Professional Documents
Culture Documents
Bài Tập Lớn EMC Tại Bênh Viện
Bài Tập Lớn EMC Tại Bênh Viện
Phần II: Ảnh hưởng của sóng điện từ đến sức khỏe của bác sĩ và nhân viên làm việc ở
phòng X – Quang ............................................................................................................ 18
2.1 Tổng quan về bức xạ tia X được sử dụng trong X- Quang chuẩn đoán hình ảnh
18
2.2 Bảo vệ an toàn bức xạ trong X- Quang chuẩn đoán hình ảnh ........................... 26
2.2.1 Bảo vệ an toàn đối với các tia X .................................................................... 26
2.2.2 Kiểm tra bức xạ sóng điện từ tại các cơ sở X-quang ........................................ 27
2.2.5 Các biện pháp bảo vệ an toàn bức xạ cho mỗi nhóm đối tượng bị chiếu xạ ....... 31
2.3 Bảo vệ chống bức xạ trong xây dựng phòng X – Quang chuẩn đoán ....................... 32
2.3.1 Hiện trạng các phòng X-quang chẩn đoán ở Việt Nam ................................... 33
2.3.2 Thiết kế phòng chụp X-quang chẩn đoán đạt tiêu chuẩn ................................. 34
2.3.3 Nhưng điều cần chú ý trong thi công xây dựng phòng X-quang chẩn đoán ...... 38
Hình 2. 1 Ảnh chụp X quang bàn tay trái của vợ ông Rơnghen do chính ông
Rơnghen thực hiện vào ngày 23 tháng 01 năm 1896 trong một buổi thuyết trình ...18
Hình 2. 2 Ống Rơnghen ............................................................................................19
Hình 2. 3 Ống Cooldge .............................................................................................20
Hình 2. 4 Bóng X-quang trong nha khoa ..................................................................21
Hình 2. 5 Bóng X-quang Trong máy chụp X-quang thông thường ..........................21
Hình 2. 6 Bóng X-quang trong các máy CT hoặc CAT ............................................22
Hình 2. 7 Biểu đồ bức xạ liên tục và bức xạ rời rạc với năng lượng tia X biến đổi từ
5 keV đến 80 keV ......................................................................................................24
Hình 2. 8 Năng lượng liên kết giữa các quỹ đạo với hạt nhân nguyên tử. ...............24
Hình 2. 9 Phòng chụp X-Quang ................................................................................33
Hình 2. 10 Phòng chụp X-quang không đủ tiêu chuẩn điện tích ..............................34
Hình 2. 11Cấu trúc phòng X-quang đạt tiêu chuẩn...................................................35
Hình 2. 12 Một cơ sở X-quang gồm các phòng riêng biệt ........................................36
Lời nói đầu
Hiện nay việc sử dụng các nguồn bức xạ - sóng điện từ trong tự nhiên và
nhân tạo trong việc chuẩn đoán và điều trị rất phổ biến ở nước ta như: “Các thiết bị
chiếu, chụp X-Quang thông thường; máy chụp cắt lớp điện toán; các thiết bị chụp
mạch; máy giá tốc tuyến tính; các thiết bị xạ trị….”. Do tính nguy hiểm của các tia
bức xạ nên người sử dụng khi vận hành các thiết bị cần nắm vững và tuân thủ các
hệ thống pháp quy, các tiêu chuẩn và nội dung về an toàn bức xạ để đảm bảo an
toàn cho chính các bác sĩ và nhân viên cũng như các bệnh nhân.
Trong đó , phương pháp sử dụng máy phát tia X để chiếu, chụp ảnh chuẩn
đoán bệnh trong y tế ở nước ta suốt nhiều thập kỷ qua mới chỉ đơn thuần nhìn nhận
ở khía cạnh lợi ích và hiệu quả có tính chất hiển thị của phương pháp. Còn cách sử
dụng, giới hạn sử dụng kĩ thuật này, tức là những đòi hỏi nghiêm ngặt về mặt
chuyên môn và kĩ thuật của phương pháp, bao gồm nhiểu yếu tố đã không được đề
cập, không được xem xét đến. Qua công tác điều tra, thống kê, đánh giá thực trạng
an toàn bức xạ nhiễu tại các địa phương trong cả nước đã cho thấy: chỉ xét riêng vấn
đề an toàn đảm bảo bức xạ trong ngành Y tế hay ảnh hưởng của sóng điện từ trong
ngành Y tế , cụ thể là trong lĩnh vực chiếu, chụp X – Quang chuẩn đoán hình ảnh
vẫn còn thấy tồn tại những vấn đề mà về phương diện xã hội cũng như cuộc sống
cần phải được đánh giá, xem xét một cách đúng mực và nghiêm túc. Thực tế cho
thấy, việc chiếu, chụp X – Quang chuẩn đoán bệnh trong ngành y tế của nước ta từ
trước đến nay thực sự là chưa đảm bảo yêu cầu về an toàn bức xạ; sự giám sát; kiểm
soát và quản lý mang tính pháp quy của Nhà nước đối với các loại hình hoạt động
này vẫn còn chưa được chặt chẽ và lỏng lẻo.
