Professional Documents
Culture Documents
tái bản lần 3
tái bản lần 3
1. Xu hướng
Mạng vô tuyến hiện tại được chia làm 2 loại: di động (mobile) hay cố
định (fixed) như wifi. Trong mạng này người ta chú ý tới hai yếu tố đó là
băng thông và tính di động. so với mạng cố định thì mạng mobile có tính di
động cao hơn nhưng bù lại thì băng thông của nó thấp hơn. Ví dụ Wifi có thể
đạt tới tốc độ 108 Mbps trong khi mạng di động 3G xu hướng chỉ đạt 2Mbps
còn mạng Wimax có thể có tốc độ cao hơn nhưng vẫn trong giai đoạn thử
nghiệm vì sử dụng kỹ thuật mới tiên tiến hơn. Như vậy ta thấy rằng xu hướng
của các mạng vô tuyến ngày nay là tính di động và băng thông ngày càng
tăng để đạt được mạng băng rộng.
Để dạt được mạng băng rộng, ngày nay các công nghệ truy nhập vô
tuyến đang hướng dẫn về kiến trúc mạng cellular, tăng tính di động cho các
thiết bị trong mạng. Trong khi đó để tăng băng thông thì người ta áp dụng các
kỹ thuật truy nhập tiên tiến như CDMA, OFDM,.. và có xu hướng:
+ Giảm khích thước các cell lại để tăng số user lên do đó số lượng trạm
thu phát tăng lên theo.
Hai xu hướng trên có sự tác động qua lại một cách chặc chẽ. Đối với
băng tần mm, suy hao của nó trong không gian rất lớn, được biểu diễn bởi
công thức:
Dựa vào công thức (3.1) ta thấy khi tần số tăng lên suy hao đường
truyền cũng tăng theo làm cho bán kính phủ sóng giảm đi, kèm theo đó muốn
đảm bảo bán kính phủ sóng buộc phải tăng số lượng BS lên. Với một lượng
BS lớn thì giá thành sẽ là một vấn đề cần được giải quyết. Để giảm giá thành
của BS thì người ta sẽ thiết kế cấu trúc BS thật đơn giản hoặc đưa ra kiến trúc
mạng tập trung. Đối với kiến trúc mạng tập trung, các chức năng như xử lí tín
hiệu, định tuyến, chuyển giao định tuyến,... được thực hiện tại trạm trung tâm
CS, mỗi CS này phục vụ càng nhiều BS càng tốt, nhiệm vụ bây giờ chỉ còn là
phát các tín hiệu nhận được từ MH về CS.
Để kết nối CS với các BS, người ta sử dụng sợi quang với những ưu
điển không thể thay thế được đó chính là băng thông lớn và suy hao thấp, mỗi
sợi quang có thể truyền với tốc độ hang trăng GHz với chiều dài lên đến hàng
chục Km. Các kỹ thuật để truyền dẫn tín hiệu vô tuyến từ CS tới BS và ngược
lại gọi là kỹ thuật RoF. Còn mạng truy nhập dựa trên kỹ thuật RoF được gọi
là mạng truy nhập vô tuyế RoF gọi tắt là mạng RoF.
Công nghệ truyền sóng vô tuyến qua sợi quang sử dụng đường truyền sợi
quang để phân phối các tín hiệu tần số vô tuyến (RF) từ các vị trí trạm đầu cuối
tập trung tới các khối anten đầu xa (RAUs). Trong hệ thống thông tin băng hẹp
và WLANs, các chức năng xử lí tín hiệu RF như nâng tần, điều chế sóng mang
và ghép kênh, được thực hiện ở các trạm gốc BS hoặc ở RAP và ngay sau đó
được đưa tới anten. Công nghệ RoF cho phép tập trung các chức năng xử lí tín
hiệu RF tại một vị trí chung (trạm đầu cuối), sau đó sử dụng sợi quang có suy hao
thấp (0,3 dB/km cho bước sóng 1550 nm, 0,5 dB/km cho bước sóng 1310 nm) để
phân phối tín hiệu RF tới các RAUs.
