CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM PDF

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 181

KHAI TRƢƠNG CHUYÊN MỤC

:CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU


TẦM.
Thứ Tƣ, ngày 05 tháng 11 năm 2014
KHAI TRƢƠNG CHUYÊN MỤC :CHUYỆN HUYỀN BÍ
KIM CỔ SƢU TẦM.

Thân chào các bạn.


dienbatn xin khai trƣơng chuyên mục : CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM.
Trong mục này, dienbatn sẽ đăng tải lại những câu chuyên cổ kim huyền bí mà dienbatn đã
sƣu tầm đƣợc từ trƣớc đến nay. Những bài viết này có tác dụng nhƣ những tƣ liệu lịch sử của
cha ông chúng ta trong những vấn đề của Huyền môn. Những tƣ liệu này trƣớc hết là đọc để
giải trí, sau nữa, ý tại ngôn ngoại, những ngƣời nghiên cứu Huyền môn sẽ tự mình chiêm
nghiệm và rút ra cho mình những bài học hữu ích . Mặt khác, nếu có những bài có đề cập đến
những kỹ thuật của Huyền môn, dienbatn khuyến cáo các bạn không nên tự ý luyện tập vì sẽ
xảy ra những việc đáng tiếc. dienbatn không chịu trách nhiệm về những sự việc xấu xảy ra
cho các bạn.
Vì thời gian sƣu tập rất lâu dài ( khoảng vài chục năm nên có những bài viết có dẫn nguồn,
có những bài viết không có ghi nguồn dẫn. Mong rằng những tác giả có bài chƣa ghi nguồn
dẫn thông cảm và nếu đƣợc, xin gửi cho dienbatn nguồn của bài viết để dienbatn ghi vào. Xin
trân trọng cảm ơn. Thân ái. dienbatn.

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU


TẦM.BÀI 1.
Thứ Tƣ, ngày 05 tháng 11 năm 2014
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM . BÀI 1.
Các loại ma quỷ của Thái Lan .
Phi Am
Loài ma thƣờng ngồi trên ngực, ở phía gan của ngƣời bị ám, gây khó chịu.
Loài mà này tuy không dữ ác, nhƣng vẫn thƣờng thu hút nguyên khí con ngƣời.
Phi Chamop

Ma này vốn là ngƣời phụ nữ khi vào trong rừng bị ám chết.


Loài này vốn không làm hại con ngƣời.
Phi Hà --

Đây là vong linh của ngƣời phụ nữ chết trong khi sinh khó.
Chính vì chết trong đau đớn và mất mát nên loại ma này đƣợc coi là rất hung bạo.
Phi Krahang

Ma này xuất hiện với hình dáng một ngƣời đàn ông với lông và đuôi nhƣ một con chim.
Khuôn mặt nhƣ quái thú.
Nó ăn filth và glows vào ban đêm.(dịch không đƣợc)
Đây là loại vong linh khó chịu và đáng sợ.
Phi Krasi (Ma xó)

Krasi có màu của lửa, thân dài, có đuôi màu xanh. Loài ma này thƣờng đƣợc các bà phù thủy
(bà đồng) triệu tập theo bên ngƣời.
Ma krasi thích sống ở dƣới những mô gò và thƣờng không gây hại cho con ngƣời.
Đôi mắt của nó thƣờng không chớp và không dám nhìn vào mắt ngƣời.
Trƣớc khi phù thủy có luyện ma krasi chết, họ sẽ tìm một ai đó kế thừa để trao lại những con
ma krasi này.
Phi Lok
Đây là một dạng địa linh.
Nó sợ con ngƣời và ít khi làm hại đến ai nếu nhƣ không xâm phạm gì đến nó. Loài này thỉnh
thoảng vẫn hiện lên cho con ngƣời bắt gặp.
Phi Prai --
Vong hồn của ngƣời phụ nữ đã chết trong khi sinh con. Đồng thời, cơ thể của cô ta đƣợc các
thầy pháp luyện thành nơi trú ngụ cho một loại ma con gọi là Phi Tai Tong Klom.( một dạng
Gumanthong)

Để luyện phép, thầy phù thủy phải đặt nến dƣới cằm của xác chết, và từ tinh chất dầu chảy ra
từ xác chết, ông thầy có thể dùng cho nhiều việc, một trong những việc ấy là quyến rũ phụ
nữ.
Phi TAI Hà

Vong hồn của ngƣời phụ nữ chết vì bệnh sốt rét.


Những con ma cũng sẽ lây lan bệnh này.Cho nên, ai bị loại ma này ám nhập sẽ mắc bệnh nhƣ
sốt rét.
Phi Khamot
Một vong linh thƣờng xuất hiện dƣới hình dạng của một đốm sáng màu đỏ. Ở Việt Nam ta
thƣờng gọi là ma trơi.
Phi Nẵng Tani
Một loại vong linh sống nhờ vào sinh khí của cây, chủ yếu là vong linh nữ. Loại này thƣờng
đi theo và liếm bát của các sƣ sau khi thọ thực. Cho nên, sau khi thọ thực xong, các sƣ
thƣờng mang thức ăn thừa rải ra cho các loài khác dùng và rửa bát sạch sẽ để tránh loài ma
này làm bất tịnh.
Phi Pa
Một loài ma rừng.
Thợ săn sau khi đi săn đƣợc thú, họ thƣờng để lại một mảnh chân, môi, lƣỡi hoặc mí mắt của
một con vật bị giết để bày tỏ lòng kính trọng đối với các loại ma này.
Phi Phuang Khang
Một loài vong linh trong hình dạng của một con khỉ đen. Loài này rất thích mút ngón cái của
những ngƣời đang ngủ trong rừng.Ngƣời bị mút sẽ mất dần sinh khí mà đau ốm hoặc chết.
Ngƣời ta nói loài này cũng thƣờng sống gần bãi biển để liếm muối.
Phi Ka

Những linh hồn này thƣờng ám nhập các phụ nữ. Khi rút hết sinh khí của ngƣời này, nó có
thể chuyển sang ngƣời phụ nữ khác có cùng sở nghiệp, giống nhƣ một loại kí sinh trùng vậy.
Phi HAi --

Đây là loài ma đói, một loài vong linh chết một cái chết không tự nhiên nhƣ: chiến tranh, bạo
lực, tai nạn, chết cháy... không ai cúng bái.
Loài ma này luôn tìm mọi cơ hội ám nhập con ngƣời để có thể thỏa mãn cơn đói và sự uất
hận vì chết không yên.
Bình thƣờng, chúng có thể gây ra nhiều tình huống để hại nạn nhân nhƣ: xô té sông, té vào xe
tải...
Phi Pop --
Một loại vong linh rất dữ dằn và nguy hiểm thƣờng hiện lên dƣới hình dáng một ngƣời con
gái đẹp. (Ở Việt Nam, vùng Tây Nguyên, ngƣời dân tộc gọi là ma lai rút ruột).

Chúng thƣờng xuất hiện trong đêm, khi cái đầu rời khỏi thân thể bay đi kiếm ăn với đùm ruột
lòng thòng. Do đó, hãy cẩn thận phụ nữ xinh đẹp.
Loại ma có lẽ là đáng sợ hơn bất kỳ loài khác ở Thái Lan.
PHI TAI TONG KLOM
Ngƣời Thái có niềm tin rằng một ngƣời mẹ với đứa bé chết trong bụng mẹ có thể trở thành
một loài ma dữ dằn ghê gớm.

Thái ngƣời gọi đó là ma PHI TAI TONG KLOM.


Vì vậy, ở Thái Lan, bất kỳ ngƣơi phụ nữ mang thai nào chết sẽ không đƣợc hỏa táng ngay lập
tức mà phải đƣợc các sƣ chú nguyện cẩn thận. Bởi họ tin rằng việc hỏa táng ngay sẽ làm cho
vong linh của ngƣời chết không hài lòng và biến thành ma.
Gumanthong
Cách luyện Guman Thong trong thời cổ xƣa mới thật là đáng sợ.
Các thầy đã phải đi đến nghĩa địa một mình trong đêm, đào những xác chết của bà mẹ có
mang, cắt bụng của xác chết lấy đứa con ra. Sau đó vội vàng đến khu vực gần nhất lò thiêu
gần nhât để nƣớng sấy đứa bé sao cho khô quắt lại.
Kế tiếp la quá trình luyện phép để vong linh đứa bé trở thành quỷ nhi

Vì vậy, chỉ có các-mạnh tâm trí ngƣời sở hữu những kiến thức ma thuật tiên tiến để chống lại
ma quái có thể làm điều này.
NAM MAN PRAI
(Nam Man = dầu, Prai = nữ ma).
Các thầy bùa Thái muốn luyện dầu nhƣ nhu cầu để kích dục cho đối tƣợng, họ sẽ luyện phép
này... Sử dụng các ngọn nến từ từ sƣởi ấm dƣới cằm của xác chết để lấy dầu từ xác chết chảy
ra. Chất dầu này sẽ dùng để luyện dầu yêu.
Những niềm tin vào ma và tinh thần vẫn còn phổ biến rộng rãi trên toàn Thái Lan & Châu Á.
Ma Hồi giáo đã xuất hiện mà có thể đƣợc hƣớng giảm do hƣng thịnh một miếng thịt heo (tốt
hơn là một con lợn của ngƣời đứng đầu) lúc đó.
Gumanthong- Cậu bé Vàng
Bài viết này của TADN đăng trên blog. Tôi đã sao lại rồi bổ sung thêm một chút để anh chị
em nghiên cứu.

(TADN)Kumanthông là tên gọi của ngƣời Thái dành cho quỷ nhi, một anh nhi đƣợc thầy gia
công tế luyện. Tinh thần trong sáng của đứa bé hết hợp chú thuật và thần lực của các vị Tổ
thông qua việc tế luyện công phu của pháp sƣ sẽ cho ra đời một tiểu quỷ có nhiều khả năng
đặc biệt.
Kumanthông đƣợc sử dụng với nhiều mục đích khác nhau: Tăng ích (chiêu tài, câu khách,
buôn may bán đắt), Kính ái ( tạo tình cảm ), Tức tai (bảo hộ thân chủ trong những trƣờng hợp
gặp nguy hiểm, mách bảo trƣớc những chuyện nguy hiểm…), Hàng phục (phá phách đối thủ,
gây bệnh…), Câu triệu (gọi ngƣời đi xa…). Tuỳ theo mục đích của thầy mà Kumanthông
đƣợc luyện theo những cách khác nhau. Nhƣng cách luyện cơ bản nhất vẫn là ra nghĩa địa tìm
xác chết một ngƣời phụ nữ đang có mang vừa chết trong thời gian 21 ngày. Sau khi bày đồ lễ
vật cúng, ông thầy xin ngƣời phụ nữ đứa con trong bụng rồi đào xác lên mổ bụng lấy đứa bé.
Trong lúc làm phép tuyệt đối không có ngƣời thƣờng ở gần, vì vong hồn ngƣời mẹ có thể
phẫn uất mà vật chết những ai không có phép hộ thân.
Lấy đƣợc xác về, thầy phù thủy phải đem ngay đến một lò thiêu gần đó để thực hiện công
đoạn thứ hai là sấy xác chết.

Cũng có thể thiêu thành tro rồi lấy tro cốt ấy hòa với những chất liệu khác đổ khuôn ra những
pho tƣợng nhỏ. Khi xác đứa bé đã khô hẳn lúc bấy giờ nó nhỏ gần bằng nắm tay. Ông thầy
dùng vải quấn lại để lên bàn thờ mà luyện.
Lễ vật cúng cho quỷ nhi thƣờng là sữa, nƣớc ngọt, bánh kẹo
Nhiều ý kiến cho rằng Kumanthông là Thiên linh cái.Điều này không phải, bởi vì Thiên linh
cái là một loại khác không liên quan.
Thông thƣờng ngƣời ta dùng Kumanthông trong việc cầu tài bảo. Tƣợng cậu bé thƣờng làm
bằng vàng, bằng đồng, bằng đất nung. Nhƣng tƣợng gốc là xác đứa bé, ông thầy không dại gì
cho ngƣời ngoài thấy …

Đa số thƣờng phết vàng lên tƣợng thể hiện sự sùng bái và tăng thêm giá trị cho tƣợng. Do
vậy, Kumanthông còn đƣợc gọi là cậu bé Vàng.
Hình tƣớng cậu bé Vàng đƣợc thể hiện ở nhiều dạng khác nhau. Có 5 dạng chủ yếu: Ngồi xếp
bằng, quỳ, đứng, ngồi xổm, nằm. Đa số tƣợng đƣợc tạo ra đều có hình dáng đƣa tay ngoắc.

Dù là quỷ, nhƣng Kumanthông vẫn là trẻ con. Cho nên các vị này phá phách rất hồn nhiên,
bất kể ngƣời đời có tin hay không tin, có sợ hay không sợ. Ngƣời nào đƣợc thầy cấp phép có
liên quan đến Quỷ nhi đều đƣợc dặn dò kỹ những biện pháp xử lý trƣớc những tình huống lạ
xảy ra…

Còn đây là căn bản katha cho kumanthông:


Namao Tasa Pakawator Ahrahator Samma Samput Tasak. ( 3 lần)
So Sa Ah Nee , Sa So Nee
A Hit Kumanthong Pai Mah
Nee Ma Ma , Ma Ha La Pa Pa
Wan Doo Mae.(3 lần)
Tuỳ theo công năng sử dụng, tuổi tác của quỷ nhi lúc chết và mức độ sai khiến của thầy mà
ngƣời ta có những cách cúng khác nhau. Tuy nhiên, trẻ con thích đòi ăn, ăn ít nhƣng phải ăn
nhiều lần và ăn thƣờng xuyên. Nếu không nó sẽ phá không chịu nổi. Thông thƣờng mỗi ngày
cúng ít nhất hai lần.
Theo : http://phayant.blogspot.com/

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM


. BÀI 2
Thứ Năm, ngày 06 tháng 11 năm 2014
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM.BÀI 2

DỊ THUẬT KÝ.
Mọi ngƣời đều nói rằng hiện giờ đã tới thời mạt pháp. Mà đã là mạt pháp thì trƣớc tiên sẽ
phải là tà ma ngoại đạo quấy nhiễu chúng sinh để cho các chính đạo tu sĩ có cơ hội trảm yêu
trừ ma. Thấy mọi ngƣời trên diễn đàn ai cũng là nhân sĩ chính đạo hết nên mình xin nhận làm
vai bàng môn tả đạo một phen.
Hiện trên diễn đàn các loại kỳ công tâm pháp, bùa chú ngải nghệ đều đƣợc giới thiệu hết rồi,
nhƣng các dị thuật thì lại ít thấy nên mình xin góp một phần nhỏ kiến thức mong rằng có thể
mua vui một vài trống canh trƣớc mặt các bậc cao nhƣn.

Kỳ 1: Nguyệt Thần Hộ Bảo

“Nguyệt thần hộ bảo” là một dị thuật rất nổi tiếng ở Việt Nam đặc biệt là thời kỳ trong và sau
giải phóng. Có thể nói ở Việt Nam lúc bấy giờ hầu nhƣ ai cũng nghe nói về tác dụng của dị
thuật này mặc dù ngay cả tên của nó là gì có khi chẳng ai biết đến.
“Nguyệt thần hộ bảo” tên nhƣ ý nghĩa là dị thuật dùng để bảo vệ kho tàng, bảo khố, đƣợc các
tu sĩ ngƣời Hoa áp dụng cho việc bảo vệ các kho báu của các gia tộc ngƣời Hoa định cƣ tại
Việt Nam, vì nhiều lý do phải hồi hƣơng gấp mà không kịp mang theo gia sản, nên đành chôn
giấu và niêm phong kho báu, với mục đích ngày sau con cháu có cơ hội quay trở lại Việt
Nam lấy lại gia sản của tổ tiên.
“Nguyệt thần hộ bảo” mục đích là Hộ bảo, và “ngƣời” hộ bảo đƣợc gọi là “Nguyệt thần”.
Để tạo ra Nguyệt thần, các tu sĩ ngƣời Hoa liền đi khắp nơi trên nƣớc Việt chọn lấy các trinh
nữ tuổi khoảng 12, 13 (Đƣợc gọi là “Nguyệt thƣớc” - Mầm gạo Nguyệt) để chú thuật nuôi
dƣỡng cho đến khi “Nguyệt thƣớc” thành thục thì mang tới kho tàng tiến hành hoàn tất pháp
thuật.
“Nguyệt thƣớc” tất nhiên không phải lựa chọn từ các trinh nữ một cách bừa bãi mà chọn theo
Bát tự một cách quy luật. Tƣơng truyền, trong các loại “Nguyệt thƣớc” có hai loại linh
nghiệm nhất, đồng thời hiệu quả cũng mạnh mẽ nhất:
1, Canh Kim Nguyệt Thƣớc: Đây là những trinh nữ sinh vào giờ Kim, ngày Kim, tháng Kim,
năm Kim, mệnh Kim ngũ cục. Đặc biệt nếu trên ngƣời có khí chất vƣơng giả hoặc khí chất
của gia đình võ tƣớng thì càng thêm hiệu quả.
Canh Kim Nguyệt Thƣớc sau khi thành thục sẽ trở thành Canh Kim Nguyệt Thần (hay còn
gọi là Canh Kim Sát) là một trong những Nguyệt thần thủ hộ có sát tính mạnh nhất, phù hợp
với việc thủ hộ kho tàng của tầng lớp công hầu vƣơng giả.
2, Huyền Âm Nguyệt Thƣớc: Đây là những trinh nữ sinh vào giờ Âm, ngày Âm, tháng Âm,
năm Âm, mệnh Thuỷ lục cục. Đặc biệt trên ngƣời có khí chất hạo thiên của gia tộc văn quan,
hoặc khí chất đoan thục của gia đình hào môn gia giáo thì càng thêm hiệu quả.
Huyền Âm Nguyệt Thƣớc sau khi thành thục sẽ trở thành Huyền Âm Nguyệt Thần (hay còn
gọi là Huyền Âm Sát) là một trong những Nguyệt thần thủ hộ có Âm tính mạnh nhất thiện về
che dấu, phù hợp với việc thủ hộ kho tàng của tầng lớp cổ gia, đại thƣơng phú khả địch quốc.
Sau khi đã “Tuyển thƣớc” thành công, thì chuyển sang “Dƣỡng thƣớc”.
Quá trình “Dƣỡng thƣớc” là việc các tu sĩ ngƣời Hoa dùng dƣợc liệu nuôi dƣỡng “Nguyệt
thƣớc”, dạy cho các “Nguyệt thƣớc” một loại công pháp cơ bản “Nguyên thần hoá âm thuật”
và bắt “Nguyệt thƣớc” phải tu luyện đến đại thành trƣớc năm 15 tuổi, đồng thời chú khắc lên
cơ thể “Nguyệt thƣớc” các loại phù trận tuỳ theo từng tu sĩ.
Những “Nguyệt thƣớc” thành thục (tức là hoàn thành “Nguyên thần hoá âm thuật” trƣớc năm
15 tuổi) sẽ đƣợc lựa chọn một lần cuối để chọn ra “Nguyệt thƣớc” có khí chất tốt nhất, đồng
thời đƣợc đƣa đến kho tàng đúng vào năm 15 tuổi để chuyển thành “Nguyệt thần”
Kho tàng, vốn cũng đƣợc các thuật sĩ ngƣời Hoa lựa chọn trƣớc tại những nơi có hoàn cảnh
phong thuỷ đặc biệt và khó phát hiện.
Tại kho tàng, trƣớc khi bắt đầu nghi thức chuyển hoá. “Nguyệt thƣớc” (Giai đoạn hiện tại còn
có thể gọi là “Nguyệt sát”) đƣợc tắm rửa sạch sẽ, chay tịnh một thời gian, đồng thời đƣợc cho
ngậm một miếng sâm (hoặc phù chú) tuỳ môn phái, đảm bảo có thể duy trì sự sống của
“Nguyệt sát” 100 ngày, và cũng chỉ duy nhất 100 ngày không hơn nửa khắc (Đƣợc gọi chung
“Bách nhật lệnh”), và bị hàn kín miệng lại.
Lúc này “Nguyệt sát” sẽ đƣợc khống chế không thể di động, và đƣợc đặt vào trong trận pháp
tƣơng ứng với loại “Nguyệt thần” của bản thân. Sau đó thì trận pháp đƣợc khởi động bằng
tính mạng và máu huyết của các hạ nhận đào động, vận chuyển báu vật mang vào trong động.
Đồng thời cũng là một cách giữ bí mật vị trí của bảo tàng mà ngƣời Hoa hay dùng.
Trong bảo tàng lúc này các cơ quan ám khí, hoặc độc dƣợc, chƣớng khí (tuỳ bảo tàng và
thuật sĩ) cũng sẽ đƣợc khởi động (hoặc tự khởi động) vào khắc cuối cùng khi mà cửa bảo
tàng (cửa động) đƣợc phong kín.
Cuối cùng, hậu duệ của các đại gia ngƣời Hoa trên sau này chỉ việc mang theo bản đồ, Lệnh
phù phù hợp với pháp trận của bảo tàng, những kiến thức gia truyền liên quan đến việc phá
giải cơ quan bẫy rập… trong động, đồng thời đợi đến đúng thời điểm “Nguyệt thần sát trận”
mở ra trong tháng (Mỗi tháng, trận pháp trong bảo tàng sẽ mở ra khoảng hai, ba ngày -
thƣờng gọi là “Nguyệt thần sát trận”) thì tiến vào lấy bảo vật.

Nhàn đàm: Thực tế, việc lựa chọn “Nguyệt thƣớc” dựa vào Bát tự, việc dùng phong thuỷ lựa
chọn nơi chôn bảo tàng, và việc thiết kế cơ quan bẫy rập… không khó. Điểm mấu chốt của
“Nguyệt thần hộ bảo” là Bí thuật “dƣỡng thƣớc”, công pháp “Nguyên thần hoá âm thuật”,
“Nguyệt thần sát trận” và Bí thuật “Bách nhật lệnh”
Kỳ 2: Chiêu Tài Thánh Nữ

“Chiêu tài thánh nữ” cũng là một dị thuật có công dụng khá nổi tiếng ở Việt Nam trong thời
kỳ sau giải phóng, cuối thời kỳ bao cấp. Vì một vài lý do, nó chỉ đƣợc thực hiện một cách
ngấm ngầm, do một số ít ngƣời có đủ khả năng về tiền bạc, quyền thế… có thể làm đƣợc mà
không sợ bị tóm.
Cũng giống nhƣ “Nguyệt thần hộ bảo”, ngay cả trong thời kỳ toàn thịnh nó cũng chỉ đƣợc
biết đến với công dụng là chính mà danh tự thì hầu nhƣ rất ít ngƣời biết (trừ những đại gia đã
từng thực thi dị thuật này). Và vì vậy, những câu truyện nói về nó càng lúc càng sai lệch đi
rất nhiều. Một trong những dị bản sai lệch đó và đƣợc biết đến nhiều nhất là việc các đấng
mày râu truyền tụng về việc ngủ với gái trinh thì việc làm ăn sẽ may mắn.
Thực tế “Chiêu tài thánh nữ” có thể coi nhƣ là một danh hiệu dùng chung, bởi vì mục đích
của dị thuật này là giúp cho thân chủ có thể “Chiêu tài” và có rất nhiều môn phái, tu sĩ có
đƣợc và có thể thực thi loại phép thuật này (Tất nhiên là hình thức thì đa dạng và hiệu quả thì
cũng không đồng nhất).
Ở đây, tôi nhấn mạnh chữ “Chiêu tài” là mong ngƣời đọc không phải nhầm lẫn giữa Chiêu
tài và Cầu tài.
Cầu tài là bằng vào bí thuật tăng lên vận số để trong hồng trần mênh mang có thể có nhiều
hơn cơ hội nắm đƣợc duyên tài lộc. (Hay ví dụ một cách đơn giản thì cầu tài giống nhƣ là
tăng tỷ lệ đạt đƣợc giải độc đắc trong việc đánh sổ xố vậy).
Tuy nhiên, dù cầu tài thuật có cao minh đến cỡ nào đi nữa thì tối đa cũng chỉ khiến cho ngƣời
đƣợc thi thuật có đƣợc 50-50 cơ hội nắm bắt đƣợc duyên tài lộc mà thôi (Đây là trƣờng hợp
lý tƣởng nhất, thông thƣờng thì ít hơn rất nhiều).
Hơn thế, thƣờng thì bí thuật cầu tài thƣờng để lại những hậu quả lớn cho thân chủ bởi vì vận
số của con ngƣời nói thật cũng chẳng phải dễ dàng tăng lên nhƣ thế (dù chỉ là trong thời gian
ngắn cố định hay cơ hội lý tƣởng tối đa là 50-50).
Thuật “Chiêu tài” thì lại khác (hoặc có thể nói là một loại thuật Cầu tài cao cấp hơn), bởi vì
thứ nhất kết quả “Hoạch tài” (Lấy đƣợc tài lộc) trực tiếp hơn rất nhiều, thứ hai phần “báo
ứng” cũng đến chậm rãi hơn rất nhiều.
Nhƣ đã nói ngay từ đầu “Dị thuật ký” là chuyên nói về những dị thuật bàng môn tà đạo thế
nên “Chiêu tài thánh nữ” cũng không nằm ngoại quy luật này. Vì sao phải nhắc nhở nhƣ vậy?
Đó là bởi vì muốn ngƣời đọc có thể nhìn từ góc độ của tu sĩ tà phải (những ngƣời sẵn sàng
dùng mọi loại thủ đoạn, phép thuật tổn thƣơng ngƣời khác chỉ để lấy đƣợc lợi ích cho bản
thân) để cùng suy xét về nguyên nhân có thuật chiêu tài này.
Ở trên đã nói, thuật Cầu tài kết quả luôn không rõ ràng mà quả báo thì lại gần trong gang tấc.
Điều này khiến những tu sĩ tà phái (gọi tắt là tà tu) gặp khó khăn trong việc thuyết phục các
thân chủ, vốn là các đại gia tinh minh trong chốn thƣơng trƣờng, chính trƣờng quyết định
thực hiện thuật cầu tài và tất nhiên sau đó sẽ đến việc trả thù lao cho mình (có thể là tiền bạc,
có thể là dƣợc liệu...).
“Con ngƣời muốn tăng lên vận số của mình một cách không theo tự nhiên thì phải trả một cái
giá tƣơng tự” đây là một quy luật mà chỉ cần là tu sĩ đạt đến một tầng thứ nhất định, hoặc
những ngƣời thực sự có tri thức đều hiểu. Mà cái giá phải trả ở đây không phải là tiền bạc của
cõi tục mà là tinh huyết và dƣơng thọ (Hoặc vận số). Tuy nhiên, nếu các thân chủ, ngƣời mà
sẽ nhờ các tu sĩ thực hiện thuật cầu tài thông thƣờng hiểu rõ đƣợc điều này thì sẽ chẳng ai
dám thực thi nó cả.
Vấn đề mấu chốt để đánh phá sự thất lợi trong việc “Cầu tài” này chính là phải có ngƣời hy
sinh tinh lực, dƣơng thọ, hay vận số để đổi lấy “Tài lộc”. Tất nhiên, kẻ phải chịu sự hy sinh
này sẽ không phải là thân chủ hoặc tu sĩ. Vì thế Chiêu tài “Thánh nữ” mới đƣợc sinh ra.
Có rất nhiều dị bản của thuật “Chiêu tài thánh nữ” tuỳ theo từng môn phái và tu sĩ thực hiện
mà bản thân tôi cũng chỉ tìm hiểu một phần nên không thể kể hết ra đây, mà chỉ xin miêu tả
lại một thuật sử dụng song trọng liên hoàn trận đƣợc coi là hoàn mỹ nhất trong các loại thuật
“Chiêu tài thánh nữ”, đồng thời xin giữ nguyên danh tự “Chiêu tài thánh nữ” cho thuật này
bởi vì theo tôi nó cũng xứng đáng có đƣợc danh hiệu này nhất.
Để thực hiện “Chiêu tài thánh nữ” trƣớc tiên cần phải có “Thánh nữ”
Không nhƣ “Nguyệt thần hộ bảo” việc lựa chọn “Thánh nữ” trong thuật này cũng dễ dàng
hơn rất nhiều. Trọng yếu là phải đáp ứng đƣợc hai điều kiện. ”Thánh nữ” phải là các cô gái
đồng trinh, tuổi từ 16-20t (hoặc từ 13-18t), đồng thời “Thánh nữ” phải có bát tự thuận hành
với thân chủ. Ví dụ: Thân chủ sinh giờ Kim, ngày Mộc, tháng Thuỷ, năm Hoả thì “Thánh nữ”
sẽ phải đƣợc chọn sinh vào giờ Thổ, ngày Thuỷ, tháng Kim, năm Mộc. (Đây là yếu tố Nhân)
Sau khi đã chọn đƣợc “Thánh nữ” phù hợp, các tà tu sẽ chọn một địa điểm có phong thuỷ
thích hợp để tiến hành bố trí pháp đàn, trận pháp. (Đây là yếu tố Địa). Tại đây, tu sĩ ngƣời
Hoa sẽ sử dụng 108 pháp khí đặc thù “Dẫn Hồn Linh” để bố trí một trận pháp song trọng bao
gồm “Tam Tài Dƣỡng Sinh Trận” kết hợp với “Thuần Âm Tế Thiên Trận”. Trận pháp song
trọng này theo bản thảo cổ nhất mà tôi có trong tay đƣợc gọi là “Tế Nguyệt An Thiên Trận”.
Trƣớc một vụ làm ăn lớn, các tà tu ngƣời Hoa sẽ chọn cho thân chủ một ngày, giờ tốt để tiến
hành thi thuật (Yếu tố Thiên). Trƣớc đó, “Thánh nữ” và thân chủ sẽ đƣợc cho ăn uống vui
chơi, chay tịnh … để đạt đƣợc trạng thái thân thể no đủ và tinh thần bão mãn nhất (Nhân khí
thịnh vƣợng nhất).
Đến đúng giờ các tà tu sẽ cho thân chủ cùng “Thánh nữ” hành phòng. Trong khi đó tu sĩ sẽ sử
dụng ba yếu tố Thiên-Địa_Nhân làm “ngòi nổ” để khởi động trận Tam Tài. Sau đó lại dùng
Tam Tài Trận thúc dục “Dẫn Hồn Linh” thông qua nguyên âm của thánh nữ bị tiết ra sau khi
bị phá thân tiến hành thu một phần hồn phách của “Thánh nữ” đồng thời dùng phần hồn
phách này và khí nguyên âm khởi động nốt “Tế thiên trận” để thực hiện một loại pháp thuật
(Trong các bản thảo cổ tìm đƣợc hầu hết bị hƣ hại phần cuối nên không rõ đƣợc là pháp thuật
gì. Trong bản thảo mới nhất mà tôi tìm đƣợc thì là điệp giai pháp thuật “Ngũ Quỷ Vận Tài”).
Theo những gì thu thập đƣợc thì sau khi thực hiện thuật này những vụ làm ăn thƣờng vô cùng
thuận lợi (kết quả hiện rõ) và đồng thời thân chủ cũng không có nhiều ảnh hƣởng về sau. Có
điều các “Thánh nữ” thì thƣờng chết ngay sau đó (Không quá ba tháng sau khi bị thi thuật).
Nhàn đàm: Mặc dù thuật chiêu tài này thoạt nhìn thì chỉ có một ngƣời bị hại là Thánh nữ, và
thân chủ có vẻ nhƣ không bị quả báo trong suốt cuộc đời của mình. Nhƣng bản thân tôi vẫn
tin rằng vận số con ngƣời tuyệt đối không dễ thay đổi nhƣ thế, báo ứng có thể không đến
ngay trong đời này, nhƣng đến các đời tiếp theo thì rất khó mà nói.
Tất nhiên, nếu ai cho rằng chỉ cần đời này không bị gì thì sau khi chết cũng đâu cần quan tâm
hay đời con cháu có ra sao mình cũng không biết đƣợc thì tôi xin miễn bàn. Chỉ xin khuyên
những ai có hy vọng nhờ vào dị thuật, pháp thuật… để thay đổi vận số của mình nên thận
trọng, số mệnh tốt nhất phải đƣợc tạo thành từ chính sự lao động của đôi bàn tay mới là đáng
quý.

Kỳ 3: Bạch Hổ Nguyên Âm
Đề tài có chút nhạy cảm, đề nghị các member dƣới 18t suy nghĩ kỹ trƣớc khi đọc tiếp. Mọi
hậu quả dẫn đến do việc không ý thức đƣợc giới hạn lứa tuổi tôi sẽ không chịu trách nhiệm.
Mấy tháng trƣớc có đọc một topic trong diễn đàn của một bạn trẻ than phiền về việc nghe tin
đồn việc bạn gái của cậu ta, ngƣời có tình trạng chỗ kín không có lông mao, là một trong
những tƣớng sát phu và nhờ mọi ngƣời giúp đỡ.
Lúc đó tui cũng bận nên chỉ lƣớt qua và để lại một vài lời khuyên giúp bạn trẻ tự tin hơn
trong việc tình cảm của mình, đừng quá câu nệ vào những tin đồn thất thiệt mà có khi dẫn
đến việc nhân duyên bị bỏ lỡ.
Theo góc độ khoa học mà nói, tình trạng nữ giới chỗ kín từ khi sinh ra cho tới lúc chết đi
không có lông mao là một loại gen di truyền khá hiếm có, nhƣng ngoài điều đó ra thì họ cũng
chỉ bình thƣờng nhƣ những ngƣời phụ nữ khác mà không có gì khác biệt cả.
Theo góc độ huyền thuật cũng vậy, dù rằng trong quan niệm cổ xƣa đều gọi những ngƣời phụ
nữ chỗ kín không có lông mao tự nhiên là Bạch Hổ và đều coi là có tƣớng sát chồng, nhƣng
thực tế những ngƣời thực sự hiểu biết huyền thuật đối với điều này đều sẽ chỉ cƣời nhạt mà
thôi.
Bạch Hổ Nguyên Âm theo những tài liệu cổ xƣa lƣu lại đều cho rằng là một trong những “tài
liệu” quý hiếm mà giới tu sĩ Trung Hoa cổ đại (nhất là hạ trung tầng) vô cùng coi trọng. Lý
do tạm thời chƣa nói, nhƣng việc nó quý hiếm là không thể phủ nhận và đặt ra nghi vấn cho
việc có phải bất cứ ngƣời phụ nữ nào có tình trạng kể trên cũng là Bạch Hổ hay không?!!
Không khó để trả lời nghi vấn này. Bởi vì cho dù việc ngƣời phụ nữ có tình trạng chỗ kín
không có lông mao là rất hiếm, nhƣng với tình thế của đất nƣớc lấy đông dân mà nổi tiếng từ
ngàn xƣa nhƣ Trung Quốc, thì dẫu tỷ lệ xuất hiện là một trên một vạn đầu ngƣời, nó cũng
không quá có thể coi là vấn đề. (Nói vui một chút, trong các phim cổ trang, dã sử lịch sử
Trung Quốc đã công chiếu, ai cũng biết mỗi khi Trung Hoa cổ đại có chiến tranh thì lƣợng
quân sĩ họ thƣờng dùng đều đƣợc tính bằng đơn vị vạn. Quy mô trung bình thì 1, 2 vạn. Quy
mô lớn thì vài chục vạn đến trăm vạn cũng bình thƣờng. Mà cứ coi một bà mẹ cả đời chỉ ăn
và đẻ ra đƣợc 10 đứa con, thì việc đẻ ra tầm trăm vạn quân cũng cần phải có tới mƣời vạn
ngƣời phụ nữ. Nhƣ thế thì ít nhất một đời ngƣời cũng có thể xuất hiện 10 “Bạch Hổ” là ít).
Tuy nhiên, với lƣợng dân đông đảo nhƣ thế Bạch Hổ Nguyên Âm vẫn đƣợc coi là vô cùng,
vô cùng hiếm. Điều đó cho thấy không phải bất cứ ngƣời phụ nữ nào có tình trạng tế nhị kể
trên đều là Bạch Hổ cả. Vậy nhƣ thế nào mới có thể là Bạch Hổ Nguyên Âm? Và tại sao
trong văn hóa Trung Hoa cổ lại cho rằng những ngƣời phụ nữ có tình trạng bề ngoài giống
Bạch Hổ lại là tƣớng sát phu? Và tại sao nó lại đƣợc giới thuật sĩ coi trọng?
Xin thƣa Bạch Hổ đúng là ngƣời phụ nữ có tình trạng tế nhị nhƣ đã nói từ đầu, nhƣng những
ngƣời phụ nữ đó phải là ngƣời sinh vào giờ âm, ngày âm, tháng âm, năm Nhâm Dần hoặc
Giáp Dần thì mới tạm coi là chuẩn. Nếu muốn thực sự đúng phải là những ngƣời đƣợc sinh
sống từ nhỏ tại nơi có điều kiện phong thủy dồi dào thuận lợi (nếu đƣợc cho ăn học lục nghệ
đến một ngƣỡng nhất định thì càng tốt vì nhƣ thế ngƣời càng có anh khí), với điều kiện Trung
Quốc cổ đại thì đó thƣờng là các tiểu thƣ khuê các con nhà quan lại quyền quý (Điều này
cũng là một trong những yếu tố quan trong dẫn đến việc gây ra sai lệch trong tƣ duy của dân
chúng Trung Hoa tạo thành cái gọi là “tƣớng sát phu”)
Theo Thái Thƣợng Đan Kinh, “ngƣời con gái” Bạch Hổ có âm nguyên khí dồi dào, tinh thuần
gấp trăm lần phụ nữ thông thƣờng, đồng thời âm nguyên khí có tính trung hòa lợi cho việc ôn
dƣỡng khí tức, bồi dƣỡng sinh cơ, không bài xích bất cứ một loại công pháp nào cả. Đặc biệt
Bạch Hổ Nguyên Âm (trinh tiết của Bạch Hổ) cực kỳ thích hợp cho việc đột phá đạo quan
(hoặc có ngƣời gọi là huyền quan).
Ngoài ra, theo một số tài liệu khác còn miêu tả. “Bạch Hổ” trời sinh vũ mị, ngọc cốt băng
cơ... thích hợp với các chủng mị công, âm công, tà công mang tính băng hàn, âm mộc, cổ
thuật.
Nói chung chính vì âm nguyên khí của Bạch Hổ vô cùng thuận lợi cho việc tăng trƣởng đạo
hạnh cho tu sĩ bất kể tu sĩ đó tu luyện loại công pháp nào (Nói theo cách của Kim Dung thì là
tăng trƣởng công lực)... Đặc biệt Bạch Hổ Nguyên Âm lại càng trực tiếp có thể giúp tu sĩ
vƣợt qua đạo quan, huyền quan (Up level) nên những ngƣời con gái Bạch Hổ thƣờng đƣợc
coi là lô đỉnh hay đạo lữ tốt nhất cho việc song tu.
Thái Thƣợng Đan Kinh cũng cho rằng Bạch Hổ Nguyên là một trong 16 dạng Nguyên Địa kỳ
chân tốt nhất trong việc giúp ngƣời tu đạo bƣớc một bƣớc dài trên con đƣờng thành tiên,
trƣờng sinh bất lão.
Quay trở lại với “nhân gian”, do âm nguyên khí của Bạch Hổ dồi dào và tinh thuần vƣợt trội,
điều này mặc dù có lợi cho việc tu luyện của tu sĩ, nhƣng đối với ngƣời phổ thông lại khá
“khó gặm, khó tiêu”.
Nam nhân bình thƣờng sau khi giao hợp với Bạch Hổ thƣờng không chịu nổi âm nguyên khí
của Bạch Hổ xâm nhập cơ thể (đặc biệt là các dạng công tử môn đăng hộ đối, nhƣng thân thể
yếu nhƣợc) nên thƣờng chết ngay trong đêm tân hôn. Ngƣời khỏe mạnh có thể tránh đƣợc
điều này thì cũng bị âm nguyên khí ăn mòn dần cơ thể nên cũng thƣờng chết sớm.
Điều này trong mắt cổ hủ, thiếu kiến thức của ngƣời cổ đại lập luận thành Bạch Hổ là tƣớng
sát phu. Nhất là khi Bạch Hổ thƣờng là tiểu thƣ con quan, nên nhà chồng thƣờng cũng là thế
gia, điều đó khiến cho sự nhận định này càng thêm tăng thêm trọng lƣợng trong tính “xác
thực”. Và tất nhiên, ngƣời ta không nắm rõ thế nào là Bạch Hổ mà chỉ suy đoán nhờ “dấu
hiệu đặc trƣng” vô cùng dễ nhận biết của “Bạch Hổ” để suy xét “tƣớng sát phu” mà thôi.
Nhàn đàm: Chuyện tình cảm là vô cùng thiêng liêng, nếu các bạn trai trong diễn đàn có diễm
phúc gặp phải bạn gái có tình trạng “Bạch Hổ” cũng đừng nên nhận định ngay là “tƣớng sát
phu” mà thành ra lƣơng duyên lỡ dở, để sau này hối tiếc.
Mà cho dù bạn gái thực sự là Bạch Hổ thì cũng có sao, bởi vì Bạch Hổ vốn dĩ là trời sinh vũ
mị dù nhƣ thế có phải chết đi nữa ít nhất cũng có thể là Quỷ phong lƣu.
Nguồn : Nghinh Phong
thegioivohinh.com

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM


. BÀI 3.