Chúng ta không phủ nhận những lợi thế và những hiệu quả thiết thực trong
việc chuẩn đoán bệnh cho bênh nhân do phương pháp này mang lại. Tuy nhiên, nếu
thực hiện việc chụp, chiếu ảnh X – Quang mới dừng lại ở góc độ khả năng chuẩn
đoán bênh qua hình ảnh của phương pháp này mà không nhận thức cẩn trọng đến
những hậu quả hết sức tại hại, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, cho cuộc sống
thậm chí là những rủi ro, nguy hiểm cho chính các bác sĩ, các kĩ thuật viên sử dụng
máy móc chiếu, chụp X – Quang; cho các bệnh nhân phải chiếu chụp chuẩn đoán
hình ảnh. Điều này có nghĩa là khi chiếu, chụp X – Quang chuẩn đoán bệnh trong Y
tế phải được kiểm soát và quản lý nghiêm ngặt. Khi thực hành phải tuân thủ những
quy định nghiêm ngặt, các giới hạn, các đặc trưng kĩ thuật trong phương pháp, đảm
bảo thực hiện tốt các yêu cầu về che chắn an toán bức xạ sóng điện từ đến sức khỏe
của các bác sĩ và nhân viên.
Về mặt xã hội, để thực hiện quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này, tại nhiều
nước trên thế giới, nhất là các nước công nghiệp phát triển, Nhà nước thực hiện ban
hành các các văn bản pháp quy, các tài liệu khuyến cáo, hệ thống các tiêu chuẩn kĩ
thuật…. quy định cụ thể các điều kiện hoạt động, quy định bảo đảm yêu cầu của
luật pháp, các yêu cầu chuyên môn về kĩ thuật nhằm thực hiện và thực thi quản lý
an toàn bức xạ sóng điện từ đối với các cơ sở liên quan , ở đây cụ thể là các phòng
chụp chuẩn đoán hình ảnh X – Quang.
Ở nước ta, trên thực tế hệ thống văn bản pháp quy, các tài liệu hướng dẫn
chuyên môn, hệ thống các tiêu chuẩn kĩ thuật đáp ứng cho công tác quản lý Nhà
nước về mặt này đang còn chưa đầy đủ và hoàn thiện đáp ứng cho công tác quản lý
đạt được hiệu quả hơn, bảo đảm được lợi ích thiết thực đối với người bệnh, đối với
môi trường sống tự nhiên cho con người nói chung, đặc biệt là đảm bảo các quyền
lợi, đảm bảo an toàn cho các bác sĩ, các kĩ thuật viên X – Quang trong ngành Y tế
Vì vậy là một sinh viên thạc sĩ viễn thông làm việc tại Bệnh viên Đa Khoa
tỉnh Thái Bình, Em đã chọn Đề tài:”Ảnh hưởng của sóng điện từ đến sức khỏe của
bác sĩ và nhân viên làm việc ở phòng X – Quang”. Và với mong muốn rằng qua đề
tài này có thể giúp cho mọi người có đầy đủ kiến thức về máy X – Quang thường
quy, cũng như đưa ra các phương pháp đảm bảo an toàn bức xạ sóng điện từ cho
các bác sĩ cũng như các bệnh nhân. Để nghiên cứu đề tài này em xin chân thành
cảm ơn thầy giáo TS. Lâm Hồng Thạch giảng viên Viện Điện tử viễn thông – Đại
học Bách Khoa Hà Nội và cũng như các anh chị làm trong phòng chụp các lớp X –
Quang tại Bệnh viện Đa Khoa tỉnh Thái Bình đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài kết
thúc môn “Tương Thích Điện Từ”.
Nội dung đề tài em xin trình bày:
Phần 1: Tương thích điện từ
Phần 2: Ảnh hưởng của sóng điện từ đến sức khỏe của bác sĩ và nhân viên
làm việc ở phòng X – Quang
Phần I: Tương thích điện từ EMC
1.1Giới thiệu về nhiễu và EMC – Tương Thích Điện Từ
Là ngành kĩ thuật điện liên quan đến sự tương tác không chủ định, giữa truyền
và nhận tín hiệu năng lượng điện từ gây ra các ảnh hưởng không mong muốn như
nhiễu điện từ - EMI “Electromagnetic Interference” hoặc thậm chí là các thiệt hại
về vật lý trong các thiết bị đang hoạt động. Mục tiêu của EMC là hoạt động chính
xác của các thiết bị khác nhau trong môi trường điện từ phổ biến.[1]
EMC gồm 3 lớp vấn đề chính bao gồm:
- Lớp thứ nhất: Emission – phát xạ là sự tạo ra năng lượng điện từ, dù là chủ
định hay vô tình, bởi một số nguồn và sự phóng thích của nó vào môi trường. EMC
nghiên cứu những phát sinh không mong muốn và các biện pháp đối phó có thể
được thực hiện để giảm các phát sinh không mong muốn.
- Lớp thứ 2 tính nhạy cảm, là xu hướng của thiết bị điện, như là các nạn nhân,
bị sự cố, hoặc phá vỡ sự có mặt của các phát xạ không mong muốn, gọi là nhiễu tần
số vô tuyến “RFI – Radio Frequency Interference”. Khả năng miễn dịch chống lại
với tính nhạy cảm, là khả năng của các thiết bị hoạt động chính xác khi có sự hiện
diện của RFI, và các chuẩn thiết bị tuân theo khuôn phép được biết đến tính nhạy
cảm hoặc miễn dịch.
