hái được nhiều thành quả, Stiller sớm được quân hàm trung úy. Y đang trên con
đường thăng tiến khi y quyết định đào tẩu vì , theo sự hiểu biết của tôi, lý do hoàn toàn
dựa trên ước vọng sống một cuộc đời thoải mái hơn tại Tây Đức. Hôn nhân của y bấp
bênh và y có một tình nhân, một cô chiêu đãi tên Helga có người anh ở Tây Đức. Qua
người anh này, Stiller tiếp xúc với tình báo Tây Đức, có lẽ vào giữa thập niên 1960.
Đương sự thương lượng thông báo cho Tây Đức về những công tác trong ban của anh với
một số tiền lớn và sau cùng là một chuyến đi sang Tây Đức sống cuộc sống an toàn. Đây
là một dàn xếp thường thấy nơi các kẻ chuẩn bị đào tẩu. Tuy nhiên,vấn đề là sau khi kẻ
địch đã bám chặt một cá nhân, họ thấy lợi ích lưu giữ ở nơi cũ kẻ mới kết nạp - để cung
cấp những thông tin giá trị ngay trong lòng địch - hơn là tiếp nhận họ vào lãnh thổ của
mình. Lẽ cố nhiên kẻ phản bội không suy nghĩ như v ậy, đặc biệt khi ngày tháng trôi qua
và nguy cơ bị lộ mỗi lúc một gia tăng. Hậu quả thường là một cuộc đấu tranh ý muốn
trong đó cả hai bên trong cuộc thương lượng đều tìm cách áp lực nhau.

Cơ may của Stiller mỗi lúc giảm nhanh. Năm 1978, cơ quan phản gián của chúng tôi, với
nhiệm vụ ngăn chặn điệp báo tại nước CHDCĐ, bắt được một lá thơ mã hóa do y g ởi cho
một địa chỉ ở Tây Đức mà chúng tôi biết là bình phong của tình báo hải ngoại của Tây
Đức (BND). Giám đốc cơ quan phản gián của chúng tôi không tìm ra đư ợc cách giải mã
hoặc tìm ra kẻ gởi đi, nhưng ông ra lệnh tất cả các thư từ gởi sang Tây Đức trong cùng
một vùng bưu điện mà họ đã ch ặn bắt lá thơ phải được rà soát. Quả nhiên, họ chận bắt
một điện tín bưu điện vài tháng sau. Lần này cơ quan phản gián tìm ra đư ợc mật mã.
Điện tín viết : “Tôi không thể đáp ứng lời yêu cầu của quý vị”. Các chuyên viên nghiên
cứu nét viết cho biết đây là chữ viết của một người đàn bà; đó là Helga chuyển lời của
Stiller cho các cán bộ điều khiển Tây Đức thông báo là y không thể chuyển giao gói vi
phim.

Chúng tôi không có lý do chính xác nào đ ể nghi ngờ Stiller ngoại trừ cơ quan phản gián
tình cờ khám phá một cuộc gặp gỡ với một người vào một thời điểm và nơi trốn không ăn
khớp với những báo cáo của chính y với các nguồn tin của y. Chúng tôi chưa vội vã kết
luận, nhưng năm 1976, khi tôi ra lệnh đình ch ỉ tất cả những hoạt động ngoại trừ những
công tác thiết yếu tại Tây Đức bởi vì có một cuộc săn lùng điệp viên tại Bá Linh, chúng tôi
bắt đầu theo dõi những chuyến đi của y sang Tây Bá Linh. Tuy nhiên đượng sự vẫn được
phép di chuyển sang Zagreb tại Tiệp Khắc để gặp một trong những nguồn tin Tây Đức
của đương sự. Nơi đây, đương sự cũng cảnh báo cho BND biết là chúng tôi đã ph ối hợp
những phân tích của máy vi tính với những quan sát trực tiếp để bắt một số những điệp
viện của họ đã xâm nhập vào hàng ngũ quân đội Đông Đức.

Vào cuối năm 1978, Stiller bắt đầu lo bởi vì y sợ sắp bị bại lộ - y lo ngại rất đúng và sau
này tôi mới biết nhưng đã quá trễ. Đương sự hối thúc cơ quan BND và cơ quan này hứa
sẽ chăm sóc cho y ở Tây Đức và chấp nhận y đào tẩu. Không hiểu là họ cố ý hay là bất
cẩn (cả giới tình báo của chúng tôi cũng như của đồng nghiệp CIA Hoa Kỳ ai cũng biết cơ
quan tình báo Tây Đức nổi tiếng là như vậy), họ đưa cho y những giấy căn cước giả mạo
quá thô sơ nên không dùng được. Stiller đành quyết định tự tìm kế thoát thân khỏi Đông
Đức với giấy thông hành của ban mình.

Giấy thông hành dùng một lần duy nhất trong mỗi ban đều được trưởng ban cất khóa kỹ
và phải có chữ ký mỗi khi có người dùng đến để đi kinh doanh tại trạm Friedrichstrasse.
Giao điểm chính ở Bá Linh giữa Đông và Tây là một ổ hoạt động tình báo, với một dãy
hộp khóa ( tiện lợi để làm hộp thơ chết) trong những hành lang ngoằn ngoèo. Trạm xe
hỏa này, về mặt thuần túy kỹ thuật, nằm trên phần đất của Đông Bá Linh, nhưng trên
thực tế được chia cắt mỗi bên Đông và Tây một nửa, biến giới kiểm soát nằm ở giữa. Bất
cứ một người Đông Đức nào bước lên xe lửa ở phía Tây cũng vẫn có thể bị chính quyền
Đông Đức bắt và lôi cổ về.

Những nhân viên trong Ban Khoa Học và Kỹ Thuật than phiền việc phải ký giấy thông
hành mỗi khi đến trạm xe hỏa là một dấu hiệu bất tín và sỉ nhục. Tôi nghĩ điều này tệ
thật nhưng không có phương thức nào khác. Để đơn giản hóa thủ tục, giám đốc ban đề
cử cô thư ký của mình là người giữ giấy thông hành kỳ diệu này. Cô lưu giữ hồ sơ những
lần đi và về và được kiểm soát hàng ngày; nhưng nếu có một sĩ quan cô quen biết và tin
tưởng đến hỏi thông hành, cô vui vẻ cấp giấy tờ này như thể đưa chia khóa vào phòng
tắm rửa.

Trong mọi trạng huống, sự khéo léo và bản năng tự vệ cực cao của Stiller giúp anh ta
thoát hiểm. Thay vì liều lĩnh dùng nh ững giấy tờ kém chuẩn bị, đương sự cậy tủ an toàn
của ban mình đ ể lấy thông hành và lựa chọn những hồ sơ có giá trị nhất trong ban để
làm hộ thân bên Tây Đức. Y giả mạo giấy công tác ban chỉ thị cho y đi qua địa phận Tây
của trạm xe hỏa Friedrichstrasse và đặt một va-ly vào một trong những ngăn khóa ở
đây. Đối với người kiếm soát việc qua lại đang thi hành nhiệm vụ đêm đó tại trạm, việc
này hoàn toàn thông thường. Đây là chuyến đi Stiller vẫn bình thư ờng làm hàng chúc lần
trước đây trong khi thi hành nhiệm vụ.

Stiller lấy búa cậy tủ sắt Hình ảnh tang chứng trong hồ sơ của Stasi

Hồ sơ về đêm định mạng hôm đó cho thấy hai người đã trao đ ổi vui vẻ về thời tiết tồi dở
và Stiller, cố ý đánh lạc hướng viên sĩ quan không đ ể cho người này xem xét kỹ lưỡng
giấy tờ của mình, nói đùa “Có th ể tôi sẽ xin thuyên chuyển về Ban của anh. Anh chỉ ngồi
suốt ngày trong góc vuông ấm áp này. Tôi có lẽ cũng thích hợp việc này”. Anh bảo vệ lần
giở những trang tài liệu: có một sự vụ lệnh đóng dấu “tối mật”, giấy phép nơi làm việc,
giấy phép đặc biệt qua biên giới, và giấy thông hành. Khi thấy Stiller nhanh nhẹn trình
toàn bộ những giấy tờ cùng một lúc, anh bảo vệ không xem xét xa hơn nữa. Kẻ phản bội
đi qua hai lần cửa sắt để bước sang phần đất Tây Đức. Hai cửa này bật mở cách nhau
tám giây, đủ thời giờ để viên sĩ quan bảo vệ bấm nút khóa nếu anh bất thình lình thay
đổi ý kiến và quyết định kiểm soát xem tất cả những con dấu trên những tài liệu đều ăn
khớp với nhau không. Anh không có ý nghĩ này.

Stiller nói chuyện với sĩ quan b ảo vệ Bấm nút mở cửa

Bước lên sân ga, Stiller chậm rãi bước qua các cửa sát và một cách chính thức và không
thể vãn hồi bước sang phần đất Tây Đức của nhà ga. Biết rõ các sĩ quan ph ản gián Đông
Đức luôn hoạt động tại đây, y vờ loanh quanh tại các hộp khóa. Rồi, khi nghe tiếng rầm rì
của toa xe sắp đến, y chạy nốt đoạn đường cuối và nhảy lên toa cùng lúc đèn đỏ nhấp
nháy và lơì phát âm t ự động : “Mọi người lên xe! Cửa đóng lại”. Mười phút cuối cùng của
chuyến đi này trên chuyến xe hỏa lọc cọc trên lãnh thổ Đông Đức và đương sự vẫn còn
nằm trong vòng tầm nã của chúng tôi, chắc đã gây căng thẳng cho Stiller không ít. Khi
xe hỏa cập bến Lehrter, trạm ngưng đầu tiên bên phía Tây Đức, y biết là y đã đư ợc tự do.
Stiller bước lên toa xe lửa định mệnh

Cuối cùng Stiller đi xa hơn nữa trên tuyến đường , đổi xe hỏa và trực chỉ trạm cảnh sát
gần nhất, nằm trong khu vực ảm đạm ngoại ô Reinickendorf của giới trung lưu thấp kém.
Viên sĩ quan t rực ca trễ, chỉ trông chờ nhìn thấy diễn hành thường lệ các tài xế say rượu,
những kẻ lắm mồm và những bọn trực ăn cắp xe, có lẽ ngạc nhiên cực độ khi một người
đàn ông ăn mặc tươm tất bước vào và lịch sự chào hỏi: “Chào ông, tôi là sĩ quan B ộ Công
An của nước CHDCĐ vừa mới đào thoát khỏi Đông Bá Linh. Xin ông làm ơn thông báo cho
[Cơ Quan Tình Báo Tây Đức] Pullach.”

Ngay đêm hôm đó anh đến Pullach. Tôi muốn biến thành con ruồi để xem y mở chiếc cặp
da chứa đầy những tài liệu đánh cắp trong tủ an toàn. An ủi duy nhất của tôi là Stiller,
mặc dù không thể chối cãi tài năng của y, chỉ là một sĩ quan trung cấp. Nhờ vào hệ thống
an ninh tôi đã cẩn thận thiết kế, tôi đoan quyết là y không biết danh tính của các điệp
viên khác ngoài bảy người do y điều khiển. Nhưng những tài liệu y đánh cắp trong tủ sắt
có những ám chỉ có thể giúp phản gián Cologne tìm ra hai mươi đến hơn hai mươi lăm
người nữa và chúng tôi phải xóa dấu vết của những người này.

Bổn phận của chúng tôi là cảnh báo cho các giao liên và điệp viên của y. Chuyên viên lò
hạt nhân Johannes Koppe và người vợ đã kịp trốn nhờ nhanh trí. Khi cảnh sát gõ cửa nhà
họ tại Hamburg và hỏi ông có phải là Herr Koppe không, ông trả lời không và nói người
này ở trên lầu hai. Koppe và bà vợ rời bỏ ngay căn phòng của họ vỏn vẹn với bộ quần áo
trên người và đi thẳng đến Bonn và tìm trú ẩn nơi Tòa Đại Sứ Xô Viết, và Tòa Đại Sứ đưa
họ trốn khỏi nước Đức. Cơ quan phản gián của chúng tôi phải đương đầu với một công
việc khó nhọc: Koppe là một người đam mê thích chơi xe hỏa, ông sưu tầm những thời
khóa biểu của hơn một chục quốc gia và tệ hơn nữa, một bộ xe hỏa tiểu ly chạy ngoằn
ngoèo trong căn phòng của ông. Nhân viên Tây Đức khổ sở khám xét và tháo gỡ toàn bộ
sưu tầm này để tìm tang chứng gián điệp nhưng không thấy gì cả. Cuối cùng, để tưởng
thưởng cho một điệp viên bị bại lộ, tôi thu xếp để mua những chiếc xe hỏa này khi họ
đem bán đấu giá tại Tây Đức (Mielke không bằng lòng chuyện này vì ông không thấy cần
thiết chúng tôi tỏ vẻ quá nhiệt thành) và gởi chúng về cho Koppe để rồi Koppe dựng lên
lại trong căn phòng nhỏ bé hơn ở Đông Bá Linh, nơi đây ông sống chật chội nhưng vui
sướng hơn.

Một nguồn tin khác của Stiller, Reiner Füller thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Hạt Nhân tại
Karlsruhe, cũng đào thoát trong đư ờng tơ kẽ tóc. Ông nhận điện thoại báo trong khi các
sĩ quan đến bắt ông đã vào tận căn phòng của ông để bắt ông. Trên đường từ xe đến
trạm cảnh sát, một trong những người dẫn độ ông trượt ngã trên nền đất đông giá và
đập đầu xuống đất. Füller vụt chạy bỏ rơi các sĩ quan đu ổi bắt và chạy trốn vào phái
đòan quân sự Xô Viết tại Wiesbaden và từ đó ông được giao lại cho chúng tôi tại Đông Bá
Linh (Vài năm sau này, trong thời gian tôi bị đưa ra tòa t ại Karlsruhe, tôi cũng đư ợc chính
anh nhân viên đã đ ể cho Füller tẩu thoát đêm tháng Giêng đó. “Ông đừng dở trò này với
chúng tôi nhé Herr Wolf ”, anh cười đùa. Ở tuổi tôi, tôi không thể nào có cơ may thoát).
Füller không thích hợp với đời sống tại Đông Đức và thu xếp, hai năm sau, để liên lạc với
cơ quan phản gián Tây Đức giúp anh trở qua lại Tây Đức. Thông thường trong những
trường hợp như vậy, chúng tôi biết những vấn đề của một điệp viên đã ng ừng sinh hoạt
và nghi ngờ anh ta sẽ nhảy qua biên giới để sang Tây Đức. Trong trường hợp của Füller,
chúng tôi quyết định để cho anh đi, nghĩ r ằng anh chẳng còn gì đ ể báo cho chính quyền
bên kia sau thời gian ngắn anh sống dưới sự bảo trợ và kiểm soát của chúng tôi. Nhưng
không phải lúc nào chúng tôi cũng dung th ứ trong những trường hợp như vậy. Một điệp
viên khác của Stiller, Arnulf Raufeisen, là một địa vật lý học gia tại trung tâm nghiên cứu
Hannover, đã b ỏ trốn sang Đông Bá Linh sau khi được chúng tôi báo động và cũng có ý
đồ trở về lại Tây Đức năm 1981. Anh bị bắt tại biên giới Hungary trên đường trốn sang
nước Áo. Lần này, lệnh từ trên muốn đem anh ra làm gương; mặc dù anh là một điệp
viên cũ c ủa Đông Đức, anh bị kết án là điệp viên tại Đông Đức và bị xử tù chung thân.

Tôi bị dằn vặt về chuyện của Raufeisen. Anh đã làm vi ệc cho cơ quan của tôi hai mươi
năm và tôi muốn dàn xếp một cuộc trao đổi hoặc ân xá. Nhưng tôi đã thất bại và anh
chết trong tù năm 1987, một nạn nhân của sự phản bội của Stiller và công lý tùy hứng
của CHDCĐ. Vào lúc Stiller đào thoát, chúng tôi mang một mối hận rất sâu đậm; tôi nghĩ
Raufeisen đã nh ận lãnh án mà chúng tôi muốn Stiller phải đau khổ đón nhận.

Stiller trao cho cho địch thủ trong cơ quan tình báo Tây Đ ức một điều không sờ mó được
nhưng lại rất quan trọng khi y đào tẩu, đó là việc xác nhận chân tướng của bản thân tôi.
Mặc dù tôi lãnh đ ạo tình báo hải ngoại Đông Đức đã hai mươi năm khi y đào t ẩu, không
một ai bên phía Tây kiếm ra một bức hình của tôi, vì vậy tôi có biệt danh khen ngợi
“người không chân dung”. Thực ra, cơ quanTình Báo Liên Bang đã có hình của tôi nhưng
họ không biết là ai. Tôi bị lén chụp mà tôi không biết trong một chuyến đi Thụy Sĩ để gặp
Bác Sĩ Friedrich Cremer, một đầu mối đầy hứa hẹn trong đảng Dân Chủ Xã Hội Tây Đức.
Tôi sang đây vào mùa hè 1978 để gặp gỡ ông trên một lãnh thổ trung lập; chúng tôi
thường dùng Thụy Điển, Phần Lan và Áo vào mục đích này. Mặc dù chuyến đi là một
phần lấy cớ để đi ra khỏi văn phòng, đi du ngoạn với vợ - và bao lâu tôi vẫn còn ở Thụy
Điển - gặp gỡ Cremer, tôi còn có một lý do khác để hiện diện. Lý do chính của chuyến đi
là để gặp gỡ một nguồn tin quan trọng ở trong NATO.

Có lẽ vì chúng tôi quá cẩn thận về vấn đề an ninh quanh công tác quan trọng này, nên
chúng tôi bất cẩn thả lòng khi công tác này đã hoàn tất, đúng vào lúc tôi gặp Cremer, với
những hậu quả không đẹp cho ông. Các nước Scandinavia rõ rệt trung lập mang một bầu
không khí yên tĩnh và ch ậm rãi và cơ quan phản gián của họ cũng không quá siêng năng,
mặc dù tôi biết họ ngả về phía Tây Âu. Tôi gặp những điệp viên của tôi ở vùng phụ cận
tòa Lâu Đài lộng lẫy Gripsholm, phía Tây Stockholm, nơi đây chúng tôi hy vọng không ai
để ý đến chúng tôi trong đám người xem phong cảnh. Sau này, tôi nhớ lại có thấy một
cặp vợ chồng đứng tuổi ngồi trong xe hơi nơi bãi đậu. Chiếc xe có bảng số Đức, nhưng
không có dấu hiệu gì đáng nghi cả nên tôi tiếp tục cuộc tiếp xúc trên sân của lâu đài. Các
bạn đồng nghiệp của tôi thông báo cho biết họ đã thu xếp để tôi đến gặp Cremer tại
Stockholm.
Lâu đài Gripsholm

Chiều hôm đó, khi tôi đi lang thang trong trung tâm Stockholm, để giết thời giờ trong khi
chờ đợi gặp Cremer, một cặp vợ chồng xôn xao, có lẽ là người Hungary, hối hả đến gặp
tôi và báo cho tôi biết tôi đã bị chụp lén. Điều nay khiến cho tôi khó chịu, mặc dù tôi
không thấy mối tương quan hợp lý nào với cặp vợ chồng trong xe. Tôi tiếp tục công việc
dự định trong ngày, gặp gỡ Cremer tại một căn phòng thư ờng được Tòa Đại Sứ CHDCĐ
dành cho các viên chức đi du lịch.

Sai lầm của chúng tôi là lựa chọn cảng Kappelskar nằm phía cùng Bắc làm nơi nhập cảnh
đến từ Phần Lan, theo nguyên tắc cẩn thận điệp viên tránh di chuyển thẳng từ nơi mình ở
đến lãnh thổ mà minh dự định gặp gỡ mối giao liên. Như thương lệ đi từ Phần Lan qua
Thụy Điển, chúng tôi đi qua biên giới không ai hỏi thông hành chúng tôi, vì vậy sự hiện
diện của chúng tôi không ghi vào hồ sơ. Nhưng tại hải cảng, sĩ quan tình báo lưu trú t ại
Tòa Đại Sứ ở Thụy Điển đến rước chúng tôi. Phản gián của Thụy Điển dầu sao cũng làm
việc miệt mài. Họ ghi số xe thuê của chúng tôi vào trong máy vi tính và bắt đầu giám sát
chúng tôi khi chúng tôi đi vào Stockholm.

Việc chuẩn bị bất bình thư ờng cho một vị khách đặc biệt đã làm tình báo Th ụy Điển chú ý
đến chuyến đến bí mật từ Đông Đức và họ thông báo cho đồng nghiệp tình báo Tây Đức,
với kết quả là tôi bị hai mạng lưới theo dõi chặt chẽ khi tôi đặt chân lên lãnh thổ của
Thuy Điển. Tình báo Tây Đức trở về nhà với hình ảnh của tôi chụp tại Stockholm, nhưng
không ai đoán biết người Đông Đức bí mật kia là ai cả.

Tấm hình đư ợc cất vào tủ sắt kín cùng với những tấm hình mờ do phản gián Tây Đức
chụp những khuôn mặt đáng nghi nhưng không nhận dạng được đích thực là ai. Khi
Stiller sang Tây Đức, tất cả những tấm hình này được trải trước mặt y để y nhận dạng
theo thông lệ. Đương sự tức khắc nhận ra tôi và từ ngày đó trở đi, tâm hình đí ch thực của
tôi xuất hiện trên các bài phóng sự của báo chí.

Biết rõ mặt mũi của người lãnh đ ạo cơ quan tình báo cũng ch ẳng đem lại một lợi ích thiết
thực gì cho kẻ địch, nhưng trong trường hợp của tôi, đối với Tây Đức việc này có lợi vì nó
phá vỡ hình ảnh thần bí bao bọc cơ quan tôi và bản thân tôi. Tôi không còn là trùm giàn
điệp không chân dung mà chỉ là một con người bình thư ờng. Vì Cremer bị bắt và hình của
tôi bị lộ, chúng tôi tiếc là phải cắt đứt liên lạc với nguồn tin của NATO, lý do chính của
chuyến đi sang Thuy Điển. Việc cắt đứt liên lạc này cuối cùng là một tổn thất lớn nhất do
Stiller gây ra.

Sau khi Stiller đào thoát, các chủ nhân Tây Đức của Stiller giao y cho CIA ở Hoa Kỳ một
vài năm. Y được cấp căn cước giả và ẩn nấp, theo sự hiểu biết của tôi, tại Chicago, nơi
đây y học kháo cấp tốc tiếng Anh và lấy chứng chỉ quản lý ngân hàng. Đương sự không
phải là một loại người kết thúc cuộc đời trong sự nghèo khó dưới bất cứ chế độ nào. Khi y
trở về Đức và bắt đầu làm việc cho một ngân hàng tại Frankfurt với một tên giả, chúng
tôi biết được tin nay nhờ hành lang tình báo. Một trong những nhân viên của chúng tôi
đem cả địa chỉ của y về và xin được hậu đãi l ớn nếu đưa được Stiller ra đến tận biên giới.
Mielke tức tốc gọi tôi vào văn phòng và nói v ới giọng điệu thô bạo cố hữu của ông :
“Thằng chó đẻ Stiller, chúng ta bắt nó về được không?”. Tôi biết ngay ông muốn nói gì:
Ông nhắc đến những vụ bắt cóc điệp viên trong thập nhiên 1950. Nhưng nay là thập niên
1980. Chính sách Ostpolitik và tinh thần hòa hoãn không cho phép có những lối hành
động khiên giáo loại này. Trước sự bực bội của ông Bộ Trưởng, Stiller vẫn nhởn nhơ tự do
và trở nên giàu có, điều khiến công ty của mình tại Frankfurt. Tôi xem Stiller là người
thắng cuộc duy nhất trong những hành trình dài đáng bu ồn của sự nghiệp của tôi.

May thay nghề nghiệp của tôi không chỉ có tin buồn mà thôi. Một buổi sáng đầu mùa thu
năm 1981, một phong bì lớn xuất hiện trong hộp thư của Tòa Đ ại Sứ Đông Đức tại Bonn.
Đó là một lá thư gởi cho giám đóc Cục 9 của HVA, Cơ quan Tình Báo H ải Ngoại. Cục 9,
phụ trách xâm nhập các cơ chế tình báo của Tây Đức, là cục lớn thứ nhì trong cơ quan
sau Cục Khoa Học và Kỹ Thuật và là một trong những cục bận rộn nhất. Đây là cục tôi
gắn bó nhất. Khác với hầu hết những người tình nguyện gia nhập - một danh từ để chỉ
những người tự nguyện góp sức cho hàng ngũ địch - tác giả ẩn danh của lá thư này ghi
địa chỉ chính xác, chứng tỏ đương sự biết rõ cơ c ấu tổ chức của tình báo Đông Đ ức.

Trong phong bì là một tờ giấy bạc hai mươi Đức Mã, con số thứ tự in trên giấy bạc để
dùng làm mật mã trong những liên lạc tương lai. Người gởi tự giới thiệu là một chuyên
viên cao cấp trong ngành tình báo sẵn sáng cung cấp thông tin với giá là 150.000 Đức
Mã mỗi lần trao đổi và một lệ phí hàng tháng gấp đôi tiền lương của tình báo Tây Đức. Lá
thư của đương sự viết với những hàng chữ in lớn. Để gợi sự thèm khát của chúng tôi,
đương sự thông báo một tin mật Tây Đức đang có kế hoạch kết nạp Christian Streubel,
cấp chỉ huy của Stiller trong SWT.

Chúng tôi không rõ danh tính của người gởi. Máy ghi hình an ninh nằm ngoài Tòa Đại Sứ
Đông Đức tại Bonn chỉ thâu được hình ảnh của vóc dáng một người che mặt đang bỏ thơ.
Mặc dù là mùa hè, đương sự đội nón khuất mặt và y có một vết thẹo trên mặt. Những
nét chữ in tự tín và vuông vắn là tất cả những gì chúng tôi biết.

Do một sự tình cờ chúng tôi khám phá được nét chữ này của ai. Đã lâu, cơ quan c ủa tôi
và chính quyến Tây Đức đọ sức với nhau trong một trò chơi lâu dài và phức tạp xoay
quanh một trong những nhân viên của tôi có với bí danh Wieland. Tên thật của y là
Joachim Moitzheim.

Là một sinh viên của các cha dòng Tên, Moitzheim, đã từng bị giam tại Liên Bang Xô Viết
thời chiến, làm việc cho chúng tôi từ năm 1979 tại vùng Cologne và đã thử kết nạp một
nguồn tin trong cơ quan phản gián Tây Đức (BfV) tại đây. Người này tên là Carolus, phụ
trách máy điện toán phản gián (tên là Nadis) tập trung danh sách những người đã đư ợc
điều tra và xem là an toàn và những người vẫn còn phải sưu tra và hồ sơ của họ.
Moitzheim tặng cho Carolus một ngàn Đức Mã nếu Carolus rà soát một tên tuổi làm việc
cho Hoa Kỳ. Carolus đánh hơi đây là một cái bẫy bởi vì y biết CIA đã xâm nh ập vào được
Nadis và y báo cáo việc này cho cấp trên.

Có hai người trong phản gián Tây Đức biết thủ đoạn này, một là sĩ quan cao c ấp tài giỏi
Klaus Kuron và hai là Hansjoachim Tiedge, giám đốc của Siêu Tra An Ninh của BfV. Công
việc của họ là bảo vệ không để Đông Đức xâm nhập cơ quan của họ. Tiedge và Kuron
mời Moitzheim đến một khách sạn, tại đây họ chận họng y nói rằng đã bi ết hắn muốn
mua chuộc Carolus. Họ đe dọa kết án tù dài hạn Moitzheim và ép y phải làm gián điệp
nhị trùng cho họ. Tây Đức lo ngại chúng tôi khám phá trò chơi này, nên họ không muốn
dùng Moitzhem làm người cung cấp tin sai đầu tiên cho chúng tôi. Trái lại, họ cung cấp
cho y một mạch tin mật trong đó có tên tuổi của hơn một trăm thí sinh khả dĩ k ết nạp
cho phản gián Tây Đức và những người làm việc trong nhiều dự án quốc phòng mật. Đây
là một sai lầm lớn và nhờ đó chúng tôi thu hoạch được nhiều ich lợi.

Trong khi tiếp tục nhận lương hàng tháng 2.000 Đức Mã của Tây Đức, Moitzheim vẫn còn
lưu luyến với ý thức hệ Đông Đức. Y báo cáo cho chúng tôi biết là Kuron và Tiedge đã thử
mua chuộc y và y chấp nhận trở thành gián điệp tam trùng, làm việc cho chúng tôi. Nhờ
ở vị thế này mà Moitzheim nhận diện được những chữ in trên phong bì là của Klaus
Kuron, người được xem là cấp chỉ huy của y trong vai trò gián đi ệp nhị trùng.

Khi xảo thuật đạt đến trình độ này, chúng tôi phải cẩn thận tối đa. Các cán bộ điều khiển
phải luôn luôn đặc biệt chú ý gián điệp nhị trùng (và ngay cả tam trùng). Một khi một
người đã tr ở mặt một lần, người ta có thể dè chừng y sẽ trở mặt lần nữa. Cái trò đ ặc biệt
này diễn ra một cách tốt đẹp trong một thời gian, trong đó Wieland/Moitzheim báo cáo
cho cấp chỉ huy tại Cologne những cuộc gặp gỡ láo với những thành viên của bộ tham
mưu của tôi tại Đông Đức – và thông báo cho chúng toi là y đã báo cáo cho họ. Đồng thời
chúng tôi yêu câu anh gián điệp tam trùng của chúng tôi cung cấp những tin thật từ
trung tâm phản gián Tây Đức. Chúng tôi yêu cầu đương sự kiểm soát tên những doanh
nhân mà chúng tôi tình nghi có dính líu đến các cơ quan an ninh, và chính quyền Tây Đức
nghi họ làm việc cho chúng tôi. Vì chúng tôi được coi như không biết là phản gián Tây
Đức tại Cologne cảnh giác về mối liên hệ tam trùng của Moitzheim, nên họ phải gởi
những thông tin trung thực để bảo đảm tính khả tín của Moitzheim. Bằng không họ sợ
chúng tôi sẽ bắt đầu nghi ngờ y là gián điệp nhị trùng. Nhưng chúng tôi khó lòng biết
chắc chắn những tin tức họ lấy từ máy vi tính ở Cologne có bao nhiêu phần là thật, có
bao nhiêu phần là giả. Giáo dục của các cha dòng Tên là một nền tảng thuận lợi trong
một thế giới gương phản chiếu.

Cologne về phần mình cố lượng định tầm mức hiểu biết của chúng tôi qua những câu hỏi
chúng tôi đặt cho Moitzheim. Bây giờ chúng tôi phải đương đầu với một trò trở cờ thứ tư
trong màn khiêu vũ phức tạp của làng tình báo. Kuron, vị sĩ quan đã t ừng điều khiển
Moitzheim, nay cũng muốn làm việc cho Đông Đức! Điều này quá đặc biệt, ngay cả đối
với những mối giây chằng chịt của thế giới gián điệp.

Kuron là một mẻ bắt lớn không có tiếng xấu lại nằm ngay trong trung tâm của phản gián,
một điều mà tất cả các cơ quan tình báo đều mơ ước. Nếu chúng tôi được sự công tác
của đương sự, chúng tôi có thể đánh giá được mức độ hiểu biết của Tây Đức về những
công tác của chúng tôi và chúng tôi có thể ứng biến cách phòng thủ của chúng tôi. Điều
này giống như phá hủy hệ thống đề kháng của trung tâm phản gián Tây Đức, phần
thưởng lớn nhất trong những phần thưởng. Nhưng trong một thế gián điệp nhị trùng và
tam trùng , chúng tôi muốn biết chắc là hành động của Kuron có phải là một cái bẫy
không.

Đúng vào thời điểm đã đ ịnh, Kuron liên lạc qua số điện thoại mã hóa. Chúng tôi thu xếp
gặp gỡ và chúng tôi quay phim từ trên nóc nhà để có tang chứng đương sự chủ động tiếp
cận chúng tôi nếu không may điều này là một dàn cảnh đánh lừa chúng tôi của phản gián
Tây Đức. Nhưng Kuron, tự xưng mình là Kluge (ti ếng Đức có nghĩa là “k ẻ khôn ngoan”)
khi đương sự thương lượng với Moitzheim, quả nhiên danh bất hư truyền.
Đương sự gởi thư tiếp, nói rằng y thích chậm rãi tiếp cận vấn đề, vì vậy không có diễn
biến gì mới. Vào năm 1982, khi chúng tôi thuyết phục đương sự đến gặp chúng tôi tại
Vienna. Tất cả những liên lạc được xử dụng qua những biến thái của con số mật mã trên
giấy bạc nhà băng y đã g ởi cho chúng tôi. Bởi vì tính chất cao cấp của y trong làng tình
báo Tây Đức, chúng tôi giảm thiểu mối nguy kiểm chứng chồng tréo. Mỗi lần y muốn nói
chuyện với chúng tôi, y dùng một trong nhiều số chúng tôi cung cấp. Rồi y rà soát bằng
cách nghe một loạt những con số mật mã trên radio làn sóng đi ện ngắn và rút trừ những
con số ghi trên từ giấy bạc. Hầu như không có ai có thể giải mã những liên lạc của chúng
tôi.

Mặc dù vậy, tôi phải mòn mỏi trông tin cuối tuần từ Vienna. Cho đến giai đoạn cuối cùng
đi đến sự hợp tác với Kuron, chúng tôi không hề loại trừ lời đề nghị của Kuron là một cái
bẫy. Karl-Christoph Grossmann, giám đốc cục 9 (công tác của cục bao gồm việc điều
nghiên những hoạt động của phản gián Tây Đức, di chuyển sang Áo với một đồng nghiệp
trẻ. Günther Neels, phó giám đốc cục 9, cũng đư ợc đặc cách gởi sang Áo để quan sát
cuộc thương thảo, cùng với một sĩ quan tr ẻ dùng làm liên lạc viên. Những chuẩn bị công
phu này giống như tuồng hát Vienna, Người Thứ Ba, có nhiều uẩn khúc.

Nơi gặp gỡ đánh dấu thành tích đáng kể nhất của cơ quan tôi đối với tổ chức tình báo của
địch là cổng vào của Công Viên Schönbrunn, một nơi nằm trong truyền thống mưu đồ và
lãng mạn vào thời Hapsburg. Các sĩ quan l ần lượt tới, mỗi người cẩn thận xem xét có bị
theo dõi hay không. Grossmann định vị trong một quán cà-phê phía đối diện với công
viên.

Công viên Schönbrunn

Đúng vào giờ đã đ ịnh, dáng vóc mạnh mẽ và thẳng đứng của Kuron xuất hiện. Cùng lúc
đó, Neels tiến gần đến cổng. Nếu có người lạ đứng xem, họ sẽ thấy hai người đàn ông, xa
lạ và xuất phát từ hai cơ chế đối địch, chào hỏi nhau như những bạn bè lầu đời. Và họ
tiến bước qua các vườn tược của công viên. Khi thấy con mồi của mình đ ến đầu bên kia
an toàn, Grossmann leo lên taxi và sau đó Kuron và người giao liên lên xe theo. Cả ba
đến một tiệm ăn. Tọa vị một cách thoải mái, Kuron tỏ vẻ thư thái.

Đương sự không băn khoăn về việc phản phé này và mô tả nỗi ấm ức trong nghề nghiệp.
Đương sự là hình ảnh của những tham vọng không thành, làm cho y day dứt trong suốt
cuộc đời công tác dân sự . Sinh trưởng trong một gia đình đơn sơ, ông ti ến thân trong
ngành tình báo, mặc dù ông không có bằng cấp đại học. Những thành tựu của ông đều
được tất cả những cộng sự viên công nhận, nhưng vì ông không t ốt nghiệp theo tiêu
chuẩn ấn định ông không được thăng chức. Tiền lương 48.000 Đức Mã (vào lúc đó là
25.000 Mỹ Kim) tương xứng với cuộc sống thoải mái nếu không muốn nói là sang trọng,
nhưng ông biết ở nơi này ông không còn cách gì thăng tiến cao hơn được nữa.

“Tôi đã v ật lộn nhiều” ông nói. “Mọi người đều biết tôi có tài, nhưng tôi không thể tiến xa
hơn nữa.” Giọng của ông có vẻ chua chát và điềm đạm, “Ở Tây Đức, họ nói là có tự do và
cơ may đồng đều cho mọi người để phát triển tài năng của mình. Tôi không cảm nhận
được điều này. Tôi có thể làm việc cho đến khi ngã quị và người ta vẫn xem tôi là con rối.
Rồi bọn họ đưa một tên quan lại ngốc ngếch được bố trả tiền cho đi học và có con đường
sáng lạn trước mắt cho dù nó làm gì đi nữa. Tôi không chịu đựng được cảnh này nữa”.

Mối ưu tư lớn nhất của Kuron là bốn đứa con của mình phải có phương tiện để lên đại
học, vì đương sự không đủ tài chánh để đắp thêm vào số tiền tài trợ của chính phủ. Khi
mọi người biết đến chuyện của ông sau khi nước Đức thống nhất, báo chí Tây Đức bôi
nhọ Kuron, cho ông là một tên gián điệp lạnh lùng và tham lợi. Nhưng tôi nhận định khác
động cơ thúc đẩy ông. Tôi xem quyết định của ông làm việc cho chúng tôi là hành động
của một người đã nhập tâm thông điệp thôi thúc của xã hội tư bản và vứt bỏ tất cả
những điều khác và hành động theo đó không một chút cắn rứt. Khi nhìn thấy những
người thành công và được trọng vọng xung quanh anh đã mua phương ti ện để tiến thân,
ông bán tài nghệ của ông cho thị trường duy nhất mà ông biết.

Klaus Kuron (tài liệu của Thomas Knauf)

Có một vài kẻ phản bội, ít nhất là trong đầu óc của họ, không ảo tưởng là mình phục vụ
cho hai chủ nhân khi họ nhận tiền của kẻ địch nhưng vẫn làm việc cho đất nước của
mình. Vào lúc Kuron liên lạc với chúng tôi, ông đã đánh m ất hết tinh thần nhập thuộc với
cơ quan của mình. Sau này khi ông đứng trước tòa án để làm nhân chứng trong phiên tòa
xét xử cá nhân tôi, ông cho biết ông không có cảm tính nào khác ngoài sự hận thù đối với
cơ quan ông làm việc. Việc chuyển đổi lòng trung thành của một điệp viên nằm vùng
chấp nhận ở lại nhiệm sở là một giấc mơ toại nguyện của ông trùm tình báo. Điều này
hiếm khi xảy ra, nhưng một khi đã đến, nó xứng đáng với lượng chi phí cao. Phần đông
những người tiếp cận địch thủ và đề nghị làm người nằm vùng mong muốn làm được như
vậy trong một thời gian ngắn và sau đó, như Stiller, mua đường tẩu thoát sang một nước
thứ ba.

Tôi liên tưởng trường hợp duy nhất tương tự với Kuron là Aldrich Ames, người đã hào
phóng cộng tác với KGB. Trong một khía cạnh quan trọng, Ames có cùng một vóc dáng
tâm lý. Giống như Kuron, đương sự cảm thấy bị đánh giá thấp, không được CIA tưởng
thưởng xứng đáng, đoan quyết là mình sáng giá hơn nhi ều những gì họ trả cho y. Cả hai
đều thích tiền và một cuộc sống xa hoa. Cả hai đều nhận thấy công việc lương thiện của
họ không được tưởng thưởng tương xứng. Cả hai đều am hiểu thấu đáo cơ quan của mình
và họ biết nếu họ khéo léo thương lượng, họ sẽ được phía địch mà họ phục vụ bảo vệ
chặt chẽ.

Nhờ Kuron, chúng tôi có một điệp viên nằm vùng siêu đẳng. Đương sự là người tuyển mộ
các điệp viên Đông Đức và Xô Viết và dùng họ làm điệp viên cho Tây Đức. Bây giờ ông
chuẩn bị cung cấp cho chúng tôi thông tin này. Giá phải trả cho ông cao thật và ông
muốn số tiền này được bỏ vào một chương mục danh số tại một nước thứ ba, nhưng tiềm
năng khai thác thật là to lớn. Là một điệp viên chuyên nghiệp cao, ông yêu cầu một số
những “điều khoản miễn hành”, giống như minh tinh Hollywood thương lượng cho một
cuộn phim, nhưng một lần nữa chúng tôi vẫn muốn đánh liều. Ông cũng mu ốn bảo đảm
những gián điệp nhị trùng mà ông tiết lộ danh tính cho chúng tôi, chúng tôi không được
bắt. Đây không phải là chỉ dấu của một nét đạo đức nào hết. Những gì Kuron tiên đoán là
một loạt những vụ bắt chắc chắn sẽ dồn nghi ngờ về phía cơ quan phản gián tại Cologne.
Tôi đồng ý.

Chúng tôi quá vui mừng chớp được manh mối này và đặt cho đương sự mật danh là Ngôi
Sao. Danh tính của đương sự được xem là tối mật và tên thật của đương sự tuyệt đối
không được nói ra, ngay cả trong vòng nội bộ kín đáo của tôi mặc dù được xem là không
có máy ghi âm. Những cuộc gặp gỡ khác tiếp diễn theo sau tại Áo, Tây BanNha, Ý,
Tunisia và Kuron tiết lộ tên tuổi của những điệp viên Đông Đức mà cơ quan của ông đã
tuyển mộ.

Cả hai người chúng tôi đều rất cẩn thận về nơi gặp gỡ, và chúng tôi chọn những nơi thích
hợp cho nghỉ mát.

Việc dàn xếp những yêu cầu của ông thật là xuất sắc. Kuron yêu cầu cá nhân tôi xác
nhận những điều khoản này. Trước khi tôi xin Mielke chấp thuận trả tiền nhiều hơn bất cứ
một nguồn tin nào tại Tây Đức, tôi muốn đích thân gặp Kuron. Với giấy thông hành ngoại
giao CHDCĐ, ông đến Vienna thông quá Bratislava trong một chuyến bay đặc biệt đi
Dresden, tại đây con rể của tôi, Bern, đến rước ông và dẫn ông đến một nhà an toàn ở
vùng quê. Kuron là một trong những loại người thích hợp nhanh chóng với bất cứ ngoại
cảnh nào, ngay cả trong một nhà an toàn tại một nước thù địch. Chúng tôi thương lượng
tài chánh với phong cách đặc biệt của người Đức. Ông cũng sẽ nhận tiền hưu bổng trong
công việc tráo trở này. Lương của ông tương đương với lương của một đại tá tình báo
Đông Đức. Ngày hôm đó, ông tiết lộ hai nhân viên của chúng tôi, Horst Garau và người
vợ Gerlinde, giao liên làm việc cho cơ quan của tôi chuyển giao những thư từ của các điệp
viên chúng tôi ở Tây Đức, nằm trong danh sách trả lương của Tây Đức.

Garau báo cho phản gián Tây Đức danh tính của những gián điệp y biết. Không có vụ bắt
bớ nào tiếp sau đó, vẫn theo giả thuyết là việc này sẽ bại lộ tung tích nhị trùng của Grau.
Nhưng những thông tin như vậy cho phép Tây Đức theo dõi hành tung của điệp viên và
biết họ gặp gỡ những ai. Nhưng qua Kuron bây giờ chúng tôi biết tất cả hành động của
họ.

Khi thương lượng xong xuôi, chúng tôi dùng cơm tối và uống rượu do đội đặc biệt tuyển
chọn của Bộ Công An phục vụ. Kuron kể chuyện tếu và tôi cho ông xem những phim nghỉ
mát của Đông Đức, nơi đây tôi nói tôi hy vọng thấy ông xuất hiện nhiều. Ông cũng đề
cập đến tên của cấp trên của ông, Hansjoachim Tiedge. “Một khối óc khôn ngoan” ông
nói. “Y tiêu sai hàng trăm Đức Mã như không và có t ật uống rượu”. Tôi ghi hồ sơ chi tiết
này để dùng trong tương lai, nhưng không bao giờ ngờ ông Tiedge hào phóng lại có thể
gặp tôi mà chúng tôi không hề mất công sức tìm đ ến ông.

Điều gì đã x ảy ra cho những điệp viên hay người nằm vùng bị Kuron tố giác? Theo sự
hiếu biết của tôi, cả hai cơ quan bên Đông và Tây Đức không hề tìm cách giết họ, cho dù
để trả thù hoặc ngăn ngừa họ phát tán thông tin. Nhưng cả hai không thể phủ nhận họ
đã khai thác và mua chuộc. Ví dụ, để buộc Moitzheim trở cờ, Tây Đức một cách thô bạo
cho anh lựa chọn giữa án tù dài hạn và hợp tác. Chúng tôi có lẽ cũng làm như v ậy.

Các điệp viên, khác vói sĩ quan điều khiển trong cơ quan tình báo, không b ị kết án tử
hình sau thập nhiên 1950. Việc giam giữ những gián điệp Tây Đức tầm vóc có giá trị hơn
nhiều vì họ có thể trao đổi với người của chúng tôi vào lúc thuận lợi. Kết án nặng nề nhất
dành cho các sĩ quan phản bội đất nước mình, như Werner Teske, một sĩ quan trong Cục
Khoa Học và Kỹ Thuật bị bắt quả tang năm 1981cất giấu hồ sơ của cục trong máy giặt ở
nhà. Y có ý định đào thoát sang Tây Đức và đem những tài liệu này làm quà tặng cho
tình báo Tây Đức để đổi lấy một cuộc sống tốt đẹp ở phía bên kia.

Teske là người bị xử tử cuối cùng tại Đông Đức năm 1981, một ghi chú thảm thương
trong lịch sử. Lý do quyết định hành quyết Teske vẫn còn là một bí mật đối với tôi. Tôi
thường bị trách, trong trách vụ lãnh đạo cơ quan tình báo hải ngoại, đã đ ể cho y bị giết
hoặc ít ra không ngăn ngừa việc này. Tôi cảm nhận có trách nhiệm về cái chết của y
không ? Để trả lời một cách lương thiện, tôi phải phân biệt nhiều loại trách nhiệm.

Khi Cục Phản Gián phát hiện Teske phản bội, họ cùng với Tổng Cục Tra Vấn đã bắt đương
sự, cả hai Cục này đều nằm dưới quyền điều khiển của Mielke và sau đó giao cho, như tất
cả những vụ án gián điệp tại Đông Đức, toàn án quân sự kín. Vào thời điểm này, cơ quan
chúng tôi không còn quyền lực gì nữa. Tuy nhiên, vào đầu thập nhiên 1980, bản án tử
hình vì tôi phản bội thường được chuyển sang án tù chung thân. Mặc dù tôi biết tương lại
của Teske mờ tối, tôi không nghĩ đương s ự sẽ bị giết. Án tử hình mặc dù là kỳ quặc đã
được thi hành vào tháng 6 năm 1981 tại nhà giam Leipzig, không kèn trống, theo khuôn
mẫu của Xô Viết một phát súng đàng sau gáy. Án lệnh nghiệt ngã này không phải dùng
để răn đe vì ngay cả các sĩ quan của tôi cùng không hay biết chuyện này. Điều này chứng
tỏ cho tôi thấy não trạng lúng túng của một quốc gia đang vào thời kỳ suy sụp.

Năm trước đó, năm 1981, Winifried Zarkrzovski, bí danh Manfred Baumann, một đại úy
thủy quân trong mạng lưới tình báo, đã ti ết lộ tên tuổi của các điệp viên Đông Đức làm
việc tại Tây Đức. Mielke rất phẫn nộ. Trong cuộc họp với các sĩ quan cao cấp năm 1982
ông kêu gọi triệt hạ những kẻ phản bội. “Những sai lầm như vậy khổng thể xảy ra vào
năm thứ 32 [xây dựng đất nước Đông Đức]… Chúng ta đồng tâm nhất trí về vấn đề này.
Chúng ta không tránh được sự hiện diện của kẻ khốn nạn trong hàng ngũ của chúng ta.
Nếu tôi biết hắn là ai, tôi sẽ ra tay một lần cho tất cả”.

Sự bực tức này chứng tỏ Mielke không bằng lòng với sự khoan hồng của luật pháp đối với
tội phản bội. Mặc dù tòa án trên danh nghĩa đ ộc lập trong những lãnh vực này, cấp lãnh
đạo vẫn có thể áp lực trong những trường hợp đặc biệt. Số mạng của Teske là kết quả
của những áp lực này. Theo luật pháp Đông Đức, đương sự có thể bị hành quyết dựa trên
bằng chứng là việc phản bội đã x ảy ra. Trước đây đã có ti ền lề trong trường hợp của một
sĩ quan tên Walter Thräne đang chuẩn bị đào thoát thì b ị bắt. Tòa án từ chối yêu câu tử
hình hoặc ngay cả tù chung thân của biện lý cục, trên căn bản là ý định phản bội đã rõ
ràng nhưng hành vi phạm tội chưa xảy ra. Vì vậy dựa trên căn bản của chính luật pháp
khắt khe của chúng tôi, việc hành quyết Teske là bất hợp pháp.

Tôi không đồng ý với những lời phê bình cho rằng tôi trực tiếp trách nhiệm về cái chết
của Teske. Nhưng tôi phải thú nhận là tôi đã không s ớm mạnh mẽ lên tiếng phản đối để
tiến trình của hệ thống luật pháp không quá gần gũi v ới nhà nước và có thể bị khiến dẫn
theo quyền lợi của họ. Tất cả những sĩ quan Đông Đức biết là án tử hình là kết quả rành
mạch của sự phản bội. Họ đã tuyên th ệ khi họ nhận chức vụ đầu tiên của mình: “ Nếu tôi
phản bội lời thề long trọng này, tôi có thể bị nghiem khắc trừng trị theo luật pháp của
Cộng Hòa với sự khinh thường của nhân dân lao động”. Án tử hình vẫn được duy trì tại
Đông Đức cho đến năm 1987.

Nhưng người ta không thể biện minh cho án tử hình khi làm gián đi ệp thời bình. Nhìn lại
những trường hợp phản bội mà tôi được biết ở cả hai phía, tôi giám quả quyết cái chết
không hẳn là biện pháp để ngăn chặn. Những động cơ thúc đẩy quyết định làm việc cho
phía bên kia rất là phức tạp và thường đi đôi với mức độ tự tin và hãnh tiến khiến cho kẻ
phản bội cảm thấy hiểm nguy không thể đụng chạm đến họ.

Còn về những “công tác mò tôm”, hoặc là những vụ thủ tiêu bất hợp pháp trong điệp báo
vẫn còn tiếp diễn ra. Tôi không dám bạo gan liệt kê tất cả những vụ mất tích bí mật do
CIA làm, vì tôi lại phải làm ngơ xóa bỏ những vụ vi phạm luật pháp của cơ quan tình báo
Xô Viết. Vào thập nhiên 1950, chính quyền Bulgaria và Ba Lan nổi tiếng là những cơ quan
sẵn tay nhất. Cơ quan phản gián Đông Đức cũng không vô tội, mặc dù tôi lại nhấn mạnh
một lần nữa tất cả những chuyện nổi tiếng và thường được thêm thắt về những vụ bắt
cóc và giết những kẻ phản bội là kết quả của việc xử dụng liều lượng quá độ thuốc ngủ
trong lúc bắt cóc chứ không phải là có ý thủ tiêu.

Trên thực tế, giết kẻ phản bội là một chỉ dấu của sự yếu kém, không phải là sức mạnh,
và tôi loại bỏ hành vi này ra khỏi tiêu chuẩn nghề nghiệp cũng như đ ạo đức của chúng
tôi. Việc thủ tiêu ngoạn mục trong tiểu thuyết gián điệp là một giải pháp sơ đẳng và bất
lợi so sánh vơi phương pháp chúng tôi dùng và khai thác những nguồn tin như Moitzheim
làm gián điệp nhị trùng và sau đó tam trùng để có mối lợi tốt nhất. Mặc cảm tội lỗi chúng
tôi có nằm trong việc khai thác các cá nhân, nhược điểm và lòng tham. Và những hoạt
động này không chỉ giới hạn trong giới điệp báo Đông Đức.

Kuron lấy làm hãnh diện trên phương diện nghề nghiệp khi cộng tác với chúng tôi, ông
thường giúp chúng tôi trong những dự án nằm ngoài những khế ước ký kết. Vì ông quá
lợi ích cho chúng tôi, nên tôi thu xếp cho ông có được một số điện thoại đặc biệt túc trực
đêm ngày để những thông tin khẩn cấp được chuyển ngay sang Đông Đức. Là một thành
viên của Cơ quan phản gián Tây Đức tại Cologne, ông tiếp cận những công tác kết nạp
cao cấp. Thông thường, ông để những diễn tiến công tác tiếp tục bình thường và thông
báo cho chúng tôi, vì ông và chúng tôi cả hai đều không có lợi gây sự nghi ngờ bằng cách
phá vỡ những cố gắng kết nạp của Tây Đức.
Tuy nhiên, cũng có m ột biệt lệ. Mười năm nay chúng tôi có tại Bonn một điệp viên trong
đảng Đoàn kết Dân chủ Thiên Chúa Giáo (CDU), đảng của Helmut Kohl. Đương sự là một
bạn lâu đời của Kohl từ những bước chính trị chập chững của vị thủ tướng ở Rheinland và
đã hoàn tất nhiều công việc cho công ty khổng lồ Flick, đại diện quyền lợi của công ty
trong đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo kể từ năm 1981 trở đi. Ông biết tất cả những uẩn
khúc của những thương lượng giữa chính trị và kỹ nghệ tại Tây Đức và là một nguồn tin
đáng tin cậy trong thông tin nội bộ chính trường Tây Đức cho chúng tôi.

Một đêm, Kuron, trong lúc làm việc trong văn phòng ph ản gián tại Cologne, nhận được
tin qua một đồng nghiệp có một người tình nghi là gián đi ệp Đông Đức đã b ị theo dõi đi
đến họp mặt với một điệp viên chính trị nằm vùng của chúng tôi tại Bonn. Cả hai đều vào
một căn phòng và bị phản gián Tây Đức theo sát. Họ chuẩn bị ập vào để bắt hai người.
Kuron nhận định tức thì nếu hai người này bị bắt cùng một lượt, tôi sẽ mất đi một điềm
chỉ viên chính trị quý giá tại Tây Đức. Do đó ông vội vàng báo qua số điện thoại khẩn cấp
mã hóa “Ngư ời của ông bị theo dõi tại Andernachstrasse”. Chúng tôi vô cùng liều lĩnh
điện thoại trực tiếp đến căn phòng và dùng m ật hiệu báo động cho điệp viên tẩu thoát,
bằng cách dùng một thổ ngữ báo đây là số điện thoại sai.

Chúng tôi mường tượng họ sẽ đổi ca canh gác về đêm vì đ ội canh gác đã đư ợc đổi một
lần rồi. Nếu họ ra tay bắt, chỉ có thể vào lúc sáng sớm. Vì vậy hai người tắt đèn, vờ như
đi ngủ và vừa quá 12 giờ đêm, điệp viên của chúng tôi chuồn đi qua ngã hầm đậu xe và
lập tức trở về Đông Đức qua ngả Thụy Sĩ . Ngày hôm sau, người nằm vùng của chúng tôi
rời căn phòng và cơ quan ph ản gián Tây Đức chạy ùa vào cao ốc nhưng người khách bí
mật đã biệt tích và không thấy một tang chứng nào về hoạt động điệp báo của người
khách này.

Người nằm vùng ở Tây Đức sau này bị lộ và bị kết án tù nhẹ. Xét cách đối xử nghiêm
khắc với các điệp viên nằm vùng khác, tôi đinh ninh đâu đó trong hệ thống liên lạc chính
trị nội bộ của Bonn, ông có người cầu bầu sự khoan dung nhân danh cá nhân ông.

Trong vòng sáu năm, Kuron đã làm những việc giá trị cho chúng tôi. Với sự trợ giúp vô
tình của đứa con trai vị thành niên của ông, ông đã tìm ra phương cách thu nh ững tín
hiệu của máy vi tính lên trên cuộn băng ghi âm của máy điện thoại hồi âm với tốc độ cực
nhanh. Đây là một cải tiến trong hệ thống cũ của chúng tôi, theo đó những tiếng bíp và
xoáy của những chữ mã hóa có thể bị máy của phản gián Tây Đức rất dễ nhận chân. Với
hệ thống của Kuron, âm thành được phóng nhanh, vì vậy những gì tai có thể nghe được
chỉ là một biến thái nhanh chóng hoặc một tiếng bíp ngắn giống như đường giây có trở
ngại kỹ thuật. Ở đầu dây bên kia, thông tin được tự động chuyển vào máy vi tính để thu
lên băng ghi âm và có thể giải mã khi cuộn băng được quay lại nhanh hơn vận tốc gởi đi.
Kuron đi xa hơn bằng cách chuyển thông tin trực tiếp vào đĩa của máy vi tính. Chuyên
viên điều nghiên chỉ cần bỏ đĩa vào máy vi tính để kiểm soát an toàn cao độ và đọc tài
liệu trên màn ảnh. Việc này rút ngắn nhiều thời gian đáng kể tiến trình giải mã.

Những thành quả của chúng tôi cho đến năm 1989 cho thấy sự vượt trội kỹ thuật cũng
chỉ có hữu dụng giới hạn nếu những cơ cấu cơ bản của của cơ quan không được sử dụng
đúng mức. Loại kỹ thuật chuyên môn này có thể mua được, nhưng tổ chức giỏi, kỷ luật
chặt chẽ và bản năng bén nhạy không thể mua được trên thị trường. Ví dụ, lý ra các
đồng nghiệp của Kuron phải thấy đương sự sống cao hơn mức lợi tức của mình, càng lúc
càng nhiều hơn khi năm tháng trôi qua. Khác với Aldrich Ames, Kuron rất thận trọng
trong việc tiêu dùng và bịa những câu chuyện ngụy trang. Ông rất chuyên nghiệp trong
phong cách ông giữ liên lạc với chúng tôi và sống một cuộc sống kỷ luật. Hơn nữa, người
phụ trách về thông quá an ninh trong cơ quan BfV (Nha Bảo Vệ Hiến Pháp) tại Cologne,
ông Hansjoachim Tiedge, một người nghiện rượu có rất nhiều vấn đề gia đình và n ợ bài
bạc, không ở tư thế để chú ý.

Tôi chuẩn bị hành trang để lên đường nghỉ mát tại Hung Gia Lợi mùa hè 1985 thì chuông
điện thoại reo. Cú điện thoại phát xuất từ vùng Magdeburg trên biên giới với Tây Đức.
Một người tự nhận mình là Tabbert bất ngờ đến và yêu cầu được nói chuyện với một đại
diện của cục tình báo hải ngoại. Qua Kuron chúng tôi được biết Tabbert chính là mã danh
của Tiedge, nên tôi ra lệnh đưa y qua Bá Linh sớm chừng nào tốt chừng ấy và không hỏi
gì thêm. Chợt nhớ vệ binh biên giới có chiều hướng không tiếp đón niềm nở những du
khách sang Đông Đức, tôi nói tiếp là phải cho y bia và thức ăn. Karl-Christoph
Grossmann, người đã thành công ti ếp đón Kuron lần đầu tiên và Cục 9 của đương sự đã
xâm nhập phản gián Tây Đức, được lệnh đón y tại ngã tư xa l ộ trên đường đến Bá Linh để
bảo đảm an ninh chặt chẽ khi đi qua thủ đô.

Ngay từ ban đầu tôi biết đây là một mẻ lớn và Tây Đức rất muốn thu hồi viên chức an
ninh then chốt này về, vì có lẽ đương sự đào tẩu trong một lúc ngẫu hứng. Đương sự
được đưa vào nhà an toan tại Prenden, ở vùng quê ngoài Đông Bá Linh. Nơi trú ngụ của
tôi ở vùng quê cũng nằm ở đây, và chỉ cách đó vài trăm thước là hầm boong-ke do bộ
chính trị xây cất để không chết cháy nếu chẳng may Hoa Kỳ thả bom nguyên tử. Vùng
này vì vậy được canh gác rất cẩn mật. Nguy cơ anh bạn mới của chúng tôi bị phía bên kia
bắt cóc trở về xem ra rất khó xảy ra.

Tiedge muốn gặp tôi trực tiếp, nhưng tôi từ chối. Tôi đã chuẩn bị về hưu và , vì biết đây
là một trường hợp đặc biệt có nhiều hệ lụy, tôi nghĩ tốt hơn hết là giao lại cho người kế
nghiệp tôi, Werner Grossmann. Tôi lý luận Tiedge cần tín nhiệm tuyệt đối với những
người y gặp đầu tiên tại Đông Đức; như vậy chúng tôi tránh thay đổi cán bộ điều khiển
giữa đường.

Người này ở trong tình trạng thảm não khi anh đư ợc thẩm vấn. Vì vóc dáng bê tha và cặp
mắt đỏ ngầu của y không ai nghi rằng y là một thành viên cao cấp của cơ quan an ninh
của Tây Đức. Để cho chắc ăn, chúng tôi yêu cầu y trình giấy phép an ninh, chứng nhận y
là một nhân viên của Văn Phòng Bảo Vệ Hiến Pháp (BfV) tại Cologne. Đương sự tự xưng
là Hansjoachim Tiedge và, với giọng cao và mệt mỏi giải thích: “Tôi tới và ở lại đây. Quý
vị là cơ hội cuối cùng của tôi”. Tôi điện thoại cho Mielke báo tin vui. Ngay cả với việc đào
thoát có giá trị cao này, Mielke thông thường chỉ nghĩ đến chức vị của mình và than phiền
là trưởng ban an ninh tại Magdeburg đã không thông báo ngay cho đươ ng sự và gằn
giọng nói người Bá Linh “tất cả những món hàng mất và tìm lại được phải giao cho tôi
trước tiên”.
Hansjoachim Tiedge

Tiedge xác nhân những gì chúng tôi biết qua Kuron về đời tư thảm não của y. Y là một
tay say mê cờ bạc và rượu chè. Vợ của ý chết trong một tại nạn xảy ra trong nhà sau khi
hai người say rượu đánh nhau. Người ta điều tra xem có án mạng không, nhưng rồi toà
tuyên phán đây là một cái chết vì tai nạn. Y có những đứa con bất kham không bao giờ
tha thứ đương sự vì cái chết của mẹ chúng và y gặp khó khăn trong công việc, vì đ ời
sống cá nhân xô bồ của y đã khi ến y bị kỷ luật. Bây giờ y biết lý do duy nhất y còn ở lại
cơ quan phản gián là để giữ kín những hiểu biết của y và cấp trên có thể kiểm soát y. Tất
cả nhân cách của y, y nói, đã bị phá hủy. “Nếu một trường hợp như tôi được đệ trình để
nghiên cứu,” đương sự suy nghĩ với một sự lương thiện đáng nể, “tôi sẽ phê đuổi y ra
khỏi cơ quan tức khắc.”

Tôi trạnh nghĩ, sau này khi đ ọc bản báo cao, cấp lãnh đạo của một quan điều tra an ninh
Tây Đức, một chức vụ đòi hỏi một cuộc sống thanh đạm, lại có một lối sống thích hợp với
một nhân vật ủy mị trong tuồng kịch. Chúng tôi thấy một người đã tụt xuống hỏa ngục
tâm lý đến độ chỉ còn hai lối thoát, tự vẫn hoặc đào tẩu. “Tôi không có can đảm để tự
vẫn,” y nói với cán bộ thẩm vấn.

Một câu hỏi nhiều người thắc mắc Tiedge có phải là điệp viên của chúng tôi trước khi đào
tẩu. Lần đầu tiên, tôi có thể khẳng định ông không phải là người của chúng tôi. Việc
Tiedge chạy sang Đông Đức làm cho tôi và tất cả mọi người đều ngạc nhiên. Tôi nghi ngờ
là đương sự trôi dạt về phía chúng tôi vì tình hình càng lúc càng tệ hại đối với y tại
Cologne, nhưng chúng tôi không tìm cách liên lạc với y. Y tìm đến chúng tôi vào một đêm
y nhảy lên xe hỏa và sang Đông Đức. Đương sự là kẻ đào thoát ngay thẳng một cách bất
bình thường. Trên thực tế y là người duy nhất. Tôi chưa bao giờ gặp một ai tự mô tả
mình là kẻ đào tẩu một cách thẳng thắn như vậy. Đương sự không tìm cách biện minh
quyết định của mình qua những câu chuyện thay đổi ý thức hệ. Đương sự nói : “ Tình
hình của tôi ở nước Đức thứ hai khá hơn nước thứ nhất”.

Quả nhiên là đúng. Chúng tôi bỏ thời giờ, tiền bạc và công sức để xây dựng lại con người
này từ một anh say rượu khố rách lúc anh nhảy qua biên giới. Với đôi mắt lợt lạt thất
thần và quầng đen, đương sự trông giống như một con gấu panda khi y đến nhà an toàn.
Chúng tôi cung cấp cho y một y tá, một bác sĩ và m ột huấn luyện viện thể lực. Họ giúp
đương sự ngừng uống rượu và mất đi 30 cân trong một tháng. Thiếu rượu và phải triệt để
kiêng mỡ, Tiedge cần được bảo bọc ở một khía cạnh nào đó và chúng tôi phát hiện y rất
ham muốn nhục dục. Chúng tôi có đàn bà sẵn cho y, họ là nhưng đảng viên làm việc
trong ngành an ninh trong vùng Postdam; họ được mời làm bạn với một kẻ đào tẩu và
bắt đầu đi lại với y. Vì bị căng thẳng tinh thần trong lúc thẩm vấn, phần lớn đàn ông chín
muồi để tỉm an nủi nơi người đàn bà. Chúng tôi lựa chọn những phụ nữ sẵn sàng chấp
nhận ăn nằm với những người này.

Họ không phải là gái mãi dâm, nhưng là những phụ nữ rất thực tế, đảng viên và trung
thành với đất nước, sẵn sàng làm việc này để đổi lấy cái chúng tôi gọi là lòng biết ơn của
nhà nước, có nghĩa là m ột căn phòng tươm t ất hoặc là đứng đầu danh sách chờ đợi nhà
nước cung cấp xe hơi. Dù sao đi nữa, thí sinh đầu tiên của chúng tôi không chịu đựng
được Tiedge. Chúng tôi kiếm một thí sinh khác, một cô giáo, và cô đã hoàn thành s ứ
mạng của mình, và làm cho chúng tôi nhẹ nhõm. Tiedge là một loại đàn ông đặc biệt
chẳng có gì hấp dẫn và tôi suy nghĩ cô ph ải là một người rất yêu nước. Nhưng ngay cả
những chuyện đồi bại nhất cũng có k ết quả đáng khích lệ hơn chúng tôi mong đợi. Sau
này hai người cưới nhau và đương lúc tôi đang viết họ vẫn còn ở với nhau.

Tiedge có trí nhớ như máy vi tính về tên tuổi và các mối liên lạc, nhờ đó điền vào chỗ
trống trong hồ sơ của chúng tôi, mặc dù không nhiều như y nghĩ, bởi vì y không biết
Kuron làm việc cho chúng tôi.

Việc báo giới tiết lộ sự bất hợp của Tiedge đối với cơ quan phản gián, dẫn đến sự đào
thoát của y phản ánh hình ảnh xấu xa của cơ quan này. Thêm vào đó, người vừa được bổ
nhiệm chức vụ giám đốc Tình Báo Liên Bang, Heribert Hellenbroich, một người bạn cũ và
cấp trên của Tiedge trong cơ quan phản gián, bị buộc phải từ chức vì thiếu khả năng.
Chúng vui mừng nhìn sự xáo trộn này, mặc dù sau này tôi biết Hellenboich là một trong
những cấp lãnh đạo lương thiện và đáng kinh của cơ quan tình báo Tây Đ ức.

Tôi có phần nào thiện cảm với tình thế khó xử của ông vì không những ông có một mà
hai tay nằm vùng đào hầm phá sập sự nghiệp của ông.

Sụ hiện diện của Tiedge ở Đông Đức tạo cớ cho chúng tôi để bắt Horst và Gerlinde Garau,
những người Kuron đã thông báo cho chúng tôi nhưng chúng tôi chưa dám b ắt vì làm như
vậy chúng tôi sẽ tiết lộ chúng tôi có người nằm vùng bên đó. Theo sự hiểu biết của phản
gián Tây Đức, họ đã bị Tiedge phản bội. Horst và Gerda Garau bị bắt và người đàn ông bị
kết án tù chung thân vào tháng Chạp 1986. Garau được thả ra sau bốn tháng và cảnh
cáo không được nói về trường hợp bắt giam của mình. Chồng của bà ta chết vào giữa
năm 1988 tại trại tù Bautzen. Gerlinde vẫn cho rằng tôi đã hạ lệnh giết ông chồng.

Thực ra không phải như vậy. Horst Garau là một người nhạy cảm và nhiều danh dự đặc
biệt không thích hợp với những điều kiện khắc nghiệt của trại tù. Tôi chắc chắn y đã tự tử
trong tù sau khi y biết rõ y không nằm trong danh sách các thí sinh gián điệp được trao
đổi. Mặc dù y bị xúc động mạnh vì trường hợp của mình – y bị phản bội hai lần bởi
những người y tín nhiệm trong tình báo Tây Đức – theo tôi y là một gián điệp lợi hại. Y
không đáng chết, nhưng tội y phải vào tù.

Ngày 5 tháng Mười năm 1990, hai ngày sau khi nước Đức thống nhất, Kuron chay qua
Đông Bá Linh để bàn thảo về tương lai của đương sự với các sĩ quan cao c ấp của tôi.
Lòng phản trác xuất hiện vô số kể khi thiên hạ đổ sô tìm cách cứu mạng. Một trong
những sĩ quan ưu tú c ủa tôi đã sa ngã trư ớc lời mời mọc giúp Tây Đức truy lùng những
điệp viên của chúng tôi. Đương sự là Đại Tá Karl Christoph Grossmann, chính sĩ quan này
đã giúp kết nạp Kuron và tiếp đón Tiedge. Cái vòng tố giác đã h ết chu kỳ của nó. Cũng
người này đã đư ợc tín nhiệm để bảo vệ hai thành viện cao cấp chúng tôi kết nạp từ phản
gián Tây Đức đã chính mình tr ở thành kẻ phản bội. Tôi nhìn những sự cố diễn ra với chút
cay đắng trước sự oái oăm này.

Grossmann phản bội có nghĩa là s ự nghiệp của Kuron cũng như c ủa rất nhiều nhân viên
của chúng tôi coi như chấm dứt. Kuron cũng bi ết điều này. Không nói một lời, y lấy lần
cuối cùng sổ tiền mười ngàn Đức Mã từ một sĩ quan cao cấp và chấp nhận lời mời duy
nhất mà cơ quan tình báo hải ngoại Đông Đức có thể đề nghị để bảo vệ những điệp viên
của mình đang b ị đe dọa, lời giới thiệu đến cơ quan tình báo KGB và cơ h ội để đào thoát
sang Moscow với sự trợ giúp của tình báo Xô Viết.

Vì phải lo cải thiện mối liên hệ với chính quyền Tây Đức, Liên Bang Xô Viết giúp chúng tôi
rất ít. Sau khi Werner Grossmann, người kế thừa chức vụ giám đốc tình báo hải ngoại
của tôi, năn nỉ dông dài và áp lực trực tiếp, cơ quan KGB chấp thuận cho tất cả các nhân
viên điệp báo ưu tú của chúng tôi nếu họ muốn được tị nạn bên họ. Ban đầu Kuron chấp
nhận nhưng sau đó lại thay đổi ý kiến, vì y sợ rằng y sẽ không bao giờ ra khỏi được Liên
Bang Xô Viết một khi anh đã vào.

Với lý lẽ trở về Cologne để bàn thảo với vợ về lời đề nghị này, Kuron điện thoại cho ban
kiểm tra an ninh của cơ quan phản gián Tây Đức và giải thích y cần bàn một chuyện mà
y tế nhị cho đó là một vấn đề. Y định chơi ván bài cuối cùng. Y nói với cấp chỉ huy là y đã
được tình báo KGB tiếp xúc và y chấp nhận làm gián điệp nhị trùng cho Tây Đức. Y đề
nghị kể lại cho phản gián Tây Đức những gì cơ quan Xô Viết tìm cách khám phá – giống
như việc y vẫn thường làm cho phía bên kia từ bao lâu nay. Một kẻ đào phản, bị áp lực
như Kuron đang phải gánh chịu và phải có thay đổi tâm lý lớn để nhảy sang phía bên kia,
thường có khả năng trở cở thêm lần nữa. Đây là một thủ đoạn xảo quyệt vì bị áp lực,
nhưng cơ may của Kuron đã chấm dứt.

Ngay lúc y bước vào văn phòng tại Cologne, nơi y đã xây dựng sự nghiệp, y bị bắt tức
khắc và bị thẩm vấn. Đêm hôm đó, tên gián điệp khôn ngoan nhất Đông và Tây Đức giơ
tay đầu hàng và thú nhận, và sau này y cũng nhận tội tại tòa án, y thực sự chỉ phục vụ
cho một bên, cho cơ quan Tình Báo Hải Ngoại Đông Đức. Mặc dù có những chứng liệu của
Karl-Christoph Grossmann từ trong nội bộ của cơ quan chúng tôi, chính quyền Tây Đức
phải mất một năm rưỡi để gom góp những tang chứng kết tội Kuron, vì sinh hoạt điệp
báo của y quá rộng rãi. Cuối cùng năm 1992 y bị kết án 12 năm tù giam tại Rauschied.
Y tỏ ra bất khuất cho đến cùng. Y bình luận về số phần của y: “ So với cuộc đợi đáng
thương của một số người luôn phải nhìn văn phòng ảm đạm của mình suốt ngày, tôi đã
sống được năm cuộc đời”.

Tiedge chạy trốn sang Liên Bang Xô Viết không bao lâu sau ngày thống nhất và sống
trong một tiện nghi đơn sơ, do KGB đỡ đầu trước tiên và sau đó nhiều cơ quan có tên
khác nhưng căn bản vẫn là cơ quan kế nghiệp tương tự. Có lời đồn y vẫn tiếp tục làm
việc cho họ để đánh phá Tây phương, nhưng tôi không nghĩ như vậy. Sau bao nhiêu
chuyển đổi bất ngờ trong những năm gần đây của lịch sử gián điệp tại Đức, tôi biết nhờ
thông tin với bạn bè trong các cơ quan cũ và m ới của Moscow tình báo Nga có cái nhìn
nghi ngại về cơ quan tình báo của cả hai nước Đức. Khi Chiến Tranh Lạnh kết thúc, họ đi
đến kết luận, mà cho đến này họ vẫn giữ, là không thể nào đoan quyết biết được một
điệp viên Đức làm việc cho phía bên nào.
Chương 11
Tình báo và phản gián
Nay Chiến Tranh Lạnh đã đi vào l ịch sử, người ta dễ dàng kết luận Liên Bang Xô Viết là
một sinh vật ghẻ lở, thiếu phối hợp, thua kém trong nhiều lãnh vực so với địch thủ muôn
đời Hoa Kỳ và chắc chắn thất bại ngay từ lúc phôi thai. Nhưng trong thời gian 40 năm,
xung đột giữa các cường quốc đã chi ph ối sinh hoạt thế giới, tình thế không đơn giản như
vậy. Trái lại, Tây phương lo ngại Moscow sẽ thực hiện được lời hứa của Nikita Khrushchev
là bắt kịp và vượt trội các quốc gia tư bản. Chính mối lo ngại này là động cơ thúc đẩy
sinh hoạt điệp báo và tuyên truyền ở một mức độ chưa từng thấy trong lịch sử. Hơn thế
nữa, suy diễn chính trị của Tây Phương bị những thành tích hào nhoáng của điệp báo Xô
Viết ảnh hưởng sâu đậm. Điệp báo và phản gián của khối Đông Âu hoạt động do động cơ
lo sợ chính sách đè bẹp của Tây phương và mối đe dọa chiến tranh tinh tú của Reagan.
Mỗi bên đều lo sợ phía bên kia chiếm thế thượng phong về mặt chiến lược.

Với tư cách của một cựu giám đốc của một cơ quan được công nhận là hữu hiệu và năng
lực nhất trong tình báo Cộng sản, tôi ở vị trí then chốt để đánh giá những thành quả và
những thất bại của ngành điệp báo chúng tôi.

Trong giới tình báo Đông và Tây, tôi mang tiếng là người của Moscow trong khối Đông
Âu. Điều này vừa Đúng vừa Sai. Nếu người ta nghĩ rằng mỗi sang thứ hai tôi gọi cho Điện
Cẩm Linh hoặc cho KGB để thảo luận về những công tác trong tuần, người ta lầm to.
Nhưng nếu họ có ngụ ý cho rằng tôi có được một mối liên hệ tín nhiệm và tương kính hỗ
tương với một vài khuôn mặt ảnh hưởng nhất của Liên Bang Xô Viết từ những ngày hậu
Stalin cho đến sự sụp đổ của khối Đông Âu, họ có lý. Nhờ tôi thông thạo tiếng Nga và
những cội rễ tôi có tại đây trước đó và trong thời Thế Chiến Thứ 2, tôi ở một vị trí độc
đáo để nhìn với cặp mắt của người bên trong và bên ngoài những tư duy của Liên Bang
Xô Viết và những hoạt động của các cơ quan tình báo của họ trong suốt thời gian chiến
tranh lạnh.

