You are on page 1of 230

YÊU TINH

HỒ PHƯƠNG

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN

Ấy là gần trưa một ngày tháng 4 năm 1961. Một chiếc trực thăng HU1A từ phi trường Tân
Sơn Nhất nhẹ nhàng cất cánh bay lên, sáng loá dưới ánh nắng chói chang, gay gắt. Chỉ trong
khoảnh khắc nó đã vè vè lướt đi xa, hướng về phía đông, bỏ lại đằng sau, dưới mặt đất, thành phố
Sài Gòn đông nghẹt. Từ 1955 tới nay, mới có 6 năm thành phố này đã phình ra đáng sợ. Dân cư
tăng quá nhanh. Trước hết, cuối năm 1954 Pháp thua, theo Hiệp định Geneve phải kéo hết lính
tráng vào Nam, tiếp liền đó là dân di cư công giáo ngoài Bắc bị CIA Mỹ hù dọa lũ lượt đổ vào “đi
theo Chúa”, sau đó nữa là dân kháng chiến ở chính miền Nam, từ các miệt vườn, các xứ ruộng ào
ạt chạy về đây để trốn “tố Cộng, diệt Cộng”. Tới năm 1956 Pháp phải cay đắng cuốn gói lần thứ
hai, về nước hẳn, nhưng để lại các đơn vị ngụy cho Diệm. Rồi các toán, các đội cố vấn Mỹ tới thế
chân. Qua năm 1960, không những cố vấn Mỹ đã lên tới hàng ngàn, mà bắt đầu có cả những đơn
vị tác chiến Mỹ nhảy vào, trước hết là các đơn vị biệt kích mũ nồi xanh. Bởi vậy Sài Gòn có đủ
các sắc lính. Chúng tràn ngập, nghênh ngang khắp nơi, cùng đủ loại xe cộ, nhất là các quân xa
gầm rú ngược xuôi suốt ngày đêm. Cũng đã mọc lên như nấm sau mưa đủ các loại tiệm buôn, các
loại tiệm ăn, đủ loại dịch vụ... không những phục vụ cho khối dân chúng quá lớn đã đành, mà còn
nhằm phục vụ cho những ông chủ mới có nhiều đô la, thích ăn chơi và hay tìm “của lạ phương
Đông”. Thành phố cũng ngày càng đông thêm bởi một “đạo quân” đặc biệt khác nữa mới phát
triển, lang thang khắp các vỉa hè, trước các tiệm ăn, các vũ trường, các chợ lớn nhỏ, các chùa chiền,
và cả các ổ gái điếm gần như công khai... Đó là những người ăn xin với đủ hình thù từ nhếch nhác
tới những người què cụt, hoặc có dị tật đến kinh khủng, mà không ít người chỉ là “hoá trang” để...
dễ xin tiền. Bên cạnh “đạo quân” này còn thêm một “đạo quân” cũng không kém đông đảo: những
tên ma cô dắt gái, những kẻ buôn bán đủ các thứ thuốc kích dục, kể cả những dụng cụ làm tình
cho các bà phu nhân no cơm ấm cật thường động cỡn. Chúng buôn bán ngay giữa ban ngày, trên
khắp vỉa hè các đường phố lớn, lắm khi ngay cả trước “Nhà quốc hội”, trước cả “dinh Gia Long”,
trước các “sở Mỹ”... Bọn này luôn hoà nhập với những bọn lừa đảo đổi ngoại tệ, đánh tráo bạc giả
chỉ trong chớp mắt, như có phép thần...

Bỏ lại cái thành phố đầy sắc màu và cũng đầy hỗn tạp ấy, lát sau những người trên chiếc
trực thăng đã nom thấy biển xanh ngắt một mầu, xanh đến lạ lùng như pha phẩm lục; và một bầu
trời bao la tha thiết. Xa xa, thành phố Vũng Tàu thấp thoáng hiện lên cùng những rừng phi lao,
những bãi cát trắng sáng ngời, mềm mại. Gió biển dào dạt lùa vào chiếc trực thăng, đầy gợi cảm.

Nhưng chiếc HU1A đã lập một vòng lượn rồi quay lại, hướng về phía những cánh rừng bạt
ngàn, rậm xanh đến nhức mắt, từ Bà Rịa lên tới tận gần Biên Hoà. Lúc ấy những người ngồi trên
máy bay mới bắt đầu trò chuyện.
- Sắp tới rồi, trình đại tá! - Người sĩ quan Việt Nam chạc 37, 38 tuổi, mang lon trung tá,
cất tiếng nói với người Mỹ ngồi liền bên. Người Mỹ mang lon đại tá, cũng chạc tuổi ấy, nhưng
cao lớn, cân đối và nở nang như một nhà thể thao với khuôn mặt đỏ au đầy vẻ gan góc và táo bạo,
một khuôn mặt gốc Irland khó trộn lẫn. Cường tráng, đầy sinh lực, nhưng viên đại tá Mỹ lại có vẻ
rất trầm lặng. Tên anh ta là J.V.Raphter, một trong những sĩ quan CIA được Colby, trưởng CIA ở
Việt Nam rất tin cậy. Anh ta phụ trách các việc tổ chức, huấn luyện và “ném” gián điệp, biệt kích
ra Bắc. Colby đã có lúc gọi đùa Raphter là “Ông trùm N” (N ở đây có nghĩa là Bắc - Việt Nam).
Có trọng trách như vậy mà hàng ngày ai ra vào văn phòng của đại tá CIA Gilbert Layton, (trợ lý
cao cấp của Colby chuyên về giữ mối quan hệ giữa CIA với chính quyền Diệm) chỉ thấy Raphter
ăn mặc xuềnh xoàng, ngồi câm lặng làm việc đúng như một viên thư ký quèn, cùng với các nhân
viên bàn giấy... Còn Ngô Thứ Lân là trưởng phòng P54, phòng tình báo Bắc tuyến, một phòng
quan trọng vào bậc nhất của cái gọi là “Sở liên lạc phủ Tổng thống”. Mà “Sở” này thực chất là
một bộ phận của tổ chức gián điệp, mật vụ trung ương ngụy do Trần Kim Tuyến đứng đầu. “Sở
liên lạc” này nằm dưới quyền chỉ huy của viên đại tá Lê Quang Tung, phó là Trần Khắc Tính. (Về
công khai Tung còn làm chỉ huy trưởng Liên binh phòng vệ phủ Tổng thống, một thứ Ngự lâm
quân của Diệm). Tuy vậy, thực chất việc nắm và chỉ huy “Sở” là do Raphter. Về phía phòng P54
cũng vậy. Thực chất nắm và chỉ huy phòng quan trọng này lại là hai cố vấn Mỹ cấp uý: Tom và
Andrew. Bởi vậy mọi công việc tổ chức, huấn luyện, trang bị, rồi ném người đi... đều do Raphter
cùng hai cố vấn cấp dưới thao túng hết. Lân chỉ ghé gẩm để hợp thức hoá các mệnh lệnh, các quyết
định của bọn Mỹ, để ra cái điều: “Việt Nam Cộng hoà vẫn có chủ quyền”! Việc chính của Lân chỉ
là lo hành chính giấy tờ, và đến kỳ thì phát lương... Nhưng Lân không bao giờ tự ái. “Vạn sự bất
như nhàn”. Vả lại chính ông Tung, cụ Diệm đều biết rõ như thế, và đồng ý cả. Vậy hà cớ gì mình
phải tự ái? Mà tự ái thì chỉ có thiệt vào thân! Lân vốn là người khôn ngoan và “thức thời” có tiếng!
Lân lại còn biết: cho tới hiện nay (1961) quân chính qui của Diệm, đều đã có các cố vấn, nhưng
thật ra cũng chưa thật chặt chẽ và hoàn chỉnh. Riêng ngành tình báo gián điệp thì khác, Mỹ đã gần
như trực tiếp nắm toàn bộ ngay từ đầu (1955 - 1956)...

Hôm nay là lần đầu Raphter, “ông trùm N” thay mặt Colby đi thị sát một cuộc tập dượt quan trọng.
Vì đây là lần tập dượt cuối của một toán sắp lên đường.

Lân tin là tụi lính “của mình” sẽ rất hân hạnh và phấn chấn (vẫn cứ gọi là lính “của mình”
cũng được chứ sao! Vì bên ngoài, Lân vẫn có mộc son, vẫn ký quyết định này, quyết định kia...
oai phong như ai!).

Lân luôn đeo tai nghe VTĐ và nheo nheo hai con mắt xem tấm bản đồ đặt trên đùi, chốc
chốc lại ngó xuống những khu rừng bạt ngàn bên dưới. Rồi bỗng anh ta tươi cười:

- Bọn họ đang ở dưới kia, Đại tá!

Raphter vẫn im lặng, chỉ đưa mắt nhìn theo tay chỉ của Ngô Thứ Lân xuống một dải rừng
thưa bên dưới với một dòng suối nhỏ thấp thoáng uốn lượn.

- Trung tá. Họ có báo là đã thực hiện được hết các mục tiêu rồi không?

Một câu hỏi nhẹ nhàng từ bên trái bỗng cất lên. Tiếng Việt khá sõi nhưng giọng vẫn còn đôi chút
lơ lớ. Lân quay lại. Đó là Teddy Hampton, một sĩ quan CIA còn khá trẻ cùng tham gia cuộc thị
sát. Lân cũng biết khá rõ về “con báo non” này. Hampton không nằm dưới quyền của Raphter, có
nghĩa cũng không trực tiếp nằm ở phòng P54 như bọn Tom và Andrew. Hampton là chuyên viên
phân tích tình hình, được trực tiếp làm việc với Colby và cũng được “sếp” tin cậy không kém
Raphter. Mới sang có hai năm, Hampton đã nói thạo tiếng Việt, có rất nhiều bạn, đã biết cả quán
cơm Bà cả Đọi và đã lần tới để ăn cơm Bắc, cũng đã biết và mò tới được cả tiệm thuốc phiện hết
sức bí mật nhưng cũng cực kỳ sang trọng và cả “lý thú” của một nghị sĩ ở ngay đường Hàm Nghi
mà hầu như dân Sài Gòn không mấy ai biết... Hampton khác với Raphter ở chỗ đó. Raphter nguyên
tắc, cứng rắn và khép kín, còn Hampton lại luôn luôn như mở toang. Nhưng thế mới đáng sợ. Đáng
sợ hơn nữa: đây là một thanh niên cực kỳ thông minh và có đầu óc phê phán rất sắc bén. Rất ít khi
làm việc vói Hampton, nhưng mỗi lần gặp hắn, Lân đều rất ngại.

Sau khi nghe Ngô Thứ Lân trả lời là mọi việc dưới đó đều tốt đẹp, Hampton lại ngồi lặng
im. Anh ta hồng hào, trẻ trung, dáng vẻ phóng khoáng, nom y như một sinh viên còn đang ở đại
học, khó có ai có thể nghĩ đây là một điệp viên đầy những khát vọng trong nghề và trong sự
nghiệp... Hampton cố giấu một nụ cười. Không hiểu sao bao giờ gặp Ngô Thứ Lân trong đầu
Hampton cũng bật lên một câu hỏi: “Có phải cùng họ Ngô, lại cùng dân Quảng Bình với Diệm,
một ông Tổng thống vừa dốt nát, vừa đầy máu cục bộ địa phương, bè cánh thì cái tay trung tá vớ
vẩn này mới được đưa lên ngồi ở cái phòng 54 này?”.

Lúc đó, trong một cánh rừng ở phía dưới một toán 6 tên khá khoẻ mạnh đang nối nhau đi
thành hàng dọc với cự ly khá rộng, khá đều nhưng có vẻ đã thấm mệt. Chúng mặc toàn đồ đen,
trên ngực áo đứa nào cũng thêu một hình đầu lâu với hai đoạn xương người bắt chéo. (Đó là huy
hiệu riêng của lực lượng Biệt kích. Hôm nay tập, nhưng vẫn mang sắc phục đặc biệt này. Tất nhiên
khi nhảy ra Bắc, chúng phải ăn mặc khác). Tất cả đều mang giày vải và mũ vải, kiểu đi rừng, quanh
lưng đeo đầy các thứ: lựu đạn nổ, lựu đạn khói, dao găm, dao phát, súng ngắn bắn pháo hiệu, la
bàn, cặp bản đồ, bình toong đựng nước, túi cứu sinh... và kè kè cả những bình rượu. Lăm lăm súng,
đứa cầm tiểu liên cực nhanh của Mỹ, đứa tiểu liên SK của Thụy Điển. Riêng tên đi đoạn giữa mang
AK-47 mà quân đội miền Bắc chuyên dùng và các du kích miền Nam đang nổi lên khắp nơi cũng
có không ít. Thích dùng AK47 vì đây là loại tiểu liên có uy lực mãnh liệt hơn hẳn của Mỹ, còn vì
muốn khoe: ta đây đã diệt được Việt Cộng và thu được vũ khí của họ (lính ngụy và cả lính Mỹ đều
thế cả). Trừ tên có AK47 mang vác tương đối nhẹ chỉ đeo chiếc máy định vị để liên lạc với máy
bay, còn những đứa khác đều gùi sau lưng quá nặng: đứa điện đài và ăngten, đứa mìn và thuốc nổ,
đứa lương thực dự trữ và máy phát điện quay tay (ragono).

Gần như không có lối mòn. Bọn chúng đi theo phương vị trên bản đồ. Rừng vẫn ngút ngàn. Chúng
cặm cụi tiếp tục đi, nhưng chốc chốc, có lẽ do quá buồn mồm, lại nói, hoặc giỡn nhau vài câu tục
tĩu. Nhưng khi tên cầm AK “hừm” một tiếng, tất cả lại câm bặt. Tên mang điện đài, người chắc
lẳn, rắn như lim, có vầng trán khá rộng và đôi mắt một mí xếch tựa mắt một “tráng sĩ” trong truyện
Tầu xưa, bỗng gọi:

- Trung úy toán trưởng. Có tiếng người phía trước!

Tên cầm AK ngẩng đầu, nghe ngóng. Không thấy gì hết, nó hơi chau mày như có ý quở
tên điện đài báo hoảng. Nhưng tên điện đài mắt xếch vẫn nói:

- Đúng là có tiếng người mà, trung uý!


Tới lúc đó tên toán trưởng và cả bọn mới thoáng nghe mơ hồ phía trước hình như có tiếng
người thật. Tên toán tưởng gật đầu, nói với tên mang điện đài mắt xếch:

- Đ. mẹ! Dân Mông tụi mày quả là thính tai, thính mũi hơn cả béc-giê, G3 ạ!

Tên lính Mông cũng giỡn lại:

- Còn dân Thái trắng, Thái đen thì sao? Các anh mê ăn thịt chuột, thịt dúi, chắc cũng nhất
thế giới!

Nhưng tên toán trưởng đã “suỵt”, rồi ra lệnh cho cả bọn dừng lại, ẩn náu, sau đó vẫy một
tên có vẻ mặt khá tinh khôn với đôi mắt đảo rất nhanh, và hai cái răng bịt vàng sáng choé:

- G4! Mày tiến lên, thám sát. Lẹ lên!

Tên răng vàng có bí số G4 gật đầu, bỏ bạc đà dụng cụ xuống, xách súng lao đi ngay. Quả
là nó đã được huấn luyện đã khá thành thạo, nên tiến lên rất nhanh mà gần như không một tiếng
động. Loáng một cái nó đã biến ngay vào mầu xanh ngắt của cây rừng.

Khoảnh khắc sau nó quay lại:

- Trình trung uý toán trưởng, phía trước có một con đường lâm nghiệp mới mở, trong bản
đồ ta chưa có. Một chiếc xe reo chở gỗ lớn đang đỗ ở đó. Bọn nó đang sửa máy móc gì đó...

Tên toán trưởng im lặng một chút rồi khoát tay:

- Tốt! Đây là cơ hội để ta bắt “tù binh Cộng sản” khai thác tài liệu.

- Nhưng, thưa trung uý, việc này không có trong giả tưởng tập. Hôm nay chỉ là sau khi
nhảy dù, ta phải di chuyển gấp tới vị trí an toàn đã đánh dấu trên bản đồ, trong điều kiện liên lạc
mất hết lương thực, phải tự mưu sinh bằng trái cây, lá rừng... nhưng cấm nổ súng bắn chim, bắn
thú, để khỏi lộ...

- Thôi đi, mày khỏi phải nhắc tao, đồ ngu! - Tên toán trưởng chau mày - Phải biết biến báo,
linh hoạt mới là chiến sĩ biệt kích chứ! Tao quyết định coi đây là một trường hợp đột xuất gặp
Cộng sản giữa đường. Phải hành động! Gọi tụi nó lại nghe lệnh!

Răng Vàng không dám nói thêm nửa lời nữa, mặc dầu xưa nay nó nổi tiếng lắm mồm và
hay lý sự nhất bọn. Nó đã biết tính gã toán trưởng. Đó là một tay biết thận trọng, tính toán khá cẩn
thận, nhưng nhiều khi cũng bốc lên, dám liều làm những việc tưởng chừng như cực khó, thậm chí
không thể làm được.

Chỉ trong chớp mắt, cả bọn đã có mặt. Tên toán trưởng nói rất nhanh và cũng rất rành rẽ, chứng tỏ
nó là tay có bản lĩnh thực sự, và có khả năng cùng đầu óc phán đoán không tồi:
- Nghe đây! Để bắt sống được bọn này, cần nhớ là các xe reo, ngoài “xế”, tụi chủ gỗ còn
thường cho đi theo từ một tới hai thằng bảo kê, để phòng các “giang hồ hảo hớn” ở sơn lâm cướp
xe. Mà tụi bảo kê này võ nghệ cũng “ngon lành” cả, thậm chí có thể chúng còn có cả “chó lửa”.
Không thể coi thường. Vậy kế hoạch như sau: phải nghi binh thu hút sự chú ý của chúng về một
phía, rồi bất ngờ tấn công từ sau lưng và hai bên. Như thế mới nhanh, gọn được...

Cả bọn đưa mắt nhìn nhau như thầm khen toán trưởng là tay chỉ huy cừ khôi. Tên trung uý
toán trưởng mặt vẫn nghiêm nghị, nói tiếp:

- Phân phối trách vụ như sau: thằng G4 (nó lại chỉ tên răng vàng) mày đã đi trinh sát, biết
địa hình, bây giờ hoá trang thành một thằng điên đi trên con đường mới mở ấy, làm sao cho tụi nó
phải chú ý. Trong khi đó hai thằng này, G6 và G5 với sự yểm trợ của tao và toán phó G2 (nó chỉ
một tên béo phục phịch, ngăm ngăm đen, vẻ mặt lầm lì, ít nói), sẽ tấn công bọn bảo kê, lái xe...

Cả bọn lại hoan hỉ khen toán trưởng giỏi. Tên Mông - G3 phụ trách điện đài hỏi cắt ngang:

- Tránh khỏi lộ thì không được nổ súng, nhưng nếu cần thì “xỉa” chứ?

Tên toán trưởng quắc mắt:

- Tất cả tụi bay đều vốn là lính trinh sát của Sư 22, vừa qua lại được cố vấn Đại Hàn huấn
luyện thêm Karatedo, Teakwondo, vậy không đủ tài để thắng lẹ tụi nó sao?

- Thôi được, trung uý!

Tên Mông lại hỏi:

- Nhưng sau đó làm gì? Lôi tụi nó đi theo há?

Tên toán trưởng lúc đó mới mỉm cười:

- Trói, nhét giẻ vào miệng rồi bỏ đó. Nếu là chuyện thật ngoài Bắc thì bất cứ giá nào cũng
phải đưa chúng đi theo, để còn “rút lưỡi” chứ bộ!.

- Còn chiếc xe reo thì sao, trung uý? - Một tên khác hỏi thêm.

- Thôi, bỏ!

- Hoài! Giá đem về được thành phố, túi tụi em sẽ đỡ nhẹ hơn, trung uý ạ!

- Đã bảo thôi! Nhưng nếu coi trên xe, hoặc tụi “tù binh” có bạc, có đô gì đó, cho tụi bay
được tự do... tàn phá!

Cả bọn cùng la lên:

- Hay! Hay!
Thế rồi, chỉ lát sau, rất nhanh, tên răng vàng đã cải trang thành một người điên cởi trần, đầu bù tóc
rối, mặt lem luốc, mắt lác xệch, lại què nữa, tay cầm một cành cây đi tập tễnh giữa đường, vừa đi
vừa khóc vừa cười. Trong lúc đó tụi còn lại cũng rất nhanh, lấy phấn màu vẽ mặt loang lổ, kỳ dị
như ma quỉ, bắt chước biệt kích Mỹ thường làm. Chúng tiến lên, bí mật áp sát xung quanh chiếc
xe reo gần như êm ru... Trước mũi xe, hai tên bảo kê vẫn đang đứng chéo kheo hút thuốc lá, còn
tên tài xế vẫn bò dưới gầm xe, gõ gõ, vặn vặn. Người điên từ phía trước vừa khóc vừa cười và
vung vẩy cành cây tiến lại gần. Cả bọn, bảo kê và lái xe, cùng ngạc nhiên trố mắt nhìn không hiểu
sao giữa rừng này lại xuất hiện một người điên như vậy... Một tiếng “bép” nhỏ bất ngờ vang lên,
rồi lập tức ba bóng người với ba bộ mặt loang lổ kỳ dị, từ bụi rậm phía sau xe lao ra như ba ánh
chớp đen... Trong khoảnh khắc cả ba tên, lái xe và bảo kê đều bị đánh gục. Chúng bị trói giật cánh
khuỷu và nhét giẻ đầy mồm, cũng chỉ trong nháy mắt. Trong lúc bọn này còn chưa hoàn hồn, chưa
hiểu chuyền gì đã xảy ra, thì bọn người mặt loang lổ đã lục soát tất cả túi áo, túi quần của chúng,
lấy hết tiền bạc, còn giấy tờ thì vứt tung toé...

- Kéo tụi nó ra xa! Xong, gài mìn hẹn giờ để phá chiếc “xe tăng” của “Cộng sản”! Lẹ lên!
- Tên toán trưởng ra lệnh.

Tên G4 răng vàng ngạc nhiên:

- Nhưng mà, sếp ơi, đây là... xe gỗ của người ta...!

Mặt nghiêm khắc, tên toán trưởng khoát tay:

- Kệ cha nó! Hãy thực thi mệnh lệnh!

Và chỉ lát sau, thoắt xồ ra như ma quỉ, chúng cũng thoắt biến đi rất nhanh như quỉ, như ma.
Chỉ còn trơ lại chiếc xe reo, với ba “khổ chủ” bị trói chặt, nhét giẻ đầy miệng, được kéo ra xa, nằm
còng queo ở bên đưòng, mỗi đứa sau một gốc cây lớn.

Khu rừng trở lại hết sức yên tĩnh, như không hề có chuyện gì vừa xảy ra. Nhưng chỉ 15
phút sau một tiếng nổ lớn đã dậy lên. Lửa bốc cháy đùng đùng trên chiếc xe reo đã bị phá tung,
cùng những cây gỗ lớn văng đi tứ tán...

Lúc đó bọn biệt kích đã đi được khá xa. Bỗng nhiên tên G2 người Mông lại nghiêng nghiêng tai
rồi nói:

- Có trực thăng!

Cũng lại như lần trước, tên toán trưởng chẳng nghe thấy gì hết. Nhưng đã biết sự thính
nhạy quá đặc biệt của G2 rồi, nó không gạt đi nữa, mà chăm chú lắng nghe tiếp. Quả nhiên dần
dần đã thấy tiếng cành cạch, rồi tiếng trực thăng mỗi lúc một vang rền rõ hơn. Tiếp đó, dường như
nó bay ở ngay trên đỉnh đầu bọn biệt kích. Tên toán trưởng vui vẻ:

- Trực thăng chở các ông lớn tới uý lạo tụi ta đó, bọn bay!

- A, hay! Sẽ có thuốc thơm là cái chắc! - Ba, bốn tên cùng múa tay hoan hô.
- Ôi, dà! thuốc thơm là cái khỉ mốc gì! - Một tên khác gạt đi - Đưa các “em gái hậu phương”
tới cho mấy anh “xài”, hay hơn nhiều! Ban ngày, giữa rừng xanh đẹp như thế này mà “diễn trò”
tập thể thì thật tuyệt cú mèo!

Cười hô hố lên một loạt, nhưng rồi chúng trở lại im lặng, và tiếp tục cắm cúi đi.

Từ lúc đó tiếng trực thăng cứ vang rền mãi không dứt trên bầu trời. Nó đang tìm bãi hạ
cánh, hay đang quanh đi quẩn lại để theo dõi từng bước đi của tụi dưới này? Toán biệt kích chỉ
biết là chúng phải rảo chân hơn...

* *

Trên một trảng cỏ không lớn lắm, nằm lọt giữa những khu rừng khá rậm rạp, toán biệt kích
đã tập hợp đông đủ. Chúng đứng thành một hàng ngang nghiêm chỉnh với đầy đủ các trang bị phức
tạp trên người. Raphter, viên đại tá CIA cao lớn với khuôn mặt đỏ au, cứng cỏi chậm rãi bước tới.
Anh ta đứng lại, đôi mắt xanh lơ mạnh mẽ nhìn thẳng vào đám sáu tên biệt kích và bắt đầu cuộc
nói chuyện bằng một từ ngắn ngủi:

- Goblin ! (Yêu tinh!)

Goblin (Yêu tinh) là mật danh đã được CIA trao cho toán này ngay từ khi được thành lập. Người
Mỹ này dường như cố ý muốn tạo một ấn tượng mạnh. Anh ta gọi lên ngay cái mật danh khá kích
động ấy với nhiều ý nghĩa: vừa như một lời chào, vừa như một thán từ kính nể, vừa như muốn
nhắc nhở vai trò, và cũng vừa như bao hàm cả sự răn đe về thành bại của bọn này trong trách vụ
đặc biệt.

Bọn Ngô Thứ Lân và Hampton ít nhiều đều cảm thấy như vậy.

Raphter thong thả nói tiếp, từng lời sắc như dao:

- Các anh đã hoàn tất đợt rèn tập cuối cùng. Tất nhiên các anh còn phải trải qua một đợt
trắc nghiệm khác nữa. Rồi các anh sẽ lên đưòng thực thi trách vụ của mình. Hôm nay tôi muốn
nhấn mạnh với các anh: Goblin sẽ là toán đầu tiên được tin cậy tung ra, theo một chủ trương mới
là: đi xa và đi lâu. Hoàn toàn khác trước. Các anh biết điều này cả rồi chứ?

Toán biệt kích đáp lí nhí:

- Rõ.

- Rất tốt. Đây là trách vụ rất khó khăn, nhưng cũng rất quan trọng và thiêng liêng nữa. Có thể coi
các anh như một ngọn lửa, nhưng là ngọn lửa đầu tiên sẽ tạo nên một đám cháy lớn sau này...

Raphter nói, Hampton, anh chàng đại uý CIA trẻ làm phiên dịch đỡ cho Ngô Thứ Lân, vì
vốn tiếng Anh của viên trung tá người Việt này quá tồi. Hampton dịch khá lưu loát, nhưng trong
đầu óc hắn lại hoàn toàn nguội lạnh. Những câu nói của Raphter dù có hay ho đến mấy, hắn cũng
chẳng quan tâm, mặc dầu rất trọng nể Raphter vì tuổi đời và cả vì tuổi nghề. Hampton đã được
nghe nói từ lâu: Raphter từng là một trong những trợ thủ cho Lansdale, viên đại tá CIA gian hùng
trong vụ dụ, lừa đưa một triệu dân Bắc Việt mà hầu hết là giáo dân di cư vào Nam hồi cuối 1954
sang 1955. Gần đây cùng làm việc dưới trướng Colby, Hampton biết rõ Raphter hơn: đây đúng là
một sĩ quan CIA tuyệt đối trung thành với quyền lợi Mỹ. Raphter rất tin thuyết “hiệu ứng Domino”.
Thuyết đó cho rằng: Việt Nam thắng lợi thì chắc chắn có tác dụng lớn tới toàn bộ các nước Đông
Nam Á, làm sụp đổ hết, và chủ nghĩa Cộng sản sẽ thống trị tất cả. Do đó Raphter nhiệt liệt hoan
nghênh chỉ thị 5809 của Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ (NSC) ngay từ năm 1956 đã kêu gọi tăng
cường giúp Diệm, không có tổng tuyển cử, chống Bắc Việt giành thắng lợi... Cho tới nay Raphter
là một trong những sĩ quan CIA vẫn còn khá lạc quan về tình hình chung ở Nam Việt Nam, mặc
dầu ông ta cũng biết đang có những phức tạp, khó khăn mới đang nảy sinh: đó là những cuộc nổi
dậy của dân chúng ở nhiều nơi vùng nông thôn và miền núi... Tuy nhiên Raphter vẫn tin rằng mọi
việc rồi đây chắc chắn sẽ mau chóng tốt đẹp trở lại. Việt cộng dẫu sao vẫn còn rất bé nhỏ, nếu tăng
cường quân sự sẽ tiêu diệt không khó. Điều quan trọng nhất, đáng quan tâm nhất là miền Bắc bắt
đầu bí mật đưa người và vũ khí vào. Nhưng Mỹ đã có đối sách: sẽ tung người ra chống phá, đánh
Cộng sản ngay từ trong lòng miền Bắc...

Hampton thường thầm cho rằng Raphter và mấy ông cứ tự cho là “cựu trào” thường chỉ
suy nghĩ với những tín điều đã cũ. Mới sang Sài Gòn, nhưng giao du rộng, quen biết nhiều tướng
tá, từ những kẻ chống Cộng điên cuồng, đến những người có chừng mực, có tâm huyết, và cả một
số người không giấu giếm sự bất mãn, cho nên Hampton có một cái nhìn tự tin là thực tế hơn.
Trước hết, hắn thấy rất rõ rằng: thời kỳ ổn định nhất của chính quyền Diệm (1956, 1957) sau khi
ông này dẹp được các giáo phái và Bình Xuyên, nay đã qua rồi. Tình hình chung đang ngày một
xấu đi một cách đáng lo ngại, ông ta đã mất lòng dân trước hết và chủ yếu vì đã từ chối tổng tuyển
cử thống nhất đất nước. Đó là chưa nói tới các chuyện như “gia đình trị”, “Quảng Bình trị” và “độc
tài, phong kiến”... Dân chúng oán hận ngày càng nhiều. Du kích đang nổi lên khắp nơi... Theo
Hampton, thì CIA rất máy móc chỉ quan tâm tới các vấn đề quân sự như Việt cộng hiện nay có
bao nhiêu người, vũ khí có những gì, miền Bắc đã bí mật đưa vào được bao cán bộ, súng ống mà
không quan tâm đúng mức tới các vấn đề cốt tử là Diệm mất lòng dân, là các chính sách sai lầm
của ông ta, là các cơ sở xã hội cùng các tổ chức quần chúng của Việt cộng ở nông thôn, và cả ở
các đô thị hiện nay đang ngày càng phát triển tạo nên một nền tảng vững chắc cho mọi hoạt động
vũ trang và chính trị của họ. Trong khi đó, ông Diệm vẫn tỏ ra hết sức chủ quan và kiêu ngạo
không kém CIA. Ông ta tự tin đến mù quáng là dân chúng vẫn rất ủng hộ ông ta, còn Việt cộng
chỉ là một nhúm, đánh bại không khó. Cho nên ông ta chỉ nghĩ đến đánh, đánh mạnh hơn nữa. Ông
đã lớn tiếng kêu gọi Mỹ tăng cường viện trợ quân sự. Và ông ta như “gãi đúng chỗ ngứa” của
Washington.

Dù là một sĩ quan trẻ mới vào nghề có hơn 4 năm, nhưng Hampton đã thấy khá rõ bức
tranh lộn xộn và ngày càng tối xám ấy. Hampton là một người Mỹ rất yêu đất nước mình, và không
thích Cộng sản ngay từ khi còn là sinh viên. Nhưng nay ở Việt Nam, Hampton thấy các chính sách
chống Cộng như vậy là không ổn. Mà hắn thì “thấp cổ bé họng”- nói ai nghe? Đó là nỗi băn khoăn
luôn âm thầm trong lòng hắn... CIA ở Sài Gòn, mà ngay cả ở Washington, Hampton thấy người ta
thường luôn luôn nhắc đến những chuyện áp dụng kinh nghiệm tiêu diệt phong trào Cộng sản ở
Philippine, Mã Lai, Thái Lan. Nhưng ở đây rất khác, khác lắm... Không thể máy móc áp dụng các
kinh nghiệm chống du kích Cộng sản ở các nước ấy vào Việt Nam. Người Mỹ cũng đang hăng hái
tính chuyện vận dụng kinh nghiệm biệt kích Đồng minh ném sâu vào hậu phương quân Đức trong
Thế chiến thứ hai vừa qua. Nhưng Hampton cũng đã được đọc không ít về cuộc chiến tranh ấy.
Hắn biết mỗi khi có biệt kích Đồng minh nhảy xuống thì dân Pháp, dân các vùng bị chiếm, ở Ba
Lan, Bỉ, Tiệp... không những hoan hô, che giấu, mà còn mời cả rượu... Nhưng ở Việt Nam, đất
nước có một lịch sử khác, một truyền thống khác, có thể nói thẳng ra rằng: dân chúng đã gắn bó
từ lâu với Cộng sản. Vậy có thể dễ hình dung ra dân miền Bắc sẽ “đón tiếp”: những toán biệt kích
của Diệm, mà thực chất là của Mỹ ra sao? Vẫn còn nhớ hồi mới ở Thái Lan chuyển qua, Hampton
đã được giao nhiệm vụ ra Đà Nẵng, giúp việc “đánh” đi một số gián điệp và người nhái ra Quảng
Bình. Nhưng gần như ra người nào mất người đó... Rõ ràng ở đây, Sài Gòn này, chỉ thấy CIA và
Sứ quán Mỹ toàn nói chuyện tăng cường tấn công bình định ở miền Nam, và mở rộng các hoạt
động chống phá ra cả Bắc... Chẳng thấy mấy ai nói tới chuyện làm sao cho ông Diệm phải cải tổ
cái chính quyền gia đình trị, phong kiến độc tài của ông ta ra sao...

Raphter nói chuyện với toán biệt kích xong, quà tặng được phân phát: mỗi đứa một bao
thuốc thơm, một hộp biscuit ngon. Tụi chúng hoan hô nhiệt liệt. Khi chúng được phép ngồi nghỉ,
Raphter tiến lại trước mặt tên toán trưởng, mỉm cười thân ái:

- Quê anh có một dòng sông rất đẹp mà cũng rất hung dữ, phải không?

Tên toán trưởng thoáng mở to mắt. Nhưng rồi nó hiểu: “họ” đã tìm hiểu và nghiên cứu hồ
sơ của chúng quá tỉ mỉ và từ lâu rồi, không có gì đáng ngạc nhiên hết. Y gật đầu.

- Vâng, sông Đà! Tây Bắc là quê hương cũ của tôi.

- Người Pháp vẫn gọi đó là “Xứ Thái thần tiên” phải không?

- Vâng, đúng thế. Quê hương xưa của tôi cực đẹp.

- Này, quê chính của anh là Sơn La hay Lai Châu nhỉ?

- Thưa, gốc thì ở Quỳnh Nhai - Sơn La, nhưng sau cha tôi đưa cả gia đình lên Lai Châu
làm vườn và nuôi bò, dê cho cụ Đèo...

- Bây giờ ở quê anh còn có nhiều người thân không, hay kéo cả vào đây hết rồi?

Tên toán trưởng thoáng thở dài. Đó là một thanh niên chạc 28 tuổi, tầm thước nhưng khoẻ mạnh,
có bộ mặt cứng cỏi với bộ râu quai nón mờ xanh.

- Thưa, dòng họ Cầm tôi vốn bình thường. Chi họ tôi thì nghèo. Vì vậy không mấy ai được
Pháp đưa đi sau hiệp định Giơne. Chỉ có tôi vốn là lính nên...

- Anh Cầm Diêu - Raphter hỏi tiếp - Cha mẹ anh đã chết cả rồi phải không?

- Vâng.

- Vậy nếu được trở lại quê hương, anh cảm thấy thế nào?
Khuôn mặt tên toán trưởng bỗng như tối lại:

- Tôi vẫn còn món nợ với Cộng sản ngoài đó!

Raphter “à” một tiếng, gật đầu, vẻ thông cảm và hài lòng, rồi quay sang phía tên người Mông mang
điện đài:

- Còn anh, quê anh ở Tây Trang, đúng không?

Tên Mông có vẻ ngạc nhiên:

- Ông biết hả?

- Phải. Anh có muốn được trở lại quê hương không? Anh tên gì?

- Tráng A Páo! Có muốn chứ!

- Nhưng về thăm họ hàng đã đành, còn có trách vụ lớn nữa, anh vẫn nhớ chứ?

Không ngờ tên Mông toét miệng cười, hồn nhiên:

- Không!

Raphter chau mày:

- Vậy anh quên là về để đánh Cộng sản hả?

Tên Mông như sực nhớ ra, lại toét miệng cười:

- A, nhớ!

- Chắc anh biết là Cộng sản ác như con beo, độc như con rắn chứ?

- Mình không biết.

- Ủa! Vậy làm sao anh có tinh thần chiến đấu được?

Tráng A Páo lại hồn nhiên:

- Có chứ, sao không có?

- Nhưng có thật hết lòng hết sức không?

- Hết chứ!
- Này, trước khi về toán này anh đang tham gia hoạt động bên Lào giúp quân ông Vàng
Pao phải không?

- Phải rồi. Nhưng cấp trên gọi về, thì về. Bảo tham gia ở đây, thì tham gia.

- Nghe nói anh rất thạo về VTĐ. Anh học từ bao giờ vậy? Pháp cho anh đi học hả?

- Không. Pháp bắt mình làm culi gùi máy. Sau có anh lính điện báo viên người Kinh thích
mình, những khi rảnh rỗi, buồn, dạy cho. Dạy mãi rồi cũng làm được.

- Nhưng anh phải biết chữ chứ?

- Phải rồi, trước mình mù chữ. Anh lính người Kinh dạy cho cả cái chữ. Dạy chữ rồi mới dạy moóc
mà.

- Hay đấy! Bây giờ hẳn là anh có thể làm điện báo viên một cách thật hoàn hảo?

- Ô, cả cái sư đoàn 22 lính truyền tin thua mình hết mà!

Tất cả bọn cùng bật cười, chia sẻ niềm tự hào với cậu lính Mông vẫn còn nhiều chất hồn
nhiên nguyên thủy này.

Raphter tiếp tục quay sang tên thứ ba, tên G4 răng vàng, tinh khôn và nhanh nhẹn:

- Anh là dân Mường phải không?

- Vâng. Nhưng không phải tỉnh Hoà Bình mà ở Mộc Châu - Sơn La. Tôi là Hoàng Văn
Lanh.

- Nhiệm vụ anh trong toán là gì?

Răng vàng lại nhanh nhẩu đáp:

- Thưa, tôi nhân viên tình báo phá hoại, chuyên đặt mìn phá cầu, phá xe, bắn lén, bắt tù
binh ám sát cán bộ...

Raphter quay sang tên béo, mặt to tròn, đen đúa, lầm lì.

- Còn anh?

Tên nọ đáp:

- Tôi là Lò Văn Sính, toán phó, bí số G2. Có thêm trách vụ làm dự bị điện đài cho G3.

Tôi cũng đã được huấn luyện cả về VTĐ.


- Các anh đã hoàn toàn sẵn sàng rồi chứ? - Raphter hất hàm hỏi lại.

- Thưa, sẵn sàng. - Cầm Diêu đáp thay cho cả toán.

- Các anh đã được nghe nói về tình hình quê hương chưa? - Raphter hất hàm về phía tên
G4 răng vàng lém lỉnh nhất.

Tên này hấp háy đôi mắt, rồi liếc nhanh về phía tên toán trưởng và Ngô Thứ Lân.

- Thưa, rồi!

- Anh thử nói lại xem sao?

- Thưa… thưa... Tên răng vàng ngắc ngứ mãi. Rồi đột nhiên nó như sực nhớ ra được một
số câu của sếp nào đó, mà theo nó có lẽ là tuyệt vời nhất:

- Thưa, cấp trên bảo Cộng sản chiếm hết mường, bản. Người già, người bệnh đều bị giết
chết hết, vì bảo rằng nuôi vô ích. Còn người trẻ thì phải làm như trâu như ngựa, mà chỉ được ăn
toàn lá cây, nên cũng chết đầy rừng, đầy suối. Đến chim chóc cũng không còn con nào. Cá ở dưới
sông cũng đã hết sạch, chỉ còn có cát với rong rêu.

... Phải về giải phóng, xây dựng lại xứ Thái tự do và giàu có như nước Mỹ.

Raphter có vẻ hài lòng:

- Tốt lắm!

Raphter nói chuyện tiếp với hai tên còn lại. Một tên cao gầy, tóc rễ tre, mắt sắc, tên là
Chơm, còn tên kia mặt tròn vành vạnh, lại hay cười nụ, nhưng nụ cười đầy bí hiểm, tên là Sam.
Cả hai đều là dân Thái ở Mường Lay - Lai Châu. Bọn này không phải là lính sư 22 mà do tình báo
sư này giới thiệu về “Lực lượng đặc biệt”. Hai tên này vốn là côn chạ (nô bộc trong nhà) của gia
đình họ Đèo đi trước. Chúng chuyên việc phục dịch các phìa, tạo ở các châu, mường, thường xuyên
đi thuyền đuôi én về nhà họ Đèo ở Lai Châu đánh bạc đêm này qua đêm khác. Chúng còn có nhiệm
vụ tổ chức các đêm xoè thật “nồng nàn” cho các quan Tây đóng tại tỉnh, và các quan Tây hàng
tuần từ Hà Nội đi tầu bay lên chơi... Ngoài ra chúng còn làm cả công việc mật vụ dò la tin tức về
Việt minh trong vùng để báo cho quan ba Đèo Văn Phát (con trai Đèo Văn Long). Sau hiệp định
Geneve, hai tên này được họ Đèo cho theo về Hà Nội, cùng di cư vào Nam. Chúng xin vào làm
việc cho một cơ sở mật vụ của Trần Kim Tuyến ở Bình Phước. Do được đánh giá là giàu kinh
nghiệm cho nên Sài Gòn đã yêu cầu cơ sở này giới thiệu chúng cho biệt kích. Chúng đã được trao
nhiệm vụ trong toán như tên G4: chuyên phá hoại và thu lượm tin tức tình báo, tung tin giả, đặt
chuyện gây chia rẽ nội bộ đối phương và móc nối, xây dựng lực lượng cho các “mật khu ở ngoài”
khi nào thành lập được...

Một lúc sau, cả bọn Raphter, Hampton và Ngô Thứ Lân ra hiệu tạm biệt lũ biệt kích vẫn
còn đang nhồm nhoàm nhai bánh và phì phèo thuốc thơm. Chiếc trực thăng cất mình lên, cánh
quạt quay tít, vang rền. Cỏ trên trảng dạt xuống như có bão lốc.
Ngẩng đầu lên nhìn theo, một tên trong toán lại cất tiếng chửi thề:

- Đ.mẹ! Đã bảo: kéo tới cho vài em gái hậu phương thì có phải là tuyệt cú mèo hơn không!
Đ.mẹ, bánh này ở trại, ném cho nó!

Goblin đã hoàn tất cuộc tập dượt lần cuối trên thực địa, hôm nay quay trở về Sài Gòn.
Chúng cùng ngồi trên một chiếc ambulance (xe cứu thương) bịt kín. Cả sáu tên ngả ngốn trên ghế,
cười nói hả hê sau nhiều ngày phải lang thang chui lủi trong rừng sâu để diễn tập. Chúng phải ôn
lại các khoa mục mà người Mỹ đã dạy ở căn cứ huấn luyện biệt kích Mỹ tại Philippine, nơi mà tất
cả các bọn biệt kích người Việt đều phải sang thụ huấn. Đó là một trong những căn cứ huấn luyện
mà chúng gọi là các “Căn cứ tử thần”... Chúng đã phải học cách bí mật luồn rừng trong điều kiện
hết hoặc mất sạch lương thực, phải tự mưu sinh bằng trái cây, lá rừng, ốc sên, chuột, dúi; Học
chống trả hoặc lẩn tránh khi bất ngờ đụng nhau với lực lượng vũ trang Cộng sản giữa rừng. Học
vượt sông sâu, học vượt thác dữ với bè mảng tự tạo; Học leo núi dốc ngược thành vại và băng qua
vực sâu; Học cách đột nhập vào các làng bản nhặt tin, bắt mối, xây dựng cơ sở, hoặc bắt cóc tù
binh để khai thác tài liệu; Học phục kích, đột kích, tập kích, phá hoại các công trình quốc phòng,
xe hơi, xe tăng, pháo binh, tên lửa; Học võ thuật, học đầu độc, ám sát, bắn lén; học nhảy dù; Học
lập các hộp thư mật, các kho dự trữ, xây dựng các bãi tập cho “lực lượng” khi tuyển mộ được, học
thông tin, mật mã...; Học liên lạc với máy bay, học leo thang dây lên trực thăng đến cứu để tẩu
thoát... nhiều lắm! Hết sức căng thẳng và vất vả, kể cả hiểm nguy. Lười một chút hoặc lơ đễnh làm
sai là bị huấn luyện viên (Mỹ, thêm một hai võ sư Đại Hàn) đánh liền, đánh tàn bạo. Đã có tên
chết.

Chiếc ambulance về tới Sài Gòn. Cả bọn đều hú lên một cách cực kỳ thú vị và man rợ. Qua
ô kính nhỏ sau xe, một số tên luôn giơ các ngón tay lên ra hiệu “làm tình” hết sức tục tĩu với những
“em gái hậu phương” áo dài tha thướt đạp xe trên phố mà chúng vừa vượt qua. Rồi tất cả cười hô
hố cả lên như hoá rồ. Chúng ồn ào nhắc lại chuyện cách đây 3 tháng, khi từ “căn cứ tử thần” bên
Philippine về, chúng đã được tập trung ở Phú Nhuận ăn chơi xả láng, và lĩnh lương cùng quân
trang... Lương tháng của chúng mỗi đứa là 8000 đồng tiền Diệm (trong khi lương một đại uý Cộng
hoà chỉ có 4700 đồng). Đó là chưa kể tiền phụ cấp để may thường phục. CIA trực tiếp trả hết,
không lấy trong ngân sách của Diệm, mặc dầu ai cũng biết ngân sách Diệm cũng là của Mỹ cả. Sự
chi trả trực tiếp này đã tỏ ra: Mỹ nắm toàn quyền lực lượng biệt kích của Diệm. Bên Diệm chỉ có
danh nghĩa bề ngoài...

Tên răng vàng G4 bỗng nói to:

- P54 kia rồi!

Cả bọn cùng nhao người nhìn qua ô kính nhỏ sau xe: một căn nhà hai tầng thoắt hiện ra.
Nó màu vàng nhạt, có phần hơi cũ kỹ, không có gì thật khác biệt với tất cả những ngôi nhà khác
bên đường phố mang tên Nguyễn Minh Chiếu. Nhưng ngôi nhà này thật sự đặc biệt. Nó là trụ sở
mật của phòng 54, phòng chuyên đánh biệt kích ra Bắc, cái phòng quan trọng bậc nhất trong các
phòng khác của “Sở liên lạc”. Các phòng nọ cũng đều bố trí phân tán lẫn trong dân, người ngoài
chỉ mang máng biết là công sở nào đó như trăm nghìn công sở khác... Ở đây, P54, tụi này đã lui
tới đến nhẵn mặt, và quen biết đủ các nhân vật quan trọng của ngôi nhà: trước hết là Ngô Thứ Lân,
về danh nghĩa là chủ và Nguyễn Quýnh: nghe nói trước đây, ở ngoài Bắc làm lý trưởng, vậy mà
không hiểu sao cái “ông lý toét” này bây giờ lại là một đại uý an ninh của “Quân lực Việt Nam
Cộng hoà” được biệt phái sang đây giúp Ngô Thứ Lân. Và một người nữa tên Chắt cũng bên quân
đội cử sang giúp theo dõi các việc huấn luyện! Ngoài ba người Việt ấy, ở ngôi nhà P54 này còn có
mặt thường xuyên đại uý Tom và thiếu tá Andrew, hai chuyên viên của CIA. Và đây mới là những
ông chủ thực sự của P54...

Chiếc xe chạy qua mấy đường phố khác rồi dừng lại trước một ngôi nhà hai tầng, xây theo kiểu
Pháp cũ, có rào sắt phía ngoài với một cổng nhỏ luôn luôn khoá kín cũng như tất cả các cửa sổ của
ngôi nhà trông ra mặt phố đều không khi nào mở. Một lần nữa bọn Cầm Diêu lại hú lên vui vẻ.
Đây là chỗ ở của chúng từ khi ở Philippine trở về.

Đã 17 giờ hơn. Buổi chiều hè Sài Gòn bao giờ cũng thường dịu mát, dễ chịu. Bọn chúng
ào ngay vào phòng tắm, cởi tuột hết áo quần, trần như nhộng. Các vòi nước được mở hết cỡ, tuôn
rào rào. Vừa kỳ cọ, chúng vừa nhổ phì phì, thi nhau đái tứ tung ngay tại chỗ, và nói đủ các thứ
chuyện hết sức tục tĩu... Gần một tháng trời ở rừng rồi còn gì! Hôm nay chúng sướng như điên.
Tắm xong, không một tên nào nghĩ đến chuyện ăn bữa chiều nữa, mà lao ngay vào những việc
riêng, những thú riêng đã tính toán sẵn.

Thoáng cái G4 - Hoàng Văn Lanh đã biến mất, chỉ sau một cái giơ tay chào nhẹ cùng một
câu rất gọn và chiếu lệ: “Xin phép sếp!”, Cầm Diêu biết thừa tên này đi đâu. Nó mới có mụ bồ
cũng dân Mường, nhà đang ở Dakao. Mụ này to béo, phốp pháp, dâm đãng đến mức “hãi hùng”.
Lão chồng mụ là người Kinh, một viên thiếu tá mèng đã già lẽ ra phải về hưu ba bốn năm rồi.
Nhưng cũng dân đồng hương với tổng Diệm, quanh năm, suốt tháng lão chỉ mê mải ra vào luồn
cúi, hầu hạ trong nhà họ Ngô, bỏ mặc cho con vợ quá mãnh liệt đi “cải thiện” tứ tung. Đã 3 con
nhưng cùng một thời điểm mụ có tới sáu bảy ông bồ đủ loại. Nhưng nghe G4 khoe (chắc cũng
khoác lác) là nó được mụ “mết” nhất, khen là “lính đặc nhiệm dẻo dai đến kinh hoàng”...

Hai tên Chơm và Sam (G5 và G6) cũng rủ nhau biến, Cầm Diêu biết chúng cũng đi kiếm
gái. Nhưng hai thằng này vừa keo kiệt, vừa kém mồm kém miệng, thua thằng G4 xa, nên chỉ đi
kiếm gái đứng đường. Nhào vào một xó nào đó, chỉ một lúc sau đã xách quần bước ra hớn hở
tuyến bố một câu xanh rờn: “Xong!”. Đã một lần cả hai tên đều bị “nổ ống khói” đi tập cũng phải
mang theo thuốc “bệnh kín”, đến là khổ!

Thằng Sính, toán phó (G2) ngăm ngăm đen, to con và ít mồm ít miệng, lại mê cờ bạc hơn
cả chơi gái. Nó cũng đã lùi lũi đi tới một tụ điểm đỏ đen nào đó rồi. Nó nom vậy mà luôn luôn
hên, hay thắng lắm. Tụi con bạc, nhất là tụi đầu gấu thấy nó mặc thường phục tưởng dân Mán,
Mường xớ rớ nào đó, đã mấy lần toan trấn lột. Nhưng tất cả đều bị thằng Sính cho “ăn quết trầu”
hết. Gần đây, tụi bụi đời, tay chơi đều đã phải hoàn toàn kiêng nể “thằng mặt chảo gang”.

Còn thằng G3 người Mông, Tráng A Páo cũng là đứa thích “tìm của lạ”. Nhưng có lẽ nó còn mê
ti vi hơn. Nó có thể ngồi cả ngày trước chiếc tivi quên cả ăn, y như một thằng bé ham chơi vậy.
Đặc biệt là Tráng A Páo, không thích Mỹ. Nó vẫn luôn luôn công khai khen Pháp tốt hơn Mỹ. Đã
có lúc Cầm Diêu hỏi thử: Mày đang phục vụ dưới quyền Mỹ, ăn lương Mỹ, sao lại chê người ta?
Nó cãi: “Ăn lương thì mình phải làm cho họ. Không có nợ nần gì nhau mà! Người Mỹ khinh người
lắm. Không tốt đâu!”. Người Mông thường có những “cái lý” của mình như vậy và hay tranh cãi
đến cùng.

Khi chúng đã đi hết, Cầm Diêu lấy giấy ra viết thư cho vợ là Lò Thị Nhạn đang ở Nha
Trang. Y cắm cúi viết một mạch, say sưa, xúc động đến ứa lệ như thời còn ở quê nhà, yêu nhau
tha thiết. Còn nhớ: ấy là năm 1953, 18 tuổi Diêu mới học xong tiểu học (vì nhà nghèo y phải làm
lụng giúp cha, mãi sau mới được biết đến quyển vở, cái bút). Học hết tiểu học, y xin được vào làm
ở trạm bưu điện ở ngay thị xã Lai Châu, ngày ngày đánh chiếc xe ngựa chở thư, công văn lóc cóc
xuống các mường, bản. Cuộc sống không đến nỗi quá vất vả nhưng vô cùng buồn chán. Nhưng rồi
có lẽ ông Trời đã giúp nó. Một hôm, chiếc xe ngựa của nó rệ xuống một bên đường vào thị xã.
Nhạn có việc đi qua, dừng lại. Thương anh chàng trẻ tuổi vất vả, cô cúi xuống kéo giúp một tay.
Vừa nom thấy Nhạn, Cầm Diêu đã bàng hoàng, tâm hồn hoàn toàn bị chiếm đoạt tức khắc. Cô đẹp
quá, một vẻ đẹp trong trắng, thiên thần mà y chưa bao giờ được thấy... Từ đó hai người quen nhau
và Diêu được biết Nhạn là một cô gái xoè mới bị bắt lên nhà họ Đèo. Cũng từ đó, cứ mỗi lần trên
dinh nhà họ Đèo tổ chức xoè là Cầm Diêu lại đứng đón chờ ở bến sông Đà, để ít nhất được ngắm
nhìn và nói với cô một vài lời. Nhưng nhiều lần đã đứng suốt ngày dưới mưa rơi, trong gió rét, mà
vẫn không gặp được Nhạn... Cho tới cuối năm ấy (1953), Cầm Diêu đột ngột bị gọi vào BAT (Tiểu
đoàn bộ binh Thái). Trong khi nó còn đang chưa hết choáng váng vì phải rời thị xã, phải xa Nhạn
thì một sự cố nữa lại xảy ra: ở Tây Bắc, Pháp thua liên tiếp. Lai Châu bị uy hiếp dữ dội, Pháp phải
bỏ Lai Châu đem quân chạy về Điện Biên Phủ... Thế là từ đó nó càng xa Nhạn, và cũng từ đó coi
như tan nát hết, tan nát cả gia đình, tan nát cả mối tình mới chớm nở. Cho tới khi Điện Biên Phủ
thất thủ, Pháp phải ký Hiệp định Genevé, chạy vào Nam, Cầm Diêu càng tuyệt vọng. Đã hai lần y
định trốn ở lại để đi tìm Nhạn, nhưng cả hai lần đều bị Pháp bắt lại... Phải nuốt nước mắt đi theo
Pháp. Đến năm 1956 Pháp cuốn gói về nước, Cầm Diêu cùng nhiều sĩ quan binh lính Thái, Mông,
Tày bị Diệm đưa về sư đoàn 22 đóng ở Nha Trang. Cũng không ngờ trôi dạt về mãi tận nơi đây.
Cuối năm 1957 y đã được gặp lại Nhạn. Hai người chỉ còn biết hết cười rồi khóc, khóc rồi cười.
Và chỉ muốn quì xuống ngàn lần mà tạ ơn những đấng thiêng liêng đã thương cho mối tình quá
đau khổ của hai người. Thì ra Lò Thị Nhạn cùng gia đình theo người ta cũng chạy vào thành phố
bên bờ biển này từ đầu năm 1955. Nay cả nhà cô đang làm vườn và chài cá ở gần cầu Bóng... Lần
này rút kinh nghiệm khi trước, không để lâu nữa, Cầm Diêu cùng với Nhạn làm lễ cưới ngay. Khi
ấy Cầm Diêu đã là một thiếu uý...

Nhưng hai người lấy nhau mới được một năm, chưa kịp có con, Cầm Diêu lại được lệnh
của Ban trinh sát và tình báo Sư đoàn về Sài Gòn cùng một số người khác cũng là dân miền núi
Tây Bắc, tham gia tuyển chọn vào lực lượng gián điệp biệt kích đường dài. Từ đó y chưa một lần
được trở lại Nha Trang. Nhiều lúc y cũng thầm hối tiếc vì đã quá ham đồng lương cao của biệt
kích, thêm nữa cũng vì còn nhớ quê hương mường bản, muốn có dịp được trở lại. Nhưng hơn tất
cả là do đại uý Quyền, người chỉ huy trực tiếp của Cầm Diêu trong đội trinh sát của Sư đoàn đã
hết sức khích lệ. Dù rất biết Cầm Diêu mới lấy vợ, đại uý Quyền vẫn nồng nhiệt hối thúc, ông ta
tỏ ra là một người vô cùng tâm huyết với việc giải phóng đất nước ông bà, quê hương, bản quán.
Ông ta cho đây là một dịp quí hơn vàng. Nhiều lúc nói về những chuyện này với Cầm Diêu ông ta
cứ ứa lệ. Ông ta cũng là dân Thái, nỗi đau cho quê hương của ông tỏ ra sâu sắc, đã làm cho Cầm
Diêu không thể không động lòng... Ông ta nói sẽ hết lòng giúp Cầm Diêu để có thể dễ dàng qua
đợt tuyển chọn của người Mỹ. Ông còn tha thiết bộc lộ: “Em hãy đi trước! Rồi anh cũng sẽ tình
nguyện trở về. Anh em ta sẽ cùng trở về với dòng sông Đà tuyệt vời hùng vĩ, với núi Pú Nhung uy
nghiêm, thiêng liêng huyền diệu của chúng ta... Bây giờ em cứ đi đi! Trong này, mọi việc gia đình
em đã có anh lo liệu giúp. Đây là gia đình thân thiết nhất mà anh phải có trách nhiệm. Em cứ yên
tâm...”. Thế đấy! Như một người ruột thịt, thậm chí một ân nhân, ông ta đã làm cho Diêu từ do dự
đi tới quyết chí thực sự...

Viết cho Nhạn xong, Cầm Diêu viết tiếp cho Quyền. Nếu như viết cho Nhạn hẳn như đã
trút hết tình yêu của mình trên các trang giấy thì với Quyền hắn cũng viết với tất cả niềm kính
trọng và biết ơn hết sức chân thành. Vừa viết, hắn vừa hình dung ra trước mặt một con người đã
đứng tuổi, ăn mặc luôn luôn chải chuốt, khuôn mặt xương xương, đôi mắt ướt át đầy tình cảm và
cái miệng tươi cười...

Viết xong, Cầm Diêu đẩy ghế đứng dậy. Đến lượt hắn cũng phải ra ngoài xả hơi đôi chút.
Mặc dầu yêu vợ hết sức nồng nàn, nhưng hắn cũng vẫn là đứa chơi gái có hạng. “Việc nào đi việc
ấy mà, các chiến hữu!”. Hắn vẫn thường cười trả lời bạn bè như vậy khi tung tiền vào các hộp đêm
không tiếc. Nhưng đêm nay, vừa viết thư cho Nhạn xong, hắn không muốn tới các “hộp đêm” nữa,
mà tìm sự “giải toả” ở một nơi khác và một cách khác.

Hắn ra cổng vẫy một chiếc taxi, để tới Chợ Lớn. Đã ăn là phải ăn ở đó. Cơm Tầu quả là
tuyệt vời, Tây các loại qua đây cũng phải thường mò tới Chợ Lớn. Ăn ngon và ở đó cũng vui nữa.
Đầu 1955, theo quân đội Pháp kéo vào Sài Gòn, Cầm Diêu cũng đã có buổi đi theo những tay thạo
ăn chơi, tới đây. Hồi đó ở Chợ Lớn còn có một khu gọi là Đại Thế Giới rất lớn với đủ thứ, đủ trò:
ăn uống, cờ bạc, đĩ điếm... cực kỳ xa hoa. Bạc vạn, bạc triệu một đêm “Nhất dạ đế vương”... Ở đó
còn có đủ cả sân khấu cải lương, sân khấu hát bội, sân khấu ảo thuật, cùng các phòng trà tuyệt hảo
của Trung Hoa với đờn ca tài tử, có cả các sàn đấu võ thuật Á Đông, gọi là “đả lôi đài” để cho các
“yêng hùng” tứ xứ, từ vùng đồng bằng sông Cửu Long lên, từ Thái Lan, Cam Bốt sang, thậm chí
tận Ma Cao, Hồng Kông đến tỉ thí. Hồi đó Đại Thế Giới do quân Bình Xuyên chiếm giữ thu thuế,
kinh doanh. Sau đó Diệm diệt được Bình Xuyên, lấy lại Đại Thế Giới. Nhưng ông quan ấy ra cái
vẻ gìn giữ thuần phong mỹ tục, đã ra lệnh không những đóng cửa Đại Thế Giới, còn cấm tất cả
các vũ trường nhảy đầm... Lẽ cố nhiên, dân chúng oán, các thương gia càng oán. Tuy nhiên, họ
cũng không chịu mất hết bao giờ. Hiện nay những hoạt động ăn chơi, cao lâu tửu quán rải rộng ra.
Các hoạt động đĩ điếm cũng biến tướng thành trăm hình, ngàn vẻ, âm thầm và bí mật. Cờ bạc cũng
vậy. Ai mà cấm được Hoa kiều chơi mạt chược? Bây giờ họ chơi ngay trên lầu nhà mình. Nhưng
đó chính là những sòng bạc “kinh khủng” trá hình dưới những đêm chơi tao nhã của những đại
gia...

Cầm Diêu thi thoảng vẫn tới đây.

Đã tới địa phận Chợ Lớn. Cầm Diêu bảo xe dừng lại và xuống đi bộ. Ở rừng mãi, hắn lại muốn
được tắm mình trong đêm Chợ Lớn. Dân ở đây hầu hết là “các chú con trời”. Đây cũng được coi
như một xã hội đặc sệt Trung Hoa, cổ xưa, huyền bí, đầy sức sống mãnh liệt. Đường phố phần lớn
nhỏ hẹp, ngang dọc như bàn cờ. Đèn sáng trưng trên các đường phố chính, nhưng khá âm u ở
những đường hẻm, ngõ tắt. Những thứ ánh sáng ấy trùm lên các đường phố, lớn nhỏ, dọc ngang,
nhung nhúc những người với muôn vàn tiếng huyên náo: bồi bàn gọi món ăn, gái hát sàng xê và
Hồ Quảng trên các sân khấu kịch nghệ lớn nhỏ, hồ lì hô réo trong các tụ điểm tài xỉu, xóc đĩa, và
các đấu sĩ thì gầm thét trên các “đả lôi đài” nay đã biến tướng thành các sàn tập của các “Câu lạc
bộ văn nghệ và thể thao”. Mọi thứ tiếng huyên náo ấy cùng các mùi quay, rán, xào, nấu gần như
ngày đêm ngào ngạt hoà lẫn mùi thuốc phiện ngây ngây, kỳ ảo bao trùm khắp nơi... tất cả đã tạo
cho cái khu phốkỳ lạ này một không khí vừa vương giả vừa ti tiện, vừa tàn bạo vừa dâm đãng, vừa
đầy lạc thú vừa có những gì đó hết sức bí mật với biết bao âm mưu, quỉ kế trên thương trường và
cả trên chính trường...

Cầm Diêu tìm đến một tiệm ăn quen, khá tiếng tăm: “Đại Hưng Lâu tửu quán”. Toà nhà
chỉ hai tầng nhưng hết sức sang trọng. Dân có tiền mới dám đặt chân tới đây. Cấp trung uý thường,
dường như chưa có tên nào dám bén mảng. Tên Hoa kiều gác cửa nhận ra ngay Cầm Diêu, khách
quen, nó cúi rạp mình:

- Kính chào sếnh sáng! Lâu lâu không thấy sếnh sáng quá bộ tới đây.

Học đòi bọn vương giả, Cầm Diêu chỉ mỉm cười, giơ nhẹ một ngón tay, rồi thong thả bước
vào. Hắn lên thẳng lầu. Chiếc bàn quen thuộc ở một góc còn trống. Hôm nay hơi vắng khách. Tên
bồi bàn chạy ra. Nhận ra khách quen, nó cúi rạp mình thi lễ, đợi lệnh. Cầm Diêu gọi hai món: yến
sào và óc khỉ.

- Bẩm, còn rượu ạ?

- Loại nào hay nhất, đem ra đây cho tao!

Lát sau mọi thứ được đem ra. Lẽ ra, mỗi bàn đều có một cô gái phấn son loè loẹt ngồi tiếp
rượu. Nhưng có lẽ nhà hàng đã quá quen tính nết ông khách khó hiểu này, nên chỉ độc một mình
Cầm Diêu ngồi khề khà... Trước khi cầm đũa, đưa mắt nhìn chung quanh, hắn thấy có một vài
người Âu (có lẽ Mỹ) cũng đến đây ăn. Đây là hiện tượng mới. Trước kia, cái khu phố kỳ lạ này
dường như rất kỳ thị người Âu. Các nhân viên tửu quán, sòng bạc... đều luôn luôn tỏ ra hết sức
lãnh đạm với dân da trắng, làm cho họ phải phát chán, không đến nữa.

Cũng không hiểu vì sao. Có thể dân Hoa kiều đã có cái hận lâu đời bị dân Âu châu khinh thị với
từ “Chinoiserie” (nghĩa bóng: những sự lạc hậu, bẩn thỉu, bệ rạc… của người Trung Hoa dưới các
chế độ phong kiến cổ hủ xưa). Nay họ kiêu ngạo muốn duy trì một khu vực hoàn toàn Trung Hoa
mang tính thống soái ở đây và từ khi Diệm lên, người Pháp đi, người Mỹ đến, nếp cũ đã đổi khác.

Cầm Diêu ngồi ăn, lúc đầu tưởng cũng khoái. Nhưng càng ăn, nhất là càng uống lại càng
thấy buồn, càng nhớ tới Nhạn ngoài Nha Trang đang vò võ đợi chồng. Rượu càng vào chỉ càng
đắng. Nhớ vợ, rồi lan man nhớ và thương tới cả đứa em gái út ít trong gia đình. Nó xấu số bạc
mệnh. Nó đã chết cuối năm 1953. Cộng sản đã giết nó!... Ôi, đứa em gái út yêu quí không sao nói
hết. Nó là tất cả thời thơ ấu của Cầm Diêu. Nó là tất cả những ước mơ về một tương lai sáng sủa,
no ấm của gia đình... Nhưng nó đã chết rồi! Cộng sản đã giết nó cùng với mẹ... Không được trông
thấy mặt họ một lần cuối. Không kịp khóc họ lấy một câu... Việc đời bề bộn, lắm lúc cũng quên
đi, nhưng khi nhớ Nhạn hắn lại nhớ cả tới mẹ và đứa em gái tội nghiệp ấy, lòng lại đau như cắt...

Gọi thêm rượu, vẫn chỉ càng cay, càng buồn. Cầm Diêu hô bồi bàn tính tiền. Hắn muốn ra
ngoài cho khuây khỏa.
Ra tới cửa Cầm Diêu gần như xô phải hai người Âu, một nam một nữ vừa bước vào.

- Ô, Cầm Diêu! Anh đấy hả?

Cầm Diêu định thần lại và ngạc nhiên thốt lên:

- Ông Hampton!

Người Mỹ trẻ tuổi ấy đúng là Hampton. Anh ta chìa tay ra giới thiệu cô gái tóc màu hạt dẻ,
mặc quần Jean, áo sơ mi xanh nhạt rộng thùng thình, vẻ rất hiện đại:

- Đây là Diana, bạn tôi, nhà báo Thụy Điển. Còn đây - Hampton giới thiệu Cầm Diêu - một
người bạn rượu của tôi.

Cô gái chìa tay ra với cầm Diêu, tươi cười, niềm nỏ:

- Rất hân hạnh!

Cô ta khá xinh với một vẻ khoẻ mạnh, mới mẻ, tự do, phóng túng tựa như nam giới - Cầm Diêu
cảm thấy như thế. Thấy Cầm Diêu nhìn mình chằm chằm, cô gái tưởng lầm người này ngạc nhiên
về cái tên của mình. Cô vui vẻ giải thích:

- Anh có lẽ lạ: người Thụy Điển mà tên lại Ănglê phải không? Ô! Bố tôi là người Thụy
Điển nhưng mẹ tôi gốc Anh. Vả lại tôi thích cái tên Diana vì nó vừa có nghĩa: người con gái cưỡi
ngựa, vừa có nghĩa người con gái thích ở vậy một mình.

Hampton cười, Cầm Diêu hơi nhếch miệng cười theo.

Hampton giữ Cầm Diêu ở lại cùng uống thêm với họ và ăn thêm “một cái gì đó”. Đang
buồn, Cầm Diêu cám ơn, từ chối, rồi xuống cầu thang.

Cầm Diêu tìm đến một bà chuyên nghề tẩm quất nổi tiếng khắp Chợ Lớn này mà không
lần nào tới đây hắn không đến nhờ bà “bẻ xương” cho. Đó là một bà Hoa kiều đã móm mém,
nhưng vô cùng khéo tay và có một sức mạnh ghê gớm. Bà như tuốt xương các khách hàng. Bà
vặn, xoáy họ, làm cho tứ chi họ kêu lên răng rắc như nhà gỗ cũ gặp bão, trong khi đó thì khách cứ
rên lên vì khoái cảm hơn là vì đau... Lần nào trông thấy Cầm Diêu tới, bà cụ cũng cười phô cả lợi
ra: “Thằng nhỏ mình đồng da sắt này, hôm nay tao sẽ bẻ hết xương sống, xương sườn, cho mày về
âm phủ, không nương tay nữa nghe!”...

Trong khi đó, Hampton và Diana đã kiếm được một chiếc bàn ở góc phòng, gần cửa sổ
nhìn xuống phố, rất ưng ý. Họ gọi rượu và món vịt quay kiểu Bắc Kinh mà cả hai đều rất thích.
Hai ly vang đỏ được nâng lên, Hampton trịnh trọng một cách vui vẻ:

- Nào, xin chúc mừng ngày sinh của bạn!

Diana cười rất tươi:


- Cám ơn! Rất cám ơn! Này, Hampton, còn nhớ không: năm ngoái, vào tháng hai, chúng
ta cũng đã tới đây uống rượu mừng sinh nhật của bạn?

- Nhớ chứ. Hôm đó chúng ta cũng uống Whisky Irland.

- Chóng thật, đã một năm! Chúng ta mau già quá.

Hampton lại nâng ly lên:

- Ồ, già ư? Vậy thì xin chúc mừng cho cả hai người già chúng ta... càng thêm già mãi mãi!

Khách xung quanh có thể tưởng rằng đây là một đôi vợ chồng trẻ, hoặc ít nhất cũng là một
cặp yêu nhau hết sức thắm thiết, nồng nàn. Nhưng không phải, hoặc chưa phải thế. Họ mới chỉ là
bạn. Nhưng quả là Diana có rất nhiều cảm tình với anh chàng Mỹ này: trẻ đẹp đã đành, còn có
nhiều tư tưởng phóng túng, khác với nhiều người Mỹ mà Diana đã gặp. Bọn ấy thường rất kiêu
ngạo, thậm chí ngạo mạn, tính tình thì thực dụng một cách khó chịu... Diana và Hampton mới quen
và thân nhau hơn một năm. Diana làm cho một tờ báo lớn của Thụy Điểncó khuynh hướng tự do,
có cảm tình với Việt Nam từ cuộc chiến tranh chống Pháp. Còn Hampton, theo lời tự giới thiệu:
anh ta là nhân viên của USIS (Cơ quan thông tin Mỹ).

Ăn uống một lúc, Diana mỉm cười:

- Này bạn, ta trở lại với câu chuyện đang nói dở lúc nãy đi!

Hampton gật đầu:

- OK!

Diana nói:

- Lúc nãy tôi có nói với bạn và giới báo chí quốc tế đang rất xôn xao về việc người Mỹ
đang gia tăng các hoạt động quân sự ở miền Nam Việt Nam này. Tôi muốn hỏi bạn: có đúng
không?

Hampton làm ra vẻ ngơ ngác:

- Nhưng có gì đâu nhỉ? Hay tôi là dân USIS chỉ chuyên lo việc giới thiệu cho dân Việt Nam
hiểu rõ hơn, yêu nước Mỹ, bạn của họ.

Diana lắc đầu:

- Hãy cứ tin là bạn không biết đi. Nhưng chẳng lẽ tôi lại phải nhắc lại mọi chuyện của
người Mỹ ở đây, thậm chí cả ở Mỹ…

Hampton khẽ nhún vai, rồi cũng phải lựa lời:


- Diana ạ, cũng nên hiểu cho: thật ra chuyện gì cũng có lý do của nó. Về tình hình chung ở
đây trong mấy năm 1958, 1959 đã có nhiều biến động, nhất là năm 1960 vừa qua, Diana và các
nhà báohẳn đã biết rõ: riêng tỉnh Bến Tre không phải một mà đã hai lần nổi loạn. Còn ngoài Quảng
Ngãi, -tướng Đỗ Cao Trí đã phải đưa cả một vạn quân ra để giải toả cho mấy căn cứ bị dân chúng
và đặc biệt có cả du kích mới tái lập bao vây, tấn công. Họ đã phá được một số ấp chiến lược, bức
ông Diệm phải bỏ hẳn mấy đồn lẻ... Đó là chưa nói về mặt chính trị, một sự kiện hàng đầu: ở Hà
Nội, Đảng Cộng sản đã họp đại hội lần thứ 3. Chắc các bạn còn nhớ: ở Đại hội ấy ông Hồ đã đưa
ra lời kêu gọi hết sức quan trọng: “xây dựng miền Bắc và giải phóng miền Nam!”. Một sự kiện
cũng lớn nữa: ở ngay miền Nam, Cộng sản đã tập hợp được khá nhiều giới và đã thành lập cái gọi
là “Mặt trận giải phóng”... Vậy tình hình ấy không phải là đáng lo ngại, và không cần có những
phản ứng thích hợp hay sao?

Diana đốt một điếu thuốc thơm, phì phèo trong khi đó Hampton lại không hề biết hút.
Diana như hăng hái hẳn lên:

- OK! Hiểu ý Hampton rồi! Năm ngoái, 1960, đúng là một năm đã có những biến động lớn, tình
hình đã vỡ ra và có những đòi hỏi hết sức quan trọng cho cả đôi bên là phải có một chiến lược,
sách lược mới, phải có những thay đổi mới. Hampton thân mến ạ! và tụi này đã thấy rõ: con đường
màphía Mỹ chọn là: ráo riết làm mọi chuyện để mở rộng xung đột. Có đúng không? Một trong
những dẫn chứng nóng bỏng nhất mà tụi này biết được là: ông Ford phó tổng thống vừa sang Sài
Gòn ký với ông Diệm một Hiệp ước quân sự 15 điểm...Thêm nữa: Staley cùng ông Taylor được
lệnh của tổng thống Kennedy đang soạn thảo gấp một kế hoạch chiến tranh với một khái niệm mới
gọi là: Chiến tranh đặc biệt, nhằm giành thắng lợi... Có đúng không Hampton? Nếu vậy, chúng tôi
cho rằng người Mỹ đã sai lầm...

Hampton chăm chú:

- Sai lầm?

- Phải. Trước hết là Mỹ đã vứt bỏ hết mọi thứ, từ Hiệp định Genevé tới công pháp quốc tế
về chủ quyền, về toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia... Không thể ngang nhiên thế được đâu bạn
ơi! Thật là sai lầm khi cho rằng với cái mũ “rởm” là bảo vệ “đồng minh” mà có thể hành động
theo luật rừng như vậy. “Đồng minh” nào? “quốc gia” nào? Hai miền Bắc, Nam chỉ là hai bộ phận
của một quốc gia tạm thời bị chia cắt. Sai lầm nữa của các bạn là đã không chịu tìm hiểu gì về đối
tượng. Các bạn đã quên đây là một dân tộc đã có một lịch sử đấu tranh rất lâu dài và khát vọng
độc lập, thống nhất đất nước của họ thì thật là đặc biệt. Nếu họ chịu khuất phục trước vũ khí thì
họ đã chịu Pháp rồi. Bạn phản đối ư? Bạn cho là tiềm lực quân sự Pháp không thể so sánh được
với Mỹ ư? Vậy tôi phải nhắc tới vụ vịnh Con Lợn ở Cuba vừa mới đây thôi. Một nước Cuba nhỏ
bé với 6 triệu dân, lại mới giành được chính quyền mà các anh cho đổ bộ lên có được không!

Hampton lắc đầu, mỉm cười:

- Thôi, khoan tranh luận về chuyện này. Xin được hỏi lại bạn về vấn đề mà bạn vừa nói: cả
hai bên đang đứng trước những sự lựa chọn. Và bạn cho rằng Mỹ chọn giải pháp chiến tranh là sai
lầm. Vậy phía bên kia, họ cũng chọn giải pháp mà họ gọi là bạo lực cách mạng, mà thực chất là
các hoạt động quân sự kết hợp với các cuộc nổi loạn của dân chúng. Vậy các bạn cho là họ đúng
sao?

Câu hỏi khá hóc búa, nhưng Diana vẫn tỏ ra rất bình tĩnh:

- Họ không có con đường nào khác trong khi các bạn còn! Thế đấy bạn ạ! Xin báo cho bạn biết:
bọn chúng tôi nhiều đứa có biết bức thư của ông Hồ gửi ông Diệm năm 1956 hoặc 1957 gì đó. Đó
là một bức thư với lời lẽ hết sức nhã nhặn và chân thành, đề nghị tiến hành hiệp thương hai miền
để thống nhất đất nước theo như hiệp định Geneve đã quy định. Nhưng ông Diệm đã làm gì?
Chúng ta đều biết cả: không hề trả lời lại một câu, và được Mỹ đổ vũ khí vào, ông ta mở ngay
những chiến dịch tố Cộng, rồi diệt Cộng với đạo luật 10/59... Thế đấy Hampton ạ, phải công bằng
mà nói: phía Cộng sản họ thực sự muốn chọn con đường hoà bình thương lượng. Nhưng không
được!

- Cám ơn Diana! - Hampton cười - Vậy theo bạn, người Mỹ nên làm gì? Bạn vừa nói người
Mỹ còn có con đường khác để lựa chọn. Con đường nào vậy?

Diana ngửa mặt lên, cũng cười ran, hàm răng trắng ngần, đều tăm tắp.

- Ôi, đơn giản quá! Hãy trở về với hiệp địnhGenevé, Hampton ạ!

Hampton lắc đầu, nhún vai:

- Bạn nói vậy thôi! Nhưng chuyện đời đâu có đơn giản. Còn nhiều điều phức tạp lắm.

Rồi nâng ly lên lần nữa, anh ta trở lại tươi cười, chuyển câu chuyện khá khéo:

- Nhưng mà thôi, không nói những chuyện “trên trời” đó nữa. Mệt óc lắm! Diana đồng ý
chứ?

Và cả hai lại tiếp tục ăn, uống.

Vừa lúc đó có tiếng huyên náo ở phía ngã tư đầu phố. Có cả những tiếng hô rất to: “Bắt
sống lấy nó!”, “Bắt! Bắt! Nhào dzô tụi bay!”. Tiếng huyên náo mỗi lúc một dữ. Bọn bồi bàn nhào
xuống lầu, túa hết ra đường, xem chuyện gì đang xảy ra. Hiếu kỳ, Hampton cùng Diana cũng vội
tới quầy, ném lại một số tiền, rồi lao xuống nhà. Lúc đó lại nghe có thêm cả tiếng xe hơi rú vang
khẩn cấp. Đã quen rồi, Hampton nhận ra ngay tiếng xe cảnh sát dã chiến đô thành.

Hampton cùng Diana chạy tới một ngã tư, nơi đó dân chúng, hầu hết vẫn là Hoa kiều đang
vây kín, vòng trong vòng ngoài. Bốn chiếc xe của cảnh sát dã chiến đô thành “sát khí đằng đằng”
đã đứng trấn cả bốn ngả đường. Vô hình chung khoảng trống giữa ngã tư đã biến thành một bãi
chiến trường, mà trong đó gần một chục tên cảnh sát dã chiến đang cùng quây lại đánh nhau với một
người chắc là Việt Nam. Người đó mặc sơ mi màu vàng nhạt cộc tay và một quần Âu xám. Có tới ba tay
chỉ huy cảnh sát có mặt ở đó, đang tiếp tục gào lên “Bắt sống! Phải bắt sống!”. Có lẽ vì vậy, Hampton mới
hiểu vì sao tất cả bọn cảnh sát chỉ dùng quyền cước, chứ không dùng gậy gộc hoặc dao, súng. Người Việt
bị tấn công đang chống trả hết sức lợi hại. Hắn đã đánh ngã tới ba tên cảnh sát cho nằm bất tỉnh trên mặt
đường. Hắn đang ra đòn cực nhanh và cũng cực mạnh. Đám cảnh sát dã chiến lao tới thằng nào, nếu
không gục cũng bật tung ra ngay thằng đó. Dân Hoa kiều rất khoái trí, y như được xem một trận “đại đả
lôi đài”. Họ hò reo, cổ suý vang dậy: “Hảo! Hảo!”, “Tả lớ! Tả lớ!” hết sức nồng nhiệt. Hampton và Diana
len vào đám đông, đứng xem cũng bị kích động. Bỗng một tên chỉ huy cảnh sát to béo, bụng xệ chừng
không thể kiên nhẫn được nữa, rút súng sáu ra, hét vang: “Thôi, dẹp! Để tao bắn nát sọ thằng chó đẻ
này!”. Nhưng cũng đúng giây phút ấy Hampton đã nhận được ra người đang chống lại bọn cảnh sát dã
chiến kia là ai. Lập tức hắn chạy tới đứng giang cả hai tay trước tên chỉ huy cảnh sát, và cũng hét lên:
“Khoan! Không được bắn!”. Vừa hô bằng tiếng Việt, vừa bằng cả tiếng Mỹ. Quả nhiên, có hiệu lực ngay
tức khắc. Tên chỉ huy cảnh sát dừng tay lại, trợn mắt nhìn Hampton. Cũng đúng lúc đó tất cả bọn cùng
chồm tới như cả một núi thịt. Người Việt nọ đã bị chúng bắt được, hai tay bị ghì chặt. Hampton vội tiến
lại. Người bị bắt bấy giờ mới nhìn thấy anh ta, đầy vẻ ngạc nhiên. Ở cuối đuôi mắt trái của anh ta có một
vết rách nhỏ, rỉ máu.

- Cầm Diêu! Sao lại xảy ra chuyện này?

Cầm Diêu không đáp lại Hampton, mà quắc mắt nhìn bọn cảnh sát. Y tỏ ra vẫn còn vô cùng
căm giận. Hampton rút trong túi ngực ra một chiếc các nhỏ đưa cho tên chỉ huy cảnh sát. Tên kia
chau mày đọc rồi lễ phép trả lời và khẽ hỏi:

- Thưa, Ông ở USIS?

Hampton không trả lời, mà hỏi lại:

- Tại sao các ông lại đánh bắt ngườinày?

- Nó “xỉn” đi nghênh ngang rất khó coi, hỏi, lại không có giấy tờ chi hết. Bảo lên bót để
xét, thế là khùng lên. Thằng này dữ quá trời!

Hampton nói:

- Tôi biết người này. Tôi giới thiệu: đây cũng là “người nhà” của các ông đó! Anh ta là sĩ quan
dưới quyền ông Lê Quang Tung.

Tên chỉ huy cảnh sát vội hỏi ngay:

- Vậy có phải... ở Liên đội quan sát I không, thưa ông?

- Đúng thế!...

Tên chỉ huy cảnh sát xoè cả hai tay ra, nhún vai, thở phù, chỉ còn thiếu thốt lên một tiếng
ngạc nhiên và hối tiếc vì chuyện không hay đã lỡ xảy ra... Ở Sài Gòn hiện có ba sắc lính nổi tiếng
nhất, mà dân chúng quen gọi là “lính rằn ri” không có chấm xanh. Thuỷ quân lục chiến, rằn ri có
nhiều chấm xanh. Còn Liên đội quan sát 1 mặc rằn ri có nhiều màu nâu và vàng. Liên đội quan sát
I (biệt kích) là thứ lính ai cũng biết là ngang ngược nhất, cũng nhiều lương và đầy quyền lực nhất.
Chúng không bao giờ mang thẻ, vì chúng không hề có số quân nhân (Bởi là lực lượng đặc biệt, bí
mật, lại ăn lương của Mỹ, nên không có trong danh sách của cái gọi là Quân lực Việt Nam cộng
hoà). Dân chúng, kể cả cảnh binh, quan chức chánh quyền... ai ai cũng phải kiềng mặt bọn này,
thậm chí cả quân dù và thuỷ quân lục chiến vốn nổi tiếng kiêu binh và dữ dằn cũng phải nể mặt.
Gốc gác của bọn Liên đội quan sát I là quân GCMA tức là quân Biệt kích gián điệp nhảy dù của
Pháp tổ chức từ hồi 1952 ở Bắc Bộ. Nay Mỹ “tiếp quản” GCMA, tổ chức lại và đặt cho cái tên rất
hiền lành là “Liên đội quan sát I”. Khi Mỹ có chủ trương tuyển mộ gián điệp biệt kích - một lực
lượng mới nhằm đánh ra Bắc lâu dài - “Sở liên lạc” đã tuyển mộ khá nhiều tên từ Liên đội quan
sát I này. “Sở” cũng tuyển cả một số lính và sĩ quan, hạ sĩ quan vốn là người dân tộc thiểu số ngoài
Bắc nay đang tập trung ở Sư 22. Cầm Diêu ở trong trường hợp thứ hai. Lượng biệt kích để đánh
ra Bắc vẫn còn ở trong phạm vi “tối mật”, nên bọn cảnh sát phần đông không hề biết.

Bấy giờ Hampton mới quay lại phía cầm Diêu, mỉm cười:

- Anh để chúng tôi đưa anh về nhé!

Vẻ mặt vẫn còn đầy tức giận, Cầm Diêu lắc:

- Khỏi cần!

Diana đưa nhanh một chiếc khăn tay cho cầm Diêu:

- Anh hãy lau vết máu đi!

Cầm Diêu cám ơn, nhưng khoát tay, không nhận.

Rồi y cắm đầu đi thẳng.

Chuyến xe lửa Hải Phòng - Hà Nội chốc chốc lại nhả một làn khói trắng dài, lao đi hăm hở
giữa những cánh đồng lúa chiêm mênh mông đã bắt đầu vàng rộm, người đang gặt hái khá đông.
Ngồi một mình trên một ghế đôi (khách hôm nay hơi vắng, còn thừa chỗ), sát ô cửa sổ, Nguyễn
Nguyên An lặng ngắm quang cảnh bên đường. Cảnh gặt hái khá nhộn nhịp, vui mắt. Lại nhớ những
năm chiến tranh. Thật khổ! Đồng khô cỏ cháy. Quê anh cũng ở vùng này: Kiến An chứ đâu xa!...
Một con trâu xuất hiện bất ngờ trên những cánh đồng này cũng bị lính trên các bốt dọc đường 5
bắn hạ liền. Ban ngày có công tác gấp phải vượt đường 5 và những cánh đồng này, thật quá phải
qua những “cửa tử”. Mùa hè 1952, gần cuối chiến tranh Nguyễn Nguyên An mới tốt nghiệp trường
trung học kháng chiến của Liên khu 3. Trong không khí sôi nổi kháng chiến khi ấy, không muốn
học thêm nữa, anh tình nguyện tòng quân. Có tiếng Pháp, anh được tuyển về làm địch vận ở tỉnh
đội. Từ đó cứ tay nải khoác vai với chiếc mũ lá, bộ quần áo nâu, anh đã luôn luôn phải vượt qua
những cánh đồng này. Tất nhiên toàn phải đi về đêm. Có đêm cùng anh em vệ binh phải giải về
Liên khu hàng sâu tù binh cả ngụy cả Pháp. Vậy mà, cũng may ơn nhờ “phúc ấm tổ tiên” chưa một
lần nào dính đạn...

Đến cuối 1954, khi Pháp rút, Mỹ đã vào liền và không giấu mặt được trong vụ dụ dỗ, cưỡng ép
gần một triệu dân cư vào Nam. Do nhu cầu, An đã được điều từ bên quân đội sang An ninh để
tham gia việc chống dụ dỗ di cư ấy rồi được điều lên Bộ làm việc ở cục Bảo vệ chính trị. Qua mấy
năm 1957, 1958, 1959 là trinh sát trẻ, khoẻ đã có ít nhiều kinh nghiệm đánh địch, An được cấp
trên phái đi tham gia khá nhiều vụ tiễu phỉ và phản động trên Tây Bắc. Hết Phong Thổ lại Dào
San, hết Dào San lại Đồng Văn, Quản Bạ... Thậm chí cả Điện Biên, Tuần Giáo, mà trong nhiều vụ
đã sớm thấy có cả dấu vết của bàn tay Mỹ. Thật vất vả. Lấy vợ rồi mà chưa bao giờ được ở bên vợ
quá dăm ba tháng. Vợ sinh con rồi cũng chưa một lần được ở bên con quá vài tuần. Đi xa về, thấy
nhà dột, muốn dọi lại cũng đành chịu...

Vừa qua, cơ quan An ninh ở Khu và tỉnh Quảng Ninh đã báo cáo gấp về Bộ: một tên gián
điệp có “tầm cỡ” vừa đột nhập vào vùng này bằng đường biển. Ta đã bắt được tang vật cụ thể: một
chiếc thuyền nhỏ mà tên gián điệp đã dùng bơi từ tàu lớn vào bờ. Được đồng bào địa phương giúp
đỡ, sau khi khẩn trương lùng sục anh em công an tỉnh đã phát hiện ra đầu mối, bắt được một số
tên người địa phương vừa được tên gián điệp tuyển mộ, trong đó có em ruột nó với đầy đủ tang
vật: súng ngắn, máy truyền tin, thuốc nổ cực mạnh... Theo chỉ thị của trên, hệ đấu tranh chống gián
điệp biệt kích Mỹ (gọi tắt là hệ Mỹ) do ông Trường phụ trách đã cử Nguyễn Nguyên An xuống
với tư cách trinh sát của Bộ để theo dõi tình hình và kịp thời báo cáo về tỉ mỉ, đồng thời tiếp sức
một phần với anh em ở địa phương... Vụ án đã kéo dài gần một tháng mà vẫn chưa bắt được đối
tượng. Thằng em tên gián điệp vẫn không chịu khai ra chỗ anh nó ẩn náu. “Tôi sẵn sàng chết vì
anh tôi!” - Nó muốn liều mình. Nhưng rồi cũng đã có một tiến triển nhỏ: Tên gián điệp đã có thư
gửi công an tỉnh xin đầu thú, nhưng với điều kiện phải thả em nó ra. Ở tỉnh đang có hai loại ý kiến
chưa ngã ngũ: một là đồng ý chấp nhận điều kiện đó, hai là dứt khoát bắt nó phải ra hàng, không
có điều kiện gì hết. Chỉ chấp nhận: khi nó ra hàng thì sẽ tạm tha em nó để chờ xét xử theo pháp
luật... Hai ý kiến đều đang ngang ngửa.

Chưa hết, còn có thêm ý kiến: để làm áp lực mạnh nữa, nên bắt cả mẹ nó, vì đã có chứng
cớ cụ thể về việc bà già che giấu, nuôi dưỡng tên Xuyên (tên gián điệp) ngay từ ngày đầu hắn về.
Người làng biết nó rất thương mẹ. Nhưng cũng có ý kiến, không nên làm như thế… Tỉnh đã phải
báo cáo lên thường vụ Khu uỷ và cả Bộ để xin chỉ thị. Hôm nay An về gấp chính là vì việc ấy.
Anh đi nhờ xe của Công an tỉnh ra Hải Phòng cho kịp chuyến tàu này. Do phải dậy quá sớm, lúc
này anh bắt đầu cảm thấy buồn ngủ. Mọi ý nghĩ trở lên lộn xộn, chập chờn, anh ngả đầu vào thành
ghế, thiu thiu...

Đúng 11 giờ, đoàn tàu về tới ga Hàng Cỏ, kéo một hồi còi dài vang rộn. An nhanh nhẹn khoác ba
lô lên vai, nhảy xuống sân ga, chạy tới toa đen ở gần đầu máy để lấy xe đạp. Lòng anh lúc này vô
cùng vui vẻ. Đi Quảng Ninh đã gần một tháng rồi còn gì! Nhớ Thuỳ, nhớ con không biết là chừng
nào. Giờ này các công sở nghỉ cả rồi, vào Bộ chắc không gặp được ai. về nhà đã! Phải rồi tranh
thủ về gặp Thuỳ, gặp cu Toàn cái đã! Anh nhảy phóc lên chiếc Thống Nhất cà tàng, gò lưng đạp
miết, hướng về một khu tập thể ở ngoài bãi Phúc Xá.

Đây rồi, cái khu tập thể quá đỗi thân thiết của anh! Đó là một khu toàn nhà một tầng cấp
4, mười dãy dài. Mỗi dãy nhà dài như quán chợ chia thành nhiều phòng, mỗi phòng cấp cho một
hộ. Nhà vệ sinh chung, bếp núc cũng chung. Kể ra cũng lắm cái phức tạp, nhưng thôi, dẫu sao
cũng được cái vui. Từ năm 1957, lấy vợ, An được phân về ở khu này. Lúc đó coi thế này đã là
hạnh phúc lắm rồi đối với loại cán bộ sơ cấp “èng èng” như An. Đang bom đạn, ở rừng ở núi, được
về Thủ đô lại được một mái nhà là nhất rồi, mặc dầu nó quá thô sơ. Có lẽ điều tệ nhất là ở ngoài
bãi này năm nào cũng phải “ăn một chầu nước lụt”. Nước sông Hồng có năm lên tới mái nhà. Lên
phố đi làm và trở về, mọi người phải đi thuyền. Vội, nhiều khi phải bơi. Mấy năm đầu cứ đến mùa
mưa lũ là khiếp vía cả với nhau. Nhưng rồi cũng quen dần và sống thoải mái như ai, thậm chí còn
tìm được chút hãnh diện với những ông bạn có nhà trong phố: “Chỗ chúng tớ ngoài này gần sông,
mát cực. Không cần phải Đồ Sơn, Sầm Sơn sầm siếc gì hết!”...

An vừa quẹo xe ở đầu ngôi nhà dài thì đã nghe có tiếng đàn ông thốt lên:

- Kìa, anh An đã về!

Nhìn ra thì thấy bác Lũy, chồng một chị cùng cơ quan. Anh chưa kịp chào lại, người đàn
ông mặt đầy lo lắng đã nói tiếp:

- Cháu nó phải vào viện cấp cứu từ đêm rồi!

An rụng rời cả tay chân, suýt buông đổ chiếc xe đạp, miệng như cứng lại, không nói được
câu nào.

- Rõ khổ! Cháu nó sốt lai rai mãi. Đêm qua lại sốt quá cao... Bây giờ chị ấy đang ở trong
viện với cháu. Anh vào đi!

Không kịp cám ơn bác Luỹ một câu, anh chỉ gật đầu rồi quay ngoắt xe nhảy lên đạp liền. Bác Lũy
vội gọi với theo:

- Này! Cháu nó vẫn vào viện 201 đấy nhá!

Vừa đạp xe An thầm rên rỉ: “Thuỳ ơi, con ốm đã lâu, vậy sao em chẳng đánh điện cho anh
biết”. Nhưng lo quá, buồn quá thì thầm kêu lên thế thôi chứ An không hề oán vợ một chút nào. An
biết Thuỳ tuy là dân thành phố nhưng rất nết hạnh và hết sức tế nhị, dịu dàng; An đã luôn coi sự
hy sinh, tận tụy của Thuỳ với chồng con là không có gì sánh nổi. Biết bao nhiêu khó khăn, biết
bao nhiêu lo lắng, hoặc sầu não của nhà này, bao giờ Thuỳ cũng âm thầm một mình gánh chịu và
lo toan. Thuỳ không bao giờ muốn cho anh phải quá bận tâm đến việc nhà, nhất là chuyện con cái.
Bởi Thuỳ biết: An yêu con, thương con ghê gớm không biết chừng nào...

Tới cổng bệnh viện, anh vứt luôn xe đạp ở cổng gác, xách ba lô gật đầu chào anh thường
trực rồi chạy vào. Anh thường trực lao ra hét váng lên:

- Anh kia! Giờ nghỉ, ai cho vào thăm bệnh nhân hả? Ra ngay! Có ra không thì bảo? Mà
giấy tờ đâu?

Nhưng mặc cho anh ta gào thét, An tiếp tục chạy thẳng vào khoa Nhi. Đây không phải lần đầu An
tới đây vì thằng Toàn con trai anh ốm đau, quặt quẹo luôn. Năm nay đã 4 tuổi mà nó gầy gò, yếu
đuối quá, đến nỗi bạn bè anh ai cũng phải ái ngại, hỏi vì sao vậy, bố thì khoẻ mạnh như thế...? Lần
nào An cũng chỉ im lặng. Chỉ riêng anh và Thuỳ biết rõ: khi Thuỳ có mang đứa bé, vợ chồng anh
quá nghèo, tuyệt đối không có một chút gì tẩm bổ thêm cho Thuỳ ngoài hai bữa cơm rau đậu. Khi
Thuỳ đẻ, chỉ có hai cân đường đỏ, gọi là “bồi dưỡng”. Lương An thấp, lương Thuỳ ở xí nghiệp
may xuất khẩu còn thấp hơn nhiều,mà ngày nào cũng phải làm quần quật.
An ôm vội lấy thằng bé. Nó mở đôi mắt đục ngầu ngước lên nhìn. Nhận được ra An, nó
khẽ thốt lên:

- Bố!

An chỉ còn biết cắn chặt môi cho hai dòng lệ khỏi chảy ra. Mãi sau anh mới mở ba lô lấy
mấy phong bánh đậu xanh, mua khi tàu qua ga Hải Dương. Đôi mắt rất mệt mỏi của đứa bé như
sáng lên được một chút. An ghì chặt lấy nó, cố giấu mặt mình vào bộ ngực lép xẹp của nó.

Cả cái gia đình nhỏ bé ấy trò chuyện với nhau chưa quá được một giờ đồng hồ, An đã phải trao
con cho vợ:

- Anh phải đi lên Bộ đây, hết giờ, anh sẽ về.

Thuỳ đỡ lấy con, gật đầu:

- Vâng, công việc thì anh cứ đi. Chiều nay em xin nghỉ sớm một tiếng, về nấu cơm anh
ăn...

- Được rồi. Tối nay anh sẽ vào viện ngủ trực thay cho em.

- Đông lắm! Không có chỗ ngủ cho gia đình đâu! Người ta phải trải chiếu ngủ cả ở hành
lang... Thôi cứ để em!

- Không. Em quên là anh đã từng bao năm ngủ rừng, ngủ bụi à? - Anh đi đây!

Cúi xuống hôn con đến mấy lần An mới quay ra được. Gương mặt mét xanh của đứa trẻ nhìn theo,
bỗng như thoáng hồng thêm lên được một chút...

* *

Đúng 13 giờ 30 An đã vào tới Bộ. Anh đến thẳng Cục bảo vệ chính trị và trước hết là hệ
Mỹ nơi làm việc chính của anh. Ông Thạc trưởng phòng cùng ông Trường phụ trách Hệ cũng vừa
mới tới (Hệ nằm trong Phòng), cả hai người vui vẻ, thân mật xiết chặt tay An. Ông Thạc, ông
Trường thuộc lớp đàn anh, mỗi ông hơn An chừng gần chục tuổi (chưa già gì, lẽ ra gọi bằng anh
cũng đúng, nhưng hai “ông” thường được anh em xưng hô thân mật như vậy). Ông Thạc hơi gầy,
có miệng cười rộng rãi, vẻ rất hiền hoà. Ông được coi là một trong những cán bộ cấp phòng có
năng lực và có đức độ nhất. Ông Trường cùng tuổi với ông Thạc nhưng nom khoẻ mạnh, vững
chãi hơn nhiều. Hai gò má và vầng trán cao cùng đôi mắt sắc tạo thêm cho ông vẻ năng nổ, sắc
sảo và cứng cỏi. Ông là một cán bộ rất giàu kinh nghiệm, nhưng cũng là người cương trực, thường
được coi là bướng bỉnh.

- Tí nữa cậu An sẽ báo cáo với anh Công Năng cục trưởng nhé! - Ông Thạc ân cần nói - Nhưng
Bộ trưởng cũng trực tiếp nghe đấy! “Cụ “sắp đến! Chiều qua “cụ” vừa nhắc tới cậu xong.
An chưa kịp hỏi lại, ông Thạc đã chỉ tay:

- Mà kìa, xe “cụ” đã đến!

Một chiếc xe con Max-cơ-vích từ từ tới bên bậc tam cấp. Một ông khá cao lớn, mặc đại
cán bằng kaki, đầu trần, tóc cắt ngắn kiểu bàn chải, khuôn mặt đầy đặn, hai lỗ mũi rộng, vẻ người
vừa đĩnh đạc, vừa lanh lợi, bước nhanh lên thềm. Mọi người cùng cất tiếng chào, ông vui vẻ bắt
tay cả ba, nhưng dừng lại lâu hơn ở An:

- Cậu mới về hả? Mệt không? Thôi, vào cả đây! Vào đây, ta làm việc luôn!

An và hai ông Thạc, Trường cùng đi theo ông. Vào phòng họp, ông Quốc trực tiếp chỉ cho
An chiếc ghế đối diện với mình. Liếc nhìn sang hai bên, anh thấy ông Công Năng cục trưởng, một
người tầm thước có gương mặt sáng sủa và ông Thanh Giang chánh Văn phòng Bộ kiêm Văn
phòng Đảng ủy, một người nom khá đẹp mã. Đây là hai nhân vật đầy quyền lực trong Bộ, và cũng
là hai cán bộ cấp Cục giàu kiến thức và rất sắc sảo, thường được Bộ trưởng gọi vui là “ông võ và
ông văn”. An không khỏi choáng ngợp một chút trước thành phần tham dự quan trọng này.

- Bây giờ cậu báo cáo đi. Càng tỉ mỉ càng tốt.Điện dưới đó tôi nhận được rồi. Nhưng cần
biết thêm nhiều chi tiết... - ông Quốc cất cái giọng trầm và khoẻ nói.

Nhưng khi An chưa kịp cất lời, ông mỉm cười nói thêm:

- Cho cậu trình bày cả những ý kiến, nhận xét của riêng cậu. Tôi biết cậu là tay hay có
nhiều ý kiến độc lập...

An gượng gạo cười:

- Báo cáo Bộ trưởng, cũng không có ý kiến gì đâu ạ.

- Không sao, cứ mạnh dạn đi, đồng chí trinh sát ơi.! Tôi rất thích những ai có ý kiến khác
với mình... - Ông Quốc nói rồi ngả người ra thành ghế cười ha ha, đầy vẻ bao dung. Trong khi đó
ông Công Năng con người nổi tiếng thông minh nhưng cũng nổi tiếng chặt chẽ, chỉ thoáng mỉm
cười.

Thái độ của ông Quốc khích lệ An khá nhiều. Anh trở nên có cảm hứng và báo cáo liền
một mạch mọi việc từ lớn tới nhỏ chung quanh vụ tên Xuyên - gián điệp Mỹ mà tỉnh vừa phát hiện
ra...

Ông Quốc ngồi hút thuốc lá liên tục, im lặng lắng nghe. Đôi lúc ông mới rút bút ghi chép.
Ngồi gần, An càng nom rõ gương mặt rất có uy của ông. Rõ ràng đây là một con người đầy quyền
lực và cũng là một con người đầy mưu lược.

Sau khi An báo cáo xong, ông chỉ hỏi thêm một vài chi tiết. Hai ông “Văn”, “Võ” cùng hai
ông Thạc và Trường đều không có ý kiến gì. Điều này làm An có thể yên tâm là có thể anh đã báo
cáo khá đầy đủ.
Đến lượt ông Quốc nói. Ông không đi ngay vào công việc cụ thể ở tỉnh mà trước hết tóm
tắt lại tình hình chung về an ninh, như có ý phác cho An một cái nền cơ bản để giúp anh có thể
tiếp tục suy nghĩ ở tầm rộng hơn, do đó có thể hành động tốt hơn nữa. Tóm tắt, nhưng ông vẫn nói
từ A đến Z. Đó là phong cách dường như cố hữu của tất cả các cấp, các loại cán bộ đương thời,
không loại trừ ông Quốc, dù ông là một lãnh đạo cao cấp rất năng động, dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm. Loại “lính còn tương đối trẻ” như An khi nghe “các cụ” nói thường rất sốt ruột.
Nhưng bao giờ vẫn cứ phải tỏ ra lắng nghe một cách thật nghiêm chỉnh, ít nhất cũng là để bày tỏ
sự lễ độ, lịch sự. Ông Quốc nhắc lại: từ 1956 Mỹ - Diệm đã kiên quyết không thương lượng với ta
về việc tổng tuyển cử thống nhất nước nhà. Không những thế, chúng còn ráo riết tiến hành “cuộc
chiến tranh đơn phương” nhằm quét sạch các cơ sở cách mạng và kháng chiến của ta ở miền Nam.
Đi đôi với các chiến dịch gọi là tố Cộng, diệt Cộng rất tàn bạo, chúng đã xúc tiến các hoạt động
ngầm: tích cực tuyển mộ, tổ chức và huấn luyện gián điệp biệt kích để tung vào các vùng giải
phóng. Gần đây, cuối năm ngoái (11 - 1960), theo đề nghị của chi nhánh CIA ỏ Việt Nam, nhóm
đặc biệt (bí số: Ban 5413) thuộc Hội đồng An ninh Hoa Kỳ (NSC) đã chính thức quyết định cho
phép CIA ở Nam Việt Nam mở rộng các hoạt động gián điệp bán vũ trang (có nghĩa là gián điệp
biệt kích) ra cả miền Bắc để vừa làm tình báo, vừa phá hoại, vừa gây cơ sở, xây dựng các mật khu
chuẩn bị cho chiến tranh lớn. Mấy năm vừa rồi chủ yếu chúng mới dùng gián điệp đơn ném ra
Bắc, mà chủ yếu mới chỉ là vùng ven giới tuyến, hoặc Quảng Bình và chớp nhoáng rồi rút về Nam
ngay. Nay sẽ có gián điệp biệt kích đường dài tung ra, cắm sâu, cắm lâu trên miền Bắc. Hiện nay
Staley - một người thân tín của Kennedy cầm đầu một phái đoàn Mỹ đang có mặt ở Sài Gòn, và
sẽ còn có cả một danh tướng của Mỹ: tướng Taylor sẽ sang cùng phối hợp lập một kế hoạch chiến
lược nhằm thí nghiệm một kiểu chiến tranh mới mà chúng gọi là “Chiến tranh đặc biệt ở Việt
Nam”. Kế hoạch này, theo “nguồn tin riêng của ta trong đó” sớm nắm được đã báo cáo ra: sẽ có 3
nội dung chủ yếu là: Bình định miền Nam trong 18 tháng - Tăng cường quân sự và khôi phục kinh
tế ở miền Nam, đi đôi với tăng cường phá hoại miền Bắc - Cuối cùng là tấn công ra Bắc. Mỹ đã
coi chiến tranh gián điệp biệt kích là một khâu trọng yếu của kế hoạch này. Như vậy tình hình đã
khác trước nhiều…

Nói tới đây ông Quốc tạm dừng lại và cứ nhắc đi nhắc lại mãi cái khái niệm về chiến tranh
đặc biệt, cũng như vị trí trọng yếu của các hoạt động gián điệp biệt kích trong toàn bộ kế hoạch
Satley - Taylor sắp được Washington chính thức thông qua... Rõ ràng ông rất muốn An và mọi
người cùng hiểu và ghi nhớ cho sâu vấn đề này.

- Báo cáo Bộ trưởng, xin cho phép tôi được hỏi một câu, có được không ạ? - An mạnh dạn
giơ tay.

- Được, cậu cứ nói!

- Báo cáo Bộ trưởng, vậy cái tên gián điệp mà ta đang truy lùng ở Quảng Ninh có phải là một trong
những việc bắt đầu thực hiện cái kế hoạch kia không ạ?

- Không! Đó là gián điệp đơn thôi, mặc dầu đây có thể là một “con cá to”. Chưa phải gián
điệp - biệt kích! Các đồng chí phải chú ý: hai khái niệm này khác nhau! Tôi nghĩ là sẽ không đợi
cái kế hoạch Staley - Taylor được Hoa Thịnh Đốn chính thức thông qua, mà chúng có thể sẽ sớm
có những hoạt động gián điệp biệt kích ra Bắc. Vì sao? Vì tình hình trong Nam đang vỡ ra rất
nhanh. Thêm nữa, chúng đã biết rõ con đường 559 của ta làm hai đầu Nam, Bắc đã nối được với
nhau, như thế có nghĩa là sự chi viện cho miền Nam của ta đã có thể bắt đầu ở với quy mô khác
trước. Một ngày là một khác. Vậy chúng đang rất sốt tiết. Hiểu chứ?

- Dạ, hiểu ạ!

- Bây giờ ta trở lại với chuyện tên Xuyên mà cậu vừa hỏi - Ông Quốc tiếp tục - Trước hết
tôi muốn nhấn mạnh tới một điều mà cũng là một bài học lớn đang nóng hổi của chúng ta. Một
câu hỏi được đặt ra là: tại sao ta lại sớm phát hiện được một tên gián điệp quan trọng mà Mỹ -
Diệm đã tốn công sức chuẩn bị rất kỹ để đánh ra Bắc như thế? Câu trả lời đã rõ ràng: vai trò cả
nhân dân! Thật vậy, chúng ta không, hoặc chưa tài giỏi gì trong cái nghề an ninh này. Nhưng do
quán triệt Nghị quyết Đại hội III, lại có thêm tài liệu thu được thông qua những tên và nhóm gián
điệp cài cắm, tháng 12 năm rồi (1960) Bộ ta đã có chỉ thị số 69 về việc chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng
để đổi phó với âm mưu của Mỹ - Diệm. Chỉ thị này đã đưa xuống khắp các địa phương, mà trọng
điểm là biên giới, miền núi và bờ biển... Chỉ thị ấy đã đẩy mạnh được “phong trào toàn dân phòng
gian bảo mật”, và ‘‘Phong trào bảo vệ, trị an”. Cũng từ chỉ thị ấy, ta đã mở được một cuộc vận
động rộng rãi làm cho mọi người dân làm tai mắt cho công an, cùng tham gia đấu tranh chống
phản cách mạng và gián điệp biệt kích... Chính vì thế nhân dân Quảng Ninh đã giúp ta kịp thời
phát hiện ra tên Xuyên. Có đúng thế không?

- Dạ, thưa đúng như vậy.

- Đó! Đó là những “bảo bối” của chúng mà quân thù hoàn toàn không thể có được. Nắm
vững được những “bảo bối” ấy, rồi đây cho dù có “gió táp mưa sa” đến thế nào, ta cũng chẳng
ngại. Không có bất cứ kỹ thuật nào, phương pháp nghề nghiệp nào, phương tiện hiện đại nào có
thể thay thế được hoàn toàn cái “Thế trận lòng dân” ấy đâu! Anh em hiểu cả chứ!

- Dạ, hiểu! - Mọi người lại cùng đáp.

- Bây giờ tôi hỏi cậu An về mấy phương án của tỉnh…

- Báo cáo, vừa rồi tôi chỉ báo cáo mọi việc không dám bày tỏ ý kiến của mình về mấy
phương án ấy. Vì Công an tỉnh và Tỉnh uỷ đã điện xin ý kiến của Bộ và Khu uỷ. Bộ và Khu uỷ
chưa trả lời, tôi chưa dám phát biểu!

- Ý thức tổ chức thế là tốt - ông Quốc cười - Nhưng bây giờ tôi tham khảo cậu. Cậu cứ nói
đi! Tôi tin là cậu đã có chính kiến.

Được khuyến khích, An mạnh dạn:

- Báo cáo, Bộ đã cho phép, tôi xin nói: theo tôi không chấp nhận bất cứ điều kiện nào của
tên Xuyên! Nên theo phương án hai của các anh ở địa phương là tốt hơn cả.

- Thế còn ý kiến về việc bắt bà mẹ nó, cậu nghĩ thế nào?

- Báo cáo, tôi nghĩ không nên bắt. Chúng ta cần tỏ rõ là rất nhân đạo, biết kiên nhẫn chờ đợi mọi
sự hồi tâm... Tất nhiên không bắt nhưng ta phải cho giám sát chặt chẽ. Thế nào nó cũng phải mò
về hoặc bà mẹ thương con nhất định cũng sẽ phải tiếp tục tìm cách tiếp tế cho nó. Chúng ta kiên
trì thuyết phục bà mẹ nên khuyên con ra hàng. Đó là cách thương con đúng đắn, tốt nhất. Bà ấy
sớm muộn cũng sẽ hiểu ra.

- Đúng! - Ông Quốc bật lên nói, rồi cười vang - Đúng! Cậu đã suy nghĩ giống như chúng
tôi trên này đã nghĩ.

Rồi ông hào hứng gật đầu, tiếp:

- An ạ, về chuyện bà mẹ, thế là cậu đã nắm được một trong những đặc điểm của công tác
phản gián, an ninh của chúng ta là: mặc dầu công tác này cũng cần có nhiều thủ pháp, mưu kế,
không thể đơn giản, cần có cả những phương tiện hiện đại tối tân nữa nếu như sau này sẽ có, nhưng
về cơ bản ta hoàn toàn khác với địch ở một điều thật sâu sắc. Đó là tính nhân đạo và sự chân chính
cách mạng. Các cậu đã nghe nói và cũng đã đụng đầu với thằng Lansdale gián điệp quái sỏ của
Mỹ hồi di cư đấy! Nó được giới báo chí quốc tế và cả tình báo, gián điệp quốc tế đều biết tiếng,
nhưng cả thế giới đều chửi nó là tên khốn kiếp, thằng lưu manh. Vì sao? Vì những thủ đoạn vô
cùng đê tiện, độc ác, bẩn thỉu của nó trong các hoạt động gián điệp. Cậu vẫn nhớ chứ? Chúng vu
cáo, lừa đảo, dựng chuyện, chia rẽ, tung tài liệu giả, thậm chí bí mật thủ tiêu những ai chống đối
hoặc không ăn cánh với chúng một cách tàn bạo, không ghê tay... Tất cả những thủ đoạn ấy chúng
đã áp dụng triệt để đối với các giáo dân, nông dân hết sức ngây thơ và cả tin của chúng ta...