- Lớp thứ ba được nghiên cứu đó là sự ghép nối, đây là cơ chế mà các nhiễu
phát ra đến các tác nhân bị ảnh hưởng
Sự giảm nhiễu và dẫn tới tương thích điện từ có thể đạt được bằng cách giải
quyết các vấn đề, Ví dụ: làm giảm nguồn gây nhiễu, ức chế đường dẫn khớp nối và
/hoặc làm miễn dịch các nạn nhân tiềm ẩn. Trong thực tế, nhiều kĩ thuật được sử
dụng chẳng hạn như nối đất và che chắn, áp dụng cho cả 3 vấn đề.
1.2Các loại nhiễu điện từ
Tùy theo cách chia theo nguồn và đặc tính của tín hiệu hoặc nguồn gốc của
nhiễu điện từ. Ta có các cách chia sau:
Ta có thể chia làm 2 nhóm: Nguồn nhiễu tự nhiên và nguồn nhiễu nhân tạo.
- Nguồn nhiễu tự nhiên:
Có thể tia chớp và các nguồn năng lượng vũ trụ
Ví dụ 1: Tia chớp: Phóng thích điện từ giữa sự giao thoa các đám mây và giữa
các đám mây và mặt đất. Tùy từng hoàn cảnh thì các nhiễu điện từ có độ nghiệm
trọng xác nhau theo 3 trường hợp. Trong trường hợp 1: Các tia chớp tấn công bất cứ
vật dẫn điện nào sẽ gây ra sự thay đổi lớn trong hệ thống khi vượt quá điện áp định
mức 100-220kV được tạo với mặt đất phụ thuộc vào trở kháng của mặt đất. Trường
hợp 2 liên quan đến các đám mây tích điện có trường điện từ 1-10 kVm−1 tại giới
hạn mặt đất, khi tia chớp tất công vùng phóng điện của đám mây “ứng dụng trong
việc phát hiện và theo dõi các cơn bão tiềm ẩn”. Trường hợp 3 sự thay đổi nhanh
chóng của dòng điện dọc theo đường truyền phát ra dải rộng từ RF tới 50-100Mhz
“Phát hiện và theo dõi các cơn bão”. Thực tế thì tia chớp đã phá hủy các hệ thống
năng lượng, vô tuyến và hàng không gây ra các thiệt hại lớn về người và của.[2]
Nguồn năng lượng mặt trời và vũ trụ. Thay đổi trong tầng điện ly nguyên nhân bởi
phát ra từ mặt trời nguyên nhân vấn đề là đường truyền radio do sự phản xạ khác
nhau giữa các tầng điện ly (trong băng tần 2 -30 MHz) và cho thông tin vệ tinh bởi
đường truyền tầng điện ly (150-500 MHz). Bức xạ từ các nguồn vũ trụ tạo ra một
kênh truyền RF tại mặt đất nó quan trọng trong độ rộng 100 - 1000MHz.[2]
- Nguồn nhân tạo:
Hiện tượng phóng xả tĩnh điện.ESD“ hiện tượng phóng/xả tĩnh điện xảy ra khi
hai vật có điện thế khác nhau được đưa đến gần hoặc chạm vào nhau, ở trường hợp
vật tích tĩnh điện với năng lương lớn còn phát ra tia lửa điện trong quá trình phóng
xả tĩnh điện”. Đây chính là nguyên nhân cho các thiệt hại trong hệ thống điện tử ô
tô và thiệt hai trong các vi mạch trong quá trình con người xử lý và nổ khi tiếp
nhiên liệu máy bay gần đây. [2]
EMP – ElectroMagnetic Pulse bom xung điện từ là loại vũ khí phá hoại các cơ
sở vật chất điện và điện tử. Thường được tạo ra nhờ sử dụng vụ khí hạt nhân gây nổ
nhờ hiệu ứng compton, Ngoài ra nhờ các kĩ thuật phi hạt nhân như các vi sóng có
công suất cao “ví dụ bom FCG – Flux compression generator” cũng là 1 loại bom
xung điện từ [3] ,[2]
Và nhiều trường hợp khác có thể tham khảo tại trích dẫn [2]
Ta có thể chia thành 2 nhóm: Nhiễu liên tục và nhiễu theo xung thành từng đợt khác
nhau
- Nhiễu liên tục
Sóng lan truyền (CW- continuous wave), nhiễu phát sinh từ những nguồn lan
truyền ở một dải tần số nhất định. Loại này được phân chia tự nhiên thành các loại
phụ theo dải tần số
o Tần số âm thanh, từ tần số rất thấp đến khoảng 20kHz. Tần số lên đến
100KHz đôi khi có thể được phân loại như âm thanh. Các nguồn bao gồm: Nguồn 1
các đơn vị cung cấp điện, gầy dây nguồn điện, đường dây và trạm biến áp; Nguồn 2
thiết bị xử lý âm thanh chẳng hạn như bộ khuếch đại âm thanh và loa, Nguồn 3: giải
điều chế của một sóng mang tần số cao như đài truyền thanh FM
o Nhiễu tần số radio (RFI), thường từ 20kHz đến giới hạn trên tăng liên tục khi
công nghệ đẩy lên cao hơn. Các nguồn bao gồm: các đường truyền không dây và
tần số vô tuyến điện, máy thu phát truyền hình, thiết bị khoa học và y tế (ISM),
mạch xử lý số vi điều khiển
o Nhiễu băng thông rộng có thể được lan truyền qua các phần của một trong
các dai tần số hoặc tất cả dải tần số , không có tần số đặc biệt nào được nhấn mạnh.