Thứ Sáu, ngày 07 tháng 11 năm 2014


CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM . BÀI 3.

NHỮNG CHUYỆN MỒ MẢ ĐẤT CÁT.

1. ĐỘNG MỘ.
Phụ thân tôi thốt nhiên bị Thiên đầu thống ( đau nửa đầu đằng sau ) rất dữ dội. Thuốc ta, tầu,
tây nhiều nhƣng chẳng đỡ chút nào . Nhờ "Bói ra - Khoa thấy " , ông Thầy bảo phải xem lại
ngôi mộ Tứ đại dòng họ ( tức phụ thân tôi gọi là ông nội ). Ngôi mộ này nằm ở Đống Hàng
Đồng - HẢI DƢƠNG.
Xƣa kia, Đống Hàng Đồng chơ vơ , nhƣng rồi cụ Chánh Sỹ ( có con trai lớn là anh Quế cùng
học một lớp với tôi ) đến lập ấp gần đó , trồng tre làm hàng rào sát cạnh Đống ấy. Lúc bới đất
lên , rễ tre đã phủ kín cả tiểu sành và chui vào qua khe nắp đậy . Chúng tôi phải dỡ hết xƣơng
ra , rửa lại bằng nƣớc Ngũ vị hƣơng sau đó mới chôn lại . Rồi còn phải khơi một rãnh thực
sâu giữa bờ tre và Đống Hàng Đồng , thƣờng thƣờng phải lên chăm nom , chặt hết rễ tre
không cho vƣợt qua ranh giới nữa mới đƣợc yên , phụ thân tôi mới khỏi đau đầu .
Cùng một ngƣời ở làng Hàn chúng tôi , chừng 50 tuổi bị đau ngang ngực nhƣ có gì đè lên .
Thày bói bảo rằng "Động mộ " ( mộ tức là mả tròn - Ta thƣờng nói : Mồ tròn , Mả dài ). Và
lạ quá, lúc bới hết đất lên , thì thấy cái nắp tiểu sành đã vỡ , những mảnh sành nằm nghiêng
chọc xuống xƣơng . Lau rửa xƣơng cốt lại , thay tiểu khác , quả nhiên gia chủ hết đau.
2.HUNG TÁNG.
Và đây là một trƣờng hợp hung táng ( tức là chƣa hết cốt ). Ông Lý Cựu XYZ ở cạnh nhà tôi ,
trƣớc cổng Nhà thƣơng Hải Dƣơng, cứ nhƣ bị dùi đâm vào đầu và các khớp xƣơng . Lần này
không phải Thày Pháp, cũng không phải "Bói ra - Khoa thấy ", mà do Thày Địa lý ở Cổng
Chông xem hộ . Thày ra mả, nhổ mấy cây cỏ về xem rễ , rồi đoán là " Mả động " . ( Xin nói
thêm điều này : Ngƣời lớn kể rằng các Thày Địa lý thực tài giỏi , có thể xem rễ cỏ cây mọc
trên mồ mả mà có thể biết đƣợc mồ mả đó có Kết hay không ? Nghe vậy xin thuật lại nhƣ vậy
).
Mở mả ra , nƣớc đầy ăm ắp , phải lấy thau múc nƣớc đổ vào rổ để lọc xƣơng nhỏ . Nƣớc cạn,
thò tay xuống bới xƣơng thì thấy nhung nhúc những cá Trê , và không rõ làm thế nào chúng
chui đƣợc cả vào sọ , rồi không ra đƣợc , mà con nào con nấy đỏ nhƣ máu cả . Thực là ghê
khiếp . Những cái túi bằng Đũi bọc hai bàn tay và hai bàn chân , cũng bị cá Trê chui vào nằm
trong đó . Phải vét cho kỳ hết , lọc trên rổ , mới lấy đƣợc trọn vẹn cả bộ xƣơng để " Cải táng
". Mả đó là mả bố Ông Lý Cựu XYZ . Sau khi đã " tắm rửa " sạch sẽ cho cụ cố bằng nƣớc
Ngũ vị hƣơng và chôn trên gò cao , ông Lý Cựu khỏi hẳn bệnh buốt óc và những đốt xƣơng.
3. THẦN TRÙNG.
Anh Vệ Tạo ở làng tôi có bà mẹ chết chƣa đƣợc bao lâu , thì anh bị đau nặng phải vào nằm ở
Nhà thƣơng Hải Dƣơng . Một đêm đã khuya , thanh vắng tứ bề , anh vẫn thức mà nghe rõ
ràng tiếng từ ngoài cửa phòng gọi vào : Tạo ! Tạo..
Đúng tiếng mẹ anh rồi , sai sao đƣợc . Mẹ anh đâu còn sống mà gọi . Nhờ đã đƣợc các bậc
già nua dặn kỹ từ trƣớc là nếu đêm hôm khuya khoắt , có ai gọi , dù đích danh mình , cũng
chớ mà có trả lời , kẻo ma nó bắt mất vía . ( Ở vùng Thƣơng du , những ngƣời đi rừng cũng
kiêng không gọi tên nhau , mà chỉ hú thôi để ma khỏi bắt mất vía ) . Tạo im lặng hoàn toàn để
rồi mấy phút sau không thấy tiếng gọi nữa .
Hôm sau, gia đình anh Tạo phải mời Thày Pháp về cúng trừ " Trùng " . Thày cho biết , nếu
đêm qua Tạo lên tiếng thì " Trùng Thần nanh mỏ đỏ " đã thu vía anh để đem đi khảo đả cho
đế khi Tạo chết , rồi nó lại đả vong mẫu anh phải đƣa về bắt những ngƣời khác . Thầy Pháp
chỉ cúng lễ , và Bùa phép trấn áp " Thần trùng " , một thời gian nào đó thôi , chứ không thể
trừ diệt hẳn đƣợc nó . Gia đình anh Vệ Tạo còn phải đi thỉnh " Bùa ếm mả " nữa mới yên .
Thày Pháp danh tiếng làm " Bùa ếm mả " , trừ mọi loại Trùng : Trùng tang, Trùng Khô kháo
, dữ tợn nhất là Trùng Thần nanh mỏ đỏ : Hai con chim xanh , mỏ đỏ nhƣ lửa , cứ con bay
lên , con bổ xuống trên mả ngƣời bị trùng . Và mỗi lần nó bổ xuống là từ lòng mả lại có tiếng
rú lên nhƣ ngƣời bị kìm kẹp, tra tấn . Quán tại làng Giông _ Huyện Thanh Hà , bên kia cầu
Phú Lƣơng tỉnh Hải Dƣơng chừng vài chục cây số . Chính gia đình chúng tôi phải cầu cứu
đến Thày một lần. Tất cả Bùa chú đƣợc nhồi vào một ống tre bịt kín, phía dƣới đẽo nhọn nhƣ
đầu cái đòn sóc . Lựa buổi sáng tinh sƣơng , âm thầm đem Bùa đó ra đóng bên mả thực sâu ,
lấp đất cho kỹ .Theo lời các bậc già cả , thì Bùa đó có công năng phi thƣờng , làm Linh hồn
bị mù đặc , không còn biết lối nào mà dẫn Thần trùng về bắt con cháu nữa .
4.TRÙNG KHÔ KHÁO.
Đây là chuyện có thực mà chính tôi có mặt tại chỗ . Từ ngày bà ngoại vợ tôi mất đi , ngành
Trƣởng họ Lê bị lục đục, đau ốm liên miên , gia súc chết, làm ăn hết sức lủng củng , nhƣ thế
đã hơn 3 năm . Nhờ "Bói ra - Khoa thấy ", nên phải rƣớc Thày Phù thủy về cúng lễ , trừ ta,
giải hạn cho . Thày Pháp cho biết là mả bà ngoại vợ tôi bì " Trùng Khô kháo " , cần phải mở
để yểm Bùa trừ trùng . Nhƣng làm sao thầy biết đƣợc mà dám quyết đoán nhƣ thế ?
Quá giờ Tý một đêm thanh vắng và yên lặng hoàn toàn , chúng tôi mới ra mả . Trƣớc khi
Thày Pháp bắt tay vào công việc , mỗi ngƣời chúng tôi đƣợc ngậm một lá Bùa tết sẵn và đeo
vào khuy áo trƣớc ngực . Đâu đấy rồi Thày mới cho động thổ . Tay Thày luôn luôn bắt ấn,
miệng niệm Thần chú . Lúc bắt đầu cậy nắp ván Thiên , Thày hét lên một tiếng thực to .
Chúng tôi đều thấy rõ xác chết vẫn còn y nguyên nhƣ lúc mới nhập quan, chƣa tiêu đi đƣợc
chút nào, mà lạ lùng hơn là cũng không có mùi hôi thối . Thày Pháp đã ngậm sẵn một đạo
Bùa ở miệng , cúi sát tận mặt xác chết , lấy dao cậy răng, nhả Bùa vào trong miệng xác khô ,
rồi yểm Linh phù trên xác và xung quanh . Một đạo Bùa đƣợc đặt từ ngực đến chân , sau đó
mới đậy nắp và lấp đất . " Nhả hết Bùa ra, Trùng Khô kháo đã bị đánh bạt đi rồi , không còn
phải sợ nữa " - Thầy Pháp bảo chúng tôi nhƣ vậy , rồi mọi ngƣời ra về . Từ sau đó ngành
Trƣởng họ lê lại làm ăn yên ổn nhƣ cũ .
5. MẢ KẾT.
Khu tích điền làng chúng tôi , hồi 1916 , đƣợc san bằng để xây dựng trƣờng nam Tiểu học
Pháp - Việt , cả cái nghĩa địa rộng có mấy nghìn ngôi mộ cũng đƣợc rời đi .
Ngƣời ta kể lại : Lúc hốt cốt , họ có gặp một ngôi mộ , mở nắp tiểu sành ra , thấy xƣơng vẫn
đầy ăm ắp , mà tơ hồng phủ kín đầy tiểu . Xƣơng trong tiểu vẫn còn nguyên vẹn , không hƣ
hao nhƣ là " đƣợc đất ". Tơ hồng trên nắm xƣơng nói trên , nhờ chỗ đất tốt mới có . Nó là
thứ chỉ hồng từ trong xƣơng mà sinh ra . Xƣơng đƣợc tơ hồng phủ đầy là do mả tang đúng
Long mạch . Mả nhƣ thế mà bị phá đi là tai họa đến ngay.
Đau khổ cho gia đình nào đó : Mả Kết mà bị phá nhƣ thế , con cháu , dòng họ nhà đó sẽ lụn
bại không tránh đƣợc .
Trên đây là mấy câu chuyện phiền phức mà nắm xƣơng trong lòng đất gây nên cho dòng họ ,
con cháu cùng huyết thống, chứng minh thực tế rõ ràng sợi dây liên lạc vô hình thiêng liêng
không thể cãi đƣợc giữa ngƣời sống và ngƣời chết .
Nếu tìm đƣợc đất tốt, đƣợc Linh huyệt thì còn gì quý bằng . Nhƣng việc đó đâu phải dễ dàng
, phải dày Âm đức lắm mới đƣợc những " Đại Huyệt " , chả thế mà Cổ Đức đã từng răn dạy "
Tiên tích đức - Hậu tầm Long " .
Còn nếu cả cuộc đời chỉ làm việc thất âm đức , mà cố đấm ăn xôi , cũng học đòi tìm đất cho
con cháu làm công hầu khanh tƣớng thì đâu có đƣợc . Không khéo lại gặp Thày gà mở huyệt
chẳng ngắm, ngắm hang rắn , nó cắn cho lụn bại dòng giống ác đức hại nhân .
Lúc này đây , khoa Địa lý gần nhƣ thất truyền , dù Thánh sƣ Tả Ao tái sinh đi nữa , dám chắc
cũng chẳng làm nên chuyện gì tốt nhƣ nghìn xƣa . ....
TRỌNG MẠC ĐẶNG KIM THANH - Báo KHHB.

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM


. BÀI 4.

Thứ Bảy, ngày 08 tháng 11 năm 2014


CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM . BÀI 4.

QUỶ NHẬP TRÀNG.


Quỷ nhập tràng là một hình thức của xác chết biết đi, mƣợn xác ngƣời chết mà đội mồ sống
lại. Hình nhƣ ở châu lục nào cũng có những loài tƣơng tự nhƣ quỷ nhập tràng. Phƣơng Tây
có ma cà rồng, Ấn Độ có Vêtala, Trung Quốc có cƣơng thi, thi biến… còn ở VN thì gọi là
quỷ nhập tràng.
Điểm đồng nhất với nhau về các loại trên là tìm đến những ngƣời vừa mới chết, mƣợn thể xác
họ sống dậy để làm những việc mà bình thƣờng khả năng nó không làm đƣợc (vì không có
thân tứ đại).
Thật sự là Thanh không có hiểu biết sâu về ma cà rồng của phƣơng Tây, hy vọng có vị nào
hiểu biết hơn sẽ trình bày đầy đủ và sâu sắc ở những bài nối tiếp. Xuất xứ của ma cà rồng
phải chăng từ Rumani , gắn liền với tên tuổi của Bá tƣớc Dracula- nhân vật có thực trong lịch
sử quốc gia Rumani thời xƣa, một nhân vật có thực mà sự độc ác vô song đã trở thành huyền
thoại? Vùng đất của ma cà rồng mở rộng đến Bungari- xứ sở hoa hồng, Hung gary, Balan,
Mônđavi… Tại sao những ngƣời chết lại có thể trở thành ma cà rồng? điều này vẫn đang chờ
câu giải đáp của các vị nghiên cứu huyền thuật, ma quỷ phƣơng Tây. Tuy nhiên, một điều
không thể phủ nhận là linh khí đất đai ở những nơi đó tạo ra chủng loại này. Ở những nghĩa
địa lâu năm trong các làng ven núi các vùng Rumani, Balan, ngƣời ta nghe có những tiếng
động ở dƣới đất. Khi mở những ngôi mộ ra, họ thấy những xác chết- cả đàn ông và đàn bà
đều hãy còn tƣơi tắn nhƣ đang sống, máu hồng làm thắm những đôi môi của họ, phải chăng
họ đã dùng máu để nuôi sống thể xác? Để có thể tự cứu vãn linh hồn và cuộc sống của mình,
dân làng đã đóng cọc vào tim các xác chết, sau đó bỏ làng dọn đến cƣ ngụ ở những làng khác,
vì những làng xung quanh cũng có nghĩa địa, nhƣng tại sao không hề có hiện tƣợng này.
Trong quyển tiểu thuyết “Dracula” của nhà văn Bram Stoker, ta thấy bá tƣớc ma cà rồng
Dracula khi đi sang đất nƣớc khác đã cho chở theo những chiếc thùng chứa đấy đất ở lâu đài
mà hắn ở. Phải chăng những thùng đất ấy là nguồn sống của chủng loại này?
Những vùng giáp Vân Nam – Trung Quốc và Tây Bắc nƣớc ta, có một số làng bản có ngƣời
chết, họ không chôn xuống đất mà đục vách núi đặt quan tài vào hoặc đƣa quan tài vào những
động đá sâu thẳm trên dải Hòang Liên Sơn rộng lớn. Phải chăng những vị đạo sĩ, thầy mo ở
đó đã nhận ra điều gì bất bình thƣờng từ trong đất?
Cách chống ma cà rồng thƣờng là nƣớc Thánh, các vật đã đƣợc làm phép Thánh, Thánh giá,
tỏi… biện pháp trừ tận gốc ma cà rồng là đóng cọc vào tim, cắt đứt đầu, nhét tỏi vào miệng
xác chết và cuối cùng là thiêu hủy ( mấy vụ này là do đọc sách với lại xem phim mà kể lại,
không phải do kinh nghiệm thật).
Vêtala ở Ấn Độ cũng là một loại quỷ nhập tràng. Ngày xƣa, Ấn Độ có phong tục quấn vải
vào xác chết, đem thây vào rừng, treo lên cành cây hoặc để dƣới gốc cây cho đến khi rữa nát.
Nơi để xác chết đƣợc gọi là Thi Lâm Một loài quỷ sống ở đó đã mƣợn những xác còn mới để
sống dậy trở thành Vêtala, ăn thịt những xác thối xung quanh. Chuyện kể rằng, có một tay
nhà buôn gần sạt nghiệp, đƣợc vị đạo sĩ huyền thuật tặng cho câu chú luyện Vêtala hy vọng
đổi đời. Anh ta phải ra nghĩa địa, ngồi lên bụng xác chết mà trì tụng bảy đêm, cho đến khi
nào xác chết cử động đƣợc và chịu hàng phục thì anh ta sẽ toại nguyện. Trì đến đêm thứ bảy,
xác chết bổng mở mắt nói cƣời, anh nhà buôn hỏang hốt vọt mình bỏ chạy. Nhƣng dù anh có
đi đến đâu, con quỷ Vetala trong cái xác vẫn chạy theo tìm bén gót. Cho đến một ngày, anh
quẫn trí nhảy lầu tự vẫn… (Tài liệu về loại quỷ này mình cũng không có, chỉ một ít cóp nhặt
đƣợc từ trong sách vở dân gian của Ấn Độ trƣớc đây mà thôi).
Ở Trung Quốc, phép luyện cƣơng thi đã có từ lâu, nhƣng phổ biến nhất là vào giai đọan cuối
TK XIX, đầu TKXX khi Trung Quốc chuyển dần từ thời phong kiến sang thời kì Trung Hoa
Dân quốc. Mục đích luyện cƣơng thi của các đạo sĩ ban đầu là chính đáng. Có những ngƣời
đi làm ăn buôn bán, làm quan kinh lý xa nhà, bạo bệnh mà chết dọc đƣờng. Nếu mang xác
chết về đến quê nhà e rằng đã trở thành đống xƣơng mục nát. Vả lại, đƣờng xa, xác chết bốc
mùi làm sao chịu thấu. Các thầy đạo sĩ đã dùng phép luyện cƣơng thi, mở cõi trung giới trục
thỉnh một số chủng loại nơi này nhập vào xác chết, giúp cho xác chết đông cứng, di chuyển
đƣợc theo chuông ngủ cổ của thầy. Do cƣơng thi sợ ánh sáng mặt trời nên các thầy chỉ di
chuyển vào đêm, vừa tránh dƣơng quang vừa dễ di chuyển mà không phiền phức. Khi đƣa về
đến quê nhà, thƣờng thì đạo sĩ sẽ tẩn liệm đàng hòang rồi mới làm phép giải thi, đƣa các
chủng loại ấy trở về cõi trung giới. Việc giúp ngƣời chết hồi quy cố hƣơng của các đạo sĩ tạo
điều kiện cho các chủng loại trên tạo lập công đức ngõ hầu siêu sinh, tiến hóa.
Tuy nhiên, càng về sau những đạo sĩ bất chính đã lợi dụng phép luyện cƣơng thi để làm vật
hại ngƣời, làm điều mờ ám nhƣ buôn bán thuốc phiện, chuyên chở thuốc súng… hàng đƣợc
dấu trong mình cƣơng thi, thậm chí họ còn giả cƣơng thi để mang hàng. Mà mấy ai ngày xƣa
dám ngăn chặn đạo sĩ để khám xác chết bao giờ? Mãi về sau sự việc vỡ lỡ, nhà nƣớc cấm
đóan, phép luyện cƣơng thi dần dần mai một…
Quỷ nhập tràng xuất hiện trong các câu chuyện dân gian, xuất hiện cả trong các tác phẩnm
văn học lớn. Sách “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng linh có câu chuyện “Thi biến”. Câu chuyện
nhƣ sau:
“Huyện Tín Dƣơng – Trung Quốc có một ngƣời làm nghề buôn bán hàng quán, cho khách trọ
đêm, cách thành đô năm sáu dặm. Một hôm trời tối, có bốn ngƣời khách buôn gõ cửa xin trọ,
nhƣng quán của ông đã không còn phòng. Bốn ngƣời khách không biết đi đâu nên mới van
xin. Sau một lúc cân nhắc, ông chủ quyết định để các vị khách của mình vào nghỉ ở phòng
trong. Nơi quàng xác đứa con dâu mới chết. Lúc ấy, con trai ông đi mua quan tài chƣa về.
Trong nhà trong còn đủ giƣờng chiếu, xác chết đƣợc phủ chăn giấy nằm ở phía sau tấm
trƣớng. Mấy ngƣời khách buôn mệt mỏi đặt mình xuống là ngủ ngay, chỉ có một ngƣời còn
mơ màng. Chợt anh ta nghe phía linh sàng có tiếng động, mở mắt ra nhìn, anh thấy xác ngƣời
phụ nữ lật chăn bò dậy, bƣớc xuống đất tiến về phía giƣờng ngủ bốn ngƣời. Anh ta sợ quá
kéo chăn trùm kín đầu, nín thở lắng nghe. Xác chết lần lƣợt đến thổi vào từng ngƣời, sau đó
quay trở lại linh sàng. Ngƣời khách buôn vội lay các bạn dậy nhƣng họ đã lạnh cứng. Hỏang
hốt, anh bò dậy tháo chạy ra ngoài, thây ma đang nằm liền vùng dậy đuổi theo. Anh chạy đến
đâu, xác chết đuổi theo đến đó, chạy đến một ngôi chùa, phía trƣớc có một cây bạch dƣơng to
đầy một ôm tay. Anh lái buôn liền chạy vòng quanh cây với xác chết nhƣ chơi trò cút bắt.
Đuổi nhau mãi nhƣ thế đến khi anh ta mệt nhoài đứng thở hồng hộc, chợt thây ma bổng nhảy
xổ lên vƣơn hai tay chộp qua cây, khách kinh hãi ngã vật ra bất tỉnh. Trong chùa nghe tiếng
la hét vội đốt đèn chạy ra, nhìn thấy ngƣời khách nằm cứng đờ vội đƣa vào trong cứu chữa.
Đến trời tờ mờ sáng, khách tỉnh dậy kể đầu đuôi sự việc, mọ ngƣời ra ngoài xem, quả nhiên
thấy xác ngƣời đàn bà đang đứng ôm vòng thân cây. Hai tay quắp chặt vào cây nhƣ móc câu,
ngập cả móng. Đến khi kéo ra đƣợc, thân cây lủng sâu nhƣ đục lỗ…”
Ở Việt Nam, quỷ nhập tràng thƣờng xuất hiện ở những vùng quê hẻo lánh, vùng đồi núi
Trung du vắng vẻ bóng ngƣời. Trƣớc đây, khi dân cƣ còn thƣa thớt, thỉnh thỏang ngƣời ta
vẫn kể cho nhau nghe những câu chuyện nửa hƣ nửa thực về loài quỷ này.
Học giả Toan Ánh cũng có một câu chuyện thật về quỷ nhập tràng ở vùng quê miền Bắc….
Cách nay hơn bảy mƣơi năm, ở làng Dũng Quyết, huyện Quế Dƣơng xứ Kinh Bắc có ngƣời
đàn ông tên Tòng bị bệnh chết. Trong khi đang chờ khâm liệm, ông chợt sống lại, không nói
không cƣời, thân thể cứng đơ, đôi mắt trừng trừng nhƣ mất hồn không hề nhắm. Từ khi ông
sống lại, gà vịt trong nhà mất tích một cách khó hiểu, cho đến khi con cháu trong nhà phát
hiện ông đang xé xác con chó để ăn sống bộ đồ lòng. Gia đình rƣớc ông Tự Xung ở huyện Vô
Giang về chữa trị, nhƣng ngay cả Tự Xung cũng bị ông Tòng cắn đứt miếng thịt vai. Bùa
phép không hiệu quả, ông Tòng cứ sống nhƣ một thây ma… Cho đến một ngày, sƣ bà trụ trì
chùa Nguyệt Giáng xuất hiện. Bà không chữa trị, chỉ lấy Phật Ấn dán ở hai đầu chái nhà, trên
nóc nhà, sau đó lặng lẽ tụng kinh trì chú. Sau ba ngày đêm trì tụng, thây ma ngã gục xuống,
thối rữa nhanh chóng, lúc nhúc dòi bọ…
Còn đây là câu chuyện do thầy Tƣ Nhang kể lại…
Năm 1957, ở huyện Bù Đăng Bù Đốp- tỉnh Sông Bé có đứa bé gái con dân tộc thiểu số. Khi
sinh ra nó không có xƣơng sống, không đi đƣợc, không nói đƣợc,chỉ trƣờn bò mà thôi. Nuôi
đến 3 tuổi thì nó chết. Ngƣời ta đem xác nó để ngài rừng 1 ngày thì nó sống lại, bò về nhà. Ở
nhà thấy kì lạ lại tiếp tục nuôi nấng. Từ đó, mỗi tối khi mọi ngƣời ngủ, nó lại bò đi bắt gà và
gia súc để ăn bộ đồ lòng. Về sau cả làng rình phát hiện đòi giết ,ông Cai Tổng vùng đó theo
Tây học nên không đồng ý. Cả nhà liền đóng chiếc cũi lớn, bỏ nó vào khiêng sâu lên núi bỏ
cho mất tích. Từ đó về sau làng không xảy ra chuyện gì lạ nữa.
Quê của Thanh ở miền Tây, ở đó dân Cái Bè vẫn còn truyền miệng nhau câu chuyện về bà cụ
trên 70 tuổi bệnh chết nửa ngày rồi sống lại. Bà cũng không nói năng gì, thấy ai ăn gì là chạy
đến giật lấy bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến. Có lúc bà ngồi tự gặm lấy tay mình đến tróc thịt
bày gân xƣơng ra trắng hếu, máu chảy ròng ròng mà bà ta còn tỏ vẻ ngon lành lắm. Cả nhà
hoảng hốt băng bó cẩn thận, bà lại tiếp tục gặm đến tay kia. Đành phải trói bà lại vào thành
giƣờng và rƣớc thầy pháp tới chữa. Rƣớc đến cúng buổi sáng thì buổi tối trong nhà nghe
tiếng khóc than rì rào không ai ngủ đƣợc. Quá sợ hãi, cả nhà bắt bà đem vào nhà thƣơng điên,
ba ngày sau bà chết…
Đó là những câu chuyện truyền miệng trong dân gian, yếu tố thực hƣ chƣa phân biệt rõ. Tuy
nhiên, cái mà ta cần biết không chỉ là chuyện kể. Sâu xa hơn là sự nghiên cứu tìm tòi về
chủng loại này. Theo sở học cá nhân Thanh, quỷ nhập tràng xuất hiện là do bởi những yếu tố
sau:
1/ Linh miêu nhảy qua xác chết:
Đây là giả thiết nhiều ngƣời truyền tụng nhất. Nhƣng linh miêu là có thiệt. Nó là con của một
con mèo mun cái bị rắn hổ ngựa quấn lấy vào ngày tết Đoan NGọ trong năm. Đặc điểm của
linh miêu khác hẳn với những con mèo khác. Nó mình dài, đuôi dài, mõm dài hơn bình
thƣờng so với những con mèo khác. Cách bắt chuột của linh miêu cũng không bình thƣờng.
Nó thƣờng leo lên xà nhà cao đứng trên đó nhìn xuống bằng đôi mắt sáng quắc nhƣ quan sát,
nhìn ngó sinh hoạt của mọi ngƣời trong nhà. Nó không bắt chuột mà chuột tự bò ra nạp mạng
nhƣ bị thôi miên. Từ trân xà nhà cao, nó lao xuống vồ chuột nhanh nhƣ chớp. Trong ngƣời
linh miêu có một thứ từ điển ma mị, khi nó nhảy qua xác chết, sức mạnh ma quái của nó vô
hình chung phá mở cánh cửa trung giới , lôi kéo các chủng loại nào đó về nhập xác mà sống
dậy.
Những ngƣời Chăm gốc Chà ở quận 8, khi nhà có tang thƣờng bắt hết chó mèo trong nhà trói
gô lại hoặc nhốt chúng vào lồng thật kỹ lƣỡng.
2/ Do thầy bùa trục luyện :
Ở vùng Trà Sƣ- Thất Sơn, có một số thầy tu luyện đƣợc pháp này. Không biết có giống với
phép luyện cƣơng thi bên Trung Quốc hay không nhƣng hiện tƣợng thì không khác mấy.
Nhửng chủng loại bên ngoài tá nhập vào thể xác đã chết rồi, làm việc theo sự sai luyện của
thầy. Giống này, trong giới huyền thuật gọi là ĐUÔN. tại sao gọi là ĐUÔN? Giống nhƣ con
đuôn ăn rỗng ruột đọt dừa , khi nhập vào xác chết, nó ăn lần trong ruột xác chết để kéo dài sự
sống trên thế gian, ăn đến khi xác rỗng hoàn toàn thì ngƣời thầy tìm một xác mới để trục
luyện chúng sang. Ph ép luyện này tàn độc, chỉ khi nào căm thù nhau lắm đến mức không đội
trời chung,ngƣời thầy mới sử dụng. Buổi tối, thầy làm phép trục, ĐUÔN sẽ đến nhà kẻ thù
của thầy để xé xác kẻ đó.Thanh có đọc đƣợc tài liệu trƣớc 1975 về phép luyện này của một
thầy phù thủy miền Bắc, muốn sai khiển đƣợc ĐUÔN, thầy phải giữ trái tim ngƣời chết thật
kĩ, dùng trái tim ấy là vật sai khiến ĐUÔN. Chẳng may pháp đàn bị phá hủy, nạn nhân tiếp
theo sẽ chính là ngƣời thầy tế luyện. Làm phép này, ngƣời thầy đã bƣớc một chân vào địa
ngục rồi đó.
Trong một lần về núi, đƣợc nghe một thầy Chà kể lại rằng: Có một ngƣời bệnh nặng sắp chết,
bác sĩ chẩn đóan ung thƣ đến giai đọan cuối không còn sống đƣợc quá 24 giờ. Cả nhà cuống
cuồng, kẻ thì lo rƣớc thầy, ngƣời thì lo hậu sự. Có một ông thầy đến xem và khẳng định sẽ
kéo dài sự sống cho bệnh nhân đến khi con cháu ở nƣớc ngoài về đủ. Sau khi làm phép, thầy
lấy một số tiền rồi biến mất. Quả thật đúng nhƣ lời thầy, ngƣời bệnh khỏe mạnh trở lại, đi
đứng nhƣ thƣờng khác hẳn những ngày trƣớc chỉ nằm 1 chỗ. Điều đặc biệt nữa là không nói
không cƣời, ăn uống mạnh bạo chẳng khác gì thanh niên, lại thích ăn tiết canh, thịt bò tái.
Đến khi con cháu nƣớc ngoài về đầy đủ, ngƣời nhà cũng chẳng thấy vẻ gì là bệnh họan. Trải
qua gần 1 tháng, một hôm có vị sƣ tu theo hạnh khất sĩ tình cờ khất thực ngang nhà, ông
đứng ngó vào nhà chăm chú, không chịu bỏ đi cho dù ngƣời nhà đã cúng dƣờng. Chờ đến giờ
cơm, sƣ tự nhiên vào nhà hƣớng về ngƣời bệnh chắp tay lần thầm chú nguyện. Bỗng ngƣời
bệnh bật ngửa ra đất chết tƣơi. Trong chốc lát, cả nhà bịt mũi chạy làng vì thân thể ngƣời
bệnh chợt trƣờng phình lên thối rữa nhanh chóng. Vị sƣ khi không gánh chuyện thế gian, bị
ngƣời nhà bắt lại toan giải lên công an vì tội “giết ngƣời”…
Ông thầy muốn lấy le với gia đình, chắc chắn đã trục binh hoặc những vị bên trung giới vào
giữ xác. Vô hình chung thể xác ngƣời bệnh biến thành quỷ nhập tràng. Nếu không có vị sƣ
khất thực thì … không biết hậu quả sẽ ra sao.
3/ Ngƣời chết có uất khí, khi chết lại nhằm ngày giờ linh:
Trƣớc khi chết, uất khí không tan, ngƣời chết không bao giờ chịu đi vào Âm Dƣơng đạo. Thế
nào cũng thành ma ở lại thế gian. Nếu chôn xác nhằm vào cuộc đất “có vấn đề” nhƣ đã trình
bày ở trên, việc thành quỷ nhập tràng là điều không tránh khỏi. Tuy nhiên, loại này ở VN ít
thấy ( hoặc có mà Thanh không biết).
Ngƣời chết đi vào ngày giờ linh nếu không bị thần trùng thì cũng làm quỷ, một trong những
loại ấy là quỷ nhập tràng. Sự thật, hồn ngƣời chết đã đi mất từ bao giờ. Nhƣng thể xác còn ở
lại thế gian cho linh giới chiếm giữ. Ngƣời nhà không biết, cứ tƣởng hòan dƣơng, lo cung
phụng tẩm bổ, chữa trị tiếp tục cho đến khi chân tƣớng thật của quỷ hiện ra.
Quỷ nhập tràng có những đặc điểm khá rõ. Sau đây là kinh nghiệm bản thân về chủng loại
này:
- Xƣơng sống của ngƣời nhập tràng thƣờng cứng, nên thƣờng ngồi không nằm. Đêm thức
trắng không ngủ, mắt không bao giờ thấy nhắm dù ngày hay đêm.
- Ngƣời bị nhập, bƣớc lên kẽm gai, miểng chai đâm thủng thịt vẫn không hề hay biết, cảm
giác.
- Ngồi nơi nào, thì sau khi rời đi, chỗ đó có nƣớc vàng nhớt, hôi thối đọng vũng.
- Lấy gƣơng để trƣớc mặt ngƣời bị nhập, thì nó quay đi không dám ngó vào gƣơng.
- Quỷ nhập tràng hay sợ tới gần bếp lửa đang cháy ( trong kinh nghiệm dân gian của Toan
Ánh thì quỷ nhập tràng sợ nƣớc), chúng ăn rất nhiều mà khi đi cầu vẫn còn nguyên tất cả vật
thực. Có lẽ thể xác đã chết, các bộ phận không còn hoạt động nên không thển tiêu hóa đƣợc.
- Nhà có ngƣời bị quỷ nhập tràng thì bao giờ cũng có cảm giác lạnh, thoang thỏang mùi hôi
thối, cho dù ở nhà có lau dọn xông hƣơng cỡ nào đi nữa.
- Không giống các vị thần thƣờng thích thể xác thanh tịnh, đồng nam đồng nữ, đối tƣợng
nhập của quỷ nhập tràng thƣờng là ngƣời lớn tuổi, có gia đình, thể xác bệnh họan uế trƣợc.
- Nhà nào có hiện tƣợng này thì giai đọan đó gia đình làm ăn suy sụp, đỗ vỡ.
- Trong thời gian nhà có ngƣời bị, thức ăn rất mau thiu. Khi nấu nƣớng xong, khỏang 2 giờ
sau là trở nên nhạt nhẽo, hƣ hoại, có mùi.
- Lúc ngƣời bị nhập đã chết hẳn, thì đêm đó trong nhà nghe nhƣ là tiếng mèo đuổi chuột,
tiếng bình bông bị vỡ hoặc chén bát để trong kệ cũng tự nhiên vỡ nứt.
- Một điều quan trọng nhất là quỷ nhập tràng không sợ bùa chú, ngũ lôi hoặc binh gia. Chỉ có
Mật chú của chƣ Phật hoặc có chƣ tăng đạo hạnh tụng kinh cầu nguyện nó mới xuất ra. Trƣớc
đây, Thanh và huynh đồng đạo Bửu Sơn đi chữa bệnh cho chị một đạo hữu. Đến nơi mới biết
bà ta đã trở thành quỷ nhập tràng. Cứ kiếm xó tối mà ngồi, hai con mắt trong bóng tối sáng
long lanh, không khí xung quanh hôi thối và lạnh lẽo…Hai đứa cứ làm phép trị tà nhƣng
chẳng thấy bà ta có động tĩnh gì. Thanh và huynh Bửu Sơn chuyển sang trì Đại Bi chú, công
năng thấy rõ. Bà ta tỏ vẻ sợ hãi, bịt tai nép mình vào góc cầu thang… Một tuần lễ sau bà ta
chết…
Những câu chuyện trên đây có sƣu tầm, có thực tế. Những điều trải nghiệm chƣa hẳn là chính
xác hòan tòan. Rất mong các vị cao nhân hiểu biết hơn bổ sung kiến thức ngõ hầu cho mọi
ngƣời đƣợc học hỏi.
THANH PALI - Thegioibuangai.com.

Bổ sung:

Ở một dải đất Bảo Khánh huyện Thƣờng Đức tỉnh Hồ Nam trƣớc đây, tập tục tƣơng truyền
về một phép gọi là di chuyển xác chết. Những vị đạo sĩ ở đây có một thứ chú ngữ đặc biệt bí
mật dùng để trục gọi linh giới nhập vào giữ xác. Muốn cho xác chết di chuyển, họ cắm một
cây phƣớng dẫn hồn lên xác chết rồi hƣớng về thây ma niệm chú. Xác chết bỗng cử động
đƣợc nhƣ cái máy và di chuyển theo đạo sĩ.
Khi đến quán trọ, họ đem thây ma đặt ở ngoài phòng, đứng úp mặt vào tƣờng. Khi cần qua
sông, họ đem thây ma đặt ở cuối khoang thuyền hoặc ở đầu thuyền. Nhƣ thế có thể bình an về
tới quê hƣơng... Sau này họ di chuyển vào ban đêm và ngủ ở đền miếu bỏ hoang chẳng qua là
sợ mọi ngƣời để ý hoặc sợ hãi đó thôi. Dù cuộc hành trình kéo dài cả tháng, dù trời nóng bức
hay mƣa dầm, xác chết cũng không biến đổi chút nào và cũng không phát ra mùi hôi thối.
Nhƣng có một điều cấm kị là không đƣợc để xác ngã vật ra đằng sau, vì khi đó xác sẽ bốc
mùi, giòi bọ lúc nhúc, không sao dựng xác trở dậy đƣợc nữa. Về đến nhà, ngƣời thân đã
chuẩn bị áo quan sẵn sàng, đạo sĩ lập tức chỉ huy mọi ngƣời đƣa xác vào quan tài, đóng nắp
lại ngay. Nếu không, chừng hai giờ sau, xác chết sẽ nát rữa, không sao gom lại đƣợc.