- Thưa tôi vẫn nhớ.

- Vậy, thôi nhé! Bây giờ đồng chí Thạc cho điện trả lời Quảng Ninh ngay: tôi đồng ý
phương án hai. Và chỉ phương án hai! - Nói đoạn ông lại quay trở về với An - Còn cậu cũng cần
tiếp tục trở lại đó ngay! Đồng chí Trường ạ - ông quay về phía ông Trường, người phụ trách hệ
Mỹ và là thủ trưởng trực tiếp của An - đồng chí cũng vậy, nên thu xếp để xuống trực tiếp thêm ở
dưới đó. Sự việc đang phát triển và chắc sắp tới một khúc quanh đấy!

- Rõ, thưa Bộ trưởng? - ông Trường đứng dậy đáp. An cũng đứng dậy, nghiêm chỉnh giơ
tay chào rồi xin phép quay ra trước. Nhưng ông Quốc bỗng gọi giật lại:

- Này! Còn cái chuyện thằng cu nhà cậu ấy mà, anh em trong phòng, trong Cục vừa được biết. Cứ
yên chí! Anh em sẽ giúp cậu trông nom thằng bé. Đừng có lo, nhá!

An đứng sững lại. Anh không ngờ lại còn chuyện này. Thuỳ đã cho anh biết là chị không
báo vào trong này, e phiền các chú, các anh. Vậy mà...

Ngoái nhìn lại Bộ trưởng, anh thấy ông đúng là một cán bộ cách mạng tiền bối, xuất thân
là công nhân chính gốc, thực sự đáng tôn kính cả về tài năng, sự sắc sảo, cả về tính giản dị cũng
như lòng yêu thương quần chúng.

* *
An đạp xe về tới nhà đã thấy Thuỳ đang đun nấu trong bếp. Chị chạy ra, phần vì vui, phần
vì nóng bức và hơi lửa, gương mặt chị hồng hào, đẹp hẳn lên.

- Bác Tính về chơi đấy anh ạ! Có một anh trên Bộ cũng vừa đến cho quà thằng cu nhà mình. Không
hiểu ai đã báo mà các anh ấy biết...

An vội dựng xe, bước vào nhà và nhìn thấy một người gày gò, lớn tuổi hơn An một chút,
râu lâu không cạo đâm ra tua tủa, đang ngồi bên bàn uống nước. Thấy An về người đó vui mừng
đứng dậy. Hai người cùng reo lên và ôm chầm lấy nhau.

- Ôi, lâu lắm mới gặp lại anh Tính “còm” đấy nhé! - An tươi cười.

- Mình ở quê, có việc gì mà ra Hà Nội luôn! Chuyến này vì có chú em làm công an võ trang
trên Tây Bắc nhắn lên chơi. Nó bảo bây giờ lắm việc quá không về phép được như mọi năm, nên
mới cố lên thăm nó ít hôm.

- Thế anh lên rồi, hay hôm nay mới bắt đầu đi?

- Đi rồi. Hôm nay về. Thong thả mới ghé thăm vợ chồng cậu một chốc lát.

- Anh xơi cơm rồi nghỉ lại đây đêm nay nhé!

- Không, ngồi một lúc thôi. Tối nay còn phải đến thăm ông chú làm việc ở Sở Xây dựng,
không có ông ấy chửi cho. Tối, ngủ ở đấy, mai lên tàu về luôn...

- Việc gì mà vội thế, anh Tính?

- Bà xã tớ dạo này yếu lắm. Đi đã hơn mười ngày rồi còn gì...

Tính “còm” vốn là người cùng làng với An, ở ven thị xã Kiến An. Hai người chơi với nhau
từ bé, cùng học một trường. Chỉ khác: hết tiểu học thì Tính phải ở nhà làm lụng giúp cha mẹ. Còn
An được bố mẹ thắt lưng buộc bụng gửi ra khu, theo trường Trung học kháng chiến. Ông bố An
không muốn cho con học ở Kiến An vì tỉnh đã bị Pháp tạm chiếm. Ông lo chỉ thêm một, hai tuổi
nữa, chắc chắn An sẽ bị Pháp bắt vào lính, nếu không thì ở giữa nơi hòn đạn mũi tên này cũng tội.
Du kích của ta vẫn thi thoảng đột nhập vào khu ven thị, có khi đánh nhau ngay giữa lòng thị xã...
Sau năm 1954 An mới trở về thăm nhà. Gặp lại Tính, An rất mừng: suốt mấy năm kháng chiến,
Tính đã tham gia bí mật làm giao liên cho ta. Bây giờ Tính làm một đội trưởng ở một nông trường
thuộc Ninh Bình. Anh đã đem cả vợ con đến “cắm sào” tại đó.

Mời mãi không được, An giục vợ làm cơm nhanh cho bạn ăn kẻo đói. Trong lúc Thuỳ lúi
húi dưới bếp, đôi bạn cũ cùng ngồi uống trà và hàn huyên.

- Này, ông An ạ lâu lâu mới lại lên thăm chú em nó, thấy trên ấy bây giờ nhiều cái khác
quá.

- Có gì hay, anh nói cho nghe với. Lâu lâu tôi cũng không có dịp lên trên ấy.
Nhà không có điếu cày, An phải chạy sang hàng xóm mượn mãi mới được cho Tính hút
thuốc lào. Anh ta hút liên tục, phả khói như tàu thủy. Thuốc lá Điện Biên An đem ra mời, anh ta
không có màng, kêu nhạt phèo.

Tính gật gù nói:

- Chuyện thì cũng lắm, nhưng có một chuyện đến là vui - Tính vừa nói vừa cười - Chả là hôm ấy
tay Nết em mình đưa vào Điện Biên tham quan. Cứ tự cho là “ta đây cũng là tay thạo” như ai, tới
nơi mình mới bảo nó cứ đi họp, không phải đưa đi nữa, tự mình thả bộ hỏi đưòng tới các bản Cò
Mị, Long Nhai chơi, xem phong tục, tập quán... thế nào. Ở nhà đọc sách báo về Điện Biên cứ thấy
nhắc luôn luôn tới Mường Thanh, Cò Mị, Long Nhai... cũng thích. Nào ngờ, vừa xớ rớ vào bản,
đã có mấy bà Thái, mấy bà thôi nhé, chưa phải dân quân du kích gì hết, đến hỏi ngay, tử tế thôi
nhưng rất chi là nghiêm túc: “Ông là người lạ ở đâu đến? Ông tìm ai? Ông có giấy tờ gì không?”.
Bị bất ngờ, đâm ra lúng túng, mình còn đang giở giấy tờ ra và chưa kịp nói gì thì đã thấy mấy chú
dân quân đeo súng chạy tới... Cũng hơi “hốt” một tí. Và bấy giờ mới hiểu ra, bụng cứ bảo dạ: may
quá, giả dụ không có giấy tờ tuỳ thân đầy đủ phen này khéo họ gô cổ mình lại cũng nên. Chờ được
vạ, má đã sưng!

Hai anh em cùng cười ngất. Tính tiếp:

- Sau Nết nó cứ áy náy mãi là đã quên không báo trước cho ông anh biết đang có phong
trào bảo vệ an ninh rộng khắp. Nó bảo không biết dưới xuôi thế nào chứ trên này một số đồn biên
phòng và cả một số xã, từ năm ngoái tới gần đây, đôi khi có nghe thấy tiếng máy bay lúc gần, lúc
xa. Hỏi trên, thấy bảo: không phải máy bay Trung Quốc đi qua. Cũng không phải máy bay ta lên
đây bay tập. Trong khi đó những tên phỉ cũ qua, những tên phía tạo cũ có hiện tượng thì thụt gặp
nhau luôn. Lại có tin mới: Mường Tè vừa bắt được hai tên phản động người gốc địa phương từ
bên kia biên giới lén về, có nhiều tài liệu mật... Mình mới bảo nó: dưới xuôi cũng thế cả thôi. Lắm
chuyện lắm, xem ra cũng chưa yên đâu! Mấy tháng gần đây tàu bay nó dám bắn cả pháo hiệu trên
vùng Đồ Sơn và xã Vinh Quang... Còn ngoài biển cũng luôn thấy có phao bơi, vỏ chai nhựa, giấy
bánh kẹo trôi vào bờ ở Nam Định, Ninh Bình, trong Nghệ An, Quảng Bình cũng có. Nông trường
mình đã phải tập báo động nhiều lần rồi...

Lát sau Thuỳ bưng mâm cơm lên. Mọi người cùng quây quần lại ăn vui vẻ, không ai nói
chuyện chiến tranh nữa. Sau đó Tính vội cáo biệt An, Thuỳ để đến thăm ông chú. An cũng vội lấy
xe đạp để vào bệnh viện với con thay vợ.

Đêm mùa hạ nồng nực. Bệnh viện tuy không đến nỗi chật hẹp nhưng vì đang là mùa viêm
nhiệt nên bệnh nhân khá đông. Vì thế người nhà bệnh nhân đến trông nom cũng quá tải. Mọi mùa
hè khác cũng vậy, đưa cu Toàn vào đây, đêm ở lại, Thuỳ thường phải trải chiếu cùng một số người
nhà bệnh nhân khác nằm ở ngay hành lang.

Cô y tá trực đã quen vợ chồng An từ mấy năm qua, nay thấy anh, cười nói luôn:

- Đêm nay, mời “ông bác” lại “ngơi” ở hành lang thôi!
21 giờ 30. Theo quy định của viện mọi người phải lui ra hết để bệnh nhân ngủ. An ôm lấy
con âu yếm:

- Con ngủ ngoan nhé! Bố ra ngủ ghế đá ở ngoài sân cho mát. Ở đối diện ngay phòng con
kia kìa! Có gì cần, con cứ gọi to một tiếng là bố vào ngay!

Thằng Toàn bám lấy bố mãi mới chịu buông ra. Ngoài sân, nhiều đèn chiếu sáng đã tắt, chỉ
còn lại vài ngọn đỏ hoe. An thong thả trải tấm vải nhựa xuống một ghế đá ở dưới một gốc bàng,
rồi ngả mình xuống, gối đầu lên cánh tay. Lòng anh thanh thản, vui vẻ. Dẫu sao, thằng Toàn thế
là đã qua được cơn nguy hiểm rồi. Còn công việc hôm nay cũng suôn sẻ.

Nghĩ ngợi lan man một lúc, An thiếp đi ngủ liền. Hôm nay quả là anh rất mệt. Một lúc sau,
bỗng có những vật gì lộp độp rơi xuống mình anh mát rượi, rồi các mái tôn như ca hát vang rộn,
cùng tiếng gió reo trên các tầng cây. An mở choàng mắt. Mưa! Ôi mưa! Anh vội ôm mảnh vải
nhựa chạy vào hiên. Nhiều người nghe mưa cũng trỗi dậy. Nhìn qua ánh điện, những hạt mưa trong
suốt rơi cheo chéo, lấp lánh thật đẹp. Đầu óc như trở thành trẻ thơ. Ôi mưa! Đang đêm hè thế này,
khoái quá! Mưa cứ thế kéo dài mãi. Nhiều người lại lăn xuống chiếu ngủ tiếp. Riêng An không
sao ngủ được nữa. Ôm mảnh vải nhựa, anh ngồi thu lu ở một góc tối... Chợt ngoái nhìn về cuối
hành lang, anh thấy trong một căn phòng nhỏ vẫn sáng đèn. Bóng một phụ nữ nào đó đang lúi húi
trước bàn làm việc. Cũng lúc ấy cô y tá trực từ phòng cuối hành lang ngáp dài, đi ngang qua. Nom
thấy An, cô ta lại cười:

- Ông bác ướt hết rồi phải không? Sướng nhé!

An hất hàm hỏi:

- Ai còn thức khuya vậy?

- A, bác sĩ Tuyết, anh cũng biết bà ấy từ lâu rồi đấy mà! Đêm nay không phải phiên bà ấy
trực, nhưng ở nhà có lẽ buồn quá, vào đây làm việc cho khuây khoả. Ông xã của bà mới vượt
Trường Sơn mấy hôm nay. Đêm nào bà ấy cũng không ngủ. Ngồi viết nhật ký suốt.

- Chồng chị ấy làm gì ấy nhỉ? Tôi quên mất.

- Dân xứ Quảng tập kết. Làm trưởng phòng trưởng phiếc gì đó ở Đường sắt.

Nói đoạn, cô y tá đi vào phòng của bác sĩ Tuyết, có việc gì đó rồi quay ra. Bác sĩ Tuyết
cùng ra theo. Chị đi tới chỗ An đang ngồi. An hơi ngạc nhiên, vội đứng dậy chào. Chị niềm nở
chào lại:

- Thấy nói anh mới về thăm cháu. Mưa, anh không có chỗ ngủ, phải ngồi ở xó tối này. Vậy
mời anh vào phòng tôi ngồi chơi, uống nước. Chốc nữa tạnh, tôi sẽ về. Còn anh có thể ngủ lại
phòng làm việc của tôi.

Càng thêm bị bất ngờ, An lưỡng lự. Chị Tuyết có vẻ hiểu, cười:
- Không sao! Anh cứ vào chơi. Ta nói chuyện cho qua cơn mưa mà!

Bấy giờ An mới mạnh bạo đi theo chị. Căn phòng nhỏ sáng trưng. Đồ đạc gọn gàng, ngăn
nắp. Chị pha một ấm trà nóng cho anh:

- Ấy, từ khi lấy nhà tôi, tôi mới biết uống trà đấy!

An cám ơn, đỡ chén trà, ngước nhìn lên gương mặt tròn trịa hiền hậu nhưng buồn héo của
chị:

- Chỗ đã quen biết, xin phép chị cho tôi được hỏi...

- Được, anh cứ nói.

- Có phải anh nhà ta mới... đi..?

Chị Tuyết hơi cúi xuống, thoáng thở dài:

- Vâng. Các anh ấy đi cả một đoàn. Cũng không rõ đây là đoàn thứ bao nhiêu. Tập luyện
mãi ở Xuân Mai... Phút cuối cùng trên vẫn còn hỏi lại nếu ai còn mắc chuyện này, việc khác chưa
thể đi ngay, thì đi sau cũng được. Nhưng tất cả đều xin đi. Anh nhà tôi cũng thế.

- Xin chị lại cho được thành thực hỏi: chị... nghĩ thế nào về việc này?

Chị Tuyết im lặng một lát, rồi thong thả:

- Cũng như tất cả những người con gái miền Bắc lấy chồng miền Nam tập kết, và nói chung
tất cả những người vợ lính, chúng tôi không giấu mọi nỗi buồn đau... Nhưng biết làm thế nào hơn?
Đất nước mình vẫn còn quá nhiều gian truân. Chiến tranh vẫn chưa hề qua khỏi...

An im lặng. Chị tiếp:

- Tôi có một ông chú ruột là Trung ương uỷ viên. Ông lúc nào cũng hết sức lạc quan, ông
thật quả cảm. Ông luôn trò chuyện và nhấn mạnh cho tôi hiểu: Ta đã làm tất cả những gì cần làm
và có thể làm, phải làm, trên khắp các bình diện chính trị, ngoại giao và cả văn hoá xã hội, trong
nước và cả mọi nơi trên thế giới này để cố giữ lấy hoà bình và thực hiện thống nhất không bằng
vũ lực. Nhưng bọn Mỹ, vâng! Bọn Mỹ, tất cả là bọn Mỹ... Lịch sử rồi sẽ minh chứng cho tấm lòng
chúng ta, minh chứng và ủng hộ cho sự nghiệp của chúng ta... Ông thường nói như vậy.

An vẫn chăm chú, im lặng lắng nghe. Cũng vẫn những chuyện mà anh đã từng biết, từng
thấy ở biết bao nơi trong những ngày quả thật chưa hề hoàn toàn yên ổn này, nhưng hôm nay nghe
thốt lên từ miệng một người vợ vừa mới tiễn chồng ra đi với tất cả nỗi niềm của chị, nghe sao như
bào, như cắt ở trong lòng, và cũng như mới biết tất cả tầm quan trọng, thậm chí quá to lớn của vấn
đề...
Vô tình, anh nhìn xuống quyển sổ ghi nhật ký còn mở đặt trên bàn. Nước mắt của chị đã
làm nhoè nhoẹt gần hết cả hai trang...

Một lúc sau, mưa tạnh, chị Tuyết sửa soạn ra về. An kiên quyết không ngủ lại ở phòng làm
việc của chị. Anh trở lại chiếc ghế đá. Ghế vẫn còn ướt, An đi lòng vòng và nhớ lại: từ sáng tới
giờ anh đi tới đâu, gặp bất cứ một ai, câu chuyện cuối cùng vẫn quay về với chuyện chiến tranh...

Sáng hôm sau, anh trao đứa con gầy guộc, xanh xao như một tàu lá vào tay Thuỳ, rồi bước
nhanh xuống thềm. Xe đạp và ba lô đã để sẵn đấy. Anh tiếp tục trở lại Quảng Ninh. Cuộc ra đi của
anh đâu có thể sánh được với cuộc ra đi của chồng bác sĩ Tuyết. Anh thầm nghĩ vậy. Nhưng dẫu
bé nhỏ tới đâu, nỗi đau của con người vẫn cứ giống nhau là một nỗi đau thì phải?... Anh không
dám nhìn lại, mặc dầu biết Thuỳ đang nhìn theo anh đau đáu. Thuỳ vẫn đứng đó với tấm áo sơ mi
đã sờn rách. Đấy là chiếc sơ mi cắt từ chiếc áo dài hồi anh chị mới cưới. Tất cả các áo dài đều đã
cắt vụn làm sơ mi hết rồi. Tiền ăn và nuôi con còn eo hẹp, lấy đâu mà may mặc! Thuỳ ơi, anh có lỗi với
em, có lỗi không biết là nhường nào. Là một người chồng, một người cha, anh chưa làm được gì nhiều
cho em, cho con trong lúc này... Thế đấy!

Sương tan dần. Thung lũng Mường Sang hiện ra trải dài như một tấm thảm thêu nhiều màu
dưới ánh mặt trời ban mai rực rỡ. Giữa cánh đồng lúa nước đã rưng rưng vàng mùa chiêm xuân,
dòng suối Nậm Li vẽ những đường cong uốn lượn vô cùng mềm mại, lấp lánh. Ở hai bên dòng bạc
chảy ấy, quãng quãng lại thấy một cọn nước đang đều đặn quay. Thấp thoáng có những chấm trắng
li ti di động bên suối và trên cánh đồng, đó là những cô gái Thái đang đi lấy nước buổi sớm, hoặc
hái rau sam, đào chuột, đào dúi... Bên con đường đất chạy dài theo thung lũng, nổi lên một dải đồi.
Trên một ngọn đồi hiện lên những căn nhà ngói lớn nhỏ, xa nom như những đồ chơi bé xíu, hết
sức xinh xắn. Một chiếc cột cao vươn lên mang một lá cờ đỏ sao vàng đang lượn bay trong gió.
Đó là đồn biên phòng Mường Sang. Phía xa, rất xa, ở phía đông thung lũng khá phì nhiêu sầm uất
kia là cả một sơn hệ trùng trùng một mầu lam thăm thẳm. Trên sườn gần nhất của dãy núi hùng vĩ
ấy lấm chấm, mơ hồ, cheo leo có những vệt trắng xám, tựa như những tổ chim đại bàng nào đó...
Nhưng không phải, đó là mấy bản của người Mông. Thời còn Pháp (sau cách mạng tháng 8 năm
1945, tàn quân cua Alessandri chạy Nhật, từ Trung Hoa trở lại) thung lũng dưới này bị tàn phá vô
cùng xơ xác. Chế độ Thổ ty, Lang đạo được phục hồi đầy đủ. Nhưng những bản người Mông kia
vẫn kiên cường chống lại Pháp, dù bị càn quét, giết chóc đến thế nào. Đó là những cơ sở kháng
chiến vững vàng mà cán bộ ta đã bám trụ suốt những năm dài máu lửa ác liệt. Rất nhiều người
dưới Mường Sang hồi đó cũng chạy lên với những “tổ chim đại bàng” cheo leo trên các sườn núi
chất ngất kia...

Suốt đêm qua, thiếu uý đồn phó Công an vũ trang Đinh Văn Nết đã thực hiện chuyến đi
cùng đội tuần tra của công an vũ trang và anh chị em dân quân địa phương phối hợp. Đi suốt dọc
các triền núi, qua các bản lớn nhỏ dọc theo thung lũng Mường Sang. Đi tới tận bản người Dao heo
hút ở Nà Lang, xa tới trên 20 km đường rừng. Ở đó đội tuần tra đã ghé vào thăm nhà Mẩu Tu, một
dân quân người Dao rất hăng hái, đã từng được đi dự Đại hội thi đua của tỉnh năm ngoái. Thấy đội
tuần tra tới, vợ chồng Mẩu Tu vui quá, cả thằng Tén con nuôi của hai vợ chồng Tu cũng vậy. Móc
túi tìm mãi không có gì để cho nó, chỉ có mấy chiếc các tút, Nết đưa cho chú bé. Mắt nó sáng lên
như đèn ô tô. Có lẽ đấy là nơi dừng chân vui nhất, đầm ấm nhất trong đêm tuần tra... Lúc này mọi
người đang trên đường về, đã tới đỉnh những ngọn đồi đất nối tiếp nhau chạy dài như một bức
trường thành thiên nhiên ở phía tây thung lũng. Có những con đường mòn xuyên qua, luồn qua
dãy núi này đến sông Đà và đường 41... Đây như cấp trên thường nhắc nhở, quả là một địa bàn có
tính chiến lược.

Nết đã khá mỏi mệt sau một đêm xuyên rừng vượt núi. Bất ngờ ở đâu, bất cứ một dấu vết
nào hoặc chuyện gì khác lạ đều phải dừng lại xem xét kỹ rồi cùng nhau trao đổi ý kiến, cùng nhau
nhận định... Lúc này, đầu óc Nết mới trở lại thư thái, vui vẻ. Anh có ý dừng lại chờ cho xã đội phó
Én đi lên. Đó là một cô gái khá xinh, mái tóc đen búi gọn sau gáy, khuôn mặt trắng hồng, cặp mắt
dài đen láy. Cô có vóc người nhỏ nhắn nhưng hết sức mềm mại trong chiếc áo cánh trắng bó sát
thân mình có những hàng khuy bạc nổi bật, cùng chiếc váy đen có gấu thêu hoa tha thướt. Cô gái
nhỏ nhắn ấy đặc biệt nhanh nhẹn. Còn đặc biệt hơn nữa là sự mạnh bạo, cũng như cái “uy” của cô
đối với anh chị em. Nết để ý thấy mỗi một lời nói của cô đều được dân quân địa phương mà phần
đông là nam thanh niên tuân theo răm rắp. Nết thấy Én rất khác với những gì mà trước kia anh vẫn
thường nghe nói về các cô gái Thái, những cô gái hay e thẹn và đặc biệt là suốt đời sống cam chịu,
cam chịu “thân phận đàn bà”, mà trước cách mạng thực chất là “thân phận nô lệ, tôi đòi”.

Én đang đi phía sau Keng, tổ trưởng dân quân, một thanh niên chạc 26, 27 tuổi. Keng khoẻ mạnh
nhưng xấu trai, chỉ có tài săn bắn, gần như trăm phát trăm trúng, lại có tài thổi kèn bè từng làm hút
hồn khá nhiều cô gái trong bản... Nhìn thấy Nết có ý đợi, Én vội rảo bước vượt lên. Nết nói:

- Này đồng chí xã đội phó, ta cho anh em nghỉ chân một chút. Trước khi về bản, ta ghé qua
hai nhà nữa được không?

Én ngước cặp mắt đen huyền lên nhìn anh vui vẻ:

- Được chứ sao không, anh Nết! Nhưng lần này qua nhà tạo Thinh và Lò Văn Sử chứ?

- “Chí lớn” gặp nhau thực! - Nết nói vui.

Én cười. Hàm răng cô trắng đều tăm tắp, thật đẹp:

- Chỉ thị của trên, chính các anh phổ biến cho chúng em, vẫn nhớ chứ: tình hình hiện nay,
phải tăng cường tuần tra và cũng phải tăng cường bám sát những đối tượng cần đặc biệt chú ý
mà...

Nết mỉm cười. Nhưng ngồi ngắm nhìn lại Én, anh cũng không khỏi thầm ái ngại. Cụ Nguyễn Du
thật uyên thâm: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen...”, về mặt công tác của Én nói chung
khá suôn sẻ, nhưng cuộc sống tình cảm của cô lại không ít điều ngang trái... Ngay từ khi mới về
đồn này anh đã được anh em cho biết: Én có một người tình xưa là Hoàng Văn Sạ, phụ trách văn
phòng xã. Hai người yêu nhau rất thắm thiết, một hai đã tưởng Sạ sẽ về ở rể nhà Én (theo phong
tục). Nhưng đùng một cái, năm 1956 có hai tên phản động người Thái gốc Lào sống ở vùng Điện
Biên - Tuần Giáo là Vi Văn Đính và Quỳnh Văn Mai nổi lên chống phá mọi chính sách của ta và
dụ dỗ hàng mấy trăm người đưa sang Lào làm lính cho Vàng Pao. Hoạt động của bọn Đính, Mai
đã mở rộng xuống cả Mường Sang. Đã có một vài người ở đây dại dột nghe theo chúng. Nhưng
điều đáng ngạc nhiên nhất là Hoàng Văn Sạ, có chữ nghĩa phụ trách văn phòng xã, lại đang yêu
Én như vậy cũng bỏ tất cả để chạy cùng bọn xấu sang Lào. Từ đó bặt tin. Dân bản xôn xao mất
một dạo, người bảo Sạ ăn phải bùa ngải của bọn Đính, Mai, người lại nói Sạ rất bực tức về việc
anh ta muốn được cất nhắc lên làm phó chủ tịch vì tin là mình vừa có chữ nghĩa, vừa công tác tốt
ai ai cũng phải thừa nhận. Nhưng một người lù khù khác lại được chọn, chỉ vì đó là em một “ông
to”... Riêng Én, cô không hiểu được thật rõ vì sao Sạ lại trốn đi như vậy. Sạ đang yêu cô như thế.
Én rất buồn. Đã hơn bốn năm trôi qua, Én vẫn chưa lấy ai. Én nói là dẫu sao cô vẫn chờ đợi Sạ.
Cô cho rằng sự chờ đợi này cũng là một lời nhắn nhủ là Én và cả bản mường vẫn dành cho anh ta
con đường trở lại... Nhưng trong bản lại có người nói: cô vẫn chưa lấy ai còn vì bọn thanh niên
cũng sợ, sợ vì muốn gì thì gì Én cũng là người “có liên can” tới kẻ phản bội đã bỏ trốn...

Trong lúc Én ngồi nói chuyện với Nết ở phía trên thì Keng, anh tổ trưởng dân quân bắn
giỏi, khèn hay cũng chạy lại ngồi hút thuốc lá cuốn cùng với Mờng, tiểu đội trưởng công an vũ
trang. Mờng cũng là dân Thái, đi nghĩa vụ quân sự ngay đợt đầu năm 1959. Mờng được chọn đưa
sang công an vũ trang, vì là người dân tộc, lại to khoẻ, xông xáo.

Mấy chú dân quân và chiến sĩ công an vũ trang khác thấy vậy cũng bu lại hút ké điếu thuốc
còn sót lại sau cả một đêm vất vả. Vừa rít thuốc, Keng vừa nói:

- Này! đêm qua chim nôộc am kêu nhiều và dài quá, lại có cả chim quắc nữa, anh Mờng
có nghe thấy không?

Mờng hỏi:

- Vậy sao?

- Anh không biết à? Người già bảo đấy là điềm không tốt.

- Không tốt? Tôi không biết đấy. Không nghe thấy nói bao giờ.

- Vậy hồi gần nửa đêm qua ta ghé vào thăm ông già Tá Chủng ở khe Tà Vi, ông nói gì anh
không nhớ a?

- Không, lúc ấy mình đứng dưới nhà quan sát.

- Ông già bảo: có điềm loạn đấy! Không loạn rừng thì loạn âm. Không loạn âm thì loạn
dương...

- Lạ nhỉ? - Mờng nửa tin, nửa ngờ. Mờng biết Keng là người tốt nhưng cũng cho là Keng
chưa “tiến bộ” nhiều vì còn hay lễ bái và hay mê tín. Có thể vì thế một phần mà anh này không
được Én để ý tới, mặc dầu anh ta có vẻ rất thích Én.

Lát sau theo hiệu lệnh của Én, cả đội tuần tra hỗn hợp cùng đứng dậy, xuống núi. Đi một
hồi lâu, mọi người ra tới vùng cửa rừng và đã trông thấy các tràn ruộng vàng mơ phía trước. Một
cụm chừng hơn mười nóc nhà sàn hiện ra. Có một ngôi nhà lớn hơn cả, cột kê đá, con tiện chạy
chung quanh, cửa ván gỗ thưng có trang trí hoa văn khá đẹp nhưng tất cả đều đã có vẻ quá cũ kỹ,
già nua. Không cần đợi Nết nhắc, Én hỏi:

- Ta vào nhà tạo Thinh trước chứ anh Nết?

Nết gật đầu. Đây đúng là nhà của một ông tạo (chức quan nhỏ thời Pháp tương đương
trưởng thôn bây giờ). Nhà tạo này thuộc chi họ nghèo, trước kia không có uy thế gì đáng kể. Dường
như công việc chủ yếu của ông ta chỉ là đốc phu, đốc thuế cho Pháp. Chậm phu, chậm thuế, chậm
gà lợn nộp đồn, chính ông cũng bị Tây đá đít, bạt tai như ai. Có lần chúng còn bắt giam ông trên
đồn hàng tuần... Bây giờ dưới chính quyền mới, ông ta cũng được tham gia hợp tác xã nông nghiệp.
Nhưng vì già yếu, con cái lại tứ tán mỗi đứa mỗi nơi, chỉ còn có cô út ở cùng hai ông bà, nên công
điểm cũng chẳng có gì. Đã hai năm liền bản mường phải “cứu đói” cho gia đình này.

Nết, Én vẫy Mờng và Keng cùng lên nhà. Lòng nhà tối om lặng ngắt. Nếu không có chút
lửa leo lét ở khuôn bếp giữa nhà thì có thể tưởng tượng đây là một căn nhà mồ. Thấy có tiếng chân
người bước lên sàn tiếng chào hỏi cất lên, từ một góc tối mới vọng ra một giọng nói khò khè yếu
ớt:

- Ai đấy?

- Thưa, anh em trên đồn và xã đi tuần, ghé vào thăm cụ. Cụ hình như mệt thì phải? - Nết
nói.

- Phải đấy! Ốm đã mấy hôm rồi.

Nết cùng mọi người đến gần nơi ông tạo đang nằm đắp một chiếc chăn cũ kỹ, như dán
mình xuống chiếc đệm cỏ cũng đã quá tồi tàn, sờn rách. Cửa sổ được anh em chiến sĩ dân quân
mở rộng hơn. Ngọn lửa trên bếp cũng được thổi bùng lên to hơn. Đã nom rõ hơn khuôn mặt hốc
hác, hai má tóp lại, râu ria lâu cạo, đâm ra tua tủa của ông tạo Thinh. Ông ta thực ra mới 60 tuổi,
nhưng nom tưởng đã 80.

- Cám ơn cán bộ công an, cám ơn xã đội đến thăm. Tôi mệt quá không ngồi dậy được, tha
lỗi cho tôi.

Én ngồi xuống bên ông già, cầm lấy cổ tay gầy khô của ông ân cần hỏi:

- Bố ốm thế nào? Sao không báo y tế xã?

- Ốm luôn, không muốn làm phiền nữa. Xã tốt quá, cho thuốc nhiều rồi mà...

- Ồ không, ốm bố cứ báo. Chúng cháu phải có trách nhiệm. Bà và em Un đâu cả rồi?

- Đeo thuổng, đeo giỏ đi đào chuột, đào củ mài ăn. Đi từ sớm.

- Mình bố ở nhà thôi ư?


- Vâng.

Én và Nết nhìn nhau, cái nhìn cùng đầy thương cảm. Nết mở túi vải đeo bên sườn lấy ra
một số viên đa sinh tố và thuốc cảm đưa cho ông già:

- Cụ cầm tạm. Hôm nay về đồn cháu sẽ cho y tá tới thăm bệnh cho cụ.

Bàn tay xương xẩu run run đỡ lấy nắm thuốc.

Nết lại thở dài. Anh rút từ túi áo ngực ra mấy đồng bạc, đưa tiếp cho ông cụ. Trước mặt anh chỉ
còn là một ông già nghèo và bệnh tật, cô đơn, đáng thương rất cần được giúp đỡ. Anh không nhìn
thấy ở con người kia hình bóng nào thật rõ rệt của một kẻ thù giai cấp xưa... Thật vậy! Nếu chỉ
còn thấy đây là một con người đang lâm vào cảnh tội nghiệp, mặc dầu anh vẫn không hề quên
người con trai lớn của ông đi lính khố đỏ từ hồi Pháp, đã vào Nam, không có tin tức và người con
trai thứ hai cũng đã trốn đi theo phỉ từ lâu không về...

Lát sau Nết cùng Én cáo từ quay ra. Tuy nhiên, Én vẫn không bao giờ quên nhiệm vụ của
mình, cúi xuống, nho nhỏ như dặn dò:

- Còn khi nào các anh ấy có tin hoặc trở về, bố nên khuyên bảo họ nhé!

- Vâng, vâng, tôi nhớ chứ cô Én! - ông già nói chưa hết câu đã ho lên sù sụ.

Cả đội tuần tra lại tiếp tục đi một thôi nữa. Lại gặp một bản khác. Cũng gần giống như bản
vừa qua, mọi người lại nhìn thấy một căn nhà sàn khá lớn tựa như nhà tạo Thinh, nhưng xem ra
còn mới hơn nhiều, cây cối tốt tươi khác hẳn.

- Ta vào chứ anh Nết? - Én khẽ hỏi.

Nết gật đầu, đôi mắt vẫn không rời ngôi nhà đường bệ ấy. Đấy là nhà Lò Văn Sử, một trong
những “đối tượng” đang được chú ý. Khác với tạo Thinh, hồi Pháp chiếm, Lò Văn Sử không làm
chức việc gì cả. Y chỉ đi buôn, y chạy chọt sao đó được Pháp cấp cho cái giấy phép mở một đại lý
bán muối ở chợ Mường Sang. Muối trên rừng là “vàng trắng”, ai cũng biết cả. Nhà này có 5 người
con, toàn trai lực lưỡng, thay phiên nhau lên tỉnh, có khi về cả Hà Nội thuê thuyền chở muối lên.
Như vậy ai cũng hiểu chẳng dại gì mà chúng chỉ chuyên bán muối. Chúng còn buôn đủ thứ: kim
chỉ, vải vóc, đường; và nhất là các đồ trang sức giả cho phụ nữ, do một cửa hàng có tên Mỹ ký
chuyên sản xuất... Đó là những thứ mà dân bản trông thấy. Còn có thể có cả những mặt hàng bí
mật như thuốc phiện, ai mà biết được. Mà thuốc phiện thì khỏi đi đâu xa, cứ lên mấy bản Mông
trên cao kia là có đủ. Vì vậy nhà Lò Văn Sử đã giàu có tiếng trong vùng. Quan ba Pháp trên đồn
nhiều khi đến nhà hắn hút thuốc phiện và chơi xoè... Chỉ có điều là năm 1954, Pháp rút chạy hết
vào Nam, đem theo một số thổ ty, lang đạo và những người đã làm việc cho chúng đi theo. Riêng
nhà Lò Văn Sử vẫn ở lại. Hắn luôn cười khà khà, tỏ ra kiêu hãnh nói với mọi người: “Mình không
đi theo giặc! Trước cần tiền thì phải buôn bán với chúng thôi. Mình là người ủng hộ Việt Minh
mạnh nhất mà!”. Bây giờ hắn không làm đại lý muối nữa vì đã có cửa hàng mậu dịch thực phẩm
Nhà nước đặt ngay ở chợ lo liệu đủ cho dân bản. Hàng Mỹ ký cũng không ăn gì nữa, vì mậu dịch
bách hoá cũng đã mở với gương lược, sáp thơm, kim chỉ, giấy bút, sách vở, áo quần trẻ em, vải
vóc các loại... đủ cả. Còn thuốc phiện thì Nhà nước cấm ngặt. Lò Văn Sử có vẻ hơi lao đao và
không giấu được chán nản, kể cả tức giận mất hai ba năm. Bây giờ hắn lại phất rồi. Hắn không
phất bằng buôn bán như trước, mà bằng nghề săn bắn thú rừng, nuôi thú rừng và đào vàng vụn
trong các khe núi quanh thung lũng. Các con nhà này cũng vào dân quân nhưng là “cho phải phép”.
Gần như họ chẳng họp hành, tập tành gì, tuần tra, canh gác cũng bỏ suốt. Chúng chỉ ham đi săn.
Săn bắn, anh Keng tổ trưởng dân quân đã là tay nổi tiếng thiện xạ, nhưng các con nhà Lò Văn Sử
cũng không hề thua kém. Chúng có cả những đoàn săn riêng, mỗi đoàn thu hút và thuê mướn tới
hàng chục bạn săn, với cả chó được nuôi dưỡng và huấn luyện rất tốt. Mỗi khi mùa săn tới, cứ
nghe tiếng kèn đồng vang lên, và nghe tiếng chó sủa ăng ẳng, tiếng vó ngựa lộp cộp là dân các bản
biết ngay đội săn nhà họ Lò đã lên đường. Mỗi đoàn xuất phát, rầm rộ, tưng bừng như cả một binh
đoàn xuất trận. Thịt thú rừng săn được cộng với thú nuôi trong vườn nhà, tất nhiên ăn sao cho hết.
Chúng đem bán một phần ở chợ, một phần nhỏ biếu xén cán bộ xã, huyện, một phần lớn đem lên
thị xã tỉnh bán cho mậu dịch và bán cho các nhà có tiền thích “sơn hào, hải vị” cho ra cái vẻ ta đây
phú quý... Nghe nói tiếng đã đồn về tới tận Hà Nội, và đã có người lên đặt mua các loại thịt hươu,
nai, sơn dương và cả nhung hươu, mật gấu, sừng tê giác cùng xương hổ, báo. Nói là để cung cấp
cho khu vực Trung ương (nhưng chẳng biết Trung ương nào)... Còn chuyện đào, tìm vàng của nhà
họ Lò cũng rất hay: có lẽ vàng hiếm quí nên chúng không tổ chức lớn. Chúng chỉ tự làm với con
cháu trong nhà. Tuyệt đối không có một người lạ. Địa điểm đào kiếm của chúng thường có gia
nhân canh gác không cho ai lui tới. Khi nào chúng bỏ, dân mới được mò vào thì chẳng còn quái
gì. Không biết có phải vì thế mà sinh ghen ăn tức ở, dân trong nhiều bản đã có tiếng xì xào rằng
nhà họ Lò còn làm những việc gì bí mật lắm chứ không phải chỉ có tìm vàng. Tuy nhiên, khi về
làm đồn phó ở đây Nết chưa thấy có dư luận gì. Mới chỉ trong vòng nửa năm nay thôi, và cũng
trong vòng nửa năm nay Nết lại nghe có cả những dư luận như ngược lại về nhà họ Lò. Đó là
những dư luận khá tốt: Sử đã biếu Hợp tác xã cả một cỗ máy bơm gửi mua tận nhà máy cơ khí
Trần Hưng Đạo ở Hà Nội. Không những thế Sử còn mở hầu bao cho một số nhà nghèo vay tiền
hoặc thóc gạo, nói là dạo này nhờ ơn Đảng và Chính phủ làm ăn được nên muốn làm việc từ thiện
và giúp đỡ Hợp tác xã sản xuất, góp phần xây dựng miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa giàu mạnh.

Nết và Én lại vẫy Mờng, Keng cùng đi. Tới gần rào nhà, mọi người thấy hai tên gia nhân
lực lưỡng chạy ra ngăn lại, và lũ chó dữ như một đàn beo cùng chồm ra sủa vang như muốn cắn
xé, nuốt tươi ngay khách. Nhưng vẻ mặt hách dịch của hai tên người nhà dịu ngay xuống khi chúng
nhận ra Nết và Én. Chúng vội khúm núm mời hai người đợi, để chúng vào xem “quan” đã dậy
chưa. Én đưa mắt nhìn Nết. Hai người cùng hiểu: chúng vào báo cáo xem chủ của chúng có chịu
tiếp không. Nết xốc lại bao súng bên hông, mỉm cười thản nhiên đưa mắt ngắm nhìn chung quanh
ngôi nhà. Vườn rộng như rừng, thấp thoáng phía sau là khu chăn nuôi, đầy hươu, nai. Có cả mấy
dãy chuồng gấu, chuồng khỉ. Riêng đõ ong thì nhan nhản... Lần nào tới đây nhìn khu vườn này
Nết cũng thầm có ý nghĩ vui vui: y như vườn bách thú ở Hà Nội vậy. Một lát sau, hai tên gia nhân
đã trở ra và khúm núm mời “các cán bộ” vào.

Bước vào ngôi nhà rộng thênh thang như đình này, lần nào Nết cũng chú ý tới bộ “bát bửu
lộ bộ” gồm tám binh khí cổ bằng đồng, cán nạm bạc, cắm trên một giá gỗ quí cũng trạm trổ rồng
phượng. Và phía sau, là hai chiếc ngà voi khá lớn, cong vút, cũng đặt trên một chiếc giá gỗ trạm
trổ tinh vi... Cứ y như vào nhà quan đại thần vậy. Nết bao giờ vào đây cũng có ý nghĩ ngồ ngộ ấy,
mặc dầu anh chẳng hề biết quan đại thần là ai, chỉ đọc được trên sách báo... Lò Văn Sử nhanh nhẹn
tiến ra khom mình rất thấp, chào “hai cán bộ”. Rồi hắn mời hai người ngồi trên một tấm thảm thêu
rất đẹp trải phía sau đôi ngà voi. Mờng và Keng, hắn mời ngồi ở một chiếc thảm xấu hơn trải bên
cạnh và xa hơn. Trà nước được bưng ra. Hai cô hầu đều là hai cô gái non tơ, khá xinh, nhưng mặt
đều buồn rười rượi. Nết nghe nói kẻ hầu người hạ trong nhà này đều là con nhà nghèo mang nợ
Lò Văn Sử, nay phải đem thân tới gán nợ theo đúng kiểu của chế độ thổ ty, lang đạo khi xưa. Sử
nói năng rất mềm mại. Khuôn mặt hắn khá sáng sủa, vuông vắn. Tuổi chưa cao lắm, chắc mới trên
50, nhưng hắn đã để hai tí ria, nom ra vẻ đạo mạo, phong lưu. Cứ cái tướng ấy ai cũng có thể tin
đây là một con người hiểu biết và làm ăn đàng hoàng, có thể có đức, có tâm nữa. Tuy nhiên ngồi
lâu lâu mới thấy đôi mắt hắn sáng một cách đặc biệt, luôn luôn long lanh, luôn luôn như muốn
xoáy vặn vào mặt người khác, như muôn cật vấn và cả ra lệnh. Đôi mắt đầy quyền uy và tráo trở.

Sau một tuần trà, chuyện trò đưa đẩy hết thời tiết đến mùa màng và săn bắn, cuối cùng câu
chuyện chính cũng bắt đầu khai triển:

- Ông Sử ạ, tuần trước ông có hẹn sẽ tìm lại mấy cái cặp sách mà người khách Hà Nội nào
đó đã tặng, ông bảo là để cho các cháu nội đi học. Ông đã tìm thấy chưa? - Nết hỏi.

- Dạ, dạ, thấy rồi! Thấy rồi thưa cán bộ.

Sử nhanh nhẹ chạy vào buồng bên cạnh, lấy ra hai chiếc cặp da đen. Đó là hai chiếc cặp
làm cho cán bộ đi họp, chứ không phải cặp học sinh.

Nết cầm lấy hai chiếc cặp ấy nhưng không mở ra coi. Anh thừa biết chắc chắn Sử đã soát kỹ, có
gì cần lấy ra hắn đã lấy hết trước khi đưa ra nộp cho anh. Tuy nhiên, anh cứ phải tạm giữ hai chiếc
cặp này mang về đồn để nghiên cứu.

- Ông Sử ạ! Người trong bản nói là các con ông dạo này lại luôn đi đào vàng. Đào được
nhiều không?

- Dạ! dạ! vất vả lắm cán bộ ơi! Mồ hôi đổ ra như suối, mười lần may ra chỉ một lần kiếm
được vài hạt bằng hạt cát.

- Nếu không có gì trở ngại, ông có thể cho chúng tôi coi được không?

- Dạ! dạ! được, được chứ!

Sử lại chạy sang phòng bên, vén màn chui vào. Lát sau hắn đem ra một chiếc khăn tay vải
đỏ. Mở ra thấy một chút vàng vụn.

Sử tưởng Nết lại thu như hai chiếc cặp da, nhưng khi Nết chỉ liếc qua, rồi bảo Sử gói lại cất đi thì
hắn như thở phào. Nết bèn đưa mắt cho Én. Cô hiểu ý, bắt đầu nói:

- Ông Sử ạ, hôm nay một lần nữa chúng tôi ghé thăm ông, nhưng cũng một lần nữa để nhắc
nhở ông: từ nay các khách lạ, khách xa tới thăm ông hoặc mua bán gì đó ông cần phải báo cho xã
biết. Vừa qua khách tới nhà ông hơi nhiều đấy, mà ông cứ... quên hoặc cố tình quên là làm sao?

Rõ ràng lời nói cũng như giọng nói của Én hoàn toàn khác hẳn khi nói với tạo Thinh.
Sử gãi đầu gãi tai:

- Dạ, dạ, cán bộ thông cảm! Chúng tôi cứ nghĩ là khách ở qua đêm mới phải báo cáo, còn
khách tới thăm nhau hoặc mua bán chốc lát thì... được miễn chứ ạ?

- A, Thằng này giở lý đây! Én thầm nghĩ. Cô cứng cỏi:

- Không, ông nhầm! Bây giờ đang có phong trào bảo vệ trị an, ông cũng đã được phổ biến đầy đủ
mọi quy định rồi đấy: Bất cứ khách lạ nào tới nhà, bất cứ chuyện không tốt nào trong bản, ngoài
mường mà mình biết đều phải báo cáo hết. Ông không báo là khuyết điểm đấy!

- Dạ, dạ, vậy thì... xin cán bộ... thông cảm, thứ lỗi cho. Chúng tôi sẽ chấp hành đầy đủ.

Nết mỉm cười. Câu chuyện đã “vào luồng” và có đà rồi, anh tiếp lời Én. Anh nhắc lại việc
Sử thường khoe là mình làm ăn lương thiện và tin tưởng triệt để ở Chính phủ. Vậy Sử cần phải
chứng minh điều ấy bằng mọi thái độ và hành động cụ thể trước hết bằng sự trung thực và chấp
hành nghiêm chỉnh mọi chính sách và pháp luật. Nếu làm được như vậy Sử sẽ được tin cậy, sẽ
được mọi sự dễ dàng, tự do trong mọi việc làm ăn kiếm sống, thậm chí làm giàu...

Rồi Nết nghiêm chỉnh nhấn mạnh và không hề vòng vo:

- Chắc ông cũng chưa quên là đã được nghe phổ biến: bây giờ kẻ xấu ở ngoài đang rất
muốn nhảy vào còn bọn xấu trong nước thì đang muốn ngóc đầu dậy. Chúng câu kết nhau để hoạt
động phá hoại. Bọn chúng đang rất muôn lôi kéo, xúi giục nhiều người. Vậy, do muốn tốt cho ông,
muốn bảo vệ cho ông, chúng tôi xin nói thật: ông cần tỉnh táo, suy nghĩ kỹ, chớ có nghe bất cứ ai
nếu họ tới xui dại, mà khốn đấy! Chúng tôi có đầy đủ tai mắt của nhân dân, không ai che giấu được
chúng tôi bất cứ việc gì đâu..

- Ô không! Không phải đâu cán bộ ơi! Tôi chỉ là con sâu, cái kiến, ai mà thèm để ý, càng
không có ai thèm lôi kéo, xúi giục tôi. Đã nói rồi mà: tôi xưa nay, từ hồi còn thằng giặc Pháp, sống
lương thiện, có làm quan, có đi lính gì đâu!

Nói xong, khuôn mặt Sử bỗng như trở nên bóng loáng. Hắn toát mồ hôi? Tên này xem ra
cũng không phải tay “trì” cho lắm thì phải. - Nết thầm nghĩ. Và anh thấy câu chuyện “nhắc nhở”
cũng có thể dừng ở đây được rồi. Anh cùng Én đứng dậy, ra về. Sử tiễn hai người cùng với Mờng
và Keng xuống đến chân cầu thang, rồi nghĩ sao lại tiễn ra tới tận con đường lớn qua bản.

Cả đội tuần tra hỗn hợp tiếp tục ra về. Họ đã tới gần chân đồn biên phòng. Nơi đây, họ sẽ
tạm chia tay để đêm mai tiếp tục cuộc tuần tra sang các triền núi cao ở phía đông, nơi có những
bản người Mông. Đột nhiên tiểu đội trưởng Mờng nhìn thấy từ phía trước có hai người phụ nữ hớt
hải chạy lại - một bà già và một cô gái. Họ vừa chạy vừa la:

- Ơi cán bộ công an ơi, xã đội, dân quân ơi!

Đã nhìn rõ hơn không phải ai xa lạ: đó là bà vợ tạo Thinh cùng cô Un - con gái út. Nết và
Én vội chạy lên đầu toán tuần tiễu. Hai người phụ nữ, một già một trẻ cũng vừa chạy tới nơi. Bà
già mặt tái mét, có lẽ vì quá mệt, có thể vì quá sợ vì việc gì đó. Cô gái cũng vậy, tóc mai rối bời,
váy áo xộc xệch. Cả đội tuần tra vội quây tròn lại.

- Công an ơi, xã đội ơi! - Bà già vừa thở vừa nói gấp gáp - Có... có...

Én phải cầm lấy tay bà để giữ cho bà được bình tĩnh hơn. Nết tiến lại, ân cần:

- Sao? Cái gì vậy bà? Bà cứ bình tĩnh đã nào! Có chúng tôi đây mà!

Khuôn mặt bà già còn đẫm mồ hôi. Bà vẫn nói gần như đứt hơi:

- Có... có súng! Có súng, cán bộ ơi!

- Cái gì, bà? Có súng? Súng ở đâu? - Nết không khỏi sửng sốt.

Tới lúc đó cô gái mới xen vào nói đỡ mẹ. Dẫu sao cô cũng tỏ ra không đến nỗi quá sợ hoặc
xúc động như bà mẹ:

- Cán bộ ạ, mẹ con em đi đào củ mài, thì... đào thấy mấy cái hòm sắt. Mở ra thấy toàn lựu
đạn và súng. Súng dài có, súng ngắn có...

Mọi người như cùng ồ lên, kinh ngạc. Nết vội hỏi ngay:

- Vậy ở đâu?

- Ở lối vào khe Lặc.

- Có phải nơi nhà Lò Văn Sử mới đây vào đào vàng mà không thấy không?

- Không. Nhưng cũng gần, không xa đâu!

Nết quay lại phía đội tuần tra hỗn hợp nói nhanh:

- Vậy ta tới đó luôn, mau! - Giọng anh rung lên mạnh mẽ như mọi lần phát lệnh tuần tra
hoặc thực tập chiến đấu. Song anh quay lại phía hai mẹ con Un:

- Bà và cô có thể dẫn chúng tôi tới đó được chứ?

- Được mà!

- Đã có ai biết và tới chỗ bà và cô vừa đào chưa? Bà?

- Chưa đâu!

- Tốt! Vậy ta đi mau, anh em!


Thế là Nết cùng Én vượt lên dẫn đầu cả đoàn người vừa đi vừa chạy.

Một lúc sau mọi người đã tới một cửa rừng thưa. Nơi đây có khe Lặc từ trong núi tuôn ra, không
sâu, nước chỉ ngập ngang ống chân, nhưng khá rộng vì bắt đầu chảy ra cánh đồng và bắt ra suối
lớn Nậm Li. Ở hai bên bờ khe Lặc, nơi cửa rừng, có nhiều tảng đá có lẽ có từ thuở “khai sơn lập
địa”, nhỏ cũng bằng cái thúng, lớn bằng cả con trâu. Đoàn người dừng lại. Tuy mệt thêm nhưng
rõ ràng yên tâm hơn, bà vợ tạo Thinh bớt tái xanh, tái tử, nói năng cũng đỡ lúng túng, ngược xuôi
hơn.

- Đây rồi, cán bộ ạ!

- Không phải ở sâu trong rừng ư?

- Không! Nó kia kìa! - Bà tạo chỉ về phía một khu đất ở ngay bìa rừng, giữa hai hòn đá rất
to. Nơi đó lơ thơ những cây mua cằn cỗi.

- Cán bộ ạ! Chỗ này xưa nay ai cũng bảo chẳng có củ mài. Nhưng mẹ con tôi cứ đào thử
một cái dây củ mài nhỏ. Xuống sâu một ít thì đất xốp hơn. Con Un thấy lạ cứ đào tiếp. Không thấy
gì cả. Nó đang cố đào, thì cục một cái, thuổng của nó đâm phải cái gì đó rắn như đá. Đào bới thêm,
thì nó buông thuổng, chạy té ra kêu to: “Có hòm gì, sợ quá, sợ quá!”.

Cả đoàn người vừa nghe bà nói, vừa đi theo tới một khoảng đất mới được đào đỏ xuộm, rộng
chừng bằng chiếc chiếu cói, sâu ước trên 60 phân. Ở giữa khoanh đất vừa được đào lên, lộ ra ba
chiếc hòm sắt, một chiếc vuông, hai chiếc dài, tất cả đều sơn mầu cứt ngựa, đã hoen rỉ ít nhiều, cả
ba chiếc nắp đã bị cạy lên, nay đã được đậy tạm lại.

Rất nhanh, Nết ra lệnh cho các chiến sĩ công an gác vòng ngoài, các chiến sĩ dân quân gác
vòng trong. Rồi anh chỉ định Mờng và Keng ở lại tại chỗ cùng với anh và Én trực tiếp mở ba chiếc
hòm sắt.

Mờng và Keng được lệnh cùng xuống mở ba chiếc nắp sắt.

Mờng mạnh dạn, nhanh nhẹn nhảy xuống, gạt đất cát ra, mím môi nâng lên chiếc nắp của
hòm đầu tiên: toàn súng trường.

Nết bước nhanh lại, đỡ lấy một khẩu từ tay Mờng. Anh ngắm nghĩa mãi: súng trường của
Pháp đã dùng trong chiến tranh vừa qua. Các con số và nhãn hiệu sản xuất còn rất rõ.

Keng mở hòm thứ hai: toàn lựu đạn.

Mờng mở tiếp hòm thứ ba: toàn tiểu liên Thomson của Mỹ trang bị cho Pháp ngay từ những năm
1946, 1947... Có cả mấy quả mìn nhỏ, mìn sát thương bộ binh nhãn hiệu US...

Nết chuyển từng thứ cho Én xem. Rồi anh nhếch miệng cười nhạt, nói như với những kẻ
thù nghịch đang ở ngay trước mặt mình:
- Thì ra thế đấy! Không phải một đứa, mà là một liên minh! Thì ra bọn mày đã sớm thoả
thuận với nhau để trở lại xứ sở này, giấu mặt cũng kỹ đấy!

- Này! Cả súng Mỹ nữa, anh Nết ơi, lạ chưa! - Én thốt lên. Rồi cô hỏi tiếp: Bây giờ ta làm
thế nào đây, anh?

Nết cười:

- Tổ chức thu về, báo cáo gấp lên trên. Hãy làm tốt việc này trước đã?

- Nhưng còn phải tìm xem ai chôn, ai giấu những thứ này đây chứ anh? - Én lại hỏi.

Một lần nữa, Nết phải nhận rằng Én rất nhanh và thông minh.

- Theo em - Én vẫn hăng hái tiếp - không tụi nhà Lò Văn Sử thì còn ai vào đây! Thì ra
chúng chỉ vờ đi đào vàng...

Nết lại mỉm cười:

- Cô Én có nhiều ý kiến hay. Nhưng hãy khoan kết luận. Ta sẽ phải làm việc này thật thận
trọng, không thể hồ đồ theo cảm tính được. Phải có đầy đủ mọi chứng cứ. Trước hết ta mới chỉ có
thể khẳng định đây là một trong những kho vũ khí mà bọn Pháp đã chôn giấu lại từ 1954 khi chúng
phải bỏ Tây Bắc chạy cả vào Nam, như ta đã từng được nghe phổ biến.

- Vậy còn nhà họ Lò? - Én gặng.

- Có thể họ Lò được Pháp giao cho bí mật trông coi ngay từ đầu. Nhưng cũng có thể nhà
này chẳng biết gì hết, mà Pháp để lại là cho những bọn gián điệp, biệt kích định sau này sẽ quay
trở lại. Cũng có thể Pháp đã bàn giao hết các kho này cùng với lực lượng biệt kích hỗn hợp nhảy
dù (GCMA) của chúng cho Mỹ. Nay Mỹ mới là chủ nhân những kho vũ khí này và chúng sẽ tìm
cách sử dụng khi cần thiết. Một giả thiết khác, dù không lớn lắm: phải chăng nhà tạo Thinh được
Pháp giao nhiệm vụ, nay sợ lộ, hoặc biết ơn ta luôn rộng lượng nên tìm cách trao nộp khéo lại kho
vũ khí này. Đấy, không thể vội vã kết luận, cô Én ạ!

- Em đồng ý thôi!

Biết Én đã hiểu, Nết quay lại, một lần nữa dõng dạc hô to:

- Bây giờ hãy nghe đây: Tổ của hạ sĩ Bính ở lại tiếp tục cảnh giới, còn tất cả tiến vào nhận
nhiệm vụ.

* *
Thế là cả ngày hôm đó Nết phải cùng đồn trưởng Mão giải quyết vụ ba thùng vũ khí, không
lên các bản Mông như kế hoạch cũ được. Anh phải cho người dùng ngựa lên báo trên đó hoãn đến
hôm sau.

Sáng sớm, khi sương mù còn bao phủ trắng khắp thung lũng, Nết đã lên đường. Lực lượng đi với
anh vẫn là một tổ - tổ của Bính thuộc tiểu đội của Mờng. Nhưng khác với đêm trước: hôm nay
không có tiểu đội dân quân của Én, vì đó là lực lượng ở vùng thấp. Lên các bản người Mông, Nết
sẽ lấy dân quân trên ấy.

Khác hôm trước, sớm nay không khí xuất quân có phần hơi thầm lặng. Thiếu Én! Thiếu
người con gái anh đã trộm nhớ thầm thương từ hơn một năm nay, mà không dám hé lộ cùng ai, kể
cả Én. Nhưng oái oăm thay, dẫu sao cô cũng đã trót tuyên bố như một lời nguyền: “Quyết chờ Sạ,
để giữ cho anh ta một đường về”. Mặt khác, Nết cũng có chuyện khó xử của anh: cũng đã hơn một
năm nay bà mẹ ở quê nhà đã luôn luôn nhắn lên thúc giục anh về lấy vợ, lấy xong rồi muốn đi tới
cùng trời cuối đất nào cũng được. Nhà chỉ còn có vợ chồng anh Tính còm. Nhưng vợ chồng nhà
này đã trót sang nông trường ở Ninh Bình cắm sào lâu dài mất rồi!...

Suốt dọc đường đi sớm nay đầu óc Nết luôn lởn vởn hình ảnh người con gái Thái rất đỗi
thông minh, đôi mắt đen dài, hàm răng trắng đều đẹp như ngọc. Phải khi lên tới những ngọn đồi
tranh mênh mông vàng rực, rồi qua những nương thuốc phiện nay đã xanh rờn rau, bắp, Nết như
mới trở về với chuyến tuần tra của mình. Càng lên cao, bầu trời càng như thêm bao la và sáng
ngời. Càng lên cao, tâm hồn con người dường như càng trở nên phóng khoáng hơn trước khung
cảnh thiên nhiên hùng vĩ. Sau mấy giờ kiền kiệt ngược dốc, Nết cùng đội tuần tra của mình đã tới
mỏm đất bằng phẳng ở đầu bản Huổi Si. Trên vùng cao này, bản nào cũng có một bãi đất như vậy
để cho trai gái chơi đánh pao, đánh quay, thổi sáo, thổi khèn và nhảy múa vào những ngày hội
phong tục.

Từ xa, dưới dốc nhìn ngược lên đã thấy đội dân quân Huổi Si tập hợp ở bãi đất chơi ấy.
Cũng lạ, thấp thoáng có cả mấy chiếc áo trắng, áo xanh với mũ vải công nhân. Lên tới gần, nghe
thấy tiếng nói đang xôn xao, rõ nhất là tiếng ông già Tà Sênh, bố của xã đội trưởng A Nàm. Ông
già Tà Sênh có một lò rèn rất nổi tiếng về tài rèn dao và súng kíp. Ông cũng nổi tiếng là tay hay lý
sự với “cái lý của người Mông mình”. Nết vẫn còn nhớ năm ngoái có đoàn của tỉnh về Mường
Sang, đi một chiếc Com măng ca. Ông già Tà Sênh xuống xem “con ô tố thế nào mà lại chạy được
và chạy nhanh hơn cả ngựa". Xem xét, sờ mó một hồi, quay về bản, ông già tuyên bố: “Nếu có sắt
mình cũng sẽ làm một con ô tố". Cả bản cười, ông đỏ mặt lý sự: “Người ta làm được thì mình cũng
làm được, khó gì”.

Khi Nết cùng tiểu đội lên tới nơi mọi người cùng reo ầm: “A đây rồi! Đây rồi!”. Nết thân thiết xiết
chặt tay từng anh, từng cô dân quân Huổi Si. Anh nào cũng rắn như lim, dáng vẻ mạnh mẽ như đại
bàng, nom rất thích. Các cô đều mang váy xoè hoa đẹp như đi hội. Cô nào cũng hồng hào, bắp
chân rắn chắc. Và lúc này anh mới nhìn rõ cả mấy người lạ đang bị mọi người vây tròn. Đó là một
nhóm cán bộ địa chất mới lên vùng này mà anh gặp trên huyện tuần trước. Họ cũng nhận ra Nết
và hết sức mừng rỡ. Khi thấy Nết bắt tay cả năm người lạ mặt, ông già Tà Sênh ngẩn người ra,
ngạc nhiên, mở tròn hai mắt. Mọi người kể lại cho anh nghe cuộc tranh cãi vừa xảy ra giữa nhóm
cán bộ địa chất và đội dân quân bản với ông già lý sự. Số là: khi nhóm địa chất vào bản, gặp ngay
ông già lý sự. Ông cảnh giác đòi xét giấy liền. Anh nhóm trưởng địa chất đưa giấy giới thiệu chung
ra. Ông già vặn: Sao năm người chỉ có một giấy? Giải thích thế nào cũng không được. Khi cả đội
dân quân tập hợp đến, kể cả con trai, ông già là xã đội trưởng A Nàm cũng đứng về phía đội địa
chất mà ông già vẫn chưa chịu.

Nghe thủng câu chuyện, Nết tươi cười nói với mọi người:

- Nhưng dẫu sao, cứ phải khen ngợi tinh thần cảnh giác của bố đã, phải không anh em?
Còn thưa bố, con có biết mấy anh này. Cán bộ của ta cả đấy! Bố cứ yên tâm. Một cái giấy nhưng
lại là cái giấy to, như vậy cũng bằng năm cái giấy bé bố ạ!

Ông già vểnh râu lên:

- Cái lý của cán bộ công an mới nghe được, còn tất cả con cháu nói tao không sao nghe
nổi!

Một lần nữa, tất cả lại cười rầm. Cuộc tranh cãi thế là chấm dứt.

Công việc bắt đầu. A Nàm hỏi lại Nết:

- Các anh có bốn người, cả anh Nết là năm?

Nết gật đầu, A Nàm tiếp:

- Vậy mình đã chuẩn bị mười con ngựa. Mình cũng đi năm. Có được không?

- Tốt lắm! Mười người vừa đẹp.

A Nàm quay lại hô to một tiếng. Ngay lập tức, từ phía sau, anh em dân quân dắt ra đủ mười con
ngựa. Chỉ trong nháy mắt, cả mười chiến sĩ vừa công an và dân quân đã lên yên. Những con ngựa
đang sung sức hí lên đầy khí thế. Giơ tay thay mặt anh em chào mọi người ở lại, Nết giật nhẹ giây
cương, con ngựa cất cao hai vó trước lên, rồi chạy nước kiệu. Tiếng vó ngựa bắt đầu vang giòn,
và cát bụi cũng tung lên bụi mù.

Chưa ra khỏi đầu bản, Nết đã nghe tiếng A Nàm gọi to ở phía sau:

- Cán bộ Nết! Ta vào kiểm tra nhà thống quán Vừ A Lùng đã!

Nết kìm ngựa lại:

- Lên đây nói lại cho nghe đi!

Con ngựa của A Nàm vọt lên như một mũi tên. Khi ngựa đã sóng đôi thì phía trước cũng
hiện ra một ngôi nhà khá lớn với tường đất nện lợp ngói âm dương. Có mấy căn nhà phụ cùng
chuồng ngựa ở chung quanh. Vườn trước vườn sau khá rộng.

Chỉ về phía khu nhà nọ, A Nàm nói:


- Ta vào kiểm tra tên thống quán Vừ A Lùng đã anh Nết!

Thống quán Vừ A Lùng, Nết không lạ gì. Đó là một tên quan nhỏ thời Pháp (tương tự như
lý trưởng dưới xuôi) cai quản cả bản Mông này. Cũng như nhiều chức dịch và nhà giàu có khác,
sau khi Pháp thua chạy, chính quyền cách mạng trở về, Vừ A Lùng có vẻ biết thân phận, chỉ chúi
đầu vào làm ăn. Nhưng gần đây ủy ban xã đã nhiều lần báo cáo lên Huyện là Vừ A Lùng hay nói
lăng nhăng...

- Sao cần kiểm tra? - Nết hỏi.

- Ô, nó dạo này nó hay nói bậy bạ là có điềm loạn rừng, loạn âm, loạn dương...

- Chuyện này tôi đã có nghe thấy cả dưới vùng ruộng, từ miệng một số người già Thái,
không riêng Vừ A Lùng.

- Hôm qua, nó lại vừa cắm lá ngoài nhà, không cho ai vào. Nhà nó có chuyện gì mà phải cắm? Nó
âm mưu gì vậy? Ta cần phải biết, anh ạ!

Nết cười, hỏi:

- Này, nhưng phong tục của dân tộc mình, đã cắm lá, làm sao mà vào được?

- Ô, cứ vào chứ! Mình là chính quyền mà!

Nết lắc đầu:

- Theo mình, không cần làm gắt như vậy vội. Mình là chính quyền, mình càng phải tỏ ra
tôn trọng tín ngưỡng của dân. Chưa có chứng có gì cụ thể và thật nghiêm trọng đáng phải ra tay
ngay như thế. Tốt nhất A Nàm hãy cho dân quân bí mật bám sát cùng công an xã theo dõi.

A Nàm xịu mặt xuống, có vẻ không vui lắm, miễn cưỡng đáp:

- Mình đồng ý thôi!

Và, thật bất ngờ, trước khi đoàn tuần tra vượt qua khỏi khu nhà Vừ A Lùng, A Nàm cài
ngựa đi sau cùng, rồi đột ngột giương súng lên trời bắn “đoàng” một phát, vang động cả rừng núi.

Rồi nói vọng lên với Nết:

- Muốn gì thì gì cũng phải cảnh cáo nó một phát, anh Nết à!

Biết cái tính bướng bỉnh và nóng như lửa của A Nàm rồi, Nết chỉ cười.

Đoàn người ngựa tiếp tục lao đi, tiếng vó khua vang, rầm rập...
5

Ngô Đình Nhu vừa đi dự buổi lễ ra mắt của cái gọi là “Đoàn thanh niên Cộng hoà” ở Bình
Dương trở về, tâm trạng rất khoan khoái. Buổi lễ “tụi nó dưới đó mần coi được hè!”. Trên sân vận
động của thị xã, một ngàn thanh niên nam nữ mặc đồng phục: áo sơ mi xanh dương, quần và váy
ka ki vàng nhạt, hàng ngũ chỉnh tề, tất cả cùng một chân quì, mặt ngẩng cao hướng lên lễ đài để
nghe ngài cố vấn huấn thị về công cuộc tiếp tục tố Cộng, diệt Cộng, xây dựng ấp chiến lược để
phát triển quốc gia... Hình ảnh ấy theo Nhu là đẹp nhất! Ông ta càng thấy phương châm hành động
của mình, mà cũng là niềm say mê thực sự của mình là rất đúng: tuyên truyền, sách động thanh
niên tới cuồng nhiệt thì phải theo gương Hitler, còn trong công tác tổ chức thì nên học Cộng sản!
Điều này Nhu không hề giấu giếm, mà từng nói cả với giới báo chí trong và ngoài nước... “Cộng
sản hắn bậy cái chi thì bậy, sai cái chi thì sai, nhưng công tác tổ chức của hắn chặt chẽ, quy củ dữ
lắm, mình phải học!

Phải biết học cả cái giỏi của kẻ thù! Thế mới là có đầu óc thực tế và sáng suốt”.

Nhu còn đang khoan khoái nhớ lại buổi lễ đó thì chuông điện thoại reo vang. Nhu hơi nhíu
lông mày, nhưng cũng miễn cưỡng nhấc ống tổ hợp.

- Phải rồi! Tôi đây. Ai rứa? - Cái giọng trọ trẹ sang trọng uể oải cất lên - A! Tung đấy hỉ?
Chi rứa?... A có cả me sừ Tuyến ở đó nữa hỉ? Có chi nói đi!

Ở đầu dây đằng kia là Lê Quang Tung, Chỉ huy trưởng Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống,
kiêm chỉ huy trưởng “Sở liên lạc”. Có cả bác sĩ Trần Kim Tuyến, “ông trùm mật vụ” của “triều
đình” Diệm nữa. Hẳn là có chuyện quan trọng, phải gặp nhau cùng trao đổi ý kiến. Bây giờ họ
trình lên Nhu để xin chỉ giáo.

- Hả? - Nhu hỏi - Nhắc lại coi! ... Hả? họ đòi cho “khách đặc biệt” đi đúng ngày “D” chứ
không chịu muộn hơn hai ngày như ý Tổng thống muốn?... Họ nói chi rứa hỉ?... Họ còn đòi dùng
phi hành đoàn Đài Loan chứ không dùng người của Liên đoàn hàng không vận tải của ta?

Ở đầu dây bên kia, Trần Kim Tuyến trực tiếp cầm máy nói trình bày thêm những gì đó. Khuôn
mặt xương xương thường luôn tái xám với đôi mắt sắc hết sức thâm trầm của Nhu bỗng dần đỏ
lên. Ông ta như không giữ được bình tĩnh nữa:

- Này! Vậy ta làm chủ cái xứ sở, quốc gia này hay là họ, hí? Họ ỷ vào tiền bạc, vũ khí, cố
vấn, trang bị... ép ta suốt. Họ muốn quyết tất cả! Họ coi ta chẳng còn ra cái chi hết!... Thôi được,
để rồi coi, tôi trình lại Tổng thống chuyện ni đã! Tôi chưa trả lời được.

Nhu bỏ ống tổ hợp xuống, thở dài nặng nề. Rõ ràng cái thân phận tiểu nhược quốc lệ thuộc
đời nào, ở đâu, té ra cũng như nhau cả: khốn khổ và nhục nhã. Ông ta không thể tự giấu lòng mình
nữa.
Ngồi lặng đi, chưa gặp Diệm vội, Nhu muốn trao đổi ý kiến với Nguyễn Cao Kỳ về chuyện
phi hành đoàn vì Kỳ là Chỉ huy trưởng của Liên đoàn hàng không vận tải (thực chất là không quân
trá hình. Vì mới được thành lập, cần giữ bí mật, thêm nữa dù chối bỏ tổng tuyển cử, nhưng anh
em Diệm - Nhu và cả Mỹ vẫn bị ràng buộc phần nào bởi hiệp định Geneve, không dám công khai
lộ ra mọi bành trướng quân sự của mình). Nhu nhắc ống nói lên. Chỉ nửa phút sau, đã nghe thấy
có người ở đầu dây đằng kia lễ phép trả lời là Kỳ vừa đi. Hỏi đi đâu, người nọ (có lẽ là thư ký văn
phòng của Kỳ) lại lễ phép đáp là không rõ. Kỳ đi nhưng không có dặn lại.

Nhu thở dài ném ống tổ hợp xuống. Ông ta không thể biết rằng Nguyễn Cao Kỳ đang gặp
Colby, theo điện mời tới nơi làm việc riêng của ông ta.

Hai người đang ngồi nói chuyện trong một phòng khách kín đáo, nhưng là một căn phòng
hoàn toàn Mỹ từ phong cách xây dựng tới trang trí và vật liệu, cùng đồ dùng nội thất. Máy lạnh
chạy liên tục. Mùi gỗ thông, mùi sơn hoá chất mới..., cùng gợi thêm cái không khí Âu Mỹ cho nơi
này. Colby đầu chải lật bóng láng mang kính trắng mặc áo sơ mi trắng, quần âu màu xám, người
khá thanh mảnh. Thoáng nhìn, ông ta có dáng vẻ như một giáo sư đại học, khó có thể biết đây là
một đại tá hiện đang là trùm CIA không chỉ ở Nam Việt Nam mà cả khu vực Đông Nam Á. Nhưng
khi đã làm việc với Colby, ai cũng nhận thấy sau cặp kính kia là đôi mắt lạnh như băng, một đôi
mắt ai nhìn vào cũng phải e ngại, thậm chí rờn rợn và nhận thấy ở ông ta một vẻ “ông lớn” không
giấu giếm. Thêm nữa bây giờ ông ta hay nóng nảy và dường như luôn bực bội hoặc âu lo. Những
người đã từng làm việc với Colby từ mấy năm trước ở Thái Lan như Hampton đều thấy hồi đó
Colby lịch sự, nhẹ nhàng và luôn luôn thư thái như chẳng có việc gì phải bận tâm. Bây giờ sang Việt
Nam, gần như là một Colby khác. Vì ông ta làm to hơn? Hay công việc ở đây nặng nề hơn nhiều? Ngồi đối
diện với Colby lúc này là trung tá không quân Nguyễn Cao Kỳ. Kỳ luôn luôn mặc bộ đồ bay, đặc biệt trên
cổ luôn luôn có một chiếc khăn quàng đỏ để làm dáng “yêng hùng”, chí ít cũng làm cho anh ta khác biệt
và nổi trội hẳn so với các phi công khác. Anh ta ngồi đó, trước mặt Colby, hai đầu gối khép lại để tỏ vẻ lễ
phép, chứ không dạng bành ra như khi ngồi trước mặt bạn bè hoặc thuộc cấp. Tuy nhiên bộ mặt anh ta
vẫn không giấu được vẻ nhâng nháo với đôi mắt một mí nhỏ như mắt lươn, đầy ngỗ nghịch. Colby đã
được nghe và biết khá rõ Kỳ: anh ta vốn là con một chủ hãng xe khách chuyên chạy đường Sơn Tây - Hà
Nội xưa. Kỳ học trường Bưởi, không hề nổi tiếng về học lực mà sớm nổi tiếng quậy phá vì cậy con nhà
giầu. Kỳ không tham gia kháng chiến, trái lại cha con anh ta đã theo Pháp ngay từ đầu. Pháp rất thích “cậu
ấm” ngổ ngáo và tỏ ra rất ghét Cộng sản này, nên đã chiều ý thích của anh ta, sớm cho ra nước ngoài đào
tạo phi công từ năm 1951. Mà có lẽ Pháp chọn người cũng không lầm cho lắm. Bây giờ đến lượt Mỹ cũng
rất thích có những type như Kỳ, nên đã không ngần ngại bảo Diệm trao cho anh ta chức Chỉ huy trưởng
Liên đoàn vận tải hàng không. Trao cho anh ta chức vụ đó cũng có nghĩa là sẵn sàng tha thứ, bỏ qua mọi
thái độ và hành vi huênh hoang, bạt chiêng, thậm chí có khi rất bố láo, rất vô văn hoá của anh ta, mà triệt
để sử dụng sự mẫn cán, năng nổ, thậm chí cả sự liều lĩnh của con người có cái “máu yêng hùng rởm” này...

- ... Trung tá, tin cậy trung tá, tôi mới mời trung tá tới đây nói chuyện riêng...

- Thưa đại tá, tôi hiểu - Miệng đáp mà bụng Kỳ nghĩ “đúng là giọng ông lớn”.

- Bây giờ chúng ta vào việc luôn nhé! Tôi có nghe trung tá có vẻ không hài lòng cho lắm
về việc chúng tôi vừa quyết định chọn phi hành đoàn Đài Loan đưa “khách” chuyến đặc biệt này?

Kỳ ngước cặp mắt một mí lên nhìn Colby: “Vẫn giọng cha bố”. Kỳ lại thầm nghĩ. Nhưng
rồi anh ta vẫn phải cố nén mình lại và cất tiếng lầu bầu:
- Thưa, đúng thế! Tôi không hiểu kế hoạch cũ đã định là dùng phi hành đoàn người của tôi
nhưng đùng một cái lại quyết định dùng tụi Đài Loan. Thế là thế nào vậy? Quân của tôi đã được
huấn luyện tốt: bay ngày, bay đêm, bay biển đêm, bay không tải, bay có trọng tải, bay độ cao trung,
bay độ cao thấp... đủ cả. Hoa tiêu thì đã đọc được bản đồ bay làu làu, quan sát địa tiêu hoàn toàn
chính xác...

Cặp mắt Colby vẫn lạnh như băng:

- Tôi hiểu sự bực bội của trung tá. Nhưng phải nói thực: tụi Đài Loan đã rất lão luyện, nhất là có
kinh nghiệm thực tế nhiều rồi: ở Malaisia, ở Philippine và cả ở Trung Hoa lục địa nữa. Cũng cần
lưu ý trung tá: đây là chuyến mở đầu, hẳn trung tá cũng thừa hiểu: rất cần phải chắc thắng, để lấy
đà, lấy kinh nghiệm cho những chuyến sau. Vậy trung tá hãy vui lòng, chuyến sau sẽ dùng người
của trung tá... Vả lại, trung tá ạ, quyết định mới này đã trình lên thượng cấp của chúng tôi: tức Bộ
chỉ huy lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương và đã được phê duyệt.

Kỳ chỉ còn biết ngắc ngứ, hậm hực. “Fait acccompli”!( ) Thằng cha này đã nói vậy thì còn
ý kiến ý cỏ gì nữa!

- Vậy, thưa đại tá còn ngày D? - Kỳ chỉ còn vớt vát lại chuyện ngày xuất phát.

Colby lại thoáng như mỉm cười, một nụ cười nhạt thếch:

- A, phải, còn ngày D. Quên! Muốn để dung hoà đôi bên, chúng tôi đã nhân nhượng với
Tổng thống Diệm, đồng ý lui lại hai ngày, cho đúng với ngày “hoàng đạo”, ngày “đầy may mắn
và tốt lành”, mà tổng thống đã nhờ thày Quỉ Cốc của Phủ tổng thống xem và chọn kỹ. Nhưng cũng
phải nói thật với trung tá, chúng tôi đã phải hỏi lại bên khí tượng. Họ cho biết là nếu lui lại hai
ngày, có thể sẽ có một đợt không khí lạnh từ phương Bắc chuyển xuống miền Bắc Việt Nam.
Những xem xét kỹ lại họ hy vọng tầng áp khí cao đang còn được tập trung tại miền Nam Trung
Cộng, thời tiết ở đó vẫn còn trong sáng và bắt đầu chuyển vào Việt Nam. Hy vọng sẽ có một
khoảng thời tiết thuận lợi cho dù không dài lắm. Như vậy chúng ta vẫn có thể bay ra đó vào ngày
D + 2. Vậy đấy! Trung tá là phi công, trung tá quá hiểu chuyện thời tiết quan trọng đến thế nào
với các chuyến bay. Nói thật, nếu khí tượng họ tường trình là thời tiết sẽ rất xấu, chúng tôi vẫn cứ
phải giữ ngày D, dù cho Tổng thống của trung tá có... giận thế nào đi chăng nữa...

Kỳ biết Colby vừa diễu vừa quá khinh tổng thống của mình. Quốc sỉ! Nhưng Kỳ vẫn cứ
phải tiếp tục nuốt nước miếng. Cho dù nó đểu, nhưng tai hại thay, nó lại đúng!

- Trung tá ạ - Colby lại trang nghiêm nói - trung tá thuộc giới sĩ quan trẻ đầy năng lực,
chúng tôi đánh giá rất cao. Đó là lời tâm huyết. Chúng tôi cho rằng tương lai đất nước này phải
trông cậy vào các ông...

Kỳ gượng gạo làm ra vẻ khiêm tốn:

- Đại tá quá khen. Chúng tôi dẫu sao còn non nớt lắm.
- Không! - Colby càng nghiêm trang và quan trọng hơn - Không! Chúng tôi nói thật: lớp sĩ
quan già do Pháp đào tạo từ lâu, bây giờ xa thực tế lắm rồi. Những quan lại xưa lại càng... cổ hủ,
trì trệ. Làm việc với họ, chúng tôi luôn cảm thấy rất khó. Thật vậy, họ chỉ chuộng danh nghĩa, uy
quyền hão, sĩ diện rởm mà không mấy ai có thực tài và thực tâm... Tôi muốn nhắc lại với trung tá:
chúng tôi rất trông đợi lớp sĩ quan trẻ như các ông. Chỉ có thế mới có thể vực đất nước này lên,
thoát được hoạ Cộng sản...

Kỳ vẫn ngồi im. Hắn hiểu Colby còn muốn nói những gì khác nữa đằng sau những câu nói
đó, những câu nói đã phản ánh khá rõ sự khó chịu của Mỹ với anh em Diệm - Nhu, nhất là từ 1959
tới nay. Có rất nhiều chuyện, mà chuyện hàng đầu có lẽ là chuyện gia đình trị, độc tài, phong kiến.
Mỹ đã nhiều lần gợi ý anh em ông Diệm phải “tỏ ra dân chủ” hơn nữa, phải biết tập hợp, thu nhận
những người tài, những lực lượng khác ngoài người trong gia đình, tay chân thân tín và đồng
hương, nhưng Diệm không chịu. Chuyện thứ hai: để chống lại các hoạt động quân sự mới nổi lên
trong vòng một năm nay của Cộng sản, Mỹ muốn anh em ông Diệm phải mạnh tay thực sự. Nhưng
anh em nhà Ngô dù chống Cộng sản nhưng lại rất sợ quân của họ thương vong nhiều, sẽ suy yếu
đi, và mất thể diện. Cho nên họ không dám tung quân ra đánh mạnh. Họ đã thường làm ngơ trước
sự nhát gan của các tư lệnh quân khu, sư đoàn. Bọn này thường chỉ đánh đấm qua loa, rồi rút ra,
gọi phi pháo Mỹ tới bắn phá yểm trợ “tối đa”, sau đó về báo cáo láo là đã giết được “hàng trăm
Việt cộng”... Nhiều! Nhiều chuyện lắm. Kỳ biết cả.

Lát sau, Kỳ cáo từ ra về.

Kỳ đi ngang qua cantine trong nội bộ dành riêng cho sĩ quan CIA. Chợt thấy hai tên Mỹ đi
tới. Kỳ nhận ra ngay: Raphter “Ông trùm N” và Hampton tay chuyên viên phân tích tình hình. Gặp
Kỳ, Raphter chỉ hơi nhếch mép cười, bắt tay xã giao rồi đi luôn, cáo bận. Từ lâu Raphter đã không
có cảm tình với “anh chàng cao bồi” nhố nhăng này. Riêng Hampton đứng lại và mời Kỳ vào uống
bia. Hampton còn trẻ, Kỳ cũng chỉ hơn Hampton ba, bốn tuổi, thêm nữa Hampton vốn là tay thích
mở rộng giao du thượng vàng hạ cám, nên cũng thường muốn gặp gỡ Kỳ. Hắn đã nắm được khá
nhiều chuyện, qua con người hay ăn nói bạt chiêng này.

Ngồi trong bàn, Hampton nói ngay, rất sòng phẳng “theo kiểu Mỹ”:

- Hôm nay tôi mời trung tá. Tôi sẽ trả tiền.

Kỳ cười.

- OK! Lần sau tớ sẽ mời cậu! - Và hỏi luôn - Này “Ông trùm N” là người khơi ra cái chuyện
thay đổi phi hành đoàn cho chuyến bay sắp tới phải không?

Hampton cười:

- Đúng! Nhưng trung tá nên cảm phiền cho ông ta! Ông ta vốn là người rất mẫn cán, rất
cẩn thận.

Kỳ khoát tay:
- Không sao! Hỏi thế thôi! Ông Colby cũng đã có lời cảm phiền với mình rồi. Này - Kỳ hỏi
tiếp - Cậu là chuyên viên phân tích tình hình, theo ý cậu tình hình chung có thể mau chóng sáng
sủa lên được không?

Hampton im lặng một lúc rồi, mỉm cười, khẽ lắc đầu:

- Trung tá đã hỏi, tôi phải nói thật, tất nhiên đây chỉ là ý của riêng tôi: Còn lâu. Và cũng có thể chỉ
càng u ám hơn.

- Mỹ - Việt đang có những nỗ lực mới kia mà! Cậu không tin tưởng lắm hả? - Kỳ không
giấu được vẻ ngạc nhiên, hỏi lại.

- Không! Tôi không bi quan vô lý đâu, trung tá. Những cố gắng quân sự này sẽ chẳng đi
đến đâu, tôi nghĩ thế.

- Vậy theo cậu, phải làm gì?

- Phải cải tổ lại tất cả!...

Hampton như đã chọc đúng vào tổ ong. Lập tức Kỳ vung tay sôi nổi:

- Đúng! Đúng! Bọn giá áo túi cơm, bọn quan lại, hủ nho còn nắm vận mệnh quốc gia này
ngày nào, còn nguy cơ thất bại ngày đó. Cậu quá biết: một đất nước mà cai trị toàn bằng gia nhân
và phe cánh đồng hương đồng khói thì còn ra cái “thống chế” gì nữa. Ấy là chưa nói các chuyện
bê bối khác. Cộng sản nó coi khinh! Nói thật, không có người Mỹ các anh, tôi cho rằng chỉ trong
vòng một đêm Cộng sản nó lấy hết cả miền Nam là cái chắc!

Thấy Kỳ bốc quá, Hampton cố giấu một nụ cười thú vị. Nhưng rồi Kỳ cũng như chợt nhận
ra mình nói hơi nhiều; với kinh nghiệm bản thân, anh ta biết: ở đâu cũng vậy, thời Pháp cũng như
thời này, chơi với giới tình báo là luôn nguy hiểm. Kỳ, nâng lon bia lên:

- Thôi nào, xin tiếp tục, ông bạn! Mình còn có việc phải đi đây!

* *

Đã tới ngày D+2. Buổi chiều có mưa, cái mưa ào ạt, rộn rã tới rất nhanh và qua cũng nhanh
của mùa hè Sài Gòn.Trên sân bay Tân Sơn Nhất, ở khu vực quân sự, có hai chiếc C47 sơn nửa trên
màu bạc, nửa dưới màu xám, và đều không hề có số hiệu đậu song song ở cuối một phi đạo. Đây
là một khu vực cấm, tuyệt mật. Mọi ngày nơi đây vắng ngắt, nhưng chiều nay có nhiều xe tải bịt
kín lui tới liên tục, và một số người Mỹ xuất hiện cùng năm sáu sĩ quan Cộng hoà. Từ xa, nhân
viên, sĩ quan trong phi cảng quân sự chỉ nhìn thấy bọn họ đứng trông coi hoặc kiểm soát và ghi
chép những kiện hàng lớn nhỏ được đưa lên một trong hai chiếc máy bay “vô danh” kia. Nhân
viên trong phi cảng quân sự đều thầm hiểu: “Thế là lại có một chuyến bay đặc biệt”. Chỉ có điều
không rõ là đi đâu. Họ chỉ biết là trong vòng khoảng một năm nay thi thoảng có những chuyến bay
cực mật như thế này, mà họ cũng chỉ mơ hồ phỏng đoán là thả người ra giới tuyến hoặc sang Cam
pu chia, hoặc ném gián điệp vào các mật khu của Việt Cộng vừa tái lập ở chiến khu D cũ, và rừng
Sác xưa... Hôm nay có lẽ cũng vậy chăng? Chỉ có hơi khác là số sĩ quan Mỹ bữa nay tới đông hơn.
Trước kia thường chỉ có một và nói chung là chỉ có sĩ quan Cộng hoà. Một vài sĩ quan của phi
cảng nhận được ra hình như một trong số ba người Mỹ ấy là đại uý Tom, tay trung tá trẻ đôi khi
ra chơi tennis ở Câu lạc bộ Phan Đình Phùng cùng các sĩ quan cao cấp của Việt Nam Cộng hoà
như Dương Văn Minh, Tôn Thất Đính, Nguyễn Khánh... Nhưng Tom làm gì và ở đâu không ai
biết rõ.

Đúng là Tom, Tom của P54 thuộc cái gọi là “Sở liên lạc”, Tom là một trong những cố vấn
trực tiếp làm việc hàng ngày với Ngô Thứ Lân. Chiều nay Tom được Raphter phái tới thêm hai
tên CIA nữa để giúp sức, bảo đảm việc kiểm soát đưa mọi “vật liệu” lên máy bay cho thật đầy đủ,
không để có một sơ xuất dù cực nhỏ. Tom đã tự thân lên máy bay xem xét, kiểm tra lại mọi mặt,
rồi xuống đường băng, đứng theo dõi các lính vận tải quân sự của Sài Gòn cùi cụi, câm lặng mang
vác hàng lên khoang chứa đồ. Vừa đưa cặp mắt xanh như mắt mèo ngắm nghía lại chiếc máy bay
không số Tom vừa thầm nghĩ: “Thằng Kỳ đã chuẩn bị một máy bay khá tốt như thế này, mà phải
nhường cho tụi phi hành đoàn Đài Loan đi, kể cũng hận thật. Nó vốn ngổ ngáo, nhưng cũng chẳng
dám làm ồn. Thế mới biết: nó nể người Mỹ đến chừng nào!”. Đây là chiếc máy bay C47 loại 2
động cơ với 14 cylindres đã được thay thế một số bộ phận máy móc rất mới, rất tốt. Ví như:
carburateur (bộ chế hoà khí) cũ loại PD 12 F5 được thay bằng loại PD12 H4 có khả năng nâng
máy bay lên cao tới 16.000 feet (một feet, đơn vị đo chiều dài của Anh, bằng 0,3048 mét). Và khác
với các C47 thông thường, chiếc này có mang cả thiết bị thông tin đặc biệt như: máy thu định
hướng hiện sóng R 65/APN - 9 của binh chủng thông tin quân đội Hoa Kỳ (Signal corps usArmy)
và rada Lorent dùng cho điều hành viên tìm vị trí của phi công đang bay...

Một trong hai tên Mỹ tăng cường báo cáo các dù hàng đã mang lên đủ (mỗi dù nặng l00kg),
cùng 6 dù cá nhân đeo lưng, tất cả đều có nhãn hiệu Atlantic Rayon corps. Tom gật đầu, hỏi tới
các máy truyền tin trang bị cho biệt kích là những thứ mà y quan tâm còn hơn cả các loại súng,
dao. Tên Mỹ nọ báo cáo cũng đã kiểm đủ, và đang cho mang lên máy bay: 2 máy thu phát vô tuyến
điện ký hiệu URC4 với hai bộ pin BA 1315/U. Đây là loại máy VTĐ thu và phát có làn sóng cực
ngắn, khi cần có thể liên lạc bằng tín hiệu. Đằng sau mỗi máy là một miếng kính kim loại mạ kền,
dùng làm gương phản chiếu gọi máy bay. Quan trọng nữa là một máy VTĐ mang ký hiệu BN2
kiểu RT/A3 chuyên dùng để đánh tín hiệu morse liên lạc với “Trung tâm” có làn sóng tần số
160Kcs. Gắn liền với máy này là bộ máy phát điện có ba chân đỡ, quay tay (ragono) kiểu GN-58
cùng với bộ antene cột thẳng đứng, thiết bị đặc biệt có tần số từ 1500 Kcs đến 1800 Kcs để phát
tín hiệu chỉ điểm cho máy bay hạ và cất cánh hoặc thả dù...

Tom cũng không quên hỏi các pháo hiệu. (Loại màu đỏ đốt làm hiệu cho phi cơ do Nhật
sản xuất, loại giật tay dùng cả ngày lẫn đêm do Mỹ sản xuất). Sau đó Tom nhắc kiểm tra xem có
đưa lên cả những cuốn sách hướng dẫn cho phi công mưu sinh trong rừng sâu không (Survival
Army Air forces Manuel do Tổng hành dinh không lực Hoa Kỳ xuất bản)...

Trong lúc đó ở Briefing room cách đó khá xa nhưng cũng trong phi trường quân sự, (B.R
= phòng hội ý nhanh, chỉ dẫn cho phi công trước khi bay làm nhiệm vụ) Andrew, một trong hai cố
vấn trực tiếp hàng ngày của Ngô Thứ Lân đang làm việc với tổ bay Đài Loan. Dự cuộc hội ý này
còn có thêm hai chuyên viên bay người Mỹ cũng do Raphter đặc cử xuống trợ lực cho Andrew.
Trực tiếp bằng tiếng Anh (tổ lái Đài Loan đều nói tiếng này khá thông thạo), Andrew nói rõ nhiệm
vụ cấp trên giao cho phi hành đoàn là lái chiếc C47 đêm nay thả một số dù hàng và cả dù người
xuống một địa điểm ở vùng tây bắc miền Bắc Việt Nam. Anh ta nhấn mạnh: đây là một nhiệm vụ
đặc biệt quan trọng, yêu cầu phi hành đoàn phải mang hết tâm lực ra hoàn thành. Khó khăn nào
cũng phải vượt qua... Sau đó anh ta lấy tài liệu, bản đồ ra cùng một số giấy tờ viết sẵn các chi tiết
về chuyến bay đặc biệt này. Anh ta phát cho tổ lái hai bản đồ miền Bắc Việt Nam cỡ lớn với tỷ lệ
1/1000.000 và một bản đồ nhỏ tỷ lệ 1/250.000. Treo một tấm bản đồ lớn lên, Andrew cầm một
chiếc que nhỏ chỉ dẫn một cách hết sức tỉ mỉ, cụ thể. Đường bay được thể hiện bằng một đường
chì dài, có những đoạn gấp khúc chia ra thành những quãng nhỏ, đánh dấu từ A B C D E... cho tới
K. Điểm A là sân bay Tân Sơn Nhất, C là Đà Nẵng, D là ngoài biển, E là điểm bắt đầu vào đất
liền... Và K là địa điểm thả dù...Cuối cùng Andrew dặn:

- Khi thả hết dù hàng và dù người, các anh quay về, nếu gặp trục trặc thì có thể bay qua
Thái Lan tới căn cứ Udon và gọi tần số VHF 118 - 1, sẽ được tiếp nhận chu đáo.

Trong khi Andrew hướng dẫn tổ lái Đài Loan chỉ ngồi im lặng nghe, các khuôn mặt đều lì
ra dường như không một chút xúc động. Có lẽ là thứ “lính đánh thuê” đã quá dày dạn nên chẳng
có gì đáng phải xúc động đối với chúng. Tuy nhiên, cuối cùng cũng có tên nêu lên một số câu hỏi
dự kiến về những bất trắc trên dọc đường bay. Andrew luôn luôn tỏ ra rất thành thạo trong công
việc đã đành, còn hết sức tự tin trước mọi khó khăn, trở ngại. Hắn đáp một câu “xanh rờn”.

- Cứ yên tâm! Các nơi đã được thông báo. Không có ngại gì hết.

Tên Đài Loan gặng lại:

- Cả các nơi trên miền Bắc? Dọc đường bay trên miền Bắc các ông đều có cơ sở cả sao?

- Đúng vậy! - Andrew lại gật đầu ráo hoảnh, và tuyên bố luôn: buổi hội ý kết thúc, chúc
mọi người lên đường thắng lợi. Bọn Đài Loan đưa mắt nhìn nhau: cái nhìn còn đầy thắc mắc lẫn
những nỗi hoài nghi.

Cùng thời điểm này, ở ngôi nhà của P54 cũng đang có một cuộc hội ý nhanh giữa Ngô Thứ
Lân và bọn Cầm Diêu. Đặc biệt ở đây có mặt cả Nguyễn Cao Kỳ, Raphter và Hampton. Trước đó,
viên đại uý Quýnh người giúp việc Ngô Thứ Lân đã gặp riêng Tráng A Páo nhân viên điện đài
chính của nhóm, trao cho hắn bộ mã của toán cùng tín hiệu cá nhân là nhóm 5 chữ số để rồi sau
đây Páo sẽ phải đưa vào nhóm thứ 3 của các bức điện, nhằm làm cho Trung tâm biết đúng là
Goblin đang an toàn đánh bức điện đó chứ không phải Cộng sản, hoặc hắn bị Cộng sản bắt được
và ép phải đánh theo ý họ... Cũng trước khi vào hội ý, tất cả mọi thành viên khác trong toán đều
đã nhận đủ tín hiệu riêng của từng đứa để sau này khi cần Trung tâm kiểm tra. Và tất cả toán đã
lĩnh đủ vũ khí quân trang cá nhân cần thiết, trong đó có cả bạc giả, giấy tờ tuỳ thân, và các đài
xách tay để định vị khi đã xuống đất, liên lạc với nhau, tìm nhau. Riêng toán trưởng Cầm Diêu
được gọi vào một phòng riêng để Ngô Thứ Lân tự tay trao tín hiệu mật của toán trưởng. Hắn còn
được căn dặn là: khi nào có “chỗ đứng” vững sẽ được bắt liên lạc với một nhân vật tại chỗ là: “Ông
Chương”. Nhưng nay, Trung tâm chưa cho địa chỉ. Phải chờ. Biết là chuyện hệ trọng không thể
hỏi gì thêm, tên Diêu chỉ im lặng, rồi quay ra phòng hội ý chung.
Không khí buổi hội ý bữa nay thật đặc biệt quan trọng. Bởi thành phần khách tham dự đã
đành, còn vì giọng nói, thái độ rất hăm hở, say sưa của Ngô Thứ Lân. Đứng trước tấm bản đồ lớn
về địa hình vùng Tây Bắc miền Bắc Việt Nam, Ngô Thứ Lân thốt lên những lời hùng hồn nhất,
kích động nhất để nói về nhiệm vụ của toán Goblin lần này ra Bắc. Anh ta luôn luôn nhắc lại và
nhấn mạnh tới ý nghĩa quan trọng của toán biệt kích đầu tiên này, cũng như vai trò của những hoạt
động biệt kích trong toàn bộ kế hoạch Staley - Taylor mà chỉ trong ít ngày nữa sẽ được Washington
thông qua. Anh ta cũng luôn luôn nhắc tới lời của Tổng thống Diệm nhắn gửi “Các chiến sĩ đặc
biệt”... Tổng thống chúc anh em lên đường thắng lợi trong sự chờ mong, quý trọng vô bờ bến
không những của Tổng thống mà của cả toàn dân”. Và “... Cụ tin tưởng anh em lắm. Đích thân Cụ
đã chọn ngày lên đường đại đại cát cho anh em...!”.

Trong lúc Ngô Thứ Lân hùng hồn cổ vũ, khích lệ, bọn Cầm Diêu chỉ ngồi câm lặng nhìn
lên tấm bản đồ. Bọn chúng đang mải nghĩ về những chuyện gần như hoàn toàn khác... Tấm bản
đồ xanh rì kia như đã hút hồn chúng chứ không phải là những lời hoa mỹ, đầy tính kích động của
Lân... Cặp mắt đau đáu nhìn lên, Cầm Diêu, tên có chút học hành và từng trải, tỏ ra có nhiều suy
tư hơn cả. Trước mắt y, trên tấm bản đồ, dòng sông Đà như mỗi lúc một to lên, hiện lên, cuồn cuộn
chảy xiết giữa hai triền núi đá vách dựng đứng như thành, trùng trùng, lớp lớp kéo dài suốt từ miệt
Chợ Bò - Hoà Bình lên mãi tới Lai Châu rồi sang đất khách. Trên suốt dọc dòng sông uốn lượn
quanh co, quằn quại ấy liên tiếp hiện lên những con thác lớn nhỏ, tất cả đều hung dữ, triền miên
gầm thét, tung bọt trắng xóa mù trời, trút nước xuống, lao về hạ lưu với những tốc độ chóng mặt
kinh hồn. Nhưng cũng có những đoạn sông lại thật bình yên, mặt nước như lụa trải, với những bãi
cát dài vàng mịn, với những hàng hoa ban trinh trắng, đẹp như trong thơ ca, như trong các tranh
thuỷ mặc cổ điển từ ngàn xưa để lại. Sông Đà, đó là linh hồn của cả miền Tây Bắc, là dòng sông
thiêng đã tạo nên vùng đất gấm vóc này, tạo nên cả một nền văn hoá phong phú, nhuần nhị, với
những tộc người vô cùng thuần hậu đã gắn bó với nhau từ rừng xuống biển, từ thuở “đẻ đất đẻ
nước”... Cầm Diêu vẫn còn nhớ năm 1946 khi y mới được bắt đầu đi học ở Lai Châu, một ông
thầy đã kể lại: Thủa nhà Hồ, có một danh tướng đồng thời là một danh Nho tên là Nguyễn Bá
Thông được triều đình cử lên cai quản và dạy dân vùng Tây Bắc, khi đứng trước dòng sông hùng
vĩ này đã phải thốt lên: “Tây Nam thiên đệ nhất hùng quan!”(Phong cảnh hùng vĩ nhất ở phía tây
trời Nam)... Như thế đấy! Sông Đà, dòng sông đã gắn liền với tất cả thời thơ ấu không sao quên.
Nó như được đẻ ra trong tiếng thác gầm, lớn lên bên những bãi cát vàng, giữa hai vách núi đá xám
chất ngất, giữa những rừng ban trắng... Nhớ lại dòng sông, Cầm Diêu không thể không nhớ tới cha
y. Ông vốn là một tay chèo thuyền xuôi ngược trên dòng sông này. Khi Cầm Diêu ra đời ông đã
nổi tiếng là một trong những tay chèo cự phách, chế ngự được dòng sông bất kham này mà bất cứ
ai ai dù có say đắm đến mấy cũng không khỏi ít nhiều khiếp sợ, kể cả những tay chèo đã nhiều đời
lão luyện trong nghề sông nước, thác ghềnh. Thuở còn ít tuổi, ông làm thuê trên một chiếc thuyền
đuôi én với sáu tay chèo. Dần dần chắt bóp, dành dụm, ông đóng được thuyền và tự mình làm chủ
một chiếc đuôi én cùng sáu tay chèo mãnh liệt. Ông chở thuê cho các tay buôn lớn trên ngược,
dưới xuôi, khi chở chè, khi cánh kiến trắng, cánh kiến đỏ, khi toàn da trâu, khi toàn xương hươu
nai, hổ, báo, dê, gấu, khỉ, khi xuôi Hoà Bình có khi về tới gần Hà Nội... Nhưng tới năm 1943 ông
đã bỏ nghề lên bộ. Một người trên Lai Châu về, nhắn tin của lãnh chúa Đèo Văn Long gọi ông lên
Lai Châu trông coi trại dê cho họ. Đây là một cử chỉ trả ơn cho ông về cái công đã vô cùng gan dạ
cứu sống được Đèo Văn Phát (con trai Đèo Văn Long) trong một chuyến hắn xuôi thuyền về Chợ
Bờ, gặp thác dữ giữa ngày mưa bão lớn... Không phải vì ông tham cái chức phụ trách trại dê của
họ Đèo, mà cái chính là ông cũng đã 50 tuổi, không còn được như thời trai tráng, hơn thế nữa: ông
thấy lên Lai Châu sẽ có điều kiện cho Cầm Diêu ăn học. Nhà có ba anh em trai thì hai anh Cầm
Diêu đều không còn nữa: người anh lớn bị Pháp bắt đi lính khố đỏ, sang tận “nước Tây” để đánh
nhau với “nước Đức”. Đã có tin về là hắn chết trận cuối năm 1941 ở tận đẩu tận đâu, không rõ.
Người anh thứ hai đang được ông bố “vực” cho vào nghề chèo thuyền vượt thác, thì đùng một cái
bị bệnh đậu mùa qua đời. Vậy chỉ còn có Cầm Diêu, lẽ nào ông không muốn bù đắp cho nó? Bởi
vậy ông đã nhận lời bỏ đất Quỳnh Nhai, lên trông coi trại dê ở Pa Thò (gần thị xã Lai Châu). Đó
là năm 1943. Nhưng rồi thế cuộc rối ren, Cầm Diêu chưa có trường mà học. Nhật đánh lên, Tây
phải chạy sang Tàu... Rồi Nhật thua. Chớp thời cơ, cách mạng nổi lên. Nhưng thị xã chỉ đỏ mầu
cờ được đúng có một ngày. Tập đoàn họ Đèo với lực lượng vũ trang riêng của họ đã hợp lại, cộng
với tàn quân Pháp từ bên Tàu trở về, quyết liệt đánh chiếm lại thị xã. Các cán binh cộng sản bị dồn
đuổi xuống tận Quỳnh Nhai. Từ đó Tây chính thức phong vương cho Đèo Văn Long, cho cai quản
cả xứ Thái... Từ đó mọi chuyện tạm yên yên, ngôi trường tồi tàn như một quán chợ của thị xã mới
mở cửa trở lại. Giáo viên là một ông Tây cố đạo nói tiếng Thái còn sõi hơn cả người Thái, cùng
vài giáo viên già người địa phương dạy từ lớp vỡ lòng lên hết bậc tiểu học. Dạy chữ Thái, dạy
tiếng Tây, có pha thêm một ít chữ quốc ngữ gọi là để tiện giao dịch sau này với miền xuôi. Cầm
Diêu vừa làm lụng: hót phân, cắt cỏ... giúp cha ở trại, vừa ngày ngày ra thị xã học. Năm 1952 y ra
trường và xin được ngay chân bưu tá. Đó là thời kỳ hắn gặp được Nhạn. Nhưng chỉ nửa năm sau
Cầm Diêu đã bị bắt lính. Trốn thì một là tù hai là bị bắn. Vào tiểu đoàn Thái được ba tháng hắn đã
phải cùng quân Pháp rút chạy hộc tốc về Điện Biên Phủ... Tất cả những chuyện này dường như ai
ai cũng biết cả rồi. Nhưng còn những điều đau lòng nữa, mà ít khi y thổ lộ: Trong cuộc tháo chạy
ấy, mẹ y và em út Cầm Sa cùng đám vợ con lính lếch thếch chạy bám theo sau đoàn quân (cha y
đã qua đời vì bệnh trọng trước trong đó hơn một năm). Cả đám gia binh, trong đó có mẹ và em út
của y đã bị chết cả ở Mường Pồn, khi đội quân Lai Châu bị bộ đội cộng sản chặn đánh ở dọc
đường. Tất cả đã chết trong đám hỗn quân hỗn quan ấy...

Trải qua biết bao biến cố trong đời, khi chạy vào Nam, Cầm Diêu may mắn đã tìm được
Nhạn ở Nha Trang. Nhưng số phận tiếp tục xoay vần, hôm nay Cầm Diêu ngồi ở đây, với tư cách
một trung uý chỉ huy toán Yêu tinh, được lệnh trở lại miền đất quê hương xưa để xây dựng căn cứ,
tạo lập các màng lưới cơ sở, tranh thủ nắm tin, tranh thủ phá hoại, chờ những toán sau tiếp tục ném
ra tiến tới mở rộng chiến tranh đánh bại cộng sản. Nhưng trong đáy lòng y cho tới lúc này ngồi
nghe Lân “sách động tinh thần”. Hắn biết đây là dịp hắn có thể trang trải được thù xưa, cho hồn
ma mẹ và em gái được siêu thoát.

Nhưng dẫu sao, hắn cũng chẳng thấy mấy hào hứng, nếu không muốn nói là còn cảm thấy
một cái gì như... một sự ngần ngại. Qua nhiều chuyện, nhiều tin hắn đã biết: miền Bắc không phải
là đất cho tụi hắn dễ dàng tung hoành... nỗi ngần ngại ấy dường như có cả một nỗi sợ nào đó nữa...

Trong lúc đó, ngồi cạnh Cầm Diêu, điện báo viên Tráng A Páo, cũng đang giương cặp mắt
xếch, một mí nhìn lên tấm bản đồ và cũng nhớ lại miền Tây Trang quê cũ của hắn. Tây Trang với
những triền núi đá chất ngất xanh với mây đùn trắng xoá. Tây Trang còn in lại trong tâm trí Tráng
A Páo cả những ngọn đồi tranh lớp lớp từ dưới các lòng thung, từ hai bên con đường rải đá ngược
mãi lên và gió vùng biên địa ngày ngày đêm đêm lồng lộng thổi, thổi như không bao giờ ngừng,
làm cuộn lên ngàn ngàn, triệu triệu lớp sóng cỏ tranh vàng rực, xôn xao cả một trời hoang vắng...
Chính ở nơi có những rừng tranh ấy trước đây Tráng A Páo vẫn thường mang súng kíp đi săn. Khi
mùa xuân về lũ hươu ra ăn búp non của cỏ tranh mới nhú. Và cũng chính trong những cuộc đi săn
ấy Páo đã bất ngờ gặp tên Paul đồn trưởng đồn Tây Trang. Nó cũng là tay rất mê săn bắn. Nhìn
thấy Páo hôm đó cõng một con nai to đùng, thằng Paul phục lăn. Nó bập bẹ nói được một ít tiếng
Mông. Và thế là từ đó mỗi lần đi săn, nó cho mấy thằng lính hầu phải lên tận Huổi Si tìm bằng
được Páo để hướng dẫn cho nó các luồng đi của hươu nai, sơn dương, nhím, hoẵng và có khi phải
phối hợp, giúp nó đón lõng, săn đuổi cho kỳ được các con thú. Thằng Paul khoái Páo lắm. Sau đó
nó bắt Páo lên ở hẳn trên đồn làm lính cho nó. Cha con Páo cãi lý: Páo mới 16 tuổi. Nó bảo 16
nhưng khoẻ mạnh, bắn giỏi như thế này, đi lính quá phải rồi. Không nghe, nó bỏ tù. Thế là Páo
phải lên đồn. Ngoài việc cùng Paul đi săn bắn, Páo được nó giao cho việc chuyên quay ragono
(máy phát điện quay tay). Anh điện báo viên là người dưới xuôi. Anh cũng rất thích Páo. Chính
anh đã dạy Páo những khi rảnh rỗi học chữ quốc ngữ và nhất là dạy cả đánh moóc. Páo học rất
ham. Té ra không phải nó chỉ ham săn bắn mà còn rất ham máy móc... Nhưng rồi cuối năm ấy Tây
thua khắp nơi, đồn Tây Trang cũng như cả Lai Châu phải rút chạy. Páo phải theo tụi trên đồn bí
mật và cấp tốc rút. Nó không kịp, nói cho đúng hơn: không được phép về báo và từ biệt bố mẹ.
Thế là Páo về tới Hà Nội. Cũng chỉ hai, ba tháng sau, Páo lại phải theo Paul chạy vào Nam. Chỉ
có điều là anh lính người dưới xuôi đã trốn đi từ lúc nào mà không rủ nó. Nó giận anh mãi. Sau
nghĩ lại: có khi vì sợ kéo cả Páo đi thì lộ, nên anh đành phải đi một mình. Nghĩ thế là nó hết giận
anh. Vào tới trong Nam thì Paul về nước, còn Páo trở thành lính của Diệm và được đưa về Sư đoàn
22. Sau khi phát hiện Páo giỏi về điện đài, tụi chỉ huy ở trên đã điều nó sang Lào giúp cho phỉ
Vàng Pao về vô tuyến truyền tin. (Nhưng vì sao phải sang tận Lào giúp Vàng Pao? Nó chẳng biết.
Đã là lệnh của cấp trên thì nó phải đi thôi). Nhưng rồi năm nay nó bị gọi về để tham gia lực lượng
biệt kích đường dài này. Nó nghĩ cũng buồn cười: tự nhiên nó trở thành một Goblin trong những
Goblin!... Thế đấy. Nhưng thôi, nó có nghiệp vụ và cũng thích nghiệp vụ này, ai bảo, nó cũng làm
hết... Còn các chuyện cộng sản hay cộng hoà, nó chẳng quan tâm mà thực ra nó cũng mù tịt, ai bảo
sao biết vậy thôi. Bây giờ người ta bảo nó về Bắc, ừ thì về. Về mà tìm bố mẹ cũng thích! Tuy
nhiên dù chất phác nó cũng biết được như thế là sai, quân đội ngoài Bắc bắt được thì chắc chết. Ý
nghĩ ấy làm cho nó cũng lo lo, buồn buồn.

Ngô Thứ Lân đã kết thúc những lời trao nhiệm vụ và cổ suý tinh thần tụi biệt kích. Anh ta
ngừng lại đưa mắt nhìn bao quát xem phản ứng của tụi này ra sao. Nhưng tất cả im phắc. Sự im
lặng lạ lùng đến nỗi tưởng như một chiếc kim rơi cũng có thể nghe thấy. Ngô Thứ Lân cố giấu sự
tức giận và né tránh cặp mắt lấp lánh như giễu cợt của Hampton, cặp mắt nghiêm nghị của Raphter
cũng như cái nhìn chòng chọc của Nguyễn Cao Kỳ. Hắn gặng hỏi:

- Rõ cả chưa nào? Có ai cần hỏi gì không?

Một tên Goblin rụt rè đứng lên - tên G3 răng vàng:

- Thưa trung tá, vậy... khi chúng tôi đi, vợ con chúng tôi ở nhà vẫn được lĩnh lương chứ? Và khi...
chúng tôi... lỡ gặp nạn, vợ con vẫn được hưởng lương hay... thôi?

Ngô Thứ Lân chau mày, rồi cố mềm mại trả lời:

- Cứ yên tâm! Được lãnh chứ! Trong trường hợp nào cũng được lãnh hết. Các anh được
Tổng thống và quân đội hết lòng săn sóc mà! Cứ yên tâm.