Cơ quan tình báo Xô Viết đã đ ạt được những thành tích vẻ vang nhất tại Châu Mỹ và
Châu Âu trước và sau Đệ Nhị Thế Chiến, trong thời gian họ trông cậy vào Đảng Cộng Sản
và giới trí thức của nhiều quốc gia, đặc biệt tại Đức và Anh quốc, và cả Hoa Kỳ. Liên Bang
Xô Viết là đỉnh cao thu hút những người mến mộ vào sinh hoạt tình báo vì lòng thâm tín.
Những điệp viện được kết nạp vào lúc đó là những thành phần giỏi nhất, cung cấp cho
Liên Bang Xô Viết cơ hội để bắt kịp cuộc chạy đua về vũ khí h ạt nhân, và nhiều người vẫn
không bị phát giác, ngay cả sau thời kỳ McCarthy và việc đào thoát của Igor Gousenko
sang Canada năm 1945.
Igor Gousenko

Ngay từ lúc bắt đầu, chúng tôi ở Đông Đức xem nghề tình báo là một nghề đáng kính
trọng. Chúng tôi có khả năng gầy dựng trên kinh nghiêm và những huyền thoại do các
điệp viên nổi tiếng đã làm việc chống Quốc Xã – Richard Sorge và các trợ tá Ruth
Werner, bí danh Sonya, đã từng làm việc tại Trung Hoa, Danzig, Thụy Sĩ và Anh cho Xô
Viết trong thời kỳ chiến tranh, và Max Christansen - Klausen, chuyên viên phát tuyến của
Sorge; Ilse Stöbe, làm điệp báo ngay trong lòng của Bộ Ngoại Giao Hitler; và Haro
Schulze-Boysen, một sĩ quan trong ngành không quân của Goering và là chỉ huy trưởng
của đội Rote Kapelle (Dàn Hòa Tấu Đỏ), trông đó có Arvid và Mildred Harnack, Adam và
Margarethe Kuckhoff. Chính cơ quan của chúng tôi cũng có nhiều đoàn viên kỳ cựu của
phòng trào Cộng Sản thời Third Reich, chẳng hạn như các cấp lãnh đạo đầu tiên của tôi
Wilhelm Zaisser, Richar Stahlmann, Robert Korb và Ernst Wollweber. Cá nhân tôi say mê
những chuyện về họ và thấy cần phải giới thiệu họ cho các thí sinh mới vào, xem họ là
gương mẫu trong vai trò của một nghệ sĩ điệp viên dưới chế độ vững chắc của xã hội chủ
nghĩa. Chúng tôi có một danh từ khá kiêu hãnh cho tất cả việc này: Traditionspflege, hay
là bảo tồn truyền thống. Một phần trong sự khác biệt giữa quan điểm Đông và Tây để
điều khiển một cơ quan tình báo thể hiện rõ, theo tôi nghĩ, trong ngôn ngữ chúng tôi
dùng để tự mô tả. Cơ Quan Tình Báo Trung Ương C IA và cơ quan tương xứng Tây Đức
BND, ấn định cấp bậc trên sinh hoạt dân sự, trong khi đó chúng tôi theo truyền thống
của Xô Viết đặt phẩm trật dựa theo quân đội; Bộ Trưởng Bộ An Ninh có cấp bậc Tướng
bốn sao và từ đó đi xuống. Chúng tôi có cả bài hát chiến trận và đoàn ca của bộ xướng
lên lời thề trung thành với Lý Tư ởng. Tôi dịch một trong những bài hát từ tiếng Nga tặng
cho những điệp viên làm việc trên lãnh thổ ngoại quốc. Nó khởi sự bằng những câu:

Cơ Quan của chúng ta là ánh sáng


Tên phải giữ bí mật
Thành quả của chúng ta kín đáo,
Luôn luôn trong tầm ngắm của địch.

Có một bài hợp xướng nâng cao khí thế các chiến sĩ trong m ặt trận vô hình, một câu gây
xúc động trích từ lời của các Chekist, nhân viên mật thám đầu tiên của Lênin. Chúng tôi
không bao giờ tự gắn cho chúng tôi cái tên gián điệp nhưng là Kundschafter, một người
tốt, một danh từ của người Đức theo Luther có nghĩa là ngư ời cung cấp tin tức. Chúng tôi
không bao giờ dùng danh từ “gián điệp” cho phía chúng tôi nhưng dành nó để chỉ định kẻ
thù của chúng tôi. Tất cả đây là tấm lý ngôn ngữ cơ bản, nhưng đã thành công trong việc
tạo bầu không khí trong đó các sĩ quan m ột cách tự nhiên xem mình là ngư ời đáng kính
và kẻ địch là người xảo trá.

Tôi phải lưu ý khiá cạnh quân đội chỉ là thứ yếu so với khiá cạnh ý thức hệ, nhưng Tây Âu
không đi sâu vào việc xây dựng những huyền thoại. Theo như tôi biết những cơ quan tình
báo như CIA, MI6 của Anh và phần lớn các cơ quan khác của Tây Âu đều có chung một
nhãn quan ảm đạm về nghề nghiệp và cá nhân mình. Tôi không muốn nói là họ không
chuyên nghiệp – còn lâu tôi mới có ý như vậy – nhưng họ được khuyến khích để họ
không tự hào là hấp dẫn hoặc có gì đăc bi ệt mà họ chỉ là những con ong thợ, thu thập tin
tức để cho những đầu óc cao kiến khác quyết định. Có lẽ chúng tôi đã đi quá xa trong
chiều hướng đối nghịch bằng cách đưa cơ cấu quân đội và mức độ nghiêm chỉnh cao về
tác phong cá nhân và tình thần đạo đức vào tổ chức. Nhưng nó tạo một nên tinh thần
gắn bó mãnh liệt, căn bản hỗ trợ cho lòng trung thành; nếu không có lòng trung thành
không có một cơ quan tình báo nào có th ể vận hành được.

Tôi tin chắc ít ai trở thành một kẻ phản bội chỉ vì tiền mà thôi. Cơ quan CIA luôn có
khuynh hướng dùng tiền để kết nạp đối tượng, và KGB cũng không ng ần gại làm việc
tương tự. Đặc biệt tại Hoa Kỳ, KGB không thể nào kết nạp đủ điệp viên có lòng thâm tín
và họ phải dùng đến tiền. Trong những năm cuối, những thành quả lớn nhất của họ, cao
điểm là vụ Aldrich Ames, là những người gia nhập vì tiền, không phải là những điệp viên
kết nạp qua một kế hoạch xâm nhập một định chế, một phương thức cơ quan chúng tôi
thường dùng lúc đầu trong thời đối tượng điệp viên tiềm năng còn là sinh viên.

Đối với những điệp viên như Klaus Kuron trong cơ quan phản gián Tây Đức, lẽ cố nhiên
chúng tôi chi tiền đầy đủ, nhưng đây là điều ngoại lệ chứ không phải là nguyên tắc thông
thường. Các cán bộ kết nạp Xô Viết khôn ngoan hơn nhận biết trong lúc tìm những điệp
viên tiềm năng ở phương Tây, họ phải ghi nhớ là luôn có những yếu tố khác đan chen
vào. Một trong những yếu tố này là điều mà tôi gọi là sự hấp dẫn tình dục của Đông Âu.
Ở đây tôi không ám chỉ các cô gái mãi dâm và các phim video mát mẻ đôi khi được cung
cấp để giúp các vị khách giải trí qua giờ, nhưng là lòng hăm h ở của các vị khách cảm
thấy được đón tiếp và ăn mừng ở phiá bên kia Bức Màn Sắt. Lâu lâu chúng tôi tổ chức
những cuộc thăm viếng vô tích sự nước Đông Đức hoặc ngay cả Liên Bang Xô Viết cho
những người chúng tôi chọn kết nạp, bởi vì những cảnh tượng không quen thuộc (lẽ cố
nhiện chúng tôi đã chọn lựa kỹ), có khuynh hướng làm mủi lòng những người Tây Âu dễ
ám thị.

Tôi có lần dùng đến phương pháp này để kết nạp một đảng viên cao cấp của Đảng Dân
Chủ Xã Hội Tây Đức có mã danh là Julius. Đương sự là chủ nhiệm của một tờ báo địa
phương và là một người có địa vị tương đối cao, có nhiều mối liên lạc, trong số đó có
Willy Brandt và những khuôn mặt lãnh đạo khác của đảng ông. Đương lúc tôi nghỉ hè
trên một chiếc tàu đi câu cá trên sông Volga, đồng thời lúc đó đương sự được mời đi một
vòng thăm viếng trạm máy phát điện Xô Viết và tham quan Stalingrad, nằm trên sông
Volga. Biết được tính đương sự thích phiêu lưu, tôi mời Julius lên một chiếc thuyền đi
sông, và chúng tôi xuống thuyền và thăm viếng một ngôi nhà nhỏ của công nhân và ăn
cháo cá. Bầu không khí lúc đó chan hòa trong tình hữu nghĩ và lòng hi ếu khách. Tôi làm
thông dịch viên trong khi đó Julius hỏi về đời sông, gia đình và trận chiến Stalingrad -
người này là một trong những người chiến đấu bảo vệ Stalingrad - và nói về tình hình
chính trị và kinh tế. Anh công nhân chỉ trích chính quyền Moscow và chúng tôi thảo luận
về những thất bại của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tính cách th ẳng thắn này gây ấn tượng
nơi Julius. Ngày hôm sau, chúng tôi đi thăm một biệt thư đăng được chuẩn bị để đón tiếp
Tổng Thống Eisenhower, nhưng ông không bao giờ đến. Tôi ký tên trong sổ lưu niệm với
toàn bộ danh vị của tôi Trung Tướng Markus Wolf, điều này khiến cho Julius cảm thấy bất
an vì tên của ông ta nằm cạnh tên tôi.

Nhưng một chuyến nghỉ hè nhỏ sâu trong lòng đất địch đã giúp đương s ự vứt bỏ mối lo
sợ vì đã giúp Liên Bang Xô Vi ết gìn giữ hòa bình thế giới, như chúng tôi kêu gọi. Nó cũng
gây cho đương sự những cảm giác khoái trá vượt qua cấm kị. Đương sự trở thành nguồn
tin chính trị trong đảng của y, và do đó chúng tôi tài trợ để giúp văn phòng riêng của
ông, một loại quỹ đen không lạ gì với các nền dân chủ phương Tây.

Tôi thường nói với các đồng nghiệp Nga: “Các anh không dùng vũ khí t ối hảo của các
anh. Các anh cho họ xem nhà máy phát điện, nhưng không cho xem người. Những người
này có thể sinh sống trong những căn nhà nghèo nàn, nhưng nó đánh động người ngoại
quốc hơn bất cứ điều gì khác”.

Chúng tôi rập theo kiểu mẫu tình báo Xô Viết và trong những ngày đầu họ là thầy dạy
chúng tôi về tình báo hải ngoại. Khởi sự vào thập niên 1950 chúng tôi qua Moscow để
gặp các giám đốc tình báo hải ngoại trong Tổng Cục 1 và để được giám đốc KGB chỉ dẫn
chi tiết. Khi trở về nước chúng tôi không còn hoài nghi gì về những vị chủ nhân, họ xem
chúng tôi như những con chốt nằm ngoài biên cương của một đế quốc hãnh tiến.

Việc học tập của chúng tôi diễn ra trong căn phòng khách tại Kolpachny Pereulok, trước
đây thuộc về Viktor Abakumov, kẻ hung ác đứng đầu hệ thống khủng bố SMERSH tác giả
những vụ thủ tiêu các kẻ thù giả và thật của Stalin thời Đệ Nhị Thế Chiến. Abakumov bị
bắn sau khi Lavrenti Beria chết năm 1953.

Được xây cất theo kiểu hùng vĩ tiền Cách Mạng, tòa nhà ba tầng có nhiều phòng, một
cầu thang máy, lò sư ởi ấm, và một phòng tắm lớn lót gạch cẩm thạch và một bồn tắm cũ
lớn.Tủ đựng bát đĩa trong phòng ăn ch ứa đầy bộ xứ và ly pha lê, và có một bàn ăn hình
trái xoan trên đó có đèn treo thấp; chúng tôi ngồi ở đó để bàn về chính sự thế giới với
các chủ nhân. Cửa sổ có treo những tấm màn dày. Nhà này có một tủ sách quý giá gồm
những tác phẩm cổ điển Nga (ít khi dùng đến), một phòng bi-da, một phòng chiếu phim;
tòa nhà được xem như một vật kỳ diệu ngay cả đối với các viên chức cao cấp của KGB vì
họ yêu thích sự pha trộn sở thích trưởng giả cổ với xa xỉ tầm thường của kẻ mới giàu.
Người ta được biết Abakumov đã đích thân tra tấn các tù nhân và bắt chước thói của
Beria bắt cóc những cô gái xin đẹp ở ngoài đường phố, đem họ về nhà rồi hiếp. Bao nhiêu
cảnh kinh hoàng đã xảy ra trong những căn phòng này, nơi mà chúng tôi đương gi ải trí
hoang toàng? Sau khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ, phòng thông tin của Cơ Quan Tình Báo
Nga được đặt tại đây.

Viktor Semyonovivh Abakumov

Mielke thích được các bạn Xô Viết chiều chuộng trong khung cảng hùng vĩ trong khi đó tôi
thích du ngoạn thành phố hơn là vào ở các ngôi dacha ấm cúng tận rừng sâu, khiến tôi
nhớ lại thời thơ ấu. Mielke chưa hề thoát khỏi nỗi bất an của kẻ mang gốc gác thợ
thuyền. Y muốn tôi ngủ cùng phòng với y vì y cảm thấy cô đơn – hoặc có thể y sợ cảnh
giới xung quanh. Về đêm, ông bạn đồng hành của tôi ngáy to như sấm, báo hiệu cho một
tuần lệ không lấy gì làm thoải mái.

Sau năm 1953, mối quan hệ với KGB bị tắc nghẹn do những xáo trộn trong nội bộ cấp
lãnh đạo Xô Viết sau cái chết của Stalin và việc hành quyết tên đao phủ thủ của ông,
Lavrenti Beria.

Lavrenti Beria

Sergei Kruglov, kế vị Beria, được Ivan Serov thay thế và Serov có nhiệm vụ thiết lập cơ
cấu tình báo Xô Viết tại Đông Đức: Văn phòng đồ sộ KGB tại Bá Linh, việc cài đặt tất cả
những đại diện của KGB trên tất cả các quận của Cộng Hòa Liên Bang Đức, và thiết lập
Cục Quân Báo to lớn tại Postdam. Serov chủ trương để cho CHDCĐ tự quản lý độc lập
tình báo và phản gián của mình. Tôi gặp ông lần đầu trong một hội nghị của các đại diện
cơ quan tình báo kh ối Đông Âu vào tháng Ba năm 1955. Ông luôn mặc quân phục, ngay
cả ở bề ngoài và trong tư tưởng và diễn văn của ông, ông luôn yêu cầu tất cả mọi người
dồn mọi nỗ lực để đánh kẻ thù chung là Hoa Kỳ. Người anh đỡ đầu Xô Viết của tôi là
Alexander Panyushkin, cựu đại sứ tại Hoa Thịnh Đốn và sau này là người trách nhiệm liên
lạc các viên chức ngoại quốc của Trung Ương Đảng.

Có một lần tôi đi một vòng xe ngựa qua khu rừng săn bắn dành riêng cho Bộ Công An tại
Wolletz, cách Bá Linh 40 dặm, cùng với Serov và sĩ quan thư ờng trú KGB tại Bá Linh,
Aleksandr Korotkov. Korotkov đã hoạt động trước thời chiến với bí danh « Erdmann »,
người điều khiển Dàn Hòa Tấu Đỏ tại Bá Linh. Họ trò chuyện với nhau hồi tưởng lại thời
đồng chí chiến đấu dẹp tan cuộc nổi loạn tại Hungary. Nghe họ nói chuyện, tôi có cảm
tưởng rất nhiều cấp tướng của KGB đã tham d ự vào cuộc đàn áp này.

Serov được Aleksandr Shelepin thay thế và Shelepin chỉ tại vị được ba năm cực nhọc (vào
thời gian này, đương sự đã tán đ ồng việc ám sát lãnh tụ khuynh hướng quốc gia Ukraine
Stepan Bandera tại Munich và đích thân gắn huy chương cho điệp viên đã thi hành vi ệc
này). Là một con người cao ngạo và nhiều tham vọng, Shelepin đã bị khai trừ vì đã ủng
hộ một cuộc đảo chánh bất thành nhằm lật đổ Khrushchev năm 1961 và được Vladimir
Semichastny thay thế. Đương sự là một người dễ mến và thân thiện, đức tính trông
mong của một người đã t ừng lãnh đ ạo Komsomol, cánh thanh niên của Đảng.
Đài tưởng niệm Stepen Bandera tại Ukraine

Mặc dù hiền từ, Semichastny có đầu óc bén nhạy, một người lý tưởng cộng sản cao đã
bước nhanh chóng lên những cấp bậc của cơ quan KGB và khôn khéo uốn theo chiều gió
khi Krushchev bị hạ bệ năm 1964 và Leonid Brejnev lên thay thế. Semichastny luôn bị
ám ảnh lo sợ hệ thống tư tưởng cộng sản bị ô nhiễm ngay trong nội bộ các văn nghệ sĩ
của Xô Viết; ông là người đã t ổ chức việc tố khổ Boris Pasternak với tiểu thuyết Dr.
Zhivago. Ông không chú ý đến tình báo hải ngoại, ông giao việc này cho Aleksandr
Sakharovsky và Sakharovsky được nhiều người trong đội ngũ kính trọng cũng như b ản
thân tôi kính trọng ông. Sakharovsky đối xử với tôi như một người con, chiếu theo tuổi
tác.

Tôi cố gắng tách rời cơ quan tình báo hải ngoại của chúng tôi với những “thái quá công
tác” của các cơ quan điệp báo ở Đông Âu; họ cũng trông theo KGB đ ể được hướng dẫn.
Mặc dù những hình ảnh rập khuôn vẫn được các phim ảnh và tiểu thuyết gián điệp đề cập
đến, bạo lực thân xác là một ngoại lệ chứ không phải là một quy luật. Tôi không nghĩ hai
bên có ý đ ịnh ám sát đối thủ và phần lớn những người bị giết là vì tai nạn sau khi đã
nhận được một liều thuốc gây mê quá mạnh, thường xảy ra trong những vụ bắt cóc.
Những vụ chết như vậy đã được phương Tây khai thác để trơ trẽn tuyên truyền, những
trang thời sự trắng đen của thập niên 1950; quả thật như vậy, chúng tôi thường thấy
những cái chết đó trên báo chí phương Tây vì họ không có những loại sự cố như vậy để
huyênh hoang tự phụ.

Điều này không có nghĩa là chúng tôi đôi lúc không mạnh bạo trong phương pháp của
chúng tôi. Cơ quan tình báo hải ngoại, vì được hòa nhập vào Bộ Công An vào giữa thấp
niên 50 và chiếu theo kiểu mẫu Xô Viết, dính liền với phản gián qua nhiều đường dây. Ví
dụ, nếu Cục 20 của Bộ Công An, trách nhiệm về văn hóa, chú ý đến một “phần từ phản
động - tiêu cực” - dùng theo ngôn ngữ phản gián – và nếu chúng tôi thấy tên của người
láng giêng người này nằm trong hồ sơ của tình báo hải ngoại HVA, anh ta hoặc cô ta
được dùng để thông tin và báo cáo về người này, bao lâu điều kiện an ninh cho phép.
Cụm từ mập mờ “phản động - tiêu cực” được áp đặt lên bất cứ cá nhân chống đối, bất
đồng, hoặc bất đồng phần nào với chính sách của cấp lãnh đạo. Đây là một trong những
dụng cụ tồi tàn nhất của Stasi để bắt bớ. Nếu cơ quan tình báo hải ngoại HVA nhận được
thông tin về những sinh hoạt và đường dây liên lạc của các văn sĩ Đông Đ ức sống ở ngoại
quốc, thông tin này được cung cấp cho cơ quan phản gián. Về phần chúng tôi, chúng tôi
nhận được từ cơ quan phản gián những thông tin về những mối liên lạc của công dân
Đông Đức với Tây Đức.

Những trao đổi thông tin như vậy là thủ tục thông thường trong khối Đông Âu, cũng như
Tây Âu. Có một vài người cho rằng việc cơ quan tình báo h ải ngoại cộng tác với cục phản
gián của Bộ Công An biến tôi thành công cụ giám sát và đàn áp công dân Đông Đức của
Bộ. Tôi không dám nói là không liên quan gì đến những vụ đàn áp, nhưng sự phân cách
tương đối nghiêm ngặt trong Bộ có nghĩa là cơ quan c ủa tôi rõ rệt không dính líu gì đến
những sinh hoạt phản gián nội bộ. Cơ quan HVA luôn luôn là cơ quan tình báo h ải ngoại,
và mặc dù chúng tôi hợp tác trên phương diện hành chánh với cơ quan phản gián, bản
thân chúng tôi chưa hề tổ chức những vụ bắt bớ hoặc kết án nào cả. Tuy nhiên, chúng tôi
biết rõ những gì đang xảy ra và những phương pháp hung bạo của phản gián. Vào những
thời gián cuối trong sự hợp tác giữa cơ quan HVA và cục phản gián của Bộ Công An, việc
dùng bạo lực là một ngoại lệ chứ không phải nguyên tắc, không có sĩ quan nào ra l ệnh
hoặc tán thành việc này. Tuy nhiên đã có những biện pháp đem ra áp dụng để phá vỡ và
ham dọa những nhóm đối lập và hậu quả tâm lý có lẽ cuối cùng gây thiệt hại hơn bất cứ
một cuộc tra tấn thể xác nào.

Những phương pháp như vậy, khó hình dung về chiều sâu và có tính chất tinh vi bỉ ổi,
được dùng để đánh phá khoa học gia Robert Havemann. Là một đảng viên Cộng Sản kiên
cường đã bị kết án tử hình thời Hitler và được quân đội Xô Viết giải thoát từ cùng một tù
với Erich Honecker, Havemann, vào cuối thập niên 1960, chỉ trích công khai đường lối
lãnh đạo của Cộng Hòa Dân Chủ Đức và yêu cầu cải cách dân chủ hệ thống chính trị trì
trệ của chúng tôi. Ngôi nhà nhỏ của ông tại Grünheide, gần Bá Linh, bị bủa vây và phong
tỏa giống như căn cứ địa của kẻ thù. Tất cả thân nhân trong gia đình, mọi vị khách đến
thăm đều bị giám sát bởi các điềm chỉ viên, những người này bao bủa mọi sinh hoạt của
họ, và những lời vu cáo được tung ra để bôi nhọ các bà vợ, kể cả những câu chuyện bịa
đặt về những mối tình vụng trộm. Một cựu nhân viên trong cơ quan của tôi tên là Knut
Wallenberger được cài vào nhóm đòi hỏi dân chủ của Havemann để gây áp lực và khuynh
đảo họ.

Robert Havemann, 1960

Những biện pháp tương tự cũng đư ợc áp dụng một cách có hệ thống cho thi sĩ và ca sĩ
Wolf Biermann, một người bạn của Havemann và cũng là thành viên c ủa nhóm dân chủ
của ông. Sau khi đi trình di ễn một vòng Tây Đức, ông không được phép trở về CHDCĐ và
bị tước một cách bất hợp pháp quyền công dân của mình.

Wolf Biermann, 2003

Karl Winkler, một thi sĩ trẻ và cũng là m ột ca sĩ mến mộ Havermann và Biermann, bị bắt
với những tội danh giả tạo “công khai gièm pha” năm 1979 và bị đày sang Tây Đức sau
một phiên tòa kết tội anh. Anh cho phát hành một quyển sách mô tả cách tra tấn tâm lý
trong lý ở tù; chúng tôi làm quen với nhau – có lẽ làm bạn với nhau – sau năm 1989, khi
tôi xuất hiện trong một cuộc tụ tập tại Alexanderplatz để đòi h ỏi cải cách. Anh đến ủng
hộ tôi trong thời gian tôi ra tòa vào hè năm 1993. Năm sau, Winkler bị chết đuối ở biển
Địa Trung Hải và cho tới nay không ai biết rõ trong trường hợp nào.

Robert Havemann và Wolf Biermann tại Grünheide


(đầu thập niên 1970)

Tất cả mọi nhà tù phá hủy nhân cách con người, nhưng một phần lớn tùy thuộc người
điểu tra sơ khởi và bản chất của cai ngục sau khi phiên tòa kết thúc. Tôi được các nhân
viên của tôi cho biết về cách tra tấn tâm lý dùng biệt giam, những ai đã ph ải chịu cách
hành hạ này trong các nhà tù phương Tây. Tôi chưa bao giờ thấy nhà tù Đông Đức,
nhưng tình tr ạng tại đây thông thường chắc chắn là tồi tệ. Những lời tường thuật của
Winkler về 13 tháng tra vấn và giam giữ của bản thân anh trước khi bị tống xuất là một
minh chứng ngột ngạt về việc coi thường nhân cách của tù binh, một kinh nghiêm mà tất
cả các tù binh đều chia sẻ. Sau này anh tổ chức những chương trình vi ếng thăm Bộ Công
An và nhà tù của bộ, và hai chúng tôi hiểu nhau và quý mến những ưu tư của nhau.

Nghe được những trải nghiệm của Winkler, một lần nữa tôi cảm thấy xấu hổ vì mặt trái
đen tối của cái Bộ mà tôi đã t ừng giữ chức vụ cao cấp bấy lâu nay. Tôi cũng không có
cảm giác khác khi tôi gặp Walter Janka, một đảng viên Cộng Sản kỳ cựu và là bạn đồng
hành của cha tôi. Ông kể cho tôi nghe việc ông bị truy tố và giam giữ sau biến cổ nổi dậy
năm 1956, sau đó ông bị giam vào nhà tù nổi tiếng Bautzen. Tháng 12 năm 1989, Janka
và tôi chủ tọa Đại Hội Đảng và cố gắng muốn biến Đảng Đoàn Kết Xã Hội thành một
đảng dân chủ xã hội. Tôi giúp soạn thảo một bản tường trình về những tội ác của chủ
thuyết Stalin và quá khứ của chúng tôi, ngỏ lời xin lỗi với nhân dân CHDCĐ. Những năm
sau đó, tôi và người kế vị Werner Grossmann luôn nhắc nhở cơ quan chúng tôi không thể
trốn trách nhiệm và những vụ đàn áp nội bộ, và chúng tôi xin được thứ lỗi.

Việc cơ quan công an nhà nước dùng võ lực để đối phó với các công dân bất đồng chính
kiến, hoặc những ai tìm cách rời bỏ quê hương mà mình không còn m ến yêu không khác
gì việc chà đạp lên lý tưởng của các vị sáng lập nên chủ nghiã cộng sản. Do đó, cơ hội để
cải cách đã bị bỏ lỡ, và trách nhiệm và tội lỗi của chúng tôi do khiếm khuyết vẫn còn là
một gánh nặng ray rứt cho đến ngày nay.

Tôi tuyệt đối chống những hành vi bạo lực khủng bố tinh thần và xâm hại đến tâm lý,
nhưng điều này lại không được áp dụng cho những cơ quan “bạn”. Một hôm, tôi nhận một
cú điện thoại của giám đốc trưởng phòng tình báo Bulgari tại Bá Linh yêu cầu chúng tôi
phái đến một bác sĩ đáng tin cậy để giữ bí mật để giúp họ trong một “vụ khó khăn”. Khi
được gạn hỏi y chỉ trả lời “Chúng tôi đang chuyên chở hàng hóa nhưng e rằng nó hư hỏng
rồi”.

Không bao lâu tôi được biết là nhóm Bulgari đã đánh thuốc một người mà họ đã “bắt cóc”
và không cân nhắc liều thuốc. Một bác sĩ đáng tin cậy có mối dây liên lạc với cơ quan tình
báo có nghĩa là đương sự không dễ gì bị chấn động. Vào khoảng một giờ sau đến tòa Đại
Sứ Bulgari, anh ấy điện thoại cho tôi. “Quá muộn”, “Bọn điên này cho anh kia một liều
mạnh có thể giết một con ngựa. Họ trói và đem nhốt người này trong thùng xe. Không có
không khí, lại chích cho y một liều thuốc cực mạnh. Một hỗn hợp với kết quả dễ tiên
đoán”.

Anh nhân viên tình báo Bulgari điện thoại trở lại, lần này giọng nói run rẩy. Vì đã vô ý
giết một kẻ đào tẩu, có thể là họ đã bắt cóc người này ở Tây Đức để đem về Sofia để
trakhảo, đầu của anh Bulgari hiện nay bị đặt trên thớt.

“Có thể nào chúng tôi để lại món hàng cho quý vị được không?”, anh ta nan nỉ. Tôi trả lời
“Chắc chắn là không được “.

Chúng tôi đôi co một lúc và cuối cùng trình việc này lên Mielke. Mielke quyết định thi thể
này thuộc thẩm quyền của Bulgari. Chúng tôi sua đuổi chiếc tàu chở hàng buồn bã này
lên đường trước khi cái xác kia khô cứng lại.
Hình như tôi khó lòng thuyết phục người khác là tôi không dùng những phương pháp này.
Tuy nhiên, những giải thích và phương pháp làm việc của chúng tôi trong những trường
hợp đã đư ợc trình bày trong quyển sách này cho những người tin hoặc chỉ muốn tin rằng
James Bond là con người thật thấy rằng chúng tôi không cần chơi trò “bẩn thỉu” và thuốc
ngủ để điều khiển một cơ quan tình báo h ữu hiệu.

Nhưng tôi vẫn biết, ngay cả sau khi Stalin đã ch ết, các ông Xô Viết vẫn còn một ban tiếp
tục khai triển phương pháp thủ tiêu kẻ thù của mình một cách quái gở. Ngay trong nội bộ
KGB sự hiện hữu của ban này là một bí mật được giữ thật kín. Ngoài việc ám sát Bandera
với viên đạn tẩm độc, KGB còn ám sát người đào tẩu Truchnovich, người đứng đầu tổ
chức xuất ngoại Nga trong Liên Đoàn Công Nhân, tại Bá Linh, khi họ tìm cách bắt cóc
ông. Một nhân viên KGB được phái đi khắp khối Đông Âu tìm khách mua nh ững loại hàng
như độc tố thần kinh bất khả phát hiện và thuốc độc ngoại da để đổ lên núm cửa. Món
hàng duy nhất tôi nhận của hắn là một túi “thuốc sự thật”, mà y khoe là “vô địch” với
lòng hón hở của một anh chào hàng tư gia. Mấy năm nay nó vẫn nằm trong tủ kín của
tôi. Một hôm vì tò mò, tôi nhờ một bác sĩ đã đư ợc cẩn thận chọn lọc đem chất này đi
phân tích. Ông ta trở lại lắc đầu kinh hãi: “Dùng những thứ này mà không có y sĩ theo
dõi có nhiều cơ may là người ông muốn khai thác sự thật sẽ lăn đùng ra chết trong
khoảnh khắc”. Chúng tôi không bao giờ dùng “thuốc sự thật”.

Nhưng cái chết luôn luôn là một rủi ro bất kể quý vị ở phía bên nào. Giá phải trả của một
người bị phát hiện phản trác lúc mới bắt đầu Chiến Tranh lạnh thường là hành quyết sau
khi bị xét xử. Nạn nhân đầu tiên tôi nghe nói đến là một phụ nữ tên Elli Barczatis, thư ký
của Thủ Tướng Đông Đức Otto Grotewohl.

Elli Barczatis Otto Grotewohl

Grotewohl đã từng là đảng viên Dân Chủ Xã Hội trước khi đảng SPD và nhóm Cộng Sản
xuất hiện ở Đông Đức năm 1948, và các đồng nghiệp SPD cũ ở Tây Đức vẫn hy vọng ông
rời bỏ nhóm Xô Viết và tách rời ra khỏi đảng lãnh đạo Đông Đức. Tây Đức bám sát ông
rất kỹ, nhưng vì ông tỏ ra lãnh đạm, họ chuyển sang cô thư ký của ông. Cô Barczatis bị
một nhân viên tình báo Tây Đức dẫn dụ và, sau này được biệt trong lúc thẩm vấn, được
biết cô có bí danh là “Daisy”. Theo sự hiểu biết của tôi, đây là lần đầu tiên sau Đệ Nhị
Thế Chiến phương pháp Romeo được cả các cơ quan tình báo của cả hai phía dùng để
dẫn dụ một người thân cận với một khuôn mặt chính trị hợp tác với kẻ thù.

Số phận của Barczatis trở nên hẩm hiu vì trường hợp của cô xuất hiện trước công chúng
ngay sau khi Julius và Ethel Rosenberg bị xử tử vì tội gián điệp, tiết lộ tài liệu nguyên tử
của Hoa Kỳ. Trò chơi trong ngh ề gián điệp, cũng như trong nhi ều phương diện khác của
Chiến Tranh Lạnh, là sòng phẳng. Cô bị kết án tử hình và bị chém đầu tại Frankfurt-an-
der-Oder ở biên giới Ba-Lan.

5/4/1951, vợ chồng Julius và Ethel Rosenberg

Trong bầu không khí chính trị này, tôi không thể nào không biết ngay từ lúc đầu chò trơi
này đã trở nên gay go. Tôi không dám nói là tôi không biết những hung bạo của cuộc
sống trong nước chúng tôi; những vụ bắt bớ tùy tiện và những mối lo sợ xâm chiếm các
cấp chỉ huy Cộng Sản trong thập niên 1950 cảnh báo cho tôi biết không ai có thể tránh
những tội quy phản bội.

Tình hình thay đổi hoàn toàn và có chiều hướng tốt hơn khi Andropov làm giám đốc KGB
năm 1967. Cuối cùng đây là khuôn mặt tôi ngưỡng mộ, không kiểu cách và không can dự
vào những mưu chước nhỏ nhen mà các vị tiền nhiệm mắc phải. Ông không có thái độ
hống hách của phần đông các viên chức Xô Viết vì họ thường tự cho mình là một đế quốc
lớn bất khả xâm phạm. Khôn ngoan hơn tất cả mọi nhân vật lãnh đ ạo ở Moscow, ông
nhận biết việc can thiệp quân sự vào Hungari năm 1956 và sau này vào Czechosloavkia
năm 1968 là một chỉ dấu yếu kém hơn là sức mạnh. Ông không muốn những biến cố như
vậy tái diễn lại. Andropov nổi bật hơn các bậc tiền nhiệm và các người kế nhiệm nhờ
những đức tính chính trị và nhân bản của mình. Viễn kiến của ông vượt xa những người
này. Ông hiểu những khía cạnh chính trong chính sách nội bộ và ngoại giao, những vấn
đề ý thức hệ và lý thuyết, nhu cầu phải thay đổi và cải cách cơ bản, nhưng ông cũng
nhận biết những rủi ro và những hệ lụy.

Lần đầu tiên tôi gặp gỡ Yuri Andropov và nói chuyện sâu sát với ông là vào năm 1968,
không bao lâu sau khi quân đội Nga dẹp tan mùa Xuân Praha. Ông đã thu xếp để viếng
thăm Đông Đức mùa hè năm đó, nhưng cuộc viếng thăm đã đư ợc dời lại vì những biến
chuyển ở Prague. Trời đã sang Thu khi ông đến gặp chúng tôi và chúng tôi vẫn còn bàng
hoàng vì những gì đã xảy ra và do dự không biết phải nói năng như thế nào cho thích
hợp. Trong tất cả những buổi tiếp tân của nhà nước tôi đã tham dự, buổi tiếp tân này để
lại ấn tượng trong lòng tôi. Chúng tôi ăn t ại một trong những tòa nhà của Bộ ở phía Bắc
quận Pankow vùng Đông Bá Linh. ( Trong những năm đầu, cấp lãnh đạo Đông Đức tất cả
sống tại đây trong một phạm vi chật hẹp, san sắt bên nhau, sau đó vì v ấn đề an ninh họ
phải di chuyển ra khỏi thành phố để đến ở khu dinh thự Wandlitz vào thập niên 1950.)

Nhà tiếp khách ở Pankow là một biệt thự, đã đư ợc lựa chọn với con mắt ngoại giao, trang
bị đầy đủ và sang trọng vừa đủ để bày tỏ sự kính trọng đối với các vị quan khách mà
không quá lộng lẫy vượt lên trên những trình diễn trong phầm ẩm thực mà các bạn Xô
Viết dành cho chúng tôi. Những vị khách phía bên Đức là Erich Mielke, mười một sĩ quan
cao cấp của Bộ Công An và tôi. Không khí buổi tiếp tân đêm đó thật là thoải mái, một
cách để tỏ lòng tôn kính đối với Andropov trong những thay đổi ông đã đem l ại cho tổ
chức. Nỗi lo sợ canh cánh - hiện diện trong thập niên 1950, mười năm đã qua mặc dù
Khrushchev đã gi ảm thiểu sự căng thẳng nhưng vẫn còn dấu ấn của Stalin - đã tan bi ến.
Andropov giữ phong cách và, không như nhiều người đồng hương của ông, vẫn còn văn
minh sau một vài chung. Quý vị có thể thấy mọi người đều thở phào nhẹ nhóm. Đây là
một cuộc họp mặt chỉ toàn là đàn ông. Ngay cả những người chiêu đãi cũng là đàn ông
được lựa chọn từ danh sách đặc biệt những người chiêu đãi đán g tin cậy nhất trong Bộ.

Câu chuyện xoay qua tình hình của Czechoslovakia, mà tôi tiên đoán thể nào cũng được
nói đến. Mielke suốt đời luôn bị ám ảnh vì nhóm Dân Chủ Xã Hội Đức mà ông trách cứ là
“chệch hướng ý thức hệ” trong phong trào chủ nghĩa xã h ội. Ông thấy buổi cơm tối này là
một cơ hội để xả xú-báp và gây ấn tượng với vị khách của chúng tôi, bày tỏ tinh thần
đoàn kết với Liên Bang Xô Viết trong quyết tâm dập tan phong trào cải cách tại Prague.
Ông đứng dạy và nói về nhu cầu ngăn chặn “đà suy thoái” do ảnh hưởng của nhóm dân
chủ xã hội, lúc đó đang ngự trị trong giới cải cách tại Prague.

Mọi người gật gù tán thành. Sau đó Andropov nói: “Đây chưa phải là toàn bộ vấn đề”,
ông nói, một cách thiện cảm nhưng cứng rắn. “Chúng ta có hai lựa chọn: can thiệp quân
sự, việc này sẽ làm hoen ố thanh danh chúng ta, hoặc là để Czechoslovakia tự chọn con
đường của mình, với tất cả những hậu quả sau này cho Đông Âu. Đây là một lựa chọn
không có gì lý thú”.

Andropov cầm ly lên và uống một ngụm nước lạnh, cả bàn đều im lặng, tất cả mọi người
đều chú ý nhìn ông.

“Chúng ta phải nhìn vào tình thế của mỗi một nước và xem xét những căng thẳng và
nguyên do của những giằng co từ đâu ra. Chính quyền (Cộng Sản) mới sẽ gặp rất nhiều
khó khăn tại Czechoslovakia. Còn về phần các nhóm Dân Chủ Xã Hội, tôi nghĩ chúng ta
phải cẩn thận xem xét mối liên hệ của chúng ta đối với họ và ở các nơi khác họ có một
tầm vóc nào không”.

Những điều cấm kỵ vừa mới được vứt bỏ làm cho mọi người nín thơ. Để khởi đầu, ông gạt
sang một bên những phân tích có tính cách giáo điều ý thích hệ về việc can thiệp thay
thế vào đó việc xét nghiệm những vấn đề nội bộ của một nước. Lời bình luận của
Andropov còn có ngụ ý là các đảng viên Cộng Sản Czechoslovakia đã chậm chạp không
nhận ra quy mô rộng lớn của sự phản đối và công việc cần phải làm để cải thiện tình
hình. Ưu tư của Andropov về số phần của giới lãnh đạo mới trực tiếp đi ngược lại với
đường hướng chính thức, vẫn cho rằng đám đông quần chúng tuân thủ luật pháp cảm
thấy sung sướng thấy trật tự đã tr ở lại và đảng Cộng Sản đã n ắm vững trở lại quyền
hành. Và những lời bàn sau đó của ông, cổ võ những mối liên hệ với tất cả khối Dân Chủ
Xã Hội, chỉ trích thoáng nhẹ mối hận thù thâm căn giữa cấp lãnh đạo Đông Đức và cánh
đảng tả lớn mạnh nhất của Tây Đức. Người ta cũng tiên đoán đi ều này, vì năm k ế tiếp
đó, nhóm Dân Chủ Xã Hội Tây Đức phát động phong trào Ostpolitik để tìm hiểu Đông Đức
rõ hơn. Ông Andropov gây ấn tượng nơi tôi vì ông đã m ạnh dạn xác định được vai trò
chúng tôi đang mong đợi nơi ông và qua lối nói chuyện thẳng thắn tại một diễn đàn
thông thường chỉ là lời nịnh bợ và giáo điều. Hứng khởi vì thái đ ộ của ông, chúng tôi rót
thêm rượu vào ly.

Dịp này cũng không ngăn c ấm Mielke tiếp tục tuyên bố những lời lẽ thái quá. Cho đến
mãi thập niên 1970, ông vẫn tiếp tục ăn mừng Stalin và yêu cầu “tung hô ba lần người
gương mẫu và nguồn cảm hứng của chúng ta” với một cử tọa càng lúc càng chán ngấy.
Ông cũng ám ch ỉ một cách lộ liễu là Liên Xô đã ph ạm một sai lầm lớn khi muốn tránh xa
những thành quả của Stalin. Nhưng lẽ cố nhiên ông chỉ nói trong nội bộ. Khi người Xô
Viết có mặt, đó lại là một chuyện khác.

Không như các vị tiền nhiệm, Andropov chú trọng đến chính sách ngoại giao và tình báo
hải ngoại. Ông cũng thay đ ổi cơ cấu quản lý của KGB và lập ra một hệ thống có nhiều
trách nhiệm hơn. Trong những công tác hải ngoại, ông mau chóng nhận biết cách làm
việc từ xưa tới nay đem cài đặt các điệp viên vào các tòa đ ại sứ, các phái bộ ngoại
thương và những các phái đoàn khác đại diện cho Liên Bang Xô Viết không phải là một
phương thức tốt để hoạt động. Tôi biết, do chính những cố gắng bất thành của tôi nhằm
điều khiển các điệp viên từ Tòa Đ ại Sứ của chúng tôi tại Washington, rất khó rời khỏi tòa
đại sứ mà không có một nhân viên FBI bám đuôi, mặc dù những năm sau này tôi gặp
Ivan Gromakov, trước đây là nhân viên thường trú của KGB tại Washington, và ông vẫn
cho rằng sự canh chừng của FBI dễ phát hiện và chưa bao giờ là một trở ngại cho công
việc ông tiếp xúc với các nguồn tin của ông. Một bất lợi khác trong công tác núp dưới
bóng ngoại giao là nguy cơ bị trả đũa trục xuất ngoại giao, có nghĩa là t ất cả những nhân
viên tình báo thường trú tại Tòa Đại Sứ hoặc có chức vụ tương tự có xác xuất cao bị tống
xuất ra ngoài trong những đợt trục xuất quanh năm. Các tòa đại sứ Liên Bang Xô Viết
đày tràn những loại điệp viên này nên có một năm Anh Quốc đã trục xuất tất cả là 105
người tình nghi là điệp viên nằm trong Tòa Đại Sứ Liên Bang Xô Viết tại Luân Đôn. Lề lối
của Andropov chuyển sang dùng các nhân sự bất hợp pháp (đưa một điệp viên xâm nhập
lãnh thổ địch với căn cước giả, giấy giả và một lý cơ bao biện cho sự hiện diện của mình
tại đây), góp phần cải tiến ngành điệp báo, xem ra không được các cán bộ tán thành, vì
họ muốn được sự hỗ trợ của cơ chế.

Việc chuyển đổi dùng các nhân viên bất hợp pháp là một thực tế mà chúng tôi phải ép
buộc tuân theo vì nhu cầu. Bởi vì nước CHDCĐ không được các nước phương Tây thừa
nhận trên mặt ngoại giao cho đến khi Hiệp Ước Cơ Bản được ký kết với Tây Đức, chúng
tôi trong mọi trường hợp không thể nào có được hào phóng để dùng các Tòa Đài Sứ như
những căn cứ gián điệp và chúng tôi dùng « đường dây bất hợp pháp » (chúng tôi dùng
cả cú pháp của đội Bolshevik xưa). Andropov xem xét kỹ lưỡng phương pháp của chúng
tôi và đi đến kết luận có ít điệp viên được hưởng tiện nghi của một cuộc sống có định chế
và nên gởi các điệp viên bất hợp pháp ra ngoài nhiều hơn để họ tự xoay sở.

Ông nghiên cứu kỹ lưỡng sự phát triển của tình báo Đông Đức và yêu cầu tôi cung cấp
những ví dụ cụ thể về phương thức điều khiển điệp viên. Tôi cảm thấy hãnh diện được
ông hỏi và tôi vui vẻ làm việc này.

Chúng tôi không bao giờ cung cấp cho nhau tên của các điệp viên. Quy tắc thứ nhất của
truyền thống điệp báo có từ thời khởi đầu đường hướng của đảng Cộng Sản cách mạng,
và đó là một người chỉ được tiếp cận những gì ngư ời đó cần biết. Cách ngăn cấm tế nhị
này phòng hờ sự khiển trách lẫn nhau trong trường hợp có kẻ phản bội, phòng hờ cơ
quan nọ khiển trách cơ quan kia.
Việc Andropov tiếp nhận những thông tin nằm ngoài KGB cũng cho th ấy ông cảm nhận
được mối tương quan thực sự giữa các nhân viên ngoại giao và các sĩ quan tình báo trú
ngụ tại Tòa Đài S ứ để kiểm chứng những báo cáo chính thức. Phong cách đôi lúc hống
hách của KGB khiến cho những lúc làm việc giữa các vị đại sứ và ủy viên thường trực của
KGB rất cằn thẳng trong nhiều tòa đại sứ. Điều này càng rõ nét hơn nữa vì tài lực của
KGB dồi dào hơn ; họ luôn được tài trợ đầy đủ, và các nhân viên sắm sửa được xe cộ cho
bản thân, trong khi đó chỉ có các nhà ngoại giao cao cấp của Xô Viết mới có xe riêng mà
thôi ; các nhân viên ngoại giao khác bắt buộc phải tùy thuộc vào đội ngũ xe của tòa đ ại
sứ. Những oái ăm nay không những là nguồn gốc tạo nên lòng bất mãn, nó cũng giúp
cho các cơ quan phản gián ngoại quốc phát hiện những điệp viên của KGB làm việc ẩn
núp dưới danh nghĩa ngo ại giao.

Về ảnh hưởng chính trị rộng lớn của Andropov, tôi được biết ông là người khởi xướng
nhiều ý kiến cải cách mà sau này Gorbachev nhận là của ông. Ông nhìn nhận một trong
những nguyên nhân kinh tế của Xô Viết tụt hậu quá xa so với phương Tây là vì chỉ huy
tập trung và sự tách biệt hoàn toàn giữa khu vực quân sự và dân sự. Những đầu tư to lớn
của chính quyền trong những tập hợp công nghệ quân sự tại Hoa Kỳ và các nước tư bản
tiên tiến có thể nhờ các công ty tư nhân biến cải thành những tiến bộ dân sự lợi ích trong
ngành kỹ thuật cao chẳng hạn như ngành hàng không phản lực và máy vi tính. Nhưng tại
Liên Bang Xô Viết, việc tôn sùng bí mật đã tạo nên một sức cản không thể dứt ra được,
như các bộ trưởng của CHDCĐ có thể chứng nhận do kinh nghiệm bản thân với các bộ
liên quan đến quân đội của Xô Viết. Khi tôi đề cập những vấn đề này với Andropov, ông
nói với tôi ông đang cố gắng đem đường hướng suy nghĩ này ra áp d ụng trong các ủy ban
ông đã thành lập với các chuyên viên dân sự và quân đội có nhiệm vụ phải học hỏi từ
những so sánh giữa hai hệ thống kinh tế đang tranh đua. Andropov công nhận tình báo là
một dụng cụ quan trọng để học hỏi phía bên kia để cải tiến hệ thống xã hội chủ nghĩa và
tâm trí sẵn sàng xem xét những đường hướng khác của ông tương phản với sự trì trệ
xung quanh ông. Ông suy tưởng đến khả năng “con đường thứ ba” dân chủ xã hôi do
Hungari đề xướng và một vài nhóm tại CHDCĐ, và ngay cả trong thời kỳ đàn áp các nhà
bất đồng chính kiến, mà ông có phần trách nhiệm trong đó, ông ta kín đáo bàn thảo về
những kinh nghiệm của Hungari trong bối cảnh đa nguyên chính trị cũng như b ối cảnh tự
do kinh tế.

Tôi vẫn thường tự hỏi ông Andropov có thể làm được những gì nếu ông sống được mười
năm tại chức thay vì một vài năm sống đau yếu. Chắc chắn ông sẽ không làm những gì
Gorbachev làm. Ông tỏ ý hy vọng có thể chuyền hóa sở hữu xã hội chủ nghĩa sang thị
trường tự do cũng như c ởi mở chính trị, và chắc chắn những bước tiến đi đến cải cách sẽ
được cân nhắc kỹ lưỡng.
Yuri Vladimirovitch Andropov

Khi làm việc với các nước xã hội chủ nghĩa khác, Andropov không bao giờ ra vẻ kẻ bề
trên theo kiểu cách của Brezhnev, người tiền nhiệm, hoặc Chernenko, người kế nhiệm.
Vyacheslav Kochemassov nhớ lại khi ông được bổ nhiệm làm đại sứ Xô Viết tại Bá Linh,
Andropov nói với ông: “Chúng ta cần một vị đại sứ mới ở nước CHDCĐ, chứ không phải
một ông thống đốc thuộc địa”. Chấm dứt lề thói phong liêu đế quốc cũ c ủa Nga có thể
nào đưa đến việc cải cách thành công xã hội chủ nghĩa đó vẫn còn là một vấn đề tranh
cãi.

Có lẽ những hồi ức này giúp soi sáng những mâu thuẫn mà Andropov cho phương Tây
thấy. Người ta quảng cáo ông là một tự do trong phòng, ngay cả là một người mến
chuộng jazz – nhưng những nhà nghiên cứu thấy điều này khó dung hợp với việc đối xử
tàn bạo với các người bất đồng chính kiến. Nhưng họ lầm. Tôi có thể làm chứng là ông
chắc chắn mong muốn cải cách, nhưng nó sẽ không đến theo kiểu dân chủ của phương
Tây, mà ông cho là hỗn loạn. Những cải cách của Andropov được áp đặt từ trên xuống,
với tất cả những giới hạn đi theo. Nhưng tôi tin rằng những cải cách như vậy theo một
đường hướng chừng mực hơn và có cơ thành công hơn.

Sự kiện tôi ái mộ ông Andropov không có nghĩa là tôi luôn luôn theo đường hướng của
ông, nhất là khi tôi tìm cách dàn xếp trao đổi gián điệp với Günter Guillaume năm 1978.
Tôi nghĩ rằng chính quyền Bonn sẽ chỉ đổi Guillaume với một nhân vật tầm cỡ của phiá
bên Xô Viết. Điều này sẽ làm họ rạng danh vì họ sành điệu trong trò chơi ngoại giao, và
một số các điệp viên Tây Đức được thêm vào danh sách để chuyện đổi trác có phần nhẹ
nhàng cho tiêu thụ nội bộ. Trong lúc tôi nguệch ngoặc những tên tuổi khả dĩ đem trao đổi
trên một phong bì, tôi thấy mấu chốt – và là vấn đề – chính là Anatoly Sharansky. Hay
đúng hơn, nỗi ám ảnh của điện Cẩm Linh đối với ông.
Anatoly Sharansky

Giống như nhà đạo đức và tác giả tố cáo Gulag (tù) Alexandr Solzhenitsyn và nhà khoa
học và bất đông chính kiến Andrei Sakharov, cha đẻ của bom hạt nhân và sau này trở
thành người tranh đấu cho nhân quyền, ông Sharansky, trong vòng năm năm nhờ phát
động phong trào nhân quyền cho người Do Thái đã tr ở thành một đối tượng tôn kính
trong giới bất đồng chính kiến. Đây là một vấn đề uy danh cũng như may mắn trong việc
gặp gỡ đúng nơi đúng lúc các ký giả có cảm tình – có hăng trăm người bất đồng chính
kiến khác cũng dấn thân như vậy nhưng không ai để ý đến tại Liên Bang Xô Viết. Vì đã
thành công nên ông viện sĩ nhút nhát này đã trở thành đối tượng thù ghét cá nhân cao
độ trong KGB lẫn cả Đảng. Tôi biết theo kinh nghiệm của tôi trong việc đối phó của
Moscow đối với các kẻ nội thù, việc này thường xuất phát từ một quyết định muốn tống
khứ cá nhân khuấy nhiễu này; Solzhenitsyn bị đem lên máy bay để đưa sang Đức ;
Sakharov đã bị (do chính tay Andropov) đi đày nội xứ tại Gorky. Tại sao lại không tống
khứ luôn Sharansky? Nhưng Andropov không theo lối lý luận này.

Ông nói “Đồng chí Wolf có biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta tung ra tín hiệu này
không? Người này là một tên gián điệp [Andropov nghĩ rằng Sharansky dính líu với CIA],
nhưng quan trọng hơn nữa, y là người Do Thái, và y lên tiếng cho người Do Thái. Có quá
nhiều nhóm đã bị đàn áp trong nước chúng ta. Nếu chúng ta chấp thuận bước đầu căn
bản này cho người Do Thái, người nào sẽ là kẻ kế tiếp? Người Đức ở vùng Volga? Người
Tartar ở vùng Crimea? Hoặc có thể là nhóm Kalmuck hay Chechen?”.

Ông đề cập đến những nhóm sắc tộc do Stalin lưu đày xa xứ trong một chiến dịch nhằm
nhổ tận gốc những mầm mống chống đối dứt họ khỏi cội rễ địa lý. Cơ quan KGB có một
danh từ hành chánh mà tôi chưa bao giờ nghe nói đến để gọi các nhóm này :
kontingentirovannye. Kontingent ám chỉ “những thành phần”, hoặc nhưng hạng, quần
chúng không đáng tin cậy. Những “thành phần” này được xem như những kẻ thù tiềm
tàng bất mãn, và Andropov đưa ra một con số tổng kết kinh hãi là tám triệu năm trăm
ngàn người.

“Chúng ta không thể bất cẩn tìm cách giải quyết tất cả những vần đề này trong lúc thời
buổi khó khăn này”, ông nói tiếp “Nếu chúng ta mở tất cả các van khóa ngay lập tức, và
quần chúng bắt đầu bày tỏ những nỗi bất bình, mọi việc sẽ đổ dồn vào và chúng ta
không có phương tiện để ngăn chặn sự việc này”.

Đây là con người thẳng thắn của Andropov mà tôi được biết, đoạn tuyệt với những lối giải
thích ôn hòa và sai trái của giới lãnh đ ạo cũ, ông nói hu ỵch toẹt lý do tại sao Liên Bang
Xô Viết kiến quyết trong vấn đề nhân quyền: lo sợ - sợ tiềm năng xung đột do di sản của
Stalin để lại, di sản những kẻ thù tiềm tàng ngay trong nước. Sharansky có thể trở thành
ngọn cờ đầu không những cho nhóm Do Thái tại Liên Bang Xô Viết, nhưng cho hàng hà
sa số các kontingentirovannye.

Ngày nay không có bằng chứng cho thấy Sharansky có liên hệ với CIA, nhưng Andropov
nhất quyết cho rằng đương sụ dính líu. Ông không có lý do gì đ ể nói láo sự việc này, nhất
là đối với tôi. Nhưng vượt lên trên những mối liên hệ điệp báo, mối ưu tư chính của
Andropov nằm ở nơi khác, và tôi rất kinh ngạc ông đã công khai đ ề cập đến những vấn
đề sắc tộc tiềm tàng. Andropov tiếp tục nói : “Đương sự sẽ cầm cờ cho tất cả dân Do
Thái. Những chống phá thái quá nhắm vào người Do Thái của Stalin đã khi ến cho những
người này rất hận chính quyền Xô Viết và họ có những bạn bè thế lực ở ngoại quốc.
Chúng ta không cho phép việc này xảy ra trong lúc này”. Ông cũng rất thẳng thắn về đà
suy thoái của Liên Bang Xô Viết, khởi đầu vào lúc ông, nhắc đến cuộc gặp gỡ của chúng
tôi cách đây mười bốn năm, xác định cuộc xâm lấn Czechslovakia năm 1968.

Tôi cố gắng nhiều lần thuyết phục Andropov chấp nhận trao đổi Sharansky nhưng lần nào
tôi cũng thất bại. Andropov bực bội mỗi lần nghe đến tên người này, và ông trở nên nóng
nảy và la hét: “Hắn là một tên gián điệp, có vậy thôi”. Và cuộc đối thoại chấm dứt tại
đây.

Cuối cùng bệnh tình của Guillaume (giống như Andropov, anh bị bệnh suy nhược thận)
đã cho phép ông rời tù nhanh hơn. Chính quyền Tây Đức phải chấp nhận tính toán, cho
dù họ không muốn tỏ ra khoan hồng, họ không được lời gì nhiều trong cuộc trao đổi với
một xác chết. Thêm vào đó, Erich Honecker, sau khi kế nghiệp Ulbricht, bắt đầu chú ý
đến vấn đề này và ra tín hiệu cho Helmut Schmidt biết phải có một động thái nào đó nếu
không ông sẽ giới hạn việc trao đổi tù binh và đoàn tụ những gia đình phân ly vì đất nước
chia đôi.

Tôi gặp lại Andropov năm 1980 khi tôi bay sang Moscow với Mielke để trao huy chương
cho các sĩ quan lãnh đ ạo KGB nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập bộ của chúng tôi. Cả
hai bên đều rất trân trọng những nghi thức này, KGB và các cơ quan tình báo trong kh ối
Đông Âu, và đạt tới mức độ tiên đoán hỗ tương: họ trao tặng huy chương cho chúng tôi
nhân dịp những ngày kỷ niệm của họ, chúng tôi đáp lễ tương tự trong những dịp lễ của
chúng tôi. Điều này được lập lại khắp khối Đông Âu và không ai có thể nhớ hết con số
huy chương các cấp lãnh đạo KGB nhận lãnh. Một người thợ may đặc biệt làm việc tại
tổng tham mưu KGB để đảm bảo các sĩ quan đeo huy chương đúng theo quy cách trong
mỗi một dịp. Dịp này Andropov nhận một huy chương vàng đánh dấu ba mươi năm hợp
tác hữu nghị với bộ của chúng tôi. Ông đang ở bệnh viện nhưng ông nhận huy chương tại
đây.*

*Lần cuối tôi gặp Andropov, năm 1982, thiểu não hơn nhiều. Tôi bay sang Moscow để
tham dự một cuộc họp các cấp lãnh đạo tình báo hải ngoại của khối Đông Âu.Tuy nhiên
khi tôi đến nơi, tôi được thông báo bệnh trạng cấp tính không cho phép Andropov đến
tham dự cuộc họp. Tôi là người đầu tiên biết thực trạng sức khỏe yếu kém của ông. Tôi
được đưa đến gặp ông tại Bệnh viện Cẩm linh đặc biệt tại Kunzevo, một khoảnh thành
phố canh gác cẩn mật, nơi Stalin trước đây dùng để nghỉ hè. Vị trí phòng vệ của bệnh
viên không cho phép người ngoài nhìn vào bên trong. Trong đó, Andropov có cả một căn
phòng dành riêng cho ông, có phòng ngủ và phòng chữa trị ngăn cách bởi một hành lang
dài chan hòa ánh sáng, có trang bị máy ghi hình an ninh. Phiá đối diện là phòng làm việc
và phòng tiếp khách. Ông trông vẻ xanh xao và mệt mỏi. Tôi đứng chờ ở ngoài với người
phụ tá của Andropov, Vladimir Kryuchkov, trong khi đó Andropov đích thân nói chuyện
riêng với Mielke. Không ai nói rõ căn b ệnh của ông, và cũng không ai nói m ức độ trầm
trọng của căn bệnh. Tất cả những gợi ý về bệnh tình sắp chết của ông tổng thứ ký là đi ều
cấm kỵ. Sau một vài phút im lặng, Kryuchkov hỏi tôi có giới thiệu được một bác sĩ
chuyên khoa tiết niệu giỏi nào không, và vội vã nói thêm bệnh tình của cấp trên lẽ cố
nhiên là một bí mật tuyệt đối.

Năm 1980 là một năm khó khăn trong mối bang giao Xô Viết - Hoa Kỳ. Viện cớ việc Xô
Viết trải dàn các tên lửa di động SS-20 tại phía Tây nước Nga và Đông Đức cần phải có
biện pháp đề phòng, NATO (Liên Minh Bắc Đại Tây Dương) đã quyết định vào cuối năm
1979 dàn trải các phi tiễn hạt nhân trên bốn nước Châu Âu, trong đó có Tây Đức, nếu
việc tháo gỡ các tên lửa không được thương lượng trong vòng 2 năm tới, vào tháng 12
năm 1981. Việc này sẽ đưa những tên lửa có tiềm năng đánh phá phần lớn các thành phố
lớn Châu Âu nằm sát ở hai biên giới Chiến Tranh Lạnh. Bây giờ hạn kỳ đã chấm dứt và
tình hình giữa hai nước Tây và Đông Đức xem ra đen tối. Một vài nhà bình luận đem so
sánh tình hình này với những thời gian trước khi xảy ra Đệ Nhất Thế Chiến năm 1914, khi
chiến tranh đang đe dọa và chỉ một bước sai lầm là chiến tranh bùng nổ. Nhóm bảo thủ
cho đây là một trò hù dọa của nhóm tả phái, nhưng tôi biết Helmut Schmidt cũng có
những so sánh lịch sử tương tự như vậy với một phái viên của Honecker.

Lúc đó nỗi lo sợ xung đột hạt nhân thấm nhập xâu đậm vào tâm trí mọi người. Trong lúc
đối thoại riêng với Günter Mittag, cố vấn kinh tế của Honecker và là người trung gian
thường xuyên qua lại giải quyết công vụ giữa hai nước Đức, Schmidt than phiền áp lực
của Washington lên Tây Đức và nói thêm: “Mọi sự đều thoát khỏi tầm tay. Chúng ta phải
thường xuyên giữ liên lạc”. Ông nói lòng hoảng hốt có thể gia tăng mau chóng, nhưng
Honecker có thể tin rằng nước Cộng Hòa Liên Bang Đức đáng tín nhiệm. “Chuyện điên rồ
không thể xảy ra bên phía Tây Đức”, ông kết luận. Nói cách khác, trong khi các cường
quốc chơi trò chi ến tranh của họ, chúng ta người Đức cần phải thương lượng với nhau và
giữ thái độ khiêm tốn.

Andropov nghĩ rằng Hoa Kỳ đang có nỗ lực để đánh đổ sức mạnh lấn áp hạt nhân của Xô
Viết. “Đây không phải là lúc chúng ta tỏ ra yếu kém”, ông nói, viện dẫn lời của Tổng
Thống Carter, của cố vấn Zbigniew Brzezinski và của Ngũ Giác Đài là trong m ột vài
trường hợp Hoa Kỳ có thể biện minh việc sử dụng vũ khí hạt nhân để ra tay tấn công
trước Liên Bang Xô Viết. Andropov cũng băn khoăn về những thất bại gia tăng của quân
đội Xô Viết trong việc đương đầu với phiến quân Hồi giáo toàn nguyên tại A-phu-hãn, và
tôi thử hỏi suy nghĩ của ông về tương lai của chiến dịch này. Ông chỉ nói: “Bây giờ, chúng
ta không thể lùi được nữa”.

Những lời bỉ báng nhất ông dành cho Thủ Tướng Schmidt, vì ông Schmidt đã ch ấp thuận
chiến lược thương lượng song hành của NATO đồng thời lập kế hoạch dàn trải các tên lửa
hạt nhân di động tại Tây Đức. “Con người này hai mặt” ông than phiền. “Nhưng y thực sự
ngả theo Hoa Kỳ. Chúng ta không nên có những tiếp xúc cấp cao với loại người như vậy”.
Tôi đoán chừng điều này liên tưởng đến lần đối thoại riêng trước đây với Mielke về những
mối liên hệ giữa Erich Nonecker và Schmidt, nhiều khi Xô Viết không được biết đến, một
nguyên do quanh năm gây phiền lòng cho họ. Moscow về cơ bản không tin tưởng những
cởi mở giữa Đông và Tây Đức mà chính sách Ostpolitik chủ trương và họ muốn kiểm soát
mọi cố gắng sáp lại gần nhau. Andropov và Bộ Trưởng Ngoại Giao Andrei Gromyko đặc
biệt không muốn Honecker thăm viếng Bonn. Tình hình quốc tế càng căng thẳng bao
nhiêu, Honecker và Schmidt cả hai càng cố gắng cải thiện mối liện hệ cá nhân bấy nhiêu.
Họ liên lạc với nhau trên một đường giây điện thoại đặc biệt, trong khi đó Tây Đức mua
tự do cho một loạt không ngừng các tù binh Đông Đức, gương phản ánh tình trạng của
mối liên hệ. Do những nguồn tin tình báo của chúng tôi tại Bonn, chúng tôi biết lòng
trung thành của Tây Đức đối với NATO bị thử thách hết sức vào lúc đó. Schmidt đã tự
đưa mình vào một vị thế khó khăn bởi vì ông là người đầu tiên khơi mào vấn đề quốc
phòng của Châu Âu sau khi Moscow và Washington đã thương lư ợng với nhau để hạn chế
các lực lượng tên lửa hạt nhân trên đầu các quốc gia Châu Âu. Bây giờ lời kêu gọi của
Carter tẩy chay Thế Vận Hội Moscow là giọt nước làm tràn bờ ly. Điều này gây phân cách
trong chính phủ vốn đã chia năm s ẻ bảy, và chúng tôi được một nguồn tin trong SPD
thông báo là ông có thể thắng bằng cách đe dọa từ chức nếu việc tẩy chay không được
thông qua. Qua những nguồn tin từ các văn phòng chính y ếu tại thủ đô Tây Đức, chúng
tôi thu thập mức độ bực mình của họ dưới áp lực của Hao Kỳ. Chính sách cứng rắn của
Hoa Kỳ đối với Moscow ép buộc ông phải hủy bỏ một cuộc viếng thăm Đông Bá Linh đã
hoạch định trước. Mặc dù vậy ông tiếp tục suy nghĩ về việc duy trì mối liên hệ giữa hai
nước Đức hơn là theo trò chơi của các siêu cường. Ông nhất quyết thẳng thừng hủy bỏ
chuyến viếng thăm Đông Bá Linh, chứ ông không tìm cách gài Honecker vào một tình thế
ép Đông Đức phải thu hồi lời mời.

Cơ quan của tôi có trách nhiệm thông báo cho Moscow vị trí đề nghị và những chi tiết kỹ
thuật của các phi tiễn Pershing II và Cruise của Hoa Kỳ đã đư ợc cài đặt năm 1982 nếu
các cuộc thương thuyết thất bại. Thực ra, tôi biết nhiều về chiến lược hạt nhân của Hoa
Kỳ hơn là việc dàn trải tên lửa của Xô Viết tại Đông Âu, phần lớn là do nguồn tin chính
của chúng tôi tại NATO, ông Rainer Rupp. Vị trí của các phi tiễn di động SS-20 được cẩn
thận giữ bí mật ngay cả đối với chúng tôi, mặc dù chúng tôi là đông minh gấn gũi nhất
của Moscow – và phần lớn những phi tiễn tuyến đầu, dù gì đi nữa , cũng nằm trên lạnh
thổ của chúng tôi. Sự hống hách của Xô Viết làm cho rất nhiều người Đông Đức trung
kiên cảm thấy bực bội và muốn xa cách. Các nhân viên trong cơ quan của tôi được mời
gọi chỉ để tham dự những tập trận đặc biệt để chuẩn bị ứng phó bài bản bức thiết nhất là
NATO ra tay tấn công trước.
Dàn phóng tên lửa Pershing di động

Vì chương trình tái trang b ị vũ khí c ủa Hoa Kỳ và nhóm hiếu chiến của ông Reagan thắng
thế, các bạn Xô Viết của chúng tôi bị ám ảnh bởi nguy cơ Hoa Kỳ tấn công bằng phi tiễn
hạt nhân, mà họ đặt cho một tên tắt là RYAN, từ câu Nga Raketto yadenoye napadeniye.
Cơ quan tình báo hải ngoại HVA được lệnh truy cứu và phát hiện tất cả những kế hoạch
của Tây Âu nhằm tấn công bất thình lình, và chúng tôi thành lập một đội và một trung
tâm xem xét tình hình đặc biệt cũng như nh ững trung tâm tham mưu khẩn cấp, để làm
việc này. Đội ngũ này ph ải trải qua huấn luyện quân sự và tham dự những tập trận báo
động. Như phần đông trong giới tình báo, tôi thấy những trò chơi chi ến tranh này là một
lãng phí thời giờ nặng nề, nhưng những lệnh này không thể bàn cãi đư ợc cũng như nh ững
lệnh khác từ trên đưa xuống. Tôi không tin có thể xảy ra chiến tranh nguyên tử ở Châu
Âu, mặc dù tôi nghĩ sự xung đột giữa hai hệ thống đối địch sẽ gia tăng trên bình diện
chính trị, kinh tế và các bình diện khác. Đông thời, tôi càng thêm nghi ngờ các vị lãnh
đạo chính trị ở cả hai bên có thể hiểu và hành động theo những biến chuyển đang diễn ra
trên thế giới. Tôi bắt đầu tìm phương cách chấm dứt sự nghiệp tình báo của tôi và quay
sang nghề viết, nhưng những áp lực mỗi lúc gia tăng trong công việc của tôi trong một
bầu không khí đương đầu mãnh liệt khiến tôi cứ phải dời quyết định này.

Mặc dù Moscow rầm rộ tuyên truyền, tôi vẫn biết Liên Bang Xô Viết trước đường hướng
mạnh bạo của Hoa Kỳ yếu thế hơn nhiều so với những gì họ rêu rao. Các cuộc thương
lượng SALT II (ldg : Strategic Arms Limitation Treaty = Hiệp Ước Giới Hạn Vũ Khí Chiến
Lược) về việc giải giới giữa Brezhnev và Nixon đã cho tôi thấy rõ. Tuy nhiên, chúng tôi
không phòng bị việc Jimmy Carter đắc cử tồng thống ; những hồ sơ tiên khởi về ông chỉ
có một ít thông tin về ông ngoài việc mô tả ông là một nhà nông sản xuất đậu phộng
không tiếng tăm. Tôi lấy làm an ủi là các nguồn tin tình báo từ Bonn báo cáo là Tây Đức
cũng không biểu lộ một điều gì đ ối với vị tổng tham mưu trưởng mới này. Nhưng khi
Carter tuyên bố ngân sách quốc phòng $157 tỷ Mĩ Kim đ ể trang bị các tên lửa MX và
Trident, tên lửa Cruise, các tiểm thủy đỉnh nguyên tử nhiều hơn và một lực lượng dự bị
mười một ngàn người, phản ứng của Moscow là hoảng hốt khá rõ. “Chúng ta không thể
đánh lại bọn họ với số tài khoản này”, một chuyên gia cao cấp về chiến lược nguyên tử
Xô Viết tâm sự với tôi. “Nhờ Trời chúng ta giỏi trong các lãnh vực khác”.

Vào lúc này, những dị biệt trong chính sách giữa Đông và Tây Đức không còn nữa, độc
lập với các bậc thầy Moscow và Washington. Herbert Wehner, người quản lý hậu trường
quốc hội và có ảnh hưởng lớn trong đảng cầm quyền Dân Chủ Xã Hội tại Bonn, bị hụt
hẫng vì chính sách hạt nhân của Hoa Kỳ nên đã c ố gắng giữ liên lạc không để đứt đoạn
giữa Bonn và Đông Đức. Nhờ tay của phụ tá của Wehner, Karl Wienand, chúng tôi có
được một tài liệu mật do chính Wehner viết cho thấy mức độ bất tín của ông đối với
những ý đồ của Washington. Wehner không dè dặt chút nào trong lời chỉ trích: “Cơ quan
CIA đã tán phát con vi khu ẩn gây chiến tranh giữa hai nước Đức. Đây không phải là
chuyện bịa đặt. Bom trung hòa tử đã đư ợc nhắm sẵn vào Ruhr và Bá Linh. Tôi chia sẻ
những hoài nghi của Schmidt về Carter. Không phải vì ông này có những ý đồ đen tối,
những vì ông có khả năng thử nghiệm mọi biến thể. Phương pháp này có thể đưa đến sai
lầm rất dễ dàng”.

Như đã đề cập trước đây, tôi nghĩ Wehner biết mối liên hệ của người phụ tá với Đông Bá
Linh. Sự vỡ mộng của ông đối với chủ nghĩa cộng sản ngăn cản không cho phép ông trở
thành nguồn cung cấp tin tức trực tiếp cho chúng tôi, nhưng ông vui vẻ cho chúng tôi
biết điều này, bất chấp những rủi ro chính trị cho bản thân ông, ông sẽ thông báo cho
Đông Đức nguy cơ hạt nhân dù nhỏ đến đâu đi nữa để bảo toàn quyền lợi của nước
Đức.Wehner sau này phát triển liên hệ với nước Công Hòa Dân Chủ Đức qua trung gian
của luật sư trao đổi gián điệp Wolfgang Vogel. Cuối cùng, tôi nghĩ Wehner tin tưởng
Honecker hơn là những cấp lãnh đạo của chính đảng của ông. Chúng tôi được các đường
dây liên lạc bên Tây Đức mách bảo Wehner đã đ ể lại chỉ thị đem những tài liệu cá nhân
của ông cất giữ bên Đông Đức sau khi ông chết.

Cùng vào lúc đó, cũng như chúng tôi b ị dao động vì những thay đổi khó hiểu trong chính
sách của Hoa Kỳ, bản chất thay đổi của chính sách ngoại giao Xô Viết trong suốt thời kỳ
này đã gây nên một số vấn đề cho chúng tôi. Honecker chưa kịp thích nghi với chính sách
Ostpolitik mới và chuyển sang hướng suy diễn phóng khoáng hơn về nền dân chủ xã hội
của Tây Đức, thì Moscow báo hiệu cho chúng tôi phải ngưng. Những câu hỏi của sĩ quan
liên lạc Xô Viết thân thiết với tôi, Vladimir Budakhin, đặt ra cho tôi cho tôi thấy, mặc dù
có những lần cụng ly và những lời nói ấm áp, mối liên hệ giữa Moscow và Đông Bá Linh
phải chịu số phận bi đát hiểu lầm nhau. Trong việc xây dựng một xa lộ giữa Hamburg và
Bá Linh trên lãnh thổ của chúng tôi, việc khai thông kinh đào giữa Đông và Tây Đức,
hoặc là những thương lượng mậu dịch với các công nghiệp to lớn Krupp hoặc Hoechst của
Tây Đức, người Xô Viết luôn luôn đặt câu hỏi và lên tiếng phản kháng. Thông thường kết
quả là dời ngày thêm một lần nữa cuộc gặp gỡ mong ước bấy lâu nay giữa Honecker và
Schmidt.

Lòng vẫn ôm ấp kiểu cách tôn sùng cá nhân theo khuôn mẫu của điện Cẩm Linh,
Honecker mang ảo tưởng ông có thể giải quyết những vấn đề như vậy một mình. Khi ông
biết qua Wehner những mối liên lạc mật giữa Xô Viết và Bonn mà Đông Bá Linh không hề
được thông báo, ông chỉ vỏn vẹn nói: “Họ không thể quyết định được gì nếu không có
chúng ta”. Lịch sử chứng minh đây là sai lầm lớn nhất của ông.
Tôi cũng phạm phải một lỗi lầm to lớn vì đã coi nh ẹ những hệ quả sự lệ thuộc toàn diện
của chúng tôi vào Liên Bang Xô Viết. Mối liên hệ lâu bền với Moscow và tình hữu nghị tôi
thụ lãnh với tình báo Xô Viết khiến tôi - một cách sai lầm - nghĩ r ằng KGB làm việc với
HVA trong tinh thần bình đ ẳng. Tôi biết chúng tôi đã gởi một số lượng tin tức như thác đổ
cho Moscow: tin tình báo chính trị và quân sự của kẻ địch ở tuyến đầu, sách kỹ thuật về
tình báo đi ện tử của Cơ Quan An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ (NSA), tên tuổi và phương pháp
làm việc các nhân viên CIA, và những lượng thông tin khoa học và kỹ thuật mà sĩ quan
liên lạc Nga cần phải có thêm một phụ tá để xử lý. Chỉ có một chút ít đáp ứng từ phiá
bên kia. Nhưng những vị đối tác tình báo kỳ cựu của tôi công nhận điều này và tìm cách
sửa sai trên mức độ cá nhân, và tính chất chậm chạp của những thay đổi khiến tối nghĩ
rằng chúng tôi luôn nằm trong những ưu tiên hàng đầu trong mối bang giao quốc ngoại
của điện Cẩm Linh. Đây chắc chắn là tình cảnh đã có dư ới thời Stalin, Khruschev,
Andropov và Chernenko. Vì vậy quyết định không thể hiểu được của Gorbachev trong
việc bỏ mặc số phận chúng tôi vào tay của NATO năm 1989 là một đột biến thô bạo.