3. Các đơn vị cơ bản trong hệ thống RoF
Base station (BS) phát sóng mà nó nhận được từ CS đến các MH rồi sau đó
nhận tín hiệu từ MH truyền về CS. Mỗi BS sẽ phục vụ được 1 microcell, nó
không có khả năng xử lý mà chỉ có khả năng biến đổi tín hiệu qua lại từ điện
sang quang và ngược lại để truyền hay nhận tín hiệu từ CS. Thành phần quan
trọng nhất trong BS là antenna và thành phần chuyển đổi quan điện ở tần số RF,
tùy vào bán kính mà BS có thể phục vụ được mà người ta tính toán số lượng BS
để có thể phủ sóng trong 1 vùng (BS có bán kính hoạt động nhỏ chỉ vài tram mét
hay nhỏ nhất có thể chỉ vài chục mét, trong ROF thì BS rất đơn giản do nó không
có thành phần).
Mobile host(MH) là các thiết bị trao đổi với BS đóng vai trò là đầu cuối
trong mạng ROF, MH có thể là điện thoại, lap top, ipad,… có tích hợp chức năng
thu nhận tín hiệu không dây từ BS.
Hình 1.2: BS-CS-MH một microcell trong hệ
Central station (CS) trạm xử lý trung tâm, tùy vào công nghệ mà RoF đang triển
khai mà CS có khả năng phục vụ cho các BS ở xa hàng chục km và mỗi CS có
thể nối hang ngàn CS với nhau. CS được nối đến các tổng đài hay các server
khác.
1 Sợi quang
1 Khái niệm
- Sợi quang là một loại sợi trong suốt, linh hoạt được làm từ thủy tinh
(silica) hoặc chất dẻo thấm chất lượng cao, hơi dày hơn sợi tóc người. Nó
có chức năng dẫn sóng hoặc truyền ánh sáng,[1] giữa đầu và cuối sợi này.[2]
Sợi quang là một môi trường truyền thông tin nhanh hơn cáp đồng
trục nhiều lần.
2 Cấu tạo
- Ứng dụng hiện tượng phản xạ toàn phần, sợi quang được cấu tạo gồm 2
lớp: lõi (core) có chiết suất n1 và vỏ bọc (cladding) có chiết suất n2 (n1> n2)
Hình 1.3: Cấu tạo cơ bản sợi quang gồm lõi và vỏ bọc
Ánh sáng truyền từ đầu này sang đầu kia sợi quang bằng cách phản xạ toàn
phần tại mặt ngăn cách giữa 2 lớp lõi-vỏ bọc, và được định hướng trong lõi.
2. Bộ phát quang
Sơ đồ khối bộ phát quang điển hình bao gồm: Nguồn quang (LED, Laser),
bộ ghép tín hiệu quang, mạch điều chế tín hiệu và mạch điều khiển công suất.
Dữ liệu từ nguồn phát bên ngoài được đưa vào bộ phát quang thông qua
đơn vị biến đổi dữ liệu nhờ tín hiệu xung kích (clock). Tại đây tín hiệu được đưa
về dạng phù hợp cung cấp cho mạch kích thích điều khiển dòng phân cực cho
Laser.
3. Bộ thu quang.
Bộ thu có chức năng nhận tín hiêu quang, chuyển tín hiệu quang thành tín
hiệu điện, xử lí và khôi phục dạng tín hiệu, Nguyên lí chung là sử dụng các linh
kiện thu quang có nhiệm vụ đón nhận các bức xạ quang (năng lượng photon và
chuyển đổi thành tín hiệu điện).
Bộ thu quang là tổ hợp của bộ tách song quang, bộ tiền khuếch đại điện và
các phần tử xử lí tín hiệu điện. Bộ tách song quang thực hiện nhiệm vụ chuyển
đổi tín hiệu quang ngõ vào thành tín hiệu điện. Do tín hiệu quang ngõ vào đã bị
suy yếu khi qua đường truyền nên tín hiệu ở ngõ ra bộ tách song quang cần được
đưa vào bộ tiền khuếch đại. Yêu cầu của bộ tiền khuếch đại là phải có nhiễu thấp,
tuy nhiên bộ tiền khuếch đại nhiễu thấp lại có bang thông không đủ để đáp ứng
tín hiệu số tốc độ cao trong thông tin quang, do đó cần đến bộ equalizer để cân
bằng lại bang thông như yêu cầu. Sau đó tín hiệu được đưa vào bộ khuếch đại để
cho nó dủ mạnh để xử lí tiếp. Bộ lọc để sau bộ khuếch đại để loại bỏ các thành
phần tần số không mong muốn trong quá trình xử lí tín hiệu. Trong các bộ thu
quang tốc độ thấp, người ta thường sử dụng tách song bất đồng bộ, sử dụng bộ so
sánh để xem xung đó có hiện diện hay không, tức là xác định bit đó là 0 hay 1.