Lại im phắc. Không một tiếng vỗ tay. Không một nụ cười, cũng không một ánh mắt vui
tươi nào.
Ngô Thứ Lân cho kết thúc buổi hội ý.

Cầm Diêu trở về ngôi nhà riêng của bọn chúng. Tên gác cổng cho biết có một đại úy xưng
tên là Quyền, phụ trách trinh sát Sư đoàn 22 tới thăm, nó đã bảo Cầm Diêu đi vắng.

- Vậy ổng có nhắn lại gì không?

- Dạ, có! Đại úy dặn khi về, trung úy cần tới khu gia binh gặp ông, nếu không sớm mai ổng sẽ trở
về Nha Trang.

Biết là đã có lệnh cấm trại, nhưng sốt ruột và không hiểu chuyện gì, Cầm Diêu lẻn đi liền,
bất chấp tất cả...

Y lao như một con lốc, rồi ập vào căn nhà cantine của khu gia binh.

Đại uý Quyền, ân nhân của vợ chồng Cầm Diêu, con người sang trọng, chải chuốt lịch sự,
đặc biệt yêu quê hương vô cùng nồng cháy đang ung dung ngồi đó, bên một bàn bia. Vừa nom
thấy Diêu tới, Quyền vui mừng đứng dậy tươi cười:

- Cầm Diêu đấy ư? Này mình cho cả vợ cậu vô đây thăm cậu đó!

Cầm Diêu trố mắt như không tin ở tai mình nữa. Y chưa kịp nói hoặc hỏi lại thì từ một
phòng bên Nhạn, vợ y đã mau mắn đi ra. Ôi, đây là mộng hay là thực đây? Cầm Diêu chỉ còn biết
lao tới vồ lấy hai bàn tay Nhạn, kéo giật cô lại, như áp hẳn vào mình... Đúng là Nhạn đây rồi! Ôi,
xa nhau mới có mấy tháng mà cứ tưởng như đã trăm năm... Nhạn cũng không thốt lên được lời
nào, đôi mắt dài đuôi hơi cong lên như mắt phượng nhìn anh đăm đắm, xôn xao. Quả là một người
đàn bà đẹp, đẹp từ gương mặt như vầng trăng, đẹp tới cả thân hình óng ả nở nang kiều diễm. Bộ
váy áo dân tộc bó sát như càng làm cho bộ ngực thêm nở căng, nhọn vắt lên và toả ra hương thơm,
bốc ra lửa quyến rũ...

- Đại uý có công vụ vô Sài Gòn - Nhạn nhẹ nhàng nói - Đại úy cho em theo vô để thăm
anh - Có lẽ vì quá xúc động, mãi Nhạn mới thốt lên được như vậy. Nhưng như thế cũng đã quá đủ
với Diêu. Hắn chỉ còn thiếu ôm ghì lấy nàng ở ngay trước mặt mọi người mà hôn, hôn cho đến
nghẹt hơi, bỏng môi, cháy ngực...

Đại uý Quyền bỗng hỏi xen ngang:

- Này! chú Diêu và anh em vẫn ở đây học tập tốt đấy chứ?

- Dạ, dạ, phải! - Cầm Diêu quay lại, lúng túng đáp. Câu hỏi có lẽ chỉ là xã giao vô thưởng
vô phạt ấy, không ngờ đã lôi bật nó trở lại với thực tế ghê gớm, nóng bỏng trước mắt, nó sắp phải
ra đi, bí mật ra đi, vào nơi... một sống một chết... Lòng nó như xé. Làm sao nó có thể nói được lên
điều đang làm rung chuyển cả tâm hồn nó. Làm sao nó có thể tiết lộ nhiệm vụ ghê gớm của nó.
Chỉ còn chiều nay nữa thôi... Nó sẽ phải xa Nhạn hơn nữa, xa cho đến không biết bao giờ, và thật
kinh khủng, có khi là... vĩnh viễn. Nhưng không... Nó chỉ còn biết ngước đôi mắt vô cùng đau khổ
lên nhìn Nhạn. Nó muốn ôm lấy nàng, muốn nhai nuốt nàng, muốn được chết đi trong vòng tay
nàng lúc này, mà không sao chết đi cho được...

* *

21 giờ 30. Thành phố đã lên đèn từ lâu. Trên vòm trời cao, một mảnh trăng lưỡi liềm thoáng
hiện ra, nhưng xa vời, buồn tẻ và như bị hoàn toàn lãng quên ở nơi đô hội này. Một chiếc Dodge
bịt kín không rõ từ đâu trờ tới, đỗ áp sát cổng ngôi nhà của bọn Cầm Diêu. Cánh cổng hé mở rất
nhanh. Đã bí mật chờ sẵn, cả 6 tên lao ra và chỉ trong chớp mắt cùng nhảy lên xe. Chiếc Dodge lại
lao đi, rồi mất hút. Tất cả mọi việc chỉ diễn ra trong vòng có hai phút. Khi đã ngồi yên chỗ trên xe
một số tên lâm râm khấn khứa cầu xin thần linh phù hộ cho những gì đó. Cầm Diêu cũng thầm
thốt lên trong đáy trái tim mình mấy tiếng, nhưng không phải là cầu khấn các thần linh, mà là:
“Nhạn! Nhạn ơi, em ở lại, anh đi đây...!”. Đó là những tiếng kêu xiết bao đau khổ và cả lo buồn.
Một lần nữa trong đời, nó lại hối tiếc mình đã quá ham đồng lương của biệt kích, và đã quá xúc
động vì lời kích động của đại uý Quyền khi ấy…

Lát sau chiếc Dodge đỗ lại trước một nhà để máy bay, trong khu cấm, gần hai chiếc Dakota
(C47) không số đang đỗ ở đường lăn. Dưới ánh điện sáng ngời, Raphter, Andrew, Tom, Ngô Thứ
Lân đang ngồi quanh một chiếc bàn nhỏ trong nhà để máy bay, uống bia và ăn bánh kẹo. Mấy viên
đại uý Quýnh, Chắt... giúp việc Ngô Thứ Lân đứng loanh quanh đó. Khi bọn Cầm Diêu xuống xe,
Raphter vẫy lại. Chúng được mời bia, gọi là để “chúc mừng lên đường thắng lợi”.

Ngô Thứ Lân tranh thủ báo tin mới nhất: Khí tượng không có vấn đề gì. Không ảnh do
máy bay trinh sát điện tử Mỹ chụp gửi về hồi 18 giờ: mục tiêu vẫn không có dấu hiệu gì khác lạ.
Kết luận: hoàn toàn có thể yên tâm xuất kích.

Khà một tiếng như đã ngà ngà, đặt mạnh chiếc ly đã cạn sạch xuống mặt bàn, giơ ngang
mu bàn tay quệt một vệt bọt bia trên mép, Cầm Diêu quay lưng lại, hai tay xốc lại các thứ đeo lủng
củng ở dây lưng, đoạn ngẩng đầu lên, hô mạnh mẽ:

- Tập hợp! Kiểm tra vũ khí, dụng cụ cá nhân lần cuối!

Cả nhóm nhanh nhẹn xếp thành hàng ngang trước ngôi nhà mái tôn khổng lồ. Cầm Diêu
mặt nghiêm nghị, cặp mắt sắc mở to, đi tới từng toán viên, lúc này y đã trở lại đúng là một tên chỉ
huy biệt kích đã được dày công đào luyện. Nó cẩn thận kiểm soát lại từng vật dụng cá nhân của
từng đứa: kính đeo mắt hồng ngoại để nhìn ban đêm, máy truyền tin, đạn hoả châu, đèn bấm, túi
cứu sinh, đèn cầm tay, găng tay, địa bàn... Nó lật túi quần, túi áo từng đứa xem các giấy tờ cá nhân
đã để lại hết chưa, và tiền bạc miền Bắc cùng giấy tờ giả liệu có đầy đủ không.

Raphter, Tom, Andrew và Ngô Thứ Lân đứng coi, đều rất hài lòng.

Đúng 22 giờ 30 phút, Ngô Thứ Lân dõng dạc ra lệnh:

- Goblin! Lên máy bay!


Sáu tên như sáu con quỉ gai góc, lông lá đầy mình, cùng leo lên thoăn thoắt và chui tọt vào
chiếc C47 đã được sẵn sàng để cất cánh. Mang bí danh “Kẻ đột nhập” nó đã lên đèn tín hiệu nhấp
nháy dưới bụng, ở hai đầu cánh và cả trên nóc cabin...

Máy bắt đầu gầm lên. Rồi sau đó chỉ mấy phút, “Kẻ đột nhập” bắt đầu lăn bánh ra phi đạo...

Trong nhà chứa máy bay, bên bàn bia rượu đã bị “tàn phá” toang hoang, Raphter cầm lấy
phoni vui vẻ và dõng dạc gọi về văn phòng của nó:

- Điện báo về Trung tâm chỉ huy Lầu Năm Góc và Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương: GOBLIN
- đã xuất phát từ 22 giờ 5 phút giờ địa phương, ngày 27 tháng 6 năm 1961. Ký tên Raphter.

Chiếc máy bay như một con quạ khổng lồ bắt đầu nâng độ cao. Nó dang đôi cánh đen sì,
mũi trực chỉ phương bắc, bay đi. Trên hai hàng ghế, ngay từ khi được lệnh thắt dây an toàn, như
từ trong vô thức, một nỗi sợ hãi hết sức bản năng bật dậy trong lòng tất cả những tên biệt kích, kể
cả toán trưởng. Nỗi sợ hãi ấy cứ tăng dần, tăng mãi cùng tiếng máy bay mỗi lúc một thêm ầm ào
mạnh mẽ...

Hạ thấp độ cao để tránh mọi rađa ven biển của miền Bắc, “Kẻ đột nhập” bắt đầu bay vào
đất liền, vùng châu thổ sông Hồng. Trăng thượng tuần như một vành móng tay nhỏ mầu ngà từ
trên cao toả xuống một làn ánh sáng mờ nhạt. Cơ quan khí tượng Mỹ đã báo đúng: ánh sáng của
tuần trăng đầu, từ 15 đến 45 độ ở chân trời phía đông đủ cho máy bay có khả năng quan sát địa
hình địa vật dưới mặt đất. Tất nhiên đã có cả máy khuếch đại ánh sáng, nhưng ánh sáng này vẫn
là cần thiết.

Qua một ô cửa tròn, Cầm Diêu chăm chú ngó nhìn xuống dưới để cố quên đi những gì còn
bề bộn trong lòng. Lờ mờ thôi, hết sức lờ mờ, nhưng y cũng cảm thấy được “Kẻ đột nhập” như đã
bay vào vùng đồng bằng Bắc Bộ. Mặt đất bằng phẳng, những ngọn đèn li ti, lốm đốm, khắp nơi
những mặt hồ ao phản chiếu ánh trăng như những mảnh gương lớn nhỏ thực thực hư hư rải rác xa
gần...

Rồi một lúc sau đã thấy rừng, từ thưa thớt dần dần đến rậm đen cùng những ngọn núi nhấp nhô
trùng điệp. Một cảm giác xốn xang bỗng dâng trào trong tâm hồn Cầm Diêu, một kẻ đã được đẻ
ra và lớn lên từ núi từ rừng.Y mở căng mắt ra... Và kìa, một dòng sáng ánh trăng uốn lượn ngoằn
ngoèo hết sức mềm mại mà cũng hết sức kỳ lạ đang hiện lên!... Hình như sông Đà! Có phải sông
Đà không nhỉ? Hay vẫn là con sông Hồng?... Ôi sông Đà! Những tiếng thác lại như gầm lên mãnh
liệt với những mái nhà sàn, những gương mặt ruột thịt thân yêu, kẻ mất người còn cùng vụt hiện
lên như đốt cháy tâm can y.

Nhưng cũng ngay tức khắc, y bị kéo giật lại với thực tại. Chỉ còn nửa giờ nữa là tới địa
điểm nhảy dù, một tên trong phi hành đoàn vụt đứng lên, giơ tay ra hiệu: chuẩn bị! Từ lúc đó một
không khí im lặng bao trùm trong lòng máy bay. Tất cả những khuôn mặt đều căng thẳng. Những
ánh mắt xao xuyến cùng liếc nhìn nhau, những cái nhìn đầy ý nghĩa... Theo kế hoạch đã vạch sẵn:
từ giây phút này, mọi người phải tập trung tuyệt đối suy nghĩ vào trách vụ. Khi tới cách địa điểm
còn 6 phút, thì đèn đỏ sẽ bật. Còn 3 phút, là đèn xanh. Khi tới địa điểm thì chuông sẽ réo lên. Và
đó là giờ của Định mệnh...

* *

Cũng đêm ấy vào giờ phút ấy ở Hà Nội, Bộ trưởng Quốc nhận được một bức điện tối mật từ Quảng
Ninh cấp tốc gửi về, do Cục trưởng Công Năng “cánh tay phải” của ông trực tiếp mang tới: “...
Cuối cùng đối tượng đã ra hàng, đúng như ý đồ của ta. Cuộc hỏi cung đang bắt đầu. Nó còn có dấu
hiệu quanh co. Đang tiếp tục đấu tranh. Một vụ có thể lớn đúng như các anh đã sơ bộ dự toán. Sẽ
tiếp tục báo cáo gửi về...”. Dưới ký tên giám đốc công an Quảng Ninh.

Ông Quốc im lặng, nhưng trên gương mặt sáng rõ một niềm vui xen lẫn kiêu hãnh. Ông
rút thuốc lá mồi thêm một điếu mới, rít những hơi rất sâu, đoạn nói với “ông võ” của mình.

- Anh cho gọi ngay tay Nguyễn Nguyên An về gặp chúng ta báo cáo lại tỉ mỉ.

Cũng đêm ấy, giờ phút ấy, ở bản Nà Lang, một bản của người Dao ở xa tít cách đồn Mường
Sang tới gần năm giờ leo núi, băng rừng, vợ chồng anh dân quân người Dao - Vàng Mẩu Tu vẫn
chưa ngủ. Hôm nay Mẩu Tu bắt được khá nhiều cá ở ngoài suối Nậm Be. Người Dao nói chung là
nghèo, ở cao hơn người Thái, nên hầu như không có ruộng mà chỉ có nương. Người Dao có nghề
chài cá ngoài việc làm nương. Người Dao thường hiếm con, hay phải xuống Mường Sang, có khi
phải đi xa hơn xuống dưới xuôi xin con về nuôi. Người Dao quý con nuôi vô cùng. Giờ này vợ
chồng Mẩu Tu vẫn còn ngồi nướng cá bên bếp lửa. Mùi cá nướng khen khét, thơm thơm bay toả
trong căn nhà tre nứa làm tăng thêm vẻ ấm cúng của cái gia đình nhỏ bé mà nghèo nàn này. Thằng
Tén, đứa con nuôi lên 6 tuổi cũng vẫn còn thức. Vợ chồng Mẩu Tu xin được của một gia đình
người Kinh nghèo mà đông con ở mãi tận Mộc Châu. Thằng Tén đang ngồi chơi mấy cái các tút
đạn súng tiểu liên mà đồn phó Nết mới cho cách đây vài hôm nhân cuộc đi tuần tra rộng ra cả khu
vực. Chốc chốc vợ Mẩu Tu lại giục chồng đi ngủ trước cùng thằng Tén, để mình chị nướng cá
cũng được. Mẩu Tu không nghe, anh còn đang vui, không những chỉ vui vì hôm nay đánh được
nhiều cá, mà còn vì đồn phó Nết cùng cô Én cho biết đang cố gắng tìm giáo viên cho mấy bản xa
như nơi này. Nếu được, xã và đồn sẽ phối hợp làm trường học cho trẻ em. Mừng quá. Như vậy
thằng Tén nhất định sẽ có cái chữ rồi...

Bỗng nhiên, có tiếng gì ầm ầm ù ù từ xa xa vọng lại. Mẩu Tu dỏng tai lên nghe. Sấm?
Không phải! Ô tô? Cũng không phải! ở đây làm gì có đường cho xe ô tô lên? Còn lâu! Tiếng ầm
ầm ù ù nghe mỗi lúc một gần hơn. Rồi rất gần. Mẩu Tu ngờ ngợ. Anh đứng phắt dậy, mở toang
cửa chạy ra. Vợ Mẩu Tu cũng đặt vội các xiên cá xuống, chạy ra theo chồng. Tiếng ầm ầm ù ù đã
lớn hơn nhiều, tựa như nó ở ngay gần trên đỉnh đầu mình. Mẩu Tu nhìn thấy vợ, hồi hộp nói to:

- Máy bay đấy!

Cũng vừa lúc một số người trong bản cũng túa ra. Tiếng gọi, tiếng hỏi nhau í ới:
- Máy bay phải không?

- Có phải máy bay không? Hay cái gì thế?

Mẩu Tu ngẩng lên bầu trời trăng non nhàn nhạt. Anh bỗng như giật mình khi nhìn lên thấy
một vật gì giống ngọn đèn cứ nhấp nháy như một con đom đóm đỏ nọc kỳ dị đang bay ngang qua.
Mẩu Tu chưa biết thực hư nó là gì thì đã nghe thấy tiếng nói to:

- Tàu bay Mỹ Diệm! Tàu bay Mỹ Diệm đấy!

Nhìn lại, Mẩu Tu thấy ông Lềnh trưởng bản kiêm đội trưởng dân quân, tay cầm một cây
súng kíp dài, xăm xăm chạy tới với ba bốn dân quân. Cái chấm đỏ nhấp nháy trong tiếng ầm ầm ù
ù ma quái ở trên trời bay khuất xa nhưng chỉ một lúc đã vòng lại. Rồi lờ mờ, xa xa, từ đuôi chiếc
máy bay đang sà thấp bỗng phọt ra liên tiếp mấy vật gì đen đen kéo dài rồi sau đó xoè to ra tựa
hình những cái nấm treo lơ lửng trên trời và tà tà bay theo gió... Một anh dân quân kêu lên sợ hãi:

- Nó đang đẻ những cái gì kia kìa!

Ông Lềnh, ngước lên, cố quan sát. Tất cả đám dân quân cùng xôn xao. Nhiều người la lên
hoảng hốt: “Đúng! Đúng! Nó đang ỉa ra những cái gì kia kìa!”. Những cũng có anh lại bảo chẳng
nom thấy gì hết. Tuy nhiên Ông Lềnh đã khẳng định, quát:

- Tàu bay Mỹ Diệm ra thả biệt kích đấy! Bớ anh em! Báo động! Báo động!

Bấy giờ mọi người mới cùng nhận ra: đúng là chiếc máy bay đen sì đang nháy đèn, xuống
khá thấp trên vùng trời khu vực này và thả dù...

Cũng lạ, đến lúc này Mẩu Tu không thấy sợ mà chỉ thấy vô cùng hồi hộp. Anh nói nhanh:

- Mẹ cha thằng Mỹ Diệm! Vậy bây giờ ta phải làm gì, ông trưởng bản?

Ông Lềnh không cần suy nghĩ lâu, con người ấy xưa nay rất hom hem, chậm chạp gần như lù đù,
vậy mà tối nay lại có vẻ nhanh nhẹn và tỉnh táo khác thường. Ông oang oang ra lệnh:

- Tỉnh, huyện, đồn đã dạy rồi: địch đến, phải tổ chức theo dõi, bao vây ngay và cấp báo lên
xã, lên đồn. Vậy anh em hãy nổi trống, nổi chiêng lên và rúc tù và báo động toàn bản! Còn dân
quân phải tập trung ngay. Tôi sẽ trực tiếp chỉ huy theo dõi, bao vây. Còn bây giờ cần một người
chạy về đồn Mường Sang báo tin. Ai đi được?

Ai ai cũng hiểu từ đây về đồn công an vũ trang ở Mường Sang là phải khoảng gần bốn giờ
đồng hồ đi bộ, leo đèo vượt suối. Mà cả bản này không hề có một con ngựa. Vậy ai dám nhận việc
này, nhất là trong đêm tối... Tất cả mọi khuôn mặt đều như đần cả ra. Nhưng rồi bỗng một tiếng
vang lên hăng hái:

- Để tôi đi!
Mọi người cùng quay lại: Mẩu Tu! ông Lềnh chỉ còn biết gần như ôm choàng lấy anh dân
quân xưa nay vốn nổi tiếng hiền lành, chất phác này.

- Hay quá! Ừ, có thế mới là dân quân tiên tiến của bản ta chứ! Mẩu Tu đi đi! Cầm lấy cây súng
này!

Miệng nói, tay ông trao luôn cây súng kíp của mình cho Mẩu Tu.

Mẩu Tu lắc đầu:

- Súng để còn sẵn sàng chiến đấu mà! Tôi đi không cũng được. Thôi, báo cáo trưởng bản
tôi đi đây!

Nói dứt lời, chẳng kịp dặn vợ dặn con một câu, Mẩu Tu sấp ngửa đi luôn. Anh không đi,
mà co giò chạy. Trong chớp mắt anh đã biến mất trong những khu rừng đại ngàn tối đen ở phía
trước.

Trong lúc đó tiếng máy bay càng rền vang. Chiếc đèn đỏ liên tục chớp sáng đỏ nọc như
một con mắt chột dữ tợn của ma quỷ. Những chiếc dù tiếp tục được bung ra...

* *

Trên chiếc “kẻ đột nhập”, qua bản đồ, qua máy khuếch đại ánh sáng trực tiếp quan sát, phi hành
đoàn người Đài Loan đã xác định đúng khu vực đổ hàng và người như đã quy định. Các kiện hàng
đã được ném hết sau vòng lượn thứ nhất. Bây giờ đèn tín hiệu xanh được bật lên. Tất cả sáu tên
gián điệp biệt kích cùng xốc lại ba lô, túi dù đứng dậy. Cả sáu khuôn mặt hiện ra dưới ánh đèn
xanh nom đầy vẻ quái dị. Những cặp mắt mở to, trắng dã, không hồn. Những cái miệng khô khốc
với đôi môi mấp máy run rẩy như thầm thốt lên những lời cầu nguyện nào đó. Ba tên kickers
(người chuyên lo đẩy hàng từ bụng máy bay xuống) to lớn, đen chũi quay lại. Cửa máy bay đã mở.
Như oà một cái, cả thế giới đen hun hút ghê rợn bên dưới và bên ngoài thoắt hiện ra. Tất cả sáu
tên biệt kích dù đã tập nhảy dù đêm không ít nhưng lúc này đều thoắt rùng mình. Dưới kia là chiến
trường! Dưới kia cũng có thể là mồ chôn, là địa ngục...

Cầm Diêu loạng choạng tiến lên trước, tới gần cửa nhảy. Tâm hồn gần như hoàn toàn tê
liệt trong một nỗi xúc động quá lớn, y mím chặt đôi môi, mắt trừng trừng nhìn xuống, chờ hiệu
lệnh. Tiếng chuông bỗng réo lên. Đã tới giây phút quyết định của số mệnh...

- Go! Một tiếng hô bật lên như một phát súng. Dựng hết cả tóc gáy, Cầm Diêu nhắm mắt,
nhào ra khỏi khung cửa. Gió như cả một lớp sóng biển khổng lồ kinh hồn đánh tạt ngay vào mặt
mũi y làm cho tối tăm, tê dại...

* *
Trong rừng khuya, Mẩu Tu vẫn tiếp tục cắm đầu cắm cổ chạy. Đoạn nào dốc quá, anh phải
đi chậm để leo lên, nhưng khi đổ dốc anh lại tiếp tục chạy. Nhiều lúc tưởng đã đứt hơi, xây xẩm
mặt mày, gục xuống, nhưng anh chỉ dừng lại, bám lấy thân cây cho khỏi choáng váng, hoa mắt,
sau đó lại tiếp tục chạy, chạy như mê đi, chạy không còn biết trời đất gì nữa. Rừng cây xung quanh
luôn luôn vây bủa lấy anh như những bóng ma, hình quỉ với muôn vàn cánh tay vằn vèo, cái dài
cái ngắn múa may trong bóng đêm. Trong khi đó từng đàn đom đóm to như từng hạt táo xanh lè
bay đầy rừng, đầy suối như những oan hồn thi nhau hiện lên để cùng những bóng ma cây rừng đủ
hình đủ dáng kỳ quái kia hăm doạ con người nhỏ bé này. Đáng sợ hơn nữa là những tiếng động
trong rừng khuya. Có những tiếng chim đêm đã quá quen thuộc, nhưng có thêm biết bao tiếng
chim, tiếng thú hết sức quái gở, có lúc nghe như tiếng người cười sằng sặc, có lúc lại nghe nghẹn
ngào, rên xiết như có người đang cố bóp nghẹt hoặc cứa đứt cổ nhau. Có lúc lại phì phì phè phè
ghê rợn như có cả một bầy trăn độc hoặc gấu lớn đang ra sức quần nhau ngay bên đường mòn...
Nhưng hãi nhất vẫn là tiếng beo gầm. Ôi chao, tiếng beo gầm giữa rừng khuya, nghe sao mà ghê
rợn, toàn thân nhiều lúc nổi hết gai ốc, chỉ muốn co rúm lại... Chạy, vẫn chạy, Mẩu Tu chỉ đỡ
hoảng sợ những khi ra được những trảng trống hoặc lội qua những con suối lớn, nhỏ. Ở đấy ánh
trăng suông đã làm cho anh nhìn rõ được mọi vật hơn. Những dòng nước lấp lánh, những bãi tranh
thoáng rộng đã làm cho anh bình tĩnh lại đôi chút. Lần nào cũng vậy, khi qua suối anh cũng dừng
lại, vụm hai bàn tay lại múc nước lên rửa mặt cho bớt mồ hôi, cho tỉnh táo đầu óc. Sau đó lại tiếp
tục chạy, chạy đến đứt hơi, đến mờ mịt cả đầu óc, đến tối tăm cả hai mắt, đến rụng rời cả hai chân...

Trên cao, ngôi sao Mai xa xa đã hiện lên như một hạt vàng, cả vùng trời phía đông dần dần
sáng lên như bạc. Đấy cũng là lúc Mẩu Tu gần như một cái xác chết đã ra khỏi các khu rừng sâu
và tới cánh đồng Mường Sang với đôi chân trần bị đá cắt gai cào bê bết máu. Anh tập tễnh, xiêu
vẹo, nghiêng ngả. Nhưng hai con mắt mờ mịt của anh dẫu sao cũng đã thoáng nhận ra được ngọn
đồi thoai thoải của đồn công an vũ trang rất đỗi quen thuộc. Anh nghiến răng, cố dốc chút lực tàn
còn lại. Anh gò lưng chạy. Loạng choạng, đảo điên, lắt lay... Và, như một chuyện huyền thoại,
chạy lên được sườn đồi, hướng tới cổng đồn, anh cố dấn một lần cuối cùng nữa, nhưng còn cách
cổng đồn chừng vài chục mét, đôi chân đã khuỵu xuống. Anh ngã vật ngửa, dang hai tay, chết
lịm... Tuy nhiên, chỉ một hai tích tắc như sống lại, cố ngóc đầu dậy, anh gào to, tiếng như từ dưới
mồ sâu vọng lên:

- Công an ơi... có giặc! Có giặc!...

Chỉ có thế, rồi anh lại ngã vật ngửa, đầu ật sang một bên, hai mắt nhắm nghiền.

Nhưng cũng may, hoặc kỳ lạ thay, trong đồn đã có người nghe thấy những tiếng kêu thảm
thiết và ngập tràn tính nguy kịch ấy.

Chỉ trong khoảnh khắc, cổng đồn đã mở toang, đồn phó Nết cùng ba chiến sĩ phóng ra như
bay, hướng về người dân quân đang nằm vật ở giữa đường đi.

Nết thụp xuống ôm choàng lấy anh. Nết bỗng như thét lên đến lạc giọng.

- Trời ơi! Mẩu Tu! May còn sống!...

*
* *

Cùng lúc tờ mờ sáng đó trên cao điểm 818, trong một cánh rừng nguyên sinh, rậm rạp, một
số tên Goblin đã tập hợp lại được với nhau: Cầm Diêu toán trưởng, Tráng A Páo báo vụ kiêm cơ
yếu, cùng Lò Văn Chơm nhân viên trinh sát, tình báo và phá hoại. Cả ba đứa đều phờ phạc hốc
hác. Những chiếc áo biệt kích 16 túi tơi tả lấm lem. Những cặp mắt bạc phếch. Chúng cùng ngồi
thở dốc dưới một gốc cây lớn, trước một đống ba lô, máy móc, điện đài lung tung, lộn xộn. Cuộc
nhảy trong đêm hết sức khó khăn vất vả, chưa nói là đầy kinh sợ. Dẫu đã tập nhảy không ít nhưng
nói chung chúng vẫn rất tồi về kỹ thuật, nay còn rối trí nữa, nên việc điều khiển dù thật đáng
nguyền rủa: lạc xa nhau lung tung trên một vùng hơn một cây số vuông. Khi đáp được xuống mặt
đất, may mà tất cả đều có transitor cầm tay để bắt tín hiệu của máy định vị của toán, nếu không có
lẽ tới lúc này vẫn còn chui rúc cả trong các bãi tranh và trong rừng rậm để tìm hướng về tập hợp.
Nay dẫu sao cũng đã có mặt được 5, nhưng vẫn còn thiếu tên G6. Đó là chưa kể lạc mất hai kiện
hàng. Một mặt cho gấp rút chôn giấu hai kiện hàng tìm được, một mặt Diêu cử tên toán phó G2
Lò Văn Sính cùng tên G4 Hoàng Văn Lanh răng vàng mở rộng khu vực tìm kiếm một lần nữa, tìm
hai kiện hàng thất lạc và tìm thằng G6 Lò Văn Sam.

Trời càng sáng dần. Càng thêm căng thẳng. Cầm Diêu xé bao thuốc thơm đốt một điếu rồi
quăng cho Tráng A Páo và Lò Văn Chơm. Cả hai cùng vồ lấy, nhưng vẫn không một đứa nào dám
thốt lên một lời. Mọi hiểm nguy, kể cả cái chết vẫn đang còn quanh quất đâu đây, thậm chí có thể
đang dần dần tiến lại gần hơn. Bởi ngay từ hồi nửa đêm, khi mới tiếp đất, chúng đã nghe thấy từ
xa xa, tiếng mõ, tiếng trống dù rất mơ hồ nhưng hẳn là phải rất náo động ở dưới những lòng thung,
và những sườn núi chung quanh đây. Báo động. Phải rồi không còn nghi ngờ gì nữa, dân chúng đã
báo động, có thể là toàn vùng. Vậy mà, đ.m., tụi P54 cứ quả quyết nơi đây hết sức xa dân, vô cùng
hoang vắng, mà dân toàn là sơn nhân lạc hậu tối tăm, ngu ngốc không biết tí gì về Mỹ về Diệm,
thậm chí cả Cộng sản là thế nào, là ai, họ cũng chẳng hề rõ! Mới chỉ một chi tiết bố láo ấy thôi,
cũng làm cho chúng thực sự hoảng sợ.

Như không chịu nổi sự im loặng quá căng, tên G5 Lò Văn Chơm bật lên nói trước, nó vốn
xưa nay là đứa lắm mồm lắm miệng gần như tên G4 răng vàng, nhưng còn “gai góc” hơn.

- Đ.m., Hoàng đạo! Hoàng với chả đạo, chưa chi đã mất cha nó một thằng với hai kiện hàng. Mấy
lão chóp bu không những chỉ bói toán vớ vẩn lại toàn là bọn chỉ giỏi vơ vét và hít, đớp. Vậy mà
cứ luôn luôn bảo là dân biệt kích chỉ có biết tiền và gái, đớp và hít, hít và đớp. Đấy, bây giờ họ
đang ngồi uống rượu ở Sài Gòn để hô hào “đánh Cộng sản từ trong ruột chúng!” Mẹ! Nói thế chó
nói cũng được! Con cháu thì cho sang Mỹ học hết, còn bọn dân đen này thì vào lò lửa! Mẹ!...

Chẳng phải vì thấy thằng “tóc rễ tre” dám động tới các cấp “côi” mà do đang quá sốt ruột,
quá căng thẳng, không muốn nghe bất kỳ điều gì khác nữa, Cầm Diêu lừ mắt quát:

- Thôi, câm đi!

Cầm Diêu hiểu lúc này một tích tắc còn quí hơn vàng. Tụi nó cần phải di chuyển ngay tới
vị trí tập kết. Nơi này chắc lộ rồi, vì thế nào mà chẳng có người nhìn thấy các dù liên tiếp rơi
xuống. Hẳn là các lực lượng chiến đấu của Cộng sản đang hướng cả về đây. 818, 796 - hai cao
điểm này đã trở thành tử địa. Đó là cái chắc. Nhưng sao có thể bỏ tụi G2, G4, G6 mà đi luôn được.
Ruột gan tên toán trưởng như bốc lửa.

Tuy nhiên, cũng không phải chờ lâu, Cầm Diêu bỗng bật dậy. Hai thằng: G2 toán phó Lò Văn Sính
“Mặt chảo gang” và G4 Hoàng Văn Lanh “răng vàng”, đã như từ dưới đất mọc lên. Cả hai đứa
quần áo tơi tả, hai bộ mặt mét xanh với hai cặp mắt trắng dã gần như vô hồn. Cả hai đứa lảo đảo
tiến lại rất gần như ngã ngồi xệp xuống. Biết chúng quá mệt và tinh thần chưa bình ổn, Cầm Diêu
đưa bi đông nước tăng lực cho chúng, rồi ngồi xuống sẵn sàng chờ nghe chúng tường trình. Tráng
A Páo và tên Chơm G5 cũng vội đổ xô lại, dỏng tai lên, mặt mũi tràn đầy hồi hộp.

Phải mấy phút sau G2, toán phó Lò Văn Sính, tên mọi ngày có vẻ “lì” nhất lúc này cũng tỏ
ra - không hơn gì ai, cất cái giọng đã như lạc đi, gần khác hẳn:

- Trình toán trưởng... vẫn không thấy hai kiện hàng. Còn thằng G6... nó chết rồi...

- Hả! - Cầm Diêu trợn mắt, gần như nhảy thách lên.

- Hả? Sao? Sao?

Vẫn còn lử lả, thằng Sính toán phó tiếp tục nói như từng nhát một:

- Dù của nó không mở! Nó rơi vào bìa rừng, nơi có nhiều tảng đá lớn... Nó vỡ sọ, tiêu rồi! - Vừa
nói “Mặt chảo gang” vừa xoè hai bàn tay còn đỏ lòm những máu của G6, chưa kịp chùi rửa.

- Chao ôi!... Cầm Diêu chỉ còn biết thở hắt, kêu lên một lần nữa rồi gieo mình xuống. Páo
và Chơm, cả hai thằng gần như cùng rú lên khe khẽ. Mãi sau Cầm Diêu mới nhăn mặt hỏi tiếp
được:

- Vậy... đã chôn cất cho nó chưa?

“Mặt chảo gang” gật đầu. Nó thò tay vào túi áo lấy ra một nắm tóc:

- Tụi tôi cắt đem về một ít, để sau này... nếu còn trở về được... thì trao cho vợ nó.

Cầm Diêu lặng đi. Nó cố nhớ lại gương mặt tròn trịa với đôi mắt nhỏ và đặc biệt là nụ cười
bí hiểm của tên Sam. Chao, vậy là cái thằng côn hươn xưa nay kết thúc cuộc đời nó như thế này
đây! Có lẽ số kiếp chỉ cho nó một đặc ân: về chết ở trên quê cũ! Vậy thôi! Nó, cái thằng khôn
ngoan, trí trá và đầy tham vọng ấy... ngoài Cầm Diêu cả toán Goblin không đứa nào biết: nó dù là
dân tộc Thái, nhưng đã mật xin Đại uý Quyền lo giúp cho vào Thiên chúa giáo và vào cả “Đảng
gươm thiêng ái quốc”, cái đảng mà ai ai cũng thầm gọi là Đảng “ma tịt” mới được ông Nhu dựng
lên. Nó giữ rất kín. Hẳn là nó còn mơ tưởng leo cao hơn cái cấp thượng sĩ của nó hiện nay nhiều.
Nhưng thôi, dẫu sao cũng xin đất mẹ quê hương hãy tha thứ mọi điều không phải của nó, xin hãy
ôm nó vào lòng với tất cả sự bao dung và độ lượng...

Rồi tự cắt đứt mọi suy nghĩ, Cầm Diêu xốc lại bao súng và đủ thức lủng củng quanh sườn,
đứng dậy. Nó nói như lè ra từng tiếng khô khốc:
- Thôi được, những chuyện tồi tệ ấy thật ra cũng khó tránh khỏi. Ta vẫn tập hợp được năm
người với hai kiện hàng đã chôn giấu xong, thế là cũng... tạm được. Bây giờ phải đi mau mới tới
địa điểm tập kết đã. Sau sẽ quay lại đây lấy hàng. Nào, tất cả hãy đứng dậy xoá hết dấu vết!

Tiếp đó là mệnh lệnh ngắn ngủi được phát ra:

- Go!

* *

Cũng lạ, sự xuất hiện của Mẩu Tu dường như còn làm chấn động hơn cả hồi 01 giờ 36 phút
sáng khi đồn Mường Sang đột ngột nhận được một bức điện dồn dập: một của Tham mưu công an
vũ trang Khu, một của Tỉnh uỷ, một của Ban chỉ huy quân sự tỉnh.Tất cả đều báo: Các đài kỹ thuật
của Bộ Công an phát hiện có máy bay địch từ ngoài biển vào đất liền vùng giáp giới Ninh Bình -
Thanh Hoá, rồi ngược lên Tây Bắc. Các trạm quan sát của khu và tỉnh cũng liền sau đó phát hiện
tiếp: có hiện tượng máy bay quần ở toạ độ X và Y. Vậy các đơn vị quân đội, công an vũ trang,
công an... và dân quân tự vệ trong vùng phải bám sát ngay và cấp tốc chuẩn bị lực lượng, phòng
biệt kích gián điệp nhảy xuống. Trên đã ra lệnh cho chốt chặn tất cả các đường biên giới, tất cả
các đường giao thông lớn, nhỏ từ tỉnh này qua các tỉnh bạn. Trên sẽ chi viện...

Nhưng chưa hết: sau đó vào hồi 03 giờ 48 phút, lại có một dân quân phi ngựa như bay từ
bản Huổi Si của người Mông xuống. Chạm cổng đồn anh ta mới ghì cương. Con ngựa còn đang
hăng chồm dựng đứng, múa hai chân trước lên hí vang lừng, còn anh thì hét: “Tàu bay! Có tàu bay
địch! Trên núi cao, nhìn thấy rất rõ nó bay qua. Nó chớp đèn, chớp đèn!”. Đó là A Nàm anh đội
trưởng dân quân dũng mãnh và sôi nổi trên vùng cao của Mường Sang mà ta đã biết...

Như vậy là cả đồn đã thức dậy và bắt tay ngay vào các việc tổ chức lực lượng để sẵn sàng
xuất kích vây bắt địch ngay từ hai giờ sáng. Đồn trưởng Mão, đã lớn tuổi, lại ốm yếu luôn, sắp
nghỉ mất sức, đang rên rẩm trên giường cũng đã phải tung chăn trỗi dậy cùng với Nết bàn bạc mọi
việc.

Sự có mặt của Mẩu Tu đã khẳng định khá rõ: Biệt kích đã nhảy xuống vùng cao điểm 818
và 796. Hai điểm này ở kế liền, chỉ cách nhau một con suối chảy ra con sông nhỏ. Đó là sông
Choóc chảy về hướng tây rồi đổ ra sông Đà. Thế là không còn hồ nghi gì nữa! Phải bắt tay vào
hành động ngay! Nhưng quả thật, cả Mão, cả Nết cũng không khỏi có chút hồi hộp, bối rối, vì đây
là lần đầu có chuyện này. Trước đây dẫu sao cũng chỉ là diễn tập. Thế mới biết: vào việc thực sự
vẫn có biết bao cái rất khác, rất mới, chưa hề có kinh nghiệm cụ thể, nên khó tránh khỏi bỡ ngỡ và
ít nhiều lúng túng. Không ai nói mạnh được! Không biết trên khu, trên Bộ có thế không.

Nết chạy như cờ lông công thu xếp mọi việc để có thể xuất quân sớm. Sự phân công giữa
anh và Mão, cũng như kế hoạch huy động lực lượng đã được hai người thống nhất ý kiến hoàn
toàn: Nết sẽ trực tiếp chỉ huy trung đội cơ động của đồn, huy động thêm một trung đội dân quân
của mấy bản người Dao và người Thái ở đó. Như vậy, lực lượng tổng cộng lại có thể coi là một
đại đội có vũ trang đầy đủ. Còn sau đó tỉnh và khu, thậm chí trên Bộ có kịp điều thêm quân tới chi
viện như thế nào, sẽ tính sau, không thể chờ đợi. Phải đánh ngay bằng lực lượng tại chỗ, quyết
không cho địch kịp trở tay! Mão do sức khoẻ kém, ở lại đồn có trách nhiệm đôn đốc công tác hậu
cần và giữ chặt liên lạc với trên, từ tỉnh tới khu và trên Bộ...

Sau khi hỏi lại cặn kẽ, biết chắc anh em đã đưa Mẩu Tu tới trạm xá để cấp cứu chu đáo,
Nết chào đồn trưởng Mão rồi hạ lệnh hành quân, cổng đồn mở toang. Trung đội cơ động của đồn
toàn lính trẻ măng, vừa Kinh vừa Thái, vừa Mông, Xá, Dao... nai nịt hết sức gọn gàng, vũ khí đầy
đủ (chỉ tiếc không có chó nghiệp vụ như trên khu và trên Bộ) cùng rầm rập tiến ra, khí thế vô cùng
hăm hở. Vừa tới ngã ba con đường đất chạy dọc thung lũng, Nết đã thấy trung đội dân quân Mường
Sang chờ ở đó rồi. Phó chủ tịch kiêm xã đội phó Én hôm nay không mặc hoàn toàn theo y phục
dân tộc mà thay chiếc váy lụa đen tha thướt mọi khi bằng một chiếc quần ka ki gọn gàng màu cỏ
úa. Trong hàng ngũ dân quân cũng có cả Keng, anh chàng xấu trai nhưng lắm tài vẫn đang tiếp tục
say đắm Én, nhưng chưa bao giờ được đáp lại.

Hai bên, công an vũ trang và dân quân cùng rộn rã, vui vẻ chào hỏi, rồi sáp nhập lại thành một
đoàn đặt dưới sự chỉ huy chung của Nết. Trung đội trưởng trung đội cơ động của đồn, thiếu uý
Rạng, người Xá có hỗn danh “Hũ chìm” vì uống rượu như uống nước lã, cùng với Én được Nết
chỉ định vừa trực tiếp chỉ huy trung đội của mình vừa làm phó cho anh ở phân đội hỗn hợp.

Cả phân đội bắt đầu rầm rập chạy. Băng rừng. Vượt đèo. Qua suối... Chỉ sau hơn hai giờ
đồng hồ đã trông thấy bản Nà Lang với mươi nóc nhà lèo tèo, rụm rọ ở một bìa rừng, cạnh một
dòng suối nhỏ. Trước bản, một số cán bộ thôn bản đang đứng trao đổi ý kiến và chờ đón lực lượng
của trên tới. Vừa hôm thấy bóng “quân ta”, mấy cán bộ thôn bản mừng quýnh, reo lên, ôm chầm
lấy Nết và các chiến sĩ. Cùng vừa lúc ấy, ba bốn tiếng súng nổ vang ở xa, trên sườn cao điểm 818,
quả núi có hình quả bầu, nên có tên gọi là núi Quả Bầu. Rồi liên tiếp mấy phát nữa. Tiếng nổ dội
vang vọng, lăn rền từ sườn núi này qua sườn núi nọ.

Ông Lềnh trình bày rất nhanh cho bọn Nết, Én, Rạng biết: trong khi Mẩu Tu chạy về đồn
báo, ông đã cho hai tổ dân quân sục ngay lên núi Quả Bầu. Địch đông thì bám sát, chờ đấy. Địch
ít thì cứ đánh.

“Tiêu diệt hết! Tiêu diệt hết!”, ông trưởng bản cứ hăng hái nhấn đi nhấn lại mãi ý ấy. Nết phải vội
đỡ lời ông:

- Không! Bố ơi, với gián điệp biệt kích không phải diệt mà bắt sống. Vâng, phải bắt sống
để còn khai thác nhiều việc. Tiêu diệt gián điệp biệt kích có nghĩa là: gọi hàng, và bắt sống. Không
phải giết chết bố ạ, trừ phi chúng ngoan cố chống cự đến cùng!

Ông Lềnh ngẩn ra:

- Vậy sao trên không dạy cho từ trước!

Nết cười:

- Quả thật cũng chưa có kinh nghiệm. Bố thông cảm. Những chuyện này còn mới mẻ quá.
Tháng trước con về tỉnh họp được nghe nói: trên Bộ cũng mới bàn về vấn đề này.
Và không còn thì giờ để nói nhiều nữa, anh cùng Én, Rạng và ông Lềnh bàn ngay kế hoạch và việc
triển khai lực lượng vây bắt. Có khác với ông Lềnh một chút, Nết nhận định: tiếng súng ấy chưa
hẳn là đã gặp địch. Có thể anh em ta thấy có hiện tượng đáng nghi nào đó nên bắn uy hiếp. Nhưng
bắn thế này vừa có lợi vừa có hại: lợi là báo được cho ta là đã thấy dấu vết địch, nhưng hại là cũng
đồng thời báo cho địch biết là chúng đang bị truy đuổi, có thể làm cho chúng càng cảnh giác, càng
chuồn mau, hoặc ẩn kỹ...

- Phải! Phải! - Ông Lềnh gật lấy gật để.

Không thể chuyện trò gì khác được nữa. Phải xốc lại ngay các lực lượng để kịp thời hành
động. Trọng điểm là núi Quả Bầu. Hai tiểu đội công an vũ trang cộng hai tiểu đội dân quân của Én
phụ trách hướng này, chia ra làm ba mũi nhanh chóng tiến lên bắt liên lạc với anh em dân quân
trên đó, tiếp sức cùng lùng sục, đánh bắt địch. Mũi này do trung đội trưởng Rạng chỉ huy, có Én
đi cùng. Hướng thứ yếu là ngọn 796 có tên núi Khỉ, tiểu đội công an vũ trang còn lại và một tiểu
đội dân quân của Én được giao nhiệm vụ tiến lên đấy. Tiểu đội trưởng Mờng của công an vũ trang
chỉ huy chung mũi này. Còn tất cả nam nữ dân quân của các bản lân cận kéo đến được tổ chức
thành một vòng vây rộng đón lõng vòng ngoài, phòng địch tháo xuống chân núi, toả vào các thôn
bản. Ban chỉ huy thống nhất tạm thời là Nết và ông Lềnh - Bí thư chi bộ xã. Sở chỉ huy tạm thời
đặt trên con đường hươu chạy cắt ngang lưng chừng núi Quả Bầu...

Mọi việc tổ chức lực lượng và phổ biến kế hoạch được thực hiện rất nhanh chóng. Tình
hình quá khẩn cấp, không thể nào tỉ mỉ được. Cũng chẳng hề có bản đồ chi tiết khu vực hẻo lánh
này, Nết và cả ông Lềnh phải ngồi thụp xuống, dùng que vạch hết sức khái lược lên mặt đất để
hướng dẫn cho các tiểu đội trưởng và chỉ huy các mũi...

- Tiến! tiến lên! - Khi mọi việc phổ biến kế hoạch và tổ chức lực lượng coi như tạm xong,
ông Lềnh, con người còm nhom ấy lập tức hăng hái đứng dậy, vung cây súng kíp, hét to, y như
một vị tướng bắt đầu xung trận. Rồi còng còng cái lưng, ông xăm xăm đi trước, trực tiếp dẫn
đường. Tiếng súng kíp lại lác đác nổ. Lòng mọi người càng như sôi lên. Không biết anh em trên
đó đã gặp địch, hay vẫn còn đang sục sạo và bắn thăm dò, bắn đe nẹt, thậm chí bắn để tự giữ vững
tinh thần?

Có lẽ chưa có cuộc săn và càn rừng nào lớn như thế này. Có tới hàng trăm tay súng, từ
súng trận tới các loại hoả mai, súng kíp. Rồi sẽ còn đông gấp bội nữa khi quân cơ động từ Bộ, từ
Khu, từ tỉnh kéo lên…

Lệnh cấm không được ồn ào, la hét. Cả hai cánh quân hỗn hợp cùng triển khai, mỗi cánh nhằm
một cao điểm, khá mau lẹ. Cánh nào cũng chia làm ba mũi ở ba hướng, một hướng chính và hai
hướng phụ bọc hai bên, hình thành thế bao vây.

Hướng chủ yếu do Rạng “hũ chìm” chỉ huy, bỏ các lối hươu chạy, cắt một đường gần như
thẳng băng từ dưới lên đỉnh cho nhanh.

Đạp rừng, leo trèo một hồi, ngẩng lên đã thấy thấp thoáng qua tầng lá rậm những mảng trời
sáng trắng. Và ngửi thấy cả mùi thuốc súng. Trung đội trưởng “hũ chìm” bèn ra lệnh không được
cắt lá, chém cây nữa mà phải bí mật luồn lách qua tất cả các bụi rậm, chui qua, đu qua các cành
cây lớn nhỏ hoặc gai góc, cản ngăn mà tiến lên. Rạng không khỏi hồi hộp và vui sướng. Chắc chắn,
bọn anh đã tìm tới đúng chỗ bọn địch đang ẩn náu hoặc tập trung để sẵn sàng hành động. Niềm
vui cũng như nỗi hồi hộp của anh vụt tăng vọt khi chợt nghe có tiếng người nói và cả tiếng cười.
Ồ, chúng mày còn cười được nữa cơ à? Rạng bèn phất tay ra hiệu cho mấy tổ dân quân vòng rộng
ra hai bên và nhanh chóng bọc lại. Riêng tiểu đội trưởng công an vũ trang Quách Nhung nắm tiểu
đội của mình (thiếu một tổ đi với cánh của Én) tấn công thẳng vào khu vực rậm rạp phía trước, nơi
vừa phát ra những tiếng người... Rút khẩu súng sáu, Rạng tiến lên cùng với Quách Nhung. Vừa
lúc ấy anh nom khá rõ mấy chỏm đầu người lố nhố sau những đám cây rậm. Rạng, đã được Nết
dặn rồi, không bắn ngay. Anh nép mình sau một thân cây sần sùi, bắc loa tay cất tiếng hô to:

- Hỡi lũ biệt kích! Bốn bề đã bị bao vây chặt! Hãy buông súng đầu hàng! Chống cự sẽ bị
tiêu diệt!

Rạng vừa dứt lời, chưa thấy có tiếng đáp lại, thì roạt một cái, từ những đám lau sậy và cây
dại phía trước, ba người mặc áo quần địa phương chạy ồ ra, miệng cười nhăn nhở. Rạng và tất cả
anh em công an vũ trang còn đang trố mắt tròn xoe ngạc nhiên, thì đã nghe thấy bên cánh trái của
dân quân có tiếng la to:

- Ơ, bọn thằng Pheo, thằng Khắc, thằng Đông!

Rạng và cả bọn Quách Nhung đứng ngẩn. Thì ra đây là một trong mấy tổ dân quân Nà
Lang do ông Lềnh phái đi lùng và bám giặc từ lúc mới quá nửa đêm. Rạng vừa buồn cười vừa bực,
quát to:

- Vậy làm gì mà rúc rích cả ở đấy, không tiếp tục đi truy lùng, hả?

Một anh dân quân vui vẻ, hồn nhiên:

- Ô, bao nhiêu là đồ! Có một cái thùng to, chúng nó ném xuống, bị vỡ. Thu xong, chúng
em sẽ truy tìm mà.

Không nói không rằng, Rạng vẫy tay cho bọn Quách Nhung cùng tiến lên vượt qua bãi
rậm. Quả nhiên, dưới mấy gốc cây to cùng những tảng đá lớn là một đống toàn đồ điện tử. Rạng
sà xuống, nhặt bê từng cái lên coi. Hồi đầu năm đã được lên tỉnh tập huấn về việc này, Rạng nhận
ra ngay hai bộ máy thu phát tín hiệu mới tinh của Mỹ cùng rất nhiều phụ tùng, ăng ten, dây nhợ
và còn nhiều máy điện gì nữa, lạ hoắc, mà anh chưa một lần được thấy hoặc nghe nói tới. Rất may
hai bộ máy thu phát còn nguyên vẹn. Nhưng bên cạnh đó còn thấy lăn lóc hai thanh gì bèn bẹt dài
dài, bọc vải nhựa rất chắc. Lại nhặt lên, Rạng ngạc nhiên thấy cái nào cũng nham nhở như bị răng
cắn. Anh quay lại hỏi anh dân quân:

- Sao có vết răng? Các cậu cắn hả?

Cả ba anh dân quân cùng cười:

- Chúng em cắn thử nhưng không được. Suýt gãy cả răng. Bánh gì của thằng Mỹ mà rắn đến thế!
Rạng trợn tròn hai con mắt ốc nhồi:

- Chết cha! Các cậu không biết đây là hai cục pin dự trữ dùng cho đài thu hả?

- Ô, chúng em cứ tưởng lương khô, hoặc bánh kẹo. Đang đói quá, suốt từ nửa đêm tới giờ
chưa có gì vào bụng mà!

Mọi người được một mẻ cười rụng rốn. Nhưng Rạng bỗng trân trân ngó xuống cạnh đó: có
mấy chai rượu Tây nằm lăn lóc. Chai vỡ, chai còn. Thế là mặt rạng rỡ, Rạng nhao ngay tới chụp
luôn một chai còn nguyên, giơ cao lên cười hơ hơ cực kỳ khoan khoái:

- Tụi bay ngốc! Cái này mới dùng được! Ha! Ha! Hay quá! khá khen thằng Mỹ nào đóng
thùng, còn tâm lý nhét thêm mấy chai sum sum này.

Mấy anh dân quân lại tiếp tục tranh nhau cắt dây điện cuộn lại từng búi và đập cả dàn ăngten để
lấy nhôm về làm muỗng canh hoặc các thứ gia dụng khác. Trong lúc cảnh tượng đang nhốn nháo
ấy, đồn phó Nết bỗng xuất hiện. Anh hét to:

- Cái gì thế này? Dừng cả lại!

Mọi người cùng quay lại, ngơ ngác. Nết đỏ mặt, tiếp tục quát:

- Ai cho các anh phá và lấy những thứ này?

Một anh dân quân lại hồn nhiên:

- Bố em đi bộ đội đánh Pháp trước đây bảo mỗi khi đánh đồn xong là được thu chiến lợi
phẩm mà, cán bộ!

- Chiến lợi phẩm cái gì! Đây không phải chiến lợi phẩm! Tất cả mọi thứ của gián điệp biệt
kích đều là tang vật. Phải thu hết về để cấp trên còn nghiên cứu và còn đưa ra toà làm chứng cớ
xét tội bọn chúng chứ! Trên Bộ bảo thế!

Thế là ngẩn cả ra. Mấy anh dân quân tiu nghỉu ném xuống tất cả những gì vừa phá và thu
được. Riêng Rạng, anh phớt lờ, coi như không hề có chuyện chai rượu, bụng thầm nghĩ: tang vật
là cái quái gì kia chứ! Mà đáng gì cái chai sum sum vớ vẩn này. Nộp lên trên, tang vật chả thấy
đâu, khéo các bố lại đem ra liên hoan với nhau hết cũng nên!

- Đồng chí Rạng: Cử một tổ canh giữ các tang vật. Còn lại tiếp tục tiến lên truy lùng mau!
- Nết ra lệnh.

Thế là Rạng lại khoát tay cho cả dân quân và công an vũ trang cùng tiếp tục tiến lên phía
trước.

Một lúc sau, anh em bỗng thấy có những vạt tranh vàng rực, loá to bản nhọn sắc như cả
một rừng gươm tua tủa. Rạng hồi hộp cho dừng lại, triển khai đội hình chiến đấu. Anh biết: những
bãi tranh thường là nơi địch thả người thả hàng. Một tổ công an vũ trang do tiểu đội trưởng Quách
Nhung trực tiếp đi cùng được lệnh hết sức mau lẹ và bí mật tiến vào các bãi tranh lục soát. Nết vẫn
đi cùng với Rạng ở mũi trọng điểm này. Một lúc sau, tổ sục sạo trở lại. Phò phạc, mặt mày anh
nào cũng bị cỏ tranh cứa ngang cứa dọc, rớm máu. Anh em báo cáo: chỉ thấy nhiều chỗ tranh đã
nhàu nát, có một số vết chân người, nhưng chỉ có một đoạn ngắn rồi mất. Chắc chắn bọn địch đã
xoá hết dấu vết. Bây giờ không biết chúng chạy đi đâu...

Nết hết sức căng thẳng. Vừa mừng vì phát hiện được dấu vết địch, niềm vui đã sớm mất
tiêu luôn. Tụi chúng còn trốn quanh quẩn đâu đây, hay đã chạy theo hướng tây ra phía sông Đà?
Hoặc đã luồn sang hướng đông bắc, để ra đường 13, vượt sang khu sơn hệ thuộc huyện trên? Vẫy
cả Quách Nhung lại cùng trao đổi ý kiến, nhưng Nết vẫn chưa thể xác định được hướng truy bắt.
Mặt trời đã chói chang. Đồng hồ chỉ 13 giờ 25 phút.

* *

Trong khi ấy ở cánh trái, sườn đông nam nơi vừa đất vừa đá, có nhiều tảng lớn hoặc những
vầng đá rất lớn xen nhau, tổ công an vũ trang của tiểu đội Quách Nhung phái sang cho Én do tổ
trưởng Bùi Văn Phú phụ trách vẫn đang tiếp tục sục sạo cùng tiểu đội dân quân của Keng. Én, cô
gái chỉ huy mọi khi coi mảnh dẻ vậy mà hôm nay tỏ ra dẻo dai không hề thua kém bất cứ nam
thanh niên nào, kể cả lính công an vũ trang. Bùi Văn Phú phải thầm phục, mặc dầu anh là một
thanh niên tuy gầy gò nhưng cũng rất nhanh và bền sức. Phú là người Kinh, quê tận Thái Bình.
Nhà nghèo đói, cha mẹ anh phải lên vùng này vỡ đất, làm nương kiếm sống từ lâu.

Đang dẫn đầu cả tổ vạch lối tiến lên, Phú bỗng nhìn thấy phía tay phải, gần một gốc cây và
một tảng đá lớn có những đám cây dại lúp xúp mọc quanh, nhiều đám lá như bị lật ngược cả lại,
nom khá khác lạ. Anh dừng lại hội ý với Én. Vốn là người sinh ra và lớn lên từ rừng sâu núi thẳm,
đã có biết bao kinh nghiệm và cả những linh giác đặc biệt của người miền núi, Én nhận ra ngay:
có sự bất thường. Cô ra hiệu tuyệt đối im lặng và yêu cầu Phú cho ngay một chiến sĩ công an vũ
trang tiến lên thám sát. Một gương mặt trẻ măng đẫm mồ hôi với hai con mắt bừng bừng vụt lao
lên. Chỉ trong khoảnh khắc sau, anh lính trẻ quay lại:

- Báo cáo, không có người, nhưng còn nhiều dấu vết lạ: có một số hòn đất đỏ như mới đào
nằm lẫn trong cỏ, mà cỏ lại có chỗ như mới trồng...

Không cần suy nghĩ gì thêm, Phú ra lệnh ngay:

- Tiến lên! Lục soát!

Thế là chỉ trong khoảnh khắc, trừ một tổ dân quân vẫn phải cảnh giác bố trí bảo vệ ở phía
ngoài, còn tất cả chạy tới quanh gốc cây, vạch các đám lá cây lúp xúp, quan sát. Phú bỗng quay
lại, nói với Én, giọng anh không khỏi hồi hộp:

- Chị ạ, có thể có vật chôn giấu dưới này.


Én cũng thấy những hiện tượng lạ và cũng có sự nghi hoặc y như vậy. Lập tức, Phú hô anh
em lấy xẻng ra đào.

Chỉ mấy phút sau một cái hố dài không sâu lắm lộ ra cùng một xác người bọc trong một
chiếc dù xám. Mở ra: chiếc đầu lâu đã vỡ, mặt mày tử thi đã nát hết, máu đã tím đen... Theo phản
xạ bản năng, mọi người cùng lùi cả lại. Riêng Phú và Én gắng bình tĩnh cùng ngồi xuống, lật tử
thi lên xem xét kỹ thêm: đúng là một tên biệt kích, không những đầu nó đã vỡ nát mà một tay cùng
cả hai chân đều đã gãy, chiếc áo 16 túi rách như có ai xé toang làm nhiều mảnh còn mắc trên cái
thân hình mà xương cốt đã gãy vụn. Chiếc áo đẫm máu. Nhưng không thấy có giấy tờ gì, vũ khí
cũng bị đồng bọn lấy hết đem đi.

Đứng dậy, Én và Phú lại trao đổi ý kiến và cùng đi tới quyết định rất nhanh: cho đắp điếm lại tử tế
kẻ đột nhập, theo truyền thống từ tâm, quảng đức của người Việt Nam ta đã có từ ngàn đời nay.
Rồi tiếp tục tiến. Chắc chắn kẻ địch không xa đây.

Việc phát hiện tử thi của một tên biệt kích dường như đã có một sự kích thích mới cho cả
phân đội, nên dù đang đói mọi người vẫn hăng hái hẳn lên, bắt tay ngay vào việc chôn cất, đắp
điếm cho tên biệt kích thành hẳn một nấm mồ hẳn hoi, đoạn tiếp tục cuộc truy bắt. Vừa đi được
một quãng, một anh dân quân chợt reo lên:

- Ô thuốc lá! Thuốc lá!

Phú và Én cùng dừng lại. Đúng là mấy mảnh vỏ bao thuốc lá Mỹ. Có lẽ sau khi chôn vội
đồng đội, tới lúc này tinh thần bị quá sốc, lũ biệt kích đã quên không chú ý tới việc xoá dấu vết
cẩn thận được như trước nữa.

Tiến lên một quãng, lại thấy cả giấy kẹo xanh đỏ. Và cứ thế mọi người cùng hướng theo
dấu vết của bọn địch, tụt dần xuống phía yên ngựa nơi tiếp giáp của hai ngọn Quả Bầu và núi Khỉ.
Khoảng một giờ sau, tất cả đã ra tới cửa rừng. Một dòng suối tuy không sâu nhưng khá rộng hiện
ra trong một khoảng trống còn đang rực nắng chiều. Bên kia suối, cách một bãi rộng toàn sỏi đá
có điểm những nhóm cây dại lè tè, là những ngọn núi đá vôi chạy dài, khá cao, với nhiều đoạn
vách dựng đứng như thành. Nhìn kỹ thấy trên một vách núi đá xám mốc với khá nhiều cây dại mọc
xoà xuống, có một miệng hang hé lộ ra sau những hòn đá rất lớn chồng chất, ngổn ngang, như có
cả một bầy voi lớn đang từ trong cửa hang ấy tràn ra, xuống suối tắm.

Cũng đúng lúc vừa phát hiện cửa hang ấy, Phú thoáng nhìn thấy hình như có bóng người.
Én cũng đồng ý là có thể có địch. Nỗi hồi hộp càng tăng lên. Nhưng phải đánh bắt ra sao đây? Hai
người còn đang bàn, thì Nết lại đột ngột từ mũi của Rạng, cắt rừng đi tới.

Đã gần mệt lử, mặt mũi hốc hác, nhưng thần sắc Nết vẫn còn khá tinh nhanh, nhất là nụ
cười vẫn còn khá tươi, nụ cười mà Én từ lâu đã thầm mơ tưởng... Gặp lại Én, Nết cũng ngạc nhiên,
trong vẻ mệt nhọc, áo quần xộc xệch, cô lại có một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp chiến đấu và lao động, rất
hay. Nhưng hai người không thể trò chuyện gì khác ngoài công việc tác chiến hết sức cấp bách lúc
này. Anh không đủ dù chỉ một phút để nói cho Én và mọi người biết rằng: khi mũi của Rạng mất
dấu vết địch, trở nên rất lúng túng, anh vô cùng sốt ruột, rồi cũng kịp nhận ra: có nhiều khả năng
địch không trốn theo hướng cũ nữa. Bởi vậy, anh đã quyết định cắt rừng chạy qua hướng này để
xem tình hình thế nào.Thì may quá, vừa đúng lúc... Một kế hoạch được nhanh chóng vạch ra: Én
phụ trách một bộ phận dân quân có hai chiến sĩ công an vũ trang làm nòng cốt vẫn bí mật ém ở
cửa rừng này để kiềm chế và sẵn sàng tấn công địch ở chính diện. Còn Phú sẽ cùng một chiến sĩ
công an vũ trang tìm đường vòng trái, bí mật tiếp cận cửa hang, quan sát địch xem thực hư ra sao.
Cùng lúc, Keng cũng nắm một tổ gồm ba dân quân khoẻ và giỏi, vòng bên phải, có nhiệm vụ y
như Phú. Ai thấy địch thì cầm khăn tay vẫy ra hiệu cho toàn thể ba mũi biết. Ở chính diện, Nết sẽ
lập tức cho kêu gọi địch đầu hàng. Nếu chúng ngoan cố đánh trả đến cùng, thì cả ba mũi sẽ nhanh
chóng cùng tấn công. Cố gắng bắt sống bằng hết.

Vượt qua được con suối khá rộng ở quãng trống quả là vô cùng khó khăn. Không cẩn thận,
bọn địch (nếu có trong hang) sẽ tỉa ra không còn sót một người. Bởi vậy Phú đã cùng anh chiến sĩ
phải vòng ra khá xa, tìm chỗ có nhiều bụi cây, nhiều đá tảng lổng chổng giữa dòng, rồi nhanh
chóng vượt sang từng người một. Vượt được suối an toàn rồi, Phú vẫy anh chiến sĩ cùng chạy rất
nhanh tới chân núi. Tới gần mới thấy quá dốc, quá hiểm trở. Không chậm trễ, Phú bám các rễ cây
mọc ở vách đá, nghiến răng leo lên, tiếp cận cửa hang. Anh chiến sĩ đi cùng, theo gương Phú cũng
cố lên dần từng nấc... Cả hai anh em đã thực hiện được gần như đủ mọi động tác đu dây, đi thăng
bằng và cả bay người qua các tảng đá lớn tựa như những nghệ sĩ xiếc vẫn làm trong các rạp... Cuối
cùng khi hai mắt đã hoa lên, Phú cũng bắt đầu nhòm xuống thấy được cửa hang. Mừng quá, mắt
tự nhiên lại hết nảy đom đóm, Phú nhìn thấy rõ hơn một dẻo đất lẫn đá khá bằng phẳng ngay trước
cửa hang. Phía trước dẻo đất đá ấy có một tảng đá lớn như một bức tường thiên nhiên vừa che đỡ
vừa che khuất rất tuyệt vời. Có thể chỉ cần một tay súng giỏi và gan dạ bố trí ở đó cũng có thể
chống lại cả một tiểu đoàn với vũ khí nhẹ, tấn công chính diện vào hang... Và còn mừng hơn nữa,
Phú nom thấy hai tên biệt kích mặc đồ đen chạy ra chạy vào, hình như là hai tên canh gác. Nơi
bọn Phú đang bám đá, giấu mình rất gần và cao hơn cửa hang. Phú tính: chỉ cần can đảm không
sợ gãy chân, buông mình nhảy xuống là có thể trúng ngay dẻo đất khá bằng phẳng một cách bất
ngờ...

Về phía Keng, anh em dân quân cũng đã phải thực hiện tất cả những gì mà tổ của Phú đã
thực hiện. Nhưng còn khó hơn: có ba thì hai dân quân bị trẹo chân và kiệt sức phải nằm lại dưới
chân núi, giấu mình trong các bụi cây. Chỉ còn Keng và một anh bí mật bám đá lên được tới gần
cửa hang. Nơi đây, tuy có thể mở rộng tầm quan sát và dễ phát huy hoả lực nhưng lại xa cửa hang
hơn bên Phú nhiều, nhất là địa điểm quá hiểm. Muốn sang chỗ Phú phải vòng xuống đi ngang qua
cửa hang với tảng đá khổng lồ án ngữ kia. Nhưng dẫu sao lên được tới đây, nhất là phát hiện được
địch, là sướng quá rồi. Keng rút khăn trong túi ra vẫy liền. Cũng may, lúc đó hai tên biệt kích lại
chui vào hang làm gì đó, nên không biết.

Ở bên kia suối, phía chính diện, Én và Nết mừng quá. Lệnh kêu gọi được phát ra tức khắc.
Một anh dân quân biết đủ cả mấy thứ tiếng: Thái, Mường, Mông được hướng dẫn sẵn, bắt đầu bắc
loa tay lên dõng dạc:

- Bọn biệt kích hãy nghe đây: bốn bề đã bị bao vây chặt! Hãy mau mau ra hàng sẽ được
tha tội chết! Chống cự sẽ bị tiêu diệt! Hãy ra hàng đi!

Từ trên cao, ở hai bên cửa hang, cả Phú, cả Keng đều thấy hai tên biệt kích vụt chạy ra.
Chúng có vẻ hốt hoảng. Nhưng rồi chúng lại chui tụt vào hang.
Ở bên kia suối, Nết và Én tuy không quan sát thấy rõ địch, nhưng đã có tín hiệu của Keng
báo, hai người tiếp tục cho kêu gọi:

- Hãy ra hàng mau! Hàng thì sống, chống thì chết!... Tiếng kêu gọi tiếp tục cất lên liên tục
và mỗi lúc một thúc bách hơn. Hai tên biệt kích lại thì thụt xuất hiện. Nhưng chúng vẫn không bắn
ra, mà chỉ quan sát rồi ghé đầu lại với nhau như nói những gì đó.

Phú chăm chú quan sát bên kia suối xem đã có hiệu lệnh tấn công chưa, và quan sát cả ở
cửa hang xem bọn địch có phản ứng gì khác lạ. Chợt anh thấy hai tên biệt kích lại chạy ra, nhòm
ngó nhiều lần cả hai bên cửa hang. Chúng có ý định bí mật tẩu thoát ư? Ý nghĩ ấy càng rõ hơn khi
Phú thấy tên gầy gầy, cao cao từ trong hang khom mình dè dặt tiến ra, nhìn trước nhìn sau, rồi len
lén bước quá ra khỏi dẻo đất đá ở cửa hang, nhằm một khe núi rất nhỏ chỉ một người lách mình đi
lọt. Từ chỗ này chúng rất có thể thoát về phía sau để chạy lên đỉnh núi. Đến giây phút này, Phú
quả quyết: hẳn là chúng muốn chuồn rồi!... Nhưng làm thế nào bây giờ?

Không có cách gì liên lạc, báo cáo về bên kia với Én và Nết để xin chỉ thị. Cũng chẳng làm
sao hội ý để hiệp đồng với Keng ở bên kia cửa hang. Còn đang vắt óc ra, Phú đã thấy tên cao cao
lại dè dặt bước ra dẻo đất nơi cửa hang. Một phản ứng rất nhanh chợt loé sáng, Phú dùng tay ra
hiệu cho anh chiến sĩ đang bám đá ép mình bên cạnh... Anh chiến sĩ khá thông minh, gật đầu liền
mấy cái. Anh ta hiểu Phú báo là: chỉ có hai tên. Không cần bắn, hai anh em có thể cùng nhảy xuống
bắt sống... Đúng lúc đó tên địch cao cao lò dò ra giữa bãi đất đá trước cửa hang, sau tảng đá khổng
lồ. Lập tức Phú vẫy tay một cái ra hiệu...

Buông mình từ trên cao, anh chiến sĩ ta nhảy bổ xuống, chụp đúng giữa cổ tên biệt kích, y
như một con báo nhảy xuống chụp đúng cổ con mồi... Nó chỉ kịp ối một tiếng đã tắc nghẹn và bị
quật ngã sấp. Hai tay bị kéo giật ngay ra sau lưng. Bằng một động tác cực kỳ nhanh và mãnh liệt
anh chiến sĩ chồm lên đè hẳn lên lưng và khoá chặt lấy hai tay nó. Nhưng tiếc thay anh quên không
mang bất cứ một đoạn dây nào trong người, còng số 8 lại càng không. Anh đành phải một tay khoá
chặt tên biệt kích, tay kia với lấy cây tiểu liên sẵn sàng nhả đạn nếu tên kia trong hang xông ra.

Không phải chờ đợi. Nó đã ra. Nó giương súng rất nhanh về phía anh chiến sĩ. Nhưng còn
nhanh hơn, Phú từ trên cao cũng buông mình xuống gần như cưỡi lên lưng nó. Cây súng của nó
văng ra xa. Phú đè sấp nó xuống. Anh cũng toan bẻ quặt tay nó khóa lại như anh chiến sĩ vừa thực
hiện. Nhưng tên thứ hai khá to con. Mặt to, tròn, ngăm ngăm đen, không những rất khỏe và có cả
võ thuật, nó nghiến hàm răng to trắng nhởn như răng ngựa, gồng mình lên dùng một thế Judo lật
úp Phú xuống. Phú võ thuật cũng khá, nhưng nhỏ con, và đã quá mệt mỏi. Anh không chống lại
được thế quật của kẻ thù. Nhưng rồi nghiến răng lại, anh cố ra một đòn hiểm của võ Việt Nam lật
ngược được thế trận... Thế là cuộc vật lộn diễn ra cực kỳ quyết liệt. Anh chiến sĩ ta ở bên cạnh vẫn
cưỡi trên lưng tên biệt kích cao gầy, một tay đã nâng được khẩu AK lên, nhưng không dám xiết
cò để yểm trợ cho Phú vì hai bên lăn lộn thế kia, súng nổ thì chưa biết đạn sẽ dính vào ai?

...Tên biệt kích vạm vỡ bất ngờ rút được con dao găm Mỹ sáng loáng cài ở bao da cột nơi
bắp chân của nó. Lưỡi dao huơ lên sáng rợn... Anh chiến sĩ kinh hãi hét to: “Anh Phú, nó có dao!”.
Rất kịp thời và cực kỳ nhanh mắt, Phú gỡ được một tay ra vươn lên nắm chặt lấy cổ tay cầm dao
của kẻ địch. Nó trợn mắt, cố ấn lưỡi dao xuống. Phú dốc hết tàn lực để hất lên... Trong những giây
phút vô cùng nguy kịch ấy có lúc lưỡi dao đã gần chấm tới cổ họng Phú, nhưng rồi lại bị hất lên
và gần như bị bẻ ngược lại...

Ở phía bên kia hang, Keng đã nhìn thấy tất cả mọi chuyện diễn ra trước mắt. Nhưng không
cách gì cứu đồng chí của mình được. Keng như điên lên.

Anh chạy sang phải, rồi chạy sang trái. Bất giác, anh đưa phát súng lên vai nheo mắt ngắm.
Anh dân quân hoảng hồn la lên:

- Không! Không được bắn! Anh Keng! Lỡ bắn phải anh Phú thì sao? Nhưng, mặt đỏ rực, Keng
quát lớn:

- Cứ để nó cho tao!

Và liền ngay đó, cây súng kíp thần diệu của anh thợ săn thiện xạ nổ oàng một phát... Khói
toả ra. Phía nơi cửa hang, lưỡi dao găm Mỹ sáng loáng bay tung lên và tên biệt kích gào lên một
tiếng, buông rời hai tay, lăn ra...

Cũng vào thời điểm này, quân chi viện ở trên đã tới, gồm: một đại đội công an vũ trang cơ
động của tỉnh, một đại đội bộ đội của tỉnh đội và một trung đội công an vũ trang cơ động của
huyện. Trên Bộ và Khu cũng đã cấp tốc phái cán bộ xuống cùng một phân đội cơ động đặc biệt
tinh nhuệ. Nhưng vì quá xa, lực lượng này còn đang trên đường di chuyển.

Các cán bộ lãnh đạo địa phương cũng đã tới gồm ông Phó chủ tịch tỉnh đồng thời là Thường
vụ Tỉnh uỷ, ông Tỉnh đội trưởng, ông Trưởng ty công an và ông Thường vụ huyện uỷ kiêm Chỉ
huy trưởng công an vũ trang huyện. Tất cả đã bắt được liên lạc với ông Lềnh trên sườn 818. Theo
chỉ thị của Thường vụ Tỉnh ủy và Ủy ban hành chính tỉnh: chính thức thành lập Ban chỉ huy cuộc
truy bắt gián điệp biệt kích gồm những ông nói trên do ông Thường vụ Tỉnh ủy, Phó chủ tịch tỉnh
làm trưởng ban. Ông Lềnh cùng với Nết và Én vẫn trong Ban chỉ huy nhưng chỉ là một cánh nằm
trong đội hình chung.

Lực lượng mới tới đã nhanh chóng mở một vòng vây lớn rộng cả khu vực, đồng thời đưa
lên tiếp sức cho tuyến trước của Nết và Én hai trung đội mạnh với ba con chó nghiệp vụ.

Trong lúc quân mới tới đang triển khai và Ban chỉ huy mới đang gấp rút thiết lập mạng
giao thông, liên lạc với các cánh, thì trên gần yên ngựa, ngay bên bờ con suối lớn, cuộc hỏi cung
cấp tốc tại chỗ đã bắt đầu. Nết cần có gấp những thông tin về địch để tiếp tục hành động.

Tên gián điệp biệt kích bị thương đã được băng bó nằm đó. Tên thứ hai tay bị trói chặt ngồi
trên bãi cỏ, gần như quì trước mặt Nết và Én. Hai người mặt đằng đằng khí thế ngồi trên hai tảng
đá. Chung quanh là một tổ chiến sĩ công an vũ trang tay lăm lăm súng.

- Muốn sống, hãy khai rõ và phải hoàn toàn khai đúng mọi sự thật. Tên mày là gì? bao
nhiêu tuổi.

- Dạ, bẩm... bẩm... con là Hoàng Văn Lanh... con 27 tuổi ạ...
Khi tên gián điệp biệt kích mở miệng run rẩy đáp, Nết mới để ý thấy hai chiếc răng vàng
của nó.

- Dân tộc nào? Cấp bậc, chức vụ và nhiệm vụ của mày trong toán?

- Bẩm, con người Mường, cấp bậc chuẩn uý. Con là nhân viên tình báo và phá hoại ạ. Bí
số của con là G4 ạ.

- Còn thằng kia?

- Bẩm đó là thiếu úy Lò Văn Sính toán phó kiêm phụ tá mật mã an ninh.

- Thôi được, để nó đấy đã. Mày hãy tiếp tục trả lời: Toán của mày có bao nhiêu đứa nhảy
xuống đêm qua?

- Bẩm, sáu ạ.

- Sáu? Vậy còn bốn đứa kia đâu?

- Bẩm, một người, anh G6, dù không mở, chết, chôn rồi. Còn năm...

- Vậy những đứa kia đâu?

- Bẩm, Toán trưởng Gl, trung uý Cầm Diêu và thượng sĩ Tráng A Páo nhân viên mật mã
điện đài và thượng sĩ Lò Văn Chơm G5 nhân viên tình báo, phá hoại đi hướng khác ạ.

- Sao không cùng đi? Chúng nó đi hướng nào?

- Bẩm, xuống được bãi thả, thấy động sợ bị bao vây, tất cả đã phải vội vàng di chuyển về
địa điểm tập kết. Nhưng đi được một lúc thấy đông quá dễ lộ, toán trưởng cho lệnh chia làm hai
toán, đi làm hai đường, rồi cùng về địa điểm tập kết ạ.

- Vậy địa điểm tập kết ở đâu?

- Bẩm, các cố vấn Mỹ gọi địa điểm tập kết tức là nơi trung tâm ở Sài Gòn đã chỉ định từ trước trên
bản đồ. Trung tâm bảo đó là nơi kín đáo và an toàn, có thể ở lâu để bắt tay vào mọi công việc,
trách vụ của toán ạ... Còn nó ở đâu thì bẩm con... con chỉ được nói cho biết là cách bãi đáp khoảng
dưới 10 dặm đường chim bay, theo hướng tây.

- Mày phải nói rõ hơn: toạ độ nào?

- Bẩm con không được rõ ạ, con chỉ biết có thế thôi ạ.

- Mày nói láo! Mày định chỉ phun ra có thế, để rồi quanh co hả? Tội mày đáng chết, không
tha được! Chúng tao không có phí thời gian! Các tay súng đâu!
Các chiến sĩ ta đáp ran; Tên răng vàng G4 giãy nảy người lên rồi phủ phục xuống, lạy như
tế sao và ngay cả trong lúc hoảng hồn như thế này mồm miệng nó vẫn còn liến thoắng:

- Ôi, trăm ngàn lạy các ông, con đã khai thật, khai hết. Con xin các ông. Trăm ngàn lạy các
ông. Con không ngu dại gì mà giấu giếm cho họ, để mua lấy cái chết. Con quá biết tội của con rồi.
Con vô cùng hối hận. Con vô cùng sợ hãi. Con dập đầu xin các ông tha chết cho. Con biết tội con
rồi...

Nết không khỏi cười thầm. Thằng giặc này quả là lắm mồm miệng và khá “cáo”. Chưa lên
án, chưa vạch tội bọn nó, vậy mà nó đã nhận lấy nhận để. Anh quay lại ra lệnh:

- Các đồng chí hãy hỏi thằng kia xem sao. Toạ độ nơi tập kết của chúng nó phải tới là ở
đâu?

- Báo cáo thằng này đang còn mê man, một viên đạn ghém nhỏ vào sọ nó chưa lấy ra được.

- Vậy thằng G4, phải khai rõ! Mày đã nói là biết tội, vậy hãy khai thật, khai hết. Đấy chính
là mày tự cứu mày, chứ không có ai cứu mày được. Nếu không, chúng tao sẽ nổ súng và hất xác
mày xuống suối liền.

- Trời ơi, con đã thưa là con đã trình báo hết. Con trăm ngàn lạy các ông hãy thương con...

- Thôi được, mày hãy nhắc lại: thằng toán trưởng đi theo hướng nào, và cố nhớ nó có nói
gì thêm không?

- Dạ, bẩm, bẩm, vậy thì con có nhớ.Dạ có nhớ là: toán trưởng có bảo bọn cùng đi với toán trưởng
là phải vượt nhanh qua ngọn 796, để có thể xuống con sông gì đó con không nhớ rõ tên ạ. Rồi qua
sông, tới nam đường 13...

Nết đứng bật ngay dậy. Mừng còn hơn bắt được của, anh ra lệnh đưa tên tù binh lui ra chỗ
khác, cho nó suy nghĩ để khai báo thêm. Rồi anh nói nhanh với Én:

- Bây giờ thế này: cô ở lại đây cùng tiểu đội của Keng, với nửa tiểu đội của Quách Nhung
canh giữ tù binh, bắt liên lạc với phía sau, đồng thời cho cáng tên tù binh bị thương xuống núi cấp
cứu. Tiếp tục chốt chặn, lùng sục chỗ này. Còn tôi sẽ cùng nửa tiểu đội của Quách Nhung, tạt sang
kia lấy thêm quân của Rạng, chuyển qua núi Khỉ bắt liên lạc, tăng cường cho tiểu đội của Mờng
cùng tiểu đội dân quân ở bên đó, quyết truy tìm bằng được bọn còn lại, nhất là tên toán trưởng. Ít
ra là chúng ta cũng có phương hướng rồi! Tôi tin là thằng biệt kích nhát gan và hoàn toàn là một
tên ngụy mạt hạng này chẳng có tý nhân cách và lý tưởng gì hết, nó không dám khai láo.

Khỏi phải bàn bạc gì thêm, Én nhất trí ngay. Nhưng chiều đã muộn rồi. Rừng núi như tắm
trong hoàng hôn đỏ rực. Một ngày cực kỳ vất vả và căng thẳng đã qua đi. Lúc này quân các loại
từ dưới chân núi mới kéo đến đủ, đầy rừng, đầy núi. Hoàng hôn càng cháy đỏ. Cảnh tượng thật dữ
dội. Như một chiến trường đẫm máu và như cả một thế giới hồng hoang kỳ dị...

*
* *

- Trình trung úy toán trưởng, đã tới giờ lên phiên theo hẹn của trung tâm.

Cầm Diêu, lật tay áo xem đồng hồ: đã 07 giờ 30 sáng. Mặt trời ban mai từ trên cao dội toả
xuống, xuyên qua những tán lá thành muôn ngàn giẻ quạt lung linh bảy sắc cầu vồng. Y gật đầu,
ra lệnh:

- Dừng lại!

Tuy nhiên, nhiệm vụ phải nhắc vậy, nhưng trong bụng tên Tráng A Páo nhân viên báo vụ
và cơ yếu lại lo, không muốn thực hiện. Nó ngập ngừng:

- Nhưng… chỗ này... trình trung uý...

- Không sao!

- Trình trung uý, nhưng tụi nó vẫn đang đuổi gấp...

- Tao cho tụi nó lạc hướng hết rồi. Thôi lẹ lên. Lên máy mau!

Trong lúc tên G5 Lò Văn Chơm bắt đầu leo lên một cây cao để buộc ăng ten, và G3 Tráng
A Páo bắt đầu mở túi vải, lấy ra bộ điện đài cực kỳ tối tân và gọn nhẹ, Cầm Diêu tranh thủ ngồi
xuống đám cỏ rối, mồi một điếu thuốc, rít từng hơi dài. Đêm qua thật kinh hoàng, còn kinh hoàng
hơn cả đêm nhảy. Cả một ngày bị truy đuổi. Đối phương mỗi lúc một đông hơn. Họ vây bọc khắp
bốn bề. Tiếng súng chốc chốc lại vang lên xa gần. Gần xế chiều còn nghe xa xa có cả tiếng chó
sủa, Cầm Diêu nhận ra ngay tiếng chó Béc giê. Nhưng rụng tim nhất là hai lần đối phương đã lùng
sục tới gần ngay chỗ bọn chúng đang ẩn nấp. Nghe rõ cả tiếng người lao xao, cả tiếng Kinh, tiếng
Thái và tiếng Mường, tiếng Mông nữa. “Chúng nó chỉ ở quanh đây thôi”, “Quái bọn khốn kiếp
này đã lẩn đi đâu mất! Chẳng còn thấy dấu vết gì nữa!”... Nhiều lúc đã tưởng là tiêu rồi, chỉ còn
biết nắm chặt lấy cây súng, đợi giây phút cuối cùng sẽ tự cho một phát đạn vào đầu mình. Nhưng
rồi, thần linh phù hộ sao đó, những toán lùng sục lại bỏ đi, xa hơn, sang một hướng khác... Dẫu
sao thế là đã trải qua hai đêm và một ngày “địa ngục”, bây giờ toàn thân y ê ẩm, đầu óc như xơ
cứng và trống hoác cả ra. Ngửa cổ, y ném vào mồm gần như cả một nắm thuốc kích thích thần
kinh và tăng lực đặc biệt mà Mỹ đang dùng cho các nhà du hành vũ trụ chuẩn bị bay lên quỹ đạo
như bên Nga Xô...

Bất ngờ, từ những đám cây rậm phía sau vang lên tiếng thét:

- Tất cả giơ tay lên! Đứng im! Động đậy, chúng tao sẽ quét sạch!

Cầm Diêu tái người, y ngoái cổ lại đã thấy ba người mặc quân phục màu xanh, quân hàm
cũng xanh. Họ kẹp AK xông tới. Hai tên Tráng A Páo và Lò Văn Chơm chỉ kịp ú ớ mấy tiếng rồi
như hai cái máy giơ cao hai tay, từ từ run rẩy đứng lên. Ba người lính lập tức áp sát, để tước vũ
khí và bắt trói. Một người chạy tới trước mặt Cầm Diêu. Đó chính là một anh lính còn rất trẻ, má
như còn phủ một lớp lông tơ. Anh ta vừa áp tới, nhưng chưa kịp làm gì. Cầm Diêu hai tay còn
đang giơ cao, đã bất ngờ tung chân đá trúng hai tay cầm AK của người lính. Rồi như một ánh
chớp, nó lao người chạy biến ngay vào những đám cây rậm phía trước. Anh chiến sĩ trẻ chỉ còn
biết la lên một tiếng rồi chụp vội lấy cây súng dưới đất, đứng lên nổ theo mấy phát liền...

Nhưng Cầm Diêu đã biến mất. Cũng vừa lúc đó một người khá vạm vỡ tay cầm AK từ phía
sau chạy xốc tới.

- Ôi anh Mờng! Anh Mờng ơi! Nó... Nó chạy mất rồi! Kia kìa! Hướng trước mặt.

Anh lính trẻ rối rít gọi, trong lúc đó, hai bạn anh vì phải thu súng, thu máy và bắt trói hai
tên điện đài, đã không kịp ứng cứu đồng đội mình trong giây phút hiểm nghèo hết sức bất ngờ ấy.

- Để nó cho tao! - Mờng gầm lên. Như một con gấu, anh lao thẳng về phía trước với tất cả
sức mạnh và sự giận dữ ngút lửa.

Ngước mắt nhìn địa hình phía trước với kinh nghiệm từ những năm tiễu phỉ, Mờng biết tên
địch không chạy thẳng ngược lên đỉnh vì sẽ rất chậm. Chắc chắn nó phải theo sườn núi để xuống
con sông rất gần. Đã nghe thấy tiếng những ngọn thác nhỏ bên sông réo ào ào. Mờng quyết định
chạy chéo sang hướng đó. Chưa lúc nào Mờng lại cảm thấy mình nhanh, mạnh như lúc này, mặc
dầu anh cũng đã trải qua hai đêm một ngày lùng sục vô cùng mệt nhọc. Nhảy ra những mô đá lớn
nhỏ, xé bụi, luồn cây... cuối cùng anh đã nom thấy tên địch đang cong người chạy phía trước.

- Đứng lại! Đứng lại! Nếu không, tao bắn!

Nhiều lần Mờng đã gào lên như vậy, tưởng chừng đứt họng. Tên địch vẫn cắm đầu chạy.
Khoảng cách giữa hai người dần dần được rút ngắn lại. Một trăm mét. Rồi tám mươi mét. Rồi năm
mươi mét... Tên địch đang chạy đột nhiên quay lại vẫy mấy phát súng sáu. Nhưng may thay cho
Mờng, nó bắn ngược lại và bắn trong trạng thái tinh thần như thế, đạn đều trượt hết. Nó tiếp tục
vừa chạy vừa bắn một lần nữa. Cũng vẫn trượt sạch. Điên lên rồi, Mờng toan nâng tiểu lên lia cho
nó một nhịp. Phải, chỉ cần một nhịp thôi! Nhưng lại tiếc, đã đuổi tới đây mà không bắt sống được
nó cũng uổng! Vả lại, kìa, nó chẳng bắn trở lại được nữa. Ha ha! Hết đạn rồi, con ơi! Anh nghiến
răng lại, cố dấn thêm và tiếp tục gào lên:

- Đứng lại, nếu không tao sẽ tiêu diệt mày! Tiêu diệt mày...

Ở phía trước, Cầm Diêu vẫn dốc sức chạy không còn biết trời đất gì nữa, không còn kịp nghĩ, hoặc
toan tính được bất cứ điều gì khác ngoài việc: chạy và chạy. Bỗng nhiên y khựng lại. Trước mặt y
là một vách núi dựng đứng. Bên dưới, sâu chừng sáu, bảy mét, là một vực nước khá to của một
con suối nào đó hẳn chảy ra sông Chooc. Bàng hoàng. Mạt lộ rồi sao, hỡi thần rừng, thần núi
thiêng liêng!...Nó muốn gào lên. Nhưng rồi ngoái lại thấy Mờng chỉ còn mươi bước nữa là chụp
được nó. Không kịp nghĩ gì thêm, Cầm Diêu tung mình nhảy như cắm xuống vực sâu. Đến lượt
Mờng khựng lại và mở mắt nhìn trân trân. Nhưng rồi, rất nhanh anh cũng lao theo tên địch. Từ
dưới nước sâu lạnh giá, Mờng vuốt mặt ngoi lên, tay phải vẫn giữ chặt cây AK. Lập tức, sải mấy
sải rồi Mờng cũng nhảy vọt được lên bờ. Bây giờ thì anh không phải còn ở phía sau nó nữa, mà đã
đối diện với kẻ thù của mình...
... Phía sau, các chiến sĩ ta cũng vừa lúc vượt được qua suối, rầm rập chạy tới, cả Nết, cả
Rạng.

Cầm Diêu vẫn đứng đó, cúi gục đầu, tóc rũ gần kín mặt. Một hiệu lệnh được phát ra. Một
anh chiến sĩ tiến lại rất nhanh:

- Tay! - Tiếng quát đanh như tiếng búa nện xuống đe.

Như một cái xác không hồn, Cầm Diêu nhắm mắt. Nó biết chẳng còn có phép thần gì có thể chống lại. Một
chiếc còng số 8 nhanh chóng rập xuống nghe cái roạt...

Căn phòng khá sáng sủa, phía trước là những vườn rau rất tươi xanh. Nếu không có những
bức tường cao bao quanh và bốn chòi canh bốn góc có lính canh ở trên, khó ai có thể nghĩ đây là
một trại giam. Nhưng đây chính là trại giam Thanh Đồng, một trại giam nhỏ ở gần ngay Hà Nội.

Trong phòng, như ba hôm nay, Cầm Diêu lại ra ngồi đó, trên một chiếc ghế đẩu. Hai tay y
không còn bị xích nữa, bộ áo quần biệt kích đã được thay bằng một bộ đồ tù màu xám. Phía trước
mặt y là một chiếc bàn mộc đơn sơ, trên chỉ có một quyển sổ tay và một chiếc bút bi. Sau chiếc
bàn ấy là một chiếc ghế tựa cũng đã cũ kỹ cho người cán bộ hỏi cung ngồi. Nhưng anh không ngồi,
mà đang đi đi lại lại quanh chiếc bàn. Gương mặt còn khá trẻ và sáng sủa của anh đầy vẻ suy nghĩ:
Đó là Nguyễn Nguyên An.

- ... Anh đã nghĩ kỹ rồi chứ và có thể trả lời trong hôm nay? Mấy hôm rồi anh đã cung khai một số
điều và thừa nhận anh có tội, mà là tội nặng, như thế coi như tạm được. Nhưng điều quan trọng
hơn là anh còn phải làm gì cụ thể để chuộc lại những tội lỗi ấy, để nhận được sự khoan hồng. Nói
thật cho anh biết: muốn giết anh không có gì khó! Quá dễ! Tuy nhiên, đã nói rồi: vì nhân đạo đối
với một con người dù người đó đầy mình tội lỗi, chúng tôi vẫn muốn dành cho anh sự sám hối
bằng những hành động thực tế. Nói như người ta vẫn nói: chính anh phải tự cứu lấy anh, chứ không
ai khác. Chắc anh cũng hiểu được như thế! Vậy thế nào, sáng nay anh đã nghĩ được gì và muốn
nói gì không?

Cầm Diêu vẫn không nhúc nhích. Y luôn luôn cúi gằm như để tránh đôi mắt của An. Từ
hai hôm nay, những tên khác trong toán vẫn bị tạm giam giữ trên vùng rừng để các nhà chức trách
địa phương tiếp tục hỏi cung, riêng Diêu và Páo được đưa ngay về Hà Nội và giam ở trại này. Đã
có ba ông liên tục tới hỏi cung. Một ông tầm thước, nói năng rất ít nhưng hết sức sắc sảo (ông
Công Năng). Một ông có vẻ hiền hoà, nhưng cũng không kém phần sâu sắc (ông Thạc). Ông thứ
ba có vẻ nóng tính nhưng có vẻ hết sức già dặn. Sau ba ông nọ, đến người cán bộ trẻ tuổi này. Anh
ta tỏ ra rất thông minh nhưng cũng không thật kiên nhẫn cho lắm thì phải...

Không rõ thằng Páo (bị giam cách ly tuyệt đối ở một phòng khác), đã khai báo những gì. Riêng
hắn - Cầm Diêu đã phải khai, khó mà quanh co quá, khó mà nói dối được mặc dầu họ không hề
tra tấn, thậm chí một dụng cụ tra tấn bé nhỏ nhất cũng không nhìn thấy. Tất cả các cuộc hỏi cung
đều thực hiện trong căn phòng nhỏ này, chẳng có khác gì mọi phòng khách bình thường của các
gia đình bình thường... Sức mạnh của họ chỉ là ở những câu hỏi vừa đầy trí tuệ sắc sảo, vừa có cả
sự thẳng thắn và toát lên khá rõ một tinh thần sẵn sàng độ lượng... Và cũng hiển nhiên: hắn phải
khai còn vì sợ chết. Thật vậy, hắn chẳng phải một siêu nhân. Hắn còn muốn sống... Nếu buộc phải
chết, đời y thôi coi như cũng xong. Nhưng còn Nhạn?... Phải! Còn Nhạn. Thiếu hắn, Nhạn sẽ sống
làm sao nổi giữa cái xứ sở mà không có tiền hoặc ít tiền thì chỉ có chết hoặc sa xuống đáy cùng
của mọi thống khổ. Hắn đã biết khá rõ qua 6 năm bỏ Bắc vào Nam...

Và thế là hắn đã khai. Khai từ “ông Tung” với cái gọi là “Sở liên lạc Phủ Tổng thống” tới
ông Lân với cái gọi là “P54” rồi “ông Raphter” tới “ông Tom và ông Andrew rồi”. Liên đội quan
sát I, rồi cả cái sư đoàn 22, khai cả những gì mà hắn dù chỉ được nghe nói qua loa, hoặc biết lỗ mỗ
về tổ chức và công việc của CIA ở Sài Gòn, cùng tổ chức tình báo mật vụ của gia đình Diệm -
Nhu... Khá nhiều điều, nhiều chuyện bí mật. Nhưng nghĩ cho cùng: bí mật quái gì của hắn mà hắn
phải giữ để rồi sẽ mất cái mạng của chính mình. Thật vậy, toàn chuyện triều đình, toàn chuyện
thiên hạ, họ có thua, có thiệt đến mấy cũng chẳng ảnh hưởng gì đến hắn. Còn như họ thắng, họ
sướng như tiên thì cái thân phận hắn cũng chỉ là thằng trung uý quèn, thằng toán trưởng biệt kích
lương dù có khá chút đỉnh, nhưng cái mạng lại dễ mất như chơi. Hoá ra cái mạng y quá rẻ! - Cầm
Diêu nghĩ vậy và khai hết, không khó khăn gì. Y khai còn có ý làm một cuộc trao đổi: y cung cấp
những bí mật của Mỹ - Diệm, còn bên phía Cộng sản thì tha thứ xoá tội cho hắn. Thế là sòng
phẳng. Nhưng “họ” vẫn cứ gặng: Khai tốt, nhưng chưa đủ để chuộc tội hoàn toàn. Còn cần phải
làm những gì cụ thể nữa? Không đến nỗi ngu đần, Cầm Diêu thầm hiểu những người cộng sản này
còn muốn nhắn phải cộng tác làm việc. Nhưng cộng tác với “họ” để quật lại Mỹ và Diệm, thì hắn
không thể... chẳng phải y sợ mang tiếng phản bội lại những lực lượng mà hắn đang phục vụ, nói
cách khác: đang “thờ” để ăn lương sinh sống. Không! Không ngại chuyện đó. Nếu bảo là phản thì
khai cung thế cũng là phản rồi. Vả lại phản ai chứ, phản Mỹ - Diệm cũng là thường. Không ít
tướng tá đã từng chống lại Mỹ và Diệm âm thầm hoặc công khai, mà có ai chửi họ là đồ cục cứt,
đồ chó lợn đâu! Thậm chí nhiều người lại ca tụng họ là thức thời là chân chính! Không! Y không
quan tâm tới chuyện ấy. Chuyện hoàn toàn khác mà chỉ có y mới hiểu nổi: mối thù Cộng sản giết
mẹ giết em chưa trả được, lại đem thân đi phục vụ cho chính kẻ đã gây nên thù này, thì quả là hèn,
là nhục, là khốn nạn quá... Vậy đó! Có lẽ y chỉ còn con đường là nhận lấy cái chết, chết thì hồn ma
của mẹ của em y mới không oán hận... Đầu y ba hôm nay như đã nứt, đã vỡ cả ra.

...An vẫn đi đi lại lại quanh chiếc bàn. Anh cũng đang nhức đầu, nhức óc. Sức ép đối với
anh thật quá nặng: một bên là tên toán trưởng gián điệp biệt kích vẫn cứ trước sau chỉ ngồi lì không
chịu tiến thêm bước nào nữa. Một bên là thời gian để thực hiện ý đồ của Bộ không còn nhiều lắm.
Ngay từ khi có điện từ Sơn La khẩn cấp báo cáo đã bắt bọn Goblin (trừ một tên chết vì dù không
mở) Bộ đã khẳng định đây là toán gián điệp biệt kích đầu tiên của địch đánh ra Bắc. Đây là một
vụ việc thực sự nghiêm trọng. Nó báo hiệu và mở đầu cho một cuộc chiến tranh mới chống phá ta:
cuộc chiến tranh gọi là “đặc biệt” của Mỹ. Nay bước đầu thắng lợi như thế này, Bộ trưởng cùng
các “tham mưu” của ông đã sơ bộ quyết định dùng bọn này sau khi đã giác ngộ, cảm hoá được, để
“chơi trò nghiệp vụ” với Mỹ. Có nghĩa là sẽ “dùng nó đánh nó”, hoặc theo các câu ngạn ngữ dân
gian của ta là: “tương tế tựu kế”, và “gậy ông lại đập lưng ông”. Qua kinh nghiệm, qua tham khảo
và đã học tập ở nước bạn, cho tới nay ta cũng đã vỡ vạc được ra ít nhiều về công tác phản gián: đã
gọi là phản gián thì không chỉ có chống đỡ, mà còn phải biết tích cực, bí mật đánh lại địch, giành
lấy chủ động.
...Trong chiến tranh chống Pháp ta đã có một lần thử chơi “trò” này để đánh lại bọn Pháp, ở vùng
Đồng Mỏ - Lạng Sơn. Nhưng vì khi ấy hoàn toàn chưa có một chút kinh nghiệm nào, lại chưa có
cả phương tiện kỹ thuật tối thiểu cần thiết, nên đã thất bại. Lừa gọi địch lên để bắt, nhưng lộ. Chính
nó lại “tương kế tựu kế” chẳng cho máy bay lên thả vũ khí, khí tài mà dội cho một trận bom tơi
bời. Bây giờ sẽ phải làm khác và làm tốt hơn... Bây giờ đã “khôn lớn” hơn, Bộ dám cho chơi lại
“trò chơi nghiệp vụ” ấy với Mỹ - vốn đã nổi tiếng không những về khoa học điện tử, mà còn nổi
tiếng về bộ máy tình báo gián điệp ghê gớm: CIA.

Ta đã biết ít nhiều: muốn “chơi trò nghiệp vụ” qua các toán gián điệp biệt kích phải nắm
được, giác ngộ được hai nhân vật chủ chốt không thể thiếu một: đó là toán trưởng và nhân viên
điện đài. Chính vì thế ngay hôm bắt được bọn chúng, ta đã đưa ngay Cầm Diêu cùng Tráng A Páo
về gần Hà Nội để dễ tiếp xúc...

Kết quả cũng khả quan: chỉ sau hai ngày trò chuyện cặn kẽ, Tráng A Páo không những đã
cung khai hết mọi chi tiết mà còn theo gợi ý của ta hứa sẽ tự nguyện viết đơn xin cộng tác làm việc
để lấy công chuộc tội. Có thể thấy rõ: Páo là một thanh niên miền núi chưa hoàn toàn bị tha hóa.
Hắn vẫn còn phần nào cái chất thuần phác, hồn nhiên. Là một tên lính đánh thuê, hắn chẳng có
một ý thức chính trị gì, chỉ biết có tiền. Vì chuyên làm VTĐ nên hắn quan niệm cái việc đi lính
của hắn cũng tựa như đi làm thợ, làm thuê cho người này người kia vậy thôi. Ai thuê làm thì làm,
chẳng biết và cũng chẳng quan tâm phân biệt gì hết!...

Riêng Cầm Diêu, tên toán trưởng thì như thế này đây! Điện báo viên, chưa đủ. Nhất thiết
phải có cả toán trưởng nữa. Như thế nhân viên điện đài mới thật yên tâm làm việc cùng ta. Quan
trọng hơn nữa: nếu chịu cộng tác, tên toán trưởng mới tự nguyện đưa ra tín hiệu cá nhân hết sức
mật của riêng nó để đưa vào các bức điện, đúng theo quy ước. Khi ấy bọn “trung tâm” Sài Gòn
mới thật sự tin là toán không bị khống chế...

Thật sốt ruột, nếu không muốn nói là đã quá sốt ruột! Bộ và Cục đã nhắc lại nhiều lần:
không thể để quá lâu, đến khi ta “lên phiên” đánh điện trở lại, dù có “sáng tác” giỏi đến mấy để
giải thích về sự chậm trễ này, chắc chắn địch vẫn không thể tin. Như vậy còn làm chuyên án sao
được nữa?

Trong lúc đó còn bao nhiêu việc khác, nhất là vụ tên Xuyên - Argus đang phát triển... Ông
Trường lại phải tiếp tục xuống Quảng Ninh ít hôm, không đừng được. Còn ông Thạc trưởng phòng
thì phải làm việc với cục trưởng Công Năng về việc chuẩn bị để thành lập Ban chuyên án về vụ
Goblin... Cũng vì vậy Nguyễn Nguyên An đã được phân công chuyên bám sát tên Diêu cho kỳ
thắng. Trước khi đi Quảng Ninh, ông Trường vẫn còn đầy lo lắng, sốt ruột, dặn An:

“... Thằng này, cứ qua cách cung khai, có lẽ không đến nỗi quá khó khăn. Nó lại tỏ ra có
ấn tượng tốt về cử chỉ của tiểu đội trưởng Mờng khi đánh bại nó còn kéo nó dậy... Vậy chưa chắc
nó đã là tên ác ôn, hoặc thực sự ngoan cố. Nhưng tại sao nó không có tiến triển được một bước
nào nữa như thằng Páo kia? Cậu phải gắng xem sao! Phải tìm ra được cái gì nó còn vướng mắc,
hoặc sợ hãi. Nên nhớ không bao giờ được xúc phạm nhân phẩm chúng. Cũng không doạ nạt. Hãy
luôn tỏ rõ chúng ta, những người cộng sản, bao giờ cũng là những người nhân đạo chân chính.
Chúng ta thu phục, giác ngộ chúng không bao giờ cần dùng bạo lực mà là nhân nghĩa... Chắc cậu
hiểu?”.
An vẫn đi đi lại lại sau chiếc bàn mộc đặt giữa phòng khai cung, vẻ mặt nặng trĩu. Anh đã
nổi cáu thực sự:

- Thế nào? Này, hay là muốn liều mình? Nhưng liều mình vì cái gì nhỉ? Vì ai mới được
chứ? Hay tuyệt vọng chán nản vì thua cuộc ư? Nhưng thua vì ai? Vớ vẩn! Chẳng lẽ người như anh
mà đầu óc quá tăm tối vậy sao? Tôi nghĩ dẫu sao anh đừng nên làm cho gia đình anh phải tủi hổ
vì anh. Trong bản lý lịch anh có khai là anh còn mẹ và em ở ngoài này...

Cũng không ngờ, hoàn toàn không ngờ, An nói xong tên Diêu bỗng bùng lên. Y ngẩng mặt,
hai con mắt đỏ kè. Rồi nói gần như trong một cơn phẫn uất đến liều lĩnh mà có lẽ chính y cũng
không tự lường trước được.

- Gia đình! Tôi làm gì còn có gia đình! Mẹ và em gái tôi làm gì còn nữa! Tôi viết láo đấy!
Tôi viết thật, sợ không tự kiềm chế nổi sẽ xảy ra xung đột với các ông thì bất lợi cho tôi. Nhưng
bây giờ thì tôi nói thật: Các ông! Phải, chính các ông đã giết chết mẹ và em gái tôi... Tôi căm thù
các ông! Tôi không giết được các ông, không trả thù được cho gia đình tôi, đời nào tôi lại đầu hàng
để phục vụ cho các ông! Tôi sẵn sàng chết, không tiếc cái gì hết! Các ông cứ giết tôi đi!

Nói tới đó tên Diêu bật trào nước mắt, những giọt nước mắt hẳn là đau khổ và chắc là cả
căm giận, căm giận mà bất lực... Y cúi xuống, đưa ống tay áo lên gạt hai dòng lệ, nhưng càng gạt
nước mắt y càng như thêm tuôn chảy...

An sững sờ, quá sững sờ. Ồ, thì ra y có chuyện gia đình...! Phải, chuyện gia đình rắc rối nào đó.
Gắng trấn tĩnh mình lại, nghiêm mực nhưng thật bình tĩnh và hiền hoà, anh thong thả hỏi lại:

- Anh vừa nói cái gì? Nói lại! Cái gì? Tôi chưa hiểu! Gia đình anh làm sao? Căm thù cái
gì? Căm thù ai? Ai giết? Giết thế nào mới được chứ?

- Phải, các ông, chính các ông! Không phải ông thì Cộng sản các ông đã giết chết cả mẹ cả
em gái tôi. Ông không biết ư? Hay là ông cố tình không biết? - Tên Diêu càng nói càng đau khổ
và điên dại.

Ở ngoài hiên, nghe phạm nhân to tiếng, tưởng có chuyện gì xảy ra, anh lính gác tức tốc
chạy vào. An vẫy tay ra hiệu cho anh lui ra.

Đến lúc ấy, An mới từ từ ngồi vào ghế. Không những không nổi giận trước những lời hiển
nhiên là xúc phạm của hắn, mà dường như nét mặt anh lại hiền hoà hơn. Tên toán trưởng thoáng
nhìn lên, nhận thấy như thế.

- Anh hãy nói lại lần nữa, thật rõ hơn! - An cất tiếng nói tiếp - Chúng tôi sẵn sàng nghe. Thế nào?
Ai giết? Giết vào hồi nào? Nhất là có gì làm bằng chứng?

Miệng hỏi mà trong thâm tâm An không khỏi liên tưởng ngay tới trường hợp của tên Xuyên
- Argus dưới Quảng Ninh: gia đình bị quy sai là địa chủ, bị đấu tố nên dù đang là một Thường vụ
Huyện ủy, hắn vẫn bỏ trốn vào Nam để tìm kế rửa hận... Vậy trường hợp này có thể ít nhiều như
thế không?
- Các ông đã giết cả dân, các ông quên rồi sao? Các ông đã tàn sát biết bao người ở Mường
Pồn cuối năm 1953 mà không còn nhớ ư? Mẹ và em tôi đi theo, cùng đám gia binh. Tội tình gì mà
các ông cũng giết sạch cả?... Nói tới đó mắt hắn lại ứa lệ.

An ngửa người ra thành ghế thở phù. Thế thì hiểu rồi. Thì ra chuyện cũ từ lâu! Cuối năm
1953, tuy còn đang làm việc ở Ban Địch vận Liên khu 3 nhưng An cũng đã được nghe: hồi đó
quân Pháp thua, phải rút chạy hộc tốc từ Lai Châu về Điện Biên Phủ. Đúng là quân ta đã đánh một
trận phục kích rất thắng lợi ở Mường Pồn, gần như toàn bộ quân Lai Châu bị giết và bị bắt sống.
Nhưng không hề nghe thấy nói tới đám gia binh đi theo và số phận của họ ra sao... Bây giờ mới
biết: hoá ra cũng có chuyện mắc mớ lâu ngày và sâu nặng đến thế! Anh thầm nhủ; thôi được, thực
hư sẽ tìm hiểu sau, trước mắt biết thế là huyết hận thù ém nặng trong lòng tên Diêu đã được thổ
ra...

An vẫn hỏi lại:

- Nhưng sao mẹ và em gái anh lại bị giết trong trận ấy?

- Quân Pháp rút. Lúc ấy tôi đang là hạ sĩ thuộc tiểu đoàn Thái, phải rút cùng. Mẹ và em tôi
cũng như nhiều gia binh khác phải đi theo. Nhưng các gia binh cùng dân chúng thị xã không được
đi trong đội ngũ đơn vị, mà đi ở phía sau. Các ông đánh. Tôi cùng một số chiến hữu chạy thoát
được về Điện Biên. Còn mẹ và em gái tôi đã bị các ông giết chết hết cùng tất cả dân thị xã và các
gia binh khác. Các ông tàn ác quá! Phải, tàn ác quá! Mẹ và em tôi cùng dân chúng có tội tình gì...

Vẫn không quan tâm đến thái độ uất hận của hắn, An lại bình tĩnh hỏi tiếp:

- Nhưng sao chạy trước, mà anh lại biết rõ mọi người ở phía sau bị tàn sát hết?

- Về sau, có Hiệp định Giơneve, khi trao trả tù binh, nhiều người cùng quê, cùng đơn vị tôi chạy
vào Nam đã kể lại cho biết như thế...

An im lặng suy nghĩ, rồi đẩy ghế đứng dậy ôn tồn:

- Thôi được, hãy biết thế! Cầm Diêu nghe đây! Dẫu sao anh nói ra được như vậy dù tốt dù
xấu, chúng tôi hoan nghênh đã. Chúng tôi thích những thái độ thẳng hắn hơn là quanh co, giả dối.
Còn đúng sai đến đâu, thực hư thế nào, còn phải hỏi lại anh thật tỉ mỉ. Còn phải hỏi, phải thẩm tra
lại cả những đơn vị của chúng tôi đã tham gia trận ấy nữa... Bây giờ anh còn đang chưa thật bình
tĩnh. Anh hãy cứ nghỉ đã. Chúng ta còn gặp nhau nhiều...

Nói đoạn, anh giơ tay ra hiệu cho cảnh vệ vào để đưa Cầm Diêu trở lại phòng giam của y.

* *

Cầm Diêu trở lại phòng giam. Hắn vật mình trên tấm thảm. Cơn xúc động bất chợt bốc lên lúc bị
hỏi cung dường như vẫn chưa hoàn toàn qua hẳn, nhưng hắn cũng đã bắt đầu nhận được ra: mình
đã ăn nói liều lĩnh, quá xúc phạm. Cứ công bằng mà nói: hắn không nên thế. Dẫu sao, phải thừa
nhận là “người ta” suốt từ trên rừng về tới đây, đã đối xử với hắn và đồng bọn không hề như những
gì mà khi còn ở Sài Gòn đã được nghe nói, hoặc tưởng tượng. Người hỏi cung trẻ hôm nay lẽ ra
cũng có thể nổi điên khi bị chửi bới như thế, chí ít cũng phải cho hắn một bạt tai. Nếu việc đó xảy
ra cũng là điều không khó hiểu. Nhưng anh ta đã không làm thế. Cũng trẻ như nhau thôi, nhưng
đang là kẻ nắm sinh mạng của y trong tay, anh ta có đầy đủ quyền lực để làm mọi chuyện. Nhưng
anh ta đã tỏ ra là một tay “trì” và có bản lĩnh thực sự đáng nể! Bây giờ Cầm Diêu chỉ còn biết chờ
đợi. Người cán bộ trẻ kia chắc chắn sẽ tường trình lại đủ mọi lời, mọi thái độ của hắn. Những
người chỉ huy cao cấp cộng sản có thể sẽ không ngần ngại cho hắn một hình phạt thích đáng. Nặng
thì bắn bỏ, nhẹ thì cũng sẽ tống vào ngục suốt đời... Hắn cảm thấy vô cùng chán nản, vô cùng tuyệt
vọng...