Các nguồn bao gồm: Năng lượng mặt trời, máy hàn hồ quang điên….
- Nhiễu theo xung thành từng đợt khác nhau
Một xung điện từ EMP – electromagnetic pulse, đôi khi được gọi là “ transcient
disturbance”, phát sinh ở nơi mà nguồn phát ra một quang năng lượng ngắn. Năng
lượng thường là băng thông rộng theo tự nhiên, mặc dù nó thường kích thích một
phản ứng sóng sin. Nguồn phân chia thành các sự trường hợp và lặp đi lặp lại.
Các nguồn của các sự trường hợp EMP bị cô lập bao gồm:
o Các switch trong các mạch điện bao gồm các tải như rơ le hoặc động cơ điện,
xả tĩnh điện ESD và sấm sét điện từ LEMP và xung điện hạt nhân NEMP
o Nguồn lặp đi lặp các trường hợp EMP đôi khi là cac xung lặp đi lặp lại như
xe máy điện, các hệ thống đánh lửa điện chẳng hạn như trong động cơ xăng và hoạt
đổng chuyển mạch liên tục của mạch điện kĩ thuật số.
1.3Cơ chế khớp nối
Trật tự cơ bản của một nguồn nhiễu, khớp nối đường dẫn và yếu tố bị ảnh
hưởng, máy thu hoặc dòng sink sẽ được thấy trong hình dưới đây. Nguồn và yếu tố
bị ảnh hưởng thường là các thiết bị phần cứng điện tử, định nghĩa nguồn có thể là
các hiện tương như một tia sấm, xả tĩnh điện ESD hoặc một số trường hợp đặc biệt,
vụ nổ Big bang từ vũ trụ.
Hình 2. 1 Ảnh chụp X quang bàn tay trái của vợ ông Rơnghen do chính ông
Rơnghen thực hiện vào ngày 23 tháng 01 năm 1896 trong một buổi thuyết trình
2.1.2 Cách tạo ra tia X
Ngày trước người ta sử dụng ống Rơnghen nhưng sau này người ta dùng bóng
cooledge.
2.1.2.1Ống Rơn-ghen
a) Cấu tạo:
Ống Rơn-ghen là một bình cầu (chứa khí áp suất thấp - gọi là khí kém) bên
trong có 3 điện cực:
- Catốt có dạng chõm cầu có tác dụng làm các electron bật ra tập trung tại tâm
của bình cầu.
- Anốt là điện cực dương ở phía đối diện với catốt ở thành bình bên kia.
- Đối catốt là một điện cực (thường được nối với anốt). Ở bề mặt của đối catốt
là một kim loại có nguyên tử lượng lớn và khó nóng chảy.
b) Hoạt động:
Đặt vào giữa anốt và catốt một hiệu điện thế không đổi (khoảng vài chục kV)
thì electron bứt ra từ catốt được tăng tốc rất mạnh. Khi đập vào đối âm cực, các
electron bị đột ngột hãm lại và làm phát ra tia X. Người ta gọi tia X là bức xạ hãm.
Hình 2. 8 Năng lượng liên kết giữa các quỹ đạo với hạt nhân nguyên tử.
2.1.4.3Bức xạ tổng hợp
Bức xạ đặc trưng kết hợp với bức xạ liên tục tạo thành bức xạ tia X tổng hợp
Số lượng tia X đặc trưng trong phổ bức xạ phụ thuộc vào trị số kV tấm đích
(anốt) được chế tạo với tungsten
- Khi hiệu điện thế ≤ 70 kVp thì 100 % là bức xạ liên tụ
- Khi hiệu điện thế = 80 kVp thì 10 % là bức xạ đặc trưng, 90 % là bức xạ liên
tục
- Khi hiện điện thế ≥ 150 kVp thì 28 % là bức xạ đặc trưng, 72 % là bức xạ
liên tục
- Trong thực thế loại máy X quang thường, sử dụng bóng X quang cho chế tạo
bởi tungsten, bức xạ đặc trưng chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trng bức xạ chung số điện áp cao
thế thương dùng không quá 100 kVp.
- Ảnh hưởng của các tham số, yếu tố tới chất lượng và số lượng tia X bức xạ.
- Đặc điểm của chúm tia X có thể biểu hiện qua 2 yếu tố: chất lượng và số
lượng:
- Chất lượng là năng lượng toàn bộ của chùm tia X.
- Số lượng là số photon có trong chùm tia X.
- Chất lượng và số lượng của chùm tia X chịu tác động của nhiều tham số và
yếu tố trong đó chủ yêu là: kVp, mA, mAs, dạng sóng chỉnh lưu, tấm lọc … Những
ảnh hương nói trên của tham số đến đặc điểm của chùm tia X
- Sự thay đổi kvp ảnh hưởng đến số lượng của cả hải loại bức xạ, nhưng chỉ
ảnh hưởng đến chất lượng của bức xạ liên tục.
- Sự thay đổi mA, mAs chỉ ảnh hưởng đến số lượng của cả hai loại bức xạ.
- Sự thay đổi loại nguồn chỉnh lưu sẽ ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng
bức xạ liên tục và chỉ ảnh hưởng đến số lượng của bức xạ đặc trưng
- Tấm lọc sẽ làm tang chất lượng và làm giảm số lượng bức xạ liên tục cũng
như bức xạ đặc trưng.
- Những đặc trưng cơ bản của tia X
- Không nhìn thấy bằng mắt thường.