Nói vậy chứ chúng tôi quá quen thuộc với phong cách của người Xô Viết, ít nhất về mặt
quân sự, giống như một thế lực xâm lăng không hề màng đến tâm tư tình c ảm của chúng
tôi. Honecker luôn bày tỏ với Moscow mối ưu tư về sự tập trung vũ khí, binh lính, và bây
giờ thiết bị hạt nhân trên lãnh thổ của chúng tôi. Tôi vẫn cảm thấy lo lắng vì biết sự cách
biệt giữa thế lực thực sự của ông và những gì ông cảm nhận là thế lực của ông. Trên thực
tế sự cách biệt này khá xâu, nhưng phương cách dối lòng này là một phần lối sống của
chúng tôi trên tiền đồn tuyến đầu của đế quốc Xô Viết. Trong lúc việc giằng co về tên lửa
giữa Moscow và Washington sôi nổi năm 1979 và Moscow dọa dàn trải thêm vũ khí trên
lãnh thổ Đông Đức, một hôm Mielke nói với tôi: “Không có phương cách nào để bỏ ra
hàng tỷ cho kẻ khác và đốn cây để kiếm chỗ đồn trú cho xe tăng và dàn phóng tên lửa.
Anh sẽ thấy chẳng có gì xảy ra đâu. Chỉ có thương thuyết thêm nữa thôi”.

Dàn phóng tên lửa SS-20 lưu động

Lẽ cố nhiên, khi các tên lửa khổng lồ SS-20 của Xô Viết tiến vào phần đất của Đông Đức
vào lúc đêm khuya, cải trang thành việc chuyển giao củi, các khu rừng bị đốn trụi mà
không ai được phép bản thảo thêm nữa.

Có lẽ tôi khen ngợi ông Andropov quá đáng. Ông chắc chắn phải bị phê phán, ngay cả
người mến mộ ông vì cách đối xứ của ông đối với những người bất đồng chính kiến thật
là thô bạo. Quyết định ( ất cả là những việc ông làm đều có chủ đich) tước bỏ quyền
công dân của Solzhenitsyn và đày Sakharov đi Gorky là vì ông vẫn còn mang một não
trạng không chịu buông tha giống như trường hợp của Sharansky. Ông theo đuổi sự ổn
định của Liên Bang Xô Viết trên hết mọi tính toán. Mối quan tâm của ông đến những hình
thức đa nguyên chính trị chỉ giới hạn trong việc quan sát kinh nghiệm cộng sản
“goulash” của Hungari (danh từ nửa khôi hài, nửa miệt thị chúng tôi dùng để chỉ chế độ
Hungari) trong khi đó ông thực hiện một chủ thuyết cứng rắn hơn ở trong nước. Nhưng
ông cẩn thận hơn Gorbachev trong việc thay đổi Ủy Ban Trung Ương và phát động chiến
dịch chống tham nhũng ở một mức độ mạnh mẽ hơn các người kế vị của ông.

Quyết định của Andropov thăng chức Vladimir Kryuchkov lên làm Tổng Giám Đốc của
KGB là một quyết định lô-gíc nhưng không khôn ngoan. Kryuchkov là một phụ tá thân
cận của Andropov kể từ biến cố Budapest năm 1956. Ông biết Kryuchkov hiểu rõ chính
sách ngoại giao và nghĩ r ằng giao công việc tình báo hải ngoại cho một người đã đư ợc
đào tạo theo hình ảnh của mình sẽ tránh việc phạm lại những rạn nứt nội bộ và lối nhìn
thiển cận.

Vị thế của Kryuchkov trong KGB được củng cố vào thời kỳ can thiệp vào A-phú-hãn, nơi
đây ông được giao trách nhiệm tổ chức những công tác đặc biệt sau khi xâm chiếm.
Nhưng ông không có tầm nhìn sâu rộng của Andropov và thiếu phong cách của một
người lãnh đ ạo. Không có thầy dìu dắt, người số hai đầy khả năng và thông minh này
cảm thấy hụt hẫng. Tôi tình cờ nhìn thấy lòng sùng bái của Kryuchkov đối với Andropov
khi tôi đến viếng thăm ông năm 1982 để chúc mừng ông thăng chức giám đốc KGB. Sau
đó, sau bữa ăn tối, ông đọc cho tôi nghe một vài bài thơ của Andropov. Đây là lần đầu
tiên tôi biết đến những vấn thơ này và chúng đặc biệt hay, có phần sầu muộn và lãng
mạng, mô phỏng theo Pushkin và Lermontov, tâm sự về tình yêu đã m ất và những nuối
tiếc của tuổi già. Điều này gia tăng sự kính phục của tôi đối với Andropov nhưng tôi thấy
khôi hài là người kế vị ông ta trong chức giám đốc của KGB lại bận tâm học thuộc lòng
những bài thơ tình của ông tổng bí thư mới của Đảng Cộng Sản Liên Bang Xô Viết.

Vladimir Kryuchkov

Khi tôi đến Moscow, Kryuchkov luôn luôn mời tôi vào một phòng riêng đàng sau văn
phòng chính của ông, rót cho tôi một ly Scotch lớn và nói: “Anh kể cho tôi nghe chuyện
gì đã x ảy ra”. Khi Mielke ở bên cạnh, sự việc không trực tiếp như vậy, cả hai bên đều
khua chiêng múa trống, không ngừng nâng rượu ăn mừng vinh quang Cách Mạng và
thành quả của chủ nghĩa cộng sản, một điều khá kỳ lạ vì hơn hết mọi người hai ông giám
đốc cơ quan an ninh là những người biết rõ tình hình không đư ợc tốt đẹp trong nước họ.

Kryuchkov không bao giờ bỏ lỡ cơ hội ghé thăm nhà hát mỗi khi ông đến viếng thăm -.
Ông hay đi xem và lấy làm hãnh diện đã xem hết tất cả những màn diễn xuất lớn ở
Moscow và sưu tầm những chương trình, mà ông c ất giữ trong văn phòng của ông. Điều
này tạo nên danh tiếng ông là người có học thức. Thực ra, lòng quyến luyến với sân khấu
là do ông thích sưu tầm những món vật trên hết mọi sự. Tôi khám phá điều này trong
một lần viếng thăm của ông tại Đông Đức trong thập niên 1980. Vở kịch Faust đang được
trình diễn tại Nhà Hát Quốc Gia Weimar. Kryuchkov không mấy thông thạo tiếng Đức, tuy
nhiên ông nài ép để đi vì ông bi ết rõ vở này là một trong những nghệ thuật chủ yếu trong
kinh điển của văn chương thế giới. Tám tiếng đồng hồ theo dõi vở Faust đòi h ỏi một sự
tập trung mà ngay cả tôi cũng ph ải cố gắng với tiếng mẹ đẻ của tôi, những tôi hài lòng vì
đã thu xếp việc này cho tình hữu nghị Đức-Xô Viết. Một tiếng hoặc khoảng đó sau khi vở
kịch bắt đầu, tôi liếc nhanh sang vị khách và thấy ông ta nhắm mắt. Rõ ràng, Goethe
xem ra cũng khó nu ốt đối với ông. Vào cuối phần một, tôi thấy rõ ông không hiểu những
gì đang di ễn trên sân khấu. “Tôi nghĩ là tôi đã hi ểu hết rồi”, ông nói, “chúng ta bỏ phần
còn lại”. Ông hãnh diện rời nhà hát, tay nắm chặt tờ chương trình đ ể bỏ thêm phần mới
nhất vào bộ sưu tầm của ông.

Mặc dù tôi không kính trọng ông bằng Andropov, tôi có mối liên hệ tốt với ông. Tôi rất
bàng hoàng về sau này khi được tin vào tháng 8 năm1991, trong thời gian tôi ở Moscow,
ông thất bại trong âm mưu tai tử lật đổ Gorbachev. Những nhóm chủ yếu trong ngành an
ninh và bộ máy đảng rất bất mãn cách chuyên quyền của Gorbachev trong việc nhượng
bộ các cộng hòa Xô Viết, vì vậy tôi không bàng hoàng về âm mưu này mà chỉ sững sờ vì
phương cách phường chèo của âm mưu lật độ này. Các bạn đồng nghiệp KGB cũ than
phiền với tôi họ chẳng được thông tin gì về sự việc xảy ra. Khi họ thấy bản chất vô tổ
chức của cuộc lật đổ và tính chất bất dự liệu của những người tham gia, lẽ cố nhiên là họ
từ chối công khai ủng hộ.

Cảm giác đặc biệt nhập thuộc vào một gia đình gắn bó với KGB và những cơ quan phụ
thuộc là một trong những nguyên do tạo nên ưu thế của KGB Xô Viết. Nhưng KGB cũng
có những nhược điểm, chính yếu là bộ máy quan liêu đảng nặng nề và nền tảng bất tín
nhiệm ngay trong nội bộ tổ chức. Lòng bất tín này phản ánh sự vô năng của họ, mặc dù
Andropov và Kruychkov đã có nhiều nỗ lực tìm cách vứt bỏ hình bóng của Stalin và Beria.

Hơn thế nữa, trong một thời gian dài, bên cạnh cảm tính được khéo léo nuôi dưỡng nhập
thuộc nhóm quý phái KGB là sự thiếu hụt toàn diện lòng biết ơn đối với các điệp viên đã
hy sinh tính mạng cho tổ chức – họ thường bị bỏ rơi hoặc bị ruồng bỏ khi họ không còn
sử dụng được nữa. Đông Đức, được xem là nơi đáng tin cậy nhất trong khối Đông Âu theo
ngôn từ tình báo, là đất phế thải cho một số điệp viện bị bại lộ mà Moscow muốn đem
giấu. Đây là một gánh nặng về tài chánh cũng như về tổ chức cho Đông Đức, vì kế toán
nội bộ của khối Đông Âu luôn thuận về phía Liên Bang Xô Viết. Khi một điệp viên về hưu
đến với chúng tôi, đương sự có nguồn tài chánh eo hẹp không đủ để cung cấp cho đương
sự một căn phòng ti ện nghi và một việc làm thích hợp.

Cả hai cơ quan KGB và GRU (Tổng Cục Tình Báo của Tham Mưu Trưởng Xô Viết, Quân
Báo của Xô Viết) tuyển người Đông Đức. Mặc dù có những liên hệ chặt chẽ giữa hai nước
và hai cơ quan tình báo, h ọ muốn đích thân điều khiển người của họ và họ không thông
báo danh tính những người này cho chúng tôi. Chúng tôi chỉ được biết họ dùng người
Đông Đức để làm gián điệp, thường là ở Tây Đức hoặc NATO, sau khi họ bị bắt. Sau khi
một nhân viên điệp báo đã hết thời hoặc được trao đổi với một điệp viên của Tây Âu,
người Xô Viết muốn chúng tôi phải chăm sóc đặc biệt cá nhân này về mặt tài chánh. Đây
là một trò xảo trá. Khi một điệp viên đã bị lộ ở Tây Âu chúng tôi không thể dùng họ ở nơi
này nữa. Tôi cũng không thích nh ững người này làm việc trong Bộ An Ninh, nơi đây họ có
thể tiếp cận những bí mật hoặc nghe trộm những thông tin nhạy cảm.
Tệ hơn nữa, họ thường mắc chúng bệnh sa sút thần kinh hoặc bệnh trạng tâm lý khác, vì
người Xô Viết không hỗ trợ nhiều hoặc tưởng thưởng xứng đáng cho họ trong công việc
và sự hy sinh của họ. Lối xua đuổi lạnh lùng này khiến cho nhiều người cảm thấy chủ
nhân Xô Viết khiển trách họ vì họ đã b ị bắt, mặc dù phần lớn nguyên do thất bại nằm ở
nơi khác, thông thường là kế hoạch hoặc thi hành bất cẩn trong lúc gặp gỡ các cán bộ
điều khiển Xô Viết (“giao liên” theo Tây Âu) hoặc là sự phản bội của một ai đó tại
Moscow. Tôi nản lòng vì ngư ời Xô Viết không cố gắng để tưởng thưởng những điệp viên bị
cháy, không có đến cả một huy chương cho những khổ nạn của họ.

Một trong những điệp viên như vậy của Xô Viết mà tôi rất kính trọng là gián điệp bí mật
hạt nhân Klaus Fuchs. Ông đã đóng m ột vai trò quan trọng trong chương trình h ạt nhân
của Xô Viết bằng cách cung cho Beria, người giám sát chiến lược hạt nhân, những chi tiết
tiến hành của Hoa Kỳ và Anh quốc về bom plutonium và uranium -235. Do đó ông đã góp
công to lớn nhất cho Moscow có được khả năng chế tạo bom nguyên tử. Ông di tản sang
Anh quốc trước khi xảy ra chiến tranh để trốn Quốc Xã, ông làm việc trong chương trình
hạt nhân tại Phòng Nghiên Cứu Harwell (Harwell Research Station) tại Anh quốc. Fuchs
cũng nằm trong khuông thước của những người như Sorge và Philby, và giống như họ,
người đàn ông giỏi dang này đã tự nguyện đem sự hiểu biết của mình đề phục vụ cho
Liên Bang Xô Viết. Họ đều tin tưởng là chỉ có Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Bang Xô
Viết (USSR) mới co thể đánh bại Hitler. Biết được tin các khoa học gia của Đức Quốc Xã
đang thực hiện bom hạt nhân đã thúc đẩy Fuchs chuyển những bí mật của mình cho
Moscow.

Lòng kiên định với chủ nghĩa cộng sản của Fuchs sâu đạm hơn vì ông đã nghi ệm qua chế
độ Đức Quốc Xã. Ông hiện diện khi quả bom nguyên tử đầu tiên do Hoa Kỳ thử nghiệm
nổ tại Alamogordo, New Mexico, ngày 16 tháng 7 năm 1945 và báo tin nhanh chóng cho
Moscow đến độ Stalin không có vẻ gì là ngạc nhiên khi Tổng Thống Truman gợi ý về một
vũ khí mãnh li ệt mới chỉ tám ngày sau tại hội nghị các nước chiến thắng tại Postdam.

Theo chỉ thị của quân báo Xô Viết, Fuchs giữ im lặng trong vòng ba mươi năm sau khi
ông bị bắt tại Anh Quốc năm 1950, ông cũng không hề viết hồi ký, cũng không ra mắt
báo chí phỏng vấn, ngay cả cho các nhà xuất bản của Xô Viết hoặc Đông Đức. Sau khi
ông được Anh Quốc trả tự do năm 1959, ông sống tại Dresden, nhưng trong một thời
gian dài ngay cả chúng tôi cũng không được phép tiếp cận ông. Thập niên 1970, ông cuối
cùng chấp nhận cộng tác với Ban Khoa Học và Kỹ Thuật để cho một vài ý kiến về chính
sách năng lực. Tôi hiểu rõ là chúng tôi không đư ợc bàn thảo về những thành tích gián
điệp của Fuchs.

Ý nghĩ con ngư ời đã có công đóng góp l ớn nhất trong điệp báo nguyên tử đang sống trên
đất nước của chúng tôi, trả lời định kỳ cho những thắc mắc về những hệ thống làm lạnh
và những điểm phức tạp của vật lý hạt nhân cho các đồng nghiệp của tôi nhưng lại không
được nói chuyện về ngón nghề tình báo tuyệt hảo của ông khiên cho tôi bồn chồn. Tôi đã
bỏ rất nhiều công sức để xây dựng ý nghĩa truyền thống và tinh thần nhập thuộc trong
nội bộ cơ quan bằng cách ghi lại trên phim ảnh và trên sách vở cuộc sống và thành tích
của những điệp viên tên tuổi ở phia chúng tôi. Tôi biết Klaus Fuchs sẽ là một đề tài lý
tưởng để nghiên cứu. Lẽ cố nhiên, không thể nào có chuyện tôi tiếp cận ông mà không có
sự đồng ý chính trị của cấp trên. Tôi nhiều lần cố gắng thuyết phục Erich Honecker hỗ trợ
cho tôi để cố gắng nài nỉ Fuchs kể lại chuyện của ông. Sau một thời gian chờ đợi, tôi cuối
cùng được phép viếng thăm ông cùng với một sĩ quan cao c ấp đồng nghiệp có chút hiểu
biết về vật lý nguyên tử. Chúng tôi là những người duy nhất không phải là người của KGB
hay GRU được phép phỏng vấn về quá khứ của ông, sáu khi ông định cư tại Đông Đức.
Cuộc gặp gỡ ông năm 1983 được diễn ra với sự thỏa thuận của chúng tôi là nội dung chỉ
để sử dụng trong nội bộ cơ quan của tôi. Chúng tôi xin phép Fuchs để quay vào phim
video và cuộn băng này là cuộn băng duy nhất về ông tại Công Hòa Dân Chủ Đức.

Tôi gặp ông tại nhà khách ở Ba Linh, ông ở lại đây trong lúc họp Đảng. Ông là thành viên
của Ủy Ban Trung Ương. Tôi thấy vóc dáng của một người không thích hợp với vai trò của
một siêu gián điệp. Ông là hình ảnh hi họa của một khoa học gia tài giỏi, trán cao và đeo
kính không vành với đôi mắt trầm ngâm chăm chú nhìn khi tôi d ồn dập đặt câu hỏi. Ánh
mắt này khiến mọi người có ấn tượng khi gặp ông, kể cả giáo sư Max Born, thầy đỡ đầu
của Fuchs và cũng là c ộng tác viên trước đây trong nghiên cứu hạt nhân tại Edingburrgh.
Ông Born ghi nhớ hình ảnh một cậu bé dễ thương với đôi mắt to và buồn trong thời gian
Fuchs còn là sinh viên. Đôi mắt này trở nên linh động khi Fuchs bắt đầu nới về vật lý học
lý thuyết. Ông vẫn còn sự hăng say của tuổi trẻ trong vấn đề này và có thể thao thao bất
tuyệt về lý thuyết quantum và về công trình nghiên cứu xuất sắc của ông trong việc chế
tạo bom nguyên tử: việc khám phá phép tính biến thiên trong lúc quả bom plutonium nội
phát. Ông vẫn đích thị là một nhà nghiên cứu.

“Tôi chưa bao giờ tự xem mình là một gián điệp”, Fuchs nói với tôi. “Tôi không hiểu
phương Tây có lợi gì nếu không chia sẻ sự hiều biết về quả bom nguyên tử với Moscow.
Điều gì đó trong tiềm năng công phá không thể tưởng tượng được của trái bom phải
đương nhiên được chia sẻ đồng đều cho các cường quốc. Tôi không tài nào chịu đựng nổi
một bên có khả năng đe dọa kẻ khác với một sức mạnh ghê gớm như vậy. Tôi không bao
giờ nghĩ tôi làm m ột điều trái với lương tâm khi tôi chuyển giao những bí mật cho
Moscow. Đối với tôi không làm điều này là một sơ xuất độc hại”.

Ursula Beurton với Don Chapman năm 1981

Năm 1941, Fuchs liên lạc với quân báo Liên Xô (cơ quan GRU) qua người bạn kinh tế gia
Jürgen Kuczinsky. GRU giao phó trách nhiệm cho ông một loạt các đầu dây giao liên
thường xuyên thay đổi. Người ông thường tiếp xúc là em gái của Kuczynski, Ursula
Beurton, tức Ruth Werner, mật danh là Sonya. Bà Werner đầy tài năng này sống, theo
biểu hiện bề ngoài, như một bà mẹ trầm lặng với hai đứa con tại Oxford. Thực ra, bà là
một trong những gián điệp thượng thặng của Liên Bang Xô Viết tại Anh Quốc và sau này
bà được ban khen cấp bậc danh dự hiếm có Đại Tá trong Hồng Quân – người đàn bà duy
nhất nhận được cấp bậc này. Bà Werner đi xe đạp cùng với Fuchs để vào một khu rừng
cạnh ngôi nhà gia đình Churchill tại Blenheim. Lúc đó ông chuyển giao tài liệu mật và bà
đem cất giấu dưới yên xe. Fuchs không được huấn luyện về tình báo và từ chối học mật
mã vô tuyến hoặc chụp vi phim. Ông đơn thuần sao chép những tin tức ông muốn hoặc
đang nghiên cứu, và sau đó viết lại nhờ trí óc nhiếp ảnh ghi nhớ phi thương. Hệ thống
chuyển giao rất đơn sơ, có phần ngây ngô là đàng khác theo nhãn quan tình báo. Không
có hộp thơ chết. Các tài liệu mật được trao tận tay, điểm này là một món quà cho phản
giản nếu họ theo dõi. May thay, lúc đó ngư ời Anh chưa nghi ngờ Fuchs. Ông không thấy
ấn tượng nào với các giao liên Xô Viết. “Không như Ruth, họ tỏ ra sợ sệt khi tôi hiện
diện”, ông nói. “Có một người đặc biệt lúc nào cũng dòm quanh đ ể xem chừng tôi có bị
theo dõi không. Tôi không phải là tay chuyên nghiệp trong vấn đề này, nhưng phong
cách này gây chú ý đến chúng tôi hơn là cách chúng tôi hành xử tự nhiên”.

Ruth Werner, một cách tài tình đã tìm cách tr ốn ra khỏi nước Anh sau khi Fuchs bị bắt,
trở thành một người bạn thân thiết với tôi khi bà trở lại Đông Đức. Có một lần bà thú
nhận với tôi bà đã lén nhìn các tài li ệu mật nhưng không hiểu một chữ nào cả - “Chúng
như một chuỗi những cổ tự hy lạp và công thức viết nhỏ tí tí trông giống như những
đường nguệch ngoạc “.

Những đường nguệch ngoạc này đã làm thay đ ổi cán cân quyền lực thế giới bằng cách
phá vỡ độc quyền vũ khí h ạt nhân sơm hơn dự liệu. Fuchs dè dặt với chúng tôi về vai trò
của ông trong việc phát triển bom nguyên tử của Xô Viết, và thực ra Moscow chỉ báo cho
ông biết giá trị của những thông tin này hai năm trước khi ông chết. Đây là một nỗ lực
đánh lừa phương Tây để họ lầm tưởng người Xô Viết còn có những gián điệp nguyên tử
khác chưa bị lộ. Trò gạt gẫm này chỉ chấm dứt khi điện Cẩm Linh cho phép xuất bản hồi
ký của Giáo Sư Igor Kurchatov. Kurchatov xác nhận những thông tin của Fuchs đã giúp
cho ông tiết kiệm được nhiều năm nghiên cứu nhờ ông mô phỏng theo những gì ông đã
học được trong phương cách tiếp cận thành công của Hoa Kỳ để chế tạo trái bom nguyên
tử đầu tiên ở Los Alamos.

Khi tôi thận trọng đề cập đến việc ông bị bắt năm 1950, tôi thấy rõ ràng là tôi đã khơi
động lại vết thương ba mươi năm vẫn chưa lành. Fuchs nhất định không mủi lòng trước
mặt chúng tôi, nhưng cố gắng tự kiềm chế hiện lên trên nét mặt căng thẳng và co giật
của ông. Ông kể cho chúng tôi nghe lỗi lầm lớn nhất của ông với lòng hối hận và xúc
động sâu đậm, xem chừng như ông lập lại lời thú tội lần thứ hai.

Tôi chắc chắn ông đau khổ nhiều vì sự kiện, từ khi ông ra khỏi tù năm 1959, ông không
có cơ hội đề nói trực tiếp về những khám phá của ông với cán bộ điều khiển Xô Viết. Tôi
không hiểu tại sao, trong vòng hơn hai mươi năm, Moscow không chủ động làm việc này.
Không một lời biết ơn, không một lời đền đáp công việc của ông, cũng không hề có
những câu hỏi tại sao thất bại. Sự im lặng của một quốc gia ông đã phục vụ hoàn toàn vì
lương tâm và phải trả giá rất đắt cho tự do và sự nghiệp của ông đã đè n ặng lên ông
hàng ngày.

Fuchs không có ý kiến gì về những sơ sót. Nhưng tôi nghĩ lý do của sự im lặng ác độc này
là vì Xô Viết tình nghi ông đã tiết lộ tên tuổi của các giao liên hoặc của những điệp viên
khác trong thời gian ông bị MI 5 tra khảo. Tuy nhiên tôi tin tưởng không có bằng chứng
nào về lỗi lầm của Fuchs.

Fuchs kể cho tôi nghe khi ông biết người Anh tình nghi ông, ông tự tin có thể đánh lạc
hướng mối nghi ngờ này. Ông bị tra vấn sau khi khoa học gia người Anh Allan Nunn May
bị bắt năm 1946 vì tội gián điệp, nhưng ông có cảm tưởng phản gián Anh kiểm tra tất cả
các khoa học gia đã gặp gỡ Nunn May và cảm thấy ông đã may mắn thoát nạn. “Áp lực
gia tăng vào năm 1950, khi tôi dược mời lên làm việc nhiều lần với các viên chức thẩm
quyền tại Harwell và các sĩ quan ph ản gián Anh cũng có mặt tại chỗ”, ông kể lại. “Tôi vẫn
còn tự tin. Nhưng rõ ràng họ điều tra tôi, bởi vì họ biết cha tôi đã đi sinh s ống ở Đông
Đức và họ cũng h ỏi tôi về vấn đề này. Cuối cùng họ nói về những tin tức từ Nữu-Ước
(New York) và lúc đó tôi biết là CIA đã thông báo v ề tôi”.

Tình thế khó chịu này tiếp tục một thời gian. Khó mà biết được lý do tại sao Xô Viết
không tìm cách bốc Fuchs ra khỏi nước Anh, xét mức độ chú ý của thẩm quyền tại
Harwell. Có thể phỏng đoán họ không làm như vậy vì lý do đơn gi ản họ muốn khai thác
dữ liệu của Harwell càng nhiều càng tốt, và an nguy của Fuchs chỉ là thứ yếu đối với công
tác này. Điều này cũng có th ể giải thích nỗi sầu muộn của Fuchs nhiều năm sau khi
Fuchs bị bắt.

Cuối cùng chỉ một sảo thuật tâm lý chứ không phải vì những tang chứng rõ rệt đã khi ến
cho Fuchs rơi vào bẫy. Ông phó giám đốc Harwell, một người bạn thân của Fuchs, thẳng
thắn nói với ông họ tình nghi ông là một gián điệp. Ông này chỉ hỏi Fuchs chuyện này có
thật hay không. Nếu Fuchs nói không, người bạn nhấn mạnh, tất cả Harwell sẽ kết hợp
lại để ủng hộ và bênh vực ông.

Tôi mường tượng đây là một chiến thuật đã đư ợc phản gián Anh khốn khéo hoạch định,
họ đã s ử dụng hệ thống định hình tâm lý một cách tuyệt hảo. Họ nhận thấy Fuchs biết
khôn khéo trả lời thẩm vấn; ông sẽ không thú nhận với những phương cách tương tự, vì
vậy họ thử một phương thức hoàn toàn khác biệt. Khi quan sát ông làm việc tại Harwell,
họ đi đến kết luận Fuchs rất coi trọng tình bạn. Họ đã mớm những lời nói vào miệng của
ông phó giám đốc, và biết rằng đối với Fuchs ý nghĩ nói dối ngay trước mặt người bạn là
một điều đau đớn vô kể. Người Anh đã thành công.

Fuchs, vì không biết nói dối, lắp bắp và sau đó im lặng trước câu hỏi của người bạn. “Kể
từ giờ phút đó, Fuchs kể cho tôi, “tôi thất thần. Tôi che dấu nỗi sợ hãi bằng cách làm việc
nhiều hơn và xua đuổi ý nghĩ đó ra khỏi trí óc của tôi. Cũng có những chỉ dấu đáng khích
lệ. Không một viên chức an ninh nào tại Harwell nghĩ rằng tôi là kẻ phản bội, và họ từ
chối không muốn thẩm vấn nữa. Khi họ đến bắt tôi, tôi chợt nghĩ “Đến đây là chấm dứt”.

Tôi ngạc nhiên thấy Fuchs quá ngây ngô trong vấn đề điệp báo vì ông không hề nghĩ đến
án lệnh ông sẽ phải gánh chịu “Tôi bước lên những bậc thang để vào chỗ ngồi của bị cáo
trong tòa án như thể trong một giấc mộng” ông nói: “Họ hỏi tôi. Nếu họ phán quyết ông
có tội, ông có biết án lệnh chờ đợi ông là gì không?”. Và tôi nói, “Tôi nghĩ là tội tử hình”,
bởi vì tôi đã đọc đâu đó điều này xảy ra cho những gián điệp. Họ nói: “Không, mười bốn
năm”, và tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Vào lúc đó tôi mới nghĩ tôi sẽ sống và vẫn còn tương
lại”.

Chín năm sau ông được trả tự do và được đưa sang Đông Đức theo lệnh của Xô Viết. Có
lẽ ông trông chờ ít ra họ sẽ gặp gỡ ông tại đây. Nhưng từ giây phút ông bước chân ra
khỏi tù, ông được chuyển giao cho ngoại giao Đông Đức như một kiện hàng. Chỉ sau khi
tôi liên lạc với ông năm 1983, các cán bộ điều khiển cũ của ông tại Moscow, Vladimir
Barkovsky và Alexander Feklisov, được phép gặp ông trở lại và ghi nhận lòng biết ơn
muộn màng của Liên Bang Xô Viết đối với việc làm của ông.

Fuchs là một con người nhạy cảm và yếu mềm. Ông không có tư chất để làm điệp báo và
tính quý trọng bạn bè đến độ không có khả năng nói dối với họ, chứng tỏ bản chất nhân
bản của ông, lại là một nhược điểm của một điệp viên. Đúng như lời của một văn hào
Anh E.M. Forster, ông thà phản bội đất nước mình hơn là ph ản bội bạn.
Chương 12
« Những biện pháp tích cực »
Trong một vở kịch nghiêm trang về lề lối của chủ nghĩa c ộng sản, The Measure Taken
(Biện pháp phải dùng), Bertolt Brecht phân tích những hoạt động cực đoan được áp dụng
để củng cố Cách Mạng như sau:

Không có hành động đê tiện nào mà nhà ngươi không dám làm,
Loại bỏ hành động đê tiện ư?
Nếu ngươi có khả năng thay đổi thế giới,
Việc gì ngươi lại không làm?
Chìm đắm trong vũng bùn
Hãy ôm chầm lấy tên đồ tể nhưng
Hãy thay đổi thế giới.
Thế giới cần đến nó.

Mặc dù không một ai trong đội ngũ của tôi biết đến đoản văn này, tất cả anh em chúng
tôi đã ghi tâm tư duy này đ ể theo đuổi một thế giới xã hội chủ nghĩa tốt đẹp hơn. Chúng
tôi cảm nhận chúng tôi có thể làm hầu hết tất cả mọi sự miễn làm sao nó phục vụ cho Lý
Tưởng là được.

Trong trường hợp của tôi, điều này có nghĩa là ch ỉ huy một nhóm nhỏ nhưng hiệu quả có
tên là Biện Pháp Tích Cực (Aktive Massnahmen). Mục đích về chính trị của chúng tôi là
làm suy yếu vị thế quốc tế của Bonn, làm suy yếu Chủ thuyết Hallstein, vì chủ thuyết này
chỉ thị việc cô lập ngoại giao Đông Đức, và ngăn chặn sự tái vũ trang của Tây Đức. Nhiệm
vụ chính yếu của chúng tôi không phải là « nói dối » hoặc «cố tình đánh lạc hướng »,
nhưng dùng phương pháp tán phát những sự kiện gây bất ổn và bối rối. Đặt cho nó cái
tên là chiến tranh tâm lý. Chúng tôi góp phần trong những trò bẩn thìu, nhưng đó không
phải là nhiệm vụ chính của chúng tôi. Chúng tôi phối hợp những thông tin thật và giả và
tán phát chúng làm thế nào để củng cố chính sách của chúng tôi, làm suy yếu chính sách
và tổ chức của Tây Đức, và gây tổn hại cho uy tín của những cá nhân. Phản thông tin đối
với chúng tôi không cần vì bao lâu các đảng viên Quốc Xã cũ nằm ở các địa vị then chốt
tại Tây Đức, chính quyền Cộng Hòa Liên Bang Đức bị áp lực phải thực thi chương trình tái
vũ trang quá s ớm ngay sau sự thất bải thảm não của đất nước trong cuộc phiêu lưu quân
sự của Hitler, và báo giới Tây Đức luôn chực sẵn để đăng những vụ chính trị xấu xa.

Nhóm nhỏ chuyên về « những biện pháp tích cực » trưởng thành trong Tổng Cục 10 của
cơ quan Tình Báo H ải Ngoại HVA, được chính thức thành lập năm 1956 với mục đích mau
chóng tác động đến truyền thông Tây Âu và Hoa Kỳ để thích ứng với chính sách của họ
đối với khối Xô Viết. Người cha tinh thần của tổ chức này là Ivan Ivanovich Agayang, một
chuyên viên tình báo có học thức uyên bác mà các người thừa kế trong KGB khống đáng
cột dây giày cho ông.

Nước Đức trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh là một nơi lý tư ởng để áp dụng những biện
pháp này. Chúng tôi lẽ cố nhiên có cùng một ngôn ngữ và lịch sử. Đông Văn Phòng c ủa
Đảng Dân Chủ Xã Hội tung bong bóng và ném truyền đơn vào lãnh th ổ của chúng tôi
theo lệnh của tình báo Hoa Kỳ, vì vậy chúng tôi đương nhiên không phải là người duy
nhất dùng trò này ngay từ lúc khởi đầu. Bộ Quốc Phòng của chính quyền Bonn cũng thi ết
lập một bộ phận « Quốc phòng Tâm lý », không liên quan gì đ ến quốc phòng và chỉ
chuyên chú về chiến tranh tâm lý. Chúng tôi biết được điều này do một cựu đại úy khu
trục hạm Wilhelm Reichenburg, đã làm vi ệc trong bộ phận này với mật danh Admiral (Đô
đốc) và cung cấp những tài liệu tình báo mật cho chúng tôi. Sau khi ông về hưu năm
năm 1978, ông trở thành chủ tịch của nhóm nghiên cứu chính sách quốc phòng của Đảng
Thống Nhất Xã Hội Thiên Chúa Giáo Bavaria tại Munich, cho đên khi ông bị bắt năm
1984; ông bị tố cáo làm gián điệp cho chúng tôi vì tiền trong vòng mư ời bốn năm. Trước
khi Reichenburg bị bắt, chúng tôi tìm cách báo đ ộng cho ông và những giao liên trong
cuộc gặp gỡ tại Viện Bảo Tàng Vương Quốc ở Amsterdam dưới bức tranh Canh Khuya
(Night Watch) của Rembrandt, nhưng cuộc hẹn đã không thành. Dù sao đi n ữa, những lời
chứng trong lúc xét xử Reichenburg gây tổn thương cho một viên chức lãnh đ ạo trong
phản gián Tây Đức có mối liên hệ mật thiết với ông. Về phần chúng tôi, đây không phải
là hiệu ứng không mong muốn của chúng tôi vì nó đã gây t ổn hại đến uy tín của phản
gián Tây Đức, mặc dù người của chúng tôi bị lộ.

Cơ quan CIA cũng phát động một chương trình chi ến tranh tâm lý vào những thập niên
1950 và 1960. Ai cũng bi ết rõ mối liên hệ giữa CIA và các tổ chức như Radio Free Europe
(Đài Châu Âu Tự Do) và RIAS (Radio In America Sector, Đài Phát Thanh trong Khu Vực
Hoa Kỳ); trong tất cả những phương tiện dùng để ảnh hưởng đến quần chúng để đánh
phá Đông Âu trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, tôi đánh giá những cơ quan này hiệu
nghiệm nhất. Chúng cung cấp những phương tiện toàn hảo để phản tuyên truyền, dùng
những tin tức của những nhóm đối lập và của các công dân đã trốn chạy các nước chư
hầu bởi vì họ chống đối về mặt ý thức hệ với chế độ. Hơn nữa họ rất nhạy bén khi có bất
cứ chỉ dấu bất ổn nào xảy ra trong khối Đông Âu, họ cung cấp những dữ kiện đúng thời
điểm và đầy đủ chi tiết để những kẻ đối lập có thể hoạch định và phản ứng nhanh chóng
với những sự cố đã bị các cơ quan truyền thông Cộng Sản bưng bít hoặc che đậy.

Tôi biết khá rõ công việc này, và kinh nghiệm của tôi trong Đài Phát Thanh Nhân Dân
Đức (Deutsche Volkssender) tại Moscow trong những thập niên 1940 là một căn bản hữu
dụng. Khuôn mẫu của đài phát thanh, kêu gọi các thính giả Đức đứng dạy chống Hitler, là
Đài Phát Thanh Calais của Lính (Soldatensender Calais), phát thanh từ nước Anh, do
Sefton Delmer khôn khéo điều khiển một cách điêu luyện. Ý định của Delmer là cung cấp
những thông tin xác thật nhất, thông báo những sự cố có thật pha lẫn với những câu
chuyện chế biến về mức độ chống đối trong hàng ngũ quân đội Đức, trong Đảng Quốc Xã
và dân về SA. Những câu chuyện được truyền thanh trong một ngôn ngữ bình dị - gần
gũi với những tiếng lóng và truyện khôi hài của lính Quốc Xã - của dân thường, khác với
giọng điệu khoa trương và trịnh trọng của ngành tuyên truyên Xô Viết. Qua các tù bình
chiến tranh và các lá thơ của binh lính được thu hồi, chúng tôi biết việc này có hiệu quả
và tác động suy nghĩ chống lại cấp lãnh đạo Quốc Xã và chiến tranh.
Sefton Delmer phát thanh sang Đức
(Ảnh của Delmer estate)

Chúng tôi quyết định xem xét lại toàn bộ Đài Phát Thanh Nhân Dân Đức để điều chỉnh
cho giống đường hướng của đài phát thanh Delmer và tạo dựng những câu chuyện để
được phát thanh từ trong lòng nư ớc Đức chứ không phải từ Moscow. Một huyền thoại
phức tạp về mối liên hệ với kháng chiến ẩn núp được dàn dựng và chúng tôi tuân thủ
nguyên tắc của Delmer là pha lẫn sự nguy tạo với những sự kiện có thực, cân nhắc tỷ lệ
cho đến khi chúng tôi hoàn thành, theo sự lạc quan của tôi, một đài phát thanh có thể
tranh đua với những cố gắng thời chiến của Hoa Kỳ và Anh Quốc.

Tại Tổng Cục 10, chúng tôi cũng theo m ột mô hình tương tự, tìm kiếm liên hệ với những
ký giả phương Tây thích hợp. Chúng tôi có khuynh hướng tránh né những phóng viên
được công nhận tại Đông Bá Linh, bởi vì chúng tôi nghĩ họ có thể do phản gián Tây Đức
cài vào. Chúng tôi tập trung vào những loại ký giả sưu tra tự do vì họ không cầu kỳ với
những mối liên hệ họ có và những người họ đi cùng, và họ sung sướng nhận một tài liệu
từ bất cứ ai miễn là họ có được một câu chuyện lấy ra từ đó.

Chúng tôi cũng có liên l ạc với Gerd Heidemann, ký giả lập dị của tuần báo Stern đã từng
tung ra thị trường nhật ký giả mạo của Hitler trong những thập niên 1980, mặc dù vào
lúc đó chúng tôi không hề biết công việc này của ông. Theo sự hiểu biết của chúng tôi,
khi chúng tôi liên lạc với ông ta, ông để ý đến việc tìm kho tàng nghe nói là đưa lên một
trong những chiếc phi cơ Đức cuối cùng rời nước Đức khi Đồng Minh tiến vào Bá Linh.
Heidemann đoan chắc vật giấu đã đư ợc các cảm tình viên của Quốc Xã chôn vùi đâu đó
gần biên giới Đông Đức với Czechoslovakia, và trong một cuộc thương lượng phúc tạp
trong những điều kiện tuyệt mật với Bộ Công An, ông được phép đào ở vùng này. Nhưng
than ôi, kho tàng không thấy đâu cả, nhưng danh tiếng là người đã có những môi liên lạc
kín đáo với Đông Đức cho ông cái cớ tuyệt hảo để thình lình xuất trình nhật ký đã b ị thất
lạc bấy lâu nay và tuyên bố nó xuất phát từ Moscow. Sáng chế này cuối cùng bị bại lộ và
tài liệu là đồ giả mạo, những trước đó nó đã làm ô danh m ột số các nhà xuất bản Tây
phương đã nhúng vào chuy ện này và các sử gia đã xác minh tài li ệu này là thật.

Gerd Heidemann của tuần báo Stern với Hồi ký Hitler giả

Mặc dù cơ quan tình báo hải ngoại HVA không dính lìu gì với trò xỏ lá này, những trò giả
mạo là một phần sáng chế của Tổng Cục 10. Cho dù chúng tôi nhắm vào chính quyền
Tây Đức, cơ sở kinh doanh lớn, nhà xuất bản hoặc một đảng phái chính trị, mục đich là
luôn luôn hủy hoại sự tín nhiệm của quần chúng trong các cơ quan mới và phần lớn chưa
trưởng thành của đất nước và do đó gieo nghi ngờ về đường hướng chính trị của phương
Tây. Các tổng cục trưởng đều có khuynh hướng theo lời chỉ dẫn của cha đẻ phong trào Cơ
Đốc Giáo, Martin Luther: « Mỗi một dối trá cần có bảy dối trá theo sau để cho nó giống
với sự thật và có hào quang của sự thật ».

Tuy nhiên, nguyên tắc của tôi là bám sát tối đa với sự thật, đặc biệt khi có quá nhiều để
dễ dàng hỗ trợ cho mục tiêu của tổng cục. Chúng tôi tán phát những thông tin thật về
những những mối liên hệ Quốc Xã của nhiều chính trị gia lãnh đ ạo Tây Đức và các quan
tòa, không kể đến Chủ tịch Heinrich Lübke; thủ tướng Kurt-Georg Kiesinger, một thành
viên cũ c ủa đội tuyên truyển của Goebbels; và Hans Filbinger, thủ tướng của Baden-
Württemberg, vào thời ông là ủy viên công tô Quốc Xã đã k ết án tử hình binh sĩ và nhiều
người khác.

Công việc phá vỡ uy tín Tây phương là một công việc chuyên biệt rất cao. Các sĩ quan
đánh giá nội dung câu chuyện nghe lén qua điện thoại giữa các bộ trưởng hoặc những
giám đốc ngân hàng, tìm kiếm những tin tức không phổ biến cho quần chúng về những
vấn đề nhạy cảm như việc xuất khẩu vũ khí ho ặc những thủ đoạn chính trị. Sau khi nhận
diện được điểm yếu và những màn che dấu, họ sẽ gài thông tin này vào trong một hồ sơ,
và dùng các điệp viên ngụy trang tại Tây Đức và Tây Bá Linh, trao tận tay các ký giả mà
chúng tôi biết sẽ theo dõi câu chuyện. Bản sao thường được chuyển không sửa đổi, và
chúng tôi cố gắng lèo lái mối nghi ngờ sang phía Tây phương là nguồn cung cấp tin tức
nghe lén trên điện thoại, và mọi người ai cũng bi ết là Cơ Quan An Ninh Quốc Gia của Hoa
Kỳ (NSA) dàn trải trên một quy mô rộng lớn. Bối rối vì thông tin thật nhưng bị cắt xén
được tung ra ngoài, các đối tượng nằm trong vị thế không thể tự bào chữa, còn tệ hại
hơn cả những lời tố cáo được bịa đặt.

Nhưng rủi thay, chuyên nghệ cao cấp này có những động năng của nó, và các sĩ quan
làm việc này tỏ vẽ hãnh tiến vì đã cung c ấp những tài liệu sao chép có tính thuyết phục
theo kiểu mẫu phát biểu hoặc lối hành văn đặc biệt của hàng trăm cơ quan khác nhau
của Tây Đức. Những người này có khuynh hương dùng tài năng của mình một cách điên
rồ, mà tôi phải ân hận nói rằng tôi đã cho phép h ọ làm để không ngăn cản sáng kiến và
trí óc sáng tạo của họ. Họ vượt lên trên giới hạn cho phép của một cơ quan tình báo,
chẳng hạn như ngụy tạo những lời khai của kỹ nghệ gia Đức Hans-Martin Meyer bị đội
Hồng Quân bắt cóc trước khi họ sát hại ông năm 1977. Trớ trêu thay, Herbert Bremer,
người trong Tổng Cục 10 đã từng miệt mài để xuất trình tài liệu giả này từ một núi thông
tin thật, là người đầu tiên bán câu chuyện này cho báo giới sau khi Cộng Hòa Dân Chủ
Đức sụp đổ.

Không như các đồng nghiệp đầy năng lực và sáng kiến, trong thâm tâm tôi không tin loại
công việc mờ ám này sẽ đánh đổ trật tự của khối tư bản. Một cách đơn thuần hơn, tôi
thấy sự hữu dụng của nó là hạ bệ trong trò chơi tuyên truyền những kẻ chống đối Đông
Đức đặc biệt ngoan cường và nhiều sáng kiến, có nhiều ảnh hưởng đến chính sách và dư
luận quần chúng. Trùm báo chí Axel Springer là kẻ thù chính của chúng tôi trong trận
chiến này. Đế chế của Springer bao trùm tờ báo phổ biến rộng rãi Bild-Zeitung cũng như
tờ Die Welt, tờ báo có uy tín trong chính quyền Tây Đức và giới hành chánh. Springer
chống đối kịch liệt việc công nhận ngoại giao Đông Đức. Cho đến giũa những thập niên
1980, những tờ báo của ông in những chữ tắt của Cộng Hòa Dân Chủ Đức, DDR
(Deutsche Demokratische Republik), trong ngoặc kép. Springer dùng những tờ báo này
để đả phá những hiệp ước công nhận sự chia đôi nước Đức và việc bình thường hóa kinh
doanh giữa hai miền bị cắt đôi. Cấp lãnh đạo của chúng tôi, vì lo lắng cho việc thế giới
công nhận và những cơ hội trao đổi thương mại và ngoại giao phát xuất từ những thỏa
ước này, ra chỉ thị cho các cơ quan tình báo áp dụng tất cả mội biện pháp cần thiết để
phản bác lại những tiếng nói của Tây Đức.

Giống như những tờ lá cải của Springer, tuần báo phổ biên rộng rài Quick cũng là môi
trường để bày tỏ những tiến nói như vậy. Chúng tôi gặp may mắn lớn: người chủ bút
Hans Losecaat van Nouhuys, trước đây là nguồn tin tức chúng tôi bắt gặp trong lần dàn
dựng một ổ mãi dâm trá hình, vẫn còn là điệp báo làm việc cho cơ quan của tôi trong
những thập niên 1950 với bí danh Nante, cung cấp những tài liệu giá trị lấy từ trong nội
tình của chính giới của Bonn. Vào khoảng giữa những thập niên 1960, sự công tác của
ông với chúng tôi bị đình ch ỉ, nhưng ông lại những tưởng công tác sẽ hoàn toàn chấm dứt
và sẽ không bao giờ trở lại ám ảnh ông nữa. (Điều làm tôi kinh ngạc là các điệp viên
phương Tây đã từng dính líu với cơ quan tình báo c ủa địch nghĩ rằng họ làm chủ được
vận mạng của họ. Không có một hợp tác nào với cơ quan tình báo l ại bị bỏ quên. Họ có
thể khuấy động trở lại và quay ngược chống lại anh cho đến khi anh chết mới thôi).

Chúng tôi quyết định gạt sang một bên nguyên tắc không bao giờ tiết lộ danh tính của
nhân viên điệp báo và loan báo chủ nhiệm của một tuần báo chống đối quyết liệt những
hiệp ước với Đông Đức đã nh ận tiền lương của Đông Bá Linh nhiều năm qua. Chúng tôi
phối hợp việc tiết lộ này với một công tác khác, đặc biệt là vụ điều tra cái chết của một
doanh nhân Tây Đức tên Heinz Bosse, đã t ừng có mối liên hệ tốt với Bonn và đã t ử
thương trong một tai nạn lưu thông ở Đông Đức. Thực ra Bosse có một vài liên hệ với
tình báo Đông Đ ức và qua đây để tham viếng xã giao không ngờ xe của ông ta trượt
bánh trên đường trơn ướt trên đường trở về Tây Đức. Tin đồn được tức khắc phổ biến
quanh cái chết bí mật của một người đã từng có những mối liện hệ bí mật với cả Đông
lẫn Tây Đức, trong đó có Karl Wienand, một dân biểu của đảng SPD. Tai nạn này chỉ là
một tai nạn lưu thông bình thư ờng và chúng tôi cố tìm cách chứng minh điều này bởi vì
những mối nghi ngờ về cái chết của ông là một mãnh lực khiến cho các nguồn tin và điệp
viên Tây Đức khác của chúng tôi không dám di chuyển đôi lúc sang Đông Đức để tham
khảo hoặc để chuyển giao tài liệu. Chúng thực hiện một việc hi hữu là mời phóng viên
điều tra của tuần báo Stern để tìm hiểu về tai nạn này và cho phép họ vào phòng giảo
nghiệm và tiếp cần những biên bản liên hệ.

Chúng tôi lợi dụng chuyến đi của ký giả tuần báo Stern để kín đáo gây sự chú ý về hành
tung của van Nouhuys. Chúng tôi không phải tốn công sức nhiều, vì tờ Stern - thường có
đường hướng bảo thủ - là đối thủ kịch liệt nhất của Quick. Câu chuyên xuất hiện trên tờ
Stern đúng như chúng tôi dự liệu. Van Nouhuys bị đuổi, nhưng Quick đã nh ảy vào một
trận chiến luật pháp kéo dài vụ kiện tuần báo Stern để biết câu chuyện có thật hay
không. Tòa án phải mất nhiều năm để phán quyết thuận lợi cho Stern, một chỉ dấu chứng
tỏ sự khó khăn trong việc giải quyết qua phương pháp của luật pháp những cái vã phát
xuất từ thế giới phức tạp của tình báo.

Những câu chuyện cá nhân tại Đức có khuynh hướng thay đổi rất là oái ăm. Không bao
lâu sau khi Đông Đức sụp đổ và các hồ sơ của Stasi công khai rộng mở, trong đó những
chi tiết về sự phản bội của Van Nouhuys vẫn còn được lưu giữ, cùng với hàng trăm ngàn
câu chuyện đời định mệnh, đáng quở và thảm khốc của những người khác, tôi mở xem
một tờ báo lá cải và thấy lời chú giải của Hans van Nouhuys đập vào mắt tôi. Luôn thay
đổi để thích ứng với thời thể, anh ta đã tự chuyển hóa để biến thành một chuyên gia về
Bộ Công An và cơ quan tình báo hải ngoại Đông Đức.

Cái khó khăn của các cục « phản thông tin », như mọi giám đốc tình báo trên thế giới
đều biết, là họ có khuynh hướng đáng tiếc tự phát.Các chuyên gia làm việc trong những
cục này nặn ra càng lúc càng nhiều những chuyện hoang đường và táo báo. Một trong
những giai đoạn mà tôi vẫn còn cảm thấy ghê tởm cực độ phát xuất từ tổng cục trách
nhiệm về tôn giáo và đối lập; cơ quan này không do tôi kiểm soát, và trong trường hợp
này kẻ thủ phạm được Moscow nâng đỡ và xúi giục. Vào đầu những thập niên 1980, sợ
rằng các sinh hoạt tân Quốc Xã tại Tây Đức lan tỏa và ảnh hưởng đến giới thanh niên
Đông Đức, tổng cục này đã tự ý sản xuất những tài liệu tuyên truyền tân Quốc Xã sao
chép văn phong lỗ mãng và cuồng loạn của phương Tây và gởi sang Tây Đức. Như họ
mong đợi, những tờ rơi này làm cho mọi người tưởng chúng là thật, đưa đến việc bàn
thảo tại Quốc hội (Bundestag). Tôi thấy cái trò bẩn thỉu thật là nguy hiểm; một vài vị
quan Xô Viết đỡ đầu cho sáng kiến này cảm thấy sung sướng thấy chúng tôi cuối cùng đề
cao những tập hợp tân Quốc Xã trong mục đích gây rối loạn hàng ngũ Tây Đức.

Yếu kém cơ bản của khối tình báo Xô Viết là áp lực chính trị liên tục để sản xuất chứng cớ
về thói hư tật xấu của phương Tây và dùng chúng trong tuyên truyền quy mô để chống
phá kẻ thủ. Trận chiến tuyên truyền của Chiến Tranh Lạnh dùng những từ ngữ đạo đức
để che dấu trên thực tế bản chất kỹ thuật và quân sự của cuộc xung đột. Nhưng để cho
quần chúng ở hai bên bức màn sắt tiêu thụ, chính quyền của đôi bên vì vấn đề sinh tử
phải biến kẻ thù thành quỷ dữ và từ đó họ tuyên bố họ hành động có chính nghĩa và có
luân lý trong khi đó kẻ đối nghịch phá vỡ nguyên tắc cư xử văn minh.

Hậu quả độc hại của việc này là lâu lâu có những sĩ quan tình báo b ịa chuyện hoàn toàn
để chứng tỏ với bộ tổng tham mưu họ đang phản công kể thù trong khi họ chẳng làm gì
hết. Người ta được biết các sĩ quan tình báo Moscow cư t rú tại các sứ quan ở ngoại quốc
lâu lâu gởi báo cáo về đã g ặp gỡ các điệp viên và các nguồn tin ma, để xuất hiện trước
mắt cấp trên của mình như m ột người chăm chỉ làm việc.

Loại phong cách này không thể che dấu được lâu trong tình báo hải ngoại, bởi vì tất cả
thông tin do điệp viên và nguồn tin thâu lượm được đều được các sĩ quan nghiên cứu kỹ
lưỡng không chậm trễ, do đó những mánh khóe và những trò quái gở sẽ bị phát giác
nhanh chóng một khi thông tin nguyên thủy được đem ra đối chiếu. Tuy nhiên, nguy cơ
có những hành động như vậy rất dễ xảy ra trong cơ quan phản gián. Nơi đây, Mielke tạo
nên một không khí nhà kính bằng cách ép buộc các sĩ quan th ực hiện những việc không
thực tế để chứng tỏ với nhóm Xô Viết và cấp lãnh đ ạo của chúng tôi chỉ có nhân viên của
ông mới đánh bật được gián điệp của phương Tây ra khỏi nước CHDCĐ. Năm 1979 phong
cách này cuối cùng dẫn đến sự việc đáng tiếc của ASA.

Đôi lúc các kẻ đào thoát từ Quân Đội Nhân Dân sang Tây Đức và cảm thấy cuộc sống ở
đây không quyến rũ và d ễ dàng như họ thấy trên màn ảnh truyền hình, xin trở về Đông
Đức. Vị thế của những kẻ đào ngũ như v ậy luôn luôn bấp bênh. Họ được phép như vậy vì
sự trở về của họ là một phương tiện tuyên truyền tốt và ngăn cản rất hưu hiệu những ý
đồ đào thoát sau này. Cùng lúc đó, kẻ đào thoát trở về không được chính quyền tin
tưởng. Để có một căn nhà ở hoặc việc làm tươm tất, họ phải chứng minh trước những
câu hỏi dồn dập và chẳng nhã nhặn tí nào là lần này họ phải trung thành với nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Không cần phải là tâm lý gia Freud, mọi người đều biết ở thời điểm này về
tâm lý họ rất dễ uốn nắn.

Một trong những mục đích của cuộc thẩm vấn là khám phá xem kẻ trở về có bị tình báo
Tây Đức kết nạp không, và nếu có, phương pháp nào đã đư ợc áp dụng. Khốn thay, văn
phòng Tổng Cục 9 của Bộ Công An tại vùng Suhl (Tổng Cục 9 phụ trách về thẩm vấn)
không gạt hái được nhiều thành quả trong lãnh vực này. Ít ai trong số những người bị
thẩm vấn có cơ hội gặp gỡ các cán bộ tình báo Tây phương để được kết nạp, hoặc nếu
có, chỉ ở mức độ tổng cục trưởng không xem là quan trọng để gây ấn tượng với bộ tổng
tham mưu ở Đông Bá Linh.

Một hôm, hai sĩ quan trung cấp báo cáo là họ đã chấm dứt việc thẩm vấn một lính đào
ngũ trở về thú nhận đã nhận tiền của người Mỹ. Đây là một khám phá hay ho hơn là một
người làm việc cho Tây Đức. Các sĩ quan báo cáo ngư ời này đã đư ợc sĩ quan Hoa Kỳ huấn
luyện kỹ thuật khuynh đảo bạo động tại những căn cứ tái định cư cho những người Đông
Đức đào thoát. Những năm tháng tuyên truyền về những kế hoạch của phương Tây nhằm
phát động một cuộc chiến ngấm ngầm tại Đông Âu đang đem lại kết quả. Người này nói
rằng Hoa Kỳ đặt tên cho mỗi một người Đông Đức là một « điệp viên công tác hạ tầng cơ
sở đặc biệt » hoặc là ASA, viết tắt từ danh từ Đức Agent mit spieller Auftragstruktur.

Điều này lý ra phải gây báo động. Khởi sự, đây là một cụm từ có âm hưởng Đức, không
có âm hưởng Hoa Kỳ - đặc biệt hơn nữa, đây là tiếng Đông Đức bình dân có tính cách
khoe khoang. Một sự pha trộn giữa những lời mớm của sĩ quan th ẩm vấn và cảm nghĩ
của kẻ đào ngũ trở về cho rằng câu chuyện hoang đường của mình càng màu mè chừng
nào càng được chính quyền chiếu cố chừng ấy đã khiến cho mọi người thi nhau nhận
mình là ASA. Bộ tổng tham mưu của Tổng Cục 9 ở Bá Linh cũng nhúng tay vào, và các
quận khác cũng tham d ự; Rostock trên vùng biển Baltic cũng đóng góp một câu chuyện,
do lời khai báo của một ASA, về một chiếc tàu ngầm bí mật.

Mielke vui mừng nghe những tin này, vì chúng xác quyết những tiên đoán báo động về
mức độ xâm nhập của phương Tây vào Đông Âu và nhu cầu giám sát kỹ lưỡng quần
chúng. Trong một cuộc họp với Andropov tôi có mặt, ông khoe khoang ông có những tin
tức xác thực về hiểm họa của một cuộc chiến tiềm tàng. Ông trao cho Andropov một tài
liệu tối mật vạch rõ những nơi chốn của chiếc tàu ngầm tí hon và, liếc nhìn tôi một cách
đắc thắng, giải thích dông dài đây là kết quả của công trình phản gián của ông chứ không
phải là của cơ quan Tình Báo Hải Ngoại HVA do tôi lãnh đạo.

Không ai dám hỏi người Xô Viết đã làm gì v ới những tài liệu này, vì không bao lâu sau đó,
một đồng nghiệp trong quân báo của Bộ Quốc Phòng báo cho biết một vụ xì-căng-đan
đang âm ỉ. Những chuyên gia hàng hải và chiến lược của họ tuyên bố, khi phân tích
những dữ kiện này, về mặt vật lý Hoa Kỳ hoặc bất kỳ ai không thể nào đặt một chiếc tầu
ngầm dưới biển nơi điệp viên công tác hạ tầng cơ sở đặc biệt nói trên đã th ấy nó. Lần
lữa, những lời khai của điệp viên ASA tan theo mây khói. Việc khám phá những lời khai
này hoàn toàn bịa đặt là do luật sư nổi tiếng Wolfgang Vogel chứ không do những cuộc
điều tra trong nội bộ cơ quan. Ông Vogel được mời gọi bào chữa cho những ASA kém
may mắn này (những kẻ đào ngũ mặc dù thú nhận đã tham gia trong công tác ASA để
được nhẹ tội vẫn bị truy tố về tội đào ngũ). Một cách khôn ngoan, Vogel điều tra tỉ mỉ
những câu chuyện của họ và khám phá phần lớn là do các thẩm vấn viên trong Tổng Cục
9 tự gài đặt vào. Tệ hơn nữa, xem ra các vị sĩ quan cao cấp trong ngành điều tra không
hề tin những lời khai của những ASA, nhưng vì họ bị tràn ngập với những lời khai lý thú
này và sự thèm khát những câu chuyện như vậy trong ngành phản gián tại Đông Bá Linh,
họ không thể hoặc không muốn ngăn chặn cái trò này để nó không tự khai triển động
năng của nó.

Mielke phản ứng nhanh chóng và mạnh mẽ. Ông cách chức Tổng Cục Trưởng Tổng Cục 9
và ra lệnh điều tra. Ông cho một bài lên lớp nghiêm chỉnh về nhu cầu các cơ quan an
ninh phải tôn trọng pháp luật. Ông kêu gọi kiểm sóat kỹ lưỡng hơn các thẩm vấn viên và
luôn tôn trong quyền người công dân. Ông quát tháo: « Một lời thú tội không thay thế
cho nhu cầu triển khai sự thật một cách độc lập. Phương châm thà bất nhiều hơn bắt ít
không thể chấp nhận được ». Chúng tôi tự hỏi đây có phải là một Mielke mới không ? Mọi
người cảm thấy nhẹ nhõm khi ông kết thức bài giảng với lời khích đông: « Các đồng chí,
kẻ thù phải được đối xử như kẻ thù – không nhân nhượng ! ». Cuối cùng chúng tôi thấy
ông đã trở lại bình thường.

Tôi không biết ông có tự thú nhận cái trò ASA là do bầu không khí lồng kính hâm nóng
ông đã tạo nên. Toàn bộ sĩ quan cao cấp trong Tổng Cục 9 tại Suhl đã đư ợc âm thâm
thay đổi, tuy nhiên không một người trách nhiệm nào bị trừng phạt. Rõ ràng ông bộ
trưởng nghĩ rằng sự kín đáo là một lối hành xử khôn ngoan.

Một trong những áp lực lớn nhất lên trên các chính phủ Đông và Tây trong những thập
niên 1970 và 1980 xuất phát từ phong trào phản chiến lan rộng. Lo ngại về một cuộc
xung đột hạt nhân đã khơi d ạy những ý kiến chông đối mãnh liệt nơi người công dân vốn
lãnh đạm với việc phản đối. Ba trăm ngàn người tụ họp để biểu tình phản chiến tại Bonn
chống đối quyết định của NATO đặt phi tiễn tại châu Âu. Những cuộc biểu tình phản đối
chống chiến tranh hạt nhân này phù hợp với mục đích của chúng tôi, vì chúng gây khó
khăn cho các chính khách của NATO. Áp lực chính trị thường xuyên gây khó chịu đến độ
chúng tôi bị các cấp lãnh đ ạo Tây phương tố cáo đã xúi gi ục những cuộc biểu tình quy mô
và kiểm soát phong trào.

Thực ra, những cuộc biểu tình phản đối nhận hỗ trợ tài chánh của phía Đông; trong khi
đó chúng tôi cũng ph ải đương đầu với những khó khăn của chúng tôi. Chúng tôi nàm
trong một vị thế khó xử, một mặt hỗ trợ cho phong trào phản chiến ở Tây Âu để dùng
làm vũ khí tuyên truy ền chống lại Washington, một mặt công an chìm ở Đông Âu nỗ lực
đàn áp « lạc hướng ý thức hệ » của những nhóm phản chiến đang trổi dạy trong nước.
Những cuộc biểu tình đông đ ảo như ở Bonn và ở Greenham Common tại Anh quốc không
dễ gì đư ợc phép tại các quốc gia trong khối Đông Âu, nhưng chúng tôi ý th ức phong trào
phản chiến đã b ắt rễ trong các xã hội của chúng tôi và là mối thách thức tiềm ẩn đối với
ảnh hưởng của Xô-Viết. Tại Đông Đức, chủ đề này đặc biệt gây bối rối cho cấp lãnh đạo
đã quen thói dùng phản chiến làm lý tư ởng của người Cộng Sản. Nhưng việc Xô-Viết dàn
trải những tên lửa SS-20 tại Đông Đức năm 1980 gây bất an cho quần chúng địa phương.
Mặc dù cách biệt nhau bấy lâu nay, người Đông và Tây Đức nhận ra bản sắc của nhau
một cách mãnh liệt là họ đều ghê sợ bom nguyên tử. Vấn đề này đã gây nên những mối
bất bình lớn trong xã hội chúng tôi. Giáo hội Tin Lành đã cung cấp nhiều nhà hoạt động
phản chiến từ trong giới giáo phẩm, và họ dùng sự che chở của giáo hội để tiết chế
những phản kháng không che dấu về chính sách hạt nhân.

Wolf Biermann

Hơn nữa, nhờ phong trào phản chiến một nhóm trí thức đã xuất hiện trước quần chúng.
Họ là những người ủng hộ tích cức những người chống đối Xô Viết và khối Đông Âu, trong
đó có Solzhenitsyn, bị lưu đày ở Hoa Kỳ; Wolf Biermann, một ca sĩ và thi sĩ n ổi tiếng của
Đông Đức, đã chịu chung số phần của Solzhenitsyn và bị tước quyền công dân; Heinrich
Böll, một văn sĩ Tây Đức được Giải Nobel. Tại các Bộ Chính Trị tại Moscow và Đông Âu, họ
lo sợ những người ủng hộ lời kêu gọi của những khuôn mặt đáng nể này sẽ kết hợp lại để
phản đối các chế độ Cộng Sản trên những vấn đề khác. Chúng tôi cũng lo ngại các cấp
lãnh đạo hoạt động phản chiến Tây Đức, vì sau Hiệp Ước Helsinki về Nhân Quyền được
Liên Bang Xô Viết ký kết năm 1975, rất khó biện minh việc ngăn cấm những người này
vào trong khối Đông Âu.

Trách vụ của tôi với tư cách là giám đốc tình báo hải ngoại, cộng với sự hiểu biết rành rọt
về không khí chính trị của Tây Đức, là tập trung vào tác dụng của phong trào giải giới
trên chính sách đối ngoại của các nước trong khối NATO và làm thế nào để Đông Âu thụ
lợi do sự chia rẽ trong nội bộ liên minh Tây Âu về vấn đề nhạy cảm này.

Tại Đức, Hiệp Hội Đức vì Hòa Bình (Deutsche Friendens-union – DFU) được các người
thân cận và không ít thì nhiều dính líu đến Đảng Cộng Sản Đức thành lập tiếp theo sau
cuộc biểu tình của sinh viên năm 1968. Đây không phải, ít nhất trong giai đoạn đầu, là
thành quả của kế hoạch khéo léo dàn xếp của chúng tôi. Moscow và Đông Bá Linh tỏ vẻ
sung sướng để mặc cho nhà hoạt động cực tả thành lập những nhóm như vậy và chờ
xem những diễn biến sau này. Chính tôi cũng ng ạc nhiên vì tốc độ nhanh chóng những
sáng kiến này thấm nhập rộng rãi vào xã hội. Năm 1979 trong lời nhắc nhở của tôi cho
nhân viên, tôi có viết:

« Trong những số thanh niên thuộc những gia đình khá giả đang có một chuyển hướng
căn bản về giá trí. Việc tiến thân cá nhân và phúc lợi vật chất không còn quan trọng đối
với thành phần này của xã hội. Dấn thân vào những vấn đề rộng lớn hơn của nhân loại,
tinh thần tương thân và «đồng cảm », hoặc gia nhập vào một nhóm có cùng mối quan
tâm và lý tư ởng để phản bác lại những giá trị của nhóm tư bản được xem là những việc
thực sự đáng làm »

Thay đổi này cung cấp cho chúng tôi một môi trường mới để kết nạp những nguồn tin
tình báo. Nhưng chúng tôi phải hành động cẩn thận và quyết định không tuyển dụng trực
tiếp từ phong trào phản chiến. Những rủi ro luôn xảy ra trong ngành điệp báo, và nếu
người ta khám phá chúng tôi đang khiến dẫn các nhân vật lãnh đạo trong phòng trào
phản kháng chống hạt nhân , họ sẽ mất đi tín nhiệm và sẽ bị những người ủng hộ và đại
đa số quần chúng coi họ là những bù nhìn của Xô Viết. Tuy nhiên trong một số trường
hợp, chúng tôi tiếp cận những đối tượng thích ứng; nếu họ chấp nhận làm việc cho chúng
tôi, chúng tôi khuyên họ nên rút lui khỏi những sinh hoạt trong những chiến dịch giải trừ
quân bị. Đây là một sự thận trọng gấp đôi, vì các công dân phản chiến bị các cơ quan
phản gián của nước họ theo dõi kỹ lưỡng để phòng những mối liên hệ đáng nghi.

Trong cuộc chiến giữa những người ủng hộ và chống đối chính sách dùng vũ khí nguyên
tử để hăm dọa, quan điểm của quần chúng về ý đồ của Moscow và Washington rất là
quan trọng. Chúng tôi chủ yếu phản bác tuyên truyền của Hoa Kỳ về mối đe dọa của Xô
Viết.Trong nhiệm vụ này, công việc của một tổ chức vượt lên trên các tổ chức khác . Nó
là một chi nhánh nhỏ trong phong trào phản chiến, có một cái tên có vể mâu thuẫn về từ
ngữ, nhưng ảnh hưởng của nó lên trên cuộc thảo luận giải quân bị thật là mạnh mẽ so
với tầm vóc của nó. Tên của nó là Tướng vì Hòa Bình (Generale für den Frieden).

Được thành lập năm 1981, nhóm này bao gồm các vị cựu tướng và đô đốc đã từ nhiệm vì
họ bất đồng với học thuyết hạt nhân của NATO. Họ là Đại Tướng Bá Tước Wolf Wilhelm
von Baudissin trong Bundeswehr (quân đội Tây Đức), con của một gia đình quý tộc và là
một người có ảnh hướng xã hội và chính trị lớn tại Bonn; Đại Tướng Michael Harbottle ở
Anh Quốc; Đô Đốc John Marshall Lee ở Hoa Kỳ; Đô đốc Antoine Sanguinetti ở Pháp; Đại
Tướng D.M.H. von Mayenfeldt ở Hòa Lan; Đại Tướng Nino Pasti ở Ý; và Đại Tướng
Francisco da Costa Gomes ở Portugal (Bồ đào nha). Không bao lâu Đại tướng về hưu Gert
Bastian, trước đây là chỉ huy trưởng Sư Đoàn 12 thiết giáp Panzer tinh nhuệ, cũng gia
nhập. Ông là một binh sĩ r ất được kính trọng vì đã t ừng bị thương ở mặt trận Nga và là
cố vấn của Bộ Quốc Phòng. Ông đã bư ớc lên cấp bậc đại tá, thiếu tướng và đại tướng để
cuối cùng nhận phẩm trật cao quý chỉ huy trưởng Sư đoàn 12 thiết giáp Panzer. Lo sợ vì
những khuynh hướng thoái lui trong quân đội Tây Đức và tinh thần luyến tiếc thời Quốc
Xã của một số sĩ quan cao cấp đồng nghiệp, ông cực lực phản đối việc dàn trải vũ khí h ạt
nhân Hoa Kỳ trên đất Đức, và năm 1980 ông từ nhiệm và dành hết thời gian cho phong
trào phản chiến. Đời sống riêng tư của ông được chia sẽ giữa người vợ Charlotte bị bệnh
lâu nay và cô tình nhân mới, có dáng dấp sang trọng và phong cách thu hút, Petra Kelly.
Sức quyến rũ của bà có thể khiến những kẻ hiếu chiến nhất trong nhóm diều hâu nghe
lời khuyên dụ của bà để thực hiện chính sách mềm mỏng hơn.

Petra Kelly, 1987

Trí tuệ và động lực đứng đàng sau lưng tổ chức « Các Tướng Vì Hòa Bình » là một người
tên là Gerhard Kade, một cựu sĩ quan hải quân Đức, sau này trở thành sử gia tại Đại Học
Hamburg và một nhà văn viết nhiều về hòa bình. Là một nhà nghiên cứu thâm sâu về
những mối liên lạc giữa các sĩ quan cao cấp và công nghệ sản xuất vũ khí tại Đức và Hoa
Kỳ, ông vốn là một cái gai đối với lực lượng quốc phòng.

Thông điệp của nhóm Các Tướng Vì Hòa Bình giống hệt với thông điệp của các chiến dịch
giải giới rải rác khắp châu Âu, nhưng những người phản chiến luôn bị giới quân sự thu
hút, và chín vị tướng nhận ra họ là những thần tượng trong phong trào. Tất cả đều có
kinh nghiệm trục tiếp trong cuộc Đê Nhị Thế Chiến, và nhiều người vẫn còn mang thương
tích chiến trận. Điều này tạo cho họ thẩm quyền mà phần đông các cấp lãnh đ ạo trẻ của
phong trào phản chiến không có. Ở vị thế tột đỉnh trong nghề nghiệp của họ trong nước
của họ, họ có thêm quyền uy vì đã tham d ự phác thảo kế hoạch chiến lược dàn trải vũ
khí nguyên tử để cảnh báo. Không ai có thể nói là họ không biết gì về những vấn đề này.

Kade và von Meyenfedt thực hiện phần lớn công việc thành lập hội Các Tướng Vì Hòa
Bình. Nhưng những gì các bạn và đồng nghiệp của Kade trong và ngoài hội Các Tướng Vì
Hóa Bình không biết và họ sẽ hoảng sợ nếu họ khám phá ra phần lớn ý kiến của Kade
phát xuất từ Moscow và một số tiền đáng để và những trợ giúp khác phát xuất từ tình
báo hải ngoại Đông Đức.

Tôi không ra lệnh chó các nhân viên của tôi xâm nhập hội Các Tướng Vì Hòa Bình. Đi ều
này không cần. Các sĩ quan cáo cấp trong Biện Pháp Tích Cực, Tổng Cục 10, biết công
việc của họ là tìm cách gián tiếp ủng hộ tất cả những nhóm ở phương Tây có những hoạt
động hữu ích cho chúng tôi, và hội Các Tướng Vì Hòa Bình, với đường lối chống NATO, với
sự ủng hộ của quần chúng và một chút đóng góp mượt mà của giới truyền thông, là một
đối tượng hợp lý.
Vào cuối năm 1980, một trong những sĩ quan của tôi báo cáo cho tôi biết những thành
quả công lao của cục của họ. Họ đã h ội họp với Gerhard Kade nhà một nguồn tin ở
Hamburg. Kade đề nghị một cuộc họp và chúng tôi phái hai sĩ quan c ủa cơ quan chúng
tôi đến, với lý cớ mong manh họ là những đại diện cho Viện Chính Sách và Kinh Tế, một
danh tính chúng tôi đôi khi dùng để ngụy trang. Điều lợi ích trong việc này là một người
phương Tây, nếu đương sự có một ít hiểu biết về Đông Đức hoặc có óc phán đoán, có thể
suy ra là mình đang nói chuy ện với cơ quan tình báo hải ngoại ngoại quốc mà không cảm
thấy bối rối hoặc sợ hãi do vì lời giới thiệu chính thức có thể gây ra. Chúng tôi dùng tranh
tối tranh sáng để ẩn núp, không giống người Mỹ, và tôi luôn ngạc nhiên họ quá sẵn sàng
chấp nhận công khai họ là người của CIA hoăc FBI.

Sau vài lần gặp gỡ, Kade được các sĩ quan của tôi đặt mật danh là Super. Điều này không
có nghĩa là h ọ xem đương sự dứt khoát là một điệp viên – chúng tôi thường đặt bí danh
cho những người chúng tôi đang sưu tra. Nhưng trong trường hợp của Kade, tôi đoán việc
đặt cho đương sự một bí danh tâng bốc có nghĩa là h ọ đã th ỏa thuận hợp tác với đương
sự. Chắc chắn đương sự đã có nêu lên vấn đề của hội Các Tướng Vì Hòa Bình và cho họ
biết là tổ chức này cần tài trợ nếu phải phổ biến quan điểm của mình một cách rộng rãi
để ảnh hưởng dư luận quần chúng. Các sĩ quan thương lư ợng một tài khoản hàng năm và
tôi đồng ý.

Tiền được trao trực tiếp cho Kade . Đây không phải là một số tiền lớn, nhưng con số
tương đối nhỏ các thành viên của tổ chức này cho thấy số tiền này đóng góp vào việc
trang trải chi phí di chuyển và ấn hành. Đồng thời , Kade cũng có những mối liên lạc với
cục tình báo hải ngoại của Bộ Công An ở Moscow và soạn thảo những tài liệu bàn thảo,
căn cứ một phần trên những tham khảo với nguồn KGB, tạo nên nền tảng của những
chiến dịch của hội Các Tướng Vì Hòa Bình.