Một ngày qua đi. Hai ngày. Rồi ba ngày, vẫn chưa thấy mấy người đứng tuổi, hoặc người
trẻ tuổi nọ quay trở lại. Họ đang còn toan tính những gì đây? Nỗi sốt ruột tăng lên đến mức bứt rứt
làm hắn đứng ngồi không yên.

Hắn không thể biết trong những ngày này, một số trinh sát của Bộ đang phải cấp tốc đi tìm lại dấu
vết gia đình tên toán trưởng. Một mặt tìm gặp sư đoàn 316 đang ở quanh Hà Nội, là đơn vị đã đánh
trận Mường Pồn, để hỏi lại về số phận đám gia binh và dân thị xã Lai Châu. Một mặt lên thẳng
Tây Bắc, tới tận Quỳnh Nhai quê cũ của tên Diêu hỏi lại dân xem sao. An khoẻ, trẻ nên được phân
công đi hướng này.

Rất mệt nhọc, vất vả vì phải đi gấp, đi cả đêm, lúc xe đạp, khi ô-tô, có buổi lại phải cuốc
bộ leo đèo... nhưng cũng may, An đã không khó khăn gì lắm để hỏi thăm đường tới bản Chiềng
Cọ ở cách bờ sông Đà không bao xa. Đó là một bản nghèo nàn, heo hút nhưng phong cảnh khá
đẹp với những rừng ban, với núi cao, sông dài, cát trắng. Anh không khỏi hồi hộp khi tìm đến nhà
trưởng bản để hỏi thăm về người mà anh đang cần tìm gặp. Ông trưởng bản đã có tuổi, nhưng còn
khá quắc thước. Ông cũng không khỏi ngạc nhiên khi thấy có cán bộ tới nhà. An tự giới thiệu là
cán bộ Sở Văn hoá ở Khu muốn tìm hỏi về một gia đình người lái đò thuở xưa, nghe nói gốc gác
ở nơi này: ông lái đò đó có tên là Cầm Inh. Ông trưởng bản trố mắt hỏi sao anh biết ông Cầm Inh
và cần gặp làm gì? An đáp anh đang đi lấy tài liệu cho cơ quan về sông Đà. Nghe nói ông Inh là
người lái đò nổi tiếng cũ nên muốn tìm gặp. Ông trưởng bản nghe ra, vui vẻ cho biết ông Cầm Inh
là bạn đò của ông xưa. Nhưng ông Inh bỏ lên Lai Châu trông coi trại dê cho họ Đèo và ốm chết từ
trước Cách mạng. Nay chỉ còn bà vợ và con gái... Mới chỉ nghe tới đó An đã mừng tưởng té xỉu...
Và thế là anh được đưa tới ngay một căn nhà sàn nhỏ ở cuối bản. Bà Cầm Inh có nhà. An cứ cầm
lấy tay bà mãi. Bà đã ngoài 60 tuổi nhưng vẫn còn đang làm hội trưởng phụ nữ ở bản... An mừng
đến nỗi mãi mới thốt lên được.

- Ôi, cháu cứ tưởng là...

- Là sao hả cán bộ?

- Nghe có người nói… xin bà tha thứ cho, có người nói là bà và cả cô con gái đã bị mất cả
trong trận Mường Pồn...

Bà mẹ cười, nụ cười hết sức ngay thẳng, hiền lành:


- Không! Trận ấy vừa nghe thấy súng nổ ở đầu hàng quân, thế là chúng tôi chạy tản mát cả
vào rừng hết. Sau bộ đội ta phải đi tìm từng gia đình, cho cơm cho gạo để đưa về tận bản cũ mà...

Nỗi mừng của An càng không sao nói hết. Ông trưởng bản thấy công việc giới thiệu của mình đã hoàn tất,
cáo lui trở về nhà. Bà mẹ giữ anh ở lại nhà ăn cơm chiều. Bà cho biết Cầm Sa - cô gái út của bà đang học
ở Trường trung cấp sư phạm trên Khu. Ở nhà với bà có một cô cháu gái đỡ đần việc đồng áng và cơm
nước. Do vậy, bà còn có thì giờ hoạt động cho đoàn thể. Chiều xuống, cơm nước xong, khi đứa cháu gái
đi quảy nước ngoài suối, An mới có cơ hội thuận tiện để nói tới công việc gấp rút của mình... Khi nghe An
nói hết về mọi chuyện của Cầm Diêu, con trai bà hiện nay, bà Cầm Inh gần như té xỉu vì choáng váng. Mặt
bà tái xanh, hai con mắt hấp hoảng, ngập tràn nỗi kinh ngạc và cả sợ hãi... Nhưng An đã kịp trấn an, nói
rõ: bà đừng sợ. Cách mạng vẫn luôn luôn tin cậy bà. Tuyệt nhiên không vì chuyện này mà bà phải liên luỵ.
Trái lại cách mạng đang muốn bà cùng hợp lực để cứu lấy Cầm Diêu. Thật vậy, ta rất muốn cứu vớt Cầm
Diêu. Tuy nhiên, hắn phải biết rõ tội lỗi và tự nguyện lập công để chuộc tội với cách mạng. Đó là một yêu
cầu và cũng là một điều kiện tiên quyết. Để giúp Cầm Diêu làm được việc này, theo anh và các cấp trên
của anh, chính bà mẹ và em gái của Cầm Diêu sẽ có một ảnh hưởng rất lớn... An nói một lần rồi nói tới hai
lần. Anh nói rất tóm tắt nhưng cũng rất sáng sủa, dễ hiểu và với một thái độ hết sức chân thành.

- Ôi, con tôi, con tôi! Cứ tưởng rằng nó đã chết trận ở Mường Pồn hay ở đâu đó rồi. Hàng năm tôi
vẫn cúng ma cho nó. Vậy mà... Ôi, thật không ngờ... không ngờ... Vậy... vậy tôi phải làm gì, tôi
làm gì cho nó hả anh? - Cuối cùng, bà mẹ cũng đã nghe ra, vượt được qua nỗi kinh hoàng ban đầu,
vừa lau nước mắt vừa nghẹn ngào hỏi như vậy.

- Thưa bà, điều quan trọng trước hết: bà và cô em cần gặp ngay Cầm Diêu.

- Nhưng... tôi biết nói gì với nó hả anh, và liệu nó có còn chịu nhận tôi là mẹ nó và nó có
còn biết nghe tôi nữa hay không...?

- Tôi tin là chỉ cần nom thấy bà và cô em gái yêu quí anh ta sẽ hiểu được ra mọi chuyện...
Bà hãy cố gắng! Hãy giúp cho con trai bà sớm trở lại làm người...

- Nếu vậy, tôi sẽ đi! Vâng! Tôi sẽ đi gặp nó ngay!

- Nhưng phải tuyệt mật. Bà không được hé ra cho bất cứ ai biết rằng Diêu đã ra Bắc và
đang bị giam giữ. Nếu lộ, Cầm Diêu chắc chết. Vậy xin bà nhớ cho. Bà hãy loan tin cho bản mường
là tôi về mời bà lên Khu để dự một cuộc họp về văn hoá sông Đà... Và ngày mai xin bà đi luôn.
Ta sẽ qua Thuận Châu đón cả Cầm Sa!

...Và thế là sáng hôm sau, bà Cầm Inh dặn dò công việc nhà cho đứa cháu, sau đó cùng An
ghé qua ông trưởng bản chào ông một câu để cùng “về Khu họp về văn hoá sông Đà”.

An và bà mẹ đến ký túc xá của trường Trung cấp sư phạm của Khu đúng vào ngày chủ
nhật. Bà mẹ nói với anh thường trực xin gặp Cầm Sa. Chỉ một lát sau, một cô gái mặc trang phục
Thái với váy đen tha thướt, áo trắng bó thân, uyển chuyển chạy ra. Đó là một cô gái chạc 20 tuổi,
da trắng hồng, có đôi mắt và cái miệng, vừa thoạt nom An đã thấy ngay là khá giống Cầm Diêu
hơn là giống mẹ. Có lẽ cả hai anh em đều giống cha? Cô có vẻ đẹp cứng cỏi và đầy sức sống.
Cũng như chiều hôm trước ngồi nói chuyện với bà mẹ, An lại xin phép gặp riêng Cầm Sa,
và lại kể tóm tắt mọi chuyện về Cầm Diêu. Cũng giống như bà mẹ, Cầm Sa như choáng đi trong
giây lát. Nhưng rồi không tỏ ra quá hoảng sợ như mẹ, mà lại đầy vẻ giận dữ, cô đỏ mặt nói, giọng
gần như lạc đi một chút:

- Không! không! Từ lâu tôi đã không có liên lạc, không biết tới anh ấy. Anh ấy làm xấu cho cả gia
đình tôi quá. Tưởng anh ấy đã chết rồi. Mà như thế cũng xong. Nhưng nay anh ấy vẫn sống và trở
về như thế này thì... nhục nhã quá!... Không! Không! Tôi không về đâu. Tôi nhắc lại: tôi không
còn liên hệ gì với anh ấy từ mười năm rồi... Mẹ tôi và anh muốn về thì về.

Và cứ thế, càng nói cô càng như giận dữ hơn, thậm chí giận dữ lây sang cả An. Có lẽ vì
thấy anh là người đã bất ngờ đem tới câu chuyện “khủng khiếp” này làm đảo lộn cả cuộc sống có
lẽ đang êm đẹp, đầy triển vọng và hứa hẹn của cô.

An lặng đi. Bà mẹ thì cuống quít giảng giải và van xin...

Mãi sau An mới nặng nhọc cất tiếng:

- Thôi được! Về hay không tuỳ ý cô! Nhưng tôi vẫn nghĩ là một người em, sao cô lại có
thể ngoảnh mặt đi như thế?

- Tôi ngoảnh mặt đi ư? Anh nói gì thế? Tôi đang học tập. Tôi đang phấn đấu... Nay anh ấy mang
tai hoạ về, tôi phải ôm lấy anh ấy mà vui mừng và khóc lóc hay sao? Không, không! Tôi đã biết
quá nhiều trường hợp như thế này, đã bao người phải...

- Phải sao, cô? Chúng ta có chính sách rất rõ ràng, đàng hoàng: ai làm xấu, làm ác người
đó chịu. Cô sợ hả?

Cô gái càng như quá tức với anh chàng công an này:

- Tôi sợ đấy! Tôi không giấu giếm. Thôi, thôi, xin các anh đừng có lý thuyết suông. Tôi đã
được nghe các anh nói nhiều rồi. Rút cục nói thì hay đấy, nhưng thực tế các anh có bỏ qua cho ai
đâu! Nằm trong sổ đen của các anh hết. Thôi, chuyến này, cầm chắc là ra trường tôi sẽ không có
bằng, và cũng chẳng có trường nào dám nhận em thằng biệt kích gián điệp về để dạy dỗ cho con
em nhân dân... Tai hại cho cái thân tôi...

Đến lúc đó cô mới bật khóc. Khóc vì thương thân...

An thở dài. Tranh luận với đàn bà, lắm khi thật quá ngán và vất vả. Anh thầm tự trách mình có lẽ
do kinh nghiệm còn non nớt nên đã nói hết ngay mọi chuyện “biệt kích gián điệp”. Cô gái hóa ra
chưa đủ bản lĩnh và cả tình thương như bà mẹ để có thể chịu đựng nổi. Thật quá máy móc, An tự
trách mình như vậy. Lẽ ra, muốn đưa cô đi nhanh, chỉ cần nói đúng như anh đã dặn bà mẹ “Đi dự
cuộc họp về văn hoá sông Đà....”. Nhưng đã lỡ rồi, phải gắng kiên nhẫn thôi...

Thế là suốt cả buổi hôm đó anh và bà mẹ thay phiên nhau khuyên giải cô gái. Và bà mẹ đã
phải nói tới câu có lẽ là cuối cùng:
- Vậy, Cầm Sa, nếu con từ bỏ anh con, xin hãy từ bỏ luôn cả mẹ. Mẹ sẽ quì xuống ngay tại
đây hướng về Lai Châu để lạy cha con xin chứng giám cho lòng mẹ. Rồi từ nay... thế là hết...

* *

Ở nhà giam nọ, Cầm Diêu đang nằm dài trên tấm phản cá nhân, nhìn trân trối vô hồn lên trần nhà
thì có tiếng mở khoá loảng xoảng và tiếng người lính gác gọi to:

- Số 13 ra phòng hỏi cung!

Cầm Diêu dụi mắt, vươn vai, uể oải đứng dậy. Y biết và đã chờ đợi: ngày tận số đã tới. Y
khá bình tĩnh bước ra khỏi phòng giam, đi theo anh công an gác đã trở nên quen. Anh ta còn rất
trẻ, nhưng mặt mũi luôn lạnh như tiền, dù thái độ và lời nói bao giờ cũng phải chăng, nếu không
muốn nói là có vẻ tử tế.

Y bước lên bậc tam cấp, rẽ phải dăm mét thì dừng lại trước căn phòng hỏi cung mọi khi,
dè dặt nhìn vào, hai mắt chợt như lạc hẳn đi. Không thấy anh cán bộ trẻ, cũng không thấy bất cứ
ông cán bộ lớn tuổi nào đã hỏi cung như mấy hôm trước. Mà… là hai người đàn bà mặc đồ Thái,
một già một trẻ... Hai mắt y càng như hoa đi, dường như không nhìn được thật rõ nữa. Trái tim y
như thắt lại đến nghẹt thở. Người con gái nhỏ nhắn kia thì còn ngờ ngợ nhưng bà già khoảng trên
sáu mươi kia thì... Trời ơi...

- Mẹ ơi! - Y gào lên một tiếng, rồi nhào lại, cầm chặt lấy hai tay bà mẹ. Toàn thân y run
lên. Rồi y quì thụp xuống, ôm chặt, ôm mãi lấy đôi chân gầy guộc của bà.

- Ôi mẹ! Sao lại thế này! Con nghe nói... mẹ và em đã... chết cả rồi mà...! Nước mắt y trào ra ướt
đầm cả khuôn mặt. Bà mẹ cũng nức lên khóc, ôm chặt lấy hai vai y, không sao thốt nổi lên lời.
Một lúc sau y mới rời được bà mẹ để quay sang cô gái đang đứng bên nước mắt cũng giàn giụa:

- Trời ơi, Cầm Sa! Cầm Sa! Em đã lớn thế này sao? Ôi, đây có phải chuyện thật hay tôi
đang mơ đây! Mẹ của con ơi. Em của anh ơi. Sao lại còn có được ngày hội ngộ như thế này?

Bà mẹ nghẹn ngào:

- Con ơi, đúng là chết đi sống lại đây! Mẹ đã tưởng rằng... chẳng còn có ngày nào nữa...

Cô gái cũng tỏ ra rất xúc động:

- Anh Diêu, mẹ và em cũng không ngờ anh lại... trở về... như thế này...

Mặt Cầm Diêu thoắt tái nhợt. Y nhắm mắt, lặng đi rồi lại mở choàng ra, bàng hoàng.

Chắp hai tay lại, vái lạy mẹ, y cúi rạp xuống vái lạy mãi. Rồi vái cả Cầm Sa đứa em gái mà y vô
cùng yêu dấu. Dường như không sao nói được nên lời nữa:
- Ư... mà phải! ... Phải...Cầm Sa ạ, anh đã trở về... như thế này đây...! Con lạy mẹ! Anh lạy
em! Còn biết nói sao được nữa?... Con chỉ còn biết xin mẹ xin em hãy tha thứ, hãy thương xót cho
đứa con, cho thằng anh số phận chẳng ra gì và ngu dại, tối tăm... tội lỗi cùng mình này...

* *

Cùng lúc đó, trong một căn phòng khác, cũng thuộc trại này, Nguyễn Nguyên An đang
ngồi nói chuyện với Tráng A Páo. Căn phòng, đồ đạc... tất cả cũng đơn sơ như phòng hỏi cung
Cầm Diêu, nhưng ở đây có khác một chút: trên chiếc bàn mộc còn có thêm một đĩa bánh ngọt và
một bao thuốc lá. Và Páo cũng được ngồi trên một chiếc ghế đặt sát mặt bàn, đối diện với An, với
tư thế một người đang được phép cùng ngồi trao đổi ý kiến, chứ không còn là kẻ tội đồ đang ở thời
kỳ bị khai thác, hỏi cung, thẩm vấn.

Trong khi tên Páo có vẻ rất tươi tỉnh, thì An còn đầy mệt nhọc. Bộ quần áo anh đang mặc rất nhàu
nát và vẫn còn gần như nguyên dấu vết bùn đất của những con đường Quỳnh Nhai, Thuận Châu...

- Thuốc đây hút đi! - An đẩy bao thuốc đến trước mặt A Páo. Hắn luống cuống rút lấy một
điếu, tươi cười.

- Em xin cán bộ!

Rồi hắn móc túi lấy ra một tờ giấy gấp tư, mở ra, hai tay run run đưa cho An:

- Thưa cán bộ, bản cam kết, em đã viết xong rồi đấy. Em ăn thì nhanh viết thì chậm lắm!

An mở to mắt, đỡ lấy tờ giấy, gương mặt vui hẳn lên:

- A, xong rồi hả? Tốt!

Páo như e thẹn:

- Thưa cán bộ... em nói được, nhưng em không biết viết mà, cán bộ tha lỗi cho...

- Không sao! Miễn là cái bụng cậu phải thực...

- Vậy em vui rồi! Thề có trời đất, cái bụng em thế nào, em viết thế. Cái bụng em khác, cái
bút viết khác, em sẽ bị sét đánh, beo vồ...

Anh cầm tờ cam đoan đọc lướt. Lời lẽ của hắn lỗ mỗ, ngây thơ, câu cú khá lộn xộn. Nhưng
điều quan trọng mà anh đọc được, nói kiểu những nhà văn: “đọc được giữa hai dòng chữ”, là sự
hối lỗi thực sự. Hắn xin tha chết, hắn cam kết sẽ hết lòng phục vụ, sẽ tham gia bất cứ việc gì để
đánh lại bọn Mỹ, Diệm. Có thể coi đó như những lời thề nguyện. Với người dân miền núi, An biết
một khi họ đã thực sự tin ai, quyết một dạ với ai, thì đó là những gì suốt đời không thể thay đổi.
Gấp bản cam kết lại, An mỉm cười ngắm nhìn Tráng A Páo, như càng thấy rõ đây là một
con người vừa hồi tỉnh và được đưa lên từ vực sâu của tội lỗi. Gần mười năm theo giặc, thì ra hắn
vẫn chưa bị nhuộm đen hoàn toàn. Kể cũng lạ và như khó tin. Nhưng lại đúng như thế. Tất nhiên
sự cảnh giác không bao giờ được xao lãng, An vẫn nhớ thế. Cái gì quá nói chung đều có thể có hại
cả, kể cả quá tin, và quá nghi ngờ... Con đường phát triển và cuộc sống của mỗi con người quả là
rất khác nhau và có biết bao điều luôn luôn như kỳ lạ xảy ra với họ, mà ta cần phải thực sự tìm
hiểu với tất cả tinh thần trách nhiệm cũng như lương tâm...

- Em viết thế có được không, thưa cán bộ? - Páo ngước lên nhìn An, hồi hộp và dè dặt hỏi.
An mỉm cười, gật đầu:

- Được rồi. Tốt! Tôi sẽ trình lên cấp trên ngay.

- Ôi, em mừng quá. Em xin lạy cán bộ ba lạy.

- Khỏi! Nếu theo tục lệ người Mông cậu còn phải cắt tiết gà pha rượu để ăn thề nữa, phải
không?

- Phải! Phải, cán bộ ạ. Nhưng ở đây em vẫn còn là tù, em không có gà, không có rượu.

- Nhắc cho vui thôi. Đã bảo khỏi mà!

Tráng A Páo lại cười sung sướng. An cũng mỉm cười theo. Thật ra cấp trên và cả riêng anh biết là
có thể tin ở tên này, ngay từ hôm đầu khi hắn đã tự khai ra hết những quy ước tuyệt mật của “Trung
tâm” về việc liên lạc bằng điện: từ quy ước rất mật về an ninh mật mã cho tới an ninh báo vụ... Rất
nhiều điều thật ra ta chưa hề biết gì. Páo cũng đã khai ra cho ta biết cả quy ước buổi phát tin đầu
tiên về “Trung tâm” bắt buộc phải có tín hiệu an toàn của nhóm, và phải do chính nhân viên điện
đài của toán đánh (để các chuyên viên Mỹ còn so sánh với băng đã ghi lại phong cách đánh riêng
của từng tên được lưu trữ lại, xem đây đúng là nhân viên VTĐ biệt kích thật của chúng đánh, hay
là người của cộng sản đánh). Nhưng chưa đủ, Páo còn nhấn mạnh: trong bức điện đầu tiên ấy còn
phải có cả tín hiệu an toàn cá nhân của toán trưởng (mà tín hiệu này cũng cực mật, chỉ mình tên
này được biết) do chính tên toán trưởng cung cấp. Như vậy “Trung tâm” mới có thể tin là toán
không bị khống chế đánh lừa trở lại...

An biết cấp trên mừng lắm. Nếu nó không khai ra có thể sẽ lại tái diễn “vụ Đồng Mỏ” năm
1952 không biết chừng… Nay Páo còn làm cả bản tự nguyện cam đoan nữa thì với hắn, thế là đã
đầy đủ... Chỉ còn có Cầm Diêu. Rõ ràng là không thể thiếu.

Lúc này đây hắn đang gặp mẹ và em gái... Thôi, cứ để cho họ trò chuyện, cùng trút hết mọi niềm
tâm sự... An cảm thấy giờ phút này tuy có thể vẫn còn rất mệt nhọc, nhưng tâm hồn, đầu óc lại khá
yên ổn với một niềm tin sáng sủa...

* *
Ngay hôm sau Cục trưởng Công Năng họp ngay với một số cán bộ, trinh sát đã được huy
động trong vụ Goblin. Bộ trưởng Quốc báo sẽ tới dự. Trong lúc chờ ông, mọi người trò chuyện
râm ran. Không khí đặc biệt khá vui vẻ. Ông Trường vừa từ Quảng Ninh về. Ông lại ôm lấy chiếc
điếu cày rít sòng sọc, nhả khói mù mịt, và nói được dăm câu lại văng ra những từ rất “dân dã”, ông
Thạc với nụ cười rộng rãi, và lúc nào cũng mềm mại, lại ân cần trò chuyện với người này người
khác. Cục trưởng Công Năng - con người vốn ít nói, kín đáo, sáng nay cũng như không giấu niềm
vui của mình trong cặp mắt sáng tươi tắn. Niềm vui hôm nay của mọi người không phải là vô cớ:
mọi yếu tố cần thiết nhất để lập chuyên án về vụ Goblin coi như đã hội đủ: Đã có bản cam kết của
Páo cùng với những lời khai rất tốt về mặt kỹ thuật. Nay trở ngại cuối cùng đã được tháo gỡ nốt:
Cầm Diêu xin tha tội và cũng đã viết bản cam kết tình nguyện cộng tác như Páo. Một việc cụ thể
đầu tiên để chứng minh cho sự thành thật là hắn đã khai trình tín hiệu an toàn cá nhân của toán
trưởng. Thêm nữa, hắn xin được gặp một trong mấy ông cán bộ lớn tuổi, kể cả ông trẻ tuổi đã từng
hỏi cung hắn, để được trình báo rõ thêm về việc Ngô Thứ Lân đã trao cho việc: tìm gặp bắt liên
lạc với một nhân vật tên Chương - khi đã có cơ sở vững và có lệnh của Trung tâm...

Bộ trưởng đã tới. Chỉ nhìn đôi mắt sáng ngời, với đôi cánh mũi như càng mở rộng một
cách khoan khoái, mọi người đều thấy ngay ông đang rất vui. Cục trưởng Công Năng xin phép
được bắt đầu làm việc. Ông mở đầu báo cáo tình hình bằng một câu vắn tắt nhưng tổng hợp:

- Thế là chúng ta đã bước đầu thắng lợi, một thắng lợi thực sự có ý nghĩa, thực sự quan
trọng.

Mọi người cùng gật đầu tán thưởng. Đúng là một thắng lợi bước đầu nhưng rất đáng kể.
Cụ thể: trừ một tên chết vì dù không mở, toán gián điệp biệt kích đã bị bắt hết. Tang vật thu về
tương đối đầy đủ, trừ mấy thứ lặt vặt như bật lửa, đèn pin, dây dù, vải dù, rượu và bánh kẹo... bị
một vài ai đó trong các lực lượng truy bắt lấy đi... Nhưng quan trọng nhất là tất cả toàn gián điệp
biệt kích dẫu đã được Mỹ tốn công đào tạo, huấn luyện đã nhận tội hết, không trừ một đứa. Còn
hơn thế nữa: chúng đều tình nguyện xin lập công chuộc tội. Tất nhiên ta có gặp khó khăn ít nhiều
với tên toán trưởng, nhưng cuối cùng mọi việc đều đã trôi chảy.

Bộ trưởng bổ sung: thắng lợi còn phải nói thêm nữa là: ta bước đầu rút ra được một số kinh
nghiệm cụ thể, kể cả tri thức bổ ích trong việc này. Trước hết: một lần nữa lại phải khẳng định là
công tác bảo vệ trị an, nhân dân làm tốt, chúng ta đã có tai mắt ở khắp mọi nơi. Một kinh nghiệm
nữa có thể thấy là không cần huy động nhiều lực lượng: nào quân của xã, huyện, nào quân của
tỉnh, nào quân của khu, nào quân của bộ... nhiều quá, ồn ào quá. Không cần thiết! Đánh gián điệp
biệt kích phải nhanh, gọn và bí mật... Cũng đã vỡ ra: chống chiến tranh gián điệp biệt kích, nên
giao hẳn cho bên phản gián chứ không phải việc của cảnh sát trật tự. Nên nhanh chóng tách Cục
Bảo vệ chính trị ra thành lập Cục Phản gián. Ngoài ra cũng cần phải có một cuộc họp liên tịch giữa
Bộ với những ngành liên quan như tỉnh đội và ngay cả công an vũ trang của bộ, để bàn thống nhất
quan niệm thế nào là chiến lợi phẩm, thế nào là tang vật. Chuyện nhỏ thôi nhưng không giải quyết
tốt cũng dễ mất đoàn kết...

Điếu thuốc vẫn không lúc nào rời trên hai ngón tay vàng khè - Bộ trưởng Quốc vui vẻ nói
tiếp:
- Tôi hoan nghênh mọi việc các đồng chí vừa làm được. Tuy nhiên, tôi muốn nhắc lại với một
trong những cái đáng thú vị nhất là ta đã làm chuyển biến được tên toán trưởng. Nó đã hiểu được
ra: đâu là sự thật, đâu là chân lý, và tự nguyện xin cộng tác lập công chuộc tội. Điều đó quan trọng
lắm!.

Rồi ông chuyển sang phần bàn về công việc lập Ban chuyên án. Nhưng trước khi đi vào cụ
thể, ông nhấn mạnh lại ý đồ của ta. Đó là: sẽ dùng người của chúng để moi tim, rút ruột chúng, tức
là tìm hiểu các ý đồ cụ thể của chúng để chủ động phá và tấn công lại, biến ý đồ của địch thành ý
đồ của ta, bắt chúng hoạt động theo ý ta…

Ông cũng nhắc nhở: chuyên án do Bộ làm, nhưng cần được sự nhất trí, hỗ trợ tiếp sức của
địa phương. Vì vậy trước khi chính thức triển khai công việc, Cục của ông Năng phải cử người lên
khu Tây Bắc và xuống cả Sơn La để trao đổi ý kiến với lãnh đạo các nơi đó. Nếu thuận, Ban chuyên
án sẽ được chỉ định như sau: ông Thạc làm trưởng ban, ông Trường làm phó ban, lấy thêm ông
Trần Vạn khu phó Công an khu Tây Bắc tham gia làm uỷ viên, đặc trách hậu cần. Một trinh sát
của Bộ được phân công làm trợ lý cho Ban đó là Nguyễn Nguyên An. Ngoài ra lên trên đó, khi
cần Ban chuyên án có thể đề nghị trên huy động thêm trinh sát hoặc cán bộ công an của Khu, và
tỉnh, huyện đến trợ lực đồng thời tập việc luôn thể, nhằm đào tạo, bồi dưỡng cho anh em ở địa
phương.

Tiếp lời Bộ trưởng, ông Năng trình bầy về những việc cần phải làm gấp: ông Thạc sẽ lên
ngay Khu Công an Tây Bắc trao đổi ý kiến mọi mặt. Trong khi đó ông Trường ở Hà Nội với An
là trợ thủ, tranh thủ lo liệu cụ thể mọi mặt về nhân viên, phương tiện, điện đài và các mặt hậu cần
cho Ban, để có thể lên đường càng sớm càng tốt. Nhưng một trong những việc quan trọng hàng
đầu là ông Trường phải thảo ngay một số bức điện đầu tiên “của toán Goblin” để đánh vào Sài
Gòn báo cáo với “Trung tâm”. Tất cả các bức điện này dù lớn dù nhỏ đều phải trình Bộ để duyệt
trước...

- Đúng! Cần soạn thảo ngay những cái đó. Rồi cho tôi xem - Bộ trưởng Quốc rất đồng ý.

Trước khi giải tán, theo thói quen, Bộ trưởng lại hỏi một câu đã trở thành lệ:

- Các đồng chí có còn ý kiến gì không? - Miệng hỏi mà ông lại thầm e ông Trường, người
hay lắm ý kiến nhất sẽ lại hỏi lại cái này, hoặc “chưa nhất trí” cái khác... Nhưng, không có ai lên
tiếng cả.

Mọi người cùng lục tục ra về. Không khí nhộn nhịp, vui và dường như có cả chút hồi hộp cùng hy
vọng tựa như sắp bắt đầu bước vào một trận lớn. Tuy nhiên, không phải không có người vẫn còn
những nỗi nặng nhọc riêng tư. Ra khỏi cổng, ông Trường gặp An, chép miệng:

- Bà xã mình lại đang thấp khớp cậu ạ, đi không nổi nữa. Tụi nhóc thì cứ như... ngỗng cả...

Nói đoạn ông nhảy lên xe phóng gấp. Khác với nhiều anh em trong Cục, ông lấy vợ khá
sớm, nay đã ba con, đứa lớn lên mười. Vợ ông, do “chính sách” mới xin được vào làm ở xưởng
may quần áo tù. Nhưng chị yếu đau luôn, nhà gần như quanh năm neo bấn...
Rồi đến lượt An cũng gò lưng phóng miết ra bãi Phúc Xá. Dường như cái qui luật sinh hoạt
nhà “lính” không bao giờ thay đổi: Cu Toàn đi nhà trẻ thông tầm. Thuỳ đi làm ca, chưa về. An hí
hoáy mở cửa rồi xuống bếp. Một rá gạo, một mớ rau, một mớ nhộng, mấy chai, lọ muối, mắm,
mỡ... Thuỳ đã sắp sẵn mọi thứ từ lúc còn tối đất để đấy, trưa An về thổi nấu, đỡ vất vả. An cởi bỏ
áo ngoài, bắt tay vào “đánh vật với ông Táo”.

Trời hết sức oi bức. Cả nhà chỉ có độc một chiếc “tai voi” mua lại của một ông được sang Liên Xô tu nghiệp
ki cóp mang về từ năm ngoái. Chiếc quạt này chỉ dành riêng cho cu Toàn. Hai vợ chồng An “chuyên trị”
quạt nan đã quen... Ngoài kia, phía sông Hồng lại có tiếng sấm rền rĩ, rồi cả chớp loang loáng ở chân trời.
Lại sắp mưa to đây! Hè năm nay miền Bắc sao mưa nhiều quá. Đi từ Suối Rút - Chợ Bò về, tới đâu cũng
thấy lụt lội mênh mông cả... Bao giờ mới hết những cảnh này?

Mưa vẫn lắc rắc rơi. Bầu trời là cả một trần mây xám nặng nề. Miền Bắc là như thế, không
mưa thì thôi, đã mưa thường mưa dầm dề thối đất thối cát, lắm khi ngập lụt nữa.

An đầu đội chiếc mũ cối của quân đội, mình khoác mảnh vải nhựa xanh lét, quần xắn cao,
chân mang dép râu cao su đen, chiếc túi tài liệu đeo chéo sườn, bên trong tấm ni lông, gò lưng đạp
xe hối hả.

Lắm việc quá. “Sếp” Trường đã trực tiếp gánh cho khá nhiều việc quan trọng, nhưng phần
của An được phân công “chạy” cũng chẳng ít. Chỉ còn biết tự động viên mình: đây là lần đầu bắt
tay vào việc cùng các anh lớn lo liệu thành lập gấp một Đội (hoặc Ban cũng thế) chuyên án để
bước vào một trận chiến đặc biệt, chủ yếu là trên làn sóng điện để đánh lừa, nhử địch, để moi gan
rút ruột chúng cả về âm mưu cả về vật chất... Đây là một hình thái (hoặc phương thức tác chiến)
mà các “sếp” đã gọi bằng tên nghe cũng hay hay “chơi trò nghiệp vụ” với địch. Nghe nói “nghiệp
vụ”, có lẽ ai cũng tưởng là việc gì gì cũng phải “nhanh như điện”, và về tổ chức, cũng như các
phương tiện... chắc cũng phải khá hiện đại. Nhưng có ai biết đâu cũng vẫn “chân trần, mũ lá áo
tơi”. Trước hết “xin” cho đủ số cán bộ, nhân viên cần thiết đã đủ mệt, vì bộ phận nào cũng cần
người và đang thiếu người. Sau đó còn phải “chạy” tài liệu, phương tiện..., đủ các thứ cần thiết tối
thiểu để làm việc, chắc sẽ “tướt bơ” vì nhiều anh tốt, nhưng cũng chẳng thiếu những vị nguyên tắc
máy móc và quan liêu đến kỳ lạ.

Từ hai hôm nay, trong khi ông Trường liên miên “chạy”, An cũng như cờ lông công. Anh
phải đi xin tem gạo, lĩnh trước tiền lương tháng sắp tới để cho anh em còn gửi lại nhà ít nhiều cho
vợ cho con. Còn phải xin (hoặc mượn) từ chiếc đèn bão, can dầu hỏa (trên rừng làm gì có điện!)
và lo tới từng mảnh vải nhựa che mưa, đi mưa,... tính đến từng chiếc chiếu cá nhân, từng bi đông
đựng nước uống cho anh em mỗi khi lên Khu, về tỉnh họp hoặc truy tìm địch.... Cũng phải xin cho
được một chuyến xe con dù xe tã nát để đưa Đội lên trên ấy. Làm gì có xe lửa, xe buýt! Làm gì có
bất cứ một thứ xe nào lên trên miền núi xa xôi ấy! Chưa hết, còn phải xin đem đi từng cuốn sổ
công tác, xin từng thếp giấy để viết điện, viết công văn, xin (hoặc bỏ tiền túi ra mua) cả một ít sách
báo cho anh em đọc khi nhàn rỗi. Trên ấy làm gì có đài bán dẫn. Hiện nay phải là cấp Cục may
mới được phát hoặc được phiếu để mua cái của quí ấy!...
Tóm lại là nhiều việc quá! Nhưng cái gay nhất chẳng phải là mệt. Nếu mệt mà được việc thì cũng
cam. Đằng này luôn luôn vấp phải những cái “lô cốt” quan liêu, giấy tờ máy móc. Sáng hôm qua,
An tới cơ quan hậu cần xin lĩnh trước một tháng tem gạo cho anh em. Viên trung uý già mặt cứ
lạnh như tiền:

- Hết rồi!

An hoảng lên:

- Báo cáo đồng chí, lệnh Bộ trưởng, chúng tôi phải lên đường gấp. Vậy làm sao bây giờ?.

Nói tới Bộ, viên trung uý già mới lè nhè:

- Vậy phải để mai, xem may ra có còn ít nào không...

Hình như có những con người chỉ thích gây khó khăn, thậm chí thích lấy sự nghiệt ngã để
tỏ ra nghiêm túc về nguyên tắc. Cũng có những con người phải phát cho ai bất cứ cái gì dù là của
công cũng như đứt từng khúc ruột y như phải phát đi của cải nhà mình... Mà lại chẳng phải là tinh
thần yêu quí, gìn giữ của công! Đó chỉ là một thói xấu, một tính cách kỳ cục của mấy tay dốt đặc...
Khi tay trung uý kia nói vậy, An kêu lên:

- Ngày mai? Ngày mai lệnh của Bộ chúng tôi phải lên đường rồi! Vậy chúng tôi phải... báo
cáo lại với Bộ thôi...

Tới lúc đó tay trung uý mới gườm gườm nhìn anh một lúc rồi nói:

- Vậy... tôi phải tạm cắt vào khoản của bộ phận khác. Nhưng anh phải ký vay trước...

Đến lúc đó An cáu thực sự rồi. Anh dằn giọng:

- Ký thì tất nhiên lĩnh là phải ký. Nhưng nhà tôi không đến nỗi thiếu gạo phải đi vay đâu
nhé! Anh có tạm ứng hay không thì tuỳ anh. Chúng tôi sẽ báo cáo với Bộ.

Tay kia đỏ mặt lên. Thế là hai bên to tiếng. May có một ông đại uý già chạy ra can thiệp
mọi việc mới xong xuôi. An cầm nắm tem gạo ra về mà chỉ thấy buồn. Buồn cả cho mình có những
lúc thiếu bình tĩnh. Tranh hơn, chấp lời với những loại người như thế làm gì! Ừ thì vay cũng được
chứ sao, miễn là được việc.

Chưa hết. Sang tới bộ phận tiền lương, anh lại gặp một bộ mặt khó chịu khác: Một tay còn
trẻ nhưng đã sớm có phong cách của... một con cáo già. Hắn bảo tiền mặt hết. May sao đã có kinh
nghiệm bên tem phiếu, An đã xin được mấy chữ của một ông “sếp” lãnh đạo hậu cần, đồng thời
anh hết sức nhẫn nhục đứng hàng giờ nài nỉ: “Đồng chí thông cảm, cố giúp cho, chúng tôi cám ơn
lắm”. Nói mãi, hắn mới quăng ra một câu gọn lỏn: “Vậy chiều, 2 giờ!”. Rồi ngoắt đi ngay. An chỉ
còn biết nuốt cơn giận như nuốt một cục gạch vào họng rồi ra về. Chiều, đúng hẹn, anh mò tới.
Nhưng tên quản lý đi đâu vắng. Gần như điên lên vì sốt ruột, nhưng rồi tới đúng 4 giờ chiều anh
cũng lĩnh được một tháng lương ứng trước cho anh em...
Việc linh tinh đã hòm hòm, sáng nay An phải làm một việc khác: đem giấy của cơ quan
Bộ tới trại giam Thanh Đồng, một trại nhỏ trước đây để giam thường phạm nhẹ. Nay các ông Thạc,
Trường và An bàn nhau đề nghị Bộ chỉ thị cho trại chuẩn bị tiếp nhận “các khách mời” (gián điệp
biệt kích Mỹ - Diệm) mà chắc chắn bắt đầu từ nay sẽ có. Công việc gọi là “ngoại giao” này lẽ ra
ông Trường đi thì “oách” hơn, nhưng ông quá nhiều việc nên đã giao cho An. Cũng may, công
việc này khá suôn sẻ. Tuy nhiên ông trại trưởng cứ nửa đùa nửa thật hỏi: “Nhưng liệu có khách ấy
không, hay rồi phèo cả?”. An chỉ cười, không đáp lại.

Sáng ngày thứ ba, An tranh thủ đi mua một ít sách, truyện. Mưa thì mưa, anh cố lùng bằng
được mấy cuốn “Chiến tranh và hoà bình”, “Thép đã tôi thế đấy”, “Cây thập tự thứ bảy”, “Thám
tử Gioóc”..., rồi trở về gặp ông Trường và ông Thạc.

Khi tới cơ quan, An rũ mảnh ni lông, cài ngoài cửa, bước vào thấy ông Trường một mình
đang như bò trên chiếc bàn mộc để đọc mấy tấm bản đồ. An về, ông rất vui:

- Thế nào? Xong rồi hả? Nom mặt cậu, không hỏi tớ cũng biết.

An tươi cười ngồi xuống, vuốt hai ống quần nhàu nát, ướt át.

- Báo cáo, xong! Việc bản đồ cũng ổn cả rồi hả anh?

Ông Trường chép miệng:

- Cũng xong, nhưng lằng nhằng mãi. Nó cứ không chịu phát mới lạ chứ. Lại còn vặn vẹo:
để làm gì? Đến khi tớ cáu phải quát lên: Vậy có phát hay không thì bảo, để làm gì thì lên gặp Cục
trưởng mà hỏi! Lúc đó nó mới chịu đưa cho. Nó thanh minh: xưa nay chẳng mấy khi thấy các anh
hỏi tới bản đồ, để mốc cả...

Rồi ông cười khà khà:

- Của đáng tội, dân trinh sát, cán bộ mình cũng ít khi rờ tới bản đồ thật. Mà cũng dễ hiểu:
gọi là công an nhưng nhiều anh có biết đọc bản đồ chó đâu, nên chẳng mấy khi rờ tới. Bây giờ
mình hỏi, nó mới nghi hoặc... Thế mới biết sự đào tạo của mình cho tới năm 60, 61 này vẫn còn
sơ sài. Phải đề nghị trên đưa cả việc học đọc bản đồ vào chương trình của các lớp, các trường của
Bộ và Khu nữa.

Đến lượt An báo cáo công việc của mình. Anh cũng chẳng giấu mọi nỗi “gian truân”. Ông
Trường lại cười kha kha rồi lắc đầu:

- Thế đấy. Còn quá nghèo, quá lạc hậu, nhưng nước ta đã sớm “khá giả” về tệ quan liêu, cửa quyền.
Đó là di hoạ của tư tưởng phong kiến.

An nửa đùa nửa thực:


- Nhưng thế mà vẫn đánh thắng được giặc Mỹ mới lạ, mới tài chứ! Đấy anh xem, có ai
chuẩn bị để vào cuộc “chơi” với thằng Mỹ mà lại thiếu thốn đủ thứ và... luôm nhuôm, như ta hôm
nay không?

Ông Trường nguýt một cái:

- Hay! Chú mày đã học được cái lối nói ấy, sẽ còn tiến xa đấy em ạ!

Rồi cả hai anh em cùng bật cười xoà. Trở lại nghiêm chỉnh, ông Trường cho An biết mấy
việc ông lo, từ việc xin nhân viên mật mã, nhân viên báo vụ... cho tới cảnh vệ, y tá, cấp dưỡng, về
cơ bản coi như ổn. Nhưng ông có vẻ hào hứng hơn cả với cuộc làm việc với Ban cơ yếu của Bộ
để truyền đạt chỉ thị của Bộ lập một đài đối lưu hai chiều thường trực 24 trên 24 giờ, nhằm bắt đầu
từ nay sẽ thường xuyên liên lạc với Ban chuyên án và Tây Bắc. Mật danh đài này sẽ là A20. Một
tin vui nữa, ông cho biết: Ông Thạc vừa điện về báo là công việc trên đó cũng đã thu xếp xong.
Địa phương hoàn toàn nhất trí mở chuyên án. Một địa điểm bên sông Đà đã được “chấm” làm “trụ
sở” cho Ban chuyên án (hoặc Đội) lên ở và làm việc tạm. Ông Trần Vạn, phó khu Công an cũng
rất phấn khởi khi được Bộ chỉ định tham gia Ban, đặc trách về mặt hậu cần…

Bây giờ, vẫn theo ông Trường, ông còn một việc quan trọng nữa, coi như cuối cùng: 20
bức điện sẽ gửi cho “chúng nó” ông đã thảo xong, sẽ đưa lên Cục trưởng Công Năng xem, rồi trình
lên Bộ trưởng Quốc duyệt lần cuối. (Đã có qui định: một chữ đánh đi cũng phải có phê duyệt của
Bộ trưởng). Bộ trưởng duyệt xong nhưng còn phải làm việc với tên Diêu để bảo nó sửa lại văn
phong sao cho đúng với văn phong quen thuộc cả nó. Nếu không, bọn Mỹ nghiên cứu sẽ dễ dàng
phát hiện ra ta giả tạo ngay. Đây là một chi tiết không lớn nhưng lại thuộc những chi tiết cực kỳ
quan trọng phải chú ý mà nhóm các ông Thạc, Trường cùng An đã thống nhất.

An nghe vừa thấy vui vừa thấy khá ngợp trước công việc. Nhiều và mới quá, chưa bao giờ
mấy anh em từng làm như vậy. Đây là chuyên án đầu tiên do Cục, mà cũng là Bộ trực tiếp tổ chức
và điều hành. Có thể nói ta chưa có nhiều kinh nghiệm hoặc mô hình gì, kể cả kinh nghiệm của
nước bạn. Bộ chỉ có thể chốt mấy nguyên tắc ban đầu: Bí mật, thầm lặng, phát hiện cho được âm
mưu, kế hoạch và địa bàn hoạt động của địch... Nhưng cụ thể đánh và chống ra sao, còn phải vắt
óc ra mà nghĩ. Bởi vậy, ông Thạc, ông Trường cùng anh em trong phòng đã phải cố gắng cùng
mầy mò. Có hôm nghỉ trưa cũng không có ai về. An qua loa một chút ở căng-tin, rồi mọi người
cùng trở về phòng làm việc, cởi trần, nằm cả lên mấy chiếc bàn mộc mà “tán” với nhau. Tán mãi
rồi dần dần cũng ra được kế này, cách nọ để trình lên Cục và Bộ... Cũng bởi thế hôm nay guồng
máy mới chạy được kha khá...

Khá nhanh, chỉ sau có một ngày đệ trình 20 bức điện lên Cục rồi Bộ, ông Trường đã được
trả lại đầy đủ và dường như không có sửa chữa gì mấy. Đặc biệt có ý kiến của Bộ trưởng ghi ở
một góc bức điện thứ nhất: “Đồng ý đưa cho tên D. sửa lại văn phong cho đúng là của nó”. Mừng
quá, ngay sáng hôm đó, ông lại quày quả đạp xe tới trại giam Thanh Đồng để gặp tên Diêu.

Không phải đợi lâu, Cầm Diêu đã có mặt, khe khẽ bước vào căn phòng đã quá quen thuộc
với hắn. Nhìn thấy ông Trường hắn không khỏi ngạc nhiên vì gần một tuần qua không thấy ông
tới, mà chỉ có An. Ông Trường chính là người đầu tiên đã hỏi cung và dẫn dụ hắn những điều phải
trái. Nó rất nể cái uy của ông và cũng sớm thấy ông rất cương trực, thẳng thắn và thương người.
Vì thế cũng ngay từ buổi đầu, nó đã không có ác cảm với ông.

Ông Trường chỉ cho nó chiếc ghế đặt ở gần ngay chiếc bàn của ông:

- Thế nào? Khoẻ chứ?

- Cảm ơn cán bộ. Tôi cũng đã... ăn, ngủ được khá hơn trước.

- Này cái ảnh cậu chụp cùng bà cụ và cô em ở đây, tôi đã được cán bộ An cho xem. Đẹp
đấy! Sẽ cho cậu làm kỷ niệm.

- Dạ, cảm ơn cán bộ.

Ông Trường ngắm nhìn thấy tên Diêu quả là đổi khác khá nhiều so với hôm đầu bị đưa về
đây. Bộ râu quai nón đã được cạo lại sạch sẽ, gương mặt không còn teo tóp nữa, cặp mắt đã trở lại
sáng sủa, bình tĩnh. Quả là tâm tư đã có tác động rất lớn đến thể lực và thần sắc con người.

- Tôi vừa đi công tác về, đã được biết tất cả những gì tốt đẹp xảy ra với cậu... Tôi rất mừng cho
cậu.

- Thưa cán bộ, đúng là... tôi như vừa tỉnh lại sau một cơn mê...

- Tôi biết trước sau rồi cậu sẽ hiểu ra tất cả những gì sai, đúng...

- Thưa cán bộ, tôi sẽ suốt đời không bao giờ quên ơn các cán bộ đã tìm lại được mẹ và em
gái cho tôi. Tôi cứ tưởng như mình đã chết đi nay sống lại. Quả thật bao năm qua tôi cứ nghĩ rằng
mẹ và em tôi đã... Bây giờ mới biết tôi lầm. Vâng, tôi đã lầm. Tôi có lỗi. Tôi có tội nữa, với các
cán bộ, với tất cả mọi người trên quê hương...

Ông Trường cười:

- Tôi hiểu anh! Như thế là rất tốt cho anh nếu bây giờ anh đã thực sự nghĩ lại được như
vậy. Nói thật, tôi còn mừng hơn nữa khi được cán bộ An cho tôi xem cả bản tự nguyện cam kết
của anh để trình lên cấp trên.

- Thưa cán bộ, cán bộ có chú ý thấy có cả chữ ký của mẹ và em gái tôi không ạ?

Ông Trường cười, gật đầu:

- Có. Rất hay! Có cả bà mẹ và cô em ký làm chứng, bản cam kết của anh càng thêm có ý
nghĩa...

- Thưa cán bộ, tôi xin mẹ tôi và em tôi cùng ký vào đấy, là muốn chứng minh tôi thật lòng,
hoàn toàn thật lòng mong muốn được làm việc, trước hết để mẹ và em tôi tin là tôi sẽ không còn
ngu dại làm điều gì để mẹ và em phải đau lòng nữa.
- Chúng tôi tin anh! Cũng vì vậy hôm nay tôi đem đến cho anh cơ hội đầu tiên để cho anh
được làm việc...

Nói đoạn ông Trường mở xà cột (túi da đựng tài liệu) lấy ra 20 bức điện mà ông đã dự thảo. Trước
khi đưa cho hắn, ông nghiêm chỉnh và thận trọng cân nhắc từng lời vắn tắt lại việc này, cho hắn
hiểu được ý đồ của ta mà phục vụ.

Tên Diêu không khỏi ngạc nhiên. Bởi chính y cũng chưa bao giờ hiểu được thật rõ thế nào là “chơi
trò nghiệp vụ”. Trước đây, ở Sài Gòn, y chỉ được nghe thoáng qua, rất thoáng qua về chuyện này
ở đâu đó. Y không ngờ “những người ở ngoài Bắc” này lại có vẻ rất sắc xảo, rất sâu về chuyện này
đến thế. Y lễ phép:

- Thưa cán bộ Trường, thú thật bây giờ tôi mới được biết chiến thuật và các phương thức
phản công này trong cuộc chiến bí mật. Tôi cũng không ngờ các cán bộ đã biết đã chú ý cả đến
những việc rất tinh tế này. Dạ, đúng, nếu điện không có dấu vết văn phong của chúng tôi mà tụi
Mỹ đã biết, đã thuộc thì đúng là tụi nó sẽ phát hiện ra ngay đó là những bức điện giả. Dạ, việc này
tôi xin làm ngay. Cán bộ cứ yên tâm. Tôi có thể xin thề…

- Khỏi cần! - Với phong cách tựa các “anh Hai Nam Bộ”, ông Trường khoát tay cười - Anh
cứ làm việc đi! Anh làm tốt tới đâu, chúng tôi biết tới đó chứ!

Tên Diêu bắt đầu chăm chú đọc các bức điện. Mỗi bức chỉ mấy dòng đủ đánh đi không quá
20 phút một lần. Khi đọc xong hắn ngẩng lên, rụt rè và do dự một chút rồi gắng mạnh dạn hỏi:

- Thưa cán bộ, sao không thấy giải thích sự chậm trễ ạ? Và cả chuyện tên G6 chết vì dù không mở
nữa?...

Ông Trường lắc:

- Chưa cần! Quan trọng nhất là báo cho “nó” biết là toán đã an toàn tới được địa điểm tập
kết, tránh được mọi nhóm tuần tra, các trạm gác. Nay xin bắt liên lạc. Bắt được liên lạc, và khi đó
mới báo về tên G6.

Thêm một lần nữa tên Cầm Diêu lại phải thốt lên:

- Dạ thưa, không ngờ các cán bộ lại tinh tường đến như thế. Vậy còn điều nữa mà tôi định
xin cán bộ thêm vào là yêu cầu “Trung tâm” tiếp tế ngay điện đài, thuốc men và nhất là vũ khí...
Nhưng cứ như ý kiến cán bộ vừa nói thì không cần hấp tấp là phải. Cứ đàng hoàng, chắc chắn đã…

Ông Trường gật đầu:

- Đúng! Bọn Mỹ rất quái. Mình cũng phải rất tinh và thận trọng. Nói tóm lại phải làm sao cao tay
hơn nó thì mới thắng.

Từ giây phút đó, Cầm Diêu nhìn ông Trường bằng cặp mắt gần như hoàn toàn cảm phục.
Ông Trường tiếp:
- Vậy, cậu chú ý viết lại sao cho đúng kiểu như mọi khi cậu vẫn điện về P54 ấy. Tối nay
tôi cần lấy ngay. Được chứ? Cũng ngắn thôi mà.

- Dạ, được, tôi xin viết ngay! Xong ngay ạ.

- Thế tốt!

Có hơi khác một chút - xẩm tối hôm đó ông Trường mắc việc. An thay ông tới trại giam
nhận được những bức điện mà Cầm Diêu được giao viết lại.

20 bức điện được đem về, ông Trường xem lại và cười vang: “Thằng này cũng khá thông minh!
Viết lách được! Đúng là giọng điệu và ngôn ngữ của sĩ quan ngụy, mà là ngụy thiểu số có chút
chữ nghĩa. Không ai có thể bắt chước nổi. Nói đoạn ông nhét tất cả vào xà cột, và tức tốc lên Cục
để báo cáo ngay, đồng thời nhận chỉ thị xuất phát, đưa những người của Ban chuyên án lên sông
Đà.

Ông Công Năng đang có ý chờ. Thấy ông Trường tới, ông mời và làm việc luôn. Phòng
làm việc của Cục trưởng cũng đơn sơ. Bàn ghế đều xuềnh xoàng. Chỉ hơn bên phòng ông có lẽ là
một chiếc điện thoại và chiếc quạt tai voi. Không có trà. Chỉ có nước đun sôi để nguội. Vốn là
“người của công việc” không hay chuyện trò kề cà, lan man, ông Năng ngồi vào bàn luôn. Nhận
20 bức điện dự thảo, ông chưa nói gì mà mở một tấm bản đồ ra. Ông chỉ cho ông Trường đâu là
đường 41, đâu là đường 13, đâu là Phù Yên, đâu là Sơn La, Thuận Châu, Mai Châu và đâu là sông
Đà... Cuối cùng ông thong thả nói, rất nghiêm túc:

- Sau đây nếu liên lạc được với bọn chúng, chắc chắn các anh sẽ phải lần mò, đi sâu vào
rừng núi rất nhiều theo yêu cầu của chúng. Các anh sẽ phải đi theo bản đồ. Cải trang thành dân địa
phương. Không được hỏi đường bất cứ một ai. Hết sức bí mật như chính các anh là các toán gián
điệp biệt kích... Còn bây giờ, các anh đi xe tới một địa điểm bên bờ sông Đà, địa phận Mộc Châu,
sẽ gặp một đơn vị gọi là “Hợp tác xã lâm nghiệp Tú Nang” sẽ có người đón. Ám hiệu là người đó
tay cầm quạt, quấn khăn mặt bông ở cổ, còn anh thì cầm mùi xoa ở tay trái. Mật khẩu, hỏi: “Các
đồng chí có phải bên địa chất Sài Khao không?”. Trả lời: “Đi kiếm lâm thổ sản đây”. Còn các bức
điện rồi sẽ trao lại cho các anh sau khi có chữ ký phê duyệt của Bộ trưởng. Các anh phải mã hoá
cho kịp. Hạn cuối cùng: “Đúng 13 giờ 30 ngày 10 tháng 6 này, phải lên được phiên đầu tiên!”.

Ông Trường là tay lăn lộn đã nhiều, ngồi nghe mà cũng thấy ngợp.

* *

Ngày lên đường đã tới. Mọi người đã tập hợp từ tinh mơ, chỉ trừ nửa tiểu đội công an vũ
trang để làm cảnh vệ sẽ lấy ở Sơn La, và hai cậu cơ yếu, báo vụ đã đi trước với ông Hạc. Ông
Trường, Nguyễn Nguyên An và anh y tá có mặt sớm nhất. Đặc biệt: Tráng A Páo, nhân viên báo
vụ của toán Goblin cũng được đưa đi theo. Vì nhiệm vụ đặc biệt, hôm nay nó được phép tạm trút
bỏ đồ tù để mặc một bộ quần áo nâu. Ấy vậy mà hôm nay ai cũng thấy nó hớn hở, sung sướng y
như một đứa trẻ lần đầu được mặc quần áo đẹp và mới. Nó luôn tươi cười, rỉ tai An:
- Thưa cán bộ, ở trong đó họ cũng cấp tiền cho chúng em may cả com lê, diện lắm. Nhưng
em chưa bao giờ thích như bộ đồ này cán bộ à. Nó tốt lắm đấy!

An cười, gật đầu, hỏi lại:

- Vì đây là quần áo Cách mạng cho, phải không?

- Phải rồi! Thưa cán bộ, tí nữa thì em bị tội chết, vậy mà bây giờ lại được đi công tác với
các cán bộ thế này, vui quá!

Trước khi xe lăn bánh, ông Trường cùng An kiểm lại lần cuối các phương tiện cần thiết
đem đi. Trong lúc cùng kiểm lại các phương tiện, ông Trường hỏi An:

- Cậu cũng ăn sáng tàm tạm thôi đấy chứ? Cậu Tân lái xe đã dặn đi con đường “Hành xác” hôm
nay, ăn nhiều sẽ nôn bằng hết đấy.

An gật đầu. Ông Trường thì thào tiếp:

- Cậu thế nào, chứ tớ suốt mấy hôm nay cứ mờ cả mắt để chuẩn bị cho đoàn, phút cuối
cùng lại còn phải dự buổi phát thử mấy bức điện. Việc nhà chẳng ngó được cái quái gì hết. Tháng
lương vay trước được, chỉ kịp ném lại cho bà xã một nửa, thế rồi... alê, tút!... Chỉ lo nhất là lũ trẻ...

An khẽ thở dài:

- Tôi cũng vậy thôi, anh!

Mọi người cùng lên xe. Chiếc com măng ca đít vuông Rumani bắt đầu lăn bánh. Chỉ một
lúc sau, xe đã ra khỏi thành phố. Mọi người lim dim ngủ, vì sáng nay dậy quá sớm. Riêng An dù
cố, vẫn không tài nào ngủ được. Nhiều chuyện trong nhà vẫn còn lộn xộn trong đầu óc anh. Sáng
nay đã cố bí mật rón rén dậy để cu Toàn ngủ được ngon. Nào ngờ nó cũng thức dậy liền. Có lẽ nó
đã nghe được hai vợ chồng nói chuyện với nhau từ tối hôm trước, nên cứ bám chặt lấy An mà
khóc: “Không! Bố đừng đi!”. Dỗ thế nào cũng không được, tội quá, muốn chảy cả nước mắt. Nó
biết lần này An sẽ đi xa, đi lâu... Ôi, thằng bé vẫn gầy tong teo. An vẫn luôn thầm mơ ước giá có
phép thần gì cắt, xẻ được thịt da để đắp vào cho nó, anh cũng xin làm ngay...

Xe chạy một mạch, qua Hà Đông, Xuân Mai, rồi Hoà Bình, Suối Rút, dốc Cun... Đã ngả
sang chiều rồi, đường cứ mỗi lúc một vắng teo. Không một quán hàng. Chỉ có rừng núi hoang
vắng với con đường toàn đá lổn nhổn, và những ổ gà lớn nhỏ, không một bóng người. Mãi sau mới
thấy hai chiếc xe tải Môlôtôva lắc lư như hai con trâu già từ phía Sơn La đổ xuống. Mệt mỏi, chẳng
ai buồn hỏi nhau một câu. Đói quá rồi. Hàng quán vẫn hoàn toàn không có. Nhưng rồi cũng thấy
một chiếc lều xiêu vẹo trống huếch cả bốn bề, trong có một chiếc chõng nứa ghép đơn sơ, trên bày
sáu bảy quả chuối, dăm quả dưa chuột và ba tấm mía. Một mảnh cót cũ kỹ xé ra từ cái mẹt nào đó,
treo lủng lẳng ở cột, trên có nguệch ngoạc mấy chữ viết bằng vôi: “Quán tự giác”. Mừng như bắt
được của, xe dừng lại. Mọi người sà vào quán ăn ngấu nghiến hết bay, rồi để lại một ít tiền. Xe
tiếp tục chạy. Ước chừng khoảng năm sáu giờ chiều. (Ước vậy theo bóng mặt trời chứ cả ông
Trường và An đều không có đồng hồ) mới tới đất Mộc Châu. Lại đói. May lại gặp một quán tự
giác nữa với nửa nải chuối và một bắp hoa chuối. Lại sà vào ăn. Riêng hoa chuối đành chịu vì
không tiện nấu nướng dọc đường. Đêm xuống dần. Cả lái xe, cả người trên xe đều đã mệt rã. Ông
Trường hội ý với An rồi quyết định dừng lại. Ngủ giữa rừng. Sáng hôm sau khi mặt trời chói lói
mới trỗi dậy, đoán phải tới bảy giờ. Mọi người vui mừng vì qua một đêm an toàn, vô sự.

Xe lại tiếp tục đánh vật với con đường “Hành xác” rồi rẽ về phía sông Đà. Khoảng gần 10
giờ, An nhìn lên phía trước đã thấy dòng sông thấp thoáng hiện lên sau những ngọn lau trắng ở
bên đường. Tiếng thác gầm thét đã vẳng lại từ xa xa càng làm cho dòng sông như thêm nổi rõ hồn
thiêng sống động. Bên kia sông là những triền núi đá dựng đứng như thành làm cho cảnh trí càng
thêm hùng vĩ, thơ mộng lạ lùng. Tất cả mọi người trên xe cùng như tỉnh lại trong nỗi mệt nhọc
đường trường. Một cảm giác, một rung động nào đó, vừa như một niềm tôn kính huyền bí, vừa
như một nỗi khát khao yêu mến bỗng như xâm chiếm mọi tâm hồn... Một lúc sau An bỗng nhìn
thấy một tấm biển gỗ cắm ở bên đường nhưng đổ quẹo sang một phía. Trên tấm gỗ mộc ấy nổi lên
mấy chữ viết bằng sơn xanh: “Hợp tác xã lâm nghiệp Tú Nang”.

- Đây rồi! - An như reo lên.

Cũng vừa lúc đó, một thanh niên chạy tới, giơ tay ra hiệu cho xe dừng lại. An và cả ông Trường
cùng nhận ra ngay tay Thức, nhân viên cơ yếu của Bộ đi trước cùng ông Thạc. Chẳng còn cần đến
tín hiệu, ám hiệu với mật khẩu gì nữa:

- Đâu, anh Thạc đâu? Có gần đây không? - ông Trường hỏi.

Thức cho biết: nơi của Ban chỉ còn cách đây khoảng 100 mét, rẽ vào rừng, đi qua một con
suối nhỏ. Nơi đó vốn trước đây là hai cái lán của một nhóm khảo sát địa chất sông Đà. Họ đã bỏ
đi từ lâu. Lán hoang phế, đổ nát, ông Thạc đã cho anh em sửa sang lại, ở tạm được.

Thế là gửi xe lại Hợp tác xã lâm nghiệp, cả nhóm đi theo Thức vào luôn “Khu khảo sát
sông Đà” (về sau anh em lấy tên đó để đặt cho nơi ở của Ban, để có một địa chỉ nhận thư hoặc
công văn của tỉnh, huyện... gửi tới). Ông Thạc đang ngồi đợi. Tất cả cùng ôm chầm lấy nhau, vui
như đã lâu lắm mới được gặp lại, hoặc như ra nước ngoài gặp được nhau ở Mát-xcơ-va, hoặc Bu-
đa-pét vậy.

Hai chiếc lán đã được sửa sang lại nhưng vẫn rất tuềnh toàng. Đặc biệt ở đây có quá nhiều
dĩn. Vừa ngồi một chút dĩn đã bu đầy, đốt ngứa râm ran. Ông Thạc cười hiền:

- Vì an ninh Tổ quốc, ta lại “về rừng” một phen, phải không các bạn?

Sau khi hai ông Thạc và Trường cùng An trao đổi ý kiến về công việc, anh em thu xếp đồ
đạc, phân chỗ ở xong là bắt đầu bữa trưa. “Anh nuôi” đem ra: Chỉ có cơm nguội và ít sắn luộc,
cùng măng rừng nấu với mắm tôm. Nhưng đói, ăn vẫn thấy ngon vô cùng. Ông Thạc phân trần với
mọi người như có lỗi:

- Trên này chợ búa rất xa, mà là chợ miền núi thì các anh chắc biết: còn có cái gì! Mấy
hôm nay bọn tôi không măng rừng thì rau tầu bay, chán rau tầu bay lại rau má... Làm gì có cải, có
cần, cà chua, xa lát ở đây.
Dĩn vẫn tiếp tục tấn công. Nhìn ra xa xa, sông Đà chẳng còn mấy gợi cảm như khi mới
đến. Xung quanh chỉ có những núi cùng rừng, xanh ngắt một mầu nguyên thuỷ hoang sơ... Mấy
anh thanh niên nhân viên trong Ban đã sớm ngao ngán ngáp dài. Nhưng vẫn không thể quên: giờ
lên phiên liên lạc với Sài Gòn sắp đến. Ông Thạc, ông Trường lệnh cho các nhân viên quay máy
phát điện, báo vụ viên cùng Tráng A Páo leo lên cây cao bắc ăngten, kiểm tra, chuẩn bị máy móc
thật đầy đủ. Nửa tiểu đội công an vũ trang của tỉnh đã đến từ hôm trước, dựng thêm một lán ở cạnh
Ban, cũng được lệnh bắt đầu triển khai canh gác nghiêm ngặt xung quanh.

13 giờ. Những người trực tiếp đều có mặt bên máy. Không đông lắm: chỉ có hai ông Thạc, Trường và An.
Còn toàn là nhân viên kỹ thuật của ta và Tráng A Páo. Bữa nay, lần đầu tiên Páo sẽ phải phát đi các bức
điện của chúng ta. Đó là những “phát đạn đầu tiên” bắn trả lại bọn Mỹ ngụy ở Sài Gòn trên mặt trận bí
mật đặc biệt này. Đây cũng là lần đầu tiên trong đời vẫn với công việc kỹ thuật này nhưng hắn đã thực
hiện trên chiến tuyến của Cách mạng. Rõ ràng bắt đầu có sự thay đổi lại hoàn toàn trong công việc và cũng
có thể là thay đổi cả số phận hắn. Rõ ràng sắp diễn ra một sự kiện trọng đại đối với hắn, đánh dấu bắt đầu
một cuộc “thay da, đổi máu”. Vẻ mặt hắn lúc nãy còn vui tươi, vô tư lúc này đây trở nên rất nghiêm trang
và có phần lo lắng. Hắn lo phiên liên lạc đầu tiên nếu thất bại, hắn sẽ không còn được tin cậy nữa. Thậm
chí hắn có thể bị mang tội đánh lừa cán bộ... Hắn ngồi xổm bên chiếc máy thu phát rất hiện đại của Mỹ,
đôi môi hơi mím lại, đôi mắt xếch một mí mở căng long lanh. Trên ngọn cây, chiếc ăngten nhô cao hơi
rung rinh trong gió. Nhóm cán bộ cùng rút dép cao su lót chỗ, ngồi xuống xung quanh, chờ đợi, quan sát
và giám sát mọi việc. Chủ trương của Ban: phiên đầu chỉ phát đi hai bức điện, mặc dầu tất cả 20 bức đã
được mã hoá hết theo đúng khoá mã của Sài Gòn, có đủ tín hiệu an toàn báo vụ, tín hiệu an toàn mật mã
và nhất là tín hiệu cá nhân của toán trưởng để làm bằng về sự an toàn của toàn thể toán Goblin.

An ngồi hơi xa hai ông Trường và Thạc vì cả hai ông đều hút thuốc lá như ống khói tầu thuỷ, mà
toàn thuốc sợi rẻ tiền khét mù. Anh lặng ngắm quang cảnh quá đỗi đơn sơ của phiên liên lạc điện
đài đầu tiên với Mỹ ngụy: chỉ có một tên báo vụ mặc quần áo nâu như một thanh niên nông thôn
ngồi bên chiếc máy nhỏ, cạnh nó là anh báo vụ viên chuyên nghiệp của ta ngồi xổm, khoanh tay
lên hai đầu gối, im lặng theo dõi về kỹ thuật, y như một gã rỗi việc đến ngồi xem chơi, và xa hơn
chút là hai anh thanh niên quay ragono... Tất cả chỉ có thế. Nếu không biết, giả dụ bất chợt nom
thấy cảnh này có lẽ ai cũng chỉ cho đây là một nhóm địa chất hoặc lâm nghiệp nào đó đang tạm
dừng chân bên một bìa rừng để truyền tin báo cáo về cơ sở, một công việc đều đặn hàng ngày và
có thể là rất nhàm chán. Liếc nhìn ông Thạc và ông Trường, An thấy gương mặt cả hai người cũng
đều khá hồi hộp. Đúng là hai vị chỉ huy sắp vào trận. Dù lão luyện đến mấy, rõ ràng họ cũng không
tránh khỏi xúc động trước giờ mở màn của trận đánh đầu tiên, lại rất mới mẻ này. An nhớ lại năm
1954, năm cuối của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi ấy anh vẫn còn làm địch vận bên quân đội,
chưa chuyển sang công an. Anh đã từng được đi với một số vị chỉ huy từ tiểu đoàn tới trung đoàn
để sẵn sàng đón nhận tù binh đưa ra tuyến sau. Anh cũng đã chứng kiến những giây phút cảnh
trước khi nổ súng tương tự thế này. Có vị chỉ huy hồi hộp đến nỗi không ăn nổi miếng cơm, chỉ
uống mấy ngụm nước rồi vào trận. Có người cũng không kém phần xúc động nhưng đầy tính lãng
mạn: mặc bộ quần áo mới nhất để vào trận, để nếu chết thì cũng chết trong bộ quân phục chỉnh tề
nhất, mà thắng thì cũng thắng trong bộ áo quần đẹp nhất. Có người lại chỉ hay gắt, cái gì cũng gắt,
ngược lại có người trước khi nổ súng chỉ cười, cái gì cũng cười, nhưng người ta hiểu: nụ cười ấy
không hẳn chỉ là biểu hiện của niềm vui và sự bình tĩnh... Hôm nay, ở đây không có chết chóc, vì
là mặt trận không có tiếng súng. Nhưng cũng có thành, bại. Thành, không nói làm gì, nhưng còn
bại thì sẽ uổng biết bao công sức trí tuệ của không ít con người đã phải mầy mò để tìm cho ra
những cách đối phó và đánh địch, mà chẳng có một tài liệu nào sẵn có hướng dẫn, chẳng có một
kinh nghiệm nào cụ thể để học tập, áp dụng. Nhưng quan trọng hơn nữa: nếu thất bại sẽ không tài
nào “moi ruột” được kẻ thù để biết nó muốn gì, làm gì… trong cuộc chiến tranh đặc biệt này, ta sẽ
khó tránh được bị động...

13 giờ 15. Tất cả đều im phắc. Chỉ còn nghe thấy tiếng gió thổi xào xạc trên các vòm cây,
tiếng ragono quay rè rè đều đặn, và tiếng những con thác sông Đà ầm ào ở xa xa...

13 giờ 25. Lệnh kiểm tra lần cuối toàn bộ các thông số kỹ thuật, nhất là tần số liên lạc với
đài đối của “Trung tâm” địch ở Sài Gòn.

13 giờ 30. Tráng A Páo, mặt hết sức căng thẳng nom như lạ hẳn đi, ngoái lại nhìn ông
Thạc. Một cái gật đầu và một cái vẫy tay ra hiệu.

Bàn tay của Tráng A Páo như run run cầm lấy nút tần số trên chiếc thu phát nhỏ nhắn nhưng cực
mạnh, bắt đầu xoay đi... Mọi người cùng nín thở. An cũng muốn thốt lên trong lòng mình: “Thế là
trò chơi bắt đầu!” và anh hiểu giờ phút này ở xa tới hàng ngàn dặm có những nhân vật lớn của ta,
và những tên chóp bu của địch cùng đang căng tai, căng mắt theo dõi những giây phút quan trọng
sắp xảy ra ở cái xó rừng này.

Một phút. Rồi hai phút, từ trên chiếc đài thu với ngọn đèn tín hiệu mầu đỏ tươi, bỗng bật
lên những tín hiệu “đa đít đít đa”... Tiếng nghe hết sức rõ và vang, thích quá. Tất cả mọi người gần
như bật cả dậy. Trong tất cả những gương mặt mừng rỡ lúc đó, gương mặt của Tráng A Páo tràn
ngập niềm vui và nỗi mừng dường như hơn ai hết. Thế là nó đã bắt được liên lạc, cũng có nghĩa
nó đã làm được những gì mà nó đã hứa... Ông Thạc, ông Trường cũng đốt mỗi người một điếu
thuốc, rít những hơi rõ dài.

- Nghe thánh thót, sướng quá, máy nó tốt cực! -Mấy anh “quay viên” cũng bật thốt lên.

Thế là Páo đã có thể đánh đi bức điện đầu tiên với nội dung chỉ là sơ bộ báo tin: toán đã từ
bãi nhảy di chuyển tới được địa điểm an toàn, nay xin được liên lạc và xin chỉ thị của Trung tâm.

An được ông Thạc, ông Trường ra hiệu đến gần tên Páo hơn nữa để kiểm soát chặt chẽ từng tín
hiệu, từng nội dung bức điện được đánh đi...

“... Đa đít đít đít đa”, sau tín hiệu “Tôi bắt đầu phát sóng”, bàn tay Tráng A Páo càng như
múa trên maníp, tựa như bàn tay một nghệ sĩ dương cầm tài hoa. An thấy nó đã hoàn toàn nghiêm
chỉnh, trung thực đánh đi đầy đủ mọi tín hiệu mật về các loại an toàn: an toàn báo vụ, an toàn mật
mã... và nhất là tín hiệu an toàn của toán trưởng... Tuyệt đối không thấy nó cài vào tín hiệu bí mật
báo động cho địch biết nó đã và đang bị khống chế. Tín hiệu “chết người” này Tráng A Páo đã
cung khai với bọn ông Thạc, ông Trường và An ngay từ khi nó được đưa về Hà Nội. Mặt khác An
cũng phải thầm khen đây là một báo vụ viên vào loại “siêu”. Thấy có An đến bên, Páo không
những không e ngại, hoặc phật lòng, trái lại nó hình như lại vui và thêm yên tâm. Nó rất có cảm
tình với An ngay từ những buổi đầu tiếp xúc. Anh còn trẻ, dễ gần, thêm nữa, nó thấy anh là một
người đàng hoàng, và không quá khe khắt...

20 giây đồng hồ trôi qua rất mau. Bức điện đầu tiên đã được đánh đi trọn vẹn... Và còn
mừng hơn nữa: Tụi địch cũng lập tức điện trả lời ngay. Có nghĩa là chúng cũng đang vô cùng sốt
ruột, đang căng thẳng chờ tin của toán gián điệp biệt kích đầu tiên tung ra Bắc, toán mà chúng đã
tốn bao công phu huấn luyện và gửi gắm không ít hy vọng ở sự thành công của nó.

Không cần phải chuyên viên, An và hai ông Thạc, Trường đều tự mình dịch mã được ngay
bức điện của Sài Gòn, vì đã nắm được block khoá mã của chúng qua tay Páo: “Trung tâm rất mừng
đã bắt liên lạc được với Goblin. Trước hết Trung tâm rất khen ngợi Goblin. Yêu cầu giữ vững liên
lạc. Hàng ngày điện về đúng theo lịch đã quy định; ngày giờ, tần số... Chúc thắng lợi to lớn hơn
nữa để phục vụ Tổ quốc”. Mọi người đều hiểu bức điện trả lời rất nhanh này cũng đã được bọn
địch soạn thảo sẵn từ trước...

Ông Thạc cho ngừng phiên liên lạc để chuẩn bị cho phiên ngày mai. Người đầu tiên mà
ông bắt tay là Tráng A Páo. Hắn gần như cúi mọp xuống để đón nhận sự khen ngợi, mà còn hơn
thế nữa đó là sự khẳng định niềm tin của các cán bộ đối với hắn. Ông Trường ngồi viết luôn một
bức điện vắn tắt gửi về Cục. Ông cười khà khà:

- Theo nguyên tắc gửi là cứ phải gửi, nhưng đã có cái đài A20 mới thiết lập liên lạc 24/24
giờ, vậy lúc này ở Hà Nội ông Công Năng đã nắm hết ráo mọi chuyện rồi còn gì!

Ông Thạc cười hiền lành, nhỏ nhẹ:

- Nói vậy thôi chứ đài mình là của Liên Xô, Trung Quốc vừa cũ, vừa yếu, cũng không thể
hoàn toàn ỷ lại.

Bữa chiều hôm ấy được ăn “tươi” để mừng phiên làm việc đầu tiên thắng lợi. Gọi là ăn
“tươi” nhưng chỉ là một mớ mè “ranh” nhờ bên lâm nghiệp mua hộ. Các lán đều rộn tiếng nói cười.
Ông Trường lại đùa vui:

- Ăn như ri quá Tết rồi đó!

Căn phòng làm việc sang trọng được trang trí và bầy biện đồ đạc theo phong cách cổ điển
Pháp, đúng với sở thích của Ngô Đình Nhu. Sáng nay ông ta lại có buổi tiếp tân. Khách là ông
trùm CIA ở Sài Gòn kiêm phụ trách CIA cả vùng Đông Nam Á, “con cáo” Colby quá quen biết.
Bộ mặt lạnh lùng và luôn luôn như mệt mỏi của Nhu bữa nay tỏ ra tươi hơn mọi khi một chút. Với
cái giọng Huế kéo hơi dài ra, ông ta nói:

- Bữa ni lẽ ra Tổng thống cũng tới đây để tiếp ngài. Nhưng vì có đại sứ Hàn Quốc và Phi
Luật Tân xin trình quốc thư, nên Tổng thống phải vắng mặt. Tuy nhiên Tổng thống có uỷ cho tôi
gửi lời chúc sức khoẻ ngài và mời ngài một ly rượu để chúc mừng thắng lợi chung của Việt - Mỹ
trong vụ Goblin vừa có điện bắt liên lạc về Trung tâm. Tổng thống rất vui và cám ơn các ông đã
hết lòng về mọi mặt với chúng tôi...

Vừa nói Nhu vừa nâng ly rượu. Colby cũng nhã nhặn cầm lấy ly rượu của mình nâng theo:
- Cám ơn Tổng thống và ông cố vấn! - Miệng nói, nhưng trong bụng hắn thừa hiểu cái lão
quan đầy kiêu ngạo, tự mãn và hách dịch ấy tránh mặt là phải. Lão ta hẳn đã thừa biết người Mỹ
hồi này không mấy hài lòng về cung cách làm ăn của lão, một cung cách rất khó chịu: vừa phong
kiến vừa phát xít, dù mang cái “mác” dân chủ phương Tây! Còn cái tay viên chức thư viện cũ thâm
trầm, nham hiểm, xảo trá này, hôm nay hẳn không phải mời mình tới để “uống ly rượu mừng” về
chuyện toán Goblin. Anh em nhà này hẳn muốn khéo léo khẳng định cái gọi là “chủ quyền” của
họ. Họ muốn nhắc khéo: Goblin, và sau đây còn những quái quỉ gì nữa, dẫu sao vẫn “do Việt Nam
Cộng hoà thực hiện”.! Cái nguy của anh em, gia đình này cũng chỉ vì cái thói sĩ diện ấy. Nhiều
việc họ cứ đòi thò mũi vào, làm thêm rắc rối, mất hết sự tập trung quyền lực, và sức mạnh Mỹ vào
việc chống Cộng sản đang bành trướng...

Nhưng bữa nay, theo Colby, Nhu có thể muốn moi khéo về một chuyện mà CIA đang muốn
giấu. Đó là: ngay sau khi toán Goblin được ném ra Bắc, sau vài ngày chờ đợi hết sức căng thẳng,
không thấy điện hồi âm, Cobly đã hối thúc Raphter tung tiếp một nhóm nhỏ khác ra Bắc (Nhưng
chưa cho phép tung vào sâu vì còn phải đợi xem toán Goblin ra sao đã). Toán mới ném đi nhỏ hơn
và chỉ ném gần - tức là miền tây Quảng Bình, không xa giới tuyến quân sự tạm thời là bao, để nếu
gặp nguy có thể dễ rút chạy về Nam. CIA đang rất khát tin về khu vực đèo Mụ Dạ, nơi có lẽ mở
đầu của con đường mòn Hồ Chí Minh vào Nam. Toán mới được ném đi chỉ có 3 tên, mang mật
danh Eclat. Rất khác với Goblin, Eclat ngay sau đêm xuống bãi nhảy đã có điện về Trung tâm
ngay. Tưởng là Eclat gặp may, trót lọt, đã rất mừng. Nhưng không ngờ: trong bức điện đầu tiên
gửi về, điện báo viên đã bí mật cài khéo được tín hiệu báo động cho biết là toán này đã bị bắt hết
và đang bị cưỡng chế thực hiện “chơi trò nghiệp vụ”. Chuyện này chắc đã đến tai anh em Diệm
Nhu do cái cơ chế lằng nhằng: về danh nghĩa bên ngoài vẫn là do phía Diệm Nhu tổ chức, chỉ huy,
bởi vậy hẳn là tên Ngô Thứ Lân ở P54 đã phải báo cáo với Trần Kim Tuyến và Lê Quang Tung.
Bọn này báo lên Diệm Nhu. Trong khi đó CIA chỉ thông báo qua loa và nói là còn phải tiếp tục
xem xét, chưa kết luận được. CIA chẳng thích thú gì khi phải phơi bày những thất bại của mình
ra. Đang bí thì may sao tụi Goblin điện về sau 13 ngày đêm im hơi lặng tiếng. E ngại, đề phòng
tụi này lại “bị vấy bẩn” như Eclat, Colby đã yêu cầu các chuyên viên Mỹ ra sức xem xét, so lại các
băng ghi âm trong những buổi phát tin trước kia của tên nhân viên điện đài G3 với bức điện mới
đánh về. Đã kiểm tra đi kiểm tra lại tới ba lần, các chuyên viên báo cáo đúng là vẫn nhịp điệu ấy,
phong cách ấy, không sai một ly. Rồi lại xem xét các tín hiệu an toàn tối mật được ghi theo điện.
Cũng rất đầy đủ. Và nhất là cách viết điện, vẫn cái giọng điệu hơi cục cằn nhưng lại không phải là
vô học, hoặc quá ngây thơ, đơn giản như các nhân viên miền núi thuộc hạ. Không một ai có thể
nghi ngờ đó không phải là lối viết rất quen thuộc của viên trung uý Cầm Diêu. Như vậy sau khi đã
trao đổi ý kiến và phân tích, CIA Sài Gòn chính thức báo cáo về Mỹ đồng thời cho phía anh em
Diệm biết về thắng lợi này.

Colby quả đã không nhầm, Nhu cất tiếng thong thả hỏi:

- Xin lỗi, vậy còn cái toán Eclat, các ngài định tính sao đây, đại tá?

Colby khẽ nhún vai:

- Chúng tôi tiếp tục sẵn sàng chơi trò điện tử với phía “bên kia”. Chuyện gì chứ chuyện
điện tử, những “vị Cộng sản nhà quê” ấy sao có thể đùa với Mỹ quốc được, thưa ông cố vấn. Tuy
nhiên dẫu sao chúng tôi vẫn đặt nhiều kỳ vọng ở toán Goblin hơn.
- Đúng! Rứa là đúng! - Nhu mỉm cười - Thôi cứ cho cái Eclat là bỏ đi. Không sao cả, chiến
tranh mà! Có thắng cũng phải có bại chứ! Hơn nữa, chúng ta cũng mới chỉ gọi là bắt đầu, và lại
làm... quá gấp, phải không đại tá?

Thằng cha này muốn đá nhẹ mình là quá hấp tấp trong vụ Eclat, và cũng chọc mình quá hợm về
tài năng siêu việt của người Mỹ đây! Nhưng không sao - Cobly thầm nghĩ - Rồi hắn sẽ hối!

Nhưng dẫu sao Nhu cũng trở lại nghiêm túc hơn. Ông ta cười đầy vẻ chân thực:

- Thằng toán trưởng Goblin khá thiệt đó, phải không đại tá? Được biết qua các bức điện
hắn gởi về thấy hắn chỉ huy toán lúc nghi binh, lúc gan góc táo bạo ẩn nấp nơi bất ngờ nhất... cuối
cùng đã tới được nơi tập kết theo chỉ định. Nay đã củng cố được căn cứ và hơn thế nữa đã bắt mối
được một số dân địa phương. Hắn đáng được khen thưởng, phải không đại tá?

Đã có dịp để Colby “đá” nhẹ lại:

- Tuy nhiên, vẫn cần phải thận trọng, ở tầm chiến lược và quốc gia, buộc phải thế, thưa ông
cố vấn. Chúng tôi thấy vẫn còn phải nghiên cứu và thử thách cả Goblin thêm chút nữa.

Rất bản lĩnh, phớt lờ, coi như không đếm xỉa gì tới ý móc lại của Colby, Nhu nói tiếp ý
mình:

- Nhưng dẫu sao rồi cũng phải khen thưởng cho tụi chúng, đại tá nhỉ? Còn bây giờ, tôi được nghe
tụi Lê Quang Tung, Trần Kim Tuyến trình là Goblin đang xin bổ sung các phương tiện, vũ khí bị
rơi, hỏng. Còn xin bổ sung cả người nữa vì một tên đã chết do dù không mở, tên toán phó thì đang
bị sốt rét, yếu chưa làm gì được. Tụi nó đang cần thêm người để huấn luyện tụi mới được tuyển
mộ. Chắc hẳn các ông đã tính tới chuyện ni?

- Vâng! - Colby có vẻ như không hăng hái lắm, khẽ đáp - Dẫu sao chúng tôi cũng đang
chuẩn bị.

- Hay lắm! Tôi tin tưởng ở đại tá! - Nhu lại vui vẻ.

Colby lại thầm thấy khó chịu: thằng cha này luôn luôn quên thân phận đích thực của mình,
chỉ muốn làm bề trên người khác. Gã cứ nửa nạc nửa mỡ làm như mình là đại tá trong quân lực
Việt Nam Cộng hoà vậy.

Nhu lại mời Colby thêm một ly rượu nữa, và trước khi Colby ra về, ông ta làm như bất ngờ
nhắc tới chuyện tên Xuyên - Argus ở Quảng Ninh:

- Thằng Argus cũng vừa có điện về. Cũng như tụi Goblin, hắn xin tiếp tế. Nhưng phải qua
đường biển. Chuyện này hẳn đại tá cũng đã nắm được cả rồi hè?

Colby biết Nhu muốn khoe khéo về “chiến công trên mặt trận tình báo” của hắn. Tên Xuyên
là người của Tuyến, Nhu trực tiếp tuyển mộ rồi trao nhiệm vụ ra Bắc. Nó đã có điện về. Nhu và
đồng bọn đang hí hởn. CIA không trực tiếp việc này mà chỉ giúp Nhu bí mật đưa tên Xuyên ra Bắc
qua đường biển. Bây giờ thực hư kết quả ra sao, Colby chưa biết chắc, và cũng không có thì giờ
xía vô việc của Nhu và Tuyến. Đáng buồn cười: thấy Tuyến, Nhu ném được tên Xuyên ra Bắc,
Ngô Đình Cẩn ở miền Trung cũng nổi máu, quyết tung một gián điệp của y ra móc nối với những
điệp viên của Pháp còn kẹt hoặc cài lại, để tỏ ra ta đây cũng không thua kém ai. Cái nhà họ Ngô
này coi vậy vẫn có sự kèn cựa lục đục âm thầm bên trong. Tất cả cũng chỉ vì danh lợi. Cẩn cũng
lại phải nhờ tới CIA ném tên Bường đi. Đó là một tên mật thám cũ của Pháp hết sức ranh ma và
cũng rất lưu manh. Giúp Cẩn ném được tên Bường đi, sau đó Colby cũng mặc, không cần chú ý
tới những trò tình báo gián điệp “nội hoá tráng tí men Pháp quốc xưa” của anh em Diệm Nhu nữa.
Colby biết: đã có kế hoạch từ Washington: rồi Mỹ sẽ phải thu tóm lại tất cả, không để cho chúng
hoạt động lung tung, vừa tốn phí vừa dễ gây đổ bể chung.

Colby mau chóng trở lại nơi làm việc của mình trên lầu 4 toà đại sứ Mỹ. Raphter “ông trùm N” và
Hampton nhân viên phân tích tình hình đang ngồi chờ ông ta. Cũng như nhiều người Mỹ khác,
theo thói quen, không cần vài câu xã giao, hoặc mấy câu hão hề vô ích, cũng không cà phê, bia
bọt, trà nước lè nhè mất thì giờ, Colby cùng hai nhân viên của mình cùng ngồi vào bàn, làm việc
luôn.

- Trình đại tá trưởng trạm, Eclat lại vừa có điện về - Raphter nghiêm trang báo cáo.

- Thôi, hãy xếp mớ giấy lộn của chúng lại! - Cobly khoát tay - Chuyện này sẽ phải bàn kỹ
lại đối sách. Bây giờ tập trung vào Goblin đã. Raphter, anh cho biết những ý kiến cuối cùng của
các chuyên viên!

- Trình đại tá trạm trưởng, về cá tính, thói quen của báo vụ viên khi đánh mã moóc, tới
giọng điệu của toán trưởng trên điện... đều được các chuyên viên giữ nguyên các kết luận đã có,
không thay đổi. Ngoài ra chúng tôi đã có thì giờ để tham khảo ý kiến chuyên viên y tế về trường
hợp tên toán phó G2 báo là bị sốt rét. Bác sĩ chuyên viên cho biết đúng là khu vực tọa độ ấy có
nhiều muỗi sốt rét ác tính. Cũng đã tham khảo các chuyên viên đi rừng, để tính toán xem con số
13 - ngày tụi nó báo cáo chậm không có điện theo đúng lịch là do phải chui lủi, tránh đụng độ
Cộng sản và cả dân chúng, như vậy có hợp lý không? Các chuyên viên về mặt này cũng đều xác
nhận là hợp lý. Thêm nữa các chuyên viên cũng đã dùng máy định vị để xác định nơi xuất phát
các làn sóng của tụi Goblin đánh về. Thấy được phát đi đúng ở khu vực toạ độ của căn cứ an toàn
đã được thiết lập theo chỉ định của Trung tâm. Tóm lại...

- Tóm lại là có thể quyết định về việc tiếp tế cho bọn chúng được rồi phải không? - Cobly
vui vẻ ngắt lời Raphter.

- Dạ! - Raphter mỉm cười khiêm tốn đón nhận sự hài lòng của sếp như đón nhận một lời
khen. Colby nói tiếp:

- Tốt! Bây giờ anh đã có thể rà soát lại lần chót kế hoạch. Sự việc coi như đã được quyết
định. Bên phía các ông Diệm, Nhu cũng đang sốt ruột muốn hối thúc chúng ta. Vậy lưu ý anh:
ngoài vũ khí bổ sung, chú trọng vũ khí tăng cường cho các nhân viên mới tuyển mộ. Còn về người:
ngoài việc người thay thế cho tên đã chết, hai tên nữa như tụi nó xin, tất cả đều phải là nhân viên
tình báo. Anh vẫn nhớ chứ: toán đầu tiên này nhiệm vụ chủ yếu là tình báo, xây dựng cơ sở và
nhân mối. Nó như đặt một cái nền cho những toán về sau, chứ không chỉ nhằm phá hoại.
- Thưa, tôi hiểu.

- Và, Raphter thân mến ạ, tôi muốn lần này anh để cho Nguyễn Cao Kỳ trực tiếp chỉ huy phi đoàn
đi nếu hắn dám, bằng không cho hắn cử một phi đoàn tốt nhất của hắn. Hai lần trước, thằng cha
này cứ thắc mắc là ta không tin dùng “Không lực Cộng hòa” do hắn đảm trách.

- Rõ, thưa sếp.

Colby quay lại phía Hampton:

- Còn anh, thế nào, chàng trẻ tuổi? Anh có ý kiến gì qua hai vụ vừa qua, và công vệc ta sắp
làm?

Hampton không đắn đo gì nhiều, nghiêm chỉnh đáp:

- Trình đại tá trạm trưởng, ta mới phóng đi hai toán. Một coi như thất bại, và một coi như
bước đầu có thể thành công...

- Coi như bước đầu có thể thành công? Anh nói sao, Hampton? Anh vẫn chưa thật tin hả?
- Colby vui vẻ ngắt lời gã nhân viên trẻ tuổi.

- Dạ, thưa bởi tôi vẫn luôn nhớ một trong những câu châm ngôn của ngành ta: “Làm tình
báo là phải biết luôn luôn nghi ngờ”! - Hampton đáp lại.

- A ra thế! Anh nói tiếp đi! - Cobly mỉm cười nhưng đôi mắt vẫn luôn luôn lạnh tanh.

- Thưa tôi mạnh dạn nói là “có thể”, vì chưa có đầy đủ mọi yếu tố để ta có thể khẳng định
chắc chắn hoàn toàn. Tuy nhiên tôi cũng phải thừa nhận vụ Goblin tuy lâu mới có hồi âm, nhưng
cũng đã có những tường trình với đầy đủ những tín hiệu an toàn tối mật, có thể làm cho ta yên tâm
được phần nào. Vụ này nếu quả là thật sự thắng thì có thể cho ta thấy: những gì ta chuẩn bị tốt sẽ
có thể tốt. Nhất là vị trí chỉ huy. Cầm Diêu là một sĩ quan, cứ như các điện báo về: hắn đã tỏ rõ
bản lĩnh hơn hẳn tên chỉ huy toán Eclat, toán Eclat vừa xuống đã bị tóm liền và bị khống chế, bị
“vấy bẩn” luôn...

- Đúng! - Colby gật đầu.

- Thưa, việc Eclat bị bắt sớm, điều này nói lên rằng Bắc Việt có phòng bị rất tốt. Họ có một
mạng lưới dân chúng rộng lớn ở khắp nơi. Goblin tuy thoát nhưng theo tường trình thì tụi này cũng
vô cùng gian nguy, và hết sức vất vả. Ta không thể coi nhẹ chuyện này. Mặt khác: qua vụ Eclat ta
thấy Cộng sản Bắc Việt đã biết mở “trò nghiệp vụ” nhằm đánh lại ta, đó là một điều nữa phải quan
tâm hết sức. Vì nó chứng minh: Cộng sản Bắc Việt tuy còn rất lạc hậu về mọi mặt, kể cả công tác
tình báo, vậy mà họ đã biết chơi “trò nghiệp vụ”. Như vậy họ thực sự là đối thủ không thể coi
thường, thậm chí đáng gờm của chúng ta.

Colby cúi đầu suy nghĩ giây lát, rồi nói:


- Thôi được, tôi sẽ lắng nghe ý kiến của anh, Hampton ạ! Có thể hay đấy! Nhưng mũi tên
đã đặt vào cánh cung rồi, phải bắn đã! Rồi tính toán sau, e cũng không đến nỗi quá muộn. Phải
không “ông bạn”?...

* *

Trời vẫn nắng chang chang, nhưng dưới các vòm rừng lại khá râm mát, thậm chí còn có
khu vực rất ẩm thấp ngột ngạt khó chịu vì những cơn mưa rào thi thoảng lại đổ xuống xối xả.
Nguyễn Nguyên An hôm nay lại “thống lĩnh” mấy nhân viên trong Ban, có cả Tráng A Páo đi
theo, cùng vào rừng kiếm măng và các thứ rau dại có thể ăn được. Ông Trường trực ở lán. Riêng
ông Thạc được Cục gọi cấp tốc về để làm phái viên cho Bộ vào Quảng Bình ít hôm phổ biến kinh
nghiệm của Goblin, đồng thời giúp đỡ anh em địa phương trong vụ gián điệp biệt kích mới - bọn
Eclat.

Hôm nay đi kiếm rau, kiếm măng, không nhớ được là buổi thứ mấy nữa. Không phải
chuyện đi chơi. Khá vất vả. Cũng lội suối, cũng trèo đèo. Dĩn, vắt cắn, có hôm trở về hai bắp chân
toàn máu, thậm chí vắt còn chui đầy cả cổ áo, hoặc đũng quần. Nhưng đáng ngại nhất là rắn. Có
những con rắn chỉ bằng chiếc đũa, xanh lè, nhưng cắn ai thì chỉ một lúc sau là chết liền. Anh em
đã đặt tên là: “rắn Mỹ”. Chỉ có Tráng A Páo là người rất tinh trong việc phát hiện và tránh loại rắn
này. Đã không ít lần hắn la, hét lên để báo cho An kịp thời bay người trở lại, thoát chết. Nhưng
thật vui, An cũng đã “trả ơn” hắn được mấy lần. Anh đã cứu hắn thoát chết đuối khi vượt qua các
suối lũ.

Sáng nay lại phải qua một con suối đầy. Trận mưa đêm qua khá to. Nước tuy không xiết
lắm, nhưng tràn ngập cả hai bờ. Mà bên kia mới là khu vực lắm măng, nhiều rau dớn, nhiều rau
“tầu bay”... Nhìn thấy đôi mắt không giấu được vẻ lo ngại của Páo, An đập nhẹ vào lưng nó:

- Không sợ! Trông vậy không ngập đầu đâu. Chỉ tới cổ là cùng. Không nhớ mọi khi ta đi qua, con
suối này chỉ tới ngang ống chân sao?

Páo cười hơi ngượng. Nó cố nói mạnh:

- Cán bộ à, em đi được, đi được đấy!

An gật đầu:

- Tốt! Nào, cởi bỏ quần áo ngoài ra, đội lên đầu. Mau lên, anh em người ta xuống cả rồi
kìa.

Mà đúng như vậy, anh cơ yếu của ta cùng anh y tá đã lội xuống tới quá đầu gối, đang cười
nói vui vẻ. An vẫy Páo:

- Đi! Đi sau tôi, hai tay bám vào vai tôi, bước chân cho chắc, dồn sức nặng xuống. Như
vậy không trôi, không chìm được!
- Em cám ơn cán bộ nhiều!

...Thế rồi chỉ khoảng khắc sau, An đã “kéo” theo cái “rơ moóc” bất đắc dĩ ấy lội xuống
suối. Càng ra xa càng sâu. Nước không quá xiết nhưng khá mạnh. An có ý đi thành một đường
xiên chéo lên phía thượng nguồn để khỏi bị trôi. Ra tới giữa dòng, nước càng mạnh, nghe như thấy
cả tiếng réo đáng sợ. Ngoái cổ lại nhìn, An thấy mặt tên Páo đã tái ngắt.

- Bình tĩnh! Sắp qua rồi! Cứ bám chặt vào tớ. Không sợ! - Anh luôn miệng động viên nó.

Một lúc sau, hai người cùng vui vẻ bước lên bờ. Páo ngồi xệp xuống cỏ thở trút:

- Nói thật cũng sợ đấy, cán bộ ạ. Cái suối này cũng dữ đấy. Nhưng có cán bộ, em không sợ
nữa đâu.

Rồi, vừa mặc lại áo quần, nó vừa thốt lên, dường như lần đầu:

- Cán bộ ơi, em nói thật nha! Bây giờ em mới tin các cán bộ đấy. Tin cán bộ Trường, cán
bộ Thạc, tin cán bộ An... Tin hết! Các cán bộ thương chúng em. Không như bên kia, sĩ quan họ có
bao giờ thèm ăn ở cùng lính, vất vả với lính như thế này. Tụi em lại là tù nữa, vậy mà các cán bộ
cũng... Qua suối như thế này, ở bên kia sĩ quan họ bắt tụi em cõng liền. Có khi còn bắt phải chém
tre đẵn nứa làm bè đưa họ qua cho khỏi ướt quần nữa kia. Còn lính, thằng nào chết, mặc.

“Trời” cũng như đền bù cho buổi trèo đèo vượt suối vất vả, sáng hôm đó cả nhóm hái được
rất nhiều rau “tầu bay”, rau dớn, đặc biệt là măng tre. Giữa trưa, mọi người mới trở về tới lán.

Cơm nước xong đã quá 12 giờ. Mọi người cùng lăn ra ngả lưng một lúc, đợi tới phiên liên
lạc vào 13 giờ 30 theo lịch đã định. Vừa đặt mình nằm, An đã thiếp đi, có lẽ vì quá mệt. Và, cũng
như mọi ngày, dù là ngủ trưa, ngủ “tranh thủ”, nhưng nhiều giấc mơ lộn xộn quá quen thuộc lại
trở về. Phần nhiều là những mẩu chuyện thực thực hư hư, về cái gia đình nhỏ bé của anh. Mà hầu
như toàn những hình ảnh, những chuyện từ thủa An và Thuỳ mới lấy nhau, nhất là những ngày cu
Toàn mới ra đời... và đặc biệt nhiều nhất là những cuộc chia tay, những chuyến đi liên tục của
anh... Vậy mà người ta thường bảo đẹp như những giấc mơ! Với anh, dường như chỉ là những giấc
mơ buồn...

13 giờ. An cùng mọi người trong Ban lục tục dậy. Khoảng 20 phút sau, như thường lệ,
Tráng A Páo đã sẵn sàng bên máy. Hai chàng “quay viên” cũng chỉ còn chờ lệnh là quay máy phát
điện. Và như thường lệ, An lại cùng anh chiến sĩ báo vụ đến ngồi kề bên Páo để theo dõi và giám
sát. Những buổi đầu trước đây sao mà hồi hộp và cảm thấy trọng đại đến thế. Cho tới hôm nay
dường như đã quá quen, thậm chí quá nhàm chán rồi, vì cứ đều đều mãi một “vở” chưa hề có gì
thay đổi. Ta thì cứ đều đặn gửi đi những tin tức tình báo “dởm”, còn “Trung tâm” Sài Gòn cũng
vẫn quanh đi quẩn lại chỉ có mấy bức điện đại loại như “Phải bảo đảm an toàn bí mật nơi căn
cứ”,”sẵn sàng chờ lệnh của Trung tâm”. Có thêm chăng nữa chỉ là mấy câu ai cũng thừa biết là
công thức khích lệ khuôn sáo, rỗng suông: “Chúc anh em mạnh giỏi. Trung tâm rất ngợi khen anh
em đã hết mình vì Tổ quốc.!” Tóm lại cả hai bên ta, địch vẫn như hai con cọp còn vờn nhau, tìm
sơ hở của nhau, để rồi sẽ lao vào một cuộc tử chiến. Bữa nay hẳn vẫn thế, vẫn chỉ là vờn. Nhưng
dẫu sao công việc vẫn cứ phải được thực thi nghiêm ngặt không thể lơi lỏng...
Đèn tín hiệu lại bật lên như thường lệ. Rồi những tiếng “đa đít đít đít đa...” như mọi hôm
lại ríu rít vang lên như chim hót, nghe sướng cả tai. Bức điện thường lệ của Goblin được đánh đi.
Rồi cũng như thường lệ, “Trung tâm” lại hồi âm...

Nhưng bỗng hai mắt Tráng A Páo như bật sáng. An cũng vậy, anh tròn hai mắt theo dõi
từng tín hiệu từ ngàn dặm xa xôi đang liên tiếp, tới tấp bay về. Khi Páo điện trả lời”Tôi đã nhận
đủ - Tốt” thì bức điện ngay lập tức được mã dịch ngay.

Bức điện viết: “... Trung tâm sẽ gửi tiếp tế ra - Hãy chọn ngay 5 bãi thả, và báo về gấp.
Trước mắt cho mở rộng trinh sát ra xa căn cứ, xem động tĩnh thế nào...”

Hai anh em chỉ còn thiếu ôm chầm lấy nhau mà reo lên.

Cả hai cùng xiết chặt tay nhau trong một nỗi mừng hiếm có.

Quả thật là quá mừng, quá xúc động.

Đây là sự thành công, dù chỉ là bước đầu. Thành công này đã hiện lên hẳn hoi bằng chữ
bằng nghĩa.

Đây là cái mà ta đã tốn bao tâm huyết để “bài binh bố trận”, tốn không ít thì giờ chờ đợi
trong bao nỗi thấp thỏm, hồi hộp.

Nỗi mừng này liệu có thể tạm ví như niềm vui của những người địa chất lăn lộn trên núi cao, trong
rừng sâu, mày mò tìm kiếm mãi, nay đã bắt đầu tìm được dấu vết một vỉa quặng đáng giá cho Tổ
quốc?...

Bọn An và ông Trường mừng thế nào, tên Páo cũng mừng gần như thế. Nó tươi cười, hể
hả, nom như trẻ lại đến mấy tuổi. Nó chẳng cần biết có phải đây là chiến thắng không, nhưng trước
hết nó mừng vì công việc của nó đã có hiệu quả. Vậy là lòng trung thực và lời cam kết của nó rõ
ràng đã như được “bảo đảm bằng vàng”...

Ngay tối hôm đó, ông Trường điện về Hà Nội báo cáo và xin chỉ thị. Và trong khi anh em
nhân viên, kể cả tên Páo cùng quây quần trò chuyện bên lán cảnh vệ, An cùng ông Trường ngồi
bên một ngọn đèn dầu nhỏ, bàn thêm về công việc. An nói:

- Theo tôi, anh cần phải trực tiếp về Bộ mới được.

- Sao? Cậu nói thế nào? Không có điện gọi, tớ xin về là làm sao? Tớ vốn đã bị mang tiếng
về cái tính hay cãi bướng, nay lại thêm chuyện khác nữa ư?

- Anh cứ điện về xin phép đàng hoàng! Cây ngay không sợ chết đứng bao giờ.

- Thì đã có điện rồi đấy! Mà bọn ta giả dụ không kịp báo cáo, thì cái A20 của Bộ nó cũng
capter được hết. Các cụ đã biết ngay tức thì rồi...
- Không, thưa anh, báo cáo miệng vẫn đầy đủ hơn. Vả lại, còn cần xin nhận định của Bộ
về 5 cái bãi. Sao lại phải những 5?

- A, theo tớ nó cứ đòi hỏi phóng ra như thế rồi nó còn lựa chọn chứ.

- Nhưng mình có cần phải tìm đủ 5 bãi cho nó hay không, hay có thể ít hơn?

Ông Trường nói ngay:

- Theo tớ chỉ hai bãi thôi, còn mặc mẹ nó! Nói rằng không có thời gian, hơn nữa Cộng sản
ở khắp nơi, không dễ dàng gì.

- Đấy! Anh cần phải về là đúng rồi. Về để trình bày rõ, rồi trực tiếp xin chỉ thị Bộ và Cục.
Điện rất vắn tắt, nói sao hết hả anh? Nếu không, ta cứ tự ý làm, có chuyện gì xảy ra, ai chịu trách
nhiệm?

- Cũng có lý!

- Còn điều nữa, muốn đề nghị anh: vì tôi với thằng Páo hay trò chuyện. Tôi tẩn mẩn hỏi nó
đủ thứ thì một hôm nó tình cờ nói tới chuyện các bãi đáp, bãi tiếp tế. Nó bảo là có tiêu chuẩn của
bọn Mỹ về các bãi đáp, bãi thả dù tiếp tế đấy!. Nhưng cụ thể thế nào, thằng Páo không thật rành
bằng các tên chỉ huy. Vậy về Bộ, anh cần tìm thằng Cầm Diêu hỏi nó về cách chọn bãi. Như thế
bọn Mỹ không còn thể nghi hoặc vào đâu được.

- A, hay đấy!

- Còn ý này nữa anh ạ, cũng vẫn do chuyện trò tẩn mẩn hàng ngày lúc rảnh rỗi, thằng Páo
còn kể thêm: Trong các buổi tập của bọn nó trong ấy, nhất là buổi tập về thả hàng và người tiếp tế
cho một toán, thường có những thằng to đầu cũng đi theo máy bay, đòi nói chuyện trực tiếp bằng
phoni với toán trưởng để kiểm tra. Vậy, chuyến này có về anh nên xin phép đưa cả thằng Cầm
Diêu lên đây, đề phòng khi...

Bấy giờ ông Trường mới cả cười, vui vẻ thốt lên:

- Chú em ơi, không ngờ chú mày đã khui bọn nó được thêm nhiều chuyện tỉ mỉ và khá
quan trọng đấy! ừ, tốt! Nói thật: tớ cũng có ý xin về báo cáo và nhận chỉ thị cho được chu đáo hơn
về mọi mặt. Nhưng đúng là cũng có ngại... Thôi được, tớ sẽ điện ngay trong đêm nay để xin phép.
Rồi có ai chửi tớ là bịa cố để về ngủ với vợ, thì cũng kệ thây, phải không? Vậy chú mày phải thay
tớ quản lý mọi người mọi việc trên này, nghe chưa! Trước hết phải thực thi cái lệnh của nó: phải
cho đi trinh sát ra khỏi căn cứ...

An cười:

- Cái này thì quá dễ. Anh về, tôi sẽ điện cho bọn Mỹ ngay: “đã thực thi lệnh của Trung
tâm. An toàn tốt”.
Ông Trường trợn mắt, đấm thụp vào lưng An:

- Này đừng có đùa! Vừa mới thông minh như thế, lại trở về dốt đặc ngay! Mày tưởng báo
cáo láo nó không biết hả?. Phải đề phòng nó có cả gián điệp mặt đất nữa. Bọn mặt đất báo về là
chẳng thấy có chuyện gì hết, thế là lòi ngay cái láo của cậu ra.

- Vậy phải làm như thật ư?

- Chứ sao! Bộ đã chỉ thị rồi: có việc cần, Ban có thể nhờ lực lượng địa phương hỗ trợ. Vậy
cậu phải liên hệ ngay với Công an huyện, rất mật đấy, đề nghị họ cho hai tay trinh sát ăn mặc như
dân địa phương đi vờ vĩnh quanh vùng, rồi bố trí giả cho Công an hoặc dân quân đi lùng, tìm kẻ
lạ mặt, nhưng mất hút. Tin ấy phải được tung ngay ra giữa chợ Mường Sang và cả trên chợ huyện,
cùng huyện bên cạnh nữa...

- Hay quá! Thằng em lắm lúc còn tối dạ thật!

Đúng như ý kiến đã trao đổi, ngay đêm ấy ông Trường điện xin phép về Bộ để trực tiếp
báo cáo.

Sáng hôm sau Bộ có điện trả lời: “Đồng ý”.

Thế là ông Trường về Hà Nội. An cũng thực hiện ngay việc liên hệ với Công an tỉnh đề
nghị phối hợp cho trinh sát giả làm người “lạ mặt” đi dò xét trong khu vực toạ độ này, sau đó cho
tung tin rộng rãi ra quần chúng...

Năm ngày sau, Công an tỉnh thông báo lại: mọi việc đã hoàn tất đúng theo yêu cầu của Ban
chuyên án.

Cũng vừa đúng hôm ấy ông Trường từ Hà Nội trở lại. Không những chỉ có ông Trường mà
còn có cả ông Thạc mới từ Quảng Bình về và thêm cả tên toán trưởng Cầm Diêu. Hắn bữa nay
cũng được mặc một bộ quần áo bà ba vải nâu như tên Páo, râu đã cạo nhẵn, gương mặt như sáng
và trẻ ra hơn.

- Xin chào cán bộ An!

An mỉm cười, vỗ nhẹ vào vai y. Cầm Diêu ngước nhìn anh bằng cặp mắt biết ơn về cử chỉ
bao dung đó. An bảo y ngồi nghỉ cho lại sức:

- Thế nào khoẻ chứ?

Cầm Diêu từ tốn đáp:

- Thưa, tôi bình thường. Hai cán bộ Thạc và Trường bảo mấy tuần nay tôi như mập ra...

- Tôi cũng thấy như vậy - An gật đầu.


- Thưa cán bộ - Cầm Diêu tiếp - Tôi được đi để tiếp tục làm việc. Tôi mừng lắm. Tôi vui
lắm. Tôi rất cám ơn các cán bộ. Cũng không ngờ còn được gặp lại sông Đà... Vâng! Đã bảy, tám
năm nay tôi mới lại được nghe tiếng những con thác đã quá quen thuộc với cha con tôi từ bao lâu
nay. Từ xa tôi đã nghe thấy, mà người... cứ rợn cả lên. Có lẽ vì vui, vì mừng, vì cả tủi, buồn, và
hy vọng nữa... cán bộ An ạ.

An nhìn vào đôi mắt mở to nhưng chợt xa vời, vô định của hắn. Anh nghe giọng nói đầy
xúc động của hắn và hiểu rằng dẫu sao có thể chút hồn quê chưa mất hết đang trở lại trong con
người đã nhuốm tội lỗi của hắn, và những kỷ niệm xa xưa về người cha một thời ngang dọc, vẫy
vùng trên dòng sông này hẳn đang sống dậy trong lòng hắn và đang nói những điều gì đó. Vậy
phải chăng đúng là: mọi con người tội lỗi đều có thể nhiều, ít hoàn lương, miễn là chưa mất hẳn
tính người?...

Ông Thạc gọi An vào lán cùng ông Trường, để tranh thủ hội ý công việc. Ông không có
thì giờ để nói nhiều về toán Eclat trong Quảng Bình, nơi ông vừa truyền đạt một số chỉ thị của Bộ
và nắm tình hình về báo cáo. Ông chỉ vắn tắt: ở đó anh em Công an ta được sự đồng ý của Bộ và
Đảng uỷ địa phương cũng đã bắt đầu chơi “trò nghiệp vụ”, mặc dầu còn rất thiếu kinh nghiệm như
anh em ở đây, nhưng bất lợi là xa Bộ, nên không được sự chỉ đạo trực tiếp... Địch đã có trả lời, bắt
liên lạc. Nhưng cứ như ý ông Thạc, bọn Mỹ có vẻ “chung chung” lắm. Có thể chúng có sự nghi
ngờ nào đó. Mặt khác, theo “giác quan riêng” của mình, ông cảm thấy chưa có thể thật tin ở tên
điện báo viên của nhóm Eclat. Và ở đấy ta không có chuyên viên điện đài giỏi để có thể giám sát
chặt chẽ được tên này để đi tới kết luận chính xác… ông Thạc đã trao đổi với anh em ở đó về
những kinh nghiệm sốt dẻo của chuyên án SL - 06 về toán Goblin. Ông đã nhấn mạnh tới điều
quan trọng nhất là phải cảm hoá cho được các phần tử địch bằng nhân nghĩa, bằng tất cả sự kiên
nhẫn, không hăm dọa, không dùng bạo lực cưỡng ép, trong khi đó vẫn phải luôn luôn hết sức cảnh
giác. Ông Thạc cho biết Bộ và Cục đang tiếp tục theo dõi cuộc “chơi” trong vụ Eclat, nhưng thật
ra chưa đặt nhiều hy vọng vào nó. Chuyên án SL06 Goblin vẫn được coi là trọng điểm...