Đối với tuyến quang tốc độ cao, để đạt được tốc độ tối ưu, xung đồng hồ dữ liệu
được mã hóa vào trong tín hiệu phát và được khôi phục ở bộ thu quang mạch
khôi phục xung đồng hồ. Xung đồng hồ được khôi phục và đưa tới mạch quyết
định bit để quyết định nó là bit 0 hay 1. Dựa vào kết quả, ngõ ra mạch quyết định
bit chính là chuỗi dữ liệu được khôi phục.
- Kiến trúc mạng tâp trung cho phép khả năng cấu hình tài nguyên thấp và
cấp băng thông động cho phép sữ dụng băng thông hiệu quả hơn. Khả năng nâng
cấp và quản lý mạng đơn giản.
- Do BS đơn giản nên sự ổn định cao hơn và quản lý đơn giản hơn.
- Đặc biệt là kỹ thuật RoF trong suốt với giao diện vô tuyến (điều chế, tốc
độ bit,.. ) và các giao thức vô tuyến nên mạng có khả năng triển khai đa dịch vụ
trong cùng thời điểm.
- Nếu khắc phục được nhược điểm trong RoF thì một CS có thể phục vụ
được các BS ở rất xa
Không giống như các mạng quang thông thường-nơi mà chủ yếu truyền tín
hiệu số , về cơ bản , RoF như một hệ thống truyền tương tự , bởi vì nó truyền tải
dạng sóng vô tuyến , trực tiếp ở tần số sóng mang , từ một CS đến một BS.
Thực tế , tín hiệu tương tự được truyền qua cáp quang có thể là tín hiệu RF , tín
hiệu trung tần (IF) hoặc tín hiệu băng gốc (BB) . Đối với trường hợp truyền IF
và BB , bổ sung thành phần mới để nâng tần đến RF được yêu cầu ở BS . Tại
máy phát quang , tín hiệu RF/IF/BB có thể được đưa vào sóng mang quang bởi
kỹ thuật điều chế trực tiếp hoặc điều chế ngoài lazer . Trong trường hợp lý tưởng,
đầu ra tín hiệu từ đường truyền quang sẽ là bản sao của tín hiệu đầu vào, tức là
tín hiệu ngõ ra của tuyến RoF cho ta tín hiệu đầu ra giống tín hiệu ban đầu . Tuy
nhiên , có một số giới hạn bởi phi tuyến và giới hạn đáp ứng tần số trong lazer
và thiết bị điều chế cũng như tán sắc trong sợi quang . Việc truyền tín hiệu tương
tự đưa ra các yêu cầu về sự tuyến tính và dải động của đường truyền quang .
Hình 4.0 Sử dụng phương pháp điều chế với sóng mang mang
Ở hình 4.0, tín hiệu được nâng lên tần số RF và tín hiệu ở tần số RF này
được đưa vào bộ điều chế cường độ sang dạng quang , ở đây ta sử dụng kỹ thuật
điều chế trực tiếp , sóng vô tuyến được điều chế lên tần số quang ,sử dụng tần số
quang truyền đi trong sợi quang , Ở đầu thu ta thu được tín hiệu quang và
chuyển về dạng điện ở tần số RF , có một bộ lọc được đặt ở cuối nhằm để lọc đi
nhiễu gây ra trên đường truyền.
Hình 4.3 : Các thiết lập cấu hình tiêu biểu cho đường truyền RoF.