Phép chuyển xác này đã có từ mấy ngàn năm, nhƣng nhiều ngƣời không rõ nguyên nhân từ
đâu. Có một truyền thuyết để lại trong giới luyện đan (tu tiên gia) cho rằng phép này truyền
lại từ Lý Thiết Quài, vị tiên trƣởng trong Bát Tiên. Ông đã truyền phép này cho Huyền Châu
Tử nhằm dễ dàng đƣa xác Đông Phƣơng Sóc về Hải Ninh... câu chuyện thế này...
Đời vua Hán Vũ Đế, Đông Phƣơng Sóc làm quan trong triều nhƣng bí mật tu tiên. Sau này
thành tựu các pháp, thần thông quảng đại nên thƣờng giở trò du hí. Hán Vũ Đế muốn cầu
trƣờng sinh nên bắt Đông Phƣơng Sóc hái cho một trái đào. Lịnh vua khó cãi, vả lại muốn
hóa độ nhà vua nên Đông Phƣơng Sóc lẻn lên thƣợng giới ăn trộm đào tiên. Việc này phạm
luật trời vì vậy ông bị số chém đầu.
Lúc ấy, Hán Vũ Đế say mê một thuật sĩ khác là Lý Thiếu Quân, vốn là rùa quạ thành tinh vào
triều mê hoặc nhà vua. Thiếu Quân đã từng quây màn trƣớng, hóa sƣơng mù triệu hồn Lý Phi
nƣơng nƣơng về cho Vũ Đế gặp mặt... nhƣng đó lại là một câu chuyện khác. Đƣợc trọng
dụng, Thiếu Quân tìm cách *** hại Đông Phƣơng Sóc. Viện cớ ông này phạm tội khi quân,
Lý Thiếu Quân mƣợn Thƣợng Phƣơng bảo kiếm của vua chém đầu Đông Phƣơng Sóc. Mỗi
lần chém xong, đầu mới lại mọc lên... Cuối cùng Lý Thiếu Quân phải lấy ngọc tỉ của vua
đóng vào vải vàng, đợi đầu Đông Phƣơng Sóc vừa rụng là án ngay vào chỗ chém. Ngọc tỉ nhà
vua đã làm cho phép thay đầu của Đông Phƣơng Sóc vô dụng. Ông đành chịu chết. Sau,
Huyền Châu Tử theo lời chỉ dẫn của Lý Thiết Quài, gắn đầu vào thân, giắt lá phù Cửu chuyển
hòan hồn vào tóc, cắm lá phƣớng dẫn hồn vào ngƣời mà dẫn xác của Đông Phƣơng Sóc về
Hải Ninh để hòan tất duyên phần. Sau này, Huyền Châu Tử phạm luật trời, để dân bị ngập lụt
chết nhiều nên bị hóa thành hạc trắng trong 500 năm lập một vạn công đức mà tu thành chánh
quả. Tƣơng truyền, phép dẫn thi chính là do Huyền Châu Tử truyền lại thế gian này...
Bổ xung :
Nhân thấy huynh nói đến ”con linh miêu” nên xin mạn phép bàn góp đôi lời, may ra có thể
giải tỏa đƣợc thắc mắc trong lòng HaiPhong chăng.
Với khoa học thì linh miêu không thể nào có thật, vì loài có vú và loài bò sát cách nhau quá
xa, không thể nào thụ tinh và lai giống đƣợc. Nhƣng đối với giới huyền thuật thì sinh vật này
có thật, và còn đƣợc dùng để luyện phép nữa. Hì hì, xin đƣợc miễn nói ra linh miêu dùng để
luyện phép gì. Ở đây cao thủ huyền môn nhiều nhƣ lá mùa thu, chắc các cao thủ dƣ biết linh
miêu đƣợc dùng để luyện phép gì rồi. Biết rồi cƣời mím mím thôi nhe. Huynh, đệ, tỉ, muội
nào chƣa biết, thì xin đừng hỏi, và cũng đừng nóng lòng muốn biết. Có duyên sẽ biết thôi.
Huynh Thanh-Pali ơi, hồi đó, khi chƣa nhập môn, HaiPhong vẫn thƣờng theo chầu rìa thầy và
các sƣ huynh sau này của HaiPhong, và đƣợc nghe các sƣ huynh kể về linh miêu giống nhƣ
huynh kể vậy. Các sƣ huynh của HaiPhong có kể cho HaiPhong nghe thêm vài chi tiết nhƣ
sau:
Linh miêu thƣờng hay sống và chết ở ngoài đồng, hay nơi mồ hoang, mã lạc. Linh miêu có
linh tánh, có ai muốn bắt nó, nó liền biết và trốn ngay. Muốn dùng linh miêu luyện phép, tốt
nhất là dùng linh miêu đã chết, phần vì khó mà tìm và bắt đƣợc linh miêu sống. Phần vì gặp
đƣợc xác linh miêu chết, thì xem nhƣ mình có duyên luyện đƣợc phép vậy.
HaiPhong đã trải qua một việc, khiến hai mƣơi mấy năm nay, mỗi khi nghe đến hai chữ ”linh
miêu” là nhớ lại chuyện xƣa, lòng vẫn còn thắc mắc.
Chuyện nhƣ sau, hồi đó, sau khi nghe các sƣ huynh kể về linh miêu, nghe rồi để đó, nhƣ nghe
một truyền thuyết, không mong gì gặp hay bắt đƣợc con vật có linh tánh này. Cho đến một
ngày…
Cuối xóm của HaiPhong có một nghĩa địa lớn, mồ mã đƣợc xây lộn xộn, không theo hàng lối.
HaiPhong cùng những ngƣời bạn lối xóm, lớn, nhỏ thƣờng ra nghĩa địa này chơi vào buổi
trƣa, hay chiều. Buổi tối chỉ dám ra, khi tụ họp đƣợc một nhóm đông ngƣời.
Một buổi trƣa mùa hè, nắng gắt, không biết mắc chứng gì, HaiPhong lang thang ra nghĩa địa
một mình, đi từ ngôi mộ này sang ngôi mộ khác. Đến một ngôi mộ xây rất thấp, lƣng mộ
bằng phẳng, thì bắt gặp một đống da, lông bầy nhầy, vài cái xƣơng sƣờn, xƣơng chân và một
cái sọ. Nhìn vào cái đống bầy nhầy này, HaiPhong biết ngay là phần còn xót lại của một con
mèo chết. Lòng nhủ thầm ”không biết con mèo này chết hồi nào, mà rã trơ xƣơng nhƣ thế
này? Hay là có quạ, chó gì xơi xác con mèo này?” Vừa nghĩ đến đây, HaiPhong chợt nhớ đến
lời các sƣ huynh kể về linh miêu. Nhìn cái xƣơng sọ trắng hếu, sạch trơn HaiPhong định
lƣợm, nhƣng chợt nghĩ ”Hay là chạy về gọi mấy anh luyện bùa ra đây lấy sọ linh miêu về.
Không chừng mấy ảnh phải làm phép trƣớc khi lƣợm về luyện phép”. Nghĩ vậy, HaiPhong
liền chạy ù vào xóm và gặp ngay hai anh đang ngồi tán dóc trƣớc thềm nhà hàng xóm.
HaiPhong nói ngay ”Hai anh theo em mau, có cái này hay lắm, đang ở ngoài chòm mã”. Hai
anh chàng nhìn bộ dạng hớt hơ, hớt hải, vừa chạy vừa nói của HaiPhong, thì tin là có chuyện
gì lạ đây, nên liền đứng dậy chạy theo. Vừa chạy vừa hỏi ”Chuyện gì vậy?” HaiPhong nói
nhỏ ”Hình nhƣ có xƣơng sọ của con linh miêu ngoài chòm mã”. Hai anh chàng tự dƣng nhƣ
phát cuồng lên, vừa chạy vừa la ”mau lên, mầy chạy chậm quá vậy”.
Ra tới nơi, thì lạ chƣa, da, lông, xƣơng sƣờn, xƣơng chân còn đó, nhƣng cái xƣơng xọ thì đã
biến mất! Hai anh chàng dòm tới, dòm lui, rồi hỏi ”Đâu, xƣơng sọ đâu?”. HaiPhong giơ tay
ra chỉ và nói ”Hồi nãy nó nằm chần dần ở đây, bây giờ đâu mất tiêu rồi, sao chỉ còn lại da,
lông, xƣơng sƣờn, xƣơng chân không vầy cà!” Nhìn đống da, xƣơng, hai anh chàng tin là
HaiPhong không nói dóc, nên vừa lục tìm dáo dác sang các mả bên cạnh, vừa nói ”Mầy nhớ
kỹ coi, có phải chổ này không”. HaiPhong trả lời ngay ”Thì ở đây chớ đâu. Da, lông, xƣơng
còn rành rành đây mà!”. Lục tìm một lúc không đƣợc gì, một trong hai anh xà vào một bụi
cây gần đó, bẽ một nhánh, đếm lá trên nhánh cây, miệng lẫm bẫm ”Chắc nó biến mất rồi,
không tìm đƣợc đâu”, nhƣng vẫn tiếp tục tìm. Lục tìm thêm một lúc nữa, hai anh chàng đành
chịu thua, đi lững thửng vào xóm, mặt mày tiu ngĩu nhƣ vừa đánh mất vật gì quí giá lắm.
HaiPhong lẽo đẽo theo sau. Một trong hai anh quay lại nói với HaiPhong ”Mầy ngu quá, gặp
không chớp liền, chạy về kêu tụi tao làm gì, lại còn nói tên nó ra nữa, nó nghe đƣợc nên…
biến mất rồi. Chuyện này không đƣợc nói với ai, nghe mậy!”. HaiPhong thấy quê quê, nên
ậm ừ cho xong chuyện.
Khoảng một tuần lễ sau, HaiPhong đi la cà trong xóm, thấy thầy trò các anh ngồi nói chuyện,
liền xà vào nghe ké. Nói hết chuyện đời, qua chuyện đạo, sang đến phần nói về các linh vật
luyện phép, thì một trong hai anh đi tìm sọ linh miêu với HaiPhong hôm trƣớc, chính là anh
đã căn dặn HaiPhong không đƣợc nói ra chuyện tìm sọ linh miêu, nhịn không đƣợc bèn kể
với thầy ”Hôm trƣớc, thằng Phong thấy… ở chòm mã… sƣơng sọ… ra đến… mất tiêu!”
Thầy nghe xong im lặng ra chiều suy nghĩ, nét mặt phản phất chút nuối tiếc, ngẫn ngơ. Bất
chợt thầy cƣời khà khà, có lẽ thầy cƣời cái tánh khờ khờ, trẻ con của HaiPhong, rồi nói ”Các
linh vật luyện phép, phải có duyên may mới gặp đƣợc, gặp rồi không lấy, để cho duyên may
đi qua, làm sao tìm lại đƣợc!”.
Hai mƣơi mấy năm qua, trong đầu HaiPhong luôn phân vân giữa hai giải đáp.
Gải đáp thứ nhất là con linh miêu có thật. Và nó có tánh linh đến độ chết trơ xƣơng, vẫn biết
biến mất, không cho ngƣời ta lấy phần xƣơng của nó luyện phép.
Giải đáp thứ hai dễ tin và có vẽ khoa học hơn. Đó là sự biến mất của chiếc xƣơng sọ chỉ là
một sự trùng hợp. Trong lúc HaiPhong chạy vào xóm, rồi chạy trở ra, con chó nào đó đã thấy
và tha cái sọ đi chỗ khác để xơi tái. Nếu quả thật cái sọ bị chó tha đi, thì con chó tinh quái
nầy có biết chăng, việc nó chỉ tha chiếc sọ, bỏ lại xƣơng sƣờn, xƣơng chân, đã gieo một thắc
trong lòng HaiPhong suốt hai mƣơi mấy năm qua?
Huynh Thanh-Pali và các huynh, đệ, tỉ, muội, ơi, nhƣ vậy con linh miêu có thật không? Cái
xƣơng sọ HaiPhong gặp là xƣơng sọ của linh miêu, hay chỉ là sƣơng sọ của một con mèo
bình thƣờng?

Nguồn gốc ma cà rồng


Báo Interfax của Nga cách đây không lâu đƣa tin, một thanh niên ở tỉnh Kaliningrad dùng
dao sát hại một cụ già, sau đó ngửa miệng hứng lấy dòng máu chảy ra từ vết thƣơng. Đài
BBC (Anh) trƣớc đó cũng từng phản ánh sự việc tƣơng tự: công dân Mathew Hardman 17
tuổi mƣu sát ngƣời hàng xóm, hút máu hòng mong đƣợc... trƣờng sinh.
Báo chí các nƣớc không ít lần đƣợc phen rùm beng bởi những câu chuyện rùng rợn nhƣ thế.
Phải chăng, đó là bằng chứng sống về sự hiện diện có thật của ma cà rồng?
“Chắc chắn là không” - Sergei Vasilyev, giáo sƣ Viện khoa học Y khoa khẳng đinh. “Số
trƣờng hợp cá biệt này đơn thuần là những kẻ điên loạn đƣợc gọi chung bằng cái tên “Quỷ
Sa-tăng”. Họ hút máu ngƣời để phục vụ nghi thức tín ngƣỡng nào đó. Họ cũng không thuộc
lớp ngƣời bệnh hoạn mà dựa theo đó hình tƣợng ma cà rồng thời Trung cổ bắt đầu đƣợc dựng
lên”.
Theo truyền thuyết, ma cà rồng xuất hiện lần đầu tiên cách đây hàng nghìn năm có lẻ. Tƣ liệu
của Tòa án dị giáo (do giáo hội Thiên chúa La Mã lập ra từ thế kỷ 15) còn ghi lại mô tả chi
tiết về những sinh vật hút máu ngƣời: màn đêm buông xuống mới là lúc chúng rời hầm mộ đi
tìm nạn nhân đang say ngủ, chúng sợ ánh sáng mặt trời, mắt trắng điên dại và răng nanh nhọn
hoắt.
Bác sĩ ngƣời Anh Lee Eallis là ngƣời đầu tiên nghiên cứu ma cà rồng dƣới góc nhìn của khoa
học. Ông đƣa ra giả thuyết về mối liên hệ giữa “những sinh vật hút máu đƣợc quy chụp cái
tên ma cà rồng” và bệnh porphyria - một triệu chứng rối loạn di truyền hiếm gặp, gây ra bởi
sự xáo trộn trong quá trình biến dƣỡng thực phẩm mang sắc tố đỏ tƣơi khi đƣa vào cơ thể.
Năm 1963, Eallis gửi lên Hội Y khoa Hoàng gia Anh công trình nghiên cứu “Porphyria và
nguồn gốc Ma cà rồng”. Đáng tiếc, tác phẩm này nhanh chóng bị các thành viên trong Hội bỏ
quên, mãi cho đến giữa những năm 1980 mới đƣợc giáo sƣ Wayne Tikkanen, một đồng
nghiệp của Eallis, chú ý và khôi phục lại giá trị.
Vậy, do đâu mà xuất hiện ma cà rồng?
Các nhà khoa học khẳng định, nguyên nhân chính là căn bệnh porphyria - một loại bệnh gen
di truyền làm ảnh hƣởng đến các sắc tố dƣới da.
“Vào giai đoạn cuối, khuôn mặt bệnh nhân porphyria bị biến dạng một cách kỳ dị và hãi
hùng, tới mức ngay cả chủ nhân của nó cũng không đủ can đảm soi gƣơng. Nƣớc da sạm lại,
nƣớu răng bắt đầu tróc ra từng mảng khiến cho gốc chân răng càng chìa hẳn ra ngoài. Lợi
chuyển sang màu đỏ quạch, ri rỉ máu máu, trông nhƣ thể hàm răng vừa cắm ngập vào... cổ ai.
Thêm nữa, những ngƣời này cũng rất sợ tiếp xúc với ánh sáng, bởi sẽ làm da phồng rộp và
nhiễm trùng. Do đó họ chỉ dám ra ngoài vào ban đêm. Rối loạn tâm lý phát sinh từ hoàn cảnh
tù túng ức chế này”. Không ít bệnh nhân porphyria rơi vào trạng thái cuồng loạn đã nảy ra ý
nghĩ điên rồ: tìm hơi máu để làm dịu cơn đau đớn.
“Porphyria là căn bệnh bí hiểm nhất mọi thời đại” - giáo sƣ Vasilyev cho biết. Hiện nay các
bác sĩ vẫn đang tiến hành tìm kiếm các phƣơng thức điều trị bằng gen, kết hợp biện pháp
trƣớc mắt là truyền máu. Tuy nhiên việc truyền máu tỏ ra không hiệu quả khi bệnh bƣớc vào
giai đoạn cuối. Cũng may, số ngƣời mắc căn bệnh nguy hiểm này không nhiều, trên thế giới
hiện mới chỉ ghi nhận đƣợc hơn 100 trƣờng hợp.
Ngƣời ta đồn đại rằng, Hennelora Kohl - phu nhân cựu thủ tƣớng Đức Helmut Kohl cũng là
một bệnh nhân porphyria. Không diễn tả nổi sự đau đớn của bà mỗi lần da tiếp xúc ánh sáng
mặt trời. Suốt một thời gian dài bà đã phải giấu mình trong phòng kín, trƣớc khi tự sát tại nhà
riêng ở thành phố Ludwigshafen vào ngày
Hải Minh - Theo Pravda
THAM KHẢO THÊM.
TIỂU QUỶ NHĨ BẢO PHÁP.
Mao Sơn Tiểu Quỷ Pháp
Pháp này thuộc 1 dạng Âm Hồn Nhĩ Báo Pháp có thể nói là Quỷ Thuật, một vài Phƣơng
Sĩ lại gọi là Dƣỡng Tiểu Quỷ Pháp, ở phía Nam Đại Thanh ta có đất Ai Lao, Thái
Quốc, cũng có những Pháp Dƣỡng Tiểu Quỷ nhƣng đó thuộc tà pháp, những kẻ luyện pháp
này thƣờng mang mục đích bất thiện, nuôi dƣỡng tà tâm bởi vậy nên gọi pháp này là tà pháp
âu cũng không thái quá, pháp Âm Hồn Nhĩ Báo Pháp này lấy mục đích sử dụng Tiệm
linh*** để giúp đỡ Thuật Sĩ dự báo những việc cát hung, thông thƣờng thuật sĩ tế
luyện pháp này chỉ từ 7 đến 21 ngày ( tam tuần ) là đã có 1 sự cảm ứng lớn, pháp này cũng
tƣơng đồng với những pháp Nhĩ Báo của Cửu Thiên Huyền Nữ Chân Quân, tuy nhiên lại bất
đồng về cách thức tế luyện.
*** Ngƣời chết không siêu thoát gọi là Quỷ, Quỷ không về Địa Phủ mà lại lang thang trên
Dƣơng Trần, tục gọi Quỷ chết là Tiệm, đại loại là Linh Hồn bị tam hồn thất phách phân tán.
Tu tiên thuật này Thuật Sĩ phải tìm lấy cho đƣợc trẻ con chết trƣớc 12 tuổi ( 8 tuổi đến
9 tuổi cũng đƣợc ) chọn lấy tóc hoặc 1 cái đầu lâu, nếu không có đầu lâu thì chọn lấy cả 1 bàn
tay ( nam trái nữ phải ) hoặc là bất cứ 1 bộ phận nào của cơ thể, cần nhất là phải lấy cho kì
đƣợc danh tính của đứa trẻ, danh tính và 8 chữ ngày giờ sinh tháng đẻ của đứa trẻ thuật sĩ
phải nắm rõ, nếu không nắm đƣợc 8 chữ này thời phải chọn 1 bộ hài cốt khác.
Pháp này buộc thuật sĩ phải đến chỗ chôn mộ phần của Quỷ để thu hồi linh hồn, phần mộ
đã cải táng cũng đƣợc nhƣng bắt buộc phải lấy đƣợc đầu lâu hoặc tay của Quỷ, khi chọn mộ
phải tìm chọn lấy mộ phần mà hài cốt đƣợc để trong 1 cái Quan Tài, nếu phần mộ chôn sống
không Quan Tài thời không nên chọn, chú ý tuyển chọn lấy 1 hài nhi chết vì tận số hoặc
yểu mạng không dùng những loại chết vì họa hại ( tai nạn ) loại vong này oán khí
nặng, không thể sử dụng, cần phải tìm những vong có cái chết nhẹ nhàng hàng, thuật sĩ nên
dùng nhãn thông để kiểm tra, phàm những kẻ chết vì họa hại, khi nhìn thƣờng có những hình
thù quỷ quái, gớm ghiếc, vong linh khóc mãi không dừng, những loại vong này thuật sĩ
không nên dùng mà nên dùng chú, kinh, siêu vãng cho vong linh, nếu oán khí quá nặng thời
có thể mời các chân nhân đến làm lễ siêu độ hoặc thuật sĩ có thể tự làm, kẻ chết đói khác
thì niệm thí thực chú, nếu không ăn đƣợc hoặc không nói đƣợc thời niệm khai hầu chú,
làm lễ xong mở mả dùng pháp vận chuyển tiễn vong linh về Địa Phủ.
Vạn pháp bí tàng - Tantric.

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM


. BÀI 5.
Chủ Nhật, ngày 09 tháng 11 năm 2014
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM . BÀI 5.

Chuyện Địa Lý: Giai thọai về ngôi mộ nhà họ “Ngô Đình” tại
huyện Lệ Thủy, tình Quảng Bình
Tác giả: Tạp chí Khoa Học Huyền Bí số 1B(75) ngày 20 tháng 1-1975
Khỏang cuối thế kỷ 19 đời vua Tự Đức tại làng Đại Phong (tục danh Đợi), huyện Phong Lộc
(sau đổi thành huyện Lệ Thủy), tỉnh Quảng Bình, có một nông dân đến ngụ cƣ trong
làng,...vợ chết sớm, chỉ có một cậu con trai nhỏ độ 6 tuổi, hằng ngày làm mƣớn sinh sống.
Ban hội tề ở đình làng này cắt cử ông đến phục dịch ở đình làng mỗi khi có hội họp hoặc tế
lể.
Sau đó, trong một cơn bệnh nặng, ông qua đời, đƣợc ban hội tề làng cử 4 dân đinh đƣa thi hài
ống đến an táng lại “Bến Đẻ” một vùng rừng núi ngƣợc dòng sông Kiến Giang cách làng Đại
Phong độ 3 cây số ngàn.
Vì mới đến ngụ cƣ, không có địa vị trong làng, không thân thuộc, lại quá nghèo, nên công
việc tổ chức mai táng cũng chỉ đơn sơ và vội vàng.
Ngôi mộ
Khi 4 dân đinh chèo thuyền đƣa thi hài ông đến “Bến Đẻ” thì trời đã về chiều, mà nơi này có
tiếng nhiều cọp, nên khi dân đinh đang khiêng thi hài ông từ bến đậu thuyền tiến vào núi,
bỗng có nhiều tiếng cọp gầm gừ quanh vùng. Dân đinh sợ quá vội hạ xuống cùng nhau hối hả
đào một huyệt cạnh đƣờng mòn, nhƣng đào chƣa xong thì tiếng gầm thét của chúa sơn lâm
càng rền vang đâu đó, 4 dân đinh khiếp đảm liền đặt thi hài ông xuống huyệt còn quá cạn rồi
lấp đất qua loa, đọan vội vã cùng nhau co giò chạy về bến xuống thuyền chèo về nhà, định
bụng sáng hôm sau sẽ trở lại sửa sang lại chu đáo hơn kẻo tội nghiệp ngƣời quá cố.
Qua hôm sau, số dân đinh này chèo thuyền trở lại, thì lạ thay, ngôi mộ chiều hôm trƣớc mới
lấp qua loa chƣa thành nấm, nay đã hóa thành một gò đất tròn trịa do mối tạo lên lớn bằng
một căn nhà. Các bậc lão thành trong làng và lân cận nghe tin, lũ lƣợt đến xem và đều cho là
ngôi mộ thiên táng.
Nhƣng rồi câu chuyện cũng theo thời gian đi và quên lãng, không ai lƣu tâm bàn tán gì đến
nữa. Mỗi lần ai đi ngang qua ngôi mộ này cũng không còn để ý đến một gò đất cây cỏ um
tùm vì không ngƣời viếng thăm săn sóc từ năm này qua năm khác.
Cụ Ngô Đình Khả
Ông cụ qua đời, để lại cậu con trai côi cút mới lên 8, mặt mũi rất khôi ngô dĩnh ngộ, nên
đƣợc vị cố đạo Thiên Chúa ở xứ đạo Mỹ Phƣớc cạnh làng Đại Phong nhận đem về nuôi cho
ăn học. Cậu bé đó là cụ Ngô Đình Khả sau này đó.
Sau này, cậu bé đƣợc cho ra Hà Nội học, thi đậu tốt nghiệp trƣờng thông ngôn Đông Pháp,
đƣợc bổ làm thông phán tại tòa Thống sứ Bắc Kỳ tại Hà Nội (trƣờng này giống học viện hành
chánh bây giờ).
Theo thông lệ xƣa, hễ ai đƣợc nhà nƣớc bảo hộ hay Nam triều bộ nhậm chức tƣớc gì thì đều
đƣợc nhà nƣớc, thông tƣ về nguyên quán và ban hội tề làng phải tổ chức lên tỉnh rƣớc sắc
bằng về làng, nhằm làm tăng vinh dự cho ngƣời đƣợc bổ nhậm, thƣờng gọi là “tƣ án quán”.
Tại làng, ngƣời nào có phẩm hàm cao thì đƣợc làng cấp phần ruộng tốt giao cho thanh nhân
canh tác.
Nhƣng khi đƣợc nhà nƣớc bảo hộ ở Hà Nội tƣ án quán, tòa công sứ và dinh tuần vũ tỉnh
Quảng Bình báo cho làng Đại Phong lên tỉnh rƣớc sắc bằng cụ Khả, thì ban hội tề làng này từ
khƣớc viện lý do làng Đại Phong không có ai tên là Ngô Đình Khả cả, bởi vì nếu nhận có, tất
cụ Ngô Đình Khả sẽ là vị tiên chỉ của làng này, trong khi làng này chỉ có những quan nhỏ
cửu, bát phẩm mà thôi.
Do sự khƣớc từ trên, cu Ngô Đình Khả giận làng Đại Phong, sau đó cụ kết hôn với một thiếu
nữ trâm anh ở làng Phú Cam gần kinh đô Huế và nhận làm công dân của làng này.
Sau này cụ Ngô Đình Khả chuyển cái ngạch Nam triều rồi lần lƣợt thăng tiến trên đƣờng
họan lộ, đến triều vua Thành Thái ngài thăng chức Thƣợng thơ bộ Học, Hiệp ta Đại học sĩ.
Dân làng Đại Phong lúc bấy giờ hối tiếc việc không thừa tiếp một công dân anh tài vẻ vang
cho làng xóm, nên đã cùng nhau vào Huế xin tạ lỗi và thỉnh cầu đƣợc tiếp nhận cụ về làng,
đƣợc cụ chấp thuận. từ đó, cụ là công dân làng Đại Phong. Cụ đã góp công xây dựng ngôi
đình làng Đợi to lớn và ngôi nhà thờ nguy nga hiện nay vẫn còn.
Gái và trai
Cụ Ngô Đình Khả sinh đƣợc 2 gái và 6 trai: hai gái là bà cụ Cả Lễ và bà cụ Ấm, 6 trai là cụ
nguyên tổng đốc tỉnh Quảng Nam Ngô Đình Khôi, Đức tổng Giám mục Ngô đình Thục,
nguyên tổng thống đệ nhứt VNCH Ngô Đình Diệm, nguyên cố vấn Ngô Đình Nhu, nguyên
đại sứ VNCH tại Anh quốc Ngô Đình Luyện và nguyên cố vấn cao nguyên trung nguyên
Trung phần Ngô Đình Cẩn.
Năm 1936, cụ bà Ngô Đình Khả cùng các con gồm các ông Ngô Đình Khôi, Đức cha Ngô
Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn (vắng mặt ông Ngô Đình
Luyện có lẽ du học ngọai quốc) về làng Đại Phong thăm làng. Trƣớc khi về làng, cụ bà và
các con đến Bến Đẻ viếng mộ cọ cố Tam Đại Tổ.
Chạm long mạch
Năm 1938, ông Paul Ngọc, một nhà kinh doanh khai khẩn đất hoang nguyên quán Đồng Hới
đƣợc phép khai khẩn đồn điền Ba Canh (tả ngạn sông Kiến Giang song song với vùng núi
Bến Đẻ, Bến Trấm), ông này vô tình cho đào một con mƣơng dẫn nƣớc vào đồn điền để canh
tác đã chạm phải long mạch của ngôi mộ thiên táng của nhà họ Ngô Đình kể trên và tai nạn
đã đƣa đến nho nhà họ Ngô là:
- Thƣợng thơ bộ Lại của triều đình Huế Ngô Đình Diệm bị hòang đế Bảo Đại cất chức
thƣợng thơ thu hồi tất cả phẩm trật và huy chƣơng vì đã chống đối lệnh hòang đế.
- Tổng đốc Quảng Nam Ngô Đình Khôi phải bị rắc rối một thời gian vì đã chống đối gây sự
bất hòa với viên phó tòan quyền Đông Pháp Nouailletas.
Năm 1944, ông Paul Ngọc đƣợc chuyên viên canh nông Nhật bổn yểm trợ khuếch trƣơng đào
các con kinh dẩn thủy trong đồn điền Ba Canh của ông, vô tình đã chạm vào long mạch của
ngôi mộ kể trên, nên lại một lần nữa gây đại nạn cho nhà họ Ngô là:
- Ông Ngô Đình Khôi và con trai đầu lòng là Ngô Đình Huân bị chính quyền VM bắt và thủ
tiêu sau cuộc cách mạng mùa thu 1945.
- Ông Ngô Đình Diệm cũng bị chính quyền VM bắt giam nhƣng đã trốn thóat bôn đào ra
ngọai quốc.
Hàn lại long mạch
Nhƣng nhờ thời gian Đồng minh đánh Nhật và VN chống Pháp, mọi công tác tại đồn điền
này đều phải đình chỉ, các kinh đào dẫn thủy nhờ thời gian qua đã lấp lại hết. Long mạch đã
đƣợc hàn gắn lại nên vận số nhà họ Ngô lại phục hƣng bột phát hơn trƣớc:
- Tháng 7-1954, ông Ngô Đình Diệm về nƣớc chấp chánh rồi trở thành vị tổng thống sáng lập
nền đệ nhất cộng hòa VN.
- Cùng lúc, bào đệ là ông Ngô Đình Nhu nắm giữ chức cố vấn nòng cốt của chế độ, ông Ngô
Đình Luyện giữ chức đại sứ VNCH tại Anh Quốc, ông Ngô Đình Cẩn trở nên vị lãnh chúa
của miền Trung. Còn Đức Cha Ngô Đình Thục lên chức Tổng Giám Mục và có thể sẽ là vị
Hồng Y đầu tiên của Công Giáo tại VNCH.
Lại chạm Long Mạch
Nhƣng vào khỏang năm 1960-1962, chế độ miền Bắc bắt đầu đặt nặng công cuộc yểm trợ tận
lực cho Mặt trận Giải Phóng miền Nam đƣợc Trung Cộng viện trợ xây đắp xa lộ từ Bắc vào
Đồng Hới qua Hậu Hùng, Mỹ Đức đến vùng đồn diền Ba Canh tiến sát vĩ tuyến 17 và vùng
Ba Canh trở thành căn cứ sản xuất và bổ túc vủ khí để chuyển vào Nam. Họ đào những
đƣờng hầm sâu để đặt cơ xƣởng dƣới lòng đất hầu tránh oanh kích đã làm đứt hẳn long mạch
của ngôi mộ thiên táng nhà họ Ngô tại Bến Đẻ. Sự kiện này đƣa đến đại nạn cho tòan thể gia
đình họ Ngô Đình vào mùa đông năm 1963 nhƣ chúng ta đã rõ.Âu cũng là do thiên định cho
sự kết phát của ngôi mộ kể trên phải chịu trong giai đọan đại biến này thôi. Rồi nếu hồng
phúc của nhà họ Ngô Đình trời còn dành cho phần trƣờng cửu hơn, thì biết đâu sau này lại có
những sự kiện đƣa đến hàn gắn lại long mạch để lớp hậu duệ nhà họ Ngô Đình tái phục hƣng
vĩ đại hơn nữa.
Về phƣơng diện phong thủy, phải chăng ngôi mộ kể trên đã chung tú bới non sông hùng vĩ
của huyện Lệ Thủy từ phía Nam có 3 hòn núi An Mã dẫn về Bến Trấm, Bến Đẻ và phía Tây
có núi Đầu Mâu chung khí về biển Hạc Hải ờ phía Đông Bắc trải long mạch dựa theo sông
Kiến Giang ngƣợc lên Tróc Vực quy tụ vào ngôi mộ này kết phát đến tột đỉnh, Đế, Bá, Công,
Hầu chăng ?
Kẻ viết giai thọai này chỉ là kẻ hậu sinh, nhờ đƣợc sinh sống ở quê hƣơng từ thuở thiếu thời,
đƣợc các bậc tiền bối truyền thọai lại mà thôi. Nay xin viết lại để mong chƣ hải nội tiền bối
nhất là liệt quý vị cao niên đồng hƣơng hiện ờ Miền Nam phủ chính lại cho, hầu xây dựng
đích thực một sử liệu không những chỉ ở lãnh vực địa lý mà cả cho danh nhân chí của Việt
Nam nữa ./.
Tây Đô tháng 10-1973.
BỔ XUNG.
* "Thế đất “Đầu Mâu vi bút, Hạc-Hải vi nghiêng” ở làng Lệ-Thủy, tỉnh Quảng-Bình đã xuất
phát tổng thống Ngô-đình-Diệm, Võ-nguyên-Giáp và thiếu tƣớng Đỗ-Mậu. "

* (Lệ Thủy là một huyện thuộc tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Phía nam giáp huyện Vĩnh Linh
(thuộc tỉnh Quảng Trị), phía bắc giáp huyện Quảng Ninh (Quảng Bình), phía tây giáp tỉnh
Khammouan của Lào, phía đông giáp Biển Đông. Diện tích tự nhiên 142.052 ha, dân số năm
1998 là 140.804 ngƣời Đây là quê hƣơng của Sùng Nham hầu Dƣơng Văn An, Chiêu Vũ hầu
Nguyễn Hữu Dật, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Kim tử Vinh Lộc Đại phu Đặng Đại
Lƣợc, Thạc Đức hầu Đặng Đại Độ, Sƣ bảo Nguyễn Đăng Tuân, Vũ Đăng Phƣơng, Đại tƣớng
Võ Nguyên Giáp, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm. Lệ Thủy nổi tiếng với
sông Kiến Giang, khu nghỉ mát suối nƣớc khoáng Bang, văn hóa đặc trƣng Hò khoan Lệ
Thủy, trong đó có điệu hò khoan chèo đò, hò giã gạo. Hằng năm, vào ngày 2 tháng 9, nơi đây
diễn ra đua thuyền truyền thống. Trong Chiến tranh Việt Nam, nơi đây là chiến trƣờng ác liệt
với mật độ bom rải thảm của Không quân Mỹ với mật độ dày đặc.
Phía tây là dãy Trƣờng Sơn, địa hình dốc theo hƣớng đông với vùng núi, đồi, có suối nƣớc
khoáng Bang với nguồn nƣớc khoáng đang đƣợc khai thác làm nơi nghỉ dƣỡng và làm nƣớc
uống đóng chai. Ở giữa là một dải đồng bằng hẹp hai bên bờsông Kiến Giang. Ven biển là
một dải cồn cát trắng. Vùng biển của huyện Lệ Thủy là những bãi cát trắng, nƣớc biển sạch.
Hiện đã có bãi tắm tại Ngƣ Thủy đƣợc đƣa vào khai thác.) - Theo vi.wikipedia.org/
* NHỮNG TRƢỜNG HỢP MỘ TỐT:
1. Phù địa: Là mạch đất chỗ chôn mộ ngày càng nổi lên cao, do thủy tụ làm cho đất nở
trƣơng ra. ( Khác với phù sa là đất bồi do hiện tƣợng xâm thực của cuồng lƣu.)
2. Đất xốp: Nhẹ và mịn màng gần ao hồ, sông, bể. Huyệt đào lên thấy đất đỏ mịn nhƣ tròng
đỏ hột gà.
3. Mộ kết: Là một điểm trong long mạch có mật độ siêu vật chất cao nhất và động nhất; đồng
thời có cảm trƣờng siêu vật lý đi qua thƣờng trực và cao diệu. Cảm trƣờng siêu vật lý phân
giải và làm tê liệt tà vật, tà khí, vi sinh vật hủ hóa, nên hài cốt không bị tiêu hủy và bề mặt
sinh cơ còn tiếp tục sinh sản dƣới một hình thức khác lạ của sinh vật hạ đẳng nhƣ là nấm
mốc, mối đùn, thủy tụ.
*Nấm mốc: Làm di hài còn nguyên vẹn và bên ngoài đƣợc bao bọc bởi một mạng tơ trắng
hay xanh, vàng, do ngoại bì biến thái.
*Kết mối: Là mối (termite) tập họp, tạo thành một lớp keo bảo vệ hài cốt kiên cố nhƣ xây xi
mân. (Tin đồn rằng mộ ông nội của tổng thống Thiệu ở làng Tri-Thủy ở Phan-Rang kết mối).
*Kết thủy: Hay thủy tụ là hài cốt đƣợc một lớp nƣớc trong bảo vệ qua nhiều chục năm nhƣ
một thứ nƣớc ƣớp xác. Nếu bốc mộ thì nƣớc sẽ nhanh chóng hóa đục và hài cốt tức khắc ngã
nàu đen. ( Thầy địa lý cho rằng mộ ông nội của tiến sĩ Lê-qúi-Đôn ở huyện Duyên-Hà, tỉnh
Thái-Bình, kết thủy ?)
* NHỮNG TRƢỜNG HỢP MỘ XẤU:
1. Mộ chôn gần cây cổ thụ, để rễ cây đâm vào hài cốt thì con cháu bị mổ xẻ, bại liệt, đui mù,
câm điếc, giảm thọ.
2. Mộ chôn gần freeway, đƣờng xe lửa, bến tàu, hay nhà máy kỹ nghệ nặng, làm nhiễu động
âm phần: Con cháu gian xảo, buôn gian bán lận, cờ bạc, hút xách.
3. Mộ chôn chỗ quanh năm ngập nƣớc phèn, hay sình lầy: Con cháu bị bịnh phì mập, phù
thủng, đau thận, đau lƣng, hƣ răng hay mục răng.
4. Triệt địa là đào ao nuôi cá, khai mƣơng nƣớc, làm đƣờng xe lửa, xây xa lộ trên đầu mộ:
Long mạch bị cắt đứt! Chết bất đắc hay tuyệt tự, không con trai nối dõi.
5. Mộ chôn ở diên địa (đất có pha quặng chì), bị phá khí thái cực, gây điên đảo âm dƣơng,
nên con cháu có ngƣời bất phân phái tính, bán nam, bán nữ. Đồng tính luyến ái.
6. Quan quách mà đóng đinh sắt, thép hay chôn theo vàng bạc, châu báu: Con cháu điên
khùng, ung thƣ.
7. Quan tài bằng đá hay kim khí, thì con cháu ngỗ nghịch, dâm đãng, giang hồ, tâm thần loạn
trí, phạm pháp.
8. Mộ xây bằng bê tông cốt sắt mà bít kín mặt nấm, sẽ tạo ra áp lực của nƣớc, của khí. Khi
nhục thể bắt đầu thối rữa, phát sinh ra nhiệt, khiến con cháu bị huyết áp cao, tiểu đƣờng, hay
cholesterol.
9. Bia mộ để dƣới chân: Con cháu ngu đần, vất vả cơ hàn. (Rất may, hầu hết các nghĩa địa ở
Mỹ đều để bia trên đầu, nhƣ Rose Hill, Peek family,Westminster Memorial Park, Chúa Chiên
Lành...)
10. Dùng quế, trầm, tro, củi tẩm liệm: Con cháu bị bệnh lở lói, phung cùi, xấu xí.
11. Dùng lụa tơ tằm để tẩm liệm hài cốt. Bỏ nhiều giấy vàng bạc có bột kim khí thì con cháu
hay trở thành đồng cô cốt cậu, chồng con lận đận. Bỏ hột xoàn hay vàng vào miệng ngƣời
chết để phạn hàm, thì đời sau tuyệt tự, không con trai nối dõi.
12. Long hổ giao nhau. Núi đồi bên trái mộ và những gò đồi bên tay phải mộ, đụng vào nhau
ở tiền án hay minh đƣờng: Loạn luân, anh em dòng họ lấy nhau. (Nhƣ ngôi mộ nhà Trần kết
phát 200 năm, nhƣng gia tộc ruột thịt lấy nhau, vì sợ mất ngôí!)
13. Mộ nghịch long, tức là đầu mộ để dƣới thấp, chân hƣớng về tổ sơn trên cao: Con cháu
loạn thần tặc tử, bất hiếu, bất trung.
14. Mộ đang kết khí, kết thủy, kết mối mà bốc mộ dời đi: Con cháu suy sụp, chết bất đắc.
(Nghĩa trang Mạc-đỉnh-Chi ở Sài-Gòn khi bị giải tỏa, nhiều ngôi mộ nằm ở tầng trên mà lại
kết thủy đầy nƣớc trong veo, trong khi mộ ở tầng dƣới không kết tốt, lại thấy khô ran.)
15. Trùng táng hay trùng huyệt, tức là chôn nhằm chỗ mà trƣớc đây đã có ngƣời chôn rồi;
hoặc có xƣơng thú nhƣ voi, trâu, bò: Con cháu bị bệnh nan y và chết trùng tang liên táng.
Nghĩa là nhiều ngƣời chết liên tục trong vòng 3 năm. Nếu nút áo của ngƣời chết bằng xƣơng
thú hay kim khí, cũng phải cắt bỏ, chứ không để nguyên nhƣ vậy mà chôn theo ngƣời chết.
16. Ngƣời Khmer thƣờng xây mộ bằng đá ong, dùng tà thuật chôn theo ngƣời chết những
tƣợng sa thạch, và an táng trên nọa địa hay thiết địa, (đất khô cứng vì có quặng kim khí) nên
con cháu tàn ác dã man, chết vì gƣơm đao, súng đạn, suýt bị diệt chủng. (“Cánh đồng chết”
với những núi sọ ngƣời đã làm cả thế giới hãi hùng!).
17. Ngƣời Do-Thái và ngƣời Nhật ngày xƣa, có tập tục hỏa thiêu rồi giữ lại hài cốt mà không
chịu chôn cất. Hậu qủa là thế hệ sau làm nạn nhân của lò thiêu Hitler và bom nguyên tử.
Trong đại chiến thứ 2, Đức-quốc-Xã của Hitler muốn tiêu diệt ngƣời Do-Thái nên đã tập
trung họ lại rồi lùa ï vào lò thiêu. Còn ngƣời Nhật ở Mã-Đảo và Trƣờng-Kỳ bị thiêu hủy vì 2
trái bom nguyên tử.( Đây là một thứ nhân quả vật lý, khác với nhân qủa của nhà Phật. Ví dụ
bà mẹ lận đận chồng con hai ba đời. Con gái sau đó cũng trắc trở hai ba đời chồng. Trong gia
đình có ngƣời chết trôi, phải lo đoạn nghiệp , vì sợ về sau sẽ có ngƣời chết chìm nữa. Cha
chết bất đắc, con cũng chết thảm nhƣ gia đình Kennedy.) ( Quảng Đức )

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM


. BÀI 6.