Rồi ông Thạc mau chóng trở về công việc của Ban mình. Ông cho biết: Bộ và Cục đồng ý
chỉ tìm hai bãi đỗ hàng, đỗ quân cho chúng. Đồng ý cho Cầm Diêu lên, phòng khi địch bất ngờ đòi
hỏi nói truyện trực tiếp với y. Bộ còn cho biết thêm sẽ điều toàn bộ tiểu đoàn 21 cơ động của Bộ
lên, đồng thời huy động thêm quân của Khu, của Tỉnh. Sẽ hình thành một lực lượng mạnh có tính
áp đảo, đề phòng tụi Mỹ phản trắc có thể cho xuống cả một đơn vị cấp đại đội, thậm chí một tiểu
đoàn. Bộ cũng chỉ thị tất cả mọi lực lượng tham gia vào việc đón hàng, đón người này đều phải tổ
chức phòng không, sẵn sàng bắn máy bay khi có lệnh, và tất cả phải có hầm hố đầy đủ, phòng địch
có thể ném bom, tựa như bọn Pháp đã “chơi” lại ta trong vụ Đồng Mỏ năm 1952.

Nói đoạn, ông Thạc hỏi sang việc khác:

- Các anh đã báo cho anh Trần Vạn khu phó Công an biết tất cả mọi chuyện của ta chưa?

- Rồi ạ! - An đáp.

- Vậy anh An điện tiếp mời anh Vạn xuống ngay đây, ta họp Ban một cái. Từ khi lập Ban
đến giờ, mọi việc quá gấp gáp, anh Vạn lại ở quá xa nên chưa họp được đầy đủ các thành viên
trong Ban bao giờ được...
Ông Trường cười hà hà:

- Có khó gì! Khu vực này cánh ta biết cả rồi, ít nhất cũng là trên bản đồ. Mà các bãi ấy nhất định
không được quá xa nơi mà ta báo là Goblin đang “dựng căn cứ”. Vậy thì cũng vẫn quanh quẩn ở
nơi toạ độ XYZ vùng nam đường 13 và nơi tả ngạn sông Đà này thôi.

- Có lý! - Ông Thạc chăm chú.

- Vậy theo tôi - ông Trường tiếp - có thể chọn mấy ngọn đồi tranh ở bắc bản Phiêng Lung
khoảng 5km đường chim bay. Đó là một. Hai là thung lũng hoang trên các ngọn núi trọc ở nam
bản Chiềng Kha... Vừa nói, ông Trường vừa mở bản đồ ra...

- Tôi xin góp ý với hai anh - An bỗng xen vào trong khi hai ông Thạc, Trường đang chúi
đầu vào xem bản đồ, chỉ chỉ chỏ chỏ - Có mấy trảng trống giữa những khu rừng nguyên sinh ở
nam đường 13, cách sông Đà chừng 10 cây số, đề nghị các anh xem thử thế nào?

- Hả? - Ông Thạc và ông Trường cùng ngẩng đầu lên, chăm chú.

- Chỗ nào? Cậu chỉ xem! - ông Trường nói. An lập tức bò toài ra tấm bản đồ. Anh nghiêng đầu
chăm chú ngắm nhìn, rồi chỉ tay vào một điểm giữa một vùng xanh loang lổ xen kẽ, có một dòng
suối quanh co len lỏi...

- Ừ, chỗ ấy cũng được đấy! Sao cậu biết chỗ này? - Ông Trường lại hỏi.

- Báo cáo hai anh, năm 1959 tham gia tiễu phỉ vùng này, tôi đã có theo anh em dân quân
Mông đi qua khu vực ấy.

Ông Thạc quyết định rất nhanh:

- Vậy xong! Thế nhá: ngay ngày mai ta tung lực lượng đi xem tận nơi mấy chỗ đó. Phải
tận nơi mới được. Phải làm mọi việc như thật! Nếu có thể, tối mai, cùng lắm tối ngày kia ta hội ý
rồi quyết định chọn cái nào để báo cáo về Bộ và Cục. Sau đó điện báo cho “Trung tâm” chúng nó
biết. Và như thế dự kiến chỉ trong vòng ba cho tới bốn ngày nữa, có thể tin chắc chúng sẽ mò ra.

An dè dặt:

- Báo cáo hai anh, tôi e... nhận điện xong, bọn Mỹ còn phải cho máy bay trinh sát điện tử, hoặc cả
gián điệp mặt đất tại chỗ (nếu có) kiểm tra lại. Như vậy ta ít ra cũng có thể có năm ngày để chuẩn
bị mọi việc, sau khi chọn được bãi.

- Đúng! - Một lần nữa, ông Thạc lại đồng ý với An.

Thế là cái khu lán của Ban chuyên án SL 06 đã ba tuần nay như chợ chiều hoang phế, trống
vắng, uể oải, sốt ruột, thậm chí ngán ngẩm, bây giờ thoắt trở lại sôi động tựa như khu lán trại của
sở chỉ huy các chiến dịch ngày trước, mỗi khi toàn mặt trận sắp bắt đầu nổ súng.
Ngay buổi chiều hôm sau, ông Trần Vạn phó khu Công an Tây Bắc cưỡi một chiếc com
măng ca đít vuông xòng xọc chạy tới. Bỏ xe ngoài bờ sông, ông đi bộ vào khu lán của Ban chuyên
án. Khá cao to, có bụng, đầu húi ngắn, đeo kính trắng, vai khoác một cây súng săn, tay xách lủng
lẳng một xâu chim bắn được ở dọc đường, ông tươi cười đi vào khu lán. Chưa thấy người đã thấy
tiếng nói sang sảng và tiếng cười vui vẻ, cởi mở của ông: ..”Họp hả? Này, thi hành đúng “chức
trách uỷ viên đặc trách hậu cần”, tớ có món này cho các cậu đây!”. Vừa nói ông vừa giơ cao xâu
chim lên, đủ loại cu cườm, cò, diệc, bồ nông... Nhưng cũng đúng thời gian đó, cái gọi là “Trung
tâm” ở Sài Gòn điện ra. Bức điện được mã dịch tức thì: “ ... Khi chọn xong bãi và được Trung tâm
chấp nhận, chuẩn bị đón nhận như sau: đốt hoả châu, đặt giữa bãi, theo hình chữ L ngược, trước
giờ máy bay đến 20 phút - Đồng thời mở máy picơn để hướng dẫn máy bay tới địa điểm - Trước
10 phút máy bay đến, nói chuyện bằng radiophoni - Mật khẩu: Hồng Hải gọi Hoa Hồng

- Đáp Hồng Hoa nghe rõ Hải Hồng”.

Không khí trong khu lán lại càng thêm rộn ràng, náo nhiệt... Đêm khuya mọi người mới
ngả lưng đi ngủ. Nằm trên sạp nứa, bên ông Trường, bấy giờ An mới có thì giờ khẽ hỏi:

- Anh có ghé qua Phúc Xá chứ?

- Có. Tớ chạy ù về được một chốc, vẫn bình thường một cách ... nheo nhếch vậy thôi. Mẹ
kiếp, đẻ nhiều cũng có cái vui nhưng cũng lắm cái khổ thật. Tớ cũng tranh thủ chạy sang nhà cậu.
Khoá cửa. Cô ấy đi làm. Thằng cu chắc lại đi trẻ.

- Nước to rồi chứ anh?

- Ừ. Đang lên. Gần báo động số 3 rồi. Chắc chỉ tuần sau là ngập bãi..

An cố giấu một tiếng thở dài. Không sao ngủ được nữa. Hình ảnh dòng sông Hồng như
biển lớn, đỏ bầm, hầm hầm hung dữ lại như tràn về ngập trước mắt anh cùng với bèo lục bình, cây
khô từ đâu trôi về băng băng đến tối mắt, rợn người... Lại hiện lên những gương mặt của đàn bà,
con trẻ nháo nhác trên đê, và những người đàn ông cởi trần, gày guộc, ướt lướt thướt, mặt tái ngắt,
tay sào, tay chèo, chạy ngược chạy xuôi, rồi nhảy lên những chiếc bè tự tạo ghép bằng đủ thứ trên
đời: thùng phuy, tre bương, ván gỗ, kể cả các can nhựa đựng dầu... để bơi ra những mái nhà gần
như đã bị chìm tới sát nóc...

10

Đã quá quen tính Kỳ, tên thượng sĩ lái xe nhấn ga cho chiếc Jeep phóng bạt mạng từ dinh
Độc Lập trở về sân bay Tân Sơn Nhất, bất chấp đường xá đông nghẹt xe hơi đủ loại cùng xích lô,
xe đạp, và cả người đi bộ. Nguyễn Cao Kỳ xem đồng hồ tay: còn dư thời gian để hắn kịp dự cuộc
briefing của phi hành đoàn do viên trung uý Phan Thanh Vân chỉ huy sẽ cất cánh đêm nay ra Bắc
tiếp tế cho tụi Goblin. Kỳ mỉm cười đắc ý một mình: Truyện Tam quốc Tầu có me sừ Trương Phi
nổi tiếng hữu dũng vô mưu. Nhưng thật ra Trương Phi cũng có lúc dùng mưu giỏi như ai. Kỳ cũng
tương tự. Ai cũng bảo Kỳ ngổ ngáo, bạt chiêng, thích làm những việc dữ để ra oai. Nhưng trong
cái việc ra Bắc lần này, Kỳ đã tính toán chán. Phải, dại gì! Được tiếng khen, ho hen suốt đời! Cứ
nghe qua vụ Goblin và Eclat, thì thấy dù chúng tuy thoát nhưng Bắc Việt tỏ ra phòng bị rất ác. Họ
chỉ bị bất ngờ một, hai chuyến đầu thôi! Do vậy, Kỳ đã chọn một phương án tối ưu: cử Phan Thanh
Vân! Sẽ được tiếng là trọng người tài, và không còn thằng xấu miệng nào được dịp nói là Kỳ luôn
tranh hết mọi vinh quang của chiến hữu. Mặt khác, đây cũng có thể là dịp may giúp Kỳ loại bỏ
một kẻ có khả năng cạnh tranh về sau này. Tên Vân ấy vẫn được nhiều đứa ca ngợi là điềm tĩnh,
chững chạc. Lại nghe nói có ông thầy nào đó xem tướng nói nó sẽ còn làm to... “Trung uý Phan
Thanh Vân, hoa tiêu huấn luyện viên, phi đoàn trưởng phi đoàn I thuộc Liên đoàn vận tải quân sự
Việt Nam Cộng hoà lãnh trách nhiệm trực tiếp chỉ huy chuyến bay tiếp tế lần đầu ra Bắc, tiến sâu
vào nội địa Cộng sản”. Hay quá chứ! Tuyệt quá chứ! Đó là Kỳ nhường mà!...

Tới một ngã tư, chiếc xe Jeep buộc phải dừng lại giữa đám đông xe cộ. Chợt quay sang
bên, Kỳ nhíu mày nhìn vào một chiếc xe taxi gần đó. Thấp thoáng trong xe có một viên đại uý bộ
binh ăn mặc chải chuốt, mắt lươn, mũi to, miệng rộng đang cười, nói giả lả với một người đàn bà
còn trẻ, ăn mặc kiểu Thái ngoài Bắc. Kỳ buột miệng hỏi:

- Thằng cha nào thế kia nhỉ? Có phải thằng Quyền phụ trách trinh sát sư đoàn 22 ngoài
Nha Trang không?

Tên lái xe nhìn theo chăm chú, rồi cười nhăn nhở:

- Thưa đúng! Đại uý Quyền, chứ còn ai ạ! Ông ta đi với vợ một thằng đàn em nghe nói đã ra Bắc.
Ô, cha này “cua” gái đã lừng danh khắp vùng 2 chiến thuật. Lão có tới một tá “em nuôi”, “cháu
nuôi”, thậm chí “con nuôi” nữa, Trung tá ạ.

- Sao mày biết?

Vẻ đầy vẻ kiêu hãnh bụi đời, tên thượng sĩ lái xe đáp:

- Trình Trung tá, tụi “xế” chúng em được gọi là “giang hồ trên cạn”, chuyện trên trời, dưới
đất cái gì mà chẳng biết ạ!

- Vậy... có phải con vợ thằng Cầm Diêu không?

- Em cũng không rõ. Chỉ biết mụ tên Nhạn. Thế mới biết người đẹp thường chỉ có cái vỏ,
còn cái ruột nếu không hỏng hết trơn hết trọi, thì cũng rỗng tuếch.

- Mày cũng biết triết lý vậy hả?

- Dạ, không, cũng nghe giới mày râu từng trải nói qua vậy thôi, Trung tá!

- Thôi được, để rồi tao bảo ông Trinh... (đại tá chỉ huy trưởng sư đoàn 22).

Tên lái xe lại cười:


- Trung tá ơi, Trung tá đừng phạt em mới dám nói: đại tá Trinh... cũng bằng bốn đại uý
Quyền. Em nghe tụi “xế” ngoài đó vô thường kháo như thế.

Kỳ chỉ “hừm” một tiếng rồi im lặng. Đèn xanh đã bật sáng. Chiếc xe Jeep tiếp tục lao đi.

Qua sân bay một quãng dài vào sâu bên trong, qua ngôi nhà có treo biển “US Adivisor
team” (Đội cố vấn Mỹ) khoảng 200 mét, chiếc xe Jeep phanh cứng lại. Kỳ bước những bước dài
“oai dũng” tiến vào phòng họp “giao ban bay”. Phan Thanh Vân cùng Tĩnh, Mậu hai phi công, và
Yến - điều hành viên đang chờ hắn. Có đủ cả ba viên cố vấn Mỹ trực tiếp “giúp” Liên đoàn vận
tải quân sự: Tony, Smith và John. Chỉ thiếu Raphter và Ngô Thứ Lân, trưởng phòng P54. Nguyễn
Cao Kỳ nhíu lông mày.

Raphter và Ngô Thứ Lân còn dở công việc ở một căn nhà khác, không xa phi đạo là bao. Hai tên
này đang dặn dò tên Lò Văn Sạ, một trong ba tên sẽ được ném ra theo hàng đêm nay. Tuy không
tổ chức thành toán, nhưng Lân vẫn giao cho tên Sạ chịu trách nhiệm chỉ huy hai tên kia trong quá
trình bay và nhảy. Xuống tới đất, bắt được liên lạc, cả ba tên sẽ dưới quyền chỉ huy của Cầm Diêu.
Sạ là một tên chạc 30 tuổi, mặc bộ bà ba đen, mặt tròn trắng trẻo, mắt to và sáng, lông mày rậm,
vẻ nhanh nhẹn, tháo vát. Lân ân cần nói với Sạ:

- Anh quê Mường Sang, lần này được bổ sung cho Goblin là quá hay. Goblin đang ở một
điểm chỉ cách Mường Sang không xa. Anh có thể về thăm lại cô Én và nếu “xây dựng” được cô ta
làm nhân viên thì tuyệt. Anh nói là cô ấy với anh vốn là tình xưa nghĩa cũ phải không?

- Dạ phải!

- Anh còn cho biết là vùng này còn có tên tạo Thinh là chức sắc xưa kia, có mấy đứa con
trai cũng đã chạy vô đây, như vậy cũng cần bắt liên lạc với hắn. Tốt lắm đấy! Là chức sắc cũ nhất
định nó sẽ theo ta, đời nào theo Cộng sản. Còn tay gì nữa trên vùng cao người Mông ấy, tên là...
là...

- Thống quán Vừ A Lùng! - Tên Sạ đỡ lời.

- À, phải! Vừ A Lùng. Cũng một chức sắc cũ. Đừng có quên nó. Tụi GCMA Pháp đã bàn
giao nó cho người Mỹ từ 1955. Còn tên buôn muối ở Mường Sang có thế lực lắm, nó tên gì nhỉ?

- Thưa, Lò Văn Sử.

- A, đúng! Lò Văn Sử. Đấy, ba cái “đầu cầu” ấy theo đại tá cố vấn anh phải bám ngay. Bám
cho chắc! Có cơ phát triển lớn đấy! Đại tá cố vấn nói là sau đây có lực lượng mạnh, anh phải bàn
với Cầm Diêu đánh chiếm ngay cái đồn Công an vũ trang Mường Sang để từ đó toả đi... Hiểu
chưa?

- Dạ tôi hiểu.

- Nhưng chúng tôi vẫn nhấn mạnh: cô Én! Anh phải đặc biệt quan tâm! Nó đang là xã đội
phó. Nắm được nó như nắm được kho vàng. Hiểu không?
- Dạ, hiểu.

Tên Sạ mặt như có khói phủ, đôi mắt luôn nhìn xuống. Nó chỉ đáp nhát gừng. Lòng dạ nó đang
hết sức rối bời. Quá hận về việc phe cánh và nhiều chuyện xấu xa khác, bỏ trốn vào trong này, nó
tràn trề hy vọng là sẽ được Mỹ - Diệm tin dùng. Cũng như nhiều tên “hồi chánh” khác, nó rất hy
vọng và rất muốn được Mỹ cho đi quốc tế để tố cáo, để chửi Cộng sản. Được thế là sướng nhất.
Nếu không, ít ra cũng được làm các công việc “sang trọng” ở Sài Gòn như chiêu hồi, hoặc phát
thanh tuyên truyền gì đó... Nào dè đâu, cuối cùng nó bị dồn ép phải vào Liên đội quan sát mà nó
biết đó là đơn vị biệt kích ác ôn. Nhưng còn bất ngờ hơn nữa: nó lại bị chọn để đưa sang P54 tham
gia biệt kích gián điệp nhảy ra Bắc. Nó quá sợ. Bởi nó đã quá biết miền Bắc, tổ chức quần chúng
và công tác an ninh chặt chẽ như thế nào rồi...

Chừng đoán biết được tâm trạng tên Sạ, Ngô Thứ Lân tươi cười vỗ về, nói vui:

- Thôi, chuyến trở lại quê hương phen này chắc chắn gặp lại được cô Én. Thế nào mà chẳng
vồ lấy nhau, nhỉ!.

Thằng Sạ chỉ nhếch mép cười buồn, im lặng nhìn tên Lân. Nó phải thầm chịu là thằng cha
này vẫn nhớ khá rõ tất cả những gì mà nó đã phải khai báo khi chạy vào đây: từ chuyện bản thân,
gia đình, họ tộc, rộng ra tới cả bản mường, có chuyện gì quan trọng, có nhân vật nào đáng chú ý
nó đã phải khai hết... Nay Lân cố ý nhắc lại là nhằm cổ vũ, hâm nóng lại tinh thần nó! Hiểu quá đi
chứ! Nhưng, Lân chỉ mới đọc lướt qua các bản khai báo của nó, làm sao mà hiểu được hết, biết
được hết. Thật ra khi còn ở Mường Sang, tuy vẫn gắn bó, nhưng cứ mỗi năm Én như một thay đổi,
nhất là từ khi vào Đảng rồi được đề bạt lên xã đội phó. Cô luôn luôn muốn tỏ ra mình là ai. Nữ
tính của cô đã mất đi không ít. Cũng bởi vậy khi bỏ trốn ra đi, thực bụng nó không còn lưu luyến
gì nhiều ở người con gái ấy...

Tên Sạ chưa kịp nói gì, chuông điện thoại đã réo vang. Người ta mời, giục Raphter và Ngô
Thứ Lân tới dự Briefing của phi hành đoàn...

Cũng đúng buổi chiều hôm đó ở “bãi đổ” nằm giữa những khu rừng đại ngàn bên tả ngạn
sông Đà, cách thung lũng Mường Sang 25 dặm, các lực lượng từ Bộ Công an xuống tới tỉnh, cùng
dân quân Mường Sang do xã đội phó Én chỉ huy, và trung đội cơ động của đồn Công an vũ trang
do Đinh Văn Nết phụ trách cũng có mặt tham gia để sẵn sàng “đón hàng, đón khách”. Én vẫn rất
gọn gàng trong bộ đồ nửa dân tộc Thái nửa quân sự với áo cánh trắng ngắn vạt bó sát thân, với
khăn piêu, với vòng bạc, nhưng lại mặc quần âu kaki và giầy vải như bộ đội. Cô vẫn xinh xắn, tươi
cười, mau mắn và khi vào việc vẫn rõ ra dáng một người chỉ huy cứng cỏi, kiên quyết. Én đi tìm
gặp Nết để trao đổi về công việc. Nết vẫn mạnh mẽ hồng hào và thông minh, chắc chắn. Ánh mắt
anh đồn phó cũng vẫn luôn luôn dành cho Én những tia sáng kín đáo nhưng thật nồng nàn...

Bãi đáp đã được bọn “Trung tâm” ở Sài Gòn chọn trên cơ sở hai bãi mà “Goblin” báo về.
Bãi thứ nhất gọi là bãi A ở Phiêng Lung, bãi thứ hai (do Nguyễn Nguyên An đề xuất) gọi là bãi B.
Cũng chẳng hiểu tính toán sao, bọn “Trung tâm” đã quyết định lấy bãi B.

Các đơn vị Công an vũ trang của Bộ, Khu và tỉnh được bố trí ở vòng trong quanh bãi, với
công sự chống bom, pháo đầy đủ. Lực lượng này có nhiệm vụ trực tiếp thu hàng và đón bắt người,
đồng thời sẵn sàng đánh tiêu diệt quân đổ bộ nếu có. Lực lượng Công an huyện, trong đó có trung
đội của Nết, bố trí vòng đai phía sau, làm thê đội hai sẵn sàng tiếp ứng cho tuyến trên khi có lệnh.
Còn dân quân các bản (trong đó có trung đội của Én) bố trí chốt chặn tất cả các cửa rừng, các con
đường, các dòng suối toả đi bốn phía, phòng địch tháo chạy hoặc dù rơi tản mát. Trong rừng, một
trạm cấp cứu y tế cũng đã được thiết lập đề phòng có thương vong. Ngồi tạm cùng với trạm cứu
thương là Nguyễn Nguyên An cùng Cầm Diêu. Một chiếc máy picơn để liên lạc và hướng dẫn
máy bay tới vị trí (chỉ nhỏ bằng cái cặp ngoại giao) cũng đã được để sẵn trước hai người. An được
phân công đặc trách luôn luôn đi sát bên Cầm Diêu kể cả lúc hắn bị gọi ra khoảng trống để đối
thoại với tụi trên máy bay qua phoni. Anh đã được cả hai ông Thạc và Trường hoàn toàn tin tưởng:
An có tiếng Pháp tạm dùng được từ thời còn đi học. Khi lên Bộ, anh đã tự học thêm tiếng Anh. An
cũng có võ thuật, đẳng cấp đai đen, thuộc môn phái Vịnh Xuân (chủ yếu đánh gần, đòn mềm,
nhưng cực mạnh, cực hiểm), về môn bắn súng ngắn An có thể bắn cả hai tay gần như một. Nhưng
nom cái bề ngoài giản dị, khiêm tốn của An, nhiều người ngoài cơ quan chỉ cho anh là một “tay
hộ tịch viên” làng nhàng... Cách chỗ An và Cầm Diêu không xa, dưới gốc mấy cây đại thụ là ông
Thạc “tổng chỉ huy” và ông Trường, cả hai đều có cáp tai nghe đeo trên đầu, sẵn sàng nhận lệnh
trên và theo dõi, kiểm soát mọi việc, trong đó quan trọng nhất là việc tên Diêu hướng dẫn máy bay
và cuộc đối thoại (nếu có), giữa hắn và tụi trên phi cơ...

Hoàng hôn dần xuống. Mọi người giở cơm nắm ra ăn ngay tại trận. Tất cả vẫn giấu kỹ
mình dưới những vòm lá xanh, những khe suối kín, những hẻm núi có cây rậm. Toàn bộ khu vực
hoàn toàn yên tĩnh. Tuy nhiên ông Thạc, ông Trường vẫn còn lo một điều: Anh em Công an vũ
trang trên Bộ xuống có đem theo năm con béc-giê nghiệp vụ. Chỉ lo chúng “ngứa miệng” sủa ầm
lên thì lộ toét hết. Gián điệp mặt đất, nếu có, ắt phát hiện ra ngay cuộc đón lõng khá qui mô này...
Cũng còn nhớ ngay sau khi tóm được bọn Goblin, cục trưởng Công Năng đã sơ bộ rút ra được một
kinh nghiệm: không cần đông. Ồn ào, dễ lộ và cũng tốn người, tốn sức không thật cần thiết. Biết
vậy, nhưng lần này vẫn cứ phải đông cái đã. Vẫn còn mới quá trong những chuyện này, trong khi
ta chưa có nhiều phương tiện hiện đại, cơ sở, hạ tầng giao thông, liên lạc quá lạc hậu... Thôi thì
muốn chắc thắng, cứ lấy cái “đa số”, sau vỡ vạc thêm ra sẽ hay!...

Trời đổ tối. Đêm nay không hiểu sao đom đóm bay ra rất nhiều, làm cho núi rừng vừa thêm
sống động vừa thêm huyền bí. Nhưng đôi nơi, nhìn lên những khoảng trống, vẫn thấy những mảnh
trời thăm thẳm. Ngồi bên An, Cầm Diêu cứ ngọ nguậy không yên. Hắn luôn ngước lên nhìn bầu
trời đêm đầy sao và lắng nghe tiếng các con thác trên sông Đà gầm thét xa, gần. Hắn vẫn còn nhớ
những chuyến được cha cho đi theo thuyền từ Quỳnh Nhai ngược Lai Châu, hoặc từ Lai Châu xuôi
về tới tận Chợ Bờ, Suối Rút... dù hồi đó hắn mới 12 tuổi. Cha hắn thường cười nói: “Cho mày
quen với sông nước”... Hắn nhớ nhất những chuyến vượt thác kinh hoàng như thác Mằn Hi Mằm
Thắm, thác Hát Nhạt Hát Lai, thác Soong Put Soong Mon, thác Hát Moong, và thác Hát Tiếu...
Bây giờ nhớ lại còn thấy như dựng cả tóc gáy, vậy mà cha hắn đã vượt được hết, mà chẳng phải
chỉ một lần. Hàng trăm lần có lẻ trong cuộc đời sông nước của ông! Hắn thầm nghĩ: Các phim
phiêu lưu mạo hiểm gọi là toát mồ hôi lạnh của Mỹ nếu so với các cuộc vượt thác ấy còn xa...

Nhưng rồi hắn lại ngẫm mình trong hiện tại, và không khỏi thở dài. Không dám nói ra, hoặc nể mà
không tiện nói, hắn thấy mình hôm nay dẫu sao vẫn đang còn là một thằng tù, dù được đối xử thực
sự tử tế và tin cậy... Đêm nay hắn được đưa đi “làm nhiệm vụ với Tổ quốc”. Nói vậy cũng đúng
thôi. Nhưng thật ra, hắn chẳng quan tâm lắm, chẳng thấy rung động gì về những lời, hoặc điều tốt
đẹp cao xa ấy. Hắn chỉ nghĩ: hắn phải làm việc để cứu sinh mạng mình trước hết. Nếu có gì hơn
nữa thì trong thâm tâm hắn chỉ là: để đáp lại sự đối xử tử tế mà những cán bộ đã dành cho hắn.
Vậy thôi!... Đêm nay hắn sẽ phải tiếp xúc bằng điện đàm với người của phía bên kia, những con
người mà cách đây chưa lâu vẫn còn là “chiến hữu” của hắn. Sự việc thật tế nhị. Những người cán
bộ muốn hắn phải có ý thức dứt khoát rằng: bề ngoài vẫn phải giả như người cùng chiến tuyến với
nhau. Nhưng trong thâm tâm hắn phải luôn nghĩ rằng mình đang đấu tranh với một kẻ thù không
khoan nhượng. Hắn đã vâng. Nhưng thật ra chẳng thấy dễ dàng, thoải mái cho lắm... Quả là hắn
phải xử sự sao cho tế nhị, cho khéo đêm nay. Thành thực mà nói: hắn chưa cảm thấy căm thù bọn
kia. Nhiều lắm mới chỉ thấy chúng đúng là bọn đầy tớ mới, bọn tệ hại, bọn chẳng ra gì... Bây giờ
hắn chẳng còn liên hệ gì với chúng. Thật lòng hắn cũng chẳng còn muốn liên hệ hoặc tiếp xúc trở
lại với bọn ấy. Nhưng dẫu sao đêm nay, đúng là hắn phải sắm một vai kịch mà chưa bao giờ tưởng
tượng ra nổi là trong đời mình sẽ phải sắm. Vậy hắn sẽ phải làm gì đây, làm thế nào đây? Chẳng
phải lo là sẽ không làm vừa ý các cán bộ, cũng chẳng phải sợ bọn kia biết mà chửi mình là đồ
phản trắc. Không, hắn đã từng nghe nói: người ta chỉ gọi và chỉ chửi là phản trắc với những kẻ đầu
hàng cái ác, chạy theo cái bất nhân, bất chính... Nếu vậy hắn đã phản trắc từ 1952, nghĩa là từ khi
vào Tiểu đoàn Thái ở Lai Châu do Pháp tổ chức, đâu phải bây giờ mới phản trắc!

Nghĩ thế mãi cũng mệt đầu, hắn nghĩ sang chuyện khác. Hắn nói với An:

- Cán bộ An ạ, không hiểu sao dạo này tôi hay nằm mê lắm. Có đêm tôi mê thấy Nhạn, vợ
tôi bỏ trốn khỏi Nha Trang, vượt biển bằng thuyền buồm ra Bắc để tìm tôi, nhưng tìm mà chẳng
thấy... Có đêm tôi lại mê thấy cô ấy sang Phnompênh đi máy bay sang Trung Hoa, từ Trung Hoa
đi máy bay về Hà Nội rồi lên Tây Bắc cùng với tôi. Hai đứa lại về Lai Châu xưa... Thế có “điên”
không, cán bộ?

An đưa cho hắn một điếu thuốc lá sợi quấn kiểu sâu kèn:

- Hút đi! - An thong thả nói - Anh bằng tuổi tôi, 28. Quỹ thời gian còn dài cả. Anh cứ kiên
nhẫn. Tôi nghĩ rằng anh có thể làm lại được cuộc đời mình trên quê hương này, không hề muộn.
Và biết đâu đấy anh sẽ gặp cô Nhạn, vợ anh, tình cờ một lần nữa trong đời như đã gặp lại cô ấy ở
Nha Trang năm 1957 vừa rồi.

- Dạ, rất cám ơn cán bộ! - Cầm Diêu đáp. Trong bóng tối của đêm rừng, An không nhìn rõ nhưng
cảm thấy hắn thoáng mỉm cười buồn - Vậy thưa cán bộ, cho phép tôi... được hỏi một câu, có được
không ạ? Quý và tin cán bộ lắm, tôi mới dám... - Cầm Diêu tiếp.

- Anh cứ nói!

- Thưa, vậy cán bộ có tin... ở số mệnh không?

An khẽ nhún vai rồi đáp:

- Từ thủa nhỏ tôi vẫn được cha tôi dạy “Nhân định thắng thiên”... Anh hiểu nghĩa câu này
chứ?

Từ lúc đó hai người không nói chuyện nữa, chỉ ngồi hút thuốc tràn và theo đuổi những ý
nghĩ của riêng mình.
Đồng hồ đã chỉ 12 giờ đêm.

12 giờ 30. Ông Thạc và ông Trường bỗng xuất hiện:

- Các điện đài chuẩn bị lên máy! Đồng chí An, cho mở picơn. Lệnh cho Cầm Diêu sẵn sàng
với phoni.

Cả hai người cùng đứng bật dậy. Trong bóng đêm, rừng vẫn tối mò với đom đóm lao xao,
nhưng đã nghe có tiếng chuyển động rầm rì. Rồi đột nhiên từ trảng cỏ phía ngoài bỗng vụt sáng
loà và đỏ rực. Hàng chục chiếc hoả châu xếp theo hình chữ L ngược đã được lệnh đốt. Lửa phun
phè phè mỗi lúc một đỏ rực cả một vùng. Khói cuộn lên mờ mịt trên cao, cũng đỏ hồng, tạo nên
một quang cảnh lạ lùng, như thời hồng hoang, tiền sử, như trong một phim quái dị, kinh hoàng nào
đó làm cho tất cả mọi người đều trào lên những cảm xúc hồi hộp khó tả...

An và Cầm Diêu được lệnh nhanh chóng rời khỏi trạm cấp cứu, tiến ra bãi trống. An liếc
nhìn thấy mặt tên toán trưởng nhuốm ánh hoả châu đỏ rực, như khác lạ hẳn.

- Xin cán bộ hãy tin tôi!...

- Được, tôi hiểu anh. Hãy thật bình tĩnh! Hãy vào vai một cách thật trọn vẹn!

- Rõ! Thưa cán bộ!

Chiếc máy picơn đã mở theo làn sóng mà địch qui định... Ông Trường cũng đã lấp ló ở cửa
rừng với cáp tai nghe trên đầu... Tất cả đã hoàn toàn sẵn sàng. Những chiếc hoả châu vẫn như mỗi
lúc một thêm cuồng nhiệt cháy.

01 giờ.

01 giờ 5 phút. Cầm Diêu bắt đầu lên tiếng:

- Hồng Hoa gọi Hải Hồng! Hồng Hoa gọi Hải Hồng! Giọng hắn khá vang, dõng dạc, đầy
tự tin và như có cả niềm kiêu hãnh. An luôn luôn đứng cạnh hắn chăm chú theo dõi và lắng nghe.
Tuy nhiên, anh hiểu, thật ra giây phút này chẳng phẳi riêng mình anh mà cả Ban chuyên án, cả các
cán bộ chủ chốt trên Bộ thông qua đài A20 cũng đang lắng nghe tất cả...

Cầm Diêu tiếp tục lên tiếng lần thứ hai. Trong tất cả các bộ tai nghe của những cán bộ chịu trách
nhiệm: từ ông Thạc tới ông Trường, tất nhiên cả An và Cầm Diêu... bỗng cùng dội lên hai tiếng
ục, ục khá to. Rồi tất cả im phắc. Bàng hoàng. Không rõ chuyện gì xảy ra. Cầm Diêu vội tiếp tục
gọi liên hồi. Nhưng tất cả lời của hắn như rơi hết vào vực thẳm...

Tất cả trận địa cùng như nháo cả lên. Hoả châu dần dần lụi tắt hết. Máy bay địch chẳng
thấy đâu. Một tiếng máy ran trên làn sóng cũng không. Tại sao vậy? Ông Thạc cùng hội ý nhanh
với ông Trường và cả ông Hoàng Thự cán bộ tham mưu của Bộ Tư lệnh Công an vũ trang trực
tiếp xuống chỉ huy lực lượng của mình trong trận này. Tất cả mấy ông đều chưa nhận định ra điều
gì, nhưng cùng thống nhất ý kiến phải cấp tốc báo cáo về Bộ và Khu, đồng thời ra lệnh cho tất cả
lực lượng vũ trang, bán vũ trang có mặt tại đây lập tức triển khai đội hình chiến đấu, đề phòng địch
sẽ cho các đơn vị tác chiến đổ bộ xuống đánh úp.

Thế là tất cả một vùng náo động cả lên như trận mạc lớn sắp nổ ra.

Nhưng thời khắc cứ bình thản trôi qua. 01 giờ 40. Rồi 01 giờ 50. Rồi 02 giờ. Không có
động tĩnh gì hết. Đây cũng là giờ quy định lập phiên liên lạc với Bộ. Các nhân viên cơ yếu báo vụ
của Ban lập tức vào việc ngay tại rừng. Chỉ mấy phút sau một bức điện từ Bộ gửi xuống, dưới ký
tên cục trưởng Công Năng.

Bức điện sau: Máy bay địch có vào. Nhưng nó mới tới địa phận tỉnh Ninh Bình đã bị một
đơn vị phòng không của ta bắn hạ. Chiếc máy bay rơi xuống vùng đồng lầy của một nông trường
quốc doanh. Bộ đội, công an vũ trang và tự vệ nông trường, dân quân các xã xung quanh đang truy
lùng những tên sống sót trốn chạy...

Tất cả mọi người cùng thở phào. Biết rõ chuyện rồi, đỡ lo. Nhưng rồi tĩnh trí lại, ai cũng
cảm thấy rất buồn. Thế là tất cả bao công lao “đổ xuống sông xuống biển” hết. Buồn đến nỗi chẳng
ai muốn nói với ai thêm điều gì nữa. Lệnh thu quân.

Trở về lán của mình, các ông Thạc, Trường đi nằm luôn. An cũng vậy. Nhưng chỉ nằm
được một lúc, ông Trường đã bò ngoẻo dậy, lụi hụi nhóm lửa đun nước pha trà. Đến lượt ông Thạc,
An, rồi tất cả nhân viên cùng dậy cả. Hoá ra ai cũng tiếc công đã đành, bây giờ nghĩ kỹ hơn, nghĩ
rộng ra hơn lại có cái lo mới: lo rằng có thể vì chuyện này mà lộ hết, cuộc “chơi” khéo hỏng. Điều
này mới thật đáng tiếc gấp bội!

Cứ như thế, lửa đun nước lom lom, bập bùng, mọi người ngồi vây quanh, vừa ngán ngẩm vừa lo
cho mọi chuyện sau này. Và một đêm coi như trắng. Chỉ riêng có ông Hoàng Thự cán bộ tham
mưu của Bộ tư lệnh Công an vũ trang (nằm trong Bộ Công an) đã ngủ ngon ngay từ lúc đặt mình
xuống sàn nứa. Từ Hà Nội, khi nhận lệnh đem quân lên đây, ông đã hoài nghi kết quả. Ông cười
khẩy, nói với mấy tay cánh hẩu: “Chà, mấy cái anh Công an hành chính này thì làm sao mà lừa,
nhử được bọn Mỹ cơ chứ!”. Ông thường hay gọi nửa đùa nửa thật anh em Công an các ngành khác
như an ninh, tình báo, cảnh sát giao thông... đều là “Công an hành chính” hết.

Tuy nhiên, trong lúc đang ngao ngán như vậy ông Thạc, ông Trường vẫn không quên một
việc quan trọng: đánh điện ngay cho “Trung tâm” Sài Gòn, hỏi: “Vì sao không cho máy bay ra tiếp
tế theo hẹn? Anh em đang rất thắc mắc. Xin được giải thích ngay.”

* *

Đúng là chiếc máy bay tiếp tế cho Goblin đã bị bắn hạ trên bầu trời tỉnh Ninh Bình vào hồi 01 giờ
5 phút sáng hôm đó. Nó rơi cắm đầu xuống một cánh đồng sình lầy mênh mông sát biển.

Buổi tối hôm đó, Tính còm (anh ruột của đồn phó Nết trên Mường Sang) đi họp Ban chấp
hành Công đoàn của nông trường, mãi 11 giờ khuya mới trở về tới đội sản xuất. Khi Tính về anh
em vẫn còn thức. Tính cử Công, một đội viên tự vệ đi thay gác, rồi mới đi nằm. Hồi này có báo
động luôn. Máy bay địch cứ ì ầm ngoài biển gần như thường xuyên. Có khi nghe thấy nó bay cả
vào trong đất liền rồi mất hút ở đâu không rõ. Công việc canh gác càng trở nên vất vả. Khoảng 1
giờ đêm. Tính còm đang ngủ say như chết thì Công hộc tốc chạy về dựng dậy:

- Đội trưởng ơi! Có tiếng máy bay từ hướng Sầm Sơn, dọc theo sông Càn bay vào đất liền.
Anh dậy mau!

Mắt nhắm mắt mở, Tính vội chạy ra khỏi ngôi nhà của đội sản xuất, nhìn lên bầu trời và
lắng tai nghe. Đúng là có tiếng máy bay từ hướng Sầm Sơn thật!. Nghe mỗi lúc một gần. Đột
nhiên, bỗng giật mình, Tính cùng với Công như nghe thấy một loạt tiếng súng nổ ở phía đông, sau
đó là một tiếng nổ lớn. Rồi trên bầu trời âm u bùng lên một khối lửa rất lớn. Khối lửa ấy lập tức
kéo thành một vệt dài lùng bùng bay chéo ngang, sau đó lao rất mau xuống đất ở xa xa, tạo nên
một tiếng nổ thứ hai làm rung chuyển cả không gian. Một cột lửa nữa từ chỗ đó phụt lên cao tới
30 mét đỏ ối cả một vùng... “Máy bay rơi rồi! A ha! Máy bay rơi rồi, anh em ơi!”. Tiếng của những
ai đó trong nông trường cùng bật reo lên ồn ào, náo động... Tính còm hết sức hồi hộp, nhưng cũng
còn đủ tỉnh táo để hiểu rằng mình phải tập hợp lực lượng tự vệ ngay để tiến ra phía chiếc máy bay
rơi ấy. Thế là chỉ mấy phút sau, anh cử một người chạy hoả tốc về nông trường bộ báo với Ban
Giám đốc, đồng thời cắt một người ở lại giữ “nhà”, còn ba tay súng theo anh đi luôn. Qua cánh
đồng là tới bãi sình lầy rộng tới 4 cây số vuông. Tính động viên anh em cố gắng di chuyển cho
nhanh. Bùn nước mút chặt lấy chân, hết sức vất vả. Nhưng cứ nhìn đám cháy còn chưa tắt ở phía
trước mấy anh em lại cố gò lưng mà chạy, nói cho đúng hơn: mà lội trên bãi sình khốn khổ đó.
Phải tới hơn một giờ sau mấy anh em mới ra tới gần chiếc máy bay. Nó vẫn còn đang cháy rần
rần. Đầu nó cắm xuống bãi sình, đuôi chổng ngược lên. Thân máy bay gần tan tành hết, chỉ còn
trơ lại những khung sắt đang còn đỏ rực như nung. Các mảnh tôn, các phụ tùng... của chiếc máy
bay gián điệp tung toé khắp xung quanh. Cũng đã nghe thấy nhiều tiếng lao xao phía bên trái, bên
phải. Đoán là anh em công an vũ trang và dân quân xã Tô Đình cũng đã kéo tới, Tính còm và ba
tay súng nữa của mình mừng lắm. Lúc này lại cảm thấy rất phấn chấn, và như không biết mệt nữa.
Tính còm nhìn thấy một chiếc thuyền cao su trên lố nhố có hai hay ba người vừa nằm vừa ngồi.
Chúng định kéo xuồng ra sông Càn để chạy sang bên kia trốn chăng? Tính còm lập tức ra lệnh anh
em triển khai chiến đấu, rồi hô vang: “Hàng ngay! Hàng thì sống, chống thì chết! Mấy bóng người
trên chiếc xuồng la lối gì đó như kêu van. Tính còm vẫy anh em tiến lại. Té ra chỉ có một tên còn
tương đối khoẻ mạnh, nhưng mặt mày đầy máu, còn trong xuồng có hai tên đều bị thương rất nặng
nằm như bất tỉnh. Tính cho anh em tước súng ngay. Tên còn sống chắp tay vái lạy như tế sao xin
cứu mạng cho chúng nó, rồi sẽ khai hết... Thu súng xong, Tính ra lệnh cho chúng cứ ở đấy, sẽ có
người tới cứu đưa về phía sau. Cảnh giác, anh để lại một tự vệ ở lại canh gác rồi vẫy hai anh còn
lại đi theo mình tiếp tục tiến lên lùng sục. Tính đã tranh thủ hỏi thằng trên xuồng nên biết tất cả có
10 tên, trong đó có ba tên là gián điệp biệt kích, còn lại là nhân viên phi hành đoàn. Mười tên ấy
đã chết ngay 4 tên, còn 6 tên thì 3 tên đang ngoắc ngoải... Tính đến gần chiếc máy bay, khoảng 4
mét. Anh bỗng kinh hoàng nhìn thấy hai cái sọ người đã cháy đen nằm lăn ở đó. Lại thấy một tên
bị thương nằm cạnh đấy đang phát ra những tiếng ằng ặc như một con vật bị cắt tiết chứ không
còn tiếng người. Chưa hết, Tính lại nhìn thấy một tên bị thương khác đang lăn lộn. Thấy Tính, nó
ú ớ van xin cứu giúp. Nó bị thương rất nặng, toàn thân cháy bỏng, chân tay gãy nát gần hết. Ngay
cạnh nó là một xác chết đã cháy đen, cong queo, mùi thịt cháy lộn mửa, tắc thở. Tính đang cuống
cả lên không biết xử trí ra sao, thì một đội trưởng khác của nông trường cùng phó Giám đốc dẫn
một tiểu đội tự vệ chạy tới. Tính yêu cầu khiêng tất cả bọn bị thương ra khỏi vùng còn đang cháy
nổ. Cũng lúc đó, quá may, lại thấy anh em Công an vũ trang và cả một đồng chí Thường vụ Tỉnh
uỷ cũng kịp thời kéo đến... Trời vừa rạng sáng. Càng nhìn thấy rõ hơn quang cảng chiếc máy bay
bị hạ. Vừa tan hoang, vừa dữ dội. Nom rõ hơn những tên bị thương, thật ghê rợn...

Đang cần người phụ trách trông nom bọn bị thương đưa về phía sau kịp thời cứu chữa, ông
phó giám đốc nông trường quyết định Tính phải quay về trước và gánh vác việc này. Ngoài hiện
trường đã có quá đủ lực lượng của ba bốn phía lo liệu, thu dọn.

Đang quá mệt, lại quá ghê cái cảnh chết chóc ngoài này, Tính không có ý kiến gì nữa, chấp
hành lệnh, giao lại quân, rồi đi luôn theo sáu cái cáng thương nghi ngóp vượt bãi sình lầy trở lại
nông trường bộ. Trong sáu tên giặc ấy ba tên nặng nhất coi bề rất khó qua khỏi.

Phải tới gần trưa, đoàn cáng thương mới về tới trạm xá. Đây là trạm dừng chân sơ cứu, chờ
xe chuyển đi. Trạm xá cũng khá rộng. Ba tên nặng nhất để nằm riêng một phòng có y sĩ trông coi.
Ba tên tương đối nhẹ hơn nằm riêng phòng khác có y tá, hộ lý phụ trách. Tính còm đã bàn giao
xong định về đội tắm rửa, và kiếm miếng gì cho vào bụng. Thấy ba tên giặc bị trọng thương cứ
rên la, và thở ăng ặc như giãy chết, ngẫm nghĩ anh bèn ở lại để giúp anh y sĩ trẻ lo liệu mọi việc
cho chu đáo. Tính ngồi bên một

tên mặt bị cháy bỏng rộp, loang lổ máu mỡ rất kinh. Gần như không còn nhận rõ mặt thật của nó
ra sao nữa.. Tay phải, chân phải cả nó cũng đã gãy và cháy bỏng. Ngực nó bị dập nát gần hết. Nó
luôn luôn hôn mê. Đôi lúc chợt như tỉnh lại một chút rồi lại hôn mê... Ở đầu giường nằm của nó
có mấy thứ giấy tờ mà anh y sĩ vừa thu lại được, đặt ở đấy. Tất cả đều vấy máu và ướt nhèm. Tuy
vậy vẫn đọc tạm được. Tính còm tò mò cúi xuống xem. Đó là một thẻ cử tri bầu cái gọi là quốc
hội năm 1959 có chữ ký và con dấu của tên chỉ huy trưởng Liên đội quan sát I là thiếu tá Đàm Văn
Quí. Giấy thứ hai cũng là thẻ cử tri bầu “Ngô Tổng thống” năm 1961 và giấy thứ ba là thẻ phát
tiền cá nhân do Liên đội quan sát I cấp để kiểm soát việc lĩnh lương hàng tháng. Trên cả ba giấy
tờ đó đều ghi tên: Lò Văn Sạ, quê gốc ở Mường Sang - Sơn La... Một cảm giác gì tựa như một mối
hồ nghi thoáng gợn trong đầu Tính còm... Anh chăm chú đọc lại cả ba thứ giấy đó lần nữa. Cũng
vừa lúc ấy tên gián điệp biệt kích như hồi tỉnh. Nó đưa cặp mắt sưng vù, đờ đẫn, vô hồn nhìn tất
cả những ai, những gì đang ở trước mặt nó. Rồi nó bỗng rên lên. Anh y sĩ mừng rỡ vội chạy vào.
Tính cũng mừng và hồi hộp. Một lát sau thấy tên biệt kích có vẻ tỉnh hơn được một chút, Tính khẽ
hỏi:

- Mày tên là Sạ?

Nó thoáng như gật đầu.

- Mày ở Mường Sang à?

Nó lại hơi lúc lắc cái đầu như gật.

- Vậy mày có biết ...cô Én không?

Hai con mắt tưởng không còn nhìn thấy gì nữa của tên giặc bỗng như hé mở ra và trong
lên một chút đến kỳ lạ.
Tính có biết cô Én. Mấy tháng trước lên Mường Sang thăm Nết, Tính đã thấy cô lên đồn
hai ba lần gặp Nết có công việc gì đó... Cô gái khá xinh... Và hôm trước Tính về, vui chuyện Nết
đã kể cho anh nghe khá nhiều về Én, kể cả những gì đáng buồn, đáng tiếc trong tình duyên của cô.
Tính vẫn còn nhớ được cái tên Sạ, kẻ phản bội đã chạy trốn vào Nam hàng giặc. Vậy mà bây giờ
nó lại dẫn xác ra đây như thế này ư? Ôi chao, cuộc đời sao lại có lắm chuyện bất ngờ như vậy?

- Này, mày có muốn về Mường Sang không?

Tên giặc nhắm mắt lại. Nó khẽ lắc.

- Vậy mày có muốn chúng tao báo cho cô Én đến gặp mày không?

Hai mắt nó càng nhắm nghiền. Nó lắc còn rõ hơn trước.

- Mày không muốn gặp cô ấy ư? Vì sao vậy?

Tên giặc một lần nữa lại lắc. Và từ đó nó lại rơi vào hôn mê triền miên. Cho tới khi có xe
tới chuyển tải chúng lên bệnh viện tỉnh thì anh y tá buồn rầu loan báo: tên Sạ đã chết rồi...

* *

Sài Gòn vẫn nắng chói chang. Phố xá vẫn tấp nập xe cộ đủ loại với mọi tiếng máy đinh tai nhức
óc. Bên bể bơi Phan Đình Phùng, Diana cùng Hampton mỗi người nằm ngả, gối đầu lên hai cùi
tay trên một chiếc ghế vải, dưới tán che một chiếc dù nhỏ sặc sỡ. Dưới bể bơi, trong làn nước xanh
mầu ngọc, tây đầm và những nhân vật “tai to mặt lớn” cùng các thương gia tỉ phú bản xứ đang đua
nhau bơi lội vẫy vùng. Hampton hôm nay có vẻ mệt và không vui, nhưng vì nể lời Diana, hắn miễn
cưỡng phải đi chơi như thế này. Những cuộc tranh luận rất căng thẳng trong mấy ngày qua trong
nội trạm CIA Sài Gòn về vụ chiếc C47 bị rơi ở Ninh Bình đã làm cho đầu óc Hampton lắm lúc mờ
cả đi. Nói chung là có hai phe: một phe đứng đầu là Raphter cho rằng chiếc C47 bị bắn hạ không
hề chứng minh rằng nhóm Goblin đã bị khống chế. Lý lẽ: Nếu Cộng sản đã nắm được Goblin thì
sẽ để dùng lâu dài, không dại gì gọi máy bay ra tiếp tế để bắn hạ như thế. Như vậy chiếc C47 đã
bị một đơn vị phòng không nào đó bắn rơi chỉ là do phát hiện thấy máy bay xâm nhập là nó “giã”
liền. Đơn giản có vậy thôi, không nên phức tạp hoá vấn đề làm gì. Tóm lại Goblin vẫn đứng vững.
Một chứng cứ hùng hồn nữa: ngay sau khi không thấy chiếc C47 tới điểm hẹn, Goblin đã tức khắc
có điện vào hỏi... Còn một phe khác do một đại tá lâu năm là Tedy Miller đứng đầu lại khẳng định
qua vụ này thấy rõ: Goblin đã bị khống chế, “vấy bẩn”. Lý lẽ: Cộng sản giả danh Goblin xin tiếp
tế lớn. Nhưng vì chỉ huy không chặt chẽ đã để một đơn vị phòng không nào đó cứ bắn ào. Và cũng
không loại trừ một khả năng: chẳng có đơn vị nào bắn hết, mà do máy bay bị sự cố kỹ thuật mà rơi.
Các chuyên viên không quân Mỹ đã cho biết: đây không phải lần đầu vùng này có máy bay Mỹ
xâm nhập. Vậy tại sao các lần trước không thấy bắn lên, mà lần này lại có bắn? Khó hiểu! Hampton
đứng vào phe thứ hai. Mặc dầu lý lẽ chưa đủ để đánh bại được phe Raphter, chưa thuyết phục được
hoàn toàn Cobly và nhất là đại sứ Hoa Kỳ ở đây. Nhưng cái gọi là “cảm giác tình báo” của Hampton
vẫn luôn luôn mách bảo hắn rằng: Có nhiều khả năng là Goblin đã bị không chế, bị làm “vấy bẩn”
rồi. Bữa qua, cuộc tranh luận tạm dừng. Colby, “con sói” lạnh lùng đã sơ bộ kết luận: Vụ C47 quả
là rất phức tạp. Nó làm cho CIA ở Sài Gòn rất khó ăn nói với toà đại sứ, cũng khó báo cáo về
Washington. Vậy phải tiếp tục xem xét một thời gian rồi mới có kết luận cuối cùng. Như vậy với
toán Goblin không thể tin tưởng được như trước, nhưng cũng không thể vội vàng vứt bỏ. Phải có
một kế hoạch thử thách lâu dài xem sao... Trong khi đó một mặt phải lo đối phó với dư luận quốc
tế về cái vụ C47 tồi tệ này, một mặt vẫn phải tiếp tục tung những toán khác ra Bắc. Theo lệnh
Washington: kế hoạch Staley - Taylor vẫn phải được thực thi triệt để, trong đó chiến tranh gián
điệp biệt kích đánh ra Bắc là một bộ phận quan trọng không được để bị trục trặc, gián đoạn; thất
thường cũng không cho phép...

Đang nằm dài, Diana bỗng ngoái sang, mỉm cười hỏi:

- Này, cái vụ C47 của các bạn, Hà Nội đã đưa tin rất rộng khắp. Theo lời họ vụ này sẽ còn đưa ra
toà án xét xử nữa. Tức là họ gián tiếp xử Mỹ. Thành vấn đề to rồi đấy, bạn ơi!

- Tôi cũng nghe được sơ sơ như vậy - Hampton khẽ thở dài - Nhưng sao bạn lại gọi là “của
Mỹ” nhỉ? Đây là việc làm của anh em ông Diệm, thưa bạn.

Diana cười to:

- Ôi, bạn cho rằng chúng tôi, cánh nhà báo ấy, lại ngây thơ đến thế sao? Của ông Diệm!
Không, ông Diệm chỉ là một con rối, chuyện đã quá rõ từ lâu rồi! Chính người Mỹ tung chiếc C47
ấy ra Bắc Việt. Vi phạm nhiều thứ quá đấy!. Cả thế giới đang ồn cả lên. Làm thế nào để gỡ cho ra
vụ này, hả Hampton thân mến?

Hampton lắc đầu mệt mỏi:

- Thôi, ta xuống tắm tiếp đi bạn! Chuyện này đâu có phải chuyện của riêng ai.

Nhưng chưa chịu buông tha, cô gái đáo để ấy như muốn “hành” chàng trai một cú nữa. Diana mở
túi vải lấy ra một tờ báo tiếng Anh:

- Khoan, đồng ý thôi không nói chuyện chiếc C47 nữa. Nhưng để tôi đọc cho bạn nghe một
mẩu trong tờ “US and world news” nhé! Đây là một tờ báo thân chính phủ Mỹ, số ra 21- 4 -1961,
mới toanh! Tựa đề bài báo: “Lên tuyến đầu với du kích Mỹ ở châu Á” . Tôi đọc mẩu này nhé...

- Ôi, bạn lại trở về với những vấn đề nhức óc! - Hampton khẽ lắc đầu - Diana ơi, tôi ở
USIS, có ở MAACV đâu, bạn quên rồi sao. Tôi không rành và cũng chẳng thích những chuyện
này.

- Vậy anh thích những chuyện gì? - Diana cười.

- Chuyện gì ư? Tôi chỉ thích... tâm sự với Diana! - Hampton duyên dáng và lẳng lơ đáp lại.

Nói đoạn, anh ta đứng dậy và nhào luôn xuống bể bơi lặn một hơi dài, tới gần cuối đường
bơi mới nhô lên, vuốt nước trên mặt, giơ tay vẫy:
- Diana! “Cô gái thích sống một mình”! Xuống đây, xuống đây, lẹ lên cưng!.

11

“Khách đã ra theo hẹn - Nhưng 01 giờ 5 phút mắc nạn ở NB - Anh em phải tuyệt đối giữ
an ninh - Tạm cắt đứt liên lạc từ nay - Hàng ngày vẫn nhận điện, nhưng chỉ một chiều, không được
liên lạc hai chiều - Tiếp tục nhận chỉ thị của Trung tâm và thực thi mọi yêu cầu”. Đó là bức điện
tụi Mỹ trả lời ngay sáng hôm sau vụ C47. Vắn tắt chỉ có thế. Nhưng tất cả Ban chuyên án đều gần
như lặng đi. Vốn sôi nổi, ông Trường bật lên nói trước, nói luôn cái điều mà gần như toàn thể anh
em cán bộ, nhân viên đều âu lo suốt đêm qua, không sao ngủ được, cái điều cay đắng mà dường
như không mấy ai dám, hoặc nỡ nói thẳng ra ngay:

- Mẹ kiếp! Đúng là chúng nó nghi mình rồi, không còn “oong đơ” (một, hai) gì nữa! Đểu
quá, nó bắt mình vẫn phải liên lạc hàng ngày. Nhưng chỉ được nhận mọi chỉ thị của nó, còn tuyệt
đối không được báo cáo báo mèo, càng không được xin xỏ, đề nghị điều gì hết... Thế là nó muốn
trói chặt mình, để nó tha hồ tự do phanh phui, khám xét đây!

Mọi người đều đồng ý với ông và cũng trở nên tức giận như ông. Tuy nhiên rồi ai cũng đều
phải thừa nhận là “chúng nó” đã làm rất đúng về mặt tình báo. Chúng phải cảnh giác, hết sức cảnh
giác. Không còn ngờ ngợ, không còn hồ nghi gì nữa về thái độ và ý đồ của bọn Mỹ. Không phải
mất thì giờ thảo luận tranh cãi gì nữa, ông Thạc cho điện ngay về Bộ báo cáo về toàn bộ mọi việc
đã xảy ra, nhất là bức điện mới nhất này. Ban xin Bộ cho chỉ thị ngay về phương hướng hoạt động
cơ bản của Ban từ nay trở đi. Đồng thời, ông Thạc cũng cho điện mời ông Trần Vạn từ Khu xuống
để cùng họp bàn triển khai mọi việc.

Trong khi chờ điện của Bộ, chờ cả ông Vạn, cả Ban lại trở về tình trạng ngao ngán. Cơm
chiều, “anh nuôi” nấu xong, chẳng ai thiết ăn nữa. Ông Thạc, ông Trường và An lại nằm dài trên
sàn nứa, tiếp tục trao đổi ý kiến lan man. Cả ba đều suy nghĩ gần như nhau: đã nghi ngờ, vậy nhất
định thằng Mỹ sẽ tiến hành kiểm tra, mà chắc chắn sẽ kiểm tra liên tục và gay gắt. Nhưng không
biết đến bao giờ, mau hay chóng? Cả ba cũng nhất trí phỏng đoán thêm: đã đình chỉ liên lạc, trước
hết là “nó” sẽ điều động vào sâu trong rừng hơn nữa “để chờ lệnh mới”. Như vậy rõ ràng là một
thời kỳ gian khổ, khó khăn đang đợi Ban ở phía trước. Gian khổ thì cũng có thể chịu đựng được,
gay nhất là có thể nó giở những trò kiểm tra hóc búa ra. Ta chỉ sơ ý, sai sót một chút cũng đủ “đi
đời” tất cả mọi chuyện. Ai có thể nói mạnh được trong chuyện này? Vẫn còn mò mẫm, ta chưa có
một tí kinh nghiệm nào trong việc chống kiểm tra kiểu từ xa, và trong điều kiện không biết nhiều
về phía địch như thế này... Thật là vỡ óc!

Qua ngày hôm sau, buổi chiều, ông Trần Vạn, “chàng Pierre của Tolstoi trong Chiến tranh
và hòa bình”, phóng xe xuống, vẫn kính trắng lấp lánh, vẫn tấm thân vạm vỡ cùng gương mặt sáng
sủa, và khẩu súng săn luôn luôn trên vai, mấy con chim bắn được ở dọc đường lủng lẳng nơi tay,
ông lại vui vẻ nói từ ngoài suối:

- Lần này tớ đã liên hệ với địa phương mua được con lợn và tạ gạo cho các cậu đây!
Lẽ ra, như mọi hôm nghe thấy vậy, quân ta đã reo ầm lên vì đang phải triền miên “tác
chiến” với “măng, môn, me, mì, thục” (các thứ rau và củ dại trong rừng). Nhưng bữa nay, tất cả
chỉ cười buồn...

Điện của Bộ cũng vừa tới. Bộ chỉ thị: Trước hết phải ổn định ngay tinh thần anh em. Không
bi quan. Không nản lòng. Tuy nhiên, trước mắt phải xốc lại tổ chức cho gọn nhẹ hơn. Ai không
tình nguvện ở lại, cho về. Bộ ban hành chế độ cụ thể cho những người ở lại: cứ 6 tháng sẽ thay
quân một lần, trừ các cán bộ chủ chốt phải do Bộ xem xét quyết định từng trường hợp cụ thể.
Phương châm hoạt động, Bộ và Thường vụ Đảng ủy Bộ chỉ ra cho Ban: Hết sức kiên trì và tỉnh
táo. Tiếp tục hoạt động đúng như Goblin vẫn đang tồn tại, vẫn đang “hướng về Trung tâm chờ
đợi”. Nhưng đôi khi trong các bức điện cũng phải tỏ ra sốt ruột, thậm chí như nổi khùng đúng kiểu
của Cầm Diêu. “Trung tâm đã không thật sự tin tưởng anh em. Anh em rất thắc mắc”. Cũng có
thể, tùy tình hình, tiến thêm: đe dọa khéo là “nếu cứ ở mãi trong tình trạng bị nghi ngờ giam hãm
và hết dần lương thực như thế này, toán có thể sẽ tự tìm đường qua Lào, rút hết về Nam...” Bộ
cũng không quên căn dặn: Ban phải tăng cường liên hệ chặt chẽ với Đảng bộ địa phương, công an
và chính quyền địa phương để nắm tình hình an ninh khu vực, theo dõi và nắm vững mọi di biến
động chính trị trong vùng, đồng thời hết sức đề phòng gián điệp mặt đất mò tới dò la tung tích và
hoạt động của toán Goblin...

Thực hiện phần cấp bách trước mắt của nội dung mà bức điện nóng bỏng đã mang tới, chỉ
sau ba ngày, Ban chuyên án đã cho bớt một số nhân viên không cần thiết tạm rút về Hà Nội, kể cả
Cầm Diêu, trừ Tráng A Páo. Páo vẫn phải luôn luôn có mặt trên này thường trực, phòng bất cứ lúc
nào tụi “Trung tâm” cho liên lạc hai chiều trở lại. Khu Trạm khảo sát địa chất Sông Đà trở nên
vắng teo. Chỉ còn lại không quá mười người tính cả cảnh vệ hàng ngày cùng nhau ra ngẩn vào
ngơ. Chỉ mỗi khi lên phiên nhận “chỉ thị” hoặc 'lệnh” của bọn “Trung tâm” là khu lán còn nhộn
nhịp lên được một chút. Buồn đến nỗi có cậu nhân viên tếu lên đã nhại bài hát “Trống cơm”, mà
réo lên: Một bầy... tang tình... Chuyên án, ấy mới lội... lội sông đi tìm... chán ngắt... mà phát điên...
Mà quả là quá chán. Những bức điện của tụi nó vẫn gửi ra đều đều hàng ngày, nội dung chẳng có
gì hết, quanh đi là “Anh em hãy bình tâm chờ đợi...” quẩn lại là “Trung tâm vẫn luôn luôn tin
tưởng anh em, chờ mong anh em lập công vì Tổ quốc”. Nhưng chúng đã “khôn” mà chưa thật
“ngoan”: bởi vẫn chỉ một nội dung y hệt chúng gửi tới bảy, tám lần liền, không thay đổi một chữ.
Thêm nữa: gửi chán rồi, có đổi một vài nội dung khác, nhưng chỉ độ tuần sau lại phát đi đúng bảy,
tám cái điện đã phát tuần trước. Quá ngán cái trò mèo vờn chuột này, nhưng oái oăm thay ta vẫn
cứ phải luôn luôn chuẩn bị những bức điện phúc đáp thật nghiêm chỉnh, phù hợp với từng bức điện
nhận được, rồi vào sổ hẳn hoi cho khỏi quên, khỏi lẫn, phòng khi chúng kiểm tra, nhất là để sẵn
sàng đánh đi nếu chúng cho lập lại liên lạc hai chiều.

Ngày nối ngày buồn tẻ, và mệt mỏi. Vẫn những bức điện một chiều dối lừa. Vẫn núi rừng
đã quá quen thuộc. Chán ngán đã đành còn hết sức khó chịu bởi luôn luôn có cảm giác như bị bịt
chặt mồm miệng, bịt chặt mắt mũi, chỉ còn có hai lỗ tai để nghe lệnh của kẻ địch. Chưa nói tới sự
đè nặng về tinh thần mà riêng sự lệch lạc về sinh lý ấy cũng đã đủ làm cho thần kinh mỗi ngày một
thêm bị ức chế đến căng thẳng. Lác đác đã có anh em phát ốm vì sự căng thẳng hơn là vì kham
khổ “môn, măng, me, mì, thục”... Phải chăng thằng Mỹ quái quỉ muốn đánh quỵ mình bằng cái
đòn cân não này chăng?...
Đã sang thu. Mùa mưa lũ đang dần dần cương lên dữ dội. Những con thác sông Đà càng
gầm thét đến sôi gan, nẫu ruột. Dưới xuôi, ở Hà Nội, nước sông Hồng hẳn đã tràn Phúc Xá, đê
điều nhiều tỉnh chắc đang đứng trước những cơn thử thách sống còn... Mưa ngày càng đổ xuống
nhiều hơn. Mưa rừng. Ai đã ở trung du, nhất là thượng du hẳn vẫn còn giữ lại được không ít những
kỷ niệm, những cảm giác buồn bã, hoang vắng nặng nề về những đêm mưa rừng ầm ĩ, vật vã, lay
chuyển, thậm chí ma quái ấy… Không đêm nào An không mê về Hà Nội. Có đêm anh hét lên làm
mọi người phải choàng dậy. Ông Trường cũng chẳng giấu những nỗi lo âu trĩu nặng về cái gia
đình quá nặng gánh của mình nơi bãi sông khốn khổ ấy. Ông Thạc thì khác, bao giờ cũng kín đáo,
không bộc lộ bất cứ điều gì ngoài cái nhìn thoáng như u uẩn, với đôi ba tiếng thở dài rất nhẹ.
Nhưng ai cũng biết: Gia đình ông ở Hải Phòng. Nước cũng đáng sợ. Nhưng với ông điều đáng
quan tâm hơn là bà vợ vừa trí thức vừa khá đẹp mà ông vô cùng yêu quý, yêu quý đến mức quá
nể, quá nể đến như “sợ hãi”. Bà cùng đứa con trai đang ở vò võ trên một căn gác nhỏ với một chiếc
ban công ọp ẹp rất nguy hiểm. Ông rất lo, luôn âm thầm lo:... nhỡ có điều gì không hay xảy ra...

Chẳng có báo. Cũng chẳng có đài. Mấy anh em chỉ mang theo được cuốn lịch bỏ túi. Bởi
vậy vẫn nhớ được: Ngày Quốc khánh sắp tới... Chắc là Hà Nội đang chuẩn bị kỷ niệm tưng bừng
theo thường lệ hàng năm với diễu binh và diễu hành quần chúng, với pháo hoa và biểu diễn ca
nhạc trên các sân khấu ngoài trời quanh Bờ Hồ… và chắc mỗi nhà thế nào cũng được phiếu mua
thêm một cân thịt để ăn tươi… Ừ nhỉ Quốc khánh! Tính ra thế là anh em đã cùng nhau lên rừng
này “oánh nhau” với Mỹ trên các làn sóng điện ít ra cũng đã 2 tháng! Hai tháng mà có lúc công
việc dồn dập, cứ tưởng như mới có hai ngày; nhưng bây giờ lại ngỡ đã hai năm... Cái cảm giác
thời gian nó lạ như vậy!

Như thế đấy, nhàn rỗi quá, nghĩ ngợi lắm rồi có lúc cũng hóa quẩn quanh, mờ mịt. Ngày
30 tháng 8 đùng một cái ông Thạc được gọi về Cục để xuống Quảng Ninh nắm tình hình và giúp
địa phương phát triển chuyên án dưới đó. Hẳn cấp trên cũng biết ở Sơn La lúc này địch còn đang
thăm dò, chưa làm gì hết, nên có thể tạm rút ông Trưởng phòng này một thời gian. Để lại một mình
“lão tướng” Trường, có thêm “Mã Siêu” Nguyễn Nguyên An bên cạnh phò tá là đẹp rồi.

Ông Thạc được gọi về, anh em cũng không khỏi chạnh buồn, vì thấy mình dẫu sao vẫn còn phải cắm sâu
trên này. Tuy nhiên cũng buổi sáng ấy, anh em cũng có một niềm vui bất ngờ khác. Ấy là có một đồng chí
cán bộ trên Khu đi công tác tiện đường ghé qua thăm “Anh em khảo sát sông Đà”, ông Trường lên huyện
họp vắng. Chỉ có An ở nhà. Hậu sinh, anh lẽ ra không biết được vị cán bộ lão thành này. Nhưng vừa nom
thấy ông, anh đã nhận ra ngay: ông Lý Quang Giong. An biết ông từ vụ khám phá, đập tan cái gọi là “Mặt
trận thống nhất Tây Bắc” ở vùng giáp ranh Yên Bái - Sơn La. Hồi đó An là trinh sát của cục I, nhưng chưa
là quân hệ Mỹ của ông Trường, mà còn trong hệ khác. Vụ phản động này do một tên trước là chỉ huy
GCMA (biệt kích do Pháp tổ chức) cầm đầu. Trên nó là Cầm Ngọc Lủ. Rất xảo quyệt, Lủ đã lôi kéo được
trên 200 người ở 8 xã, trong đó có đủ: Chủ tịch xã, công an xã, xã đội trưởng, thanh niên và phụ nữ...
chuẩn bị làm bạo loạn. Nhưng tỉnh đã kịp thời phát hiện và báo cáo lên Bộ. Một kế hoạch bóp nát cái tổ
chức phản động này từ trong trứng đã được hoạch định. Trong kế hoạch ấy có một “đòn” rất hay là cho
một số cơ sở tốt của ta làm đặc tình “chui” vào trong tổ chức đó. Cho nên ta đã nắm được hết danh sách
bọn đầu sỏ cùng toàn bộ “đảng viên” của chúng. Ta bắt gọn bọn cầm đầu, giáo dục và tha cho những tên
do ngu tối, dại dột bị lôi kéo. Một trong những cơ sở của ta được chọn khi ấy làm đặc tình và đã lập được
công chính là ông Lý Quang Giong. Cũng từ đó, nghe nói ông đã được vinh dự thăng tiến dần dần, trở
thành một trong những cán bộ đoàn thể có uy tín, được nhiều người tin cậy, quý mến...
- Cháu rất mừng được gặp lại bác bất ngờ thế này. Nhưng sao bác biết có anh em chúng cháu ở
đây mà vào?

Ông Giong cũng hết sức ngạc nhiên và vui mừng:

- Vậy anh chuyển về sông Đà từ bao giờ vậy?

Theo thói quen và cả yêu cầu chặt chẽ của nghề nghiệp, An không bao giờ nói rõ công tác
của mình với bất cứ ai, kể cả bạn bè thân thiết nhất. Anh mỉm cười nhã nhặn:

- Sau vụ tên Lủ, cháu được cử đi học Đại học Thủy lợi. Rồi về đây. Nhóm chúng cháu cũng
mới đến nơi này được một, hai tháng, thay cho nhóm trước rút đi vùng khác.

- Biết! Biết! Ông Giong cười hiền hậu - Được nghe nhóm các anh mới về, cũng vì vậy hôm
nay nhân có việc qua đây, phải vào chào và thăm sức khỏe anh em. Nào ngờ lại gặp cả anh An
nữa. Vui quá! Quả đất tròn thật!

- Cám ơn bác! Đã lâu không gặp, nom bác không già đi là mấy…

Ông Giong vuốt lại mái tóc đã điểm sương khá nhiều, cười:

- Bảy hai rồi chứ ít ỏi gì.

- Bác bây giờ... còn công tác chứ ạ?...

- Trước tôi làm thường trực Mặt trận Tổ quốc tỉnh. Nhưng nghỉ hai năm nay rồi. Tuy vậy
các cụ lại trói tôi vào cái chân Ban liên lạc cán bộ cách mạng lão thành. Nhưng lão thành gì tôi!
Mới tham gia ít nhiều gần đây thôi. Tuy vậy, các cụ bảo cao tuổi mà còn minh mẫn, cứ phải nhận.
Thế là phải phục tùng thôi. Phục vụ các cụ được chút nào hay chút ấy, cũng phải cố...

Nói xong ông lại cười rất hiền. Ông thật đẹp lão và đúng là con người khiêm tốn đáng
trọng. An giữ ông cùng chú “tiểu đồng” của ông ở lại ăn cơm “dưa muối” hoàn toàn theo nghĩa
đen, để biết cái cảnh “dã chiến” của “quân sông Đà”. Ông cười xin lỗi phải đi ngay, thăm một lão
đồng chí đang ốm rất nặng ở huyện dưới, hẹn sẽ có ngày trở lại.

Bịn rịn mãi, ông mới quay ra. Một chiếc com măng ca “đồng nát” đang đợi ông ngoài bờ sông...
An nhận ra rõ hơn: tỉnh và Khu quý trọng ông lắm mới cố tạo cho ông phương tiện đi lại như thế
này. Sực nhớ, An lại hỏi:

- Thế còn... Cái tay Cầm Ngọc Lủ ấy bây giờ vẫn còn trong nhà đá chứ bác?

- Phải rồi! Nó bây giờ ở nhà giam tận Nghệ An. Nghe các đồng chí trong tỉnh nói: Nó biết
tội cũ, chịu phấn đấu lắm. Có nhẽ nó sẽ được ân xá dịp Quốc khánh này thì phải.

- Thế còn con vợ nó, thị Lả ấy? Hồi đó chắc bác còn nhớ ta cứ thảo luận mãi là có nên bắt
cả nó không vì thấy nó rất sắc sảo. Nhưng qua cung khai của đồng bọn thì thấy không có đứa nào
tố cáo thị ta có tham gia chính trị, mà chỉ nói thị ta sắc sảo cái kiểu đàn bà trong nhà. Thêm nữa
lúc đó thị còn mấy đứa con nhỏ... Bây giờ thị làm gì, hay bỏ tên Lủ đi với thằng khác rồi?

Ông Giong lại mỉm cười, rồi lắc đầu:

- Con mẹ ấy vẫn ở bản. Nó đúng là tay năm, tay mười thật, bây giờ trâu bò gà lợn, thóc lúa, ngô
sắn... khá lắm. Cứ ba tháng lại một thân một mình vào tận Nghệ An thăm chồng. Dân bản rất khen,
lại còn đề nghị cho nó danh hiệu “Ba đảm đang” nữa cơ đấy!

Đôi bạn vong niên cùng cười xòa vui vẻ.

Ông Giong giơ tay chào, và chiếc xe cà khổ rồ ga phành phành lao đi. An quay trở lại khu
lán. Gặp lại ông Giong, lại nhớ tới những ngày gian khổ cũ. Anh cảm thấy như được an ủi phần
nào trong cảnh sống hiện nay, dẫu sao thì cũng đã khá hơn xưa được tí chút...

Một lúc sau ông Trường về. Hồi xảy vụ Cầm Ngọc Lủ, ông Trường đang bận theo dõi vụ
khác ở Thanh Hóa nên không biết ông Giong, ông Trường mở sổ phổ biến luôn tình hình an ninh
khu vực do Công an huyện vừa cung cấp: Nói chung là yên tĩnh, không có vấn đề gì đáng phải
quan tâm. Những “đối tượng” cần theo dõi cũng không có dấu hiệu gì khác lạ. Chỉ có một tạo bản
cũ say rượu nói nhảm về việc ta chuẩn bị làm nhà máy thủy điện sông Đà: “Làm thủy điện à? Dân
mình lên núi xanh mà ở và ăn cỏ. Còn điện thì chúng nó dùng...!” Công an bắt. Nhưng bên tỉnh ủy
lại nhắc là không nên lạm dụng quyền hành, bắt bớ tùy tiện. Những người lạc hậu, nên giáo dục
họ... Vấn đề thiết yếu và cấp bách phải quan tâm nhất lúc này là lũ đang lên nhanh, và cái đói đang
đe dọa. Dân chúng vẫn còn quá nghèo, quá lạc hậu. Bệnh tật cũng từ đói nghèo, lạc hậu mà sinh
ra nhiều.

Ông Trường vừa hội ý xong thì đến phiên làm việc thường lệ với “Trung tâm”. Đã quá
chán những bức điện vớ vẩn, ông Trường để cho An theo dõi nhận điện và giải mã. Ông vào lán
vớ cuốn “Chiến tranh và hoà bình” cất công mang từ Hà Nội lên đọc lại, vì chẳng còn có cái gì
đọc nữa. Bỗng nhiên gần như nhào tới, An đưa bức điện mới cho ông Trường:

- Anh coi này! Có cái mới.

Ông Trường nhíu mày, nghi hoặc, bỏ cuốn tiểu thuyết xuống, đỡ lấy bức điện: “Trung tâm
vẫn luôn quan tâm lo lắng tới an toàn của anh em - Nay anh em phải rời bỏ địa điểm cũ ở đã lâu
rồi - Anh em phải di chuyển ngay tới một địa điểm mới, xây dựng căn cứ an toàn rồi điện trình về
với Trung tâm - Tọa độ XXX”.

Ông Trường lần này có vẻ chăm chú hơn nhiều. Ông đọc đi đọc lại bức điện rồi mới ngẩng
lên hỏi:

- Ừ! Có khác trước. Nhưng theo cậu chúng muốn gì đây?

- Theo tôi... Chúng muốn chuyển cuộc thử thách lên một bước mới...

Ông Trường cười:


- Đúng! Tôi tưởng cậu nghĩ rằng nó thử ta thế đã xong và muốn bắt lại liên lạc như cũ.
Không đâu! Đã bảo là thằng Mẽo là quỷ quái lắm! Vậy cậu thử nghĩ xem nó bắt phải di chuyển để
làm gì?

An suy nghĩ một chút rồi đáp tiếp:

- Chưa có kinh nghiệm gì về chuyện này, nhưng tôi cứ tạm nghĩ thế này anh ạ: Có thể đây
là một bước kiểm tra ở mức cao hơn: Nó muốn biết cung cách chấp hành lệnh của toán này thế
nào? Có đúng là tụi Goblin thực không? Lúng túng hay quá thành thạo? Như vậy di chuyển nhanh
chóng quá, gọn gàng quá, dễ dàng quá... cũng dễ lộ, mà lúng túng, nhất là không đúng quy cách
quen thuộc của chúng nó thì cũng dễ lòi ra là ta đóng kịch...

Ông Trường gật đầu:

- Được! Tớ chẳng có phán đoán gì khác! Tớ cũng nghĩ là nó muốn kiểm tra ta ở mức cao
hơn. Nó còn muốn “hành” nữa như cánh ta đã nghĩ tới ngay từ sau vụ C47. Vậy, chú em ơi, ta bắt
đầu bước sang một thời kỳ khốn khổ, vất vả, đổ mồ hôi, sôi nước mắt với chúng nó đấy. Có đúng
không?

- Nhất trí với anh.

- Vậy phải ráo riết động viên anh em cố gắng hơn nữa. Thế đấy, bây giờ là vào trận sâu
hơn rồi, phải thế. Chú ý giáo dục thằng Páo nhá! Nó vẫn phải đi với ta, dù lên non dù xuống biển.
Nhưng thôi, hãy giở bản đồ ra xem cái tọa độ chết tiệt ấy nó ở chỗ nào nào?

An mở tấm bản đồ thường dùng ra. Hai anh em lại như bò ra trên mảnh giấy lớn ấy cùng
chỉ chỉ chỏ chỏ. Nó đây rồi, cái tọa độ “chết tiệt” ấy. Vẫn dọc sông Đà thôi, nhưng ngược mãi lên
gần đường 13, cách đây 20 dặm. Xanh rì một vùng, chẳng hề thấy một con đường mòn, chỉ toàn
những đường biên độ của các cao điểm, núi đồi vằn vèo chi chít, tầng tầng, lớp lớp, nom mà phát
ớn. Cái thằng Mẽo quả thật đểu! Ngồi tít tận Sài Gòn nó biết gì nơi này mà chỉ với chỏ! Tóm lại
nó cứ tìm chỗ nào nom khó nhá nhất là quyết định thôi! Không đi không được, mà đi chắc chắn là
“mửa mật”.

- Thôi được - ông Trường phẩy tay đứng dậy - đêm nay báo cáo về Bộ, xin phép thực hiện
cái điện khốn kiếp này. Còn bây giờ chuẩn bị mọi mặt luôn. Tớ làm công tác tư tưởng. Cậu lo hậu
cần, và vẫn đặc trách thằng Páo đấy!

Tối hôm đó, anh em cảnh vệ và nhân viên còn lại cùng quây quần bên một đống củi cháy
sáng như lửa trại trong những đêm rừng thời chiến tranh chống Pháp. Ông Trường ngồi cùng đám
đông. Ông thong thả, sang sảng nói từng lời. Dưới ánh lửa bập bùng, đôi mắt vốn rất sáng của ông
càng như thêm lấp lánh, hai gò má ông vốn cao, càng như nhô cao hơn với vầng trán rộng đầy vẻ
cứng cỏi và trung thực.

-… Tôi đã nói về âm mưu thằng Mỹ trong kế điều ta phải di chuyển. Bây giờ tôi muốn đặc
biệt nhấn mạnh: anh em nhớ phải luôn luôn giữ bí mật. Di chuyển càng phải chú ý tới vấn đề này,
vì sẽ có thể đi qua nơi có dân, xuyên rừng thì có thể gặp thợ săn, gặp sơn tràng, thậm chí cả dân
buôn lậu vượt biên nữa... Phải hết sức bí mật, phải tránh hết, thậm chí phải tránh cả công an ta hiểu
không? (anh em cười). Thật đấy - ông Trường vẫn nghiêm chỉnh - Phải luôn luôn nhớ ta đang là
“Goblin”. Nhưng lẽ cố nhiên hồn vẫn là ta, chỉ có da... tạm là biệt kích. Như vậy ta vẫn luôn luôn
là quân của “cụ” Trần Quốc hiểu không?

Ông nói tới đó, tất cả lại cùng bật cười ran vì câu nói với hình ảnh bất ngờ thú vị ấy. Tên
Páo ngồi gần An cũng cười, vì hiểu. Nó hỏi thầm An:

- Vậy còn em là thế nào, cán bộ An?

- Cậu cũng vậy thôi - Và cũng bắt chước ông Trường, An nói - Bây giờ hồn đã là của Páo,
còn Páo vẫn tạm là biệt kích. Nghĩa là đầu óc cậu bây giờ tỉnh ngộ rồi, cậu chỉ còn dính cái cũ có
một phần. Bao giờ chuộc hết tội lỗi, cậu sẽ hoàn toàn là anh thanh niên Páo nhân viên điện đài
phục vụ Cách mạng.

Páo lại cười vì nghe thấy hay quá.

Sáng hôm sau Bộ điện lên: Hoàn toàn đồng ý với kế hoạch của Ban. Buổi trưa, ông Trường
cho nhổ trại đi luôn, ông nhắc An phải nhớ luôn luôn ghi nhật ký hành trình: Số người lên đường,
tên tuổi và ký hiệu từng người (tất nhiên là ghi đúng theo tên và ký hiệu của bọn Goblin thật).
Cũng ghi rõ ngày, tháng và giờ xuất phát cùng hướng đi... Phải rất chi tiết và đầy đủ, để phòng sau
này nhỡ địch có hỏi thẩm tra, ta sẽ có đầy đủ cơ sở để báo, làm cho chúng không còn hồ nghi vào
đâu được.

Mười anh em không những ba lô đã khá nặng, còn phải mang vác vật tư, máy móc, lương
thực trĩu vai, có anh còn phải gánh gồng kĩu kịt. Ông Trường đứng nhìn “đoàn quân” của mình,
lại cười khà khà, rồi hất hàm nói với An, cũng là để làm vui anh em lúc lên đường:

- Coi! Có giống thầy trò Đường Tam Tạng đi Tây Trúc lấy kinh không?

An cười. Anh biết ông Trường “hổ tướng” vậy mà cũng rất tình cảm. Ông cũng hay đọc
sách, truyện, ông đã đọc cả Tây du ký.

- Tớ tạm làm Đường Tam Tạng. Còn cậu làm Tôn Ngộ Không được đấy, người coi bộ cũng
mảnh mai lại nhanh nhẹn. Chỉ còn thiếu có hai thằng Trư Bát Giới và Sa Tăng...

Bắt đầu đi sâu vào rừng. Theo lộ trình phải xa sông Đà 5 dặm. Càng vào sâu, rừng càng
rậm, đèo dốc, khe, suối càng nhiều. Không có đường mòn, chỉ có đường hươu chạy và lối đi nhỏ,
mờ nhạt, đứt nối của dân sơn tràng, hoặc thợ săn. Có lúc phải phát cây mở lối mà tiến lên và đi
theo la bàn. Tốc độ rất chậm, nhưng không ai tỏ ra sốt ruột. Ông Trường đã dặn rồi: Đi phải tới
đích. Nhưng cũng không cần gấp. Tối đâu, ngủ đấy.

Chiều xuống dần. Cứ nhìn bóng tối bảng lảng dâng lên dần dần trong rừng là biết. Chân đã
mỏi nhừ. Vai đã tê dại. Thở dốc. Các bi đông nước đun sôi đem theo đã hết kiệt, phải uống nước
suối... Rồi tối sập. Ông Trường cho hạ trại tạm bên một dòng suối nhỏ. Mọi người ngồi xả hơi một
lúc rồi bắt đầu chia nhau đi hái củi, nấu cơm. Giữa rừng hoang, đêm tối, ngọn lửa bừng cháy lên
thật ấm lòng. Nó gợi lại hình ảnh cuộc sống bầy đàn thời nguyên thủy quần tụ, đơn sơ, và vô tư,
gần gũi với thiên nhiên rộng lớn. Nó làm cho mọi đầu óc như bớt âm u, mọi con mắt trở lại sáng
hơn và mọi tâm hồn cũng bình yên, dịu lại. Bữa ăn chỉ có rau rừng và cá kho đem theo, nhưng đói
nên ăn vẫn rất ngon miệng. Đang ăn, một nhân viên bỗng bật nói:

- Này, ở Hà Nội lúc này hẳn đang bắt đầu bắn pháo hoa đấy nhỉ!

Mọi người bây giờ mới sực nhớ ra: Hôm nay đúng là ngày Quốc khánh. Phải, giờ này chắc
ở Hà Nội, quanh bờ hồ Hoàn Kiếm và hồ Thiền Quang, hẳn đang nổi lên những tiếng nổ lục bục
vui tai trên bầu trời đầy lãng mạn. Rồi từng chùm pháo hoa bung ra, đủ các cỡ, các kiểu, đủ sắc
màu lung linh, lúc soi hồng, lúc phớt xanh, lúc chiếu vàng, khi sáng rõ... trên tất cả những gương
mặt già trẻ đang cùng ngước lên say sưa ngắm nhìn và đắm mình trong những giấc mơ kỳ diệu,
những giấc mơ và cả những ảo ảnh tuyệt vời đã và đang làm cho con người ta quên đi dù chỉ trong
phút chốc mọi nỗi nhọc nhằn, mọi điều gian khổ...

Nhớ ra rồi, nhưng mọi người không ai bảo ai cùng hết sức tế nhị không nhắc một lời về
những người thân yêu dù giàu có hay nghèo đói, dù sung sướng hay bất hạnh đang sống ở cái thành
phố ở nơi khá xa xôi ấy. Cũng không một lời đụng tới mọi nỗi gian truân của chính mình trên sâu
hút rừng xanh này. Tóm lại mọi người đều muốn giữ cho cái không khí đêm nay được hoàn toàn
trong sáng, tươi vui như những ngọn lửa rừng đang tiếp tục nhảy múa và tung lên những đám tàn
như rắc cốm vàng lấp lánh. Đến khuya, cắt gác cẩn thận rồi ông Trường mới giục mọi người đi
ngủ. Tất cả trải lá để lót lưng, rồi cùng nằm vòng tròn quanh đống lửa theo kiểu người xưa. Đêm
rừng xôn xao với muôn ngàn tiếng động, cùng tất cả những ảo ảnh, những hình thù biến, hiện
huyền bí. Nhưng tất cả mọi người đều ngủ khá ngon, vì ban ngày đi đã quá mệt. Ông Trường là
người lớn tuổi hơn cả nên thính ngủ nhất. Ông để ý không thấy An nằm mê hét lên như nhiều đêm
còn ở lán của “đội khảo sát địa chất sông Đà”. Không hiểu vì sao? Có thể khi đã vào việc, lý trí
khá mạnh của anh ta đã hoàn toàn làm chủ từ thân xác tới tâm hồn, thậm chí tiềm thức. Chỉ những
khi quá nhàn rỗi hoặc tù túng, bấy giờ con người bản năng mới từ cõi vô thức trở về để thốt lên tất
cả những gì vui, buồn hoặc khắc khoải máu thịt nhất...

Tất cả vẫn ngủ ngon. Anh lính gác im lặng đi đi lại lại. Ở giữa vòng người, đống than đã
rạc gần hết, chỉ còn le lói một vài đốm hồng hồng...

Sáng hôm sau, ăn sáng qua loa xong, đoàn người tiếp tục cuộc hành trình xuyên rừng, vượt
núi đầy gian nan, vất vả... Cho tới 11 giờ, ông Trường cho anh em dừng lại. Đã tới giờ hẹn lên
phiên với Sài Gòn. Ông nói với An lấy sổ ra ghi chép. Một lần nữa, An phải chịu “ông già” làm
việc thật nghiêm túc, mặc dầu bình thường đó là con người ăn nói lắm khi ào ào như bất cẩn. Páo
vẫn luôn luôn tỉnh táo. Nó tỏ rõ đúng là một chàng trai của rừng núi sinh ra, bền dẻo như song
mây, rắn cứng như lim táu, và tâm hồn tuy một thời bị làm vẩn đục nay gần như đã khá trong, dù
có thể vẫn còn ít nhiều rều, rác nào đó. Páo nhận điện rất mau mắn, suôn sẻ không khác mọi khi
còn tĩnh tại ở bên sông Đà. Bức điện được An mã dịch ngay để đưa tới ông Trường: “Trung tâm
tin là anh em đã bắt đầu di chuyển - Hãy gắng lên - Hãy lập một căn cứ mới an toàn hơn, chắc
chắn hơn - Trung tâm sẽ có chỉ thị tiếp - Luôn luôn tin tưởng ở anh em - Hãy ra sức lập công vì
Tổ quốc”. Lại như mọi lần, ông Trường như muốn vò nát mẩu giấy lộn ấy vứt đi.
- Mẹ cha nó! Chúng nó làm gì có Tổ quốc mà cũng dám mở miệng! Anh em nhà Diệm bán
cha nó cho Mỹ rồi còn gì! - Ông lầu bầu. Nhưng rồi ông vẫn đưa bức điện cho An và dặn vào sổ
nhật ký và lưu trữ thật cẩn thận.

Lại qua một đêm nữa. Tới sáng ngày thứ ba cả đoàn mới tới được một ngọn núi khá bằng,
có nhiều cây cao, dưới chân núi có một dòng suối khá lớn đổ thành một thác nhỏ trắng xóa. Nhìn
ra, bốn bề xanh ngắt một màu. Bản đồ lại được mở ra. Chỉ khoảnh khắc sau, so bản đồ và đối chiếu
la bàn, ông Trường và An cùng nhất trí: Đã tới đúng địa điểm nằm trong toạ độ mà bọn “Trung
tâm” quy định. Nhận định ấy làm cho cả đoàn thở phào, mừng rỡ. Thế là không còn phải “nuốt”
những chặng đường có thể đặt tên là “Những chặng đường hủy diệt”. Ông Trường chính thức ra
lệnh hạ trại.

Mọi người được phép nghỉ ngơi một lúc, sau đó phát quang và chia nhau đi tìm tre nứa về
làm lán. Lại mệt! Nhưng cái mệt này dẫu sao cũng dễ chịu hơn nhiều.

Cũng đúng lúc đó cậu tân binh tên Ba nấu cơm cho đoàn lên cơn sốt cao tới 39 độ rưỡi. Khi trên
đường đi chuyển An cũng chưa quá mệt mỏi cho lắm, nhưng lúc này ngồi nghỉ được lâu lâu anh
mới cảm thấy hết tất cả sự ê ẩm của chặng hành quân kinh khủng vừa qua. Ông Trường cũng vậy.
Tuy nhiên nhiệm vụ không cho phép ông được xả hơi quá dài. Ông cùng An bàn việc luôn:

- Ở đây quả là rất hoang vắng. Nhưng thế nào cũng phải có dân, dù có xa hơn nơi cũ ta ở,
phải không? Vậy từ ngày mai, phải có kế hoạch cho anh em đi tìm. Bây giờ ta lại đội cái mũ công
khai “Đội khảo sát địa chất sông Đà” cậu ạ!

An gật đầu. Ông Trường tiếp:

- Còn vấn đề lương thực cũng phải bàn ngay. Ta mang đi chỉ được tất cả 15 ngày gạo. Thế
đã là quá sức rồi. Có lẽ không kém bộ đội đi B cho lắm! Nhưng muốn tính lương thực trước hết
phải xem thằng Mẽo nó sẽ cho mình ở đây lâu hay lại điều đi luôn? Theo tớ, có thể nó chọn đây
làm căn cứ lâu dài. Cứ suy như vừa rồi đấy, sau vụ C47, nó nghi ta nhưng phải sau tới hơn một
tháng vờn vã điện với đám bố láo, rồi mới điều ta đi thế này. Vậy đã tới đây, nó cũng lại phải lằng
nhằng ít nhất một hai tháng mới lại điều đi hoặc giở trò gì khác. Cậu nghĩ sao?

An im lặng một lúc rồi đáp:

- Tôi cho là có khả năng nó sẽ điều ta đi liên tục anh ạ...

- Vì sao cậu lại nhận định như vậy?

An cười:

- Cũng vẫn là cái... linh cảm của con nhà phản gián ta thôi. Tôi cứ nghĩ như thế này: thằng
Mỹ rất thực dụng, rất ít khi công thức, máy móc. Vậy không có nhiều khả năng nó lập lại cái quy
luật phải sau hơn một tháng mới chuyển sang giai đoạn thử thách khác. Lúc đầu, chắc nó cũng còn
lúng túng, chưa có kinh nghiệm trong các thủ đoạn thử thách và kiểm tra từ xa kiểu này. Nhưng
nay có thể nó đã bình ổn hơn và trở nên linh hoạt hơn... Vậy có khả năng nó sẽ điều ta đi liên tục
vì đó là thời gian ta mệt nhọc nhất, dễ sơ hở để nó tóm được những sơ xuất đáng tiếc.

Ông Trường chăm chú nghe rồi thành thực thốt lên:

- Có thể cậu có lý! Tớ sẽ suy nghĩ thêm. Đúng! Cậu có thể có lý! Nhưng thôi được, để tĩnh tâm
thêm, mai ta sẽ bàn tiếp, rồi điện về xin ý kiến Bộ và Cục. Bây giờ hãy trở lại vấn đề cấp bách
trước mắt là lương thực. Cậu nghĩ sao về chuyện này?

An lại im lặng lúc lâu rồi nói:

- Anh vừa bảo phải tìm dân là đúng quá. Có dân sẽ có tất cả, trước hết là gạo. Ta cần có
gạo tại chỗ để còn chờ anh Vạn chuyên chở từ Thuận Châu về đây. Mới gùi có 15 ngày gạo ta đã
muốn chết. Vậy quân anh Vạn tải hàng tạ, hàng tấn lên đây, đâu có ngon ăn...

- Đúng! Nhưng nếu tìm được dân thì lấy tiền đâu mà mua gạo của họ? Dân miền núi quá
nghèo, ta không thể xin không họ được, dù đồng bào sẵn sàng nhường cơm sẻ áo cũng không!

- Tôi cũng đã nghĩ tối chuyện này. Không có tiền nhưng tôi có cái này...

An chìa bàn tay của mình ra. Một chiếc nhẫn nhỏ xíu chỉ đáng một đồng cân (một chỉ) hiện
lên ở ngón áp út. Đó là chiếc nhẫn cưới của anh... Ông Trường có thể nhận ra ngay điều đó. Mắt
ông thoáng rớm lệ, nhưng ông cố giấu bằng một câu

- Hóa ra cậu cũng đại ngốc nhỉ! Đi công tác, tác chiến miền núi mãi rồi mà quên ư? Dân
miền núi người ta chỉ ưa có vòng bạc, khuyên bạc thôi cậu ơi! Chỉ có dân Hà Nội nhà cậu mới
thích vàng!

An ngồi ngẩn. Quả thật anh không kịp nhớ ra điều này. Ông Trường quay lại phía sau, mở
chiếc ba lô của ông... An chưa hiểu gì thì ông đã lôi ra một bộ quần áo kaki tuy đã qua sử dụng
nhưng còn rất tốt:

- An ạ, ta sẽ đổi thêm ít gạo. Đổi quần áo, chắc dân vui lòng. Họ thích quần áo này lắm, tớ
biết mà.

- Vậy... anh thay đổi bằng gì? - An cũng không khỏi xúc động kêu lên.

- Cần chó gì! ở rừng thế này diện với ai? Trời còn đang đầu thu nóng bức, hàng ngày tớ
chỉ cần may ô quần đùi đủ chán rồi!

- Ôi, anh Trường, anh Trường!.

- Quyết định xong rồi đấy nhá! Không bàn nữa! - Ông Trường khoát tay - Tôi phân công ngày mai
cậu phải cùng một hai cậu nữa đi tìm bằng được dân ở quanh đây. Hiểu không?

- Rõ!
Anh em đã hớn hở vác tre nứa về. Cùng lúc đó Páo réo lên báo cáo: lại tới giờ tiếp tục nhận
điện của Sài Gòn. ông Trường quay lại, nhíu lông mày. Câu hỏi “Liệu chúng nó lại điều đi ngay
hay còn để ở lại ít lâu nữa?” lại cộm lên trong lòng ông...

* *

Ông Thạc sấp ngửa trở lại với Ban. Lẽ ra sau ngày mùng 2 tháng 9 ông về luôn, nhưng vì
có một vụ gián điệp biệt kích nữa mà tụi Mỹ mới ném tiếp ra. Nhóm này mang tên Lido, được ném
xuống bên kia đường 41 và sông Đà. Nhưng cũng gần như toán Eclat ở Quảng Bình vừa qua, nhóm
Lido xuống, quân dân ta đã có kinh nghiệm của Goblin nên tóm chúng rất gọn. Địa phương cũng
đã khống chế tụi này để “chơi trò nghiệp vụ”, nhằm “moi gan, móc ruột Mỹ - Diệm”. Nhưng cũng
như Eclat, khả năng anh em địa phương chưa giỏi về điện đài, nên có thể tên điện báo viên địch
đã bí mật báo động Mỹ biết là chúng đã bị khống chế. Một cán bộ công an tỉnh đã phát hiện tên
điện báo viên địch đã đánh thêm mấy chữ L một cách vô lý vào cuối nhóm chữ thứ 5 của bức điện.
Ông Thạc đã phải cấp tốc lên đó xem xét. Ông cũng rất phân vân: phải chăng cuộc chơi có thể đã
bị hỏng?... Sau khi truyền đạt lại một số kinh nghiệm thực tế của chuyên án SL06, ông quay về Hà
Nội thì được Bộ và Cục giữ lại chờ dự Hội nghị về công tác đấu tranh chống phản cách mạng ở
miền núi dự định sẽ mở vào cuối tháng 10 này, mà trong đó nội dung chống gián điệp biệt kích
được nhấn rất mạnh. Như vậy có nghĩa là Bộ muốn Ban chuyên án SL06 có mặt càng tốt. Nhưng
ông Thạc viện cớ đã báo cáo hết sức đầy đủ mọi mặt với Bộ và Cục rồi, nên kiên quyết xin phép
về kẻo anh em mong ngóng. Sau khi cân nhắc, Bộ và Cục đồng ý.

Ông Thạc ra đi lần này rất vui. Vui vì chẳng cần đợi đến Hội nghị tháng 10, mà được biết
như trong Hội nghị phản gián lần I của Bộ (từ 15 đến 28 tháng 8 vừa rồi), ông Quốc và ông Công
Năng đã nhắc nhiều tới vụ Goblin. Chuyên án SL06 đã được Hội nghị rất chú ý. Đó là việc công.
Còn việc riêng của ông cũng xem ra có nhiều triển vọng: Một nhà máy lớn của Hà Nội cho biết có
thể nhận vợ ông về Ban chấp hành công đoàn. Còn Bộ thì hứa khi vợ được lên đây làm việc, sẽ
thu xếp cho một chỗ ở. Ôi! Đó là một giấc mơ lớn đang trở thành hiện thực...

Từ trên Bộ, ông Thạc cũng được biết: anh em trên Sơn La đã bị địch điều đi tới 3 lần, mỗi
địa điểm cách xa nhau hàng hai, ba ngày đường cực kỳ gian khổ. Cứ như thế, địch đã biến anh em
ta thành một thứ đèn cù. Ba tháng, ba lần di chuyển và làm lán, làm lều, đào hầm, lập kho, phát
đường mở lối tiến lui... phải làm gần y như thật! Ông Thạc chưa “hân hạnh được nếm mùi”, nhưng
với kinh nghiệm chiến tranh đã từng trải, ông hiểu: sức người có bền như thép mới chịu đựng nổi.
Bây giờ ông Thạc lên, theo anh em trên đó báo về cho biết, là địa điểm thứ năm. Anh em mới đến
được có một tuần.

Ông Thạc từ bờ sông Đà, dưới hạ lưu, cách trạm “Khảo sát” cũ hơn 10 cây số, theo chỉ dẫn
của Bộ, rẽ vào rừng, leo đèo, lội suối và phải ngủ trên một ngọn đèo mất một đêm. Gần trưa hôm
sau ông mới tới được địa điểm mới của Ban. Chân đã rủn, hai mắt đã gần mờ đi vì quá mệt, nhưng
vừa nom thấy anh em, ông đã trào nước mắt. Không thể tưởng tượng được anh em lại gian khổ
đến thế. Người nào cũng gầy rộc, mặt mày võ vàng, hốc mắt sâu hoáy, nụ cười héo hắt. Áo quần
thì nhàu nát và rách vá hết. Riêng ông Trường đang phải lên trạm xá huyện vì kiết lỵ quá ghê gớm:
một ngày đi tới mấy chục lần. Vất vả quá đã đành, còn vì ăn uống quá kham khổ, nhất là thiếu rau
xanh triền miên. Ông ngất xỉu, tưởng đã “đi” rồi. Anh em phải khiêng ông về trạm xá huyện cách
đây hai ngày đường để tiếp tục điều trị. Chỉ còn có An ở nhà chịu trách nhiệm mọi việc.

... Một lần nữa, ông Thạc lại ngồi lặng đi. Quá thương anh em! Lát sau tĩnh tâm lại, nhìn
bao quát xung quanh, ông thấy lán trại cũng khá gọn ghẽ, nhất là việc canh gác, trực ban vẫn rất
nghiêm túc, chặt chẽ. Anh em quả là đã hết mình vì nhiệm vụ. Họ hoàn toàn xứng đáng được tôn
vinh. Đúng là “Trải đường dài mới biết ngựa hay. Qua gian lao, nguy hiểm mới phân biệt được
vàng thau, thật giả”

Vừa ngồi chưa nóng chỗ, ông đã thấy An hộc tốc chạy lại, vẻ rất bức xúc:

- Báo cáo anh lại có điện mới của bọn “Trung tâm”.

Ông vội đỡ lấy, đọc ngay:

“Di chuyển ngay - Trung tâm xem xét lại thấy nơi này chưa thật an toàn - Hãy cố gắng
chấp hành chỉ thị cho tốt - Tất cả vì Tổ quốc, anh em cố gắng hơn nữa - Hãy đến ngay tọa độ VVV
và lập căn cứ mới”.

Ông trố mắt:

- Thế nào? Lại di chuyển ư?

- Vâng, báo cáo anh, ta lại phải đi thôi!

- Đây là lần thứ...

- Vâng, lần thứ tư nó bắt phải thế!

Gió bỗng nổi lên ào ào. Lá khô thi nhau trút xuống như mưa vàng đầy rừng. Đã tàn thu rồi
sao? Anh em sẽ còn phải vật lộn với núi rừng này cho tới tận bao giờ?... Ông Thạc không thể giấu
một tiếng thở dài.

12

Vẫn tiếp tục bị điều đi. Khi lên, khi xuống, mỗi địa điểm cách xa nhau hàng ba bốn chục
cây số đường rừng hiểm trở, đèo cao, suối sâu vô cùng vất vả. Vẫn chỉ những bức điện với câu
sáo mòn rỗng tuếch: “Anh em hãy cố gắng hơn nữa... Anh em hãy tin tưởng ở Trung tâm - Hãy
hết lòng vì Tổ quốc”. Lòng kiên nhẫn có lẽ sắp tới giới hạn cuối cùng rồi chăng?

Tết Tân Sửu gần tới rồi. An được ông Thạc, ông Trường cho về Hà Nội lĩnh thêm tem
phiếu và lấy thêm quần áo rét cho anh em.
Anh về Cục trước khi về nhà. Vốn người nhạy cảm, lần này về An bỗng như “ngửi” thấy
một không khí khác lạ mà lần về trước anh đã hơi cảm nhận được.

Ấy là vẻ lạnh nhạt, nhẹ hơn là thờ ơ của không ít cán bộ và nhân viên trong Cục và cả trong Bộ.
Trước đây về lĩnh quần áo, tem phiếu anh còn được những câu thăm hỏi khá nồng nhiệt, ân cần:
“Khỏe cả chứ? Làm ăn vẫn tốt đấy chứ?” Hoặc: “A, phải ưu tiên cho cánh này! Chiến sỹ tiền
tuyến đấy!”... Tất nhiên theo nguyên tắc bí mật, thật ra họ không được biết cụ thể bọn anh đang
làm gì, ở đâu mà chỉ mang máng là đi xa, đánh địch, và vất vả lắm. Lần này trở về không thấy
còn những ánh mắt thân mật, những nụ cười hân hoan và những lời chúc tốt đẹp như thế nữa.

Có lẽ chỉ có cô trung úy nhỏ nhắn, xinh xắn người của văn phòng là vẫn dành cho anh sự
niềm nở. Cô lại gặp anh ở hành lang văn phòng. Nhưng lần này cô kéo anh sát lại gần, nói nhỏ
như thì thầm:

- Này, anh biết không, nhiều người trong đó có cả một vài vị có trách nhiệm, nay có vẻ
như... chán các anh rồi thì phải. Nói một cách cụ thể hơn: họ đang nghi ngờ hiệu quả công việc
của các anh.

An gặng lại:

- Ví dụ?

Cô gái nhìn trước nhìn sau, rồi ghé sát tai An:

- Em có nghe một vị nói cụ thể thế này: Công toi mất! Lão Trường, lão Thạc và cả thằng
An khéo bị tụi Mỹ nó xiếc, mà cứ tưởng mình đang xiếc chúng nó!

11 giờ. An nhảy lên xe, cắm đầu đạp về bãi Phúc Xá. Thùy đang chờ anh ở nhà với một
mâm cơm thịnh soạn ít thấy: có thịt gà. Chà! Quà Tết! An cố reo lên để làm cho Thùy vui lòng.
Cu Toàn cũng được mẹ đón cho dự bữa cơm đặc biệt để mừng bố về. Nó vui như sáo. Nhưng khi
An bưng bát cơm lên, Thùy khẽ hỏi:

- Anh, có chuyện gì thì phải...?

An vờ ngơ ngác:

- Sao em lại hỏi vậy?

Thùy gắp miếng thịt bỏ vào bát cho chồng:

- Em thấy... anh có vẻ buồn lắm!

An giật mình. Trời ơi, một nhân viên phản gián lại để lộ ra mặt những nỗi vui buồn, lo
nghĩ của mình như thế này thì... giải nghệ đi cho rồi! Anh vội vàng cười to để khỏa lấp:
- Ôi, em quả là tinh ý! Có gì đâu, thấy mình được ăn bữa cơm ngon thế này nghĩ lại
thương anh em ở trên đó...

Bữa cơm trở lại vui vẻ. An luôn luôn pha trò làm cho hai mẹ con cu Toàn cười như nắc
nẻ. Bỗng có tiếng xe ô tô gầm lên và như tới gần nhà. An đặt bát cơm xuống, nhìn ra: Quả nhiên
một chiếc com măng ca tung bụi mù lao tới, đầy vẻ hối hả và phanh kít lại, đỗ ngay trước cửa
nhà An. Cả hai vợ chồng cùng ngạc nhiên, vội đứng dậy. Từ xưa tới nay chưa bao giờ có vị cán
bộ cao cấp nào đi xe con tới nhà như thế này. Một anh thiếu tá, người của Văn phòng Bộ từ trên
xe nhảy phóc xuống, chạy thẳng vào nhà:

- Chào anh chị! Anh An ơi, Cục mời anh lên họp có việc gấp.

An chưa hiểu chuyện gì:

- Vậy hả? Nhưng ăn xong miếng cơm đã chứ?...

Anh thiếu tá nói:

- Các anh ấy bảo anh lên ngay, sớm phút nào hay phút ấy.

An càng ngạc nhiên, không hiểu chuyện gì mà khẩn cấp đến như vậy. Nhưng đã nói thế
thì phải đi ngay rồi! An vội mặc áo, tay này còn cài khuy, tay kia đã cầm chén nước uống tạm
một ngụm tráng miệng. Rồi cố tươi cười, nói vui với vợ:

- Vậy hai mẹ con ở nhà nhé! Anh phải đi đây! “Quân lệnh như sơn” mà! Công an hay bộ
đội đều phải thế tất!

Thùy chỉ còn biết đứng như trời trồng. Mắt chị thoáng như rớm lệ nhìn xuống mâm cơm
còn bỏ dở.

Cu Toàn ngây thơ không biết gì, thấy ô tô là thích, cứ nhảy lên đòi bố cho đi theo...

Ngồi trên xe rồi, An mới thử hỏi anh thiếu tá văn phòng. Đã quá quen biết nhau từ lâu, anh cũng
chẳng ngại ngần gì:

- Việc gì mà gấp thế ông?

- Nào tôi có biết. Chỉ thấy các “cụ” không nghỉ trưa, nhào vào làm việc hết:

Chiếc xe như lồng lên, chạy rất nhanh. Chỉ lát sau đã tới Bộ. Anh thiếu tá đưa An đi
thẳng tới phòng họp và giao ban của Bộ trưởng với cán bộ cấp Cục, nơi mà nửa năm về trước An
từ Quảng Ninh về đã được đặc cách mời tới để trực tiếp báo cáo vụ tên Xuyên - Argus. Tới cửa
phòng, anh thiếu tá hết nhiệm vụ lui ra. Một mình An rụt rè bước vào. Anh thấy không phải chỉ
có Cục trưởng Công Năng mà có cả Bộ trưởng Quốc ngồi sẵn đấy rồi. Ngoài ra còn có cả ông
“văn” chánh văn phòng Bộ cùng mấy thư ký của Bộ trưởng. Thì ra tất cả đang chờ có một mình
An... Anh toan bước vội tới một góc bàn phía xa. Ông Quốc giơ tay chỉ ngay chiếc ghế chưa có
ai ngồi ở ngay trước mặt ông:

- Mời ngồi! Ngồi đây! Ngồi đây!

An lúng túng, chưa dám. Ông Quốc mỉm cười:

- Bàn việc của các anh, anh phải ngồi đây, còn định “chạy” đi đâu?

Rồi ông lật tay áo xem đồng hồ:

- Bây giờ là 12 giờ 20 phút. Ta làm việc luôn hả? Phải tính từng phút chứ không từng giờ
được nữa. Nào, đồng chí Năng!

Ông Năng, con người vốn rất kiệm lời, hết sức chặt chẽ trong công việc, xin phép Bộ
trưởng thông báo tóm tắt lại cho mọi người cùng biết: hồi 11 giờ 30 Cục nhận được điện khẩn
của Ban chuyên án SL06 đánh về: Địch mới điện ra hồi 11 giờ, báo rằng 22 giờ 30 tối nay chúng
sẽ có máy bay ra. Phải đốt lửa làm hiệu và toán trưởng Cầm Diêu phải trực tiếp tường trình tình
hình toán bằng phoni với phái viên của Trung tâm ngồi trên máy bay. Đó! Chỉ vắn tắt thế thôi,
nhưng rõ ràng là một bức điện chưa từng có! Bộ đã có nhận định sơ bộ như sau: địch bắt đầu
chuyển sang một giai đoạn (hoặc thời kỳ) kiểm tra mới, cao hơn, gắt gao hơn. Tuy nhiên sự việc
này cũng không phải hoàn toàn là xấu, vì nó hé lộ ra: địch có thể đã tin ở toán Goblin này hơn.
Thật vậy, có thể nó thử thách cao hơn. Nếu hết tin nó đã bỏ, hoặc cứ kéo dài việc điều đi điều lại.
Vì vậy, Bộ trưởng đã cho ý kiến là đồng ý cho Cục đưa tên Cầm Diêu lên ngay tối nay để “tiếp
chuyện” bọn Trung tâm. Nhưng Bộ cũng chỉ thị: để thực hiện việc này phải có hai điều kiện cốt
yếu: trước hết phải xem xét lại và chuẩn bị tư tưởng cho tên Diêu thật tốt, dự kiến cho nó mọi
tình huống khi bị địch kiểm tra để khỏi lúng túng, sơ hở. Làm được thế, mới cho đi. Hai là nếu
quyết định cho đi thì không tài nào đi bằng xe hơi lên cho kịp. Phải dùng máy bay. Một là trực
thăng hai là máy bay thả dù. Muốn có máy bay, Bộ phải gấp rút báo cáo lên Ban Bí thư và liên
hệ với bên quốc phòng mới được. Nay cũng theo chỉ thị Bộ trưởng, Cục mời An là người của
chuyên án, cũng là người sát tình hình nhất, để tham khảo ý kiến, đồng thời trao cho anh nhiệm
vụ kiểm tra lại và bồi dưỡng cho tên Diêu. An cũng có trách nhiệm trực tiếp đi cùng, để giám sát
chặt chẽ mọi hành động và mọi lời nói của nó, đề phòng phản bội, phá hoại...