- Có thể đâm xuyên qua hầu hết mọi vật chất nhờ có năng lượng rất cao và
bước sóng cực ngắn.
- Khi xuyên qua vật chất, tia X bị hấp thụ. Độ suy giảm của tia X, nói cách
khác là độ hấp thụ tia X phụ thuộc vào các loại vật chất khác nhau ví dụ chì có độ
hấp thụ cao hơn so với nhôm. Trong cơ thể người, xương có độ hấp thụ cao hơn cơ
và các mô mềm khác nên cần chọn cần chọn đúng liều tia cần thiết cho từng loại
thăm khám.
- Sau khi xuyên qua cơ thể người bệnh, cường độ chùm tia X bị suy giảm, sự
suy giảm này không đồng đều mà phụ thuộc vào độ hấp thụ của các tổ chức nằm
trên đường đi của tia X, do vậy chùm tia lối ra mang trong nó những thông tin về
các bộ phận bên trong cơ thể. Nhờ tính chất này tia X được dùng để tạo ảnh đối
tượng cần thăm khám trên màn hình (phim X quang, màn huỳnh quang hoặc bóng
tăng quang)
- Ngoài tác dụng tạo ảnh quang tuyến, tia X có hại cho sức khỏe, giống như
bức xạ ion hóa khác tia X phá hủy tế bào cơ thể và có thể gây ra một số bệnh nếu
liều lượng tia vượt quá mức độ cho phép, vì vậy phải hạn chế tác dụng có hại của nó
xuống mức tối thiểu bằng cách sử dụng các phương tiện phòng ngừa thích hợp như
áo chì, kính chì,…
- Những tia X nằm trong vùng bước sóng dài có năng lượng và khả năng đâm
xuyên thấp, nhiều tia ko xuyên thấu được tới phim và không có tác dụng tạo ảnh,
những tia này được gọi là tia mềm, ngược lại gọi là tia cứng. trong số tia mềm,
những tia có bước sóng dài nhất là tia có hại, chũng chỉ làm tăng liều vô ích trên cơ
thể người bệnh do vậy người ta phỉa lọc những tia này bằng cách đặt những tấm
nhôm dày khoảng 2mm hoặc vật liệu khác có độ hấp thụ tương đương trên đường đi
của tia X, thương các tấm lọc được bố trí ngay tại của sổ bóng X quang.
2.2Bảo vệ an toàn bức xạ trong X- Quang chuẩn đoán hình ảnh
2.2.1 Bảo vệ an toàn đối với các tia X
Không giống như các đồng vị phóng xạ phát ra bức xạ liên tục, các thiết bị
phát tia X có thể bặt tắt tùy ý. Khi máy hoạt động, suất liều từ máy có thể cao hơn
nhiều so với suất liều từ các nguồn phóng xạ kín nhỏ. Vì vậy, thiết bị này phải được
điều khiển như thế nào để người điều khiển không bị chùm tia trực tiếp chiếu xạ lên
bất kỳ một phần nào của cơ thể và không để một người nòa khác ngẫu nhiên bị
chiếu xạ. Các nguyên tắc chung được áp dụng để bảo vệ bức xạ cá nhân như sau:
- Huấn luyện thích đáng cả các nhân viên điều khiển hoặc sử dụng thiết bị phát
tia X theo đúng quy trình vận hành đúng đắn và có thể hiểu biết về mối nguy hại
liên quan.
- Hạn chế kích thước chùm tia đến mức cần thiết nhỏ nhất bằng cách sử dụng
phương tiện che chắn hoặc cả hệ chuẩn trục được lắp đặt ngay trong thiết bị.
- Sử dụng phin lọc thích hợp để loại bỏ bức xạ mền.
- Điều khiển thiết bị trong buống được che chắn bất kỳ nào có thể. Bộ phận
điều khiển phải đặt ngoài phòng chụp và phải có lắp đặt các khóa liên động để ngăn
cản việc mở máy khi của đang mở.
- Phát các tín hiệu bao hiệu có thể nghe được và nhìn được mỗi khi máy đang
hoạt động hoặc sắp hoạt động.
- Xác nhận tác dụng kiểm soát bằng một hệt thông kiểm xạ khu vực và cá
nhân.
Các biện pháp áp dụng trong một trường hợp cụ thể phụ thuộc vào loại công
việc và hoàn cảnh tại chỗ. Ví dụ, trong các ứng dụng y tế, sự yên tâm và an toàn của
bệnh nhân có tầm quan trọng lớn và có tác động đến các biện pháp bảo vệ được
người điều khiển thực thi.
2.2.2 Kiểm tra bức xạ sóng điện từ tại các cơ sở X-quang
Một số cơ sở X-quang là một cơ sở, mà ở đó có sử dụng các thiết bị phát tia X
cho các mục đích khác nhau ví dụ như chẩn đoán y tế, chụp hình bức xạ công
nghiệp… Một phần quan trọng trong quá trình đưa vào hoạt động một cơ sở X-
quang bất kỳ, hoặc các cơ sở tạo ra các bức xạ ion hóa khác là tiến hành kiểm tra
bức xạ toàn diện. Cần chú ý đặc biệt đến các điểm yếu trong che chắn, ví dụ như
các chỗ nối trong vật liệu che chắn, các cửa sổ nhìn, các cửa ra vào, và các lỗ hoặc
các dây dẫn. Việc kiểm tra thường được tiến hành khi máy hoạt động ở mức điện áp
và dòng cao nhất với các chế độ làm việc bình thường và sau đố là ở các chế độ
khác.
