Professional Documents
Culture Documents
Nguyentienhungpbkhidongminhthaochay PDF
Nguyentienhungpbkhidongminhthaochay PDF
SAO LẸ THẾ
Ngày 10 tháng ba, 1975 quân đội Bắc Việt đánh chiếm Ban Mê Thuộc. Đến
ngày 30.4 đã tiến vào Sài Gòn. Tốc độ như vũ bão, vỏn vẹn chỉ có 52 ngày? Không
lẽ một cuộc chiến kéo dài tới hai mươi năm, đến khi kết thúc lại nhanh như vậy?
Rồi cuộc di tản tiếp theo. Trước hết lạ thời gian di tản, sao nó quá ngắn ngủi?
Tuy hai cuộc chiến năm 1954 và 1975 kết thúc trong những hoàn cảnh khác hẳn
nhau, ta vẫn có thể hỏi tại sao khi Pháp rút khỏi Miền Bắc, thời gian được quy định là
300 ngày. Bây giờ đến lúc Mỹ rút hết khỏi Miền Nam thì không có quy định gì hết,
cuộc di tản chỉ kéo dài được vỏn vẹn năm ngày!
Nói tới cung cách ra đi, sao lại quá thê thảm? Năm 1954, dù chỉ là di tản từ
Bắc vào Nam và năm 1975 thì di tản sang Mỹ nên hai biến cố khác nhau, nhưng
phần nào ta cũng so sánh được việc đoàn người ra đi có trật tự, rất ít nguy hiểm ở
lần đầu, với cuộc di tản nháo nhào, đầy rủi ro, hãi hùng vào lần thứ hai. Rốt cuộc, tại
sao số người được cứu vớt lại quá ít ỏi? Hồi 1954, Mỹ chưa trực tiếp dính líu vào
Việt Nam mà đã giúp chuyên chở, rồi định cư cho một triệu người, tức là 7% dân số
Miền Bắc. Sau hai mươi năm can thiệp với hơn một nửa triệu quân, sống chết với 20
triệu dân quân Miền Nam, giờ đây lại chỉ định cứu có 50.000 người. Tới phút cuối
cùng mới vớt thêm. Tất cả không tới 130.000 người, nghĩa là có 0,6% dân số.
Phóng viên: ‘’Thưa ông, cứ cho là Hoa Kỳ đã bội ước, nhưng còn lý do gì
khác khiến chúng tôi phải đưa người Việt vào Mỹ không?’’
Tác giả: ‘’Tượng Nữ Thần Tự Do đang nhắc nhở cho chúng ta rằng nước Mỹ
là đất của những kẻ bị truy nã, của di dân’’.
Phóng viên: ‘’Tôi xin nhắc nhở cho ông là Nữ Thần Tự Do quay mặt về phía
Đại Tây Dương’’.
Ý nói là bà quay lưng về phía Á Châu, phía Việt Nam chúng ta.
Đây là một giai thoại trong phiên họp báo của chúng tôi ngày 30.4.1975 (ngày
1 tháng 5 giờ Sài Gòn) tại khách sạn May Flower trên đường Connecticut,
Washington, D.C.
Mục đích của cuộc họp nhằm kêu gọi Hoa Kỳ cứu vớt những con thuyền đang
lênh đênh như lá tre ngoài bờ biển Vũng Tàu.
Vô cùng xúc động, chúng tôi không cầm được nước mắt. Câu mỉa mai này đã
ám ảnh chúng tôi từ giây phút đó, và chắc sẽ không bao giờ phai nhòa đi được trong
ký ức.
Sau 30 năm rồi mà ta chưa tìm được câu trả lời thỏa đáng cho những thắc
mắc trên. Biến cố lịch sử năm 1975 đã để lại những ấn tượng sâu đậm trong tâm trí
của tất cả chúng ta, những con người Việt Nam, dù ở trong hay ngoài nước. Mỗi
người một hoàn cảnh, một cảm xúc, một số phận. Một số quý vị đang cầm cuốn sách
này trong tay là những người thuộc thành phần may mắn, không nhiều thì ít, đã thoát
được bao nhiêu rủi ro. Thành phần khác đã chịu số phận nghiệt ngã, giờ đây chỉ còn
là những oan hồn vất vưởng trong lòng Thái Bình Dương.