An ngồi nghe vừa vui vừa lo, mồ hôi muốn toát ra. Cục trưởng báo cáo xong, ông Quốc
hất hàm về phía An:

- Nghe rõ chưa, chàng trinh sát? Chúng nó yêu cầu 22 giờ tối nay! Ý đồ của Bộ là chấp
nhận cuộc chơi này. Nhưng quá gấp. Vậy vẫn còn muốn nêu lại câu hỏi: Liệu ta có thể chuẩn bị
kịp mọi mặt để đưa tên Diêu đi không? Nếu tính lại không thể được thì phải nghi cách gì, trì
hoãn thế nào với tụi Mỹ cho thật hợp lý. Cậu thử nói đi xem nào?

An ngồi im tới mươi phút, rồi mạnh dạn cất tiếng:

- Báo cáo Bộ trưởng và các anh, tôi rất vinh dự được cấp trên cho phép đóng góp ý kiến
như thế này...
Ông Quốc cười, xua xua tay:

- Thôi thôi, bớt giáo đầu! Nói luôn!

An hăng hái hơn:

- Báo cáo, vậy tôi xin trình bày: có thể cho tên Diêu trực tiếp đối thoại với chúng được.
Tôi đã hiểu hắn như hiểu tên Páo. Tất nhiên tôi sẽ phải tranh thủ dặn dò hắn mọi mặt như trên đã
chỉ thị. Còn phương tiện, thưa đúng là phải máy bay, không có cách gì khác. Vậy tôi trân trọng
đề nghị Bộ trưởng cứ xin bên quốc phòng giúp cho một trực thăng. Như vậy lúc lên, lúc xuống ta
có thể kiểm soát tên Diêu được chặt chẽ.

Ông Quốc gật đầu:

- Cũng có lý! Thôi được, để tôi cân nhắc lại thêm một chút nữa. Bây giờ, tôi hỏi lại mọi
người một lần cuối: ta có thể chấp nhận cho tên Diêu trực tiếp đối thoại với địch chứ?

Mọi người cùng thanh “Nhất trí!”. Ông Quốc quay lại nói với ông Công Năng tiếp tục đi
vào các việc cụ thể.

Con người có tiếng là sắc sảo và nhanh nhẹn ấy đã có chuẩn bị rồi, không phải cân nhắc
gì hết. Ông giao cho An: đi ngay sang trại giam Thanh Đồng gặp tên Diêu, tranh thủ thời gian,
tập trung hết sức vào việc chuẩn bị tư tưởng cho nó. Việc thông báo lên cho các đồng chí Thạc
và Trường trên Sơn La, ông đề nghị bên văn phòng điện càng nhanh càng tốt... Còn bản thân ông
sẽ tháp tùng Bộ trưởng trực tiếp lên báo cáo với Ban Bí thư và trực tiếp sang liên hệ bên quốc
phòng xin máy bay...

Cuộc hội ý chớp nhoáng chỉ có 30 phút. Sau đó ai vào việc nấy. Giờ xuất phát quy định: đúng 16
giờ, nếu không có gì trục trặc xảy ra về máy bay hoặc về tên Diêu. Theo lệnh ông Quốc, mọi
người cùng lấy lại đồng hồ cho thống nhất: Bây giờ là đúng 12 giờ 38 phút.

An như bay ra khỏi phòng họp, suýt nữa xô phải cô trung úy trẻ của văn phòng đang ôm
một cặp tài liệu dầy cộp đi qua hành lang. An vội xin lỗi. Vẫn là cô trung úy nhỏ nhắn xinh xắn.
Cô lại ghé tai An tiếp tục thì thào mách:

- Này, buổi sáng em chưa nói hết: “ở nhà” thậm chí đã có ông kiến nghị nên kết thúc cái
SL-06 vô bổ này đi cho rồi...

An chỉ còn biết mỉm cười cám ơn cô, rồi cắm đầu chạy thẳng xuống sân xi măng. Chiếc
xe con ban nãy vẫn còn chờ đấy để đưa anh sang trại giam Thanh Đồng...

Tất cả mọi việc đều đã suôn sẻ. Khó khăn nhất là máy bay thì Bộ Tổng tham mưu đã
đồng ý giúp cho một chuyến trực thăng. Cũng rất may là ở sân bay Gia Lâm đang có đợt huấn
luyện bay của loại này, nên bên quân đội có thể giải quyết hết sức mau lẹ: máy bay đã có sẵn, lại
luôn luôn nạp đủ cơ số nhiên liệu, không phải chờ đợi đi lấy ở đâu xa.
Đúng 16 giờ, chiếc trực thăng cất mình lên, theo hướng Sơn La bay thẳng một mạch. Nó
cố tình bay thấp cho mọi người dưới mặt đất nom rõ hình cờ đỏ sao vàng in rất to dưới bụng,
mặc dầu tất cả các đơn vị phòng không, tất cả các đơn vị quân đội, các đơn vị dân quân tự vệ...
trên suốt hành lang bay của “chú chuồn chuồn” này đã được lệnh tuyệt đối không được nổ súng.

Lần đầu tiên được ngồi trên trực thăng của “Cộng sản”, lại bay giữa buổi chiều còn sáng
sủa như thế này, Cầm Diêu không giấu được vẻ thích thú và hân hạnh. Y vẫn mặc bộ quần áo
nâu. Bộ đồ biệt kích bỏ trong một túi vải để bên cạnh, chỉ đến khi vào việc, có lệnh mới được
mặc lại. Hôm nay lần đầu y mới nhìn rõ được các thành phố và nhất là các cánh đồng phì nhiêu
của đồng bằng Bắc Bộ mà y chỉ biết chút ít khi chưa chạy vào Nam. Nay như khác hẳn. Các thửa
ruộng được chăm sóc đẹp vô cùng. Mảng xanh xen lẫn mảng vàng, mảng nâu... Kênh mương
ngang dọc như bàn cờ. Ruộng được quy vào từng vùng từng thửa đâu ra đấy như gấm thêu, như
lụa dệt... Nó thấy khác xa đồng ruộng trong kia. Ở trong đó có thể rộng lớn hơn nhiều, nhưng
xem ra không có sự tổ chức, quy hoạch khoa học và tỉ mỉ, chu đáo vào hợp lý như thế này... Vậy
mà có những tên vượt tuyến chạy vào gần đây cứ rêu rao là ngoài Bắc ruộng đồng bị bắt vào hợp
tác xã, dân chúng chán nản bỏ hết, nay hoang hóa như rừng...

Nguyễn Nguyên An ngồi bên y, anh im lặng tiếp tục suy nghĩ về tất cả những gì có thể
xảy ra đêm nay. Thằng Mỹ sẽ vặn vẹo những gì? Sẽ lừa bẫy ra sao? Liệu thằng Diêu có đối đáp
được trôi chảy? Đều có hai khả năng: tốt, xấu và tỉ lệ ngang nhau... Vậy An còn phải nhắc nhở,
lưu ý nó những gì nữa đây? Bây giờ nếu không tranh thủ nói thêm ngay trên máy bay này, xuống
đất chỉ còn có độ hai ba giờ đồng hồ, lại đông cán bộ chỉ huy, lãnh đạo, sẽ rất rối, không thể nào
“nhét” gì thêm cho nó được! Nghĩ vậy, An cất tiếng:

- Thế nào, chuẩn bị đầy đủ cả rồi chứ?

Cầm Diêu thôi không ngắm nhìn các cánh đồng, các dòng sông, quay lại như trở về với
thực tại:

- Thưa cán bộ, tôi đã sẵn sàng.

- Chắc nó sẽ hỏi đủ thứ, nhưng hẳn là sẽ hỏi nhiều về toán Goblin hiện nay với quân số, sức
khỏe, vũ khí, trang bị...

- Vâng, chắc thế.

- Rồi có thể nó sẽ hỏi tới tình hình địa bàn, với các hoạt động quân sự, chính trị trong
vùng... qua đó nó có thể hỏi cả tin tức về những nhân vật cũ của Pháp khi trước...

- Vâng, tôi cũng nghĩ như vậy ạ...

- Và tôi tin là nó sẽ kiểm tra lại chính anh về đủ thứ ám, tín hiệu...

- Vâng đúng thế. Thưa cán bộ, hồi tập bên Philippin tụi nó thường kiểm tra rất kỹ toán
trưởng...
- Vậy anh vẫn nhớ đầy đủ các ám, tín hiệu đấy chứ?

- Thưa, nhớ ạ. Tất cả những cái đó tôi đã khai hết với các cán bộ. Nhưng, thưa cán bộ hôm nay
tôi mới nhớ ra là: nếu tụi nó hỏi tới tên vợ tên con, tên chỉ huy cũ, chỉ huy mới, thì đã có một quy
ước là phải trả lời ngược lại tất cả...

- Hả? - An hết sức ngạc nhiên - Ngược lại tất cả?

Tên Diêu gật đầu:

- Vâng, thưa cán bộ, ví dụ nó hỏi tên vợ tôi, thì tôi phải đáp là: Nhạn Thị Lò. Nếu đáp là:
Lò Thị Nhạn thì đó là tôi đã mật báo cho nó biết tôi đang bị khống chế!

- Chà! Lại thế nữa cơ đấy! Ừ, hôm nay anh nhớ ra được chuyện này quả là quan trọng.
Còn gì nữa không?

- Thưa cán bộ, tôi chỉ còn lo một cái...

- Lo cái gì?

- Thưa, lo nó kiểm tra súng, mà súng tụi tôi đã nộp hết rồi. Vậy khi nó bảo giơ súng lên cho nó
coi. Vậy thì làm sao đây, thưa cán bộ?

An nhíu mày lại, rồi hỏi lại:

- Nhưng ban đêm nó trông thấy thế nào được mà hỏi?

- Thưa không! Nó có kính hồng ngoại tuyến nhìn được trong đêm, lại có máy khuếch đại
ánh sáng nữa, thì có thể nom khá rõ tôi. Nếu giơ khẩu súng lên, nó cũng có thể nom rõ được nếu
không trăm phần trăm thì ít ra cũng năm mươi...

- Thôi được, việc này, tôi sẽ xin ý kiến cán bộ Thạc và cán bộ Trường. Nhưng riêng tôi
nghĩ: có lẽ xuống là phải đẽo ngay cho anh một khẩu súng sáu dởm cũng nên.

Cả hai cùng bật cười vui vẻ.

- Còn gì nữa không? - An hỏi tiếp.

- Thưa cán bộ, tôi nghĩ rằng có thể nó đòi phải đưa ra thêm một số tên nữa để nó kiểm tra...

- Không! Cái này thì tôi có thể trả lời anh dứt khoát là không! Nếu nó đòi, anh hãy nổi
cáu lên, phản đối lại nó: điện gọi toán trưởng ra tiếp chuyện, chứ không thấy gọi mấy đứa kia!
Chúng đang ở căn cứ cả. Nếu muốn, Trung tâm phải có lệnh hẳn hoi, thì toán mới chấp hành
được. Anh nên nhớ: bay ra đây, tôi cho rằng giỏi lắm là một tên đại tá ngụy nào đó thôi; Mỹ, cho
kẹo cũng chưa dám ra. Vụ C47 chúng tôi còn đang làm ầm khắp thế giới về việc Mỹ ngang nhiên
vi phạm Hiệp định Geneve, vi phạm luật quốc tế, đưa người ra Bắc phá hoại. Chúng nó ngang
ngược nổi tiếng toàn cầu mà cũng đang phải chối đây đẩy. Vậy ra đây hôm nay chỉ là ngụy, tôi
dám chắc như thế. Mà có khi ngụy còn dưới cơ cả Ngô Thứ Lân - trưởng phòng P54 nữa...

Cầm Diêu rất tâm đắc:

- Cán bộ phân tích hay quá!

- Vậy, đối đáp với những tên phái viên ấy, anh cứ đàng hoàng.

- Rõ! Cán bộ nói như cởi được cho tôi bao nhiêu là băn khoăn...

Sau hơn một giờ bay, chiếc trực thăng đã nom thấy hai dải vải trắng khá lớn đặt chéo
nhau giữa một bãi cỏ tranh khá bằng phẳng. Lượn một vòng rất đẹp, “con chuồn chuồn” ấy từ từ
hạ độ cao rồi đỗ xuống đúng giữa hai dải vải trắng. Cánh quạt còn đang đà quay tròn thổi rạp các
ngọn tranh xuống như có gió bão, thì từ trong khu rừng rậm kế bên năm sáu người đã chạy ùa ra,
vừa cười vừa vẫy rối rít. An nhận ra ngay người dẫn đầu là ông Trường. Mọi người trên máy bay
cùng nhảy xuống. An ôm chầm lấy ông Trường, ông đã trở về từ bệnh viện tỉnh vì cái bệnh kiết
lỵ kinh khủng. Hôm nay nom ông vẫn quá gầy. Hai gò má ông nhô cao, đôi tai càng dảnh lên,
vầng trán thì gồ ra. Chỉ có đôi mắt là vẫn tinh tường, sắc sảo, đầy sức sống. Và vẫn vui tính, ông
ghé tai An thì thào:

- Thế nào, về ngủ với “con Thùy” chỉ được có một đêm, rồi lại phải cút ngay thế này à?

An cười, không đáp vào chuyện ấy mà ân cần hỏi lại:

- Vậy cái kiết lỵ của anh đã dứt hoàn toàn chưa?

Ông Trường khẽ nhún vai:

- Trước mắt thì coi như khỏi. Nhưng bệnh viện nó cũng nói thật: đường ruột của tớ coi
như đi tong rồi. Mà đúng như vậy, bây giờ ăn cái gì tanh, lạnh, hoặc rau cỏ vớ vẩn là lại ôm bụng
bằng chết...

An ngắm nhìn ông. Một tình cảm gì vừa như xót xa vừa như yêu kính xen lẫn tràn ngập
tâm hồn anh...

Cả hai nhóm người cùng nhập vào nhau, quay trở vào rừng. Đi bộ, leo đèo, vượt suối tới
gần một giờ sau mới tới các lán trại của Ban chuyên án. Ông Thạc hết sức phấn khởi vì mọi việc
đều rất ăn khớp, và mau lẹ. Tên Páo cũng mừng reo lên khi gặp lại Cầm Diêu. Thật vậy, từ đêm
nhảy xuống đây, đã hơn 5 tháng trời nay hai đứa mới lại được trông thấy mặt nhau. Vừa qua
cùng ở Thanh Đồng, nhưng mỗi đứa phải giam riêng một nơi. “Trung úy” - tên Páo reo lên. An
cười, nhẹ nhàng nhắc nó: “Bây giờ Cầm Diêu không còn là trung úy ngụy nữa. Bây giờ cũng như
Páo thôi, cũng đang quyết tâm lập công chuộc tội”. Tên Páo e thẹn:

- Em xin lỗi cán bộ, em vẫn còn dốt quá!


Trời bắt đầu đổ tối. Ông Thạc gọi ông Trường và An tới hội ý, chủ yếu để nghe An báo cáo lại
tất cả những gì mà Cục và Bộ căn dặn, đồng thời cũng nghe An báo cáo về tình hình tư tưởng và
thái độ của Cầm Diêu cho tới giây phút này... Khi An trình bày xong, ông Thạc cũng cho anh
biết trên này đã được đồng chí Trần Tâm, Giám đốc Công an khu và Công an tỉnh giúp đỡ chuẩn
bị xong mọi mặt cần thiết: Công an khu đã cấp tốc cho một đại đội Công an vũ trang về bảo vệ,
đề phòng địch phá hoại. Tỉnh thì cho quân canh gác vòng ngoài, và đi lấy củi, xếp thành ba đống
lớn theo hình tam giác cân giữa một bãi tranh cách đây khoảng 4 cây số đường rừng theo hướng
tây tây bắc. Còn về phía Bạn, các máy móc, điện đài cũng đã sẵn sàng, có thể liên lạc tốt với máy
bay đã đành, còn để cho các cán bộ chỉ huy ngồi ẩn trong bìa rừng có thể nghe và kiểm soát được
toàn bộ cuộc đối thoại giữa bọn địch trên máy bay và Cầm Diêu dưới đất...

- Bây giờ, các anh ạ - ông Thạc nói - Ta phải bàn thêm để dự kiến những tình huống xấu
sẽ có thể xảy, và cách đối phó của ta.

Ông Trường gật đầu:

- Đồng ý với anh Thạc. Tôi xin có ý kiến thế này: Chuyện nó bất ngờ đổ quân xuống tin chắc là
không có rồi. Mình đề phòng thì cứ đề phòng thôi. Tôi chỉ thấy khả năng có thể có là: tên Diêu
đối đáp sơ hở, không có lợi cho ta. Tất nhiên chuyện nó cố tình nói lộ ra, cũng vẫn cứ phải đặt ra
để cảnh giác. Nhưng khả năng phản bội xem ra rất ít, thậm chí không thể xảy ra...

Ông Thạc đồng ý với ông Trường. Nhưng hỏi lại:

- Vậy những sơ xuất bất lợi thì ta phải xử trí, đồng ý rồi. Nhưng xử trí thế nào?

Ông Trường chỉ luôn vào An:

- Đây, tay “chuyên viên tù binh” này sẽ phải lo ứng phó trực tiếp tại chỗ chứ còn ai.

- Như vậy anh An phải ra đứng cùng với nó sao?- Ông Thạc hỏi - Còn nếu ẩn giấu trong
bìa rừng như anh và tôi thì cứ phải la hét om sòm lên à?

Ông Trường còn đang nghĩ, An xin phép nói:

- Bằng mọi cách tôi phải ở gần tên Diêu mới xử lý kịp thời mọi việc, kể cả tình huống xấu nhất.
Báo cáo hai anh, tôi sẽ hóa trang ngồi lẫn trong đống củi khô, ngay bên cạnh nó.

- Hay! Ông Trường vỗ đùi đánh đét một cái - Nhưng nhỡ... trên tàu bay nó phát hiện
được cậu thì sao?

- Không dễ anh ạ! Dù có kính hồng ngoại, dù có máy khuếch đại ánh sáng, tôi tin là
chúng vẫn không nhìn được thật rõ đâu. Máy móc gì cũng phải thua con người hết. Các anh cứ
yên tâm.

Ông Thạc nhìn An vô cùng âu yếm:


- Yên tâm chứ sao lại không yên tâm! Vậy gắng sao cho khéo léo nhé!

Thời khắc trôi đi khá mau. Ông Thạc cầm phoni gọi đại đội công an vũ trang của Khu,
hỏi lần cuối về việc bố trí sẵn sàng chiến đấu. Từ xa, viên đại đội trưởng mạnh mẽ báo cáo: toàn
đại đội đã tới vị trí, đã làm xong mọi hầm hố cần thiết chống bom cháy và cả bom nổ. Các
phương án tác chiến đã được xác định lại xong xuôi, tốt đẹp. Tất cả sẵn sàng chỉ còn chờ lệnh
của Trưởng ban chuyên án.

22 giờ. Cả ba đống lửa làm hiệu báo cho máy bay bắt đầu được đốt lên. Máy picơn cũng bắt đầu
mở để sẵn sàng hướng dẫn máy bay tới đúng hướng. Ông Thạc, ông Trường cùng ba chiến sỹ
bảo vệ rời khu lều lán của Ban từ 19 giờ 30, tới “cắm” sở chỉ huy dưới một gốc cây lớn trong
rừng, chỉ cách bãi trống hơn 200 mét, lúc này có thể nhìn ra rất rõ cả ba đống lửa đang bốc cháy
sáng lòa. Nom thấy cả một đống củi khô khá to ở sát ngay đó, nhưng tuyệt nhiên không thấy An
đâu. Ông Trường khoái lắm, quay lại hỏi tên Diêu lúc ấy cũng đã được đưa tới chỗ hai ông:

- Này, cậu có nhìn thấy anh An ở đâu không?

Tên Diêu chăm chú nhìn quanh, ông Trường vỗ vào vai nó:

- Anh An đang ở ngoài bãi trống kia kìa, cậu thử nhìn xem có thấy không.

Tên Diêu lại căng mắt nhìn ra, rồi lắc đầu:

- Thưa, không thấy cán bộ An đâu cả!

Ông Trường cười khà khà:

- Có đấy! Chút nữa, cậu cứ bình tĩnh ra nói chuyện với tụi nó. Cán bộ An sẽ luôn luôn ở
bên cạnh cậu đấy!

Nói đoạn, ông lại cười, ngắm nhìn bộ đồ biệt kích mà tên Diêu đã được phép mặc lại gật
gù.

22 giờ 20 đã nghe thấy tiếng máy bay và liên tiếp, các đài quan sát của Công an Khu,
công an tỉnh báo về cho ông Thạc: “Chúng đang tới... Chúng sắp tới...”.

Không khí tựa như đông cứng lại, không phải vì càng khuya gió rừng càng thêm lạnh, mà
vì hồi hộp. “Lạy trời, đừng có lại bục, bục hai tiếng nổ, rồi tất cả rơi vào vực thẳm như vụ C47
hồi trước!” Ông Thạc vẫy tay một cái, giọng nghiêm như vào trận:

- Cầm Diêu! Cho phép anh tiến ra! Hãy vững vàng! Có chúng tôi ở đây. Không sợ hãi gì
hết!

- Tuân lệnh! - Tên Diêu đáp vang. Cũng rất quân sự, y đứng nghiêm lại, giơ bàn tay đặt chéo ở
đuôi lông mày phải chào hai vị chỉ huy, đoạn chạy như bay ra bãi tranh phía ngoài. Bên hông y
xệ một bao da đựng súng sáu. Đó là một bao súng có súng thật của ông Trường vừa cho mượn
nhưng tất cả đạn đã bị tháo hết. Không cần phải đẽo súng gỗ như An đã nói đùa trên máy bay khi
chiều...

Tên Diêu chạy ra đứng giữa ba đống củi đang tiếp tục ngùn ngụt bốc cháy sáng rực. Mặt
y đỏ lên. Bộ áo quần biệt kích nom càng quái đản. Quang cảnh y hệt như xinê đang dàn một
“pha” trong một bộ phim hành động nào đó.

Một tay cầm máy bộ đàm phoni, tay kia y lăm lăm chiếc đèn pin tín hiệu... Tiếng máy
bay đã gần như ở trên đỉnh đầu rồi. Vì trời đêm không nom rõ hình thù, chỉ thấy đèn nhấp nháy
dưới bụng, nhưng nghe tiếng động cơ tên Diêu nhận ra ngay: một chiếc trực thăng. Y giơ cao
chiếc đèn pin lên, quay tròn liền năm vòng: báo hiệu y có mặt ở chỗ này. Đoạn y ngồi xuống đặt
chiếc máy điện đài hai chiều chếch theo hướng máy bay, và hét lên:

- Sài Gòn! Sài Gòn! Đây Hồng Hoa, đây Hồng Hoa! Nghe rõ không, trả lời!. (Nếu y nói
xuôi: đây Hoa Hồng gọi thì tức là tín hiệu mất an ninh, chiếc máy bay nọ sẽ chuồn luôn, hoặc có
thể liệng bom nếu như có rồi bỏ chạy).

Ngay lập tức, Cầm Diêu nghe thấy từ trong máy vang lên một thứ âm thanh lẹt xẹt:

- Hoa Hồng! Hoa Hồng! Sài Gòn đây, tôi nghe anh rất rõ. Xin vui mừng chào anh cùng
tất cả toán.

- Sài Gòn! Sài Gòn! Hồng Hoa cũng thay mặt anh em gửi lời chúc mừng phái viên của
Trung tâm tới úy lạo và chỉ thị...

- Hoa Hồng! Hoa Hồng! Rất tốt. Tôi mang tới cho các anh lời ngợi khen nồng nhiệt của
cố vấn, của Trung tâm và thượng cấp...

Cầm Diêu đã nhận ra tiếng của tên đại úy Quýnh, viên lý trưởng nhà quê thời Pháp này
thay thầy đổi chủ, làm sĩ quan tình báo, trợ lý cho Ngô Thứ Lân ở cái P54 đáng nguyền rủa ấy.

- Hoa Hồng! Hoa Hồng! Anh vẫn nhớ tín hiệu an toàn của anh chứ?

À, bắt đầu cuộc kiểm tra cá nhân rồi đấy! Cầm Diêu nhếch miệng cười gằn, rồi đáp rất rành rẽ
từng lời:

- Sài Gòn! Sài Gòn! Hồng Hoa vẫn nhớ chứ! G44400 1 A.

- Tốt lắm! Hoa Hồng! Hoa Hồng! Đã xa nhà khá lâu, vậy anh còn nhớ tên vợ anh không?

- Sài Gòn nghe đây: Làm sao mà không nhớ: Nhạn Thị Lò!

- Tốt lắm. Vậy còn tên các con anh?

“Thằng chó, bố láo! Nó thừa biết mình đã có con với Nhạn đâu, nhưng bẫy nhau thế nào
được?”
- Sài Gòn nghe đây: Có hai mươi con, vừa trai vừa gái, chưa đặt tên. Phái viên biết quá
rồi còn phải hỏi!

Cầm Diêu nghe tiếng thằng Quýnh, bật cười ha ha.

- Hoa Hồng! Hoa Hồng! Anh vẫn còn khẩu súng sáu lãnh hôm ra đi chứ?

- Nó còn đây! - Vừa làm vẻ kiêu hãnh đáp, Cầm Diêu vừa rút khẩu súng ra, huơ lên rất
nhanh rồi cũng bỏ vào bao da rất nhanh, không cho thằng trên máy bay kịp nhận ra kiểu súng gì.
Nhưng thật bất ngờ, từ trên máy bay lại hỏi:

- Hoa Hồng! Hoa Hồng! Nhưng số súng của anh là bao nhiêu?

An đang ngồi thu mình trong đống củi khô chụm ở gần bên tên Diêu, nghe qua máy thu
của mình gần như hoảng lên. Chết cha! Thằng Diêu mà quên thì có lẽ hỏng to... Nhưng cũng
không ngờ, tên Diêu đã như gắt lên:

- Sài Gòn! Vặn vẹo chi quá trời! Đ. mẹ, súng của mình sao lại không nhớ: R. 21.
210.096. Có muốn hỏi cả nơi sản xuất không?: Browning Canada - sản xuất năm 1959.

Trong đống củi khô, An thở phào và phải thầm khen thằng Diêu có trí nhớ quá tốt.

Chiếc trực thăng vẫn lượn tròn đều đều trên đầu. Lại có tiếng hỏi tiếp:

- Hoa Hồng! Hoa Hồng! Lại muốn hỏi anh có nhớ mụ phù thủy ở Chợ Lớn vẫn tẩm quất
cho khách giang hồ không?

Một lần nữa, An lại phát hoảng. Chuyện số súng đã bất ngờ, đến chuyện quá vớ vẩn này
thì nay bố ai biết mà dặn trước được tên Diêu. Nhưng cũng không ngờ y đã đáp hết sức trôi chảy,
lại có ý giỡn cả ngài phái viên nữa:

- Sài Gòn! Xin nghe đây! Té ra phái viên cũng đã từng trải qua hai bàn tay kinh khủng
của mụ Síu Voòng ở 409 đường Khổng Tử. Đã lâu rồi, tôi cũng muốn về nhờ mụ bẻ xương cho
đây!

Tiếng cười ha ha lại cất lên trong máy:

- Hoa Hồng! Vui quá! Thôi, bây giờ anh cho biết về tình hình toán của anh.

- Sài Gòn nghe tôi tường trình đây: Ngay từ tháng 6 khi còn được liên lạc hai chiều, chúng tôi đã
thường xuyên điện vô tường trình đầy đủ với Trung tâm. Khi đó đã báo là một tên chết ngay tại
chỗ vì dù không mở. Nó là G6. Toán phó G2 thì bị sốt rét triền miên. Nay hoạt động được chỉ
còn 4, là tôi Gl, và tên G3 chuyên về điện đài. Tên này sức khoẻ khá nhất không ốm đau gì đáng
kể, nhưng vì thiếu ăn, suy dinh dưỡng nên khá gầy yếu. Còn hai tên kia G4 và G5 là nhân viên
phá hoại, tình báo cũng yếu đuối, suy nhược vì quá kham khổ.
- Còn 8 tên mới tuyển mộ?

- Chèng đéc ơi! Từ khi Trung tâm cắt liên lạc hai chiều, thiếu thốn trăm bề, lại còn di
chuyển liên tục vô cùng cực khổ, làm sao mà đem chúng đi cùng? Việc giữ liên lạc chặt chẽ với
chúng cũng còn khó, vì Trung tâm cứ điều đi như đèn cù còn thì giờ đâu và sức đâu mà liên lạc.
Bao giờ có liên lạc hai chiều, có tiếp tế, mới có thể tiếp tục huấn luyện chúng được.

- Hoa Hồng! Chuyện đó hãy tạm biết thế. Hỏi tiếp: tình hình quân sự chính trị trong vùng
hiện nay ra sao?

- Sài Gòn hãy nghe tôi tường trình: vẫn do bị điều đi như điên, vẫn do thiếu ăn thiếu thuốc muốn
chết, nên còn đâu thì giờ và sức lực để tìm hiểu sâu mọi việc. Tuy nhiên cũng biết sơ qua: miền
Bắc rất mạnh, không như người Mỹ và chúng ta tưởng. Quân đội Cộng sản rất thiện chiến đã
đành, còn có một tinh thần tựa như bên Thiên chúa giáo gọi là “tử vì đạo”. Họ phối trí lực lượng
rất khoa học: Khắp nơi hiểm yếu đều có đơn vị mạnh trấn giữ, lại còn có địa phương quân, dân
vệ phối hợp...

- Thôi được, có muốn đề nghị gì với Trung tâm không?

Tên Diêu nói, giọng trở nên cáu kỉnh, thậm chí phẫn nộ:

- Trình ông phái viên, đề nghị thì có nhiều, nhưng trước hết chỉ mong Trung tâm: hãy
thực sự tin và hãy tiếp tục gửi đồ tiếp tế cho tụi tôi! Gần sáu tháng qua Trung tâm đã bỏ rơi
chúng tôi như đem con bỏ chợ, mặc cho sống, chết tự lo liệu. Xin nói thật: Nếu Trung tâm không
còn tin tưởng, không tiếp tế cho nữa, tụi tôi không đầu hàng Cộng sản đâu, nhưng sẽ tìm đường
qua Lào, về Nam. Sau đó ném trả quân tịch, trở về với vợ con, gia đình, thề sẽ không nhận bất cứ
nhiệm vụ gì nữa. Chúng tôi đã cố gắng trung thành, kiên tâm đến mức này là tột đỉnh rồi...

Thêm một lần nữa, An lại phải thầm khen tên Diêu rất nhớ những gì anh đã gợi ý cho nó, không
những thế nó còn “thể hiện tình cảm” một cách rất đạt. Quả nhiên tên trên máy bay như cuống
quýt vỗ về ngay:

- Hoa Hồng! Hoa Hồng! Chớ vội trách Trung tâm nhiều như vậy. Trung tâm cũng có rất
nhiều cái kẹt của Trung tâm. Muốn mà không được. Vậy xin cứ bình tâm tiếp tục gan góc đợi
chờ, rồi thế nào Trung tâm cũng tìm cách tiếp tế ra cho anh em để thực thi thắng lợi trách vụ vì
Tổ quốc.

- Sài Gòn! Sài Gòn! Vậy từ nay tụi tôi sẽ được tiếp tục liên lạc hai chiều chứ?

- Hoa Hồng! Điều này có thể là như thế. Nhưng hãy chờ điện chính thức của Trung tâm.
Điện gửi vô vẫn như cũ, cứ thế mà thi hành.

- Sài Gòn! Tôi xin được nhấn mạnh: Nếu còn kéo dài tình trạng này quá một tháng nữa,
chỉ một tháng nữa thôi, dứt khoát là chúng tôi sẽ bán hết mọi thứ rồi qua Lào để rồi trở vô Nam.
Hết chịu đựng nổi rồi!
- Hoa Hồng! Hoa Hồng! Đã bảo cứ yên tâm. Hết sức mừng rỡ và tin tưởng ở anh em. Cuộc thăm
hỏi đã hết và rất tốt đẹp. Bye bye! See you again!

Thế là chiếc trực thăng bốc lên cao hơn và quay đầu bay khá nhanh rồi biến mất trong
trời đêm mỗi lúc một thêm lộng gió.

13

Đã qua Tết hơn một tháng.

Mùa xuân đang mở ra với những biến động mới khá dồn dập: Trước hết, “Trung tâm” địch
đã cho Goblin được nối lại liên lạc hai chiều. Sự việc đó tuy chưa có gì đáng kể nhưng cũng đủ
làm cho tất cả mọi người từ Ban tới Bộ khá hài lòng. Cuộc đấu trí qua “kênh” kiên trì mai phục
cho thấy ta đã bước đầu thắng lợi. Tuy nhiên, vẫn chưa có sự tiếp tế nào về hàng hoặc người.
Chúng mới chỉ một mực yêu cầu báo cáo tỉ mỉ lại tất cả mọi công việc và tình hình đã xảy ra của
toán trên 8 tháng qua... Cũng rất may, ông Thạc và ông Trường đã hết sức cẩn thận, chu đáo bắt
anh em phải ghi chép nhật ký đều đặn, bây giờ chỉ cần điều chỉnh ít nhiều cho thật phù hợp với
tình hình mới... Bọn “Trung tâm” hàng ngày vẫn nhận báo cáo, và điện ra. Lần nào chúng cũng
khen đồng thời hứa như “đinh đóng cột”: “Anh em hãy yên tâm. Trung tâm sẽ gửi ra ngay mọi thứ
theo yêu cầu của anh em “...Trong khi đó, tin từ Bộ báo xuống: đang còn giữa tháng giêng, một
toán gián điệp biệt kích 4 tên mang bí danh Eurasio nhảy xuống một địa điểm thuộc tỉnh Hoà Bình.
Ta đã tóm được cả. Qua tháng hai âm lịch, lại một toán nữa mang bí danh Attillion nhảy xuống
vùng biên giới Nghệ An giáp Lào. Ta cũng đã tóm gọn...

Hai vụ này đã làm cho Ban chuyên án SL-06 không khỏi thêm suốt ruột. Bộ đã kịp thời
nhận định: Goblin vẫn được chúng coi là toán lớn và nòng cốt. Chúng hết sức thận trọng trong
việc sử dụng lại. Nhưng đến khi sử dụng lại, có thể sẽ có những chuyện lớn hơn những toán nhỏ
như hai toán Eurasio và Attillion vừa xảy ra.

Có phương hướng rồi, ông Thạc mới có thể tạm yên tâm nhận nhiệm vụ với tư cách trưởng
phòng của Cục I đi giới thiệu kinh nghiệm SL-06 và tham gia góp ý chỉ đạo vụ Eurasio, khoảng
độ một, hai tuần. Ông Trường cũng vậy, theo chỉ định của trên, với tư cách phụ trách hệ Mỹ cũng
“chạy” vào Nghệ An ít ngày để giúp anh em trong đó một tay trong vụ Attillion. An trực ở “nhà”.

Tới đầu tháng 3 (1962) ông Trường mới trở lại. Riêng ông Thạc còn phải ghé qua Hà Nội
dự hội nghị, đồng thời kết hợp giải quyết dứt điểm việc chuyển vợ con từ Hải Phòng lên.

Trong khu lều lán bên sông Đà, chỉ có ông Trường và An cùng một nhóm nhân viên đã được rút
rất gọn. Cuộc sống đều đều đã quá quen thuộc từ hơn nửa năm nay lại tái diễn một cách tẻ nhạt.
Tuy nhiên cũng đã đến lượt An được đi. Khu Công an Tây Bắc mở Hội nghị triển khai công tác
năm 1962, gửi giấy mời. Trong người hãy còn mệt, ông Trường cử An đi thay. Bản tính vốn rất
ngại các cuộc họp, nhất là các hội nghị lớn dài ngày, nhưng lần này được dịp “xê dịch”, anh hoàn
toàn vui vẻ nhận nhiệm vụ.
Sau ba ngày ở Thuận Châu, dự hội nghị xong, An quay về. Lần này anh qua lối Quỳnh
Nhai. Anh có ý định ghé thăm lại gia đình Cầm Diêu. Hồi đó bà mẹ và cô em Cầm Diêu về Hà
Nội gặp hắn, vì công việc quá gấp rút, tinh thần còn căng thẳng, An chưa trò chuyện được nhiều
với họ. Cũng chưa có điều kiện để đón bà và cô gái về Hà Nội chơi như đã hứa. Lần nay anh qua
thăm họ như muốn ngỏ một lời cáo lỗi, mong được cảm phiền, đồng thời cũng muốn qua cuộc gặp
này để ít nữa về Hà Nội gặp lại Cầm Diêu, với một ý nghĩa nào đó, cũng như mang lại được phần
nào những tình cảm ấm áp của gia đình về cho hắn...

Chiếc ba lô nhỏ khoác ngoài chiếc áo bông dày cộp, chiếc mũ “tai chó” ấn chặt trên đầu,
hai ống quần luôn xắn cao, chân mang dép lốp, An đi băng băng trên các con đường mòn, xuyên
qua những cánh rừng lớn. Xế chiều, anh tới một bản nhỏ đầy hoa ban trắng ở cách bờ sông Đà chỉ
một thôi đường. Không trông thấy được dòng sông, nhưng cũng nghe rõ tiếng những con thác triền
miên tấu lên bản đại hợp xướng hoang sơ, cổ kính và huyền bí. Không phải hỏi thăm ai, quanh co
mấy lối nhỏ, An tới trước một căn nhà sàn ở giữa bản. Trên sàn phơi, bà Cầm Inh đang lúi húi thu
nhặt những bắp ngô. Chợt nhìn xuống, bà reo lên mừng rỡ:

- Úi! Cán bộ An!

Lập tức từ trong nhà chạy xô ra sàn phơi hai thiếu nữ nữa. An nhận ra ngay một người là
cô cháu gái đã ở cùng bà từ lâu, còn người kia là Cầm Sa. Ô, Cầm Sa? An cũng không khỏi ngạc
nhiên và vui vẻ. Cứ tưởng rằng cô vẫn còn đang ở trên trường Cao đẳng Sư phạm của Khu.

An bỏ dép dưới chân cầu thang, bước lên nhà. Vẫn căn nhà nhỏ nhưng khá ngăn nắp mà
anh đã về cách đây bảy, tám tháng. Then, cô cháu gái rối rít chạy đi báo cho mấy ông chú, bà bác
biết có cán bộ An “trên Bộ Văn hóa” ghé về chơi.

Cầm Sa cùng mẹ ngồi trò chuyện với An. Không khí trong căn nhà thoắt trở nên ấm cúng. Bà mẹ cho biết
cô gái đã tốt nghiệp Trường sư phạm, nay được về trường của bản, phụ trách lớp ba. Vẫn theo lời bà mẹ,
gần như không hôm nào không có các phụ huynh học sinh đến chơi và khen cô giáo bản dạy hay, hát giỏi
và rất thương yêu các em... Lần này về, thư thả, An đã có thì giờ để chú ý tới Cầm Sa hơn. Càng nhìn anh
càng thấy đúng là cô khá giống anh trai với những đường nét cứng cỏi. Tuy nhiên gương mặt vẫn rất... nữ
tính. Vì vậy cô có một vẻ đẹp hơi khác lạ, có thể nói là có cá tính. Lần này còn có điều khác trước nữa: anh
như không còn thấy đâu cô gái, quá quyết liệt, quá ích kỷ như hồi vừa qua. An vẫn chưa quên cái cảm giác
vừa khó chịu vừa ngạc nhiên của mình trước thái độ của cô hôm đó khi được yêu cầu về gặp Cầm Diêu.
Khi đó, An đã phải thầm tự hỏi “Con người ta có thể chỉ vì sợ bị liên lụy mà trở nên hết nhân tính rồi sao?”
Và anh hết sức buồn rầu: “Chúng ta đâu có muốn tạo nên những con người vững lập trường hoặc trong
sạch kiểu như thế?...” Bữa nay, ngồi ngắm lại cô gái trẻ trung với nụ cười rất tươi, với cặp mắt nhỏ, dài,
long lanh như luôn luôn có nắng kia, An đã phải thầm nghĩ lại: “Vậy điều gì đã đổi thay ở người con gái
này?” Anh không biết. Tất nhiên, dịp tháng 7 ấy, cuối cùng trước thái độ của bà mẹ, cô cũng đã phải bằng
lòng gặp anh trai để góp lời khuyên nhủ... Nhưng dẫu sao cho tới hôm nay dường như ở cô đã có những
gì đó khác trước rất nhiều, nếu không muốn nói là hoàn toàn. Có lẽ chỉ có bà mẹ mới hiểu được chăng?

Vui chuyện, nhất là vắng mặt đứa cháu còn mải đi lấy nước làm cơm, bà mẹ đã nói nhỏ cho anh
biết: ở nhà hai mẹ con đã rất nhiều đêm thì thầm cùng nhau bàn tới cái ngày mà mẹ con bà biết là
cũng còn khá xa xôi, ngày Cầm Diêu sẽ được trở về sau khi đã lãnh một hình thức án tội nào đó,
cho dù đã được hết sức khoan dung. Bà cùng Cầm Sa đã tính tới việc trước tiên là cầu xin Cách
mạng tiếp tục cứu giúp bằng cách nào đó đưa được Nhạn từ trong ấy ra đây cho vợ chồng nó được
đoàn tụ. Sau đó tính đến chuyện làm ăn, xây lại cuộc đời. Theo bà biết ta đang chuẩn bị khởi công
làm nhà máy thủy điện sông Đà... Như vậy theo bà: nó có thể xin vào làm công nhân xây dựng,
hoặc làm thợ cơ khí... Còn ở mường ở bản cũng đang cần rất nhiều thanh niên có văn hóa, có sức,
có tay nghề trong các việc như: làm mương phai, thủy lợi, lập các tổ máy xay xát, lập trại chăn
nuôi gia súc, gia cầm theo kỹ thuật mới cho dân... Như vậy không có lo, công việc nhiều, nhiều
lắm!...

Ngồi lắng nghe những dự kiến, mà cũng là những giấc mơ vô cùng tươi đẹp của bà mẹ và
cô em gái Cầm Diêu, An thấy mình cũng như lây lan một niềm vui, kể cả ít nhiều hy vọng nào đó,
dù mới chỉ như khói bay, gió thoảng... Đưa Nhạn từ Nha Trang ra ư? Nghe như chuyện huyền
thoại. Nhưng trong nghề, An biết ở dưới Quảng Ninh, ta cũng đã có tổ chức thắng lợi việc đưa ra
bằng đường biển vợ con một tên gián điệp ra đầu thú và đang làm việc rất đắc lực cho ta. Vậy
trường hợp của Cầm Diêu nếu có nghĩ tới, đâu phải là hoang tưởng! Tuy nhiên An hiểu: chuyện
đời đâu có giản đơn... Hãy cứ nỗ lực đi đã, hỡi tất cả những con người lương thiện và có nhiều mơ
ước ở trên đời này! Thật vậy, nỗ lực phi thường của bản thân đã đành, còn cần có cả... một chút
mỉm cười của những cơ may nữa!... Nhưng dẫu sao, những niềm vui và hy vọng của mẹ con bà
vẫn làm cho anh thực sự xúc động. Anh hiểu: nếu không lầm, bọn anh đã không phải làm cái
“nghề”, cái công việc đặc biệt của mình chỉ với tất cả sự lạnh lùng, tỉnh táo và sắt đá, mà còn có
cả những ngọn lửa có thể đem đến sự ấm áp cho mọi người. Thật vậy, làm bất cứ việc gì, thi hành
bất cứ biện pháp gì, bao giờ bọn anh cũng chỉ muốn cuối cùng là làm sao cho con người được tốt
hơn lên, và chỉ mong sao đem được tới cho họ những niềm vui và hy vọng hơn là sợ hãi...

Bữa cơm chiều có khá đông bà con trong họ cùng tới dự. Ai ai cũng hết sức niềm nở khi
có “Cán bộ văn hóa trên Trung ương” ghé qua thăm gia đình. Đủ mọi thứ chuyện vui bung ra khi
rượu đã vào lời đã ra. Tuy nhiên tuyệt nhiên không một ai nhắc tới Cầm Diêu. Chắc chắn cho tới
nay vẫn không một ai trong họ biết thêm một chút tin gì về hắn. Hai mẹ con bà Cầm Inh theo lời
dặn của An vẫn giữ tuyệt mật chuyện tên Diêu bị ném ra Bắc và đang ở trong nhà giam cạnh Hà
Nội. Mặt khác, An hiểu những con người lương thiện, chất phác này không hề đả động gì tới Cầm
Diêu, vì họ có ý muốn bày tỏ một thái độ dứt khoát đối với tội lỗi, đồng thời muốn nói lên sự đồng
tình, ủng hộ của mình với sự nghiệp chung của đất nước.

Bữa cơm khá thịnh soạn. Có thịt lợn thái mỏng trộn với lá chua xổm lổm, có chả băm, lòng
lợn xào măng tươi, có canh cải, có cá xát răm, hành, lùi nướng trên than củi... Tất cả được bày trên
các tầu lá chuối trải làm mâm, mỗi mâm có hai chai rượu. Riêng mâm thượng khách có thêm món
gà luộc... An cũng biết “công trình” này do hai bàn tay rất dẻo, rất mau mắn của Cầm Sa là chủ
yếu. Có lẽ cũng giống như nhiều cô gái khác, khi trong nhà có khách quý, gương mặt Cầm Sa bừng
sáng lên trong những nét duyên dáng và một niềm vui ít thấy. Cô luôn luôn liếc nhìn An với cặp
mắt đen dài ngập nắng. Cái nhìn như luôn luôn muốn hỏi: “Anh thấy em làm cơm có nhanh, có
khéo không?” và cũng như luôn luôn muốn nói: “Em cố làm một bữa thật ngon, thật đặc biệt, dành
cho anh đấy”... Đôi mắt của cô bữa nay rõ ràng hoàn toàn khác hẳn với cặp mắt đầy sợ hãi, đau
khổ và giận dữ hồi tháng 7. Đến tối, bữa ăn mới kết thúc. Mọi người lục tục ra về hể hả. Cầm Sa
cùng Then dọn dẹp lại nhà cửa. Sau đó, cô lại ngồi vào khung cửi dệt thổ cẩm. Còn Then thì lấy
vở ra học lại những bài vỡ lòng đầu tiên trong đời cô bé. Bà Cầm Inh đi nghỉ sớm, vì đã có tuổi,
hay đau lưng. An vẫn ngồi bên bếp lửa, nói chuyện cùng Cầm Sa. Đến khuya anh giục cô đi ngủ.
Cầm Sa vẫn không rời khung dệt. Gương mặt cô càng hồng lên dưới ánh lửa. Cô mỉm cười trả lời
anh bằng một câu ca dao, nghe rất gần với ca dao dưới đồng bằng:
Cầm bằng thức hết đêm nay

Sáng mai ta sẽ lấy ngày làm đêm...

... An không khỏi ngạc nhiên. Cô gái vẫn thoăn thoắt đưa thoi, vừa luôn luôn ngắm nhìn
anh với cặp mắt nồng nàn, yêu quý. Bây giờ cô không còn thấy trước mặt mình là một anh công
an xa lạ. Thật vậy, khi còn ở bản cô đã thấy mấy anh công an xã sao mà đáng ngại. Mỗi lần gặp,
hai con mắt họ nhìn cứ như xoáy vào mặt mẹ cô và cô, như muốn hỏi: “Thế nào? Thằng Diêu có
bí mật liên lạc ra hay không”. Hoặc: “Thế nào, mẹ con bà có định chuồn vào Nam nốt với thằng
Diêu không đấy?”... Lên đến Khu gặp anh công an nào cô cũng vẫn có cảm giác như vậy, thậm
chí còn nặng nề hơn.

Từ khi có chuyện Cầm Diêu nhảy ra và bị bắt, Cầm Sa mới được biết thêm những người
công an khác, rất khác so với mấy ông ở mường, ở bản. Một trong những anh công an ấy là An...
Bữa nay anh trở lại nhà, chỉ có một buổi chiều và một buổi tối trò chuyện, cô đã thấy rõ hơn: anh
là một con người... Tóm lại, anh cũng y như mọi con người tốt bụng và hiểu khác: cũng biết giận
nhưng cũng biết thương, cũng biết nghiêm nhưng cũng biết khoan dung, độ lượng... Anh thật đáng
mến. Cầm Sa cứ thầm ước sẽ còn được dịp gặp anh nhiều, nhiều nữa. Và không hiểu sao giờ đây
cứ sớm nghĩ đến sáng mai anh phải ra đi, cô đã thấy lòng mình buồn vô hạn.

Đêm ấy, nằm bên bếp lửa, nhưng An không sao ngủ được ngay. Anh đã trải qua một đêm
hết sức ấm áp, không phải vì bếp than hồng, mà còn vì tình cảm thân thiết, tin cậy của tất cả những
con người trong nhà này, mặc dầu đây không phải lần đầu tiên được nghỉ lại trên một căn nhà của
đồng bào miền núi. Anh cứ lan man nghĩ mãi về số phận khác nhau của mỗi con người, nghĩ về
niềm vui và hạnh phúc, cũng như mọi nỗi khổ đau mà có lẽ sự giống nhau chẳng bao giờ có thể có
được trên thế gian này... Mãi quá khuya, anh mới chợp mắt. Trong giấc ngủ chập chờn anh lại thấy
Thùy và cu Toàn của anh đang ngụp lặn trong căn nhà cấp 4 ngoài bãi sông ngập nước...

Sáng hôm sau, An dậy sớm, từ biệt mẹ con Cầm Sa để trở về đội. Cầm Sa đưa tiễn anh một
thôi đường dài đầy hoa ban trắng xóa. Tới bờ sông Đà, cô mới chịu dừng lại. Khi một con thuyền
độc mộc từ bên kia lướt sang đón anh, Cầm Sa mới rớm lệ, cô rút đôi vòng bạc nơi cổ tay đưa cho
anh làm kỷ niệm. An không khỏi ngạc nhiên, lặng đi, rồi lắc đầu. Anh cám ơn cô và nói rằng không
dám nhận...

Tuy nhiên cũng không khỏi buồn, một nỗi buồn thật đẹp, anh cầm lấy tay cô và hứa sẽ luôn
luôn nhớ tới cô, coi cô như một người em gái ruột thịt...

Con thuyền rời bến, xa mãi, nhìn lại An chỉ còn thấy một chấm trắng lẫn trong màu hoa
ban trắng, trắng suốt một đoạn sông dài...

Về tới đội, chỉ hai hôm sau anh lại được ông Trường cử vào Mường Sang dự hội nghị tổng
kết của đồn Công an vũ trang nơi đó.

Từ “Đội khảo sát địa chất sông Đà” vào Mường Sang mất đúng một ngày rưỡi đường rừng.
An phải trải áo mưa nằm ngủ lại lưng chừng một ngọn đèo có tên đèo Nai. Nai chẳng thấy đâu chỉ
thấy toàn dĩn đốt tịt hết cả mặt mày, tay chân... Nhưng dẫu sao chuyến đi này cũng sẽ có những
niềm vui khác, anh tin như thế. Ở Mường Sang, An cũng có hai người khá quen biết trong vụ đón
hụt chiếc C47 hồi trước. Đó là đồn phó Nết và cô xã đội phó xinh đẹp và rất “quân sự”: Lò Thị
Én.

Vào tới Mường Sang, An thấy phong cảnh ở đây cũng rất đẹp. Thung lũng tương đối rộng.
Việc tổ chức, quy hoạch ruộng, nương cùng việc sắp xếp nhà cửa, dân cư, cơ quan, mường bản,
chợ búa rất hợp lý, tạo nên một quang cảnh khá đông vui, trù phú. Lên tới đồn, An đã thấy không
khí hội hè với cờ, với khẩu hiệu và người ra kẻ vào tấp nập.

Người ra tiếp An là Mờng, người anh hùng đã “tay không bắt giặc” hồi nọ. Mờng mới được
đề bạt lên chỉ huy trung đội cơ động. Anh Lầm trung đội trưởng cũ lên làm đồn phó thay cho Nết.
Nết lên làm đồn trưởng thay cho Mão mới nghỉ mất sức. Lầm có việc đi đón cán bộ tỉnh, còn Nết
cũng đi vắng. Từ mờ sáng nay, tuy đang bận chuẩn bị cho cuộc họp tổng kết ngày mai, Nết đã phải
cấp tốc đưa một lực lượng lên bản Huổi Si của người Mông kiểm tra tình hình. Có tin báo xuống:
tên Vừ A Lùng, một đối tượng mà ta phải để ý đã lâu, vờ ốm, tổ chức cúng ma, đã triệu tập từ
nhiều nơi về gần trăm khách, ăn uống rượu chè tùm lum hai, ba hôm liền. Không rõ có ý đồ gì.
Chắc phải tối trưa, Nết mới trở về đồn được.

Mờng pha trà mời An, rồi vui vẻ chỉ lên một bức tranh nhỏ vẽ mành tre trên tường khoe:

- Bác Lý Quang Giong vừa mừng đồn đấy!

An vui mừng hỏi lại:

- Bác Giong Mặt trận Tổ quốc tỉnh phải không?

- Chứ còn ai! Ây dà, cụ này tác phong sâu sát lắm! Cụ mới vừa ở đây đi xong. Đêm qua
ngủ với anh Nết, chuyện tới khuya. Ông cụ thật quá nhiệt tình. Cứ bảo hưu rồi nhưng trí không
hưu. Còn sức còn đi, để góp phần giáo dục thanh niên và nhắc nhở các cụ lão thành phải cảnh giác.
Bây giờ với thằng Mỹ càng phải cảnh giác. Lơ mơ là mất nước như chơi. Có lẽ cũng hơi lẩm cẩm
một tí nhưng ông cụ quả thật đáng quý, anh Nết bảo thế!

- Mai cụ có về đây dự tổng kết không? Không hiểu anh có biết: nếu anh Mờng là “người
hùng” trong vụ bắt Cầm Diêu thì cách đây dăm năm ông cụ là một trong ba người hùng trong vụ
lừa bắt được cả bọn phản động Cầm Ngọc Lủ định nổi loạn ở vùng giáp ranh Yên Bái đấy!

- Biết! Biết! Nhưng cụ bảo không quay lại đâu. Cụ bảo hôm nay còn phải đi thăm nhiều
đồng chí lão thành. Cụ bảo ở đây cụ cũng có nhiều bà con họ hàng. Cô Én cũng là cháu họ cụ, tuy
xa. Cụ bảo đời ông nội của cô Én vốn ở Văn Chấn quê cụ. Ông nội cô thời trẻ kết nghĩa anh em
với bác ruột của cụ. Sau ông nội cô về Mường Sang lấy vợ, ở rể, và từ đấy “cắm sào” luôn ở đây...

Mờng nói tới Én, An hỏi luôn:

- Thế nào, dạo này cô Én hẳn vui lắm, vì được giải phóng tư tưởng hoàn toàn rồi mà?

Mờng còn chưa hiểu An muốn nói gì. An hỏi lại:


- Ở đây, hẳn các anh và có lẽ cả nhân dân đều biết chuyện tên Sạ dân Mường Sang ta đã bị
tan xác trên chiếc C47 ở Ninh Bình hồi tháng 7 vừa rồi chứ?

Mờng hiểu ra, gật đầu:

- A, biết! Biết! Đáng đời thằng phản quốc ấy!

- Vậy chắc là cô Én... phải vui lắm. Vì thế là không còn sợ… liên lụy gì nữa. Thằng Sạ chết rồi,
như vậy về chính trị thế là coi như cô được hoàn toàn giải phóng.

Cũng không ngờ, Mờng lại lắc đầu, thở dài:

- Không đâu, đồng chí An ơi! Ai cũng tưởng như đồng chí. Nhưng lại không phải thế.
Chính cái tin thằng Sạ định về hoạt động lại càng làm cho dân chú ý tới cô Én hơn và thì thào
nhiều điều không hay, dù nó đã chết. Người ta bảo chắc cô Én có thế nào nó mới tìm về để liên
lạc.

An vội cắt ngang lời Mờng:

- Sao lại có thể nói thế? Sao lại bảo rằng nó về mục đích để bắt liên lạc với cô Én? Bằng
chứng đâu? Cứ suy diễn như thế thì chết hết cả thôi...

Mờng vẫn buồn rầu:

- Nhưng dân họ cứ nói vậy, biết làm thế nào. Họ xa lánh cô thật sự. Cô lo phiền đến phát ốm. Đến
nỗi cô đã xin từ bỏ mọi công tác...

- Xin từ bỏ mọi công tác?

- Vâng. Nhưng cũng còn may, Đảng ủy xã và huyện không đồng ý. Bảo cứ làm, cứ vững
tâm. Cây ngay không sợ chết đứng. Đảng tin là được. Nhưng cô Én vẫn cứ khóc, nói là có Đảng
nhưng vẫn phải đến dân. Biết đến bao giờ, và biết nhờ cậy ai minh oan cho, khéo đến chết già vẫn
bị sống trong nghi ngờ, oán trách của bản, mường.

- Còn thái độ của... anh Nết?

- Cũng rầy rà, đồng chí ạ. Anh Nết thì cũng như đồng chí thôi, không có nghi ngờ gì cô Én
hết. Thậm chí còn bày tỏ tình cảm rõ hơn trước. Nhưng cô đã như thu mình vào rồi. Cô đã mất hết
tinh thần, đến mức như... chán đời. Thêm nữa, thật phức tạp: mẹ anh Nết ở quê lên tháng trước cứ
một mực bắt anh phải về quê cưới vợ. Cưới xong, muốn đi đâu thì đi. Cụ không đồng ý cho anh
lấy người trên này vì sợ con dâu không chịu về ở dưới xuôi để trông nom cụ lúc tuổi già sức yếu.
Thế đấy. Hai mẹ con cứ găng nhau. Được ông anh, cái ông gầy còm nhom ấy, nghe đâu làm ở
nông trường Ninh Bình, lại cứ đứng về phe bà cụ. Thế rồi bà cụ bỏ về. Thật là khổ! Thương anh
Nết, thương cả cô Én quá, mà không biết làm thế nào.
Vừa lúc ấy, Én rụt rè bước vào phòng khách. Cả An, cả Mờng cùng vội đứng dậy, mừng
rỡ chào đón. Én lên đồn để đưa mấy bản kê khai thành tích của dân quân xã về mặt giữ gìn an ninh
trật tự cho đồn bổ sung vào bản báo cáo ngày mai. An ngồi ngắm nhìn cô: quả là một con người
đang sống trong bão táp tâm hồn. Gương mặt võ vàng, u uẩn, cặp mắt như vô cảm luôn luôn nhìn
đi chỗ khác hoặc nhìn xuống đất. Tóc biếng chải. Đôi môi khô nẻ. Áo quần xộc xệch... Không còn
đâu cô gái son trẻ, tươi đẹp ngày nào với chiếc mũ biên phòng, chiếc quần quân đội, rắn rỏi, nhanh
nhẹn mà vẫn uyển chuyển duyên dáng...

- Cô Én ạ - An thân mật nói - tôi vừa được đồng chí Mờng cho nghe đôi điều về ... hoàn
cảnh của cô hiện nay...

Én chỉ cúi đầu, thở dài, không đáp lại.

- Cô Én ạ - An tiếp - tôi được quen biết cô và cả anh Nết từ vụ đón hụt chiếc C47 hồi nọ. Tôi rất
quý trọng cả hai người. Tôi cũng xin thành thực góp với cô một vài lời trong chuyện này...

Én vẫn hoàn toàn im lặng. An tiếp tục:

- Đồng chí Mờng có cho biết Đảng ủy xã và cả trên huyện nữa, các đồng chí ấy bảo là:
Đảng tin là được. Đúng đấy cô ạ! Không có gì phải e ngại hết. Tôi xin mạnh dạn nói rõ thêm ý
này: Đảng vẫn tin, thì rồi sớm muộn dân cũng tin. Thế đấy, cô ạ, xin cứ vững tâm...

Bấy giờ Én mới ngẩng lên. Một nụ cười buồn héo như thoáng lướt qua gương mặt cô. Cứ
tưởng cô sẽ nói một điều gì. Nhưng cô vẫn chỉ im lặng với nụ cười héo trên môi, nụ cười vừa như
một lời chối bỏ, vừa như một lời chấp nhận...

An ngồi ngắm cô mà lòng không khỏi buồn. Anh cảm thấy cái bóng đen của chiến tranh,
nói cho thật rõ hơn: của bọn Mỹ, quả thật là kinh khủng. Nó đã phủ lên bao nhiêu số phận của con
người trong cuộc đời này từ gần tới xa, thậm chí tới tận những xó rừng heo hút, xa lắc xa lơ này,
cứ tưởng như chẳng hề có gì liên quan tới chúng...

An trở về tới đội thấy quang cảnh gần như khác hẳn với hôm anh ra đi. Anh em trong đội tươi tỉnh,
rối rít ra vào, người này việc nọ. Ngoài suối, có lẽ đang mổ lợn, tiếng kêu eng éc. Khói đun nước
(hẳn để làm lông) đang bay lên nghi ngút. Thấy có lợn An đã ngờ ngợ. Nhìn vào lán của ông
Trường, quả nhiên thấy ông Trần Vạn phó Công an Khu kiêm ủy viên chuyên trách hậu cần của
Ban chuyên án đã tới từ hồi nào đang ngồi vắt chân, đôi mắt kính long lanh, cười cười nói nói sảng
khoái, cây súng săn vẫn dựng bên cạnh.

Nom thấy An, ông Trường mừng rỡ reo lên:

- Hắn đã về đây rồi!

Ông Vạn cũng xiết chặt tay An, nói vui:

- Cậu về chậm một ngày nữa khéo lão Trường phải cho người đi khiêng về đấy.
Ông Trường gật đầu:

- Đúng! Đang mong cậu quá! Có việc rồi! Có việc rồi!

Nói đoạn, ông móc xà cột, lấy ra một bức điện đã được giải mã, đưa cho An. Anh vội đỡ
lấy, hai mắt sáng lên. Đó là bức điện của bọn Trung tâm, mới gửi ra chiều hôm qua. Nội dung viết:
Trung tâm chỉ thị cho G. Hãy vượt mọi khó khăn tìm 5 bãi thả dù - Trung tâm sẽ toan tính - Hẹn
sau 5 ngày phải báo cáo kết quả - Chúc anh em thành công. Tin tưởng ở anh em!

Khi An đọc xong, cả hai ông Trường và Vạn cùng vỗ đùi cười kha khá, vô cùng khoan
khoái:

- Thấy chưa! Bõ công chưa! Anh em có người mừng đến phát khóc lên được; vì đã quá
khổ. Vì thấy cuối cùng ta đã thắng!

Rồi ông Trường cho biết: đã báo cáo về Bộ rồi. Đang chờ chỉ thị. Cũng đã kịp thời báo cho
“bác” Vạn. Cho nên hôm nay “bác” mới kịp có mặt ở đây và có ngay một con lợn và một tạ gạo.
Ông Vạn tươi cười:

- Này, hôm nay ăn mừng, cứ cho chén hết đấy nhá! Thiếu đâu, tớ sẽ lo!

Ông Trường kiêu hãnh:

- Nhất định là phải thế rồi! Một bữa thật túy lúy! Cho bõ 8 tháng trời gian truân khổ ải. Tôi
đã cho anh em đi mời tất cả các cán bộ trong bản cùng ra đánh chén, lấy cớ mừng ngày 1 tháng 5.
Có mấy vị cán bộ công an tỉnh vừa xuống huyện, cũng sẽ cho mời tất. Ngày quốc tế lao động mà
lị! Có phải không nào?

Tất cả lại cùng cất tiếng cười vang, hết sức vui vẻ, hể hả.

Đúng như lời ông Trường: Bữa cơm liên hoan của “Đội khảo sát địa chất sông Đà” mừng
“Ngày quốc tế lao động” không những có gần đông đủ anh em trong đội (trừ ông Thạc còn ở Hà
Nội chưa về kịp), còn có thêm khá đông khách: từ cán bộ bản mường gần đó, tới một số cán bộ
công an tỉnh và huyện cùng tới dự. Và cũng đúng như dự kiến: cả con lợn đã hết veo cùng với hai
hũ rượu lớn của mấy ông cán bộ trong bản đem ra cho. Ai cũng ngà ngà, ai cũng vui, nhưng đặc
biệt nhất có lẽ là Tráng A Páo. Vui quá, hắn cứ nhảy nhót như trẻ con. Mượn được chiếc khèn bè
trong bản, hắn vừa thổi vừa nhảy múa khắp nơi. Ông Vạn khoái lắm, chỉ tay, gật gù: “Đó! Đó mới
thực là con người được giải phóng!”

Sáng hôm sau, ông Trần Vạn trở về Khu, còn ông Trường cùng An đem theo 3 chiến sỹ bảo vệ và
tên Páo, đi tìm bãi thả cho “Trung tâm”. Hồi nửa đêm đã có điện của Bộ chỉ thị: cũng như hồi đón
hụt chiếc C47, chỉ cần tìm hai bãi, còn kệ thây chúng, bảo rằng địa hình khó khăn, thêm nữa Cộng
sản luôn đi tuần rừng gây không ít trở ngại. Bộ cũng dặn: cần nói có sự canh phòng cẩn mật của
ta, tuy nhiên cũng không nên nói quá, chúng sợ sẽ không dám nhảy nữa. Ngược lại nói canh phòng
sơ sài, chúng lại nhảy nhiều, nhảy bừa, thì ta xử lý cũng không xuể. Tóm lại, phải luôn luôn biết
tính toán, luôn luôn biết suy nghĩ thật tỉ mỉ và tinh tế.
Do có thịt lợn băm nhỏ kho với củ riềng và mắm tôm làm “pho mát và bơ Việt Nam” đem
theo cùng gạo nếp để nấu cơm lam ăn dọc đường, nên cả đoàn lần này đi tìm bãi rất khỏe, rất vui,
khác hẳn những lần trước. Bốn ngày liền, anh em lăn lộn trong hầu khắp các khu rừng cách xa căn
cứ của đội, cả bên này, cả bên kia sông Đà. Cuối cùng mọi người cùng nhất trí chọn hai bãi khá
ưng ý. Bãi bên này sông Đà cách đội 20 km đường rừng, ở gần bản Khang Kha, gần bãi có một
bản nhỏ nằm lọt giữa một vùng rừng nguyên sinh, có xen kẽ những ngọn đồi tranh khá lớn. Bãi
bên kia sông Đà cách đường số 41 (đường quốc lộ Hà Nội - Hòa Bình - Sơn La) khoảng 15 km
đường rừng, nằm trong một thung lũng hoang, có một con suối nhỏ chảy qua. Địa thế nơi đây hơi
chật hẹp một chút nhưng cũng rất kín đáo, xa dân, xa mọi kho lẫm, xa các nông trường của Nhà
nước.

Tìm được bãi rồi, ông Trường lại cho An trực để ông cấp tốc về Bộ báo cáo xin chỉ thị,
đồng thời xin lực lượng lên cho kịp tham gia đón “hàng”. Lần này chẳng lẽ lại hụt nữa! Trước khi
ra về, ông Trường như vểnh râu đùa với An:

- Này, lần này mà lại phèo nữa, dứt khoát tớ sẽ bỏ cha nó cái nghề này đấy! Xin chuyển
sang quân đội, đi B! Choảng thẳng vào mặt thằng Mẽo cho nó bõ tức cậu ạ!

An cũng đế theo:

- Được! Quan bác mà đi, em cũng xin nối gót bác đi liền!

Ông Trường về Hà Nội được hai hôm thì điện của “Trung tâm” chính thức báo chấp nhận
bãi Khang Kha. Chúng còn cho biết rõ: “Trung tâm sẽ cử một toán 8 người đến bổ sung cho G,
với lương thực và phương tiện theo yêu cầu. Chúc thành công” và hẹn ngày, giờ, cùng các ký hiệu,
ám hiệu đón ở bãi.

Dịch và đọc xong bức điện, An như nóng bừng cả người. Đúng là lớn rồi! Anh lập tức cho điện
báo bổ sung ngay về Hà Nội.

Chỉ hai hôm sau “quân, tướng” đã ùn ùn kéo nhau tới, nhưng vẫn rất bí mật theo nhiều
hướng, nhiều đường và chủ yếu di chuyển trong đêm. Ông Thạc, ông Trường cùng hai đại đội
công an vũ trang của Bộ tăng cường cũng đã tới. Đặc biệt, khác mọi lần, Bộ còn cử thêm một số
cán bộ, trinh sát xuống để sẵn sàng tham gia việc hỏi cung tù binh, cho kịp thời, hạn chế việc phải
đưa chúng về ngay Hà Nội. Các lực lượng tỉnh, huyện cũng kịp thời đến đúng hẹn. Trưởng Khu
Công an Trần Tâm cũng cử một số cán bộ tới hỗ trợ.

Kế hoạch “đón khách” được vạch ra hết sức mau lẹ do đã có không ít kinh nghiệm từ dạo
lùng bắt lũ Goblin, qua vụ chờ đợi hụt chiếc C47, tới cuộc “đón tiếp phái viên Trung tâm” ra đối
thoại thẩm tra tên toán trưởng...

Kế hoạch quy định: dù địch cho biết chúng chấp nhận bãi thả ở gần bản Khang Kha bên
này sông Đà, nhưng ta vẫn cứ phải bố trí lực lượng đón bắt ở cả hai bãi cho chắc ăn. Cũng khác
với trước một chút, lần này ta lập những chòi trên các cây cao ở xung quanh khu vực, để có thể
quan sát được từ xa và đầy đủ khi địch tới thả dù, khỏi sót và thất lạc. Riêng việc sử dụng lực
lượng thì không có gì khác: các đơn vị dân quân xã vẫn bố trí chốt chặt ở vòng ngoài. Công an
huyện ở vòng giữa với các chòi quan sát, còn các phân đội công an vũ trang của tỉnh và Bộ vẫn bố
trí ở vòng trong cùng với đầy đủ công sự phòng bom cháy, rocket, sẵn sàng bắt tù binh và trực tiếp
tác chiến khi địch phản trắc đổ bộ quân đông xuống...

Cũng khá đặc biệt: cả một vùng núi rừng sôi sục như vậy, mà bên ngoài vẫn cứ vắng lặng
như không. Những dòng suối mùa xuân vẫn trong vắt, rì rào chảy êm đềm. Những con đường mòn
ngang dọc vẫn hết sức vắng vẻ. Những cánh rừng đại ngàn vẫn vang tiếng vượn hú, chim kêu...
Trong khi ấy, ở khu lán di chuyển cách bản Khang Kha không bao xa, ông Thạc, ông Trường cùng
các sĩ quan chỉ huy công an vũ trang, các cán bộ công an Khu, tỉnh, các trinh sát viên mới được
phái xuống, trao đổi ý kiến lần cuối về kế hoạch tác chiến, sau đó cùng tiếp tục luận bàn về hai từ
“bổ sung” trong bức điện mới nhất của địch. Bổ sung có nghĩa không phải một toán mới, mà đây
là một lực lượng tăng cường theo yêu cầu của Goblin? Bổ sung cũng có nghĩa Goblin đúng là một
toán có tính nòng cốt mà địch có ý đồ sử dụng lâu dài, như ta đã phán đoán? Và bổ sung cũng báo
hiệu: sắp bắt đầu một thời kỳ hoạt động, phá hoại mới của địch, mà chắc chắn sẽ còn rộng lớn...?

Thời gian trôi đi như rất chậm chạp. Nhưng rồi ngày D cũng đã tới. Từ 5 giờ chiều, tất cả mọi lực
lượng ém sẵn đều đã ăn cơm xong xuôi. Sau đó mỗi người còn giắt lưng một gói nếp xôi, một ống
bương hoặc một bi đông nước, để có thể hoạt động, tác chiến suốt đêm, thậm chí qua cả ngày hôm
sau. Ông Thạc cứ đi đi lại lại, gương mặt trang nghiêm và luôn luôn lật cổ tay áo xem đồng hồ...
Nắng chiều của mùa xuân vàng như mật ong dần dần ngả dài, chia những cánh rừng thành hai nửa
sáng tối đầy gợi cảm...

* *

Trong phòng làm việc của Ngô Thứ Lân, ngoài chiếc đồng hồ treo trên tường còn có một
chiếc nhỏ mầu đen luôn luôn đặt ngay trên bàn giấy của hắn. Chiếc này đặc biệt được lấy giờ theo
đúng giờ miền Bắc, có nghĩa là sớm hơn giờ Sài Gòn một tiếng. Ngô Thứ Lân thường chỉ chiếc
đồng hồ này khoe vui với mọi người “Tôi là người ngồi ở Nam, nhưng lại ngày đêm chiến đấu ở
Bắc; không có chiếc đồng hồ này, không được”!... Lúc này chiếc đồng hồ theo giờ miền Bắc đã
chỉ 14 giờ. Chiều nay Ngô Thứ Lân chính thức trao nhiệm vụ và cổ vũ tinh thần một toán sẽ nhảy
ra Bắc đêm nay nhằm bổ sung, tiếp sức cho toán Goblin. Còn sớm. Hắn ngồi một mình tư lự. Hắn
phải thầm tự thú với mình: cho tới giờ phút này, trong đáy lòng hắn vẫn không khỏi còn phảng
phất một cái gì đó tựa như một nỗi lo âu, nghi ngại. Thật vậy. Mặc dầu mọi ngón thử thách cũng
như mọi thứ đòn phép kiểm tra đã được tiến hành hết sức đầy đủ đối với Goblin, và đáp số đều tốt,
nhưng không hiểu sao, có lẽ do mặc cảm nào đó, hắn vẫn thầm cảm thấy hình như chưa ổn. Chỉ
âm thầm thế thôi, chứ tuyệt nhiên không dám hé ra với bất cứ ai. Tấm gương của Raphter còn sờ
sờ ra đó. Viên đại tá CIA tuyệt đối tin tưởng ở mọi sự nghiệp và đường lối Mỹ, y như một con chó
trung thành đến chết với chủ, vậy mà đã bị trả về Mỹ tháng 1 năm 1962 vừa rồi, chỉ vì đã thật thà
và thẳng thắn thốt ra: “Tôi thực sự đau đầu cảm thấy hình như, nếu không nói là tất cả thì cũng
phần lớn các toán của chúng ta đều đã bị đón sẵn, bị bắt và nhất là bị khống chế để phục vụ cho
Cộng sản đánh lại ta”... Viên đại tá ấy hết sức buồn. Buổi ra đi, anh ta có nói nhỏ với Ngô Thứ
Lân một câu khá chua chát: “Tôi đã ngu ngốc không hiểu rằng ở đây người ta không ai thích nói
tới thất bại”. Ngô Thứ Lân hiểu: chẳng phải William Colby quá kiêu căng, quá chủ quan, đến nỗi
không biết gì hết, nhưng ông ta là một viên quan, mà lại là ông quan đang còn nhiều tham vọng
thăng tiến. Ông ta không muốn bất cứ ai biết rằng trong công việc của ông ta cũng có không ít trục
trặc, thậm chí đổ bể. Bởi vậy, ông ta chỉ cần những báo cáo màu hồng. Ngô Thứ Lân không lạ.
Bây giờ thay thế cho Rapher là Senaghi, một con người chuyên hoạt động ở Âu châu nay mới sang
Việt Nam, chưa hiểu mô tê gì hết. Nhưng anh ta lại là tay táo bạo, dám làm liều, rất khác với
Raphter trước đây thường quá thận trọng. Senaghi quen Colby từ cuối thế chiến thứ hai. Nay
Senaghi biết Cobly đang rất sốt ruột về việc đánh gián điệp biệt kích ra Bắc để có thêm thành tích
báo cáo về Washington, nhất là vào thời điểm này, khi kế hoạch Staley - Taylor vừa được
Washington chính thức thông qua... Bởi vậy, vừa nhậm chức, viên đại tá mới này đã tung ngay hai
toán Eurasio và Attillia trong tháng 2 và tháng 3 (1962) vừa rồi. Senaghi báo cáo là rất tốt, mặc dù
điện báo viên đã mật báo về là đang bị khống chế làm việc cho đối phương. Chuyện này Senaghi
đã giấu nhẹm Colby. Y nói với Lân là để y lo, sẽ xác minh sau. Và chưa làm được bất cứ điều gì
với hai nhóm nọ, Senaghi đã tung tiếp ngay trong tháng 4 một nhóm nữa, mang tên Rimos. Toán
này ném xuống Tuần Giáo - Lai Châu. Đã có vài lần báo cáo về. Cũng chưa biết thực hư ra sao,
nhưng Ngô Thứ Lân cũng phải thầm chịu là tay này biết cách gây ấn tượng mạnh.

Toán Rimos vừa được tung đi đúng một tháng, nay đã đến lúc sẽ tung đi tiếp một toán nữa.
Nhưng đây không phải là ý đồ của viên đại tá mới, mà theo một kế hoạch đã được soạn thảo từ khi
Raphter còn đương nhiệm. Toán sắp được tung đi mang tên Storm, nhằm bổ sung cho toán Goblin
đã được xác nhận là vẫn tồn tại và tồn tại tốt.

Chiếc đồng hồ màu đen đã chỉ 15 giờ 30. Ngô Thứ Lân đứng dậy, ra cửa. Một chiếc Jeep đã đợi
sẵn ở đó...

Lát sau Lân đã tới phòng họp, một căn phòng không quá 30 mét vuông, trần thấp, các cửa
đều đóng kín. Bốn bức tường màu vàng khè. Không khí ngột ngạt. Bọn biệt kích gián điệp 8 tên
đã có mặt đầy đủ. Tất cả cùng đứng dậy chào. Lân liếc mắt: chưa thấy Senaghi tới. Y vẫy tay ra
hiệu cho cả bọn ngồi xuống. Viên đại úy Quýnh “lý toét” chạy lại ghé tai Lân thì thào trình là đã
gặp riêng tên Vi Văn Giống, điện báo viên để hướng dẫn sử dụng điện đài và trao tận tay cho nó
bộ mã của toán. Lân gật đầu. Quýnh phàn nàn:

- Trình sếp, thằng này cứ thắc mắc rằng mã này cũ, mã một tầng của quân đội, nó đã sử
dụng mấy năm nay. Tôi đã phải giải thích cho nó đây cũng là mã của hạm đội 7 đang dùng, các
căn cứ Mỹ ở Phi Luật Tân, Mã Lai cũng vậy, không sợ đối phương dễ phát hiện...

Lân lại gật đầu:

- Thằng này người Thổ - Yên Bái. Hơi gàn gàn một tí, nhưng chịu khó và giỏi tay nghề,
không kém thằng Páo của Goblin là mấy.

Vừa nói Lân vừa nhìn về phía gần cuối phòng, nơi có một tên tầm vóc vừa phải, tóc húi ngắn, mặt
lại dài như mặt ngựa, có đôi mắt lấc láo. Đó chính là tên Giống. Ngồi trên nó là tên thiếu úy toán
trưởng Quách Rinh người Thái trắng Lai Châu, cùng tên chuẩn úy toán phó Hoàng Văn Biếng
người Mường ở Sơn La. Quách Rinh to con, ngăm ngăm đen, có bộ mặt của một dân phu bốc vác
nhiều hơn là một sĩ quan. Lân biết khá rõ tên này: Nó vốn là một trung đội trưởng thuộc một đại
đội của quân Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống. Tên đại úy chỉ huy đại đội này là Lê Quang
Liêm em ruột Lê Quang Tung. Liêm chỉ huy đại đội nhưng kiêm chức chánh văn phòng Liên binh,
tức là một thứ tham mưu trưởng của anh hắn. Quách Rinh do tính ngổ ngáo và uống rượu như hũ
chìm nên thường được Liêm, cũng là một “sâu” rượu gọi tới nhậu. Hai đứa khá thân nhau. Tên
Rinh là đứa “ruột để ngoài da” hay bô bô, bép xép, trong khi tên Liêm do vị thế của nó biết khá
nhiều chuyện “triều đình” lại hay khoe khoang “ta đây gần mặt trời, biết lắm chuyện quốc gia đại
sự”. Có lẽ vì thế, tên họ Quách mới đây đã bị đưa ra khỏi Liên binh, chuyển về lực lượng gián điệp
biệt kích và được phong làm toán trưởng toán Storm. Hắn có biết Cầm Diêu...

Ngồi ngay phía sau Quách Rinh là tên đứng đầu nhóm chuyên phá hoại và tình báo. Tên
hắn là Võ Văn Nghi, thượng sỹ. Đặc biệt toán này chỉ có tên Nghi là dân Kinh xen vào. Nghi là
người Quảng Bình, đồng hương với Lân. Nghi là người theo đạo Thiên chúa, di cư. Y có bộ mặt
cằn cỗi, đầy dấu vết sóng gió của dân biển. Thuở nhỏ y cũng khổ, vì nhà nghèo. Học chưa hết lớp
4, y đã phải thôi học vào nhà thờ nấu cơm, quét nhà... hầu hạ cha cố. Lớn lên, y ra ngoài lấy vợ.
Cha đạo bảo vào thanh niên công giáo để thờ Chúa được tốt hơn. Rồi cũng chính vị cha cố đó lại
khuyên y đi lính cho Pháp “để bảo vệ Chúa được mạnh mẽ hơn”. Cứ thế, Nghi trôi mãi theo cuộc
đời lính. Rồi vào Nam, y tình nguyện đi biệt kích gián điệp, cũng vẫn do một số cha cố “yêu
thương” khuyên bảo “vào biệt kích gián điệp vừa được nhiều tiền vừa được thỏa sức bảo vệ Chúa
và chống Cộng sản vô thần”...

Senaghi đã tới. Đi theo hắn vẫn là Hampton, nhân viên CIA chuyên trách phân tích tình
hình. Senaghi bước vào, dáng vẻ rất nhanh nhẹn. Hắn mặc thường phục, người nhỏ thó, không hơn
gì một người Việt Nam trung bình. Hình như hắn người gốc Ý hoặc Hy Lạp gì đó thì phải. Hắn có
một bộ mặt khá đáng sợ với đôi mắt to xanh lè, xanh khác hẳn với nhiều người Âu khác. Đôi mắt
của hắn xanh lè và sáng một cách ghê rợn như mắt cú. Thêm một cái miệng nhẵn thín không một
sợi râu, luôn luôn như phảng phất một nụ cười vừa như ngạo mạn vừa như bí hiểm. Không cần hỏi
một câu, vừa đặt đít ngồi xuống ghế, Senaghi đã hất hàm ra hiệu cho Lân bắt đầu làm việc luôn.

Tất nhiên Ngô Thứ Lân cũng trở nên hết sức nhanh nhẹn. Hắn xin phép “ông cố vấn” rồi bắt đầu
công việc “cổ xúy tinh thần”. Nếu có gì mới, khác với các buổi nói với các toán đi trước là bữa
nay Lân luôn luôn nhấn rất mạnh: “Toán Goblin đang đợi các anh... Mọi thứ đều an toàn... Goblin
đang ở đó. Goblin sẽ bảo vệ các anh...”. Lân nói những điều này hết sức say sưa, làm như hắn đang
vô cùng tin tưởng, thậm chí tin tưởng mãnh liệt nhất ở sự tồn tại của Goblin, mà không hề bợn một
chút hồ nghi, phấp phỏng.

Nói xong, hắn tươi cười tự vỗ tay trước một cách hết sức quê và lố. Bọn gián điệp biệt kích
bất đắc dĩ phải lẹt đẹt vỗ tay theo. Thế rồi khúm núm quay lại phía Senaghi, Lân xin “ông cố vấn”
chỉ giáo cho vài lời. Cũng rất khác với Raphter, viên đại tá mắt cú mèo chỉ phẩy tay một cái ra
hiệu từ chối, rồi đẩy ghế đứng dậy đi ra...

Đúng giờ H đêm ấy (21 giờ 30) chiếc máy bay không số, không cờ, bắt đầu cất cánh. Hai
giờ sau, nó bắt đầu từ biển bay vào đất liền. Tránh đường bay của chiếc C47 cách đây 8 tháng, qua
vùng trời Ninh Bình nay nó chéo xuống phía Thanh Hóa, rồi ngược lên Sơn La. Một lúc sau, nó
đã bay tới gần tọa độ đã được chỉ định. Từ dưới mặt đất, qua máy picơn, tiếng Cầm Diêu bắt đầu
vọng lên: “Ban Hoa đây! Ban Hoa gọi Long Cửu! Nghe rõ, trả lời!...” Rồi cứ thế tiếng nói ấy nồng
nhiệt tiếp tục cất lên để hướng dẫn cho chiếc máy bay đột nhập hướng bay đúng phía bãi thả lướt
tới. Chẳng mấy chốc từ trên máy bay bọn phi hành đoàn mừng rỡ nhìn thấy rõ ba luồng ánh sáng
trắng xanh từ dưới mặt đất, hẳn ánh đèn pin cực mạnh, chiếu hắt lên, rất chụm...
Dưới ánh mắt thượng tuần mờ mờ, chiếc máy bay đen sì hiện ra to dần, rồi bắt đầu hạ độ
cao, sau đó lập vòng lượn thứ nhất. Gió rừng hôm nay thổi khá mạnh suốt từ ban chiều, lúc này
dường như càng mạnh hơn. Chiếc máy bay phải lập vòng lượn thứ hai mới bắt đầu thả được các
dù hàng. Tám chiếc dù đeo tám kiện hàng khá lớn lần lượt tách ra khỏi máy bay và bung ra, rơi tự
nhiên xuống vùng bãi tranh bên dưới, nơi có ba ngọn đèn vẫn chiếu hắt lên sáng xanh...

Đến vòng lượn thứ ba, chiếc máy bay như con quạ khổng lồ lại “đẻ” ra tiếp tám cục đen
đen dài dài, sau đó bung ra thành tám chiếc dù người bay lơ lửng. Nhưng có lẽ vì nhẹ hơn các dù
hàng, gần như cả tám chiếc dù này cứ dạt dần ra xa theo chiều gió và trở nên tản mát. Trong khi
ấy, hoàn tất nhiệm vụ, chẳng cần biết điều gì xảy ra nữa, chiếc máy bay liền cất lên cao rồi hối hả
bay trong vùng không khí loãng dọc theo hướng nam, cố thoát nhanh ra khỏi vùng trời rất đáng e
ngại, mặc dầu ở Sài Gòn người ta đã nói rằng chỉ có Goblin đang chờ đón ở dưới đó.

Khi chiếc máy bay đã mất dạng, trên bầu trời mờ mờ ánh trăng, tám chiếc dù đã dần dần
bay lạc đi đâu mất tiêu tới bảy chiếc. Chỉ còn độc một chiếc lùng nhùng mãi rồi cũng đáp được
xuống gần đúng chỗ có ba ánh đèn chiếu lên làm tín hiệu. Đó là chiếc dù của tên điện báo viên Vi
Văn Giống. Nó vừa ngã lăn queo xuống đất, nhỏm dậy được, chưa kịp gỡ dù thì trong bìa rừng ba
bóng người đã lao ra, chĩa thẳng tiểu liên vào đầu nó. Một người thét lên:

- Giơ tay lên! Mày đã bị bắt!

Còn đang mắt nhắm mắt mở, chưa nhìn rõ ai với ai, tên Giống gượng đứng dậy, tay còn
xoa xoa hai đầu gối, miệng cười cười, mừng rỡ:

- Ôi, anh em. Các anh em cứ đùa! Ngã đau thấy ông nội đây! Đói nữa! Có gì cho ăn không?

Một trong ba người lại thét:

- Thằng gián điệp biệt kích! Mày đã bị bắt! Đưa tay đây! Anh em, xích nó lại!

Lập tức người kia xông tới. Hai tay tên Giống bị bẻ quặt ngay ra phía sau và một chiếc
khóa số 8 bập đánh tách. Tên Giống vẫn chưa hiểu ra sao cả, miệng cứ “ớ ớ!”. Nhưng rồi nó đã
nhìn rõ hơn: ba người đều mặc quân phục màu xanh lá cây, đầu đội mũ có quân hiệu công an Việt
Nam. Nó sợ hãi, giãy giụa và gào lên như điên: “Mẹ ơi! Thôi, thế là... chết rồi!”...

Cùng lúc đó những người chỉ huy cuộc đón hàng, bắt tù binh hội ý cấp tốc, cùng nhận định:
do gió lớn và có lẽ cũng do kỹ thuật nhảy của bọn này rất kém nên đã bay tản mát hầu hết. Vậy
phương án hành động được quyết định thay đổi: từ đón bắt tại chỗ, chuyển sang truy tìm.

Chỉ khoảnh khắc sau, tất cả mọi lực lượng đều được triển khai, từ dân quân cho tới công
an vũ trang tỉnh, huyện và Bộ cùng tỏa ra tràn ngập khắp các hướng, các nẻo rừng, các khe suối...
Chó nghiệp vụ cũng bắt đầu được tung ra, sủa vang động. Cả một vùng sôi sục thâu đêm. Qua
ngày hôm sau cuộc truy tìm lớn vẫn như cày xới không sót một khoảnh nào. Cho tới gần tối mịt
thì lần lượt bắt được 7 tên. Có tên bay lạc tới gần 10 cây số. Riêng tên thứ tám đã bị bắn chết tại
trận. Đó là tên Võ Văn Nghi, tên gốc bần cố nông ở Quảng Bình đã “được hưởng” quá nhiều sự
dạy bảo về chống cộng và bảo vệ Chúa. Bị đuổi tới một tử địa, không còn lối thoát, nhưng nó
không hàng. Lợi dụng những tảng đá lớn, nó bắn trả rất quyết liệt. Một chó nghiệp vụ xông lên, bị
nó bắn chết liền. Một chiến sỹ Công an vũ trang tỉnh là tân binh còn thiếu kinh nghiệm vừa bò lên
cũng dính đạn của nó luôn. Giận sôi lên, nhóm chiến sỹ Công an vũ trang tỉnh có mặt nơi đó đã
bắn như đổ đạn. Nhưng vì có vật che đỡ quá tốt, tên Nghi vẫn tiếp tục chống cự. Cứ phát một nó
tỉa ra hết sức hiểm ác. Nguyễn Nguyên An đi theo hướng này. Anh lẳng lặng tiến lên, đề nghị anh
em không bắn ồ ạt, tốn đạn vô ích. Anh đề nghị các chiến sỹ ta cũng bắn tỉa, nhưng chủ yếu bắn
tập trung vào cánh trái nơi các tảng đá thưa và thấp, có vẻ như ta dễ tiếp cận... Thế rồi nghiến răng
lại, khẩu súng sáu cầm chặt tay, như một con thằn lằn anh bắt đầu thoăn thoắt bò trườn qua những
đám cỏ rối, những bụi cây rậm phía cánh phải... Cuối cùng, khi anh từ bên sườn phải của tảng đá
lớn vừa nhớm nhô ra thì cùng đúng lúc tên khốn kiếp kia ló mặt với mũi súng rất độc của nó. Với
tất cả lòng căm giận, chỉ nhanh hơn nó có nửa giây, An xiết mạnh cò súng. Thằng giặc ngã vật
ngửa, ngực trào máu. Nó không kịp kêu một tiếng...

Bảy chiếc lán nhỏ, riêng biệt, đã được làm sẵn từ mấy hôm trước để làm nơi hỏi cung tù
binh. Nhóm cán bộ trinh sát của Bộ, của Khu, của tỉnh cử xuống tăng cường cùng một lúc tập trung
vào công việc hỏi cung bước đầu. Trong khi đó những người khác cùng nhau vui vẻ, tấp nập mở
các kiện hàng để kiểm thu các vũ khí, điện đài, thuốc nổ, bản đồ, thuốc men, lương thực... Đủ bảy,
không thiếu một kiện nào. Chỉ có một kiện rơi bị vỡ, nhưng hàng đã thu lại được hết. Toàn loại
chất lượng cao của Mỹ và Tây Âu.

Khác với lần đầu, vụ này hai ông Thạc và Trường không phải trực tiếp ngồi chất vấn và
giảng giải cho tên tù binh nào. Đã có các cán bộ trinh sát các nơi rồi. Hai ông chỉ đi qua từng lán
để theo dõi diễn biến công việc. Nếu có chú ý hơn và trực tiếp góp sức thì chỉ tập trung trước hết
vào hai tên: toán trưởng và điện báo viên, theo kinh nghiệm của Goblin.

Qua ngày thứ hai, cán bộ trinh sát đều tập trung hội ý. Mọi người cùng có một nhận xét:
không gặp sự chống đối hoặc ngoan cố nào đáng kể, trừ đôi chút quanh co ban đầu do sợ tội mà
che giấu. Dường như đã sớm xuất hiện một hiện tượng: sau các vụ đánh người ra Bắc năm 1961
vừa rồi và tới quý I năm 1962 này, dù cái P54 và các nơi khác như Liên đội quan sát I, văn phòng
Liên binh phòng vệ Phủ Tổng thống bịt bùng tin tức thế nào, cũng ít nhiều hé lộ ra những chuyện
như “hầu hết bị khống chế”, “hầu hết như bị đón sẵn...” cho nên tinh thần bọn gián điệp biệt kích
bị ném ra lần này có vẻ như sớm bị dao động, nếu không muốn nói là gần như sẵn sàng đầu hàng
nếu được tuyên bố tha chết. Mọi người cũng đều có một nhận xét: những gì ta đã biết về loại “binh
chủng đặc biệt” này, nay thực tế đã thêm một lần nữa chứng minh cơ bản là rất đúng: dẫu được
huấn luyện, nhồi sọ đến đâu, căn bản chúng vẫn là tụi đánh thuê, chém mướn, tất cả chỉ là vì tiền
và gái, nếu có thêm thì chỉ là chút ít công danh hão. Có vậy thôi! Không hề có một tí ý thức chính
trị nào, một tí khí tiết nào ở bọn này. Tất nhiên cá biệt cũng có một đôi đứa cuồng tín, sẵn sàng
nhắm mắt lao vào lửa như con thiêu thân. Nhưng loại này rất ít.

Tổng hợp sơ bộ bước đầu các lời cung khai của chúng, đặc biệt lời khai của tên toán trưởng
Quách Rinh, Ban chuyên án đã biết một số tin khá quan trọng và khá mới:

Trước hết là tình hình chung của “vương quốc họ Ngô Đình”. Từ sau vụ Nguyễn Chánh
Thi đảo chính hụt, Diệm vừa sợ vừa thầm căm Mỹ, vì biết có bàn tay của Mỹ trong vụ này. Do đó
Diệm Nhu càng ra tay xiết chặt an ninh, thậm chí mở rộng việc do thám cả Mỹ, đề phòng Mỹ lại
giở trò đảo chính tiếp. Trong khi đó quân giải phóng đã phát triển mạnh đánh chiếm được một số
quận lỵ giải phóng một số địa bàn trên các vùng núi chiến lược. Cơ sở quần chúng từ nông thôn
đã bắt đầu mở rộng vào tới các thành phố... Diệm chưa đổ vì Nguyễn Chánh Thi là tướng xoàng,
chuẩn bị lại quá hấp tấp và chủ quan, trong khi Diệm vẫn còn nắm được một số sư đoàn với một
số tướng lĩnh “cơm nặng áo dầy” với ông ta. Nay Mỹ phải tiếp tục tạm dùng Diệm, nhưng mâu
thuẫn đôi bên không những không ngừng mà còn âm ỉ tăng lên. Washington đã đi tới quyết định
mới, không thể giữ mãi cái vỏ che đậy bên ngoài nữa, phải trực tiếp vào cuộc mới hòng xoay
chuyển được tình thế. Cụ thể: tháng 2 - 1962 Washington đã cho thành lập một Bộ Tư lệnh dã
chiến Mỹ ở Nam Việt Nam (MACV) để điều hành cuộc “chiến tranh đặc biệt” theo kế hoạch Staley
- Taylor. Một viên đại tướng được cử cầm đầu Bộ Tư lệnh này: tướng Harkin. Trên thực tế đây là
một cơ quan chỉ huy tối cao của Mỹ, trùm lên tất cả các phái đoàn viện trợ quân sự (MAAG) và
trùm lên cả Bộ Tổng tham mưu quân đội Diệm... Dưới quyền Bộ Tư lệnh này (MACV) có một lực
lượng gồm 30 vạn quân Cộng hòa của Diệm, 8.000 lính chiến đấu Mỹ... Và Diệm đã phải đồng ý
với MACV nhận cố vấn Mỹ xuống tới từng đại đội... Giới báo chí quốc tế đã có nhiều tờ bình luận
mà một trong những bài sắc sảo nhất là bài của một nữ ký giả tên là Diana. Bài báo đã viết: “Thế
là ông Kennedy đã có một chiến lược mới với một kế hoạch chiến lược cụ thể (Staley - Taylor),
và một Bộ chỉ huy mạnh thừa hành ở Nam Việt Nam (MACV). Như vậy ông ta (Kennedy) rõ ràng
đã đi tới một quyết định cơ bản về Việt Nam, tức là chính thức lao vào một cuộc chiến tranh ở đây
với cái tên “cuộc chiến tranh đặc biệt”.

Cũng vì những thay đổi lớn ấy mà CIA cũng có những đổi thay theo: Raphter con người
quá thận trọng ra đi, Senaghi con người táo tạo tới thay. Và những vụ ném người ra Bắc đã tăng
nhanh hơn trước. Sẽ còn tăng hơn nhiều. Hiện nay Liên đội quan sát I đã tuyển mộ được tới hàng
ngàn tên, đang huấn luyện ráo riết. Các trung tâm huấn luyện lớn sẽ được xây dựng ở Thủ Đức,
Long Khánh, không dấm dúi, bí mật quá như trước nữa. Tụi này sẽ được tiếp tục cung cấp cho
P54 thành lập các toán ném ra Bắc, quyết thực hiện khâu chống phá miền Bắc nhằm ngăn cản và
hạn chế việc Hà Nội đưa quân vào Nam, đồng thời xây dựng cơ sở, cả chính trị cả vũ trang, để sẽ
yểm trợ cho các cuộc không kích, tiếp đó là chuẩn bị mở chiến tranh lớn “Bắc tiến...”

Trước mắt, theo Quách Rinh biết thì có một toán khá quan trọng đã được Senaghi ném ra
Bắc trước bọn nó. Chừng một tháng. Nghe nói vùng Tuần Giáo, Lai Châu gì đó. Cũng nghe nói
CIA có ý đồ muốn toán này sẽ làm nòng cốt ở bên hữu ngạn (sông Đà và đường 41) giống như
toán đầu tiên đã ném ra Bắc ở vùng tả ngạn, trên đất Sơn La. CIA hy vọng trên cơ sở hai toán này,
sẽ ném liên tiếp nhiều toán khác xuống cả hai vùng. Như vậy cả miền Tây Bắc Việt Nam sẽ dần
dần bị “phủ sóng CIA” hết. Tin nghe mà muốn giật mình.

Có đúng vậy không? Có đúng là có một toán đã nhảy xuống vùng tả ngạn sông Đà và
đường 41.

Hay là tên Rinh đã nghe chuyện tầm phào?...

- Thưa cán bộ, tôi nói láo, xin chặt đầu tôi! Lê Quang Liêm đã khoe với tôi mà.

Tên Rinh đã mạnh dạn thề thốt.


Cuộc hội ý xôn xao. Nhưng rồi mọi người cũng gần như đi tới nhất trí: Có thể có một toán
nào đó đã thoát lưới của ta bên phía Tây đường số 41, hữu ngạn sông Đà. Nơi ấy quả là ta ít nhiều
chưa chú ý bằng khu vực bên này đang nóng bỏng; và Bộ chưa nắm được?

Ngay đêm ấy một bức điện tối khẩn được gửi ngay về Bộ qua đài đối A20 vẫn luôn luôn
trực 24/24 giờ không một giây phút ngơi nghỉ : “Có một toán quan trọng đã nhảy xuống bên hữu
ngạn đường 41, cách đây chừng gần 2 tháng, theo lời khai và cam đoan của tên toán trưởng mới
bị bắt...”

Cũng rất nhanh, chỉ sáng hôm sau đã có điện trả lời của Bộ: “... về việc này, Bộ cũng mới
có một số tin tức ban đầu do khu Công an Tây Bắc báo cáo. Đang tìm hiểu, xác định...”.

14

Quách Rinh đã xin nhận cộng tác với ta để lập công chuộc tội. Vi Văn Giống cũng vậy,
không có khó khăn gì lắm. Chưa có thời gian để phân tích, nhưng Ban chuyên án cùng các cán bộ
ở trên xuống hỗ trợ cũng sơ bộ nhận định: ngoài thái độ nhân đạo, và sự giải thích tốt chính sách
khoan hồng của ta, có lẽ còn có thể do tác động mạnh về việc chúng được biết Cầm Diêu và Tráng
A Páo cùng tất cả những tên khác của toán Goblin, đã hoàn toàn quy thuận và làm việc cho Cách
mạng... “Ui, trung úy Diêu! Dạ ! Có ! Tôi có biết. Anh ấy là người cứng đầu cứng cổ đã nổi tiếng,
không bao giờ sợ chết. Vậy lẽ nào thằng em như tôi lại không mở mắt, thưa cán bộ!” Quách Rinh
đã thốt lên như vậy. Và Vi Văn Giống nữa: “Tôi cũng có biết Páo, hắn lơ ngơ lắm. Vậy mà bây
giờ cũng hiểu ra là phải chuộc tội. Cứ xem hắn sử dụng điện đài từ tám tháng nay hoàn hảo đến
nỗi các chuyên viên Mỹ cũng không phát hiện được gì hết, thì tôi tin quả là hắn đã hết mình rồi.
Thưa cán bộ, tôi cũng xin được như hắn...”.

Bức điện đầu tiên “của Storm” đánh trở vào Sài Gòn, được “Trung tâm” trả lời ngay: ''Trung tâm
hết sức vui mừng được biết hai toán đã gặp nhau an toàn và vui vẻ. Trước hết Trung tâm gửi lời
nhiệt liệt khen ngợi cả hai toán. Sẽ có hình thức và tiền khen thưởng xứng đáng. Trung tâm quyết
định: Storm tạm sáp nhập với Goblin. Toán trưởng Goblin làm toán trưởng chung. Nhiệm vụ trước
mắt: nhanh chóng ổn định căn cứ trú quân, đặc biệt chú ý bảo đảm bí mật và an toàn. Sẽ có chỉ thị
tiếp”.

Mọi việc tại trận đã “hòm hòm”. Đội nhận được lệnh cho cả toán Storm về Thanh Đồng.
Riêng tên Vi Văn Giống vẫn ở lại tiếp tục làm nhiệm vụ, và cử Nguvễn Nguyên An đến Khu Công
an vũ trang Tây Bắc để tham gia công tác đột xuất, không phải việc gì khác, đó là đi giới thiệu
kinh nghiệm của vụ Goblin và tham gia truy tìm toán biệt kích gián điệp đã nhảy xuống hữu ngạn
sông Đà cách đây gần 2 tháng, theo lời khai cam đoan của Quách Rinh.

An ngồi ngẩn. Quả thật anh cũng đã khá mệt sau vụ Storm. Hơn nữa, anh đang thầm nghĩ:
chắc sẽ được tranh thủ về thăm nhà một chút. Là cán bộ cấp dưới, anh ít khi có việc về Hà Nội,
hoàn toàn không giống với hai ông sếp. Nhưng nay đã có lệnh thế này thì phải đi thôi.
Ngay sáng hôm sau An lên đường. Nhờ thuyền dân, anh qua sông Đà, sang đất Quỳnh Nhai rồi ra
đường 41 ngược lên Khu. Nhưng lần này, anh không có thì giờ để ghé qua nhà mẹ con Cầm Sa.
Công việc của anh đang khá gấp.

Lại phải ngủ giữa rừng một đêm, hôm sau An mới tới được Ban chỉ huy công an vũ trang
Khu. Quần áo còn xộc xệch, lấm láp, nhưng An đã được đưa ngay vào gặp ông Đinh Vân - Chỉ
huy trưởng. Ông vui mừng xiết chặt tay An và cám ơn Cục đã cử anh về giúp sức cho Khu. Ông
đã biết An từ khá lâu qua mấy vụ tiễu phỉ trên này. Ông tranh thủ phổ biến tình hình cho An: Cách
đây một tuần lễ, trước khi Storm bị bắt, anh em trinh sát ngoại biên của công an vũ trang biên
phòng ta ở phía tây đường 41, vùng giáp biên giới Việt Lào được ông Lò Văn Luông một người
dân Lào là cơ sở của Bạn cho biết: Có một chiếc mảng lạ không rõ của ai bỏ lại ở sông Nậm Tắc,
con sông nhỏ chảy dọc trên đường biên giới hai nước. Một chiếc mảng bỏ không bên bờ sông, trên
thượng nguồn cũng thường thấy. Nhưng lúc đó đồng chí chỉ huy phó tiểu khu 95 của Công an vũ
trang biên phòng đang đi kiểm tra tại chỗ đã lệnh cho anh em tìm hiểu xem sao. Đồn biên phòng
chấp hành, cử một tổ trinh sát do đồn phó Phạm Cận trực tiếp phụ trách đi ngay. Qua một ngày len
lỏi ngược dòng sông không thấy gì, tối anh em ngủ rừng. Sáng hôm sau tiếp tục đi, tới trưa mới
thấy chiếc mảng. Đầu mảng gác lên một tảng đá lớn giữa dòng. Nứa trên mảng đã hơi khô, lại
có nhiều vết sờn, dập. Phạm Cận cho hai chiến sỹ thử kéo chiếc mảng. Thấy không nhúc nhích.
Phạm Cận suy nghĩ: nước khúc sông này chảy không mạnh lắm, chưa có lũ lớn, vậy vì sao mảng
lại trượt mạnh lên, đến nỗi khó kéo ra thế kia? Anh cho hai chiến sỹ đẩy ngược trở lại. Chiếc mảng
vẫn không ra khỏi tảng đá lớn. Cận cùng anh em bàn, và có thể hiểu: nhất định phải có người kéo,
không phải một hai, mà bốn năm người mới kéo nổi chiếc mảng lớn này ghếch lên tảng đá cho
khỏi trôi đi... Nhưng sao lại sợ nó trôi đi? Lại bàn. Và lại phán đoán: nếu chiếc bè này trôi xuôi về
tới khu vực đông dân cư, sẽ dễ lộ... Tuy nhiên ý kiến này chưa thật vững. Cận lại đưa tổ đi quan
sát dọc bên bờ sông một quãng nữa. Bỗng một chiến sỹ reo lên khi nhìn thấy một vệt cỏ bị đạp
nghiêng chéo chạy dài vào trong rừng. Cả tổ mừng rỡ theo vết cỏ không bình thường ấy tiến sâu
vào phía trong thì quả nhiên thấy có ba cái bếp bắc bằng các hòn đá. Nhưng sao lòng bếp lại hẹp
thế? Còn đang phân vân thì một chiến sỹ đi quanh quan sát lại reo lên:

“Nó nấu bằng cà mèn, nên bếp mới nhỏ. Mà nó nấu bằng gạo sấy !”. Vừa nói anh chiến sỹ
vừa chạy lại hớn hở đưa ra hai ba cái bao ni lông còn sót lại mấy hạt gạo sấy... Thế là rõ rồi. Cả tổ
cùng Phạm Cận quay về cấp báo với tiểu khu 95. Ban chỉ huy tiểu khu họp bàn ngay trong đêm:
Trước hết xác định lại: đúng là có địch. Nhưng chúng là ai? Phản động Lào, hay biệt kích Mỹ -
Diệm? Và chúng đang ở đâu trong vùng này?

Ban chỉ huy 95 phân tích: bọn gián điệp biệt kích Lào thường đi lẻ thông qua các mối liên hệ gia
tộc, họ hàng ở hai bên biên giới. Chúng thường qua lại mượn cớ thăm viếng, hoặc mua bán, đổi
chác, khi cao khỉ, khi mật ong, có khi cả thuốc phiện... Chúng sang, gặp đối tượng xong là về Lào
luôn. Nếu có hoạt động vũ trang thì chúng cài mìn, mai phục tập kích xong cũng chuồn luôn, rất
ít khi dám tập hợp thành nhóm sống lưu trú và di chuyển trong rừng của ta... Vậy hiện tượng đóng
mảng và nấu ăn bên sông Nậm Tắc đã chứng tỏ có một toán gián điệp biệt kích đang hoạt động di
chuyển. Bọn này chắc chắn là của Mỹ - Diệm đánh ra. Và chúng phải là người địa phương mới
thạo rừng núi, sông suối như vậy. Là người địa phương, chắc chắn chúng sẽ không chui rúc ở
quanh sông, mà có thể chọn núi Pú Chài, ngọn núi cao hiểm trở, rậm rạp, hoang vắng nhất vùng
để trú ẩn. Tất cả những nhận định và phán đoán ấy đã được báo ngay về Khu. Khu cũng đã cấp
báo về Bộ...
Tiểu khu đã phán đoán đúng. Bộ đồng ý như vậy và có một nhận xét khá đặc biệt: Nếu
đúng là gián điệp biệt kích thì bọn này rất khác mọi bọn trước, không vào bằng máy bay qua đường
biển, mà đây có thể là chúng mới thay đổi phương thức, qua Lào dừng lại chuẩn bị rồi mới đột
nhập. Ông Đinh Vân kết thúc việc phản ánh tình hình cho An bằng chi tiết bổ sung quan trọng ấy.
Rồi ông cho biết tiếp chủ trương của Ban Chỉ huy khu Công an vũ trang: Trước mắt tăng cường
mọi biện pháp trinh sát, nhằm tìm cho ra nơi ẩn náu của địch, đồng thời cho chốt chặn tất cả các
điểm nghi địch có thể đi qua. Khi nắm chắc tình hình, sẽ kiên quyết tập trung lực lượng bao vây,
truy bắt.

- Vậy, bây giờ anh An đi tiểu khu 95 ngay chứ? Anh em ở đó sẽ hoan nghênh lắm đấy! Họ
đang rất cần những kinh nghiệm truy bắt bọn Goblin năm ngoái và đón bắt bọn Storm mới đây...

Nửa giờ sau, ông Đinh Vân đã trực tiếp ngồi com măng ca đưa An đi tiểu khu 95 ở gần sát
biên giới Việt - Lào thuộc địa phận Tây Trang.

Ngay tối hôm đó, ba mũi truy tìm đã được lệnh cấp tốc lên đường. Mũi thứ nhất gồm đại
đội cơ động của Khu và một trung đội của tiểu khu có nhiệm vụ mật phục, ngăn chặn phía tây lòng
chảo Điện Biên Phủ, đề phòng địch xâm nhập vào hướng này. Mũi thứ hai gồm trung đội cơ động
đồn biên phòng Mường Khuông và Tây Trang phối hợp với dân quân của ta và của bạn Lào chốt
chặn hướng Mường Khoa, Sốp Nạo (Lào). Mũi thứ ba gồm 20 cán bộ, chiến sỹ đồn biên phòng
Mường Khuông và một trung đội cơ động của tiểu khu 95 chia thành 4 tổ: 3 tổ mai phục, 1 tổ trinh
sát tiến vào vùng núi Pú Chài. Mũi này do Phan Long, một đại đội trưởng của tiểu khu trực tiếp
chỉ huy. Tổ trinh sát do Phạm Cận, đồn phó đồn Mường Khuông trực tiếp phụ trách. Tóm lại, mũi
thứ ba coi như mũi chính diện, trực tiếp tiến vào vùng núi Pú Chài, nơi hoang rậm nhất đang có
nhiều nghi vấn.

Đã quen đi xuống cơ sở, An xin được đi cùng tổ trinh sát của mũi Pú Chài này. Tổ có ông
Mung, phó chủ tịch xã dẫn đường.

Qua đèo, vượt dốc, cắt lá, xuyên rừng... đến tối mịt, thở không ra hơi nữa, cả tổ mới leo
được lên tới một trong mấy ngọn của núi Pú Chài. (Quả núi hùng vĩ, hiểm trở này có tới 7 ngọn
liên tiếp với nhau). Nơi mà cả tổ trinh sát lên được là ngọn cao nhất, ông Mung vừa thở vừa tự hào
giới thiệu: đứng ở ngọn này có thể quan sát đủ 6 ngọn kia. Thế là cả tổ chốt lại và cắt gác đêm để
theo dõi từng tiếng động lạ, từng ánh lửa nếu có... Nhưng một đêm khá yên tĩnh qua đi. Hết sức
gan góc và kiên nhẫn đến mức An cũng phải ngạc nhiên và thầm bái phục: Phạm Cận kiên quyết
bắt tổ cứ phải tiếp tục chốt trên núi, mặc cho bất cứ ai bàn lùi muốn rút đi nơi khác. Qua tới 5 ngày
5 đêm tiếp theo, vẫn không có động tĩnh gì lạ. Lương thực đem theo đã gần cạn, phải dè xẻn từng
nắm gạo. Năm ngày cũng là năm đêm gần như mất ngủ. Tinh thần toàn tổ xuống trông thấy. Nhiều
anh đã ngáp dài nói ra miệng: “Phèo rồi!” An phải cố nghiến răng lại chịu đựng. Cái thế một phái
viên của trên không cho phép anh tỏ ra mệt mỏi chứ đừng nói tới xuống tinh thần. Do đó An càng
thấy “sợ” Phạm Cận, một thanh niên nông thôn, nom bình dị chẳng có gì đáng chú ý hết, vậy mà
lại là một con người có một ý chí đáng gọi là như núi. Và sự kiên nhẫn “khủng khiếp” của anh đã
được đền đáp rất xứng đáng: Tới đêm thứ 6 từ phía tây nam, một chiếc máy bay vận tải C47 đen
sì xuất hiện. Qua ánh trăng mờ mờ, An cùng các chiến sỹ nom thấy khá rõ: chiếc máy bay ấy sà
dần xuống thấp, hướng về một trong 7 ngọn của Pú Chài. Báo động! Cả tổ sẵn sàng chiến đấu.
Nhưng tất cả gần như run cả lên vì quá xúc động, hồi hộp... Rồi thấy từ ngọn xa nhất về phía bạn
Lào, chợt lóe lên ánh lửa... Tín hiệu rồi! Đúng như vậy. Chiếc máy bay đảo lại liền. Từ bụng nó
lần lượt phụt ra bốn cụm dù, nom khá rõ: mỗi cụm ba chiếc... Sau đó chiếc máy bay đột nhập vòng
ra xa rồi biến dần...