Quý vị có thể sai lầm nếu quý vị vội vã kết luận tất cả những ai trong hội Các Vị Tướng Vì
Hòa Bình đều biết Kade có liên lạc với tình báo hải ngoại, hoặc là tất cả những tài liệu
hoặc những lời tuyên bố của hội Các Tướng Vì Hòa Bình đều chịu sự chi phối của Moscow
hoặc Bá Linh. Các tướng hành động vì lòng thâm tín. Tuy nhiên, họ thường dùng đường
lối lý luận do Kade cung cấp. Ví dụ quý vị hãy nghe Gert Bastian trong một cuộc phỏng
vấn đải truyền thanh ở Đông Bá Linh năm 1987:

Người phỏng vấn: Ông có nghĩ rằng diễn văn của Bộ Trưởng Ngoại Giao Xô Viết
(Gromyko) có thể giúp củng cố sức mạnh duy trì hòa bình ?
Bastian: Đúng, tôi nghĩ đúng nh ư v ậy. Tôi tin là những gợi ý mới đây của Moscow có rất
nhiều tính cách xây dựng và tôi hy vọng là họ có được lời đáp ứng tích cực của phương
Tây. Trường hợp này đã có trong một khuôn khổ nhỏ, nhưng không đủ soi sáng và không
được định nghĩa rõ ràng, theo s ự nhận xét của tôi. Tôi hy vọng điều này cải tiến và được
thực hiện trong lúc vị Chủ Tịch hiện nay còn tại chức, chúng tôi bước một bước cụ thể
trong chiều hướng đúng đắn: đó là gỡ bỏ tất cả các vũ khí nguyên tử ra khỏi Châu Âu.
(Đài Berliner Rundfunk, phát thanh về cuộc viếng thăm của phái đoàn các Tướng Vì Hòa
Bình tại Đông Bá Linh, ngày 10 tháng 8 năm 1987).

Tôi không có bằng chứng Bastian biết xuất xứ tài trợ cho hội Các Tướng Vì Hòa Bình. Von
Mayenfeld, rất gần gũi v ới Kade và hiện diện ngay từ lúc tổ chức khởi đầu, có nhiều lý do
để nghi ngờ nếu không muốn nói là biết rõ sự can thiệp của KGB và của Bộ Công An.

Vì cái chết bi thảm năm 1992 của Gert Bastian và Petra Kelly, có lẽ họ đòng lòng quyên
sinh, tôi bị tràn ngập câu hỏi của những phóng viên, bạn bè và ký giả tìm hiểu có thể nào
việc công khai hóa những hồ sơ của bộ an ninh đã khi ến dẫn Bastian tự kết liễu đời mình
và đời của Kelly. Theo như tôi biết, những hồ sơ này không tiết lộ những điều gì khác
ngoài những hồ sơ theo dõi thông l ệ khi họ đến Đông Đức. Để trả lời cho một vài đồng
minh xưa kia của Phong Trào Xanh tỏ ý nghi ngờ những hồ sơ liên hệ đã b ị phá hủy, tôi
xin trả lời: Một số hồ sơ tình báo t ối nhạy cảm đã bị phá hủy vào giữa tháng 11 năm
1989 và tháng Giêng năm 1990. Nhưng theo sự hiểu biết của tôi, nó chỉ bao gồm những
hồ sơ liên quan đến những điệp viên và những nguồn tin còn sống , được chúng tôi xếp
vào hạng tối quan trọng. Tôi không nghĩ h ồ sơ về Bastian và Kelly nằm trong loại này.
Gerhard Kade, đã qua đời tại Bá Linh năm 1995, không bao giờ thú nhận có liên lạc với
các cơ quan an ninh của khối Đông Âu, và được tưởng nhớ như ông mong muốn là một
nhà nghiên cứu và hoạt động cho hòa bình.

Lẽ cố nhiên điều tối quan trọng là chúng tôi không bị lộ là người đỡ đầu cho tổ chức này,
sự tín nhiệm vào tổ chức này đặt căn bản trên sự kiện họ không là con tin của NATO và
khối Hiệp Ước Warsaw. Kade đã thuy ết phục chính quyền Xô Viết đề cử một vị tướng
tham gia vào tổ chức này để tạo ấn tượng cân bằng. Khác với Các Tướng Vì Hòa Bình đã
phải tự tách biệt họ ra khỏi chính quyền và quân đội để thành lập tổ chức này, vị tướng
Xô Viết phải rời bỏ công việc thường nhật của mình để được đơn thuần phái đi làm công
tác một ông tướng đấu tranh cho hòa bình và không hề vui thú với nhiệm vụ này.

Khi chiến dịch các tướng đạt nhiều thành quả, các Cục ở Đông Đức vội vã nhận vơ công
lao thuộc về họ. Phiền lòng cho chúng tối nhất chính là em rể của Erich Honecker,
Manfred Feist, một anh công chức vô năng, có vị thế giám đốc tuyên truyền hải ngoại
trong Trung Ương Đảng nhờ liên hệ gia đình, nói với lãnh tụ của Đông Đức tất cả việc này
là do sáng kiến của anh ta.

Các Tướng không là những người duy nhất chúng tôi tìm cách chi phối. William Borm là
một người rất lớn tuổi mà người ta thường thấy ở hàng đầu trong cuộc biểu tình chống
tên lửa. Vào thời Quốc Xã ông là giám đốc xí nghiệp; sau này ông bị chính quyền Đông
Đức bắt, lý do không được rõ – ông có liên hệ mật thiết với cơ quan tình báo hải ngoại
Anh – và bị kết án mười năm tù ở. Sau chín năm, vào cuối những thập niên 1950, ông
được thả ra. Chúng tôi trong cơ quan tình báo hải ngoại nhận dược danh sách những
người được thả ra, và tôi quyết định liên lạc với Borm, lúc đó đã định cư tại Tây Bá Linh.
Tôi và ông ta trở thành bạn, và tôi thấy rõ Borm là người theo khuynh hướng kinh tế tự
do lỗi thời, thủ cựu và quý tộc, nhờ hội Tam Điểm (Freemasonry) với lý tưởng công lý và
bình đẳng ông đã qua khỏi những nhằn nhọc của cảnh tù đày. Tại đây ông nghiên cứu
học thuyết Marx và tìm thấy lý tưởng này phù hợp với lý tưởng của ông. Ông kính nể tôi
và những người khác vì chúng tôi theo Marx, mặc dù bản thân ông không bao giờ trở
thành Mác xít.

Năm 1965, khi ông được bầu vào quốc hội (Bundestag) với tư thế đảng viên Dân Chủ Tự
Do ở Tây Bá Linh, ông công tác chặt chẽ với Brandt, lúc đó là lãnh tụ của đảng Dân Chủ
Xã Hội và đóng một vai trò quan trọng trong việc tranh đấu chống Chiến Tranh Lạnh.
Chúng tôi tài trợ cho văn phòng của Borm trong quốc hội và ông cung cấp tin tức về đảng
của ông và những hiệp ước Ostpolitik của Brandt với Ba-Lan và Liên Xô – thông tin không
khác bao nhiêu với những gì một nhà ngoại giao nhận được tại nước ngoài, nhưng vào lúc
đó chúng tôi không có đại diện ngoại giao nào tại Bonn. Ông hô hào trong những bài diễn
văn của ông chính sách mở cửa với Đông Đức của Brandt, trong đó bao gồm Hiệp Ước
Căn Bản nhìn nhận hai nước Đức. Khi Hans-Dietrich Genscher rời bỏ đảng Dân Chủ Xã
Hội và xoay qua ủng hộ Helmut Kohl, Borm từ chối đi theo, mặc dù chúng tôi thúc giục
ông làm như vậy để củng cố vị thế của ông trong đảng Dân Chủ Tự Do. Nhưng Borm nhất
quyết bám chặt vào nguyên tắc của ông và tổ chức riêng ra một đảng Dân Chủ Tự Do,
mặc dù khó có thể thành công và quả nhiên sau đó rã hàng. Khi Borm xuất hiện đứng
đầu các cuộc biểu tình chống đối, ông đánh mất lý trí của ông; chúng tôi biết phản gián
Tây Đức từ đó trở đi theo dõi ông r ất sát. Tuy nhiên, nhờ sự tài trợ của chúng tôi, Borm
đã đ ạt được một vị thế ảnh hưởng, và chúng tôi tin tưởng ông sẽ tiếp tục lèo lái công việc
theo một chiều hướng thuận lợi. Không may, cái chết của ông vào ngày 2 tháng 9 năm
1987, lúc ông được 92 tuổi, đã ch ấm dứt những sinh hoạt đáng kính của ông.

Nếu có ai hỏi tôi, tôi có hối tiếc về việc khiến dẫn những con người chân thật ủng hộ tổ
chức Các Tướng Vì Hòa Bình và nhờ thế lực của họ trong cuộc tranh đấu chống mối đe
dọa chiến tranh nguyên tử, tôi xin trả lời là không. Trong trường hợp này tôi không có
những ngại ngùng như những người khác. Chúng tôi không thành lập tổ chức Các Tướng
Vì Hòa Bình. Đi ều chúng tôi làm là hỗ trợ về mặt định chế và tài chánh cho một tổ chức
đã lớn mạnh xuất phát từ những lo ngại chính đáng của các thành phần trong quân đội
cho rằng cuộc chạy đua vũ trang đang nguy hi ểm vướt ra khỏi tầm kiểm soát. Điều này
phản ánh quan điểm của phần lớn quần chúng. Đây là một vị thế rất đáng kính trọng
trong thời buổi gay cấn và tôi vẫn hoan nghênh những ai dám đương đầu với sự phẫn nộ
của các quân nhân đồng nghiệp và sự xua đuổi của bạn bẻ và thân nhân vì đã dám làm
như vậy. Và lẽ cố nhiên không một ai trong chúng tôi có thể tiên đoán trong những ngày
lo âu đó vào đầu thập niên 1980 cuộc chạy đua vũ trang k ết thúc không phải trong việc
nổ bom nguyên tử mà là trong tiếng thở hắt của sự sụp đổ của Liên Bang Xô Viết.
Chương 13
Phong trào khủng bố
và Cộng Hòa Dân Chủ Đức
Ngày 13 tháng 9 năm 1993, Yasser Arafat, chủ tịch của Tổ chức Giải Phóng Palestine và
Yitzhak Rabin, thủ tướng Israel, bắt tay nhau trên sân cỏ Tòa Bạch Ốc niêm ấn hiệp ước
biểu tượng cho một bước tiến lịch sử trên con đường đi đến hòa bình ở Trung Đông. Một
năm sau cả người Palestine và người Do Thái được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình.
Trong những năm trước khi xảy ra sự kiện nức lòng này, mối liên hệ với Arafat hoặc tổ
chức của ông bị kết án tức khắc là kẻ a dua hoặc ngay cả là kẻ đỡ đầu cho khủng bố
quốc tế. Gần hai năm sau, vào ngày 4 tháng 11 năm 1995, Rabin đã phải trả mạng sống
của mình vì ban tay của những kẻ khủng bố Do Thái. Đây là những miả mai của lịch sử.

Mọi người đều nói các sử gia trong tương lai sẽ coi nước Cộng Hòa Nhân Dân Đức là một
trong những nước ủng hộ tích cực phong trào khủng bố. Tôi và công trình của tôi bị gạt
phăng trong những vụ tố cáo, và lời tố cáo nặng nề nhất đến từ phía người Hoa Kỳ. Hình
như họ đã quên chính công việc lâu nay của họ là đã ủng hộ những tên độc tài tàn bạo và
tấn cống các chính quyền hợp pháp, một cách công khai và một cách ngấm ngầm, từ việc
lật đổ Mossadegh tại Iran, Arbenz Guzman ở Guatemala, và Allende ở Chili để hỗ trợ cho
nhóm độc tài gia đình trị Somoza ở Nicaragua và rất nhiều kẻ khác giống như họ trên
khắp thế giới.

Những mối liên kết xấu xa này của cả hai bên là hệ quả bi thảm của Chiến Tranh Lạnh.
Việc công khai hóa những hồ sơ của Bộ Công An không hề cho thấy ngành tình báo hải
ngoại chúng tôi, cơ quan HVA, có ít nhiều cộng tác với những tổ chức như là Tổ Chức Giải
Phóng Palestine (PLO) và Cộng Hòa Dân Chủ Đức hỗ trợ cho một vài nhóm có liên can
đến phong trào chính trị khủng bố.

Bởi vì tôi là giám đ ốc của ngành cơ quan tình báo của bộ, cho nên không ai lấy làm ngạc
nhiên là tôi phải biết tất cả về những mối liên hệ của chính quyền của tôi với nhóm khủng
bố. Trên thực tế tôi biết Đông Đức có mối liên hệ với các tổ chức mà phương Tây cho
rằng họ là khủng bố. Nhưng, như tôi giải thích sau đây, tôi không được biết những chi
tiết công tác quan trọng. Trách nhiệm hàng đầu của tôi là tình báo: thu thập tin tức, nhất
là tin mật. Đó là điệp báo chứ không phải là khủng bố. Cá nhân tôi chưa hề can dự trong
việc lập kế hoạch hoặc thực hiện những hành động khủng bố.

Để hiểu nghịch lý của một anh trùm gián điệp không hề biết những mối quan hệ chằng
chịt của ngoại giao, tôi cần phải viết hai điều: thứ nhất, những cuộc đấu tranh giải phóng
của Thế Giới Thứ Ba đã vư ớng mắc như thế nào vào trong Chiến Tranh Lạnh; và thứ hai
như thế nào nguyên tắc phân ly cứng rắn của Bộ Công An đã tạo nên sự tôn thờ tuyệt đối
đầu óc mưu đồ và che dấu bí mật.

Những giải thích trên không phải là để tìm cách bào chữa cho những gì đã x ảy ra và tôi
muốn mọi người thấy rõ mục đích của tôi không phải là để chạy tội. Thức tế là nước
CHDCĐ và các cơ quan tình bá o hỗ trợ kỹ thuật và tài chánh cho những tổ chức mà
chúng tôi xem là chính đáng, và một vài tổ chức đi vào con đường khủng bố giết hại
thường dân trong chính sách của họ. Nước này cũng bảo vệ những kẻ khủng bố trốn chạy
Liên Bang Đức. Tôi không tham gia vào việc này, những người khác đều nhưng tay. Họ
làm việc của họ, tôi làm việc của tôi. Có lẽ may mắn cho tôi là Mielke, bộ trưởng Bộ Công
An, không muốn cho tôi biết, bởi vì đi ều này sẽ làm tôi sao lãng không tập trung công tác
thu thập những bí mật ở hải ngoại.

Có quá nhiều trách nhiệm cần được chia sẻ và quá nhiều hối tiếc cần phải bày tỏ. Tôi
phải nhấn mạnh tất cả những sai trái chúng tôi đã làm không th ể nào bào chữa được với
những gì phương Tây đã làm dư ới chính ngọn cờ của họ trong cuộc chiến chống lại chủ
nghĩa c ộng sản, đã khi ến cho Việt Nam và một vài nước ở Trung Mỹ và châu Phi phải điều
tàn sau khi cuộc chiến địa lý chính trí đã k ết thúc. Đây là phương cách cuốc chiến đã di ễn
ra trên một vài chiến tuyến; tôi không tiếp tay cho kẻ khủng bố theo đường hướng này,
nhưng chúng tôi chắc chắn đã huấn luyện và đào tạo những con người theo những
phương pháp mà sau này họ lạm dụng.

Điều này nghe có vẻ phi đạo lý, xuất phát từ một người sống trong một đất nước đã t ừng
bị những báo cáo của Amnesty International (Ân Xá Quốc Tế) chỉ trích trong cách đối xử
với những người bị bỏ tù vì tội chống lại nhà nước. Tôi không dám nói là việc thẩm vấn
và tiến trình gửi trả về trại giam trong nước chúng tôi không có gì đ ể chê trách, cũng
không dám nói là tôi đã lên ti ếng đủ để chống lại sự hà khắc của họ vào lúc đó. Nhưng
tôi vẫn phân biệt rõ rệt giữa những chế độ trong đó phẩm cách và tự do của con người bị
tước đoạt vì chính sách quá tích cực của công an nhà nước – đó là hệ quả của việc đàn áp
tại Đông Đức – và việc tra tấn có phương pháp để trừng trị những người đối lập chính trị.
Lằn ranh giữa phong cách quá tích cực và sự tàn bạo đã b ị vượt qua tại Thế Giới Thứ Ba,
và chó dù không cố ý, chúng tôi và các đối thủ phương Tây giúp họ bước qua lằn ranh
này. Thử hỏi chúng tôi có ý thức được những gì chúng tôi cung cấp có thể được dùng
theo những đường hướng mà chúng tôi không đồng ý ? Lẽ cố nhiên, nhưng tôi không tin
rằng Honecker và ngay cả Mielke tìm cách chế tài những hành vị khủng bố hoặc vũ l ực
đối với dân thường. Với tư cách là một giám đốc của một cơ quan tình báo hải ngoại, tôi
chấp nhận trách nhiệm về những lạm dụng này – nhưng không phải là nhận tội. Đây là
một phân biệt về đạo đức mà tôi hy vọng độc giả chấp nhận để chấm dứt những thái quá
của thời buổi đó.

Cuộc tranh luận về những định nghĩa khác nhau của « phạm tội » và « trách nhiệm » đã
trở nên mỗi lúc một sôi động hơn trong những năm gần đây. Để đem những danh từ này
trở về khung cảnh lịch sử của nó, chỉ có một thiểu số dân Đức có tội vì đã phạm những
tội ác dưới thời Quốc Xã, nhưng tất cả những Đức sống thuận theo chế độ Quốc Xã có
trách nhiệm về những hành vi này. Đây không phải là một sự phân biệt có tính cách hàn
lâm. Tội ác thuộc phạm vi xét xử của luật pháp, trách nhiệm thuộc pham vị của lương
tâm. Nếu chiếu theo pháp luật, chỉ cần nói tất cả những hồ sơ lưu trữ được đội ngũ cần
mẫn của những ủy viên công tố của Liên Bang Đức xem xét, họ không đưa ra được chứng
cớ nào, chưa nói đến tang chứng, về sự đồng lõa của tôi trong những hành động bạo lực.
Tôi cũng đệ ba đơn kiện những tờ báo nói rằng tôi biết Cộng Hòa Dân Chủ Đức chứa chấp
những kẻ khủng bố Tây Đức khi Bộ Công An làm việc này; tôi không hề biết. Hơn thế
nữa, tôi bị Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ từ chối không cấp chiếu khán viện cớ là tôi đã có lần
thương thảo với bọn khủng bố. Tôi không thấy họ trưng bày chứng cớ để hỗ trợ cho
những lời kết án này. (Cũng nên chú ý là CIA không hề thắc mắc khi họ mời tôi sang Hoa
Kỳ năm 1990, mặc dù là Bộ Ngoại Giao hầu như không biết chuyện này khi họ ngăn cấm
tôi sáu năm sau.)

Như câu chuyện của tôi sẽ làm sáng tỏ, các bộ trong cùng một chính quyền, ngay cả
những ngành có liên lạc mật thiết với nhau như cục đối ngoại và cục tình báo hải ngoại,
không nhất thiết phải biết cục kia làm gì – cho dù cục này nằm ở tại Langley, Virginia, chi
nhánh lớn của Washington, D.C, có biệt danh là Foggy Bottom (Cái Đáy Mờ Ảo), hoặc là ở
tại Đông Bá Linh khi nó vẫn còn là thử đô của Cộng Hòa Dân Chủ Đức. Tôi sẽ đề cập ở
đây những gì tôi biết và tôi để độc giả xem xét tội phạm của tôi, mà tôi từ khước, đối
nghịch lại với trách nhiệm tinh thần của tôi, mà tôi chấp nhận.

Tôi đang nói đến những mối tương quan với Thế Giới Thứ Ba mà chúng tôi liên kết trong
những phong trào giải phóng, và điều này chuẩn bị và điều kiện hóa chúng tôi để dễ chấp
nhận những tổ chức giải phóng áp dụng chính sách khủng bố. Nhìn lại, tiến trình này xem
ra không thể nào tránh được, nhưng vào lúc đó vẫn có thể tránh được. Tất cả khởi sự tại
châu Phi trong khoảng nửa quãng lịch sử ngắn ngủi của Đông Đức. Vào ngày 18 tháng
Giêng năm 1964, nước Cộng Hòa Zanzibar nhỏ bé, bao gồm hai hòn đ ảo nằm ngoài khơi
Đông Phi, tuyên bố độc lập. Đậy là mọt sự kiện chẳng lấy gì làm to tát lắm đối với thế
giới. Vào thời buổi này, các thuộc địa châu Phi luân phiên nhau tuyên bố độc lập, ngoài
những người sưu tập tem lạ, chẳng mấy ai để ý đến Zanzibar.

Quốc gia tân lập này gây sự chú ý của chúng tôi khi họ thình lình muốn có quan hệ ngoại
giao với Đông Đức. Họ khiến quốc gia này trở thành một quốc gia không theo xã hội chủ
nghĩa đầu tiên thách thức chủ thuyết Hallstein của Bonn, theo đó Tây Đức ép buộc tất cả
các nước trừ Liên Bang Xô Viết lựa chọn một trong hai nước Đức. (Moscow là một ngoại
lệ để nhấn mạnh quan điểm của Bonn cho chúng tôi chỉ là bù nhìn của Moscow; họ là
những người duy nhất có quyền giữ liên hệ với cả hai nước Đức.) Zanzibar chọn chúng
tôi; chúng tôi không chọn họ. Rất có thể ông tổng thống Sheikh Obeid Karume không
biết rõ hệ quả của sự ràng buộc ngoại giao trong sự lựa chọn này khi, do sự khuyến khích
của một vài thành viên trong tổ chức thanh niên của ông đã có lần thăm viếng một khóa
học hè tại Đông Đức, ông chính thức công nhận đất nước chúng tôi. Ngoài những hệ quả
ngoại giao rộng rãi hơn, việc công nhận của một quốc gia châu Phi có nghĩa là chúng tôi
có những cơ hội mới cho những dịch vụ tình báo. Hoặc thảng tổng thống Karume không
ngoan hơn chúng tôi nghĩ, vì bên c ạnh công hàm công nhận ngoại giao còn kèm theo một
loạt yêu cầu trợ giúp tài chánh và cố vấn an ninh, đặc biệt trong lãnh vực thu thập tình
báo nội địa và bảo vệ biên giới. Danh tiếng của chúng tôi đã quả nhiên lan rộng và đây
cũng là một cách tán tụng chúng tôi.

Phình mũi do sự chiếu cố này, Mielke tìm kiếm một thí sinh để làm cố vấn cho cơ quan an
ninh mới ra đời của Zanzibar. Chúng tôi đồng ý đề cử TUosng Rolf Markert, một cựu tù
binh của trại tập trung Buchenwald và trở thành sĩ quan cảnh sát cao cấp sau chiến
tranh và hiện nay làm giám đốc vùng của Bộ Công An. Vì chúng tôi không hề có hiện diện
ngoại giao tại châu Phi vào lúc bấy giờ, mội người đồng ý là phải có một người hiểu biết
về các vấn đề ngoại giao tháp tùng Markert. Tôi chợt nảy ý và đề nghị chính tôi tháp
tùng.

Đây là một ý nghĩ táo bạo để một giám đốc tình báo hải ngoại du hành đến một nơi mà
sự tâm phục chưa được rõ, đi ngang qua những lãnh thổ có mối liên kết chặt chẽ với
NATO để mà đến đó. Mielke có do dự đôi chút những cuối cùng cũng đồng ý. Tôi phải một
bài giảng dài về nhu cầu tuyệt đối bảo mật và cành báo không được đề cập công tác này
ngay cả vớii phó giám đốc của tôi. Mielke đich thân thu xếp vấn đề an ninh cho tôi và
ngay cả giám sát một kế hoạch cấp cứu khẩn cấp trong trường hợp tôi rơi vào một cặm
bẫy. Markert và tôi được cấp một loạt những thông hành Đông và Tây Đức giả với nhiều
tên khác nhau. Tuổi của chúng tôi được thay đổi trên giấy tờ và chúng tôi, với lòng thích
thú, khăn gói lên đường đến nhà một nghệ sĩ c ải trang để làm mặt nạ. Mielke nhất định
buộc chúng tôi phải mang nó trong suốt hành trình. Cải trang của chúng tôi lẽ cố nhiên
ăn khớp với hình ảnh trên những giấy tờ căn cước giả mạo và trên đây chúng là những
chuyên viên về giáo dục người lớn.

Chúng tôi khởi hành vào tháng Hai năm 1964, và trạm ngưng đầu tiên của chuyến bay là
Cairo. Markert và trưởng phái đoàn ngoại giao thực sự ngồi ghế thượng hạng, nhưng để
không ai chú ý đến tôi, tôi ghi tên là một đệ nhất tham vụ nhỏ bé và ngồi nghế hạng du
lịch. Khích động đầu tiên là một trận bão cát đ ã buộc chúng tôi phải hạ cánh xuống
Athens, đúng như mối lo ngại của Mielke, sợ tôi bị bắt trên lãnh thổ của NATO. Markert
và tôi , hai chúng tôi phân cách nhau và ngủ trọ tại hai khách sạn khác biệt. Điều này
gây lo ngại, bới vì chúng tôi biết thông hành Đông Đức không có sức bảo vệ nào trên
lãnh thổ của NATO. Sáng hôm sau, tôi phải mất nửa tiếng đồng hồ để dán râu giả vào vị
trí thích hợp với hình ảnh trên giấy thông hành.

Có những trạm thông quá ở lại lâu dài ở Cairo, Adis Abeba và Mogadishu. Cuối cùng
chúng tôi đến Nairobi, nơi đây chúng tôi bị lấy thông hành và chúng tôi không được phép
lấy chuyến máy bay liên kết. Chúng tôi đoán chừng tuyến đường của chúng tôi đã bị theo
dõi từ Cairo, nơi đây chúng phải kê khai với các viên chúc Anh để có chiếu khán để đi
Liên Hiệp Đông Phi (Zanzibar, Tanganyika, Kenya, Uganda). Sau một thời gian chợ đội
sốt ruột, chúng tôi không bị điều tra hơn nhờ sự can thiệp của bộ trưởng ngoại giao
Kenya Oginga Odinga, sau này trở nên phó tổng thống. Con của ông đang học tại Đông
Đức, và khi thấy tên quen thuộc của thứ trưởng ngoại giao Wolfgang Kiesewetter trên
danh sách của phái đoàn chúng tôi trình đệ cho ông ta, ông ra lệnh cho phép chúng tôi
tiếp tục cuộc hành trình. Khi chúng tôi tới Zanzibar, toàn bộ chính phủ ra đón chúng tôi,
một đội lính danh dự đóng bộ quân phục thời đế quốc Anh cũ và m ột ban nhạc cảnh sát
hòa tấu những bài van-sơ Áo. Họ đã yêu cầu chúng tôi đem theo quốc ca của Đông Đức,
nhưng trong lúc chờ họ tập hòa nhạc chúng tôi phải nghe những bài của Strauss. Ông thứ
trưởng ngoại giao gặp rất nhiều trở ngại trong lúc diễn hành quan sát đội lính danh dự
với nhịp điệu du dương của bài Giòng Sông Xanh (Blue Danube). Làm người Đông Đức ở
tại một nước Zanzibar thời hậu thuộc địa quả là một thú vị. Vào những ngày nghỉ trọng
thể như ngày 1 tháng 5 của chúng tôi, được đưa vào Zanzibar để vinh danh chúng tôi,
chúng tôi được quần chúng nhận diện nhanh chóng và bao quanh. Quần chúng vui vẻ
tiếp thu những mong đợi của chính phủ về chúng tôi. Các ca sĩ dẫn dắt đám đông hát
những lời ca tán túng vẻ đẹp và sự phồn thịnh của nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức. Rõ ràng
nước CHDCĐ đã đ ạt được vị trí một đất nước thơ mộng và giàu có trong trí tưởng tượng
của quần chúng.

Cho dù những buổi ăn mừng có đẹp đến đâu, tình hình không mất tốt đẹp. Những nỗ lực
của chúng tôi nhằm đặt để những kế hoạch làm việc vững bền và những công việc
thường nhật trong thời gian chúng tôi ở lại đây đều vô vọng. Thường xuyên, chúng tôi
đến họp để chỉ thấy người này bị đuổi việc và một người khác không rõ diễn tiến của
cuộc thương thảo hoặc của kế hoạch lại ngồi đó. Thoạt đầu, những điều này xem có vẻ
như những trở ngại nhỏ so với những đêm dài dạo mát quanh những biệt thự sang trọng
, nơi chúng tôi ở, sân đánh golf nay không còn ai chơi, nghĩa đ ịa Ấn độ, và những cái chòi
đất ở ngoại ô thành phố. Tại đây, những người đàn ông ngồi tán gẫu và hút thuốc cho
đến mờ tối trong khi các bà tiếp tục công việc đồng áng.

Những giao thiệp với Ibrahim Makungu, sau này được bổ làm giám đốc an ninh, lúc ban
đầu xem ra khó khăn. Chúng tôi cần biết những nhận định chân thật về ưu tiên của đất
nước anh ta, nhưng Makungu đã nhận được lệnh của ông tổng thống không tiết lộ điều
gì hết và tìm cách khai thác chúng tôi tối đa. Thực ra, anh quá kín đáo đến độ từ chối
không cho chúng tôi biết tên thật của anh. Tôi chỉ khám phá tên thật của anh khi anh để
quên những mẩu giấy anh thường ghi chép những điều bí ẩn bằng tiếng Swahili trong đó
ông hủy bỏ một cuộc họp mặt đã dự bị trước, kết thúc bởi những hành chữ sau: « Công
việc của chúng ta khó khăn và bí mật. Simba ». Tôi hỏi anh đầu bếp Simba là ai vậy và
tôi được biết không những tên đầy đủ của anh mà cả một số chuyện về anh. Anh đầu bếp
nói, trong quá khứ, Makungu đã làm việc với Ngành Đặc Biệt của Cảnh Sát thuộc địa
Anh.

Đến từ một nước trong đó tất cả mọi người trong đảng cẩm quyền đoàn kết với nhau để
thực hiện những mục tiêu đã đ ịnh, chúng tôi không quen thuộc với một chính quyền gồm
những cá nhân chia rẽ nhau vì những mục tiêu và quyền lợi khác biệt. Một vài đối tác của
chúng tôi tự xem mình là người của Xã Hội Chủ Nghĩa, trong khi đó những người Hồi Giáo
nhìn họ và chúng tôi với cặp mắt nghi ngờ. Nhưng không ai ngại ngùng xin xỏ và sau đó
chỉ trích chúng tôi vì chúng tôi không cung cấp được hàng hóa. Họ thiểu não đưa cho
chúng tôi xem những chiếc tàu mục nát, những đài phát thanh cũ và những đường dây
điện thoại sờn cũ do ngư ời Anh để lại, họ hy vọng chúng tôi có thể trang bị lại hạ tầng cơ
sở của cả một nước.

Quyền lãnh đ ạo Zanzibar được chia sẻ giữa Tổng Thống Obeid Karrume, trước đây là thủ
lãnh của công đoàn thuyền nhân, nói chuyện như đoàn viên nghiệp đoàn Anh và những
phó tổng thống của ông, Abdullah Kossim Hanga và Abdulrahmann Nbabu. Họ hỗ trợ trái
ngược nhau và cùng một bầu nhiệt huyết mô hình Cộng Sản Xô Viết và Trung Hoa, lúc
bây giờ đang kình chống nhau dữ dội. Hanga đã đi du h ọc tại Liên Bang Xô VIết, trong
khi đó Nbabu biểu hiện lòng mến mộ Mao Trạch Đông cho vặn bài « Quốc Tế Ca » trên
đĩa hát sao chép trầy trụa thật lớn trong những buổi tiếp tân. Cái túi hổ lốn ý thức hệ này
có lẽ giải thích tại sao Zanzibar đã chọn Đông Đức làm đối tác hàng đầu. Tôi mau chóng
thấy sự hiện diện của chúng tôi tại đây đơn thuần do một tính toán chính trị. Bởi vì Liên
Hiệp các Quốc Gia Đông Phi lệ thuộc về mặt kinh tế vào trao đổi thương mại truyền
thống và liên hệ tài chánh với Anh Quốc, mối liên hệ trực tiếp với một trong hai cường
quốc Cộng Sản xem ra không khôn ngoan. Chúng tôi khá tiến bộ về mặt kinh tế để trở
thành người cố vấn hữu dụng và người cung cấp hạ tầng cơ sở an ninh ( phải mất nhiều
năm trời để Zanzibar tiến bộ và có được những kỹ thuật cần thiết), nhưng không lớn để
tránh làm phiền lòng những nguồn cung cấp lợi tức khác.

Một vài tháng sau khi chúng tôi đến, hòn đảo rúng động vì những lời đồn hai nước
Zanzibar và Tanganyika sát nhập thành một. Điều này liên quan đến chúng tôi, bởi vì
Julius Nyerere lãnh đạo Tanganyika và vẫn giữ những mối liên lạc mật thiết với Luân-
đôn. Nếu việc kết hợp thành công , chung tôi e rằng chính phủ Anh sẽ áp lực Zanzibar
chấm dứt cộng tác với chúng tôi. Tệ hơn nữa, chúng tôi đang ở vị thế bất ổn làm cố vấn
tình báo cho một nước mà không một ai trong số những đối tác có ý định cho chúng tôi
biết chuyện gì đang xảy ra trong nước.

Ngày 24 tháng Tư năm 1964, chúng tôi nhận được tin sự kết hợp đã thành hình và tên
của tân quốc gia này là Tanzania. Ngày trước hôm đó, tôi được bảo đảm là chuyện này
không được trù tính và đã bay sang hòn đảo nhỏ Pemba để kiểm tra văn phòng an ninh
mới. Tôi nhận được tin này trong khi tôi đang ngồi cùng với những tân binh mới kết nạp
để trả lời những câu hỏi về mối liên hệ giữa chủ nghĩa Marx và tôn giáo cho đ ến tờ mờ
tối. Tôi bực bội chấm dứt cuộc thăm viếng và bay trở về đảo lớn. Một chiếc tầu hàng hóa
Đông Đức đã d ời chuyến lên đường để đưa tôi về nước, nhưng sau ba tháng công tác ấm
ức, tôi không chấp nhận rời bỏ để chính mắt tôi phải thấy Zanzibar có còn trung thành
với chúng tôi không. Chúng tôi hiện nay có những vốn liếng cá nhân và tài chánh tại
Zanzibar, vì chúng tôi đã thành l ập một hạm đội thuyền nhỏ cho lính biên phòng, thủy
thủ và công binh có huấn luyện tại Đông Đức. Trái với những điều lo lắng của chúng tôi,
Zanzibar giữ được tính cách tự trị của mình ở mức độ cao. Chân dung của Nyerere được
treo thấp hơn chân dung của Karume một ít tại các công sở.

Những nỗ lực của chúng tôi không bị tiêm nhiễm bởi tinh thần bất chấp đạo lý mà sau
này nó thấm nhập những mối quan hệ của chúng tôi với Thế Giới Thứ Ba. Chúng tôi nghĩ
rằng giúp Zanzibar là chúng tôi đóng góp cho tự do của nhân dân châu Phi và giúp họ cải
thiện đời sống. Tôi thiếu thành thật nếu tôi nói chúng tôi không cảm thấy thú vị làm đại
diện cho tình báo Đông Đ ức trong việc điều khiển công tác tại một phần của thế giới, nơi
chính quyền Anh và Tây Đức là những ông vua trong khu rừng tình báo. Tôi nhớ một
cuộc hành trình đưa ch úng tôi đến một trạm tiếp liên vệ tinh của Hoa Kỳ tại Zanzibar.
Đứng ở ngoài là một anh lính cầm súng rất to và khi chúng tôi đến anh ta chĩa súng về
phía chúng tôi trong lúc chúng tôi tìm lời giải thích. Cuối cùng chúng tôi thuyết phục anh
ta cho chúng tôi vào. Trong chuyến đi đầu tiên vào thế giới tư bản, tôi đứng cạnh một
trạm tiếp liên vệ tinh của Hoa Kỳ, ngon chưa.

Trên nhiều phương diện chúng tôi ngô nghê về những hiệu quả của những can thiệp của
chúng tôi tại các nước Thế Giới Thứ Ba. Kỹ năng thu lượm tin tình báo, tôi luyện nhờ kinh
nghiệm Thế Chiến Thứ Hai và Chiến Tranh Lạnh, được truyền luyện nhờ các sĩ quan liên
lạc có tay nghề cao và các chuyên viên của chúng tôi. Nhờ sự chuyên cần, cơ quan an
ninh ở Zanzibar đặt đến một kích thước khôi hài. Tương quan với dân số, chẳng bao lâu
họ có kích thước lớn hơn chúng tôi và mau chóng tạo nên một động năng mà tầm ảnh
hướng của chúng tôi không còn đụng chạm đến nữa. Karume, vướt sự tiên đoán của
chúng tôi, thích gây cạnh tranh giữa các quyền lực ngoại bang, và vị thế của chúng tôi bị
sói mòn vì người Trung Hoa ồ ạt đổ vào năm 1965. Chúng tôi cảm thấy đặc biệt chua xót
khi chúng tôi , vừa xoay sở song để giao những tàu đánh cà bằng lưới rà cho họ vì chính
quyền của họ nài xin chúng tôi cung cấp, thấy món quà của chúng tôi bị che lấp bởi việc
phái đoàn Trung Hoa đến và đem theo những thiết bị nông nghiệp. Chúng tôi càng lúng
túng hơn khi nhận ra những chiếc tàu này không thích hợp với vùng biển hoạt động.

Người Trung Hoa tỏ ra rất khôn ngoan trong việc sinh cơ lập nghiệp. Trong vòng một vài
tuần lễ, hình ảnh của Ulbricht hoặc là đã bị tháo gỡ tại các công sở hoặc bị lấn lướt bởi
những hình ảnh to lớn và hùng vĩ của Mao. Moscow ghi nhận rất kỹ lưỡng những biểu
hiện này và yêu cầu báo cáo có bao nhiêu bức hình của vị lãnh tụ Trung Hoa được trưng
bày và ở đâu. Chúng tôi làm một công tác vô bổ để đếm những hình ảnh này.

Trước khi tôi rời Zanzibar, có một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi đã ghi khắc trong tấm trí của
tôi. Tất cả những người ngoại quốc được mời đi gặt nhổ cây sắn, thức ăn quan trọng nhất
trong vùng. Chúng tôi được các đội nhạc và ca vũ tiếp đón và sau đó mọi người bắt đầu
đốn và thu góp cho đến khi lưng chúng tôi nhức mói. Cạnh bên tôi, một người nhỏ bé
nhưng mạnh mẽ, có dáng dấp nhanh nhẹn đang làm việc, đó là lãnh sự Hoa Kỳ tại
Zanzibar. Cải hai chúng tôi được mởi ra và được báo với những lời lẽ thật là nhã nhặn
chúng tôi đã nhìn lầm những bó cấy mỉ nhỏ mềm mại là cỏ dại, nhổ chúng đi và ném vào
đống rác. Tôi tự hỏi không biết ông Mỹ này có tên là Frank Carlucci, không những là một
nhà ngoại giao Hoa Kỳ tài ba mà còn là phó giám đốc của CIA, có biết tôi là ai không.

Mặc dù trải qua kinh nghiệm ở Zanzibar, động cơ thúc đẩy ban đầu của chúng tôi nhằm
trải rộng công tác ở Thế Giới Thứ Ba không tan biến. Chúng tôi tiếp tự tìm kiếm công
nhận ngoại giao cho nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức. Khoảng năm 1969, chúng tôi bị tràn
ngập vì những thăm viếng và những lời yêu cấu trợ giúp. Syria và Ai Cập phá vỡ chủ
thuyết Hallstein và tìm kiếm chúng tôi, tiesp theo là Soudan, cả hai nước Nam và Bắc
Yemen, Công/Brazaville, Kampuchea và phong trào giải phóng Rhodesia, ZAPU
(Zimbabwe African People's Union ). Một buổi tiếp tân bộ trưởng nội vụ Ai Cạp có nghĩa là
tất cả những cửa sổ phải được lau chìu sạch sẽ hai lần do lệnh của Mielke, và sân trong
của bộ đày những đội binh danh dự và ca đoàn thiếu niên. Tôi bắt đầu cảm thấy những
mối liên hệ này là một gánh nặng không thú vị và vô bổ, cho dù việc thăm viếng những
nói lạ lẫm có tính chất phiêu lưu ngoạn mục. Chúng làm cho cả hai chúng tôi Mielke và
tôi xa rời nhiệm vụ căn bản chiếm thế thượng phong trong cuộc chiến tình báo hải ngoại
ở Châu Âu. Tôi luôn luôn tập trung những cố gắng của tôi vào Tây Đức, nhưng bây giờ
những sĩ quan trung c ấp đã bị trưng dụng vào những công tác ở Thế Giới Thứ Ba trong
một thời gian dài, kiềm hãm chúng tôi trong một số quốc gia do những chính quyền yếu
kém và những con người mở ảo lãnh đ ạo. Cho dù tôi cảm thấy bức bối, những công tác
này thoát khỏi tầm kiềm soát của chúng tôi. Đường hướng chỉ đạo cho những hợp tác
như vậy phát xuất từ cấp lãnh đ ạo chính trị, và các cơ quan tình báo ch ỉ biết tuân lệnh.

Trong một thời gian ngắn, mối liên hệ của chúng tôi với Ai Cập xét ra đặc biệt hữu ích.
Sau Chiến Tranh Sáu Ngày năm 1967, Tổng Thống Gamal Abdel Nasser cho biết qua bộ
trưởng nội vụ Tướng Sharawi Gomaa, ông muốn trao đổi thông tin tình báo với chúng tôi.
Phụ tá của tôi đi qua Cairo và được tiếp đón theo nghi lế ngoại giao trịnh trọng. Nasser
muốn chúng tôi giúp đỡ điều tra sự xâm nhập của Israel trong chính quyền và quân đội
của Ai Cập – Nasser nghĩ rằng đó là lý do tại sao Ai Cập bại trận.

Nasser tỏ vẻ thất vọng khi chúng tôi báo với ông chúng tôi không có điệp viên ở Israel,
nhưng đó là sự thật. Thực ra, trong ba mươi ba năm lãnh đ ạo tình báo hải ngoại, chúng
tôi chưa bao giờ tìm cách xâm nhập tình báo Israel. Moscow cũng có áp lực để ép chúng
tôi thục hiện việc này, và đã có vài cố gắng vào những năm đầu để tuyển dụng những
người di dân Do Thái đến ở Israel, nhưng chẳng bao giờ thành công. Xét cho cùng, tôi
đành chấp nhận tiếp thu những thông tin chúng tôi cần về Trung Đông do những nguồn
tin tại Hoa Kỳ và Tây Đức và , sau cùng, từ các cơ quan an ninh của Tổ Chức Giải Phóng
Palestine (PLO). Tôi lo lắng chúng tôi sẽ vướng mắc vào Trung Đông, nhưng chính quyền
Xô Viết nhất quyết xem Israel là kẻ thù. Tôi sẽ không bao giờ lãng phí thời giờ và tiền tài
để thu thập tin tình báo chỉ để trả đũa quốc gia Do Thái nhân danh khối Ả Rập. Tôi xem
Do Thái như bất cứ một nước đối tượng nào. Một khi tôi thấy rõ tỷ lệ cố gắng và kết quả
không tương xứng về mặt xâm nhập, tôi ngưng nỗ lực cài đặt điệp viên tại Israel.

Dù sao đi nữa, cũng có những chỉ dấu là Ai Cập cũng chơi trò nư ớc đôi trong việc đề nghị
trao đổi thông tin. Chúng tôi muốn có tin tình báo về những hoạt động tình báo của các
nước trong khối NATO tại Trung Đông và chúng tôi được giới thiệu đến cấp lãnh đạo của
tình báo Ai Cập, cơ quan Muhabarat. Ông ta tỏ ra láu lỉnh và dùng bí danh khi gặp chúng
tôi lần đầu. Chúng tôi biết ông ta cũng hành xử như vậy với CIA và chúng không muốn
phiêu lưu để những câu hỏi của chúng tôi được chuyển cho người Hoa Kỳ. Để gây thêm
tin tưởng của chúng tôi đối với họ, các đối tác của chúng tôi ở Cairo dẫn người đại diện
của chúng tôi thăm viếng một cơ sở bí mật sản xuất tên lửa, được một công ty Áo vơi sự
giúp đỡ của Pilz, một đồng nghiệp cũ của nhà khoa học phi tiễn Đức Wernher von Braun.
Người Ai Cập nghĩ r ằng cơ xưởng này đã bị phá ngầm và họ muốn chúng tôi tìm ra kẻ
gây rối. Sợ rằng cơ quan chúng tôi có thể bị xem là một loại cơ quan tham vấn tình báo
có thể thuê báo bất cứ lúc nào đẻ giải quyết những vấn đề nội bộ của các nước, tôi từ
chối lời mời.

Tôi tin rằng chúng tôi phải chứng tỏ một tinh thần dấn thân và đoàn kết chính trị trong
những công tác hải ngoại hơn là chấp nhận những thỏa hiệp tức thì với những quốc gia
mà rốt cuộc lòng trung thành không nghiêng về phía Liên Bang Xô Viết và Đông Âu.
Trong một thời gian ngắn, tôi thấy rõ là những trao đổi với Ai Cập không có những hiệu
quả mong ước, chúng tôi chấm dứt ngay, mặc dù chúng tôi vẫn giữ mối liên hệ các nhân
với Gomaa và Bộ Trưởng Nội Vụ của ông. Sau khi Naser chết vào năm 1970, người kế vị,
Anwar Sadat, tố cáo Gomaa về tội phản nghịch. Đường giây liên lạc của chúng tôi tại
Cairo giảm xuống chỉ còn một sĩ quan liên l ạc ở trong tòa Đ ại Sứ CHDCHĐ, mà trọng tâm
công việc của đương sự là an ninh của tòa đ ại sứ và của toàn nhân viên. Chúng tôi tin
cậy vào những nhân viên thường trú – thành viên của những ngành tình báo cải trang
làm nhân viên ngoại giao trong tất cả các tòa đ ại sứ ở ngoại quốc, để thâu thập tin tức về
Tây Đức, Hoa Kỳ và những sinh hoạt tình báo của NATO tại Cairo. Thường trú của chúng
tôi tại Cairo gởi những tin tức về Ban 3 của HVA, trông coi về Trung Đông, rồi sau đó
được chuyển cho giám đốc Tổng Cục 3, trách nhiệm về Thế Giới Thứ Ba, rồi chuyển cho
phụ tá của tôi, tướng Horst Jänicke. Ông sẽ chuyển cho tôi những thông tin ông xét là
quan trọng. Điều này cũng áp d ụng cho thường trú của chúng tôi tại Washington và tại
trụ sở Liên Hiệp Quốc tại Nữu Ước. Họ gởi hồ sơ cho Tổng Cục 11, đặc trách về Hoa Kỳ,
và sau đó chuyển lên cho giám đốc Tổng Cục XI, và từ đây được gạn lọc để đệ trình lên
Jänicke.

Một vài tháng trước khi Nasser chết, tháng Năm 1969, một nhóm sĩ quan c ấp tiến đã
cướp chính quyền tại Sudan dưới sự lãnh đ ạo của Gaafar Mohammad Numeiry, chỉ huy
trưởng trường cao đẳng quân sự Sudan. Quên đi những nhọc nhằn của chúng tôi tại
Zanzibar, chúng tôi xét thấy Suadan là một lãnh thổ đầy hứ hẹn và có thể là đầu cầu đi
vào Trung Đông. Bộ Tư Lệnh Cách Mạng có ý định thiết lập một kiểu chủ nghĩa xã h ội Ả
Rập và yêu cầu trợ giúp an ninh và kinh tế của Đông Đức.

Hiểu biết của tôi về Sudan thực ra còn mơ hồ. Tôi chỉ biết phía Bắc của quốc gia này có
một truyền thống lâu dài chiến đấu chống chế độ thuộc địa của Anh. Người Sudan không
tin cậy Ai Cập bởi vì Ai Cập đã từ lâu là nước ủy nhiệm của Anh trong vùng. Cuộc tranh
giành nội bộ giữa người Hồi phía Bắc và người Công Giáo duy linh phía Nam gây nên xáo
trộn. Làn sóng người tị nạn từ Congo, Zaire và Ethiopia khiến cho nạn nghèo đói trầm
trọng hơn.Vì vị thế chiến lược của nó nên nó nhung nhúc cơ quan tình báo và lính đánh
thuê, hoạt động không ai kiểm soát và rất thường có những mục tiêu chồng chéo lên
nhau ngay trong cánh của mình.

Lần đầu trong một cuộc viếng thăm ngay sau khi cách mạng thành công, tôi nhận thấy
các sĩ quan trẻ tôi đã gặp chỉ có một ý niệm mơ hồ về xã hội chủ nghĩa mà bây gi ờ họ
phải bảo vệ. Động cơ thúc đẩy họ là những yếu tố khác: lòng mong ước dộc lập, tinh
thần huynh đệ chi binh và lòng mong muốn củng cố đúc tin Hồi giáo dưới một danh xưng
khác. Một người hãnh diện nói với tôi anh ta là người xã hội chủ nghĩa vì m ỗi thứ sáu anh
cho người nghèo ăn uống. Thái độ nói chuyện của tôi với Numeiry xem ra lạnh nhạt và đi
thẳng vào vấn đề. Tôi có lần đi cùng với anh đến một cuộc họp mặt công cộng và quan
sát anh nhảy ra khỏi chiếc xe jeep, đọc một bài diễn văn ngắn ngắt đoạn với những tiếng
huýt sáo của đàn ông và tiếng la hét của đàn bà, và dàn xếp những đoàn tán tụng, rồi
anh ta lại nhảy lên chiếc xe jeep, rồ máy chạy, tất cả chỉ trong vòng một vài phút. Tôi có
những mối liên lạc mật thiết hơn với Faruq Othman Hamadallah, lãnh đạo các Bộ Nội Vụ
và Công An. Phần đông các nhân viên cảnh sát và an ninh học nghề từ người Anh hoặc
người Ai Cập và trông ra phong cách của họ giống hệt người Anh. Khi họ vào hoặc rời
phòng, họ cặp giữa nắm tay và cùi chỏ một cây gậy ngắn, và quay tròn trong bước quân
hành.

Tôi gặp lần đầu tiên Hamadallah tại vườn nhà ông ta. Ông cao lớn, lực lưỡng và màu da
đen của ông tràn đầy sinh khí. Ông vẫy tay mời gọi tôi vào trong khi tay kia vuốt ve con
chó chăn cừu. Ông ngắn gọn nói cho tôi biết những khó khăn trong việc thành lập một cơ
quan an ninh kiên quyết và khách quan để đối phó với những phức tạp của đất nước to
lớn của ông. Ông giới thiệu mau chóng một người ngồi cùng bàn với chúng tôi, một người
mặc y phục kaki nhỏ bé hơn, mang một tên Ả Rập. Sau này tôi gặp lại ông này khi Đông
Đức giao thiệp với Nam Yémen – ông tên Mohammed Saleh Mutea, giám đốc an ninh, và
sau này làm bộ trưởng ngoại giao của Yémen; cuộc đời ông chấm dứt khi ông bị đầu độc
trong tù vì bất đồng với đảng cầm quyền.

Hamadallah là một trong những chính trị gia hiếm hoi tôi có mối liên lạc thân tình cũng
như tình bạn đồng nghiệp. Ông đến thăm tôi nhiều lần ở Đông Bá Linh và nói chuyên có
chiều sâu và nhiệt tình đ ối với những vấn đề của đất nước và bối cảnh phức tạp của mối
liên hệ giữa thế giới Ả Rập và châu Phi đen. Mặc dù trước đây ông chưa bao giờ viếng
thăm một nước xã hội chủ nghĩa, ông có những nhận định đúng đắn về con đường khả dĩ
đưa châu Phi đến chủ nghĩa xã h ội. Ông bày tỏ nỗi lo ngại của ông cho tôi rằng Numeiry
có thể giải tán hội đồng cách mạng và thúc đẩy mối quan hệ với phương Tây. Ông buồn
bã nói « Ông không thể giúp chúng tôi trong việc này. Chúng tôi phải tự giải quyết vấn
đề này. »

Quả nhiên lời tiên đoán của ông đã x ảy ra. Năm 1970, Numeiry thay đổi đường hướng và
đuổi Hamadallah và các thành phần thiên tả khác ra khỏi hội đồng cách mạng. Năm sau,
tiếp theo một cuộc đảo chánh bất thành của nhóm thiên tả, Numeiry thanh lọc tất cả
thành phần xã hội chủ nghĩa ra khỏi chính quyền. Hamadallah lúc đó đang ở Luân Đôn và
không nghe lời khuyên nhủ của chúng tôi, quyết định trở về nước để quy tụ lại lực lượng
chống Numeiry. Chiếc máy bay chở ông về bị ép phải hạ cánh tại Lybia do lệnh của lãnh
tụ Đại Tá Muammar Qaddafi và họ nhanh chóng dẫn dộ Hamadallah và một người đồng
nghiệp trả về Sudan và giao cho Numeiry. Ông bị kết án tử hình tại Sudan. Sau đó, tôi
thấy hình ảnh của ông trên đài truyền hình, trước khi lời kết ấn được tuyên bố, ông điềm
đạm nói chuyện với lính gác và đang hút một điếu thuốc. Một giờ sau khi đọan phim kết
thúc, ông bị hành quyết. Tôi cảm thấy buồn và mất mát khi nghe tin. Lại thêm một người
bạn đã thua một trận đấu đẹp và đáng giá. Ngay cả bây giờ, tôi vẫn nghĩ Sudan mất đi
Hamadallah là mất đi một trong những người tài giởi nhất của đất nước họ, ông đã đi
trước thời cuộc và đất nước của ông. Trong không khí chính trị bạo động và thay đổi này,
chúng tôi không thể nào tiếp tục làm cố vấn tình báo cho Sudan. Chúng tôi rời Sudan
năm 1971 và không bao giờ trở lạo nữa.

Không bao lâu trước khi rút khỏi Sudan, tôi đụng chạm với một trong những tay lính
đánh thuê nổi tiếng của thế kỷ này, Julius Steiner ( không nên lẫn lộn với Julius Steiner
một dân biểu trong quốc hội Tây Đức mà chúng tôi hối lộ). Sinh tại Munich năm 1933,
Steiner là một mẫu lính đánh thuê điển hình. Đương sự bắt đầu sự nghiệp trong hàng
ngũ Lính Lê Dương Hải Ngoại của Pháp với trong Đơn Vị Hành Quân Đặc Biệt, đánh lại các
lực lượng của Hồ Chí Minh vào thời kỳ chiến tranh Việt Nam giành độc lập chống Pháp.
Sau khi Pháp thua trận năm 1954, đương sự đem khả năng hiếu chiến của mình vào
chiến trường Algeria và cuộc chiến kết thúc khi Algeria giành lại độc lập nơi tay người
Pháp năm 1962. Cuộc phiêu lưu độc lập đầu tiên của y là cuộc nội chiến tại Nigeria, xảy
ra năm 1967 vì vấn đề tranh chấp quyền lợi về dầu hỏa. Trong vùng có nhiều dầu hỏa
nhất, tự tuyên bố tự trị lấy tên là Biafra, y giúp huấn luyện các biệt kích Biafra, và từ đó
bắt đầu liên lạc với một số cơ quan tình báo Châu Âu, Trung Đông và Châu Phi. Steiner
đã biến Biafra trở thành một lãnh thổ quân sự hóa nhất ở Châu Phi, được Tây Đức và các
thương buôn vũ khí cung cấp vũ khí tr ị giá 20 triệu Mỹ kim, bao gồm cả loại tên lửa
Cobra và Roland tối tấn nhất thời đó. Đội quân riêng của y gồm vài ngàn người và tuân
hành dưới lá cờ sọ người với hai khúc xương đan chén nhau.
Khi việc mạo hiểm này của y sụp đổ, Steiner được quân phiến loạn Sudan phía Nam thuê
mướn. Cơ quan tình báo Anh hư ởng lợi trong dịch vụ này. Steiner được Beverley Barnard
và một đồng nghiệp Anthony Duvall cung cấp bản đồ và thiết bị đài vô tuyến truyền
thanh. Barnard trước đây là tùy viên quân sự ở Sudan và là chủ nhân của công ty
Southern Airmotive và Duvall là đại diện cho cơ quan tình báo Anh, có nhi ều kinh nghiệm
nhờ làm việc dưới danh nghĩa m ột cơ quan cứu trợ nhân đạo của Tây Đức.

Thông tin của chúng tôi cho biết qua ngã đư ờng này, Steiner có liên lạc với CIA và CIA
xem y là một phương tiện để lật đổ chính quyền Numeiry. Qua một trạm bưu điện tại
Kampala, ở Uganda, Steiner chuyển danh sách nhu cầu vũ khí đ ến người Mỹ qua trung
gian ông Preston làm việc trong Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Kampala. Tự xưng mì nh là đại
diện của Hội Châu Phi Xúc Tiến Trợ Giúp Nhân Đạo ở Nam Sudan, Steiner tổ chức huấn
luyện và trang bị vũ khí cho l ực lượng du kích hung bạo, gây đổ máu cho thường dân ở
phía Nam cũng như t ấn công cảnh sát và quân đội Sudan. Steiner đã thi ết lập tổng hành
dinh và sân bay tại một vùng hẻo lánh Tafeng, gần Juba.Juba là thành phố chính ở phía
Nam Sudan và là nguồn cung cấp nhân lực và vũ khí cho Uganda. Chính quyền Uganda
lại do các cố vấn quân sự Israel hỗ trợ. Đây là hoàn cảnh rất giống với thế giới Châu Phi
hỗn loạn và vui nhộn được Joseph Conrad mô tả trong quyển Heart of Dakness (Trung
tâm bóng tối). Trong những buổi lễ hội ăn mừng tiếp đón chúng tôi, chúng tôi nhìn những
màn vũ bộ lạc, mê hoặc vì tiếng trống và cử động của các vũ công. Thình lình, một người
đàn ông lớn tuổi, thân thể trét đầy tro, chạy về phia chúng tôi, dơ một cây lao ngắn và
một con cá. Những hộ vệ của tôi nhảy ra che chắn cho tôi, một người bảo vệ thân thể
của tôi và hai người khác bắt lấy ông này. Sau đó, họ nói với tôi rằng tôi đã thoát một
âm mưu ám sát do bọn phiến lọan tổ chức.

Trong những cuộc đàm phán mật tổ chức tại Khartoum với cấp lãnh đạo Sudan và Lybia,
chúng tôi chấp nhận bắt Steiner. Công việc đã thành công một phần nhờ những cố gắng
tình báo của chúng tôi dò xét tung tích đích xác của Steiner trong một ngày cố định và
cũng một phần nhờ chính quyền Uganda không còn hỗ trợ y nữa do áp lực của Tổ Chức
Các Quốc Gia Châu Phi (OAS).

Một khi y đã bị bắt và chờ hành quyết, chúng tôi chấp nhận lời yêu cầu của chính quyền
Sudan để giúp họ thẩm vấn Steiner. Công việc chính của chúng tôi là dạy cho người
Sudan biết việc thẩm vấn dùng để lấy những thông tin hữu dụng từ tù binh về những
hoạt động phản nghịch đang diễn ra hoặc trên đà dự tính, chứ không phải là để trả thù
bằng cách hăm dọa và tra tấn. Nhưng ảnh hưởng của chúng tôi xem ra quá nhỏ và chúng
tôi bất lực khi thấy những lời khuyên của chúng tôi không dùng đúng chỗ, cho dù ở
Zanzibar hoặc các quốc gia khác mà chúng tôi vẫn giữ mối quan hệ mật thiết trong nhiều
năm, chẳng hạn như Nam Yemen, Ethiopia và Mozambique. Kỹ thuật của chúng tôi dựa
vào sự cô lập và cảnh cáo, không dùng hình phạt thể xác hoặc khủng bố tinh thần,
nhưng ít khi nghe họ biết tự chế trong vấn đề này.

Vai trò cố vấn của chúng tôi trong phương pháp thẩm vấn chỉ là thứ yếu, và tại Zanzibar
chúng tôi không có những chuyên viên về phương pháp thẩm vấn. Những gì chúng tôi
muốn truyền đạt là nguyên tắc mà mọi thành viên của cơ quan an ninh của nước CHDCĐ
phải biết: một lời thú tội không có bằng chứng không có giá trị pháp lý, và một lời khai
thú moi ra nhờ vũ l ực không có một giá trị nào. Các thẩm vấn viên của nước CHDCĐ phải
trải qua một kỳ huấn luyện pháp lý đặc biệt , và ngành điều tra, Tổng Cục IX, báo cáo
trực tiếp lên bộ trượng công an. Tôi không biết rõ chi tiết về việc huấn luyện pháp lý của
họ nhưng tôi đoan chắc những nguyên tắc thu thập những chứng tích pháp lý đã đư ợc
dạy. Lẽ cố nhiên phương thức thẩm vấn cũng đư ợc dạy, nhưng tôi nghi ngờ những
phương pháp họ dùng để cho một tù nhân khai thú khác xa với những phương pháp dùng
ở phương Tây. Việc tra tấn và áp bức thể xác đều cấm kị, và nếu có ai sử dụng những
phương pháp này, họ đã đi trái l ệnh. Tôi đoan chắc những cuộc thẩm vấn ngoại pháp đã
được tiến hành ở phương Tây. Sheik Bakari, thành viên của hội đồng cách mạng phụ
trách về vấn đề an ninh, có lần đến gặp tôi tại Zanzibar và hãnh diện tuyên bố ông đã
ghi lời thú của một kẻ thù của tổng thống bằng cách ra lệnh đương sự tự đào mồ chôn
và các người bắt giữ bắn chỉ thiên hai lần. Ví dụ tàn ác nhất là ở Ethiopia, nơi đây việc
giết người và tra tấn quá đỗi kinh hãi đ ến độ chúng tôi khó lòng chấp nhận nghe báo cáo.
Giống như các địch thủ phương Tây, chúng tôi lòng buồn khám phá ra cảnh sát và các lực
lượng an ninh tai châu Phi bị những người cầm quyền chỉ xem như là dụng cụ để tùy tiện
xử dụng trong những tranh chấp muôn mặt của bộ lạc, của chủng tộc và cá nhân, họ
không dùng đó làm phương tiện để tìm kiếm tin tức.

Trong trường hợp của Steiner, tôi xoay xở để thuyết phục chính quyền Sudan một người
tầm cỡ như y với những đòn tâm lý khéo léo có th ể cung cấp những dữ kiện hữu ích nếu
y được đối xử tử tế. Hai thẩm vấn viên của nước CHDCĐ được phép thăm viếng y. Mặc
dù y kháng cự mãnh liệt từ chối trả lời những câu hỏi trước đó, y rõ r ệt tỏ vẻ an lòng khi
thấy người Đức bước vào phòng giam của ý để nói chuyện, cho dù họ đại diện cho phe
nước Đức bên kia, mà y chiến đấu chống lại ý thức hệ trên những vùng thế giới. Tôi
quyết định chiến thuật tốt nhất là dùng liên hệ cá nhân với y. Chúng tôi tìm ra người vợ
Algeria của y trong tập hình đám cưới và thu xếp cho một vài thân nhân gởi thơ cho y.
Hành cử này làm mềm lòng anh lính đánh thuê , khiến cho y bắt đầu nói một cách tự do
hơn về sự tham gia của y trong cuộc xung đột nhiêu khê của Sudan . Cuối cùng nhờ y
chúng có được một bức họa toàn diện của mạng lưới của những nhóm quyền lợi, các tô
chức tiên phong và các cơ quan tình báo.

Nhưng trong khi chúng tôi giật một mớ giây trong vùng, tình báo Tây Đức và đồng minh
cũng mài miệt giật những sợi giây khác. Trong một loạt biến cố phức tạp dẫn đến việc
Numeiry ngả về phương Tây, Steiner cuối cùng được thả ra để về sống ở Tây Đức.

Những câu chuyện của Steiner và Sudan cho thấy rõ tầm mức và giới hạn ảnh hưởng của
công tác tình báo trong Thế Giới Thứ Ba. Mặc dù chúng tôi xem xét nnhuwnxg yếu tố
chiến lược, kinh tế và quân sự trước khi chúng tôi can thiệp vào một quốc gia đang trền
đà phát triển, chúng tôi, giống như phương Tây, chủ yếu xem những hoạt động của
chúng tôi là một phần vụ trong cuộc đấu tranh rộng lớn hơn để gây ảnh hưởng và cố
gắng tô một thoáng màu đỏ trên bản đồ thế giới. Nhưng với thời gian, chúng tôi nhận
biết được công nhận ngoại giao để dổi lấy sự trợ giúp về tình báo và quân sự đã đưa đ ẩy
chúng vào một vòng xoắn hao tổn tiền tài. Lâu lắm trước khi tôi rời nhiệm sở, bộ tham
mưu của tôi và các đồng nghiệp trong Ủy Ban Trung Ương mà tôi đã từng cộng tác đều đi
đến kết luận là những nỗ lực để xuất khẩu toàn bộ hệ thống kinh tế đến các nước đang
phát triển không hề có hiều quả cũng không đư ợc mong muốn. Những nỗ lực này thiêu
hủy năng lực và tài lực nhưng không đem lại đền bù tương xứng cho chúng tôi hoặc cho
quốc gia tiếp nhận. Chúng tôi tiêu phí nhiều hơn chúng tôi thu nhận, và giải an ủi là để
được một số các nước rời rạc không lấy gì làm quan trọng công nhận ngoại giao xem ra
không tương xứng.

Tuy nhiên, có một thời gian vào cuối thập niên 1960 và đấu những thập niên 1970 lúc
liên minh của chúng tôi với Thế Giới Thứ Ba và những hoạt động của chúng tôi đã làm
cho chúng tôi cảm thấy dường như chúng tôi đang thắng Chiến Tranh Lạnh. Chúng tôi
cẩm nhận chúng tôi là những người đóng góp làm lan tỏa ảnh hưởng của khối xã hội chủ
nghĩa , đẩy cán cấn quyền lực thế giới về phía chúng tôi. Leonid Brezhnev, tin tưởng
mãnh liệt rằng tương quan lực lượng đang ngả về phía Liên Bang Xô Viết, tìm cách thực
hiện một chính sách bao quát hỗ trợ chính quyền cực tả ở ARaajp Trung Đông và xuống
mãi tận Mũi Nhọn Châu Phi.

Điều này phù hợp với não trạng của Honecker. Đắc thắng vì đã ký k ết Hiệp Ước Căn Bản
với Bonn năm 1972, công nhận ngoại giao nước CHDCĐ có hoàn toàn chủ quyền, ông ta
tự do thám hiểm những phấn đất trên thế giới thân cận với chúng tôi cho đến nay và
khám phá chúng với lòng hớn hở của một đứa trẻ. Do đó, ông thêu dệt mộng trở nên một
nguyên thủ quốc gia có tầm vóc quốc tế. Về mặt tâm lý, chúng ta dễ dàng hiểu động cơ
thúc đẩy Honecker đem đất nước của ông can thiệp vào những vấn đề của thế giới. Ông
là một người có viễn kiến giới hạn nhưng lòng kiêu hãnh rất lướn. Mục đích của ông ta là
được tưởng nhớ như một người đã cải thiện đời sống của công nhan tại Đông Đức (cho
đến cuối đời ông, ông có thể lưu loát thuật lại bao nhiêu ngôi nhà và cầu tiêu ông đã xây
dựng dưới thời cai trị của ông). Nhưng ông biết lịch sử của phong trào Cộng Sản tại Đức
luôn xếp ông dưới hạng người tiền nhiệm Walter Ulbricht, người lãnh tụ đầu tiên của
Đông Đức. Với việc công nhận giao, Honecker nhắm vượt trội thành quả của Ulbricht.

Trong tham tâm chúng tôi, chúng tôi biết hàng loạt mối liên hệ với các lãnh tụ của Thế
Giới Thứ Ba của ông và hy vọng được tiếp đón tại Washington, Tokyo và Bonn là thắng
lợi của tham vọng đè lên lẽ thường, nhưng đất nước nhỏ bé của chúng tôi tự tấn phong
với cảm nghĩ sai l ầm về tầm quan trọng của mình. Não trạng, kết hợp với folie des
grandeurs (tham vọng vĩ cuồng) và đầu óc hẹp hòi, được mô tả chính xác trong một khẩu
hiệu chế diễu được rỉ tai để làm chuyện khôi hài giữa những kẻ bạo gan trong môi trường
ngoại giao: « Nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức của chúng tôi là một nước Cộng Hòa Dân Chủ
Đức lớn nhất từ trước tới nay. »

Ngoài mục đích của Honecker muốn trải rộng những mối liên lạc của chúng tôi đến những
quốc gia Ả Rập, chúng tôi cũng muốn chứng tỏ lòng hãnh diện được Liên Bang Xô Viết coi
là đối tác tình báo hữu hiệu và liều lĩnh nhất khối Đông Âu. Chúng tôi được sự kính nể
của Moscow qua những công tác hải ngoại mà Mielke lúc ban đầu không muốn ôm đồm.
Vì được huấn luyện để trở thành một nhân viên phản gián cứng rắn, lòng tự hào và niềm
sung sướng của ông là lột mặt nạ những điệp viên của kẻ địch, có thực hoặc tưởng
tượng, trong lòng Đông Đức. Trong những cuộc họp với những đối tác KGB ông khoe
khoang về những con số bắt giữ do những đội phản gián của chúng tôi thực hiện. Xô Viết
đáp ứng một cách lạnh nhạt, họ thấy con số chẳng hơn con số họ dự đoán. Trái lại, uy tin
của chúng tôi đối với họ được đo lường theo số lượng thông tin chúng tôi gạt hái được
qua tình báo hải ngoại về những quốc gia trong khối NATO và những thành quả chúng tôi
gạt hái được tại châu Phi và sau này tại Trung Đông.

Vì vậy đã có một sự tiến triển đều đặn từ sự can thiệp của chúng tôi vào châu Phi đến
việc giao tiếp vói Trung Đông và với những tổ chức dùng khủng bố làm phương tiện để
gây chú ý với quốc tế. Chiếc cầu nối châu Phi và thế giới Ả Rập đã nhất thiết trở thành
nước Nam Yemen. Sau khi chế độ cách mạng chiếm chính quyền tại đây năm 1969,
chúng tôi thiết lập một đoàn to lớn những cố vấn tại Aden. Những mối liên lạc với Nam
Yemen được rộng mở nhiều hơn những nơi khác, trong đó bâ gồm viện trợ kinh tế, hỗ trợ
kyc thuật và giáo dục, và cung cấp những cố vấn quân sự và những chuyên viên thu thập
tin tức tình báo nội địa và hải ngoại. Tất cả đất nước này là sân chơi của chúng tôi, và
phần vụ tại đây –« học cưỡi lạc đà » như chúng tôi nói đùa – là huấn luyện cả một thế hệ
sĩ quan của chúng tôi.
Không giống tình trạng những công tác khác tại Trung Đông, chúng tôi được đón tiếp
niềm nở ở Aden. Quốc gia này đang mở một trận tình báo khốc liệt với quốc gia láng
giềng Bắc Yemen, được Saudi Arabia hỗ trợ. Sự kiện chúng tôi đến từ một quốc gia bị
chia cắt và phát động cuộc chiến tình báo với những anh em Tây Đức cách biệt đã khi ến
cấp lãnh đ ạo ở Aden coi hứng tôi là những đối tác có khả năng nhất hieru họ và giúp đỡ
họ. Chính quyền Xô Viết, vì muốn có những báo cáo đáng tin cậy từ vùng bất ổn này và
nâng đỡ đồng minh của mình tại Aden, khuyến khích chúng tôi tham gia mạnh mẹ vào
đây.

Cũng có Mozambique và Ethiopia. Chúng tôi bư ớc vào Mozambique, cùng với Liên Bang
Xô Viết và Cuba, sau khi chế độ độc tài Portugal sụp đổ và chính phủ Mác-xít Frelimo lên
cầm quyền năm 1975. Chính quyền mới này luôn bị phiến quân Renamo bủa vây, đám
này do các chế độ da trắng ở Rodhesia và Nam Phi hỗ trợ. Chúng tôi có nhiều hy vọng
làm thay đổi tình hình; những chương trình hu ấn luyện dài hạn các sĩ quan tình báo,
quân đội và cảnh sát được tổ chức tại Đông Đức. Trong vòng sáu năm b ộc của chúng tôi
đón tiếp trên một ngàn thực tập sinh, chúng tôi huấn luyện họ phần lớn về phản gián,
thiết lập những trạm kiểm soát biên giới hữu hiệu và ngăn ngừa buôn lậu. Tại
Mozambique, trưởng trạm của chúng tôi điều khiển việc huấn luyện; tôi đến Mozambique
một lần duy nhất nhưng tôi thông thường được bao về những gì xảy ra tại đây. Nội chiến
tại Mozambique, một công tác hao tổn tiền tài và thời gian đối với chúng tôi, là một cuộc
chiến đầu tiên chúng tôi buộc phải đương đầu với với thực tế là khi hỗ trợ Frelimo chính
chúng tôi đã trở thành mục tiêu. Tám chuyên gia nông nghiệp của Đông Đức bị lực lượng
của Renamo giết hại năm 1983. Ngay cả thời gian tôi thăm viếng trước đó một năm,
chúng tôi không còn nắm vững tình hình dù ở một mức độ nhỏ.

Những tranh chấp quyền lực nội bộ trong chính quyền càng trầm trọng thêm vì sự tranh
cãi giữa quân đội Xô Viết và KGB về phương pháp hữu hiệu để giải quyết xung đột đang
có chiều hướng vượt ra khỏi tầm kiểm soát của họ. Tôi nhận thấy những đề nghị hay
nhất của chúng tôi để gia tăng mức độ hữu hiệu của những cố gắng chung không thấu
đến tai của Moscow và chúng tôi bắt đầu giảm thiểu sinh hoạt, mặc dù chúng tôi tiếp tục
cung cấp vũ khí và hỗ trợ kỹ thuật cho đến năm 1987.

Tại Angola, chúng tôi hỗ trợ về tình báo và quân sự cho một trong ba nhóm, tổ chức
MPLA (Movimento Popular de Libertação de Angola =Phong trào Nhân Dân Giải Phóng
Angola), một nhóm Mác-xít thành lập năm 1961 để chống lại chế độ thuộc địa của
Portugal, nhưng chúng tôi vui lòng như ờng cho Cuba giám thị chiến lược quân sự trong
cuộc chiến chính trị phức tạp này. Ban đầu, ít ra, người Cuba tỏ ra hồ hởi và hãnh diện
được Fidel Castro phái đi chiến đấu ở đầu bên kia thế giới. Họ chiến đấu giỏi, nhờ tài khéo
léo và kinh nghiệm trực giác về chiến tranh du kích, nhưng cuộc chiến ở Angola xem ra
không có hồi kết thúc và là một lãng phí to lớn về nhân mạng và tài nguyên, và rất có
thể sự can thiệp của CIA một bên và của Cuba với sự hỗ trợ của Xô Viết một bên kéo dài
sự hấp hối của Angola.

Cũng như đối với Ethiopia, cơ quan tình báo của Xô Viết và Cuba tại đây xem chúng tôi
không hơn là nguồn cung cấp vũ khí, nơi đây chúng tôi bị Xô Viết và Cuba lôi cuốn.
Đường hướng của Moscow là cường ép. Công việc này được giao cho KoKo (Kommerzielle
Koordination = Phối Hợp Thương Mại), một cơ quan buôn bán vũ khí bí m ật của nước
CHDCĐ. Tại một số nước chúng tôi làm cố vấn cho bộ tư lệnh quan đội chúng tôi hỗ trợ
và xem những kỹ thuật phương Tây và những vũ khí đi ện tử nào thích hợp nhất với khí
hậu cùng cực của Châu Phi, và trong một vài trường hợp khẩn cấp, chúng tôi gởi vũ khi
trực tiếp đến quốc gia khách hàng qua ngã KoKo.
Chúng tôi may mắn thoát họa tại Angola, nhưng tình hình ở Ethiopia trở nên tồi tệ đối với
chúng tôi. Chúng tôi bị lôi cuốn vào với Xô Viết và Cuba. Mục đích của chúng tôi không rõ
ràng và tính chất dã man của hai cuộc chiến với láng giềng Somalia, một nước đã chuy ển
hướng thân thiện với Xô Viết sang thân thiện với Hao Kỳ năm 1977, và lãnh thổ Eritrea,
đang tìm cách tách r ời Ethiopia, xem ra rất khó ảnh hưởng, chưa nói đến việc chúng tôi
kiểm soát. Một biến cố thảm thương biểu hiện rõ sự bất lực của chúng tôi khi chúng tôi
càng lúc càng sa lầy vào những sự cố đẫm máu tại Mụi Nhọn châu Phi.

Năm 1973, Đông Bá Linh quyết định Werner Lamberz, một ủy viên bộ chính trị trẻ, và
Paul Markowsky, lãnh đ ạo ngành ngoại giao trong Trung Uong Đảng, sẽ đi thương thuyết
ngưng bắn giữa các phe phái ở Ethiopia bằng cách mời trước tiên Eritrea đến bàn hội nghị
để chứng tỏ thiện chí. Moscow hỗ trợ tiến trình này và cả hai người lên đường với Horst
Jänicke, người phụ tá của tôi.

Lamberz và Markowski bay bằng trực thăng từ Tripoli, ở Lybia đến thăm viếng Đại Tá
Muammar Qaddafi tại lêu trại của ông ở sa mạc và cố gắng thuyết phục ông để ông áp
lực cấp lãnh đ ạo Eritrea. Trên đường trở về, chiếc trực thăng rơi và cả hai đều chết.
Những tin này làm tôi chấn động. Tôi biết rõ hai người này và họ là những người hiếm
hoi, ngay cả trước thời Gorbachev, có thể nói là có chiều hướng cải tổ. Đặc biệt Lamberz
là ứng cử viên tín nhiệm của giới trí thức và của nhiều đảng viên trẻ để kế tục Honecker
trong một tương lai xa.