Chủ Nhật, ngày 09 tháng 11 năm 2014


CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM . BÀI 6.
NGẬM NGẢI TÌM TRẦM.
Tác giả: Thanh Tịnh.
Hôm ấy chúng tôi vào phía rừng Kim Vân gần chân núi Trời để đo mấy khoảnh ruộng tranh
mới vỡ. Ðƣờng đi gồ ghề và hóc hiểm lắm đoạn phải lội qua suối nƣớc lên quá lƣng quần.
Chúng tôi đi một dây dài cho có vẻ nhiều và mạnh. Thật ra đƣờng cũng hẹp, không thể đi
hàng hai đƣợc. Ði trƣớc là ngƣời mang hòm máy rồi đến ngƣời xách mấy mo cơm nắm và
thức ăn. Tôi đi giữa, phía sau tôi là hai ngƣời cầm "ra lông" và "mia". Tôi chỉ cầm bản đồ để
dò đƣờng nên phải đƣa mắt nhìn quanh mãi. Vào giữa trƣa, chúng tôi đến đầu địa phận làng
Thanh Mỹ. Trời về tiết hạ nhƣng may cũng chƣa nắng gắt. Có lẽ vì nhờ hơi đá bốc lên cao và
khói sƣơng ủ xuống nặng. Trời tuy nắng nhƣng thời tiết có vẻ dễ chịu. Qua khỏi đồi thông,
am Sơn Thần, trƣớc mắt chúng tôi hòn núi Truồi dựng lên sừng sững, oai nghiêm nhƣ một vị
linh thần. Sƣờn núi từ trên cao chạy xuống từng đƣờng trắng, rồi tỏa rộng bốn bề trông nhƣ
những ngọn thác lùa đá ùn thành đồi.
Chúng tôi đang loay hoay tìm chỗ ngồi ăn trƣa thì may gặp một nền nhà cũ bỏ hoang khá
bằng phẳng.
Chung quanh nền nhà có mấy thanh sắt dựng lên thật cao. Bên tay trái có mấy sợi dây thép
dằng qua lại giữa hai cây sắt đã dỉ cùn đầu. Cây bìm bìm tha hồ thả dây leo và đang kết thành
một hàng rào lá chạm lọng khá dày. Quái lạ, một hàng rào sắt bao quanh một nền nhà đất sét!
Thật là một chuyện lạ ra ngoài tƣởng tƣợng. Hay đây là bãi chiến trƣờng xƣa...?
Tôi đang phân vân muốn biết chuyện hàng rào sắt thì một bà lão thấy chúng tôi ngồi ăn, liền
đến đứng xem. Và cũng nhờ bà ta, chúng tôi mới biết câu chuyện sau đây:
"Xóm Bình Lƣ hồi ấy có độ trên mƣời nóc nhà. Xóm ấy thuộc về làng Thanh Mỹ thƣợng. Họ
chuyên nghề vào rừng đốn củi hay đi săn. Cách sinh kế của lớp ngƣời này rất đơn giản. Rừng
núi đã chu cấp cho họ gần hết vật liệu họ cần dùng. Thiếu gạo đã có ruộng rừng, họ ra công
cày cấy lấy. Ðồ ăn phần nhiều là thịt hƣơu nai ƣớp muối hay ép thật khô. Thỉnh thoảng họ
mới xuống chợ bán củi để mua ít thức cần, phần nhiều là vải, muối hay diêm. Ðời họ ở xa
cách thành thị, có tiền nhiều họ cũng không biết sắm thêm gì và không vƣợt ra khỏi cơm
ngày hai bữa. Hy vọng của họ cạn và gần, và nhờ thế rất dễ đƣợc mãn nguyện
Trong xóm ấy có hai vợ chồng bác Diệm nhà nghèo nhƣng ở với làng nƣớc rất thảo. Bác gái
là ngƣời làng Ngô Xá ở Quảng Trị. Lấy nhau sáu năm bác gái sinh đƣợc một trai và một gái.
Thấy trong nhà nhiều miệng ăn, muốn cho vợ con đƣợc no ấm, bác trai liền nghĩ cách vào núi
tìm trầm. Nhƣng tìm trầm rất khó, không phải đôi ba ngày mà tìm ra đƣợc. Có khi phải đi đến
hàng tuần hàng tháng. Rồi kết quả lắm lúc cũng chẳng ra gì. Ðó là chƣa nói phải vào tận
trong núi xanh và vƣợt qua nhiều cánh rừng nguy hiểm. Muốn tránh tai họa, ngƣời đi tìm
trầm phải ngậm ngải. Theo lắm ngƣời kể chuyện, ngải là một thứ củ cây do ngƣời Mọi ở
Trƣờng Sơn luyện rất công phu. Họ hấp củ cây ngải trong lò mật ong một tháng, để giữa
dòng suối chảy một trăm ngày. Ðoạn phải đặt trong tay đủ năm ngƣời chết, và đeo trƣớc ngực
năm bà già trong đời giữ vẹn tiết trinh. Vẫn chƣa hết. Xong phải nhét vào trong cái giò heo để
lừa cho hổ ăn. Nghĩa là nếu may thì ngải sẽ nằm trong bụng hổ. Ðoạn phải bẫy cho đƣợc con
hổ ấy, rồi giết ngay và lấy ngải ra.
Ngải lúc ấy là một cái bùa thiêng có sức mạnh huyền bí. Ai ngậm nó mà đi vào rừng thì
không ăn không uống cũng sống đƣợc. Và thú dữ dù đi sát bên cạnh cũng không thấy mình
đƣợc. Nhƣng hạn trong ba tháng mƣời ngày phải trở về nhà nhả ngải ra. Nếu không thì ngƣời
ấy sẽ mọc lông, trổ vuốt, thêm nanh và hóa ra hổ thật.
Chuyện ngậm ngải tìm trầm, thổ dân ở các dải núi miền Trung cho là rất thƣờng. Cái mỉm
cƣời ngờ vực đối với câu chuyện họ nói về sức phi thƣờng của ngải sẽ quyến đƣợc cái quắc
mắt giận dỗi hay cái trề môi ngạo nghễ của họ ngay vì họ quá tin đến dám xem thƣờng tất cả
ngƣời nào không chịu tin nhƣ họ, nghĩa là không hiểu rõ sức uy hùng bí mật của rừng thẳm
núi cao.
Bác Diệm trai vào rừng đã gần ba tháng nhƣng vẫn chƣa thấy ra. Bác gái ngày nào cũng nhìn
vào núi Truồi để chờ tin tức. Có lẽ chỉ lần này bác trai mới vào rừng lâu nhất. Mấy lần trƣớc
bác chỉ đi trong một vài tháng là nhiều. Bác gái ngày đêm lo sợ nhƣng cũng không biết làm
sao đƣợc. Bác liền đi hỏi thăm mấy nhà hàng xóm. Có ngƣời an ủi lấy cớ bác Diệm rất thông
minh, thế nào bác cũng nhớ về nhà đúng kỳ hạn. Lắm ngƣời bông đùa một cách quái ác, là
nói bác đã vào tận Bình Ðịnh, Quy Nhơn, rồi lấy vợ bé trong ấy rồi. Bác Diệm gái vẫn trông
mong chồng và đêm nào cũng ra phía sau nhà nhìn về phía dãy Trƣờng Sơn bát ngát. Nhƣng
dải núi thì cao và hùng vĩ quá, không thể đem lại sự yên lành trong tâm hồn chất phác của cô
gái quê đƣợc.
Ba tháng mƣời ngày đã qua từ lâu. Bác Diệm gái lại càng lo sợ hơn nữa. Ðêm nào bác cũng
ra đứng giữa sân thẫn thờ nhìn về dãy núi, rồi đến đêm khuya bác với trở vào nhà ngồi khóc
rấm rứt.
Ngày tháng cứ lặng lẽ trôi, rất nặng nề trong lòng ngƣời mong đợi. Rồi giữa một đêm trăng
mờ cuối thu, Bác Diệm gái bỗng nghe tiếng rú xa xa, đứt quãng rồi kéo dài rất ảo não. Bác
Diệm tung chiếu chạy ra sau nhà, tim đập mạnh và tay chân run lập cập.
Phía xa trên một đồi nhỏ, lọt trong rặng thông lơ thơ, một bóng ngƣời đang nhìn về xóm Bình
Lƣ đã từ lâu im lìm trong đêm vắng. Tuy chƣa nhận rõ là ai, linh tính đã báo cho bác biết đó
là chồng bác, bác Diệm trai. Rồi không suy tính, bác đâm đầu chạy ra, lòng mừng khấp khởi.
Nhƣng mới chạy đƣợc một quãng ngắn, bác đã lạnh ngƣời đứng dừng lại. Một tiếng rú nghe
lạnh và uất nhƣ một ngƣời câm cố thét lên để nói đƣợc tiếng của loài ngƣời.
Tuy sợ nhƣng lòng bác Diệm gái thƣơng chồng mạnh hơn. Bác gắng sức chạy đến chân đồi,
cái bóng đen liền chờn vờn đi lại phía bác, hai tay thả lỏng, đầu gật gù lƣng cúi lom khom.
ánh trăng thu giây bụi vàng nhạt trên mớ tóc dài đen nháy của con ngƣời kỳ dị lại làm bác gái
giật mình, muốn đứng lại ngay. Giữa lúc ấy bác nhận thấy một manh áo nâu đã rách tƣơm
còn vƣớng trên cổ ngƣời ấy... Thôi rồi! Chồng bác đã gần hóa hổ, bác run sợ và bồi hồi...
Nhƣng bác cũng cố đứng nhìn và đợi. Cái bóng đen vừa tiến đến vừa rên hừ hừ, nhƣ bị ngạt
trong cổ. Lúc thoáng thấy cặp mắt chồng đã tròn xoe và hoe sáng nhƣ lửa, cằm đã mọc râu
dài và thƣa, bác Diệm gái liền đi thụt lùi rất gấp. Nhƣng bác vấp phải một cành cây nằm
ngang ở phía sau. Bác thét lên một tiếng rồi ngã nhào, chết ngất.
Sáng hôm sau, lúc bừng mắt tỉnh dậy, bác Diệm gái thấy mình đang nằm trên giƣờng nhà.
Hỏi mấy ngƣời đến thăm, bác mới biết tiếng rú đêm qua, dân xóm đều nghe rõ ràng cả. Họ
cũng lần ra phía đồi để xem thì gặp lúc bác nằm chết ngất trên cành cây khô. Mấy ngƣời
khiêng bác về nhà. Còn những ngƣời bạo dạn thì lấy roi hèo đánh đuổi con ngƣời quái lạ kia
đi. Nghe đến đấy bác Diệm gái mở lớn đôi mắt, băn khoăn hỏi:
- Dân xóm có đánh ngƣời ấy à?
Một ông lão đáp:
- Không, chỉ doạ thôi. Thật ra cũng không ai dám đến gần hắn.
Bác gái nói thầm nhƣ để một mình nghe:
- Chồng tôi đó!
Nói xong bác ứa nƣớc mắt thở dài một cách ngao ngán.
Luôn mấy đêm sau, bác Diệm gái ra sau nhà đứng nhìn về phía mấy ngọn đồi nhƣng tuyệt
nhiên không thấy bóng chồng đâu nữa. Bác lại trở vào nhà âm thầm nằm đợi nghe tiếng rú.
Qua tháng sau, một buổi chiều, bác xuống chợ Truồi mua gạo thì bác trai mon men vào nhà.
Bác đem theo một buồng chuối hoang và mấy trái cam dại. Hai đứa con mới nhận thấy bác đã
khóc vang lên. Bác lo sợ cúi gầm đầu xuống và đƣa cam chuối cho chúng ăn. Chúng thấy
ngƣời ấy không làm gì hại và còn cho ăn tử tế thì ngồi yên lặng ngay.
Bác Diệm trai muốn vuốt ve con, nhƣng tay bác sờ đến đâu, áo quần của hai đứa nhỏ rách
toang đến đấy. Thì ra móng tay bác đã sắc và nhọn lắm rồi.
Thừa lúc đứa con trai quay mặt nhìn ra sân bác Diệm liền thè lƣỡi liếm đầu nó. Bác muốn tỏ
vẻ yêu mến con, lòng bác còn là lòng ngƣời, nhƣng chao ôi, cử chỉ của bác đã nhuộm đầy vẻ
thú. Lƣỡi bác đã rám và sắc hơn dao rồi. Chỉ đƣa đi đƣa lại mấy cái, tóc đứa con đã rụng tua
tủa. Hai đứa con sợ quá, liền bỏ chạy ra sân la lớn. Cũng ngay lúc ấy bác Diệm gái đi chợ về.
Thấy chồng lông đầy ngƣời và mầu lông đã hơi vàng, hai tay trƣớc thòng gần chấm đất và
nanh trắng nhe ra ngoài môi, bác Diệm gái cũng hoảng hốt la tiếp.
Nghe tiếng ồn ào, dân quanh xóm liền chạy đến và đuổi con vật nửa ngƣời nửa thú chạy bán
sống bán chết vào rừng. Muốn che chở ngƣời cô quả, dân xóm Bình Lƣ xuống xin mấy ngƣời
làm đƣờng xe lửa ở gần ga Truồi một chục thanh sắt và mấy sải dây thép về làm một cái hàng
rào vây quanh nhà bác Diệm gái. Từ đó bác Diệm trai không dám bén chân về nhà nữa.
Nhƣng qua mùa xuân sau, cũng một đêm trăng mờ nhƣ bảy tháng trƣớc, bác Diệm gái lại
nghe tiếng rú kinh hồn trên đồi thông vắng. Bác liền vội vã chạy ra sau nhà. Trong bầu ánh
sáng nhạt, nhuộm sƣơng khuya, bác Diệm thấy một bóng ngƣời - không, một con vật thì đúng
hơn - chụm mạnh bốn chân xuống đất, ngẩng đầu lên cao, đang đăm đăm nhìn về phía bác.
Thôi thế là hết! Chồng bác đã hoàn toàn hóa hổ... Bác ôm mặt khóc rất thê thảm. Con hổ
cũng rú lên một hơi dài nhƣ để đáp lại tiếng lòng của vợ. Tiếng rú nghe lạnh và buồn.
Ðoạn con vật quay mình lẳng lặng đi vào phía núi Truồi, rồi biến dần trong ánh trăng xanh
nhạt.

Dãy núi Truồi từ đó đã nhƣ một bức thành kiên cố chia đôi tình nhân loại với cảnh huyền bí
của sơn lâm.

THAM KHẢO THÊM.

BÍ ẨN TRẦM HƢƠNG
Bài 1 : VÀI DÒNG LỊCH SỬ.

(Ông Nguyễn Phúc Ƣng Viên)


Trên thế giới, giá bán cao nhất 1 kg trầm hƣơng có thể lên tới 160 triệu đồng, còn giá 1 kg kỳ
nam thì lên đến mức hoang tƣởng: 7 tỉ đồng. Sự kỳ dị đó của giá cả, cộng với sự thiếu trách
nhiệm trong quản lý tài nguyên thiên nhiên đã khiến cho trầm hƣơng vốn không bao giờ thiếu
trên rừng núi chúng ta suốt hơn 4.000 năm qua, đã gần nhƣ bị tuyệt chủng chỉ trong vòng 35
năm.
So với giá cả trên mây xanh thì những tri thức về trầm hƣơng vẫn còn dƣới mặt đất. Ngƣời ta
biết quá ít về nó. Tri thức về trầm hƣơng nghèo nàn đến mức sách vở chỉ trích qua trích lại 2
tài liệu, xƣa nhất là của Lê Quý Đôn (Phủ biên tạp lục), gần nhất là của Đỗ Tất Lợi. Còn tài
liệu khoa học trên thế giới thì chủ yếu nói về đặc tính của cây dó, liệt kê các hoạt chất và một
số dƣợc lý của trầm, chƣa ai nói đƣợc cặn kẽ trầm đƣợc hình thành nhƣ thế nào, có những giá
trị độc đáo gì mà giá của nó mắc đến nhƣ vậy.
“Trong đau thƣơng dó biến thành trầm”, tôi từng đọc ở đâu đó câu thơ này, nó khiến ta suy tƣ
về lẽ sinh tồn của đời ngƣời. Trầm đã hình thành đúng nhƣ thế. Khi nào thân cây dó bị một
vết thƣơng (do va đập, do bị côn trùng đục, bị bom đạn...), xung quanh vết thƣơng đó lâu
ngày biến thành trầm. Vì hiểu đƣợc “nguyên lý” này nên ngày nay ngƣời ta có thể làm trầm
“nhân tạo”, tức là trồng cây dó rồi tạo ra vết thƣơng, cấy hóa chất vào để gây tác động cho ra
trầm. Đến nay, nhiều ngƣời đã trồng dó và đã lấy đƣợc trầm theo phƣơng pháp trên, tuy trầm
nhân tạo có mùi thơm của trầm nhƣng giá trị nhƣ thế nào thì vẫn còn mù mờ.
Thực ra, tôi không quan tâm mấy đến trầm hƣơng, ngoài sự liên tƣởng về cái “đau thƣơng”
nói trên. Cho đến khi tôi gặp đƣợc một kỳ nhân dụng trầm tôi mới hiểu sự “đau thƣơng” đó
có quá nhiều bí ẩn.
Đó là ông Nguyễn Phúc Ƣng Viên. Là cháu nội hoàng tử thứ 12 con vua Minh Mệnh, ông
Ƣng Viên gọi vua Minh Mệnh bằng ông cố. Theo “đế hệ thi” của vua Minh Mệnh thì hàng
“Ƣng” ngang với vua Hàm Nghi và là hàng ông nội của vua Bảo Đại. Hàng “Ƣng” nay chỉ
còn vỏn vẹn 3 vị: ông Ƣng Linh hiện ở Đà Nẵng gần 90 tuổi, ông Ƣng Ân ở Huế gần 80, ông
Ƣng Viên trẻ nhất, mới xấp xỉ 70. Giải thích về thứ bậc và tuổi tác của mình trong dòng họ,
ông bảo: “Tôi thuộc dòng thứ”.
Ông Ƣng Viên sống ở TP.HCM nhƣ một ẩn sĩ âm thầm chữa bệnh cứu ngƣời. Từng có thời
gian tiếp cận khá sâu vào ngành y của ngƣời Mỹ, nhƣng ông không theo nghề bác sĩ mà
chuyên tâm ứng dụng thuốc nam - xin lƣu ý là thuốc nam chứ không phải thuốc bắc. Cả nhà
ông không bao giờ sử dụng thuốc tây, kể cả đối với những vật nuôi nhƣ con heo con gà. Ông
bảo dân tộc Việt từ một nhóm nhỏ mấy ngàn ngƣời, đã dựa vào thiên nhiên mà sống, mà sinh
sôi phát triển mà mở rộng bờ cõi, đến nay đã lên tới hơn 80 triệu ngƣời, dân tộc đó ắt phải
biết cách phòng và chữa bệnh bằng chính những gì mình có. Thuốc tây mới du nhập vào
khoảng 150 năm nay thôi. Thế giới có biết bao nhiêu là trận dịch chết ngƣời hàng loạt, còn
trong suốt chiều dài lịch sử của mình, Việt Nam có một trận dịch nào khiến nhiều ngƣời chết
không? Chết hàng loạt vì đói thì có, còn chết hàng loạt vì dịch thì không.
Cây trầm ở độ cao 1.500m trong dãy Yang Sin (Buôn Ma Thuột) trên 100 năm tuổi, mật độ
nhiễm trầm 80% đƣợc ông Ƣng Viên tạc thành tƣợng Phật. Tƣợng cao 2,82m, chu vi đế 3m -
Ảnh: Ƣng Viên
Ông cũng không coi trọng thuốc bắc bằng thuốc nam. Ông bảo từ ngàn năm trƣớc ngƣời Việt
hằng năm phải cống nạp các thầy thuốc giỏi cho Trung Quốc. “Dòng họ tôi, chỉ riêng thời
nhà Đinh đã phải cống nạp đến 18 thầy thuốc giỏi sang Tàu”, ông nói.
La sơn phu tử Nguyễn Thiếp đã từng nhắc vua Quang Trung rằng nƣớc Nam ta sẽ còn phụ
thuộc vào Trung Quốc chừng nào vẫn còn phụ thuộc vào thuốc bắc.
Tổ chức Y tế thế giới ngày nay cũng khuyến nghị loài ngƣời nên áp dụng những thức ăn -
dƣợc liệu hữu ích của các dân tộc có lịch sử lâu đời để chăm sóc sức khỏe. Việc sử dụng tảo
Spirulina từ châu Phi cho cả thế giới là một minh chứng.
Tôi phải giới thiệu sơ qua một chút “lý lịch” của ông Ƣng Viên, không phải để nhấn mạnh cái
gốc hoàng tộc của con ngƣời này, mà vì nó liên quan đến tƣ cách “dụng trầm” và y thuật của
ông. Mọi ngƣời đều biết, Lê Quý Đôn ở Đàng Ngoài, mà trầm thì xuất từ Trung Bộ, nên dù là
một nhà bác học nhƣng Lê Quý Đôn chỉ có thể khảo sát qua tƣ liệu cổ và hỏi thêm một số
ngƣời khai thác trầm để viết sách, ông không thể có cơ hội trải nghiệm với trầm. Còn nhà
Nguyễn, chính là gia tộc dụng trầm số 1, tính từ Nguyễn Hoàng (Chúa Tiên) trở đi.
Có những cuộc tƣơng ngộ làm nên lịch sử. Riêng cuộc tƣơng ngộ giữa Nguyễn Hoàng và
Nguyễn Bỉnh Khiêm thì làm nên một cuộc xoay trời chuyển đất. Đọc sử sách ta chỉ biết đến
lời khuyên nổi tiếng “Hoành Sơn nhất đái vạn đại dung thân” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm nói
với Nguyễn Hoàng, nghe lời khuyên đó mà họ Nguyễn đƣợc bảo toàn để cho Việt Nam có
thêm một nửa giang sơn gấm vóc. Nhƣng không lẽ Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ giúp cho Chúa
Tiên một lời khuyên thôi sao? Sử sách không ghi thêm điều gì nữa. Sử sách cũng chỉ cho biết
Nguyễn Bỉnh Khiêm là ông Trạng Trình tinh thông dịch số, là nhà nho yêu nƣớc thƣơng dân,
là một ẩn sĩ “thu ăn măng trúc đông ăn giá”, là một nhà tiên tri. Chỉ là nhà tiên tri sao có thể
khiến đƣợc cả ba nhà Mạc, Trịnh, Nguyễn đều đến xin tham vấn trong những thời điểm ngặt
nghèo? Nhà tiên tri, dù nổi tiếng đến đâu cũng chỉ có thể thuyết phục đƣợc ngƣời thƣờng, đâu
có thể khiến nổi các bậc đế vƣơng đem sự nghiệp tiền đồ của mình mà gửi gắm. Nguyễn Bỉnh
Khiêm vẫn còn là sự bí ẩn của lịch sử.
Cho đến một buổi trƣa ông Ƣng Viên đãi tôi ăn món thịt dê do chính ông nấu. Tôi chƣa bao
giờ đƣợc ăn món thịt dê ngon nhƣ vậy. Nó ngon dĩ nhiên là do sự thiện nghệ của ngƣời nấu,
nhƣng nó còn ngon hơn vì câu chuyện đƣợc nghe. Ông Ƣng Viên nói một trong những thứ
mà Chúa Tiên mang vào Nam là những đàn dê, việc này do chính Nguyễn Bỉnh Khiêm đề
nghị. Dê là con vật độc đáo, không những có giá trị y thực phục vụ sức khỏe cho dân chúng,
mà còn rất tiện ích cho hậu cần quân sự. Dê dễ nuôi, có thể dẫn các đàn dê theo quân, khi có
chiến sự chúng ở đâu nằm im ở đó không chạy nhặng xị nhƣ trâu bò gà vịt, lại dễ phân phối
trong quân, một con dê có thể phục vụ gọn bữa ăn cho một “tiểu đội”. Cha ông của ông Ƣng
Viên dặn dò con cháu ngoài việc nhớ ơn và thờ phụng tổ tiên mình, còn phải nhớ ơn và thờ
phụng Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm là ngƣời đề xuất với Chúa Nguyễn từ
chiến lƣợc chiến thuật, từ chuyện quân cơ, hậu cần cho đến những chuyện cụ thể liên quan
đến bảo vệ sức khỏe cho quân dân nhƣ món ăn, bài thuốc để làm hành trang Nam tiến. Trong
đó có chuyện “dụng trầm”.
Nhà Nguyễn để lại nhiều di sản, có thứ để lại cho lịch sử, có thứ chỉ để lại cho con cháu.
Những ai nói công thức rƣợu Minh Mệnh đã bị thất truyền là nhầm to. Hoàng tử Vĩnh Giu
con vua Thành Thái, thuộc hàng cháu nội ông Ƣng Viên, lúc khốn khó đã bỏ rƣợu cho các
nhà hàng để sinh sống, đó là rƣợu Minh Mệnh chính hiệu. Ông Ƣng Viên cho hay ông Vĩnh
Giu có giữ bí quyết làm men nhƣng không biết làm rƣợu, chính ông đã làm rƣợu giúp cho
ông Vĩnh Giu. Rƣợu cung đình nhà Nguyễn có tới 175 dòng men, hơn 3.000 loại rƣợu. Ông
Vĩnh Giu lƣu giữ đƣợc 30% dòng men, ông Ƣng Viên giữ đƣợc 70%. Chỉ riêng hai ông gộp
lại cũng đã đủ 175 dòng, không có dòng men nào thất truyền cả, chỉ có điều là chúng không
đƣợc truyền ra ngoài.
Còn việc dụng trầm thì kế thừa tri thức của tiền nhân do Nguyễn Bỉnh Khiêm truyền lại, nhà
Nguyễn đã có gần 400 năm ứng dụng trầm hƣơng trong y học và đời sống, kể cả phục vụ
quốc phòng, rồi hoàn thiện pho y lý về trầm hƣơng, đồng thời có chính sách hữu hiệu bảo vệ
triệt để nguồn tài nguyên trân quý ấy. Ông Ƣng Viên kế thừa đủ di sản dụng trầm của dòng
họ, do ông nội ông truyền lại, những bí quyết đó cũng không truyền ra ngoài.

Bài 2: " THIÊN THỌ ĐỊA CHI KHÍ..."


Hƣơng trầm bao hàm đủ 5 vị ngọt mặn chua cay đắng, phát ra hơn 170 mùi thơm có thể phân
biệt đƣợc. Dùng một dụng cụ xông hƣơng, cho vào một loại trầm thông thƣờng, trong 24 giờ
sẽ có 8 đợt phát hƣơng, mỗi đợt là một phức hợp mùi vị với mùi chủ đạo khác nhau…
Trầm hƣơng sinh ra từ cây dó (cá biệt cây xƣơng rồng cũng có thể cho ra trầm). Trong thiên
nhiên có nhiều loài dó, nhƣng theo ông Ƣng Viên thì chỉ có cây dó bầu mới cho ra thứ trầm
có thể chữa bệnh đƣợc.
Trên thế giới, trầm tập trung chủ yếu ở 6 nƣớc: Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanmar,
Indonesia, Malaysia, trong đó trầm Việt Nam có dƣợc lý tốt nhất, những nghiên cứu khoa học
mới đây về trầm của các nhà khoa học Nhật Bản và Trung Quốc cũng xác nhận trầm Việt
Nam có nhiều hoạt chất mà trầm các nơi khác không có.
Tại Việt Nam, trầm tốt nhất tập trung ở vùng Phú Yên, Đắk Lắk, Khánh Hòa, Ninh Thuận,
đây chính là “quê hƣơng” của trầm, loài ngƣời phát hiện ra trầm khởi thủy là từ vùng này.
Trƣớc đây, từ Việt Nam, trầm đƣợc dùng làm cống phẩm đƣa sang Trung Quốc. Trong các
cống phẩm, trầm hƣơng là thứ quý nhất. Tất nhiên các thầy thuốc giỏi nhất đƣợc cống theo để
“hƣớng dẫn cách sử dụng”. Và từ đây, trầm hƣơng đã theo con đƣờng tơ lụa sang Trung Cận
Đông, Địa Trung Hải...
“Thọ thiên địa chi khí, tẩy vũ trụ chi trƣợc, giáng khí trừ đàm, thiện trị phế phủ, chỉ tả bổ
dƣơng, thị là thế thƣợng trân chi giả...”, đó là đoạn tóm tắt y lý của trầm hƣơng trích trong
sách gia truyền của cung đình nhà Nguyễn mà ông Ƣng Viên đọc cho tôi nghe, tạm dịch:
“Tích tụ khí thiêng của trời đất, tẩy trừ mọi thứ ô uế trong không gian, có tác dụng giáng khí
trừ đàm, chữa các bệnh thuộc phế phủ, chữa các bệnh về tiêu hóa, bài tiết, thận và tim mạch
(chỉ tả bổ dƣơng - nghĩa rộng), chính là thứ trân quý nhất”.
Trầm có thể đƣợc sử dụng trong cả ngàn bài thuốc khác nhau, nhƣng trƣớc hết hãy nói về
“thọ thiên địa chi khí”.
Ai cũng biết không phải cây dó bầu nào cũng có thể sinh ra trầm. Trong rừng tự nhiên từ
1.000 đến 1.500 cây mới có một cây có trầm và từ 10.000 đến 20.000 cây có trầm mới có một
cây có kỳ nam.
Khi cây dó bị một vết thƣơng, vết thƣơng đó phải đọng nƣớc qua một mùa mƣa, cây dó mới
bắt đầu tiết ra chất nhựa xung quanh vết thƣơng để tự vệ. Ngƣời ta thấy nhiều cây dó cho
trầm chi chít những mắt trên thân cây, những mắt chi chít đó là vết tích do một loài côn trùng
đục vào thân cây, dân gian gọi nó là con bọ xòe.
Khi chất nhựa dần dần trở nên đậm đặc, lúc ấy những con kiến sẽ bò vào ăn chất nhựa này.
Đó là một loài kiến cao cẳng, màu vàng hoặc màu đen.
Chính những con kiến kia mang theo các phân tử trầm hƣơng (một loài nấm) vào “cấy” trong
lớp nhựa. Loài nấm này tƣơng tác với các hoạt chất của lớp nhựa, dƣới tác động của khí hậu
bên ngoài và sự tƣơng tác diễn ra trong một thời gian rất dài mới sinh ra trầm, tƣơng tác càng
lâu trầm càng có giá trị. Thông thƣờng, cây dó phải có tuổi thọ hơn 50 năm mới có thể cho ra
một thứ trầm có giá trị chữa bệnh.
Về giống “kiến cao cẳng” mang phân tử trầm vào cây dó, ông Ƣng Viên lƣu ý không phải
kiến cao cẳng nào cũng làm đƣợc điều này. Phải theo dõi rất nhiều năm mới phát hiện ra,
chúng không bao giờ làm tổ trên những cây trầm. Đây là giống kiến rất quý về dƣợc liệu,
trứng của nó rang lên có thể chữa đƣợc chứng méo miệng, cấm khẩu (liệt dây thần kinh số 7,
số 21). Trứng của giống kiến này không thiếu trong kho tàng dƣợc liệu của ông Ƣng Viên.
Tôi hỏi xin ông một tấm hình về những con kiến đó, ông lắc đầu từ chối: “Tuyệt đối không
nên đăng ảnh của nó lên trên báo, đăng lên là nó bị ngƣời ta tận diệt ngay. Ngƣời của tôi đi
lấy trứng kiến, mỗi lần lấy không bao giờ quá 1/3 tổ trứng. Lấy tới 1/2 là nó tuyệt chủng rồi”.
Ông Viên còn mô tả những đặc tính của loài kiến trên nhƣng tôi không dám ghi ra đây vì
cũng sợ chúng sẽ bị... tuyệt chủng.
Quá trình hình thành trầm hƣơng theo một “cơ chế” tƣởng chừng đơn giản nhƣ vậy nhƣng
thật ra là vô cùng kỳ bí. Cho nên ngƣời xƣa nói “thọ thiên địa chi khí” là đúng nhất. Con
ngƣời đã khẳng định hƣơng trầm là “vua của các mùi hƣơng”. Hàng ngàn năm nay trầm đƣợc
xông trong các cung điện vua chúa, tại các lễ nghi thiêng liêng của các tôn giáo. Nó là “danh
hƣơng” trong các nghi lễ tôn giáo.
Trong thiên nhiên có rất nhiều thực vật có tinh dầu phát hƣơng ra không gian, nhƣng chỉ có
trầm là thứ mà nguồn phát ra hƣơng không bao giờ cạn, từ lúc trong rừng núi cho đến khi
đem ra chế tác, lƣu giữ. Ngƣời ta phát hiện các mảnh trầm nằm dƣới đáy các giếng cổ
Chămpa, qua hàng ngàn năm mà khi lấy lên hƣơng thơm vẫn còn nguyên vẹn. Ngày nay trầm
còn đƣợc dùng làm chất định hƣơng cho mỹ phẩm, nƣớc hoa Chanel No.5 và các thứ nƣớc
hoa nổi tiếng khác trên thế giới không thể không có trầm hƣơng.
Hƣơng trầm bao hàm đủ 5 vị ngọt mặn chua cay đắng, phát ra hơn 170 mùi thơm có thể phân
biệt đƣợc (riêng kỳ nam có ít mùi hơn và không có vị ngọt). Dùng một dụng cụ xông hƣơng,
cho vào một loại trầm thông thƣờng, trong 24 giờ sẽ có 8 đợt phát hƣơng, mỗi đợt là một
phức hợp mùi vị với mùi chủ đạo khác nhau, thay đổi theo thời gian, khi thì mùi hoa sen, khi
thì mùi hoa hồng, khi thì vani, khi thì mùi gỗ thông, khi thì mùi xạ hƣơng... Điều lạ lùng nữa
là trong những thời điểm giống nhau mà tại địa điểm khác nhau mùi trầm hƣơng cũng thay
đổi.
Điều này khoa học chƣa đủ khả năng giải thích. Một nhóm nhà khoa học Nhật Bản đã thử
làm khảo cứu phân biệt hƣơng thơm của một số sesquiterpen carboxylic acid trong tinh dầu
trầm và nhận thấy có khi chỉ vì vị trí của một dấu nối đôi nhƣ hai chất selina-3,11 và selina-
4,11 dienal mà mùi hƣơng rất khác nhau, chất thứ nhất có mùi gỗ, mùi hoa hòa với mùi khói,
chất kia phảng phất hƣơng bạc hà.
Bốn chất đồng phân neopetasan, epineopetasan, dihydro karanon, ngoài vị trí các dấu nối đôi,
còn khác nhau ở hƣớng các nhóm methyl cũng cho ra các mùi khác nhau (dẫn theo tiến sĩ Võ
Quang Yến, Cây thuốc và vị thuốc Việt Nam, NXB Đà Nẵng 2008). Khoa học chỉ mới biết
tới đó, còn vì sao lại có sự “biến tấu” nhƣ vậy thì khoa học đành chịu, ở đây vẫn là quá trình
“thọ thiên địa chi khí”. (còn tiếp)
Trích dẫn
Ông Ƣng Viên còn lƣu ý: Trầm hƣơng và kỳ nam là khác nhau, không phải kỳ là cái lõi của
trầm. Một cây dó có trầm dù lâu năm đến bao nhiêu cũng không nhất thiết có kỳ nam, ngƣợc
lại một cây dó có kỳ nam không nhất thiết có trầm bên cạnh. Chúng đƣợc tƣơng tác bởi hai
loài nấm khác nhau. Kỳ nam hiếm hơn nên mắc tiền hơn, nó quá mắc tiền vì từ lâu nó đƣợc
con ngƣời sở hữu nhƣ một “linh vật”, nhƣng giá trị chữa bệnh và ứng dụng trong đời sống
của kỳ nam thì không bằng trầm.

Bài 3: DỤNG TRẦM...

Trầm có tác dụng tuyệt hảo đối với sức khỏe con ngƣời, theo 3 con đƣờng: xông, uống và ăn.
Trầm trong thiên nhiên có tác dụng khử độc không khí, trừ lam chƣớng, làm trong sạch môi
trƣờng sống. Ngƣời xƣa biết rõ điều này nên mới tổng kết: “tẩy vũ trụ chi trƣợc”.

Khử uế một cách triệt để


Tính chất “tẩy vũ trụ chi trƣợc” có thể đem áp dụng để khử uế. “Khử uế một cách triệt để,
ngoài trầm hƣơng không thứ gì giải quyết đƣợc”, ông Ƣng Viên khẳng định. Và tôi đƣợc biết
một câu chuyện thú vị.
Vào năm 2008, một tàu của Mỹ chở thuê hải sản tải trọng 1 vạn tấn, khi cập cảng Nhà Bè
(TP.HCM), cảng vụ phát hiện tàu bị ô nhiễm nặng (mùi hôi thối quá mức), nên không cho
phép xuất cảng vì theo quy định quốc tế thì tàu phải đƣợc xử lý ô nhiễm mới đƣợc rời khỏi
cảng. Kỹ thuật khử uế của ngƣời Mỹ trên tàu không giải quyết đƣợc. Cảng vụ phải mời các
chuyên gia của một viện từ Hà Nội vào xử lý cũng không xong.
Ngƣời phụ trách công việc ở cảng có quen biết với ông Ƣng Viên nên mời ông thử xử lý
giúp. Ông Ƣng Viên đồng ý, với một điều kiện: các thủy thủ phải uống một thứ rƣợu có
pha… nguyên liệu xử lý tàu. Quá khiếp với điều kiện này, nhƣng thấy ngƣời ở cảng “gƣơng
mẫu” uống trƣớc, các thủy thủ cũng uống.
Chỉ sau 1 ngày 1 đêm, ông Ƣng Viên đã giúp xử lý sạch con tàu bằng hai phƣơng pháp: nửa
phun, nửa xông. Các thủy thủ vô cùng kinh ngạc về kết quả trên đã gọi điện cám ơn ông rối
rít và vui mừng cho biết sau khi uống thứ rƣợu đó sáng ngủ dậy trong ngƣời lại khỏe ra.
Rƣợu đó chính là rƣợu pha trầm. Còn thứ nƣớc phun xử lý tàu thì vẫn còn 60 lít họ xin đƣợc
mang theo.
Kể lại câu chuyện này với tôi, ông cƣời nói: “Tôi cho họ mang về 60 lít nƣớc đó, nhƣng chắc
chắn họ không thể phân tích đƣợc nó có những chất gì”. Phƣơng pháp của ông là di sản gia
truyền “Bí mật quân lƣơng và khử uế tàu chiến” của cung đình nhà Nguyễn. Chất liệu căn
bản của nó là trầm hƣơng và trà.
Tác dụng tuyệt hảo đối với sức khỏe
Trầm có tác dụng tuyệt hảo đối với sức khỏe con ngƣời, theo 3 con đƣờng: xông, uống và ăn.
Về y lý, hƣơng trầm xông lên có tác dụng điều khí, rất tốt cho sức khỏe. “Xông hƣơng trầm
thƣờng xuyên không bị máu đông ở động mạch, phổi không bị nghẽn, xoang không bị viêm,
không u bƣớu, không liệt dƣơng liệt âm lãnh cảm…”, ông Ƣng Viên vừa nói vừa đƣa tôi tới
gần bình xông trầm đang ngát hƣơng. Cái bình xông trầm này do ông cùng 2 kỹ sƣ ngƣời
Nhật và Đài Loan nghiên cứu chế tạo, nguyên liệu đƣợc lấy bằng thứ cát đặc biệt tại Nha
Trang ở độ sâu 20 mét. Bình xông trầm hiện nay trên thị trƣờng có thứ của Nhật, có thứ của
Hàn Quốc, có thứ của Trung Quốc, Đài Loan, xông bằng những cái bình ấy có thể giải phóng
đƣợc 50% hƣơng trầm, còn bình xông của ông có thể giải phóng đƣợc 95%.
Ông Ƣng Viên tỏ ra bức xúc về vấn nạn sức khỏe do môi trƣờng ô nhiễm hóa chất và thức ăn
công nghiệp hiện nay khiến cho các bệnh về hô hấp và tiêu hóa gia tăng. Hai phƣơng thang:
Ôn tì bình vị (gồm trầm, xuyên bối mẫu, toàn quy, thăng ma, bạch truật…) và Kiện tì tiêu
thực (gồm trầm, xuyên khung, bạch truật, toàn quy, liếu tiếu thảo…) có thể giải quyết triệt để
các bệnh này, không tái phát.
Các thang “Thanh khí ôn phế”, “Điều huyết dƣỡng khí”, “Nhứt dâm cửu dựng”, “Ôn dƣơng
cố thận”… nhƣ tên gọi của chúng, chữa những bệnh về đƣờng hô hấp, khí huyết, bổ dƣơng…
đều dùng trầm làm vị chủ. Ông Viên không coi trọng những bài thuốc “tráng dƣơng”. “Tráng
dƣơng” thì nhất thời. “Bổ dƣơng”, “ôn dƣơng” mới là sự bền vững, mà chuyện này thì không
thứ gì qua nổi trầm.
Việc dụng trầm của ông Viên hình nhƣ đạt đến độ xuất thần nhập hóa. Nhƣ trên đã nói, trong
những giờ khác nhau trầm tỏa ra các mùi hƣơng khác nhau. Chỉ riêng việc lấy trầm từ cây
trầm ra để chế biến cũng đƣợc thực hiện vào những thời khắc thích hợp, tùy theo khí hậu, loại
bệnh và đặc tính của từng ngƣời bệnh. Ngay cả trong chuyện đơn giản hơn nhƣ ẩm thực, ông
cũng áp dụng các nguyên tắc này.
Ông nói cũng là thứ rau húng trồng trong một vƣờn rau nhƣng có khi ăn thấy ngon, có khi ăn
không thấy ngon. Vì sao vậy? Vì rau ăn không ngon là do hái không đúng giờ. Rau húng phải
hái vào lúc 5 - 6 giờ sáng hoặc 5 - 6 giờ chiều thì ăn mới ngon, vì những thời điểm đó rau tiết
ra những chất tốt nhất, còn các giờ khác thì rau tiết ra một số chất xấu.
Sự trải nghiệm với trầm của ông Ƣng Viên còn thể hiện ở lƣợng trầm mà ông đang có. Hơn
30 năm nay ông đã dùng hết tài sản và đi vay mƣợn để tích lũy cả một kho tàng: Hơn 60 tấn
trầm và kỳ nam, gồm 36 cây trầm lớn, bình quân mỗi cây gần 2 tấn, mật độ ăn trầm từ 60-
80%. Những cây trầm ông giữ đều đƣợc lấy theo đúng nguyên tắc: tất cả đều đã chết rũ trên
rừng, vận chuyển về đều hợp pháp, có dấu búa kiểm lâm. Phần lớn những cây trầm ông đang
có là độc nhất vô nhị, không còn tồn tại trong thiên nhiên.
Nhà ông ở TP.HCM có một xƣởng chế tác trầm, có một “đội thợ trầm hoàng tộc” - là hậu
nhân của các thợ trầm cung đình khi xƣa giúp việc. Ông và những ngƣời thợ tạc những cây
trầm thành các tác phẩm nghệ thuật để lƣu giữ lại cho con cháu, ông chƣa hề bán và sẽ không
bán một kg trầm nào. Ông dùng lớp vỏ sát lõi có nhiễm tinh dầu trầm và kỳ nam để làm
thuốc, đó là phần làm thuốc tốt nhất. Lớp ngoài nữa, nhiễm tinh dầu ít hơn, ông dùng làm
nguyên liệu cho nồi xông chữa bệnh. Lớp ngoài cùng dùng làm hƣơng.
Tôi nhiều lần đƣợc đến xem xƣởng trầm của ông, nghe ông giới thiệu xuất xứ của từng cây
trầm và đặc tính của từng loại trầm. Ở đây có đủ các loại trầm, các loại kỳ nam. Tôi hỏi ông,
ông Lê Quý Đôn nói đốt trầm lên thì khói xoáy rồi sau mới tan, còn đốt kỳ nam thì khói lên
thẳng và dài, nói nhƣ vậy có đúng không. Ông cƣời, bảo rằng nhà bác học Lê Quý Đôn rất
giỏi nhƣng ông ấy không có cơ hội tiếp cận đầy đủ với “hiện vật” nên vừa đúng vừa sai.
Khói vút lên thẳng nhƣ sợi dây là đúng, nhƣng chỉ đúng với kỳ nam hƣơng thôi, còn các loại
kỳ nam khác thì khói vẫn xoáy. Ông vừa nói vừa chỉ vào một cái hốc của cây trầm cao to
trong xƣởng đã tạc thành tƣợng, ở đó lộ ra một cái lõi to và dài màu vàng sậm: “Kỳ nam
hƣơng là thứ này đây, chỗ này ít nhất cũng vài chục kg”. Kỳ nam hƣơng giá rẻ hơn các loại
kỳ nam khác, khoảng 2 - 3 tỉ đồng trên thị trƣờng thế giới, nhƣng có giá trị chữa bệnh tốt nhất
trong các loại kỳ nam, tuy kém thua trầm.
Trích dẫn
Trầm kết hợp với thịt dê - ngọc dƣơng, nghệ vàng, nghệ đen, măng tre (vắt lấy nƣớc), nƣớc
gạo rang … ăn vào có thể làm sáng mắt, thính tai, trị chứng đau nhức.
Trầm kết hợp với chè, có thể ngừa và trị đƣợc các “mắc mứu” ở phổi, đƣờng hô hấp, tim
mạch, tiêu hóa.
Trầm làm rƣợu, uống vào sáng mắt, trị viêm họng, đau dạ dày, nghẽn động mạch tim, làm
mạnh thần kinh cơ bắp.
Trầm kết hợp với vảy cá rô đồng có thể trị triệt để các bệnh về tiêu hóa của trẻ nhỏ.
Trầm kết hợp với vảy cá rô đồng cộng thêm với chè có thể chữa kiết lỵ, tiêu chảy, thƣơng
hàn.
Trầm kết hợp với trúc nhự (dịch măng tre) có thể chữa chứng cành hông, làm tiêu hóa không
bị xáo trộn.
Trầm kết hợp với ma hoàng trị đƣợc các bệnh phụ khoa.
Trầm dùng trong thang “Diệc nhan minh mục” (kết hợp với các thảo dƣợc khác) làm cơ thể
trẻ lại, mắt sáng ra.