Trong
(a) : phần
EOMnày chúng Optical
(External ta sẽ thảo luận về thiết
Modulator) ,Tínlập cấuRF
hiệu hình đường
được điềutruyền
chế RoF
điển
(b)hình , nó(External
: EOM được phânOptical trên loại băng
Modulator),
loại dựa tần ( IF
Tín hiệu được điều
BaseBand , IFchế
, RF ) được
(c) : EOM (External Optical Modulator), Tín Hiệu BB được điều chế
truyền trên đường truyền quang . Một số thiết lập cấu hình đường truyền tiêu
(d) : Điều chế trực tiếp
biểu được biểu diễn theo sơ đồ trong hình 5.3 . Ở đây , chúng ta giả sử BS có
nguồn sáng riêng cho mục đích giải thích ,tuy nhiên ở phần sau BS có thể được
cấu hình mà không có nguồn sáng cho đường truyền uplink
.
Trong mỗi cấu hình trên , có thể thấy những BS không có bất cứ thành phần điều
chế hay giải điều chế nào , chỉ CS mới có những thành phần đó. Trong Downlink
từ CS đến những BS (BSs). Tín hiệu thông tin từ Mạng chuyển mạch công cộng (
PSTN : Public Switched Telephone Network ), Internet hoặc từ CS khác được
đưa vào bộ điều chế trong CS. Tín hiệu đó có thể là hoặc RF hoặc IF hoặc BB
được điều chế thành tín hiệu quang bởi LD (Lazer Diode) . Như mô tả trước đó ,
nếu tần số RF thấp hơn, chúng ta có thể điều chế tín hiệu của LD theo tín hiệu RF
trực tiếp, nếu tần số RF cao chẳng hạn như ở mm-wave band , chúng ta cần sử
dụng những bộ điều chế ngoài (EOMs: External Optical Modulators) . Tín hiệu
quang đã được điều chế sẽ truyền đi tới BSs bằng sợi quang, tại BSs những tín
hiệu ở băng tần RF/IF/BB sẽ được khôi phục lại bằng photodiode (PD) ( tách
sóng trực tiếp), tín hiệu được khôi phục này sẽ được nâng tần lên RF nếu tín hiệu
truyền được đi là IF /BB và bức xạ ra không gian bằng các anten và truyền tới
MHs (Mobile Hosts), chức năng điều chế và khôi phục thông tin sẽ được thực
hiện tại các MHs này.
Downlink
Ở cấu hình (a), tín hiệu điều chế ở băng tần RF được tạo ra tại CS và trực
tiếp truyền đi tới BSs bằng EOM nên nó được gọi là “RF-over-Fiber”. Tại mỗi
BS, tín hiệu điều chế được khôi phục bởi phát hiện tín hiệu quang nhờ PD và trực
tiếp truyền tới MHs. Phân bố tín hiệu như “RF-over-Fiber”có lợi thế là thiết kế
đơn giản ở BS nhưng rất nhạy với sợi có tán sắc sắc thể nên khoảng cách truyền
dẫn từ CS đến BSs bị giới hạn . Ở cấu hình (b) tín hiệu điều chế ở băng tần IF
được tạo ra ở CS và được truyền đi đến BSs bằng EOM , nên nó được gọi là “IF-
over-Fiber”. Tại mỗi BS, tín hiệu điều chế được khôi phục bởi phát hiện tín hiệu
quang nhờ PD, nâng tần tín hiệu này đến băng tần RF và truyền đi tới các MHS.
Trong sơ đồ này, tác động của sợi có tán sắc sắc thể lên tín hiệu IF bị giảm nhiều,
Mặc dù anten thực hiện truyền cho hệ thống RoF kết hợp IF-over-Fiber yêu cầu
thêm phần cứng điện tử như mm-wave frequency LO ( đoán là bộ dao động tần
số mm-wave ) cho việc nâng và hạ tần. Ở cấu hình (c) tín hiệu điều chế ở băng
tần gốc được tạo ra ở CS và được truyền đi đến BSs bởi EOM , nên gọi là “ BB-
over-Fiber” . Ở mỗi BS , tín hiệu điều chế được khôi phục bởi phát hiện tín hiệu
quang nhờ PD , được nâng tần lên tần RF, trung gian IF lên RF hoặc lên trực tiếp
BB RF và được truyền đến MHs. Trong truyền tải băng tần gốc, ảnh hưởng
của hiệu ứng tán sắc là không đáng kể , nhưng thiết lập cấu hình BS phức tạp
nhất , nhưng bù lại khoảng cách từ CS đến các BS được xa hơn cấu hình a rất
nhiều. Ở cấu hình (d) tín hiệu điều chế ở băng tần gốc hoặc IF được tạo ra ở CS
và truyền đi đến BSs bởi điều chế trực tiếp nguồn quang LD.Tại mỗi BS, tín hiệu
điều chế được khôi phục bởi phát hiện tín hiệu quang nhờ PD, nâng tần tín hiệu
này đến RF và truyền đến MHs, khả thi cho tần số tương đối thấp và ít hơn
10GHz. Bằng cách giảm băng tần sử dụng để tạo ra tín hiệu điều chế tại CS như
IF-over-Fiber, BB-over-Fiber, yêu cầu băng thông cho điều chế quang có thể bị
giảm.