Hoàn cảnh bí mất của cái chết của Lamberz đã tạo nên những lời đồn đãi có thể đây
không phải là tai nạn. Tôi cũng quan tâm có thể đây là công tác phá hoại và tôi có trách
nhiệm xem xét những báo cáo về tai nạn này. Chuyện xảy ra là phi công chiếc trực thăng
không có kỹ năng lái về đêm nhưng Lamberz cố nài ép y lái trở về. Đây có lẽ là giải thích
chính xác về tại nạn định mệnh này.

Thảm cảnh làm nản lòng thiện chí muốn liên lạc trực tiếp với Lybia, mặc dù sau này
Tripoli yêu cầu chúng tôi giúp đỡ về mặt kỹ thuật quân sự trên căn bản tài chánh. Lybia
là một số ít quốc gia trong vùng có khả năng và sẵn sàng trả hậu hĩnh những kỹ năng
hoặc những thiết bị đặc biệt Đại Tá Qaddafi yêu cầu. Chỉ có một khế ước đáng ghi nhận
khác được ký kết: hộ vệ cá nhân của Qaddafi được huấn luyện tại một trại bí mật nằm
ngoài Đông Bá Linh do Tổng Cục của Bộ Công An cung cấp vệ sĩ.

Sau đám tang của Lamberz và Markowski tại Đông Bá Linh, phụ tá của tôi và một đâị
diện khác của Đảng thay chỗ của họ tại Addis Abeba để cố gắng thương thuyết một dàn
xếp hòa bình vì danh dự của hai đồng nghiệp đã chết. Nhưng họ đã thất bại vì sự chống
đối mãnh liệt của tổng thống Ethiopia Haile Mengistu Mariam, một dấu hiệu sớm cho thấy
công trình của chúng tôi với Ethiopia coi như thất bại. Mặc dù chúng tôi được chính thức
mời đến đây để huấn luyện các viên chức tình báo, chúng tôi sớm thấy chúng tôi không
còn ảnh hưởng gì đối với họ và chỉ có một ít hiểu biết về cơ cấu an ninh thường là hung
bạo và vô cảm của họ. Người Xô Viết cũng gặp những vấn đề tương tự, mặc dù họ có khả
năng cung cấp nhân lực và trợ giúp kỹ thuật nhiều hơn.

Đại diện duy nhất của khối xã hội chủ nghĩa có v ẻ thành công tiếp cận với vòng vận
chuyển vòng trong của quốc gia Ethiopia chính là người Cuba. Nhờ tự tin và năng lực
chuyên nghiệp, họ trở thành những chuyên viên tình báo giỏi nhất tại châu Phi. Họ thấu
hiểu não trạng của lục địa này và cảm nhận được tịnh huống tại đây, một điều chúng tôi
thiếu sót.
Ngay từ lúc đầu, Moscow phạm phải cùng một lỗi lầm như tại Ethiopia và họ lập đi lập lại
sai lầm này trong những cuộc xung đột ở hải ngoại. Họ cố dùng những giải pháp quan sự
tại những nước mà cơ cấu và địa hình địa thế khiến phương pháp tiếp cận này trở thành
vô vọng. Chúng tôi và người Cuba nghĩ trong trương h ợp những giải pháp chính trị không
thành, các phong trào du kích là một phương pháp tranh đấu hữu hiệu hơn. Một nguyên
nhân bất đồng khác là mức độ can thiệp của chúng tôi. Tôi tin rằng, bằng cách, ví dụ, tập
trung vào Ethiopia, chúng tôi có thể phát triển mạnh hơn là trải rộng tải lực của chúng
tôi. Nhưng cuối cùng, vấn đề này không còn cần thiết. Tất cả chúng tôi đều chạm trễ
nhận ra các cấp lãnh đ ạo quốc gia châu Phi, bất kể màu sắc ý thức hệ, cuối cùng họ theo
viễn kiến của chính họ trong việc phát triển đất nước của họ. Bất kể ý định hặc phương
pháp của chúng tôi, chúng tôi không thể lay động họ. Vào cuối những thập niên 1970,
chúng tôi giảm thiểu sự hiện diện của chúng tôi, trong lòng nuối tiếc chúng tôi đã ph ải
trả những giá đắt về tài chánh và về nhân sự để có một kết quả không đáng kể.

Hoa kỳ cũng phạm phải một lỗi lầm tương tự, bị xa lây trong quá nhiều chiến dịch không
thể thắng nổi và về mặt đạo đức khó mà bào chữa và kết quả là chính quyền của họ
thường được chính người dân của nước họ xem họ là kẻ đối địch. Chúng tôi có một ít lợi
điểm hơn phương Tây trong những chiến dịch ở Thế Giới Thứ Ba: chúng tôi có khả năng
giữ bí mật những hoạt động của chúng tôi, hoặc ít ra mờ ảo đối với quần chúng, bởi vì
chúng tôi có quốc hội không quyền hạn và chúng tôi kiểm soát truyền thông.

Ngay sau khi Liên Bang Xô Viết xâm chiếm A phú hãn năm 1979, Vladimir Kryuchkov, chỉ
huy trưởng công tác KGB tại đây, yêu cầu CHDCĐ cung cấp sĩ quan để đóng góp trong
việc thu thập tình báo tại nơi xa xôi, hang ổ của những bộ tộc. Lần này tôi quyết định
nhúng tay vào, báo cho Mỉelke biết chúng tôi đã trải rộng quá sức trong những công tác
và chẳng có ích lợi gì cho chúng tôi trong việc tham gia cuộc xung đột tại A phú hãn. Một
chữ không cộc lốc để trả lời yêu cầu của Moscow xem ra rất bất bình thường, nhưng
chúng tôi đã thắng, và những sự kiện xảy ra chứng tỏ chúng tôi đã khôn ngoan tránh
khỏi vùng lầy này. Đóng góp của chúng tôi giới hạn trong việc trợ giúp thiết lập một bệnh
viện và tổ chức nơi họp tại Bá Linh cho các cấp lãnh đạo của mujahideen và người hùng
Najibullah của Moscow tại Kabul.

Là đảng viên Cộng Sản, chúng tôi luôn ghi nhớ những lời của Lênin đã thốt ra sau khi
người anh Alexander của ông bị hành quyết vì đã âm mưu ám sát Nga Hoàng « Chúng ta
đi ngả khác». Lý thuyết cơ bản và cách mạng chúng tôi theo đuổi không cho phép chúng
tôi đi vào con đường khủng bổ bừa bãi. Khủng bố bừa bãi đối với chúng tôi giống như
ném cục gạch vào cửa sổ của nhà băng: có thể đắc ý vào lúc đó, nhưng điều này không
ngăn cản nhà băng mở cửa như thường lệ ngày hôm sau. Vào cuối những thập niên
1970, bộ và ngành của chúng tôi can dự trong một số liên minh với những lực lượng
dùng khủng bố làm chiến thuật: Tổ Chức Giải Phóng Palestine; tên khủng bố vô chủ và
sát nhân người Venezuela Ilyich Ramirez Sanchez (một cách mỉa mai được đặt với cái tên
không khác với Lênin), được thiên hạ biết với tên Carlos Chó Rừng; và nhóm khủng bố
Tây Đức tự nhận là Nhóm Hồng Quân (Red Army Faction, RAF), nhưng cũng đư ợc biết với
danh xưng là băng Baader-Meinhof, đặt theo tên của hai tay đầu đảng Andreas Baader
và Ulrike Meinhof. Lòng vui mừng của chúng tôi đối với những đối tác như vậy thay đổi
từng trường hợp một, mặc dù vào lúc đó chúng tôi không dám nhìn nh ận công khai.

Năm 1969, thường trú của đặc tình chúng tôi tại Cairo bắt đầu liên lạc bí mật với Yassir
Arafat của Tổ Chức Giải Phóng Palestine và George Habash, lãnh tụ cực đoạn hơn của
Mặt Trận Nhân Dân Giải Phóng Palestine. Mối liên lạc sơ khởi phát xuất trực tiếp từ tình
cảm chúng tôi dành cho những phong trào giải phóng quốc gia. Theo quan điểm của
chúng tôi, người Palestine là nhóm duy nhất trong các quốc gia được giải thoát thực dân
đô hộ từ thời Đệ Nhị Thế Chiến không được công nhận quyền chủ thể quốc gia chính
thống. Họ bị phủ nhận quyền có lãnh thổ không những bời Israel mà cả bởi Ai Cập và
Jordan. Cô lập về mặt trí thức giống như nước CHDCĐ chúng tôi, chúng tôi biết không
nhiều về những phức tạp của cuộc tranh chấp Ả Rập – Israel, và mặc dù tất cả chúng tôi
đều biết việc tiêu diệt người Do Thái của Hitler, ngay bản thân tôi là Do thái, tôi cũng
cũng không biết nhiều về cuộc tranh đấu của Israel để tự thành lập.

Vào cuối năm 1972, Đông Đức chính thức liên lạc với Tổ Chức Giải Phóng Palestine và
Honecker tiếp đón Arafat tại Đông Bá Linh. Lập tức ngay sau buổi họp, cơ quan của
chúng tôi được lệnh mở đường dây liên lạc tình báo với TCG Palestine. Moscow vội vã hỗ
trợ hoạt động này, vì PLO (Tổ Chức Giải Phóng Palestine) đang được xét quy chế quan sát
viên tại Liên Hiệp Quốc, và Liên Bang Xô Viết rất mong phát triển những mối dây liên lạc
với cấp lãnh đạo PLO.

Nhưng cũng có m ặt trái đen tối cho Xô Viết và lòng hồ hởi của chúng tôi đối với PLO.
Tháng Tám năm1972 , đang lúc Thế Vận Hội Munich, quân khủng bố Palestine của nhóm
Tháng Chín Đen (Black September) đã xông vào khu ở của các lực sĩ Israel, gi ết chết hai
người kháng cự và bắt chín con tin (một cuộc tấn công gây kinh ngạc cho chúng tôi cũng
như cho thế giới). Công tác cứu cấp do Hans-Dietrich Genscher sắp đặt, lúc đó là Bộ
Trưởng Nội Vụ, là một công tác tài tử dẫn đến cái chết của tất cả các con tin cũng như
của hung thủ, và sau đó đã bị kich liệt lên án tại Tây Đức và Israel. Đối với chúng tôi ở
Đông Bá Linh, một biến cố như vậy trên lãnh thổ của nước Đức (cho dù nó ở phần bên
kia nước Đức) là một cảnh báo cho thấy kẻ khủng bố dễ dàng xuất khẩu thù hận ra nước
ngoài. Một nhóm làm việc, trong đó có một vài người của văn phòng chúng tôi, được lệnh
soạn thảo một bản báo cáo về những mục tiêu của phong trào Palestine theo quan điểm
ý thức hệ của họ và nền an ninh của chúng tôi. Tặng cho cánh PLO củaYassir Arafat quy
chế bán ngoại giao tại Đông Bá linh xem ra là một động thái cẩn tắc hữu ích để tránh trở
thành mục tiêu những cuộc tấn công. Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến kỳ Đại Hội Thanh
Niên Thế Giới sắp tới được tổ chức tại Đông Bá Linh.

Những cuộc đàm phán sau đó được tổ chức tại Moscow giữa Arafat và giám đốc ngành
chúng tôi đặc trách về các nước Ả Rập. Chúng tôi đồng ý giúp PLO với điều kiện là họ
ngưng những cuộc tấn công khủng bố ở Châu Âu. Arafat đồng ý và đề cử Abu Ayad ( tên
thật của ông là Salah Chalaf) là người tiếp xúc với chúng tôi trong tương lai. Không bao
lâu, các chiến sĩ Palestine đư ợc mời đến trại bí mật của Bộ Công An ở vùng đồng quê
Đông Đức để được huấn luyện tình báo và phản gián, và sử dụng súng, chất nổ và chiến
thuật du kích. Đây là huấn luyện thông thường cho những nhóm giải phóng quốc gia và
được ngành cơ quan của tôi giám sát cùng với hai cục của Bộ Công An, Cục HA-II (phản
gián) và AGM (Arbeits gruppe des Ministers, Nhóm Công Tác các Bộ), phụ trách về công
tác quân sự và huấn luyện.

Để đền đáp sự hỗ trợ và huấn luyện của chúng tôi, chúng tôi hy vọng tiếp cận được
những thông tin của PLO về an ninh Hoa Kỳ, chiến lược toàn cầu, và các vũ khí. Chúng
tôi khâm phục công trình thu thập tình báo chính trị của Palestine và chúng tôi tin Abu
Ayad khi ông khoe những đường dây liên lạc của ông ngay trong lòng chính quyền Hoa
Kỳ, NATO và những vụ buôn bán vũ khí. Chúng tôi n ể vì hệ thống liên lạc toàn cấu của
người Palestine qua các cộng động của những chuyên gia có kỹ năng cao rải rác trên thế
giới và không riêng gì ở Trung Đông và chúng tôi hy vọng họ đem lại cho chúng tôi
những chi tiết về những cuộc họp thượng đỉnh và những kinh thông tin rộng mở mà
người Xô Viết cất giấu không cho chúng tôi biết. Chung cuộc, chúng tôi phải thất vọng.
Thực ra, tin tình báo duy nhất có giá trị chúng tôi nhận được từ PLO trong suốt thời gian
chúng tôi làm việc với họ là những báo cáo về những chuẩn bị và nội dung của hiệp ước
tại Camp David giữa Israel và Ai Cập.

Người Palestine cung cấp những báo cáo sâu sắc về những chuyển biến chính trị, những
liên minh, và những tranh chấp tại Trung Đông, nhờ đó nâng cao trình đ ộ hiểu biết của
chúng tôi về vùng này. Những mối liên lạc chính thức với PLO tạo điều kiện dễ dàng cho
những công tác của những sĩ quan tình báo của chúng tôi tại Damascus và Aden. Qua họ
chúng tôi biết được mức độ xâm nhập của CIA và của Tây Đức vào trong các vấn đề của
vùng và danh tính của các sĩ quan thư ờng trú tại đây, và những thông tin này luôn luôn
hữu ích khi chúng được chuyển qua cho các trạm khác theo thư từ ngoại giao. Người
Palestine cũng nh ận diện những nguồn cung cấp thông tin cho những điệp viên này, nhờ
vậy chúng tôi biết được ai theo phe ai.

Ngược lại, cơ quan chúng tôi chỉ có ít thông tin cung cấp cho PLO. Họ chắc chắn không
nhận được tin tình báo đ ặc biệt nào về Israel từ phía chúng tôi, bởi vì chúng tôi chẳng có
gì. Mục tiêu của chúng tôi vẫn là Tây Đức, nước đứng đầu chiến tuyến trong Chiến Tranh
Lạnh, và mục tiêu này không phải là ưu tiên hàng đầu của PLO. Tuy nhiên chúng tôi vẫn
huấn luyện. Các sĩ quan cao cấp của tôi được mời thuyết trình về công tác thu thập tin
tức, nhập mã và giải mã, và truyền những kinh nghiệm về kỹ thuật phản gián cho các vị
khách Palestine. Chúng tôi cũng ư ớc chừng những thông tin này cũng có thể truyền sang
những toán biệt kích khủng bố để đánh phá Israel hoặc những huấn luyên viên của họ.

Vào lúc Israel thô bạo tấn công Lebanon năm 1982, sự hiện diện khiêm nhường của
chúng tôi lại có một ý nghĩa vượt trội. Khi Beiruth điêu tàn, có một khoảng thời gian
Moscow mất liên lạc với Tòa Đại Sứ của họ và các sĩ quan KGB tại thủ đô Lebanon. Sĩ
quan của chúng tôi là những người duy nhất còn giữ được liên lạc vô tuyến và cá nhân
với cấp lãnh đạo PLO và, hành động với sự ủy nhiệm của Moscow, người của chúng tôi
nhận lệnh chuyển những phản ứng của PLO về biến cố này. Họ phiêu lưu, mạo hiểm tính
mạng giữa lằn đạn và bom để gặp đối tác Palestine. Sự thô bạo đồi bại và tàn ác của
cuộc tấn cống Israel vào trại tị nạn Sabra và Shatila, và số thường dân chết sau đó đã
chấn động tâm não của các sĩ quan, mặc dù họ không xa lạ gì với những tranh chấp tại
Trung Đông và họ bị ảnh hướng sâu đậm vì hình ảnh này.

Lòng đồng tình của chúng tôi đã bị đường hướng thân Ả Rập của Moscow ảnh hưởng, và
sự can thiệp của Israel xô đẩy các sĩ quan này về phía Ả Rập nhiều hơn nữa. Lẽ cố
nhiên, việc tìm hiểu lịch sử tranh chấp lâu dài giữa Israel và Palestine không được khuyến
khích. Hiểu biết về Thánh Kính ( quan trọng trong truyền thống của nước Đức theo
Luther giáo) không quan trọng tại các trường học xã hội chủ nghĩa. Nguồn gốc Do Thái
của tôi cho tôi một chút nhạy cảm về vấn đề này mà người khác không có, và tôi cũng
biết mối giây liên lạc với người Ả Rập của nước Đức thời Hitler. Tôi không khỏi bức xúc và
bực bội mỗi khi tôi thăm viếng Trung Đông gặp những anh tài xế hoặc anh bán rong,
nghe tiếng Đức ngoài đường, chạy theo sau chúng tôi la hét «Heil Hitler! »

Mielke về cơ bản không tin tưởng nơi tôi vì tôi đư ợc xem như thuộc thành phần trí thức
và có lẽ vì nhiều lý do khác (mặc dù tôi chưa bao giờ nghe ông có những lời dèm pha kỳ
thị Do Thái ngoài thỉnh thoảng một vài chuyện khôi hài bài Do Thái); hơn thế nữa, bộ của
chúng tôi thấm nhập văn hóa chuộng bí mật trải những hàng rào định chế ngăn chặn sự
liên lạc. Tôi còn ở lại bởi vì Mielke biết tôi có dù che ở cấp cao nhất trong KGB, điều này
lẽ cố nhiên hữu ích cho ông nhưng cũng nguy hi ểm nếu ông thách đố. Đối với Mielke, tôi
về cơ bản là một người thu thập và phân tích thông tin giỏi nhưng không thích nghi với
cuộc đấu tranh giai cấp gay go đã t ạo nên con người của ông ở ngoài vỉa hè của Bá Linh,
và khi ông muốn loại tôi ra khỏi vòng, ông làm ngay. Lúc khởi đầu của cơ quan Tình Báo
Hải Ngoại HVA, ông đặt Cục Công Tác Đặc Biệt – công tác phá hoại đằng sau chiến tuyến
địch, phá hoại ống dầu và hơi đốt và các trạm biến điện nguyên tử - dưới sự kiểm soát
của ông, mặc dù tại Moscow những nhiệm vụ này được đặt dưới quyền của Đệ Nhất Tổng
Nha, có nghĩa là tình báo h ải ngoại, tương đương với HVA. Sau khi tôi về hưu, cục này
được trả về cho người kế vị của tôi tại cơ quan tình báo h ải ngoại.

Do đó những liên lạc với những nhóm khủng bố không do HVA tổ chức nhưng do một
nhóm trong Bộ có tên là Tỏng Cục XXII. Họ báo cáo cho Tướng Gerhard Neiber, một
trong bốn thứ trưởng bộ công an và nhiệm vụ chính của họ là chỉ huy việc kiểm soát biên
giởi *

*[Vào lúc đó cho đến năm 1975 những phụ tá của Mielke là Rudi Mittig, Neiber, Wolgang
Schwanitz và tôi. Schwanitz, nhạy bén và nhiều tham vọng, là người trẻ nhất; anh phụ
trách về hệ thống kỹ thuật gián điệp và thông tin liên lạc. Mittig phụ trách việc giám sát
kinh tế, chuyên chở, hành chánh, đối lập, tôn giáo và những cơ sở văn hóa trong nước.
Đây là một trong những chức vụ đáng ghét nhất của chế độ. Cho đến năm 1982, Mielke
lúc đó có một đệ nhất thứ trưởng Bruno Beater, một tay lươn lẹo đã làm việc cho cơ quan
từ lúc khởi đầu dưới sự giám hộ của Xô Viết. Sau khi Beater về hưu, không ai được chính
thức đề cử giữ chức vụ đệ nhất thứ trưởng để Mielke dễ bề rút sự hỗ trợ công khai của
mình đối với bất kỳ thí sinh nào kế vị. Rudi Mittig trở thành thứ trưởng cho Mielke khi ông
bộ trưởng vắng mặt. Khi Mielke cuối cùng bị cách chức năm 1989, Schwanitz lãnh đ ạo
Nha An Ninh Quốc Gia (Amt für Nationale Sicherheit –ACNS), cơ quan thay thế Bộ Công
An, nhưng nhiệm kỳ của ông chẳng được bao lâu.]

Gerhard Neiber

Tổng Cục XXII là một cục phản gián song song và không nằm trong pham vi quản lý của
tôi. Neiber từ từ trở thành người phụ trách về phản gián trong quân đội và cảnh sát và
cuối cùng trách nhiệm về những hoạt động chống khung bố. Neiber là một người thân
thiện, và điều hành nhiều nhà tiếp khách khang trang. Ông là một chủ nhà tốt chuyên
tiếp đón những phái đoàn của những cơ quan tình báo nư ớc ngoài. Ông không phải là loại
người đặt bút ký lệnh giết người, không phải là một người thô bạo, nhưng chắc chắn ông
là người tuân thủ mệnh lệnh. Vì vậy, sau ngày thống nhất, ông bị kết án vì tham gia
trong một cuộc hành quyết một người tên Gartenschläger, đã nh ảy qua hàng rào biên
giới bốn hoặc năm lần và phá hủy một phần hàng rào.

Neiber báo cáo trực tiếp với Mielke, và Tổng Cục XXII về mặt kỹ thuật là một đơn vị
chống khủng bố. Cho đến năm 1979, cục này tương đối nhỏ, nhưng quyết định mở rộng
mối liên hệ với « những lực lượng tham gia trong cuộc tranh đấu vũ trang », như chúng
tôi đặt tên cho họ, có nghĩa là nó ph ải phát triển mau chóng. Trong vòng một vài năm,
nó có đến hơn tám trăm nhân viên, mặc dù tôi đoan chắc chỉ có khoàng hai mươi người
trong số họ biết những mối liên lạc trực tiếp với những nhóm khủng bố. Đước biết là
những mối liên hệ này bao gồm nhóm Quân Đội Cộng Hòa Ái Nhĩ Lan (IRA), phong trào
Phân Lập Basque ETA và Carlos Chó Rừng. Vào lúc đó tôi không hề biết những liên hệ
này và thực tế tôi chưa bao giờ gặp Carlos hoặc các ngôi sao khủng bố quốc tế. Tôi giao
trách nhiệm liên lạc với Palestine cho chuyên viên Trung Đông của tôi, và mật danh của
người này là Roscher (tôi không nêu tên thật của đương sự ở đây). Roscher duy trì những
mối liên hệ hạn chế với các công chức của PLO, nhân viên an ninh PLO và George Habash
thuộc Mặt Trận Giải Phóng Palestine. Tuy nhiên đương sự không liên lạc với Abu Nidal
hoặc Carlos, và những thông tin về những hoạt của những người này phát xuất gián tiếp
từ các công tác viên trong PLO. Việc Roscher tránh Abu Nidal và Carlos là do lệnh tôi chỉ
thị cho các nhân viên của tôi là tránh những tay khủng bố và phương sách khủng bố,
theo hiểu biết của tôi đương sự đã kiên định theo chỉ thị này. Roscher chỉ được thông báo
một cách nhỏ giọt về những mối liên hệ của Tổng Cục XXII. Không một ai trong cơ quan
của tôi biết những mối liên hệ này.

Roscher báo cáo cho tôi về những liên hệ của đương sự khi đương sự đánh giá thông tin
này liên quan đến công tác tình báo của chúng tôi. Thông thường chỉ là những yêu cầu
huấn luyện, hỗ trợ và vân vân. Tôi báo cáo những yêu cầu này lên Mielke và ông quyết
định về những việc này. Sau đó, tôi không can dự gì nữa, vì những chương trình huấn
luyện được thực hiện không cần đến sự can thiệp của tôi hoặc sự hỗ trợ cá nhân của tôi.

Phần đông các tay khủng bố A Rập ẩn náu tại CHDCĐ đi qua biên giới theo diện trá hình
ngoại giao Ả Rập, không thuộc thẩm quyền của tôi. Cộng thêm với việc phản đối Tổng
Cục XXII trên căn bản chính trị - tôi lo ngại điều này sẽ quật ngược trở lại cơ quan của tôi
- tôi chống đối việc này trên căn bản mà tất cả các vị thư lại có thể hiểu: Tổng Cục XXII
giẫm chân lên sân nhà của tôi, xâm chiếm nhiệm vụ tình báo hải ngoại của chúng tôi
bằng cách thiết lập một cơ quan song hành. Tôi biết điều này sẽ chẳng đem lại tốt lành
cho tôi và cho toàn thể đất nước của tôi, và tôi đã có lý.

Thời gian trôi qua, sự việc hiển nhiên là PLO coi chúng tôi là một mắt trong dây xích
guồng máy của họ và ước vọng kiểm soát những sinh hoạt của họ xem ra hão huyền.
Chúng tôi cũng lo ngại việc thiên hạ đồng hóa chúng tôi với cánh PLO của Arafat sẽ biến
chúng tôi thành mục tiêu trả thủ của những nhóm khác, vì vậy chúng tôi dần dần mở cửa
tiếp nhận và huấn luyện một lô những chiến sĩ Palestine. Trong số này có Abu Nidal.
Theo lời dặn dò của Roscher, vì đương sự biết rõ về tính chất hung bạo của tổ chức của
Abu Nidal qua nhưng mối liên hệ thường xuyên với tình báo của Arafat, tôi ký một giác
thư ngăn cản mọi liên lạc với đương sự, nhưng không có kết quả, và giảng viên quân sự
của Đông Đức huấn luyện cho Abu Nidal tại Liên Xô kỹ thuật sử dụng phóng tên lửa.
Abu Nidal

Khi chúng tôi muốn có một cử chỉ thân thiện nhưng không muốn liên lụy quá mức, chúng
tôi cung cấp những nơi nghỉ mát hoặc những cơ hội học hành. George Habash có một căn
phòng ở Dresden để thăm viếng con gái, một sinh viên đại học kỹ thuật ở đây.

Năm 1979, Mileke ra lệnh cho các chuyên viên của Bộ Công An lập một bản nghiên cứu
mật. Tựa đề là « Về những sinh hoạt của những đại diện của Phong Trào Giải Phóng
Palestine và các nhóm khủng bố quốc tế và những nỗ lực lôi kéo CHDCĐ vào việc chuẩn
bị những hành vi bạo lực tại các nước ở Tây Âu », bản báo cáo này liẹt kê những hoạt
động khủng bố của những nhóm chúng tôi giúp đỡ và cho biết chúng tôi có tin tức PLO và
những đồng minh của họ đang lập kế hoạch để dùng cửa ngõ của Đông Đức làm vị thế
tiên phong để từ đó họ phát động những cuộc khủng bố. Sự kiện gần gũi v ới Tây Bá Linh
và lối ra vào dễ dàng ở đây rất hữu ích cho họ. Nội dung báo cáo sau này được Bác Sĩ
Richard Meier, trước đây là đối thủ của tôi ở Tây Đức, in trong một quyển sách tố cáo tôi
là tiếp tay cho phong trào khung bố. Ông đã khéo léo quên đi m ột phần quan trọng của
báo cáo, trong đoạn tóm lược, đã cảnh báo: « Những hoạt động này trên lãnh thổ của
nước CHDCĐ sẽ có những hệ quả chính trị nguy hiểm và nguy hại đến an ninh của quốc
gia ».

Bản báo cáo Mielke đã yêu c ầu soạn thảo không phải là một lời tán thành mà hóa ra là
một lời cảnh báo.

Nhưng không hề có cuộc thảo luận nào về vấn đề này tại buổi họp của Bộ, cũng không có
những thảo luận chính thức về những sinh hoạt của Tổng Cục XXII, hoặc giá trị đạo đức
hay bất cứ vần đề nào liên quan đến những liên hệ với các tổ chức khung bố. Lâu lâu tôi
có nghe một vài bình luận hoặc biểu kiến khiên cưỡng nên tôi thấy rõ những ý kiến đối
chọi trong nội bộ của Bộ Công An về công tác tiếp tay cho những tay khủng bố tiềm tàng.
Một số chỉ đơn thuần nhận chỉ thị và không cần xem xét kỹ về những hậu quả của những
gì họ huấn luyện cho những đối tác Palestine hoặc Nam Yemen. Có một vài người lên
tiếng phản đối trên phương diện thực dụng – sợ bị bắt quả tang. Mielke rất sợ mối liên
lạc với Palestine của chúng tôi bị tiết lộ. Ông đặc biệt lo lắng là những tin về việc huấn
luyện và hỗ trợ PLO sẽ lộ ra trong những buổi họp thượng đỉnh nhạy cảm với các cấp
lãnh đạo thế giới. Và kết quả là chương trình thường bị cấp tốc đình chỉ trong lúc chúng
tôi khẩn xin Abu Ayad từ bỏ võ lực. Phương pháp này có hiệu quả trong một thời gian
ngắn, nhưng về dài hạn chỉ là một hy vong mỏng manh.

*
Mục đích chính của chúng tôi - tránh không để lãnh thổ của chúng tôi trở thành căn cứ
địa cho phong trào khủng bố - đã bị vô hiệu hóa một khi Bộ Công An kết thân với Carlos
Chó Rừng. Y là một vị khách gây nhiều vấn đề nhất. Y đến Đông Đức lần đầu tiên năm
1979 qua đường dây Nam Yemen. Đương sự không có phong cách của một cấp lãnh đ ạo,
nhưng phong cách ồn ào của đương sự đã khi ến đương sự trở thành một ngôi sao trong
giới truyền thông, mặc dù cơ quan của tôi không hề lèo lái y hoặc ngay cả gặp gỡ y theo
như tôi được biết. Câu chuyện về y, như tôi tổng hợp lại, cũng nên k ể lại để mô tả tình
thế chúng tôi tự đâm đầu vào. Nó giống như quý vị bắt được con cọp đằng đuôi.

Carlos Chó Rừng

Carlos cho thấy y thích Đông Bá Linh, có lẽ vì thành phố có nhiều tiện nghi và một cuộc
sống về đêm hoàn hảo hơn phần lớn các nơi khác y ẩn nấp. Đương sự trú ngụ tại Palast
Hotel trong một dãy buồng và nhân viên an ninh của chúng tôi phải điên đầu vì du khách
phương Tây ưa chuộng khách sạn Palast. Carlos du hành với thông hành ngoại giao Syria
và có thói quen thông báo ngày đến trước đó một hay hai ngày. Thực ra, bộ của chúng
tôi thu xếp để giới hạn những ngày y tạm trú chỉ có vài lần thôi.

Tôi và các sĩ quan của tôi không phải là những người hâm mộ Carlos. Theo báo cáo của
cơ quan, y là một tay to mồm, một tay tiểu tư sản biến thành tay khủng bố, xem thường
những nguyên tắc căn bản về kín đáo, do đó làm nguy hại đến những người cộng tác với
y. Khi y đến Đông Bá Linh, cơ quan phản gián luôn theo dõi hành tung của y. Y không
thèm để ý đến những lời yêu cầu của họ mong y ở lại trong phòng một cách lặng lẽ; trái
lại y la cà khuya khoắt trong quán với khẩu súng lục móc ở thắt lưng, rượu chè say sưa
và tán gái. Các chị em ta tất cả đều báo cáo cho Bộ Công An, nhưng đáng nghi ngại là y
có thể bị nhận diện và chúng tôi lo ngại y có thể bị phát hiện.

Ưu tư chính của chúng tôi là tống khứ hắn ra khỏi nước càng sớm càng tốt, nhưng việc
này không dễ. Một trong những khía cạnh khó khăn nhất trong mối tương quan với
những kẻ khủng bố như Carlos là tương quan quyền lực giữ bọn họ và chúng tôi có chiều
hướng trái ngược. Thoạt đầu, Carlos biết ơn vì đã đư ợc trợ giúp để thu xếp cuộc sống ẩn
núp của y. Nhưng một khi y cảm thấy chúng tôi không tha thiết với sự hiện diện của y, y
trở mặt ngay. Y bắt đầu giở giọng hăm doa chúng tôi giống như đối với các chính phủ thù
địch, cảnh báo những người khuyên y đừng đến Bá Linh nữa y sẽ tìm những mục tiêu của
Đông Đức tại hải ngoại. Khi Magdalena, người vợ Đức của Carlos bị bắt tại Pháp năm
1982, y yêu cấu chúng tôi giúp đỡ đưa cô ấy ra khỏi tù. Khi chúng tôi từ chối, y hăm dọa
sẽ tấn công tòa đ ại sứ chúng tôi ở Paris. Chúng tôi rơi vào trong một tình thề quái gở là
phải tăng cường an ninh để bảo vệ tòa đại sứ.

Tại sao chúng tôi lại dung túng những người dính líu với những hoạt động khủng bố?
Mielke, là người đích thân thương lượng với bọn họ, quan niệm rằng những người này có
thể sử dụng trong « trường hợp nguy kịch nhất » - một cụm từ ám chỉ cuộc chiến toàn
diện với các nước trong khối NATO. Tôi chưa bao giờ nghe ông trực tiếp đề cập đến vấn
đề này, nhưng suy luận của ông cho rằng nhóm khủng bố chúng tôi làm bạn hoặc, giống
như trường hợp của Cánh Hồng Quân (Red Army Faction), chúng tôi chứa chấp có thể
dùng làm lực lượng biệt kịch đàng sau phòng tuy ến địch để phá hoại phương Tây. Nếu tôi
có được hội ý về lối suy luận nông nỗi này, tôi chắc chắn phản đối. Chúng tôi khó có thể
kiểm soát một người như Carlos ngay tại Đông Đức trong thời bình, làm thế nào để có
thể trong cậy được y hoặc y trở thành hữu dụng trong lúc hỗn loạn chiến tranh? Đối với
tôi đây là một lối suy luận hão huyền, và tôi nghĩ Mielke m ột mặt mang mặc cảm tự ti đối
với phương Tây và Liên Bang Xô Viết, và mặt khác để lộ sự ngạo mạn cao độ. Ông muốn
trở thành một người có tiếng tăm quốc tế - cho dù phải cấu kết với những tổ chức như
PLO và Cánh Hồng Quân.

Mặc dù PLO và các tổ chức khác xác quyết giữ lời hứa với chúng tôi, hai cuộc tấn cống
khủng bố lại phát xuất từ lãnh thổ Đông Đức. Việc đánh bom tòa lãnh s ự Pháp tại Bá Linh
năm 1983 và vũ trư ờng La Belle năm 1986 trên nhiều phương diện là hậu quả tất yếu
của quyết định cho phép bọn khủng bố dùng Đông Bá Linh làm cứ địa tạm thời. Mielke
không bao giờ ngờ việc này có thể xảy ra, nhưng việc giao du với nhóm khủng bố đã
vượt quá tầm kiểm soát.

Bộ chúng tôi có một cách để giảm phần nào những hoạt động của những nhóm này, đó là
kiểm soát những gì họ đem vào và đem ra trong hành l ý của họ. Giống như mọi người
nhập cảnh, những nhóm này đi qua trạm kiểm soát tại phi trường và chúng tôi thường
bắt gặp họ đem theo hoặc chuyên chở vũ khí. Tr ạm kiểm soát biên phòng đã quy ết định
cho phép họ đem theo vũ khí, vì mang vũ khí theo ngư ời là một thói quen của họ.

Ngày 5 tháng Tư năm 1986, vụ nổ tại vũ trường La Belle ở Tây Bá Linh, một nơi lính Mỹ
thường lui tới, đã làm chết hai binh sĩ và m ột người đàn bà, một trăm năm chục người bị
thương. Hoa kỳ cho rằng cuộc tấn công này do đại sứ quan Lybia tại Bá Linh chủ mưu và
trả đũa bằng việc đánh bom những căn cứ quân sự và những trung tâm tình nghi huấn
luyện bọn khủng bổ. Tòa Bạch Ốc cũng tuyên b ố chính quyền Đông Đức đã ít nhất biết
trước ý định tổ chức cuộc tấn công này, nếu không muốn nói là biết rõ.

Thực ra, cuộc tấn công La Belle cũng là hậu quả của một lỗi lầm nghiêm trọng của sự
chểng mảng và sự hèn nhát tội lỗi của Bộ Công An. Các sĩ quan biên phòng của Neiber
báo cáo các nhân viên ngoại giao Lybia đã đem chất nổ trong hành lý của họ vào trong
lãnh thổ Đức. Danh tính và những mối liên hệ khủng bộ của họ ai cũng bi ết. Những
nguồn tin phản gián tại Trung Đông báo cáo những kế hoạch tấn công của Lybia ở một
nơi nào đó tại Tây Bá Linh, vì vậy có nhiều lý do nghi ngờ những chất nổ này dùng cho
mục đích đó.

Sau khi nước Đức thống nhất, cơ quan tình báo hải ngoại của tôi được xác định là không
hề biết những hành động đi đến việc đánh bóm hoặc việc đánh bom lãnh sự Pháp tại Tây
Bá Linh năm 1983. Tuy nhiên còn có một bí mật khác: Hoa kỳ đã bi ết những gì và có thể
nào họ ngăn chặn cuộc đánh bom? Không đầy một ngày Tổng Thống Reagan tuyên bố
Hoa Kỳ có bằng chứng xác thức về sự can dự của Lybia. Cho dù những cái gọi là chứng
cớ này đúng nhờ Nga chỉ điểm, còn có một số chuyện lạ khác. Người chủ mưu cuộc đánh
bom, tên là Chreidi, đã qua lại một cách dễ dàng giữa Đông và Tây Bá Linh trong thời
gian có những biện pháp an ninh nghiêm ngặt tại Checkpoint Charlie. Điều đáng nghi
ngại hơn nữa, các nguồn tin của PLO, trích dẫn vẫn được lưu trữ tại Bộ, cho biết Chreidi
không phải là một tên khủng bố tầm thường, nhưng thực ra là một nhân viên được Hoa
Kỳ sử dụng.
Mười ngày sau khi tuyên bố, Tổng Thống Reagan ra lệnh tấn công ào ạt vào Lybia. Tổng
cộng 160 chiếc phi cơ thả hơn sáu chục tấn bom, đánh trượt mục tiêu – đich thị là
Qaddafi. Cho dù nhiều người trong chúng tôi nhận thấy việc đánh bom La Belle kinh
khủng, nhưng khó mà phân giải xem việc giết những binh lính và một người đàn bà tại
Tây Bá Linh hay là việc giết thêm nhiều thường dân Lybia là một hành động khủng bố
nào dã man hơn.

Ngoài việc bao che những tay khủng bố ngoại quốc tại Đông Đức, Tổng Cục XXII cũng
chăm sóc những thành viên của Cánh Hồng Quân (RAF) được Đông Đức cung cấp nơi trú
ẩn. Cánh RAF xuất phát từ tinh thần cực đoan của những thập niên năm 1960 và bạo lực
của truyển thống chính trị Đức. Họ phát động một chiến dịch khủng bố và ám sát các
lãnh tụ chính trị và đặc biệt kinh tế của Tây Đức để phá hủy chủ nghĩa tư b ản bằng
những phương pháp người Cộng Sản chúng tôi ở Đông Âu đã t ừ lâu thề từ bỏ. Mặc dù
những lãnh tụ của họ Andreas Baader và Ulrike Meinhof đã t ự vẫn trong tù ở Tây Đức,
những người ủng hộ họ cho đến ngày nay vẫn nghĩ rằng họ bị chính quyền ám sát.
Những năm sau ngày thống nhất , tên tuổi của tôi lại được cài với các thành viên của
Cánh Hông Quân, nhưng cũng gi ống như trường hợp các tay khủng bố Ả Rập, tôi và cơ
quan của tôi không hề biết đến sự hiện diện của Cánh Hồng Quân trên lãnh thộ của nước
CHDCĐ.

Một vài thành viên ẩn nấp của Cánh Hồng Quân được Bộ Công An cung cấp căn cước mới
và môt cuộc sông mới, trong số đó có Susanna Albrecht, bị kết án dẫn đầu toán ám sát
đến nhà của một người bạn của cha cô, Jürgen Ponto, tổng giám đốc Dresdner Bank;
Christian Klar và Silke Maier-Witt, dính líu trong vụ bắt cóc và ám sát Hans-Martin
Schleyer, chủ tịch Hiệp Hội các Kỹ Nghệ Gia Đức. Ba thành viên của RÀ – Inge Viett,
Regina Nicolai,và Ingrid Siepmann – trốn Tây Đức chạy sang Tiệp Khắc, tại đây chính
quyền hỏi họ có muốn liên lạc với Tây Đức không. Họ chấp nhận và cuối cùng được đưa
sang Bá Linh do lệnh của Mielke.

Cánh Hồng Quân đang trên đà suy thoái trong vòng một năm hay khoảng đó sau khi
những người thiên tả ủng hộ họ tuyên bố tại Tây Đức không công nhận họ nữa. Cấp lãnh
đạo của nhóm này lo ngại một đợt bắt bớ hàng loạt và quyết định tất cả những người
hoạt động muốn rút lui có thể rút lui mà không phải sợ trừng phạt hoặc phản bội. Những
phương thức tái định cư được một nhóm sĩ quan thâm tín trong Tổng Cục XXII dàn xếp.
Danh tính của những sĩ quan đư ợc giữ bí mật, ngay cả tôi cũng không bi ết, và cơ quan
tình báo hải ngoại khồng hề dính líu đến việc tái định cư những thành viên của Cánh
Hồng Quân. Mielke luôn luôn muốn giám sát những việc chỉ có một minh ông biết. Ông
không có lý do gì trên phương di ện công tác để không chia sẻ những thông tin như vậy
với tôi, nhưng vì Tổng Cục XXII báo cáo trực tiếp cho ông, vì vậy ông chẳng có lý do nào
để thông báo cho tôi. Dù sao đi nữa, đường hướng của tôi ngay từ lúc đầu là tránh càng
xa càng tốt những thành viên của Cánh Hồng Quân bởi vì một vài người có thể bị tình
báo Tây Đức trở cờ và gài vào chúng tôi.

Nếu có nguy cơ những tay khủng bố của Cánh Hồng Quân chuẩn bị trên lãnh thổ Đông
Đức để tấn cống những mục tiêu ở Tây Đức, tôi chắc chắn tôi sẽ được cơ quan phản gián
thông báo. Tôi nghĩ nguy cơ này không có. Chúng tôi khuyên h ọ sống một cách thầm
lặng tối đa. Mỗi một tay khủng bố đều có một lý lịch giả mạo. Một người nọ có thể nói họ
gặp khó khăn với cảnh sát Tây Đức vì những sinh hoạt ủng hộ xã hội chủ nghĩa cực đoan,
một cô khác có thể cho biết là cô muốn gần gũi v ới thân nhân già nua ở bên Đông Đức.
Họ được lệnh không đề cập đến quá khứ khủng bố của họ, tuy nhiên vì họ là những con
người có ước vọng nói lên sự thật, một vải người đã ti ết lộ những hành vi tàn ác của RAF
cho những ông chồng hoặc bà vợ mới ở Đông Đức. Họ nổi bật trong số những đồng
nghiệp mới trong các cơ xưởng và văn phòng tại Đông Đức vì họ năng nổ tôn sùng xã hội
chủ nghĩa. Ví d ụ, sau khi Đông Đức xụp đổ năm 1989, báo chí tiết lộ Inge Viett, sống tại
Magdeburg với tên giả Eva Maria Schnell, đã qu ở trách các bạn đồng nghiệp trong cơ
xưởng của Đảng vì họ đã v ội vã chấp nhận đồng tiên chung với Tây Đức! Sigrid
Sternbeck, định cư với tình nhân ở vùng cực Bắc nước Đức, cho biết là những đồng
nghiệp trong cơ sưởng mới của cô không tin chuyện dàn dựng của cô, và họ rỉ tai cô là
một trong những gián điệp của tôi kéo từ Tây Đức về.

Nguyên do quyết định nhận những thành viên cũ c ủa RAF có lẽ phát xuát từ lòng lo ngại
trở thành mục tiêu tiềm tàng. Nhưng trong trường hợp của Cánh Hồng Quân, Mielke có ý
muốn gây bối rối cho Tây Đức bằng cách giúp các tay khủng bố cũ thoát kh ỏi tầm tay
truy nã của luật pháp. Một số thành viên của RAF được huấn luyện tại Syria và Nam
Yemen để sử dụng những súng ống và những kỹ thuật dùng chất nổ tân tiến tiện lợi hơn
là đem chúng ra khỏi Đông Đức, và có một kỳ huấn luyện đặc biệt để chỉ cho họ cách sử
dụng súng chống chiến xa Xô Viết RPG-7. Có những khóa huấn luyện tại Đông Đức cho
những thành viên về hưu của RAF nhưng vẫn còn sống ở Tây Đức. Những tài liệu ghi
nhận trong những năm 1981 và 1982 một nhóm được huấn luyện dùng vũ khí khi ngồi
trên xe Mercedes. Một con chó săn cừu bị cột chặt để làm mục tiêu, con chó bị bắn chết
và chiếc xe nổ tung, và các học viên khủng bố được chỉ cách thủ tiêu tàn dư.

Mielke nghĩ rằng RAF cho thấy chiều sâu của xã hôi Tây Đức và đồng thời sự hiện diện
của họ ở trong nước sẽ che chở chúng tôi không bị vũ l ực của họ xâm nhiễm, nhưng hình
ảnh đáng sợ trong việc bộ công an cố gắng hoàn chỉnh kỹ năng của một tay khủng bố đã
chính thức về hưu khiến tôi quyết đoán Mielke tiếp tục nuôi dưỡng ý đồ dùng họ trong
một cuộc chiến có thể xảy ra giữa Đông và Tây Đức. Ông cọi rất trọng khả năng này.

Tình báo Tây Đức chắc chắn nghi ngờ những người đàn ông và đán bà có hình ảnh dán
tại nhà bưu điện trong dánh sách « những tội nhân phải bắt » đang ở Đông Đức. Sự hiện
diện của những kẻ bị xã hội Tây Đức ruồng bỏ này có lẽ nhắc nhở lại cho Honecker và
Mielke thời thanh xuân của họ ở Đức làm chiến sĩ chiến đấu chống lại Quốc Xã. Nhưng tôi
trộm nghĩ bất cứ tình thần đại nghĩa nào cũng s ẽ bị chôn vùi vì lâu ngay tiếp cận với
những đứa trẻ điên loạn phần lớn thuộc giai cấp trung lưu này. Phong thái đấu tranh của
họ ít khi đòi hỏi họ lòng can đảm và trí khôn ngoan, những yếu tố đã cho phép Đảng
Cộng Sản và hệ thống tình báo của họ tiếp tục hoạt động tại Đức dưới thời Hitler. Tôi
không thể viết hay hơn Helmut Pohl, một thành viên của Cánh Hồng Quan RAF bị bỏ tù
và tình nghi là một trong những người lập kế hoạch sinh hoạt cho những tổ chức khủng
bố tồi tệ này. Đề cập đến việc huấn luyện của y tại Đông Đức, y nói trong một cuộc
phỏng vấn: « Chúng tôi không thể nào chịu nổi những lý thuyết và những thủ tục và
những danh từ vĩ đại về hòa bình thế giới. Vì lợi ích nó cung cấp, chúng tôi phải đọc tờ
Neues Deutschland [tờ báo của Đảng Cộng Sản Đông Đức]. Có một bầu không khí khó
chịu thường xuyên giữa chúng tôi. Cuối cùng, có lẽ chúng tôi không chịu đựng được họ
cũng như họ không chịu đựng được chúng tôi ».

Lằn ranh ngăn cách giữa chiến sĩ t ự do và khủng bố thường được quyết định do anh
thuộc phe nào. Một cuộc đấu tranh chúng tôi đóng góp về quân sự cũng như tài chánh đã
không khiến tôi phải hối hận đó là sự trợ giúp cho Hội Đồng Quốc Gia Châu Phi (ANC –
African National Congress), một phong trào đấu tranh giải phóng ở Nam Phi. Chúng tôi
không có toan tính chiến lược gì trong việc trợ giúp ANC. Chúng tôi xem cuộc chiến đấu
chống chế độ kỳ thị của họ là một cuộc chiến đấu giải phóng chính đáng, mặc dù chúng
tôi không xem họ là một lực lượng có thể lên nắm quyền, một dự đoán tôi phải mỉm cười
nhiều năm sau vì tính ch ất oái oăm của nó khi thôi thấy Nelson Mandela vui vẻ nhận lãnh
những tiện ích và gánh nặng của quyền lực tại Nam Phi mà không hề bị ngăn chặn bởi
một luật pháp phân chia màu da.

Tuy nhiên vẫn có động cơ chính trị pha lẫn vào sự trợ giúp của chúng tôi. Chúng tôi muốn
củng cố cánh tả của ANC, và chúng tôi lẫn Xô Viết, cả hai phải rất cẩn thận trong việc
này. Chúng tôi thấy không có lợi gì đ ể đào xâu ngăn cách giữa cánh tự do và cánh thiên
Cộng Sản trong phong trào giải phóng, làm như vậy sẽ tạo thêm sức mạnh cho giới cầm
quyền da trắng vốn dĩ theo truy ền thống chống cộng. Chúng tôi và Moscow đồng ý với
nhau chiến lược tốt nhất để bảo đảm sự hỗ trợ cho đường hướng xã hội chủ nghĩa c ủa
ANC là giúp đỡ càng nhanh và càng rộng rãi trong khả năng của chúng tôi, ngõ hầu
chúng tôi được xem là những đồng minh trong một cuộc tranh đấu rộng lớn hơn.

Kể từ giữa những thạp niên 1970, Đông Đức huấn luyện những du kích quân của ANC.
Việc này thuộc lãnh vực của quân đội hơn là hợp tác tình báo và do AGM (Nhóm Làm Việc
của Bộ) và tướng Alfred Scholz đảm trách. Hai nhóm gồm bốn mươi hoặc năm chiến sĩ
ANC được huấn luyện trong một trường học đảng tại vùng thôn quê Đông Đức. Quân báo
Đông Đức, hoạt động biệt lập với cơ quan tình báo hải ngoại, phụ trách những kế hoạch
di chuyển và lẽ cố nhiên được hoàn toàn giữ bí mật. Họ di chuyển thông qua Tanzania
hoặc Angola để bay sang Luân Đôn, và sau đó đổi máy bay để lên máy bay nhà nước
Đông Đức đi thẳng đến Đông Bá Linh. Con đường này là con đường hoàn hảo nhất để che
mắt tình báo Nam Phi. Kế hoạch lẩn tránh này đã thành công.

Chương trình huấn luyện quân sự của họ tại Đông Đức không hề bị tiết lộ. Tôi khám phá
việc này vào cuối những thập niên 1970, khi Joe Slovo, lãnh tụ của Đảng Cộng Sản Nam
Phi, gởi một lá thư qua Trung Ương Đảng Đông Đức yêu cầu chúng tôi huấn luyện những
nhóm nhỏ các thành viên ANC về phản gián. Ông giải thích ANC có nguy cơ bị điệp viên
của chính quyền Nam Phi xâm nhập và họ thiếu những hiểu biết căn bản để thiết lập một
hệ thống phản gián để ngăn ngừa việc này. Thư này của Slovo được chuyển cho chúng
tôi từ văn phòng của Honecker với lời ghi chú: « Tổng bí thư đã đ ồng ý ».

Chúng tôi thu xếp cho tám đến mười người để được huấn luyện trong một cục đặc biệt
của Trường Luật Pháp của Bộ (Juristische Hochschule) tại Postdam, ở ngoại ô Bá Linh.
Trường đại học này, một sáng chế của chúng tôi, là một định chế để dùng cho nhiều việc,
tất cả đều liên quan đến Bộ Công An . Các sĩ quan về hưu giảng dạy tại đây từ những vấn
đề ngoại giao căn bản cho các tân binh cho đến những bài học ngăn ngừa gián điệp. Dưới
sự giám sát chặt chẽ của một vị tướng trong số những sĩ quan ưu tú c ủa chúng tôi trong
ngành phản gián, ANC học cách tìm phát hiện những kẻ nằm vùng, đối chứng với chúng
và theo dõi họ mà không bị lộ tẩy.

Chương trình học bắt đầu mỗi ba cho đến năm tháng, và người Nam Phi là những sinh
viên chăm chỉ, tiếp thu tất cả những hiểu biết chúng tôi thấy có thể cung cấp cho họ một
cách an toàn về những phương pháp cơ quan địch thường dùng và tâm lý phỏng vấn. Có
một số bài căn bản về nguyên lý chủ thuyết Mác-Lê cũng đư ợc trình bày, nhưng những
bạn khách sinh viên của chúng tôi một cách nhã nhặn đã nói thẳng họ đến đây không
phải để nghe những điều này. Vào giai đoạn này, nguyên tắc căn bản của mọi cộng tác
như vậy xét ra không khôn ngoan ép đối tác của chúng tôi theo quan điểm thế giới đại
đồng của chúng tôi. Qua đường dây liên lạc này với ANC, chúng tôi hy vọng một ngày
thiết lập phương cách để hợp thức hóa những điệp viên chúng tôi muốn gởi ra hải ngoại
bằng cách gởi họ đến Nam Phi trước tiên, tại đây họ lập căn cước giả với sự trợ giúp của
những đường dây tình báo mới ở đây. Việc này mới bắt đầu đem lại kết quả vào năm
1988, do đó chúng tôi chưa bao giờ có cơ hội để biết xem việc này có thực hiện được
không.

Khi đề cập đến sự trợ giúp của nước CHDCĐ cho những nhóm khủng bố, và đặc biệt là
những cuộc tấn công vào lãnh sự Pháp và vũ trư ờng La Belle, những người không liên can
đến việc này có thể tránh câu hỏi về trách nhiệm cá nhân, tội phạm và đồng lõa. Những
người chết không phải là những nạn nhân chết trong một trận đánh giành tự do; họ
không chấp nhận quan điểm của chúng tôi và ngay cả chủ thuyết an ninh thái quá của
chúng tôi. Những loại tấn công như vậy, như âm mưu năm 1993 của một nhóm khủng bố
nhỏ ở tại World Trade Center, cho thấy rõ trách nhiệm mà mọi người phải gánh chịu khi
phải đương đầu với những lực lượng như vậy cho dù họ có động cơ nào đi nữa. Nhưng
đây là những cảm nhận hậu cuộc. Việc chúng tôi cộng tác với PLO nằm dưới quyền chi
huy của Arafat và các nhóm khác là một phần trong những động thái chính trị phức tạp
trong đó cá nhân tôi có một phần trách nhiệm, và tôi nhận biết điều này. Đây là một sự
hợp tác để phục vụ cho cấp lãnh đ ạo chính trị, và chúng tôi thực hiện đường hướng cũng
như thi hành công tác ở Thế Giới Thứ Ba trong qua khứ, nhất cử nhất động đều theo
động cơ chính trị.

Trong lúc đánh giá những sinh hoạt của chúng tôi ở Thế Giới Thứ Ba và công tác với
những nhóm được xem là khủng bố, tôi hy vọng những ước vọng tích cực của đôi bên
trong cuộc đụng độ cực kỳ mãnh liệt thời Chiến Tranh Lạnh, sẽ để lại một vài dấu tích.
Máu của Patrice Lumumba, Che Guavara, Salvador Allende, Yitszhak Rabin và của nhiều
nạn nhân mà tên tuổi chỉ có gia đình và bạn bè họ biết không ám ảnh và che khuất
những tiến bộ của thời cuộc. Hình ảnh của cuộc bầu cử dẫn đưa Nelson Mandela lên làm
Tổng Thống Nam Phi và tay bắt mặt mừng của người Do Thái và Palestine phải là những
gì gây cảm hứng nơi chúng ta.
Chương 14
Trong Lòng Địch
Thế giới tình báo, Đông và Tây, là vương qu ốc của bóng tối đạo đức. Những cách hành xử
của nó đôi khi kém đạo đức, phương pháp của nó bẩn thỉu. Vì vậy CIA đối với tôi ở vào
một vị thế đặc biệt bất lợi vì đã góp ph ần vào trò múa rối dân chủ để thỏa mãn những
đòi hỏi của Hiến Pháp Hoa Kỳ, bất chấp chúng có phù hợp hay không với công tác tình
báo. Không một cơ quan tình báo nào có th ể trở thành dân chủ và, cho dù nhiều chính trị
gia mong mỏi điều này, luôn bị xoi bói mà vẫn có thể thực hiện công tác một cách đúng
đắn. Tại cơ quan CIA, phần lớn các sĩ quan cao c ấp bỏ thời giờ để soạn thảo tài liệu và
tổng kết công việc của họ để trình ra bên ngoài, luôn luôn phải chú ý đến phản ứng của
giới chính trị và báo chí.

Ở Đông Âu, chúng tôi lạc lối trong một chiều hướng trái ngược. Mặc dù chúng tôi viết tài
liệu và báo cáo lên cấp trên, có nghĩa là cũng có giám sát công tác tình báo c ủa chúng
tôi, nhưng không có việc giám thị thực sự. Các chủ nhân chính trị của chúng tôi về cơ
bản họ cảm thấy bất an nên họ nhất định lấy cho bằng được mọi thông tin có tiềm năng
đe dọa vị thế của họ và họ chẳng thèm để ý đến phương cách thu thập nó. Erich
Honecker chuyên mách lại cho các chính trị giá Tây Đức mà ông mong tìm sự tín cậy là
tình báo Đông Đức được lệnh không đụng chạm đến họ. Nhưng một khi trở về nhà, ông
ngốn nghiến và chăm chú đọc những báo cáo tình báo về những người này và tỏ ý muốn
có thêm thông tin chứ không kém đi.

Phong thái của phản gián CIA, theo kinh nghiệm cá nhân tôi đã trình bày ở phần đầu
sách này, cho tôi thấy họ chú tâm đến việc chấn an lo âu có một kẻ nằm vùng hoạt động
trong lòng CIA hơn là tìm cách phát hi ện tay này. Gus Hathaway trình bày cho Ủy Ban
Tinh Báo Thượng Viện năm 1985: « Chưa bao giờ có một điệp viên của Xô Viết nào nằm
trong lòng của CIA. Có thể chúng tôi không tìm ra tên này, nhưng tôi nghĩ điều này khó
có thể xảy ra ». Mặc dù xảy ra sự việc kẻ đào tị Edward Lee Howard, bị CIA đuổi đi cách
đó hai năm vì tội sử dụng ma túy và ăn cắp vặt, đã sau đó ti ết lộ những bí mật về những
công tác của cơ quan tại Moscow nhắm vào Xô Viết, CIA không phát giác được hành động
phản bội của y nhưng lại được một sĩ viên chúc cao cấp KGB Vitaly Yuchenko sau khi đào
thoát sang Hoa Kỳ tiết lộ. Nói cho ngay, lời tuyên bố của Hathaway phù hợp với sự thật,
vì Howard không còn làm việc cho cơ quan khi đương sự tiết lộ những bí mật của cơ
quan. Nhưng lời bảo đảm của ông không chắc chắn. Đã từng gặp Hathaway và đánh giá
ông là một sĩ quan tình báo nghiêm ch ỉnh và cần cù, tôi tự hỏi tại sáo ông lại hài lòng che
dấu những khuyết điểm của cơ quan bằng phương cách này. Tôi đoán chừng ông lo ngại
bôi xấu CIA trước công chúng vào lúc danh tiếng của của cơ quan đang suy sụp.

Những âm mưu bất thành của CIA nhằm lật đổ Fidel Castro và những chiến thuật liều
lĩnh tại Trung Mỹ đã h ạ bệ uy tín của họ đối với phe bảo thủ cũng như đối với phe cấp
tiến. Những lượng định của các sĩ quan c ủa chúng tôi tại các trạm ở Hoa Thịnh Đốn và
Nữu Ước liên quan đến tình báo Hoa Kỳ cho thấy vào những thập niên 1970 và 1980 họ
không được kính nể như vào những thập niên 1950 và 1960. Điều này, theo như một
tham vấn quản trị có thể nói, ảnh hướng đến tinh thần của những sĩ quan. T ổ chức không
những được xem là bí mật và nham hiểm – hầu như là những đánh giá bình thư ờng đối
với một cơ quan tình báo có quyền lực – nhưng mờ ám, một danh tiếng mà không cơ
quan tình báo nào có thể đương nổi. Cơ quan tình báo là m ột nơi bất ổn về mặt tâm lý và
não trạng phản ánh mau chóng lên việc làm. Những báo cáo về tên phản bội Aldrich
Ames cho thấy tâm lý chán ghét bản thân cao độ trong nội bộ CIA. Ames không những
chán ghét cơ quan của mình, y còn khinh khi nữa là đàng khác. Tôi không nghĩ tâm trạng
này giống tâm trạng của tay phản bội Xô Viết như Oleg Gordievsky. Những tay phản bội
của Moscow đổi cánh do sự hỗn hợp những lý do ý thức hệ và cá nhân, nhưng, mặc dù họ
biết rõ những điều tồi bại trong KGB, họ không mất lòng kính sợ đôi với nó cho đến khi
Gorbachev lên nắm quyền.

Ames không phải là người tồi dở đầu tiên được CIA tưởng thưởng. Vào những thập niên
1970, Hoa Kỳ dùng một điệp viên mật danh là Thielemann, có nhiệm vụ liên lạc với
những nhân viên ngoại giao Đông Đức, những doanh nhân và những viện sĩ đ ến thăm
viếng Tây Đức và tìm cách kết nạp họ. Đây là một sáng kiến tốt về mặt cơ bản của CIA
nhằm thu dụng những người Đông Đức khi họ du hành ra nước ngoài và ít nguy hiểm hơn
là kết nạp họ ở tại Đông Đức. Nhưng chúng tôi biết đến hoạt động của Thielemann khi,
vào năm 1973, chúng tôi bắt đầu tiến hành những điều nghiên ráo riết về những hoạt
động của CIA tại Bonn. Bằng cách đơn giản quan sát những cuộc tiếp xúc ngẫu nhiên của
các người đồng hương chúng tôi tại các buổi liên hoan, các câu lạc bộ thể thao, quán
nước và cà phê và những nơi tụ họp công cộng khác, chúng tôi thiết lập được danh sách
những người làm việc cho CIA.

Năm 1975, Thielemann đóng chốt toàn thời tại Bonn. Đương sự hoặc CIA không biết
chúng tôi tìm ra tên thật của y là Jack Falcon. Lúc đầu chúng tôi chỉ theo dõi y, ghi nhân
những đối tượng của y và nghiên cứu những điều y tìm kiếm. Lần hồi, chúng tôi cung cấp
cho y những đối tượng – những điệp viên làm việc cho chúng tôi và vờ để cho Falcon kết
nạp làm nguồn tin và cung cấp cho y một mớ hỗn hợp bí mật không quan trọng và thông
tin sai lạc. Mục đích là dẫn đưa Hoa Kỳ vào những đường dây giả trong lúc nỗ lực tìm
hiểu và đưa họ đến những kết luận sai lầm về công tác của chúng tôi. Tội nghiệp cho
Falcon vì y nghĩ đang làm m ột công việc tuyệt vời là kết nạp được qua nhiều người Đông
Đức sẵn sàng cộng tác và lại có hiểu biết. Y khoe khoang với một nguồn tin đặc biệt đáng
tin cậy là CIA đã thăng ch ức và tăng lương cho y vì y đã thành công trong công tác k ết
nạp. Điều này đã làm cho tổng cục phản gián trong Bộ Công An của chúng tôi phải phì
cười. Chính các sĩ quan cao cấp tại đây đã bịa phần lớn những bí mật không giá trị này.

Thực ra, việc phát hiện những đặc vụ của CIA tại Bonn quá dễ dàng. Gần như trái ngược
với những lời dặn dò của tôi cho những chuẩn bị kỹ lưỡng và chậm chạp, những tiếp cận
gần như tinh tế với những đối tượng kết nạp, họ luôn phát động một loạt những cuộc tiếp
xúc. Các đối tượng chúng tôi gài vào thường than phiên là những đặc vụ CIA có trình dộ
hiểu biết thấp về tình hình kinh tế của Đông Đức, khiến cho họ không biết phải theo
phương hướng nào để quay vì những hiểu biết căn bản về Đông Đức của những đặc vụ
quá sơ sài. Có một lúc vào cuối những thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, phẩm chất
những đặc vụ Hoa Kỳ quá tồi dở và công tác của họ thiếu phương pháp đến độ các cấp
lãnh đạo của chúng tôi lo ngại tự hỏi có lẽ Washington coi Đông Đức chẳng ra gì.

Sau này, chúng tôi biết Hoa Kỳ thu thập những dữ liệu then chốt về Đông Đức nhờ vào
hệ thống giám sát điện tử tại Tây Bá Linh và Tây Đức. Thật là quái gở khi CIA bỏ công gởi
người rình mò một cách vô bổ tại đất liền trong khi phần lớn những tin tức giá trị họ
muốn có lại ở trên không gian. Nhưng theo kinh nghiệm của tôi, không có phương pháp
kỹ thuật nào có thể thay thế trí tuệ và óc phán đoán của con người và – cho dù những cố
gắng của họ thiếu khả năng – có người trong CIA phải đồng ý về chuyện này. Quý vị có
thể nghe lén một cú điện thoại, nhưng thiếu hiểu biết về bối cảnh, người ta dễ dàng đánh
giá sai lầm; một bức hình vệ tinh có thể cho quý vị thấy vị trí những tên lửa, nhưng một
nguồn tin ở bộ tư lệnh có thể cho quý vị biết nó nhắm về hướng nào. Vấn đề của tình báo
máy móc chính là những thông tin không được ước định. Tình báo máy móc chỉ thu thập
được những gì đang di ễn ra nhưng không ghi nhận những gì sẽ xảy ra trong tương lai.
Nguồn tin do người cung cấp thông báo về kế hoạch, có thể điều nghiên những viễn
tượng chính trị và quân sự, và có thể đặt những tài liệu và mẩu đối thoại vào trong bối
cảnh của nó. Như mọi sĩ quan tình báo đ ều biết, quá nhiều công sức đã đư ợc bỏ ra để
sàn lọc trong đống núi dữ liệu để tìm ra hạt tin giá trị; sự lệ thuộc quá mức vào tình báo
máy móc có thể làm gia tăng gấp đôi con số hạt tin, nhưng chắc chắn sẽ làm tăng lên
gấp ba kích thước của quả núi dữ liệu cần phải sàn lọc. Mặc dù vai trò của tình báo máy
móc kỹ thuật sẽ gia tăng và hỗ trợ cho những gì vẫn thường được sức người đảm nhiệm
với nhiều phí tổn và rủi ro, nó không thể nào thực sự thay thế. Chính yếu tố con người
tạo nên sự thành công của công tác tình báo, chứ không phải dụng cụ siêu kỹ thuật làm
nên nó.

Cuối thập niên 1980, chúng tôi ở một vị thế ai cũng thèm thu ồng vì biết được không một
điệp viên CIA nào làm việc tại Đông Đức mà không biến thành gián điệp nhị trùng hoặc
làm việc cho chúng tôi ngay từ lúc khởi đầu. Theo lệnh của chúng tôi , tất cả những người
này được cung cấp những tin tức chọn lựa kỹ lượng và những thông tin sai cho Hoa Kỳ.
Chúng tôi biết điều này bởi vì Edward Lee Howard đã làm việc cho văn phòng của Đông
Đức. Đương sự gặp Falcon sau khi Falcon trở về tổng tư lệnh CIA ở Langley và được
tưởng thưởng vì đã thành công gài đặt điệp viên ở Đông Đức. Theo sự tiết lộ của Falcon,
Howard biết chỉ có sáu hoặc bảy điệp viên làm việc cho CIA tại Đông Đức. Chúng tôi điều
khiển họ theo đúng kế hoạch của chúng tôi. Điều này đã đư ợc chính CIA xác nhận. Họ
tiết lộ sau khi Đông Đức sụp đổ tất cả những điệp viên của họ hóa ra đã bị Bộ Công An
sai khiến.

Những năm 1987 và 1988, Howard lúc đó đến thường trú tại Moscow và được KGB bảo
trợ, thăm viếng Đông Bá Linh và kể cho các cán bộ điều khiển của mình trong cơ quan
tình báo hải ngoại tất cả những chi tiết công tác của CIA và mục tiêu điệp vụ hàng đầu
của họ về các thiết bị quân sự và các viện nghiên cứu. Điều thực sự mới mẻ với chúng tôi
là Howard cho biết CIA có danh sách mục tiêu hướng về các giáo sư kinh tế ưu tú và các
hàn lâm sĩ của Đông Đức. Nếu có ai trong số người này xin hộ chiếu thăm Hoa Kỳ, tên
tuổi của người đàn ông hay người đàn bà này được chuyển từ lãnh sự về cơ quan tình báo
Hoa Kỳ và sau đó nhập vào kho dữ liệu to lớn. Trong thời gian thăm viếng của những cá
nhân này ở Hoa Kỳ, mỗi khi tên của ông hay cô này được đề cập trong một cuộc đối thoại
trên điện thoại, trên fax, hoặc máy telex, chính quyền Hoa Kỳ ghi âm và chuyển cho CIA
để điều nghiên. Đông Đức vốn có tiếng là hay rình mò và lén nghe, nhưng riêng những
giới hạn về kỹ thuật của chúng tôi cũng đủ bảo đảm chúng tôi không thể nào sánh kịp với
Hoa Kỳ về điểm này.

Một yếu điểm về cơ cấu tổ chức của tình báo Hoa Kỳ là trường hợp của Ames lý ra đã cho
thấy sự yếu kém của nó đối với những tác động chính trị. Trong những năm gần đây,
chức vụ giám đốc Trung Ương Tình Báo giống hệt chức vụ của một ông bầu bóng đá sau
mỗi một mùa bóng tồi tệ là bị mất chức.

Khi Werner Stiller đào thoát, tôi chỉ ra lệnh đổi cấp lãnh đạo trực tiếp của y. Không hề có
áp lực đè lên tôi hoặc đè lên bộ trưởng buộc chúng tôi phải từ chức. Làm như vậy có ích
lợi được gì? Tốt hơn hết là vẫn giữ vị thế cũ và tìm phương pháp đ ể ngăn ngừa điều này
xảy ra lần nữa. Một cách tình cờ, tôi không hề thấy CIA bình tĩnh ngồi lại và tìm phương
cách ngăn ngừa việc này. Một vài ban trong những đặc vụ của họ - tôi đặc biệt liên tưởng
đến ban trách nhiệm về Xô Viết – hình như làm vi ệc trên mây và với lời cầu nguyện. Nếu
họ điều tra kỹ lưỡng sau vụ Howard đào thoát, Ames có thể đã b ị bắt từ lâu rôi.
Các cơ quan tình báo không có l ợi gì để nghe lời kêu gọi của các chính trị gia thiếu hiểu
biết yêu cầu hạ bệ người lãnh đạo mỗi khi một tai nạn như vậy được quần chúng biết
đến. Tôi luôn có cảm tình với Heribert Hellenbroich vì sự nghiệp giám đốc tình báo hải
ngoại của ông tan tành khi Tiedge đào thoát. Hellenbroich, đã từng chỉ huy Nha Bảo Vệ
Hiến Pháp, mới vào làm việc tại BND (Bundesnachrichtendienst= cơ quan Tình Báo Liên
Bang Đức ). Ông có một vài bất đồng các cố vấn của tân Thủ Tướng (đặc biệt là Klaus
Kinkel) và trở thành con vật tế vì những thất bại chính do lỗi của đội tuyển dụng và thiếu
hoàn toàn kiểm soát, một việc đặc hữu của môt cơ quan bí mật.

Cuộc gặp gỡ của tôi với Gus Hathaway lẽ cố nhiên là một kết thúc kỳ quái của mối liên hệ
của tôi với Hoa Kỳ thời Chiến Tranh Lạnh. Trong ba mươi lăm năm đứng đầu cơ quan tình
báo hải ngoại Đông Đức, Hoa Kỳ đối với tôi là một nước xa lạ và thù địch. Bắt chước đồng
nghiệp Xô Viết, chúng tôi dùng danh từ Đức ngữ Hauptgegner, « kẻ thù chính » (tiếng
Nga là glavni protivnik ) để mô tả Hoa Kỳ. Đối với Moscow và đối với chúng tôi, Hoa Kỳ là
nguồn gốc phát sinh mọi tội của đế quốc. Tuy nhiên tôi không đem lòng hận thù cá nhân
đối với Hoa Kỳ. Lẽ cố nhiên tôi biết và kinh tởm những hoạt động chống cộng ngoan cố
của Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy và những vi phạm luật pháp với sự hỗ trợ của CIA
tại Châu Mỹ La tinh. Nhưng tinh thần quốc tế của tôi ngăn cản không cho tôi rơi vào não
trạng chống Mỹ ngu xuẩn mà phần đông các thành phần xã hội chủ nghĩa đ ều mắc phải.
Hiểu biết của tôi về nước Mỹ dựa trên những gì tôi học ở Liên Bang Xô Viết từ các người
bạn Mỹ, từ kinh nghiệm cá nhân khi làm phóng viên đài truyền thanh tại Bá Linh và theo
dõi những vụ án tại Nuremberg, và từ các báo chí và tuần báo phương Tây tôi đọc mỗi
ngày. Lẽ cố nhiên tôi đặt lăng kính đượm nặng nề màu sắc ý thức hệ lên những gì tôi
đọc, vì công tác của tôi là thảo luận về những giả thuyết và những kết luận về chính trị
và ý thức hệ ghi trong bản báo cáo và biện minh cho vị thế của Xô Viết với tất cả năng
lực của tôi. Điều này đã gây nên hiềm khích không thể tránh khỏi giữa tôi và các bạn Hoa
Kỳ như George Fischer. Trong cương vị cấp lãnh đạo văn phòng Eisenhower, ông thư ờng
đến Bá Linh ngay sau thời kỳ kết thúc chiến tranh... Chúng tôi sung sướng gặp lại nhau,
nhưng không thể nào quên được lòng nghi kỵ đã tiêm nhiễm vào trong mối quan hệ này.

Phần lớn những hiểu biết về lề lối suy nghĩ, ý định và mối e ngại của Hoa kỳ mà tôi tiếp
thu là do hai người điệp viên Hoa Kỳ đầu tiên của tôi. Họ chưa bao giờ bị phát giác, mặc
dù cả hai đã qua đời, tôi không có ý định tiết lộ danh tính của họ ở đây ngoài những bí
danh chúng tôi đặt cho họ : Maler (« Thợ Sơn ») và Klavier (« Dương Cầm »). Cả hai
người đều sinh đẻ tại Đức và gần gũi với phong trào cộng sản lúc còn thanh niên, và cả
hai đều là người Do Thái. Cả hai đều phải bỏ quê hương xứ sở vì mối đe dọa Quốc Xã, an
cư tại Hoa Kỳ, và hoàn tất việc học hành của họ tại đây, một người là kinh tế gia, người
kia là một luật sư. Nhưng do nguồn gốc sinh đẻ ở Đức và có tay nghề, cả hai đều được
kết nạp vào Nha Công Tác Chiến Lược (Office of Strategic Services = OSS), tiền thân của
CIA. Vào thời kỳ truy lùng của Thượng Nghị Sĩ McCarthy trong nh ững đầu thập niên
1950, OSS bị tố cáo là hang ổ của bọn trí thức tả khuynh. Một cách nghịch lý, Stalin lấy
cớ Noel Field có liên hệ với OSS và dùng Field (*)để ra tay thanh trừng đẫm máu những
đảng viên Cộng Sản tại nhiều quốc gia trong những năm 1951-1952, trong đó có Tiệp
Khắc, Hungari và Đông Đức. Theo những gì tôi biết về Field, tôi quả quyết Field chưa bao
giờ là một gián điệp nhưng chỉ là một người có lý tư ởng nhưng ngây thơ, đã ra tay giúp
những người chống phát-xít và vì vậy có mối liên hệ với OSS. Nhưng vụ án của ông là
một ví dụ về những mánh khóe độc địa của Stalin và Beria để biện minh việc thanh trừng
ở Đông Âu.

(*) Thời kỳ Đại chiến Thế Giới Thứ II, Noel làm việc cho một tổ chức nhân đạo, Unitarian
Universalist Service Committee (Ủy Ban Công Tác Nhất Thể Phổ Độ), ngoài những công
tác khác họ giúp những người di dân Công Sản. Do đó Field bắt được liên lạc với Allen
Dulles trong OSS)

Trong bầu không khí này, nhiều sĩ quan tình báo c ủa chúng tôi thận trọng trong việc kết
nạp người Mỹ, việc này có thể khiến cho họ bị kết tội là rơi vào bậy của Hoa Kỳ. Nhưng
tôi biết chúng tôi muốn biết về lề lối suy nghĩ c ủa người Mỹ. Chúng tôi bắt liên lạc với anh
kinh tế gia Maler, qua một người bạn quen biết thời còn là sinh viên dưới chế độ Quốc Xã.
Hai người là thành viên một nhóm kháng chiến Do Thái đã có l ần âm mưu cho nổ một
buổi triển lãm Quốc Xã. Phần lớn thành viên của nhóm đều bị bắt và ba mươi lăm người
bị giết. Maler tìm cách xuất ngoại; anh bạn của ông thoát chết trại tập trung. Người bạn
này là một khuôn mặt kỳ cựu trong thế giới tài chánh của Đông Đức, qua người này
chúng tôi dàn xếp để bắt liên lạc với Maler với hy vọng là khơi động những môi liên hệ
trong OSS.