Bài 4: HÃY CỨU NHỮNG CÁNH RỪNG CÓ TRẦM

Hiện nay, dó bầu tự nhiên ở độ cao từ 1.000 mét trở xuống đã hoàn toàn bị hủy diệt. Khi đã
khai thác hết trầm, ngƣời ta còn đốn sạch cả những cây dó chƣa có trầm mang về nấu dầu
xuất khẩu. Cứ băm ra 1 tấn cây dó mới nấu đƣợc 1 lít dầu trầm…

(Ông Ƣng Viên giới thiệu một đoạn gỗ trầm )


Ông Ƣng Viên có quan điểm y học khá độc đáo: trị bệnh là trị riêng cho từng ngƣời, không
có thứ thuốc sản xuất hàng loạt nào có thể hoàn toàn chữa đúng bệnh. Cùng một thứ bệnh,
nhƣng ở ngƣời này có biểu hiện khác với ngƣời kia. Cùng một loại vi khuẩn, khi xâm nhập
vào cơ thể ngƣời này sẽ cho triệu chứng khác với khi xâm nhập vào cơ thể ngƣời khác. Chẩn
đúng bệnh và cho đúng thuốc, là quan điểm chữa bệnh nhất quán của ông.
Ông Ƣng Viên kế thừa y lý chân truyền của dòng họ, ông cũng đƣợc tiếp thu những tài liệu y
học cổ truyền Trung Hoa từ thời Hán - Đƣờng. Các phƣơng pháp “chân truyền” và những
sách vở về Đông y đang đƣợc lƣu hành nhiều khi rất khác nhau, thậm chí mâu thuẫn. Sở dĩ có
tình trạng nhƣ vậy, là do tƣơng truyền vào thời cuối nhà Thanh, khi phƣơng Tây tấn công Tử
cấm thành, triều đình sợ những tài liệu của tổ tông của họ bị “lọt vào tay địch” nên cất giấu
đi, thay vào đó là những quyển sách đƣợc “viết ngƣợc”, tức là y lý đã bị đặt lộn tùng phèo,
giống nhƣ Hoàng Dung đã chép lộn ngƣợc Cửu âm chân kinh giao cho Âu Dƣơng Phong để
ông này luyện mà tẩu hỏa nhập ma trong truyện của Kim Dung. Các danh y trong lịch sử
thƣờng đƣợc sƣ phụ trực tiếp truyền thụ, vì những bí quyết thực sự không bao giờ nằm trong
các sách vở trôi nổi. Thầy phải chọn trò có tƣ chất, có tƣ cách để truyền bí quyết.
Trong các bài thuốc của ông bao giờ cũng có hai vị căn bản: trầm và… tre. Ông bảo cây tre
có giá trị y học không kém gì trầm. “Không có bài thuốc nào tổ tiên tôi để lại mà không dính
tới cây tre”, ông quả quyết. Ngay cả tre ngâm bùn cũng có thể làm thuốc chữa đƣợc chứng
hoại tử. Theo ông, trầm và tre là hai thứ bảo đảm nền tảng cho sức khỏe. Nguyên lý của tre:
điều hòa khí mạch; nguyên lý của trầm: điều khí bình huyết.
Ông khuyên tôi nên viết nhiều về cây tre, còn đối với trầm thì viết in ít thôi, vì trong một thời
gian dài báo chí quá đề cao sự mắc tiền của nó nên đã góp phần dẫn đến sự tuyệt chủng của
trầm. Tôi hiểu sự bức xúc của ông.
Trích dẫn
Ông cho rằng, hiện nay các bệnh viện nhi mỗi ngày có rất đông bệnh nhân bị bệnh về khí phế
quản và tiêu hóa, nếu phƣơng thuốc giản đơn của dân tộc từ trầm đƣợc thẩm định để đƣa vào
chữa bệnh thì chi phí có thể giảm đƣợc đến hơn 90%. Ông chỉ cho tôi một cây trầm cao
khoảng 2 mét, đƣờng kính khoảng 20 cm dựng trong xƣởng trầm nhà ông và nói: “Nếu mỗi
ngày chữa cho 10 ngƣời bệnh thì phải 100 năm mới hết cây trầm này. Thực ra dùng trầm để
chữa bệnh nhƣ dùng muối nêm vào canh, không tốn nhiều tiền mà hiệu quả. Vấn đề là xã hội
phải thay đổi cách phòng và chữa bệnh, biết tận dụng các phƣơng pháp hiệu quả mà cha ông
ta đã trải nghiệm hàng ngàn năm nay”.
Nhƣng dù dùng trầm “nhƣ muối nêm” thì cuối cùng nó vẫn hết nếu không có cách khai thác
phù hợp. Cho nên vấn đề cấp bách nhất là phải nhanh chóng chặn đứng sự tàn phá để giữ và
khôi phục những gì còn sót lại trên những cánh rừng có trầm.
Hiện nay, dó bầu tự nhiên ở độ cao từ 1.000 mét trở xuống đã hoàn toàn bị hủy diệt. Khi đã
khai thác hết trầm, ngƣời ta còn đốn sạch cả những cây dó chƣa có trầm mang về nấu dầu
xuất khẩu. Cứ băm ra 1 tấn cây dó mới nấu đƣợc 1 lít dầu trầm, để bán lấy 15.000 - 20.000
USD một lít, ngƣời ta đã hủy diệt gần xong một nguồn tài nguyên quý giá của dân tộc. Trữ
lƣợng dó bầu tự nhiên hiện còn không nhiều và chỉ có ở độ cao trên 1.000 mét. Tại độ cao đó
cây dó mọc rất thƣa, hiện tƣợng ăn trầm ít.
Theo ƣớc tính của ông Viên, nếu nhƣ Nhà nƣớc có biện pháp cứu những rừng có dó, lệnh
cấm rừng đƣợc thực thi triệt để, 50 năm nữa thiên nhiên mới có thể tái tạo lại rừng có trữ
lƣợng dó bằng khoảng 23 - 35% của thời kỳ trƣớc năm 1975. Cùng với việc cấm rừng, phải
cấm triệt để việc xuất khẩu trầm tự nhiên theo CITES (Quy ƣớc thƣơng mại quốc tế về những
loài động vật và thực vật hoang dã lâm nguy).
Ngày xƣa, mỗi năm chỉ duy nhất một lần, nhà Nguyễn chọn những ngƣời có hiểu biết, có tƣ
cách để cho vào rừng khai thác trầm trong vòng 1 tháng, luật của triều đình chỉ cho phép lấy
trầm tại những cây dó đã chết rũ, tuyệt đối cấm lấy trầm trên những cây còn sống. Điều đáng
lƣu ý là sau này khi ngƣời Pháp sang cai trị nƣớc ta, quy định đó của nhà Nguyễn vẫn đƣợc
áp dụng một cách nghiêm ngặt. Bởi vậy mà dù các rừng trầm hàng ngàn năm vẫn còn nguyên
vẹn, nhƣng ngƣời dân mỗi khi cần vẫn có trầm hƣơng để dùng với giá không quá mắc.
Con ngƣời hiện tại là những kẻ kiêu ngạo với thiên nhiên, nên cái giá phải trả là rất đắt. Đã
đến lúc chúng ta nên tỏ ra khiêm tốn. “Thiên nhiên sẽ tha thứ nếu con ngƣời biết phục thiện”,
ông Ƣng Viên nói.
Trích dẫn
Ông Ƣng Viên lƣu ý: Trên thị trƣờng cả nƣớc hiện lƣu hành 4 loại trầm là trầm dó bầu, trầm
dó dây, trầm niệt (còn gọi là trầm nghiệt), giả trầm hƣơng. Trong 4 loại đó, chỉ có trầm dó
bầu mới có giá trị trong chữa bệnh. Nhƣng phân biệt giữa chúng là rất khó, phải có kiến thức
mới biết đƣợc. Vì vậy, phải hết sức cảnh giác để tránh tiền mất tật mang.

Hoàng Hải Vân (THANHNIEN)

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM


. BÀI 7.
Thứ Ba, ngày 11 tháng 11 năm 2014
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM . BÀI 7.
VUA QUANG TRUNG VÀ CHIẾC HOÀNG BÀO BÍ ẨN
HỒ VĂN QUANG

Hơn hai thế kỷ qua, nhiều sử gia, nhiều học giả đã từng tốn nhiều công sức trong việc nghiên
cứu của mình, nhằm tìm hiểu đâu chính là sự thật về lần vĩnh biệt của vị anh hùng dân tộc
Nguyễn Huệ vua Quang Trung, vị Ðại Ðế đã làm rạng rỡ cho cơ đồ Việt Nam! Chuyện tức
tƣởi bƣớc vào cõi vĩnh hằng không phải chỉ dành riêng với cá nhân ông ta mà còn là sự uất ức
chung cho cả dân tộc Việt Nam ta. Do đó, vấn đề bàn cãi đâu là nguyên do chính đáng nhất
của nó vẫn còn bao trùm bởi chiếc màn dày đặc của sự bí mật. Nếu ai đó đƣa ra cân trả lời để
kết luận "Nhà vua chết vì bệnh." thì chúng ta khỏi nói thêm nữa... Hiện tại, ngƣời viết bài này
chỉ biết kiểm nghiệm lại những gì có trong tài liệu sƣu tầm đƣợc, để gọi là phần nào đó, ghi
góp thêm cho cách giải đáp "thắc mắc" thôi. Chuyện "Chiếc áo ấm" mà Càn Long (vua
Thanh) cẩn tặng vua Quang Trung để mặc lúc ngự hàn, là một nghi vấn nằm trong những
nghi vấn khác mang tính: "khó tin nhƣng có thật", vì chỉ có nó mới có thể nói lên cả một kế
hoạch lâu dài của các nhà "lý số" Tàu dƣới triều Càn Long quyết hại chết vua ta, để trừ mọi
hậu hoạn nơi bờ cõi phƣơng Nam của họ.
Sách "Ngụy Tây Liệt Truyện" của bộ sử ký "Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện", quyển 30
trang 42, các sử quan triều Nguyễn ghi nhƣ sau: "...Một hôm về chiều, Quang Trung đang
ngồi, bỗng xây xẩm tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm
gậy sắt mắng rằng: Ông cha ngƣơi sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân của Chúa, Ngƣơi
sao dám phạm đến lăng tẩm? Rồi lấy gậy đánh vào trán, Quang Trung mê man ngã xuống,
bất tỉnh nhân sự, lâu lắm. Lúc tỉnh dậy nhà vua đem việc ấy nói với quan trung thƣ Trần Văn
Kỷ. Từ đó bịnh chuyển nặng mới triệu quan trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu về bàn bạc
để dời đô ra đó. Thƣơng nghị chƣa xong thì Thế Tổ ta đã lấy lại đƣợc Gia Ðịnh, chiếm Bình
Thuận, Bình Khang, Diên Khánh, thanh thế chấn động. Quang Trung nghe đƣợc lo buồn,
bịnh ngày càng kịch liệt..." Ðọc những trang sử này, chúng ta có thể hiểu đƣợc ý chính của
các sử quan triều Nguyễn, họ muốn dựng lên một huyền thoại, nhằm thóa mạ vua Quang
Trung. Dụng ý chính ở đây là để ghép tội, và chứng minh rằng vua Tây Sơn là ngƣời: Vô đạo
và tàn bạo.
Tiếm đoạt thành Phú Xuân, xâm phạm lăng tẩm các Chúa Nguyễn nên bị tổ tiên các Chúa
Nguyễn trừng phạt Vì đang bệnh mà vua Quang Trung còn phải lo lắng thêm việc con cháu
Chúa Nguyễn phục thù, đang chiến thắng tại nhiều nơi, lấn chiếm dần các phần đất phía
Nam... và lãnh thổ Tây Sơn ngày một thu hẹp lại. Do đó, nhất định bệnh tình nhà vua ngày
một nặng thêm, và rồi nhất định phải chết. Dầu có nói gì chăng nữa, họ cũng không thể che
giấu hành vi trả thù, một sự trả thù dã man, tàn bạo đối với một triều đại từng làm cho họ xích
bích xang bang, sống trong tan tác, cơ hồ nhƣ bị hủy diệt luôn. Cho nên khi chiến thắng rồi,
họ quên bẵng thời điểm lịch sử 1792 (năm vua Quang Trung mất), tình thế chiến trƣờng đem
ra so sánh, binh đội phe Nguyễn Ánh chỉ là một nhóm ngƣời nhỏ lẻ tẻ, ô hợp, chƣa đủ khả
năng chống chọi với đại binh Tây Sơn. Sách "Ðại Nam Thực Lục Chính Biên", là bộ sách sử
tuy đƣợc cả triều Nguyễn ca tụng, nhƣng phần "Ðệ Nhất Kỷ" cũng phải ghi: "Tháng 3 năm
Nhâm Tý (1792) nhân khi gió Nồm thổi, Nguyễn vƣơng sai tƣớng là Nguyễn Văn Trƣơng
cùng Nguyễn Văn Thành đem chiến thuyền từ cửa Cần Giờ ra đốt phá thủy trại Tây Sơn ở
của Thị Nại (Quy Nhơn) rồi rút lui về. Khi lui về Nam, Nguyễn Ánh có ý định chiếm Phan
Rang, Phan Rí... nhƣng cuối cùng Nguyễn Ánh thấy chống không nổi, phải cho rút quân về
lại Gia Ðịnh". Nhƣ vậy, giai đoạn từ mùa hè 1792 trở về trƣớc, Nguyễn Ánh đã không thể có
mặt trên đất miền Trung, mà phải lo cố thủ Gia Ðịnh, có nghĩa là triều đại Tây Sơn vẫn còn
cai quản phần đất từ Gia Ðịnh trở ra Bắc và chính lúc bình yên trên phần đất cai quản của
mình nhƣ thế này, vua Quang Trung bị bệnh, rồi sau đó băng hà. Không giống nhƣ nội dung
đoạn sử trên mô tả: Về tính huyền thoại huyễn hoặc: bị ông tiên nào đó đánh cho một gậy để
phải lâm bệnh Về mặt thực tế cụ thể: nhƣ lo âu mất đất và bị thua trên chiến trƣờng... Chính
hai lý do này đã khiến vua Quang Trung buồn phiền, rồi bệnh nặng mà băng hà? Thực ra, từ
năm 1787 trở đi, vua Quang Trung bận rộn rất nhiều về chuyện nội trị, phần khác cần đối phó
loạn lạc tại Bắc Hà! Riêng phía Nam, cũng có chuyện cần cấp giải quyết, vì sự cai quản non
kém của Ðông Ðịnh Vƣơng Nguyễn Lữ, tạo điều kiện thuận lợi để Nguyễn Ánh chiếm lại
Gia Ðịnh. Và cũng nhờ vào sự bận rộn này mà bắt đầu từ năm 1787 cho đến năm 1792,
Nguyễn Ánh mới có cơ hội chiếm lại rồi củng cố thành Gia Ðịnh. Mãi tới tháng 5 năm 1790,
Nguyễn Ánh cho Lê Văn Câu (có sách ghi là Lê Văn Quân, một đại công thần, có thứ bậc
trên cả Võ Tánh, Nguyễn Văn Thành) đem quân ra đánh chiếm Bình Thuận. Chƣa đầy một
tháng sau đó, Tây Sơn phản công, quân lính Câu tan tác, phải cấp báo về Gia Ðịnh xin
Nguyễn Ánh cho viện binh. Ánh không chấp thuận trong tình thế nguy cấp này, Nguyễn Văn
Câu đành rút chạy về Phan Rí, quân binh Tây Sơn tiếp tục truy kích, Câu phải chạy thẳng về
Gia Ðịnh... Trƣớc một bại tƣớng từng sống chết với mình, Nguyễn Ánh không những không
tìm cách che chở, bảo bọc, mà còn tỏ ra không thƣơng tiếc, nhất định nghị tội, bãi chức... Quá
uất ức, Câu đành uống thuốc độc, kết liễu đời mình. Thƣơng thay cho một vị đại tƣớng tìm
lầm chúa thờ! Trở lại cái chết của vua Quang Trung, chúng ta không nhìn nội dung trên ở
khía cạnh mạ lỵ cá nhân, mà trên sự kiện nguyên do cái chết. Từ đó chúng ta cũng có thể kết
luận họ đã xác nhận vua Quang Trung chết vì bệnh. Ðọc sử Việt Nam, có rất nhiều cách giải
thích khác về cái chết của vị anh hùng dân tộc của chúng ta, nhƣng không mấy hấp dẫn. Do
đó, ngƣời viết phải tìm thấy thêm trong "Ðại Thanh Thực Lục" và "Ðông Hoa Toàn Lục" (Sử
Trung Quốc) ghi rằng:"Năm Càn Long thứ 58 (vào tháng 1 năm 1793), Quách Thế Huân
khấu báo lên Càn Long là An Nam quốc vƣơng Quang Trung đã chết vì bệnh".Càn Long, hơi
giật mình rồi nhƣ đang suy nghiệm một điều gì có thể đúng với dự tính trƣớc đó của ông ta...
Phải chăng, vua Thanh đã biết trƣớc đƣợc một chuyện gì chăng về cái phải xảy ra với vua
Quang Trung? Theo hắn ta phải sớm hơn... (vì khoảng sáu tháng sau ngày vua Quang Trung
băng hà, Càn Long mới biết tin). Tại Bắc kinh, trƣớc lúc đó, Vũ Văn Dũng đƣợc tin mật, vị
trƣởng đoàn sứ thần này xỉu đi... Khi tỉnh lại, liền gấp rút từ tạ vua Thanh mà trở về Phú
Xuân ngay. Chính sự đau đớn này, Vũ Văn Dũng đã làm bài thơ (Tập san sử địa số 9, Sai
Gòn 1968, trang 154):
"Bố y phấn tích ngũ niên phong
Mai cổ thi vi tự bất đồng
Thiên vị Ngô Hoàng tăng nhất kỷ
Bất ƣ Ðƣờng, Tống thuyết anh hùng".
Tạm dịch:
Năm năm dựng nghiệp tự thân nông
Thời trƣớc thời sau có mấy ông?
Có thƣơng, trời cho mƣơi năm nữa,
Anh hùng Ðƣờng, Tống khó so công!
Vua Quang Trung mất vào mùa Thu 1792, nửa năm sau Mãn Thanh mới biết, và cho ngƣời
sang báo tang. Sự chậm trễ này không phải do Quách Thế Trung, mà chính do sự sắp đặt của
hoàng triều Phú Xuân muốn làm vậy. Trong "Ðông Hoa Toàn Lục", quyển 117, trang 5s, đã
ghi lại ý trách móc của Càn Long: "Quốc Vƣơng Nguyễn Quang Bình đã mất ở Nghệ An vào
tháng 9 năm ngoái. Vua Càn Long liền quở trách ngƣời đƣa tin nhƣ thế là quá chậm, chắc
bây giờ đã tống táng rồi". Sự việc rõ ràng bên trong có dụng ý riêng, vì không phải báo về
cái chết của Nguyễn Quang Bình chậm, mà còn sai chỗ nữa (Phú Xuân chứ không phải Nghệ
An). Mặt khác, Phú Xuân còn cho làm mộ giả của vua bên Hồ Tây để đón sứ thần Mãn
Thanh sang phúng điếu. Sứ Thanh đến, muốn vào thăm Phú Xuân, triều thần Tây Sơn nhất
định không cho, còn tìm mọi cách đánh lạc hƣớng nhƣ dẫn họ lên tận Sơn Tây, khi sứ Thanh
phát hiện, triều thần Tây Sơn mới chịu dẫn họ trở lại, nhƣng chỉ dừng ở Thăng Long mà thôi.
Những việc nhà Thanh làm rất mâu thuẫn và bí mật, nhất là việc đòi phải vào đến tận Phú
Xuân xem xét... Năm 1789, chính Thành Lâm không chịu vào Phú Xuân để phong vƣơng cho
vua Quang Trung (lần đầu sau khi Phạm Công Trị đóng vua Quang Trung giả), mà chỉ tại
Thăng Long, viện lý do không đƣợc trái lệ thƣờng (Các triều đại trƣớc mỗi khi Trung Hoa
cho sứ sang nƣớc ta làm lễ phong vƣơng, đều thực hiện tại Thăng Long theo qui lệ của các
vua Trung Hoa), nhƣng lần này lại đòi vào tận Phú Xuân để điếu tang. Tại sao triều thần Tây
Sơn không cho Thành lâm vào Phú Xuân? Cũng nhƣ vua Quang Trung luôn cho ngƣời giả
mình để tiếp xúc với nhà Thanh? Tất cả mọi nghi vấn nhƣ thế này chỉ có vua Quang Trung và
các cận thần của ông ta mới biết! Ngày nay, chúng ta sao có thể suy đoán rằng: triều thần Tây
sơn sợ các thầy địa lý Tàu ếm bùa ếm ngãi nơi mộ vua Quang Trung!(?). Giai đoạn xã hội lúc
đó, chuyện xảy ra nhƣ thế này không phải là không có. Triều thần Tây Sơn làm sao lƣờng
trƣớc chuyện rửa nhục "thất trận Xuân Kỷ Dậu"? (Vào cuối năm 1788, Tôn Sĩ Nghị ngày nào
cũng cấp báo tin thắng trận, vua Càn Long vô cùng mừng rỡ, tiệc mừng đƣợc liên tiếp tổ
chức, ba quân luôn đƣợc cất nhắc thăng thƣởng (tăng thêm một tháng lƣơng cho đội quân
viễn chinh dùng để ăn tết trên xứ Nam). Chính Càn Long đã chọn ngày mồng 5 Tết làm ngày
"Hội mừng công, bình định đƣơng An Nam", các Ðại thần, các Ðại học sĩ, các Văn nhân,
quan chức phải tề tựu về kinh đô (Bắc Kinh) cùng nhau xƣớng họa, bình phẩm, gọi là chúc
mừng thọ nhân buổi đầu năm lên vua. Thực ra, đây là việc mừng chiến thắng bình định
phƣơng Nam. Nhƣng, ngày mồng 5 đã làm họ ê chề đau đớn, vì họ không có thắng lợi, mà
ngƣợc lại đã bị vua Quang Trung xóa sổ 29 vạn quân xâm lƣợc tinh nhuệ ngay trên đất Thăng
Long! Tàn quân Thanh khi chạy về lại nƣớc mình, chỉ còn vỏn vẹn 5.500 ngƣời mà đa số đều
bị sứt tay gãy gọng! Thật đột ngột, thật bất ngờ, và cũng thật đau đớn nữa... Trƣớc tin này,
Càn Long vẫn bình tĩnh, ra lệnh chiêu an Tôn Sĩ Nghị, ghép tội cho Lê Chiêu Thống... Sự
thật thế nào cũng phải phơi bày, nên về sau, Càn Long biết đƣợc lỗi lầm do Tôn Sĩ Nghị gây
nên, mới xuống chiếu nghiêm trị, bãi chức họ Tôn, cho Phúc Khang An thay thế làm lƣỡng
Quảng Tổng Ðốc, cầm giữ 50 vạn quân để bảo vệ biên giới tiếp giáp với An Nam. Trƣớc tình
hình nhƣ thế này, vua Quang Trung nhất định không thể khinh xuất, đã phải cùng triều thần
nghị bàn quyết định dùng ngoại giao để giải quyết cuộc chiến đầy thầm lặng này. Ðại Nam
Chính Biên Liệt Truyện, quyển 30, trang 36s, ghi lại bức thƣ của Thang Hùng Nghiệp (quan
đạo Tả Giang) viết cho vua Quang Trung nhƣ sau: "Lê Duy Kỳ đã trốn ra khỏi nƣớc, thiên
triều không ủng hộ cho y làm vua nƣớc Nam nữa. Vậy trong khi chƣa có ngƣời đến gõ cửa
quan xin thụ phong, thì "Ngƣời" nên đến sớm để đƣợc đặc ân...". Cơ hội hòa hoãn với Thanh
triều coi nhƣ đã nắm chắc trong tay, vua Quang Trung liền cho đòi Ngô Thời Nhiệm vào
chầu, giao cho nhiệm vụ thảo thƣ trả lời vua Thanh. Cũng trong sách này, quyển 30, trang
136b, 37a, có viết lại lời Phúc An Khang nói về tình hình sau vụ Xuân Kỷ Dậu: "...đã chính
thấy mắt Nghị trơ trọi một mình chạy về. Sau đó, tai hại đƣợc nghe thanh thế của vua Quang
Trung nên trong bụng không khỏi rụt rè, lo sợ... bèn nói nhỏ với viên thuộc quan rằng: Nam -
Bắc thôi việc binh đao đó là phúc của sinh dân, mà là điều may mắn cho quân ở ngoài bờ
cõi. Ta nghe nói viên quan coi việc giấy tờ của nƣớc Nam tên là Ngô Thì Nhậm, bao nhiêu
thƣ từ, từ trƣớc đến nay đều do tay y mà ra. Vậy ngƣơi nên viết thƣ trả lời, bảo y chuyên tâm
chủ trƣơng việc giảng hòa, gấp rút viết tờ biểu tạ tội đƣa sang, ta sẽ ở trong giúp đỡ cho,
việc ấy thế nào cũng xong..." Vua Quang Trung xuống chỉ bảo Hồ Hổ hầu làm chính sứ sang
Trung Hoa, trực tiếp gặp Thang Hùng Nghiệp. Nội dung tờ biểu đã nói lên đƣợc tính nhún
nhƣờng, kèm theo sự giải thích rõ ràng lý do phế bỏ Lê Chiêu Thống. Riêng việc va chạm với
binh đội thiên triều, thì đây chẳng qua là cách đối xử quá vụng về của Tôn Sĩ Nghị mà thôi.
Trong đoạn chót, nội dung thƣ, tỏ ra cứng rắn, không chịu lép vế, có đoạn rất đanh thép, mỉa
mai, hăm dọa (Sách vừa dẫn cùng trang): "...Tôn Sĩ Nghị lấy địa vị đại thần ở biên cƣơng, lại
vì tiền hay vì gái mà đem tờ biểu chƣơng của thần xé ném xuống đất, làm nhục sứ giả, ý
muốn động binh dấy quân, không biết việc đó quả do Ðại Hoàng Ðế sai khiến hay do Tôn Sĩ
Nghị? Thử hỏi vì một ngƣời đàn bà sai khiến mong lập công ở biên cƣơng mà cầu lợi lớn có
đáng mặt quân tử không?..." Trong phần cuối thƣ Ngô Thời Nhiệm còn nhấn mạnh: "...nay
đƣờng đƣờng là triều đình thiên tử, lại đi so hơn thua với một nƣớc rợ nhỏ, ắt là muốn cùng
khốn binh sĩ, lạm dụng vũ lực hầu sƣớng khoái cái lòng tham lam tàn bạo, thì chắc lòng dạ
của Thánh Thƣợng cũng không nhẫn. Còn nếu nhƣ cứ chiến tranh kéo dài, tính thế đến nỗi
nào thì thật không phải do thần muốn, mà thần cũng không dám nói trƣớc rồi tình thế sẽ đi
đến đâu..." Ðọc xong thơ, Thang Hùng Nghiệp run sợ, nhƣng vẫn cố giữ thái độ thật ôn hòa,
bình tĩnh nói với Hồ Hổ hầu rằng: "...nay không phải là lúc hai nƣớc đánh nhau, sao lại hành
sự toàn một giọng giận dữ? Nói nhƣ thế là để cần phong vƣơng hay muốn gây rối can qua
chăng?..." Ðối với chuyện này, Thang Hùng Nghiệp thật dở khóc dở cƣời, không biết phải
làm thế nào, thủ tiêu ngay lá thơ thì không dám mà trình lên Càn Long thì lại càng không
dám hơn. Sự việc mà đổ bể, Thang Hùng Nghiệp sẽ mất hết lòng tin của Càn Long đối với Y.
Do vậy, từ đó về sau, mọi giao thiệp với Ðại Nam đều về một tay Phúc Khang An bƣng bít lo
liệu. Chuyện ngoai giao giữa hai nƣớc kể từ đó mỗi ngày một mật thiết hơn. Tháng 11 năm
1789, khi đọc tờ biểu của Tôn Vĩnh Thanh, nói về kết quả công việc Thành Lâm sang Thăng
Long phong vƣơng cho Nguyễn Quang Bình, Càn Long chỉ thị ngay cho Tôn Vĩnh Thanh
(Ðại Thanh Thực Lục, quyển 1342, trang 17a): "Trẫm xét Thành Lâm sang Thăng Long tuyên
phong, tất chắc mục kích đƣợc quốc vƣơng và phong thổ nƣớc ấy, Trẫm muốn đích thân xét
hỏi viên quan ấy sẽ đƣợc rõ ràng hơn là lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh, phải cho ngay Thành
Lâm tiến kinh, để Trẫm hỏi..." Sứ Thanh - Thành Lâm, trong chuyến sang nƣớc Nam phong
vƣơng, vua Càn Long có gởi tặng vua Quang Trung một chiếc áo choàng màu, trên đó thêu 7
chữ: "Xa Tâm Chiết Trục Ða Ðiền Thử" Và kèm theo một bài thơ trong đó có câu: "Phát
Dị Nam Bang Y Dữ Quan" (Mũ áo không khác gì ngƣời nƣớc Nam). Lúc đó không ai có thể
hiểu đƣợc nội dung "7 đại tự" thêu trong chiếc áo, mang ý gì... Năm 1792, sau khi vua Quang
Trung băng hà, Càn Long lại làm thêm một bài thơ khác nhắc lại, ở câu thứ 7 với 7 chữ:
"Thất Tự Bất Năng Bãi Ai Thuật" (ý nói: 7 chữ không dứt đƣợc niềm xót xa của Trẫm) Và
câu:"Trung Thu Thƣợng Ức Y Quan Túc" (Trong mùa Thu trƣớc Trẫm nhớ Quốc vƣơng đã
có áo mão đoan trang), và thêm câu: "Hoài Nghi Kham Tiếu Ðại Kim Nhân" (Hoài nghi và
đáng cƣời việc triều trƣớc bắt phải làm việc cống ngƣời vàng để thay thế). Cái ái ngại và lo
lắng nhất khi vua Quang Trung còn tại vị, là Càn Long vẫn cứ đòi gặp cho bằng đƣợc con
ngƣời bằng xƣơng bằng thịt của Nguyễn Quang Bình? Chuyện bí mật vẫn chƣa ai có thể
khám phá ra vua Thanh có hàm ý gì trong "chiếc áo tặng"? Nội dung lời thơ? Tại sao "7 chữ"
đó lại không nói hết đƣợc nỗi xót xa?... Tặng "chiếc áo" chắc có lý do "đặc biệt" bên trong,
nên Càn Long mới nhắc đi nhắc lại mãi?... Phải chăng triều Minh đòi vua Lê Thái Tổ (Lê
Lợi) cống "ngƣời vàng", thì triều Thanh đòi vua Quang Trung cống "ngƣời thật"? Vua Càn
Long cho vẽ truyền thần Quang Trung (Phạm Công Trị 1790) có mƣu mô gì? Có thể Càn
Long đã biết ngƣời đƣợc vẽ hình không phải là Quang Trung thật? Ngƣợc lại, Quang Trung
giả xin một bức chân dung của Càn Long thì lại không đƣợc?... (bài biểu của sứ đoàn nƣớc
Nam nộp cho Phúc Khang An để trình lên Càn Long: "Nay hạ thần muốn xin một bức chân
dung của Hoàng Ðế để mang về nƣớc, kính cẩn cung phụng ở điện Kính Thiên"). Trên thực
tế, Mãn Thanh, không hề đặt điều kiện tiền bạc cho sự bang giao giữa 2 nƣớc. Không những
bãi bỏ lệ cống ngƣời vàng mà còn chịu chi phí rộng rãi, nồng hậu mọi khoản tiếp đón cho cả
đoàn sứ thần nƣớc Nam cả chuyến đi lẫn chuyến về. Nhất định không thể sai lầm khi có nhận
định rằng ở đằng sau bộ mặt dễ thƣơng đầy vẻ hiếu hòa kia, sẽ có một âm mƣu gì thật đáng
sợ? Trả thù? Càn Long đang ráo riết thi hành một kế hoạch, và chƣa có cơ hội bộc lộ ra bên
ngoài?... Mùa Thu 1792, vua Quang Trung băng hà, triều thần Tây Sơn mới có thể khám phá
ra đƣợc ý nghĩa của "7 đại tự" kim tuyến thêu trong "chiếc áo" tai ác kia!Theo cách chiết tự
và diễn nghĩa từ 7 chữ "Xa Tâm Chiết Trục Ða Ðiền Thử" đã có ý nói rõ: Nguyễn Huệ chết
vào năm Tý. Vì chữ "Xa" và chữ "Tâm" đem ghép lại là chữ "Huệ"; "Chiết Trục" là gẫy trục;
"Thử" là chuột mà chuột là "Tý", hay năm Tý... Nhƣ thế, phải chăng từ năm 1790 trở về
trƣớc, Càn Long đã đoán đƣợc số mạng của vua Quang Trung sẽ mất vào năm Tý? Chúng ta
có thể đƣa ra hai cách suy nghĩ để lý giải lập luận này: 1).- Càn Long là một vị vua giỏi nhất,
thông minh nhất của Thanh Triều, nhƣ thế về thuật số, bấm độn, tính quẻ, ông ta không thể
không tinh thông. 2).- Chính Càn Long là ngƣời có âm mƣu và dự mƣu giết cá nhân vua
Quang Trung từ lâu, và đã dùng thuật số ếm vào chiếc áo bào, hay gài độc vào 7 đại tự kim
tuyến để vua Quang Trung khi mặc vào sẽ bị chất độc khuếch tán từ từ. Cho đến hôm nay,
đối với việc ra đi của vua Quang Trung vẫn còn là chuyện bí mật, chƣa một ai có thể giải đáp
đƣợc những câu hỏi: "Tại sao nhà vua lại chết vào lúc tuổi đời đang sung mãn (đang đi vào
độ tuổi 40), công danh, thắng lợi cứ dồn dập ập đến? Nhà vua đã chết vì bệnh? Hay chết vì bị
đầu độc, bị ếm bùa ngãi của Càn Long? Và cũng có thể chết vì bức chân dung của Phạm
Công Trị vẽ bằng một loại mực có pha hóa chất cực độc cộng thêm việc dùng bùa chú ếm
vào chân dung đó? Hay chết vì những hoạt động tình báo của đối phƣơng? (kẻ thù gài điệp
viên vào cạnh bệ rồng? Cũng có thể là sự trả thù của con cháu nhà Lê? Của Nguyễn Ánh? Và
cũng có thể là do đoàn sứ bộ của Thành Lâm (Thành Lâm là một ngƣời rất giỏi thuật số hồi
ấy)? Sau cùng cũng có thể là sự ám hại từ phía Nguyễn Nhạc?..." Tất cả những câu hỏi trên
đều phát xuất từ các giả thuyết của một vấn đề: "Cái chết của vua Quang Trung". Rốt cuộc,
những nhà nghiên cứu chỉ có thể kết luận: "Ông ta chết vì bệnh"! Thật đơn giản, bị bệnh mà
không chữa trị đúng cách, dĩ nhiên chỉ có chết! Không thể có một ai bài bác nổi lập luận này!
Tình hình chính trị xã hội ở giai đoạn cuối thế kỷ 18 của nƣớc ta thật quá nhiều biến động. Sự
xôn xao không những xảy ra ngay trong cung đình mà ngay cả trong dân gian... Bởi vậy theo
sau một vấn đề chính thƣờng đƣợc gài thêm những chuyện phụ, nhằm tô vẽ cho sự phát triển
giáo phái "Thần quyền" của những kẻ lãnh đạo phong kiến... Làm sao ngày nay chúng ta
không thể không hoài nghi về các tài liệu để lại? Cũng cùng trong một thời gian lịch sử, lại
mang nội dung trái ngƣợc nhau? Chúng ta có thể tin tƣởng ngày chết của một ngƣời phải
đúng vào ngày giỗ hàng năm do con cháu dựng ra để tƣởng niệm. Nhƣng, cũng có thể vì một
lý do an nguy nào đó, mà con cháu nhất định chọn ngày khác, trùng với ngày qui tiên của
ngƣời trƣởng tộc của họ? Ðây cũng là cách giải quyết mang tính tục lệ của ngƣời Việt Nam
chúng ta. Ngày vĩnh biệt của vua Quang Trung có thể rơi vào tình trạng này lắm...