Ví dụ, hãy xét một cơ sở X-quang, trong đó chùm tia X phát ra dự tính nằm
trong mặt phẳng nằm ngang và các khu vực bên cạnh được che chắn bằng các bức
tường dày. Nếu định hướng của máy thay đổi và chùm tia bây giờ hoạt động theo
hướng thẳng đứng thì liệu các mức bức xạ ở trên và ở bên dưới có chấp nhận được
không? Nên nhớ là nếu một sự thay đổi như vậy là có thể thì tình thế đố rất có khả
năng xảy ra vào một ngày nào đó. Nếu phát hiện được các bức xạ quá cao xảy ra
trong các vùng lân cận thì cần áp dụng các biện pháp để ngăn ngừa hoặc ít nhất là
báo hiện về tình trạng đó. Điều này có thể được thực hiện bằng cách ngăn cản cơ
học chùm tia hoạt động ngoài các giới gian quy định, tạo các lớp che chắn bổ sung,
hoặc lắp đặt các thiết bị kiểm xạ có tín hiệu báo động tại khu vực đó. Nói chung, hai
phương pháp đầu được ưa chuộng hơn.
Rõ ràng là các câu hỏi thuộc loại này phải được xem xét ngay ở giai đoạn thiết
kế nhưng điều chủ yếu để khẳng định sự an toàn của cơ sở là đo trực tiếp. Việc điều
tra được lặp đi lặp lại định kỳ, đặc biệt là khi có một sự thay đổi bất kỳ trong quy
trình vận hành.
Cần cẩn thận khi lựa chọn các thiết bị kiểm xạ các tia X. Vấn đề chính là vấn
đề đáp ứng năng lượng. Nhiều thiết bị đo làm việc rất tốt đối với các tia X năng
lượng cao và tia gamma nhưng lại đánh giá thấp nghiêm trọng liều suất của tia X
dưới khoảng 100 kVp. Đối với các công việc đòi hỏi năng lượng thấp, các thiết bị
đo sử dụng buồng ion hóa với cửa sổ mỏng có thể là thích hợp nhất mặc dù đôi khi
chúng thiếu độ nhạy. Một số vấn đề khác có thể xảy ra khi các thiết bị dạng xung
(ví dụ ống G-M) được sử dụng là các thiết bị này có thể bị bão hòa khi suất liều tia
X cao nhưng bề ngoài chúng vẫn có vẻ làm việc bình thường. Điều này là do bản
chất xung của các tia X cho phép thiết bị đó hồi phục giữa các xung. Do vậy, thiết
bị này sẽ ghi lại tốc độ của các xung tia X chứ không phải suất liều trung bình. Điều
này may là ít xảy ra vấn đề tương tự trong các thiết bị có thiết kế hiện đại mặc dù nó
vẫn có thể xảy ra do lỗi.
Độ an toàn của cơ sở được đánh giá cuối cùng bằng các liều bức xạ mà người
điều khiển thiết bị và người làm việc ở các khu vực lân cận nhận được. các mức liều
này được đo bằng các hộp phim mặc dù rằng một số cơ sở hiện nay dùng các liều kế
nhiệt huỳnh quang. Sử dụng một số hộp phim hoặc thiết bị kiểm xạ khác thường
xuyên đặt ở nhưng vị trí cố định xung quanh cơ sở thường chung rất gia trị. Nên
nhớ là các máy kiểm xạ cá nhân thường nhỏ về diện tích. Các tia X, đặc biệt là loại
dùng trong chụp hình tinh thể, có diện tích rất nhỏ. Rất có thể là một chùm tia
không chiế và liều kế cá nhân nhưng tuy nhiên vẫn chiếu xạ vào nhân viên đó.
2.2.3 Các nguyên tắc cơ bản và tổ chức bảo vệ an toàn
Bảo vệ an toàn bức xạ trong y tế có nhưng vấn đề riêng biệt vì sức khỏe và sự
khôi phục của bệnh nhân là quan trọng bậc nhất. Khi một lượng hoạt độ lớn đưa và
cơ thể một bệnh nhân thì nó còn có thể gây nguy hại bức xạ đáng kẻ cho các nhân
viên y tế, các bệnh nhân khác và người nhà bệnh nhân. Các biện pháp bảo vệ bức xạ
được thảo luận trước đây như che chắn, khoảng cách, thời gian và bao kín có thể
không được áp dụng theo cách bình thường. Tuy nhiên, theo định nghĩa thông
thường, bệnh nhân đó vẫn phải được chăm sóc thích hợp mà không goi tổn hại quá
mức cho nhưng người khác.
Các nguyên tắc bảo vệ an toàn bức xạ cơ bản trong y tế là:
- Việc khám và điều trị bệnh bằng bức xạ chỉ được thực hiện khi chúng đem
lại lợi ích lớn hơn các phương pháp khác.
- Tại bất cứ nơi nào có thể, mọi việc khám chỉ được tiến hành trong các đơn vị
đặc biệt (khoa, phòng, ban …) chuyên về bức xạ hoặc các buồng bệnh chuyên biệt.
- Liều cho bệnh nhân phải được giảm đến mức thấp nhất có thể bằng cách sử
dụng nhưng kỹ thuật tốt nhất hiện có và phải thực hiện các biện pháp để giảm đến
mức thấp nhất có thể liều trên các bộ phận khác của cơ thể.