Nhưng hóa ra những mối liên hệ rộng lớn của Maler tại Hoa Kỳ cũng đáng lưu ý. Ông là
người một biết suy nghĩ xâu xa và đ ặc thù và ông vẫn tự nhận mình là ngư ời Cộng Sản.
Ông có nhiều bạn bè thế lực ở Washington và, theo yêu cầu của chúng tôi, ông đã g ặp gỡ
đại sứ Hoa Kỳ tại Bonn và trưởng phái đoàn ngoại giao tại Bá Linh với sự giới thiệu của
John Foster Dulles. Hữu dụng nhất đối với chúng tôi là việc ông thông báo những mối liên
hệ tình báo mà Ernst Lemmer, lúc đó là bộ trưởng Tây Đức đặc trách về những vấn đề
Liên Quốc (có nghĩa là, thương thảo với Đông Đức, đã cài đ ặt trong thời chiến khi ông
làm phóng viên cho những tờ báo ngoại quốc tại Bá Linh), từ những hệ thống tại Pháp và
Thụy Sĩ cho đến những mối liên lạc với người Nga. Tôi không bao giờ dùng tài liệu này để
đối phó với Lemmer, nhưng trong tủ sắt của tôi tôi có giữ một bản sao văn kiện do ông
ký nhận làm việc cho KGB. Maler là một người giàu có và chỉ lấy tiền bồi hoàn của chúng
tôi vì những chi phí chứ không bao giờ lấy tiền vì việc làm, một việc ông mô tả đem lại
ánh sáng đến những vùng tăm tối của Tây phương?

Trong lúc Maler chú tâm đến châu Âu, Klavier, mặc dù thường trú tại Đức, là một đặc vụ
nội gián thường xuyên về Hoa Kỳ. Klavier là người Đức được huấn luyện trong ngành luật
đã di cư sang Hao Kỳ, tại đây ông làm luật sư và sau này tham gia OSS. Bất mãn về cách
giải quyết vấn đề tội phạm chiến tranh tại Tây Đức, ông cung cấp những tin tức nội bộ
cho các sử gia nước CHDCĐ. Ông làm việc cho chúng tôi với điều kiện là người vợ không
bao giờ được biết việc này – bà là người Tây Đức và, theo như lời quả quyết của ông, là
kẻ thù không đội trời chung với Đông Đức. Tuy nhiên, ông nhận tiền của chúng tôi để xây
cất một căn nhà dưỡng lão ở Thụy Sĩ. Klavier là m ột thành viên trong ban công tố trong
các vụ xử ở Nuremberg, ông đặc trách về hồ sơ khởi tố trúm sắt thép Friedich Krupp của
Đức, người đã cung cấp nguồn hỗ trợ tài chánh chính cho Hitler lên nắm quyền và sự hỗ
trợ kỹ nghệ của ông thiết yếu cho guồng máy quân sự của Quốc Xã. Động cơ thúc đẩy
Klavier làm việc cho chúng tôi là nỗi lo sợ Tây Đức sẽ lần hồi trở lại chế độ Quốc Xã. Ông
không chấp nhận sự phục hồi dễ dàng của những cựu đảng viên Quốc Xã, vào lúc đó họ
trở về với công việc cũ của họ trong ngành tư pháp, kỹ nghệ và tài chánh.

Nguồn gốc Do Thái của Klavier có ảnh hưởng lớn nhất trên những suy nghĩ chính trị của
ông và ông thu thập một hồ sơ khổng lồ, mà ông trao cho tôi, trong việc khởi tố Krupp
và Adolf Eichmann tại Jerusalem. Chính nhờ qua ông tôi mới ý thức được hành trình của
cha tôi từ khuynh hướng nhân bản chuyển sang cộng sản bị ảnh hưởng mãnh liệt do ý
thức xã hội của một người Đức có nguồn gốc Do Thái. Klavier cũng là b ạn của ký giả uy
thế Walter Lippmann, có những môi liên hệ mặt thiết với gia đình Kennedy. Trư ớc cuộc
họp thượng đỉnh của Tổng Thống Kennedy với Khruschev, Klavier đã cho chúng tôi bi ết
qua những cuộc đối thoại của ông với Lippmann là Kennedy sẽ theo đường hướng cứng
rắn. Chúng tôi chuyển tin này cho Moscow, nhưng tôi không biết việc này có ảnh hưởng
gì đ ến cuộc họp thượng đỉnh không. Sự việc xảy ra là Khruschev hùng hổ với Kennedy
bằng cách tỏ vẻ cứng rắn hơn đối tác Hoa Kỳ.

Tôi đánh giá cao những thông tin của các phóng viên và bình luận gia ngoại quốc vì đ ối
với tôi họ biết rõ vấn đề và ít thiển cận hơn các nhà ngoại giao phương Tây. Trong vòng
hàng chục năm, chúng tôi có gắng kết nạp một số ký giả Hoa Kỳ và Anh để làm nguồn
tin, nhưng chúng tôi thất bại. Những nguồn tin báo chí duy nhất của chúng tôi là Đức, và
nhất thiết là các tờ báo nhỏ. (Trong số các ký giả của Đông Đức chúng tôi, chúng tôi
không thấy đúng đắn kết nạp họ trực tiếp, mặc dù các chủ nhiệm Thông Tấn Xã Đông
Đức và các báo chí của chúng tôi nằm ở ngoại quốc hội họp thông thường với các thành
viên của văn phòng tình báo thư ờng trú hải ngoại tại các tòa Đ ại sứ của chúng tôi). Trái
với đường lối của giám độc cục phản gián, tôi không ngăn cấm phóng viên ngoại quốc đi
lại trong nước. Chính sách trước đây hạch sách họ và tạo khó khăn cho việc đi đứng của
họ đối với tôi là phản tác dụng. Tôi dự đoán tất cả mọi người trong họ có thể là một nhân
viên tình báo và chúng tôi nên chuyển tải những thông tin sai lạc cho họ, cấp cho những
thông tin sốt dẻo và những chi tiết dù gì cũng có l ợi cho chúng tôi hơn là đuổi họ đi với
lòng đầy oán giận.

Việc Đông Đức được quốc tế công nhận trong thập niên 1970 cho phép chúng tôi thu
thập tin tức dễ dàng về châu Mỹ. Cục Nghiên Cứu Châu Mỹ tại Đại Học Humboldt ở Bá
Linh và Ban châu Mỹ của Viện Cao Đẳng Ngoại Giao được thiết lập với sự hỗ trợ của
chúng tôi và các cấp lãnh đạo đều trung thành với chúng tôi. Nhưng chúng tôi kiêng dè
danh tiếng của phản gián Hoa Kỳ và Anh quốc (cơ quan FBI và MI5) và điều nghiên rất
kỹ lưỡng trước khi phát động công tác tại các nước này.

Chúng tôi liệt Anh quốc vào loại Quốc Gia Hạng 2, liên quan đến quyền lợi tình báo của
chúng tôi. Nước Anh do tổng cục đặc trách về Pháp và Thụy Điển lo liệu. Chúng tôi tìm
cách cài đặt nhiều người qua ngả lãnh sự Tây Đức tại Edinburg , vì tại đây thủ tục kiểm
soát lỏng lẻo hơn ở Luân Đôn, nhưng rất ít điệp viên loại này ở lại Anh Quốc bởi vì chính
phủ của chúng tôi có ý muốn giữ mối giao hảo với Luân Đôn, đặc biệt vì ảnh hưởng chính
trị của các siêu cường trên mối liên hệ của chúng tôi với Hoa Kỳ. Một trong những mục
tiêu của chúng tôi là tổ chức Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International). Mielke nghĩ rằng đó
là tổ chức khuynh đảo và mong muốn xâm nhập nó để khám phá những nguồn tin từ
Liên Bang Xô Viết và Đông Âu. Chúng tôi chẳng bao giờ thành công. Một lý do khác để
chúng tôi không dòm ngó nhiều đến Anh Quốc (ngoài việc thu thập tin tình báo thông
thường do tình báo hải ngoại thường trú tại Tòa Đại Sứ Đông Đức tại Luân Đôn) là vì
chúng tôi có nguồn tin khác – tại Bonn. Trong vòng mười năm bắt đầu từ giữa những
thập niên 1970, một cố vấn chính trị tại Bộ Ngoại Giao của Tây Đức, bác sĩ Hagen Blau,
cung cấp cho chúng tôi tất cả tin tình báo của Tây Đức về Anh Quốc và là một trong
những nguồn tin tốt nhất trong Bộ Ngoại Giao Tây Đức. Ông có vợ là người Nhật và nhờ
đó ông cung cấp những thông tin giá trị khi ông làm việc tại Tokyo.

Cho đến đầu những thập niên 1970, chủ thuyết Hallstein đã lèo lái chính sách ngoại giao
của Tây Đức; chính quyền Bonn từ chối công nhận tất cả những nước công nhận Đông
Đức, vì vậy những mối liên hệ chính thức với Hoa Kỳ rất hiểm hoi. Những điệp vụ chính
của chúng tôi trên lãnh thổ Hoa Kỳ chú trọng đến việc mở rộng tầm hiểu biết của chúng
tôi về khoa học và kỹ thuật của họ. Đây là một tiến trình chậm chạp. Cơ quan FBI tỏ ra
hiệu nghiệm, nếu không muốn nói là nặng tay trong cách tiếp cận với những người xứ lạ
đáng nghi, và vì chúng tôi không có tòa đ ại sứ hoặc cơ quan đại diện nào khác nên bất cứ
một công dân Đông Đức nào tìm cách đ ịnh cư tại Hoa Kỳ sẽ tức khắc gây sự chú ý của
FBI. Tôi thiết nghĩ m ột công tác nào trên lãnh thổ của Hoa Kỳ cần phải được bố trí và
thực hiện cẩn thận để bù đắp những rủi ro nâng cao con số những điệp viện trong danh
sách tống xuất trả đũa trong tương lai, m ột nét đặc biệt trong mối liên hệ Đông Tây thời
Chiến Tranh Lạnh.

Chúng tôi thu xếp cài đặt một số nhỏ điệp viên. Họ được cấp căn cước đôi, có nghĩa là lý
lịch của họ nhập vào lý lịch của những người có thực và một vài người đã ch ết, họ lấy tên
của những người này. Điều này giảm thiểu nguy cơ những nạn nhận rơi vào lưới kiểm
soát bất kỳ xuất ý của Hoa Kỳ, tên tuổi của họ không được chính thức xác nhận. Với
phương pháp của chúng tôi, họ hiện diện thực sự - hai người cùng chung một căn cước.
Họ phải được hợp thức hóa ở một nước thứ ba, nơi đây thủ tục kiểm soát không quá khắt
khe. Chúng tôi thường dùng nước Úc, Nam Phi hoặc Châu Mỹ LaTinh để làm việc này. Họ
phải sống ở nước tạm trú này một vài năm trước khi di cư sang Hoa Kỳ để không gây
nghi ngờ và chúng tôi dặn họ không được kết nạp nguồn tin nào hết trong một thời gian
sau đó. Chúng tôi đôi lúc nói đùa với nhau chờ tới khi những người bất hợp pháp này bắt
đầu hoạt động toàn thời, chúng tôi không nhớ họ là ai hoặc tại sao chúng tôi gởi họ đi.

Khuyết điểm lớn của hệ thống này là nó cũng dễ bị phát giác với phương pháp do phản
gián Tây Đức dùng một cách hữu hiệu vào nửa thập niên 1970. Nhiều điệp viên của
chúng tôi ở Hoa Kỳ bị bại lộ vì phương pháp sàn lọc dựa trên một số đặc tính – ví dụ, độc
thân, tuổi trung niên, thay đổi nghề nghiệp ở nhiều quốc gia khác nhau, và tiếp tục như
vậy – khi tổng hợp lại để thu hẹp con số tình nghi trong đám quần chúng. Đây là số phần
của một trong những điệp viên có nhiều triển vọng của chúng tôi, Eberherd Lüttich, bí
danh Brest. Sau khi y bị bắt năm 1979, Lüttich khai báo tất cả những gì anh biết về
những công tác của chúng tôi cho người Mỹ để mong trao đổi một bản án nhẹ hơn. Đây
là một đòn đặc biệt nặng đối với chúng tôi, vì trước khi đưa y định cư ở ngoại quốc,
đương sự đã làm việc trong guồng máy tình báo của Đông Đức, nơi đây ông mang cấp
bậc một sĩ quan cao cấp phụ trách công tác đặc biệt (Offizier in besonderem Einsatz).
Chúng tôi đặt hết kỳ vọng vào đương sự, cài đặt đương sự trước tiên ở Hamburg, ở đây
đương sự được một công ty chuyên dọn nhà quốc tế và sau đó thu xếp thuyên chuyển
đương sự sang Nữu Ước. Nhiệm vụ của Lüttich là giám sát việc quản lý các nguồn tin tình
báo tại Hoa Kỳ trong những trường hợp đặc biệt khó khăn và sự bại lộ đã gần kề. Đương
sự dùng bình phong nghề nghiệp để thông báo cho chúng tôi về những tuyến đường được
quân đội Hoa Kỳ dùng để chuyên chở thiết bị và kết nạp những nguồn tin để thông báo
cho chúng tôi về trang bị vũ khí và những di chuyển của những đoàn quân.

Lüttich bị bắt năm 1979 trong một chiến dịch hỗn hợp của hai chính quyền Hoa Kỳ và
Tây Đức. Đương sự phản bội và tiết lộ danh tính người làm việc tại Tây Đức và địa chỉ
chúng tôi dùng để chuyển chỉ thị từ Đông Bá Linh. Tệ hơn nữa, đương sự mách cho Tây
Đức và gián tiếp qua cho Hoa Kỳ là Đông Bá Linh có thể tiếp vận những điện thư một
chiều cho các điệp viên ở Hoa Kỳ nhờ một máy phát tuyến mới được xây dựng tại Cuba.
Chúng tôi phải mất hàng chục năm làm việc để thiết lập một phát tuyến bén nhậy để làm
việc này và nó đã hỗ trợ mạnh mẽ cho những mối liên lạc toàn cầu của chúng tôi.

Một bất lợi khác của phương pháp xâm nhập này là chúng tôi rất hiếm gởi đi một cặp vợ
chồng, vì việc thu xếp hai căn cước giả đồng hành với nhau là một công việc cực kỳ khó
khăn. Chúng tôi có khuynh hướng gởi những người đàn ông độc thân và sau đó họ nâng
cấp vị thế di cư bằng cách cưới hỏi phụ nữ Hoa Kỳ. Nhưng chiến thuật Romeo rất thành
công tại Tây Đức lại không áp dụng được tại Hoa Kỳ. Trưởng đoàn công tác của tôi ở Hoa
Kỳ giải thích là vào thập niên 1980, phụ nữ Hoa Kỳ quá phóng khoáng để dẫn dụ họ vào
con đường hôn nhân. Ngoài ra hình như h ọ có một thói quen bất tiện là khai thác mặt tốt
của đấng phu quân rất tài hoặc theo quan điểm tình báo khai thác mặt xấu. Trong một
vài trường hợp, người của chúng tôi tiết lộ cho vợ của họ hoặc bạn gái của họ nghề
nghiệp thực sự của minh mà không có phép của chúng tôi. Chúng tôi chỉ chấp nhận giai
đoạn này khi mối liên hệ đã tr ở nên gắn bó theo thời gian và do đó có lý do đ ể tin rằng
người vợ chấp nhận cuộc sống hai mặt của người chồng. Nhưng Hoa Kỳ là một xã hội
chuộng tâm sự, và ước muốn khai hết mọi sự cũng lây lan đ ến hầu hết các điệp viên
chúng tôi cài đặt ở đây. Trong những trường hợp như vậy chúng tôi phải ngưng cộng tác
với họ. Phần lớn ở lại Hoa Kỳ với căn cước giả và tiếp tục cuộc sống công dân bình
thường mà chúng tôi đã dàn x ếp để làm bình phong che dấu những sinh hoạt nay không
còn lý do đ ể duy trì.

Tiếp theo sự bại lộ của Lüttich, tôi quyết định triệu hồi tất các điệp viên ở Hoa Kỳ. Điều
này có nghĩa là hủy bỏ và làm lại từ đầu tất cả công tác tình báo không được điều khiển
từ Tòa Đại Sứ chúng tôi ở Washington và phái đoàn đại diện của chúng tôi tại Liên Hiệp
Quốc. Với lòng buồn phiền, tôi ra lệnh triều hồi những điệp viên đầy hứa hẹn, trong số đó
có một cặp vợ chồng đã ở Hoa Kỳ năm năm và họ làm phụ tá cho các giáo sư chuyên về
nghiên cứu khoa học và công việc giảng dạy tại Đại Học Missouri, và một sĩ quan đ ộc
thân được cài đặt trong tịnh huống giống như Lüttich.

Về phần các đại diện chính thức của chúng tôi, công tác tình báo của họ không có kết
quả mặc dù chi phí rất lớn bởi vì theo kinh nghiệm tôi được biết, các nhà ngoại giao Đông
Âu đã bị FBI giám sát kỹ lưỡng thành ra họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc móc nối
hoặc khai thác một nguồn tin bất ngờ. Mặc dù sự hiện diện tình báo của chúng tôi tương
đối nhỏ, Hoa kỳ đặt chúng tôi ở mức độ nguy hiểm cao và bỏ ra những phương tiện
khổng lồ để giám sát những sinh hoạt của các tòa đại sứ của chúng tôi. Trong suốt thời
gian tôi làm giám đốc tình báo, chúng tôi chưa bao giờ kích hoạt được những nguồn tin
qua ngã này. Các nhân viên thường trú tại Washington và những phái đoàn tại Liên Hiệp
Quốc chú trọng nhiều hơn đến việc bảo vệ các nhà ngoại giao không đề họ sa bẫy vào
những vụ nguy hại đến uy tín của họ, đến việc kiểm soát các cao ốc xem có bị Hoa Kỳ gài
máy nghe lén không, và trong việc hoàn chỉnh những điều kiện an ninh trong những cuộc
đối thoại mật. Các nhà ngoại giao cung cấp thông tin cho cục phản gián của Bộ Công An,
nhưng những thông tin này không tiết lộ những chi tiết ngọan mục về những gì tạo nên
động lực của người Hoa Kỳ.

Nhiều khi các sĩ quan tình báo tại Tòa Đại Sứ Đông Đức tại Washington chuyển một vài
câu phê bình tình cờ nghe lỏm của Tổng Thống Reagan hoặc Bush, một câu nói tầm phào
nhưng gay cấn của các thượng nghị sĩ, hoặc là những nhận định sâu sắc của một kỹ nghệ
gia hàng đầu. Thông thường những điều này một vài ngày sau cũng sẽ xuất hiện trên
báo chí.

Tôi không nghĩ là chúng tôi n ắm vững tình hình để làm thế nào sinh hoạt thành công tại
Hoa Kỳ. Liên Bang Xô Viết, họ đã từng nghiên cứu kỹ lưỡng những nét tâm lý chung của
người Hoa Kỳ, họ hiểu biết về xã hội này rõ hơn chúng tôi. Tuy nhiên, Liên Bang Xô Viết
nghĩ r ằng vị thế tuyến đầu địa lý của chúng tôi tại Châu Âu và sự tiếp cận trực tiếp của
chúng tôi với khu vực Hoa Kỳ tại Bá Linh và Tây Đức tạo cho chúng tôi những lợi điểm
nhất định để xâm nhập Hoa Kỳ. Kể từ những thập niên 1950, KBG kêu gọi chúng tôi cung
cấp tin tức về « kẻ thù chính » cũng như giám sát nh ững mối liên hệ của Hoa Kỳ với Tây
Đức và sinh hoạt của họ tại đây. Mặc dù công tác của chúng tôi ở Hoa Kỳ xem ra phức
tạp và không được hài lòng, chúng tôi có khả năng bù đắp điều này tại Đức nhờ vào một
mâm thịnh soạn những nguồn tin ngay đàng trước ngưỡng của của chúng tôi. Những yếu
tố xã hội trợ giúp chúng tôi dể kết nạp người Hoa Kỳ tại Châu Âu là thái độ phản chiến và
chống định chế cầm quyền vào thập niên 1960, cộng với danh tiếng trong giới trí thức trẻ
của những bài viết của triết gia chính trị Herbert Marcuse, chẳn hạn như bài One-
Dimensional Man (Con Người Nhất Phiến). Con số lớn công dân Hoa Kỳ làm việc với quân
đội Hoa Kỳ tại Đức và các phái đoàn hùng hậu của Hoa Kỳ cung cấp cho chúng tôi môi
trường kết nạp rộng lớn. Hơn thế nữa, chiếu theo hiệp ước của Đồng Minh về quy chế của
Bá Linh, nhiều người trong số này được phép tự do vào Đông ĐỨc, do đó họ không gây
nghi ngờ khi họ qua thăm viếng phía chúng tôi.

Mục tiêu chính của chúng tôi là bộ tư lệnh của quân đội Hoa Kỳ tại Heidelberg. Ở đây
chúng tôi cũng th ấy dễ tiếp xúc với những nguổn tin tiềm năng. Không giống như người
Anh và người Pháp có khuynh hướng giữ kín chức vụ của mình, ngư ời Mỹ thường vui vẻ
làm bạn và không dè dặt nhiều khi nhận lời mời của một người tương đối lạ đến uống
một ly nước, ăn một bữa cơm và tán gẫu về đời sống như một người Mỹ tại Châu Âu.
Chúng tôi khám phá người Mỹ có khuynh hướng ham mê thích làm giàu nhanh chóng một
cách trái quy ước. Liên Bang Xô Viết, có kinh nghiệm hơn chúng tôi nhiều, vẫn nghĩ rắng
quyền lợi vật chất, như họ nói, thường là lý do thúc đẩy người Hoa Kỳ giúp một chính
quyền ngoại quốc, ngay cả lúc ban đầu họ có nhiều tiền. Chúng tôi để ý mỗi lần các sĩ
quan Hoa Kỳ tìm cách nhử mồi người Đông Đức để hợp tác với CIA, một trong những
bước đầu là đề nghị một số tiền lớn, trong khi đó chúng tôi tiếp tục dùng ý thức hệ hoặc
đôi khi dùng động cơ trả thù để kết nạp. Chỉ khi nào việc này không thành, hoặc ngay từ
lúc đầu đối tượng kết nạp không có tiền chúng tôi đề nghị đưa tiền.

Có nhiều đề nghị mà chúng tôi gọi là « biến thái thương mại » đạt kết quả tốt qua trung
giang một người môi giới Thổ Nhĩ Kỳ tên là Hussein Yildrim. Anh này là thợ sửa động cơ
xe tại một căn cứ quân đội Hoa Kỳ. Công tác của Yildrim tạo những cơ hội lý tưởng để
nghe được những mẩu đối thoại của các chuyên viên kỹ thuật. Anh hiểu biết sâu sắc về
lợi tức của thiên hạ và có thể đoán qua những lúc nói chuyện về những chiếc xe họ ước
mơ nhân viên nào không hài lòng với lợi tức của mình và có thể tìm cách gia tăng lợi tức
bằng cách bán những thông tin mật. Anh giới thiệu cho chúng tôi nhiều nguồn tin tiềm
tàng trong quân đội Hoa Kỳ.

Không có đầu mối liên lạc nào quan trọng hoặc hữu ích hơn Chuyên Viên James Hall, một
người Mỹ làm việc trong ngành điệp vụ điện tử của cơ quan an ninh National Security
Agency. Cơ quan thông tin và liên lạc này quá bí mật nên các viên chức Hoa kỳ được lệnh
không hề nghe biết đến cơ quan này, và các nhân viên trong ngành thường đùa cợt với
những chữ tắt NSA có nghĩa là « không có cơ quan nào mang tên này » (« no such
agency »). Xâm nhập được vào đây là một đòn ngoạn mục. Yildrim chọn Hall vì thấy Hall
phản ứng tức tối giá đồng khi đô la mất giá gây ảnh hưởng đến lối sống của y và gởi gắm
chúng tôi nên tiếp cận với y.

Hall đồn trú tại Teufelsberg, mà chúng tôi biết qua danh hiệu Tai Lớn (Big Ear) của Hoa
Kỳ. Được xây trên ngọn đồi bị tàn phá thời chiến tranh ở Tây Bá Linh – do đó đồi này có
tên là « ngọn núi quỷ » - một môi trường các chuyên viên cho là đặc biệt thuận lợi để
tiếp nhận những tín hiệu điện tử từ trường, Đài Từ Trường Bá Linh, một danh hiệu trung
hòa, là một trung tâm kiểm soát điện tử của Hoa Kỳ tại châu Âu, một hệ thống lớn chằng
chịt những trang bị những máy móc điện tử tinh vi nghe lén với những chi nhánh đặt rải
rác dọc theo biên giới Đông và Tây Đức. Cơ quan này dùng một ngàn ba trăm chuyên
viên kỹ thuật có kỹ năng cao để chặn bắt những điện thư vô tuyến và điện thoại, rồi sau
đó nghiên cứu và lượng định giá, sau đó chuyển cho giới chức Hoa Kỳ và NATO những
thông tin giá trị hàm chứa trong đó. Công tác này vượt hẳn tất cả những gì khối Hiệp Ước
Warsaw đã th ực hiện, vì vậy đối với Liên Bang Xô Viết phương cách hay nhất là đánh phá
vòng kiểm soát này bằng cách đơn giản là tìm hiểu càng nhiều càng tốt về nó và tìm
cách tránh né nó.

Trước khi Hall được kết nạp, chúng tôi không biết nhiều về số lượng âm thanh trạm đài
này có thể thu thập, hoặc là do từ đâu ra. Chúng tôi được biết một ít về cấu trúc cơ bản
do một số nguồn tin ở Teufelsberg, nhân viên tại đây làm việc cho Nhóm thứ 6912 An
Ninh Điện Tử của Hoa Kỳ và Đội Pháp Tuyến thứ 26 của quân đội Anh. Chúng tôi biết
Teufelsberg là một trung tâm tiếp thu đường dây liên lạc điện thọai của Đảng Cộng Sản
nước CHDCĐ, lưu lượng trao đổi vô tuyến và điện thoại của không lực Đông Đức, và
những liên lạc của Bộ Công An. Chúng tôi cũng khám phá quá tr ễ là Hoa Kỳ đã tìm cách
giải mã những tín hiệu vô tuyến trong đó báo cáo thường nhật về chính sách nội bộ và
đối ngoại được chuyển tải đến Trung Ương Đảng.

Günter Mittag, người phụ trách về chính sách kinh tế của nước CHDCĐ, dùng những
đường dây liên lạc có kiểm soát này để thông tin liên hệ với các văn phòng trung ương
kinh tế và tài chánh, vì vậy ông đã b ỏ những hình ảnh thương nhật mới mẻ về nền kinh
tế của chúng tôi vào trong rọ của người Mỹ. Chính quyền Tây Đức yêu cầu không ngừng
để có được những thông tin này, nhưng luôn bị từ chối bởi vì người Mỹ không tin là họ có
đủ khả năng giữ kín những tin tình báo giá trị này ngoài tầm tay của chúng tôi. Tôi nghĩ
đây là một quyết định sáng suốt - mặc dù nếu chính quyền Tây Đức có được những báo
cáo của Mittag và kiểm chứng chúng với những hiểu biết của họ về trao đổi thương mại
giữa hai nước Đức, tôi nghi ngờ họ có khả năng sớm đi đến kết luận Đông Đức đã ngã quị
về mặt kinh tế.

Nhưng với sự hiện diện của Hall, chúng tôi nhận đều đặn một loạt những tài liệu mật và
tối mật về cách vận hành của trạm Teufefsberg. Hall và Yildrim, cả hai đều mạnh mẽ
thèm khát tài chánh. Klaus Heichner, phụ tá giám đốc Cục 9 của tình báo hải ngoại HVA,
trách nhiệm về việc lượng định những thông tin do Hall cung cấp. Đôi khi Eichner báo cáo
trực tiếp với tôi và tôi đánh giá cao giác quan và lối suy nghĩ có phương pháp c ủa ông.
Ông nói: « Chúng ta đào đúng mỏ vàng rồi. Bao lâu nguồn tin này cẩn mật, điều này có
thể tiếp diễn lâu dài ». Trong năm năm Hall làm gián điệp cho chúng tôi, chúng tôi trả
lương cho đương sự vượt lên trên gấp hai lần tiền lương y lãnh của quân đội – tổng cộng
là $100.000 Mỹ kim và, trong một giai đoạn đặc biệt hoạt động tích cực, có đến $30.000
mỹ kim trong một năm. Đây là một số tiền lớn so với tiểu chuẩn của chúng tôi, nhưng
không đáng là bao so với giá trị của những thông tin này đối với chính quyền của chúng
tôi và Moscow. Trong thời gian này Hall được thăng chức giám sát viên trong ban điều
nghiên tình báo đi ện tử, và chất lượng thông tin đương sự cung cấp cũng gia tăng theo.
Sau khi trở về Hoa Kỳ để bổ túc huấn nghệ năm 1985, Hall được phái đến sư đoàn quân
báo của Sư Đoàn 5 tại Frankfurt, cuối cùng được thăng chức giám đốc chiến tranh điện tử
và công tác tình báo pháp tuyến.

Tại Frankfurt, Hall gặp gỡ Yildrim tại siêu thị quân đội PX và trong lúc mua hàng trao một
gói plastic chứa tài liệu đánh cắp. Yildrim sau đó lại xe một mình về phòng Hall đã thuê ở
trong thành phố và sao chép lại tài liệu. Và rồi anh người Thổ lái xe trở về Bá Linh và Hall
đem trả tài liệu về nơi cũ. Đ ể kiếm tiền nhiều hơn, Hall bắt đầu cung cấp thêm nhiều
thông tin, đến độ, trên thực tế, những chuyên viên điều nghiên của chúng tôi than phiền
là họ không theo kịp. Vì lý do này, tôi đ ề nghị là vật liệu nên chuyển sang cho phía Xô
Viết, vì ngoài những chi tiết liên quan đến quyền lợi của Đông Đức, còn có những thông
tin có tính cách chiến lược, có thể được Moscow khai thác hữu ích hơn – mặc dù chúng tôi
chưa bao giờ tiết lộ nguồn tin của chúng tôi cho họ hoặc thực chất của công tác chúng
tôi.

Chúng tôi cũng đưa nh ững tài liệu này cho giám đốc Cục Tình Báo Pháp Tuyến và Phản
Gián thuộc Bộ Công An để họ nghiên cứu, vì các chi tiết kỹ thuật vượt lên trên khả năng
hiểu biết của các chuyên viên thông thường của chúng tôi. Báo cáo sau này của ông ghi
nhận một điểm nổi bật mà ngành tình báo cho đ ến nay không hề biết đến nhưng lại có
tầm quan trọng sinh tử cho kế hoạch quân sự. Báo cáo cho biết hệ thống chiến lược điện
tử ELOKA (Elektronische Kampfführung) cung cấp cho Hoa Kỳ và các đồng minh NATO
những tin tức chính xác về nơi chốn của những trung tâm biệt kích của Khối Hiệp Ước
Warsaw và những di chuyển quân sự từ Đông Đức sang Liên Bang Xô Viết. Nói một cách
khác, mặc dù các tướng lãnh của khối Warsaw có cố gắng ngụy trang những di chuyển
quân đội và vũ khí, m ọi thay đổi quan trọng đều được quân báo Hoa Kỳ ở Teufelsberg ghi
nhận tức khắc và thông báo cho Washington hoặc Brussels.

Trong số những tài liệu quan trọng nhất chúng tôi nhận được từ Hall là Danh Sách Phối
Hợp Tình Báo Pháp Tuyến (National Sigint Requirements List), một tập tài liệu bốn ngàn
trang mô tả phương cách dùng tình báo pháp tuy ến (« sigint » = signals intelligence) để
khỏa lấp sự ngăn cách giữa tình báo quân sự và chính trị. Từ tập tài liệu này chúng tôi có
được những thông tin hữu ích về những mặt nào CIA và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ cảm thấy
thiếu sót. Đây là một tài liệu vô cùng giá trị vì chúng tôi có thể phỏng đoán nơi nào họ
gia tăng sinh hoạt và từ đó chúng tôi có những biện pháp phản công thích hợp. Một
thành công nổi bật khác là chúng tôi có được bản báo cáo mang bí hiệu Canopy Wing,
trong đó liệt kê những loại chiến thuật điện tử được đem ra áp dụng để vô hiệu hóa các
bộ tư lệnh của Liên Bang Xô Viết và khối Hiệp Ước Warsaw trong trường hợp xảy ra chiến
tranh toàn diện. Nó chỉ dẫn trong chi tiết phương pháp để ngăn chặn những liên lạc vô
tuyến cao tầng mà Bộ Tư Lệnh Tối Cao Xô Viết dùng để ra chỉ thị cho quân đội của mình.
Một khi chúng tôi chuyển tin này cho quân đội Xô Viết, họ có thể trang bị những dụng cụ
thay tần số vô tuyến và những biện pháp phản công khác.

Số lượng tài liệu do Hall cung cấp quá to lớn nên chúng tôi đề nghị đương sự nên giảm
bớt lại để không bị nghi ngờ. Một gói của đương sự chứa tới mười ba tập tài liệu toàn bộ
gồm có những chỉ thị và những kế hoạch hành động của NSA và Bộ Tư Lệnh Tình Báo và
An Ninh (Intelligence and Security Command) và trong đó có những chi tiết kế hoạch
phát triển tình báo pháp tuyến của Hoa Kỳ cho mười năm tới. Đương sự cũng cung cấp
những thông tin mật về chương trình chiến tranh tinh tú mà Ronald Reagan ấp ủ để ngăn
ngừa tên lửa. Cơ quan phản gián của quân đội Hoa Kỳ, mà chúng tôi thấy đáng sợ tại
Hoa Kỳ, lại không làm ra trò trống gì tại Teufelsberg. Khi Hall trở về Hoa Kỳ, đương sự
vẫn giữ liên lạc với chúng tôi. Nhưng không may, lòng tham c ủa y đưa y vào bẫy vì muốn
gia tăng gấp đôi lợi tức bất hợp của mình bằng cách bán những tài liệu tương tự cho Xô
Viết, hành động này đã gây nên s ự chú ý của FBI. Đương sự bị bắt vào tháng 12 năm
1988 cùng với Yildrim sau khi họ tham dự một cuộc họp tại một khách sạn ở Savannah,
tiểu bang Georgia, với một nhân viên FBI cải trang lả một sĩ quan tình báo Xô Vi ết. Bản
cáo trạng về những hoạt động của Hall đọc trước tòa án xác định những tài liệu do y
đánh cắp giúp cho cơ quan chúng tôi phá hỏng công tác theo dõi của Hoa Kỳ trên lãnh
thổ của Đông Âu trong vòng sáu năm. Hall nh ận hết mười tội trong khi làm gián điệp và
bị kết án bốn mươi năm tù ở. Yildrim, tên đỡ đầu Mephistopheles quỷ quyệt của y, cũng
bị truy tố về tội gián điệp.
Những tin tức chúng tôi biết được về điệp vụ điện tử của Hoa Kỳ do James Carnay – bí
danh Kid - cung cấp cũng có tầm quan trọng thiết yếu. Carnay là một trung sĩ không
quân và là một người giỏi ngôn ngữ, chuyên viên về thông tin liên lạc, phục vụ trại phi
trường Tempelhof ở Tây Bá Linh, dùng làm căn cứ không quân của Hoa Kỳ. Tự bộ tư lệnh
NSA tại Fort Meade tại tiểu bang Maryland có một đường dây liên lạc trực tiếp với các cơ
sở châu Âu tại Frankfurt và thẳng đến Bá Linh – Teufelsberg. Thông tin của Carney cho
chúng tôi biết phương cách hệ thống liên lạc này có khả năng chỉ định đích xác một chục
yếu điểm của khối Hiệp Ước Warsaw trong vòng vài phút khi chiến tránh bùng nổ. Một
vài khả năng của hệ thống này xem ra rất kỳ diệu đối với tôi nên tôi cho mời một chuyên
viên để lượng định và giải thích chúng theo ngôn ngữ bình thường. Ví dụ, có một đội tại
Tây Bá Linh theo dõi căn c ứ không quân của Xô Viết tại Eberswalde, cách Đông Đức hai
mươi tám dặm về phía Đông Bắc. Tài liệu do Carney cung cấp cho thấy Hoa Kỳ đã tìm
cách xâm nhập hệ thống liên lạc không - bộ của căn cứ này và đang tìm phương cách đ ể
ngăn chặn chỉ thị trước khi đến tai của những phi công Nga và thay vào đó lệnh từ Tây
Đức. Nếu việc này thành công, những phi công MiG sẽ nhận lệnh từ kẻ thù Hoa Kỳ. Điều
này xem giống như chuyện khoa học giả tưởng, nhưng theo sự đánh giá của các chuyên
viên của chúng tôi, điều này có cơ xảy ra nếu họ muốn giở trỏ này, vì họ chi phí khổng lồ
và dùng sức mạnh kỹ thuật của không quân Hoa kỳ cho việc nghiên cứu này.

Nhược điểm của Carney trong vai trò của một điệp viên là tình trạng tâm lý của y, vốn dĩ
yếu kém. Đương sự là một người đồng tính luyến ái và mắc bệnh hoang tưởng truy khắc,
và đời sống cá nhân của y có thể làm y mất uy tín trong quân đội, vì trong quân đội đồng
tính luyến ái bị ngăn cấm. Năm 1984, sau khi trở về Hoa Kỳ, anh xin tị nạn ở Đông Đức,
nói rằng người ta đã tìm thấy xác người yêu làm việc chung ngành tuyền tin với anh chết
trong bồn tắm, đầu bị chùm bao plastic và đây là công tác điệp báo mờ ám để tìm bắt
anh. Chúng tôi lo ngại anh sắp sửa khai báo sự thật, và mặc dù chúng tôi không biết có
nên tin hay không chuyện trong bồn tắm, chúng tôi sợ đương sự đang bị theo dõi và rất
có thể bị bắt nếu đương sự tìm cách trốn khỏi Hoa Kỳ. Làm thế nào để bốc đương sự ra
khỏi tình thế hiểm nghèo này? Chúng tôi quyết định dùng một chiến thuật liều lĩnh mà
chúng tôi chỉ dùng trong những trường hợp khẩn cấp nhưng luôn luôn thành công: chúng
tôi cấp giấy tờ căn cước Cuba giả mạo để đưa anh ra khỏi Hoa Kỳ sang Havana. Và từ đó
chúng tôi cấp chuyến máy bay cho đương sự bay qua Moscow để đến Ba Linh.

Một khi đương sự ở lại với chúng tôi, một công việc năng nhọc khác là làm cho đương sự
cảm thấy thoải mái tối đa. Điều này không dễ, vì nhịp sống kém nhộn nhịp tại Đông Đức
và sự khan hiếm tương đối về sản phẩm tiêu thụ và thú ăn chơi. Những chúng tôi rất lo
ngại và ngăn ngừa đương sự rời vào tình trạng khủng hoảng tâm thần và chay sang tòa
đại sứ Hoa Kỳ để khai hết mọi chuyện. Carney được giao một công việc theo dõi những
điện thư pháp tuyến Anh ngữ của ác tòa đại sứ Anh Quốc và Hoa Kỳ và các học viện tại
Tây Bá Linh và ghi lại trên giấy những chi tiết đáng lưu ý cho chúng tôi. Đây không phải
là một công tác tình báo có chất lượng cao – tôi không cảm thấy đương sự có tâm trí ổn
định hoặc đáng tính cậy để làm công tác tình báo cao cấp – nhưng ít ra đương sự còn giữ
được mối liên hệ với đất nước của đương sự.

Năm 1989, khi ngày tàn của Đông Đức gần kề, sĩ quan điều khiển đương sự và trưởng
ban tình báo ở khu vực Hoa Kỳ phải quyết định nhanh để giải quyết tình trạng của đương
sự. Họ đề nghị cho anh định cư ở Nam Phi với sự đài thọ của Bộ Công An nhưng đương sự
không đồng ý. Đương s ự cũng không thích cu ốn gói sang Moscow. Chúng tôi không còn
đường nào khác là cung cấp cho anh một căn phòng và m ột số vốn để sinh sống tại Suhl,
ở phía Nam Đông Đức, nơi đây anh ít bị lô hơn. Đầu năm 1990, Carney biến mất khỏi
Suhl. Một vài sĩ quan c ủa chúng tôi nghĩ r ằng đương sự đã b ị CIA bắt cóc. Nhưng đúng ra
họ thấy y cô đơn và chán trường, họ tìm cách thuyết phục đương sự trở về quê nhà. Nếu
các người săn lùng đương sự hứa khoan hông cho đương sự, họ đã không gi ữ lời hứa.
Cuối năm đó Carney bị tòa án Hoa Kỳ kết án ba mươi tám năm tù.

Trong trường hợp của cả Hall và Carney, điều chắc chắn là họ đã phản bội đất nước của
họ để phục vụ cho Đông Đức. Nhưng một trường hớp khác không rõ rệt như vậy, đó là
tường hợp của Jeffrey Schevitz, người Mỹ cuối cùng bị xử án vì tội làm gián điệp cho
Đông Đức. Nhưng không ai rõ đương s ự làm gián điệp cho ai, hoặc cho chính xác hơn,
anh do thám ai để có thêm lợi nhuận. Schevitz đến Tây Bá Linh để hoạt động phản chiến
năm 1976 và chuyển thông tin cho chúng tôi từ Viện Đại Học Tự Do John F. Kennedy
(JFK Free University Institute for American Studies) trong thời gian làm nghiên cứu sinh
tại Hội Nghiên Cứu Chính Sách Ngoại Giao tại Bonn và sau này, từ một trung tâm nghiên
cứu hạt nhân tại Karlsruhe, tại đây đương sự làm việc từ 1980 cho đến 1994. Schevitz
chuyển tin tức liên quan đến những cố gắng của Tây Đức để làm suy yếu chính sách
không bành trướng của Hoa Kỳ và về những quy tắc của COCOM (Coordinating
Committee for East-West Trade Policy = Ủy Ban Phối Hợp Chính Sách Thương Mại Đông
Tây) bao trùm việc xuất khẩu những kỹ thuật công nghệ cao. Chính Schevitz công nhận
đương sự có được những tin tức này là nhờ mối liên hệ với cựu giám đốc tình báo trong
Phủ Thủ Tướng của Helmut Kohl. Nhưng Schevitz cũng khai cán bộ điều khiển Hoa Kỳ của
đương sự là Shepard Stone, giám đóc của Viện Aspen tại Bá Linh, một nơi gặp gỡ của
những chính trị gia và trí thức hàng đầu, và những ký giả của Đông và Tây Đức, và
đương sự làm gián điệp nhị trùng cho Hoa Kỳ ngày từ lúc bắt đầu. Schevitz khẳng định
Stone đã hứa với y sẽ thừa nhận những mối liên hệ của y trong trường hợp y bị bắt,
nhưng Stone chết năm 1990 mà không để lại một tài liệu nào nói đến Schevitz. Tòa án
bác bỏ lời giải thích này nhưng một cách lạ lùng chỉ tuyên án đương sự có mười tám
tháng tù treo.

Tôi không biết rõ hết nội vụ chuyện này. Cơ quan của tôi biết Sherpard Stone dính líu với
CIA, nhưng không phải như kiểu Schevitz khai báo. Chúng tôi đoan chắc những mẩu đối
thoại tại Aspen được thường xuyên thâu thanh và chuyển cho CIA. Nhưng về mối liên hệ
giữa Shepard và Schevitz, chúng tôi không có bằng chứng nào cả.

Song song và phụ trợ cho những điệp vụ thời Chiến Tranh Lạnh chống lại Hoa Kỳ, chúng
tôi chú trọng đến kế hoạch chiến lược của NATO. Tôi đã trình bày công tác của cô
Margarete, nguồn tin tại SHAPE (Supreme Headquarters Allied Powers Europe = Bộ Tổng
Tham Mưu Tối Cao Quân Lực Đồng Minh Châu Âu) trong thập niên 1960. Chúng tôi cũng
may mắn kết nạp và lưu giữ trong vòng mười bảy năm một điệp viên giá trị hơn nhiều,
đó là một viên chức NATO người Đức tên Rainer Rupp, được sự trợ giúp của bà vợ người
Anh tên Anne-Christine, họ chuyển giao một vài bí mật quan trọng nhất của NATO cho
Đông Đức.

Rupp đúng là con người của thập niên 1960. Hàng ngàn thanh niên Tây Đức đã giận dữ
xuống đường năm 1967 phản đối quyết định của Thủ Tướng Kurt-Georg Kiesinger và Phó
Thủ Tướng Willy Brandt tiếp đón trọng thể Quốc Vương Iran, thể chế phản dân chủ của
vương quốc được củng cố do chính sách khủng bố của cảnh sát mật vụ. Những cuộc biểu
tình chống cuộc viếng thăm của vị Shah sanh ra bạo động, và trong lúc hỗn độn, Benno
Ohnesorg, một sinh viên thuộc Cộng Đoàn Sinh Viên Cơ Đốc Giáo, bị bắn chết. Sáu chục
người bị bắt và phong trào sinh viên trỗi dạy. Rupp, đang là sinh viên học kinh tế tại
Düsseldorf, gia nhập phong trào phản kháng toàn quốc kế tiếp. Trong một lần xuống
đường anh đi bên cạnh một người lớn tuổi và người này mời anh sau đó đi uống bia và ăn
một bát goulash, và nói chuyện chính trị. Người đàn ông tự xưng là Kurt chia sẻ ưu tư
của Rupp là chủ thuyết cấp tiến cực hữu đang lên. Hai người bạn biểu tình kêu thêm bia
và nói chuyện về thái độ đạo đức giả của nước Tây Đức dân chủ khi tiếp đón những kẻ
sát nhân như quốc vương Shah với sự trang trọng và danh dự, tất cả chỉ vì dầu hỏa của
Iran.

Bất thình lình Kurt lái câu chuyện ra khỏi cuộc biểu tình. Kurt nói với Rupp « Đôi khi một
người có thể đáng giá hơn cả một đạo binh». Đây là một toan tính táo bạo và nhanh
nhẹn để kết nạp Rupp, và đã thành công.

Rupp nhận ra người đối tác uống rượu là người Đông Đức – nhưng tôi không dám quyết
đoán là đương sự có nhận ra được Kurt là một điệp viên sinh hoạt tại Bonn vào lúc đó.
Anh sinh viên hai mươi hai tuổi, thù địch với trật tự của thế giới quanh mình, chấp nhận
tức khắc gặp gỡ Kurt tại Đông Bá Linh. Hai sĩ quan khác gặp gỡ Rupp và vui mừng vì
những tài năng tiềm ẩn của đương sự. Anh nói Anh ngữ và Pháp ngữ và thương số thông
minh vượt trội và nắm vững tình hình kinh tế chính trị. Một trong những sĩ quan đ ề nghị
một công việc tại NATO, bấy giờ đặt trụ sợ tại Brussels. Rupp chưa có dự tính gì cho sự
nghiệp tương lai khi anh tốt nghiệp, và anh đồng ý. Anh rời Đại Học Düsseldorf và ghi tên
tại Brussels vào lúc cá nguyệt cuối để có thể dễ dàng đăng ký công vi ệc tại đây. Anh đậu
cao và sau khi tốt nghiệp anh nhận chức vụ chuyên viên nghiên cứu tại Viện Kinh Tế Ứng
Dụng. Và từ đó anh dễ dàng chuyển sang làm việc với NATO, viết những bài nghiên cứu
về ảnh hưởng của công nghệ vũ khí lên trên kinh tế quốc gia. Rupp chuyển tất cả những
tài liệu này và nhận xét của anh về công việc và phong cách làm việc trong nội bộ của Bộ
Tổng Tham Mưu NATO qua những trạm tiếp liên cho chúng tôi tại Đông Bá Linh. Chúng
tôi đặt cho anh bí danh là Topaz. Vợ của anh, anh lập gia đình trong khi làm vi ệc tại
NATO là người chất phác và vui tính; cô ta không hề để ý đến sự kiện là họ đang hưởng
tuần trăng mật trên lãnh thổ của Đông Đức.

Sau khi lập gia đình, Rainer được thăng chức trong NATO và chẳng bao lâu cung cấp cho
chúng tôi những tin tức về khả năng quốc phòng của tất cả các nước thành viên của
NATO. Cho đến năm 1977, Anne Christine, lúc bấy giờ đã hiểu được nội dung của những
chuyến đi bí mật của chồng minh sang Amsterdam đề gặp cán bộ điều khiển và việc chụp
hình những tài liệu trong căn buồng nhỏ, tích cực giúp chồng. Cô đã đ ổi việc và sang làm
ở NICSMA (Nato Integrated Systems Management Agency), Cơ Quan Quản lý Hệ Thống
Hội Hợp của NATO), nơi đây cô cũng lén chuy ển thông tin ra ngoài. Cô ngưng hoạt động
điệp vụ sau khi sanh con. Rainer Rupp tiếp tục cho đến năm 1989, không hề suy xuyển
trong sự dấn thấn để cung cấp những tài liệu tinh tế của NATO ví dụ như quyển Crisis
Handbook (Cẩm nang giải quyết khủng hoảng), tài liệu ba trăm trang Armed Forces Plan
(Kế Hoạch của Quân Đội), và quyển Final Document on Preventive Measures (Tài Liệu
Đúc Kết về những Biện Pháp Phòng Ngừa), và vào đầu thập niên 1980, những chi tiết về
ý định đánh phủ đầu của liên minh. Nhưng giá trị chính của Rupp nằm ở nhận thức bén
nhậy trong những trang báo cáo và khả năng tổng kết và chuyển đạt cái mà chúng tôi
gọi ngôn từ khó hiểu của NATO thành những từ ngữ dễ hiếu cho mọi người – ngôn ngữ
mờ ảo của những từ viết tắt của môi trường làm việc của tổ chức này. Vladimir
Kryuchkov, giám đốc của KGB, rất khâm phục những tài liệu do Rupp viết và muốn xem
ngay cả bản thảo tiếng Anh để đương sự có thể tự hào đã đ ọc đúng những gì các tư ớng
NATO đã đ ọc.

Tôi đã ư ớc vọng rằng quyển sách này sẽ được viết ra nhưng không lồng trong đó chuyện
của Rupp – mong rằng việc làm của ông cho chúng tôi không bị lộ. Nhưng những gì đã
từng được chúng tôi giấu rất kín nay đã đư ợc phơi bày trên bàn mổ xác của một hệ thống
đã quá vãng. Tuy nhiên tôi tin rằng sẽ không còn điệp viên tầm cỡ nào bị tiết lộ nữa vì hệ
quả của cuộc phơi bày những công tác của tình báo hải ngoại Đông Đức. Khi nước Cộng
Hòa Dân Chủ Đức sụp đổ, tôi không thấy lý do gì đ ể Rupp có thể bại lộ. Vị trí của ông
trong lòng của NATO tại Brussels đã tạo cho ông một nới an toàn, tôi nghĩ như v ậy, hơn
là các điệp viên ở trong nước Đức. Tôi tin tưởng mặc dù có mối nghi ngờ một điệp viên
nằm vùng trong NATO, không ai có thể đoán được danh tính thật của y. Nhưng rồi bí
danh của ông bị Heinz Busch, một chuyên viên điều nghiên quân báo trong cơ quan của
tôi, đã phản bội và tiết lộ. Busch chuyển tin cho cơ quan phản gián Đức BND năm 1990.
Busch biết bí danh này, nhưng không rõ tên tuổi thực của Rupp. Năm 1994, Rupp bị kết
án mười hai năm tù và bị phát 300.000 Đức Mã vì tội tiết lộ bí mật, theo quyết định của
tòa án, có thể gây nên những hậu quả tai hại trong trường hợp xảy ra chiến tranh. Tôi
không đồng ý với lời lên án này. Tôi nghĩ quyết định của Rupp chia sẻ những bí mật của
NATO cho chúng tôi đóng góp cho xu hướng hòa hoãn. Không có Rupp, chúng tôi không
biết nhiều về NATO và sợ họ hơn.

Giống như những người khác, tôi xem việc kết án Rupp là một hành vi rõ ràng bất hợp
pháp. Nguyên tắc của luật pháp quốc tế và hiến pháp của nước Đức bảo đảm quyền bình
đẳng của công dân đối với pháp luật. Làm thế nào sau khi hai nước đã thống nhất được
công pháp quốc tế công nhận, lại có chuyện gián điệp của một nước không bị trừng phạt,
ngay cả được đền bồi trong trường hợp bị giam cầm, trong khi đó những ai làm việc cho
quốc gia kia bị kết án tù dài hạn và bị phạt một số tiền nặng nề? Đối với một số gián điệp
Chiến Tranh Lạnh đã chấm dứt, những đối với một số khác nó vẫn tiếp tục.
Chương 15
Cuba
Tôi chẳng bao giờ dám một mình tự ý quyết định đi sang Hoa Kỳ, nhưng tình cờ xui khiến
cuộc tiếp xúc đầu tiên của tôi với lục địa này xảy ra tại New York, một thành phố tôi chỉ
biết qua thơ văn của Brecht, qua âm nhạc của Kurt Weill, và qua những phim kẻ cướp
trong đó Peter Lorre thủ vai. Năm đó là năm 1965. Bốn năm đã qua t ừ khi Batista, kẻ
độc tài trị vì Cuba, đã b ị hạ bệ, và theo lời mời của Cuba, tôi lấy máy bay sang Havana
để cố vấn cho chính quyền Fidel Castro thành lập một cơ quan tình báo hữu hiệu. Sau
này, Cuba cùng với Tiệp Khắc (Czechoslovakia) nhập vào liên đoàn ưu tú của những nước
xã hội chủ nghĩa có kỹ năng về tình báo, nhưng trở lại thời này họ chỉ là những tay mới
bắt đầu chập chững. Tôi được lệnh cố vấn về mọi vấn đề từ những nguyên tắc sơ khởi
công tác ngụy trang cho đến việc thiết lập hệ thống giải mã và cài mã an toàn. Cuba
được giải phóng gần đây và điều này cho tôi nhiều hưng thú đối vì đây là một hòn đảo
nhỏ bẻ trôi dạt trên biển cả của tư bản chủ nghĩa. Con đường bình thường đi từ Đông Bá
Linh đến Havana phải đi qua Prague với những lần quá giang tại Scotland hoặc Canada.
Tuy nhiên trong trường hợp của tôi, Mielke cương quyết không cho tôi đậu trên lãnh thổ
của một quốc gia thành viên NATO. Ông nghiêm trọng nói: « Không ai có thể ngờ được
những gì họ biết về anh và chuyện gì sẽ xảy ra nếu có chuyện không may». Thay vào đó,
tôi phải bay qua Moscow và chuyển sang chuyến bay thường không quá giang trực tiếp
đến Havana.

Tôi đi cùng với hai sĩ quan đáp xuống Moscow vào ngày 6 tháng Giêng năm 1965, đúng
vào mùa rét căm căm. Nhiệt độ đã tụt xuống dưới không độ Farenheit, và chúng tôi rét
run khi chúng tôi hối hả bước trên phi trường Sheremyetevo để bước lên những chiếc xe
ca đưa chúng tôi đến nói chuyện với Vladimir V. Semichastny (15/1/1924 – 12/1/2001),

Vladimir V. Semichastny

giám đốc KGB và Alexandr Sakharovsky, trưởng ban tình báo hải ngoại. Họ chỉ dẫn cho
chúng tôi về những mối liên lạc của họ với Bộ Nội Vụ Cuba và thông tin cho chúng tôi về
những con số và những sinh hoạt của các sĩ quan liên l ạc KGB đã có mặt sẵn tại đây.

máy bay phản lực AN-124

Tối hôm đó chúng tôi lại lên đường bước lên chiếc máy bay phản lực AN-124, một phi cơ
chuyên chở to lớn nhất của đội hàng không Xô-Viết Aeroflot. Cô chiêu đãi viên Maria,
chắc chắn là một nhân viên của KGB, nuông chiều phái đoàn nhỏ bé của chúng tôi. Phần
lớn các hành khác là sĩ quan h ải quan hoặc chuyên viên quân sự Xô Viết du hành với gia
đình đến trụ sở làm việc mới ở nơi chân trời xa xôi của thế giới Cộng Sản. Chúng tôi nằm
trong một bầu không khí đi tiên phong khai khẩn. Hai người khách lạ khác là người Trung
Hoa, xem ra là những liên lạc viên ngoại giao. Họ ngồi đối diện trực tiếp với chúng tôi,
tay họ nắm chặt lấy quai sách của cái cặp da, làm như họ sợ chúng tôi nhảy chồm vồ lấy
và đánh cắp hành lý ngoại giao của nước Cộng Hòa Nhân Dân Đ ức. Phiá sau chiếc máy
bay hoàn toàn trống rỗng. Các ghế ngồi đã đư ợc dỡ đi để cho máy bay nhẹ đi, và để bảo
đảm, như chúng tôi được thông báo để cho chúng tôi an tâm, là nhiên liệu còn đầy đủ
đến địa điểm đắp, cách đó khoảng tám ngàn dặm.

Chúng tôi bay thâu đêm và khi mặt trời mọc chúng tôi thoáng nhìn thấy bờ biển Canada
qua cửa sổ. Vài giờ nữa trôi qua và theo dự tính của tôi, chúng tôi đang tiến gần đến
Cuba. Chiếc máy bay đã t ừ từ hạ thấp. Tôi đang cao râu để chuẩn bị cuộc tiếp đón tại
Havana nhưng tôi để ý thấy mặt trời không nằm ở phía dự đoán. Tôi trở về chỗ ngồi vì
náo động không khí làm cho phi cơ rung lắc đáng sợ, và sau đó thình lình đâm nhào
xuống. Thật là khó chịu không có ai thông báo có một việc bất thường đã xảy ra, và tôi
thấy biển đang tiến về phía chúng tôi. Tôi chỉ có một vài giây chợt nghĩ đây là cảm giác
khi phi cơ rớt xuống, nhưng tiếp đó tôi lại biết phi cơ chúng tôi đang nhảy trên phi đạo và
tiếng bánh xe thắng kêu rít lên. Đầu nóng bưng, tôi dí mắt nhìn qua cửa sổ và thấy một
bảng tiếp đón ghi những hàng chữ: « Chào mừng quý khách đến Phi Trường John F.
Kennedy ».

Chúng tôi ngồi im lặng và sững sờ, đầu óc quay cuồng nghĩ ngợi cùng một câu hỏi hiển
nhiên. Chuyện gì đã xảy ra? Phi cơ hết xăng? Có tại nạn gần kề? Anh phi công Xô Viết
thình lình quyết định tương lai của anh nằm ở Thế Giới Tự Do? Tôi đặc biệt tự hỏi chúng
tôi, những người phái viên của cơ quan tình báo khối Đông Âu trên đường đi đến người
bạn đồng minh duy nhất ở phía bên kia thế giới đầy bất trắc, bây giờ làm gì đây, nay đã
bị xô đẩy vào Hoa Kỳ, ngay trong lòng của kẻ địch.

Trong lúc động cơ máy bay gầm lên để rồi ngưng chạy, một đoàn xe cảnh sát chạy đến
để bao vây chiếc phi cơ. Còi hụ. Anh bạn bên cạnh tôi văng tục: « Cục cứt ». Chúng tôi
gồng mình chờ đợi cảnh sát đổ xô lên phi cơ. Nhưng không có gì xảy ra cả. Trong hàng
tiếng đồng hồ, chúng tôi ngồi chờ trong chiếc phi cơ trên phi đạo chờ đợi, lòng bồn chồn
và nôn nóng duyệt những kịch bản có thể xảy đến. Không có một kịch bản nào đem đến
sự yên tâm. Cả ba chúng tôi trong phái đoàn đều có thông hành ngoại giao của nước
Cộng Hòa Dân Chủ Đức nhưng Đông Đức chưa được Hoa Kỳ hoặc Liên Hiệp Quốc công
nhận. Tôi mang theo trên người một tài liệu nhỏ trong đó cho biết rõ nghề nghiệp thật
của chúng tôi. Tôi lặng lẽ cất giấu nó dưới tấm nệm trải trên chiếc xe lăn trẻ con, nhờ
Aeroflot hạn chế hành lý, nằm cạnh bên tôi trên lối đi.

Có lẽ bây giờ các nhiếp ảnh gia và ký giả đã bao vây phi cơ. Tôi đ ể ý thấy có một người
gắn trên mũ nỉ giấy thông hành ký giả của tờ The Front Page. Họ đang kèo nài các nhân
viên an ninh Hoa Kỳ cho họ lên phi cơ. Tôi nguyện thầm mong các nhân viên an ninh sẽ
từ chối, lo sợ phản ứng ngược ở Đông Bá Linh khi hình c ủa tôi - Tây phương vẫn chưa
biết rõ hình ảnh của tôi – được trưng bày cho mọi người thấy, và ngay trên trang đầu của
tờ New York Times, không hơn không kém. Đây là lần đầu tiên, sau này tôi mới biết, từ
khi xảy ra khủng hoảng Cuba năm 1962, một chiếc máy bay Xô Viết hạ cánh hoặc một
chiếc tàu cập trên lãnh thổ của Hoa Kỳ. Sự xuất hiện thình lình của phi cơ chúng tôi đã
gây náo động. Qua cửa sổ, tôi thấy các nhiếp ảnh gia yêu câu chúng tôi vẫy tay. Tôi kéo
màn chắn xuống. Sự hiện diện của báo chí khiến cho chúng tôi lấy lại tinh thần khôi hài,
người bạn đồng hành tốt nhất trong những trạng huống như vậy. Chúng tôi bắt đầu nhái
những câu trả lời giả định của Mielke khi đương sự khám phá giám đốc tình báo hải ngoại
và hai sĩ quan tình báo cao c ấp của ông, trong tay đầy áp những thông tin và chi tiết kỹ
thuật để trợ giúp cho kẻ thù của Hoa Kỳ nằm ngoài biển khơi cách đó chín mươi dặm,
đang bị kẹt trên sân bay của phi trường JFK. Chúng tôi mường tượng những gì ông sẽ nói
với Moscow: « Các đồng chí, tôi gởi gắm họ vào tay các đồng chí để các đồng chí đảm
bảo sự an toàn tuyệt đối công tác của họ. Bây giờ tôi được biết họ không những phải
đương đầu với kẻ thù, họ được giao ngay vào tay của địch ».

Đàng sau những nhà chứa máy bay tôi thấy xa lộ rộn ràng xe cộ ban mai. Đầu óc của tôi
suy nghĩ miên man đ ến những giả thuyết chưa hề được khai thác. Tình hình sẽ như thế
nào nếu tôi là một hành khách bình thường ? Có thể nào tôi thản nhiên tản bộ đến cổng
Nơi Đến, trình thẻ thông hành ngoại giao và ví dụ gọi điện thoại cho George Fischer?
Hoặc Leonard Mins, một người Cộng Sản khác sống tha hương đã từng là ban bè thân
thiết với bố mẹ tôi trong những ngày sinh sống đang sau khu phố Arbat? Ông là đường
giây qua đó cha tôi liên lạc với chúng tôi khi ông bị giam giữ ở Pháp. Một anh em cùng
cha khác mẹ với tôi tên Lukas, một tác phẩm của cha tôi từ lần cưới đầu tiên, có lẽ đang
sống đâu đó gần New York, nếu tôi nhớ không lầm. Tôi cảm thấy tự do lạ lùng. Đây là
những giây phút hiếm hoi và thoáng qua trong cuộc sống bình thường nhưng lại được trải
nghiệm qua những trạng huống ép buộc vì sự trộn lẫn giữa lịch sử, định mệnh con người
và những điều tôi thâm tín.

Thực tế đã mau chóng chiếm ngự suy nghĩ. Tôi rà soát nh ững hệ quả tình báo tiềm tàng
về sự có mặt bất ngờ của tôi trên lãnh thổ Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có thể tố cáo tôi điều gì nếu
họ nhận diện ra tôi? Chỉ cần giam giữ tôi hoặc đem tôi ra xét xử tại đây? Vào lúc đó
chúng tôi đang trong tiến trình huấn luyện những điệp viên xuất sắc để xâm nhập Hoa Kỳ
với những căn cước giả. May mắn thay, chưa có một ai được cài đặt trên đất Mỹ bởi vì
chương trình xâm nhập đã bị gián đoạn vì đã xảy ra việc nhân viên trong một ban của
tình báo hải ngoại HVA đào thoát, ban này phụ trách về những sinh hoạt của những cơ
chế Hoa Kỳ trong phần kiểm soát phiá Tây của Bá Linh. Một trong những người bị bắt liền
theo cuộc đào thoát này là một thông dịch viên trong phái bộ quân sự của Hoa Kỳ tại Bá
Linh, đã cung cấp cho chúng tôi những tin tức mật về chính sách của Washington đối với
hai bên nước Đức chia đôi. Chúng phát xuất từ những bản tốc ký ghi chép lại trong
những cuộc viếng thăm của bà Leonor Lansing Dulles, em gái của John Foster Dulles và
là một viên chức cao cấp của Bộ Ngoại Giao Hoa kỳ đặc trách về chính sách ở Bá Linh. Vì
đã trao cho chúng tôi toàn bộ tài liệu về quan điểm của người phụ nữ hoạt bát này, người
cung cấp tin tức này đã bi kết án khá nặng vì tội phản bội. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tôi bị
bắt và bị nhận diện là viên chức phụ trách về công tác này?

Dòng suy nghĩ miên man c ủa bị gián đoạn vì cái thúc của một bạn đồng nghiệp. Anh ấy
chỉ về phía hai ông Tàu ngồi đối diện chúng tôi. Hai liên lạc viên ngoại giao đã mở sách
tay và đang nhai ngấu nghiên mớ tài liệu trong đó. Chúng tôi cảm kích lòng tận tụy của
họ với công tác. Nhai và nuốt là những vũ khí suy nh ất họ có để chống trả lại kẻ thù giai
cấp. Nhưng bó hồ sơ khá dày và họ không có nước để giúp họ tiêu thụ món ăn không
ngọn miệng này. Chúng tôi có nên, nhân danh quốc tế vô sản, giúp họ không ? Chúng tôi
bàn thảo ngắn gọn với nhau và quyết định với lòng thoải mái việc làm này có thể là một
sự can thiệp không xác đáng vào nội tình của Trung Quốc với những hậu quả không thể
lường trước cho bang giao giữa hai nước.
Bây giờ nhiệt độ trong máy bay đã h ạ xuống. Luồng thông khí duy nhất là do không khí
mát lạnh được đưa từ bên ngoài vào. Hàn thời biểu đã h ạ dưới mức độ đông lạnh. Vì ăn
mặc theo khí hậu nhiệt đới của Cuba nên hành khách phát run. Một vài tiếng đồng hồ
nhẫn nhục trôi qua trước khi ông lãnh sự Xô Viết cuối cùng xuất hiện với những bình
nước trà nóng. Ông không cho chúng tôi biết gì nhiều hơn: «Moscow đang thương thuyết
với Washington », ông lập lại. Ông giải thích chúng tôi phải hạ cánh bởi vì phi cơ không
còn nhiên liệu. Tiếp theo cuộc khủng hoảng tên lửa tại Cuba xảy ra năm 1961, tất cả
những hiệp ước cho phép phi cơ của khối Xô Viết hạ cánh và tiếp tế nhiên liệu đê bay
sang Cuba đều bị đình ch ỉ, chiếu theo chương trình ch ế tài Fidel Castro. Tổng cộng phải
mất mười tám tiếng đồng hồ trước khi cô chiêu đãi KGB xin đ ẹp nói nhỏ với tôi là
Washington sẽ để cho phi cơ lấy nhiện liệu và lên đường, mặc dù đã có hai sĩ qua n của
Air France bước lên máy bay để quan sát, và chắc chắn họ được lệnh quan sát kỹ những
hành khách.

Tôi định thông báo tin vui này cho các ông Trung Hoa nhưng chỉ làm cho họ hoảng hốt
thêm. Bây giờ, khả năng tiêu thụ của họ đã c ạn kiệt và họ bắt đầu thay phiên nhau vào
nhà vệ sinh để trút bớt bội thực trong việc tiêu hủy tài liệu. Trước khi họ đóng cửa tôi
thấy một trong hai người đứng trước bồn rửa mặt, lấy xà bông cứng Xô Viết chà sát lên
tờ giất tơ trên đó có lẽ ghi những mệnh lệnh mật đã đư ợc mã hóa. Có lẽ đây là mật lệnh
cho các nhóm du kích Mỹ Châu La Tinh, nhiều nhóm nhận lệnh trực tiếp từ Chủ Tịch Mao.
Bằng bất cứ giá nào, những mệnh lệnh này chỉ đến tai người nhận qua lời nói. Cứ độ năm
phút nhà vệ sinh lại có tiếng nước tháo ồn ào trổi lên. Chúng tôi cất cánh trở lại vào lúc
nửa đêm. Đây là lần đầu tiên tôi ở trên lục địa Bắc Mỹ Châu. Tôi chẳng thấy gì nhiều
ngoài chân trời khêu gợi của New York và xa lộ bên cạnh phi trường.

Trời vẫn còn tối khi chúng tôi cuối cùng thấy những dấu hiệu khích lệ chào mừng chúng
tôi tại Phi trường José Marti ở Havana. Tuy nhiên, câu chuyện phiêu lưu vẫn chưa chấm
dứt. Chính quyền Cuba không được thông báo về sự hiện diện của hai sĩ quan Hoa K ỳ
trên máy bay và rồi lại có một thời gian chờ đợi lâu dài để chờ quyết định cho phép một
người nào đó của chúng tôi rời phi cơ hay là đưa tất cả chúng tôi trở ngược về lại
Moscow. Đây là những thú vị của chuyến bay quốc tế vào thời buổi Chiến Tranh Lạnh.

Cuối cùng, các sĩ quan an ninh của Cuba thu xếp bốc phái đoàn chúng tôi ra. Phần còn lại
hành khách phải chờ đợi. Chúng tôi lướt nhanh trong màn đêm tren một chiếc Buick rộng
rãi. Tôi thích thú với những chiếc xe hơi cũ Hoa K ỳ, được lái một cách thư thái trên những
con đường lót đá của thủ đô. Anh tài xế Enrico đưa chúng tôi đến một biệt thự trắng rộng
rãi và chúng tôi được Umberto, người anh nuôi tương lai của chúng tôi với quần áo bộ
màu đen chỉnh tề, áo sơ mi trắng và cà vạt, báo cho biết nhà này thuộc quyền sở hữu
của một tỉ phú trước khi Cách Mạng đến. « Trước khi Các Mạng đến » là một câu chúng
tôi nghe hàng chục lần trong ngày và luôn luôn tương phản với lợi ích đi cùng với sự lãnh
đạo xã hội chủ nghĩa của Castro. Đến từ một nước có một thể chế cộng sản do Hồng
Quân áp đặt tiếp nối theo sự thất trận của Quốc Xã, tôi cảm thấy một niềm tự hào ấm áp
và hãnh diện đối với những người này vì họ đã nắm vận mệnh của họ trong tay và làm
cuộc cách mạng do chính sức lực của họ. Umberto giới thiệu anh tài xế Enrico là tay thiện
xạ giỏi nhất Cuba. Chúng tôi không phải lo lắng về vấn đề an ninh trên hòn đảo này,
Umberto nghiêm nghị nói.

Mặc dù chúng tôi mệt lả người, chúng tôi không thể nào cưỡng lại ham muốn đánh một
vòng quanh vư ờn. Không khí ban đêm có sự tĩnh m ịch khó tả khiến cho tôi thích thú.
Chúng tôi kinh ngạc trước sự sung túc của cây cỏ, màu nhung đen của bầu trời và tiếng
ve sầu thánh thót bên tai. Anh bạn trẻ nhất trông đội chúng tôi nói « Hay tưởng tượng
chủ nghĩa xã h ội, chủ nghĩa xã h ội đich thực ở một nơi như vậy!». Đây là hình ảnh gần
gũi nhất anh có thể mường tượng thiên đàng trên trần gian. Tôi không đến nỗi quá
choáng váng, nhưng vẫn cảm thấy phấn chấn với ý nghĩ hòn đ ảo đẹp đẽ và đã có l ần bị
đàn áp này đã tranh đ ấu để tìm đường giải phóng cho chính mình.

Một ngày sau khi chúng tôi đến, cũng như t ất cả những vị khách viên chức, chúng tôi
được dẫn đến thăm viếng tượng đài của José Marti, cha đẻ của chủ nghĩa quốc gia Cuba
và cũng đư ợc dắt đi xem những chiến hạm của Hoa Kỳ neo ngoài bờ biển, một hình ảnh
mãnh liệt nhắc nhở quốc gia luôn nắm dưới tầm quan sát của kẻ địch. Cuộc nổi dạy
chống chế độ Batista vẫn còn hàng ngày nằm trong ký ức, những vết đạn trên tường vẫn
còn nguyên vẹn. Không giống như những buổi tiếp tân tôi thường phải chịu đựng tại
Moscow và các nước xã hội chủ nghĩa khác, ngư ời Cuba có một phương cách lạ lùng đưa
người khách lạ vào kinh nghiệm sống của họ. Chúng tôi nhận lệnh mặc quân phục và đi
đến Bãi Colorado tại tỉnh Oriente, nơi Castro và tám mươi hai người tùy tùng đổ bộ năm
1956, tại Granma sau khi họ đi ngang qua Mexico để bắt đầu cuộc chiến đấu giải phóng
Cuba. Chúng tôi thăm viếng Vịnh Con Heo (Bay of Pigs) và họ hãnh diện chỉ cho chúng
tôi xác vặn vẹo của chiếc phi cơ ném bom Hoa Kỳ B-52.

Ở đây tôi không cần nhắc lại sự kém cỏi của những chiến dịch của CIA tại Cuba. Chỉ có
một điều là chúng tôi rất kinh ngạc một tổ chức có được những chuyên viên nghiên cứu
chiến lược hàng đầu của phương Tây lại có thể làm nên một trò hỗn độn trong việc can
thiệp như họ đã làm trong việc tổ chức xâm nhập tồi tệ của kiều bào Cuba. Lên tiếng dạy
đời chẳng có gì là hay ho cả, nhưng khi ký giả Hoa Kỳ hỏi tôi với giọng điệu lên án về
những mối liên lạc của cơ quan chúng tôi với những kẻ khủng bố trong chiến tranh giải
phóng, tôi không thể nào không đặt ngược lại câu hỏi là những chiến dịch phá hoại và đốt
phá Cuba với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ có phản ảnh đúng quan điểm của một xã hội dân sự
không.

Đối tác tình báo của tôi ở Cuba là Manuel Pineiro. Anh phát xuất từ nhóm các ông râu
xòm, những người có râu quai nón đã sông sốt thời trường chinh của Castro qua dãy núi
Sierra Maestra và những cuộc chiến ác liệt trên núi trước khi chiếm lĩnh Havana. Raul
Castro, người em trai của Fidel và người thứ nhì trong bộ chính trị, và Ramiro Valdez, lúc
đó là Bộ trưởng Nội vụ, họ có ý định xây dựng một cơ quan an ninh có thể cung cấp cho
họ đúng thời đúng lúc và chính xác những báo động về ý định của Hoa Kỳ đối với hòn
đảo. Valdez cũng như ph ần lớn cấp lãnh đạo Cuba làm cho tôi phải ngạc nhiên khi thấy
họ sút kém trong vài trò nguyên thủ quốc gia hơn là trong vai trò một anh chàng phiêu
lưu hoạt động lúc nào cũng sẵn sàng ra tay hành động. Trong cuộc hành trình của chúng
tôi, ông ra lệnh cho tài xế và người hộ vệ ngồi ở phía sau chiếc xe Cadillac và mời tôi lên
ngồi phía trước, và ông lái xe lến đến tốc độ một trăm dặm một giờ. Tôi giả vờ sợ hại và
la lên: «Patria o muerte », một khẩu hiệu cách mạng « Tổ quốc hay là chết ». Ông khoái
trá với lối kịch câm này và lái nhanh hơn nữa cho đến khi tôi sợ thực sự. Đam mê của
ông là bóng chày (baseball) và ép chúng tôi phải đi xem đội bóng của ông chơi. Khi đội
của ông không làm vừa lòng ông, anh nhảy sổ vào trong sân, đuổi anh chàng mà ông cho
là dở nhất ra ngoài, chiếm chỗ của đương sự cho đến hết chiều hôm đó.