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM


. BÀI 8.
Thứ Ba, ngày 11 tháng 11 năm 2014
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM . BÀI 8.

LỄ THƢỢNG LƢƠNG ( GÁC ĐÕN DÔNG ).


Từ khi bắt tay vào làm nhà đến khi ngôi nhà đƣợc hoàn tất, thƣở xƣa ngƣời Việt phải tiến
hành nhiều nghi lễ.
1.- Lễ bình cơ (平基): Gia chủ đem lễ vật cúng trên miếng đất chọn làm nhà, dọn dẹp sạch sẻ
khu đất đó. Rồi sau gia chủ mới đi mời thợ đến bàn việc làm nhà.
2.- Lễ trúc cơ (築基) :- bắt đầu đắp nền nhà.
3.- Lễ phạt mộc (伐木) (lễ khởi công): Gia chủ làm hai mâm cỗ, một để cúng tổ tiên và thổ
thần, một để cúng tổ sƣ thợ mộc. Cúng xong ngƣời thợ cả cầm rìu chặt ba nhát vào cây gỗ
định làm cột cái để làm phép. Ngƣời thợ cả nhất thiết phải “lên rui mực” (định kích thƣớc
ngôi nhà vào một thanh tre gọi là rui mực, sào nhà hay thƣớc tầm). Sau đó, nhóm thợ bắt đầu
công việc cƣa xẻ gỗ.
4.- Lễ định táng (tảng) (定磉)hay còn gọi là lễ in tảng: làm lễ để đổ nền nhà, định nơi đặt cục
táng (đá kê chân cột)
5.- Lễ tàng giá (藏架) :- còn gọi là sàn vài ( ráp thử các vài cột của căn nhà). Chỗ nào chƣa
tốt thì sửa chữa lại.
6.-Lễ thƣợng lƣơng (上梁) (gác đòn dông hay lễ cất nóc ):- lễ này đƣợc coi là quan trọng
nhất không thể bỏ qua. Chọn đƣợc ngày tốt, gia chủ nhờ một ngƣời nào đó trong thân tộc, vợ
chồng song toàn, lắm con nhiều cháu làm ăn phát đạt để đƣa cây đòn dông (vịn vào) cùng với
số lƣợng mấy ngƣời phụ đỡ lên gian chính giữa. Trong khi làm lễ, cây đòn dông đó đƣợc
buộc hai cành lá thiên tuế, một vài vuông vải đỏ hay lụa đại hồng có vẻ hình bát quái, quyển
lịch Tàu hay sách chữ Nho.
7.- Lễ cái ốc (蓋屋) :- bắt đầu lợp nhà
8.- Lễ nhập trạch (入宅) (an thổ 安土) :- lễ này cúng báo để tổ tiên biết, nhà đã làm xong.
Trong số lễ vật đó có gạo rang trộn với nƣớc để rắc vào bốn góc nhà.
9.- Lễ động sàng (動床): cúng báo gia tiên để dọn về nhà mới và đƣợc kê gia cụ vào nhà.
10.- Lễ tân gia (新家) (lễ hoàn thành完城 hay còn gọi là lễ lạc thành落成, lễ cài sào):- gia
chủ làm lễ cúng gia tiên rồi gác thƣớc tầm lên hai đầu cột cái của gian chính giữa.
Lễ này tổ chức ăn uống mời bà con họ hàng, khách khứa xa gần tới dự. Những ngƣời đƣợc
mời thƣờng đem tiền, câu đối, pháo đến chúc mừng gia chủ.
11.-Lễ hoàn công (還工) (trả công thợ) :- lễ này do thợ tổ chức cúng Tổ Sƣ Lỗ Ban ,để nhận
tiền công.
12.-Lễ an cƣ (安居): làm lễ tạ tổ tiên, thổ thần để báo cho biết chủ nhân đã làm ăn yên ổn
trong nhà mới.
(Nhƣợc Thủy-Theo Ngọc Hạp).
THAM KHẢO.

Trong dân gian ở miền nam lễ này còn đƣợc gọi là "Lễ thƣợng đòn dong" nghĩa là lễ đƣa cây
đòn dong lên. Đòn dong = đòn vong theo cách phát âm dân dã phía nam. Trƣớc khi kiểu nhà
gạch xây trở nên phổ biến thì kiểu nhà thông dụng là nhà gỗ. Dù bộ khung nhà là toàn bằng
gỗ xẻ hay là trƣng dụng bằng cây cau, cây tràm, cây tre tàu, cây tre tầm vông . . . thì kết cấu
chung cũng gồm cột, xiên, kèo, đòn tay vv. Sơ lƣợc về nhà một gian có khung gỗ xẻ :
+ Cột: Chịu lực chính,dựng thẳng đứng trên viên tán bằng đá đẻo, bao gồm cột hàng nhất
(cao nhất và còn đƣợc gọi là cột cái) cột hàng nhì và cột hàng ba (chống đỡ hiên nhà nên
hàng hiên còn đƣơc gọi là hàng ba)
+ Xiên: Kết nối các dãy cột, nằm ngang và xuyên qua các thân cột, bao gồm xiên giữa, xiên
hông, xiên trƣớc, xiên sau.
+ Kèo: nằm xuôi nghiêng, gác trên đỉnh cột. Với một gian nhà rộng còn có thêm kèo dơi ở
giữa, thiếu cây cột đỡ mà đặt lên đoạn cây chõng tựa lên cây xiên thôi.
+ Đòn tay: nằm vắt ngang lên dãy kèo, thƣờng có 9 đòn tay cho mỗi một bên mái nhà (chỉ
đếm số đòn tay từ cột hàng nhì đến cột hàng nhất)
Cây đòn vong chính là một cây đòn tay đặc biệt (nhƣng không đƣợc tính vào số đòn tay) nằm
trên cùng, cao nhất, chổ giao nhau của hai mái nhà trƣớc và sau. Cây đòn vong đƣợc bào đẻo
cho thân tròn hoặc bát giác, đƣợc "cƣng" nhất và đƣợc xem là "mang linh hồn" của một căn
nhà hồi xƣa. Vì ngày trƣớc, khi còn chƣa dùng 'tole' kẽm thì mái nhà đƣợc lợp bằng ngói
hoặc bằng lá dừa, lá cỏ tranh ... nên rất cần độ dốc nghiêng để nƣớc mƣa xuôi chảy, do đó
nhà phải làm theo kiểu hai mái mà vẫn lộ rõ đỉnh nóc thật cao và căn nhà nào cũng có cây
đòn vong ở cao tận cùng trên đỉnh.

Toàn bộ khung nhà đƣợc tính tóan cẩn thận, đƣợc đo cắt đục đẻo bào gọt hoàn chỉnh từng chi
tiết, đƣợc ráp thử riêng từng bộ với nhau trƣớc khi dựng. Công đoạn chuẩn bị này là chiếm
nhiều thời gian và công sức nhất cho bộ khung mà vẫn chƣa làm gì "động thổ". Cách làm nhà
gỗ của ngƣời xƣa tuy còn là "dân quê thôn dã" so với xã hội công nghiệp ngày nay, nhƣng
nhờ kiến thức và kinh nghiệm tích lũy qua nhiều thế hệ nên xem ra lại rất khoa học và sáng
tạo. Các thiết kế mộng, ngàm, con sẻ, con nêm . . . gíup cho việc lắp ráp mau chóng mà vẫn
vững chải, khi cần chuyển chổ ở dời nhà đi thì tháo dỡ dễ dàng mà giữ đƣợc gần nguyên vẹn.
Và điều quan trọng là làm đƣợc nhiều công đoạn ngay tại dƣới mặt đất, hạn chế bớt việc thi
công trên cao vừa khó khăn nguy hiểm lại mắc công leo lên leo xuống.
Vào ngày lành tháng tốt dựng khung nhà thì có một lễ cúng để khấn vái ông bà, đất đai, nhà
cửa trong đó có Lễ thựơng đòn vong vào đúng giờ đã đƣợc chọn trƣớc. Lễ này do một ngƣời
hội đủ phúc lộc thọ đứng ra cúng kiến và chỉ đạo, kết hợp với gia trƣởng, tộc trƣởng, thợ cả
và ngƣời hợp tuổi để đƣa cây đòn vong lên. Nếu bộ khung kịp lắp ráp, thƣờng thì cũng mau
vì đã chuẩn bị kỷ lƣỡng, thì cây đòn vong đƣợc đặt vào đúng chổ của nó luôn. Nếu không kịp
ráp bộ khung, vì chọn vào giờ quá sớm trong ngày hoặc vì bộ khung lớn và phức tạp hay
chƣa kịp hoàn tất khâu chuẩn bị, thì cây đòn vong vẫn đƣợc đƣa lên ngay vị trí của nó sau
này và đựơc giá đỡ tạm thời, tựơng trƣng cho căn nhà sẽ đựơc cất lên sau. Lễ này làm nghiêm
trang lắm. Và nhƣ Dienbatn đã nói, có một cuốn lịch Tàu đƣợc treo mãi mãi vào cây đòn
vong, không ai đụng đến.
Lẽ thông thƣờng, gia chủ và thầy thợ làm nhà đều cầu mong may mắn cho căn nhà mới. Căn
nhà ở nào đựơc bình an hạnh phúc và làm ăn khấm khá thì vị thợ cả đƣợc cho là "mát tay" và
sẽ đƣợc đắt mối làm nhà. Trong quá trình làm nhà thì gia chủ rất mực săn sóc thầy thợ, hoàn
chỉnh trả công xong còn chiêu đãi để tỏ lòng biết ơn. Tuy vậy, vẫn có đồn đãi cho rằng gia
chủ nào đối đãi thầy thợ không hậu hỉ sẽ bị thợ cả biết thuật Lỗ Ban ếm cho gia đạo bất hoà,
làm ăn thất bát, ngóc đầu không nổi.
Nhân tiện nhắc đến Lỗ Ban nên có vài lời về cây thƣớc Lỗ Ban luôn. Đến giờ lƣu truyền vài
chuẩn khác nhau về cây thƣớc Lỗ Ban chẳng biết cái nào là đúng (cây thƣớc của ông Bố NT
từng dùng thì dài 40,5 cm). Ngƣời thợ mộc ngày trƣớc theo cây thƣớc Lỗ Ban này tìm "cung
tốt" để tính toán và lên qui cách một số thông số trong căn nhà. Bởi vì thầy thợ ai ai cũng
theo thƣớc này nên hoá ra nhà cửa có một số qui cách rập khuôn giống nhau hoặc chỉ thay đổi
xê xích chút ít nên cũng thuận tiện cho việc thiết kế và thi công. Và nhìn chung, nếu "chọn"
theo các số đo thuộc cung tốt trên thƣớc này thì nhà cửa, nội thất lại đƣợc phù hợp với đặc
điểm sinh lý chung của cơ thể con ngƣời, chẳng hạn nhƣ chiều cao, khổ vai, tầm với tay, sải
bƣớc chân đi, khác biệt cao độ tƣơng quan giữa ngồi xuống và đứng thẳng lên ... và cũng
đƣợc thuận tiện trong ăn ở theo nhƣ tập quán sinh hoạt thuở trƣớc.
Ngày nay thịnh hành kiểu nhà bê tông đúc, nhà gạch xây một mái lợp 'tole' dốc thoai thoải,
nên dù còn sử dụng cây đòn tay để lợp mái nhà nhƣng không còn cây đòn vong, vẫn cúng
kiến làm lễ khởi công động thổ đào móng nhƣng không còn Lễ Thƣợng Lƣơng và cũng hiếm
thấy quyển lịch Tàu bụi bám nằm treo trên nóc nhà.
(Của anh Hồng Đức bên Palawan ).
BÙA THƢỢNG LƢƠNG DO DIENBATN KHÔI PHỤC LẠI TỪ BÙA CỔ .
姜太公在此百無禁忌
Đọc: Khƣơng Thái Công tại thử bách vô cấm kị
Nghĩa: Khƣơng Thái Công tại đây, tà ma đi hết.
ĐỒ LỄ THƢỢNG LƢƠNG :
1/ Xôi - gà.
2/ một bộ Quan Thần linh ( mũ - áo - ủng - ngựa - 1000 vàng hoa ) tất cả màu vàng+ 200
cuốn Thọ sinh kinh – tiền mã.
3/ 01 đĩa ngũ quả ( 5 loại ).
4/ o1 bình hoa cúc hay hồng.
5/ 3 cốc trà - 3 cốc rƣợu - 3 cốc nƣớc.
6/ 9 cây nến cốc màu đỏ.
7/ Trầu cau - rƣợu - thuốc lá.
8/ ít giấy tiền vàng bạc cúng vong.
9/ Gạo , muối.
10/ 01 tô cháo trắng.
11/ bỏng ngô, ngô , khoai luộc.
12/ 01 bó hƣơng.
13/ Một bộ Tam sên : Thịt luộc – 01 trứng vịt luộc – một nhúm tôm nõn.
Khi dọn đến nhà mới cần mang trƣớc : Bàn thờ - Gạo đầy thùng – Muối đầy hũ – Bật lửa mới
vài cái.

THAM KHẢO THÊM.


Lệ tục và Văn khấn trong ĐỘNG THỔ, CẤT NÓC.
Việc chọn ngày tốt, tránh ngày xấu, cầu cúng từ lâu đã trở thành truyền thống văn hoá của
các dân tộc Đông phƣơng theo nguyên lý “Thiên Nhân hợp nhất”. Thủa xƣa có đến 85 việc
cần xem ngày, làm Lễ chia thành 7 nhóm trong đó có các công việc liên quan tới tu sửa, làm
mới các kiến trúc gồm 26 việc. Nay chỉ những sự kiện lớn của đời ngƣời mới tiến hành nghi
thức đó.
Đối với ngƣời Việt, làm nhà là một trong ba việc lớn của đời ngƣời (lấy vợ, làm nhà, cha mẹ
chết). Do đó từ xƣa tới nay, ngƣời ta luôn cẩn trọng trong việc phạt mộc, đào móng, dựng
nhà, cất nóc, vào nhà mới. Dân gian quan niệm nóc nhà (cây Thƣợng lƣơng) rất quan trọng
bởi không có nóc không thành nhà. Do đó khi làm nhà, ngƣời ta làm lễ cất nóc, chữ gọi là lễ
Thƣợng lƣơng. Ngày nay, nhà đổ mái bằng thì “cất nóc” là đổ mái tầng cao nhất.
Gần đây việc trùng tu, tân tạo đình, chùa, nhà thờ, đền, miếu theo dạng kiến trúc cổ nên “cất
nóc” rất quan trọng.
1. Chuẩn bị:
1.1. Chọn ngày:
Đây là việc lớn nên cần đi xem ngày, chọn giờ. Yêu cầu chung nhất là ngày giờ đó phải: hợp
với việc tạo tác, có nhiều Cát thần, hợp với bản mệnh của ngƣời chủ sự, đủ điều kiện về xây
dựng, tổ chức. Thƣờng chọn ngàứồc sao: Hoàng đạo, Sinh khí, Lộc mã, Giải thần. ...; tránh
ngày xấu là ngày Hắc đạo, Sát chủ, Thổ cấm, Trùng tang, Hùng phục.....
1.2. Viết chữ, xin bùa:
1.2.1. Chữ viết trên Thƣợng lƣơng thƣờng là chỉ thời gian và phải nhờ ngƣời viết chữ đẹp.
Chú ý rằng: chân chữ hƣớng ra cửa, từ ngoài nhìn vào phía tay phải là điểm bắt đầu, số chữ
có chữ cuối đứng vào chữ “Sinh” (là 5, 9, 13, 17, 21, 25)Ví dụ:
* Chữ đề trên cây nóc nhà làm năm 1925:
- Nguyên văn: 啟定十年歲乙丑四月二十一日良辰豎柱上樑大吉 (21 chữ).
- Phiên âm: Khải Định Thập niên tuế Ất Sửu Tứ nguyệt Nhị thập Nhất nhật lƣơng thời, thụ
trụ thƣợng lƣơng đại cát
- Dịch nghĩa: Giờ lành ngày 21 tháng 4 năm Ất Sửu 1925, năm thứ Mƣời niên hiệu Khải
Định dựng cây thƣợng lƣơng đạt nhiều điềm may mắn.
* Chữ đề trên cây nóc khi trùng tu nhà năm 1931:
- Nguyên văn: 皇朝保大六年歲次辛未四月十九日辰牌重修豎柱上樑大吉 (25 chữ).
- Phiên âm: Hoàng triều Bảo Đại Lục niên tuế thứ Tân Mùi Tứ nguyệt Thập Cửu nhật thời
bài, trùng tu - thụ trụ thƣợng lƣơng đại cát
- Dịch nghĩa: Ngày 19 tháng 4 năm Tân Mùi 1931 năm thứ Sáu niên hiệu Hoàng triều Bảo
Đại dựng cây thƣợng lƣơng khi trùng tu, đạt nhiều điềm may mắn.
1.2.2. Còn câu đầu ở bên phải là vế có âm trắc ở cuối.
1.2.3. Một miếng vải đỏ có đề ngày tháng tiến hành Lễ và mấy chữ: 姜太公在此 (Khƣơng
Thái công tại thử, tức Ông Khƣơng Thái công hiện ở đây), đƣợc treo vào Thƣợng lƣơng hoặc
thay miếng vải đỏ bằng lá bùa Bát quái, để trừ tà ma.
1.3. Sắm đồ lễ:
Ngày xƣa phải cúng tam sinh (3 con vật), ngày nay đơn giản hơn, nhƣng cần phải có:
- Một con gà; Một đĩa xôi hoặc bánh chƣng.
- Một đĩa muối; Một bát gạo; Một bát nƣớc.
- Nửa lít rƣợu trắng; Bao thuốc, lạng chè.
- Một bộ quần áo Quan Thần Linh, mũ, hia tất cả màu đỏ, kiếm trắng.
- Một đinh vàng hoa; Năm lễ vàng tiền.
- Năm cái oản đỏ; Năm lá trầu, năm quả cau.
- Năm quả tròn; Chín bông hoa hồng đỏ.
2. Nghi thức:
Chuẩn bị tốt hiện trƣờng: don nơi đào móng, bắc đòn chính của nóc nhà lên đỉnh sƣờn nhà.
Đúng ngày giờ đã chọn, để Lễ vật ở một cái mâm nhỏ rồi đặt mâm lễ lên một cái bàn con
(hay ghế cao) ở giữa khu đất sẽ đƣợc đào móng.
Gia chủ quần áo chỉnh tề, thắp đèn, rót rƣợu, đốt nhang vái bốn phƣơng, tám hƣớng rồi quay
vào mâm lễ mà khấn (nhiều ngƣời mời Thầy) cáo gia tiên. Lễ xong, trƣớc đây có đốt pháo,
ngày nay thƣờng phụt pháo giấy. Tiếng pháo vừa biểu lộ sự vui sƣớng vừa để đuổi tà ma.
Khi hƣơng gần tàn gia chủ hoá tiền vàng, rắc gạo, muối ra xung quanh rồi tự tay cuốc 7 nhát
vào chỗ định đào móng (nếu cất nóc thì kéo nóc đặt vào vị trí). Ngay sau đó tốp thợ có thể
tiến hành công việc[1].
Cũng trong dịp này, chủ nhà mời bà con họ hàng tới chung vui “thụ lộc” và mừng cho gia
chủ.
Phảm vật cúng xong chia cho tốp thợ 1 nửa.
3. Văn khấn:
Nam Mô A Di Đà Phật! (3 lần)
Con kính lạy[2] Chín phƣơng Trời, mƣời phƣơng Chƣ Phật, Chƣ Phật mƣời phƣơng.
Con kính lạy Hoàng thiên Hậu Thổ, Tiền chủ Hậu chủ chƣ vị Tôn thần.
Con kính lạy Đƣơng niên Quý Tị niên Chí đức Tôn thần: Từ giả Đại tƣớng Quân[3]; Ngài
Đƣơng niên chi Thần: Ngô Vƣơng Hành khiển, Thiên Hải chi Thần, Hứa Tào Phán quan[4].
Con kính lạy các ngài Bản cảnh Thành hoàng chƣ vị Đại vƣơng, ngài Bản xứ Thần linh Thổ
địa, ngài Bản gia Táo quân: Đông trù Tƣ mệnh Táo phủ thần quân, Thổ địa Long mạch Tôn
thần, Ngũ phƣơng, Ngũ Thổ, Phúc đức Chính thần và Chƣ vị thần linh cai quản xứ này .
Hôm nay là ngày ngày Rằm tháng Tám năm Quý Tị, vào năm thứ 68 của nƣớc CHXHCN
Việt Nam, tức là vào thứ Năm, ngày 19 tháng 09 năm 2013.
Tín chủ con là: Lƣơng Đức Thuộc
Ngụ tại: thôn An Phong, xã Phong Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai
Thành tâm sắm lễ, quả cau lá trầu, hƣơng hoa trà quả, rƣợu thịt nƣớc trong, thắp nén tâm
hƣơng, dâng lên trƣớc án, có lời thƣa rằng: tín chủ con khởi tạo (hoặc cất nóc, xây cổng, sửa
chữa hay xây mới...) căn nhà ở thôn An Phong, xã Phong Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào
Cai để làm nơi cƣ ngụ cho gia đình con, con cháu.
Nay chọn đƣợc ngày lành tháng tốt, kính cáo chƣ vị linh thần, cúi mong soi xét và cho phép
đƣợc động thổ (hoặc cất nóc, xây cổng, sửa chữa hay xây mới...).
Tín chủ con lòng thành lễ vật dâng lên trƣớc án thành tâm kính mời:
Ngài Kim niên Đƣơng cai Thái Tuế chí đức tôn thần.
Ngài Bản cảnh Thành hoàng Chƣ vị Đại Vƣơng.
Ngài Bản xứ Thần Linh Thổ Địa.
Ngài Định phúc Táo quân, các ngài Địa chúa long mạch Tôn thần và tất cả các vị
Thần Linh cai quản ở trong khu vực này.
Cúi xin các ngài giáng lâm trƣớc án, chứng giám lòng thành, thụ hƣởng lễ vật, độ cho chúng
con mọi duyên thuận lợi, công việc hanh thông, chủ thợ đƣợc bình an, ngày tháng hƣởng
phần lợi lạc, âm phù dƣơng trợ, sở cầu nhƣ ý, sở nguyện tòng tâm.
Tín chủ lại xin phổ cáo với các vị Tiền chủ, Hậu chủ và các vị Hƣơng linh khuất mặt lẩn
khuất quanh đây, các linh hồn chiến sĩ trận vong vì nƣớc, các oan hồn uổng tử không nơi
nƣơng tựa, xin cùng tới đây thụ hƣởng lễ vật, độ cho tín chủ cũng nhƣ chủ thợ đôi bên, khiến
cho an lạc, công việc chóng thành, muôn sự nhƣ ý, từ đây hoạn lộ hanh thông, Đông thành
Tây tựu, trú sở cát tƣờng.
Chúng con lễ bạc tâm thành, trƣớc án kính lễ, cúi xin đƣợc phù hộ độ trì.
Nam Mô A Di Đà Phật! (3 lần)

Lƣơng Đức Mến (soạn từ nhiều nguồn tham khảo, dùng trong gia tộc).
[1] Nếu mƣợn tuổi làm nhà:
- Trƣớc đó phải làm giấy tờ bán tƣợng trƣng khu đất đó cho ngƣời mƣợn tuổi lấy 99.000
đồng có làm giấy tờ, chủ nhà giữ giấy này.
- Khi động thổ: ngƣời mƣợn tuổi thay gia chủ khấn vái và động thổ nhƣ trên. Lúc này gia chủ
phải lánh khỏi nơi làm nhà xa từ 50m trở lên, sau khi hoàn tất việc động thổ xong mới trở về.
- Các kỳ đổ mái tầng 1, tầng 2… và tầng cuối cùng, ngƣời mƣợn tuổi vẫn tiếp tục dâng
hƣơng, khấn lễ, gia chủ vẫn phải lánh mặt lúc làm lễ.
- Khi nhập trạch: ngƣời mƣợn tuổi làm mọi thủ tục dâng hƣơng, khấn thành lời bàn giao nhà
cho gia chủ. Gia chủ làm giấy tờ mua lại nhà với giá 100.000 đồng và khấn cầu, lễ theo phần
nhập trạch.
[2] Xem thêm ở đây: http://holuongduclaocai.blogspot.com/2013/08/chu-y-trong-phan-kinh-
thinh-cua-van-khan.html
[3] Thay đổi từng năm trong Vòng luân phiên các Thái Tuế tinh quân trong Lục thập Hoa
giáp, xem tại đây: http://holuongduclaocai.blogspot.com/2012/01/vong-thai-tue.html

[4] Tên quan Hành khiển, Thần và Phán quan (Lƣu niên Hành khiển) thay đổi theo Thập nhị
Địa Chi của năm, xem: http://holuongduclaocai.blogspot.com/2011/02/luu-nien-hanh-
khien.html

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM


. BÀI 9.

Thứ Sáu, ngày 14 tháng 11 năm 2014


CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM . BÀI 9.

BA MIỀN QUÊ CỦA CÁC NHÂN TÀI ĐẤT VIỆT.


Xin bắt đầu từ tỉnh Hà Đông với trung tâm là huyện Thanh Trì ( Về mặt Phong thuỷ). Hà
đông là tỉnh ở bắc bộ do Pháp lập ra năm 1888. Tỉnh lị ở làng Cầu Đơ, nên tỉnh lúc này gọi là
tỉnh cầu Cầu Đơ, năm 1904 mới đổi tên là tỉnh Hà Đông. Vị trí của tỉnh Hà Đông nằm ở phía
tây sông Nhị Hà ( đáng lẽ ra, theo lý do đó, tỉnh này phải gọi là Hà Tây mới đúng, nhƣng có
lẽ những ngƣời đặt tên tỉnh lấy lý do là tỉnh này là đất văn vật nhƣ đất Hà Đông bên Trung
Quốc). Tỉnh Hà Đông gồm một thị xã, tỉnh lị ở trên dòng sông Nhuệ và chín huyện : Chƣơng
Mỹ, Đan Phƣợng, Từ Liêm, Hoài Đức( nay là Mỹ Đức), Phú Xuyên , Thanh Trì, Thƣờng Tín,
Ứng Hoà, sau năm 1963 hợp nhất với tỉnh Sơn Tây thành tỉnh Hà Tây, tỉnh lị vẫn ở Hà Đông
. Năm 1977, bị cắt các huyện Hoài Đức, Đan Phƣợng, Thạch Thất, Phúc Thọ ,Ba Vì và một
phần huyện Chƣơng Mỹ Về Hà Nội, sau lại trở về tỉnh Hà Tây. Tỉnh Hà Đông hồi pháp thuộc
có nhiều nghề thủ công phát đạt, quê hƣơng của rất nhiều các nhân vật nổi tiếng xƣa nay :
Chu Văn An,Hoàng Tăng Bí,Bùi Huy Bích, Bùi Bị, Lƣơng Văn Can, Đặng trần Côn, Nguyễn
quí Cảnh, Lê ngô cát, Nguyễn Công Cơ,Dƣơng bá Cung , Ngô Đình Chất, Phạm Giao, Ngô
Thời Du, Nguyễn Danh Dự, Lê Đại, Từ Đạm, Nguyễn Nhƣ Đỗ, Nguyễn Quí Đức, Đỗ Thế
Gia ,Vũ Phạm Hàm , Nguyễn Thƣợng Hiền, Nguyễn Trọng Hợp, Đặng Huấn,Nguyễn kiều,
Nguyễn Bá Kỳ, Nguyễn Phi Khanh, Dƣơng Khuê, Dƣơng Lâm, Ngô sĩ Liên, Nguyễn hữu
liêu , Đặng Đình Long, Đoàn Trần Nghiệp, Ngô Thời Nhậm, Nhàn Khanh, Đào Quang
Nhiêu, Lý Ông Trọng, Phan Lê Phiên, Lý Trần Quán, Lƣơng Ngọc Quyến, Nguyễn Quyện,
Phạm Quỳnh, Hà Tống Quyền, Nguyễn Siêu, Ngô Thời Sĩ, Lý tử tấn , Phan Phù Tiên, Phạm
Tu, Đặc Đình Tƣớng, Nguyễn Công Thái , Trình Thanh, Tô Hiến Thành, Nguyễn hải thần ,
Nguyễn Danh Thế, Nguyễn Thuyến, Nguyễn viết Thứ, Đặng Trần Thƣờng, Bùi Xƣơng Trạch
,Nguyễn Trãi, Vũ Công Trấn, Nguyễn quốc Trinh, Nguyễn Thời Trung, Nguyễn Trực, Lƣu
nguyên Ân,Bùi bỉnh Uyên, Bùi Vịnh... Hiện nay còn có rất nhiều các nhân vật đang tại chức
mà ngƣời viết không muốn nêu tên tại đây.
Nói về huyện Thanh Trì : huyện thuộc phủ Thƣờng Tín, Tỉnh Hà Nội (1831) sau thuộc Hà
Đông (1888) nay nhập vào Hà Nội. Trƣớc là châu Thƣợng Phúc về đời Lý sau là huyện Long
Đàm. Đời Lê vì kị huý tên vua Lê Thế Tông đổi là huyện Thanh Trì. Huyện bắc giáp quận
Hai bà Trƣng và huyện Từ Liêm. Đông giáp sông Hồng ngăn cách với huyện Gia Lâm và văn
Giang. Nam giáp Thƣờng Tín. Tây giáp Hoài Đức. Huyện có nhiều đầm tự nhiên : Linh
Đƣờng, Thánh Liệt(đầm Sét), Vạn Xuân, đầm Mực...Từ thời Lê về trƣớc có 60 ngƣời thi đỗ
đại khoa. Đình ngoài Thanh Liệt thờ Phạm Tu, đình trong thờ Chu Văn An, đình Đông Phù
Và Việt Yên thờ sứ quân Nguyễn Siêu, đình Tả Thanh Oai thờ Lê Đại Hành, đình Quí Đô thờ
Tô Hiến Thành, đình Triều Khúc thờ Phùng Hƣng. Quê của Lê Đình Diên, Bùi Huy Bích,
Chu văn An , Bạch Thái Bƣởi, Đặng Trần Côn, Đồ Lệnh danh, Phạm Quỳnh, Phạm Dao,
Nguyễn Phƣơng Đỉnh, Nguyễn Nhƣ Đổ, Nguyễn trọng Hợp, Nguyễn Hải Thần, Trần Hoà, Lê
Bá ly, Nguyễn Nghi, Hoàng thị Ngọc san, Lê San, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Công Thái,
Nguyễn Công Thể, Đỗ Lệnh thiên lƣu Tiệp, Bùi xƣơng Trạch, Nguyễn Quốc Trinh, Bùi Trụ,
Nguyễn Đình trụ,Phạm Tu, Nguyễn Huy Túc, Lƣu nguyên Uân, Cung Đình Vận, Nguyễn
Viêm, Viễn Chiếu Thiền Sƣ, Đàm xuân Vực ... đất này thực chất đã sinh ra Vua...
Tại sao miền quê này có nhiều nhân tài đến vậy? xin thƣa đó là phong thuỷ hợp cách.
Trƣớc khi tiến hành phân tích về phong thuỷ chúng ta sẽ tiếp tục du ngoạn tới vùng đất thứ
hai đó là Bắc Ninh với trung tâm là huyện Đông Ngàn.
Bắc Ninh tỉnh ở phía đông bắc thành Hà Nội, đời Lê là trấn Kinh Bắc, năm Minh Mạng thứ
ba (1822) đổi là trấn Bắc Ninh, năm 1831 đổi là tỉnh Bắc Ninh. Năm 1895, Pháp chia tỉnh
Bắc Ninh thành hai tỉnh Bắc Ninh và Lục Nam (sau năm 1963 đổi là tỉnh Bức Giang), sau
hợp nhất thành tỉnh Hà Bắc nay lại tách ra nhƣ cũ. Tỉnh Bắc Ninh hồi Minh Mạng gồm phủ
từ sơn (huyện Đông Ngàn do phủ kiêm lý), huyện Tiên Du, huyện Võ Giàng, Quế Dƣơng,
Yên Phong, phủ Thuận An, sau đổi là Thuận Thành ( gồm huyện Gia Lâm , Văn Giang, Gia
Bình, Lạng Tài), Phủ Thiên Phúc, Phủ Lạng Giang. Tỉnh bắc Ninh phía tây có sông Hồng
ngăn cách với Hà Nội, khoảng giữa có sông Cầu chảy đến Phả Lại, thì gặp sông Đuống với
sông Thƣơng. Vùng Lạng Giang thì núi non hiểm trở, còn vùng Bắc Ninh thì ruộng đồng
bằng phẳng , xanh tốt, thỉnh thoảng có những đồi núi thấp có tên tuổi gắn với lịch sử nhƣ :
núi Sóc Sơn, núi Tiên Du, núi Vũ Ninh, núi Thiên thai. Bắc Ninh có tiếng là đất văn vật nhất
của cả nƣớc, có Lê văn Thịnh đỗ trạng nguyên đầu tiên về đời Lý, Nguyễn Quan Quang trạng
nguyên đầu tiên về đời Trần, số trạng nguyên và tiến sĩ nhiều nhất so với các tỉnh khác, là quê
hƣơng của : Hoàng Hoa thám, Đốc Quế, Đốc Sung, Đốc Mỹ, Lãnh Điềm, Hai Tƣớc, Đốc
Tác, Quản Kỳ, Đội Văn, Lãnh Giới, Lãnh Giám , Lãnh Thiết, Cai Bình, Cai Biên, Đề hoàng,
Đề Năm , Đề Kiều, Nguyễn Án, Trần danh Án, Nguyễn Quang Bật, Nguyễn Nhân Bị,
Nguyễn Cao, Nguyễn Đăng Cảo, Phạm Huy Cơ, Nguyễn Văn Cừ, Đào Cử, Nguyễn tự
Cƣờng, Đặng Công Chất, Trần Quang Châu, Phó Đức chính, Lê duy Đản, Nguyễn Cƣ Đạo,
Nguyễn Tƣ Giản, Trƣơng hát, Trƣơng Tống, Đặng thị Huệ, Đàm Thuận Huy, Sƣ Huyền
Quang, Phạm Khiêm Ích, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Bá Kỳ, Hoàng Sĩ Khải, Trần Danh Lâm,
Đoàn văn Lễ, Ngô Luân, Lê tuấn Mậu, Cao bá Nhạ, Lê Quýnh, Nguyễn Quyền, Hoàng Công
Phu, Nguyễn quan Quang, Cao Bá Quát, Nguyễn Đăng Sở, Nguyễn Mậu Tài, Dƣơng Trọng
Tế, Ngô Thầm, Nguyễn Miễn Thiệu, Nguyễn Thiên Tích, Nguyễn Thủ Tiệp, Hứa tam Tĩnh,
Ngô sách Tuấn, Nguyễn Thiên Túng, Nguyễn nghiên Tƣ, Nguyễn Gia Thiều, Ngô miễn
Thiệu, Nguyễn Nhân Thiếp, Lê văn Thịnh, Nguyễn Thực, Phạm Văn Tráng, Lý Công Uẩn,
Sƣ Vạn Hạnh …
Đông Ngàn huyện thuộc Phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc về đời Lê, có 13 tổng, địa thế rộng,
trƣớc là châu Cổ Lãm, Lê Đại Hành đổi là châu Cổ Pháp, nhà Lý đổi là phủ Thiên Đức, tên
Đông Ngàn xuất hiện từ thời Trần, đời Minh là huyện Đông Ngàn phủ Bắc Giang, Lê Thánh
Tông đổi thành phủ Từ Sơn… Đây là huyện có truyền thống văn hoá lâu đời ( 130 ngƣời đỗ
đại khoa đến hết triều Lê và 174 ngƣời hết triều Nguyễn). Quê hƣơng của rất nhiều nhân sĩ
nhƣ Nguyễn Án, Nguyễn Tự Cƣờng, Đặng công Chất, Nguyễn Chính, Nguyễn Tƣ Giản,
Quách Giai, Nguyễn Công Hãng, Nguyễn Đình Huấn, Nguyễn văn Huy, Trần Lâu, Nguyễn
Hữu Nghiêm, Nguyễn Giáo Phƣơng, Nguyễn Quan Quang, Phạm Thái, Nguyễn Giản Thanh,
Ngô miễn Thiệu, Nguyễn Thực, Ngô Thế Tri, Ngô Gia Tự, Lý Công Uẩn, Vạn thế Thiền
Sƣ…đây cũng là đất phát chín đời vua lý đặt dấu ấn cho thời kỳ hƣng vƣợng của đất Việt
Miền quê thứ ba xin đề cập ở đây chính là tỉnh Hải Dƣơng mà trung tâm là huyện Thanh Lâm
phủ Nam Sách.
Hải Dƣơng là tỉnh ở bắc bộ, xƣa giáp sông Hồng , ở về phía đông của kinh thành, nên còn gọi
là tỉnh Đông. Về đời Lê là một trong tứ nội Trấn (Sơn Tây,Sơn Nam, Kinh Bắc,Hải Dƣơng).
Năm 1466 gọi là thừa tuyên Nam Sách, năm 1469 đổi là thừa tuyên Hải Dƣơng, Vua tƣơng
Dực đổi là trấn Hải Dƣơng. Đời Mạc trích các phủ Thuận An thuộc Trấn Kinh Bắc, Phủ
Khoái Châu, Tân Hƣng, Kiến Xƣơng, Thái Bình thuộc trấn Sơn Nam cho thuộc về trấn Hải
Dƣơng vì là quê hƣơng của nhà Mạc. Sau nhà Lê xoá bỏ những việc làm của nhà Mạc, trấn
Hải Dƣơng trở về địa giới cũ. Năm 1831 đặt là tỉnh Hải Dƣơng gồm phủ Thƣợng Hồng sau
đổi là Phủ Bình Giang, phủ Hạ Hồng sau đổi là phủ Ninh Giang, Phủ Nam Sách ( huyện
Thanh Lâm do phủ kiên lí), phủ Kinh Môn. Năm 1968 sát nhập tỉnh Hải Dƣơng và Hƣng Yên
thành tỉnh Hải Hƣng, nay lại tách ra nhƣ cũ. Tỉnh Hải Dƣơng, trừ huyện Đông Triều có dẫy
Yên Tử cao từ 837m đến 1068m và huyện Chí Linh có núi Phả lại, núi Côn Sơn không cao
mấy còn ra toàn đồng bằng đƣợc tƣới tiêu bằng các sông Thái Bình chảy qua giữa tỉnh và các
chi lƣu Sông Kinh Thầy, Sông Kinh Môn, Sông Luộc làm biên giới với tỉnh Thái Bình. Tỉnh
Hải Dƣơng là tỉnh giầu có về sản xuất lƣơng thực và nghề thủ công, lại là tỉnh văn vật có
nhiều ngƣời thi đỗ đại khoa về đời Lê và dời Nguyễn. Quê hƣơng của nhiều nhânvật lịch sử :
Phạm Ban, Lại kim Bảng, Nguyễn thái Bạt, Mạc Thị Bƣởi, Vũ Cán, Nguyễn Hữu Cầu, Lý Tử
Cán, Nguyễn Cừ, Trần Quốc Trân, Mạc Đĩnh Chi, Trần Khắc Chung, Lê thiếu Đĩnh, Khúc
Thừa Dụ, Nguyễn Thị Duệ, Mạc Đăng Dung, Trần Khánh Dƣ, Nguyễn Dữ, Trần Nguyên
Đán, Vũ Phƣơng Đề, Vũ Duy Đoán, Phạm Đồn, Phạm tiến Đức, Đoàn Nhữ Hải, Đinh nhã
Hành, Phạm Hạp, Ngô Hoán, Phạm Đình Hổ, Lƣơng Nhữ Hộc, Nguyễn Huân, Lê Huân,
Phạm chí Hƣơng ,Vũ Hữu, Trần Thời Kiến, Yết Kiêu, Bùi Bá Kỳ, Trần Quốc lặc, Phạm Cự
Lƣợng, Nguyễn mại, Phạm Tông Mại, Phạm sƣ Mệnh, Vù Văn Mật, Lê Nại, Đinh Tích
Nhƣỡng, Nguyễn Thế Nghĩa, Vũ Trác Oánh, Pháp Loa, Trần Phong, Đinh Văn Phục, Đỗ
Quang, Phạm quỳnh, Võ quỳnh, Đinh văn Tả, Nguyễn Quý Tân, Vũ Huy Tấn, Mạc Hiển
Tích, Đốc Tít, Nhữ Đình Toản, Vũ Nhƣ Tô, Lê cảnh Tuân, Tuệ Tĩnh, Nguyễn Tiển, Thái
Thuận, Trần Đình Thám, Đinh văn Thảm, Phạm Quý Thích, Đoàn Thƣợng, Phạm Đình Trạc,
Phạm Đình Trọng, Pham Công Trứ, Vũ văn Uyên... Đất này cũng đã phát bá nghiệp cho nhà
Mạc, hiện nay có rất nhiều các nhân vật chủ chốt đang tại chức cũng sinh ra tại đây.
Nam Sách tên phủ lộ về đời Trần , đời Lê và đời Nguyễn, gồm các huyện Thanh lâm, Chí
Linh, Thanh Hà. Phủ Nam sách có sông bao quanh ( sông Lục Nam, Lục Đầu, Thái Bình,
Kinh Thầy). Phủ nổi tiếng về văn học. Từ đời Lê về trƣớc, có 165 ngƣời đỗ đại khoa, nhiều
nhất các phủ trong toàn quốc, riêng huyện Thanh Lâm có 93 ngƣời là huyện đỗ đật cao nhì
nƣớc sau huyện Đông Ngàn 130 ngƣời.
Trên đây là ba miền quê, xin các bạn phân tích vì chúng có những đặc điểm phong thuỷ rất
đặc trƣng không vùng nào giống vùng nào . Từ xƣa đến nay các phong thuỷ sƣ thực thụ đều
phải bắt đầu từ đại cục - nhìn đại cục mà đoán định sự suy thịnh của một nƣớc trong quá khứ
cũng nhƣ hiện tại và tƣơng lai, nó gắn liền với sự hƣng vong của đại đô, tiếp đó mới xét tới
trung cục để định rõ sự thịnh vƣợng hay suy tàn của đại quận, châu phủ - biết mà dùng vào
việc bổ trợ nguyên khí cho đế đô, cuối cùng mới xét đến tiểu cục – nhìn nó mà thấu hiểu vận
mệnh của làng xóm, gia tộc và cá nhân con ngƣời, nói thì tác bạch nhƣ vậy nhƣng luận thì
chúng là một thực thể thống nhất. Cũng chính vì lý do nhƣ vậy mà khi luận long kết huyệt ta
phải phân ra "tam tụ". "Đại tụ" là nơi có thể làm đại đô của một nƣớc. "Trung tụ thích hợp
cho đại quận châu phủ là các thành phố vệ tinh tiếp sức cho đại đô. "Tiểu tụ" dĩ nhiên là cho
tạo làng đặt xóm hay dƣơng cơ và âm phần.