- Cần thực hiện các biện pháp thông thường để giảm liều trên cơ quan sinh
dục, ví dụ đối với cá tia X là hạn chế kích thước trường chiếu và trang bị các tấm
che chắn.
- Luôn luôn đặc biệt cân nhắc trước khi chỉ định chiếu xạ cho phụ nữ mang
thai và trẻ em.(quy tắc 10 ngày: một vấn đề thực tiễn nghiên trọng thường xảy ra là
khi phụ nữ nhận một loạt các lần chiếu xạ X-quang liên quan đến vùng bụng hoặc
hông và sau đó phát hiện ra là trong thời gian đó người phụ nữ này đang mang thai.
Mối nguy hại còn tồi tệ hơn nếu thai đang trong nhưng tuần tuổi thai đầu tiên. Một
giải pháp duy nhất cho vấn đề này là chỉ để nhưng phụ nữ đang tuổi sinh đẻ bị chiếu
xạ tia X ở vùng bụng và hông trong vòng 10 ngày đầu sau nguỳa bắt đầu có kinh
nguyệt hàng tháng, đó là lúc chắc chắn họ không mang thai. Giải pháp này được gọi
là quy tắc 10 ngày, và mặc dù nó gây ra một số vấn đề về tổ chức và sắp xếp thời
gian nhưng nói chung hiện nay nó được chấp nhận ở nhiều nước.)
- Mọi phép chẩn trị sử dụng bức xạ phải được tiến hành theo cách giảm tới
mức thấp nhất liều bức xạ gây cho nhưng người khác.
Tổ chức và trách nhiện bảo vệ an toàn bức xạ ở tất cả các cơ sở y tế sử dụng
bức xạ đều phải tuân thủ theo các quy định của pháp luật về an toàn và kiểm soát
bức xạ của quốc gia sở tại. Nói chung, trách nhiềm cao nhất về đảm bảo an toàn bức
xạ trong một cơ sở y tế sử dụng bức xạ thuộc về người quản lý cơ sở đó. Thẩm
quyền của người quản lý được thực hiện thông qua người phụ trách an toàn của cơ
sở dựa trên sự y quyền. Người phụ trách an toàn bức xạ của một cơ sở thường có
trách nhiệm tổ chức thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn theo quy định trong
quá trình sử dụng bức xạ tại cơ sở đó.
Điều quan trọng là tất cả các nhân viên có thể bị chiếu xạ trong quá trình làm
việc cần được hướng dẫn về bản chất của các mối nguy hại bức xạ và các biện pháp
đề phòng cần thiết.
Các tính chất nguy hại bức xạ và phương pháp bảo vệ tùy thuộc vào từng loại
bức xạ và có thể chia ra làm hai loại:
- Bảo vệ an toàn đối với nguồn bức xạ kín
- Bảo vệ an toàn đối với nguồn bức xạ hở
Các nguồn bức xạ kín ở đây bao gồm không chỉ các chất phóng xạ được bao
kín phát ra bức xạ 𝛽 ℎ𝑜ặ𝑐 𝛾 mà còn cả các thiết bị phát bức xạ như các máy phát xạ
tia X, máy gia tốc điện từ, máy phát nơtrôn. Về mặt cơ bản, sự khác biệt giữa nguồn
kín và nguồn hở ở chỗ, không kể khi xảy ra tai nạn, còn thì không có vấn đề về
nhiễm bẩn phóng xạ đối với loại thứ nhất.
2.2.4 Bảo vệ an toàn đối với X-quang chẩn đoán
Các máy phát tia X, hay máy X-quang, là nguồn kín chính dùng để chẩn đoán
với một số kỹ thuật phù hợp với nhưng ứng dụng khác nhau. Kỹ thật thông dụng
nhất, giống như trong chụp hình bức xạ công nghiệp, là chụp các bộ phận cơ thể
bằng cách đặt phần cơ thể cần giám giữa máy X-quang và một tấm phim ảnh. Cận
thận chọn chất lượng (điện áp) của tia X và loại nhữ tương ảnh thích hợp sao cho có
thể thu được một hình ảnh chất lượng tốt mà chỉ gây một liều khá thấp cho bệnh
nhân. Ví dụ, bằng kỹ thuật số tốt nhất hiện nay, tia chụp lồng ngực có thể gây một
liều thấp cỡ 100 𝜇Sv cho ngực của bệnh nhân trong khi liều điển hình là vào cỡ
1.000 𝜇Sv. Liều trên cơ quan sinh dục sẽ thấp hơn nhiều giá trị này với điều kiện
kích thước của chùm tia được điều chỉnh thích hợp sao cho cơ quan này năm ngoài
trường của chùm tia chính. Trong nhiều trường hợp một bệnh nhân cần phải chụp
X-quang nhiều lần, nhưng rõ ràng là số lần chụp phải được giảm đến mức thấp nhất.
Liều đối với bác sỹ chụp X quang được giảm đến mức thấp nhất bằng cách
thiết kế an toàn cho phòng chụp tốt, vì dụ như bố trí một buồng nhỏ có che chắn để
người chụp có thể đúng trong điều đó điều khiển máy. Đôi khi có các khó khăn khi
chụp như phải đỡ bệnh nhân trẻ em ở vị trí chụp. Nếu khôngthể sử dụng một bộ đỡ
và dây chằng thì bố hoặc mẹ của em bé đứng bên canh để giữ bé tốt hơn là để nhà
quang tuyến làm việc đó, vì bố mẹ em bé ít bị chiếu xạ thương xuyên như vậy một
vấn đề tương tự xảy ra khi chụp X-quang răng nếu không thể kẹp phim vào đúng vị
trí trong miệng. Trong trường hợp này bệnh nhân cần tự mình giữ phim hơn là để
nha sỹ hoặc các nhân viên y tế giữ.