Sử dụng tần số thấp hơn để tạo nên tín hiệu điều chế ở CS như IF-over-
Fiber , BB-over-Fiber, yêu cầu băng thông cho điều chế có thể bị giảm , điều này
đặc biệt quan trọng khi RoF ở mm-wave band được kết hợp với ghép kênh phân
chia theo bước sóng mật độ dày (DWDM) sẽ được thảo luận ở phần 4.5. Tuy
nhiên , điều này làm tăng số lượng thiết bị ở BSs nâng tần cho downlink và hạ
tần cho uplink được yêu cầu. Trong truyền tải sóng mang phụ RF, cấu hình BS
có thể đơn giản chỉ khi một bộ điều chế ngoài ở mm-wave và PD – tần số cao
tương ứng được áp dụng để chuyển đổi điện sang quang (E/O ) và chuyển đổi
quang sang điện (O/E)
Uplink
Uplink từ MH đến CS, tiến hành quá trình ngược lại. Ở cấu hình (a) tín
hiệu nhận được ở BS được khuếch đại và trực tiếp truyền đến CS bởi điều chế tín
hiệu quang từ nguồn quang LD bởi bộ điều chế ngoài EOM. Trong cấu hình (b)
và (c) tín hiệu nhận tại BS được khuếch đại và hạ tần về IF hoặc BB và truyền
đến CS bởi điều chế tín hiệu quang từ nguồn quang sử dụng EOM. Ở cấu hình
(d) tín hiệu nhận tại BS được khuếch đại và hạ tần về IF hoặc BB và truyền đến
CS bởi điều chế trực tiếp nguồn quang LD
Trong phần này , đưa ra một cách tổng quan về tạo và truyền tín hiệu radio
trên một sợi quang trong mạng RoF . Hầu hết các đường truyền quang truyền tín
hiệu microwave/mm-wave đều áp dụng điều chế cường độ nguồn sáng . Về cơ
bản , 3 phương pháp khác nhau để truyền tín hiệu microwave/mm-wave qua các
đường truyền quang với điều chế cường độ :
Phương pháp thứ 2 áp dụng một nguồn sáng chưa được điều chế với một bộ
điều chế cường độ quang ngoài. Kỹ thuật này được gọi là điều chế ngoài
Phương pháp thứ ba là Remote Heterodyning , có nhiều hơn một tín hiệu
quang được tạo ra bởi nguồn sáng , một trong số đó được điều chế bởi tín hiệu
mang thông tin (information-bearing signal ) và chúng được kết hợp hoặc trộn
bởi photodetector hoặc bởi mixer( bộ trộn) ngoài để đầu ra hình thành tín hiệu
RF . Điều chế ngoài và heterody sẽ được thảo luận trong phần sau và phần này
chúng ta sẽ nói về điều chế cường độ trực tiếp.
Điều chế cường độ trực tiếp là phương pháp đơn giản nhất trong ba phương
pháp trên nên nó được sử dụng phổ biến . Khi kết hợp thêm với Tách sóng trực
tiếp sử dụng PD, nên nó được gọi là điều chế cường độ và tách sóng trực tiếp
(IM/DD: Intensity Modulation/Direct Detection). Điều chế trực tiếp bị giới hạn ở
tần số dao động của lazer diode . lazer có thể được điều chế ở tần số vài GHz (5-
10GHz), vẫn có điều chế cường độ bằng lazer diễn ra lên đến 40GHz hoặc cao
hơn nhưng giá thành lazer này quá cao hoặc không phổ biến trên thị trường, đó
là lý do tại sao ở tần số cao hơn (trên 10GHz) mà điều chế ngoài được áp dụng
nhiều hơn điều chế trực tiếp. Bởi vì có nhiều BS trong mạng RoF, linh kiện đơn
giản rẻ phải được sử dụng do đó trong uplink hệ thống mạng RoF được sử dụng
kiểu điều chế cường độ trực tiếp với những Lazer giá rẻ. Ở downlink có thể sử
dụng cả Lazer và Bộ điều chế ngoài.