Nhìn tổng thể hình sông thế núi của Đất Việt Ngàn Năm cả đồng bằng sông Hồng là đại cục
mà nguyên khí đại tụ tại Thăng Long xứng đáng là đại đô nhiều đời ( tuy vậy cần có nhiều cải
tạo mới phát huy hết sức mạnh vốn có của nó), vận mệnh của quốc gia phần nhiều đƣợc
quyết định bởi phong thuỷ của đại cục này. Xét tới ba tỉnh Hà Đông, Bắc Ninh và Hải Dƣơng
là trung cục mà nguyên khí "trung tụ" tại ba huyện Thanh trì, Đông ngàn và Thanh Lâm, ba
nơi này tạo thành thế chân vạc tiền, tả, hữu hỗ trợ nguyên khí cho Thăng Long (Tất nhiên còn
nhiều trung cục khác hỗ trợ). Để thấy đƣợc sự độc đáo của mỗi vùng chúng ta sẽ lần lƣợt tiến
hành phân tích hình sông thế núi của ba khu vực này :
Tỉnh Hà Đông với trung tâm là huyện Thanh Trì toạ lạc trên một miền đất đồng bằng lƣng
dựa núi mặt hƣớng thuỷ là nơi long đình khí chỉ của một một long mạch tới từ Trung Quốc.
Long mạch - Chi trung kết cán- cỡ trung bình chạy theo hƣớng tây bắc đông nam ( kẹp bởi
hai đại giang là Đà giang và Mã Giang) bắt nguồn từ sơn nguyên Tây Tạng chạy qua Vân
Nam Trung Quốc hƣớng về phía nam qua Lào vào Việt Nam tại tỉnh Điện Biên, Lai châu với
các dãy núi cao trên 2000m . Khi tiến vào Việt Nam long bắt đầu thoát xác từ già hoá trẻ- dấu
hiệu của sinh khí tăng dần, đến khu vực hồ Hoà Bình Trung cán long này thúc yết rồi phân ra
làm ba nhánh
Tả chi tạo thành tay long quay ngƣợc lên phía bắc đi theo Đà giang tạo thành dãy Ba vì hùng
vĩ với ba ngọn núi là núi Ông, núi Bà (1120m) và núi Chẹ ( Tản Viên 1287m), ngọn giữa Tản
Viên có hình thắt cổ bồng, trên toả ra nhƣ cái tán ( long mạch đại quí cách).
Hữu chi tạo thành tay hổ tiếp tục di chuyển về phía đông nam rồi tách ra làm 3 chi nhỏ phân
cách bởi hai con sông là sông Bồi và sông Bƣởi. Chi ngoài cùng còn rất hùng hậu đột khởi
nên dãy núi Phu Nha Phong cao 1587 m kẹp bởi hai con sông là sông Mã và sông Bƣởi. Chi
giữa long đi trƣờng viễn tạo thành dày Tam Điệp chạy ra sát biển, kẹp bởi hai con song Bƣởi
và Bồi. Chi trong cùng chạy về khu vực chùa Hƣơng nổi tiếng và kết thúc tai nơi giao hội của
hai con song Bồi và Đáy.
Trung chi huyền vũ khí mạch trung tụ chạy về phía đông bắc "băng hồng" qua song đáy thoát
hết sát khí hƣớng về Thăng Long Hà Nội và kết thúc tại huỵên Thanh Trì. Tại nơi kết thúc
này hàng loạt các gò đống đột khởi nhƣ một hệ thống mà phía trƣớc là một loạt các đầm nƣớc
tự nhiên trong và sâu nổi tiếng ( Phía giáp Thanh Trì với sông Hồng là rốn nƣớc của thành
phố) tạo thành một trong năm các thức kết huỵêt gọi là "Cứ thuỷ cục". Tới đây chắc các bạn
đã rõ vì sao nơi này chiếm tới 70% nhân tài của một vùng rộng lớn rồi.
Tỉnh Bắc Ninh tƣơng tự nhƣ tỉnh lị Hà Đông toạ lạc trên một miền đất đồng bằng bằng phẳng
có triều cao từ 20 đến 50 m so với mặt nƣớc biển , lƣng dựa núi mặt nhìn núi xa xa về phía
đông là Lục Đầu giang ( cách cục đặc biệt). Tỉnh là nơi kết thúc của một long mạch đại cán
phát nguyên từ Tây Tạng rẽ nhánh về phía đông ( Tay long của đại cục Thăng Long) đi qua
Trung Quốc, một chi long của đại cán long này rẽ nhánh xuống phía nam tạo thành cánh cung
Ngân Sơn cao trên 1800 m chạy xuống miền bắc của nƣớc Việt qua Cao Bằng, Bắc Cạn chi
long này trẻ hoá. Trên đƣờng đi của cánh cung Ngân Sơn một chi long nhỏ tiếp tục tách ra
chạy theo hƣớng tây nam tạo ra núi Phia Booc cao 1578 m đi qua Tuyên Quang ( kẹp giữa
hai song Thao và Cầu) chuyển hƣớng đông nam đột khởi lên dãy Tam Đảo có 3 đỉnh nhô lên
liền nhau gần Thác Bạc, nhƣ ba hòn đảo : Phù Nghĩa, Thạch Bàn và Thiên Thị cao tƣơng ứng
1250m, 1420m, 1591m . Dãy Tam Đảo tiếp tục di chuyển theo hƣớng đông nam khởi núi Sóc
Sơn trung tụ tai huyện Đông Ngàn, dƣ khí còn tiếp tục di chuyển đột khởi một loạt các dãy
núi chay theo hƣớng bắc nam là Tiên Du, Vũ Ninh và Thiên Thai ngăn lấp lấy minh đƣờng
trƣớc mặt. Thế của long gia thì thật là kém xa so với Hà Đông tuy vậy nó lại quí ở chỗ có
nhiều các chi long khác chầu về nhƣ cánh cung Sông Gâm, cánh cung Bắc Sơn, dẫy Cai
Kinh, dẫy Mẫu Sơn và cánh cung Đông Triều, nên cuối cùng thì sinh khí chầu tụ xem ra lại
nhỉnh hơn so với thế đất của tỉnh Hà Đông.
Xét riêng huyện Đông Ngàn là một vùng đồng bằng phì nhiêu lƣng dựa vào dãy Tam Đảo có
hình "thƣơng khố", phía trƣớc hƣớng về Lục Đầu giang lại bị ngăn lấp bởi ba dãy núi Tiên
Sơn, Vũ Ninh và Thiên Thai chính là đại quí cách kết huyệt mà không cần có nƣớc trong
phong thuỷ gọi là "Can pha cục". Ngƣời viết xin trích một đoạn trong sách cổ " Phía trƣớc địa
huỵêt không có thuỷ lƣu, không tìm thấy thuỷ, núi non hai bên tiền, tả, hữu chắn ngang ngăn
lấp minh đƣờng là đại quí địa nếu hành long có hình thƣơng khố". Đến đây thì chắc ai cũng
hiểu tại sao Đông Ngàn lại là huyện có nhiều ngƣời đõ đạt cao đến nhƣ vậy, thêm nữa vì
hành long có hình "thƣơng khố' nên đây cũng là huyện giầu nhất miền bắc nếu không muốn
nói là cả nƣớc có nhiều nhân vật sinh ra tại đây có tài sản lên tới hàng ngàn tỷ đồng Việt
Nam. Ngƣời viết đã có dịp ghé thăm Đền Đô thời tám vị vua nhà Lý ( vua thứ chín đƣợc thờ
tại nơi khác) đƣợc nghe câu truyện dòng họ Lý đƣợc ngôi đất cửu long tranh châu ( một cụ
già còn thuật lại xƣa kia khi cụ còn bé khi trời mua to quả là có nhiều dòng nƣớc chầu về một
khu đất) mà phát ra chín đời vua Lý lƣu danh sử sách , ngẫm thì cũng không sai vì trung cục
đại quí cách còn thiếu thuỷ của tiểu cục quí cách nữa thôi là đủ cho đế nghiệp.
Tỉnh Hải Dƣơng toạ lạc trên vùng đất trung tâm đồng bằng bắc bộ xung quanh đƣợc bao bọc
bởi các con sông chính : S. Thái Bình, Kinh Thầy ở phía đông, S. Lục Nam, Đuống ở phía
bắc, S. Hồng ở phía tây và S. Luộc ở phía đông, ngoài ra trong địa phận tỉnh còn có các sông
nhƣ : S. Rang, S. Kinh Môn, S. Sặt, S. Hƣơng, S. Đá Vách, S. Cẩm Giàng, S. Cửa An, S. Tứ
Kỳ, S. Mía… chảy qua mà sông nào cũng uốn lƣợn hữu tình. Tỉnh có hai trung tụ là Nam
Sách và Bình Giang ( sẽ đề cập sau) cách thức kết của hai trung tụ này đều lấy thuỷ là trọng
Xét về sơn, địa mạch của Hải Dƣơng là sự chầu tụ và giao thoa của của 4 địa mạch lớn từ
phía tây bắc, bắc, đông và đông bắc đổ dồn về phía Lục Đầu Giang
Xét về thuỷ, Lục Đầu Giang là cách cục thuỷ vô cùng đặc biệt mang lại vƣợng khí lớn cho cả
vùng đất. Ta sẽ đi sâu một chút để phân tích đặc điểm này qua quái tƣợng
1. Lục đầu mang tƣợng âm vì lục tƣợng quái là âm, tụ tại miền bắc là nơi âm sinh đến cực
điểm kết hợp với Cửu Long Giang ( Cửu Vĩ Long Giang) mang tƣợng dƣơng vì cửu là
dƣơng, tản ra ở miền nam nơi dƣơng sinh đến cực điểm tạo thành thế cửu lục xung hoà âm
dƣơng hợp khắc của nƣớc Việt ( tƣợng này nói lên rất nhiều điều …)
2. Âm lục, dƣơng cửu, đầu dƣơng , đuôi âm nên thấy rõ nguyên lý của vũ trụ trong âm có
dƣơng , trong dƣơng có âm.
3. Lục Đầu Giang nếu nhìn qua thì thực chất chỉ có 4 dòng thuỷ lai chầu về là : S. Cầu, S.
Thƣơng, S. Lục Nam và S. Đuống ( S. Thiên Đức) còn hai sông là S. Thái Bình và S. Kinh
Thầy là hai dòng thuỷ khứ. Nhƣ vậy sao gọi là Lục Đầu đƣợc ? Tuy vậy trong lịch sử có hai
lần triều cƣờng qua cửa Thái Bình và Bạch Đằng làm đổi dòng của hai con sông này tạo ra
những cuộn xoáy lớn tại Lục Đầu ( do 6 dòng nƣớc đổ về) Lục Đầu trở về đúng nghĩa của nó
là địa tƣợng sau đó xuất hiện nhân tài xuất chúng là hai vị anh hùng dân tộc gắn liền với hệ
thống này là Ngô Quyền và Hƣng Đạo Đại Vƣơng Trần Quốc Tuấn
Huyện Nam Sách là trung tụ thứ nhất của Hải Dƣơng đƣợc bao bọc bởi hai con sông Thái
Bình và Kinh Thầy, đây là cách thức kết mà phong thuỷ gọi là hoành thuỷ cục ( thuỷ thành
uốn lƣợn bao bọc). Phần lớn vƣợng khí của Lục Đầu dồn tụ về khu vƣợc này tạo ra hàng
nghìn gò đống lớn nhỏ đột khởi nhƣ một hệ thống mà Thanh Lâm là trung tâm, điều này giải
thích tại sao huyện Nam Sách thị trấn Thanh Lâm từ xƣa đến nay nhân tài sinh ra mãi không
hết.

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM


. BÀI 10.

Thứ Bảy, ngày 15 tháng 11 năm 2014


CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM . BÀI 10.

MỘT SỐ TƢ LIỆU VỀ HOÀNG CAO KHẢI.


Hoàng Cao Khải (chữ Hán: 黃高啟; 1850–1933), là nhà văn, nhà sử học và là đại thần thân
Pháp dƣới triều vua Thành Thái trong lịch sử Việt Nam.
Nguyên danh của ông là Hoàng Văn Khải, tự Đông Minh, hiệu Thái Xuyên, quê ở làng Đông
Thái (nay thuộc xã Tùng Ảnh), huyện La Sơn (nay là huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Đỗ cử
nhân ân khoa 1868 (cùng khóa thi với anh ông Phan Đình Phùng tên là Phan Đình Thuật,
Phan Đình Phùng năm 1876 mới đậu ở Trƣờng Thi, Nghệ An) năm Tự Đức thứ 21 (1868),
cùng đƣợc bổ làm huấn đạo huyện Thọ Xƣơng, sau làm giáo thụ ở phủ Hoài Đức (Hà Tây).
Trƣớc khi Pháp chiếm Bắc Kỳ, ông lần lƣợt giữ các chức vụ Tri huyện Thọ Xƣơng rồi thăng
quyền Án sát Lạng Sơn, quyền Tuần phủ Hƣng Yên.
Năm 1884, Pháp chiếm Bắc Kỳ, trong khi các phòng trào chống Pháp nổi dậy thì ông lại hợp
tác với Pháp để đàn áp các phong trào nghĩa quân chống Pháp. Tháng 1 năm 1887, quyền
Tuần phủ Hƣng Yên, Hoàng Cao Khải đƣợc vua Đồng Khánh cho thực thụ Tuần phủ, gia
hàm Thự lý Tổng đốc, nhƣng vẫn lãnh Tuần phủ kiêm Tiễu phủ sứ ba tỉnh Hải Dƣơng, Bắc
Ninh, Hƣng Yên, đặc biệt tham gia đàn áp khốc liệt cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.
Năm 1888, ông đƣợc thăng làm Tổng đốc Hải Dƣơng, rồi làm Khâm sai Kinh lƣợc Bắc Kỳ,
tƣớc Duyên Mậu quận công (1890), đây là biệt lệ vì quan lại triều Nguyễn chỉ đƣợc phong
quận công khi đã mất, ban cho thực ấp Thái Hà. Năm 1894, theo lệnh của toàn quyền De
Lanessan, ông viết thƣ dụ hàng Phan Đình Phùng, nhƣng bị cự tuyệt.
Năm 1897, Nha Kinh lƣợc Bắc Kỳ bị bãi bỏ, Hoàng Cao Khải đƣợc điều về Huế lãnh chức
Thƣợng thƣ Bộ Binh và làm phụ chính đại thần cho vua Thành Thái, hàm Thái tử Thái phó,
Văn minh điện Đại học sĩ. Nhƣ vậy, Hoàng Cao Khải là viên Kinh lƣợc sứ Bắc Kỳ cuối cùng
của triều Nguyễn.
Năm 1904 khi tỉnh Cầu Đơ đƣợc đổi tên là Hà đông, ông làm Tổng đốc tỉnh Hà Đông, giúp
Thống sứ Bắc Kỳ soạn Nghị định về tổ chức bộ máy quản lý cấp xã ở Bắc Kỳ. Về sau con
trai ông là Hoàng Trọng Phu kế nhiệm ông làm Tổng đốc Hà đông đến năm 1937.
Ông về hƣu tại Ấp Thái Hà, huyện Hoàn Long, tỉnh Hà đông nay thuộc phƣờng Trung Liệt,
quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội và mất tại đây.
Ngày 6 tháng 5 năm 1922, Hội Thanh niên Việt Nam (Foyers de la Jeunesse Annamite) đƣợc
thành lập, Hoàng Cao Khải cùng Thống sứ Bắc Kỳ Monguillot làm đồng Chủ tịch Hội,
Chánh mật thám Pháp Marty làm Chủ tịch danh dự.
Hoàng Cao Khải sáng tác cả bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm trên nhiều lĩnh vực. Về lịch sử nổi
bật có Việt sử yếu, Việt Nam nhân thần giám, Việt sử kinh bằng chữ Hán, sau đƣợc chính
ông diễn nôm; Nam sử diễn âm bằng chữ Nôm. Các sáng tác của Hoàng Cao Khải thƣờng lấy
đề tài lịch sử nhƣ: Tây nam đắc bằng (Đi về hƣớng tây nam gặp đƣợc bạn) kể việc Gia Long
gặp Bá Đa Lộc nhờ cầu viện nƣớc Pháp, Trung hiếu thần tiên nói về Hƣng Đạo Vƣơng và
thời Trần, các truyện lịch sử mang tính giáo dục luân lý phong kiến nhƣ Gƣơng sử Nam, Làm
con phải hiếu, Đàn bà Việt Nam...

Đánh giá của ngƣời đƣơng thời .


Hầu hết các sĩ phu đƣơng thời đều coi khinh Hoàng Cao Khải dù Hoàng có tài văn học. Thái
độ đó bắt nguồn từ tác phong kẻ sĩ Nho học, vốn bất hợp tác với ngƣời Pháp. Hoàng thì
ngƣợc lại, cộng tác rất đắc lực với ngƣời Pháp. Các con là Hoàng Mạnh Trí, Hoàng Trọng
Phu đều làm tổng đốc, Hoàng Gia Mô làm Tri huyện, phục vụ cho ngƣời Pháp.
Sĩ phu Hƣng Yên có đôi câu đối, chửi khéo Hoàng Cao Khải:
"Ông ra Bắc là may, chức Kinh lƣợc, tƣớc Quận Công, bốn bể không nhà mà nhất nhỉ".
"Ông về Tây cũng tiếc, trong triều đình, ngoài chính phủ một lòng với nƣớc có hai đâu?"
"Bốn bể không nhà" là ý nói mất gốc; "ông về Tây cũng tiếc": chính nghĩa nói là đi về cõi
Tây Trúc, Tây Thiên, âu cũng thiệt thòi nhƣng thực ra là nói ngƣời Tây tiếc vì mất đi tay sai
đắc lực. Còn nhƣ "một lòng với nƣớc có hai đâu" chính là một mình ông trung với nƣớc,
không có ngƣời thứ hai nhƣng thực là mỉa có hai nƣớc (nƣớc Nam, nƣớc Tây), ông trung với
nƣớc nào ? (Dẫn theo Vũ Ngọc Khánh, "Ngƣời có vấn đề trong sử nƣớc ta", NXB Văn hóa -
Thông tin, 2008)

Đánh giá lại Hoàng Cao Khải.


Giáo sƣ sử học Chƣơng Thâu (trích bài giới thiệu in kèm Việt sử yếu):

"Thực tế thì ta thấy, so với nhiều quan lại khác đƣơng thời, Hoàng Cao Khải dù bị quy là tay
sai đắc lực cỡ chóp bu của thực dân, nhƣng ngƣời ta chỉ nghi ngờ ông, chứ ông không bị bất
bình, không bị vạch tội ác... Còn nhƣ nhà chí sĩ yêu nƣớc Phan Châu Trinh khi sống ở Pháp
(1920) đƣợc tin cựu Toàn quyền A.Sarraut qua thăm Đông Dƣơng, cụ Phan đã viết thƣ riêng
báo cho "Tân ấp tƣớng công Hoàng Đại nhân" (lúc này đã về hƣu sống ở ấp Thái Hà), trong
thƣ có những đoạn biểu thị tình cảm đối với Hoàng Cao Khải nhƣ sau: "Năm 1910, khi Trinh
ở Nam Kỳ từng đƣợc ngài Tham biện tỉnh Mỹ Tho đem cho xem cuốn Việt sử kính (tức cuốn
Gƣơng sử Nam) của ngài soạn. Đọc xong dấy lên nhiều điều cảm xúc. Tuy việc lập ý dùng từ
gãy gọn nhẹ nhàng, không thể khiến cho ngƣời tuổi trẻ tân tiến hoan nghênh hết đƣợc, nhƣng
trong đó với sự nhìn nay nhớ xƣa, xét việc đã qua biết điều sắp tới về tiền đồ thành bại mất
còn của Tổ quốc của chúng ta, một lời ca thán ba lần thở dài, trƣớc sự chỉ dẫn ra con đƣờng
mê lộ của ngƣời nƣớc ta, chƣa từng không lƣu ý đến nhiều lần vậy. Qua đó, Trinh biết là
Tƣớng công tuy cấp lƣu dũng thoái (chảy gấp lui mau), vui thú điền viên, mắt thờ ơ nhƣng
lòng nóng hổi chƣa từng có một ngày quên Tổ quốc."

Ấp Hoàng Cao Khải


Ấp Hoàng Cao Khải (còn gọi Ấp Thái Hà hay Lăng Hoàng Cao Khải) là một quần thể các
công trình kiến trúc lăng tẩm, dinh thự, đƣợc xây dựng bởi Tổng đốc Hoàng Cao Khải dƣới
triều vua Thành Thái, để an dƣỡng lúc về hƣu cũng nhƣ làm lăng mộ cho gia đình ông.
Lăng Hoàng Cao Khải là công trình kiến trúc bằng đá lớn thứ hai ở Việt Nam (sau thành nhà
Hồ), lớn thứ nhất ở Hà Nội và đã đƣợc xếp hạng di tích quốc gia từ năm 1962.
Ấp Thái Hà gắn với tên tuổi của chủ nhân là Hoàng Cao Khải, một đại thần dƣới triều vua
Thành Thái.
Hoàng Cao Khải là ngƣời có nhiều ý tƣởng canh tân đời sống thôn quê. Tháng 11/1893,
những ý tƣởng ấy đƣợc thể hiện trong việc biến một vùng đất trũng ở phía Tây Nam Hà Nội
thành một ấp mang tên Thái Hà (là sự kết hợp địa danh quê hƣơng Đông Thái, Hà Tĩnh, và
Hà Nội) tạo ra một mô hình quy hoạch khá mới mẻ tại vùng giáp ranh đô thị.
Chính tại đây, ông đã xây một sinh từ với một quần thể kiến trúc khá độc đáo gồm lăng tẩm
và dinh thự.
Khu ấp Hoàng Cao Khải đƣợc xây dựng vào năm 1893, gồm 14 công trình kiến trúc lăng mộ,
đình chùa... Ở quần thể kiến trúc lăng Hoàng Cao Khải, có thể dễ dàng nhận ra bản sắc kiến
trúc triều Nguyễn cuối thế kỷ XIX, thể hiện qua các họa tiết trang trí (lá thông, lá sen), hai
hàng lính chầu, đôi rồng đá trên bậc tam cấp với dáng vẻ dữ tợn. Công trình kiến trúc này
đƣợc đánh giá đạt đến trình độ kỹ thuật cao tay trong nghệ thuật điêu khắc đá của ngƣời Việt.
Quần thể ấp bao gồm

Lăng Hoàng Cao Khải


Công trình quan trọng nhất của quần thể là lăng Hoàng Cao Khải, nằm đối diện với lối lên
xuống hồ Tẩm Nguyệt, vốn là lăng chính của vợ chồng Hoàng Cao Khải. Toàn bộ lăng đƣợc
xây theo kiểu chữ Đinh, làm hoàn toàn bằng đá cẩm thạch trắng, rất lớn và hoành tráng. Lăng
dài 8m, cao 6m, ở giữa có một cái bàn đá màu trắng rộng .
Đá xây dựng đƣợc chở về từ phủ Quốc Oai (Hà Tây). Chế tác đá là các hiệp thợ nổi tiếng
quanh vùng núi An Hoạch (huyện Đông Sơn, Thanh Hóa). Các cột, trụ, xà, bảy, cửa võng,
diềm, tƣờng, nền đều bằng đá và đƣợc chạm trổ trau chuốt.
Mộ của Hoàng Cao Khải ở bên trái, của vợ ông ở bên phải, đều bằng đá cẩm thạch trắng cực
đẹp, chạm trổ tinh vi, có khắc những dòng chữ Hán sắc xảo. Phía trƣớc mộ là hai hàng lính
chầu bằng đá mỗi bên 4 ngƣời bồng gƣơm, cao gần bằng ngƣời thật, tầm 1,3m, đầu đội mũ
nhỏ có tua đứng gác.
Khu lăng mộ này bây giờ đã bị biến thành trụ sở tuần tra cụm dân cƣ số 9 của công an
phƣờng Trung Liệt. Phía trƣớc lăng, hai hàng lính chầu hiện chỉ còn lại 3 bức tƣợng và cả 3
đều mất phần chân do bị tôn nền xi măng trùm lên.

Lăng Hoàng Trọng Phu


Phía bên phải, cách lăng mộ Hoàng Cao Khải mấy chục mét là khu lăng mộ Hoàng Trọng
Phu, con trai trƣởng của Hoàng Cao Khải, từng giữ chức Tổng đốc tỉnh Hà đông, Võ hiển
điện Đại học sĩ, hàm Thái tử Thiếu bảo. Đây cũng là một công trình kiến trúc bằng đá lớn,
đƣợc xây bằng đá xanh, đẹp và uy nghi không kém.
Lăng Hoàng Trọng Phu cùng với lăng Hoàng Cao Khải đều đƣợc xây theo một phong cách
nghệ thuật thống nhất, với các cột, trụ, xà, bảy, tƣờng, nền đều bằng đá và đƣợc chạm trổ các
họa tiết tinh xảo.
Từ năm 1972 đến nay, công trình này đã bị ba hộ dân chiếm dụng. Khu lăng còn một đôi
rồng đá khá nguyên vẹn ở nơi trƣớc kia vốn là cửa lăng. Ngày nay cửa đã bị bít lại và khu
vực này biến thành nơi để xe và chậu cảnh.

Đồi Nghinh Phong


Phía sau lăng Hoàng Cao Khải có đồi Nghinh Phong (Đón Gió) cao 10m. Trên đỉnh đồi trƣớc
kia có Nghinh Phong Quán, một nơi để nghỉ ngơi và ngoạn cảnh. Từ chân đồi lên Nghinh
Phong Quán có một lối đi gồm 133 bậc thang .
Ngày nay trên đồi có dăm bảy nhà dân ở, đƣợc cơi nới xây dựng rất lộn xộn. Ngƣời dân xung
quanh thƣờng gọi là nhà trên đồi hay nhà trên gò.
Hồ Tẩm Nguyệt
Đối diện với lăng Hoàng Cao Khải là hồ Tẩm Nguyệt(Dầm Trăng) và những dòng mƣơng
uốn lƣợn. Hồ có hình bán nguyệt rộng vài trăm m2 nên ngƣời dân cũng quen gọi là hồ Bán
Nguyệt.
Hiện nay, nƣớc hồ đang bị ô nhiễm nghiêm trọng và khu vực xung quanh hồ đã trở thành nơi
họp chợ của ngƣời dân.
Quyết định xếp hạng di tích ngày 28/4/1962 của Bộ VH-TT đã đánh giá:
"Đây là chứng tích duy nhất của nƣớc ta về một quần thể các công trình lăng tẩm, dinh thự
của một phó vƣơng"
Tuy là một di tích có tính đặc thù cao về kiến trúc và đƣợc xếp hạng quốc gia từ rất sớm,
nhƣng hiện nay quần thể di tích này nhận đƣợc rất ít sự quan tâm của các cơ quan văn hóa và
ngƣời dân khu lăng nên đã gần nhƣ trở thành một phế tích.

PHẢI CHĂNG CAO BÁ QUÁT LÀ CHA ĐẺ CỦA PHÓ VƢƠNG BẮC KỲ HOÀNG
CAO KHẢI?
THÁI DOÃN HIỂU

Thân sinh của Cao Bá Quát là ông đồ Cao Hữu Chiếu - một danh nho tuy không đỗ đạt gì.
Ông hƣớng con cái vào đƣờng khoa cử với rất nhiều kỳ vọng. Đời Chu có 8 kẻ sĩ : Bá Đạt -
Bá Quát, Trọng Đột - Trọng Hốt; Thúc Dạ - Thúc Hạ, Quý Tuỳ - Quý Đa. Tám hiền sĩ đời
Chu này đều là bốn cặp sinh đôi. Ông chọn hai tên trong tám kẻ sĩ đời Chu đặt tên cho hai
đứa con sinh đôi của mình: Cao Bá Đạt, Cao Bá Quát là muốn cho hai con sẽ trở thành những
bậc hiền tài giúp nƣớc. Cao Bá Quát đặt tên tự cho mình là Chu thần (quan nhà Chu) cũng
ngụ ý đó.
Về nhân vật kiệt xuất này trong bộ Giai thoại Kẻ sĩ việt Nam, NXB Văn hoá Dân tộc, Hà Nội
1997, tôi (TDH) đã viết “Cao Bá Quát (1808-1855) là nhà thơ lớn của dân tộc. Anh hùng thời
nhà Nguyễn. Tự Chu Thần, hiệu Cúc Đƣờng và Mẫn Hiên. Quê làng Phú Thị, Gia Lâm, xứ
Kinh Bắc (nay thuộc Hà Nội). Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, thanh liêm. Họ
Cao là một cự tộc ở làng Phú Thị, nhiều đời khoa bảng. Anh ruột là Cao Bá Đạt đỗ cử nhân,
làm tri huyện Nông Cống, một huyện giàu nhất tỉnh Thanh Hóa. Cao Bá Quát là chú ruột Cao
Bá Nhạ, tác giả Trần tình khúc.
Thuở nhỏ, Cao Bá Quát nổi tiêng thần đồng. Năm 1831 (Minh Mệnh thứ 12), ông đỗ á
nguyên kỳ thi hƣơng ở Thăng Long, nhƣng về sau bộ duyệt lại đánh xuống cuối bảng. Những
năm về sau (1832-1835) hai phen ông vào Huế thi hội đều bị đánh hỏng vì lời văn phóng đạt,
“ngông” không chịu khuôn phép song tiếng tăm đã lẫy lừng. Từ đó, Cao thƣờng ngao du đó
đây, lấy văn chƣơng phúng thích chính trị làm lẽ sống ở đời. Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841),
theo lời đề cử của quan đầu tỉnh Bắc Ninh, ông đƣợc cử vào kinh sung chức hành tẩu bộ lễ.
Cao có chân trong Mặc vân Thi xã nổi tiếng của Tùng Thiên công Miên Thẩm và Tuy Lý
công Miên Trinh. Đây là thời kỳ Cao Bá Quát và Phƣơng Đình Nguyễn Văn Siêu đƣợc nổi
danh “Thần Siêu, Thánh Quát”.
Năm 1841, nhân một khoa thi hƣơng – ân khoa của Thiệu Trị, Cao đƣợc cử làm sơ khảo kỳ
thi Thừa Thiên. Vì mến tài một số sĩ tử, ông lấy muội đèn chữa quyển của thí sinh phạm húy.
Việc bại lộ, Cao bị tra tấn, suýt bị tội chết, sau phải đi làm lao dịch theo một đoàn thuyền của
hoàng gia đi mua hàng xa xỉ ở Indônêxia. Từ nƣớc ngoài trở về, Cao bị thải về Hà Nội, sống
nhờ vợ bên hồ Trúc Bạch. Năm 1847, ông đƣợc triệu vào kinh, đến năm Tự Đức thứ ba 1850,
ông ra làm giáo thụ ở phủ Quốc Oai (Sơn Tây), gần nhƣ bị đuổi khéo về Bắc.
Năm 1853, Cao Bá Quát lấy cớ mẹ già, thôi chức giáo thụ và năm sau 1854 làm quân sƣ cho
Lê Duy Cự dấy nghĩa ở Mỹ Lƣơng (Mỹ Đức, Hoà Bình) chống lại triều đình nhà Nguyễn.
Bọn phong kiến gọi là giặc Châu Chấu. Khởi nghĩa thất bại, Cao hy sinh ngay trong trong
trận đánh cuối cùng ở huyện Yên Sơn. Tự Đức đã tru di ba họ nhà ông 1855 (1).
Cao Bá Quát sáng tác nhiều, cả Hán lẫn Nôm : Tài tử đa cùng phú, Cao Bá Quát thi tập, Cúc
Đƣờng thi thảo, Cao Chu Thần di cảo, Mẫn Hiên thi tập (4 tập). Tất cả có trên 1.000 bài.
Thơ Cao Bá Quát nổi tiếng hay, tài năng thi hào đƣợc ngƣời đƣơng thời và đời sau xem nhƣ
thần thánh che mờ cả thời Tiền Hán và Thịnh Đƣờng. Đức độ của ngƣời đƣợc muôn đời kính
trọng, xót thƣơng.
Thƣơng ai bảy nổi ba chìm
tấm lòng phản kháng vẫn còn sáng soi.
(Sóng Hồng)”
*
Trên con đƣờng viễn du Phú Thị - kinh đô Huế, Cao Bá Quát thƣờng ghé thăm anh trai Cao
Bá Đạt làm tri huyện Nông Cống. Tại huyện đƣờng của ông anh có một viên thƣ lại là Hoàng
Văn Đồng. Ông này có một ngƣời vợ tuyệt thế giai nhân, giỏi thi phú. Ngƣời đẹp Mỹ Lệ
thƣờng xƣớng họa rất tâm đắc với Bá Quát. Một số bài thơ viết về phong cảnh Thanh Hóa
nhƣ Vịnh Thanh Hoá Miêu Tử sơn (Vinh núi Con Mèo ở Thanh Hoá), Vọng phu thạch (Hòn
Vọng Phu Thanh Hóa)…còn lại trong di cảo của Cao là ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt này.
Ở đây, đã nẩy nở một thiên tình sử giữa danh sĩ với giai nhân. Mối tình của họ kéo dài 5 năm
từ 1848-1853, để lại biết bao huyền thoại. Áng thơ tình diễm tuyệt dƣới đây là của nàng Mỹ
Lệ gửi ngƣời tình Chu Thần Cao Báo Quát:

THẤT THẬP DẠ THỪA NGUYỆT,TẨU BÖT KÝ HỮU NHÂN


Thiên cao chúng tinh hy
Minh nguyêt tĩnh nhƣ thủy
Tứ tức hậu trùng minh
Sắt sắt kim phong khỉ (khởi)
Đƣờng thƣợng hữu giai nhân
Ỷ lan sầu bất ngữ
Khởi thị dạ hà kỳ
Bộ bộ hành phục chỉ
Bất ƣu trƣờng dạ hàn
Đãn tích nguyệt tƣơng mỹ
Thiếp niên thị bát thời
Doanh doanh chính tƣơng tị (tự)
Trƣởng đại ái dƣ nghiên
Thƣợng tƣởng dung nhan mỹ
Noa y hiệt kỳ quang
Bất nhẫn nhàn phao trí
Tài tác hợp hoan thƣ
Ký tử tâm trung sị (sự)
Dịch nghĩa:

ĐÊM MƢỜI BẢY DƢỚI ÁNH TRĂNG VIẾT CHẠY BÖT GỬI BẠN
Trời cao, sao lác đác
Trăng sáng trong nhƣ nƣớc
Lạnh lùng tiếng sâu mùa kêu
Sàn sạt gió vàng nổi dậy.
Trên nhà có một ngƣời đẹp
Ngồi tựa lan can buồn không nói
Bỗng đứng dậy xem đêm đã khuya chƣa
Bƣớc một bƣớc lại dừng một bƣớc
Không lo đêm dài lạnh
Chỉ sợ đêm sắp tàn
[Nghĩ lại} khi thiếp tuổi đôi tám
Cũng đầy đặn nhƣ trăng
Lớn lên vẫn yêu cái đẹp xƣa
Những tƣởng giữ mãi đƣợc nhƣ thế
Kéo áo bọc lấy ánh trăng
Không nỡ dễ dàng bỏ phí
Xén ra thành bức thƣ hợp hoan
Gửi cho chàng những điều tâm sự.
Dịch thơ:
Trời cao sao lác đác,
Trăng sáng trong nhƣ nƣớc,
Sâu mùa kêu tỉ tê,
Gió thu thổi hiu hắt.
Có ngƣời đẹp trên lầu,
Tựa lƣng buồn nín bặt.
Dậy xem canh mấy rồi,
Dạo quanh lại dừng bƣớc.
Chẳng lo đêm dài lạnh,
Chỉ tiếc trăng hầu khuất.
Thiếp thuở đôi tám xƣa,
Vẻ so trăng chẳng khác,
Lớn lên tƣởng vẫn còn,
Sắc đắm ngƣời nhƣ trƣớc.
Túm áo bọc ánh trăng,
Chẳng nỡ hoài bỏ dứt
Xén làm bức thƣ tình,
Gửi bạn lời tâm phúc!
KHƢƠNG HỮU DỤNG
Tình cảm quá đẹp giữa hai ngƣời qua bài thơ đã thật nặng gánh trần duyên. Năm 1850, điều
mà Cao Bá Quát mãi mãi không thể ngờ tới là đôi tài tử có với nhau cậu con trai Hoàng Văn
Khải – theo khai sinh họ bố chính thống hiện thời. Sau này, khi cả hai ông bố đẻ và bố nuôi
không còn trên thế gian nữa, bà mẹ mới gọi con trai 18 tuổi lại, tiết lộ bí mật này trƣớc khi
cậu đậu cử nhân ân khoa 1868 dƣới triều Tự Đức - cùng khoa với Phan Đình Phùng. Cậu
Khải rất đỗi kinh ngạc, đành chấp nhận sự thật kinh hoàng, không ngờ mình là một giọt máu
của bậc kỳ tài nổi loạn, xin đổi khai sinh lấy chữ Cao ghép vào giữa thành HOÀNG CAO
KHẢI !
Hoàng Cao Khải mới đỗ cử nhân, bổ làm huấn đạo, rồi tri huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa).
Tuy quan tƣớc ở hàng tam phẩm nhƣng theo năng lực vẫn đƣợc Nguyễn Hữu Độ dẫn dắt, tiến
cử phong lên làm Tổng đốc Lạng Sơn, tổng đốc Hải Dƣơng, tổng đốc Bắc Ninh... Với thành
tích đánh dẹp phong trào Cần vƣơng ở Bắc bộ, và giải giáp cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, Hoàng
Cao Khải đã đƣợc Triều đình nhà Nguyễn tấn phong đến chức Khâm sai Kinh lƣợc sứ Bắc
Kỳ (ngƣời Pháp gọi là Phó vƣơng - vice), quyền uy nghiêng ngửa thiên hạ. Cuối đời, ông
đƣợc triệu về Kinh giữ chức Thƣợng thƣ bộ Binh. Nhìn chung, Hoàng Cao Khải là nhân vật
lịch sử công ít tội nhiều.

(1) Nhƣng theo dã sử thì lại khác. Cao không chết mà sống ẩn vào dân gian một thời gian dài.
Nhà văn Xuân Cang bảo tôi: “Cao Bá Quát tuổi con rồng, mà lại là rồng đất trốn trong hang
thì có trời bắt đƣợc”. Điều Xuân Cang nói ứng với lệnh truy nã Cao Bá Quát của triều đình
nhà Nguyễn vẫn có hiệu lực vào năm 1858 và mãi về sau.

Có thật Hoàng Cao Khải là con rơi của Cao Bá Quát?