Ngay tức khắc Phạm Cận cho một chiến sỹ cùng Phó chủ tịch Mung băng xuống núi tìm
lực lượng do đại đội trưởng Phan Long chỉ huy đang mai phục dưới đó.

Mờ sáng hôm sau, cũng tương tự như Mẩu Tu ở Nà Lang đi báo đồn Mường Sang về toán
Goblin năm ngoái, khi tìm được Phan Long, anh chiến sỹ nọ và phó chủ tịch Mung chỉ còn thiếu
chết ngất vì quá mệt...

Không chậm trễ, chỉ đến khoảng 10 giờ sáng, cả ba tổ mai phục của Phan Long đã cùng lên tới
hợp điểm trên đỉnh Pú Chài. Và ngay buổi chiều, các chiến sỹ đi trinh sát về đã báo cáo cụ thể:
địch thả dù đêm qua ở ngọn Pú Chài 7. Leo lên các cây cao, các chiến sỹ ta đã nom rất rõ nhiều
hòm đồ còn vướng dù nằm rải rác khắp các bãi tranh trên đỉnh ngọn, giữa rừng già dày đặc. Đại
đội trưởng Phan Long quyết định: Cho thu hàng, đồng thời tổ chức truy lùng ngay. Nhất định bọn
địch ở cách đây không quá xa.

An can lại. Theo anh: Cứ để nguyên trạng và vẫn giữ kín lực lượng ta. Nhử cho địch tới
lấy hàng, sẽ đón bắt hết. Thu hàng ngay và tổ chức lùng sục lúc này sẽ không khác gì báo động
cho địch biết và xua cho chúng cao chạy xa bay. Đại đội trưởng Phan Long không nghe. Anh là
người trực tiếp có quyền cao nhất ở đây, lúc này... Nhưng cuối cùng Phạm Cận, con người kiên
nhẫn đến “kinh hồn” ấy đã ủng hộ ý kiến của An. Kế hoạch được đổi lại: Bí mật bao vây khu đổ
hàng. Tiếp tục kiên trì đến cùng chờ giặc đến...

Không phải chờ lâu. Chỉ ngay đêm sau, bọn địch sốt ruột phải mò tới lấy hàng, đúng như
dự kiến của ta. Ba tên vừa mò vào tới bãi đã bị quân ta phục sẵn xông ra bắt gọn, không tốn một
phát đạn. Ta bắt chúng phải đưa ngay tới nơi cả bọn đang trú ẩn... Thì ra đó là ngọn Pú Chài số 5.
Khi quân ta ập tới, tên toán trưởng Đèo Văn Chính đang ngồi cắt gọt cái gì đó bằng một con dao
găm. Thấy động, và vốn tinh khôn cảnh giác, tên này kịp phóng con dao ra, rồi bỏ chạy cùng đồng
bọn. Nhưng chạy đâu cho thoát ta đã bắt gọn ngay. Hai tên ở phía sau kịp lao ra rừng rồi nhào
xuống suối sâu trốn thoát sang bên kia biên giới. Nhưng cũng rất may, theo chỉ thị Ban bí thư
Trung ương Đảng về bảo vệ an ninh phòng chống gián điệp biệt kích, Bộ Công an đã hướng dẫn
cho các lực lượng biên phòng sớm tổ chức các toán trinh sát ngoại biên phối hợp với lực lượng vũ
trang và an ninh cách mạng của bạn Lào trong nhiệm vụ này. Khi hai tên gián điệp biệt kích nọ
chạy được qua đất Lào mới có hai hôm, đói quá, chủ quan cho rằng bên này an toàn rồi, nên mò
vào nhà dân xin ăn. Nào ngờ dân bản vừa cho ăn vừa mật báo cho an ninh Bạn và trinh sát ngoại
biên của ta đến bắt.

Thế là toàn bộ toán gián điệp biệt kích mang tên Rimos đã bị tóm gọn do ta đã biết vận
dụng các biện pháp tổng hợp linh hoạt, hoạt động vũ trang, trinh sát bí mật, vận động quần chúng,
và phát huy được cả ở nội, ngoại biên có hiệu lực, thực hiện “lùng trong vây ngoài” làm cho địch
không còn đường nào thoát...

An chỉ ở lại theo dõi thêm mấy ngày khai thác khẩu cung, rồi trở về Cục báo cáo...
Tổng hợp lại tất cả những lời khai ban đầu của cả bọn Rimos, có thể thấy rõ mấy điều: Trước hết
bọn này do Senaghi, viên đại tá CIA mới hung hăng và bạo phổi trực tiếp đánh đi. Và đúng như ta
dự đoán: chúng có tham vọng: nếu như đã có toán Goblin bên phía đông đường 41, toán Rimos sẽ
làm toán nòng cốt ở phía tây đường này, để rồi mở rộng các căn cứ và lực lượng ra toàn vùng.
Nhưng khác với tất cả các toán trước: Bọn Mỹ bắt đầu thay đổi phương thức đột nhập: bỏ vào
đường biển, vì đã lộ, nay dùng trực thăng đưa bọn biệt kích gián điệp qua Lào, dừng chân ở đó ít
lâu nghe ngóng, chuẩn bị mọi mặt rồi mới xâm nhập vào Việt Nam bằng đường bộ. Như thế vừa
bí mật vừa an toàn. Cũng vì thế đúng như bọn Storm đã khai: tụi Rimos này đã được đánh đi trước
đó chừng hơn một tháng và tụi này đã có điện liên lạc về Sài Gòn hai, ba lần. Chỉ có điều là khi ấy
tất cả vẫn còn ở trên đất Lào. Cũng vì thế, bây giờ mới rõ vì sao Bộ Công an Việt Nam chưa có
tin gì để báo sớm cho các cơ sở đối phó...

Nhưng cũng qua lời khai của tên toán trưởng Đèo Văn Chính mà An cùng trực tiếp khai
thác khẩu cung với một cán bộ Công an Khu, anh đã nhận được một tin khá đặc biệt khác, chưa
biết rõ thực hư.

Sau khi hỏi hết mọi điều chính ngay tại trận, An đã vui miệng hỏi thêm tên Chính (toán
trưởng Rimos):

- Có biết Cầm Diêu không?

Tên Đèo Văn Chính tỏ ra khá ngạc nhiên. Nó ngập ngừng hỏi lại:

- Vậy, thưa ông, thưa ông... Cầm Diêu đã... đã...

An gạt đi:

- Tôi chưa muốn nói điều gì về người này. Tôi chỉ hỏi anh có biết Diêu không?

- Dạ, thưa tôi có biết, thậm chí là bạn nữa...

- Vậy anh có biết cô Lò Thị Nhạn chứ? Cô ấy khỏe chứ! (Ý anh muốn hỏi để thử nghĩ xem
nếu có thể tìm cách đưa cô ta ra Bắc được không?)

- Dạ, có, có chớ! Cô ấy là vợ Cầm Diêu mà, thưa ông. Cô ta vẫn mạnh giỏi.

- Cô ấy vẫn ở 389/112 đường Yersin Nha Trang chứ?

Tên Chính càng ngạc nhiên hơn nữa:

- Dạ, thưa đúng đó là nhà bố mẹ cô ấy. Cô ấy lấy Cầm Diêu, nhưng Diêu luôn đi vắng. Cô
ấy ở cùng gia đình. Nhưng nay đi mất tiêu rồi.

Đến lượt An ngạc nhiên:

- Đi đâu?
- Thưa, đi theo thằng Quyến sang Thái Lan. Thằng này là một trong những đầy tớ của ông
Nhu nên được sang làm tùy viên quân sự bên đó.

- Hả? Nhưng sao vậy? Sao cô Nhạn lại đi theo nó? - An không khỏi sửng sốt.

- Thưa ông, thằng Quyến nó mê con Nhạn, cứ anh nuôi em nuôi suốt, o bế đủ điều, lại còn cưỡng
bức... Nhưng con vợ Cầm Diêu thật ra cũng chẳng ra gì. Vào Nam chỉ đua ăn diện, bao nhiêu tiền
chồng gửi về chỉ ăn chơi bằng hết lại còn mang công mắc nợ, người ta bảo thế. Thế là theo luôn
cái thằng lắm tiền quỷ quái, dâm dê kia!

- Bây giờ có tin gì về... cô ta nữa không? - An gặng.

- Dạ không! Tụi anh em bè bạn Cầm Diêu đều rất giận cả hai đứa khốn kiếp nọ.

Chuyện này có lẽ chẳng cần báo cáo tỉ mỉ với Cục. Nhưng với Cầm Diêu thì sao đây? Có
nên nói ra hay không? Lợi hại sẽ ra sao? Quả là về mặt này anh chưa hề có một tí teo kinh nghiệm
nào hết. Thôi được, lại phải dựa vào các “lão tướng” may ra mới xong! An thầm thự nhủ.

An trở về tới Ban. Đã khác trước: từ sau vụ đón nhận toán Storm, Ban chuyên án đã được
chuyển địa điểm, rời bỏ khu lán hoang vắng đầy muỗi, dĩn bên sông Đà, để vào ở trong bản Khang
Kha. Được ở nhà dân, anh em bây giờ đỡ khổ hơn. Thấy An về, anh em tay bắt mặt mừng khoe
luôn tin vui mới nhất: Ông Thạc đã được đề bạt lên Cục phó, trở về Hà Nội để giúp sức cho ông
Công Năng. Và ông Trường đã được trên quyết định thay ông Thạc làm Trưởng ban chuyên án.

- Vậy Trưởng ban đâu? - An tươi cười hỏi.

Anh em cho biết ông Trường có việc đi gặp các cán bộ trong bản.

- Vậy còn thằng Páo đâu?- An nhìn quanh, không thấy nó.

- À, nó đang hờn, bỏ cả cơm trưa, nằm trong lán ngoài kia! - Một người đáp.

An ngạc nhiên:

- Chuyện gì vậy?

Thậm, cậu cấp dưỡng, kể lại tóm tắt. Khi An đi, ở đội có nhiều thay đổi, ngoài việc ông
Thạc về Cục, ông Trường lên thay, còn có việc thay phiên cho tiểu đội cảnh vệ. Nhóm cũ của tỉnh
phái đến do một tiểu đội trưởng rất “hắc” và có lẽ cũng... hơi hâm hâm chỉ huy. Anh này rất hay
bắt bẻ, hay phê bình qui kết người khác về các khuyết điểm, thậm chí các “tội” về tư tưởng và
chính trị. Xem ra anh ta còn nghiêm hơn cả hai ông Thạc và Trường. Cũng vì thế Nữu, anh tiểu
đội trưởng ấy, đã sớm đụng với khá nhiều anh em trong đội. Gần đây, Nữu đã “cạo” tới tên Páo.
Một hôm nói chuyện có nhắc tới Diệm, Nhu, tên Páo quen miệng vẫn cứ gọi là “các ông ấy”, khi
nói tới Kennedy tổng thống Mỹ, Páo cũng gọi là “ông ấy”. Nữu tỏ ra rất giận. Anh phê luôn: gọi
kẻ thù như thế là mất lập trường, không có quan điểm! Phải gọi chúng bằng “thằng”, như thế mới
tỏ rõ mình vừa có lập trường vững vàng vừa rất căm thù chúng. Tên Páo không chịu. Nữu càng
nổi sùng, càng lên mặt cán bộ, lên án nó khá thô bạo, nào là: “ngụy binh vẫn còn nhớ chủ cũ”, nào
là “phí công Cách mạng giáo dục”. Tên Páo cãi càng hăng... Anh em đã phải báo cáo ông Trường.
Ông đã giải thích cho cả đôi bên. Nhưng xem ra chưa thật thông cho lắm. Tên Páo nói nó sẽ bỏ
việc, từ nay không lên phiên điện đài nữa, bị nghi oan như thế ức lắm, nó chỉ muốn chết, nó sẽ
chết...

- Vậy, thủ trưởng Trường đã biết cặn kẽ tất cả như thế chưa?

- Chắc cũng biết, nhưng “bác” phải đi gặp trưởng bản có việc gì đó. Bác hẹn tối nay sẽ lại
gặp cả đôi bên lần nữa. Bác có vẻ cũng lo: ngày kia đã đến phiên liên lạc với bọn trong ấy rồi.
Thằng Páo mà nghỉ thì... gay. Không khéo sẽ hỏng tiệt mọi việc. Chán thế!

Nghe xong, chính An cũng thấy chán. Không ngờ đội đang bắt đầu có đà “làm ăn” lại xảy
ra chuyện hết sức vớ vẩn nhưng lại thực sự nguy hiểm này. Cậu Thậm cấp dưỡng nói không phải
là vu vơ: đúng là không khéo sẽ hỏng hết mọi chuyện! An kéo Thậm cùng tới lán của Páo. Vừa đi
được mấy bước đã thấy một hạ sỹ rảo bước đi ngang qua. Thậm giật khẽ tay Àn: “Đấy, tay Nữu
đấy!” An nhìn theo: đó là một hạ sĩ to béo có một bộ mặt cháy nắng, vẻ nông dân chất phác nhưng
khá cứng cỏi. An đã có kinh nghiệm, là một tuýp người ít học, khá thiển cận, nhưng trung thành
thì tuyệt đối. Bảo nhảy vào lửa vì cách mạng, anh ta sẵn sàng nhảy ngay, không hề do dự...

An và Thậm đi tiếp tới chiếc lán của Tráng A Páo. Quả là hắn ta đang nằm trên sàn nứa,
mặt quay vào trong vách hậu không rõ đang ngủ hay thức. An và Thậm vừa bước vào, Páo quay
ra nheo nheo mắt nhìn. Khi nhận ra An, Páo ngồi dậy, lí nhí chào. An ghé ngồi xuống. Anh ngắm
nhìn nó: quả là hốc hác, rầu rĩ khá nhiều. Hắn ngồi co hai chân lên, gục mặt xuống hai đầu gối. An
cũng ngồi im lặng một lúc sau mới khẽ đặt tay lên vai nó:

- Páo! Mình vừa về, được nghe sơ qua mọi chuyện rồi. Nhưng thấy không có gì quan trọng cả. Mà
thủ trưởng Trường đã giảng giải và phê bình cả hai bên rồi, phải không? Vậy còn điều gì phải áy
náy nữa, Páo?

Tên Páo ngẩng mặt lên. Hai mắt nó đỏ ngầu. Mặt nó nhăn nhúm lại như muốn khóc:

- Cán bộ mới về, biết sao được!

- Vậy còn điều gì chưa vui, nói cho mình nghe!

- Còn chứ! Tôi chỉ muốn chết thôi, cán bộ ạ.

- Sao lại như vậy ?

- Cán bộ Trường nói thì nói, cán bộ đi khỏi, anh Nữu vẫn thù tôi lắm. Tôi biết.

- Thù thế nào?


- Tôi không biết nói. Nhưng tôi cũng không sợ anh ấy đâu. Tôi buồn lắm. Bao nhiêu công sức của
tôi, tất cả gan ruột tôi... đều đem ra hết cho cách mạng, mà bây giờ anh ấy vẫn chửi tôi là ngụy,
ngụy vẫn nhớ chủ cũ. Thế là anh ấy muốn giết tôi đấy cán bộ An ơi!

- Nóng giận thì nói quá đi thế thôi. Chắc anh Nữu cũng đã thấy mình sai rồi. Vậy có gì
quan trọng đâu. Anh em tôi ở với nhau đôi khi cũng có câu này câu kia không đúng, nhưng rồi
thông cảm nhau, quên hết ngay.

- Nhưng anh Nữu không quên đâu. Tôi biết. Mà tôi cũng không quên. Chưa có ai chửi tôi
như anh Nữu chửi thế. Tôi xin thôi không làm việc nữa. Các cán bộ cứ đem trả tôi về nhà giam.
Muốn bỏ tù tôi đến suốt đời tôi cũng vui lòng, còn hơn hàng ngày trông thấy mặt anh Nữu.

Càng nói, tên Páo càng như đau hơn và quyết chí hơn. Không còn nghi ngờ gì nữa: nó đã
bị xúc phạm khá nặng. Biết nói với nó lúc này chưa thể giải quyết được gì hơn, An vỗ vai nó bảo
cứ nghỉ đi, anh sẽ gặp lại nó sau. Cũng lạ, đang vùng vằng, giận dữ như vậy, nhưng khi An đứng
dậy đi ra, tên Páo vội ngẩng đầu lên. Bộ mặt nó dịu hẳn đi, nếu không muốn nó là rất buồn. Nó nói
với theo anh:

- Cán bộ An ơi, tha thứ cho tôi nhá! Tôi làm việc với cán bộ An gần một năm nay. Tôi rất quý cán
bộ. Tôi chỉ muốn ai cũng như cán bộ cả. Bây giờ tôi làm cán bộ buồn, tôi có lỗi quá. Nhưng tất cả
mọi chuyện này không phải tôi gây nên, cán bộ hiểu cho tôi...

An khẽ gật đầu, đưa bàn tay lên lắc lắc ra hiệu cho nó cứ yên tâm, anh không giận nó.

Một lúc sau, ông Trường về. An đứng nghiêm lại, đưa tay lên trán chào vui:

- Xin chào trưởng ban - đội trưởng!

Ông Trường ngồi xuống, phanh áo, cầm chiếc quạt lá cọ quạt lấy quạt để, cười khà khà:

- Cái thằng tớ mang tiếng hay cãi bướng, lại hay ăn nói văng tê,... vậy mà cũng được đoái
hoài thế này cũng là... được lượng trên rủ xuống đấy cậu ạ! Các cậu còn trẻ tinh xảo hơn thế hệ tớ,
chắc sớm thấy được: ở đời này tài năng và kết quả cống hiến cụ thể đã là quan trọng, nhưng té ra:
biết ứng xử cũng là điều không hề thua kém.

An chỉ cười và thầm nói vui: “Bố này vẫn cứ thế, có lẽ suốt đời vẫn cứ thế không thay đổi được,
hoặc chẳng cần thay đổi!” Rồi tranh thủ thời gian, anh báo cáo luôn việc tham gia vụ truy tìm toán
Rimos của anh trong tháng vừa qua bên phía tây đường 41. Ông Trường gật đầu:

- Tốt. Nhưng cậu cũng máy móc bỏ mẹ! Cứ về thẳng Hà Nội báo cáo với ông Công Năng
có phải nhanh, và lại có dịp tranh thủ ghé qua nhà ngó vợ con một tí không! Công việc, Cục giao
cho cậu, chứ có phải bọn tớ đếch đâu!

An thừa nhận mình có máy móc thật. Cứ nghĩ đơn giản và rất có ý thức tổ chức rằng: lệnh
của Cục gửi cho Ban. Ban cử mình đi, mình phải về Ban báo cáo trước, như thế là đúng. Vậy phải
chăng mình đã sớm có điều gì đó như bắt đầu trở nên... ít ra là xơ cứng? Nhưng rồi bỏ qua chuyện
đó, anh hỏi về chuyện giữa tên Páo và Nữu:

- Anh biết tên Páo vẫn rất giận và định bỏ việc không?

- Có! Biết! Định đêm nay sẽ giải quyết dứt điểm. Ông Trường nghiêm chỉnh đáp.

An chăm chú:

- Anh sẽ giải quyết cách nào? Tôi thấy cũng không dễ lắm đâu. Hai đứa đều găng cả. Về
Nữu, tôi chưa hiểu cậu này, Páo thì tôi biết quá rõ. Nó đâu có phải thằng hai lòng mà xỉ nhục nó
như vậy?

- Thằng Páo thì đồng ý là biết thế rồi. Còn tay Nữu này, thật ra tớ cũng chưa hiểu nó lắm.
Nhưng có thể tin nó là người tốt thôi. Nó quá hăng, và quá cực đoan đi chăng nữa thì nó vẫn là
người bảo vệ lập trường quan điểm của ta. Chẳng có lý gì để trách nó. Chỉ có điều là trong hoàn
cảnh này, việc này, nó xử sự như vậy là chẳng ra làm sao; máy móc và ấu trĩ quá sức. Ấy, vẫn là
cái chuyện ứng xử mà tớ vừa nói với cậu đấy...

- Anh nói lại cho tôi nghe đi!

- Ở đời này ứng xử cho đúng đã là cái khó, còn đúng mà thích hợp nữa lại càng khó. Cậu
đừng có tưởng rằng cứ đúng mà được cả đâu! Không! Phức tạp lắm... Nhưng thôi, không nói nhiều.
Tối nay tôi sẽ điện về tỉnh xin trả cậu Nữu về đơn vị cũ của nó. Xin một cậu khác lên thay.

Thật bất ngờ. An không khỏi ngạc nhiên:

- Vậy anh không kiên trì giải thích, dàn hòa hai đứa hay sao?

- Chúng ta không còn nhiều thời gian. Công việc đang gấp rút. Ngày kia có phiên làm việc
với bọn trong kia rồi...

- Vậy anh đã tính, đã nghĩ kỹ chưa?

Ông Trường lại cười khà khà:

- Tớ biết thế nào cậu và các cậu khác sẽ hỏi tớ như thế, có thể có cậu còn muốn hỏi rõ hơn:
Này, anh không sợ bị mọi người đánh giá là bênh thằng biệt kích, sa thải đồng chí mình ư? Thế
đấy. Nhưng tớ cứ làm. Tớ tin là hoàn cảnh này hai thằng này không thể cùng ở với nhau. Nếu
không, ta chỉ còn có việc là bù đầu dàn hoà, còn thì giờ đâu mà đối phó, đánh địch? Đó là chưa
nói tới nguy cơ là có thể còn đổ bể cả việc lớn đang trên đà thắng lợi nếu mất tên điện báo viên
kia. Vậy, phải dứt khoát và nhanh chóng tách ra mỗi đứa một nơi. Có đuổi ai đâu nhỉ? Còn nếu có
ai thích nói ngược nói xuôi thì... tùy!

An lại hỏi:
- Nhưng anh có tin là trên sẽ đồng ý với anh không?

- Cũng không biết. Nhưng tớ có trách nhiệm ở đây, tớ cứ đề nghị như vậy. Này, bây giờ
đến lượt tớ hỏi cậu: Cậu có tán thành ý kiến của tớ hay không, cứ nói thực. Đừng có uốn lưỡi nhé!
Cứ nói thực, tớ thích thế!

An cười nhẹ nhàng:

- Anh căng quá!...

- Thì cứ nói đi!

- Vậy... Xin được nói thực: tôi cũng đã... thầm nảy ý kiến tương tự như thế.

- Hả? Thật hay đùa đấy? - Ông Trường bật cười vang, mở to mắt vui vẻ.

- Nhưng quả thật, dám xin nói là vấn đề khá tế nhị, và khá căng đấy anh ạ! Xin nhắc lại: những
anh cơ hội, buôn bán lập trường phen này sẽ có khối chuyện để đàm tiếu.

- Không sao hết! Đã bảo ai muốn nói gì cứ nói! Quá lắm thì tớ về vườn là cùng chứ gì?
Chẳng lẽ thấy phải, mà lại lùi?

Nói đoạn ông Trường phất tay một cái như cắt đứt: Thôi, không bàn nữa...

Khi tiểu đội trưởng cảnh vệ Nữu khoác ba lô trở về tỉnh, một tiểu đội trưởng khác là Bưởi,
tới thay thế, thì cũng đúng lúc “Trung tâm” ở Sài Gòn lệnh cho Cầm Diêu bàn với Quách Rinh tổ
chức trinh sát lại tám mục tiêu trên đường số 41 và phải báo cáo gấp. Tám mục tiêu này gồm các
cầu cống quan trọng, mấy ngọn đèo hiểm, cùng một nông trường lớn bên đường nghi là doanh trại
quân đội giả danh. Quách Rinh đã trực tiếp nhận những mục tiêu này từ Senaghi và Ngô Thứ Lân,
trước khi nhảy ra Bắc.

Thế là không khí trong đội lại nóng hẳn lên: Kiểm tra lại tám mục tiêu trên đường 41. Đó
là tín hiệu của một giai đoạn mới: từ làm tình báo, âm thầm, bí mật xây dựng cơ sở, nay kẻ địch
đã muốn tiến lên triển khai cả các hoạt động mang tính võ trang. Rõ ràng tính quyết liệt của cuộc
chiến tranh gián điệp biệt kích đã tăng lên, nói cách khác đã có chuyển biến về chất.

Một mặt báo cáo ngay về Bộ, một mặt ông Trường trực tiếp nắm một tổ trinh sát đi xem
lại các mục tiêu ấy. Phải đi kiểm tra lại thực sự, y như mọi lần trước, không thể cứ ngồi nhà điện
trả lời bọn Mỹ một cách qua loa chiếu lệ. Đấy là một trong những kinh nghiệm không thể coi nhẹ
đã có từ “8 tháng gian truân” vừa qua.

Trước khi lên đường đi trinh sát lại 8 mục tiêu, ông Trường không quên dặn An:

- Ở nhà nhớ nhắc thằng Bưởi! Coi bộ thằng này nhẹ nhàng, hiểu biết khá, lập trường thì ai
mà chẳng phải lập trường, nhưng chớ có cái thứ lập trường kiểu thằng Nữu, chối tỷ lắm!
Hai ngày sau, nhóm của ông Trường trở về. Cùng vừa dịp nhận được chỉ thị của Bộ “Phải
hết sức thận trọng. Địch có ý kiến gì cụ thể thêm, phải trực tiếp về Bộ nhận chỉ thị”. Càng thấy rõ
thêm tầm quan trọng của sự việc mới.

Thế rồi mệnh lệnh cụ thể của “Trung tâm” đã được điện ra như một phát súng nổ: ''Trước hết là
mục tiêu số 3: Hãy đánh sập cầu Tà Vài!”

Ô, cầu Tà Vài?

Ông Trường và An cùng nhận ra: Thằng Mỹ cũng khá tinh. Nó đã chọn một cây cầu khá
hiểm yếu, bắc qua một con suối lớn. Thời chống Pháp, trong chiến dịch giải phóng Tây Bắc năm
1952, quân của Đại đoàn 308 anh hùng đã truy đuổi quân Pháp qua cây cầu này để rồi đánh thốc
lên Mai Châu, Thuận Châu... Quân Pháp đã bố trí lực lượng chốt chặn ở đây. Một trận kịch chiến
diễn ra. Cả một đại đội Âu Phi của Pháp tan vỡ, tháo chạy tả tơi trong khoảnh khắc. Các chiến sỹ
308 như những thiên thần, mũ lá, súng lắp lưỡi lê, rùng rùng chạy qua cầu, đuổi giặc đến kiệt
cùng... Đến nay, Mỹ muốn làm ngược lại Pháp: ra lệnh cho âm binh phá cây cầu này, hòng cắt đứt
con đường giao thông chủ yếu của cả vùng Tây Bắc chiến lược. Ông Trường lại cười kha kha:

- Nhưng có tinh mà chẳng có khôn! Chúng nó ngồi trên tầu bay có nom thấy rõ gì đâu: cây
cầu này là cầu sắt dã chiến kiểu Belley, Pháp làm từ lâu. Nay hư hỏng, mọt hết cả một nhịp rồi.
Quân ta đã làm một đường ngầm để đi vòng, vượt qua suối. Vậy bây giờ muốn phá, thì phá, có
ảnh hưởng đếch gì đâu!

Tuy nhiên Bộ đã dặn: cần phải về Hà Nội để trực tiếp báo cáo và nhận chỉ thị tỉ mỉ, ông Trường
sửa soạn ba lô để đi luôn. Trước khi ông đi, An giữ ông lại một lúc:

- Có một việc có thể là quan trọng, tôi đã định báo cáo anh ngay từ hôm đi tham gia vụ
Rimos về, nhưng gặp ngay chuyện cậu Nữu và tên Páo... Nay anh về Hà Nội có thể gặp lại tên
Diêu. Tôi báo cáo lại và xin ý kiến anh...

- Sao? Chuyện gì vậy? Vui hay buồn?

An kể tóm tắt lại chuyện Nhạn, vợ tên Diêu đã bỏ đi theo tên đại úy Quyến mà bọn Rimos
đã nói cho biết. Ông Trường chau mày:

- Nhưng có thực thế không?

- Bọn nó cam đoan là có nghe đồn rất rộng về chuyện này. Tôi phân vân quá. Không biết
có nên cho tên Diêu biết không? Sẽ lợi hoặc hại ra sao?

Ông Trường mím môi suy nghĩ, rồi khoát tay:

- Theo tớ: Khoan đã! Dẫu sao vẫn cứ phải thẩm tra lại! Mặt khác để còn cân nhắc: nói ra
tên Diêu có thể xuống tinh thần, chán nản không thiết làm gì nữa. Thằng này xem ra yêu vợ vào
loại “cuồng tín” đấy!
An hoàn toàn đồng ý với ông.

Ông Trường về tới Hà Nội khi đồng hồ chỉ 13 giờ 30. Các công sở bắt đầu buổi làm việc
chiều. Lưỡng lự một chút, ông tặc lưỡi, rẽ vào Bộ trước. Bước lên hành lang của văn phòng, ông
gặp ngay cô trung úy xinh xắn mà ông biết rất có cảm tình với “Mã Siêu” của ông. Cô gái rất niềm
nở, thân thiết, ghé tai ông:

- Này, cái việc cậu tiểu đội trưởng Nữu ấy mà, đã lên tới Bộ rồi đấy! Người đồng ý với
chú, người lại bảo là chú không biết lãnh đạo quần chúng... Nhưng rồi cũng may cho chú, xong
xuôi cả.

Ông Trường chỉ nhếch mép cười. Cô gái mách tiếp:

- Còn hôm vừa rồi, buồn cười quá, sau thắng lợi vụ Storm “Cụ” cho mời ông Hoàng Thự bên tham
mưu Công an vũ trang sang, cái ông vẫn dè bỉu các anh, các chú là “Công an hành chính, lừa sao
được tụi Mỹ” ấy mà! Ông Thự tưởng có chuyện gì lớn, vội vàng sang. “Cụ” mời ngồi, rồi thong
thả nói: Này, cái bọn “Công an hành chính” chúng nó vừa lừa được Mỹ, câu bắt được một toán
lớn với hàng tấn vũ khí, thuốc men, lương thực đấy”! Nói xong, “Cụ” bảo: “Thôi, báo tin vui cho
biết thế. Về đi!” Chú biết thế nào không, ông Hoàng Thự ra về mặt cứ đỏ như gấc chín, gặp ai
cũng phàn nàn là chỉ nói vui vậy thôi mà “cha nào” đã bô báo để Bộ trưởng gọi lên “xát xà phòng”
cho một trận nên thân...

Tới lúc ấy thì ông Trường không thể mỉm được nữa mà ngửa cổ lên cười kha kha hết sức
sảng khoái.

Lát sau ông được mời vào làm việc với Cục trưởng Công Năng và ông Thạc - Cục phó
mới. Với ông Công Năng, bao giờ ông Trường cũng rất trọng tài năng, nhất là sự thông minh, sắc
sảo. Nhưng với ông Thạc, anh em gắn bó cùng chia sẻ ngọt bùi đã lâu nay gặp lại nhau ông Trường
thực sự cảm động xiết chặt tay bạn. Ông Thạc cũng ôm choàng lấy ông Trường, và hỏi ngay: “Đã
ghé về nhà chưa? Tụi tớ vừa kéo ra chơi hôm chủ nhật, thấy khỏe mạnh cả, cũng mừng!” Ông
Trường thấy lòng mình ấm lại. Thế đấy, cấp trên hoặc bạn bè lắm khi chẳng cần phải cho nhau cái
gì hết, chỉ cần một câu thăm hỏi, một chút quan tâm tới gia đình vợ con cho nhau thôi... cũng đủ
quý, đủ làm cho người ta có thể sẵn sàng và tiếp tục chịu đựng mọi nỗi gian lao, vất vả.

Ba người bắt đầu làm việc. Ông Trường báo cáo lại mọi việc vừa qua, đặc biệt ông được
hai vị Cục trưởng, Cục phó yêu cầu báo cáo rất tỉ mỉ về cây cầu Tà Vài... Rồi ông Công Năng
thong thả nói, và cũng như tất cả mọi bận, ông nói những gì mang tính tổng hợp trước:

- Bộ trưởng lẽ ra cũng nghe anh báo cáo hôm nay. Nhưng anh ấy phải họp Bộ Chính trị.
Tôi được biết Bộ trưởng rất vui khi thấy công việc tiến triển như thế này. Bộ trưởng có nhấn mạnh
rằng: địch bắt đầu mở rộng các hoạt động mang tính vũ trang, như thế có nghĩa là cuộc chiến sẽ
nóng hơn lên, đúng như Đội các anh nhận xét. Nhưng Bộ trưởng có nói thêm: như vậy cũng phải
thấy đây là một dấu hiệu cho ta biết: sự tín nhiệm của chúng với Goblin đã tăng lên. Đúng như
thế! Vậy điều này cũng chứng minh mọi chủ trương, mọi đối sách của ta đã thắng. Và địch đã vào
tròng! Bây giờ đề nghị anh Trường cho biết ý kiến: Việc phá cây cầu này ta chấp nhận hay không
chấp nhận?
Ông Trường ngồi thẳng lưng lại. Vấn đề quả là không đơn giản. Nhưng vốn là tay quen
suy nghĩ nhanh và dám quyết đoán, ông trả lời không khó khăn lắm:

- Báo cáo, theo tôi cứ cho phá!

- Để làm gì?

- Báo cáo, tôi nghĩ rất dễ hiểu: để tiếp tục gây tín nhiệm với bọn “Trung tâm” tiếp tục câu
nhử, “moi gan móc ruột” chúng những cú lớn hơn nữa.

- Nhưng phá như vậy có ảnh hưởng tốt xấu thế nào?

Câu hỏi có vẻ chưa rõ ràng. Ông Trường có ý muốn đề nghị nhắc lại. Ông Công Năng hiểu:

- Tôi muốn đề nghị đồng chí cho biết ý kiến của mình: Nếu ta phá, đồng ý là đối với địch
như thế sẽ làm cho chúng tin ta hơn. Nhưng với dân ta? Nên nhớ ta đang hoà bình, ổn định thế này
mà để cho biệt kích phá một cây cầu khá lớn trên con đường chiến lược ấy, thử xem dân tình có
xao xuyến, lo ngại không? Còn nếu ta lại thông báo cho dân biết chính ta phá, thì uổng! Gián điệp
mặt đất nó báo về Sài Gòn ngay, lộ hết!...

Ông Trường đáp lại không phải suy nghĩ gì nhiều lắm:

- Báo cáo, theo tôi, tất nhiên là không dại gì thông báo cho dân là ta vờ phá cầu để lừa địch.
Phải làm y như thật. Đó là nguyên tắc tình báo. Nhưng để dân khỏi xôn xao, thì cũng có cách: Thật
ra nơi đó rất xa dân, vắng vẻ. Có tiếng nổ cũng ít có chấn động. Hơn nữa, cây cầu đã bỏ hoang.
Nay nó sụp, người qua kẻ lại có thể tin là lâu ngày thì nó đổ. Nhưng cẩn thận hơn, nếu đánh ta nên
chọn một đêm mưa gió có sấm sét...

Các ông Công Năng và Thạc đều cho ý kiến của ông Trường tạm nghe được, có thể báo
cáo lên Bộ trưởng. Ông Công Năng tiếp:

- Tuy nhiên muốn gì thì gì đây vẫn là chuyện không nhỏ, không thể coi thường. Bộ trưởng
đã sơ bộ có ý kiến là: trước hết phải báo cáo và xin chỉ thị của Bác. Sau nữa phải xin thêm ý kiến
các đồng chí Phạm Văn Đồng và Lê Duẩn nữa. Thật vậy, nếu không, xảy ra chuyện gì, Bộ ta sẽ
lãnh đủ.

Đến lúc ấy, nghe thấy phải xin cả ý kiến Bác Hồ và đồng chí Phạm Văn Đồng, đồng chí
Lê Duẩn nữa thì ông Trường bắt đầu thấy nhột:

- Vậy, vâng, xin chờ! Tầm cỡ cơ sở điếc không sợ súng như chúng tôi chỉ dám có ý kiến như vậy
thôi!

Và phải chờ thật. Không phải một ngày, mà tới ba hôm sau ông Trường mới được gọi vào
Cục. Vẻ mặt vui vẻ khác mọi khi, ông Công Năng thông báo đã có quyết định: cho phá! Ông
Trường trút ra một hơi thở rõ dài. Ông Công Năng cho biết thêm: Sau khi nghe Bộ trưởng báo cáo,
Bác nói: “Các chú tính toán cho kỹ, thấy có lợi cho Cách mạng thì cứ làm”. Các đồng chí Phạm
Văn Đồng và Lê Duẩn cũng có ý kiến tương tự.

Thế là ngay tức khắc ông Trường sang trại giam Thanh Đồng. Kế hoạch của ông đã được
duyệt: lấy đi theo ông hai tên gián điệp biệt kích của toán Goblin chuyên việc phá hoại để giao cho
chúng tính toán lượng thuốc nổ, và trực tiếp cài, đánh cho đúng với những gì chúng đã được học
tập. Tất cả phải như thật. Phương châm ấy ông vẫn luôn luôn quán triệt.

Trại Thanh Đồng bây giờ đã “đông vui” khác hẳn những ngày tháng 6 năm ngoái (1961),
hồi đó mới chỉ có toán Goblin. Tới nay 10 toán nhảy ra đều bị tóm hết. Trừ những tên đã chết, còn
phần đông lần lượt được đưa về khu trại giam đặc biệt này. Ngồi nói chuyện với viên thiếu tá trại
trưởng, nhìn ra sân vận động nhỏ, ông Trường thấy bọn tù đang chơi bóng chuyền khá sôi nổi.
Chúng cũng hò reo, cũng vỗ tay rộn rã, rất hồn nhiên. Thể thao cũng lạ! Nó có thể tạo được những
giây phút hoàn toàn sảng khoái, vô tư cho cả những con người đang đau khổ hoặc trầm uất. Ông
nhìn thấy Cầm Diêu. Hắn đang chơi, có cả tên toán phó cũ Lò Văn Sính “Mặt chảo gang” bị đạn
ghém của Keng (dân quân) vào đầu và mông (nay đã lành hẳn) cũng đang ở đó. Ông biết: Cầm
Diêu cũng như nhiều tên khác đều được giữ hoàn toàn bí mật về việc tự nguyện cộng tác với ta
đánh địch. Đứa nào chỉ được biết riêng mình đứa ấy. Đó là nguyên tắc. Trông thấy tên Diêu, ông
Trường lại sực nhớ tới chuyện vợ nó - cô Nhạn - mà An mới nói cho ông biết. Không khỏi thở dài,
nhưng ông đang cần phải đi ngay, chưa có thì giờ để gặp hắn...

Mờ sáng hôm sau, hai tên Hoàng Văn Lanh - răng vàng - G4 và Lò Văn Chơm, tóc rễ tre
G5 đã được bí mật đưa tới địa điểm tập trung để cùng đi với ông Trường. Một tổ cảnh vệ có nhiệm
vụ canh giữ hai tên này. Có thêm hai cán bộ trinh sát mới được điều từ địa phương về, cùng đi
theo để tăng cường cho Đội trong nhiệm vụ mới. Được gặp lại ông Trường và theo ông đi làm
nhiệm vụ (dù chưa biết nhiệm vụ gì), cả hai tên Lanh răng vàng và Chơm tóc rễ tre đều tỏ ra hết
sức mừng rỡ, vui thích. Ông cười, vỗ vai hai đứa. Ít nhất ông cũng hiểu được: cứ được ra khỏi trại
giam một buổi đối với chúng đã như “lên tiên” rồi, chưa nói tới vinh dự gì khác...

- Chúng mày khỏe cả chứ?

- Dạ bẩm cán bộ, khỏe ạ!

- Tốt. Nhưng có sốt ruột không?

- Dạ, bẩm... - Tên răng vàng lại gãi đầu gãi tai - bẩm thú thật là... cũng có. Nhưng tụi em
hiểu là phải phấn đấu lâu dài...

- Tốt! Thôi, nào ta đi!

Chiếc xe Rumani “vừa đi vừa chữa” bắt đầu nổ máy, phụt ra một đám khói mù mịt rồi
phành phành phóng đi một cách đầy vui vẻ, kiêu hãnh... Vừa ngồi lên xe, ông Trường đã phải móc
túi lấy ra một bọc thuốc, bỏ vào miệng mấy viên liền. Chủ yêu vẫn là các thứ thuốc về tim và
đường ruột. Từ mấy hôm nay ông lại thấy “cỗ lòng mình bất ổn”. Uống thuốc xong, ông thầm
điểm qua lại việc nhà: nhìn chung vợ con đều khoẻ mạnh. Mấy đứa trẻ học cũng được, tất nhiên
chẳng có đứa nào vào loại khá, giỏi, vì có ai kèm cặp? Vợ ông vốn là nông dân chỉ mới lớp hai,
lớp ba. Bây giờ suốt ngày, kể cả gần như suốt đêm bà phải ôm lấy chiếc máy may để kiếm sống.
Bà thở than riêng với ông: túng bấn quá. Nhà chẳng còn cái gì để bán nữa. Tiền công may quần áo
tù cũng rẻ mạt y như ở các cơ sở may gia công, hoặc quốc doanh. Chỉ đủ hạt gạo ăn... Mà con
người ta sống còn cần biết bao nhiêu thứ khác nữa... Không trông vào đâu được!

Ông chỉ còn biết an ủi: “Nước nhà còn chiến tranh mà!”. Rồi lại khoác ba lô ra đi, cố tự
giấu mình một nỗi buồn, và cứ cảm thấy mình y như một kẻ vô trách nhiệm! Dịp này ông cũng
ghé qua nhà An. Cũng khổ! Thằng Toàn lại ốm, lại phải vào viện. Thằng bé quặt quẹo quá! Nhưng
Thùy, vợ An cứ khẩn khoản: “Em xin bác, nếu có gặp nhà em, chớ có cho anh ấy biết. Anh ấy lại
đứt ruột đứt gan mất”... Thế đấy, không hiểu có nên nói hay nên theo lời Thùy?... Nhưng rồi rất
nhanh chóng, ông đã phải quay về với công việc trước mắt. Cần có một lịch làm việc sao cho thật
gọn, thật nhanh và có hiệu lực. Việc thông báo tối mật chủ trương này với Bộ Giao thông, với bên
Quân khu (quân đội), với Khu công an với tỉnh nữa, đã có Bộ trực tiếp lo. Còn huyện và xã, thì
sao? Lẽ cố nhiên tỉnh sẽ phải làm việc này theo hệ thống ngành dọc của họ, nhưng Đội của ông sẽ
phải làm gì, chẳng lẽ cứ cắm đầu bí mật chuẩn bị, rồi đùng một cái cha con kéo nhau ra, cho nổ
luôn cây cầu mà không cần liên hệ trước với ai hết, không chủ động chuẩn bị trước một tí gì cho
dư luận dân chúng? Và ngày giờ sẽ phải chọn ra sao? Lẽ cố nhiên bọn “Trung tâm” không thể máy
móc quy định cứng nhắc chuyện này... Rồi còn những việc phải làm sau đó như theo dõi tư tưởng
của nhân dân địa phương, để liệu bề giải thích sao cho thật thích hợp mà vẫn giữ được tuyệt mật?
Đó là chưa kể việc phải theo dõi chặt chẽ phản ứng của “Trung tâm”, xem chúng có tin là “đã có
một vụ phá hoại ngoạn mục” không hay lại nửa tin nửa ngờ?

Năm hôm sau. Một đêm mưa có sấm chớp nhoáng nhoàng, vang động cả núi rừng. Bên
con đường 41 cắt dọc suốt miền Tây Bắc bao la, bỗng xuất hiện những bóng đen từ các bụi rậm ở
dưới một con suối khá rộng. Những bóng đen ấy cứ theo dọc suối tiến rất nhanh về phía cây cầu
sắt Tà Vài đã bỏ hoang từ lâu vì trụ vỡ, một nhịp đã rỉ mòn sắp gãy. Tới đây những bóng đen lại
thoắt biến mất trong các bụi cây ở hai bên đầu cầu và dọc hai bên taluy. Con đường trải nhựa xưa
nay đã xuống cấp, gần như chỉ còn trơ lại toàn sỏi đá. Chỉ lát sau lại thấy hai bóng người thoắt
hiện lên trên cây cầu. Nhanh nhẹn một cách khác thường, cả hai lúi húi làm những việc gì đó trên
mặt cầu, rồi còn luồn cả xuống dưới gầm các nhịp sắt... Chỉ khoảnh khắc sau cả hai lại biết mất.
Tất cả mọi vật lại chìm trong mưa rơi tơi tả và ánh chớp thi thoảng lóe lên sáng rực cả một vùng
trời, cùng tiếng sấm vang động.

Khoảng 30 phút sau bỗng hai cột lửa lớn đỏ khé vụt bùng lên từ cây cầu, tiếp liền là hai
tiếng nổ như hai tiếng sét rung chuyển cả núi rừng. Khi ánh lửa vụt tắt, dư âm của hai tiếng “sét”
còn lăn dài mãi trên dọc hai triền núi. Cây cầu đã gãy gục hoàn toàn ở giữa lòng suối. Hai khung ở sắt hai
đầu cầu gần như dựng đứng lên. Bầu trời tiếp tục tối tăm và nhòe nhoẹt mưa rơi...

15

Không phải chỉ có điện từ ngoài Bắc báo về, mà còn có cả không ảnh máy bay trinh sát đã
chụp được khá rõ, kể cả các cơ sở của CIA ở bên Lào cũng cho biết là mới được các nhân viên ở
biên giới báo là có “một lực lượng nào đó” đã phá sập một cây cầu quan trọng trên đường 41 bên
Bắc Việt... Những nguồn tin và chứng cứ nóng bỏng ấy đã hoàn toàn khẳng định, xác minh liên
toán Goblin - Storm, đã phá được cây cầu Tà Vài đúng theo khẳng lệnh của “Trung tâm”.

Tất cả mọi nhân viên CIA, và cả một số nhân viên phía Diệm, Nhu có nhiệm vụ liên can
tới việc này đều hết sức vui mừng. Nhưng trong số những tên đó, tỏ ra vui mừng hơn cả là Senaghi.
Anh ta đang vui vì vừa nhận được tin của tên Argus ở Quảng Ninh báo về đã tuyển mộ được 5
nhân viên, thì có thêm tin về cây cầu Tà Vài này nữa. Anh ta lập tức mở ngay một cây Whisky
thượng thặng tự thưởng cho mình vài ly thật “đã”. Nếu so sánh thì tin về cây cầu còn có phần quan
trọng và nổi bật hơn chuyện tuyển mộ người của Argus khá nhiều. Vui quá! Vui và tự hào nữa. Tự
hào là thay Raphter, anh ta đã góp phần quyết định sử dụng lại toán Goblin sau 8 tháng thử thách,
và cũng chính anh ta đã quyết tâm bổ sung cho nó toán Storm cùng một số vũ khí và phương tiện
đáng kể, để rồi liên toán Goblin - Storm đã lập được chiến công xuất sắc: lần đầu tiên phá hoại
được một cây cầu quan trọng, cắt đứt đường giao thông chiến lược trên toàn vùng Tây Bắc Việt
Nam. Colby và đại tướng Harkins Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy tối cao Mỹ ở Nam Việt Nam
(MACV) đã được nghe báo cáo. Cả hai đều khen Liên toán này, và bảo Diệm phải tặng cho chúng
“Anh dũng bội tinh”, tặng riêng tên Cầm Diêu “Huân chương bảo quốc”. Tất nhiên Senaghi cũng
thầm hiểu: công trạng về phía anh ta cũng sẽ được CIA ghi nhận là cái chắc.

Tin vui nhận chưa bao lâu, tụi Goblin - Storm lại vừa có điện xin tiếp tế để chúng tiếp tục
chuẩn bị đánh phá các mục tiêu tiếp theo.

Tuy nhiên, lần này chúng yêu cầu một khối lượng khá lớn. Đúng là khá lớn! Xét cho cùng
cũng được thôi, miễn là chúng phải tiếp tục đánh thắng! Chỉ có điều đặc biệt đáng chú ý là lần này
chúng xin cả Rocket 3.5 và 4.5! Đây là hai loại vũ khí hiện đại, mới nhất mà Mỹ lần đầu đưa sang
chiến trường Việt Nam. Vậy mà tụi này đã sớm xin như thế có vội quá không? Phải xin ý kiến sếp
Colby đã đành. Có lẽ còn phải xin phép cả tư lệnh tối cao của MACV là tướng Harkins nữa.

Mọi băn khoăn của Senaghi đã được giải toả sau có ba ngày trình lên Colby để Colby trình
lên Harkins. Đã có trả lời: đồng ý tiếp tế đủ những gì mà Liên toán yêu cầu. Không những thế,
Colby còn dặn Senaghi yêu cầu phía Diệm Nhu, kịp thời cho gửi kèm theo hàng những huân
chương tặng thưởng cho bọn Liên toán và Cầm Diêu, như vậy chúng sẽ càng thêm phấn chấn,
hăng hái.

Quyết định ấy như cởi ruột cởi gan Senaghi. Sáng nay anh ta chủ động sang gặp bọn Lê
Quang Tung và Trần Khắc Tính (phó của Tung) để làm việc, một là nghe bọn Tung tường trình về
tình hình các lực lượng do Liên đội quan sát vừa tuyển mộ thêm đồng thời báo cho bọn Tung biết
quyết định của MACV đồng ý cho tiếp tế cả hỏa tiễn 3.5 và 4.5.

Chiếc xe của Senaghi vừa lướt tới đường Lê Lợi thì phải dừng lại. Một cuộc biểu tình lớn
đang kéo dài từ chợ Bến Thành tới trước cửa tòa nhà Quốc hội. Gần như toàn là màu vàng nghệ
chói sáng dưới ánh mặt trời gay gắt. Tiếng hò hét vang động. Băng rôn, biểu ngữ nhan nhản. Lại
Phật tử! Senaghi nhún vai, thở phù. Từ mấy tháng nay những cuộc biểu tình của giới tăng ni Phật
tử luôn nổ ra chống chính quyền Diệm. Báo hại thay, Lệ Xuân, vợ Ngô Đình Nhu, người đàn bà
ấy đã không giúp gì cho anh em ông chồng dẹp đi những chuyện rắc rối ấy, ngược lại như đổ thêm
dầu vào lửa. Bà ta luôn điên khùng tuôn ra những lời lẽ hết sức vô lễ, ngang ngược. Bà ta và cả
Diệm, Nhu có lẽ chưa hiểu hết, vấn đề Phật tử ở đây hôm nay đâu chỉ là vấn đề tôn giáo! Có thể
Diệm Nhu đã bấn lên, đến mức gần như mất hết bình tĩnh và tỉnh táo. Họ mất tỉnh táo có lẽ còn vì
các hoạt động chống đối, đòi dân chủ, đòi cải thiện dân sinh và công bằng xã hội của sinh viên,
học sinh trí thức và các giới khác. Rất lạ là vụ việc nào Diệm, Nhu cũng đều cho là có Việt cộng
đứng đằng sau. Thì cứ tạm cho là như vậy đi, nhưng CIA biết: trước hết là thái độ bất mãn thực sự
của đông đảo dân chúng, trước kia chỉ thấy nổi lên ở nông thôn thì bây giờ bắt đầu lan vào các đô
thị. Dân chúng quả là đã quá ớn anh em nhà họ Ngô rồi. Mà cả Mỹ cũng vậy. Mỹ đã thấy cỗ xe
chống Cộng mà mình tốn công tạo dựng nên rõ ràng đã đến lúc cần phải sớm thay cặp ngựa đã già
nua lại bệnh tật và hay ương bướng vặt nữa, thì mới hòng tiếp tục được cuộc hành trình theo ý
muốn.

Đợi gần một giờ sau, chiếc xe mới thoát đi được.

* *

Lê Quang Tung và Trần Khắc Tính đang kiên nhẫn ngồi đợi.

Senaghi đã tới. Vẫn tác phong quen thuộc, không rề rà chào hỏi hoặc dăm ba câu chuyện
xã giao tào lao, Senaghi vừa nghiêm trang vừa hào hứng thông báo luôn quyết định của MACV:
đồng ý cho xuất cả 3.5 và 4.5. Lê Quang Tung và Khắc Tính đều rất mừng:

- Quá hay! Xin cảm ơn đại tướng và tất cả các ông! Tụi Liên toán hẳn là sẽ hết sức phấn
chấn.

Senaghi nói tiếp:

- Đại tá Colby yêu cầu các ông cho lãnh ngay các thứ Huân chương như đã hứa thưởng cho
tụi nó để gửi cùng chuyến hàng này. Gọi Cầm Diêu bảo nó phải tự ra nhận hàng, cũng là nhận
Huân chương khen thưởng của thượng cấp, cho thêm phần ý nghĩa và phấn khởi.

Lê Quang Tung liếc nhìn Khắc Tính một cái rồi dè dặt:

- Thưa đại tá, theo như tôi biết... Không thể lãnh kịp mấy thứ đó. Kinh nghiệm của chúng tôi là
phải vài tháng nữa là nhanh.

Senaghi trố đôi mắt xanh lè:

- Hả? Sao vậy, ông đại tá?

Lê Quang Tung nhăn nhó:

- Vậy đó thưa đại tá. Ở nơi chúng tôi thường là như vậy. Đại tá mới qua nên chưa rõ: Dù
đã có quyết định rồi nhưng đến khi lãnh được bằng và huân chương thì còn lâu!. Vì còn phải đủ
thứ giấy tờ, còn phải qua hết phòng này tới vụ khác... theo thủ tục.
Senaghi vẫn chưa hết ngạc nhiên:

- Có phải là các vấn đề như tài chính, hoặc nhân sự trọng yếu đâu mà phải cẩn thận, lằng
nhằng đến thế nhỉ? Đây chỉ đơn giản là việc khen thưởng, mà đã quyết rồi. Hơn thế nữa tôi tưởng
ai cũng phải hiểu: khen thưởng càng mau lẹ chỉ càng có hiệu quả tốt, phải không đại tá?

- Vậy đấy, đại tá! - Lê Quang Tung vẫn tiếp tục nhăn nhó và lúng túng đáp.

Senaghi nhún vai. Thảo nào trước khi sang xứ sở này anh ta đã được một vài người bạn
từng làm việc ở đây cho biết: chính quyền ở đây là một chính quyền độc tài, gia đình trị tham
nhũng kinh khủng vào loại hàng đầu thế giới mà quan liêu, vô dân chủ vào loại bậc nhất hoàn
cầu... Nay thấy quả là họ không nói ngoa.

- Thôi được! Tôi sẽ trình tướng Harkins! Các ông cứ lệnh P54 cho tiếp tế ngay trong tuần
này. Rồi sẽ có lệnh cụ thể cho chúng về các mục tiêu tiếp theo.

- Rõ, thưa đại tá!

Sau đó tới phần bọn Tung báo cáo về việc tuyển mộ thêm lính cho cái gọi là Liên đội quan
sát: Tổng số lính mới (không kể cũ) đã lên tới 1500 tên, chủ yếu lấy những tên thuộc GCMA (biệt
kích nhảy dù cũ của Pháp), một bộ phận khác là các phần tử gọi là “tình nguyện” lấy trong quân
đội hiện nay, nhưng chủ yếu là dân thiểu số ở miền Bắc. Do các loại nói trên nay đã cạn, nên bắt
đầu phải mở rộng ra lấy cả người trong đám dân di cư, nhưng vẫn chú trọng chọn người theo Thiên
chúa giáo... Nhìn chung, bọn mới được tuyển mộ đều khỏe mạnh. Nhưng tinh thần bọn này khá
phức tạp, không được như những đợt đầu tuyển mộ trong những năm 1959, 1960, 1961. Tụi mới
càng lộ rõ đầu óc: tất cả chỉ vì tiền. Chậm phát tiền một ngày là đã la lối. Không những thế tính
côn đồ, lưu manh cũng rõ hơn các tụi trước: Có tiền thì ăn xài, nhậu nhẹt, đĩ điếm lung tung. Rồi
trộm cắp của cả sĩ quan chỉ huy, trộm cắp của cả dân và đánh lộn nhau thì như cơm bữa... Nói
chung là khá ô hợp. Bọn Tung, Tính đang hết sức vất vả. Sĩ quan phụ trách ở các nơi tập trung
càng vất vả hơn. Bọn Tung đề nghị CIA tác động mạnh tới anh em Diệm Nhu, nhất là xin MACV
tài trợ thêm để xây dựng các trại huấn luyện hẳn hoi thì mới quản lý được bọn này.

Senaghi ngồi lắng nghe. Rồi anh ta kết luận: dẫu sao bằng mọi giá vẫn phải phát triển thêm
lực lượng gián điệp biệt kích. Vì chủ yếu theo lệnh trên phải tăng cường đánh ra Bắc đã đành, mà
nay ở miền Nam còn phải luôn luôn tung các đội biệt kích đi cứu nguy, giải vây cho các đồn bốt
lẻ bị tấn công, hoặc các đơn vị đi càn quét bị vây hãm. Thêm nữa còn phải tung vào các vùng mà
Việt cộng gọi là giải phóng đang ngày càng mở rộng như ở Cao Nguyên... Như vậy, tình hình ngày
càng khó khăn phức tạp. Nhưng Senaghi hứa sẽ tường trình đầy đủ với Colby và mạnh mẽ ủng hộ
đề nghị của bọn Tung. Nói xong, lại rất nhanh, Senaghi đứng dậy ra về.

Anh ta có ý muốn tranh thủ thời gian buổi sáng nay còn ghé qua bệnh viện Graal để thăm
Hampton đang nằm ở đó. Tuy không thích anh chàng trẻ tuổi quá thông minh này, nhưng dẫu sao
Senaghi biết vẫn còn phải quan hệ làm việc lâu dài với nhau. Hiện nay CIA được lệnh: dù đang
phải lo tăng cường chiến tranh gián điệp biệt kích ra Bắc, nhưng vẫn phải theo dõi và hỗ trợ mạnh
hơn nữa về công cuộc xây dựng hệ thống ấp chiến lược - cái xương sống của kế hoạch Staley -
Taylor. Tướng Harkins đã hối thúc phải hoàn thành về cơ bản kế hoạch này trong năm 1962, nếu
không theo ông ta, kế hoạch sẽ coi như sụp đổ. Hampton đã được Colby chỉ thị phải đi sâu hơn
vào mặt này, nên mối quan hệ của anh ta với bên Senaghi, bên đánh người ra Bắc nay có tạm giảm
đi.

Senaghi vào tới phòng của Hampton thấy một phụ nữ Âu khá trẻ đẹp, ngồi ở đó rồi.
Hampton đang nằm trên chiếc giường nệm trải drap trắng tinh, thấy Senaghi, vội gượng nhỏm dậy
chào, rồi hướng về Diana:

- Tôi hân hạnh xin được giới thiệu với ông: đây là Diana nhà báo Thụy Điển. Còn đây là ngài
Senaghi một trong những quan chức USIS (cơ quan thông tin Hoa Kỳ) kính mến của tôi.

Senaghi miễn cưỡng đưa tay ra bắt tay Diana, người mà anh ta biết không có mấy cảm tình
với Mỹ. Mặt khác, anh ta không vui còn vì có mặt người thứ ba ở đây thì chẳng có thể nói chuyện
gì riêng với Hampton. Nhưng dẫu sao Senaghi vẫn phải miễn cưỡng ngồi xuống để nghe Hampton
kể lại về trường hợp bị ngã trẹo đầu gối, giãn dây chằng của anh ta.

Hampton vừa được cử đi cùng một số cố vấn Mỹ về Kiên Hòa dự buổi “khánh thành” ấp
chiến lược Hòa An. Đây là một trong những ấp lớn trầy trật mãi mới lập được. Dân chết không ít
mà lính và sĩ quan Diệm cũng đã đổ máu ở đây tới hàng đại đội. Sau phải đưa tới mấy tiểu đoàn
về càn mới gom được dân, rào được ấp. Vì thế tỉnh mới chủ trương làm lễ khánh thành trọng thể
để biểu dương chiến tích. Hôm đó đã rất trễ mà buỗi lễ vẫn chưa bắt đầu được, viên thiếu tá tỉnh
trưởng Kiến Hòa hết sức sốt ruột. Khách trên “Trung ương và cố vấn” đã tới đủ mà mãi vẫn chỉ
thấy lèo tèo vài chục người hầu hết là đàn bà trẻ nhỏ. Cuối cùng anh ta vẫn phải miễn cưỡng lên
đọc diễn văn khai mạc. Lúc đó bọn đàn bà trẻ con càng nói chuyện, càng cãi nhau om sòm, hết sức
mất trật tự. Lính, sĩ quan gào thét thế nào cũng không được. Đúng lúc ấy, có một tốp đàn ông nông
dân như đi làm đồng về, quần áo bê bết bùn đất, cuốc xẻng lăm lăm trong tay. Rồi một con trâu
lực lưỡng không rõ từ đâu bỗng chạy thẳng vào đám lính đang đứng làm hàng rào danh dự trước
lễ đài. Bọn lính tức giận la lên: “Bắt lấy nó! Bắt lấy nó! Con trâu này vô lễ thiệt!” Con vật sợ, càng
lồng lên như điên. Bọn lính vỡ hàng, chạy tan ra. Con trâu đang đà húc đổ luôn cả lễ đài. Quan
khách đến lượt mình hoảng hồn cũng tung lên tháo chạy. Viên tỉnh trưởng bèn nổ súng thị uy. Lập
tức tất cả đám đông cùng trào lên, hô lớn: “Đả đảo quốc sách ấp chiến lược!”, “Đế quốc Mỹ cút
đi!”... Rồi trong đám đông hỗn loạn ấy có tiếng la: “Giải phóng tới! Giải phóng quân tới đó! Chạy
đi!” Thế là tung tóe hết, chẳng biết có Giải phóng quân thực hay không, cứ mạnh ai nấy chạy, cả
quan khách, cả lính tráng. Cũng may, mấy chiếc xe hơi của nhóm cố vấn đỗ gần đó nên những
người Mỹ chạy được hết. Tuy nhiên, khi gần tới xe Hampton chẳng may bị thụt một chân xuống
cái hố khá sâu ngã còng queo. May có người kéo lên và dìu được anh ta lên xe phóng chạy thục
mạng...

- Thế đấy, thưa ông, một vở bi hài kịch khá đẹp đối với tôi đã đành mà có lẽ còn cả với
tỉnh Kiến Hòa nữa!

Hampton kết thúc câu chuyện của mình bằng một nụ cười gần như trào lộng. Liếc nhìn ánh mắt
rất thông minh và đầy hài hước của cô phóng viên ngồi đối diện, Senaghi biết cô ta cũng đang nghĩ
gì. Senaghi cảm thấy khá nặng nề trong đầu. Dẫu sao, anh ta cũng là một sĩ quan cao cấp của CIA
Mỹ. Người Mỹ vốn quen kiêu hãnh...
Đã toan thăm hỏi mấy câu chiếu lệ rồi rút, nhưng Senaghi vẫn phải nán lại vì Diana đột
ngột hỏi:

- Thưa ông, rất hân hạnh và may mắn được biết ông cũng quen biết Hampton, nhất là được
may mắn gặp ông ở đây, mong ông vui lòng cho biết đôi nét về tình hình chung công cuộc xây
dựng ấp chiến lược với các chiến thuật “Trực thăng vận”, “Thiết xa vận” và cả công việc ném biệt
kích gián điệp ra Bắc của các ông hiện nay, có được không ạ?

Mở to đôi mắt xanh lè, Senaghi mím môi im lặng mấy giây chừng như để cố nén sự bực
dọc, khó chịu hơn là để nghĩ câu trả lời. Rồi khó nhọc và mệt mỏi anh ta cất tiếng hỏi lại:

- Nếu tôi không lầm, thưa cô, cô định phỏng vấn tôi hay sao đây?

Diana tươi cười, vẻ rất hồn nhiên:

- Ồ không! Không, thưa ông! Tôi đã nói rồi: rất quý trọng ông vì ông cũng quen biết
Hampton bạn tôi, lại được biết ông là quan chức của USIS nên tin là ông biết nhiều. Hơn thế nữa,
quan chức USIS theo tôi biết rất dễ dàng cởi mở trong việc cho dân chúng hỏi về mọi điều muốn
biết mà!

- À ra thế - Senaghi nhếch miệng cười, rồi nhún vai - Thôi được, vậy tôi có thể tóm tắt vài
lời để cô vui lòng. Nhưng trước hết tôi xin phép sửa lại câu nói của cô vừa rồi: “của người Mỹ”.
Không, thưa cô, tất cả là của chính phủ ông Diệm. Người Mỹ chỉ làm cố vấn. Vâng, cố vấn cho
bạn, cho đồng minh của mình. Còn bây giờ để trả lời cô về tình hình, tôi muốn nhắc lại là: Cô là
nhà báo hẳn còn nhớ tổng thống Diệm vừa mới tuyên bố trên đài phát thanh về “lòng tin tưởng
(của ông ta) về sự toàn thắng của chính nghĩa quốc gia”. Còn đại tướng Harkins chỉ huy trưởng
MACV cũng đã tuyên bố như đồng ý với ông Diệm là: “Cuộc chiến tranh đang lúc chiến thắng.
Cộng sản Việt Nam sẽ bị đè bẹp trong năm nay”. Đó, USIS chúng tôi chỉ có thể cung cấp, nói cho
đúng hơn là nhắc lại vài tin với cô.

Senaghi cũng không ngờ Diana là tay đáo để. Không hề nao núng trước thái độ của anh ta,
cô hỏi lại luôn như một lời chế giễu:

- Rất cám ơn ông đã cho biết như thế, vậy tôi cũng xin phép được bổ sung cho đầy đủ thêm: Tổng
thống Kennedy cũng vừa tuyên bố: “Ngày thắng lợi đã gần”. Có phải thế không ạ?

- Cô khá đấy, cô nhà báo ạ! - Senaghi thoáng đỏ mặt và phải bật thốt lên trước đòn phản
công của Diana.

- Dạ, ông quá khen! - Đầy bản lĩnh, Diana bình tĩnh, thoải mái, tiếp tục nói - Bây giờ xin
phép ông được trình bày ý nghĩ thực của tôi: cứ theo nguồn tin các nhà báo chúng tôi được biết
thì... hình như tất cả mọi chuyện không hề được như những gì mà mấy ông lớn nọ đã quá lạc quan
tuyên bố. Có phải thế không ạ? Xin lấy một dẫn chứng nhỏ và ngay trước mắt: vụ khánh thành ấp
chiến lược Hòa An, mà hậu quả là anh bạn Hampton của tôi suýt nữa què đây, thưa ông.
Tới lúc đó Senaghi dường như không chịu nổi con người muốn đấu đá này. Anh ta nghiêm
mặt lại:

- Tôi rất tiếc là không có thì giờ để tranh luận với cô. Xin hẹn một dịp khác. Cô vui lòng
vậy!

Nói đoạn anh ta bắt tay Hampton và khẽ gật đầu chào Diana, rồi bước vội ra khỏi phòng. Diana
nhìn theo, rồi quay lại phía Hampton, cất tiếng cười. Hampton cũng mỉm cười, nhưng lắc đầu:

- Bạn ạ, rồi ông ta sẽ bô báo là tôi chơi thân với một nhà báo không có cảm tình với Mỹ
cho mà xem!

- Anh sợ hả?

- A không, không sao! Chỉ cần một điều: nhà báo ấy... rất có cảm tình với... một người Mỹ,
thế là quá đủ rồi, phải không Diana? - Lẳng lơ, Hampton đáp lại.

* *

Chờ thêm mấy ngày nữa, khi trăng non đã khá tỏ, một chiếc C47 lại được chất lên khá
nhiều vũ khí trong đó có cả loại hỏa tiễn 3.5 và 4.5 cùng thuốc nổ, thuốc chữa bệnh, lương thực và
một số máy truyền tin như máy thu phát vô tuyến điện sóng cực ngắn URC4 có làn sóng điện tần
số 12,5Mcs, máy thu phát vô tuyến điện BN2 kiểu RT/A-3 có làn sóng điện tần số 1620Kcs. Đây
là những loại máy VTĐ hiện đại nhất của Mỹ nay chuyên dùng cho các lực lượng dưới mặt đất.
Hai cố vấn Mỹ trực tiếp làm việc với P54 là Tom và Andrew ra kiểm tra rất tỉ mỉ máy móc các
loại trên phi cơ. Ngô Thứ Lân cùng tên đại uý Quýnh cũng ra kiểm tra lại tất cả các “hàng quý”
đưa đi. Khi mọi việc kiểm tra đã hoàn tất, chiếc C47 không số, không cờ ấy âm thầm, bí mật cất
cánh. Bọn Lân, Quýnh cùng hai viên cố vấn Mỹ trẻ tuổi cùng giơ tay vẫy chào chúc “thắng lợi”.
Quýnh tươi cười, hân hoan nói nhỏ với Lân:

- Chưa nói tới các “của độc”, riêng vũ khí cá nhân, cũng đủ để tụi nó trang bị cho một đại
đội. Còn máy truyền tin thì cả một Bộ chỉ huy sư đoàn xài cũng thoải mái phải không trung tá?

Lân chỉ gật đầu, kín đáo, không nói năng gì.

Chiếc C47 rời sân bay Tân Sơn Nhất, thẳng tới hướng Bắc. Chẳng mấy chốc nó đã qua
Pleicu. Rồi Đà Nẵng. Từ đây nó bắt đầu bay ra biển. Một giờ sau nó đã tới ngang địa phận Thanh
Hóa. Từ đây nó bắt đầu bay vào đất liền nhưng chỉ với độ cao 200 mét, rất thấp, để tránh mọi rađa.
Đường bay cũng đã có đổi khác so với mọi lần đột nhập trước.

Đúng 23 giờ 20 phút, chiếc máy bay đột nhập bắt đầu nhận được ám hiệu từ dưới mặt đất vọng
lên. Rồi tiếp đó là những lời hướng dẫn khá tỉ mỷ, đưa dắt nó hướng thẳng tới bãi thả. Đêm nay
không phải là Cầm Diêu mà là Quách Rinh, toán trưởng Storm nay là phó của Liên toán ra đón
hàng. Quýnh không biết nhiều về tên họ Quách này nhưng không hiểu sao có rất ít cảm tình với
hắn. Có lẽ vì hắn đã kém văn hóa lại hay nói nhiều và không đâu vào đâu, lại nói ngọng nữa, cứ L
thành N, mặc dầu khả năng chỉ huy của hắn cũng không đến nỗi tồi.

23 giờ 30 phút. Từ trên chiếc C47 viên trung tá tên Giá của P54 có trách nhiệm phụ trách
chuyến thả hàng đã nhìn thấy ánh hỏa châu cháy sáng dưới mặt đất. Càng gần, hắn càng nhìn rõ
các hỏa châu được ghép thành hình chữ L ngược đang cùng như thi nhau phun lửa lòe lòe. Giá
mừng rỡ ra hiệu cho tụi kickers (nhân viên chuyên việc thả hàng): “Hãy sẵn sàng!”. Rồi hắn gọi
như reo lên trong máy truyền tin liên lạc với mặt đất:

- Hoa Ban! Hoa Ban! Hãy đón nhận quà! Chúng tôi bắt đầu “gửi” đây!

Và sau đó là một mệnh lệnh vang lên trên máy bay:

- Fling! (ném, tông ra...)

Những chiếc dù xám chuyên mang hàng lần lượt tuôn ra. Chúng mở xòe, rồi bay lơ lửng.
Đêm nay thật tuyệt, không có gió to. Các dù đều từ từ rơi xuống khá chụm...

- Cám ơn! Cám ơn! Tốt “nắm”! Tốt “nắm!”

Từ dưới mặt đất, tiếng của tên Rinh vang lên hết sức vui vẻ, sảng khoái.

Do gần như chủ động hoàn toàn trong vụ này, từ “moi” cho tới đón nhận “hàng”, nên ông
Trường đã báo trước cho ông Vạn. Bởi vậy, nay vừa thu nhận được đầy đủ “hàng” đúng như ý
muốn, đúng như nguyện vọng muốn có một số vũ khí tốt để gửi vào Nam tặng anh em Giải phóng
quân, ông Vạn đã kịp thời xuống đội, và lại đem theo một con lợn là quà tặng của Khu Công an
Tây Bắc.

Vậy là một bữa liên hoan túy lúy được mở ra giữa “quân” và “dân” như một, hai lần trước.
Ông Thạc trên Cục xuống rất đúng lúc. Anh em tay bắt mặt mừng, cuộc vui thêm rôm rả. Ông
Thạc mang theo lời khen của Bộ gửi toàn thể anh em trong Đội và các lực lượng địa phương đã
hết lòng phối hợp, giúp đỡ đón nhận hàng hết sức trót lọt và có chất lượng cao này.

Tuy nhiên, đến khuya, khi tiệc đã tàn, khách địa phương ra về hết, anh em nhân viên, cảnh
vệ ai nấy quay lại nơi của mình, các ông Thạc, Trường, Vạn vẫn phải tranh thủ hội ý về công việc
tiếp theo của Đội. Cùng hội ý có cả An và hai cán bộ trinh sát mới về Cục đi theo ông Thạc xuống
đội để tiếp nhận tang vật vận chuyển về Hà Nội.

Tới lúc này ông Thạc mới phổ biến chỉ thị của Bộ:

- Các đồng chí ạ! Bộ chỉ thị cho chúng ta, tôi xin được truyền đạt lại, phải bàn ngay một
kế hoạch trì hoãn, không để cho địch đòi hỏi ta, buộc ta phải tiếp tục phá hoại các mục tiêu khác.
Cứ tiếp tục như vậy sẽ hết sức bất lợi.

Mọi người cùng như ngồi ngẩn. Dường như vẫn còn đang say sưa về vụ đón hàng, chưa
mấy ai kịp nghĩ gì khác. Thậm chí có người còn thầm nghĩ đơn giản: sẽ tiếp tục tiến tới với đà này.
Sẽ lại vờ phá tiếp một vài mục tiêu nào đó để rồi lại đòi chúng phải tiếp tế ra những món hàng quý
hơn nữa. Vậy mà nay lại có chỉ thị kìm lại!

Thế đấy, các đồng chí ạ, Bộ sớm nghĩ tới chuyện này là sáng nước lắm! Ta phải bàn thực
hiện cụ thể ngay - Ông Thạc nghiêm trang nhắc lại.

- Vâng, phải bàn ngay rồi trình Bộ, nếu không chúng sẽ điện ra ngay bây giờ đấy!

Bấy giờ mọi người mới như tỉnh hẳn rượu, và nhận ra được: đúng là địch gửi hàng lớn và
quý ra không phải là để tưởng lệ công lao Liên toán đã phá được cây cầu, mà cái chính là để cho
Liên toán chuẩn bị phá thêm những mục tiêu tiếp theo, phá nhiều điểm hơn nữa. Như vậy “lợi sẽ
bất cập hại”, nghĩ kỹ lại, đúng là nếu cứ để địch hối thúc phá tiếp, phá nhiều hơn nữa, sẽ hết sức
bất lợi cho ta về vật chất đã đành, mà còn lớn hơn là về chính trị: dân chúng sẽ dần dần hoang
mang tin rằng địch đã tung được biệt kích gián điệp ra Bắc thành công, chúng đang phá ta lung
tung...

Nhưng làm sao để “hoãn binh? Làm thế nào có thể từ chối khéo những đòi hỏi tiếp theo
của địch mà không lộ, mà vẫn tiếp tục “moi được ruột móc được gan chúng?” Khó đấy! Cuộc đấu
trí, đấu mưu này rõ ràng mỗi ngày một thêm gay go, phức tạp...

Gần như không mấy ai ngủ được nữa. Mờ sáng đã thấy ông Trường lò mò dậy đun nước
để pha trà, rồi vấn điếu thuốc sâu kèn, âm thầm ngồi hút trong bóng tối. Cả ngày hôm ấy lại họp.
Đến tối lại họp. Cuối cùng, rồi cũng nhất trí vạch ra được một kế hoạch gọi là “Trì hoãn”. Phải,
tạm trì hoãn, chứ không phải cứ tiếp tục tiến lên một cách đơn giản như có người đã nhầm tưởng.
Nghĩ ra kế rồi bấy giờ mới thấy nhẹ người. Đã nửa đêm, ông Trường khoái lên còn tự đi nấu một
nồi cháo với mấy cái xương lợn còn lại, để anh em cùng “bồi dưỡng” cho bõ lao tâm khổ tứ.

Qua ngày thứ ba, các kiện hàng đã được đóng lại cẩn thận. Một đoàn dân công trong bản
đã được huy động tới khiêng vác giúp, đưa ra bờ sông Đà. Hai chiếc xe tải đã chờ sẵn ngoài đó.
An đã lâu chưa về, nay được cả ông Thạo, ông Trường cử đi theo hàng cùng hai anh cán bộ trinh
sát mới của Bộ về Hà Nội. An được giao nhiệm vụ thay mặt Đội báo cáo trực tiếp với Bộ về cái
gọi là kế hoạch “Trì hoãn”, và nhận chỉ thị bổ sung sau đó được tranh thủ về thăm nhà.

Đoàn dân công gồng gánh, gùi cõng cùng rồng rắn xuất phát từ mờ sáng, xuôi ra phía sông
Đà. Gần ba mươi cây số đường rừng, khá vất vả. Cũng may phần lớn là đổ dốc, nên đi cũng nhanh.
Khoảng 5 giờ chiều mọi người đã ra tới bờ sông, ngay gần địa điểm cũ của “Trạm khảo sát sông
Đà” nơi mà Đội đã ở hơn một năm qua. Trong lúc anh chị em đang tíu tít mang hàng lên xe tải, thì
một chiếc xe con Rumani tàng ở đâu phành phành phóng tới. Thấy có xe tải và đông người đang
chất hàng, chiếc Rumani dừng lại. Một người thò đầu ra ngơ ngác nhìn. An chợt nhận ra ông Lý
Quang Giong, vẫn chưa quên ông đã biết anh là Công an hồi phá vụ án Cầm Ngọc Lủ ở biên giới
Sơn La và Yên Bái năm 1959. Anh cũng vẫn còn nhớ lần gặp ông hồi năm ngoái, cũng ở đây, anh
đã tự giới thiệu mình đã chuyển công tác sang “Đội khảo sát địa chất sông Đà”.

- Anh chị em ở đâu thế? Hàng gì mà nhiều vậy? - Ông Giong vui vẻ hỏi to.
An đứng ở xa, lẫn trong đám đông, ông không nom thấy. Anh cũng muốn tránh nữa. Một
anh cán bộ trinh sát của Bộ nhanh nhảu đáp thay anh:

- Hàng của đội khảo sát địa chất sông Đà chúng cháu đấy bác ạ!

An mỉm cười, thở ra nhè nhẹ. Cái “nghề” của bọn anh nó là như vậy - cái nghề đã gian nan,
vất vả lại còn luôn luôn âm thầm trong bóng tối. Cũng bởi vậy đã phải luôn luôn như tự xóa mình
đi, không phải chỉ là dấu vết, mà có khi cả những ước mơ, những hy vọng cá nhân, riêng tư, cho
dù trong sạch, lành mạnh, để rồi tự khích lệ, lấy mục đích của sự nghiệp làm niềm vui và cổ vũ
gần như duy nhất.

Cũng may, chiếc xe chỉ dừng lại một chút rồi tiếp tục chạy...

16

Đã cuối thu 1963. Dòng sông Hồng trở lại hiền hòa tuyệt đẹp với bãi Giữa xanh tươi, với
đôi bờ cát trắng, dân cư sầm uất. Bãi Phúc Xá lại khô ráo với cảnh sông còn nghèo nàn nhưng yên
vui, đầm ấm. Vì đã có kế hoạch trì hoãn nên suốt mùa hè và cả đầu thu vừa qua ông Trường đã
được Cục luôn gọi về, cử đi nắm tình hình và giúp chỉ đạo một số đội chuyên án từ Hà Tĩnh, qua
Nghệ An ra tới Thanh Hóa. An được giao thay ông “giữ gôn” ở nhà. Ông mới trở ra Hà Nội. Làm
việc với Cục được dăm bữa, hôm nay lại ba lô ngược Sơn La. Lần này ông đem về đội chuyên án
SL06 quá thân thuộc của ông một chỉ thị mới nhất của Cục.

Ông Trường lên tới Khang Kha; rảnh việc, An đang cùng cánh cảnh vệ luyện võ huỳnh
huỵch. Nom thấy ông Trường, An mừng rỡ reo lên, chạy tới ôm chầm lấy ông và hỏi ngay:

- Thế nào ông anh? Các “Cụ” đồng ý hay không?

- Đồng ý cả thôi! Các “Cụ” bảo ý kiến chúng ta đúng. Tớ lên hôm nay có mang theo chỉ thị cụ thể
đây!

- Ôi, suốt mấy tháng qua anh và các anh ở trên Cục, trên Bộ thì bận tối mặt tối mày, hết vụ
này đến vụ kia... Còn chúng tôi trên này lại cứ như lũ thất nghiệp!

- Ấy, thất nghiệp là do chủ quan ta muốn thế đấy chứ! Mà thất nghiệp là mừng đấy ông
bạn ạ!

Cả đội cũng vui hẳn lên, khác với mọi ngày quá âm thầm, buồn tẻ, chỉ trừ những giờ có
phiên “đấu” với địch.

Đêm xuống. Không thấy anh em cán bộ, nhân viên trong Đội ở mấy chiếc nhà sàn chung
quanh cười đùa nữa. Nhà bên này, mọi người trong gia đình ông bà chủ cũng đã đi ngủ cả, ông
Trường mới đưa cho An một mảnh giấy nhỏ với những dòng chữ viết khá to, nét phóng khoáng,
táo bạo, nét chữ “không trộn đi đâu được” của chính ông. An ghé sát mảnh giấy bên ngọn đèn để
đọc cho thật rõ. Đó là một bức điện, mới được thảo ra, chưa được mã hóa:
... Trình Trung tâm, thừa lệnh Trung tâm, Goblin đã nhiều lần gắng thuyết phục anh em bên Storm
để giữ gìn đoàn kết, tôn trọng kỷ luật như Trung tâm đã chỉ thị qua các điện trước đây.

Nhưng công sức uổng hết. Anh em bên Storm vẫn tỏ ra trễ nải, kỷ luật rất lỏng lẻo. Tất cả
vẫn vì tranh công đổ lỗi. Quách Rinh có biết tự kiềm chế hơn, nhưng trong lòng cũng thế cả, vẫn
nhiều vướng mắc về công trạng, nên hay cáo ốm, không hăng hái thực thi mọi trách vụ như hồi
đầu. Nay chúng tôi thấy nếu cứ tiếp tục kéo dài tình trạng này e sẽ bất ổn, có khi xảy ra chuyện
nguy hiểm. Tôi đề nghị Trung tâm cho tách Storm ra. Cho họ trở lại thành một toán độc lập như
ngày mới xuống. Chuyển họ xuống vùng Mộc Châu hoạt động. Nơi đó chắc chưa có toán nào.
Như vậy sẽ sử dụng được Storm tốt hơn. Còn chúng tôi vẫn hoạt động tiếp ở khu vực trên này
đúng theo nhiệm vụ mà Trung tâm đã trao. Ký tên C. D.

An đọc xong, ngẩng lên nhìn ông Trường, cười. Ông Trường hất hàm hỏi:

- Thế nào? Có thêm gì không?

An đọc lướt lại bản thảo bức điện lần nữa:

- Đủ rồi. Ông anh đã thảo, lại được bác Công Năng xem lại, rồi Bộ trưởng duyệt nữa thì còn bổ
sung vào đâu được!

Ông Trường móc túi lấy thuốc lá, nhưng cả thuốc điếu, cả thuốc rê đều hết. Ông vớ lấy
chiếc điếu cày dịt một mồi thuốc lào, châm lửa, rít một hơi dài, nhả khói ra, rồi khoan khoan tiếp:

- Tớ vừa đi cái chuyên án Sông Mã - Thanh Hóa về, cũng “ngon lành” lắm, có lẽ rồi cũng
chẳng kém gì cái SL06 này. Bọn Sài Gòn tỏ ra tin lắm...Tổ vừa ở đấy về thì được Cục cho biết
việc Ban ta xin chuyển sang một “miếng” mới là xin tách toán. Các “cụ” ở trên đã trao đổi ý kiến
và nhất trí, vì thấy nếu cứ kéo dài mãi một “vở” để lừa nó thì dễ lộ. Phải luôn luôn thay đổi các
“vở”, các “miếng” mới hay. Vì thế Cục bảo tớ thảo bức điện này, trở về cùng các cậu thực hiện.

An mừng lắm!

Vừa qua, ông Trường phải liên tục đi làm nhiệm vụ của Cục trao, nhưng đã có chủ trương,
kế hoạch cụ thể, An cùng những người giúp việc đã tiếp tục thực hiện đầy đủ các miếng trong kế
hoạch trì hoãn. Trước hết, đã gửi vào một loạt điện, báo cho “Trung tâm” là từ khi cây cầu Tà Vài
bị phá, quân đội, công an, dân quân, tự vệ... Bắc Việt đã ráo riết tăng cường tuần tra canh gác
không những suốt dọc đường 41, mà còn dọc sông Đà. Goblin ra đường 41 lần nào phải lẩn tránh
lần đó, không những thế đã có lần đụng độ. Đã chết một tên, bị thương ba... Kết quả là bọn Sài
Gòn phải chờn, không dám ra lệnh phá tiếp ngay nữa, và căn dặn phải di chuyển địa điểm luôn
luôn để giữ tuyệt đối an toàn, bí mật, đúng với nguyên tắc xử sự của tình báo, gián điệp: khi đã có
động phải nằm im ngay, chờ cơ hội. “Thừa thắng”, bọn An lại tiến lên, báo là có một số trận mưa
lũ đã bất ngờ giáng xuống, đất sụt lở và suối lũ đã cuốn đi mất mấy “kho” vũ khí và lương thực dự
trữ. Cũng hết sức hợp lý, có thể tin được. Thế là “Trung tâm” phải tiếp tế bổ sung. Tiếp đó, bọn
An đã theo kế hoạch của Ban vạch ra từ đầu đề nghị lên Bộ xin chuyển sang thực hiện một bước
mới: giả tạo hai toán đổ đốn lục đục với nhau, đã nhiều lần gửi điện vào Sài Gòn phàn nàn: nay
căn cứ tạm ổn nhưng lại xảy chuyện cánh Storm sinh ra hay tị nạnh với cánh Goblin về công lao,
nhất là công phá cầu Tà Vài, do đó Storm đã trở nên vô kỷ luật, khó bảo. Tinh vi hơn, bọn An vẫn
theo kế hoạch đã thống nhất vạch ra, còn cho gửi cả điện giả của toán Storm, coi như bọn này cũng
gửi nhưng là gửi lén Cầm Diêu, kêu ca: quân của Goblin hay đè nén, coi thường quân của Storm,
nên bây giờ chán nản lắm... Kết quả thật thú vị: “Trung tâm” đã phải liên tục điện ra kêu gọi “đoàn
kết”. Chuyện này đã kéo dài hơn một tháng. Đến nay tiến thêm bước nữa, lại xin phép Bộ giả cho
chúng đòi tách toán. Tính toán như thế rất có lợi cho ta: liên toán sẽ nhỏ đi, nhưng chính vì thế
mỗi toán sẽ cần được bổ sung thêm phương tiện và người. Ngoài ra phải có thì giờ cho các toán di
chuyển và cả thì giờ để củng cố nội bộ, như vậy việc phá hoại càng phải lui lại... Nay ông Trường
lên cho biết tin, Bộ đã đồng ý, không mừng, không vui sao được?

Hào hứng, nhưng An vẫn gặng lại:

- Nhưng liệu bọn nó có cho tách không bác?

- Tách là cái chắc! Tớ tin như vậy. Trong công tác tổ chức, chúng nó không kém cạnh gì
mà không hiểu: đã lục đục kéo dài, thì phải cho tách thôi. Thêm nữa, bây giờ nhớ lại và phân tích
ra thì cái việc nó cho sáp nhập với nhau cũng chỉ là tạm. Vì Storm là “con” của Goblin đã đành,
còn vì bước đầu e bọn Quách Rinh xớ rớ, lại muốn cho Cầm Diêu có thêm lực lượng để làm một
cú đột phá chắc thắng: “sốt tê” (sauter: phá đổ, phá sập) cây cầu Tà Vài. Ngoài ra, tụi nó có thể
đồng ý cho tách là vì như trong điện tớ đã gợi: nên cho bọn Storm xuống vùng Mộc Châu, vì dưới
đó chưa có toán nào. Như thế là hết sức hợp lý, và rất có lợi cho chúng. Tớ cuộc với cậu là nó sẽ
tách đấy!

Vừa nói ông vừa mạnh bạo đưa bàn tay ra cho An như thể cùng cam đoan cá cược. Cả hai anh em
cùng trò chuyện mãi, khi đồng hồ chỉ hơn một giờ sáng hai người mới chịu đi nằm. Nhưng trước
khi ngủ, kéo tấm chăn mỏng lên ngực, ông Trường vẫn còn chõ sang phía An nói vui:

- Này! Mẹ kiếp, trong kia tụi Mỹ - ngụy hẳn đang hình dung ra cả hai toán của chúng nó
vẫn còn đang quây quần khá đông đủ trong một “mật khu” an toàn, kín đáo, được canh phòng cẩn
mật, mìn cài tứ phía... Có biết đếch đâu bọn ấy đang ở tất trong Thanh Đồng. Còn “hai toán” ở đây
chỉ là hai thằng mình và mấy cậu nhân viên còm.

An nói vui theo:

- Đúng vậy! Mà, ông anh ạ, tụi “Goblin và Storm thật” bây giờ có khi lại sướng và nhàn
hơn “Goblin và Storm dởm” đấy!

- Phải! Phải! Nhưng mà nhớ mai đến phiên, vẫn phải bảo thằng Páo đánh bức điện ấy đi
cho thật tốt đấy nhá! Còn thằng Vi Văn Giống điện báo viên của tụi Storm, cứ để đấy, bao giờ
trong kia chúng nó trả lời OK và Bộ ta cho thành lập Đội chuyên án mới ở Mộc Châu, thì mới cho
nó đi!

Vừa nói xong, chỉ lát sau ông đã ngáy pho pho...

*
* *

Ngô Thứ Lân ngồi thừ trước bức điện “của Cầm Diêu” và cả bức điện gửi lén “của Quách
Rinh”. Suốt cả tuần nay Lân đang nẫu cả ruột vì bị cấp trên “xạc” về chuyện không nắm vững
được các toán đã ném ra Bắc, địa điểm nọ nói lộn với địa điểm kia, toán này lầm với toán khác...
Nhưng đâu có phải là do anh ta làm ăn bê bối! Từ cuối tháng 5, nhất là tháng 6 vừa qua, từ Colby
tới Nhu; từ Tung tới Tính, cho tới cả Senaghi.. cứ hối thúc tít mù lên là phải ném nhanh, ném nhiều
hơn nữa. Nhanh và nhiều đến nỗi không còn nắm chắc được như trước: tháng 4 là Pegasus rồi
Jason, tháng 6 còn dồn dập hơn nhiều: Nào Bart, nào Becasine, nào Bell, nào Dauphine, nào Tellus,
nào Midas rồi Nike... Qua tháng 7 ném tiếp Hadley, Packer, Dragon, Europa. Mới đây nhất, đầu
tháng 8 là toán Easy ở vùng sông Mã (Thanh Hóa) và bổ sung một toán nhỏ nữa cho Rimos ở tây
đường 41... Dồn dập như vậy nhưng hiệu quả chưa biết ra làm sao: một hai toán này nhảy xuống
đã mất luôn liên lạc, không rõ sống hay chết, hoặc bị tóm hết. Một số toán khác có liên lạc nhưng
điện báo viên đã ngầm báo là đã bị bắt và cưỡng chế làm việc cho đối phương chơi “trò nghiệp
vụ”. Chỉ được một hai toán không có ám hiệu xấu, nhưng cũng vẫn cứ ngờ ngợ theo cảm giác tình
báo “chưa thể hoàn toàn tin cậy ngay được”... Cho nên tất cả vẫn chỉ là số lượng. Sự dồn dập này
có nguyên nhân, dù không ai chính thức nói, nhưng Ngô Thứ Lân biết: CIA đã bị MACV “đì” là
1962 làm ăn vẫn còn cò con. Không những MACV, mà cả DIA (tình báo quân đội Mỹ) cũng dè
bỉu, thậm chí còn đòi chuyển tất cả biệt kích gián điệp (cả lực lượng chuyên hoạt động trong Nam
và lực lượng ném ra Bắc) từ CIA sang cho quân đội (Mỹ) chỉ huy mới có thể mạnh mẽ và có hiệu
quả lớn. Bởi vậy Colby mới sốt vó lên. Ném và ném! Cốt tạo được không khí ồ ạt, mạnh mẽ đã!
Nhưng khi MACV thẩm tra thấy ném đi quả có nhiều hơn, nhưng hỏi lại cặn kẽ tình hình từng
toán thì CIA báo cáo rất thiếu tỉ mỉ, thậm chí còn lẫn lộn... Tất nhiên Colby phải “chịu trận” trước
hết. Nhưng rồi trút giận lên đầu Senaghi, ông ta đã cạo cho anh ta một mẻ nên thân. Nhưng rút cục
cái anh giơ đầu chịu báng nhiều hơn cả vẫn là cái P54 này, mà cụ thể là Ngô Thứ Lân. Đúng là cái
thân “đầu chày đít thớt” nó cực nhục như thế đấy!

Đang buồn phiền về chuyện này, bây giờ lại thêm hai cái điện “điên ruột”! Cả hai tên Diêu
và Rinh đều không bảo nhau mà cùng xui tách toán!

Chúng vẫn chẳng chịu ai hết! Ừ thì tách cũng được, vì thực ra việc ghép cũng chỉ là có ý tạm thời.
Nhưng tụi nó lục đục mãi thế này, mấy ông sếp trên chóp bu mà biết lại thêm phiền! Phải nói năng,
tường trình ra sao bây giờ cho êm chuyện này?

Chợt có tiếng gõ cửa. Đại úy Quýnh, “ông lý toét” vui mừng bước vào. Giơ tay chào nghiêm
chỉnh, Quýnh nói luôn:

- Trình sếp, đã nhận được bằng và huân chương cho tụi Liên toán Goblin - Storm và cả
bằng huân chương của tên Diêu nữa! Tướng Harkins đã điện cho Tổng thống mà! Chấm hết sao
được!

Vẫn cau có, Lân đẩy hai bức điện xin tách toán cho Quýnh:

- Coi cái này đi đã!

“Ông lý toét” vội vã cầm lên đọc nhanh. Rồi đặt xuống, y như ú ớ:
- Thưa, thế này... thế này... là thế nào ạ?

- Thế này là lại rách việc chứ sao!

- Nhưng, thưa sếp...?

- Cũng sẽ cho tách được. Mà cũng tốt thôi. Chỉ có điều là làm sao cho các vị trên kia đừng
có... vặn vẹo thế này thế nọ.

- Dạ, nắm được ý sếp rồi! Vậy, thưa sếp, còn hai cái huân chương này thì sao ạ?

- Thì gửi cho chúng nó chứ sao!

- Nhưng nếu... cho tụi nó tách thì cái huân chương cho Liên toán này...

- Cho tụi Storm! Còn thằng Diêu đã có của nó rồi. Thế là cân bằng, không có gì phải tị
nạnh nhau cả.

- Dạ, thưa sếp, nhưng, tôi trộm nghĩ: có nên gửi cái của tên Diêu ra Nha Trang cho vợ nó
mừng không ạ?

- Hừm! Anh quên là con Nhạn đã theo cha Quyến sang Thái Lan rồi sao?

Bấy giờ “ông lý toét” mới ngớ ra, gãi đầu gãi tai:

- À, chết chết, tôi quên. Xin lỗi! Đúng là ả nọ đã tút mất rồi còn đâu. Cũng khổ cho thằng
Diêu...

- Ôi, kệ cha chúng nó! Bây giờ, anh phôn lên văn phòng Sở xin cho tôi lên tường trình về
việc hai thằng xin tách toán. Việc này phải có ý kiến của Sở đã đành, lại còn phải qua “sừ” Senaghi,
rồi có khi cả sếp Colby nữa không chừng...

Trước khi quay ra, Quýnh còn cố hỏi vớt một câu, có ý thân tình:

- Sếp ạ, không hiểu sao hồi này trên cứ thúc ném đi như điên. Vậy... có chuyện gì không
hả sếp?

Lân nhún vai như Mỹ. Anh ta tránh không đả động tới việc CIA bị trên “xạc” và bị DIA
đang cạnh tranh, mà chỉ nói tới một vấn đề chung, cũng hoàn toàn có thực, thậm chí còn đang như
nước sôi lửa bỏng:

- Cậu biết quá rồi còn gì: trong này đang “quá nặng” thì phải gia tăng mạnh ngoài kia, để chia lửa
chứ!

- A, ra vậy, hay quá! Rất cảm ơn sếp!


Hai cánh cửa khép lại rất nhanh sau lưng Quýnh.

Chiều hôm ấy, đúng như dự định, Lân lên gặp Tung, Tính và cả Senaghi. Nhưng cũng đúng
như anh ta đã dự đoán: tất cả còn phải đợi ý kiến của Colby.

Ba ngày sau nữa mới có ý kiến cuối cùng.

Senaghi trực tiếp đến gặp Ngô Thứ Lân:

- OK. Xong rồi! Cho tách! Cũng tốt thôi, khu vực dưới Mộc Châu đúng là ta chưa có toán
nào. Cần có một khâu nối ở nơi đó với tỉnh Hoà Bình. Nhưng, tách thì tách, Storm vẫn phải giữ
liên lạc chặt chẽ với Goblin để cùng phối hợp hoạt động và khi Goblin hoạt động cần tăng thêm
lực lượng thì thằng Storm bắt buộc phải cấp người và phương tiện cho nó đúng theo yêu cầu.

- Rõ, thưa đại tá! - Lân lễ phép - P54 chúng tôi sẽ có chỉ thị tỉ mỉ cho tụi nó đúng như ý đại
tá...

- Cho tách xong, khi nào chúng nó điện báo về an toàn, ổn định cả, ông bắt đầu tiếp tế bổ
sung cho Goblin trước...

- Dạ đúng là chúng đang cần và yêu cầu! Goblin tính ra hiện chỉ còn có ba tên, vì chết một,
bị thương một hồi có đụng độ với tuần tra Cộng sản ngoài đường 41...

- Nói là cần thì thật ra Storm cũng cần, tụi này cũng đã bị tiêu hao lực lượng lại vừa ốm
đau, vừa thương vong. Nhưng phải tổ chức một chuyến tiếp tế sớm cho Goblin, vì có việc sếp
muốn bắt đầu cho chúng thực thi. Đó là nhiệm vụ đã có dự kiến từ đầu...

Ngô Thứ Lân trố mắt. Anh ta đã quên béng mất, không nhớ là chuyện gì nữa. Senaghi hiểu,
nhếch mép cười:

- Khi rời Việt Nam, đại tá Raphter bàn giao công việc cho tôi, trong đó có nói tới một “nhiệm vụ
chờ” của toán Goblin. Nhiệm vụ này đã được sơ bộ báo trước cho tên Diêu trước khi nó nhảy ra
Bắc.

Bấy giờ Lân mới nhớ ra. Anh ta cuống quýt nói như để xóa đi lỗi lầm của mình:

- Dạ việc “Ông Chương”. Đúng rồi. Vậy ra bây giờ các sếp mới bật đèn xanh cho tụi tên
Diêu, thưa đại tá.

- Phải! Vì nhiều lý do, nhiều yếu tố thúc đẩy và do tình hình càng gay gắt. Tôi chỉ nhấn
mạnh tới ý của các sếp là: nay các sếp không muốn huy động Goblin nhiều vào các công việc phá
hoại. Để dành việc ấy cho các toán khác sẽ còn tiếp tục xuống. Các sếp muốn Goblin tập trung
những việc tổ chức hoạt động lớn hơn..

Ngô Thứ Lân nghe như sáng cả đầu óc. Senaghi tiếp:
- Tôi sẽ còn phải bàn tỉ mỉ, cụ thể với ông về chuyện bổ sung tiếp tế này!

Ngô Thứ Lân sực nhớ tới mấy cái huân chương:

- Thưa đại tá, tôi vừa nhận được huân chương của tụi nó. Sẽ cho chuyển cùng chuyến tiếp
tế sắp tới chứ ạ? Mà có những hai cái, tôi có dự kiến là...

- Được, ông muốn làm gì thì làm, tuỳ ông! - Senaghi tỏ ra chẳng cần để ý gì tới chuyện
này. Anh ta tiếp tục nhắc:

- Ông chỉ cần nhớ cho: chuẩn bị ngay chuyến hàng và người này. Về người, lần này phải
chọn mấy thằng thật trung thành, tin cậy, còn bản lĩnh chiến đấu và tình báo cao hay không, không
quan trọng lắm. Tôi nhắc lại: cần nhất là những tên có thể hoàn toàn tin cậy.

Nói xong Senaghi ra về. Anh ta không quên hẹn lại Lân tuần sau sẽ gặp nhau, để gút lại
lần cuối mọi thứ, mọi việc, từ người tới vũ khí, phương tiện, lương thực sẽ ném đi.

* *

Việc gọi là “tách toán” đã được thực hiện quá sức đơn giản: chỉ có một mình Vi Văn Giống
điện báo viên của Storm được chuyển xuống tọa độ XXX, một vùng rừng núi hoang vu ở Mộc
Châu. Đã có một số cán bộ trinh sát và nhân viên, cảnh vệ của Bộ được phái tới đó để tổ chức một
Đội chuyên án mới. Riêng Quách Rinh vẫn ở trại giam Thanh Đồng. Như Cầm Diêu, chỉ khi nào
có việc cần, hắn mới được đưa tới đó một, hai ngày.

Chỉ sau việc “tách toán” có một tuần, đã có điện của “Trung tâm” báo cho Goblin chuẩn bị
bãi để nhận hàng và người bổ sung, nhận cả huân chương. Cầm Diêu phải trực tiếp nhận, để tỏ ra
có lễ và biết tri ân thượng cấp.

Đã có quá đủ kinh ngiệm về những việc như chọn bãi, bố trí lực lượng đón nhận, thực hiện
ám, tín hiệu cho máy bay, lần này Đội SL 06 lại thực hiện một cách thật gọn nhẹ, mau mắn, không
cần sử dụng nhiều quân, không ồn ào, không rối bận. Và cũng như mọi lần trước, khi mọi việc
chuẩn bị đã xong, chỉ còn một ngày là nhận hàng, đón người, bấy giờ Cầm Diêu mới được đưa tới.

Vẫn bộ quần áo nâu như một anh nông dân, vẫn bộ râu quai nón mờ mờ, nhưng lần này tên Diêu
có vẻ không được khỏe cho lắm. Hắn như trắng xanh ra, có lẽ vì ít được ra ngoài nắng. Thêm nữa,
theo hắn nói: hắn vừa bị cúm, mới khỏi, còn hơi mệt. Tuy vậy, gặp lại ông Trường và An, cũng
như tất cả mọi lần trước, hắn tỏ ra rất vui mừng, vui mừng một cách thực sự. Hắn cho biết, bà Cầm
Inh và em Cầm Sa, vừa mới về Hà Nội thăm hắn. Bà mẹ và Cầm Sa khoe cách đây ít lâu, cán bộ
An có việc về bên Tuần Giáo, có ghé qua thăm gia đình...

- Cán bộ An ạ - Hắn nói riêng với An sau bữa ăn chiều, hai người rảnh rỗi cùng ngồi trò
chuyện- Mẹ và em gái tôi còn cho biết... có nguyện vọng... sau này sẽ xin Cách mạng một đặc ân...
- Gì vậy?

- Định... xin Cách mạng cho tôi một đặc ân sau này là... tìm cách đưa giúp cho vợ tôi từ
Nha Trang ra ngoài này...

- Có! Tôi có được bà và cô Cầm Sa cho biết hồi nọ...

- Nếu được như vậy, đời tôi coi như hoàn toàn toại nguyện đấy, cán bộ ạ.

An nhìn Cầm Diêu và nhớ lại ngay câu chuyện xấu về Nhạn mà Đèo Văn Chính - toán
trưởng toán Rimos bên Tuần Giáo đã cho anh biết hồi tháng 6 năm ngoái (1962)... Trong lòng anh
không khỏi buồn. Nhưng chẳng thể nào để lộ ra, nhất là lúc này, An thong thả nói:

- Tôi rất ủng hộ nguyện vọng của gia đình và cũng là của anh nữa. Nhưng cũng phải nói
thực việc này không dễ. Nếu cô ấy ở ngoài Bắc thì khỏi nói rồi. Đằng này ở trong ấy quá sâu: tận
Nha Trang. Giả dụ ở Gio Linh, Quảng Trị... thì cũng không khó cho lắm. Nhưng thôi được, anh
cứ trình bày nguyện vọng đi, tôi và thủ trưởng Trường sẽ cố gắng đề nghị với trên nếu có điều kiện
thì giúp anh.

- Cám ơn cán bộ! Thành thực là từ bao lâu nay, tôi chẳng còn mơ ước gì ngoài hạnh phúc
được gặp lại Nhạn... Thật vậy, gần như không đêm nào tôi không nằm mơ thấy cô ấy, cán bộ ạ.
Ngay đêm qua ở trại, tôi lại nằm mơ thấy tôi với cô ấy xuôi thuyền đuôi én từ Lai Châu về Quỳnh
Nhai... Tỉnh dậy, thú thực, buồn quá, buồn không sao nói hết, cán bộ ạ! Đúng là chẳng bao giờ
chịu suy nghĩ cho sâu, cho thật nghiêm túc, cứ luôn luôn ào ào chạy theo tình cảm, chạy theo
những dục vọng chẳng cần biết đúng sai, tốt xấu... nên đời tôi từ nhỏ tới giờ dường như chỉ luôn
luôn phạm phải những sai lầm thảm hại..

- Vậy thì thời gian này, có thể thuận lợi cho anh đấy, để nhìn lại cách sống của mình, và có thể rút
ra được những kinh nghiệm tốt - An nói.

Tên Diêu thở dài:

- Tôi cũng mong thế lắm cán bộ ạ. Nhưng quả là thằng tôi hình như trước sau vẫn quá thiên
về tình cảm, kể cả tìm cảm... lú lẫn, không mạnh về lý trí cho lắm.

- Như vậy, có lẽ anh là kẻ yếu đuối chứ không phải người mạnh, có phải không?

- Dạ đúng! Hồi còn ở Sài Gòn tôi có gặp một ông thầy tướng ba Tầu. Không hề có ý định
xem, ông ta tự nói ra thôi: tôi là một kẻ tưởng như rất mạnh, rất sáng, nhưng thật ra lại rất mềm
yếu và toàn đường quang không đi cứ đâm quàng đường rậm... Nói chung, ông ta không nói rõ, có
lẽ vì lịch sự, nhưng tôi hiểu ông ta muốn bảo tôi là hậu vận xấu lắm.

An nhìn hắn, an ủi:

- Hãy cứ để rồi ngẫm xem sao! Cứ cố gắng làm chủ lấy mình!
Đêm xuống dần. Mọi người bắt đầu đi tới bãi đổ hàng. Ai lại vào việc nấy, nhanh chóng,
gọn gàng, ăn khớp như một bộ máy đã được rà trơn từ lâu, nên vận hành khá trơn tru. An lại luôn
ở bên cạnh Cầm Diêu để giám sát và giúp đỡ hắn trong mọi tình huống phức tạp xảy ra. Cầm Diêu
lại nhận một cây đèn ba pin để làm hiệu cho máy bay, phối hợp với các hỏa châu xếp theo hình
chữ L ngược, y như mọi khi. Và cũng vẫn với một chiếc máy picơn để hướng dẫn máy bay vào
đúng hướng, đúng điểm, đồng thời điện đàm cùng phái viên trên máy bay khi cần thiết.

Đêm thu, rừng mát rượi, rất khô, sạch, hết sức dễ chịu và đầy gợi cảm. Đúng hẹn, 21 giờ
15 một chiếc C47 bắt đầu xuất hiện từ xa. Như mọi lần trước, các chòi quan sát trên các cây cao
tới tấp báo về. Máy picơn lại bắt đầu hoạt động, Cầm Diêu cất tiếng nói với giọng mạnh mẽ phóng
túng quen thuộc của hắn, để hướng dẫn chiếc máy bay lướt tới đúng khu bãi tranh nơi hỏa châu
đang phun ra lửa rực trời.

- Ban Hoa gọi! Long Cửu nghe rõ trả lời!

- Cửu Long đây! Nghe rõ! Hoa Ban! Nghe giọng anh bữa nay như... hơi yếu?

- Trình phái viên, quả là tôi vừa qua mấy bữa cảm cúm.

- Nghe đây! Đây là chuyến tiếp tế đầu tiên kể từ khi các anh tách toán. Hàng 4 kiện - Người
hai tên - Hãy chuẩn bị đón nhận!

- Rõ!

- Nghe đây! Đặc biệt chú ý: có huân chương cho Hoa Ban. Để trong một hộp nhôm bọc
nhung đỏ, trong kiện hàng số 1.

- Vậy ha! Ban Hoa cám ơn nhiều! Cám ơn cả phái viên nữa! Hẹn sẽ có dịp “rửa” huân
chương cùng phái viên đó!

Miệng nói vậy mà trong đầu chẳng hề có tí cảm hứng gì hết, Cầm Diêu chỉ muốn gào lên
để hỏi: “Nhạn của tao hồi này sao rồi mày? Vẫn nhận lương tao hàng tháng đầy đủ chứ? vẫn nhớ
mong tao nhiều chứ? Ôi, tao chỉ muốn điên lên. Phải xa nhau quá lâu rồi... Ôi, tao đã quá ngu, quá
tham, có chết cũng chỉ vì đồng tiền...” Nhưng muốn mà không sao thốt lên được. Cũng vừa lúc
chiếc máy bay lượn một vòng và bắt đầu ném các dù hàng xuống trước.

Đêm nay gió nhẹ, nhưng những chiếc dù vẫn bị thổi bay khá tản mát. Phải gần trưa hôm
sau mới thu nhặt đủ bốn thùng lớn, và bắt được một trong hai tên gián điệp biệt kích gửi theo hàng.
Tên thứ hai bị lạc hoặc trốn chạy đâu đó vẫn còn đang phải truy tìm.

Hàng hóa, vũ khí thu được đã đem về bản Khang Kha, kể cả tên giặc bị bắt. Ông Trường
trực tiếp chỉ huy, hướng dẫn việc mở các kiện hàng để kiểm kê, An được phân công theo dõi việc
hỏi cung tên bị bắt. Người trực tiếp hỏi cung là một cán bộ trinh sát của tỉnh đến tập việc. Anh là
người Thái quê ở Mộc Châu, tên Hà Văn Linh. An bây giờ chỉ đóng vai ngồi dự và giúp Hà Văn
Linh khi cần thiết.
Trên bãi cỏ ở giữa bản, các thùng hàng đã bày ra. Ông Trường cho lệnh mở thùng số 1
trước. Năm 1961, mở một kiện hàng của Mỹ như thế này mất khá nhiều thời gian vì chúng được
buộc theo một phương pháp chuyên môn riêng, rất chặt. Tuy nhiên, nếu đã được học cách mở thì
chẳng cần phải cắt cắt, cởi cởi lần từng nút dây mà chỉ cần một động tác là xong. Nay anh em ta
đã quá thạo. Một anh cảnh vệ tiến vào. Theo lệnh ông Trường, anh ta tươi cười cầm lấy một đầu
dây kéo mạnh, đúng theo động tác kỹ thuật. Quả nhiên, bục một cái, cả thùng hàng lớn được mở toang.
Bên trong thùng gần như toàn bộ là các máy thu phát vô tuyến điện loại mới nhất cùng đủ các thứ phụ
tùng, linh kiện kèm theo. Ngoài ra còn khá nhiều bao gạo sấy, hắn để chèn xung quanh và các góc. Ông
Trường chú ý nhìn thấy ngay một chiếc hộp nhỏ đặt trên một chiếc máy phát VTĐ hiện đại kiểu RT3, loại
máy mà các tên Tráng A Páo và Vi Văn Giống đang dùng. Chiếc máy này chỉ bằng cái tráp trầu, nhưng khi
phát mã moóc đi tiếng kêu coong coong, lảnh lót nghe rất hay. Ông Trường ra hiệu cho anh cảnh vệ nhặt
lấy chiếc hộp nọ đưa ông coi. Chiếc hộp được bọc giấy dầu bên ngoài. Mở ra thấy một hộp bọc nhung đỏ.
Mở tiếp nắp hộp nhung ra thấy một chiếc huân chương nhỏ được đặt trong đó. Hẳn đây là chiếc huân
chương gọi là Bảo quốc mà chính quyền Diệm đã hứa từ hơn nửa năm về trước tặng cho tên Diêu. Đậy
nắp lại, ông giao cho một người khác giữ lấy, sẽ đưa cho hắn sau, cũng là để xem ý tứ ra sao. Tên Diêu
được phép đang còn nằm nghỉ tạm ở lán anh em cảnh vệ. Ông không khỏi thầm cười liên tưởng tới chuyện
De Castrie ở Điện Biên Phủ năm 1954. Hai chuyện ít ra cũng giống nhau chừng nào đó về mặt ý nghĩa...
khôi hài. De Castrie cũng được Bộ Chỉ huy tối cao Pháp cho thăng cấp và cũng đã gửi máy bay đem lon,
đem ngù tới tận lòng chảo Mường Thanh ném xuống, trong khi đang bị bao vây, sắp cờ trắng ra hàng.