Sơ đồ khối bộ điều chế ngoài được biểu diễn như hình 4.4. Theo đó tín hiệu
quang không thực hiện bên trong laser mà được thực hiện bởi một linh kiện
quang bên ngoài gọi là bộ điều chế ngoài (extenal modulation). Ánh sáng so laser
phát ra dưới dạng sóng liên tục CW.
2.2. Ưu nhược điểm điều chế tín hiệu ngoài so với điều chế tín hiệu
trực tiếp.
Với cấu trúc của bộ điều chế ngoài, kĩ thuật này đã khắc phục được những
hạn chế của kỹ thuật điều chế trực tiếp.
- Băng thông hạn chế: do bộ điều chế ngoài quyết định, vì thế không bị giới
hạn bởi tần số giao động tắt dần của laser.
- Không xảy ra hiện tượng chirp đối với tín hiệu quang vì laser được kích
thích bỏi dòng điện ổn định nên ánh sáng phát là sóng liên tục có tần số và độ
rộng phổ ổn định. Đặc điểm này rất quang trọng đối với hệ thống ghép kênh theo
bước sóng WDM vì yêu cầu về độ ổn định của bước sóng ánh sáng tại các kênh
rất cần thiết.
- Không bị giới hạn công suất phát quang vì đặc tính điều chế do bộ điều
chế ngoài quyết định.
MZM có một số hạn chế như sau: suy hao xen cao (lên đến 5dB) và điện áp
điều chế tương đối cao (lên đến 10v). Ngoài ra, sữ dụng MZM còn có một hạn
chế nữa là MZM là một linh kiện quang tách biệt. Do MZM được chế tạo bởi
LiNO3 không phải chất bán dẫn nên không thể thích hợp với laser DFB trong một
chip. Những hạn chế này của MZM được hạn chế bởi một loại điều chế khác là
Electroabsorption Modulation (EA).
Bộ điều chế ngoài EA có cấu tạo là một ống dẫn sóng làm bằng chất bán
dẫn. khi khong có điện áp phân cực, ánh sáng do laser DBF phát ra được truyên
qua ống dẫn sóng này vì bước sóng cắt c của ống dẫn sóng ngắn hơn so với
bước sóng của ánh sáng tới. Khi có điện áp điều chế, độ rộng dải cấm Eg của vật
liệu làm ống dẫn sóng giảm. Hiện tượng này được gọi là hiệu ứng Franz-
Keldysh và là nguyên lý hoạt động cảu EA. Khi độ rộng dải cấm giảm, bước
sóng cắt sẽ tăng lên (do c 1024 / E g ) và vật liệu ống dẫn sóng sẽ hấp thụ sóng
ánh sáng tới. Vì vậy, bằng cách hiệu chỉnh điện áp điều chế, có thể thay đổi các
đặc tính của ống dẫn sóng.
- Điện áp điều chế khoảng 2V nhỏ hơn so với MZM (lên đến 10V).
- Có thể thích hợp với laser DFB tạo thành các bộ phát quang có dạng
chip.
Hầu hết các kĩ thuật RoF đều dựa vào nguyên lí trộn kết hợp (coherent)
trong bộ tách sóng quang để tạo ra tín hiệu RF. Ý nghĩa cơ bản đằng sau khái
niệm thu coherent chính là sự kết hợp giữa sóng tín hiệu quang do phía phát gửi
đến với một sóng quang liên tục khác trước khi được đưa vào tách sóng tại
photodiode.