Valdez chú trọng đến việc thu thập và điều nghiên những thông tin chính trị và quân sự.
Nhưng, tôi cảm thấy rất khó xử, ông trong đợi quá nhiều về trợ giúp kỹ thuật chúng tôi
có thể cung cấp. Trên bàn văn phòng của ông chất đống những sách vay mượn của Tây
phương ghi mục lục những kiểu mẫu mới nhất những thiết bị nghe lén và điều khiển vô
tuyến điện từ xa, những micrô có thể thu tiếng nói ngoài trời trên một khoảng cách lớn
hoặc thu thanh những đối thoại xuyên qua tường, những máy nhận tuyến và phát tuyến
tiểu vi, những vũ khí tí hon và cũ k ỹ không sử dụng được nhưng được ưa chuộng, chẳng
hạn như những cây viết phun nọc độc và những con dao dấu dưới gót giày. Đây là một
quan điểm ấu trĩ v ề công tác tình báo, một kho vũ khí xuất phát từ óc tưởng tượng của
ông và không có giá trị nhiều để quyết định những hành động của một kẻ địch hùng
mạnh có kỹ thuật luôn vượt trội những gì Cuba có thể sản xuất. Tôi có gắng giải thích
một nước nhỏ phải tìm một phương thức khác để thắng cuộc chiến tình báo và trong mọi
trường hợp Liên Bang Xô Viết chứ không phải nước CHDCĐ là người phụ trách cung cấp
cho Havana những kỹ thuật chuyên biệt. Cuộc đối thoại của chúng tôi đi vào vòng luẩn
quẩn và ông càng lúc càng lộ thất vọng vì ông vốn xem tôi là anh chào hàng thiết bị gián
điệp.

Vai trò của các cố vấn Xô Viết được giữ hoàn toàn bí mật trong những năm đầu. Valdez
không bao giờ đề cập đến họ và tỏ ra bối rối khi tôi đề nghị ông nên hỏi họ để có trợ giúp
về vật liệu. Không giống người Đông Đức có thói quen mời các nhân viên tình báo Xô Viết
tham dự những buổi lễ xã hội quần chúng và nhấn mạnh khía cạnh hợp tác, người Cuba
để cho ra rìa, có lẽ để củng cố hậu thuẫn của quần chúng cho Castro và cho họ thấy
Castro điều hành mọi việc. Người Cuba muốn giữ chuyện này thật sự bí mật nên khi tôi
muốn gặp một người của KGB tôi biết được tên ở Moscow, họ cố hết sức ngăn cản tôi.
Cuối cùng tôi phải lắc cái đuôi theo dõi tôi b ằng cách đánh lạc hướng sự chú ý của y và
bất thình lình không cho y nhìn thấy để tôi tự tìm đư ờng đến Tòa Đại Sứ Xô Viết. Mãi sau
này mối quan hệ mới bớt căng thẳng. Một lý do khác khiến người Cuba xa lánh người Xô
Viết là sự bất tín nhiềm do vấn đề khủng hoảng tên lửa tại Cuba gây nên. Valdez than
phiền về quyết định của Krushchev tháo gỡ tên lửa hạt nhân ra khỏi Cuba nằm trong
thoả hiệp để giải quyết khủng hoảng. Ông nói: « Khi sự việc xảy đến, các cường quốc chỉ
nhìn đến quyền lợi của mình. Chúng ta những nước nhỏ phải gắn bó với nhau».

Đảng Cộng Sản Cuba vẫn còn trong thời kỳ phôi thai, vì vậy những rạn nứt chính trị còn
tồn đọng không thể nào che dấu được. Đi khắp hòn đảo, tôi nhận biết vẫn còn rất nhiều
tâm tư phiền lòng dai dẳng đối với Castro và nhóm râu xồm của ông trong hàng ngũ
đảng Cộng Sản nguyên thủy và các phong trào công nhân. Phái Cộng Sản kỳ cựu có
khuynh hướng bất tín nhiệm việc sùng bái cá nhân Castro và cảm thấy ông cần nhiều sự
hỗ trợ hơn nữa và một hạ tầng cơ sở xã hội rộng rãi hơn nhóm bộ trưởng hiện nay. Khi
tôi trở về Havana và gặp lại Ramiro Valdez hoặc Raoul Castro, tôi thấy rõ ngay tức khắc
nội dung những cuộc đối thoại của tôi ở các tỉnh đã đư ợc hồi báo cho họ. Đây là một cảm
giác thú vị đối với một tay trùm gián điệp đã bỏ hết cuộc đời mình để thu thập và nghiên
cứu những báo cáo như vầy về kẻ khác. Nhưng người Cuba rất thẳng thắn và không thấy
xâu hổ vì việc làm này nên việc than phiền xem ra nhỏ mọn. Có một lúc Valdez nói thẳng
khi đề cập đến một câu hỏi tôi đặt lúc ở vùng ngoại ô về vấn để ổn định nội bộ và kiên
kết trong chính quyền Castro, ông trả lời với tất cả mọi chi tiết.

Tôi không tài nào cưỡng lại việc dùng sự luôn nghe ngóng của các bạn chúng tôi để chơi
một trò tinh nghịch với họ. Một buổi tối khuya khoắt tôi trở về biệt thự thấy những đồng
nghiệp đang chờ tôi với một bó hoa và một chai vodka mà họ đã đánh c ắp khi thông quá
Moscow. Họ nhớ đến ngày sinh nhật của tôi, điều tôi quên bãng vì lòng nôn nóng lên
đường. Dù sao tôi không có ý định ép buộc người Cuba phải làm một buổi lễ sinh nhật
rình rang, lẽ cố nhiên sẽ có những bài diễn văn dài lê thê về sức khỏe và hạnh phúc của
tôi. Vì vậy chúng tôi uống một vài hớp vodka với nhau và đi ngủ. Ngày hôm sau,
Umberto đã cho ngư ời điều tra và nhất quyết muốn biết về nguyên nhân của cuộc ăn
mừng đêm đó. Với vẻ trịnh trọng tôi nói là chúng tôi đã thành công phóng m ột phi
thuyền Sputnik đầu tiên của Đông Đức. Lẽ đương nhiên chỉ có một Sputnik mà thôi, và
chiếc này đã đư ợc Liên Bang Xô Viết phóng lên không gian cách đó vài năm. Nhưng
Umberto tin toàn bộ chuyện này, kêu thêm một chai rượu và vài ly uống, và bắt đầu nói
dài dòng văn t ự về dự án không gian của Đông Đức và nó đánh dấu – không rõ bằng
cách nào – một bước tiến lớn trong mối bang giao Cuba và Đông Đức.

Nhưng có một vấn đề khác khiến cho ông thực sự ngạc nhiên: Làm thế nào tôi có thể
nhận được những tin sốt dẻo này mà ông lại không biết? Tôi bắt ông thề giữ tuyệt đối kín
chuyện này, tôi nói với ông là tin tức của việc phóng vệ tinh Sputnik đến với chúng tôi
qua một máy vô tuyến truyền tin tiểu ly, nhỏ đến độ có thể bỏ vào trong túi và đủ mạnh
để nhận những tín hiệu từ Đông Bá Linh. Tôi đặt tên cho thiết bị tưởng tượng này là
« Gogofon » và nói cho anh chàng dễ tin Umberto biết vật này là bí mật quốc gia hàng
đầu, và tôi có cái máy duy nhất trên thế giới và hiện này nó vẫn nằm trong giai đoạn thử
nghiệm. Umberto thề với mạng sống mình sẽ không nói cho ai biết hết.

Anh ta cố gắng giữ lời hứa thề mình của mình trong suốt một ngày trời. Đêm hôm sau,
trong một bữa cơm do ông bộ trưởng nội vụ thết đãi, chúng tôi b ị tứ phía dồn dập hỏi về
tin tức bên nhà ở Đông Bá Linh. Tôi trả lời chúng tôi hầu như mất liên lạc với xứ sở tại
Cuba. Có một sự im lặng nặng nề và sau đó Thượng Úy Pineiro bật miệng hỏi: « Còn cái
Gogofon ra sao rồi? ». Tôi phải thú nhận với mọi người là chúng tôi đùa với với anh nuôi
của chúng tôi, và sau đó Umberto được mệnh danh là Gogofon.

Những mối liên hệ của tôi với Pineiro mỗi lúc một sâu đậm hơn với ngày tháng. Mặc dù
lúc ban đầu có vẻ tài tử, cơ quan tình báo Cuba phát triển nhanh chóng và tốt đẹp. Mối
quan hệ ban đầu với sự lãnh đạo của Castro có nghĩa là tôi đôi lúc có thể dùng hòn đảo
để cất giấu người. Để đáp ứng trở lại, tôi cung cấp cho Pineiro những dụng cụ nghe lén,
giải mã và những dụng cụ đặc biệt về nhiếp ảnh mà ông muốn. Sau khi Salvador Allende
bị ám sát tại Chile năm 1973 và chiến dịch khủng bố đanh phá cánh Tả dưới sự lãnh đạo
của Tướng Augusto Pinochet, chúng tôi có thể dùng Cuba làm con đường đào thoát cho
những người tị nạn Chile. Con gái của Erich Honecker lấy chồng người Chile, vì vậy Đông
Đức cố gắng giúp đối lập nơi đây. Honecker tỏ ý muốn Đông Đức giúp về mặt nhân đạo
cho những ai túng thiếu. Giúp Chile và các nước Châu Mỹ La-tinh, nơi đây cánh Tả bị
quân đội và những chính quyền cực hữu thanh lọc, là một việc giới thanh niên ở Đông Âu
tán đồng. Không phải là một điều quá đáng khi nói rằng những công tác trong những
thập niên 1970 đã củng cố sức mạnh của Đông Đức bằng cách bôi phết một lớp sơn uy
tín cho quốc gia bị vây hãm.

Pineiro cũng kể cho tôi nghe những mẩu đối thoại cuối cùng với Che Guevara người
Argentina trước khi người hùng đơn độc của nhóm du kích rút lui ra khỏi Cuba, thất vọng
cay đắng vì quyết định của Xô Viết kết thúc cuộc khủng hoảng Cuba bằng cách thu hồi
phi tiễn về nước. « Che nghĩ rằng ông có thể tái lập mô thức Cuba bất cứ ở đâu và bớt
gánh nặng cho chúng tôi ». Pineiro nói: « Nhưng trường hợp của Cuba là độc nhất, và tôi
nghĩ rằng chúng tôi đều biết điều này trước khi ông lên đường».

Khi Guevara bị giết tại Bolivia năm 1967, một cô thiếu nữ người Đức tên Tamara Bunke,
cùng chết với ông. Cha mẹ của cô đã di cư từ Đức sang Argentina khi cô còn bé. Cô là
thông dịch viên tháp tùng phái đoàn thanh niên Đông Đức tại Havana và cô ở lại đây
không giấy phép, cô yêu Che và đi theo ông trên con đường kháng chiến cuối cùng. Sự
phối hợp giữa tình tứ lãng mạn và tinh thần cách mạng đã biến cô trở thành thần tượng
được thiếu niên Đông Đức ái mộ.
Tamara Bunke (bí danh Tania)

Sau khi cô chết, phụ tá của tôi nhắc nhở cho tôi biết đã có một gặp gỡ lâu ngày đã quên
khi chúng tôi đến Havana lần đầu. Đương sự đã d ừng lại để nói một vài câu với một thiếu
nữ trẻ đẹp mặc quân phục đứng ở cửa ra vào của Bộ Nội Vụ Cuba. Đó là cô Tamara. Sau
đó không bao lâu cô biệt tích với Che. Tôi đoán chừng vào thời điểm tôi đến Cuba, Pineiro
đang giúp họ chuẩn bị lên đường đi Bolivia, nhưng tên tuổi của Che Guevara không hề
được đề cập tới khi tôi tới Havana. Người Cuba đã tuân thủ nguyên tắc đầu tiên và quan
trọng nhất cho một công tác tình báo thành côn : Không ai được biết điều gì ngoài những
gì đương sự cần biết.

Fidel Castro và Che Guevara

Trái ngược với Pineiro và Valdez, tôi nhận thấy Raul Castro điềm tĩnh, có t rình đ ộ hơn hẳn
hai người này và là một nhân vật chính trị có tầm vóc. Không giống với các đồng nghiệp
đầy cảm tính, ông có một viễn kiến chiến lược sáng suốt về tình thế của Cuba. Tôi chưa
bao giờ nghe ông đề cập ít nhiều gì đến sự thất vọng đối với Liên Bang Xô Viết. Ông là
người duy nhất tại đây đến đùng giờ hẹn, một đặc tính hiếm có của người Cuba. Các bạn
ông chế diễu ông về sự đúng hẹn và đặt biệt hiệu ông là người Phổ. Ông bận bịu nghiên
cứu lý thuyết Mác và chủ thuyết quân sự trong lúc ông lưu vong ở Mexico và hớn hở trình
bày cho khách đến viếng thăm biết là mặc dù khoảng cách địa lý giữa Cuba và Liên Bang
Xô Viết cùng Đông Âu, ông rất thành thạo về những bàn luận ý thức hệ của chủ nghĩa
cộng sản và về kỹ thuật quân sự.

Năm 198, từ Cuba tôi đến thăm viếng Managua, Nicaragua do lời mời của bộ trưởng bộ
nội vụ Thomas Borge. Chúng tôi ăn mừng kỷ niệm sáu năm Cách Mạng Sandinista và tôi
rất ấn tượng về phương cách dân Nicaragua đã phối hợp thần học giải phóng, chủ thuyết
nhân đạo và lý thuyết Mác để thành một phương án chính trị kiên kết của chính phủ. Tôi
luôn bị khích động do năng lực cách mạng của người Cuba và Nicaragua, họ đã hy sinh
rất nhiều để thay đổi xứ sở của họ. Không hề có - ít nhất vào thời đó – những lời than
phiền và khiển trách kẻ khác về những bất hạnh mà tôi vẫn thường nghe ở bên nhà. Tôi
ganh tị với những quốc gia đã tự mình làm lấy cuộc cách mạng, và trong thâm tâm tôi
biết các nước Đông Âu sẽ luôn oán hận việc chiếm đóng hậu chiến của Xô Viết, đã bu ộc
họ phải chấp nhận những chính quyền xã hội chủ nghĩa.

Những viếng thăm đáp lễ của Cuba tại Bá Linh luôn luôn gây lo âu cho chúng tôi về mặt
an ninh. Fidel Castro thích du lịch ngoại quốc và vì gánh nặng trách nhiềm ở trong nước
mỗi lúc một tăng, ông cảm thấy thoải mái khi ông viếng thăm các nước bạn xa xứ sở. Lẽ
tất nhiên thoải mái đối với người Cuba dũng cảm có phần khác với phương thức người
Bắc cứng cỏi chúng tôi quan niệm. Đội phụ trách về an ninh cá nhân của Castro và phái
đoàn trong lúc họ viếng thăm phải tái mặt khi nhớ lại những đêm dài họ ca hát và nhảy
múa, và người Cuba có khuynh hướng làm thân với người hoàn toàn lạ - thông thường là
những thiếu nữ Cuba xinh xắn đến Đông Bá Linh để học – và mời họ về nơi trú ngụ để
vui chơi. Tôi nghe nói Fidel, ấm ức vì những nỗ lực của các anh nuôi buộc ông phải lên
giường sớm, đã trèo ra kh ỏi phòng và tuột ống máng xối để gia nhập những nhóm liên
hoan đâu đó. Sau sự việc này, chúng tôi phải tìm phương cách tốt nhất để giải trí những
vị khách của chúng tôi một cách hoàn hảo hơn. Có người đã nghĩ m ời mọc các cô trong
đoàn vũ balê của đài truyên hình nhà nước để ve vãn và nhảy múa với khách Cuba thâu
đêm đề cho tránh cho bị phiền hạ. Gác những bất tiện sang một bên, mỗi khi tôi nghe
đến sức thèm khát sống của người Cuba, tôi trạnh nghĩ đến cuộc sống của chúng tôi xem
ra buồn tẻ hơn, chỉ biết miệt mài với hai nguyên tắc chuyên cần của người Đức bổn phận
và công khó.

Chúng tôi cộng tác với Nicaragua ít hơn nhiều so với Cuba. Người Cuba than phiền với
chúng tôi rất nhiều về sự kiện Managua lộ tin như máy sàng. Trong những ngày đầu sau
cách mạng ở Nicaragua, việc tham gia trong hàng ngũ chiến đấu vũ trang đư ợc xem là
một chứng điểm trung thành. Việc sàng lọc kém kỹ lưỡng trong cơ quan an ninh là một lý
do giúp nhóm phản cách mạng do Hoa Kỳ đỡ đầu phát triển mạnh. Chúng tôi cố gắng tìm
đối tác tại đây trong hàng ngũ những người đáng tin cậy nhất của cơ quan an ninh. Có lẽ
vì tự hiểu rõ danh tiếng bế bối của mình, họ nhất quyết giữ bí mật trong lúc thương thảo
với chúng tôi và nhất định đòi họp mặt với chúng tôi ngoài trời chứ không ở trong bộ tư
lệnh của Bộ Nội Vụ.

Đóng góp chính của chúng tôi cho an ninh của Nicaragua là huấn luyện nhân viên an ninh
cho tổng thống và các bộ trưởng. Điều này đã gần như thành thủ công gia đình của Bộ
Công An Đông Đức. Danh tiếng của chúng tôi về tổ chức an ninh cá nhân rất cao nên các
nước ở châu Mỹ La tinh và Châu Phi thay phiên nhau mời những chuyên viên của chúng
tôi huấn luyện cận vệ cho họ. Chúng tôi thông thường vui vẻ đáp ứng, lòng cảm thấy nhẹ
nhõm vì đã tìm đư ợc phương cách giúp các bạn đồng minh đang cần trợ giúp mà không
bị lôi cuốn vào những công tác an ninh nội bộ của họ. Chúng tôi cũng cung cấp một ít kỹ
thuật chẳng hạn như những trạng bị rửa hình và phóng đại đặc biệt. Trái lại những trang
bị chúng tôi cung cấp cho các nước châu Phi luôn luôn được bảo trì kỹ lưỡng và họ hãnh
diện trừng bay khi chúng tôi trở lại thăm viếng.

Đối với Chile chúng tôi đã phải cố gắng hết sức mình. Vào lúc cuộc đảo chính Salvador
Allende tháng Chín năm 1973, cơ quan tình báo c ủa chúng tôi không hề có đại diện tại
thủ đô Santiago. Tôi đã h ạ lệnh giảm thiểu nhân lực và chỉ còn giữ đúng hai nhân viên
đặc vụ cách đó hai năm, mặc dù chúng tôi không hoàn toàn dẹp bỏ sinh hoạt tình báo ở
đây. Đầu năm đó, cơ quan của tôi đã báo đ ộng cho Allende và Luis Corvalan, lãnh tụ của
Đảng Cộng Sản, biết một cuộc đảo chánh quân sự đang âm ỉ, nhưng họ không thèm để
tâm vì họ nghĩ rằng quan đội của Chile có cội nguồn quá ăn sâu vào truyền thống kiểm
soát của xã hội dân sự để xen vào chính trị. Lời cảnh báo của chúng tôi dựa trên những
thông tin từ tình báo Tây Đ ức, lúc đó hoạt động tích cực tại Chile và biết rõ ý đ ịnh của
nhóm nổi dạy và của CIA.

Trong lúc giao đấu mãnh liệt tại Santiago, một vài giới lãnh đ ạo của đảng Unidad Popular
(Đoàn Kết Nhân Dân) xin tị nạn tại Tòa Đ ại Sứ Đông Đức. Người có danh tiếng nhất trong
đám họ là Carlos Altamirano, tổng bí thư của Đảng Xã Hội. Đông Bá Linh đã c ắt đứt liên
hệ ngoại giao Santiago, điều này có nghĩa là trên m ặt chính thức chúng tôi không thể làm
gì đư ợc để giúp họ. Nhưng Erich Honecker, lúc đó muốn nới rộng mối liên hệ song
phương và ảnh hưởng của Đông Đức, quyết định giúp các đảng viên Đảng Xã Hội trốn
thoát. Con gái của ông đã lấy một đồng chí của Altamirana, vì vậy số phận của các đảng
viên Xã Hội bị bức bách có tầm quan trọng về tình cảm cũng như v ề chiến lược đối với
ông.

Chúng tôi chuẩn bị một trong những công tác cứu cấp phức tạp nhất từ trước tới nay. Một
đội ngũ bao gồm những sĩ quan giỏi nhất của chúng tôi được mau chóng phái đi từ Bá
Linh để đến tận nơi tìm ki ếm những kẽ hở trong việc kiểm soát biên phòng tại các phi
trường Chile, tại hải cảng Valparaiso, và tại những con đường đi ngang qua Argentina. Từ
Argentina, chúng tôi ứng biến một công tác phi thường. Các tù binh được lén lút đưa ra
khỏi nước trên những chiếc xe ca có chỗ nấp, được thiết kế giống như những chiếc xe cất
giấu những kẻ đào tẩu nước CHDCĐ để vượt qua Bức Tường. Khi những cuộc kiểm soát
bất thần trở nên gắt gao và việc này trở nên quá nguy hiểm, chúng tôi chuyển các tàu
thủy chở hang đến Valparaiso và lén đưa các tù binh nằm trong những bao bố lên tàu chở
trái cây và cá hộp. Chúng tôi phải mất hai tháng mới đưa Altamirano ra khỏi Chile –
thông qua Argentina đến Cuba và tiếp tục lến đường đi Đông Bá Linh.

Altamiro

Công trình của chúng tôi tại Chile đã được tình báo Hoa Kỳ chú ý đến. Thương thuyết với
Hoa kỳ, Wolfgang Vogel đã thành công trong vi ệc trao đổi Corvalan với Vladimir
Boukovsky, một văn sĩ và trí th ức đối lập bị Xô Viết giam cầm. Đối với Cuba, bài học của
Allende tại Chile là một bài học đau đớn. Raul Castro kể cho tôi nghe cuộc đảo chánh tại
đây đã gây xáo trộn trong hàng ngũ lãnh đ ạo của Havana và chương trình phòng thủ dân
sự đã đư ợc mở rộng, và đương sự và Fidel ngừng không du hành chung với nhau hoặc
xuất hiện trên cùng một khán đài công cộng.

Khi tôi nghĩ đến Cuba ngày nay, tôi cảm thấy lòng nuối tiếc và buồn bã, vì niềm hy vọng
trước đây họ biểu tượng đã sụp đổ. Viếc thăm Cuba năm 1985 đã là một bài học thực tế
hai mươi năm sau khi lần đầu tiên tôi đặt chân xuống đây. Sự thiếu hụt triền miên và
thất bại kinh tế khiến cho người Cuba ở khắp mọi nơi đã ph ải vỡ mộng. Và rồi cảm giác
khó chịu nhận biết mình bị bỏ rơi và yếu kém tràn ngập cả tâm hồn. Một viên chức an
ninh cao cấp than phiền: “Bây giờ ai sẽ giúp chúng tôi nếu Hoa Kỳ xâm chiếm?”. Đúng
như vậy. Moscow đang phải ôm gánh nặng A phú hãn. Mikhail Gorbachev mở rộng cánh
cửa ra phương Tây có nghĩa là tr ợ giúp thực sự cho Cuba sẽ giảm thiểu. Khi phi cơ của tôi
đến gần Havana – lần này không phải ép buộc thông quá New York – cảm giác bất an và
thất vọng xâm chiếm tâm thần của tôi. Việc thực thi cộng sản chủ nghĩa xem ra càng lúc
càng xa vời và càng cách biệt với lý tưởng tôi hằng ấp ủ từ thiếu thời và mang theo nó
khi tôi trở về Đức năm 1945. Có một hố sâu to lớn giữa những ước vọng của các chính trị
gia - trong đó có Castro - và thực tế người dân phải kinh qua hàng ngày. Gorbachev lên
cầm quyền tạo được một chút hy vọng và tôi nghĩ ng ợi có lẽ sự thay đổi này ở Moscow sẽ
giúp Cuba và Nicaragua tìm ra những phương thức mới để gỡ rối tình hình đ ịa lý chính trị
không mấy sáng sủa của họ đối với Hoa Kỳ.

Điều tôi không đánh giá đúng mức là đường hướng mới của Gorbachev có thể cô lập hoàn
toàn Cuba và đưa đến thất bại của nhóm Sandinista tại Nicaragua. Các nước xã hội chủ
nghĩa ở Châu Mỹ La Tinh bị dứt khoát tách biệt với Moscow trên phương diện an ninh, và
lần đầu tiên điện Cẩm Linh cho thấy rõ ràng họ chấp nhận và tôn trọng vùng ảnh hưởng
của Hoa Kỳ. Vào lúc Gorbachev trị vì, tôi nghĩ s ự kiện này sẽ tạo nên một phong trào tự
do hóa và gia tăng tự do cá nhân trong chế độ xã hội chủ nghĩa Cuba. Tôi bẽ cái lầm.

Tôi viến thăm Cuba lần cuối cùng vào mùa Xuân năm 1989, và trong thời gian này tôi bị
ngập lụt trong những vấn đề của chính nước Đức và Cuba cũng g ặp những vấn đề tương
tự. Cả hai nước chúng tôi từ chối áp dụng chính sách cởi mở chính trị và cải cách kinh tế
của Gorbachev – hai chính sách song song glasnost (trong sáng) và perestroika (canh
tân). Trong thâm tâm tôi đầy linh cảm khi nhìn thấy những đường dài xếp hàng trước
những cửa hàng chẳng có bao nhiêu để bán. Tôi không thể nào mường tượng được làm
thế nào chính quyền Castro có thể tồn tại được với cảnh tượng này. Đúng là một trong
những oái ăm đắng cay của lịch sử là chính đất nước chúng tôi, được các chuyên gia
Đông và Tây phương đánh giá vững chắc hơn Cuba nhiều, lại sụp đổ một vài tháng sau.
Erich Honecker, đã từng đưa tay của Đông Đức giúp đỡ những anh em xã hội chủ nghĩa
bại trận của Chile, kết thúc cuộc đời trên đất nước này 26 tháng Năm năm 1994, vì đã b ị
Moscow từ chối không cho tị nạn lâu dài.

Tôi thấy xung quanh tôi sự thất bại của lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Chủ thuyết dân chủ xã
hội của Allende bị dập tan trong máu lửa tại Chile. Cơ cấu đa nguyên và những canh tân
đã từng tạo nên Cuba vào những năm sau cuộc Cách Mạng và đã tạo niềm hứng khởi cho
tôi cũng đã suy sụp, chỉ còn lại một chế độ độc đoán. Tôi chăm chú theo dõi với một ít
đau buồn cố gắng của Castro nhằm mở rộng tự do và tái tạo động lực trong nội bộ,
nhưng lại không có sự giúp đỡ ngay cả tượng trưng của Liên Bang Xô Viết. Chắc hẳn ông
cảm thấy là người cô đơn nhất trên thế giới. Về điều này, tôi có cùng ý nghĩ với Günter
Grass, một văn hào danh tiếng người Đức còn sống. Ông viết: “Tôi luôn luôn chống đối
hệ thống giáo điều tại Cuba. Nhưng khi tôi ngày nay thấy chế độ đi vào giai đoạn cuối mà
không có một lối thoát nào khác, ít nhất không ai ngoài Batista, do đó tội ủng hộ Castro”.
Chương 16
Chấm dứt trật tự cũ
Việc thành lập một công đoàn độc lập Đoàn Kết tại Ba Lan dưới sự lãnh đ ạo của Lech
Walesa năm 1980 tạo một luồng sóng làm chấn động khôi Đông Âu. Láng giềng trực tiếp
của Ba Lan, nước CHDCĐ cảm nhận mãnh liệt việc này. Người ta lo ngại những cuộc nổi
dậy có thể tràn qua biên giới. Vai trò lãnh đ ạo của các công đoàn trong cuộc nổi dậy tại
Ba Lan đặc biết gây bối rối cho giới lãnh đ ạo Cộng Sản bởi vì các cuộc đình công s ẽ gây
hại khốc liệt đến uy tín của Đảng vốn tự nhận là đại diện cho giới công nhân.

Cơ quan HVA (tình báo hải ngoại) cung cấp những tin tức tình báo chính xác vào cuối
thập niên 1970 về làn sóng bất mãn tại Ba Lan. Chúng tôi có những nguồn tin của chúng
tôi trong vòng thân cận của Walesa và của người trí thức lãnh đạo Adam Michnik. Nhưng
mối liên hệ tình báo giữa Warsawa và Đông Bá linh luôn luôn khó khăn, và chính quyền
Balan không xem trọng lời cảnh giác của chúng tôi về tình trạng bất ổn này.

Ông Adam Michnik, 2008

Thấy tương lai có nhiều hiểm họa, chúng tôi thành lập một nhóm công tác đặc biệt về Ba
Lan trong bộ của chúng tôi tại Bá Linh và tại các bộ tư lệnh tỉnh gần biên giới của Ba Lan.
Đối với cơ quan tình báo h ải ngoại của tôi, ưu tiên trên hết là khám phá những ý đồ của
các chính quyền, các chính đảng, các cơ quan mật vụ và các tổ chức tư nhân chẳng hạn
như những công đoàn ngoại quốc hổ trợ cho Solidarnosc. Các bạn đồng nghiệp đối tác Ba
Lan nhờ chúng tôi theo dõi những tổ chức Ba Lan di cư, đặc biệt tại Đài Phát Thanh Châu
Âu Tự Do tại Munich và tập san Kultura tại Paris. Trong thời kỳ náo động cao độ chúng tôi
cũng thu thập tin tức ngay trên đất của Ba Lan với sự đồng ý của Bộ Nội Vụ Ba Lan.

Chúng tôi đề ra những biện pháp để gây ảnh hưởng lên trên dư luận quần chúng Ba Lan
và cũng được biết những gì ban phụ trách về di cư của tình báo Tây Đức tại Ba Lan đang
làm để chúng tôi có thể phản công.

Nhưng lời cảnh báo của chúng tôi và cả chương trình theo dõi của chính Ba Lan cũng
không làm thay đổi được điều gì. Công đoàn Đoàn Kết là một tổ chức cách mạng thực
thụ, đã làm thay đ ổi lề lối suy nghĩ của các nhà đối lập Đông Âu vốn cho rằng ổn định
kinh tế và xã hội phải là căn bản của mọi cải cách. Trái lại, các công nhân đình công tìm
cách đối đầu với chính quyền Cộng Sản trên mọi lãnh vực và chứng minh rằng chính phủ
thiếu tự tin để phản công. Việc áp đặt thiết quân luật do Tướng Wojciech Jaruzelski ban
hành vào tháng Chạp năm 1981 chỉ làm chậm lại tiến trình của một động năng đã t ự vận
chuyển.

Vào năm 1981, tôi đã chu ẩn bị tinh thần để về hưu. Không những tôi đã hoàn thành h ầu
hết những điều tôi dự liệu trong đời sống nghề nghiệp nhưng tiến trình đư ợc Hiệp Ước
Căn Bản đề ra năm 1972 đã bị đình ch ỉ, và Erich Honecker đã tr ở thành một lãnh tụ già
nua bám víu vào quyền lực. Đã có nh ững thảo luận về việc đưa tôi vào Trung Ương Đảng
và có thể cất nhắc đưa vào Bộ Chính Trị, nhưng sự đề bạt chính trị trong những điều kiện
như vậy tôi không ưa muốn chút nào. Dù sao đi nữa, Mielke quyết định ngăn chặn tôi.
Tôi không lên tiếng nhưng có ghi lại trong quyển nhật ký của tôi :

“Mielke không hiểu rằng điều này không còn là đi ều tôi muốn nữa. Điển hình, đi ều này có
nghĩa là tôi ti ếp tục bị ràng buộc và sẽ tác động lên nhưng lựa chọn của cá nhân tôi.
Chọn con đường này sẽ làm cho tôi mất thêm sinh lực, vì quyền lực bầu bán của chúng
tôi không có giá trị thực sự. Tại sao phải để tâm lo nghĩ ?”.

Tôi đã b ắt đầu đọc sách nhiều hơn bao giờ hết, cởi mở tinh thần để đón nhận những ý
mới và phê phán hệ thống của chúng tôi, điều chúng tôi gọi là “chủ nghĩa xã h ội thực tế”.
Một trong những quyển sách gây ảnh hưởng nhiều nhất là quyển The Aesthetics of
Resistance (Mỹ học của đề kháng) của Peter Weiss, nội dung đề cập đến phương pháp
điều trị nguyên nhân và hậu quả của chủ thuyết Stalin cùng với những hồi ức cá nhân và
lời văn hùng hồn. Tôi cũng bỏ hàng giờ nói chuyện với Koni em của tôi về một ý định làm
phim hoặc viết một quyển sách tựa đề là The Troika. Em tôi quyết định kể lại tình bạn
thời niên thiếu của mình tại Moscow với Lothar Wloch, con của một gia đình Cộng Sản
Đức nổi tiếng, và với Victor và George Fischer (Em tôi có ý phối hợp hình ảnh của Victor
và George thành một nhân vật, tạo nên một bộ ba và ý nghĩa của tựa đề The Troika). Ba
mươi năm sau chiến tranh, cả bốn người gặp lại nhau tại Hoa Kỳ. Koni đã từng chiến đấu
trong hàng ngũ Hồng Quân và đã trở thành một đạo diễn danh trọng và là giám đốc Học
Viện Nghệ Thuật của Bá Linh. Lothar đã trở về Đức sau khi cha của ông trở thành nạn
nhân trong cuộc thanh trừng của Stalin, và sự tan vỡ hiệp ước 1939 với Hitler đã mở con
đường đưa ông đến phục vụ không quân Lutfwaffe đánh lại Liên Bang Xô Viết. Sau cuộc
chiến, ông định cư tại Tây Bá Linh và trở thành một doanh nhân thành công trong ngành
địa ốc. George Fischer trở thành Đại Úy trong quân đội Hoa Kỳ, và tôi tình nghi ông có
liên hệ với tình báo Hoa Kỳ. Mặc dù họ có cuộc sống và lý tưởng rất khác nhau, bộ ba
này khám phá lửa ấm của tình bạn trước đây vẫn còn tồn tại sau Chiến Tranh Lạnh.

Đến năm 1980, Koni chuẩn bị quay phim, lúc đó em tôi đã bị bệnh ung thư. Em tôi chết
vào tháng Ba năm 1982, và tôi phải hoàn tất công trình của em tôi? Mỗi ngày tôi đem
theo những giấy tờ ghi chú và phác họa của em tôi vào sở làm, điền với những ghi chú
của tôi và tìm kiếm tài liệu. Và tôi bắt đầu thấy rõ là công trình này có một giá trị lâu bền
hơn là cứ tiếp tục điều khiển một cơ quan tình báo hữu hiệu. Sự rạo rực trước đây tôi vẫn
thường cảm thấy khi kết nạp những điệp viên mới và phòng bổ công tác nay chỉ xuất
hiện khi tôi soạn thảo quyển sách. “Tuyệt vời, (tôi viết trong nhật ký của tôi), tôi cảm
thấy Koni sống động lại … Nhiều người trông chờ một cách gần như hồn nhiên là tôi phải
tiếp tục công trình bỏ dở của em tôi. Có nhiều niềm hy vọng và quan hệ nhân sinh cần
phải giữ cho sinh động. Điều này xem ra quan trọng đối với tất cả những ai đã quen biết
em tôi. Lần đầu tiên trong đời, tôi nhận biết là thời gian đang trôi nhanh. Đã đ ến lúc phải
chiều theo sự vật”.

Đầu năm 1983, tôi nhận được bản báo cáo tường tận nhưng nản lòng về tình hình của
Hiệp Ước Warsaw. Rainer Rupp, điệp viên nằm vùng tại NATO của chúng tôi, đã xoay sở
gởi đến cho chúng tôi một bản sao chụp vi phim của một tài liệu nghiên cứu cán cân lực
lượng tổng quát Đông Tây. Đây là một tài liệu nghiên cứu ưu việt về những yếu kém của
hệ thống Xô Viết và sự thoái lui về tính chất hữu hiệu trong quân đội và quyền lực kinh
tế. Tôi biết bản nghiên cứu của phương Tây về những trăn trở của khối Đông Âu là chính
xác và tôi cũng bi ết là chẳng có hy vọng gì những « cái đầu đá cứng » - danh từ các nhà
phê bình đùng để nói xỏ các vị lãnh đạo già nua của chúng tôi – sẽ ra sức để thay đổi
tình thế. Chúng tôi hình như b ị khóa chặt vào vòng xoắn nhanh chóng đi xuống. Tất cả
những điều này làm nhụt tinh thần nghề nghiệp và năng lực của tôi, khiến cho tôi cảm
thấy chán nản và lòng đ ầy nghi ngại.

Tôi chuẩn bị tinh thần để trình Mielke tập tài liệu, kèm theo đó là những phấn tích của
chúng tôi. Và sau đó, tài liệu này sẽ được trao cho Viktor Chebrikov, giám đốc KGB tại
Moscow và cho Tổng Bí Thư Konstantin Chernenko. Giọng điệu trong lời «bình luận của
chúng tôi » phải chừng mực và tôi làm việc với đội ngũ trẻ giỏi nhất của tôi để đảm bảo
lời bình luận không che dấu hình ảnh ảm đạm được NATO trình bày và cũng không bi ểu
lộ một cách trịch thượng nỗi vui mừng trên sự đau khổ của kẻ khác về sự mô tả hình ảnh
thiểu nảo của Liên Bang Xô Viết.

Nhân dịp tôi bay sang Moscow tháng Tám năm 1983, tôi nói với Mielke tôi đang suy tính
về thời điểm tôi về hưu. Tôi đã sáu mươi tu ổi và Mielke bảy mươi lăm. Đã đến lúc cả hai
chúng tôi nên nghĩ đến việc tìm ngư ời kế vị. Ông khoát tay bác bỏ. Tôi cố nài nỉ và sau
một lúc do dự, ông chấp nhận trên nguyên tắc việc về hưu của tôi nhưng ngạo mạn nói
thêm ông sẽ quyết định ngày giờ. Ông đã nghe nói tôi muốn tiếp tục công trình của Koni
trên vở The Troika và nhạo báng: « Giám đốc tình báo không được làm phim » Nhưng ít
ra vấn đề đã được đề cập đến.

Bất mãn về chính trị và xã hội lan tràn khắp nước đã thẩm thấu qua bức tường dày của
Bộ Công An. Trong nhà tắm hơi đặc biệt, nơi đây các viên chức cao cấp cảm thấy thoải
mái nói lên những điều họ không dám nói ở các nơi khác, hai viên chức cao cấp trong Bộ
Ngoại Giao kể cho tôi nghe nỗi ấm ức của họ đối với giới lãnh đạo già nua và vô cảm tại
Moscow và Bá Linh. Các người đối thoại với tôi trong nhà tắm hơi tâm sự là giữa Đông
Đức và Moscow cơm không lành canh không ngọt. Chernenko bất tín nhiệm việc
Honecker xích lại gần với Helmut Kohl và lo sợ Tây Đức cổ võ một căn cước quốc gia phò
Đức và sẽ lấn áp tinh thần đoàn kết xã hội chủ nghĩa. Trong một cuộc họp mặt tại
Moscow năm 1984, ông cảnh báo Honecker nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức sẽ là «nạn nhân
sau cùng của tất cả sự việc này ». Ông nói thêm : « Quý vị phải nhớ mối phát triển quan
hệ giữa Đông và Tây Đức phải tôn trọng quyền lợi an ninh của Liên Bang Xô Viết trên hết
mọi sự ».

Lời cảnh báo này rõ ràng muốn đè bẹp tham vọng của Honecker muốn đến thăm viếng
chính thức Bonn. Cuộc họp, hai người bạn trong phòng tắm hơi nói, đã chấm dứt trong
một bầu không khí lạnh nhạt. Honecker, lòng tức tối vì bị xỉ nhục, đã nổi cơn giận hiếm
thấy một khi ông trở lại với phái đoàn và chế giễu hành động lên mặt thầy đời của
Chernenko. Khi ông trở về Đông Bá Linh, Honecker giãi bầy hết sự căm giận với Mielke
và tuyên bố, cho dù Moscow có phản đối, ông nhất quyết tìm phương cách để thăm
Bonn. Báo chí của Xô Viết trong khi đó bắt đầu chiến dịch bôi nhọ Honecker.

Nhờ tôi thông thạo tiếng Nga và có nhiều liên hệ với Moscow, tôi được mời để can thiệp
và điện thoại cho Chebrikov. Chebrikov gạt phăng tôi ra và nhắc nhở những vấn đề này
là vấn đề của Đảng chứ không phải của cơ quan tình báo.
Sụ bế tắc trong ý định của Honecker muốn thăm viếng Bonn chế ngự tất cả những vấn
đề khác với Moscow. Tôi chưa bao giờ thấy tình hình căng thẳng như lúc này. Phải mất
nhiều tháng để thu xếp một đường điện thoại trực tiếp giữa Honecker và Chernenko, vì
cả hai đều không muốn chứng tỏ mình sẵn sàng nhượng bộ. Qua đường kiểm soát điện
thoại, chúng tôi nghe được một mẩu đối thoại giữa Klaus Bölling, phát ngôn nhân của
chính quyền Bonn, và một viên chức Tây Đức khác nói về cuộc đối đầu gay go giữa
Moscow và Đông Bá Linh. « Lần này hóa thành ra chuyện lớn », Bölling nhận xét, «Nó
thú vị hơn là cả hai vở Dallas và Dinasty cộng lại! »

Hội nghị thượng đỉnh tháng Tám năm 1984 giữa Honecker và Chernenko chỉ vỏn vẹn
đúng một ngày và kết quả là thất bại. Ông Tổng Bí Thư của chúng tôi nằm vào vị thế
giống như vị thế của hàng triệu công dân của mình: không được thăm viếng Tây Đức.
Ông bị ép buộc phải thay đổi hẳn thái độ đối với Tây Đức và ông mau chóng làm điều này
bằng cách tuyến bố « khí tượng toàn bộ » không thuận lợi cho hội nghị thượng đỉnh Đông
và Tây Đức, vì vậy cuộc họp thượng đỉnh phải bị đình ch ỉ. Ông nghiến răng và điềm đạm
nói với các phụ tá « «đình chỉ » không có nghĩa có nghĩa là «h ủy bỏ ».

Honecker cảm thấy mình bị Liên Bang Xô Viết bỏ rơi khi bị hoạn nạn, về mặt kinh tế cũng
như về mặt ngoại giao, bởi vì Moscow đã gi ảm thiếu số lượng dầu xuất khẩu sang Đông
Đức với giá hạ so với thị trường. Ông nói: « Chúng ta chỉ trông nhờ vào chính sức của
chúng ta». Ông bị ám ảnh với ý tư ởng khuấy nhiều Moscow bằng những hành động vô ý
nghĩa như là cải thiện mối liên hệ với Trung Quốc.

Vào lúc đó, những người có đầu óc ở CHDC Đức cũng cảm nhận được những biến chuyển
đang diễn ra trên đất nước, trong khối Đông Âu và cá nhân cũng thay đổi. Trong thời
gian này tôi gặp gỡ Hans Modrow, lãnh đạo Đảng Cộng Sản tại vùng Dresden, một người
ăn nói nhỏ nhẹ, tóc bạc, có những suy tư thâm trầm và phong cách nhã nhạn. Hầu như
không giống phong cách tự mãn nhưng lại thiếu suy nghĩ của phần đông các viên chức
Cộng Sản cao cấp, ông sống đơn sơ trong một căn nhà ba phòng, lái một chiếc xe tầm
thường, và không bao giờ lạm dụng những ưu đãi dành cho các ông lớn trong Đảng. Ông
được chú ý vì lời nói thẳng thắn của ông, một nghệ thuật ít được dùng trong đảng, một
nơi mà quy tắc buộc phải phân giải mặt ngoài của sự thật. Ông nói với tôi: « Tôi được trả
lương không phải để kê những đơn thuốc của bác sĩ ». Tôi đã gặp một người tri kỷ để giải
bày những ấm ức của tôi.
Hans Modrow Manfred von Ardenne

Chúng tôi nói chuyện về Manfred Von Ardenne, một nhà vật lý học xuất thần từ gia đình
quý tộc đã từng xây dựng học viên của mình trên ngọn đồi ở ngoại ô Bá Linh. Đây là một
mẫu người hiếm hoi đã xoay s ở thoát khỏi vòng cương tỏa và làm việc độc lập, ông thành
công vì những thành quả của ông vượt hẳn tất cả những gì nhà nước cung cấp. Von
Ardenne, lúc đó đã hơn tám chục tuổi, có cái nhìn vững trãi về đất nước và toàn khối
Đông Âu. Ông lo ngại chúng tôi không thể nào bắt kịp Tây Phương về khoa học và cạnh
tranh kỹ thuật và cuối cùng việc này sẽ đưa chúng tôi đến diệt vong.

Modrow chỉ là một bí thư tỉnh ủy và không có triển vọng gì để vào Bộ Chính trị. Vì nằm ở
vòng ngoài Trung Ướng Đảng tôi không tạo được ảnh hưởng gì lên đường hướng của
Đảng dưới sự chỉ huy của Honecker, và von Ardenne quá già và chẳng hồ hởii gì với
những chuyện tranh giành thế lực trong nội bộ chính trị của nước CHDC Đức và không
làm gì khác hơn là tranh đ ấu trong phạm vi nghiên cứu khoa học của ông. Vì vậy chúng
tôi đặt hy vọng vào Modrow để tạo thay đổi cần thiết.

Những cuộc gặp gỡ của chúng tôi cuối cùng tạo nên những lời báo cáo kì dị cho rằng
chúng tôi, sau này được gọi là những nhà cải cách trong nội bộ Đảng, đang âm mưu đưa
Modrow lên làm lãnh tụ và đặt để lối cải cách của Xô Viết lên Đông Đức. Sự thực, than ôi,
khiêm nhường hơn nhiều. Khi Mikhail Gorbachev kế vị Chernenko vào tháng Ba năm
1985, Modrow và tôi thấy đây là một cuộc thay đổi phi thường và đáng hoan nghênh. Tôi
viết trong nhật ký của tôi :

« Giờ đây cuối cùng, kế vị những vị lãnh tụ già nua và bệnh hoạn trong điện Cẩm linh,
một tổng bí thư mới và niềm hy vọng mới xuất hiện. Đây xem như là một kỳ công. Cho
đến nay, chính chúng ta tự hãm hại chúng ta nhiều nhất. Không có kẻ thù nào có thể
thực hiện được những gì chúng ta đã th ực hiện về mặt vô năng, ngu dốt, tự kiêu, và
phương cách chúng ta tự tách rời khỏi căn bản tư tưởng và cảm xúc của con người bình
thường».

Sau đó, Modrow và tôi gặp gỡ nhau hai lần trong một năm để bàn thảo, nhưng tôi không
tìm cách thúc đẩy ông lên nắm quyền lực. Nếu có như vậy thì bây giờ tôi đã hãnh diện
tuyên bố điều này. Sự thật đau lòng là cả hai chúng tôi đã quá chậm chạp không kịp thời
bày tỏ nỗi thất vọng của chúng tôi. Sự kiện là cả hai chúng tôi không che dấu sự bất mãn
của mình với bạn bè và các đồng nghiệp thân tín không bào chữa cho chúng tôi vì chúng
tôi đã không tích cực hoạt động để cải tiến chế độ xã hội chủ nghĩa. Cũng như ph ần đông
những người ít có ảnh hưởng, chúng tôi mỏi mòn chờ mãi không thấy một vị cứu tinh
xuất hiện để kế vị Honecker phát xuất từ trong lòng chế độ và vẽ ra một đường hướng
mới.

Tôi có một lý do khác hoàn toàn cá nhân để xin rút lui. Cuộc hôn nhân thứ hai của tôi
gặp khó khăn. Tôi đã yêu một người đàn bà khác. Trước đây tôi đã ngắn ngủi gặp gỡ
Andrea trong một lần thăm viếng Karl-Marx-Stadt, quê quán của Christa, người vợ thứ
hai của tôi, và sau đó một lần nữa khi cô và chồng của cô đến thăm viếng dacha của tôi
năm 1985. Khi còn là thiếu nữ, cô đã vào tù bốn tháng vì tội tìm cách trốn ra khỏi nước.
Nghe lại câu chuyện của cô mấy năm về sau làm cho tôi cay nghiệt hồi tưởng đến việc
đàn áp trên đất nước tôi. Tôi xem công việc của tôi trong ngành tình báo hải ngoại là một
sinh hoạt riêng biệt và thuộc một lãnh vực khá dĩ có thể bào chữa, nhưng tôi không thể
không lấy làm xấu hổ về những phương cách bạo tàn đối với những người đối lập trong
nước và đối với những ai chỉ có mỗi một ước vọng là rời bỏ đất nước.

Đầu năm 1986, tôi đến gặp Mielke và báo cho ông biết sự việc. Vì là một người theo đạo
đức cực thanh lỗi thời trong phong tục luyến ái, nên ông nổi giận. Khi ông bình tĩnh tr ở
lại, ông cố gắng thuyết phục tôi vẫn tiếp tục giữ cuộc sống vợ chồng để giữ thể diện và
nói ông sẽ thu xếp để Andrea đến cư ngụ Đông Bá Linh để tôi có thể gặp cô bắt cứ lúc
nào. Ông không phải là một con người hiểu biết gì nhiều về vấn đề tình ái. Mối lo lắng
của ông là an ninh. Vợ tôi làm việc trong Bộ Công An tại Karl-Marx-Stadt và cô biết nhiều
về việc làm của tôi. Ông ta hoảng sợ trong ý nghĩ là v ợ tôi, tức giận, sẽ tiết lộ những câu
chuyện của tôi và những công tác của tôi ở hải ngoại.

Tôi từ chối lời đề nghị này và nhất định đòi cư ới Andrea. Mielke tỏ ra rất bực bội. Tôi được
biết qua các bạn đồng nghiệp ông ra lệnh đặt máy nghe đường dây điện thoại của tôi.
Bây giờ tôi đang kinh qua mối bất an của một công dân thường Đông Bá Linh vì m ột lý do
nào đó bị nhà nước tình nghi. Người vợ trước của tôi cũng b ị theo dõi gắt gao vì e rằng cô
sẽ bắt liên lạc với địch. Tuy nhiên cô đã tìm cách thoát khỏi vòng kiểm soát và nhân dịp
nghỉ hè tại Bulgaria đã liên h ệ với một doanh nhân Tây Đức mà Mielke chắc chắn là người
được cơ quan tình báo phái đ ến để dụ dỗ cô vào bẫy tình Romeo. Tôi rơi vào nghịch cảnh
nhìn thấy phương sách Romeo của chính tôi được đem áp dụng vào người vợ cũ của tôi.
Trong một thời gian tôi chuẩn bị tinh thần tiếp nhận tổn thương nhìn thấy hình ảnh của
cô vợ cũ và những chi tiết của cuộc sống lứa đôi của chúng tôi phơi bày trên báo chí Tây
Đức. Nhưng cuối cùng, sau khi Bộ Công An dàn xếp tiền bạc và công ăn việc làm (và có
lẽ nghi ngờ là cô đã bị lừa vào cặm bẫy tình của tình báo Tây Đức ) cho cô, cô quyết định
ở lại Đông Đức.

Mielke cuối cùng chấp nhận cho tôi về hưu vào mùa xuân năm 1986, sau khi Werner
Grossmann, người tôi đã chuẩn bị để thay thế tôi, đã sẵn sàng đón nhận trách nhiệm.
Việc ra đi của tôi là một thay đổi lớn trong cơ quan tình báo sau g ần ba mươi làm việc, và
chúng tôi thu xếp để sự việc diễn biến nhẹ nhàng và hết sức tự nhiên. Tôi thương lượng
sự ra đi của tôi với Mielke, trong đó có một căn phòng mới tại Bá Linh nhìn ra con sông
Spree, nơi tôi cư ngụ cho đến ngày nay. Tôi biết tất cả những ưu đãi giành cho giới đảng
viên thượng lưu trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, suy nghĩ cho cùng, đều dính liền với
công việc của chúng tôi. Nhà nước cho và nhà nước cũng có thể lấy lại. Tôi yêu cầu có
được một tài xế, một thư ký, và một văn phòng trong bộ để tôi ghi lại những kinh nghiệm
tình báo của tôi để cho Bộ dùng, và soạn thảo quyển The Troika. Bù lại, tôi phải luôn sẵn
sàng để cố vấn người kế vị tôi và Mielke.

Nghi thức tiễn đưa tôi về hưu tháng Mười Một năm 1986 diễn ra với tất cả trang trọng.
Mielke muốn tuyên bố ngắn gọn và theo truyền thống Xô Viết : “Vì tình trạng sức khỏe…”
Nhưng tôi hoàn toàn khỏe mạnh và không có lý gì để bắt đầu cuộc sống mới ngoài phạm
vi của cơ quan tình báo v ới một câu nói láo. Tôi yêu cầu một lời tuyên bố trung thực và
kín đáo: “Theo ước nguyện của mình, Tướng Markus Wolf đã từ chức khỏi Đại Tổng Cục
(tình báo hải ngoại)”. Lời tiễn đưa chính thức gượng gạo tương phản với buổi liên hoan
nhỏ do tôi tổ chức sau buổi tiễn đưa chính thức. Tại đây, xum vầy với các đồng nghiệp
thân tín nhất, tôi bày tỏ lời cảm mến chân thành đối với đồng đội của tôi đồng thời đề
cập nhẹ nhàng đến những mối lo âu, những ấm ức và những khó khăn họ chia sẻ với tôi.
Tôi nói với họ, trích lời châm biếm nhất của Bertolt Brecht: “Một người Cộng Sản tốt có
nhiều vết lõm trên nón của mình. Và một vài vết là do kẻ thù”.
Tôi ca ngợi công trình cải cách của Gorbachev. Các sĩ quan trao đ ổi ánh mắt, vì biết rằng
ý tưởng thay đổi và trong sáng đã bị giới lãnh đ ạo của chúng tôi gạt phăng đi. Tôi trao
cho họ một bài thơ do cha tôi viết tựa đề là « Xin lỗi, vì tôi chỉ là Con Người » (Verzeiht,
Dass Ich Ein Mensch in…) một lời tóm tắt chính xác về bản tính của ông và tôi nghĩ cũng
là của chính tôi. Tôi xin nôm na dịch như sau :

Và nếu tôi thù ghét quá nhiều


Và tôi yêu quá điên cuồng và phóng túng.
Xin tha lỗi cho tôi vì tôi là con ngư ời
Đạo đức thánh hiền tôi không theo kịp.

Andrea và tôi tìm nơi ẩn cư tại vùng nông thôn và tôi trầm mình vào trong những trang
giấy của Koni viết về tình bạn tam phương đã tồn tại sau Chiến Tranh lạnh. Tôi, lần đầu
tiên trong nhiều năm qua, cảm thấy sung sướng và mãn nguyện với bản thân. Tôi biết
quyển sách này, với những phê bình về đường lối của Stalin và đề cao sự bền bỉ của mối
liên kết tình ngư ời mặc dù có sự đối trọi của hai ý thức hệ, có thể là một biến cố trong
thế giới của chúng tôi. Tôi quyết định khai thác một vấn đề từ trước tới nay chưa bao giờ
được công khai bàn cãi tại Đông Đức: cuộc khủng bố của Stalin và tính chất tùy tiện của
những vụ bắt bớ hàng loạt. Quyển sách được hai nhà phát hành tại Đông Đức (Aufbau)
và Tây Đức (Classen) phát hành cùng một lúc trong khuôn khổ của chương trình minh
bạch của Gorbachev, đã b ị Honecker khước từ không lấy đó làm khuôn mẫu cho đất nước
chúng tôi.

Với một người bạn giám đốc phim ảnh, tôi cũng nhất định thực hiện một phim về cuộc
đời của cha tôi. Khi phim Xin lỗi, tôi chỉ là con người sắp được trình chiếu, tôi được thông
báo là một đoạn về những tội ác của Stalin sẽ bị cát xén. Tôi phản đối, nhưng rồi cũng bị
rút ngắn trong khi tôi di ra nước ngoài. Chứng kiến cố gắng vô nghĩa xóa bỏ quá khứ (và
từ đó xóa bỏ hiện tại) là giọt nước làm tràn ly. Không như đa số các người Tây Đức, tôi có
được may mắn gặp gỡ ông Tổng Bí Thư. Tôi kể cho Honecker nghe những giai thoại của
những người khác đã bị cưỡng ép và phải bó tay vì những đoạn liên quan đến chính trị
trong tác phẩm của họ đã bị cắt xén một cách tùy tiện. Honecker, lúc nào cũng vậy, tỏ ra
vô cùng nhã nhặn và đồng ý với tôi đây là cách hành xử không đẹp vì không thông báo
cho tôi hoặc những người khác là đã có thay đ ổi. Rồi ông thú nhận rằng cá nhân ông đã
ra lệnh cắt những đoạn nói đến những hành động hung ác của Stalin trong phim và
không nhân nhượng về nội dung. Khi tôi than phiền là không thể nào mô tả những thập
niên 1930 tại Liên Bang Xô Viết mà không quy chiếu đến những tội ác của Stalin, ông trả
lời: « Anh có thấy không, ngày nay lịch sử đã bị bóp méo mỗi ngày. Sự minh bạch phải
trả lời rất nhiều trên phương diện này».

Tôi tiếp tục đào xâu.

« Ông không thể nói với người dân từ chục năm nay tất cả những gì Liên Bang Xô Viết
làm là đúng và sau đó quay phắt lưng lại với những điều này. Tại đây, thiên hạ đặt nhiều
hy vọng vào Gorbachev. Họ không chấp nhận những gì ông làm là xấu. Họ so sánh tinh
thần cởi mở của ông với những chính sách đối với giới truyền thông ở đây, và họ muốn có
tự do ngôn luận và ấn hành nhiều hơn nữa. Đây không phải là điều sẽ phôi pha với thời
gian ».

Honecker ngoan cố hất hàm trả lời : «Tôi sẽ không bao giờ để những gì xảy ra ở Liên
Bang Xô Viết xảy ra tại đây ».
Tôi mong đợi một câu trả lời thực tiễn và tôi hỏi ông có biết con số gia tăng những người
chống đối đang tìm s ự hỗ trợ tinh thần của giáo hội Tin Lành tại Đông Bá Linh và Leipzig
– những người trong vòng mấy tháng tới sẽ là cốt lõi của cuộc cách mạng ôn hòa tại
Đông Đức.

« Họ là những tên điên khùng và mộng du », ông nói, « Chúng ta có thể đối phó với
những hạng người như vậy ».

Tháng Ba năm 1989, quyển sách đầu tiên của tôi, The Troika, được phát hành trong một
bầu không khí xã hội căng thẳng. Chính quyền Đông Bá Linh vừa mới cấm lưu hành ấn
bản của tuần báo Liên Xô Sputnik trong đó đăng tải những nghiên cứu mới về tội ác của
Stalin. Sự xung đột giữa nước CHDC Đức và Liên Xô nay đã tr ở thành công khái, Đông Bá
Linh đóng vai trò kiểm duyệt Liên Bang Xô Viết.

Tôi quyết định dùng việc phát hành quyển sách cùng một lúc tại Đông và Tây Đức để
công khai tuyên bố ủng hộ perestroika và phản biện lại chế độ thoi thóp này. Tôi không
tán thành việc ngăn cấm tờ Sputnik và nói với một phóng viên đài truyền hình Tây Đ ức
khi được hỏi tôi cảm nghĩ gì v ề ông Gorbachev: « Tôi vui mừng và sung sướng ông đã
hiện diện ở đây».

Ngày hôm sau, tôi được biết tôi trở thành đối tượng bàn thảo trong cuộc họp hàng tuần
của Bộ Chính Trị. Mielke điện thoại cho tôi biết là quan điểm của tôi được xem là tấn công
vào giới lãnh đạo Đảng và thông báo cho tôi biết là Bộ Chính Trị đã quyết định tôi không
được phép chấp nhận phỏng vấn về quyển sách này trong lần hội chợ sách sắp tới tại
Leipzig. Tôi mượn một câu nói sống sượng nhưng chính xác của chính giới Hoa Kỳ, tôi
nhận biết được cảm giác thế nào là đứng ngoài lều đái vào trong sau khi trải qua một đời
người đứng ở trong đái ra ngoài. Tôi không coi thường trực tiếp lệnh của Bộ Chính trị,
nhưng tôi vẫn tiếp tục đi thuyết trình khắp nước. Việc này trùng hợp với tình trạng sa sút
trong cơn khủng hoảng của xã hội Đông Đức. Đã có những lời oán thán về những trò bầu
cử gian lận cho phép Đảng Xã Hội Thống Nhất tiếp tục cầm quyền mà không có ai phản
kháng sau cuộc bầu cử tháng Năm.

Sang đến hè, dân Đông Đức lũ lư ợt bỏ sang phương Tây qua biến giới vừa mới mở ở
Hungary. Giống như một số đông các bạn đồng nghiệp thận trọng hơn vì bi ết rõ phong
thái của Bộ Công An, tôi lo ngại sẽ xảy ra bao động. Những uất ức âm ỉ từ hàng chục
năm nay đã gần đến mức sôi bỏng. Tôi đến gặp Egon Krenz, con người vạm vỡ và là một
công chức không có óc quyền biến mà mọi người trông đợi sẽ thay thế Honecker. Tôi nói
với ông là tôi sợ đổ máu nếu những lực lượng an ninh nóng máu được tung ra để ngăn
chặn đoàn biểu tình và họ không biết cách phản ứng với một tình thế mà chỉ họ biết qua
sách vở. Tôi trao cho ông một bản tóm tắt ghi nhớ về những bước đi cần thiết sắp tới,
nhưng ông tỏ vẻ chán ngán: « Tôi biết, Mischa, », ông nói và lập lại những lời tôi đã nghe
mấy năm trước đây của Andropov, « nhưng anh biết Bộ Chính Trị làm việc ra sao rồi. Nếu
tôi chỉ nói một lời ghi trong sổ này tại đó, tôi sẽ mất việc ngay ngày hôm sau. Anh nên
nhớ Gorbachev chỉ trở thành tổng bí thư sau khi ông đã ngậm miệng trong suốt thời gian
trị vị của ba người tiền nhiềm».

Ngày 18 tháng Mười, cuối cùng Honecker rời chức vụ trong phong cách đúng thời điểm
của các nhà lãnh đạo đã mất đi sự kính phục của các đồng chí thân cận nhất và yêu cầu
phải ra đi. Không ai nhận trách nhiệm này, nhưng không một lãnh tụ nào của nước Cộng
Hòa Dân Chủ Đức có thể bị bãi chức nếu không có sự đồng ý săn sái của Mielke. Krenz
được lên làm tổng bí thư và xuất hiện trên truyền hình để phát biểu những lời nói xoa dịu
ngổn ngang. Nhưng ông không được chuẩn bị để đối phó với công việc cực kỳ khó khăn
ông phải đương đầu.

Tôi biết giờ phút của những lời lẽ âm thầm đã ch ấm dứt khi Johanna Schall, cô cháu gái
đầy năng lực và nguyên tắc của Bertolt Brecht, mời tôi tham dự một cuộc biểu tình ngày
4 tháng Mười Một tại quảng trường Alexander-platz ở Đông Bá Linh để kêu gọi một cuộc
thay đổi ôn hòa. Tôi tham gia với các văn sĩ Christa Wolf, Stephan Heym, và Heiner
Müller và các lãnh tụ của nhóm đối lập Diễn Đàn Mới Barbël Bohley và Jens Reich. Nhìn
một biển bích chương ghi

Bà Johanna Schall Markus Wolf , 1989

bằng tay yêu cầu chấm dứt quy tắc một đảng duy nhất, tôi thấy rõ tính chất độc quyền
của Đảng Xã Hội Chủ Nghĩa Thống Nhất của tôi đã chấm dứt. Đối với tôi, điều này có
nghĩa là t ừ bỏ một ý thức hệ mà tôi đã theo đuổi cả đời. Tôi vẫn tin rằng nước CHDC Đức
có thể - ít nhất trong một thời gian dài - tách biệt với Tây phương với sự hiện diện của
một chính quyền hiện thân cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa nhưng cho phép có được tự do
ngôn luận, tự do hội họp và có quyền sở hữu nhiều hơn. Tôi cố gắng thuyết phục nửa
triệu người tập hợp tại đây và cả triệu người nữa đang xem truyền hình không nên dùng
đến võ lực, nhưng trong lúc tôi nói, phản đối bầu không khí kết tội biến tất cả những
thành viên của những cơ quan an ninh thành những con vật tế thần cho chính sách của
giới lãnh đạo cũ, tôi hơi ng ợ một phần trong đám đông huýt sao chế nhạo tôi. Họ không
còn đ ầu óc để nghe những lời nhắn nhủ gìn giữ phong cách của cựu tướng của Bộ Công
An.

Và tôi đau đớn nhận biết trong những giây phút này tôi không trốn chạy được quá khứ
của tôi. Tôi phải nhẫn nhục nhận lãnh trách nhiệm về những sinh hoạt của cơ quan tôi
làm việc và những đường hướng của một chế độ tôi đã t ừng phục vụ và nuôi dưỡng, mặc
dù nó nằm ngoài quyền kiểm soát, sự hiếu biết hoặc sự đồng tình của tôi. Tôi không thể
nói phản ứng của đám đông làm tôi bất chợt kinh ngạc, nhưng lòng tôi c ảm thấy nhẹ
nhõm và tràn đầy hãnh diện vì cuối cùng tôi đã đứng lên và dám nói sự thật. Đêm hôm
đó, tôi trở về nhà và ngủ một cách say sưa lần đầu tiên trong suốt nhiều tuần.

Ngày 28 tháng Mười Một, Thủ Tướng Tây Đức Helmut Kohl ban hành chương trình mười
điểm để thống nhất nước Đức. Kể từ ngày đó, đặc biệt vào ngày 4 tháng Chạp, vào mỗi
ngày thứ hai biểu tình tại Leipzig, các bích chương rời rạc xuất hiện đòi h ỏi Nước Đức,
Một Tổ Quốc (DEUTSCHLAND, EINIG VATERLAND). Nhưng vào ngày đó không có những
lời kêu gọi như vậy tại Đông Bá Linh. Có nhiều quan điểm khác nhau được phát biểu trên
loa phóng thanh và do dân chúng xuống đường hô hào về hình thái tương lai c ủa đất
nước họ, nhưng có một bầu không khí kiến tạo chung nhất. Nhìn lại, tôi cho rằng đây là
ngày cuối cùng của giấc mơ xã h ội chủ nghĩa. Năm ngày sau, tôi có m ặt tại câu lạc bộ
các văn sĩ ở Postdam bàn bạc về quyển The Troika, thình lình một thanh niên tung cửa
vào và hét lớn: « Biên giới đã đư ợc mở». Lịch sử đã đư ợc viết nhanh chóng như vậy.
Trong vòng một đêm, thế giới cũ, th ế giới mà tôi đã cống hiến cả công trình của cuộc đời
tôi tan biến. Đêm hôm đó, màn ảnh vô tuyến truyền hình khắp nơi chiếu những hình ảnh
Bức Tường Bá Linh xụp đổ. Hàng rào bê-tông đã th ực chất củng cố sự ngăn cách ý thức
hệ chỉ trong vài ngày đã trở thành những mảnh kỷ vật. Kể từ nay tôi phải thích nghi với
thế giới mới, một thế giới mà tôi vẫn xem là kẻ thù và nay tôi đã tr ở thành kẻ xa lạ trong
đó, một kẻ tị nạn đến từ thế giới không tưởng đã x ụp đổ.

Ngày 15 tháng Giêng năm 1990, một đám đông giận dữ - trong đó có nhiều nhóm đã có
chuẩn bị trước – tràn vào cơ sở bộ cũ c ủa tôi và tóm thâu những hồ sơ và sau đó trao cho
các cơ quan tình báo phương Tây. Những phần đã được lựa chọn kỹ lường được đem ra
đăng tải, và vì tên tuổi của Mielke và tôi là những tên tuổi quen thuộc duy nhất đối với
quần chúng, hầu như không có ngày nào mả tôi không bị tấn công dữ đội, nhất là vì họ
khám phá những tên khủng bố trước đây của Cánh Hồng Quần (RAF=Red Army Faction)
đã đư ợc nước CHDC Đức chứa chấp. Họ không cần phân biệt đâu là bằng chứng hay
không bằng chứng hoặc tang chứng chứng tỏ là tôi có dín líu đến Cánh Hồng Quân; việc
tôi làm việc trong một cơ quan khác của Bộ có dính líu đến vụ việc là đủ để cho kẻ tố khổ
kết án tôi. Tôi không còn ngờ vực gì nữa vào ngày Thống Nhất Đất Nước, ngày 3 tháng
Mười năm 1990, tôi sẽ bị bắt. Sau khi tham khảo cả luật sư lẫn bạn bè, tôi quyết định rời
bỏ xứ sở một thời gian. Tôi hy vọng làm việc từ nước ngoài để bảo vệ đội ngũ trư ớc đây
của tôi, trong số đó người cuối cùng rời khỏi bộ vào tháng Tư năm 1990. Trước khi đi, tôi
viết thư cho Tổng Thống Liên Bang Richard von Weizsäcker, Bộ Trưởng Ngoại Giao Hans-
Dietrich Genscher và Willy Brandt nói rằng một chuyến di cư khác ra khỏi nước Đức là
điều khó xử đối với tôi:

Đây là đất nước của cha mẹ tôi. Ở đây họ tìm thấy lãnh vực sinh hoạt cho họ, sau khi đã
phải di cư lâu ngày. Cha mẹ tôi và em trai tôi đều an táng tại Bá Linh. Và đối với tôi,
nước Đức là nơi tôi bỏ công khó, là sức mạnh của tôi, là tình yêu, là những sinh hoạt của
tôi theo chiều hướng tích cực cũng như trong nh ững nỗ lực không thành và sai trái.

Và tôi viết cho ông ủy viên công tố liên bang Alexander von Stahl :

Đối với tôi và đối với các nhân viện trong đội ngũ cơ quan tình báo đã t ừng tham gia
trong Chiến Tranh Lạnh trong trường hợp tương tự như các nhân viên của các cơ quan
khác, chiến tranh có vẻ như vẫn tiếp tục. Đã có kẻ thắng trận và kẻ bại trận, trả thù
không chút thương sót.

Tôi muốn khẳng định cho mọi người biết, trong lúc tôi lên đường rời khỏi nước Đức trong
một thời gian, tôi sẽ trở về không ngần ngại một khi việc tòa án xét xử công bằng được
bảo đảm. Tôi cũng có nó i với Anatoly G.Novikov, giám đốc KGB tại Bá Linh, tôi có ý định
rời nước Đức một thời gian. Ông mỉm cười và nói rằng KGB biết Tây Đức đang tìm cách
miễn khởi tố để đổi trác với thông tin. Ông không nói cho tôi biết ông làm cách nào để
biết chuyện này, nhưng ông nói KGB rất hài lòng là tôi đã không tuân theo. M ột vài ngày
sau, sau khi ông báo cáo cuộc gặp gỡ của chúng tôi lên Moscow, tôi nhận được thư của
ông báo cho biết có thể liên lạc với KGB bát cứ lúc nào khi tôi lâm nguy.

Chúng tôi đồng ý là vợ tôi và tôi sẽ vào giờ phút chót tìm cách ra khỏi nước Đức để tránh
không để Liên Bang - Xô Viết mang tiếng can thiệp trong việc tôi trốn thoát. Nếu cần, tôi
sẽ điện thoại đến một số bí mật và họ sẽ đến giúp tôi ngay. Đây là lựa chọn tốt nhất
trong những đề nghị tồi dở. Tôi vẫn mong mỏi nếu tôi có thể trốn đâu đó ở châu Âu mà
không ai để ý trong một vài tuần, cuộc săn lùng ở Đức sẽ giảm cường độ và tôi có thể trở
về.

Andrea và tôi cuốn gói hành lý một cách kín đáo vào ngày 28 tháng Chín, sáu ngày trước
khi thống nhất, và lên đường đi Áo. Chúng tôi dùng thông hành thật của chúng tôi và
chính xe của tôi – tôi quyết định không để bị bắt trong tình trạng bất hợp pháp và không
bao giờ dùng giấy tờ giả - và lái qua biên giới giống như mọi du khách cuối hè đi lên miền
núi. Lính gác biên giới liếc nhanh giấy tờ của chúng tôi và vẫy cho chúng tôi đi qua. Khi
chúng tôi đi xa khỏi tầm mắt của họ, chúng tôi ngừng lại và ôm nhau mừng rỡ giống như
trẻ con trốn trường nội trú nghiêm ngặt để đi chơi.

Trong vòng hai tháng, Andrea và tôi lái đi khắp vùng quê nước Áo, trú ngụ tại những
khách sạn nhỏ và nhà trọ và đôi khi đến nhà bạn bè quen biết thuộc cánh tả Áo. Chúng
tôi không hóa trang, và khi họ phát giác sau ngày 3 tháng Mười tôi đã trốn khỏi nước
Đức, hình ảnh của tôi bắt đầu xuất hiện thường xuyên trên trang nhất những nhật báo, lẽ
cố nhiên được bày biện trong phòng khách và bàn tiếp tân của khách sạn. Nhưng một
cách lạ lùng, chẳng ai để ý xem tôi có giống với « tên gián điệp bị truy nã nhất » đã trốn
đâu mất. Một hoặc hai lần, Andrea để ý người nào đó để ý nhìn kỹ đến tôi hoặc nghe
những lời thi thầm ngạc nhiên, chúng tôi vội trốn tránh không kèn không trống. Đây là
một thời gian đặc biệt vừa đáng sợ hãi vừa đáng vui mừng. Tôi cảm thấy trẻ hẳn ra.
Nhưng chúng tôi không thể nào tiếp tục sống theo kiểu Bonnie và Clyde Đức được.

Chúng tôi khơi động đường dây Israel nhưng không có kết quả. Mặc dù đã có những lời
hứa trước đây, chúng tôi không nhận được thông hành ở Vienna, và tôi không muốn họ
để ý đến tôi vì tôi lẩn quẩn ở thủ đổ Vienna. (Tôi không đi Israel cho mãi đ ến năm 1995,
khi nhật báo Do Thái Ma’ariv quảng cáo rầm rộ mời tôi sang thăm viếng các cựu nhân
viên tình báo Mossad và gặp gỡ với cựu thủ tướng Yitzhak Shamir). Một đêm, trong lúc
ăn tối tại một ngôi làng Áo, tôi nhìn khuông mặt xin xắn nhưng lo âu của Andrea tôi biết
là chúng tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài Moscow. Tôi vẫn còn hy vong mong
manh là Gorbachev, vốn là bạn của Helmut Kohl, sẽ ngỏ lời kêu gọi khoan hồng cho
chúng tôi. Từ Áo tôi viết thư cho ông nhưng tôi không nhận được hồi đáp. Tháng Mười
Một năm 1990, tôi lấy số bí mật đã được trao cho tôi ở Bá Linh để liên lạc với KGB trước
khi tôi lên đường, đọc mã số cho người Nga đầu dây và báo là thời cơ đã chín mùi.

Hai ngày sau, Andrea và tôi, chúng tôi được một giao liên Nga đến bốc đi tại biên giới
Hungary và đưa chúng tôi băng qua đồng bằng Hungary. Sau một ngày nghỉ, chúng tôi
vào lãnh thổ Ukraine, và từ đó chúng tôi đến Moscow. Chúng tôi đến nơi mệt mỏi nhưng
lòng thật nhẹ nhõm biết rằng những ngày bôn ba đào tẩu đã chấm dứt.
Markus Wolf và vợ Andrea Stingl (AFP)

Tại Moscow, Leonid Shebarshin tiếp đón chúng tôi tại bộ tư lệnh cơ quan tình báo hải
ngoại tại Yasenevo và chúng tôi nâng ly ăn mừng việc đào thoát của tôi. Nhưng bầu
không khí lúc đó đã căng thẳng. Các vị chủ nhà tỏ ra bối rối vì tôi không nhận được sự hỗ
trợ nhiều hơn của Gorbachev. Mặc dù ông quen biết tôi nhiều, Kryuchkov gởi lời chào qua
Valentin Falin và Trung Ương Dảng chứ không đích thân đến gặp tôi. Giám Đốc KGB
khuyên tôi không nên trở về Đức. Rõ là giới lãnh đạo tiến thoái lưỡng nan về sự hiện diện
của tôi. Một mặt, họ cảm thấy ràng buộc với quá khứ để cho tôi trú ngụ tại Moscow. Mặt
khác họ không muốn làm to chuyện về sự hiện diện của tôi ở đây, vì mối bang giao với
Bonn có ưu tiên hơn.

Lần đầu tiên trong đời của tôi, những nơi trước đây vẫn luôn trả lời có tại Moscow nay bắt
đầu trả lời không. Hoặc là, trong phong cách khó diễn tả của người Nga, họ không trả lời.
Để tìm kiếm tài liệu cho quyển sách này, tôi tìm cách tham khảo một vài tài liệu cũ của
NATO đã đư ợc các nhân viên của tôi thu thập và do tôi gởi đi Moscow. Chúng không bao
giờ xuất hiện. Lẽ cố nhiên, người ta không từ chối tôi thẳng thừng. Tôi được báo là những
bí mật chính tay tôi đã g ởi đến Moscow không thể tiếp cận được nữa vì “lý do kỹ thuật”.

Tôi bỏ thời giờ đi tìm kiếm sự hỗ trợ chính trị và hợp pháp cho các nhân viên cũ trong cơ
quan của tôi, cho các điệp viên và cho chính bản thân tôi, và tôi cũng đi tìm nh ững bạn
bè cũ thời thiếu niên và tìm tòi những món ẩm thực, thu thập những công thức món ăn
Nga để in thành sách mà sau này tôi xuất bản. Con trai Sascha của tôi, được Claudia, con
gái của Andrea với chồng trước, trông nom, lâu lâu đến thăm chúng tôi.