Và sau này, những thế hệ mai sau, con cháu chúng ta sẽ tiếp tục thắc mắc: Tại sao
cha mẹ, ông bà mình lại bỏ quê cha, đất tổ chạy sang Mỹ? Sang bao giờ? Trong
hoàn cảnh chính trị xã hội, kinh tế ra sao? Sang bằng cách nào? May mắn? Lúc đầu
như thế nào? Làm sao mà sinh sống? Không bà con, không tiền, không nghề nghiệp
thích hợp, không cùng ngôn ngữ, làm thế nào mà nuôi được con cháu ăn học thành
tài như ngày nay?
Tự túc tự cường
Vào lúc tám giờ sáng ngày 28 tháng Giêng 1973, từng đợt rồi lại từng đợt,
tiếng còi tàu Hải Quân Việt Nam dọc cảng Sài Gòn rú lên, xé tan màn sương buổi
ban mai. Khi còi ngưng, chuông nhà thờ lại tiếp theo, ngân vang khắp đó đây, làm
tăng thêm bầu không khí náo nhiệt của Đô Thành ngày hôm ấy.
Dù chẳng biết thực hư ra sao, ta cứ ăn mừng đi đã. Hiệp Định Paris ký rồi,
chiến tranh chấm dứt. Từ góc đường Phan Đình Phùng khu Đa Kao, đài phát thanh
phóng ra bài ca oai hùng ‘’Việt Nam, Việt Nam nghe từ vào đời’’. Nhiều nhà mở loa
cho lớn, dường như muốn át đi tiếng ca ai oán vẳng lên từ radiô nhà bên cạnh: ‘’Anh
trở về trên đôi nạng gỗ...anh trở về dang dở đời em...’’ Hy vọng rằng từ nay, những
chiếc băng ca không còn phải chở về trên trực thăng sơn mầu tang trắng.
Dân chúng đô thành tạm gác mọi nỗi lo âu sang một bên. Không khí ở những
quán cà phê trở nên nhộn nhịp. Lệnh giới nghiêm nửa đêm chỉ được thi hành một
cách lỏng lẻo và phòng trà đã bắt đầu mở cửa lại. Nha Du Lịch sửa chữa khách sạn
Majestic, làm thêm một quán ngoài vỉa hè quay ra bờ sông, hết sức thơ mộng. Chiều
chiều, giới phong lưu cũng như ái nữ của các nhân viên ngoại giao và du khách ngả
mình trên những ghế võng mây mới mắc, uống chanh soda và nước dừa còn tươi,
trông như một cảnh ở Hawaii. Bên kia đường, sông Sài Gòn lặng lẽ trôi. Tiếng đại
bác không còn vọng lại nữa, và hỏa châu cũng thôi lóe sáng trong đêm tối. Nhà hàng
nổi Mỹ Cảnh sầm uất, tiếng nói ồn ào của thực khách xen lẫn với những tiếng cười
ròn rã, tiếng chuông rung từ những chiếc xe bán đồ rong trên bến, mùi khô mực
nướng và mùi nước mía vừa mới cứ quyện lẫn vào nhau, làm cho không khí thêm
mời mọc, hấp dẫn.
Lại một lần nữa viễn ảnh hòa bình ló rạng. Và cứ thế, Hiệp Định Paris được
các cơ quan truyền thông của chính phủ mô tả như một thắng lợi cho Việt Nam Cộng
Hòa. Khác với Hiệp Định Genève Pháp ký năm 1954 sau thất bại Điện Biên Phủ,
đàng này Việt Nam Cộng Hòa đâu có thất bại? Ban Tâm Lý Chiến trận đài đồng ca:
‘’Cờ bay cờ bay trên thành phố thân yêu’’. Tại Mỹ, các báo chí đăng hàng tít lớn
‘’Hòa bình với danh dự’’ Đài VOA cứ vậy mà phát sóng. Biết đâu, biết đâu đấy một
trang sử mới đã được mở ra rồi.
Thế là đã tới thời hậu chiến?