Người ta biểu diễn trường của tín hiệu quang đến và trường tín hiệu phát ra
từ LO như sau:
quang đến từ phía phát, LO là tần số sóng mang, ALO là biên độ, LO là pha của
trường tín hiệu quang dao động nội. Ký hiệu vô hướng sử dụng cho Es và ELO
với giả thiết rằng cả hai trường quang này có phân cực giống nhau. Vì diode thu
quang đáp ứng với cường độ trường quang nên công suất quang đến diode thu
(4
quang được tính theo công thức:
.4.3)
P K ES ELO
2
(4
Với PS KA2 , PLO KALO
2
,IF 0 LO
.4.5)
Tần số 0 hay IF gọi là tần số trung tần (IF). Khi 0 LO tín hiệu quang
được giải điều chế theo hai giai đoạn: đầu tiên tần số sóng mang được biến đổi về
tần số IF (thường có giá trị từ 0,1-5 GHz), sau đó tín hiệu được giải điều chế về
băng cơ bản. Tuy nhiên, không phải lúc nào ta cũng cần sử dụng tần số trung tần
này. Thực tế, có hai kỹ thuật thu coherent, tùy thuộc vào IF bằng không hay
khác không. Các kỹ thuật này tương ứng được gọi là thu homodyne và thu
heterodyne.
Trong kỹ thuật thu homodyne, tần số của laser dao động nội được chọn
trùng với tần số sóng mang tín hiệu quang, do đó IF 0 . Từ phương trình
(4.4.4), dòng quang điện (I=RP, với R là đáp ứng của photodiode) khi đó được
tính theo công thức sau: (4
.4.6)
I (t ) R( PS PLO ) 2 R PS PLO cos S LO
Thông thường, PLO PS nên PS PLO PLO . Số hạng cuối cùng trong
phương trình Error! Reference source not found. chứa thông tin được gửi đi
(thành phần xoay chiều) và sẽ được đưa vào mạch quyết định. Xem xét trường
hợp khi mà pha của LO được khóa theo pha của tín hiệu phát sao cho S LO ,
(4
khi đó tín hiệu homodyne sẽ được tính theo công thức sau:
.4.7)
I P (t ) 2 R PS PLO
Từ phương trình (4.4.7) có thể thấy ngay được ưu điểm của thu homodyne
đó là dòng điện ngõ ra lớn nhất nếu ta triệt bỏ pha của sóng tới và sóng tham số
cho nên tỉ số tín hiệu trên nhiễu SNR cao, thành phần thu được không mang
thông tin tần số và pha, chỉ phụ thuộc vào biên độ nên rất phù hợp với phương
pháp tách sóng trực tiếp.
3.2 Kỹ thuật thu heterodyne.
Trong trường hợp thu heterodyne, tần số laser dao động nội LO được
chọn khác với tần số sóng quang mang tín hiệu do phía phát gửi đến sao cho tần
số trung tần IF nằm trong vùng vi ba ( IF 1GHz). Sử dụng phương trình
(4.4.4) với I=RP, dòng quang điện khi đó sẽ được tính theo công thức sau:
trung bình trên toàn bộ chu kỳ tại tần số trung tần (lưu ý,trung bình của cos2
trong miền chính bằng 1/2). Bù lại độ thiệt thòi 3dB, thì bộ thu heterodyne khá
là đơn giản do không cần sử dụng vòng khóa pha quang. Tuy nhiên sự dao động
trong cả S và LO vẫn cần phải được kiểm soát bằng cách sử dụng laser có độ
rộng phổ hẹp cho cả hai loại nguồn quang. Tuy nhiên yêu cầu về độ rộng phổ hẹp
của nguồn quang trong thu heterodyne cũng chỉ ở mức độ trung bình. Điều này
làm cho sơ đồ thu heterodyne củng chỉ ở mức trung bình. Điều này là cho sơ đồ
thu heterodyne khá phù hợp cho việc thực hiện các hệ thống coherent trong thực
tế.
SIF (t ) cos(IF t S ) (4
.6.1)
Cường độ điện trường cảu tín hiệu mang tín hiệu trên có dạng:
E (t ) K SIF (t ) eiOPT t (4
.6.2)
Với K là hằng số. Giả sử s 0 .
Tại BS, giả sử ta tách được tín hiệu S IF (t ) , ta sẽ đưa lên tần số RF bằng
một bộ nâng tần(hay còn goi là bộ điều chế cân bằng).