Tôi sống thoải mái ở Moscow cho đến tháng Tám năm 1991. Nhưng tôi có nhu cầu gần
gũi với gia đình tôi và các đồng nghiệp cũ ở Đức. Sống ở lại Liên Bang Xô Viết có nghĩa là
sống bình dị, như một người di cư. Vào mùa hè, Andrea và tôi được Trung Ương Đảng
mời đi nghỉ mát ở Yalta, trên bãi biển Hắc Hải, trong một ngôi dacha dành riêng cho đảng
viên cao cấp. Cùng lúc đó, Mikhail Gorbachev cũng đang ngh ỉ hè không xa – đây là mùa
nghỉ mát cuối cùng của ông với tư cách lãnh đ ạo Liên Bang Xô Viết. Vì ở tại đây ông phải
đón tiếp một phái đoàn các đồng nghiệp trong Bộ Chính Trị từ Moscow đến mà ông không
hề mời để nghe tin đảo chánh do không ai khác Kryuchkov, giám đốc KGB, cầm đầu.
Vladimir Kryuchkov

Kryuchkov không phải là ông xếp tôi mến chuộng, nhưng tôi không bao giờ nghĩ một
người tầm cỡ như ông lại dính líu đến một hành động thiếu chín chắn như vậy. Một vị
giám đốc tình báo không thể nào không thấy đây là một trò đùa ngay t ừ lúc khởi đầu.

Cuộc đảo chính hụt là một đòn chí m ạng đối với chúng tôi. Các luật sự của tôi đến gặp tôi
hai lần để bàn thảo về ngày trở về Đức. Bây giờ việc quyết định bỏ đi đã tr ở nên gấp rút.
Ngày tàn của Gorbachev đã g ần kề và Boris Yeltsin sẽ sớm chiếm lĩnh quy ền hành tuyệt
đối. Tôi không trông mong ân huệ gì nơi ông c ả.

Vì vậy vào cuối tháng Tám, lúc đó Gorbachev trong vị thế lung lay đã tr ở về điện Cẩm
Linh, tôi hẹn gắp với Leonid Shebarshin. Ông đã t ạm thời lên nắm quyền cơ quan KGB vì
bây giờ Kryuchkov đã th ất sủng và bị giam giữ. Ông trông vẻ bàng hoàng và căng thẳng
vì áp lực của những biến cố. Hiện tình Liên Bang Xô Viết đang rối loạn và KGB bị tách làm
hai giữa người ủng hộ và chống đối cuộc đảo chánh, nên cá nhân tôi và những vấn đề
của tôi là điều phiền nhiễu cuối cùng ông cần đến. Tuy vậy, có lẽ ông muốn giữ tôi lại,
làm một cử chỉ đẹp cuối cùng để bày tỏ tình đoàn k ết đối với một sĩ quan tình báo.

Ông chăm chú nghe tôi nói trong lúc tôi giải thích ý định trở về Đức, rồi ông ngửa lòng
bàn tay theo kiểu người Nga để diễn tả nỗi thất vọng. “Anh thấy sự việc ở đây rồi,
Mischa. Anh là người bạn tốt đối với chúng tôi, nhưng chúng tôi chẳng giúp được gì cho
anh bây giờ. Ai có thể ngờ được sự thể lại kết thúc như vầy! Thượng đế chúc phúc cho
anh”.

Chúng tôi quyết định đi nghỉ ít ngày ở Áo trên đường trở về, không phải chỉ để lấy lại sức
khỏe sau những khủng hoảng của những tuần qua, nhưng vì đây là m ột cứ địa từ đó tôi
có thể liên lạc với các luật sư Đức và thu xếp ngày trở về của tôi cho thật êm suôi. Nhưng
hóa ra đây chỉ là ảo vọng. Chính quyền Xô Viết, vì bất cẩn hơn là có ác ý, đã ti ết lộ trong
lời tuyên bố chính thức việc tôi rời bỏ Liên Xô là tôi đã đi sang Áo. C ảnh sát Áo và cơ
quan mật thám được lệnh truy nã tôi và bắt giữ. Sau đó họ sẽ giao cá nhân tôi cho các
đồng nghiệp Đức.

Tuy nhiên, tôi không thấy có lý do gì để tuân theo guồng máy quảng cáo và trở về sớm.
Chúng tôi tiếp tục du lịch. Nhưng các nhà bình luận, các họa sĩ hí họa bắt đầu chê cười và
nhạo báng sự bất lực của chính quyền Áo không có khả năng tìm ra trùm gián đi ệp về
hưu trong một nước tí teo. Báo cáo hàng ngày xuất hiện trên báo chí và tất cả sự việc trở
thành một trò lố bịch, do đó tôi đến Vienna và tự nộp mình. Cảnh sát Áo tỏ ra rất nhã
nhặn, hơn nữa không có. Họ tìm cho chúng tôi một nơi kín đáo xa lánh báo chí, và, sau
gần một năm tôi rời nước Đức, với sự trợ giúp của các luật sư chúng tôi thu xếp trở về
quê nhà.

Chính quyền Đức thu xếp để sự việc diễn ra gọn gàng. Bước qua Bayerisch Gmain, chúng
tôi nhìn thấy lính gác chờ đón chúng tôi ở biến giới. Một cách lịch sự, họ mời chúng tôi ra
khỏi xe và lục xét qua loa hành lý của chúng tôi – để tìm vũ khí, một viên chức bối rối
giải thích cho chúng tôi. Michael, con trai lớn nhất của tôi đã di chuy ển đến để gặp tôi ở
bên phía Áo, vui mừng được tham dự vào vở tuồng. Nó lái xe của tôi, trong khi đó Andrea
và tôi được đưa vào một chiếc xe Mercedes đạn bắn không thủng một khi chúng tôi bước
qua biên giới. Một chiếc xe thứ hai giống như vậy theo sau trong đó có ủy viên công tố và
luật sư của tôi.

Ngay sau biên giới chính quyền Đức thu xếp để ngừng tại một khách sạn để giải khát.
Trong phòng khách, ông ủy viên công tố nghiêm nghị móc lệnh bắt và đọc cho tôi nghe.
Và chúng tôi lên đường đến văn phòng t ối cao pháp viện tại Karlsruhe. Mặc dù giờ giấc đã
khuya khoắt, ông ủy viên công tố đã thu xếp việc giam giữ tôi tức khắc. Không bao lâu
trước mười hai giờ đêm tôi được đưa đến phòng giam có hai lần khóa duy nhất tại trại
giam Karlsruhe. Sau mười một ngày, tôi được tại ngoại hậu tra nhờ sự can thiệp của luật
sư. Tiền bảo lãnh được ấn định quá cao đến độ tôi chỉ gom góp được số tiền này với sự
trợ giúp của bạn bè và trong những điều kiện phải gọi đúng là đầy hận thù.

Có huyền thoại cho rằng trong lúc tôi thăm viếng dài hạn ở Moscow, một lần vào mùa
Xuân năm 1990 và một lần nữa vào tháng Mười Một 1990, tôi đem theo những hồ sơ tình
báo của nước CHDC Đức và đưa cho KGB. Ý nghĩ thú v ị này phát xuất từ những lời đồn
đãi liên quan đến những hồ sơ này, nhưng tất cả đều sai tất vì lý do đơn giản là phương
cách làm việc của tình báo. Tôi đã r ời cơ quan được ba năm khi nước Đông Đức sụp đổ và
tôi đã chọn Werner Grossmann làm người kế vị. Vì là một người siêng năng nên
Grossmann được thành phần trẻ thuộc giới kỹ trị trong cơ quan ưa chuộng. Tôi chẳng bao
giờ có ý định câu thúc phương pháp làm việc của người kế vị sau khi tôi đã về hưu. Hạn
hữu lắm ông mới tham vấn tôi để hỏi ý kiến về những vụ việc đã khởi sự khi tôi còn chỉ
huy, nhưng thông thường ông theo phương pháp của ông. Một trong những lời dặn dò tôi
có nới với ông khi tôi trao chìa khóa văn phòng làm vi ệc của tôi là đừng bao giờ để hồ sơ
của các điệp viên vào trong đĩa vi tính dư ới bất kỳ hình thức nào. Tôi đã mất thời giờ lúc
ban đầu khi máy vi tính bùng phát để chống cự lại áp lực của đám nhân viên trẻ giỏi
khăng khăng cho rằng hệ thống thiết lập hồ sơ của chúng tôi nặng nề và thiếu hiệu quả.
Những hồ sơ của Bộ Công An, như mọi người đều biết, nhờ các bài viết kinh hãi của báo
chí, chiếm đến hàng mấy dặm trong kho. Tuy tôi không chối cãi là công an nhà nước của
Đông Đức có lề thói ám thị thu thập và ghi vào hồ sơ tất cả những thông tin về công dân
của mình và những ai mà bộ cảm nhận là kẻ thủ ở hải ngoại, tôi chỉ xin nhắc nhở với các
vị chạy tít hàng đầu báo chí lý do của sự thể này là tìn trạng sơ khai của nền vi tính của
Đông Đức. Tôi không nghĩ là CIA thi ếu hồ sơ, nhưng tôi chắc chắn là họ lưu trữ chúng
một cách ngăn nắp trong những vi mạch điện tử và băng nhựa từ trường.

Như tôi đã nói trư ớc đây, khi bắt đầu khá sớm trong nghề, tôi đã nghĩ ra m ột hệ thống
quy chiếu chồng chéo phức tạp, có nghĩa là b ất kỳ ai muốn nhận diện một điệp viên
trong hồ sơ của chúng tôi sẽ cần phải tham khảo từ ba đến năm mẩu thông tin riêng biệt
(tùy theo múc độ an ninh) và phải thông qua kiểm tra an ninh để đọc ba mẩu tài liệu có
liên hệ với nhau. Hồ sơ lưu trữ trung ương bao gồm tên tuổi của điệp viên (được xếp theo
họ, tên, ngày sinh và nơi sinh) cùng với tên tuổi của hàng trăm ngàn người khác được ghi
vào đó với nhiều lý do khác nhau. Thẻ lưu trữ được lưu giữ riêng biệt trong mỗi một ban,
và mỗi ban quản lý nhiều nhất từ sáu chục đến một trăm điệp viên. Mỗi một điệp đều có
một thẻ ghi bí danh, địa chỉ và lãnh thổ làm việc – có thể là bộ, là công ty hoặc một tổ
chức, nơi đương sự làm việc. Các thẻ không bao giờ ghi tên thật của điệp viên, chiếc thẻ
nhỏ lưu trữ ở mỗi ban thường được một sĩ quan cao cấp đáng tin cậy cất giữ. Trường hợp
xảy ra khung hoảng hoặc chiến tranh, công việc của sĩ quan này là l ấy những thẻ này đi
đem cất ở bộ tư lệnh lâm thời. Những ai không có phép tham khảo sẽ phải thực chất rà
soát qua một khối lượng khổng lồ giấy tờ để tìm ra hồ sơ đối hợp. Công tác lỗ liệu để
phối hợp bí danh của điệp viên với tên thật của đương sự chắc chắn sẽ gây chú ý – hầu
như trái ngược lại với những gì có thể xảy ra nếu tất cả những hồ sơ này nằm trên những
đĩa vi tính. Việc làm hao tổn công sức trong công tác tìm kiếm không gây phiền hà gì
nhiều cho chúng tôi vì tôi và các sĩ quan cao c ấp lưu giữ tên tuổi của các điệp viên quan
trọng ở trong óc chúng tôi. Tôi hiếm khi phải tìm kiếm danh tính của một điệp viên hoặc
lãnh vực đương sự đang họat động.

Về máy vi tính, an toàn cho những thông tin như vậy được gìn giữ nhờ ở mức độ kiểm
soát và mật mã. Đã nhi ều lần các chuyên gia cố thuyết phục tôi là hệ thống máy vi tính
bảo đảm là an toàn. Họ lúc nào cũng t ỏ vẻ quả quyết cho đến cách đó vài tuần hoặc vài
tháng sau báo chí cho biết có một thiếu niên mười hai tuổi đã xâm nh ập được vào máy vi
tính quân đội từ phòng ngủ của mình. Tôi không bao giờ tin máy vi tính.

Những gì cần phải được bảo vệ bằng mọi giá là bảng mục lục mã hóa ở trung ương, vì
đây là chìa khóa đ ể tìm danh tính và công tác của điệp viên. Tôi không nói chính xác việc
gì đã x ảy ra cho bảng mục lục này. Nếu tôi còn làm việc, những hồ sơ này có lẽ đã lên
đường đi Moscow khi Đông Đức sụp đổ, nhưng không hề có lệnh chính thức đối với những
hồ sơ này trong trường hợp quốc gia sụp đổ. Chúng tôi ở cơ quan HVA cho rằng trong
thời chiến những hồ sơ này phải được gởi đến bộ tư lệnh trung ương thời chiến tại Gosen,
ở phía Đông biên giới Bá Linh, nhưng tất cả các ban đều có những cứ điểm lưu trữ trong
trường hợp khẩn trương. Năm 1989, nơi lưu trữ những hồ sơ này do người lãnh đạo cơ
quan tình báo nước CHDC Đức quyết định. Khó mà biết được chính quyền Nga đã dùng
những hồ sơ thẻ này đến đâu nếu họ có chúng trong tay. Đã có nhiều người dự đoán là
Moscow sẽ khơi động những điệp viên này cho quyền lợi riêng họ và tiếp tục dùng tài
năng của họ để dòm ngó Tây phương. Điều này đối với tôi rất khó thực hiện. Nếu tôi là
cấp lãnh đạo tình báo hải ngoại của Nga, tôi xem những gián điệp này quá nguy hiểm để
có thể sử dụng. Kinh nghiêm đau thương trong những năm cuối cùng đầy khuấy động
cho chúng ta thấy biến động xã hội có thể biến những người tưởng chừng trung thành trở
nên những kẻ phản bội. Sự thống nhất của nước Đức là một đòn đau đi ếng cho tất cả
chúng tôi và là một thách đố cho lòng trung thành vì hiện nay khó có thể đo lường được
phản ứng của các điệp viên, các sĩ quan và nh ững nguồn tin. Vào giữa năm 1990, họ biết
là chúng tôi đã bị chính quyền Xô Viết bỏ rơi. Các sĩ quan chúng tôi oán hận cao độ chính
quyền Xô Viết, và khi các sĩ quan cao cấp đến thăm tôi câu chuyện cuối cùng cũng trở về
việc Moscow không trợ giúp họ sau bao nhiều lần cùng nhau uống rượu ăn mừng. Cuối
năm này tôi nghe tin đồn trong nội bộ KGB là điã vi tính chứa những hồ sơ tối mật của cơ
quan HVA đã đ ến tay của CIA và đã đư ợc giải mã trong một công tác quy mô. Đây là lần
đầu tiên tôi nghe những dữ liệu như vậy được ghi vào đĩa vi tính. Sau đó không lâu,
Rainer Rupp và ngay cả những đầu mối liên lạc như Karl Wienand đều bị bắt. Những dữ
liệu nguyên chất để khám phá ra những người này chỉ phát xuất từ sổ trung ương có ghi
những chi tiết về những điệp viên sinh hoạt ở phương Tây.

Những hồ sơ này từ đâu ra? Chúng đã đư ợc chuyển vào trong đĩa vi tính? Nỗi lo sợ chiến
tranh vào đấu thập niên 1980 đã buộc chúng tôi phải tính đến những biện pháp tinh vi để
sơ tán và ngay cả xây dựng một boong-ke đặc biệt kiên cố ở Gosen, và từ đó tôi giả sử
vẫn tiếp tục chỉ huy các điệp viên – làm như tôi có khả năng liên lạc với họ bằng vô tuyến
điện hoặc bằng những phương tiện khác trong trường hợp có đại chiến nguyên tử. Tôi
nghĩ công trình có hơi điên rồ, và tôi chỉ viếng boong-ke có một lần, nhận xét rằng nếu
chiến tranh nguyên tử bùng nổ, chúng tôi chẳng bao giờ có thì giờ để đến đó. Bây giờ tôi
nghĩ là nh ững thẻ ghi danh các điệp viên đã đư ợc tập trung và cho vào máy điện tính,
theo lệnh của ai tôi không biết. Một khi chuyện đã th ực hiện, sao chép đĩa vi tính là m ột
công việc tương đối đơn giản đối với một sĩ quan cao cấp.

Vì vậy tôi kết luận là một trong những nhân viên của chúng tôi đã bán nh ững dữ liệu này
cho CIA với một giá tiền kếch sù và lời hứa miễn tố của ủy viên công tố Đức. Quy vị nên
nhớ, trưởng ban phụ trách về Hoa Kỳ của tôi đã t ừ chối lòi đề nghị một triệu Mỹ kim chỉ
riêng cho thông tin này. Một lý do tôi nghĩ h ồ sơ này rơi trực tiếp vào tay CIA, mà không
phải là người Nga, là vì có những câu chuyện xuất hiện trên báo chí nói rằng tình báo
nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức đã trao những hồ sơ cho chính quyền Nga tại căn cứ của
KGB ở Karlhorst, tại Bá Linh. Vì nhiều lý do, việc này khó có thể xảy ra và tôi cho rằng
câu chuyện là một trò phản thông tin để che dấu cuộc thương lượng trực tiếp giữa CIA và
một trong những sĩ quan c ủa chúng tôi.

Nếu tôi đoán chính xác, đây là một mẻ lưới độc nhất vô nhị trong lịch sử tình báo. Chính
quyền Đức không còn giấu sự kiện là phần lớn những thông tin họ dựa trên đó để truy tố
một chục điệp viên của chúng tôi được Hoa Kỳ chuyển giao để làm một cử chỉ bày tỏ
thiện chí. Trong lúc tôi và một số người khác điều tra, rõ ràng là các thẩm vấn viên đang
làm việc trên danh sách các bí danh và tìm cách khám phá tên thật của những người này.
Ví dụ, Heinz Busch, một trong những chuyên viên nghiên cứu trong cơ quan tình báo cũ
của tôi, nói với ủy viên công tố trong lúc bị thẩm vấn vào năm 1990 là chúng tôi có một
điệp viên tại NATO và tiết lộ bí danh của đương sự. Nhưng Rainer Rupp không bị lộ cho
đến cuối mùa hè năm 1993, sau khi báo chí Đức cho biết là CIA đã cho phép tình báo
Đức điều tra một vài tên tuổi – được lưu trữ ở một hồ sơ riêng biệt.

Việc này diễn ra tại bộ tổng tham mưu của CIA tại Langley, Virginia và không phải cho
đến hai hoặc ba năm sau khi họ có được tên. Tại sao CIA lại chờ lâu như vậy ? Theo CIA,
việc nhận diện những điệp viên Đông Đức chỉ là một phó sản của một chiến dịch mà tầm
cơ và cường độ cho thấy đây là vụ việc khác. Đối tượng của họ nằm ngay trong nội bộ
của họ, kẻ nằm vùng vẫn tiếp tục gậm nhấm năm này qua năm nọ, ngay tại trung tâm
an ninh của Hoa Kỳ. Họ biết là nó hiện diện nơi đây. Họ biết những tác hại do hắn gây ra.
Nhưng họ không biết tên tuổi của hắn và chính vì việc này mà Gus Hathaway đến gặp tôi
vào mùa Xuân 1990.

Khi Gaby Gast, điệp viên tài giỏi của chúng có vị trị cao trong cơ quan tình báo Liên Bang
BND ra tòa năm 1991, rõ ràng cô đã b ị bán rẻ sớm hơn và với giá rẻ hơn. Karlizcek, tình
nhân của cô, muốn tự cứu mạng và bỏ rơi cô nên đã từ chối trưng những bằng cớ làm
giảm bớt tội trạng cho cô và công khai tuyên bố họ không có cùng một tương lai. Vì là
công dân của nước CHDC Đức cũ, đương s ự hưởng án treo về những sinh hoạt tình báo
(trong tất cả mọi vụ án lệnh đều là như vậy trừ trường hợp của tôi). Tuy nhiên, vì là công
dân Tây Đức, cô được xem là kẻ phản bội đất nước và nhận án sáu năm rưỡi tù ở.

Karlizcek ăn mừng vì được tự do trong một bữa cơm trưa hoang phí tại một quán ăn Ý đối
diện với tòa án, trong khi tình nhân hai mươi năm c ủa y bị nhốt vào nhà tù Neudeck dành
cho phụ nữ tại Munich. Rõ ràng là lòng trung thành của y không thuộc về cô cũng không
thuộc về chúng tôi; đối với y đây chỉ là công việc.

Việc Gaby bị bắt giữ và bị kết án là một đòn đau nhất cho tôi trong thời gian đầy thất
vọng và thảm bại cá nhân. Trong một lá thư viết từ trong tù, Gaby giận giữ bày tỏ sự
uất hận đã b ị một sĩ quan lãnh đ ạo tình báo Đông Đức phản bội. Tôi cảm thấy mình có
lỗi, vì tôi đã h ứa chắc chắn là cô sẽ không bao giờ bị lộ và chúng tôi luôn bảo vệ cô.
Nhưng một tên Judas đã tố giác cô và lòng tôi cảm thấy ngổn ngang vì tôi không có khả
năng giúp cô. Ý nghĩ Gaby ở trong xà lim tù, lo lắng cho đứa con, lòng luôn tự trách và
cái cảnh báo giới Đức đầy hiềm khích bóp méo động cơ và hoạt động của cô, đốt cháy
tim óc của tôi.

Có lẽ điều duy nhất tôi có thể làm là giúp Gaby có thêm nghi lực. Cô lo rằng những lời an
ủi đoàn kết của tôi chỉ là trò chơi ch ữ, và tôi đã nói b ất kể điều gì đ ể thuyết phục cô làm
việc cho chúng tôi và bây giờ những lời tuyên bố của tôi nghe ra trống rỗng. Để trả lời cô,
tôi viết một lá thư nhắc nhở cô: « Chưa bao giờ cô là một bộ phận nhỏ trong cỗ xe, hoặc
chỉ là một trong những người mà số phần dính liền với những biến cố, ở chừng mực nào
đó, biến chúng ta thành những nạn nhân. Những điều này rất khó diễn tả trong một lá
thư, và bao lâu tôi còn nghĩ tôi hi ểu cô, kinh nghiệm sống của chúng ta luôn luôn khác
nhau – trong những năm vừa qua và hơn thế nữa. Tuy nhiên, chúng ta bị ràng buộc vì
tình thế. [Những quy chiếu của tôi về tinh thần đoàn kết] không thể nào là những xáo
ngữ nghe mệt mỏi tai. Chúng phản ánh chân thật và thâm sâu những gì tôi cảm nhận. »

Chúng tôi lại trở lại nếp xưa trao đổi thư từ hỗ trợ lẫn nhau. Cô thường điện thoại cho tôi
và nói rằng mối liên hệ kéo dài giữa hai chúng tôi cho cô sức mạnh để chịu đựng hình
phạt đương đầu với quá khứ. Cô trở thành người tích cực trong một nhóm hoạt động
nhằm chấm dứt việc truy tố những điệp viên mà việc tố tụng đang trên đường đi đến tòa
án. Thời buổi bây giờ những liên lạc của chúng tôi không cần phải mã hóa hặc phải qua
các ngã bí mật. Đây là món quà tặng nói lên sự kiện trong nghịch cảnh thảm khốc nhất
hai điệp viên đã trở thành hai người bạn.

Mặc dù tình nhân của Gaby đã tránh đư ợc tội phản bội dựa trên cơ sở đương sự là công
dân Đông Đức, nhưng lô-gích này không được áp dụng cho bản thân tôi. Ngày 4 tháng Ba
năm 1993, tôi tìm lối đi giữa đám ký giả nài nỉ và đám đông hiếu kỳ để vào tòa án tối cao
của tỉnh Düsseldorf để đường đầu với việc thẩm tra sự nghiệp của đời tôi. Đi cùng với hai
luật sự, tôi và Andrea len lỏi vào tòa. Ngước mắt lên nhìn tòa tháp trên đầu dinh thự, tôi
lướt nhìn con đại bàng, biểu tượng uy nghi của Đế Quốc Đức, đôi cánh xòe ngang, một di
tích hiếm hoi thời hậu chiến dưới triều đại của Kaiser. Một đám phóng viên tụ tập trước
cửa, nhất định phát hành cho kỳ được tin sốt dẻo trong ngày. Họ thèm thuồng ùa về phía
chúng tôi.

Đối diện với tôi, các ủy viên công tố mặc áo trùng tím ngồi ở phía bên kia dãy ghế vòng
hình U. Tôi bắt đầu quen biết những khuôn mặt của họ từ ngày tôi bị bắt tại biên giới Áo
và một lần trình diện ngắn ngủi tại Tòa Thượng Thẩm ở Karlsruhe. Trong tòa không còn
một ghế trống nào.

Sự hiện diện của tôi tại tòa có nhiều điều oái ăm. Giờ đây tôi, cấp lãnh đạo của tình báo
hải ngoại Đông Đức, xuất hiện trước bộ máy tư pháp của nước Đức thống nhất vì tội làm
gián điệp chống lại Cộng Hòa Liên Bang Đức. Lạ lùng hơn nữa, cũng chính tại căn phòng
này Günter Guillaume và vợ Christel đã bị xử năm 1975. Toàn án đã được đặc biệt xây
cất thành khối để việc nghe lén không thực hiện được trong khi xét xử, trong đó các bộ
trưởng và các viên chức của cơ quan tình báo BND và cơ quan ph ản gián BfV
(Bundesamt für Verfassungsschutz) đứng ra làm chứng nhưng phải giữ bí mật.

Chọn lựa đầy cảm tính này không phải là một sự ngẫu nhiên. Văn phòng c ủa ủy viên
công tố liên bang tại Karlsruhe đã đ ặc biệt đệ kiến nghị lên tòa án Düsseldorf đ ể vụ án
được xử tại đây. Trước khi Guillaume bị đưa ra tòa, Tòa Án Düsseldorf nổi tiếng khắt khe
không nhân nhượng trong lúc tuyên án. Các quan tòa được xếp vạo hàng nghiêm ngặt
nhất trong nước. Danh sách tội danh dài đến 389 trang. Nội dung và lối hành xử cộc lốc
của văn phòng ủy viên công tố đối với những lời phản biện của luật sư biện hộ của tôi
trước khi tòa án xét xử khiến cho tôi không còn nghi ngờ gì về những việc sắp tới đang
chờ đợi tôi.

Năm vị quan tòa xuất hiện và ngồi vào ghế của mình. Cuộc xét xử chính thức bắt đầu. Ở
giai đoạn đầu, tôi quan sát những khuông mặt của các quan tòa. Họ gồm có bốn người
đàn ông và một phụ nữ. Tôi đã có l ần gặp họ trước đây, năm ngoái khi tôi đến tòa đ ể làm
nhân chứng trong việc xét xử Kuron.

Phiên tòa xét xử Kuron là một hình ảnh cảnh báo khó chịu cho những gì sắp tới, và hình
ảnh của đương sự ngồi trên ghế của bị cáo lụm khụm và già nua vì tinh thần bị căng
thẳng, làm tôi giật mình. Thì ra, tôi nghĩ, đây là hình ảnh của sự thống nhất đất nước khi
chúng ta nhìn thật kỹ. Trước đây tôi chỉ cần trưng bày chứng cớ rồi đứng dậy ra đi,
nhưng bây giờ tôi bị kẹt cứng ở đây với những quan tòa cũ, ng ồi chễm chệ trong bộ y
phục đen, dưới tượng con đại bàng khổng lồ. Trông họ có vẻ kỳ dị, giống như những
nhân vật trong những bức tranh của Hieronymus Bosch hoặc là thế giới ác mộng của
Goya. Trong bảy tháng kéo dài lê thê, tôi quen thuộc những nét mặt của họ và ngay cả
những cử chỉ của họ.

Tranh của Hieronymus Bosch

Ông chánh án Klaus Wagner có khuông mặt rộng, cử chỉ vô hồn và cặp mắt soi mói,
những nét này khiến cho người ta thấy ông giống một cách lạ lùng con cú vọ già. Ông tỏa
ra một tinh thần khiêm nhường và điềm đạm nhưng có thể xuất kỳ bất ý tấn công một
nhân chứng không có gì đáng nghi ngờ cả. Ngồi giữa ông và một thẩm phán nữ có
khuông mặt mỏng (có vẻ như vội vàng viết tất cả những lời trong phiên xử) là một thẩm
phán trẻ có những nét bạch tạng. Ông tỏ vẻ như muốn chứng tỏ ông là người kế vị chánh
án Wagner nhưng lại không được phép phát biểu và tự hãm mình trong vai trò rót nư ớc
vào ly của cấp trên.

Thẩm phán thứ tư hình như có nhi ệm vụ chính là xuất trình chứng liệu về mỗi một tội
danh trong hồ sơ của tôi và vội vàng vùi đầu vào núi hồ sơ và giấy tờ. Còn vị thẩm phán
thứ năm tôi không định vị được, ông có vẻ như chẳng có vai trò gì trong việc khởi tố và
giới hạn vai trò của mình trong việc đôi lúc bí hiểm mỉm cười, một nụ cười vụt xuất hiện
và cũng mau chóng bi ến mất trên khuông mặt của ông.

Khi tôi nhìn những vị đại diện cho cái mà tôi gọi là hệ thống tư pháp của kẻ thù, tôi buộc
lòng nghĩ đến nỗi oái oăm của đời tôi: thành công của tôi chính là sự suy vi của tôi. Tôi
phải ngồi ghế của bị cáo vì đã ch ỉ huy một cơ quan tình báo thành công nh ất ở châu Âu,
Đông hoặc Tây.

Luật sư biện hộ cho tôi yêu cầu đình hoãn việc xét xử chờ cho đến khi có quyết định của
Tòa Án Hiến Pháp Liên Bang tại Karlsruhe, tòa án có thẩm quyển cao nhất nước Đức, để
xem có nên tiếp tục khởi tố hay không. Tôi hy vọng nhiều vào việc này vì Tòa án Bá Linh
chuẩn bị xét xử Werner Grossman, người kế vị tôi, đã từ chối xét xử vụ này cho đến khi
nào có pháp lệnh quy định cơ sơ hợp pháp vững chắc để xét xử những gián điệp của
Đông Đức tại một tòa án Đức thống nhất. Nhưng vị thẩm phán ở Toàn Án Hiến Pháp gạt
phăng lời phản đối của luật sư biện hộ cho tôi.

Lần biện hộ thứ hai của chúng tôi là chứng minh, mặc dù các nhân chứng đã đi ều trần và
có chứng liệu trong những hồ sơ của chính quyền, về mặt pháp lý không có sự khác biệt
đáng kể nào giữa những sinh hoạt của những cơ quan tình báo Đông và Tây. Điều này sẽ
biến điểm chính trong việc xét xử của ủy viên công tố không còn giá trị, đích danh là tôi
phạm tội phản bội vì đã chuy ển giao tin tức tình báo cho KGB. Chúng tôi cũng có thể
chống đỡ là Cơ quan Tình Báo Liên Bang (BND) cũng không kém mau m ắn trong việc
chuyển giao tín tức cho đồng minh Hoa Kỳ, cơ quan CIA.

Không may cho tôi, việc so sánh giữa hai công tác như vậy đã không diễn ra tại tòa án, vì
vị thẩm phán bác bỏ lời phản đối của chúng tôi trên căn bản là những sinh hoạt của cơ
quan BND không liên can gì đến tòa án này. Vì vậy luận cứ chính trong việc truy tố của
ủy viên công tố là khẳng định cơ quan tình báo của tôi là kẻ thừa hành của một chế độ
bất chính. Vì vậy ông biện luận cơ quan chúng tôi về mặt cơ bản có tính chất gây hấn,
trong khi đó những cơ quan tương tự ở phía bên kia trong lúc Chiến Tranh Lạnh trái lại có
tính cách phòng thủ và vì vậy có thể chấp nhận được. Căn bản pháp lý của lời biện luận
của ông dựa trên Bộ Luật Căn Bản của Tây Đức (Grundgesetz), theo đó nước Cộng Hòa
Liên Bang có chủ quyền trên tất cả lãnh thổ nước Đức trước đây.

Lập tức sau khi Tối Cao Pháp Viện ở Düsseldorf bác bỏ lời thỉnh cầu của nhóm luật sư
biện hộ của tôi, tôi nghĩ rằng tôi có thể giúp thu ngắn thời gian cho Tòa bằng cách tuyên
bộ trước bản án kết tội tôi. Công tố viên cho rằng tôi từ nhiều năm nay đứng đầu cơ quan
tình báo hải ngoại của nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức, Tổng Cục Tình Báo; rõ ràng chẳng
cần chứng cớ hoặc nhân chứng để chứng minh điều này. Ủy viên công tố tuyên bố thêm
ông có những bằng chứng chứng tỏ là cá nhân tôi đã g ặp gỡ và ra lệnh cho các điệp viên.
Tôi thấy không cần phải quấy rầy Tòa đ ể truy xét những cuộc gặp gỡ này, vì tôi không có
ý định phủ nhận những việc này. Tôi lấy làm hãnh diện là một người lãnh đ ạo xả thân
mình làm việc và không phải là kẻ ngồi đàng sau bàn ra lệnh cho kẻ khác nhảy vào con
đường hiểm nguy của điệp báo.

« Tôi tham dự vụ xử này bởi vì tôi muốn sống tại một đất nước vì đó là t ổ quốc của tôi.
Tôi thượng tôn pháp luật của nước Cộng Hòa Liên Bang Đ ức cho dù tôi không đồng ý với
họ » tôi nói, « Tôi chỉ thành công dân của nước Cộng Hòa Liên Bang vào ngày 3 tháng
Mười năm 1990. Cho đến ngày này, tôi là công dân của một nước khác ».

Danh từ phản bội trong tiếng Đức là Landersverrat có nguyên nghĩa là « phản bội đất
nước.». Theo lý lẽ thông thường, những lời tố cáo này là vô lý: Tôi phản bội nước nào
đây? Tôi chắc chắn không phản bội đất nước của tôi, cũng không ph ản bội những người
đã làm việc cho tôi, và tôi thấy không có lý do thiết thực nào để buộc tôi phải ngồi ghế
bị cáo vì đã ph ản bội một người nào khác.

Trong suốt bảy tháng kế tiếp, tôi bị tố cáo điều khiển ba mươi điệp viên quan trọng,
trong đó có một vài người xuất hiện làm nhân chứng. Việc này cho tôi cơ hội quan sát và
gặp gỡ trở lại nhiều người có liên hệ với tôi vì công tác và vì chính kiến. Về điểm này, ít
ra, tôi phải oan nghiệt mang ơn tòa án. Giống như trường hợp của tôi, họ phần đông
chứng kiến sự sụp đổ bất khả phục hồi của trật tự thế giới mà họ hằng tin tưởng. Tuy vậy
lòng tự tin và lòng tự trọng của họ vẫn còn nguyên vẹn và đem lại niềm an ui và khích lệ
lớn.

Một luồng người kỳ lạ xuất hiện ở ghế gồi nhân chứng. Phát xuất từ nhiều tầng lớp xã hội
của Đông và Tây Đức, họ cộng tác với cơ quan của tôi vì nhiều lý do. Gặp gỡ Gaby là
cuộc gặp gỡ đau sót nhất. Khi cô bước vào phòng xử án của tôi, cô ngoảnh mặt không
nhìn tôi. Báo chí theo dõi phiên tòa coi đây là một cử chỉ ruồng bỏ, nhưng đây là kết quả
của một giây phút cực kỳ xúc động. Hiện thân một nhân chứng điềm đạm, cô từ chối hạ
mình chiều theo những nỗ lực của công tố viên tô vẽ hình ảnh tôi trở thành một Svengali
chuyên thuê và kiềm chế những điệp viên phụ nữ bằng những lời đe dọa và những áp lực
khác. Cô trông xanh xao và mệt mỏi lúc cô vận dụng tất cả trí tuệ để trả lời những câu
hỏi của các quan tòa, và tôi biết đây là một cực hình đối với cô. Lòng tin của cô, giống
như lòng tin của Kuron, lại nhắc nhở cho tôi biết là danh dự mà tôi những tưởng là bất
diệt trong cơ quan của tôi đã không đ ứng vững trước những thử thách của thời buổi khác.

Một khuôn mặt nổi bật khác là Hannsheinz Porst, một doanh nhân tỉ phú đã muốn dùng
những mối liên hệ với chúng tôi – vào thời buổi những mối liên hệ như vậy là một tội đối
với chính quyền liên bang – để đẩy mạnh việc bình thương hóa mối bang giao giữa hai
nước Đức. Việc thống nhất cũng đặt ông vào tình thế khó khăn và người mà tôi đã gặp gỡ
lần chót với hình ảnh của một thanh niên trẻ và nhanh nhẹn nay xuất hiện trên ghê nhân
chứng với hình ảnh của một người đàn ông đứng tuổi, tóc nhuỗm bạc và râu rậm rạp.
Ông vẫn mong muốn theo đuổi tinh thần hòa giải dân tộc, điều đã thúc đ ẩy ông làm việc
với Đông Đức và mô tả tội danh phản bội gắn cho tôi là vô lý.

Herbert Schröter, một trong những chàng « siêu Romeo », cũng xuất hiện. Nhìn thấy
đương sự, bao nhiêu ký ức về những âm mưu liều lĩnh và mưu mẹo táo báo trở lại. Sau
khi những thành tích của Herbert được liệt kê, công tố viên nhận xét: « Tôi đoán chừng
anh nghĩ anh là món quà c ủa Thượng đế cho phụ nữ? ». Vụng về và huênh hoang như
thường lệ, anh cựu sĩ quan c ủa chúng tôi tiến đến gần hàng ghế của tôi, nghiêng mình
chào và hô to: «Làm việc với Đại Tướng, thật là thú vị». Đó là lần cuối tôi gặp đương sự.
Tòa án mở toang vết thương cũ vào ngày Günter Guillaume xuất hiện làm nhân chứng.
Không ai có thể nhận biết chính ông là người trước đây đã t ừng là cánh tay mặt của Willy
Brandt. Bảy năm tù sau khi bị lộ và sau đó một trận đau tim đã đ ể lại dấu ấn trên con
người của ông. Ông chỉ chấp nhận ra làm chứng sau khi văn phòng ủy viên công tố dọa
ông có thể bị đem ra xét xử lần thứ hai nếu ông không chịu làm chứng. Nhưng khi hỏi
cảm nghĩ gì về việc đánh lừa ông Brandt trong một thời gian dài, Guillaume bình tĩnh tr ả
lời: « Tôi kính trọng và phục vụ cho hai người với tất cả tâm can trong cuộc đời của tôi:
đó là ông Markus Wolf và ông Willy Brandt ». Có một lúc thật thú vị, đó là lúc ông lập lại
việc ông đã thành công chuy ển những tài liệu Na Uy của ông Brandt cho chúng tôi, và tôi
không thể nhịn mỉm cười tán thành đương sự. Nhưng luật sư biện hộ cho tôi và chính tôi
cũng đồng ý là tôi sẽ không nói gì đ ể có thể làm tổn hại đến Guillaume hoặc khiến dẫn
đến việc xét xử đương sự thêm lần nữa: cả hai đồng nghiệp chúng tôi không muốn phải
đấu khẩu với nhau.

Klaus Kinkel, lúc đó là Bộ trưởng Ngoại giao nước Đức thống nhất, được luật sư biện hộ
của tôi yêu cầu ra làm chứng bởi vì lúc đó ông đã làm việc trong Bộ Nội Vụ vào thời ông
Brandt từ chức trước khi trở thành giám đốc cơ quan tình báo Tây Đ ức. Kinkel dính líu
sâu đậm trong cuộc đấu hậu trường bẩn thỉu trong vụ xét xử này và lý ra quần chúng đã
phải biết từ lâu mà cho đến bây giờ quần chúng mới biết rõ qua vụ xét xử này. Chúng tôi
đều sinh đẻ tại cùng một thành phố nhỏ Hechingen nằm dưới lâu đài của các vua chúa
dòng họ Hohenzollen.

Klaus Kinkel

Tại đây, ông cựu giám đốc tình báo hải ngoại của Đông và Tây Đức chạm chán nhau tại
tòa án. Những sinh hoạt của tôi đã đưa đ ẩy tôi đến đây ngồi ghế bị cáo, trong khi đó
Kinkel đã ti ến thân trở thành một viên chức cao cấp của chính phủ, được tiếp đón tại
Washington, London, và Moscow mà không ai màng đến quá khứ tình báo của ông. Người
của Kinkel dùng mọi phương kế để chúng tôi không chạm mặt nhau trên đường đi đến
phòng xét xử. Tôi biết ông ghét tôi thậm tệ và cực kỳ khó chịu với ý nghĩ là th ế giới bên
ngoài, nhìn chúng tôi đ ối đầu trong tòa án, tìm thấy một thoáng đạo đức tương đương
trong những gì chúng tôi làm ở vị thế đối nghịch. Vì vậy Kinkel đến vào giờ phút chót để
ngồi vào ghế nhân chứng. Sau một lúc lâu, ông có vẻ như cảm thấy hổ thẹn vì không
thèm nhìn tôi, và gượng chào về phía tôi.

Kinkel trả lời một vài câu hỏi không có giá trị đáng kể nào, nhưng cuộc chạm chán với
ông trên nhiều phương diện biểu trưng cho sự bấn loạn của người Đông Đức phải đương
đầu sau ngày thống nhất. Cuộc đời của họ như nằm trên bàn mổ và chính quyền Tây Đức
nắm cán dao mổ. Bậc thầy ở Tây Đức tố cáo bậc thầy ở Đông Đức là giáo viên tồi dở, chỉ
vì ông dạy dỗ trong môi trường đối nghịch, cho dù bậc thầy Đông Đức có chuyên nghiệp
và được mọi người kính nể. Các nhà ngoại giao Đông Đức mất việc vì họ nằm trong, theo
danh từ nghề nghiệp mới, « hệ thống nội tại », trong khi đó những viên chức ngoại giao
Tây Đức mà trước đây họ đã gần đây từng tiếp xúc để thương lượng lại được thăng chức
trên nấc thang sự nghiệp. Gián điệp ở phía Đông Đức cuối cùng ngồi ở ghế bị can, gián
điệp ở phía Tây Đức lại ngồi ở ghế chứng nhân.

Mặc dù việc truy tố cá nhân tôi có tính chất vô lý và có những lời lên tiếng liên tục về tính
cách hợp pháp của việc này, tòa án vẫn kết tội tôi vào ngày 6 tháng Chạp năm 1993. Tội
danh phản bội bị kết án sáu năm tù ở và tòa án kết tội tôi. Luật sự biện hộ của tôi kháng
án quyết định này lên Tối Cao Pháp Viên, và Tối Cao Pháp Viên phải hội ý của Tòa Án
Hiến Pháp để quyết định. Tháng Sáu năm 1995, Tòa Án Hi ến Pháp Liên Bang phán quyết
là những sĩ quan c ủa cơ quan tình báo nư ớc Cộng Hòa Dân Chủ Đức không thể bị truy tố
về tội phản bội và làm gián điệp. Do đó, ngày 18 tháng Mười năm 1995, Tối Cao Pháp
Viện Liên Bang phải tiếp nhận đơn thỉnh cầu của luật sư biện hộ của tôi và phủ quyết án
lệnh và gởi lệnh này trở lại tòa án Düsseldorf.

Nhìn những cựu nhân viên và điệp viên nằm vùng trước đây lần lượt xuất hiện trước mặt
tôi trong tòa án, tôi tự đặt câu hỏi tất cả những công việc vừa qua có tương xứng không.
Đây là câu hỏi tôi phải liên tục đối đầu khi tôi nhìn lại cuộc đời của tôi để viết quyển sách
này. Ý đ ịnh của tôi từ trước tới nay là xem xét những giao biến lịch sử đánh đấu nửa
phần của thế kỷ hai mươi, và nhìn l ại những đóng góp của tôi trong vai trò lãnh đạo cơ
quan tình báo mà thành quả vượt bực không ngăn cản nổi sự sụp đổ của hệ thống nó
phục vụ. Thời chiến tranh lạnh không phải là thời phân biệt trắng đen rõ ràng, nhưng có
nhiều vùng màu sám. Chúng ta không thể nhìn những gì đã xảy ra mà không liên tưởng
đến tình trạng này, và chúng ta không thể nào tiếp tục đi tới mà không ghi nhớ điều này
trong ký ức. Cũng như tôi đã nói trước tòa trong lúc tôi bị xét xử:

Không có một tiến trình nào của tòa án có thể soi sáng một giai đoạn của lịch sử đầy
mâu thuẫn, ảo tưởng và sai trái… Hệ thống trong đó tôi sống và làm việc là sản phẩm
của sự không tưởng, mà, từ đầu thế kỷ thứ mười chín, hàng triệu người theo đuổi, trong
đó có những nhà tư tưởng lỗi lạc, vì họ tin vào khả năng cởi trói nhân loại khỏi cảnh đàn
áp, bị khai thác và tình trạng chiến tranh. Hệ thống này đã sụp đổ vì người dân sống
trong đó không còn hỗ trợ nó nữa. Nhưng tuy vậy tôi nhấn mạnh không phải tất cả
những gì trong lịch sử bốn mươi năm của nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức đều là xấu và cần
phải xóa bỏ, và tất cả những gì ở Tây Đức đều là tốt và chính đáng. Thời gian biến
chuyển lịch sử này không thể nào giải đoán một cách thỏa đáng với những khuôn mẫu
phân chia một bên là « quốc gia chính đáng » và bên kia là « quốc gia không chính
đáng ».

Điều này có phải là không có khiển trách và không có ai trách nhiệm cả? Lẽ dĩ nhiên là
không. Chiến Tranh Lạnh là một cuộc đấu tranh tàn khốc, cả hai bên đều làm những
chuyện gớm ghiếc để mong thắng trận. Nhưng nay Chiến Tranh Lạnh và nước CHDC Đức
đã không còn trên trang nhất của những tờ báo và đi vào những trang sách lịch sử,
chúng ta không nên quên rằng những sự việc chẳng bao giờ rõ rệt đúng như bộ máy
tuyên truyền của cả hai bên muốn cho chúng như vậy. Chúng ta nên ghi nhớ những lời
của một đại triết gia Nhật Bản đương thời Daisaku Ikeda: « Chúng ta không thể, trong
lúc thiếu suy nghĩ, bi ến người này thành sứ giả của lòng quảng đại và người kia thành
những kẻ ti tiện, đánh giá họ theo những tiêu chuẩn tương đối tích cực hoặc tiêu cực.
Những điều này, giống như mọi điều khác, thay đổi tùy theo hoàn cảnh lịch sử, bản chất
của một xã hội, thời điểm và quan điểm chủ quan ». Chỉ khi nào nhìn những sự việc dưới
ánh sáng hiểu biết như thế, chúng ta mới có thể học được những bài học do Chiến Tranh
Lạnh và cuộc sống của mỗi một người chúng tôi cống hiến để chống trả nó cung cấp cho
chúng ta.
Chương 17
Lời Kết
Cả cuộc đời sống trong thế giới tình báo là một sự pha trộn giữa vinh quang trong lúc
thành công, khốn khổ khi công trình không được ghi nhớ và công việc tầm thường hàng
ngày trong bất cứ văn phòng hành chánh nào trong đó công vi ệc chính thường là chuyển
đạt những thông tin không hay cho những vị chủ nhân chính trị. Tôi không nghĩ các
chuyên viên cao cấp mà chúng tôi đương đầu trong Chiến Tranh Lạnh cảm thấy có sự
thay đổi gì nhiều trong cuộc sống của họ, ngoại trừ sự việc là phiá của họ đã thắng. Cuộc
đời của tôi không những được ghi ấn dấu do vai trò của tôi trong những cuộc chiến bí mật
của Chiến Tranh Lạnh nhưng còn chứng kiến những lạm dụng quyền lực nhân danh lý
tưởng xã hội chủ nghĩa, một lý tưởng cho đến nay tôi vẫn theo đuổi.

Tôi luôn nhận được cảm hứng và cố gắng gây cảm hứng cho cơ quan của tôi từ những
mẩu chuyện của những điệp viên tiền bối đã sinh hoạt trước chúng tôi. Truyền thống này
thúc đẩy những sĩ quan của tôi và các điệp viên ở hai bên biên giới, nhưng vẫn luôn có
một câu hỏi ám ảnh. Trong thời gian Hitler cai trị nước Đức và đe dọa thế giới, những anh
hùng như Richard Sorge, Harro Schulze-Boysen và Leopold Trepper đã chuyển những
thông tin báo động về những kế hoạch quân sự của Đức; nhiều mạng sống có thể được
cứu vớt nếu những cảnh báo này được lưu ý, tuy nhiên Stalin đã không thèm đ ể ý đến.
Thảm cảnh của những vị này là họ phục vụ cho một chế độ không chấp nhập những đầu
óc biết phê phán và chỉ có một người quyết định và phán quyết tất cả. Một chế dộ không
cho phép bất đồng ý kiến cũng thư ờng bỏ qua những thông tin không theo luồng chính
thống. Và đó cũng chính là ch ế độ cuối cùng đã hình thành nên nư ớc Cộng Hòa Dân Chủ
Đức, một chế độ cũng không chấp nhận bất đồng chính kiến và những đầu óc phê bình.

Richard Sorge Harro Schulze-Boysen Leopold Trepper

Vào những năm cuối, tôi tìm cách liên lạc với những người sống sót của tổ chức Rote
Kappelle (Dàn Hòa Tấu Đỏ). Những chi tiết về tổ chức này tôi dễ dàng thu thập được
trong những tài liệu phát hành ở phương Tây hơn là trong văn khố của chính Bộ chúng
tôi. Mielke lưu giữ những tài liệu về thời Quốc Xã dưới quyền kiểm soát của cá nhân ông
tại một ban đặc biệt của Cục Điều Tra, và tôi cố gắng đến mấy cũng không tham khảo
được những tài liệu này. Tôi muốn biết làm cách nào những vị này với quá trình hoạt
động và tư tưởng chính trị khác nhau đã xả thân mình để kháng cự Hitler. Họ đã thắng
được những nỗi e ngại, nỗi lo sợ bằng cách nào? Căn nguyên của sức mạnh nội tâm họ
lấy ở đâu ra để lội ngược thủy triều và chiến đấu chống lại chế độ toàn trị và hung bạo?
Những vấn đề đạo đức như vậy cũng như trách n hiệm lịch sử của những cá nhân này đã
phần lớn rơi vào lãng quên không đư ợc sách báo nước CHDC Đức chú ý đến.

Chúng tôi đã từng tham gia Chiến Tranh Lạnh làm việc ở một mức độ kém cao thượng
hơn những người đối kháng chế độ Quốc Xã. Nếu việc tường thuật cuộc đời tôi chứng
minh được một điều gì, đó chính là gi ới hạn của sự thành tựu của ngành tình báo. Chúng
tôi có thể nhìn lại công trình của chúng tôi với lòng thỏa mãn không phải vì chúng tôi đã
lật đổ được phía bên kia mà chính vì lý do trái ngư ợc. Các cơ quan tình báo đã đóng góp
cho nửa thế kỷ hòa bình – một nền hòa bình lâu nhất Châu Âu chưa từng có – bằng cách
cung cấp cho các lãnh đạo quốc gia một phần nào an tâm là họ không bị phía bên kia đột
kích.

Các cấp lãnh đ ạo chính trị ở cả hai bên, những vị khách hàng của chúng tôi, không mấy
khi chấp nhận điều này. Lòng can đ ảm phải có và những nhục nhằn phải chịu đựng để
thu thập những thông tin này không liên quan gì đến ý nghĩa c ủa chúng. Theo kinh
nghiệm của tôi, hiệu quả của một cơ quan tùy thuộc rất nhiều vào quyết tâm của những
người nhận những thông tin này, quyết tâm để ý đến chúng khi chúng đi ngược lại với
định kiến của họ. Vấn đề ở đây là số người giới hạn có quyền thường xuyên tiếp cận
những báo cáo này và phương cách họ lấy quyết định. Vì họ bị tràn ngập thông tin nên
họ có ít thời giờ để tiêu hóa, bộ máy thư lại vận chuyển những dữ kiện này đến họ đóng
một vai trò then chốt trong phẩm chất các quyết định họ cuối cùng chọn lựa. Thông
thường có một bức tường bí mật giữa hệ thống thư lại này và các cơ quan tình báo, và
trong thời gian tôi đương nhiệm những cơ hội tham khảo rất hiếm hoi để biết được điều
nào cần thiết. Cuối cùng kết quả của công trình làm việc công khai và bí mật của các
đồng nghiệp của tôi nằm trên một số rất giới hạn bàn giấy, phần lớn được lựa chon do
ngẫu hứng của Mielke.

Trong một xã hội độc đoán, những sai lầm phán đoán trên thực tế không thể nào tránh
được. Những cuộc thảo luận của Bộ chính trị trong đảng SED (Sozialistische
Einheitspartei Deutschlands = Đảng Xã Hội Thống Nhất) thường thoái hóa thành một
cuộc chay đua theo hình thức, tốn kém thời giờ. Trong những buổi họp hiếm hoi tại Bộ
Công An, độc thoại dài dòng của Mielke thường được nối tiếp bằng những cuộc thảo luận
về những chuyện tầm thường và những vấn đề hời hợt và vô bổ.

Các nước dân chủ Tây phương hình như cũng không tìm ra đư ợc phương thức giải quyết
vấn đề tương tự trong việc đánh giá ý nghĩa của tình báo. Thảm bại tại Vịnh Con Heo là
một minh chứng hùng hồn về vấn đề này. Quyết định tiến hành cuộc mạo hiểm vô vọng
này được một cơ quan tình báo hải ngoại tồi dở chiều theo mộng tưởng của các chính trị
gia đần độn trình lên Tổng thống Kennedy. Tại Tây Đức, những báo cáo của cơ quan tình
báo BND trình lên văn phòng T hủ tướng thường bị phần lớn những người nhận chúng tại
Bonn coi như một mớ giấy lộn, theo sự hiểu biết của tôi. Helmud Schmidt, trở thành Thủ
tướng sau vụ gián điệp của Guillaume và thường phải nhức đầu với những vụ khác tương
tự trong thời gian ông làm việc, đã có lần phát biểu lời bình luận gay gắt nhưng có tính
chất tiêu biểu với Michael Kohl, đại sứ nước CHDC Đức tại Bonn. Ông Schmidt nói: « Anh
nên ngưng những điệp vụ khốn nạn này. Dù sao đi nữa anh cũng chẳng hiểu biết gì hơn
với những thông tin rác rưởi này. Chúng nó toàn là những tin cũ rích. Cả hai bên chẳng
có bên nào thu thập được những thông tin quân sự mà họ thực sự cần đến… Những bí
mật thực sự quan trọng đã đư ợc cả hai nước Hoa Kỳ và Liên Xô bảo vệ cẩn thận. Lấy tiền
chi phí cho điệp vụ là điều không cần thiết và chỉ tổ làm cho các cơ quan tình báo c ảm
thấy mình quan trọng để xác minh tài khoản và duy trì mức độ nhân viên của họ».

Tuy nhiên, cơ quan BND vẫn nằm dưới quyền điều khiển trực tiếp của vị Thủ tướng, và
ông và người đổng lý văn phòng là nh ững vị khách thường xuyên của bộ tư lệnh BND ở
Pullach. Trong nhật ký của tôi, năm 1977 tôi nhận định những cơ quan tình báo
là « những sinh vật có cuộc sống riêng của nó. Cho dù chúng tôi có thâu thập được hay
không những tin tức xác thực và hữu dụng, danh tiếng của chúng tôi có một ảnh hưởng
nào đó. Mọi người đều biết không có một sự kiện nào hoặc một công tác nào có thể giữ
kín lâu dài được. Chỉ điều này không cũng có tác dụng để bảo đảm hòa bình và để cam
kết những nghĩa v ụ quốc tế phải được thực thi ».

Tiết mục này nghe như có vẻ tự bào chữa và có thể dễ dàng tạo nên cảm tưởng là tôi
đáng giá quá cao sức mạnh và ý nghĩa c ủa những thông tin do cơ quan của tôi cung cấp.
Nhưng tôi vẫn thường hoài nghi giá trị của công việc của tôi, đặc biệt vào thời gian trùng
hợp với những ngày lễ ăn mừng của quốc gia tôi. Ngay lập tức sau ngày kỷ niệm thành
lập nước CHDC Đức năm 1974, tôi có viết: « Bàn về sự cần thiết của cơ quan tình báo,
ngoài câu hỏi cui bono (có lợi cho ai?), câu hỏi những gì họ làm có cần thiết hay không
luôn trở lại mỗi lúc một dồn dập hơn. Và ai trong chúng tôi, những người trong cuộc
trung thực, có thể trả lời được mà không suy nghĩ chính ch ắn? Vấn đề không những liên
quan đến các cơ quan tình báo – quân đội cũng nuốt chửng hàng tỉ ngân khoản quốc
gia. Hơn nữa, hầu hết những tập giấy do NATO sản xuất và được đóng mộc ấn « vũ tr ụ »
hoặc « tối mật », khi quý vị đọc kỹ, chúng không đáng để dùng làm giấy vệ sinh ».

Có những lời phê bình khác so sánh những sinh hoạt của chúng tôi giống như trò chơi trẻ
con – điệp viên KGB rình rập điệp viên CIA, rồi CIA cùng với BND, với Mossad hoặc cơ
quan tình báo Anh cùng nhau theo dõi KGB. Một trong những người phê bình nói: « Để
làm chuyện này, các cô gái điếm ngủ chung với các nhà ngoại giao, đầu mũi nhọn ô dù
có tẩm thuốc độc, và những cô thư ký phương Tây l ỡ thời được những chàng phong mã
Đông Âu tán tỉnh. Không có một quốc gia nào trên thế giới có thể tồn tại mà không cần
đến cơ quan tình báo. Công việc chính của phần lớn các cơ quan béo phì này là gây khó
khăn lẫn nhau. Người Đức, trong một đất nước bị chia đôi, đã nâng công trình này lên
hàng quán quân, hết thắng lợi này sang thắng lợi khác với giá trả quá đặt. »

Đối với người ngoại cuộc, thế giới tình báo đôi lúc có vẻ như phi lý, những sinh hoạt của
họ may mắn lắm là những trò chơi vô nghĩa và tệ hại lắm là những trò chơi vô đạo đức.
Nay Chiến Tranh Lạnh đã chấm dứt, giá trị của họ được cân phân với những phí tổn
khổng lồ một cách rộng lớn hơn, công khai hơn và khẩn trưởng hơn bao giờ hết. Cơ quan
CIA được đặc biệt ưu ái vì đã tiêu dùng hàng t ỉ mĩ kim mà không tiên đoán được sự suy
sụp nội bộ của Liên Bang Xô Viết và đã bị một tên nằm vùng xâm nhập và phá hoại toàn
bộ mạng lưới tình báo trong lòng Liên Bang Xô Viết.

Tôi nghĩ là b ộ máy khổng lồ của cả hai bên cố thể cắt giảm ít nhất đi một nửa mà không
mất đi hiệu quả. Tuy nhiên, phải công nhận là vào thời đại vệ tinh và gian tế xâm nhập
mấy vi tính, con người phải sử dụng tình báo bằng kỹ thuật mặc dù là chi phí không rẻ,
các điệp viên bằng xương bằng thịt không thể nào thay thế hoàn toàn được. Kỹ thuật chỉ
có thể diễn giải tình hình vào lúc đó; những vệ tinh tối tân nhất không thể tìm ra những
kế hoạch bí mật, những lựa chọn và những yếu tố cần phải cân nhắc khác.

Hơn thế nữa, việc kết nạp và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao không tùy
thuộc vào tầm vóc của đội ngũ cán b ộ tại bộ tư lệnh. Trái lại tôi cũng nhận chân con số
gián điệp thượng thặng của các quốc gia tỉ lệ nghịch với kích thước bộ máy thư lại. Tôi
làm việc với nhãn quan này trong cơ quan c ủa tôi, đối nghịch với chính sách thịnh hành
tại những ban ngành khác trong Bộ Công An. Sau cùng đội ngũ của họ lên đến tám chục
ngàn nhân viên, một chuyện không thể hiểu được trong một quốc gia nhỏ có mười bảy
triệu dân và cuối cùng cũng chẳng giúp ich gì cho sự tồn tại của nó. Tôi luôn chống cự với
luật của Parkinson (ldg luật Parkinson: Work expands to fill the time available =Công việc
được trải rộng để bù đắp vào thời gian sẵn có). Khi tôi rời bỏ nhiệm sở tình báo hải ngoại
năm 1987, đội ngũ nhân viên có đ ến ba ngàn người, nhưng sau đó một ngàn người được
bổ sung vào trước khi nó bị giải tán bốn năm sau – tất cả thời gian này cũng ch ỉ để điều
khiển cùng một số điệp viên ở phương Tây. Những điệp viên này lên đến một ngàn người
tại Liên Bang Đức trong thời gian mười năm cuối, và chỉ hơn một phần mười điệp viên
này là những nguồn tin quan trọng.

Vì vậy cho dù các cơ quan tình b áo không thể thiếu vắng, kích thước của chúng có thể
giảm xuống rất nhiều nếu nhiệm vụ của họ được xác định rõ ràng. Họ chắc chắn cần thiết
trong công tác phòng chống khủng bố và băng đảng mafia buôn ma tuy đang xuất hiện
trên khắp thế giới và sự hợp tác là điều thiết yếu trong việc hạn chế bành trướng vũ khí
hạt nhân. Nhưng xem ra các điệp viên của chính phủ không đóng một vai trò hữu dụng
nào trong các điệp vụ kỹ nghệ vì chính các công ty cũng đã thi ết lập cơ quan của họ để
tìm tòi bí mật của đối thủ cạnh tranh.

Nhưng điều tôi lo ngại nhiều hơn là nếu các cơ quan mật vụ - vốn phi dân chủ vì bản chất
của nó - không giảm thiểu số nhân viên, chính quyền luôn luôn có khuynh hướng ngay cả
tại những nước dân chủ rình rập và kiểm soát công dân của mình. Không cần phải diễn
giải nhiều, mật vụ đương nhiên được dùng để khống chế quyền công dân tại các quốc gia
phi dân chủ như nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức, nhưng việc kiểm soát những cơ quan tình
báo ngay cả với luật pháp dân chủ rất là khó khăn nếu không muốn nói là không thực
hiện được. Bản chất của các nhân viên điệp báo giới hạn tối đa và thường ngăn ngừa
không cho phép những loại tiết lộ phân giải trách nhiệm trước quần chúng – quả thực
đây có lẽ là điểm then chốt. Ngay cả những ủy ban giám sát, giới hạn trong một số nhỏ
được lựa chọn trong số dân biểu quốc hội, như chúng ta thấy ở Quốc Hội Đức hoặc Quốc
Hội Hoa Kỳ, cũng không có khả năng chọc thủng màn bí mật. Những chuyện dài về
những xì-căn-đan tại tất cả các nước dân chủ nghị viện là một bằng chứng.

Bao lâu còn có những xung đột chính trị và các lực lượng võ trang nói là để sẵn sàng giải
quyết chúng, không có một quốc gia nào không cần đến một cơ quan để do thám ý định
và khả năng của đối thủ tiềm lực. Trong những điều kiện hoàn hảo nhất, những nghị viện
dân chủ và các chính phủ chỉ có thể cố gắng giám sát xem họ thi hành nhiệm vụ đã phân
định mà thôi. Nhưng cuộc chiến trong bóng tôi sẽ vẫn tiếp tục. Cuộc chiến này, cho dù
kết quả có ra sao đi nữa, không phải là một trò chơi. Nó xảy ra trong thực tế và sẽ
chuyển hóa thành những năm tháng tù tội, phá hủy những sự nghiệp và có thể đòi hỏi
sinh mạng. Đây là một giá phải trả cao để có được thông tin, nhưng thông tin này không
thể định đoạt đường hướng chính trị của một nước và chỉ có thể ảnh hướng đến nó mà
thôi. Vào cuối cuộc đời của tôi trong ngành tình báo, tôi phải tự hỏi xem cái giá đó quá
đắt hay không.

Tôi kết thúc việc xét xử tôi tại tòa án Düsseldorf với lời tuyên bố như sau: « Ở vào tuổi
bảy mươi, quý vị có thể tự hỏi giá trị của cả một cuộc đời ra sao. Danh từ «phản bội » đã
được nêu lên nhiều lần [trong vụ án này], và tôi tự hỏi có thể nào trên thực tế tôi đã
phản bội những nguyên tắc đạo lý mà tôi hằng ấp ủ trong suốt cuộc đời của tôi, những
nguyên tắc mà gia đình tôi, bạn bè tôi và những ai tôi tìm cách noi gương vẫn hằng trân
quý. Tôi biết chúng tôi thường xuyên lỗi lầm, chúng tôi đã phạm nhiều lỗi lầm trầm
trọng, và quá nhiều lần nhìn nhận sai lầm và những nguyên do gây nên sai lầm khi đã
quá muộn. Nhưng tôi vẫn trung thành với những lý tư ởng và những giá trị đã dìu dắt
chúng tôi trong cố gắng muốn thay đổi thế giới».

Khi kể chuyện đời tôi, tôi hy vọng cho mọi người thấy rõ là tôi không bao giờ chủ tâm
phản bội lý tư ởng của tôi, và vì vậy tôi không thể nào có cảm giác đời tôi không có mục
đích. Tôi cũng như r ất nhiều bạn bè và những người cùng thời, không sống vô ích, cho dù
những quyết định của chúng tôi đôi lúc xem ra đáng ngờ vực, cho dù chúng tôi có gây
nên những vết thương đau đớn – cho chính chúng tôi và cho người khác.

Khi tôi nghĩ đ ến những ngày thiếu thời của tôi ở Liên Bang Xô Viết, hình ảnh xuất hiện
đầu tiên trong trí óc không phải là những tội ác của Stalin hoặc việc thỏa hiệp với nước
Đức Quốc Xã, nhưng là những kỷ niệm của một cuộc sống trong thời chiến. Đệ Nhị Thế
Chiến là một biến cố hệ trọng đối với đời sống của hàng triệu người, và may mắn thay đó
là một cuộc chiến chấm dứt Đệ Tam Quốc Xã. Làm thế nào một người đã t ừng chiến đấu
chống lại đám người hung bạo của Hitler lại có thể xem mình như một kẻ phản bội nước
Đức? Những đóng góp của chính bản thân tôi và của gia đình tôi trong cu ộc chiến này có
thể là nhỏ bé, nhưng dù sao đi nữa tôi cũng hãnh di ện về việc này.

Tôi cũng có cùng m ột cảm giác về những cố gắng của tôi sau cuộc chiến nhằm quảng bá
và làm cho thế giới nhận chân những nguyên ủy của chế độ độc đoán Quốc Xã, những tội
ác khủng khiếp của nó đối với nhân loại, và sự hiện hữu của những cự đảng viên Quốc Xã
trong cơ cấu quyền lực của Tây Đức. Hình bóng to lớn của Hitler là một trong những lý do
toi chấp nhận ý định làm việc cho một cơ quan mật vụ. Đây không phải là phản bội.

Nếu có phải bỏ qua những hệ lụy của chế dộ Quốc Xã và cuộc chiến đấu của chúng tôi
chống lại nó vì sợ hãi nó, tôi cũng l ấy làm vinh dự chỉ vì tôi đóng góp trong vi ệc duy trì
trạng thái quân bình của châu Âu, một trạng thái đã có lúc căng th ẳng và lạnh lẽo nhưng
đã cuối cùng tránh được một điều không thể tưởng tượng được – nhưng cũng có thể xảy
– chiến tranh hạt nhân.

Nhưng niềm hãnh diện này đã bị giảm thiểu. Bao lâu tôi còn nhu cầu kêu gọi đánh giá
công minh nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức, và bao lâu tôi muốn nhấn mạnh đến nguồn gốc
chống phát-xít, tôi không bao giờ muốn coi nhẹ khía cạnh lịch sử đen tối của nó. Tôi biết
nước CHDC Đức đã làm rất nhiều điều sai trái, trong đó việc đàn áp chiếm một số lượng
khủng khiếp. Tôi biết tôi có một phần trách nhiệm về việc này. Tôi là một bộ phận của
chế độ, và nếu người ta tấn công tôi (như họ thường làm) như thể tôi là lãnh tụ quốc gia,
như thể tôi có quyền kiểm soát tuyệt đối trên hết mọi sự việc xảy tại nước CHDC Đức,
trong trường hợp này đây là một điều mà tôi sẽ phải gánh chịu.

Kể từ những biến cố quan trọng năm 1989, tôi đã tự hỏi nhiều lần tại sao nước Cộng Hòa
Dân Chủ Đức đã thất bại một cách thảm não và ngoạn mục như vậy. Tôi đã tự hỏi không
biết là tôi đã chờ đợi quá lâu để lớn tiếng nói lên những gì tôi thực sự suy nghĩ và cảm
nhận. Không phải vì thiếu can đảm mà vì tính chất vô bổ của những lời phản đối trong
suốt quá trình lịch sử của nước CHDC Đức đã khiến cho tôi phải tĩnh lặng. Đã quá nhi ều
lần tôi đã chứng kiến những lần phản kháng mãnh liệt chỉ đi đến việc gia tăng đàn áp và
tước bỏ quyền tư duy độc lập hơn nữa. Tôi tin rằng những cuộc thương thuyết kiên trì và
bình lặng cuối cùng sẽ hiệu quả hơn trong một nước mà mọi thảo luận công khai sẽ bị
bóp nghẹt vì giới lãnh đạo xem ra quá kích động và bất an để hành xử một cách tế nhị.
Tôi nghĩ sai chăng? Có thể như vậy nhưng không may chẳng còn cách nào để trở lại quá
khứ và hành động cách khác. Tôi thường nghĩ đến, nhất là khi tôi ở cùng với một trong
mười đứa cháu, một lá thư cha tôi viết cho em tôi vào năm 1944. Ông khuyên em tôi
đừng bao giờ tự gò hãm việc bày tỏ ý kiến của mình. Nay tôi xin thêm vào câu này điều
quan trọng là có can đảm tranh đấu cho ý kiến của mình nếu cần, ngay cả khi đối đầu với
đàn áp. Tôi đã h ọc được bài học là cá nhân mình phải biết tôn trọng lối suy nghĩ của
người khác và không bao giờ ép buộc người khác vào khuôn khổ. Nhưng trong phần lớn
đời tôi và sự nghiệp của tôi, tôi đã l ựa chọn kiên nhẫn chờ đợi thay đổi.
Tôi hồi tưởng rõ ràng chúng tôi đ ều nôn nóng chờ đợi thay đổi cấp lãnh đ ạo ở Moscow,
biết rằng việc này chắc chắn sẽ có ảnh hưởng mãnh liệt đến Đông Đức. Khi những cải
cách mong đợi từ lâu cuối cùng đã đ ến nhờ Gorbachev lên cầm quyền, không ai vui mừng
cho tương lai của chúng tôi bằng bản thân tôi. Nhưng chúng tôi không tiên liệu được cuộc
thay đổi này đã đ ến quá trễ; tính minh bạch khó lòng giải quyết thực sự tất cả những vấn
đề của chúng tôi. Giờ đã điểm cho chủ thuyết hoang tưởng đã đư ợc nặn ra ở Nga vào
năm 1917.

Như vậy, còn lại những gì ? Hồi tưởng và ghi nhớ lại lúc chúng tôi tin tưởng chúng tôi có
thể thực hiện chủ thuyết của Marx và Engel, chúng tôi có thể xây dựng một xã hội trong
đó những lý tưởng cao đẹp như tự do, bình đẳng và tình anh em cuối cùng đã thành hình,
đôi lúc ngẫm nghĩ không th ể hiểu làm thế nào mà chúng tôi lại thất bại. Khi chúng tôi
còn trẻ, chúng tôi cảm thấy sức mạnh của lòng tin của chúng tôi cũng đ ủ để thay đổi thế
giới. Bây giờ tôi phải công nhân chúng tôi thất bại không phải vì chúng tôi quá tin vào
chủ nghĩa xã h ội, nhưng bởi vì chúng tôi hành xử không đủ đúng theo chủ nghĩa xã hội
về mặt thực dụng. Những tội ác của Stalin không phải là hệ quả tất nhiên của chủ thuyết
Cộng Sản, nhưng là một vi phạm của chủ thuyết cộng sản. Tuy nhiên, việc hy sinh tự do
cá nhân cho chủ thuyết của đảng, việc khiến dẫn quần chúng và việc bóp méo lịch sử tất
cả đều xuất phát từ Liên Bang Xô Viết của Stalin và nhanh chóng được phần lớn các quốc
gia ở phía bên này của Bức Màn Sắt bắt chước theo. Thực tế phũ phàng của nước Cộng
Hòa Dân Chủ Đức liên quan nhiều đến những lạm dụng quyền hành hơn là chế độ dân
chủ và xã hội chủ nghĩa, và chính vì v ậy Đống Đức cuối cùng bị chết ngộp. Tôi thành thật
thú nhận là chế độ của chúng tôi thua kém xã phần lớn các nền dân chủ đa nguyên của
phương Tây, kể cả những tiện lợi về hệ thống an sinh xã hội của chúng tôi. Bài học chủ
yếu tôi đã học được do sự suy thoái và sự sụp đổ của Đông Đức là tự do tư tưởng và phát
ngôn cũng quan trọng đối với một xã hội tân tiến như những tiện ích mà chúng tôi đã gầy
dựng và lấy làm hãnh diện.

Đối với phần lớn các đồng hương của tôi, đời sống tại nước Đức thống nhất xem ra kém
quyến rũ hơn h ọ mong tưởng – công việc thường là khó kiếm, tiền thuê nhà quá cao và
khó mà trang trải, và nhiều người cảm thấy vô cùng hụt hẫng vì thiếu tinh thần tương trợ
thường ngày, trước đây là dấu ấn tiêu chuẩn của đời sống ở nước Cộng Hòa Dân Chủ
Đức. Xem ra cũng không công bằng và hợp lý nếu đem đánh giá đời sống tại nước dân
chủ kiểu Tây phương như nước Đức bằng cách so sánh nó với một xã hội xã hội chủ
nghĩa lý tư ởng, nhưng tôi biết có nhiều người trong chúng tôi không thể chấp nhận ý nghĩ
trở thành một bộ phận của một xã hội nơi đó kẻ giàu có mỗi lúc giàu có hơn tính theo
từng phút trong khi đó người nghèo tiếp tục nghèo hơn. Tôi tự hỏi làm thế nào người dân
ở Hoa Kỳ, vốn hãnh diện với đất nước của mình và những thành quả của nó, có thể chấp
nhận sự kiện ít nhất có đến bốn mươi triệu người Mỹ sống trong cảnh nghèo đói cùng
cực. Tôi cảm thấy khó chịu khi nhìn thấy viễn tượng một xã hội và một nền văn minh đặt
căn bản duy nhất trên tiền tài, nhưng tác dụng của nó thường ít khi thấy nhưng lại không
kém phần tàn bạo. Trong khối Đông Âu, việc lạm dụng quyền lực bắt đầu bằng mánh lới
vận dụng lý tưởng; tại các nước tư bản, ý tưởng tự do cá nhân thường chỉ để che đậy
những quyền lợi kinh doanh. Có lẽ chính vì vậy có rất nhiều công dân không hài lòng và
hoài nghi về vai trò của các chế độ chính trị trong việc giải quyết những vấn đề.

Tuy vậy, tôi vẫn còn là một con người đầy lý tưởng và đầy lạc quan. Tôi chắc chắn những
thanh niên trẻ vẫn ước mơ một tương lai tốt đẹp hơn cho mọi người, một thế giới nhân
bản hơn thế giới hiện nay của chúng ta. Tôi không tin là những ý nghĩ hoang tư ởng là vô
lý, nhưng là m ột điều nhân loại vô cùng cần đến. Thực vậy, nếu chúng ta không có niềm
tin vọng ảo chúng sẽ gặp nguy cơ trở về tình trạng cực kỳ man rợ, rơi vào trạng thái tàn
ác có thể dẫn đến sự phá hủy không những của một nước mà còn cả hoàn cầu. Tôi chắc
chắn thế hệ trẻ sau này và những thế hệ sắp tới sẽ tìm thấy con đường để thực hiện lý
tưởng mà tôi đã từng đeo đuổi và cho đến nay vẫn còn trân quý.

Cách không xa căn phòng c ủa tôi ở Bá Linh có một tượng đài kỷ niệm Marx và Engels.
Vào mùa Thu năm 1989, khi Đông Đức sụp đổ, có một bạn trẻ nào đó xịt sơn lên trên
tượng đài viết lên hàng chữ KHÔNG CÓ TỘI. Họ có lý. Tôi mong ước họ chia sẻ niềm tin
của tôi vào tiềm năng của chủ thuyết Marx. Chiến Tranh Lạnh đã ch ấm dứt và công việc
của tôi cũng có l ẽ đã hoàn t ất, nhưng tôi vẫn không mất niềm tin. Tôi thường hay lấy từ
kệ sách của tôi một quyển sách của khoa học gia Thụy Sĩ Jean Ziegler. T ựa của quyển
sách gói ghém thật đúng cảm nghĩ của tôi vào cuối thế kỷ, vào lúc tôi trên đường đi đến
đoạn cuối của cuộc đời, mà tôi đã tr ải qua với những biến cố tốt và xấu vượt xa những gì
tôi mường tượng hồi còn trẻ : A demain Karl. Hẹn tái ngộ Karl.

Markus Wolf
Trọng Khiêm dịch

You might also like