Bây giờ nhiệm vụ chính yếu là củng cố xã hội và tái thiết kinh tế. Về xã hội,
việc bức xúc là hiệu năng của nền hành chính. Để hỗ trợ công tác này chương trình
‘’Cải tổ hành chánh’’ được đề ra. Ông Quách Huỳnh Hà, người được giao trách
nhiệm, đã cùng với sự tham gia tích cực của Học Viện Quốc Gia Hành Chánh đôn
đốc việc cải tổ. Công chức mọi cấp mọi ngành thay nhau đi tham dự các lớp học tập
được tổ chức tại Trung Tâm Huấn Luyện Vũng Tàu. Trung tâm nằm cạnh bờ biển
Long Hải thơ mộng. Các vấn đề được đem ra thảo luận: Tản quyền về địa phương,
phát triển nông thôn, tay súng tay cày, bài trừ tham nhũng. Toàn là những chủ đề
thực tế, hết sức hấp dẫn.
Khối Kinh Tế-Tài Chính được đốc thúc để đẩy được nền kinh tế đi tới tự túc tự
cường. Càng sớm càng tốt. Lúc này cần nhìn thẳng vào thực trạng, xem mặt tốt, mặt
xấu, tranh thủ thời gian để uốn nắn lại những bất quân bình của kinh tế vĩ mô. Muốn
vậy, cần phải duyệt xét toàn bộ quá trình nền kinh tế để chỉ ra cho đúng những nhu
cầu và ưu tiên. Nhìn lại con đường mà nền kinh tế Việt Nam đã trải qua trong hai
thập niên, tuy nó trắc trở, thăng trầm, nhưng cũng đã có thời điểm khá sáng sủa. Và
bên cạnh những tàn phá lại có những xây dựng, phát triển đáng kể, cả về vật chất
(Nguồn: USAID)
Mỹ rút, chi tiêu đô la cũng rút luôn Trong những năm chiến tranh, ngoài số tiền
viện trợ lại còn có nguồn thu đô la quan trọng thứ hai, đó là số đô la thu được do nhu
cầu đổi sang tiền đồng Việt Nam của nguồn ngoại tệ Mỹ vào gồm Quân Đội, Tòa Đại
Sứ, các công ty xây cất, dịch vụ Mỹ. Bây giờ thì Quân Đội Mỹ về hết rồi, các cơ quan
hành chính Mỹ thu nhỏ lại, và các hãng ngoại quốc cũng ra đi. Số đô la mua được từ
nguồn này đã giảm từ mức 300-400 triệu một năm xuống còn 96 triệu (1973), và 97
triệu (1974): Số tiền đô la đổi sang tiền đồng Việt Nam thu được
(Nguồn: USAID)
Nguồn: Về viện trợ Mỹ cho Do Thái: Đúc kết từ ‘’Quân viện cho Do Thái’’
‘’Congression Rescarch Service, Library of Congress, Issue brief for Congress’’,
Updated October 17, 2002.
Như vậy, quân viện cho Việt Nam Cộng Hòa từ tài khóa 1972/73 là 2,1 tỷ đã
bị cắt 1,4 tỷ còn 700 triệu cho tài khóa 1974/75.
Kết luận:
Quân viện ‘’cho’’ Việt Nam bị cắt đi 1,4 tỷ và Quân viện ‘’cho’’ Do Thái tăng 1,5
tỷ trong cùng năm.
Từ năm 1985, tất cả quân viện cho Do Thái đã thuộc loại ‘’cho không’’ (như
Việt Nam trước đây), trung bình mỗi năm là một tỷ tám trăm triệu đô la.
Ông Stephens Jones, Giáo Sư tại Đại Học San Francisco nhận xét: ‘’Ngày nay
tổng số viện trợ cho Do Thái mỗi năm tăng một phần ba ngân sách viện trợ Hoa Kỳ
cho toàn thế giới, dù dân số Do Thái không tới sáu triệu, tức là bằng 0,1% dân số
toàn cầu’’. Và dù Do Thái là nước giầu có thứ 16 trên thế giới (với lợi tức đồng niên
mỗi đầu người là 14.000 đô la). [15]
Đao phủ
Chiều mồng một tháng Ba, Dinh Độc Lập mở tiệc khoản đãi các vị ‘’quốc
khách’’ vì hôm sau phái đoàn Quốc Hội Mỹ lên đường ra về. Dù có tin đồn là một số
khách sẽ làm reo không tham dự, nhưng tất cả đã đến đúng giờ. Tại bàn tiệc, nhân
Cộng 32.883
Cộng 78.230
HẾT