*
SRF Acos(IF t ) A' cos(RFosct )
1
AA ' cos((RFosc IF )t cos(RFosc IF )t (4
2
.6.4)
Sau khi qua bộ lọc thông ta có tín hiệu RF mong muốn.
I
Điều R
Lọc
chế cân thông dải
RF
Hình 4.6 Sơ đồ khối bộ
S RF cos RFosc IF t
1
(4
2
.6.5)
Đối với phương pháp hạ tần kỹ thuật cũng tương tự.
Cấu trúc của các BS đơn giản nhất có thể được thực hiện với một bộ thu
phát quang như bộ thu phát bức xạ electron. Những bộ phát này vừa có chức
năng chuyển đổi O/E (tín hiệu quang sang tín hiệu điện) trên tuyến downlink
đồng thời có thể chuyển đổi E/O (tín hiệu điện sang tín hiệu quang) cho tuyến
uplink cùng một lúc. 2 bước sóng đó được thông qua một sợi quang từ CS tới
BS. Một bước sóng dành cho điều chế dữ liệu bởi người dùng cho tuyến
downlink và 1 dành cho giải điều chế ở tuyến uplink (hình 5.4). Bước sóng giải
điều chế được điều chế bởi dữ liệu tuyến uplink ở BS và trở về CS. Do đó một bộ
EAT được sử dụng như một photodiode cho luồng dũ liệu tới chúng và đông thời
làm nhiệm vụ điều chế để cung cấp luồng dữ liệu gửi lại cho hướng phát, vì vậy
Ứng dụng WDM vào mạng RoF mang lại nhiều ưu điểm như đơn giản hóa
mô hình mạng bằng cách ấn định các bước sóng khác nhau cho mỗi BS riêng
biệt, cho phép nâng cấp mạng và các ứng dụng dễ dàng hơn và cung cấp một
phương tiện quản lý mạng đơn giản. Mô hình 5.5 là một ví dụ cho tuyến quang
downlink. Với mô hình đó thì chỉ cần 1 sợi quang kỹ thuật RoF đã có thể phục vụ
được cho rất nhiều các BS.
Tuy nhiên vấn khó khăn ở đây chính là các bề rộng phổ của các nguồn
quang vượt quá bề rộng phổ của một kênh WDM. Ví dụ như hình 5.6 a sử dụng
phương pháp điều chế hai biên và hình 5.6 b sử dụng phương pháp điều chế một
biên sóng ở tần số sóng mang 60 GHz. Hình 5.6a chỉ truyền một kênh dữ liệu tín
hiệu một kênh băng 60GHz phải cần hơn 120 GHz băng thông cho điều chế hai
biên. Do đó, khoảng cách kênh tối thiểu trong trường hợp này là 200 GHz. còn
với điều chế đơn biên là 100 GHz. Như vậy có một sự lãng phí lớn băng thông
trong sợi quang hoặc là trong các thiết bị WDM cũ sẽ không tương thích được
trong kỹ thuật RoF. Hiện nay đang có nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực này. Để
gia tăng hiệu suất sữ dụng phổ, khái niệm chèn tần số quang (optical frequency
intterleaving) được đưa ra.
Hình 4.10 thể hiện một kiến trúc sóng mang đơn hướng mà nó được sử
dụng để cung cấp các dịch vụ vô tuyến băng rộng. Ở CS, tất cả các nguồn sáng
uplink và downlink được ghép lại và khuếch đại lên truyền đi trong sợi quang.
Một bộ điều chế kênh downlink và giải điều chế uplink sẽ đưa các tín hiệu quang
vào trong sợi quang được nối với nhau theo mạng ring. Tại mỗi BS, một cặp
bước sóng down-uplink sẽ được xen kẽ thông qua bộ OADM (optical add/drop
multiplexer) bởi một bộ EAT, cả hai thao tác diễn ra một cách động thời ở BS.
Kênh uplink đã được điều chế sẽ được thêm vào trong sợi quang và truyền vòng
về CS, tại đó chúng sẽ được giải ghép và khôi phục tín hiệu. Ưu điểm chính của
mạng ring WDM này là khả năng tập trung tất cả các nguồn phát quan ở CS, cho
phép có được một cấu hình BS đơn giản.