Trong lúc đó, tại một chiếc lán nhỏ chuyên để hỏi cung tù binh, công việc của Hà Văn Linh có An
hỗ trợ khá suôn sẻ. Tên tù binh tên là Bế Văn Túc. Khác với hầu hết các tù binh gián điệp biệt kích
ta đã tóm được, tên này còn rất trẻ - nó mới 20 tuổi. To béo, mắt một mí, tóc húi ngắn. Nom nó
không khác gì một cậu học sinh nhà quê chất phác. Vậy mà đã đi biệt kích gián điệp là làm sao?
Nó khai là con út một người trước kia là phía tạo, có nghĩa nó con nhà “quan”. Hồi gia đình nó
mới chạy vào Nam (cuối 1954) nó mới lên 9. Năm nay nó 18. Cha nó làm việc ở Tổng ủy di cư,
chuyên lo các việc cho người Tây Bắc. Mấy năm nay cha nó đã chuyển sang Nha Hồi chánh, lo
tuyên truyền dụ dỗ dân và cả cán bộ kháng chiến về với “chánh phủ quốc gia”. Nó đi học nhưng
quá dốt, cứ lớp bốn lớp năm miết cũng chán. Bố mẹ lại cho nhiều tiền tiêu xài. Bạn bè rủ rê ăn
chơi xả láng. Nó đi nhảy, đi “cà phê mờ” quanh năm. Một lần nó cùng mấy đứa choai choai như
nhau, hiếp vợ bé một viên Trung tá, bị cảnh sát tóm cổ. Thế là vào tù. Ngồi nhà đá được một tháng,
thì cha nó bỏ vàng bỏ đô ra “chạy”, được ra tù. Dịp đó có cuộc tuyển mộ lính vào Liên đội quan
sát I. Thế là nó viết đơn tình nguyện liền. Vào Liên đội này nhiều tiền đã đành còn có uy thế, có
sức mạnh, tha hồ phá phách, làm tàng, nên nó rất khoái... Cha nó quen biết Lê Quang Tung thấy
có chỗ để “gửi gắm” con, nên cũng khuyến khích. Về nguyện vọng, nó chỉ ước muốn là có nhiều
tiền, lấy vợ đầm và được sang Mỹ... Khi nghe hỏi tới một số tên ở P54: Ngô Thứ Lân, Tom và
Andrew cùng Quýnh “lý toét”... rồi hỏi qua về khóa mật mã, về các tín hiệu an ninh truyền tin, các
quy ước liên lạc... của bọn chúng, tên Bế Văn Túc phát hoảng lên. Nó chắp tay lại mà lạy: “Vậy
thì các ông biết hết rồi còn gì, con đâu dám giấu nữa...” Từ đó, Linh cùng An chỉ tập trung vào hỏi
về tình hình chung và nhiệm vụ cụ thể của nó. Chỉ là một tên trung sĩ còm, tên Túc chẳng biết
được gì nhiều ngoài chuyện “Dạo này Phật giáo đấu tranh phản đối mạnh lắm. Có cả hòa thượng
Thích Quảng Đức tự thiêu... và phong trào học sinh sinh viên cũng rất dữ. Sinh viên biểu tình như
cơm bữa, có đám tới năm sáu ngàn người..” Đại loại chỉ có vậy, còn các chuyện cơ mật khác hầu
như nó chẳng biết gì hết. Tuy nhiên về nhiệm vụ thì tên Túc khai rõ, khá đầy đủ, và bất ngờ nữa.
Nó khai ra cũng hồn nhiên như nó khai về các vụ việc nó ăn nhậu, trác táng, đánh nhau và viết đơn
tình nguyện vào biệt kích gián điệp.
- Bẩm hai ông, con được ông Lân giao cho mỗi một nhiệm vụ rất quan trọng là: ra ngoài
đó gặp được toán trưởng Cầm Diêu thì nói rằng thượng cấp lệnh cho bắt liên lạc với “ông Chương”.

- “Ông Chương”? - An sửng sốt. Anh vẫn chưa quên là đã nghe hoặc đọc ít ra một lần khi
tham gia Đội chuyên án SL 06 về toán Goblin, được xem lại bản khẩu cung đầu tiên của tên toán
trưởng Cầm Diêu...

- Dạ, vâng con thấy dặn thế. Dặn kỹ lắm.

- “Ông Chương” ở đâu?

- Dạ, ông Lân có vẽ sơ đồ đường đi cho con, bắt con học thuộc lòng, nhớ thật kỹ, rồi đốt
đi. Sau đó kiểm tra đi kiểm tra lại nhiều lần thấy con thật nhớ mới thôi...

- Vậy anh biết chỗ “ông Chương ? Cứ theo sơ đồ ấy thì tìm gặp được ông Chương.

- Không ạ. Ông Lân bảo đấy chỉ là hộp thư mật. Đến đó tìm được thư thì sau đó mới tìm ra
ông Chương...

- Anh có nhiệm vụ đi tìm hộp thư mật ấy?

- Bẩm không! Con chỉ là thằng dẫn đường cho toán trưởng đi tìm.

- Vậy bây giờ anh hãy vẽ lại sơ đồ ấy ra đây! Vẽ cho thật đúng! Vẽ sai, tìm không thấy gì
là tội anh càng gấp bội đấy, hiểu không?

- Dạ, bẩm hiểu ạ. Con sẽ lập công chuộc tội ạ!

- Đúng! Vậy vẽ đi!

An bảo Hà Văn Linh đưa quyển sổ ghi chép khẩu cung tù binh cho tên Túc. Nó phải vẽ
trực tiếp vào đó để rồi còn lưu lại về sau tiếp tục thẩm tra.

Tên Túc nhận cây bút, ngồi nghiêng nghiêng cái đầu, rồi mím môi từ từ vạch từng nét lên
trang giấy trắng. Linh và An cùng tới đứng ngay bên cạnh nó nhìn xem, chăm chú đến tột độ...

Những nét vẽ dần dần hiện lên, tuy hết sức khái lược nhưng rõ ràng, chứng tỏ rằng tên Túc
đã được hướng dẫn và tập vẽ nhiều lần, nên lúc này cái gọi là sơ đồ ấy nom cũng khá rành mạch,
dễ hiểu: có đường mòn, có sông, có suối, có núi, có bản làng... Các địa hình chính đều có ghi tên.
Thậm chí còn có cả ký hiệu phương hướng: đông, tây, nam, bắc... An và Linh đưa mắt nhìn nhau:
không phải đâu xa lắm, vẫn trong địa phận Sơn La, chỉ có điều là ở gần giáp ranh với Yên Bái và
cái bản nhỏ ấy có tên như quen quen: bản Chiềng Lung, ở dưới chân quả núi có tên Háng Cu Khâu.
Riêng tên này nghe lạ, chưa thấy bao giờ. Và cái hang ấy ở phía tây, là hang nào vậy, hang thứ
mấy, trên cao hay dưới thấp?

- Này, sao không ghi chú chỗ hang này?


- Bẩm, ông Lân không nói. Ông bảo phải đến đó rồi tự tìm, khắc thấy!

- Thôi được! Cho tạm nghỉ buổi khai cung hôm nay - An nói, trong đầu anh tràn ngập niềm
vui trước sự kiện này, chỉ muốn chạy ngay sang nhà bên báo cáo cho ông Trường biết.

Nhưng cũng không ngờ tên Túc lại thoăn thoắt tách một bên nẹp áo bà ba đen của nó, lấy
ra một mẩu giấy nho nhỏ, úa vàng, cũ kỹ, đưa cho An và Linh:

- Thưa hai ông, còn cái này nữa.

Lại không khỏi hết sức ngạc nhiên, An cầm vội lấy mẩu giấy ấy vuốt phẳng ra và soi lên:
Ô, một nửa tờ giấy bạc! Nhưng không phải đô la, cũng không phải tiền Sài Gòn, mà là tờ giấy bạc
500 đồng Đông Dương có từ trước Cách mạng tháng 8 năm 1945. Vậy là của Pháp ư?

- Bẩm hai ông - Tên Túc lại cẩn thận nói - ông Lân dặn: khi gặp “ông Chương” phải đưa nửa tờ
giấy bạc này ra. Ông Chương cũng có một nửa. Khớp lại thật đúng mới được phép nhận nhau và
làm việc...

Đưa mảnh giấy bạc cho Linh kẹp vào cuốn sổ ghi cung của tù binh, An gật đầu, vui vẻ nói
với tên Túc như bao hàm cả ý khen ngợi nó:

- Được! Sẽ còn hỏi thêm cậu nhiều điều nữa đấy, nhá!

Đoạn thu lại sổ sách, hai anh em An và Linh cùng vội vã đến ngôi nhà sàn nơi ông Trường
đặt “Đại bản doanh”.

Đi qua bãi cỏ, hai người thấy công việc kiểm thu “hàng” đã xong. Tất cả còn xếp đống ở
đó, phủ bạt kín. Một chiến sỹ công an vũ trang đứng gác bên cạnh. Hai anh em tiếp tục rảo bước.
An nói nhỏ với Linh:

- Vấn đề mới, tôi có cảm tưởng sẽ khá lớn, khá rộng đấy. Khả năng có một chuyên án mới
cũng nên...

Linh gật đầu:

- Tôi cũng như thế. Từ chuyến tiếp tế này bỗng nảy ra, mở ra một chuyện mới tuy có liên
quan nhưng lại gần như song song với cái SL06 hiện nay, có phải không anh?

An đáp:

- Đúng! Nhưng mọi chuyện phải tuyệt mật! Hé ra là không những hỏng hết mọi chuyện mà
có thể... nguy hại nữa.

- Vâng, tôi hiểu!


Hai anh em bước lên sàn nhà, thấy Cầm Diêu đã có mặt ở đó. Hắn đang ngồi bên bếp lửa,
trước mặt ông Trường cùng mấy cán bộ công an tỉnh xuống tập việc. Có mặt cả mấy anh chỉ huy
công an vũ trang Khu và tỉnh đến hỗ trợ đón nhận hàng và đề phòng bất trắc. Ông Trường đang
cầm hộp huân chương và tên Diêu đang nói. An và Linh cùng ghé ngồi xuống nghe.

-... Trình các cán bộ. Không. Tôi quyết không nhận cái này - Tên Diêu nói, giọng nó cứng cỏi, dứt
khoát và có cả phần xúc động - Trình các cán bộ, tôi đã hiểu ra mọi sai lầm, tôi đã cam kết từ bỏ
hàng ngũ bọn phản quốc, hại dân. Vậy lẽ nào bây giờ tôi lại nhận huy chương của chúng? Không,
thứ này đối với tôi bây giờ chẳng có giá trị chút nào đã đành, còn gợi cho tôi cả một quãng đời đau
khổ, tội lỗi.

Nói tới đó, hắn chìa tay ra:

- Bây giờ không phải tôi xin nhận cái này, mà xin cho tôi được ném nó đi, để bày tỏ tất cả
những gì mà tôi đã đoạn tuyệt.

Ông Trường mở to mắt vui vẻ nhìn quanh như có ý hỏi thêm anh em, rồi thong thả đưa
chiếc hộp bọc nhung đỏ cho tên Diêu. Hắn đón lấy, mở nhanh ra, rồi giật lấy chiếc huân chương,
mím môi ném mạnh vào giữa bếp lửa. Chỉ trong phút chốc những ngọn lửa vàng tươi đã thiêu rụi
dải vải xanh và đốt cháy đen thui mảnh kim loại tròn tròn đính kèm. Mọi người cùng cười vẻ, và
quay lại nhìn Cầm Diêu với cái nhìn thực sự hiền hòa, rộng rãi. Cầm Diêu xin phép trở lại chỗ ở
đã tạm quy định cho hắn. Đó là lán của anh em cảnh vệ. Tên Páo cũng ở gần đó. Theo nguyên tắc:
cả hai tên vẫn còn là tù binh chưa xét xử trước tòa án, cho nên tuy được huy động vào công việc,
ban ngày được tự do đi lại trong phạm vi quy định, nhưng tối đến vẫn phải có canh chừng cẩn
mật...

Các cán bộ trinh sát công an của Khu, tỉnh cùng mấy anh chỉ huy công an vũ trang cũng
đứng dậy lần lượt ra về các ngôi nhà sàn tạm thời bố trí cho họ tá túc.

Chỉ còn lại ông Trường, An và Linh. Bấy giờ ông mới có thì giờ để nghe hai người báo cáo
về cuộc hỏi cung tên tù binh đã bắt được. (Tên thứ hai vẫn chưa thấy đâu; mấy tổ dân quân và
công an vũ trang đi truy lùng, chưa có ai trở về. Ông đang sốt ruột).

Ông Trường ngồi nghe ít khi chăm chú đến như thế. Khi An và Linh báo cáo xong, ông nói
luôn:

- Hay quá ! Thế là Goblin lại lập công! Các anh biết chứ: thằng Mỹ “trì” đến thế, “cáo”
đến thế, nay cũng đã đến lúc phải mở thêm bầu bí mật của nó. Bây giờ rõ ràng là gián điệp biệt
kích đã thực hiện cả việc bắt mối, liên kết với các cơ sở hoặc nhân viên nằm vùng từ lâu chờ thời
cơ... Có phải không?

An và Linh cũng như lây sự sôi nổi của ông sếp “băm” bảy, “băm” tám rồi mà vẫn còn hết sức
“thanh niên”. Tuy nhiên Hà Văn Linh vẫn còn có điều chưa thật hiểu rõ cho lắm. Anh ngập ngừng:

- Nhưng sao lại có nửa tờ giấy bạc Đông Dương, mà không phải đô la hoặc tiền Sài Gòn
ạ?
Ông Trường cười kha kha:

- Thì là của Pháp chứ sao!

- Nhưng vậy sao Mỹ lại cho “quân” của nó bắt liên lạc với bọn này?

- “Ông” quên rồi sao? Thằng Pháp đã bàn giao tất tần tật các đầu mối, cơ sở của nó ở ngoài
Bắc này cho thằng Mẽo rồi mới cuốn gói. Mẽo tiếp quản món hàng cũ có thể không thật tin, không
thật khoái cho lắm, nhưng có còn hơn không. Vì vậy bây giờ nó cho nối lại liên lạc để thêm lực
lượng càng tốt chứ sao! Ấy là tôi tạm đoán vậy. Còn phải xin ý kiến Cục và Bộ. Mà phải làm ngay.
Ông An ơi, ngay đêm nay mọi chuyện bất ngờ, thú vị này phải tới cục trưởng Công Năng đấy!
Ông Thạc nhà ta nữa. Nếu nửa đêm mà tới được tai Bộ trưởng nữa thì càng tuyệt. “Cụ” chắc khoái
lắm!

Trời xẩm tối. Mưa chợt đổ xuống. Nhưng cũng chỉ rào rào một lúc rồi tạnh. An và Linh vừa xuống
khỏi cầu thang nhà sàn thì một anh chỉ huy công an vũ trang quần áo nhàu nát, mặt mày xây sát vì
gai cào lá cắt, cũng vội vã chạy lên:

- Báo cáo đồng chí Trường! Đã bắt được thằng thứ hai. Nó bị ngã què cẳng. Anh em phải
thay nhau khiêng nó về, nên khí muộn.

- Hay lắm! Nó đâu? - ông Trường mừng rỡ - Sao không đưa ngay nó cho chúng tôi?

- Cũng đã toan báo cáo ngay, nhưng vì thấy bảo các thủ trưởng đang hội ý, nên chúng tôi
để tạm nó chỗ anh em cảnh vệ...

- Vậy cho nó đến lán khai cung ngay!

- Báo cáo, làm việc ngay ạ. Sắp tối rồi mà?

- Ngay chứ! Ta đang ở Mặt trận mà! Nửa đêm cũng phải làm. Cái nghề này nó phải thế.

Anh cán bộ công an vũ trang sấp ngửa quay xuống. Ông Trường cũng quay trở vào, thắp một cây
đèn bão và cho gọi An, Linh tới.

Tên tù binh mới bị bắt về cũng còn rất trẻ. Nó khai mới 21 tuổi, dân tộc Tày, quê ở Nà Sản.
Tên này nom nhanh nhẹn hơn tên Túc. Nó khai vốn con nhà nghèo, bố chăn ngựa cho quan ba
Pháp chỉ huy khu vực này. Khi Pháp thua, quân Nà Sản phải chạy về Hà Nội, bố mẹ và anh chị em
nó cũng chạy theo Pháp. Cuối năm 1954 cùng một số gia đình khác, nhà nó cũng chạy vào Nam.
Năm đó nó mới 12 tuổi. Vào Nam, túng đói, nó vào làm đầy tớ cho một nhà buôn. Lớn lên, nó đi
lính, vào sư đoàn 22 ở Nha Trang. Sau đó nó tình nguyện vào Liên đội quan sát I... Nói chung số
phận nó cũng chẳng khác gì lắm so với những tên gián điệp biệt kích đã bị bắt... Nó khai hết, khai
một cách đầy thành thực, không dám quanh co. Nhưng nhiệm vụ và sứ mạng của nó thật đơn giản:
“Ông Lân” chỉ bảo nó là bổ sung cho Goblin làm nhân viên phá hoại, thay cho thằng đã chết. Mọi
việc cụ thể sẽ do toán trưởng Cầm Diêu giao. Tất cả chỉ có thế.
Ông Trường nhanh chóng tập trung vào câu chuyện của thằng Túc. Ông tin là việc này sẽ
còn mở ra thêm nhiều tuyến, nhiều chuyện nữa. Ngay đêm đó theo lệnh ông, An đã cho đánh điện
về báo cáo với Cục, qua đài A20, tất cả những tin tức nóng bỏng nhất. Mãi tới 12 giờ đêm An và
mọi người trong Đội mới được ngả lưng đi ngủ.

Cho tới tờ mờ sáng hôm sau, đang còn mơ màng, An bỗng nghe như có nhiều tiếng người
gọi, hỏi nhau xôn xao. Anh mở choàng mắt vùng dậy. Vừa lúc đó nghe rất rõ một người nào đó
bật nói khá to, gần như gào lên: “Nó trốn mất rồi!”

Như bị điện giật, An tung người lao xuống khỏi nhà. Rất đông người đang đứng ở bãi cỏ
trong đó có cả ông Trường. Dường như người lúc nãy lại nói rất to:

- Nó trốn có nhẽ từ nửa đêm. Bây giờ chắc chạy cũng khá xa rồi!

- Nhưng ai trốn? Kẻ nào trốn? - An túm lấy người vừa nói, gấp gáp hỏi.

- Thằng Cầm Diêu chứ còn ai! Thật không ai ngờ... nó lại thế!

An chỉ còn biết buông thõng hai tay, bàng hoàng...

Ngay lập tức, buổi sáng đó, theo lệnh ông Trường, điện được gửi đi khắp mọi nơi, từ Bộ xuống
Khu, rồi tỉnh, rồi huyện... Tất cả các đồn biên phòng, các trạm gác, các nút giao thông trên toàn
khu đều được báo động. Đặc biệt các đồn biên phòng cùng dân quân các bản, mường, tự vệ các xí
nghiệp, cơ quan... dọc theo các đường biên giới, nhất là biên giới Việt - Lào được lệnh phải chốt
chặn tất cả các con đường lớn nhỏ, đường mòn, khe núi mà kẻ xấu, người lạ có thể vượt biên bí
mật.

Cũng sáng hôm đó một lực lượng khá hùng hậu của Khu cộng với tỉnh với huyện, tỏa đi
khắp mọi hướng sục tìm kẻ chạy trốn. Tất nhiên hướng chính vẫn là biên giới Việt - Lào, tuy không
hề coi nhẹ hướng về xuôi, hoặc sang đông bắc...

17

- Kia rồi!

An chỉ về phía chân núi, một bản nhỏ với những hàng cây khá đẹp, ở bên kia một con suối
uốn lượn mềm mại. Đó là bản của gia đình Cầm Diêu. Hai anh cán bộ trinh sát đi cùng, một của
tỉnh, một của Khu, đều vui mừng nhìn theo tay An. Cả ba đều đã khá mệt. Mùa thu, khá mát rồi
mà người nào cũng mồ hôi đầm đìa. Họ đã đi gấp suốt cả ngày hôm qua, leo đèo, lội suối, rồi vượt
sông Đà... dường như không nghỉ.

Đây là một trong những tổ cán bộ trinh sát được cấp tốc tung các nơi trong Khu, nhằm phối
hợp với Công an, dân quân, tự vệ các địa phương khẩn trương truy tìm tên Diêu. Nhóm này có
trách nhiệm đi thẳng về gia đình hắn. Nếu không thấy gì, sẽ đi tiếp tới vùng Tây Trang biên giới
Việt -Lào.
Nhìn thấy cái bản đã quen thuộc này, hôm nay An không cảm thấy vui vui như mọi khi. Ngược
lại, lòng anh khá nặng nề, vừa giận, vừa lo. Giận là tên Diêu đã phản bội lại tất cả, dù có chủ tâm
hay chỉ vì một lý do đột biến nào đó. Lo là cấp trên sẽ đánh giá bọn anh chẳng ra sao nữa. Bao
nhiêu công sức chẳng riêng bọn anh mà còn là của Cục của Bộ coi như cũng đổ xuống sông xuống
biển hết. Anh thầm tự hỏi: sẽ tìm được tên Diêu ở đây hay không? Tìm thấy hắn bọn anh sẽ xử sự
ra sao? Không tìm thấy, bọn anh biết nói gì với bà mẹ tội nghiệp của hắn?- Đó là thêm một nỗi
phiền nữa - Tất nhiên không thể cho bà mẹ ấy biết ngay chuyện hết sức đáng tiếc này. Bà đang đặt
biết bao hy vọng ở hắn. Có thể hiểu: Hắn đang là một trong những niềm vui lớn nhất để bà sống...

Khi tới gần bản, cả nhóm dừng lại hội ý, cùng xác định lại kế hoạch: An là người đã quen
biết sẽ vào thẳng nhà, coi như có công tác đi qua, ghé vào chơi. Anh sẽ phải trực tiếp quan sát,
phát hiện, xem có tên Diêu chạy về ẩn trốn ở đây không. Trong khi ấy, hai anh trinh sát kia phục
ở ngoài rừng, quan sát xem đêm nay có ai từ rừng vào bản hoặc ngược lại từ bản chạy ra rừng.
Nếu có, bắt giữ lại, chí ít cũng phải lập tức báo động cho toàn bản...

Kế hoạch được xác định xong, ba người cùng nhanh chóng tản đi.

An xắn quần lội qua con suối vào bản. Anh cố tình đi thong thả như nhàn rỗi muốn ngắm lại phong
cảnh xưa. Tới chân căn nhà của bà Cầm Inh, anh chưa lên ngay. Không nghe có tiếng người. Có
thể nhà đi vắng cả. Anh đứng lại ngắm con trâu khá lực lưỡng đang thong thả, thản nhiên nhai cỏ
dưới gầm sàn, rồi đi ra phía sau xem bầy gà vịt đang tíu tít trong một khu đất lầy lội được quây lại
bằng rào tre nứa. Tiếp đó anh lại đi tới ngắm chiếc cối giã gạo đặt ở dưới sàn nhà, rồi ngửa mặt
lên ngắm nghía những mảng sàn bằng tre bương ghép kín... Đúng là một khách đã quen thân. Lát
sau anh mới bắt đầu bước lên cầu thang, và theo đúng phong cách dân quê miền xuôi, vừa tới đã
vui vẻ cất tiếng réo lên, hỏi vọng vào:

- Trong nhà có ai không đấy?

- Ai thế?

Một tiếng con gái từ trên nhà cất lên - tiếng cô cháu gái nhỏ của bà Cầm Inh. Rồi cô bé
khoảng trên mười tuổi ấy chạy ra cửa ngó xuống. Thấy An nó reo lên:

- Ui! Chú An! Chú An!

An bước lên nhà nhìn quanh: trật tự mọi vật từ chăn đệm, tới chum vò... bếp lửa... vẫn hoàn toàn
như cũ, không hề có chút dấu vết gì đổi thay. Để ý quan sát kỹ lại một lần nữa, từ các góc nhà, từ
sàn treo bắp giống và các thứ thịt hun khói, tới các phòng riêng của từng thành viên trong gia đình,
những căn phòng đều vén cao màn cho sáng sủa... Cuối cùng đôi mắt và cả cái “giác quan thứ sáu”
của người trinh sát đều cho anh biết là về vật thể không có gì khác lạ đáng phải chú ý trong ngôi
nhà này. Cô bé đang đun nấu gì đó. Chiếc chảo to đùng đang bốc hơi nghi ngút trên lửa đỏ hồng.
Có lẽ cám lợn.Cô bé lại láu táu và như chưa hết vui mừng, cho An biết: bà Cầm Inh đang họp trên
ủy ban, còn Cầm Sa đang họp với phụ huynh học sinh ở trường, chốc nữa sẽ về cả...

An mỉm cười. Âu cũng là một dịp may! Một câu ngạn ngữ xưa lại trở về trong đầu óc anh:
“Đi hỏi già về nhà hỏi trẻ”. Cô cháu này tuy chẳng còn là con nít nữa, nhưng cũng chưa phải một
người lớn. Anh có thể hỏi mọi chuyện được. Giả dụ nó có nói dối điều gì, chắc cũng khó lừa được
anh.

Qua những câu chuyện lan man và hỏi han về việc nhà cửa hết sức tự nhiên, thậm chí hết
sức thân thiết với cô bé, chỉ lát sau An đã có thể xác định: đúng là trong gia đình này chẳng có gì
phải chú ý, không có gì đổi thay, kể cả việc Cầm Sa vẫn chưa lấy chồng... Hai mẹ con nhà này vẫn
cùng nhau ngày ngày lao vào công việc, hết việc của bản lại việc nhà.

Rồi đúng như cô cháu gái nói, gần bữa chiều thì cả hai mẹ con bà Cầm Inh cùng trở về.

- Ui, anh An! Anh lại về chơi! Mừng quá! Mẹ con tôi vẫn nhắc đến anh luôn đấy! Tôi vừa
đi họp về anh An ạ! Ủy ban bảo sang năm sẽ lập trạm bưu chính xã...

An không khỏi cảm động. Trong niềm vui gặp lại An, anh hiểu bà vẫn không hề quên niềm
vui riêng của bà, đó cũng là niềm hy vọng mai sau sẽ có thể tìm việc làm, cũng là chỗ đứng cho
thằng con trai của bà một khi nó được trở về...

Nhưng có lẽ vui hơn hết vẫn là Cầm Sa. Cô mừng đến cuống quýt, mặt đỏ hồng, nói hết
câu này hỏi sang câu khác, làm cho An không còn biết đằng nào mà trả lời. Đôi mắt to sáng long
lanh của cô luôn nhìn anh nồng nàn như có ánh lửa làm cho An bỗng như nhận được ra : sự lo lắng
của anh trong lần giao tiếp này giữa anh và gia đình Cầm Sa có thể sẽ ít nhiều có khó khăn, hóa ra
là thừa. Thái độ hết sức thân thiết và sự chân tình chẳng mảy may đổi khác của hai mẹ con cô gái
đã hoàn toàn xóa đi cho anh ý nghĩ ấy. Tuy nhiên, yên tâm được bề này nhưng bề khác An lại thêm
âm thầm suy nghĩ về số phận của những con người này. Biết làm sao hơn?

Buổi tối, lại tái diễn cái đêm trò chuyện rất khuya bên bếp lửa như hơn nửa năm về trước.
Lại “Cầm bằng mình thức hết đêm nay, sáng mai ta sẽ lấy ngày làm đêm”. Lại những câu hát dân
gian Thái ân cần và say đắm. Lại những nụ cười ngời sáng...

Hôm sau, Cầm Sa lại đưa tiễn An ra tới tận bờ sông Đà. Trước khi xuống con thuyền để
qua sông, An chỉ còn biết ân cần hỏi lại:

- Bao giờ thì... em lấy chồng, hả Cầm Sa?

Cô gái chỉ cúi đầu, khẽ đáp:

- Không ai thèm lấy em đâu...

- Vì sao vậy? Em nói thực không đấy?

Cô gái vẫn chỉ cúi đầu nhìn xuống không đáp.

Sang tới bên kia sông, nơi ba cán bộ trinh sát tỉnh đã đợi ở đó theo hẹn, trong lòng An hiện
lại hình ảnh của Én - cô xã đội phó ở Mường Sang... Vậy, anh thầm hỏi, có phải ở đây cũng là một
cô “cô Én” thứ hai? Nhưng không hiểu Cầm Sa nói có đúng thế không, hay đó chỉ là một cách nói
khiêm nhường như của tất cả mọi cô gái khác chỉ vì những lẽ riêng thầm kín của lòng mình?...
Ba anh cán bộ trinh sát của tỉnh cho biết: đêm qua họ cũng không thấy động tĩnh gì hết.
Bản này thật yên bình. An gật đầu, không nói gì hơn. Mấy anh em tiếp tục cuộc hành trình. Cùng
hướng về phía biên giới, khu vực Tây Trang...

* *

Từ xa đã nhìn thấy mây bên đất nước Lào anh em đùn lên trắng xốp như khói trời sau
những đỉnh núi như những lớp sóng đá khổng lồ mênh mông, như “trùng dương thạch trận”, kéo
dài tít mù khơi, không còn biết đâu là nơi bắt đầu, đâu là nơi tận cùng nữa. Cảm giác như choáng
ngợp. Cũng đã thấy gió lồng lộng thổi như có hàng ngàn hàng vạn con ngựa hoang đang tung bờm
cùng nhau lồng lên trên khắp mặt đất, khắp cả bầu trời lồng lộng. Đã nhìn thấy cả những triền núi
đất cuồn cuộn với cỏ gianh vàng rực lưng trời. Thấp thoáng xen lẫn với màu vàng gianh ngồn ngộn
ấy là những vạt nương với lúa mùa đang chín rộ. Cũng thấp thoáng ẩn hiện trong những màu vàng
mênh mang ấy là những bản người Mông li ti, cheo leo như những tổ chim xa tít, xa lắc xa lơ, treo
lơ lửng giữa trời, lẫn trong gianh vàng, nương lúa vàng và mây trắng.

Đây đã là địa phận Tây Trang, nơi địa đầu phía tây của Tổ quốc, An ngắm nhìn đất trời nơi
biên địa này và chợt nhớ ra: đây là quê hương của tên Páo. Anh đã hẹn với hắn sẽ có ngày đưa hắn
trở lại thăm chốn này. Nhưng vẫn chưa có điều kiện, chưa có thời gian nào rảnh rỗi. Cuộc sống cứ
tưởng như đã yên bình nhưng hóa ra càng ngày càng thêm lắm việc phải lo toan, phải đương đầu
nhiều khi đến quyết liệt. Sau vụ truy bắt toán Rimos ở vùng này, An đâu có nghĩ mình lại có dịp
trở lại nơi đây, chẳng phải đưa tên Páo về thăm quê, mà là đi thực hiện một nhiệm vụ cấp bách và
đáng buồn...

Theo kế hoạch đã thống nhất từ trước, bọn An không tới đồn Tây Trang mà cắt rừng đi tới thẳng
tiểu khu 95 thuộc Khu Công an vũ trang rồi tới đồn Mường Khuông, nơi mà anh em Công an vũ
trang đã được dân hai bên biên giới chỉ cho tìm bắt được toán Rimos hồi tháng 6 năm ngoái (1962).
An hy vọng may ra lần này có thể tìm ra manh mốỉ của tên Diêu ở đây. Không phải do “kinh
nghiệm chủ nghĩa”, mà qua thực tế lần trước, anh đã thấy khu vực này là “lối ra” và “lối vào” khá
thuận lợi, nếu không muốn nói là thuận lợi nhất trên đoạn biên giới hiểm trở này. Thật vậy! Từ vụ
Rimos anh đã quan sát thấy: từ Mường Khoa, Xốp Nạo bên đất Lào toán Rimos đột nhập vào ta
qua nẻo này là chúng đã chọn lựa rất kỹ. Vì lối này vừa gần, vừa kín nhất. Ngược lại: giả dụ có kẻ
xấu nào từ bên ta muốn chạy qua đất Lào mà xuất phát từ Quỳnh Nhai, Yên Châu, thì rất nhiều
khả năng cũng sẽ chạy theo hướng này, nếu nó là đứa thuộc địa hình và thuộc đường, Cầm Diêu
vốn là người gốc Quỳnh Nhai, vậy tại sao lại không dám nghĩ hắn có thể chọn con đường này, nếu
quả là hắn có ý định chạy qua đất Lào?

Buổi chiều ngày thứ tư kể từ hôm xuất phát, bọn An mới tới được đồn biên phòng Mường
Khuông. Khác với năm ngoái lên đây tham gia truy tìm bọn Rimos, lần này vừa tới nơi, An đã
thấy không khí nghiêm trọng khác thường ở đồn biên phòng. Bước vào đã thấy ông Đinh Vân -
Khu phó Công an vũ trang cùng Phạm Long đại đội trưởng cơ động của Khu có mặt ở đó rồi. Hai
người này đang ngồi hội ý với đồn phó Phạm Cận, con người đã nổi tiếng kiên trì chờ, đón lõng
năm ngày năm đêm liền, tóm kỳ được bọn Rimos mới thôi. Thấy An cùng mấy cán bộ trinh sát
tỉnh tới, mọi người cùng mừng rỡ đứng dậy chào đón. Và hoàn toàn không thể tưởng tượng được
nổi, lời chào đón đầu tiên của ông Đinh Vân bật lên lại là một câu báo tin:

- Thấy nó rồi, các đồng chí ạ!

An tưởng chừng như mình nghe nhầm, đứng sững lại, há cả miệng ra. Phạm Cận vội tiếp
lời ông Đinh Vân như để khẳng định thêm tin này với những bạn mới tới còn đang quá sửng sốt,
bất ngờ:

- Vâng! Đúng thế các anh ạ! Vừa tìm được nó đúng trưa hôm nay!

An cùng mấy anh đi cùng vội ùa vào phòng họp, hồi hộp đến nỗi không còn kịp tháo bỏ ba
lô ra nữa...

* *

Nhận được lệnh của Bộ qua điện, buổi sáng hôm ấy, Công an vũ trang đã cho báo động
ngay trên toàn khu vực, và triển khai cấp tốc các đội truy tìm, đồng thời phối hợp với dân quân tất
cả các bản trong vừng tổ chức canh phòng, chốt chặn mọi nơi hiểm yếu. Các tổ trinh sát ngoại biên
cũng cấp báo để cùng các cơ sở trong nhân dân Bạn phối hợp phát hiện, đón lõng...

Nhưng đã ba ngày đi qua, lùng sục gần như không còn thiếu xó rừng, khe núi nào, thậm
chí còn bất ngờ vào kiểm tra nhà của các phần tử có nghi vấn chính trị. Cũng không thấy gì hết.
Các cơ sở cách mạng bên đất Bạn và các tổ trinh sát ngoại biên báo về cũng chưa có tin gì khác
lạ...

Mãi tới sáng nay, ngày thứ tư, đã có anh em mệt mỏi oải ra, thì đột ngột có dân báo thấy
có bóng người lạ ở chân núi đá bên bò sông Nậm Tắc. Người đó hình như có ý định bơi qua sông,
nhưng thấy dân bản đi làm, nên đã biến mất vào những vạt rừng rậm. Nơi đó đặc biệt có nhiều rắn
độc nên dân các bản rất ít khi, và rất ít người dám vào hái củi hoặc kiếm nấm, đào dúi...

Tin vui như bốc lửa. Đồn Mường Khuông xuất quân luôn. Đồn phó Phạm Cận “ông vua kiên nhẫn”
lại thống lĩnh các lực lượng truy tìm. Anh trực tiếp đi với tiểu đội ở hướng chính.

Rất nhanh, mũi chủ lực tiến thẳng tới dãy núi đá bên sông Nậm Tắc. Đến đây tạm dừng lại
mấy phút để tổ chức lại đội hình chiến đấu: chia ra thành nhiều tổ nhỏ, một tổ có nhiệm vụ sục sạo
trên cao, hai tổ ở dưới thấp, dọc theo chân núi. Sau đó đồn phó Phạm Cận ra lệnh cho anh em kiểm
tra lại giầy vải và bít tất cẩn thận, rồi bắt đầu tiến qua các bãi cây gai rậm rạp, phát lối mở đường
tiến vào sâu hơn nữa. Vừa tiến, quân ta vừa gọi hàng:

- Cầm Diêu! Hãy ra mau! Tất cả xung quanh đây đã có quân bao vây chặt. Anh sẽ được
khoan hồng, tha thứ cho hành động thiếu suy nghĩ của mình!
- Cầm Diêu! Chớ bỏ phí công lao anh đã đóng góp để chuộc tội cũ. Bây giờ bất cứ vì cớ
gì, anh cũng không nên liều mình, tính quẩn! Hãy ra đi! Nhận lỗi anh sẽ tiếp tục được khoan hồng!

- Cầm Diêu! Đừng hy vọng, đừng tin những lời dụ dỗ lừa gạt của phía bên kia! Anh quay
lại sẽ bị chúng trả thù, trừng trị, tiêu diệt đấy!

Đã vượt qua các bãi rậm, vào tới sát chân núi đá. Phạm Cận ra lệnh cho tổ đi đầu trèo lên một hang
khá to ỏ phía trên, cái hang mà mỗi khi đi tuần tra, các anh nhìn vào thấy khá rõ, thậm chí đã có
một lần lên tận nơi để lục soát, cách đây hai năm...

Theo lệnh, tổ Công an vũ trang đi đầu kẻ trước, người sau nối nhau, bám đá leo lên. Phạm
Cận cũng khoác cây tiểu liên ra sau lưng cùng lên theo anh em... Lát sau, mọi người cùng tới cửa
hang. Phạm Cận cho bố trí sẵn sàng chiến đấu phía ngoài, rồi cho một chiến sỹ tiến vào quan sát.
Không thấy dấu vết gì khác lạ. Thêm hai chiến sỹ được lệnh cùng tiến vào sâu hơn nữa... Nhưng
cuối cùng vẫn chỉ thấy lòng hang hoang vu, đầy cây dương xỉ, ẩm lạnh, hôi mốc, dơi bay ra vù vù.
Không có bất cứ người hoặc vật gì khác lạ. Cũng không một dấu vết nào tỏ ra có người vừa chạy
vào đây ẩn trốn.

Phạm Cận cho anh em quay trở xuống. Còn một hang nữa cũng gần đó, nhưng thấp và nhỏ
hơn. Không hề nản lòng, Phạm Cận lại ra lệnh cho anh em kiên trì leo lên, đột nhập thám sát...

Cũng vẫn như hang to ở phía trên: tất cả vẫn chỉ là cây dại với đất đá lổn nhổn, ẩm mốc,
hôi hám, và dơi bay loạn... Anh em còn đang đứng thở dốc thì bỗng có tiếng hô rất to ở dưới chân
núi:

- Đây rồi! Đây rồi! Báo cáo... Báo cáo...!

Phạm Cận chỉ còn thiếu tung người nhảy đại xuống đất. Anh nghiến răng băng mình qua
các tảng đá lớn, đạp toang các đám cây dại, để xuống cho nhanh. Tổ chiến sỹ phía sau lập tức cũng
ào ào lao xuống theo.

Trong khoảng khắc, Phạm Cận đã nom thấy tổ chiến sỹ thứ hai đang đứng vây quanh một
đám cây rậm dưới gốc một cây cổ thụ có tán lá xanh um. Phạm Cận lại như bay tới.

- Đâu? - Anh hỏi như quát lên:

Tổ chiến sỹ lăm lăm súng đã lắp lê, cùng chỉ vào bụi rậm. Phạm Cận mở to mắt nhìn theo.

Không phải ở chỗ hiểm trở nào hết mà ngay nơi khá trống trải bất ngờ này, một người nằm
vật ngửa, hẳn là đã chết. Nhưng người đó mặc quân phục Công an vũ trang, bên cạnh anh ta là một
chiếc ba lô, và một mảnh giấy có chữ viết, hẳn bị gió thổi đã bay ra xa một chút, vương vào đám
cây lúp xúp, đang lay lay.

- Báo cáo, không biết... có đúng nó không? - Một anh chiến sỹ như không giấu được nỗi hồi hộp
cất tiếng nói.
- Chắc phải! - Miệng đáp, nhưng mắt Phạm Cận vẫn không rời xác chết trước mặt;

- Nhưng sao... nó lại mặc quân phục... của ta ạ?

- Theo điện thông báo: khi trốn nó có lấy trộm đem theo một ba lô quần áo, sổ tay, cùng
khăn mặt, vật dụng hàng ngày của chiến sỹ cảnh vệ và một bao gạo đủ ăn mười ngày. Vậy có lẽ
nó đã thay đổi y phục để nghi trang...

Hai mắt vẫn không hề chớp, Phạm Cận ra lệnh cho một chiến sỹ tiến lên nhặt mảnh giấy
đưa ra cho anh coi, xem có gì cần phải xử lý ngay. Ngoài ra, xác kẻ đã chết cùng chiếc ba lô, chiếc
mũ biên phòng nằm lăn ở bên, phải để nguyên trạng không ai được động tới. Chờ cấp trên đến
xem xét và giải quyết.

Tuân lệnh, một chiến sỹ lom khom, thận trọng tiến về phía bụi cây lúp xúp trước mặt. Các
mũi súng phía sau anh cùng chĩa thẳng, sẵn sàng nhả đạn nếu có gì bất trắc, hiểm nguy xảy ra...

Mảnh giấy được đem ra. Đó là một tờ giấy xé ra từ một quyển sổ tay. Phạm Cận chau mày, đọc
nhanh. Những dòng chữ viết bằng bút chì nguệch ngoạc, có lẽ vội lắm, càng về cuối chữ càng đổ
xiêu vẹo, rồi bất ngờ đứt đoạn: “Tôi là Cầm Diêu. Tôi chạy trốn vào núi, nhưng không ngờ bị rắn
độc cắn. Tôi biết tôi sẽ chết chỉ trong vòng mười lăm phút nữa. Con rắn quá độc, tôi biết. Thật
đáng tiếc và đáng buồn cho đời tôi. Tôi phải nhanh tay viết lại mấy dòng này để cho ai nhặt được,
báo cho các nhà chức trách biết: Cầm Diêu này trốn đi không hề phản bội. Thề có lương tâm, thề
có thượng đế. Tôi muốn vào Nam chỉ để tìm giết cho được con Nhạn và thằng Quyến. Tôi đã điên
lên rồi. Tôi không giết được chúng tôi cũng sẽ chết. Một anh cảnh vệ trẻ đã nói tin này cho tôi.
Anh ấy nghe được từ một tên mới bị bắt. Trú mưa ở lán cảnh vệ nó đã kể cái tin khốn nạn chết
người này. Vậy xin mọi người hãy hiểu cho tôi. Tôi không hề phản bội. Tôi chỉ muốn đi tìm để
giết hai kẻ đã giết chết cuộc đời tôi. Nọc độc kinh khủng đã làm đôi chân tôi tê liệt. Bụng tôi đã
như bốc lửa. Mắt tôi đã vàng khè, tôi không...”

Bức thư - hãy tạm gọi như vậy - đến đây phải bỏ dở. Hẳn nọc độc đã lên tới tim của kẻ trốn
chạy. Phạm Cận buông một tiếng thở dài. Mặt anh như thoáng tối lại trong một nỗi buồn nào đó...
Thật vậy, người Việt Nam đã có câu “Nghĩa tử là nghĩa tận”. Vậy cho dù nó là kẻ thù cũ, nhưng
nay nó đã chết, hãy để cho linh hồn nó được yên nghỉ. Hơn thế nữa, như cấp trên cho biết nó đã
có thời kỳ hối cải, vậy sao không có thể dành cho nó một chút lòng ái ngại?...

Quay lại phía các chiến sỹ của mình, anh nói:

- Tổ hai, tiếp tục gác ở đây! Lấy bạt phủ cho hắn ta! Không cho bất cứ ai vào gần. Chúng
ta phải cấp báo lên trên. Để còn phải đưa pháp y về, thậm chí cả người của tòa án quân sự nữa, để
xét nghiệm và xác định. Xem có đúng đây là tên Cầm Diêu không? Có thật nó bị rắn độc cắn chết
không, hay tự sát? Hoặc nó bị kẻ nào đó giết vì lý do chính trị hoặc lý do xã hội nào đó và liệu có
thể tin được hết những gì mà nó đã viết trong bức thư để lại?... Tất cả những câu hỏi ấy theo nguyên
tắc và pháp lý và cả nhân tình đều phải đặt ra đầy đủ, cho nghiêm chỉnh, các đồng chí ạ. Đồn chúng
ta không có đủ khả năng để trả lời, hoặc chứng minh điều gì hết. Các đồng chí hiểu chứ?

- Rõ!
*

* *

- Vậy, nếu có thể, đề nghị các anh cho phép bọn tôi tranh thủ ra hiện trường một chút được
không ạ? Tôi quá biết tên Diêu. Tôi có thể làm nhân chứng nhận dạng được nó ngay. Nét bút trong
thư tôi đã thấy đúng là của nó, dù có nguệch ngoạc và càng lúc càng xiêu đổ, biến dạng. Trước
đây nó vẫn thường phải viết lại nội dung các bức điện đánh vào Sài Gòn cho đúng với khẩu khí
của nó mà bọn Mỹ - Diệm đã quen thuộc...

- Được! Các anh có thể ra đó! Nhưng ngồi nghỉ một tí đã rồi hãy đi!

- Xin các anh cho phép tranh thủ. Trời cũng sắp tối rồi.

- Vậy đồng chí Phạm Cận đưa các anh ấy đi được không?

- Dạ được!

Thế là bọn An cùng với đồn phó Phạm Cận đi luôn.

Đi gần như chạy mà phải gần một giờ sau mọi người mới tới được chân dãy núi đá bên sông Nậm
Tắc. Anh tổ trưởng Công an vũ trang đứng gác ở đó nom thấy An, tươi cười chào. An cũng nhận
ra đó là hạ sĩ Sáng, đã quá quen nhau từ đợt An xuống đây tham gia truy tìm toán Rimos. Hạ sĩ
Sáng chỉ cho bọn An xác người đang nằm ở phía sau bụi cây rậm dưới gốc cổ thụ, nói vui, đầy
kiêu hãnh:

- Anh thấy biên giới Việt Nam ta có ghê không: bất cứ kẻ gian vào là bị tóm ngay, tụi
Rimos đó! Mà kẻ gian chạy ra cũng không thể nào thoát. Thằng Cầm Diêu đây!

An không cười, bước nhanh về phía bụi cây rậm. Anh dừng lại, cúi xuống, mở tấm bạt ra...
Dù trời đã hơi tối, nhưng chỉ mới chợt nhìn, An đã nhận ra ngay đúng là Cầm Diêu! Đúng bộ mặt
quá quen của anh ta, dù nay anh ta mặc giả đồ Công an vũ trang, thêm nữa dù nay khuôn mặt đã
tái ngắt có phần bắt đầu như biến dạng, nhưng vẫn chưa mất đi vẻ cứng cỏi, và bộ râu quai nón lâu
không cạo nay đã đen rậm hơn. Một bộ mặt đầy đau khổ và tuyệt vọng... An từ từ bỏ mũ xuống,
cầm nơi tay. Các bạn anh cùng làm theo. Anh đứng lặng, lòng không khỏi trĩu nặng. Anh âm thầm
nói chẳng thành lời: “Tôi đây, An đây, Cầm Diêu ơi! Không ngờ anh lại quá sai lầm để đến nông
nỗi này. Cả một quãng đời anh trước 1961, thôi bỏ đi, không nhắc lại làm gì nữa. Nhưng gần ba
năm nay phải nói rằng anh đang đi trên một con đường mới, sáng sủa biết bao, mà chính anh vẫn
thường thổ lộ. Vậy mà hôm nay, sự việc lại xảy ra như thế này đây! Tôi đi tìm anh, nhưng chậm
chân quá mất rồi! Thôi, nếu khôn thiêng, Cầm Diêu ạ, hãy nhận lấy những lời cầu chúc của tôi cho
hồn anh được thanh thản. Bọn tôi cũng nhận có một phần trách nhiệm, vì đã có lúc sơ xuất trong
việc đề phòng mọi thông tin do tù binh tung ra, dù cố tình hoặc vô tình chẳng có dụng ý xấu.
Nhưng chuyện chẳng hay đã xảy ra rồi, biết làm sao được nữa? Tôi vẫn nhớ anh đã có lần nói với
tôi: đời anh đã là một chuỗi những sai lầm, thường đường quang chẳng đi, cứ đâm quàng đường
rậm...Cầm Diêu ạ, đúng quá, cuối cùng anh vẫn chẳng rút ra được trọn bài học để tránh những sai
lầm, những bi kịch, là phải biết kìm mình trước những cơn điên giận cá nhân, cũng như phải biết
kìm mình trước mọi cám dỗ của các mối lợi tiền bạc đen tối, bẩn thỉu và cả những chuyện mũ áo,
công danh luồn cúi hoặc mua bán xấu xa... Bây giờ tôi càng rõ anh là người quá mạnh về những
xúc động cá nhân, mà quá yếu về mặt lý trí. Vậy khó tránh được sai lầm cho đến phút chót của đời
anh, cũng không phải là điều đến nỗi quá ngạc nhiên...”

Ngay khi trời vừa tối hẳn thì một số cán bộ của các cơ quan tham mưu, chính trị Khu kể cả
cán bộ pháp y, cán bộ tòa án quân sự cùng tấp nập kéo tới Mường Khuông.

Trên đường trở lại Đội, bọn An lại qua lối Quỳnh Nhai. Nhưng lần này An không rẽ vào bản để
gặp mẹ con Cầm Sa nữa. Anh chưa được phép nói ra bất cứ tin tức gì lúc này. Mà thật ra anh cũng
chưa chuẩn bị được tinh thần, tình cảm và cả lòng tự chủ để có thể trò chuyện về bất cứ chuyện gì
với mẹ con bà trong thời điểm đặc biệt này. Tốt hơn hết, hãy tạm lánh đi, thời gian nào đó thật
thuận lợi, anh sẽ quay trở lại.

Nhưng dẫu sao khi ngồi trên con thuyền độc mộc để qua sông Đà, ngoái nhìn lại bờ bên
kia, An vẫn không khỏi nhớ tới mẹ con Cầm Sa với tất cả những hy vọng và mơ ước của họ về
người con trai mà họ yêu quý xem ra có lẽ còn yêu quý hơn cả bản thân mình... Một ý nghĩ nữa
làm cho anh cũng không khỏi cảm thấy nặng nề: rồi trước sau cũng phải cho mẹ con bà biết tin
này. Nhưng anh hy vọng là bọn anh có lẽ không phải trực tiếp mà một cơ quan khác; Công an tỉnh
hoặc huyện, chẳng hạn... Phải chăng sẽ đảm nhiệm công việc này?... Anh chỉ biết chắc rằng anh
và mẹ con Cầm Sa sẽ rất khó gặp lại nhau, mà cũng có thể chẳng bao giờ nữa...

An đã về tới Đội. Ông Trường đang rất mong anh. Ông xiết chặt tay An. Gương mặt cứng
cỏi của ông thường ngày khá vui vẻ, hôm nay nghiêm nghị như khác lạ. Vẻ nghiêm buồn ấy cùng
cái bắt tay chặt của ông đã cho An hiểu: Ông biết tất cả rồi. Thật vậy! Tiểu khu Công an vũ trang
ở Tây Trang đã điện về Khu ngay đêm đó. Khu đã lập tức báo cáo về Bộ, và Bộ đã báo cho SL-
06...

Cái bắt tay rất chặt của ông Trường, An cũng hiểu ông muốn an ủi người bạn trẻ của mình
đã tốn nhiều công sức, có thể là nhất trong chuyện này, nay đổ bể cả vì hành động điên rồ của tên
Diêu...

- Thôi, chuyện đã rồi, không tiếc nữa! Cũng chẳng nên buồn, chẳng đáng lo nữa. Chúng ta
vẫn có cách duy trì cái “Goblin” này dù không còn có tên Diêu. - Ông Trường vừa kéo An lên căn
nhà sàn “Đại bản doanh” vừa nói.

Khi hai anh em đã cùng ngồi bên bếp lửa, cùng uống một chút rượu trắng cho ấm bụng,
ông Trường mới báo những tin quan trọng mới nhất xung quanh vụ này mà An chưa hề biết:

- Bây giờ tớ báo cho cậu tin thứ nhất: Cậu đã biết vì sao tên Diêu biết chuyện vợ nó mà
điên lên định trốn về Nam, tìm tụi kia để trị không?

- Đã tìm được nguyên nhân rồi hả anh? - An hết sức chăm chú.

- Ừ! Cậu cùng hai tay kia đi, bọn tớ ở nhà giáo dục động viên kỹ lại nhóm cảnh vệ, mới vỡ lẽ...
Thì ra xẩm tối hôm đó, tìm bắt được tên biệt kích què đem về, mấy cậu cảnh vệ đã mệt
phờ. Để tạm nó ngồi ở gần trạm gác, rồi họ tranh thủ thời gian đi tắm và thay quần áo, đợi các cán
bộ hội ý xong sẽ đưa nó lên trình diện. Khi hai tay cảnh vệ đi tắm thì tên Diêu cũng ở trên ngôi
nhà sàn này. Lúc từ chối không nhận huân chương của Diệm xong đi xuống hắn ngang qua trạm
gác. Tên biệt kích ngồi phía trong bất ngờ nhận ra hắn. Nó hỏi có phải Cầm Diêu đấy không? Cậu
lính gác bảo đúng. Tên biệt kích mới kể rằng: nó có biết Cầm Diêu vì nhà nó cũng ở xóm Bóng -
Nha Trang, cách nhà vợ tên Diêu không xa lắm. Cũng vì thế nó biết đủ chuyện về Nhạn vợ Diêu,
nhất là chuyện chị ta mang công mắc nợ tứ tung vì ăn chơi quá đáng sau khi Cầm Diêu đi vắng lâu
ngày. Sau đó chị ta đã theo tên đại úy Quyến sang Thái Lan... Cũng không ngờ sau đó hết phiên
gác, cậu cảnh vệ này đem cơm tới lán riêng cho Cầm Diêu. Hết sức vô tâm, nhẹ dạ, cậu này đã
thuật lại hết mọi chuyện mà tên biệt kích què vừa kể. Tên Diêu nghe xong bỗng trợn ngược mắt
ngã vật ra, rồi nôn mửa hết. Cậu cảnh vệ sợ quá toan chạy ra gọi y tá. Nhưng tên Diêu đã ngồi dậy
bảo là không sao, nó chỉ bị trúng gió một chút. Mọi khi vẫn thường xảy ra như vậy, không có sao!
Cậu cảnh vệ vẫn vô tâm, chẳng báo cáo lại với tiểu đội trưởng. Và thế là nửa đêm, tên Diêu trốn
mất...

An ngồi ngẩn. Thì ra ở đời này chẳng ít chuyện xảy ra chỉ vì những điều rất vớ vẩn hoặc chẳng
quan trọng là bao...

- Như vậy, chuyện tên Diêu đã có thể kết luận và khép lại được rồi sao, anh? - An hỏi lại.

- Phải! Mặc dầu chưa thấy trên có quyết định gì, nhưng tớ cũng nghĩ như cậu... Nhưng này,
xếp là xếp cái chuyện tên Diêu, còn cái Goblin vẫn cứ tiếp tục như thường, tiếp tục mạnh nữa là
khác đấy nhá!

- Rõ rồi mà anh!

- Bây giờ tin thứ hai, đặc biệt hơn nhiều. Tin “ông Chương”...

- “Ông Chương”? Tìm thấy rồi sao anh? - An mừng đến nỗi như chồm hẳn người dậy mà
cắt ngang lời ông Trường đế hỏi ngay.

- Rồi!

- Trời ơi, hay quá! Mà làm sao... cũng nhanh đấy chứ, anh!

- Vụ này Cục trực tiếp nắm! Do sớm nhận định thấy được vụ này có thể sẽ rất phức tạp,
không chỉ bó trong chuyện biệt kích gián điệp Mỹ hôm nay mà có thể nó đã ăn sâu, và lan tỏa ra
nhiều nơi rồi, nên Cục theo chỉ thị của Bộ đã thành lập ngay một Ban chuyên án riêng về vụ này.
Coi như anh em ta không còn dính líu gì nhiều nữa. Nay chỉ tập trung vào duy trì cái Goblin. Tuy
vậy trên cũng đã nói: dù sao cái vụ “Ông Chương”, Bộ vẫn coi nó khởi đầu được là do Goblin. Và
cũng có thể nó vẫn có ít nhiều mối liên quan tới Goblin, vậy cánh ta vẫn phải sẵn sàng, khi trên
cần gì, phải đáp ứng hoặc phối hợp ngay...

- Vâng. Nghe anh nói, thấy quả là cái “ông Chương” phải có một Ban chuyên án khác là
đúng quá.
- Bọn này của Pháp để lại, lâu năm rồi, nên có thể có tên đã chui sâu, trèo cao vào được
hàng ngũ ta. Bọn Mỹ kể cũng cáo thật. Nhận bàn giao từ Pháp, nhưng cứ để đấy “dấm” chưa cần
sờ tới vội. Nay coi như có cơ hội, nó mới đụng tới để tăng thêm lực lượng...

- Ôi, vậy thì... Nhưng sao mà ta lần ra được nhanh vậy anh?

- Không! Đã xong cả đâu! Tất cả mới là mở đầu. Nhưng mới mở đầu mà đã thấy vụ này như thế.
Phải vô cùng thận trọng.

- Vậy cái “Ông Chương” ấy là ai? Tìm được hắn là qua hộp thư chết như thằng Túc vừa
khai chứ anh?

- Phải mà không phải. Vô cùng vất vả, vô cùng phức tạp nữa, các cậu ấy về báo cáo thế.
Nhưng dài lắm, lúc khác sẽ kể. Còn “ông Chương” là ai ư? Các cậu biết cả rồi đấy mà!

- Ai vậy anh? An nhíu lông mày, ngờ ngờ...

- Ông Giong!

18

Mọi việc trong Ban dần dần trở lại bình thường như trước, theo phương án: “Cầm Diêu
vẫn đang chỉ huy toán một cách hăng hái trong việc mở rộng lực lượng và tìm liên lạc với “Ông
Chương”...

Nhưng đùng một cái một sự việc đột ngột khác lại xảy ra: ông Trường lại được Cục gọi về
để làm việc. Nhưng có thể lần này là ông phải bứt hẳn khỏi SL-06, nếu có trở lại cũng chỉ là đôi
khi và thật cần thiết. Công việc chung đang đòi hỏi ông, với chức trách phụ trách Hệ, phải đi khắp
miền Bắc chứ không thể chỉ ngồi “ôm” một chuyên án nữa.

Ông Trường về Cục, tất nhiên Ban ở đây cũng có thêm người bổ sung. Không phải ai khác,
đó là Hà Văn Linh, anh cán bộ trẻ trưởng ban an ninh chính trị của công an tỉnh đã tới đây giúp
sức và tập việc từ mấy tháng rồi. Nay Linh sẽ phải gánh vác công việc như một ủy viên chính thức
trong Ban để rồi sẽ được chính thức thay ông Trường làm trưởng Ban, theo chủ trương của Bộ:
Các ban chuyên án dần dần sẽ giao cho địa phương phụ trách. Bộ chỉ đạo chung.

Ông Trường rời Ban về Hà Nội làm cho An và anh em không khỏi bâng khuâng mất mấy
hôm liền, cứ như hụt hẫng, cứ như mất đi cái gì đó... Tối đến bên bếp lửa nhà sàn anh em đã có
một đề tài mới để nói chuyện: ấy là các chuyện vui về “bác Trường” với tất cả cá tính của ông.
Tuy nhiên ông Trường về rồi, cũng chẳng có thì giờ để nghĩ ngợi nhiều nữa, An cùng Hà Văn Linh
bắt tay ngay vào mọi việc. Trước hết chuẩn bị sẵn các bức điện đối đáp với Sài Gòn. Cũng may,
cái quy định cũ: tất cả các bức điện đều phải đưa về Bộ duyệt, có chữ ký của Bộ trưởng mới được
gửi đi, đã được bãi bỏ từ giữa năm 1962, nghĩa là sau khi Goblin “đổ bộ” được một năm. Bây giờ
trừ những bức điện có nội dung thật quan trọng mới phải như thế, còn bình thường đối đáp nhau,
và xử trí những việc không lớn, thì cán bộ phụ trách Đội được phép tự thảo rồi cho mã hóa, đánh
đi, đỡ mất thời gian rất nhiều. Cũng đỡ vất vả cho anh em. Trước cứ phải hộc tốc đi bộ, bám xe...
từ tít trên rừng xa về tận Hà Nội để duyệt có khi chỉ là một bức điện trả lời cỏn con hoặc vài dòng
không có gì quan trọng...

Đúng một tuần sau, “Trung tâm” điện ra. Khác với mọi lần, hôm nay tên Páo tỏ ra khá hồi hộp khi
đưa bức điện vừa nhận được “còn nóng hổi” cho An:

- Cán bộ An giải mã đi! Em thấy lần này có vẻ... quan trọng lắm. Có thể có việc to đấy!

Cũng như mọi khi, An tự giải mã ngay, không cần phải qua nhân viên mật mã của ta. Anh
đã ngày càng thạo về việc này. Mới đọc lướt qua bức điện, An đã thấy có cái gì như rộn lên trong
lòng. Tên Páo đã cảm thấy không sai.

Bọn “Trung tâm” cho biết là chúng hân hoan vì Gl đã bắt liên lạc được với nhóm “ông
Chương”. Nay “Trung tâm” quyết định: Thứ nhất: giao cho Gl làm đầu mối liên lạc. Nhóm “Ông
Chương” chưa được trực tiếp với “Trung tâm”. Thứ hai: Do kho vũ khí của “ông Chương” chôn
giấu quá lâu, nay đã bị sét rỉ nhiều. “Trung tâm” sẽ gửi ra một số vũ khí để tạm thay thế cho kho
ấy. Số vũ khí cũ tiếp tục chôn giấu để sau này sẽ phát cho dân chúng khi có thời cơ nổi loạn. Cũng
sẽ gửi ra 15 người để tổ chức huấn luyện cho những nhân viên mới được tuyển mộ của cả hai bên
“ông Chương” và Goblin. Quyết định thứ ba: Goblin tìm ngay 5 bãi đổ hàng và người, càng sớm
càng tốt.

- Quá lớn, anh An ạ! - Hà Văn Linh luôn miệng xuýt xoa thốt lên, vừa vui mừng, vừa lo lắng.
Đúng là anh chưa một lần thấy có vụ tiếp tế người và hàng lớn đến thế này. Chúng đã tin Goblin
đến thế rồi sao? Hoặc dù vẫn phấp phỏng, hồ nghi nhưng rút cục chúng vẫn cứ phải làm như thế
vì “đâm lao phải theo lao”, và cũng có thể vì “luật đời” của chúng vẫn thường là: “Thằng dưới
phải biết lừa thằng trên, thằng trên lại phải biết lừa thằng trên nữa” và ngược lại.

An cũng mừng như Hà Văn Linh. Nhưng anh lo hơn Linh. Ông Trường về Hà Nội, An bây
giờ phải tạm “gánh vác” chính ở đây. Đón được gọn gàng, đầy đủ, không nói làm gì, nhưng lỡ xảy
ra chuyện không hay, lẽ tất nhiên An vẫn phải chịu trách nhiệm trước hết. Mà lần này nhiều hàng,
quân nó lại xuống đông như thế, chẳng may trời lại có gió, chúng sẽ lạc tứ tung tới đâu không biết
nữa. Mọi khi chỉ hai ba thằng, quá lắm là bốn, năm, vậy mà tìm bắt cho hết cũng đã rất vất vả,
chưa nói là có khi phải đổ máu vì có đứa dám liều chống cự...

- Bây giờ phải bàn kỹ mới được, anh Linh ạ, kẻo tốt có khi hóa xấu, may có khi hóa rủi
đấy! - An nói - Bọn nó cho ra những 15 thằng. Anh biết đấy, để lọt mất một cũng đã gay rồi! Đấy
là chưa nói có thể có nổ súng. Nổ súng lẻ không đáng ngại lắm, nhưng phải đề phòng cả 15 tên
chống cự lại. Nếu vậy không dễ diệt được ngay mà ta cũng có thể có thương vong...

- Đúng! Anh nói đúng! - Hà Văn Linh đồng ý ngay - Tôi cũng đang lo như thế.

- Vậy ta phải có nhiều phương án. Rồi có lẽ phải về Cục báo báo xin chỉ thị. Tiếc quá, giá
còn bác Thạc, bác Trường ở đây lúc này, thì có phải là...
- Đúng! Vụ này phải yêu cầu trên chỉ đạo kỹ và cho lực lượng mạnh xuống hỗ trợ. Anh về
trực tiếp báo cáo là rất phải. Điện qua cái A20 chỉ vắn tắt được thôi.

Thế là hai anh em cùng vùi đầu vào bàn bạc. Cuối cùng họ nhất trí với nhau báo cáo về
Cục:

Trước hết xin thực hiện phương án: Cứ lờ mọi chuyện đã xảy ra, coi như Cầm Diêu vẫn
còn sống, nhưng tên này đang sốt rét nặng. Sẽ cho tên Lò Văn Sính toán phó thay mặt ra đón người
và hàng. Như vậy phải đề nghị với Cục cho người sang trại giam Thanh Đồng bồi dưỡng ngay tên
này để nó có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ trong vở kịch. Sau nữa: đề nghị với Sài Gòn không cho
“Ông Chương” được trực tiếp cùng nhận người và vũ khí. Viện cớ toán “ông Chương” hầu hết là
civil (dân sự) do Pháp đào tạo cổ lỗ, lại nằm vùng đã lâu không có kinh nghiệm đón hàng, nhất là
đón người. Người xuống bây giờ là lớp quân mới, chúng sẽ khó phục tùng ngay “ông Chương”.
Phải có thời gian mới được. Vậy yêu cầu giao cho Goblin đảm nhận hết mọi việc đón nhận, với sự
hỗ trợ của toán Storm, đã tách xuống Mộc Châu mà Sài Gòn vẫn coi như còn phụ thuộc vào Goblin.
Nếu chấp nhận đề nghị này, yêu cầu “Trung tâm” sẽ cho thả làm hai nơi. Bãi số một do Goblin
(thực chất là Đội chuyên án SL06) phụ trách. Bãi thứ hai giao cho toán Storm (thực chất là Đội
chuyên án MC01). Như vậy đề nghị Bộ huy động cả Đội MC01 vào vụ đón hàng và người này.
Cả hai đội sẽ hoạt động dưới sự chỉ huy thống nhất và trực tiếp của Cục...

Bàn xong kế hoạch ấy, cả hai anh em đều khá phấn chấn. An về Hà Nội ngay. Trong khi
đó ở Khang Kha, Hà Văn Linh cùng tên Páo và một tổ cảnh vệ tranh thủ đi tìm những bãi thả để
báo cho “Trung tâm” biết và duyệt...

Lại sau một đêm hiếm hoi được sống với vợ con, một đêm được trở về với cái thế giới nhỏ
bé nhưng cũng xiết bao to lớn, thiêng liêng của riêng mình, sáng hôm sau An lên Bộ từ rất sớm.

Cục trưởng Công Năng bận họp với Bộ Tư lệnh Công an vũ trang. Ông Trường vừa về được có
hai ngày đã phải vào Hà Tĩnh, Quảng Bình ngay. Hồi này khác trước, kết hợp với việc trực tiếp
ném các toán đường dài ra Bắc, Mỹ tăng cường cho tàu thuyền thả biệt kích vào đánh phá chớp
nhoáng các vị trí quan trọng của ta nhất là các vị trí, công trình quân sự như căn cứ hải quân sông
Gianh, trạm ra đa Đèo Ngang.

Chỉ có ông Thạc đang trực ở Cục làm việc với An. Ông ôm lấy anh hết sức thân thiết. An
hiểu: ông vẫn chưa quên những kỷ niệm cùng làm việc với nhau ở “Trạm khảo sát địa chất sông
Đà” suốt từ 1961 tới 1963. An cũng rất mừng khi được làm việc với ông. Mặc dầu trong Cục có
người cho ông là quá “tròn” không làm mất lòng ai bao giờ, nhất là cấp trên, nhưng vẫn phải công
nhận ông là người thông minh, nhã nhặn, và có đầu óc dân chủ: biết nghe, chịu nghe dưới, chứ
không phải chỉ có bên trên...

Sau khi nghe An báo cáo mọi ý kiến, ông Thạc tươi cười bắt tay An:

- Trước hết hãy mừng cho các anh đã! Bọn nó vẫn tiếp tế ra, có nghĩa là các anh vẫn câu
nhử được chúng!. Mặt khác thấy khá rõ là các anh vẫn còn nhiều thuận lợi! Diệm đã bị lật đổ,
muốn có thay đổi gì thì thay đổi, riêng công tác tình báo gián điệp biệt kích Mỹ đã nắm từ đầu,
nay dường như vẫn y nguyên: chỉ trừ có Tung bị nhóm đảo chính giết, bây giờ Lam Sơn thay. Tên
Ngô Thứ Lân vẫn ngồi nguyên ở cái P54, Senaghi cũng vẫn chuyên trách việc đánh người ra Bắc.
Vì thế bọn nó vẫn tin, vẫn nắm lấy Goblin. Thấy Goblin đã “bắt được liên lạc với ông Chương”
nữa, chúng càng khoái. Đúng không?

Sau đó ông mới phát biểu về kế hoạch của bọn An. Anh không khỏi ngạc nghiên: khi nói
về tình hình chung, ông nói khá kỹ, khá dài, nhưng đến việc của bọn An ông không hỏi, hoặc căn
vặn gì nhiều. Ông vẫn chỉ cười, và nói gần như vắn tắt là đồng ý hoàn toàn. Rồi ông hứa sẽ báo
cáo Bộ ngay, còn về phía Cục, Cục sẽ làm hết sức mình để tạo thuận lợi cho bọn An lại “đánh
thắng” giòn giã.

An hiểu được: đây cũng là biểu hiện, là tín hiệu cho biết: ông khá tin ở bọn An. Thêm nữa
An còn cảm thấy ông muốn khuyến khích mình trong hoàn cảnh ông Trường bị Cục rút đi làm
những việc quan trọng khác. An là trợ lý thường trực phải đứng mũi chịu sào, nếu bị vặn vẹo, bắt
bẻ nhiều e sẽ không khỏi lo lắng, xuống tinh thần. Những ý nghĩ ấy làm cho An thầm biết ơn của
ông

Cuối cùng, ông Thạc nhấn mạnh thêm:

- “Ông” An ạ, tôi nghĩ qua vụ này nếu thắng lợi trọn vẹn, địch vẫn tin tưởng thì các “ông”
có thể chứng minh: tên Diêu dù đã chết nhưng ta vẫn có thể duy trì và phát huy lâu dài cái Goblin
này, nếu như tiếp tục mưu trí và sáng tạo.

An cũng mỉm cười, khiêm tốn gật đầu:

- Dạ phải.

Lát sau, An xin cáo lui và bắt đầu lao vào “chạy” các việc cụ thể: xin Công an vũ trang chi
viện, xin trinh sát, xin gạo, xin lương... rồi còn phải sang nhà giam Thanh Đồng để trực tiếp gặp
tên Lò Văn Sính toán phó Goblin, cho dù Cục đã nhận sẽ cử cán bộ sang bồi dưỡng cho nó cách
ăn nói, đối đáp với địch... Tất cả mọi việc đúng như ông Trường phải làm trước kia mỗi khi có
nhiệm vụ.

Ba ngày sau, An mới trở lại Đội. Hà Văn Linh cho anh biết đã tìm được một bãi rất ưng ý,
chỉ cách Đội khoảng hơn 10 cây số đường chim bay...

Không khí trong toàn đội rất vui, từ cảnh vệ tới nhân viên điện báo, mật mã, cấp dưỡng, y
tá, cho tới cả các trinh sát của tỉnh, của Khu vừa mới xuống Đội để thực tập và giúp sức trong mọi
việc. Nhưng có lẽ một trong những biểu lộ sự vui vẻ rõ nhất vẫn là tên Páo. Nó lại thổi khèn bè,
lại nhảy nhót một mình, và nói với mọi người: “Bây giờ tôi mới dám nói: anh Cầm Diêu chết, tôi
sợ lắm. Sợ bị các cán bộ nghi là xui anh ấy làm bậy, phản bội... Bây giờ mọi việc rõ rồi, tôi mới
vui đấy!”

Thế rồi chỉ một tuần sau đã có điện của “Trung tâm” trả lời đồng ý với kế hoạch do Goblin
đề xuất: Sẽ thả hàng và người cùng trong một đêm, đêm N+2 tháng 12 - 1963 làm hai đợt, đợt I
cho Goblin bắt đầu từ 21 giờ 30 phút, đợt 2 cho Storm lúc 0 giờ 30 phút...
*

* *

Cuộc đón nhận bổ sung của Goblin cũng như của Storm đã thu được kết quả đúng như ý
muốn của ta, không xảy ra bất cứ sự cố đáng tiếc nào. Đáng chú ý nhất là tên “Mặt chảo gang”
toán phó Lò Văn Sính mọi khi rất lầm lì, vậy mà y cũng đã thực thi nhiệm vụ một cách khá trôi
chảy, ngay cả trước những câu hỏi rất bất chợt của tên “phái viên” Sài Gòn. Cũng thêm một lần
nữa, qua tên Sính, bọn An khẳng định được: khi đã thông suốt trong tư tưởng, con người ta có thể
sáng tạo và ứng xử được rất tốt, nhiều khi hết sức bất ngờ...

Công việc thu, rồi bàn giao, vận chuyển “hàng” và đưa người về Hà Nội đã làm xong gọn gàng
chỉ trong vòng có ba hôm. Đội lại trở về trạng thái tĩnh như mọi khi. Tuy nhiên không khí và dư
âm tốt đẹp của vụ đón nhận vẫn chưa hề qua. Toàn Đội vẫn rất vui. Ông Vạn - chàng Pierre của
Tolstoi với cây súng săn luôn luôn bên người - lại “tiếp tế” cho một con lợn và mấy con gà để anh
em làm một bữa “mừng công” túy lúy với cán bộ địa phương và dân bản...

Nhưng cũng ngay sau bữa liên hoan ấy, một bức điện từ Cục gửi xuống mời An về làm
việc. Việc gì vậy? Thông thường hay đột xuất? Ba năm nay mỗi khi An được về Hà Nội chỉ là do
ông Thạc hoặc ông Trường phân công, giao nhiệm vụ. Chưa một lần nào anh được Cục mời đích
danh như thế này. Vậy đây hẳn là chuyện “lành” chứ không phải “dữ”. An vui vẻ thầm nghĩ rồi
mau mắn sửa soạn ba lô, bàn giao công việc cho Hà Văn Linh, để ra đón xe về Hà Nội.

Như mọi khi, xế chiều An mới về tới nhà. Anh tự mở cửa, dọn dẹp loanh quanh một lúc
thì Thùy đèo cu Toàn về. Chỉ có khác mọi năm là bây giờ cu Toàn rất “oách”. Nó đã qua mẫu giáo
và lên lớp một. Nó học buổi sáng ở trường, buổi chiều Thùy gửi nó ở luôn nhà cô, đóng tiền nhờ
cô trông nom và cho nó ăn quà. Thằng bé vẫn gầy gò như ốm đói, nhưng được cái nhanh nhẹn, vui
vẻ, đỡ ốm đau hơn khi mới lên hai, lên ba.

Hai bố con, lần nào cũng vậy, ôm chầm lấy nhau, cười khanh khách rồi cùng lăn ra vật
nhau trên phản. Và tất nhiên lần nào An cũng “thua”. Nó ngồi hẳn lên bụng bố mà trợn mắt giơ
nắm đấm hấm hứ. Trong khi ấy An ra sức mà la: “Thua rồi!”... Còn Thùy thì cứ cười tràn, cười
lắm khi chảy cả nước mắt ra vì vui quá, hạnh phúc quá. Đó là cái hạnh phúc nhỏ bé nhưng cũng
xiết bao lớn lao, trong sáng của gia đình chị. Chị đã toan khoe ngay với anh một điều gì đó. Nhưng
đợi đến khuya, khi cu Toàn đã ngủ ngon, chỉ còn hai vợ chồng nằm ôm chặt lấy nhau, chị mới ghé
tai anh thì thào, vô cùng sung sướng:

- Anh ạ...em đã có thai đứa con thứ hai của chúng mình...

An như nhỏm hẳn nửa người dậy. Trong bóng tối lờ mờ, Thuỳ cũng nhận ra gương mặt
anh như sáng rõ:

- Thật ư em? Hay quá!

- Vâng, hai tháng rồi... Từ lần trước anh được tranh thủ về có một đêm đấy!
An ôm ghì lấy vợ, hôn khắp mặt, hôn sang hai mang tai, hôn ra sau gáy, rồi hôn xuống cái
cổ trắng ngần:

- Ôi cám ơn em! Cám ơn em!

Thùy ngửa mặt, ưỡn người, mái tóc đen rất dài, rất đẹp xổ tung ra, xòa rộng sau tấm lưng
thon thả. Cặp mắt chị nhắm nghiền, hai hàm răng như ngà ngọc:

- Thế anh không sợ... Mình nghèo quá ư? - Chị hỏi, mắt vẫn nhắm, và nụ cười vẫn như bất
tận trên môi.

- Không! Nghèo thì nghèo. Lo gì...

Đến lượt chị như đột ngột trào lên, ghì xiết lấy anh. Rồi cả hai người cùng như chìm, như
tan ra trong những cảm xúc ngùn ngụt, say mê và ngây ngất...

Sáng hôm sau, An vào Bộ từ sớm. Và cũng như phần nhiều các lần trước, vào tới hành lang cơ
quan, An lại gặp cô trung úy xinh xắn và nhanh nhảu mọi khi, lúc nào cũng một tập tài liệu dầy
cộp ôm trên tay. Cô đang nói chuyện hoặc tranh luận gì với hai anh trinh sát mới từ Hải Phòng và
Thái Nguyên được điều về Cục I, nhưng không cùng Hệ chống gián điệp biệt kích Mỹ. Thấy An
tới, hai anh kia lảng đi chỗ khác. Riêng cô đại úy vẫn đứng lại tươi cười, chào An rất thân thiết.
Côi hỏi:

- Anh có biết hai chàng kia vừa tranh luận điều gì với em không?

- Không.

Một chàng thì quyết đoán là tụi Mỹ tưởng “quái” lắm, té ra cũng đần. Ta “xiếc” cho mấy
năm nay, chẳng biết gì hết, ta câu cái gì, nhử thế nào là làm y như thế ấy. Nhưng anh chàng kia lại
cho rằng chính thế nó mới “quái”. Anh này cam đoan là tụi Mỹ biết tỏng là các toán gián điệp biệt
kích đều bị tóm và bị khống chế hết. Nhưng tụi nó vẫn cứ làm ra vẻ như tin là có rất nhiều toán rất
tốt, rất đáng tin, cần phải tiếp tế ra đều đều... Chẳng qua là để làm phép với ngụy quyền yên tâm
hơn, vì thấy Mỹ đang cho gián điệp biệt kích ra phá miền Bắc rất mạnh... Đấy chưa nói còn do sự
cạnh tranh giữa CIA và DIA luôn luôn

âm thầm mà gay gắt. Thằng CIA phải làm như mọi chuyện mình thực hiện đều chúa cả... Đấy anh
thấy có lắm ý kiến không!

An cười:

- Vậy còn ý kiến của trung úy thế nào?

- Em ấy ư! Em cho là chúng nó có ngờ một số, có tin một số...

An cười to hơn, trêu:


- Ô vậy thì ra đại úy theo thuyết triết trung nhỉ?

Cô đại úy “hứ” anh một cái, thì vừa lúc Cục trưởng Công Năng đến. Ông vẫy An vào phòng
làm việc của mình. Đã biết tính Cục trưởng rất nghiêm, cô trung úy cũng vội vã đi thẳng.

Vẫn căn phòng khá rộng, đồ đạc cực kỳ đơn sơ mà An đã biết. Nhưng anh không khỏi ngạc nhiên:
khác mọi khi họp hành, hội ý Cục trưởng Năng chỉ cho uống toàn nước trắng, hôm nay ngoài nước
trà, còn thấy có cả một bao Điện Biên. Có thể biết chắc nếu không dành cho khách khác, thì những
thứ này là dành cho anh. An không những là dân “ghiền” thuốc lá đã nổi tiếng ở Cục này mà còn
thích cả trà hương nữa. “Con nhà lính, tính nhà quan” mà! An vẫn thường tự giễu mình như vậy.

- Khỏe chứ đồng chí An!

- Dạ, báo cáo cũng tạm được.

- Vụ các đồng chí đón nhận hàng mới, tôi đã nhận được đủ thông tin và báo cáo. Tốt đấy!

Vẫn với tác phong rất năng động, cục trưởng Năng vào việc luôn. Không bao giờ ông thích
những chuyện “râu ria”. Họp với ông bao giờ cũng rất nhanh, gọn, thường thường chỉ từ 10 tới 15
phút là xong.

- Đồng chí An - Ông Năng tiếp - Cục mời đồng chí về lần này là có nhiệm vụ mới...

- Dạ - An không khỏi thoáng hồi hộp...

- Bây giờ tình hình miền Nam đang phát triển rất tốt, rất mạnh... Anh em người miền Nam
tập kết ra Bắc, tính đến nay đã trở lại quê hương chiến đấu hầu hết. Thanh niên ngoài này cũng đã
tòng quân, vào trong đó rất nhiều. Các ngành, các đoàn thể, các cơ quan Đảng... cũng đã cử người
đi khá đông. Bộ ta cũng đã cử một đợt. Nay trong đó, do tình hình đang phát triển rất nhanh, lại
yêu cầu cử gấp một số cán bộ có nghiệp vụ, Thường vụ Đảng ủy Bộ vừa có quyết định đáp ứng.
Lần này chủ yếu sẽ đưa đi một số cán bộ trinh sát an ninh giỏi, có nhiều kinh nghiệm, để vừa sát
cánh với anh em trong đó trực tiếp chống gián điệp biệt kích Mỹ ném vào các vùng giải phóng,
vừa mở các lớp đào tạo...

Thế là hiểu rồi. An thầm nói trong lòng mình. Và đầu óc anh bỗng thoáng như có gió nổi...
Nhưng rồi cũng khá nhanh anh lấy lại được ngay sự thăng bằng trước đôi mắt cực kỳ thông minh
của Cục trưởng Năng đang như chiếu, như soi vào anh để đọc những phản ứng, những xúc động
tất nhiên là phải có. Nhưng giọng nói của ông vẫn đều đều, bình tĩnh và chắc chắn:

- Nói tóm lại, đồng chí An ạ, Cục đã cân nhắc, sẽ đề cử đồng chí và bốn đồng chí nữa lấy
ở các tỉnh. Vậy đồng chí có đi được không? Tôi muốn nói rõ: Dù là nhiệm vụ, nhưng không bắt
buộc. Cục muốn anh em tự nguyện, dù đi hay không đều hết sức thoải mái. Đợt này nếu vì sức
khoẻ, hoặc vì việc nhà chưa ổn lắm, có thể lui lại. Sau này sẽ đi. Không sao cả.

Ông còn nói thêm hoặc giải thích, động viên những gì đó nữa, mặc dầu ông vốn nổi tiếng
kiệm lời. Nhưng dường như An không còn nghe thấy gì hết. Một cách tự nhiên, đầu óc, tâm hồn
anh đã bay về bãi Phúc Xá với Thùy, với cu Toàn... rồi bay về Kiến An quê hương với người cha
nay đã tròn bảy mươi tuổi, yếu đau quanh năm, cũng chưa một lần nào cha con được gặp nhau ở
Hà Nội. Khi cha khỏe, lên chơi được thì con đi công tác vắng, lúc con từ nơi công tác xa được ghé
về Thủ đô ít bữa thì cha lại ngã bệnh... Còn anh, còn chị, còn ông chú bà bác bên nội bên ngoại,
và bạn bè gần xa nữa... Nhưng cháy bỏng hơn cả vẫn là hình ảnh cu Toàn với Thùy, mà Thùy mới
mang thai lần thứ hai...

-... Nếu đồng chí đi được, Cục sẽ cho đồng chí nghỉ nửa tháng để chuẩn bị mọi mặt. Ăn
Tết xong thì lên đường. Phương tiện gì, tuyến nào, Cục sẽ thông báo sau. Còn công việc của SL-
06 với cái Goblin ấy, đã tính rồi. Cứ yên tâm. Bộ chủ trương vẫn tiếp tục duy trì và phát triển mạnh
vụ này!.. Anh em ở nhà sẽ không phụ công sức của các đồng chí - những người đã mở đầu rất
xứng đáng...

Lòng vẫn như có gió nổi, nhưng An ngồi thẳng lưng dậy, và cũng nhìn thẳng vào ông Năng, cất
tiếng nghiêm trang, khẳng khái:

- Báo cáo đồng chí, tôi đi được!

- Hả?

Một cái gì đó tựa như một tia sáng chợt loé lên trong đôi mắt ông. Ông giơ bàn tay ra. Lần
đầu, An được bắt tay ông lâu như thế này.

- Vậy hả? Tốt lắm! Nhưng cứ về nghĩ kỹ đi đã nhé!

... Khi An ra khỏi phòng, ông Năng cũng đẩy ghế đi theo, tiễn anh ra tới tận cửa. Ông lại
cầm lấy bàn tay anh một lần nữa, mỉm cười, thong thả nói - một câu nói tình cảm khá cởi mở, ít
thấy làm cho An không khỏi cảm động:

- Rồi bọn tôi cũng sẽ đi cả thôi. Khéo chúng ta cùng gặp nhau cả trong ấy không biết chừng
đấy!...

An ra ngoài phố. Hà Nội lại hiện ra trước mắt anh với những con đường phủ bóng cây xanh yên ả,
với những dòng xe đạp bất tận cùng những gương mặt cần mẫn bình thản và gan góc... Tất cả cảnh
tượng ấy làm cho anh thêm bình tĩnh. Tất nhiên vẫn còn lại một nỗi âu lo lớn nhất: làm sao nói với
Thuỳ chuyện này một cách tự nhiên được, để cho Thùy có thể hiểu mình, và không bị sốc?...
Những người phụ nữ, những cô gái Hà Nội tiếp tục ngược xuôi hối hả, hầu hết đạp xe đạp, mang
dép nhựa mỏng dính, với những chiếc quần lụa đen cũ kỹ, gấu phần nhiều đã bị xích, đĩa xe đạp
cắn như cá rô đớp. Những tấm áo sơ mi cũng phần nhiều đã cũ và đều là vải thường, không là ủi,
kiểu cách thì giống nhau tựa như đồng phục... Họ mải miết đạp xe để đi làm, không công sở này
thì hợp tác xã khác. An thầm hỏi: trong số họ có bao nhiều người có chồng, hoặc, con em đã đi
vào Nam chiến đấu? Và anh lại nhớ tới nữ bác sĩ Tuyết, vợ một cán bộ miền Nam tập kết đã bí
mật trở lại trong đó. Đúng là khó quên cái đêm mưa hôm ấy, khuya rồi chị vẫn ngồi trong phòng
làm việc không về, với cuốn nhật ký nhòe nhoẹt nước mắt. Vậy còn Thùy? An lại thầm tự hỏi
mình, và không khỏi lo lắng...
...Tối hôm ấy, sau khi cu Toàn đã ngủ ngon, lại như mọi đêm, hai vợ chồng mới nhỏ to tâm
sự. Đã khuya lắm rồi, An mới lấy hết nghị lực để nói lại vắn tắt câu chuyện ban sáng giữa anh với
cục trưởng Năng...

- Vậy anh nhận lời chứ?

An không khỏi ngạc nhiên thấy giọng nói của Thùy không lộ rõ vẻ gì quá hoảng hốt hay bị
sốc mà chỉ như khẽ rung lên.

- Phải rồi. Anh rất tiếc là không trao đổi được với em. - An lắp bắp đáp lại.

- Không sao cả, anh ạ! - Giọng nói của Thuỳ có vẻ như bình tĩnh hơn. Nhưng trong bóng
tối lờ mờ, An gắng nhìn, nhận được một nét gì đó không khỏi rất buồn trong mắt.

- ...Anh xử sự thế là phải. - Thuỳ lại thong thả tiếp - Thôi, khoan nói, tới đảng viên hay
không đảng viên, khoan nói tới trách nhiệm nhiều hay ít, hãy cứ vì lòng tự trọng và sự thành thật
của mình mà trước các chú, các bác ấy, anh đã nhận lời như thế là rất đúng!

An chỉ còn biết ôm lấy Thùy, và muốn rơi nước mắt vì nàng.

- Trong xí nghiệp, anh ạ - Thùy lại tiếp - Bọn công nhân nữ chúng em thường tâm sự với nhau từ
lâu: trước sau rồi các anh cũng sẽ phải đi hết. Cho nên, cũng coi như chúng em đã tự chuẩn bị tư
tưởng cho mình về mọi chuyện.

An chỉ còn biết thốt lên nỗi băn khoăn, lớn nhất, cũng là thầm kín nhất và cũng là cuối
cùng của mình:

- Em ạ, em hẳn biết rõ là anh luôn luôn và hoàn toàn tin ở em. Nhưng không thể giấu em:
dẫu sao anh vẫn chẳng thể yên lòng, vì... em lại mới mang bầu...

Thùy lắc đầu, giọng chị không giấu được nỗi buồn nữa, nhưng cũng vẫn có cái gì đó khá
cứng cỏi:

- Không sao cả anh ạ. Anh cứ yên tâm mà đi. Mọi người sống được, em cũng sẽ sống được
với các con. Chỉ cần trước khi đi, anh báo cho cơ quan anh biết chuyện này, để tránh mọi sự hiểu
lầm sau khi anh đi mà ở nhà em lại sinh nở.

- Em ạ, hay là... An ngập ngừng mãi mới thốt lên được.

Lập tức một bàn tay Thùy vội bịt chặt lấy miệng anh. Chị hiểu anh muốn nói gì rồi:

- Không! Không! Anh đừng nói thế! Đây là chuyện vô cùng thiêng liêng, cực kỳ thiêng
liêng của hai chúng ta, mà trong xã hội cũng thế thôi, nó cao hơn, lớn hơn tất cả mọi công danh,
thậm chí mọi lý thuyết ở trên đời này... Không! Anh đừng lo gì hết! Đã nói rồi: mọi người sống
được, em cũng sẽ sống được và nuôi con được mà anh...
Đến lúc đó, hai giọt nước mắt của An thực lăn ra không kìm được nữa...

* *

Phương tiện và lộ trình đã được giữ tuyệt mật tới phút cuối cùng. Cho tới tôi hôm đó, khi
chiếc xe con bịt kín chở An và bốn anh cán bộ công an khác đi cùng, vượt qua cầu Long Biên,
hướng phía Hải Phòng phóng tới, thì các anh đã ngờ ngợ... Rồi chiếc xe rẽ về phía Đồ Sơn, cả mấy
người đều có thể biết là sẽ được cho đi bằng phương tiện gì rồi... Thì ra vậy, do yêu cầu gấp của
“trong ấy” bọn anh đã được đi ghé cùng đoàn tầu đặc biệt này: “Đoàn tầu không số” chuyên bí
mật vượt biển để chở “hàng” vào Nam. Nhưng dường như chỉ những nhân vật hết sức quan trọng
mới được “quá giang”, còn toàn phải vượt Trường Sơn, ròng rã tháng này sang tháng khác cực kỳ
gian khổ...

Dưới bến đậu của thủy phi cơ cũ, một con tầu kiểu tầu đánh cá xa bờ đã neo đậu ở đó. Đó
là một trong những con tầu sắt đầu tiên thuộc Đoàn vận tải hải quân 125 được sử dụng trên “Đường
mòn Hồ Chí Minh trên biển”, thay cho những con tầu gỗ thô sơ đã từng bí mật vượt biển hồi 1961.

Khá đông chiến sĩ đang hì hục, liên tiếp nối nhau khuân vác những kiện hàng, bọc hàng
lớn nhỏ trên boong. Trong bóng đêm lờ mờ, không nhận rõ những gương mặt, chỉ thấy những dáng
người nhỏ nhắn nhưng hết sức dẻo dai, mau mắn và đầy vẻ cần cù, gan góc... cái dáng vẻ Việt
Nam dường như trộn đâu cũng không lẫn. Trong lúc đó, đứng ở trên dốc xi măng là một toán năm
sáu người, có vẻ là những người chỉ huy, phụ trách đang trông coi, đôn đốc việc chuyển hàng và
cũng là để tiễn con tầu ra đi. Bọn An chạy lại báo cáo.

- A, anh em bên công an - Một người vui vẻ cất tiếng nói, giọng vang và khỏe. Đứng gần,
An nom rõ hơn một gương mặt cứng cỏi, táo bạo với đôi mắt xếch và bộ râu quai nón mờ mờ. Anh
nhận ra ông tướng Phó Tổng tham mưu trưởng bên quân đội. Ông cũng có tên giống ông Cục
trưởng An ninh của bọn An: ông Năng. Nhưng tính nết ông này “Trương Phi” đã nổi tiếng. Nghe
nói - không biết có đúng không - có một giai thoại về hai ông Năng: ông Năng - Trương Phi đã có
lần nói với ông Năng bên Công an: “Cậu có thể câu máy bay nó ra dốc Cun, để tớ cho phòng không
nó bắn thử không?”

Nghe nói ông Năng Công an chỉ cười vì gọi và bắn thế sẽ lộ mất một “lưới” mà bên công
an đang “làm ăn”. Nhưng cũng có người lại bảo: “Hợp đồng” ấy đã được thực hiện...

Có vẻ rất cởi mở và có nhiều thiện cảm với bên công an ông Năng quân đội lại cười, nho
nhỏ nói, nhỏ nhưng tiếng ông vẫn vang to hơn hẳn những người khác:

-... Tụi Mỹ nhảy ra Bắc, bên các anh đã tóm gần như sạch sành sanh, tốt lắm. Nay các anh
còn vào tận trong ấy, để chi viện cho anh em ta. Như thế cũng là tiếp tục đánh cho vỡ nát hẳn cái
khâu quấy phá miền Bắc của chúng nó, có phải không? Hay đấy!

Đúng 23 giờ, con tầu không số bắt đầu nhổ neo. Tất cả những người đứng trên bờ đều nồng
nhiệt và cảm khái vẫy chào theo. Ai cũng biết con “Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển” là một
sáng tạo Việt Nam, nó được nảy sinh ra từ lòng yêu nước cực kỳ sâu nặng và bỏng cháy; nó cũng
ra đời từ ý chí và lòng dũng cảm tuyệt vời của dân tộc này. Con đường đã mang lại không ít hiệu
quả, nhưng cũng đã không ít lần đổ máu chiến sỹ...

Con tầu càng ra xa nhìn lại đất liền càng mờ dần. An cùng các bạn vẫn còn ngồi ở trên
boong, im lặng hút thuốc lá, mỗi người đuổi theo một tâm sự. Luôn ngoái nhìn lại đất liền phía
sau, An vẫn muốn thầm gửi lại tất cả những lời chào yêu thương trĩu nặng của lòng mình cho vợ,
cho con, cho mẹ, cho cha cho mọi người thân thuộc... Cũng là gửi lời chào một quãng đời đã qua
của mình với chẳng ít vui, buồn và vất vả, kể cả hiểm nguy, nhưng cũng không đến nỗi quá buồn
tẻ, nhỏ nhoi, hoặc hèn yếu, xấu xa... Cũng gửi lời chào miền Bắc thân yêu dù cho nó vẫn còn chẳng
ít thiếu thốn, ấu trĩ, kể cả nghèo nàn và lạc hậu... Giống như tất cả mọi người Việt Nam khác, An
yêu miền Bắc quê hương ruột thịt - yêu nó chân thành và máu thịt, như những đứa con không bao
giờ chê cha mẹ khó... Nó kia - miền Bắc cắt rốn chôn rau - tối mò và xa dần như chỉ còn là một
nỗi niềm man mác...

Con tầu mỗi lúc lướt thêm nhanh, có lẽ nó đã chuyển sang tiến 3. Tiếng máy tròn vo, rền
vang hòa cùng tiếng sóng biển liên tục va đập bên thân tầu. Nhìn về phía trước, biển mênh mang
đầy gợi cảm, quyến rũ, và cũng đầy bí mật, kể cả hăm doạ... Tất cả dần dần tạo cho An những cảm
giác gì đó vừa hồi hộp vừa bập bênh hứng khởi và kích thích, cùng với những ý tưởng còn hết sức
mơ hồ, lênh đênh nhưng cũng đầy lãng mạn... An cảm thấy tâm hồn mình như mở ra với tất cả
những xúc cảm mới lạ ấy. Con tầu vẫn tiếp tục tiến lên phía trước, rẽ nước thành hai cánh sóng
trắng xóa tung lên theo những con cá nhỏ mình dẹt, sáng như những lá bạc bay rơi lả tả trên boong.
Ở phía sau đuôi tầu là cả một con đường nước sục sôi mỗi lúc một mở xòa ra như một cánh quạt
khổng lồ lấp lánh đầy ánh lân tinh kéo dài như vô tận. Tiếp tục nhìn về phía trước, An như mơ hồ
cũng nhìn được thấy cả chân trời xa đỏ lửa. Đó là mặt trận! Thật vậy, bọn anh đang được con tầu
đưa tới đó. Và anh cũng như không ít người đã biết, thậm chí đang biết rất rõ thế nào là chiến
tranh... Nhưng ở vào tuổi này, cái buổi ba mươi, và hơn một chút, đang chín và vẫn chưa hề suy
giảm những mơ ước, kể cả những ham muốn chiến thắng, cũng như chưa hết những niềm kiêu
hãnh thiêng liêng trong hy sinh vì công hiến. Tóm lại, cũng chưa đến nỗi yếu hèn, ích kỷ...

Có lẽ chính vì thế, mọi nỗi niềm của người ra đi cũng dịu dần và những kích thích cùng trí
tưởng tượng mang những sắc màu khá lãng mạn như mỗi lúc một thêm sống động trong lòng anh...

An đứng dậy, tựa lưng vào lầu của cabin con tầu, ngẩng lên nhìn bầu trời đêm. Trên vòm cao đen xanh
bao la, muôn vì sao lấp lánh như đang vẫy chào, như réo gọi. Những ngọn gió biển dạt dào, lồng lộng cũng
như muốn cuốn đi, bốc đi tất cả. Đầu óc anh thoáng rộng. Anh cảm nhận được rằng giờ đây trên chặng
đường mới anh sẽ lại có thể làm được những gì mình đã làm và sống như mình đã sống, nếu không muốn
nói là sẽ gắng hơn thế nữa. Thật vậy, anh sẽ gắng làm tất cả - không phải là tất cả những mơ ước và khát
vọng - mà tất cả những gì anh có thể làm được trong tầm tay, với sức lực của mình...

VĨ THANH
Mùa hè, năm 1996. Hoa phượng đã đỏ rực khắp trời Hà Nội. Hàng trăm ngàn chiếc xe gắn
máy nổ ran chạy trên mọi đường phố lớn nhỏ. Thủ đô nay đã trở nên náo nhiệt, sầm uất khác hẳn
với Hà Nội xưa - Hà Nội lặng lẽ nền nếp nhưng nghèo khổ, quê mùa thời bom đạn.

Trong một bệnh viện khá lớn với cơ sở vật chất và phương tiện khá hiện đại ở ngoại ô
thành phố, ông Trường đang nằm thiu thiu ngủ trên giường bệnh. Theo thường lệ, vợ con và các
cháu ông đều thăm nom ông vào các buổi chiều. Vì thế các buổi sáng, sau khi “làm thuốc”, ông
chỉ nằm nghỉ ngơi hoặc đọc sách báo. Năm nay ông 75 tuổi, nhưng mái tóc đã bạc như cước, và
khuôn mặt bợt bạt, hai má tóp sâu, răng đã rụng gần hết... Nom ông chẳng khác một cụ già trên
80. Không phải chỉ có một bệnh cố hữu thâm niên là bệnh đường ruột, mà ông còn đủ thứ bệnh
khác: nào tim, nào não, nào phổi, nào tuỵ... thậm chí cả những bệnh như nấm mốc, ngứa lở ở ngoài
da nhưng chữa mãi vẫn không dứt. Năm nào ông cũng phải vào viện này một hoặc vài tháng.
Người ta đều biết đó là hậu quả do nhiều năm sống nơi rừng thiêng, nước độc thời chống Mỹ của
ông.

Sáng nay ông đang thiu thiu ngủ sau khi uống thuốc và tiêm thì chợt tỉnh dậy. Hé mắt nhìn,
ông thấy một người chạc ba mươi, ba mươi mốt mặc thường phục đang ngồi đọc báo trên chiếc
ghế nơi đầu giường. Ông đã nhận ra ai. Nhếch miệng cười, nụ cười móm mém, ông vui vẻ hỏi:

- Thằng Tâm đấy hả?

- Ô, bác đã dậy - người trẻ tuổi có tên Tâm vội đặt tờ báo xuống, mừng rỡ. Thưa bác cháu
mới về tối qua, hỏi thì được biết bác lại vào viện...

- Ừ, nửa tháng rồi. Chán quá. Buồn quá, chỉ muốn về...

- Ấy, bác ơi, bác cần cố gắng ở lại cho... tốt đã, bác! (Anh không dám dùng tiếng khỏi vì
đã quá biết bệnh trạng của ông già từ nhiều năm nay) - Bác ơi, cháu vừa từ chỗ làm việc với bọn
MIA ở Quảng Bình tranh thủ vào Sài Gòn. Định đón mẹ cháu ở chỗ anh Toàn về ngoài này, vì mẹ
cháu đi cũng đã ba tháng rồi. Nhưng mẹ cháu bảo con anh ấy chưa thật khỏe hẳn, nên còn muốn ở
lại trông nom thêm, giúp anh chị ấy ít ngày nữa... Mẹ cháu có gửi biếu bác mấy ký xoài...

Miệng nói, Tâm cúi xuống kéo chiếc bị cói đặt ở chân ghế, lấy ra một túi xoài khá lớn đặt
lên chiếc bàn sắt nhỏ ở đầu giường. Chợt anh nhìn thấy hai bức ảnh đặt trên một cuốn sách. Một
tấm là ảnh ông Thạc, ông này đã mất vì bạo bệnh năm ngoái. Ông này thì Tâm quá biết. Nhưng
bức thứ hai thì lạ: ảnh chụp một ông mặc sắc phục Công an vũ trang cùng một bà, hẳn là vợ, mặc
sắc phục dân tộc Thái. Cả hai người đều khoảng trên 60 tuổi nom rất đẹp lão.

- Ai đấy bác?

Ông Trường vui vẻ:

- À, chú Đinh Văn Nết và cô Lò Thị Én. Họ vừa gửi về tặng tao. Hai người này cũng rất
biết bố cháu ngày trước. Cái chú này lạ lắm! Trước làm đồn trưởng trên đó, yêu cô này. Bà mẹ
dưới xuôi không bằng lòng. Bà chỉ muốn có con dâu tại làng cho gần, hơn nữa, bà cụ nghe nói cô
Én có “liên quan” nên càng phản đối. Nói sao cũng không được, cuối cùng chiều mẹ, chú này về
lấy một cô “đặc” bần cố nông, đúng “thành phần cơ bản”, mới biết đọc biết viết, nhưng làm lụng
thì hết ý. Có điều quan trọng nhất là chú ta lại không yêu. Cứ mặc cho vợ hầu hạ mẹ, chú ta chẳng
mấy khi về. Hưu rồi, bà cụ mất, chú ta ở lại luôn trên ấy với cô Én này chẳng cưới xin, cũng chẳng
giá thú gì hết... Thế có gớm không! Chuyện này còn đang phức tạp... Nhưng mà thôi, dẹp chuyện
ấy lại. Bây giờ tao hỏi nhà thằng Toàn dạo này ra sao?

- Dạ! Thưa bác, vợ chồng anh ấy vẫn bình thường. Anh ấy vẫn công tác ở Bộ Tham mưu
Quân khu 7. Còn chị ấy từ khi được chuyển vào theo chồng, dạy học ở Trường sư phạm nhạc hoạ
thành phố. Hai cháu, đứa lớn năm nay vừa học lớp một, còn đứa bé bị lên sởi nên mẹ cháu mới
phải vào trông hộ... Anh chị Toàn cứ muốn giữ mẹ cháu ở hẳn trong ấy với anh chị ấy. Nhưng mẹ
cháu bảo đã tìm và đưa được hài cốt của bố chúng cháu ra Bắc, ổn định cả rồi, mẹ cháu phải ở
ngoài này trông nom...

- Bà ấy nghĩ thế là phải! Thế còn cái chuyện MIA của tụi mày dạo này thế nào Tâm?

- Dạ mình vẫn tích cực, nghiêm chỉnh. À mà bác ơi vừa rồi vào Sài Gòn, cháu được mẹ
cháu cho nghe một chuyện cũng khá đặc biệt cháu muốn kể lại cho bác nghe - Tâm nói.

- Vậy nói đi! Tao nghe đây! - Ông Trường chăm chú.

Tâm kể: Bà mẹ Toàn, Tâm vào Thành phố Hồ Chí Minh trông nom đứa cháu nhỏ của vợ chồng
Toàn bị lên sởi được ba tháng. Mấy năm qua năm nào cũng vào thăm các con các cháu ít hôm, cho
nên bà đã trở nên khá quen biết với nhiều bà, nhiều cô trong khu chung cư của Quân khu 7. Các
bà đều hay chuyện với nhau. Ở lâu, quen biết lâu càng hay chuyện, hết chuyện nhà đến chuyện
thành phố, hết chuyện hôm nay lại đến chuyện thời chiến tranh... Tình cờ, một bà gốc ở Nha Trang
một hôm kể cho mẹ Toàn, Tâm về một bà già ở xóm Bóng. Bà này rất nghèo khổ, hình như đã
mấy đời chồng nhưng đều bị phụ bạc hết sức cay đắng dù xưa kia bà nổi tiếng là xinh đẹp. Nay bà
đang sống với một người chồng vốn là thương phế binh của chế độ cũ. Người này què một chân
chẳng làm được gì đáng kể, bà vợ phải nai lưng ra đi làm để nuôi ông ta. Vậy mà người ấy có lẽ
bất đắc chí nhiều hơn là ma rượu, suốt ngày đánh chửi bà ta tàn tệ, nhưng bà ta vẫn cắn răng chịu
đựng. Người trong xóm thương hại nói riêng với nhau: có lẽ lăn lóc, trôi nổi mãi trong tình trường,
đã quá chán, quá khổ nên bà ta dù có thể bỏ người què tàn bạo như quỉ dữ này, nhưng không còn
đủ can đảm, đủ sức nữa... Gần đây nhất, trong một cơn say điên, lão chồng nọ đã cầm dao cắt cổ
bà vợ khốn khổ ấy... May hàng xóm tới cứu được. Bà vẫn còn phải nằm bệnh viện nhưng tiền hết,
gạo hết... Tên chồng điên say kia đã bỏ trốn không về nữa. Bà vợ vẫn còn phải nằm đó. Dân chúng
và phường, quận đã phải tổ chức quyên góp để cứu giúp con người khốn khổn ấy... Nghe chuyện,
mẹ Toàn, Tâm hỏi tên bà ta và gốc gác ở đâu, thì được biết bà ta là dân tộc Thái ngoài Bắc di cư...
Nghe xong, mẹ Toàn, Tâm nói với các con “Mẹ có được bố các con nói qua cho nghe về vợ chồng
một tên toán trưởng biệt kích, từ khi bố chưa đi B. Mẹ vẫn nhớ bố nói là anh chồng chết cũng chỉ
vì vợ. Vậy không biết có phải... chính là bà này không đây?....”

Chỉ cần nghe đến đây, ông Trường đã như bật lên, nhỏm nửa người dậy, hai mắt dù đã đục
ngầu tật bệnh và thời gian vẫn mở to, tràn ngập vẻ ngạc nhiên và xúc động.

- Mẹ các cháu còn nói gì nữa không? - Ông hỏi.


- Dạ không. Mẹ cháu chỉ bảo nếu muốn biết rõ về hỏi bác Trường, có khi bác biết và vẫn
còn nhớ.

- Phải! Phải! Nhớ chứ cháu! Ồ đó là một chuyện dài rất đau buồn của lầm lỗi, của ngu tối,
của điên khùng, của tha hoá nữa và xét cho cùng là của tội ác cháu ạ.

Nói tới đó ông ôm lấy ngực ho xù xụ, ho từng cơn dài, mặt đỏ gay, rớt dãi chảy ra, tắc
nghẹn không sao nói được nữa. Dù đã biết ông hay bị như thế mỗi khi bệnh lại lên cơn, hoặc nói
nhiều bị mệt, hoặc xúc động mạnh nhưng Tâm vẫn hốt hoảng. Anh vội lấy nước cho ông xúc
miệng lấy khăn cho ông lau mặt rồi đỡ ông nằm xuống. Ông đỡ ho hơn nhưng cả khuôn mặt vẫn
căng và vẫn hổn hển khó thở. Tâm không dám hỏi, dám nói gì nữa. Cứ ngồi im đấy một lúc, thấy
ông đỡ hơn anh mới từ từ đứng dậy xin phép ông ra về. Ông gật đầu, gắng mỉm cười, đưa tay ra
bắt tay Tâm. Ông âu yếm nói:

- Cứ nom thấy mày lại nhớ đến tay An bố mày quá.

- Thưa bác, cháu vẫn buồn là cháu sinh ra mà không bao giờ được biết mặt bố.

- Đành vậy! Nhưng hãy luôn nhớ và tự hào con ạ. Bố mày được lãnh đạo và anh em đồng
chí, đồng bào trong ấy quý. Không phải ai mà chính Bộ trưởng đã mấy lần nói như vậy trên hội
trường.

- Thưa bác! Vậy còn cái đội SL06 sau đó có còn ai vào nữa không ạ?

- Có chứ! Dần dần đi gần hết, ở lại toàn người mới cả. Nhưng anh em vẫn giữ được truyền
thống cũ, vẫn là cái “Goblin dởm” ấy. Không kể hơn hai chục chuyên án khác, riêng nó đã câu
nhử trực tiếp được 5 toán nữa với nhiều phương tiện, vũ khí quý lắm. Đấy là chưa kể vụ “ông
Chương” mãi hai năm sau mới kết thúc được. Khá to và quan trọng. Cũng do cái Goblin mà tìm
ra... Bộ đã tuyên dương nhiều lần. Chính phủ cũng đã cho cái SL-06 ấy Huân chương. Tới năm
1968 bọn Mỹ gọi cả toán về Nam, Bộ mới cho chấm dứt chuyên án, tung tin trên báo chí là chúng
về tới biên giới Lào thì bị tóm hết và chúng sẽ bị đưa ra toà... Nhưng thôi, bây giờ ta lại nói chuyện
khác. Bác nhớ hình như sắp đến sinh nhật cháu phải không?

- Vâng ạ, cuối tháng này. Nhưng bác ơi, năm nay cháu bỏ. Băm mốt rồi còn gì, không vẽ
ra sinh nhật sinh nhung gì nữa.

- “Trai ba mốt tuổi đang xuân...” Nhưng thôi tuỳ! Này, tao nhớ rồi: năm bố mày đi B cũng
băm mốt. Đẹp, trẻ trung, mềm mại, tính nết lại hết sức dễ thương... Đúng y như mày bây giờ về
hình dáng bên ngoài lẫn phẩm chất bên trong...

Tâm cố giấu mọi xúc động chào ông Trường rồi quay ra rất nhanh.

Ra tới vườn hoa trước trước ngôi nhà ông Trường đang nằm, Tâm chợt đứng sững lại: một
bà khoảng trên 60 tuổi mang y phục dân tộc Thái, tuy đã có tuổi nhưng chưa phai mờ hết vẻ đẹp
thời son trẻ, dắt một cô gái chạc 24, 25 tuổi mặc đúng mốt thời trang hiện đại đang cùng đi vào.
- Cô Cầm Sa! Em Cầm Liên - Tâm cất tiếng chào như reo lên.

Bà Cầm Sa - đúng đây là Cầm Sa - cũng tươi cười mừng rỡ:

- Anh Tâm đấy ư? Mẹ con cô vừa đến nhà, thấy khoá cửa. Hỏi hàng xóm cho biết bác gái
vào Nam với anh chị Toàn, còn cháu thì đi thăm bác Trường. Mẹ con cô thấy vậy cũng đi luôn đến
đây....

Tâm vội ngăn lại:

- Thưa cô, bác vừa mệt. Theo cháu có lẽ cô và em nên để bác nghỉ chiều vào thăm thì tốt
hơn cho bác.

Bà Cầm Sa và cô gái rất xinh của bà dừng lại, lưỡng lự... chẳng phải đây là lần đầu tiên 3
người gặp nhau. Họ đã quen biết một cách bất ngờ từ năm trước: cơ quan Văn phòng của Bộ nhân
dịp ngày 27 tháng 7 tổ chức một đêm ca nhạc giữa cơ quan Văn phòng với một số người trong các
gia đình thương binh liệt sỹ của Bộ. Dịp ấy có mời cả một tổ ca nhạc nhẹ của Nhạc viện Hà Nội.
Cầm Liên đang theo học ở đây, cô là sinh viên dân tộc thiểu số duy nhất ở khoa thanh nhạc được
tham gia cuộc gặp gỡ kỷ niệm này. Tâm

cũng được mời với tư cách con một liệt sỹ. Hai người trẻ tuổi đã quen nhau từ đó. Về sau khi trò
chuyện thêm họ cùng nhận ra giữa họ có một mối dây liên hệ từ trong chiến tranh: Bố Tâm đã có
nhiều việc liên quan đến bác ruột của Liên cho nên đã ghé qua nhà bà và mẹ Cầm Liên nhiều lần.
Bà và mẹ Liên rất quý ông. Bà, nhất là mẹ Liên đã nhiều lần kể chuyện lại như vậy... Và Liên cũng
được Tâm cho biết: cha Tâm đã vào Nam từ năm 1964, khi ấy anh còn nằm trong bụng mẹ. Ông
đã bị bom, hy sinh trong một trận càn rất lớn, rất ác liệt của Mỹ năm 1972 gần biên giới Việt Nam
- Campuchia... Mãi sau này, thống nhất rồi, năm 1980 mới tìm thấy mộ ông và rước về Bắc...

Từ đó, không năm nào ra Hà Nội thăm con gái ở Nhạc viện là bà Cầm Sa không tìm đến
thăm bà Thuỳ. Bà tìm đến nơi đây như tìm về quá khứ có nhiều kỷ niệm vui buồn, tìm về một
người để cùng thầm chia sẻ nỗi niềm của hai số phận không cùng một cảnh ngộ nhưng lại cùng
chung một nỗi cô đơn... Ông chồng bà ở trên đó là một cán bộ rất uy tín, hết sức gương mẫu, tận
tụy đã được nhiều người từ cơ sở qua tỉnh lên tới Trung ương rất quý trọng. Ông mới nghỉ hưu
chưa lâu với tiền bạc, nhà cửa, ruộng vườn dường như còn hơn cả mức phong lưu đầy đủ.

Lúc đó trong phòng bệnh, ông Trường đã tỉnh táo hơn nhiều. Qua ô cửa sổ, ông bỗng nhìn thấy bà
Cầm Sa và Cầm Liên, thấy cả Tâm vẫn còn đứng đó. Vội vã, ông nhờ cô hộ lý trực trong phòng
ra gọi giúp cả 3 người vào.

Không phải đợi lâu ông đã thấy Cầm Sa tay xách làn, quày quả đi tới. Phía trước bà là hai
người bạn trẻ tươi cười, thân thiện sát vai cùng bước lên những bậc tam cấp. Họ đã nói gì với nhau,
cùng ngửa mặt lên cười ran, hàm răng trắng ngần...

Ông Trường cảm thấy mình như khoẻ hẳn lại. Ông ngồi thẳng dậy để đón tất cả bọn họ....

Tháng 10-2001

You might also like