Một điểm quan trọng cần nhớ trong việc chụp X-quang trong y tế là chỉ một
lớp che chắn mỏng cũng có thể giảm được liều đáng kể vì các tia X được dùng có
năng lượng khá thấp (thường nhỏ hơn 100 kVp). Ví dụ, các vật liệu pa chì hiện có
sẵn có thể dùng các tạp dề và găng tay tương đương với khả năng che chắn của
khoảng 1 mm chì.
Ngoài các nguy hại do chùm tai chính, các tia X còn có thể bị tán xạ từ bệnh
nhân hoặc từ các vật liệu gần đấy và tạo ra một mối nguy hại nữa.
2.2.5 Các biện pháp bảo vệ an toàn bức xạ cho mỗi nhóm đối tượng bị chiếu xạ
Khi nhân viên làm việc với nguồn bức xạ, mà chủ yếu là nguồn phóng xạ kín
và máy phát tia X, để giảm liều chiếu ngoài tại vị trí người làm việc, có thể sử dụng
3 biện pháp như sau đây:
- Giảm thời gian làm việc: liều tích lũy người làm việc trong vùng có một suât
liều xác định tỷ lệ thuận với thời gian mà người này có mặt tại vùng đó. Do vậy liều
của người này có thể được kiểm soát được bằng các giới hạn thời gian có mặt trong
vùng đó.
- Tăng khoảng cách từ người đến nguồn: vì suất liều tỷ lệ thận với thông lượng
nên suy ra suất liều cũng theo định luật nghịch đảo bình phương khoảng cách.
- Tăng chiều dày vật che chắn bức xạ (đối với máy X -quang di động : áo chì
bảo vệ tốt có độ dày 0,5 mm ): Đây là phương pháp được ưa chuộng vì nó thực sự
tạo ra điều kiệm là việc an toàn, trong khi dựa vào khoảng cách và thời gian chiếu
xạ có thể cần kiểm soát hành chính liên tục đối với các nhân viện.
Giới hạn liều:
a) Đối với nhân viên bức xạ
Chiếu xạ nghề nghiệp đối với mọi nhân viên bức xạ phải được kiểm soát sao
cho :
- Liều hiệu dụng toàn thân trong một năm được lấy trung bình trong 5 năm
liên tục không được vược quá 20 mSv.
- Liều hiệu dụng toàn thân trong một năm riêng lẻ bất kỳ không được vượt quá
50 mSv.
- Liều tương đương trong một năm đối với thể tinh thể của mắt không vượt
quá 150 mSv.
- Liều tương đương trong một năm đối với tay chân và da không vượt quá 500
mSv.
b) Đối với dân chúng
- Liều hiệu dụng toàn thân trong một năm không được vượt quá 1 mSv .
- Trong các trường hợp đặc biệt liều hiệu dụng có thể tăng tới 5 mSv cho một
năm riêng lẻ, như liều hiệu dụng cho trung bình 5 năm liên tục không vượt quá 1
mSv trong một năm.
- Liều tương tương trong một năm đối với thủy tinh thể của mắt không vượt
quá 15 mSv.
- Liều tương đương trong một năm đối với chân tay hoặc da không được vượt
quá 50 mSv.
c) 3. Đối với người thăm, người trợ giúp bệnh nhân
- Giới hạn liều được lập ra trong điều này sẽ không áp dụng cho những người
chăm sóc bệnh nhân, có nghĩa là các cá nhân bị chiếu trong khi tình nguyện trợ giúp
bệnh nhân (khác với những công việc hoặc nghề nghiệp của họ) trong khi tiến hành
các xét nghiệm hoặc điều trị, hoặc khách đến thăm bệnh nhân, bởi vậy:
- Liều của một cá nhân bất kỳ tham gia chăm sóc, hỗ trợ bệnh nhân và khách
đến tham cần phải được kiềm chế sao cho liều bức xạ không vượt quá giá trị 5 mSv
trong cả thời kỳ bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị.
- Liều chiếu với các trẻ em đến thăm bệnh nhân đang sử dụng dược chất
phóng xạ cũng phải được kiềm chế ở mức nhỏ hơn 1 mSv
2.3Bảo vệ chống bức xạ trong xây dựng phòng X – Quang chuẩn đoán
2.3.1 Hiện trạng các phòng X-quang chẩn đoán ở Việt Nam
Hiện nay với sự phát triển ngày càng cao của thiết bị y tế, giá thành ngày càng
rẻ, nền kinh tế phát triển cộng nhu cầu người dân tăng lên, việc sử dụng các thiết bị
X- Quang đặc thù không còn chỉ giới hạn trong các Bệnh viện như trước kia mà
ngay cả các đơn vị y tế tư nhân cũng có khả năng trang bị thiết bị này. Chính việc
sử dụng rộng rãi đó đã đặt ra một vấn đề không nhỏ là đảm bảo an toàn khi xây
dựng phòng thiết bị sử dụng máy X-Quang và các máy tia phóng xạ khác.