Đọc bài viết của nhà nghiên cứu văn học Thái Doãn Hiểu với nhan đề "Phải chăng Chu Thần
Cao Bá Quát là cha đẻ phó vƣơng Bắc Kỳ Hoàng Cao Khải?" đƣợc đăng trên trang mạng
trannhuong.com, tôi thật sự ngỡ ngàng...
Ngỡ ngàng và cả có thêm phần… vui sƣớng nữa. Là bởi vì một lẽ đơn giản, rằng một thiên
tài trác việt nhƣ Chu Thần họ Cao, bị nhà Nguyễn tru di tam tộc, vẫn may mắn còn sót lại
giọt máu trên đời là ông Hoàng Cao Khải, Phó vƣơng Bắc Kỳ triều Nguyễn, rất có tài, mà tội
ác với dân cũng không phải là ít, nhất là với nghĩa quân của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy! Tuy
nhiên, những kiến giải của nhà nghiên cứu Thái Doãn Hiểu vẫn còn làm tôi chƣa tin. Chƣa
tin, bởi lý do chủ yếu sau đây:
1. Khi làm cuốn "Thi hào Cao Bá Quát, tinh tuyển và bình giải" (Giai phẩm với lời bình tập
4), tôi có dịp tìm hiểu kỹ hơn về thơ Cao Chu Thần, từ đó, lần tìm theo dấu chân Cao mà suy
đoán ra một số địa chỉ trong thơ Cao, hiểu thêm về cuộc đời chìm nổi của Cao, dẫu chƣa phải
là tất cả. Nhà nghiên cứu Thái Doãn Hiểu bảo rằng từ năm 1848 đến năm 1853, Cao qua lại
chỗ ông anh là Cao Bá Nhạ làm tri huyện Nông Cống Thanh Hóa, rồi có mối tình trên kia với
vợ ông Hoàng Văn Đồng, sinh ra Hoàng Cao Khải. Tôi ngờ rằng không có căn cứ xác thực.
Tôi biết các quan nhà Nguyễn, khi đã nhận lệnh vua đi làm việc gì đó, ngay cả khi đi nhậm
chức mới, đều phải tức tốc lên đƣờng, đến nơi phải đúng ngày giờ quy định, ai liều lĩnh du di
là mất mạng nhƣ chơi, tâm trạng đâu mà "sƣớng" với chả "họa"? Quan dù to đến chức thƣợng
thƣ, nhƣng hễ có tội là cách luôn, hoặc bị giết. Làm đến thƣợng thƣ, đại tƣớng quân, nhƣ các
ông Nguyễn Công Trứ, Lê Đại Cang…cũng bị cách xuống làm lính khiêng võng, thậm chí tù
mọt gông, ai dám liều? Thế nên câu chuyện ông Thái Doãn Hiểu kể trên, với Cao Bá Quát,
rất khó có thể xảy ra. Nguyễn Công Trứ khi làm quan Dinh điền sứ ở Thái Bình, Ninh Bình,
có điều kiện vật chất đầy đủ, sức khỏe sung mãn, lại có quyền lực, ăn chơi là chuyện dễ hiểu.
Nhƣng với Cao Bá Quát, hãy đọc thơ của Cao, thấy ông chỉ ốm yếu quanh năm, lao tâm khổ
tứ về chuyện tù đày, mất tự do, rồi chuyện gia đình, con chết, đói khát khổ cực vô cùng, làm
gì có thì giờ để yêu đƣơng lăng nhăng đâu? Ngay cả khi làm quan ở Huế, lƣơng không đủ
uống rƣợu, ông cũng phải mang chiếc áo đi cầm cố mới có tiền mua rƣợu, sung sƣớng cái nỗi
gì? Đọc thơ Cao, chỉ thấy ông sƣớng họa với ông trƣởng phái đoàn đi Hạ Châu, khi lênh đênh
trên biển, với ông Đông tác tuần phủ và một số bạn bè ở Huế, ở Hà Nội (khi bị đuổi về
quê)…chứ chả thấy ông có bài nào sƣớng họa với bà vợ ông Hoàng Văn Đồng ở Thanh Hóa
cả!
2. Trong tình cảm riêng tƣ, đọc thơ Cao, chỉ thấy ông thƣơng nhớ quê hƣơng và đặc biệt là
ngƣời vợ tần tảo suốt đời hy sinh vì chồng con, khi ở trong tù, cũng nhƣ khi phải đi đày, cả
khi đi "lập công chuộc tội" ở nƣớc ngoài…chứ không hề thấy trong thơ ông một mối tình nào
khác. Bài thơ "Thập nhất dạ thừa nguyệt, tẩu bút ký hữu nhân" (Đêm mƣời bảy dƣới ánh
trăng, phóng bút gửi bạn) là di cảo của Cao Bá Quát, là thơ Cao Bá Quát, khi ông viết ở Huế.
Nó nằm trong hệ thống một số bài thơ Cao gửi bạn bè, trong đó có cả ông Tùng Thiện Vƣơng
khi ông ấy tặng quà cho Cao lúc Cao ốm nặng. Rất nhiều bài thơ Cao đều "phóng bút" nhƣ
thế, chứ không chỉ một bài. Sao lại có thể là thơ của vợ ông Hoàng Văn Đồng nào đó, tình
nhân của Cao? Chúng tôi đã phân tích kỹ bài này trong cuốn sách viết về Cao nói trên. Vì
hoàn cảnh khó ngặt lúc bấy giờ, nên trong thơ Cao thấy ông dùng rất nhiều hình tƣợng ẩn dụ.
Ngƣời đẹp trong thơ ở đây, chính là Cao đấy! Khuất Nguyên bên Tàu xƣa cũng thế. Với Cao
là cả một hệ ý thức thẩm mĩ trong thơ, chứ không phải là ai khác, không phải là cái gì khác.
Nhà nghiên cứu Thái Doãn Hiểu liệu có nhầm chăng?
Hà Nội, 13/4/2013
Vũ Bình Lục

Thƣ trả lời của Cụ Đốc Tít đối với Tổng đốc Hải an - Hoàng Cao Khải
NGUYỄN QUANG TUYẾN (ST giới thiệu))
Bức thƣ 1 ( trích bài dịch từ chữ hán nôm dịch ra chữ quốc ngữ )
Hải- An Tổng đốc Hoàng Cao Khải
Kính gửi: Quan đề đốc Hải Dƣơng – Quảng Yên Mạc Tƣớng quân soi xét.
Tôi thiết nghĩ việc của Ngài làm tuy là rất chính nghĩa, nhƣng chƣa đúng với thời cơ. Ngày
xƣa ông Mạnh Tử nói dẫu có trí tuệ, nhƣng kém thế thời thì không thành, dẫu có tƣ chất
thông minh nhƣng lỗi thời thì cũng hỏng, vả chăng kẻ tuấn kiệt phải theo thời, ngƣời thông
đạt phải biết mệnh.
Nay Tiên đế đã ký hòa ƣớc với chính phủ Pháp bảo hộ rồi, triều đình cũng đã lập nên Vua
mới, trong nam, ngoài bắc, trên trời dƣới biển đều là vƣơng thổ, vƣơng thần cả.
Ngài phụng mạng Vua Hàm Nghi để cứu vãn thời thế, đó là một việc làm lấp biển, vá trời,
chí khí thì to, nhƣng thành công đƣợc cũng là hiếm có. Vả chăng Vua Hàm Nghi cũng đã bị
triều đình bãi bỏ, coi nhƣ là phế đế. Nhân dân chỉ biết theo mệnh của triều đình, yên ổn làm
ăn, không muốn gây việc binh đao nữa. Vậy thì Ngài tuy hết lòng kêu gọi cũng nhƣ vịt nghe
sấm, nƣớc đổ lá khoai thôi, ai là ngƣời hƣởng ứng chứ. Chi bằng Ngài lựa theo thời thế, cùng
chúng tôi hợp tác, để trị quốc, an dân, đã không trái với lệnh triều đình, mà lại biết lựa theo
thời thế, việc làm chỉ bằng một nửa, mà công lại gấp đôi. Vả chăng ngƣời Pháp vốn trọng
ngƣời có tài năng, có nghĩa khí, lại đƣợc chúng tôi tiến cử lên, tất nhiên ngài sẽ đƣợc trọng
dụng lắm, ý Ngài thế nào ? xin cho tôi đƣợc biết.
Kính chúc Ngài mạnh khỏe và rất mong Ngài là bạn đồng liêu với chúng tôi.
Kính thƣ :
Hoàng Cao Khải

Thƣ 2: Thƣ trả lời của Cụ Đốc Tít


Khởi nghĩa cần vƣơng lĩnh Hải – An Đề đốc Mạc Đăng Tiết ( tên tự của cụ Đốc tít )
Kính trả lời quan Tổng đốc họ Hoàng tỉnh Hải Dƣơng – Quảng An các hạ.
Tiết tôi đƣợc thƣ của Ngài cho biết: Phàm là làm việc gì cũng phải dựa theo thời thế và vận
mệnh. Đó là ý nghĩ của Ngài, ý nghĩ đó giống nhƣ 2 câu thơ của ông Đặng Tất
“Đồ Điếu gặp thời nên nhẹ bƣớc.
Anh hùng lỡ vận cũng khoanh tay”
Tuy ông Đặng Tất không thành công, nhƣng ông cũng dám chống quân Minh đến kỳ cùng,
đƣợc lƣu danh sử sách. Còn ông thì sao? so với ông Đặng Tất thì thế nào? sẽ chờ dƣ luận và
thời gian trả lời. Tôi không cần phải tranh luận nữa. Duy có một điều là ý nghĩ của tôi khác
với ý nghĩ của Ngài. Tôi cho rằng đã là anh hùng thì thời thế nào cũng tạo đƣợc, đã là tuấn
kiệt thì vận mệnh nào cũng làm nên. Ngài bảo công việc của tôi là công việc lấp biển, vá trời
thì thành công là hiếm có. Vâng chim sẻ con chuyền từ cành này sang cành nọ, lại dám cƣời
con chim đại bàng hễ cất cánh bay là bay từ trời bắc xuống biển nam, hai tƣ tƣởng đó có khác
xa nhau thực. Vả chăng Ngài cũng theo học chữ thánh hiền, theo con đƣờng khoa cử, nhƣ
Khổng Tử nói: “ Sát thanh thành nhân ”. Mạnh Tử nói: “ Xả sinh thủ nghĩa “ chắc ngài cũng
chƣa quên, hay Ngài cũng cho những câu nói ấy là hoang đƣờng. Còn tôi thì cho dù phải hy
sinh đến tính mệnh, nhƣng làm thế nào mà xây nên nhân, nên nghĩa thì tôi cũng làm. Trong
lịch sử Đại việt đã 3 lần chiến thắng quân Nguyên, mƣời năm bình định quân Minh, hay đánh
Tống, đuổi Thanh, tôi chỉ biết một lòng phò Vua giúp nƣớc, nguyện hy sinh vì quê hƣơng đất
nƣớc, nguyện noi gƣơng các vị tiên liệt, tiền bối đó.
Vả chăng Vua Hàm Nghi tuy đã xuất bôn, đó là một việc xử biến, phải tòng quyền, ra đi để
lại về, lui để mà tiến, tôi rất khâm phục lắm thay. Vì tôi cũng không phải là phƣờng giá để
treo áo, túi để đựng cơm, mà phải khom lƣng qùy gối, để cầu lấy ấm no. Muốn có ấm no thì
phải tự mình làm lấy mà ăn. Tôi tặng Ngài vần thơ:
“ Nên tôi tay kiếm tay cờ
Thẳng lƣng mà bƣớc, ngẩng đầu trƣợng phu
Còn non, còn nƣớc, còn dài
Còn ngƣời chí khí, còn ngƣời đồng tâm ”.
Nếu ngài cho ý nghĩ của tôi là phải lẽ, thì ngài sẽ là ngƣời đồng tâm, đồng chí với tôi và
chúng ta sẽ cùng nhau gặp gỡ chung một tuyến đƣờng.
Kính chúc Ngài khang cƣờng, cũng mong ngài cho biết ý kiến.
Kính thƣ:
Mạc Đăng Tiết

Với chí khí khảng khái, phẩm chất anh hùng bất khuất, thà hy sinh của cụ Đốc Tít để chiến
đấu vì nƣớc, vì dân. Vì vậy mà Hoàng Cao Khải không thể dụ dỗ đƣợc, nên đã nghĩ ra nhiều
mƣu gian quỷ kế để phá hủy đốt cháy làng xóm, nhà thờ, đình chùa, lăng mộ, tàn sát hàng
nghìn bà con, dòng họ Nguyễn gốc Mạc quê tôi và những vùng phụ cận, cùng những ngƣời đi
theo nghĩa quân, hoặc giúp đỡ cho nghĩa quân chống Pháp.
Sau đây là bức thƣ thứ 3:

Tối hậu thƣ của Hoàng Cao Khải


Kính trả lời dƣới ngọn cờ quan Đề đốc họ Mạc.
Nhận đƣợc thƣ ông trả lời, biết ông là ngƣời anh hùng, khảng khái, có chí khí, trƣớc sau nhƣ
một. Nhƣng tôi thiết nghĩ ông có thể bảo vệ đƣợc toàn quân, nhƣng ông không thể bảo vệ
đƣợc toàn dân? Ngƣời trƣợng phu đã làm việc gì cần cân nhắc về mọi mặt. Về phần tôi chƣa
thắng đƣợc lúc này. Nhƣng tôi sẽ dùng cƣờng quyền, bạo lực, trƣớc mắt có thể thi hành một
cách mà ông không thể chống đối lại đƣợc. Đó là tôi lấy danh nghĩa quan Tổng đốc của địa
phƣơng này, sức cho 72 xã, huyện Hiệp Sơn, phủ Kinh Môn, mỗi xã chọn 30 thanh niên
cƣờng tráng đem đủ mai, cuốc, thuổng, dao, gƣơm đao, giáo mác tới làng Lƣu Thƣợng của
ông, cùng với quân đội trang bị khí giới vây chặt, phát quang cả làng, bắt hết họ hàng và
những ngƣời thân thích nhà ông, nếu ai chống đối thì bắn chết tại chỗ. Còn cửa nhà dân cƣ thì
đốt hết, phá hết cây cối tre, cau thì đào tận gốc, trốc tận rễ, san phẳng thổ cƣ thành bình điền.
Kế hoạch này tuy là tàn bạo, nhƣng tôi thì làm bất cứ việc gì để thắng đƣợc đối phƣơng thì tôi
phải làm, không thể nào khác đƣợc. Nếu ông cho lời nói của tôi là phải thì ông mau suy nghĩ
hồi tỉnh, ý ông thế nào cho tôi đƣợc biết ngay. Tôi sẽ đón tiếp ông ở địa điểm rất long trọng.
Kính thƣ:
Hoàng Cao Khải

Do cuộc chiến đấu không cân sức, địch cắt đƣờng tiếp tế lƣơng thực và vũ khí đạn, thuốc
cứu chữa thƣơng bệnh binh, và đầu độc nguồn nƣớc. Đồng thời địch còn dùng thủ đoạn vô
cùng thâm độc hèn hạ đốt phá san phẳng làng mạc, tàn sát con cháu dòng tộc họ Nguyễn gốc
Mạc và bà con quanh vùng. Vì vậy cùng với bối cảnh chung của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy đã
thất bại. ( Nhƣng đây là một thành tích của tay sai Tổng đốc Hoàng Cao Khải để dâng lên
quan thầy Pháp ).

THAM KHẢO THÊM:Đốc Tít


Bách khoa toàn thƣ mở Wikipedia
Đốc Tít, tức Nguyễn Xuân Tiết (1853 - 1916) là một chỉ huy của khởi nghĩa Bãi Sậy do
Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo, nguyên gốc họ Mạc, sinh trƣởng tại làng yên Lƣu Thƣợng,
phủ Kinh Môn, Hải Dƣơng. Tên Tít là do ngƣời Pháp phát âm sai từ chữ Tiết mà ra.
Trong phong trào chống Pháp ở Bắc Kỳ, ông đƣợc phong Đề đốc Hải Dƣơng dƣới sự chỉ huy
của Tán Thuật, lập căn cứ kháng Pháp ở vùng đất giữa sông Kinh Thầy và sông Đá Bạc trên
đất của 4 huyện Kinh Môn, Đông Triều, Yên Hƣng và Thuỷ Nguyên của 3 tỉnh Hải Dƣơng,
Quảng Ninh, Hải Phòng.
Cuối năm 1885, quân Pháp do 2 sĩ quan Falcon và Faure chỉ huy đã giao chiến với quân của
Đốc Tít, sau đó lại tiếp tục đánh nhau với ông ở Trại Sơn. Năm 1888, quân Pháp tiếp tục tấn
công Trại Sơn, 600 quân của Đốc Tít phải rút lui sau 12 ngày cầm cự.
Tháng 7 năm 1889, Khâm sai Hoàng Cao Khải, Tổng đốc Hải Dƣơng phối hợp cùng quân
Pháp bao vây Đốc Tít ở căn cứ Trại Sơn, thế cùng lực kiệt, ngày 12 tháng 8 năm 1889. Đốc
Tít cùng với toàn quân ra hàng quân Pháp. Rút kinh nghiệm Đội Văn trá hàng lúc trƣớc nên
ngƣời Pháp cho đày ông đi Algeri và ông qua đời tại đây ngày 21 tháng 12 năm 1916 thọ 63
tuổi.
Hoàng Cao Khải
Kinh lƣợc sứ Bắc Kỳ, Hoàng Cao Khải.
Hoàng Cao Khải (chữ Hán: 黃高啟; 1850–1933), là nhà văn, nhà sử học và là đại thần thân
Pháp dƣới triều vua Thành Thái trong lịch sử Việt Nam
Nguyên danh của ông là Hoàng Văn Khải, tự Đông Minh, hiệu Thái Xuyên, quê ở làng Đông
Thái (nay thuộc xã Tùng Ảnh), huyện La Sơn (nay là huyện Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Đỗ cử
nhân ân khoa 1968 (cùng khóa thi với anh ông Phan Đình Phùng tên là Phan Đình Thuật,
Phan Đình Phùng năm 1876 mới đậu ở Trƣờng Thi, Nghệ An) năm Tự Đức thứ 21 (1868),
cùng đƣợc bổ làm huấn đạo huyện Thọ Xƣơng, sau làm giáo thụ ở phủ Hoài Đức (Hà Tây).
Trƣớc khi Pháp chiếm Bắc Kỳ, ông lần lƣợt giữ các chức vụ Tri huyện Thọ Xƣơng rồi thăng
quyền Án sát Lạng Sơn, quyền Tuần phủ Hƣng Yên.
Năm 1884, Pháp chiếm Bắc Kỳ, trong khi các phòng trào chống Pháp nổi dậy thì ông lại hợp
tác với Pháp để đàn áp các phong trào nghĩa quân chống Pháp. Tháng 1 năm 1887, quyền
Tuần phủ Hƣng Yên, Hoàng Cao Khải đƣợc vua Đồng Khánh cho thực thụ Tuần phủ, gia
hàm Thự lý Tổng đốc, nhƣng vẫn lãnh Tuần phủ kiêm Tiễu phủ sứ ba tỉnh Hải Dƣơng, Bắc
Ninh, Hƣng Yên, đặc biệt tham gia đàn áp cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy.
Năm 1888, ông đƣợc thăng làm Tổng đốc Hải Dƣơng, rồi làm Khâm sai Kinh lƣợc Bắc Kỳ,
tƣớc Duyên Mậu quận công (1890), đây là biệt lệ vì quan lại triều Nguyễn chỉ đƣợc phong
quận công khi đã mất. Năm 1894, theo lệnh của toàn quyền De Lanessan, ông viết thƣ dụ
hàng Phan Đình Phùng, nhƣng bị cự tuyệt.
Năm 1897, Nha Kinh lƣợc Bắc Kỳ bị bãi bỏ, Hoàng Cao Khải đƣợc điều về Huế lãnh chức
thƣợng thƣ Bộ Binh và làm phụ chính đại thần cho vua Thành Thái, Thái tử Thái phó, Văn
minh điện Đại học sĩ. Nhƣ vậy, Hoàng Cao Khải là viên Kinh lƣợc sứ Bắc Kỳ cuối cùng của
triều Nguyễn.
Sau đó, ông làm Tổng đốc tỉnh Hà Đông, giúp Thống sứ Bắc Kỳ soạn Nghị định về tổ chức
bộ máy quản lý cấp xã ở Bắc Kỳ.
Ngày 6 tháng 5 năm 1922, Hội Thanh niên Việt Nam (Foyers de la Jeunesse Annamite) đƣợc
thành lập, Hoàng Cao Khải cùng Thống sứ Bắc Kỳ Monguillot làm đồng Chủ tịch Hội, chánh
mật thám Pháp Marty làm Chủ tịch danh dự.
Ông về hƣu tại ấp Thái Hà, Hà Nội. Mộ của Hoàng Cao Khải nằm ở khu vực ấp Thái Hà cũ,
nay thuộc phƣờng Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội. Di tích này ít đƣợc chăm sóc, đến nay
khá là hoang phế. Khu ấp có tính đặc thù cao về kiến trúc, đƣợc xây dựng năm 1893.
Lăng Hoàng Cao Khải (giờ là trụ sở tổ tuần tra phƣờng!)

Nằm rải rác ở khu vực phía Tây gò Đống Đa, gồm nhiều công trình kiến trúc tinh xảo đƣợc
đánh giá là đạt đến trình độ kỹ thuật cao tay trong nghệ thuật điêu khắc đá của ngƣời Việt.
( Còn phần tiếp theo - dienbatn )

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM


. BÀI 11.

Thứ Bảy, ngày 15 tháng 11 năm 2014


CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM . BÀI 11.

MỘT SỐ TƢ LIỆU VỀ HOÀNG CAO KHẢI.


( Tiếp theo )
Hoàng Cao Khải - Phan Đình Phùng .
Nhắc đến Hoàng Cao Khải không thể không nói tới Phan Đình Phùng và ngƣợc lại - hai con
ngƣời cùng thời đại, cùng quê, có quan hệ họ hàng, nhƣng đối lập nhau về lí tƣởng. Một
ngƣời vƣơng giả hiển vinh, một ngƣời vì lí tƣởng mà mồ mả tổ tiên bị quật lên, rồi sau này
chính thân xác chính mình cũng bị thiêu thành tro, trộn với thuốc súng bắn xuống dòng sông
La
Trích từ Việt Nam Thƣ Quán....

Ngƣời hạ bút viết bức thƣ khuyên nhủ Phan ra hàng, chính là ngƣời đồng hƣơng, đồng thời
với cụ, lại có tình thông gia với nhau nữa: ông Hoàng Cao Khải.
Lúc này họ Hoàng đang làm Bắc kỳ Kinh lƣợc sứ tôn nghiêm hiển hách; ngƣời Pháp gọi là
"phó vƣơng" (vice roi). Thiếu gì ngƣời làng Đông Thái muốn tránh hoạ phải chạy ra Bắc, núp
dƣới bóng che chở và đầu thân làm môn hạ của họ Hoàng, ngay đến ngƣời trong thân tộc cụ
Phan cũng có.
Xuất thân chỉ là một thầy cử nhân đậu trẻ, rồi ở nhà nhàn cƣ vô sự, cờ bạc chơi bời, đến đỗi
bán hết gia viên điền sản, chỉ còn một nƣớc tự tử đến nơi, họ Hoàng bỏ nhà đi ra Bắc hà, gặp
đƣợc ngƣời tri kỷ, rồi cỡi voi đánh giặc, tuỳ thế lập công danh, thấm thoát không mấy năm
mà làm tới kinh lƣợc, phong tới Quận công, ai cũng phải chịu là ngƣời có tài lớn.
Nếu cụ Phan là anh hùng muốn tạo lại thời thế mà tạo không đƣợc, thì họ Hoàng chính là anh
hùng bởi thời thế tạo ra.
Cùng thời, cùng làng, hai ngƣời đi khác hẳn con đƣờng chí hƣớng, mà cùng đến chỗ cực
đoan, cùng có tên tuổi lớn trong lịch sử. Đối với thời thế, mỗi ông là một đại biểu cho một
trào lƣu tƣ tƣởng hành vi của Việt Nam: có họ Hoàng nên khí tiết họ Phan càng rõ rệt, có họ
Phan nên sự nghiệp họ Hoàng càng vẻ vang, ấy là một chỗ sắp đặt của lịch sử éo le khôn
khéo lắm vậy.
Cuối tháng 10 năm Giáp Ngọ, Hoàng Cao Khải viết thƣ rồi sai chính ngƣời nội đệ (em vợ)
mình vừa là ông anh con nhà bác của cụ Phan là Phan Văn Mân đêm lên núi Vụ Quang.
Không ai khác hơn ông này mà dám lĩnh mệnh đi sứ, nhất là đi sứ chiêu hàng, vì nếu ngƣời
khác chắc là nghĩa binh làm thịt.
Mặc lòng là bà con thân quyến, Phan Văn Mân phải trải nhiều lớn gian nan nguy hiểm mới
vô đến đại doanh. Mới thấy ông đƣờng huynh thò mặt vô, cụ Phan cả cƣời và nói:
- Anh đi làm thuyết khách cho Hoàng Cao Khải khó nhọc lắm hè!
Vì cụ đã đƣợc tin báo trƣớc cho biết.
Cụ xem thƣ rồi thở dài:
- Không dè ngƣời khuyên nhủ tôi ra hàng là cố nhân Hoàng Cao. Tôi thề quyết làm việc tôi
làm đây tới cùng, dầu sấm sét búa rìu cũng không làm sao cho tôi thay lòng đổi chí đƣợc, anh
về nói giùm cho Hoàng Cao biết nhƣ thế. Nếu tôi không làm xong đƣợc công việc vua uỷ
thác, dân trông mong và không rửa hận cho khô cốt của tổ tiên ở dƣới đất, thì chỉ có một cách
là chết theo hoài bão tâm chí mình mà thôi.
Rồi tức thời, cụ cầm bút viết thƣ trả lời, trao cho ông Phan Văn Mân đem về. Lúc anh em từ
biệt, cụ ân cần dặn với:
- Cũng may phƣớc cho ngƣời đem thƣ chiêu hàng chính là anh, nếu là ai khác thì bộ hạ của
tôi chắc làm tƣơng mắm để gửi biếu Hoàng Cao nếm thử. Lần sau y có sai đi, anh đừng lãnh
mệnh nữa nghe!
Ta đọc cả hai bức thƣ dịch ra dƣới đây, tức nhƣ hai bức tranh phóng đại tâm tích chí khí của
hai ông cùng một làng với nhau, mà hai đàng xa cách nhau tuyệt mù không thế nào gặp nhau
đƣợc là phải.

Bức thƣ của Hoàng Cao Khải


"Đồng ấp Phan Đình Nguyên đại nhân túc hạ.
Tôi với ngài xa cách nhau, xuân thu đắp đổi trải đã mƣời bảy năm nay rồi. Dâu bể cuộc đời,
bắc nam đƣờng bụi, tuy là mỗi ngƣời đi một ngả khác nhau, nhƣng mà trong giấc mộng hồn
vẫn thƣờng thấy nhau không phải xa xôi gì. Ngồi nghĩ lại ngày trƣớc chúng ta còn ở chốn
quê hƣơng giao du với nhau, cái tình ấy đằm thắm biết là dƣờng nào?
Từ lúc ngài khởi nghĩa đến giờ, nghĩa khí trung can, đều rõ rệt ở tai mắt ngƣời ta. Tôi
thƣờng nghe các quý quan (là các quan Pháp) nói chuyện đến ngài, ông nào cũng phải thở
than khen ngợi và tỏ ý kính trọng ngài lắm. Xem nhƣ thế thì tấm lòng huyết khí tôn nhân, tuy
là ngƣời khác nƣớc cũng chung một tâm tình ấy thôi, không phải là ngƣời cùng thanh khí với
nhau mới có vậy.
Ngày kinh thành thất thủ, xe giá nhà vua bôn ba, mà ngài mạnh mẽ đứng ra ông nghĩa, kể sự
thế lúc bấy giờ, ngài làm vậy là phải lắm, không ai không nói nhƣ thế. Song le, sự thế gần
đây đã xoay đổi ra thế nào, thử hỏi việc đời có thể làm đƣợc nữa không, dầu kẻ ít học thức,
kém trí khôn, cũng đều trả lời không đƣợc. Huống chi nhƣ ngài lại là bậc ngƣời tuấn kiệt,
chẳng lẽ không nghĩ tới đó hay sao? Tôi trộm xét chủ ý của ngài, chắc cũng cho rằng: ta cứ
làm theo việc phải ta biết, cứ đem hết tài năng ta có, một việc nên làm mà làm là ở nơi ngƣời,
còn nên đƣợc hay không nên là ở nơi trời, ta chỉ biết đem thân này hứa cho nƣớc, đến chết
mới thôi. Bởi thế, cho nên ngài cứ việc làm tới cùng, không ai có thể làm biến đổi cái chí ấy
đi đƣợc.
Có điều tôi thấy tình trạng ở quê hƣơng chúng ta gần đây, lấy làm đau lòng hết sức. Nhân
đó, tôi thƣờng muốn đem ý kiến hẹp hòi, để ngỏ cùng lƣợng cao minh soi xét; nhƣng mấy lần
mở giấy ra rồi, mài mực xong rồi, đã toan đặt bút xuống viết rồi lại gác bút thở dài, không
sao viết đƣợc. Vì sao? Vì tôi liệu biết can tràng của ngài cứng nhƣ sắt đá, không thể lấy lời
nói mà chuyển động nổi. Đã vậy, lại còn khác tình, khác cảnh, xa mặt xa lòng, vậy thì lời nói
của tôi, chắc gì thấu tới đƣợc nơi ngài; mà dầu cho có thấu tới nơi ngài chăng nữa, đã chắc
gì lọt vào tai ngày chịu nghe giùm cho, chẳng qua chỉ để cho cố nhân cƣời mình là thằng ngu
thì có.
Nay nhân quan Toàn quyền trở lại, đem việc ở tỉnh ta bàn bạc với tôi, có khuyên tôi sai ngƣời
đến ngỏ ý cùng ngài biết rằng: ngài là bậc ngƣời hiểu biết nghĩa lớn, dầu không bận lòng
tƣởng nghĩ gì đến thân mình, nhà mình đi nữa, thì cũng nên tƣởng nghĩ cứu vớt lấy dân ở
trong một địa phƣơng mới phải. Lời nói đó, quan Toàn quyền không nói với ai, mà nói với
tôi, là vì cho rằng: tôi với ngài có cái tình xóm làng cố cựu với nhau, chắc hẳn tôi nói ngài
nghe đƣợc, vậy có lẽ nào tôi làm thinh không nói?
Ngay thử nghĩ xem: quan Toàn quyền là ngƣời khác nƣớc, muôn dặm tới đây, mà còn có lòng
băn khoăn lo nghĩ tới dân mình nhƣ vậy thay, huống chi chúng ta sinh đẻ lớn khôn ở đất này,
là đất của cha mẹ tôn tộc ở đó, có là đâu mình làm lơ đành đoạn, thì trăm năm về sau, ngƣời
ta sẽ bảo mình ra làm sao? Ôi! Làm ngƣời trên phải có lòng thƣơng yêu dân làm cốt, chƣa
từng có ai không biết thƣơng dân mà bảo là trung với vua bao giờ. Việc của ngài làm từ bấy
lâu nay, bảo rằng trung thì thiệt là trung, song dân ta có tội gì mà vƣớng phải nông nỗi lầm
than thế này, là lỗi tại ai? Nếu bảo là đã vì thiên hạ thì không thiết chi tới nhà nữa cũng phải,
nhƣng một nhà của mình đã vậy, chứ còn bao nhiêu nhà ở trong một vùng cũng bỏ đi cả, sao
cho đang tâm, Tôi nghĩ nếu nhƣ ngài cứ không không làm tràn tới mãi, thì e rằng khắp cả
sông Lam núi Hồng đều biến thành hồ cá hết thảy, chứ không phải chỉ riêng lo ngại cho cây
cỏ một làng Đông Thái chúng ta mà thôi đâu. Đến nỗi để cho quê hƣơng điêu đứng xiêu tàn,
tƣởng chắc bậc ngƣời quân nhân quân tử không lấy gì làm vui mà làm thì phải.
Tôi suy nghĩ đắn đo mãi, vụt lấy làm mừng rỡ mà nói riêng với mình: Đƣợc rồi, lời nói đó tôi
có thể đem ra nói cho ngài nghe lọt tai, để xin ngài chỉ bảo cho biết nhƣ vậy có phải hay
không?
Tuy nhiên, sự thế của ngài nhƣ cỡi trên lƣng cọp đã lỡ rồi, bây giờ muốn bƣớc xuống, nghĩ
lại khó khăn biết bao!
Nếu nhƣ tôi không có chỗ tự tin chắc chắn nơi mình, thì quyết không khi nào dám mở lời nói
liều lĩnh để mang luỵ cho cố nhân về sau. Nhƣng may là tôi với quan Toàn quyền, vốn có tình
quen biết nhau lâu, lại với quan Khâm sứ ở Kinh, và quan Công sứ Nghệ Tĩnh, cùng tôi quen
thân hiệp ý nhau lắm, cho nên trƣớc kia Trần Phiên sứ (tên là Khánh Tiến, làm Tuần phủ,
nên gọi là Phiên sứ) Phan Thị Lang, (tên là Huy Nhuận), cũng là chỗ thân trong tỉnh, trong
làng hoặc bị tội nặng, hoặc bị xử đày rồi, thế mà tôi bảo toàn cho hai ông ấy đều đƣợc yên
ổn vô sự. Lại nhƣ mới rồi, ông Phan Trọng Mƣu ra thú, tôi dẫn đến yết kiến các đại hiến quý
quan, thì các ngài cũng tiếp đãi trân trọng nhƣ đãi khách quý, và tức thời điện về tỉnh nhà,
bắt trả lại mồ mả, và tha cả ba con về, nhƣ thế tỏ ra nhà nƣớc Bảo hộ khoan dung biết chừng
nào! Cứ xem vậy đủ biết lẽ ấy, lòng ấy, dầu là ngƣời nghìn dặm xa nhau, vẫn là giống nhau
vậy.
Bây giờ, nếu ngài không cho lời tôi nói là dông dài, thì xin ngài đừng ngần ngại một điều gì
khác hết tôi không khi nào dám để cho cố nhân mang tiếng là ngƣời bất trí đâu.
Hoàng Cao Khải
đốn thƣ"
Bức thƣ cụ Phan trả lời:
"Hoàng quý đài các hạ,
Gần đây, tôi vì việc quân, ở mãi trong chốn rừng rú, lại thêm lúc này tiết trời mùa đông, khí
hậu rét quá, nông nỗi thiệt là buồn tênh. Chợt có ngƣời báo có thƣ của cố nhân gửi lại. Nghe
tin ấy, không ngờ bao nhiêu nỗi buồn rầu lạnh lẽo, tan đi đâu mất cả. Tiếp thƣ liền mở ra
đọc. Trong thƣ cố nhân chỉ bảo cho điều hoạ phƣớc, bày tỏ hết chỗ lợi hại, đủ biết tấm lòng
của cố nhân, chẳng những muốn mƣu sự an toàn cho tôi thôi, chính là muốn mƣu sự yên ổn
cho toàn hạt ta nữa. Những lời nói gan ruột của cố nhân, tôi đã hiểu hết, cách nhau muôn
dặm tuy xa, nhƣng chẳng khác gì chúng ta đƣợc ngồi cùng nhà nói chuyện với nhau vậy.
Song le tâm sự và cảnh ngộ của tôi có chỗ muôn vàn khó nói hết sức. Xem sự thế thiên hạ
nhƣ thế kia, mà tài lực tôi nhƣ thế này, y nhƣ lời cổ nhân đã nói "thân con bọ ngựa là bao mà
dám giơ cánh tay lên muốn cản trở cỗ xe" sao nổi không biết; việc tôi làm ngày nay, sánh lại
còn quá hơn nữa, chẳng phải nhƣ chuyện con bọ ngựa đƣa tay ra cản xe mà thôi.
Nhƣng tôi ngẫm nghĩ lại, nƣớc mình mấy ngàn năm nay, chỉ lấy văn hiến truyền nối nhau hết
đời này qua đời kia, đất nƣớc chẳng rộng, quân lính chẳng mạnh, tiền của chẳng giàu, duy
có chỗ ỷ thị dựa nƣơng để dựng nƣớc đƣợc, là nhờ có cái gốc vua tôi, cha con theo nghĩa vốn
có chỗ đủ cho mình tự có thể trông cậy dựa nƣơng lắm vậy. Đến nay ngƣời Pháp với mình,
cách xa nhau không biết là mấy muôn dặm, họ vƣợt bể tới đây, đi tới đâu nhƣ là gió lƣớt tới
đó, đến nỗi nhà vua phải chạy, cả nƣớc lao xao, bỗng chốc non sông nƣớc mình biến thành
bờ cõi ngƣời ta, thế là trọn cả nƣớc nhà, dân nhà, cùng bị đắm chìm hết thảy, có phải là
riêng một châu nào hay một nhà ai phải chịu cảnh lầm than mà thôi đâu.
Năm Ất Dậu, xe giá thiên tử ngự đến sơn phòng Hà Tĩnh, giữa lúc đó tôi đang còn tang bà
mẹ, chỉ biết đóng cửa cƣ tang cho trọn đạo, trong lòng há dám mơ tƣởng đến sự gì khác hơn.
Song, vì mình là con nhà thế thần, cho nên đôi ba lần đức Hoàng thƣợng giáng chiếu vời ra;
không lẽ nào có thể từ chối, thành ra tôi phải gắng gổ đứng ra vâng chiếu, không sao dừng
đƣợc. Gần đây, Hoàng thƣợng lại đoái tƣởng lựa chọn tôi mà giao phó việc lớn, uỷ thác cho
quyền to; Ấy, mệnh vua uỷ thác nhƣ thế đó, nếu cố nhân đặt mình vào trong cảnh nhƣ tôi,
liệu chừng cố nhân có đành chối từ trốn tránh đi đƣợc hay không?
Từ lúc tôi khởi nghĩa đến nay, đã trải mƣời năm trời, những ngƣời đem thân theo việc nghĩa,
hoặc đã bị trách phạt, hoặc đã bị chém giết, vậy mà lòng ngƣời trƣớc sau chẳng hề lấy thế
làm chán nản ngã lòng bao giờ; trái lại, họ vẫn ra tài, ra sức giúp đỡ tôi, và lại số ngƣời
mạnh bạo ra theo tôi càng ngày càng nhiều thêm mãi. Nào có phải ngƣời ta lấy điều ta vạ
hiểm nguy làm cho sự sung sƣớng thèm thuồng mà bỏ nhà dấn thân ra theo tôi nhƣ vậy đâu.
Chỉ vì họ tin cậy lòng tôi, lƣợng xét chí tôi, cho nên hâm hở vậy đó thôi. Ấy, lòng ngƣời nhƣ
thế đó, nếu nhƣ cố nhân đặt mình vào cảnh của tôi liệu chừng cố nhân có nỡ lòng nào bỏ mà
đi cho đành hay không?
Thƣa cố nhân, chỉ vì nhân tâm đối với tôi nhƣ thế, cho nên cảnh nhà tôi đến nỗi hƣơng khói
vắng tanh, bà con xiêu dạt, tôi cũng chẳng dám đoái hoài. Nghĩ xem, kẻ thân với mình mà
mình còn không đoái hoài, huống chi là kẻ sơ: ngƣời gần với mình mà mình còn không bao
bọc nổi, huống chi ngƣời xa. Vả chăng hạt ta đến đỗi điêu đứng lầm than quá, không phải
riêng vì tai hoạ binh đao làm nên nông nổi thế đâu. Phải biết quan Pháp đi tới đâu, có lũ tiểu
nhân mình túa ra bày kế lập công, thù vơ oán chạ; những ngƣời không có tội gì chúng cũng
đâm thọc buộc ràng cho ngƣời ta là có tội, rồi thì bữa nay trách thế nọ, ngày mai phạt thế
kia; phàm có cách gì đục khoét đƣợc của cải của dân, chúng nó cũng dùng tới nơi hết thảy.
Bởi đó mà thói hƣ mối tệ tuôn ra cả trăm cả ngàn, quan Pháp làm sao biết thấu cho cùng
những tật khổ của dân trong chốn làng xóm quê mùa, nhƣ thế thì bảo dân không phải tan lìa
trôi giạt đi sao đƣợc?
Cố nhân với tôi, đều là ngƣời sinh đẻ tại châu Hoan, mà ở cách xa ngoài muôn ngàn dặm, cố
nhân còn có lòng đoái tƣởng quê hƣơng thay, huống chi là tôi đây đã từng lấy thân chịu
đựng và lấy mắt trông thấy thì sao? Khốn nỗi cảnh ngộ bó buộc, vả lại sức mình chẳng làm
đƣợc theo lòng mình muốn, thành ra phải đành, chứ không biết làm sao cho đƣợc. Cố nhân
đã biết đoái hoài thƣơng xót dân này, thì cố nhân nên lấy tâm sự tôi và cảnh ngộ tôi thử đặt
mình vào mà suy nghĩ xem, tự nhiên thấy rõ ràng, có cần gì đến tôi phải nói dông dài nữa ƣ?

Phan Đình Phùng


phúc thƣ"

Bức thƣ cụ Phan trả lời, viết thật nhẹ nhàng mà đau đớn, tử tế mà cƣơng quyết, tỏ ra mình
chết thì thôi, không chịu bãi binh quy hàng. Cụ lại khéo đem quân mạng và dân tâm ra làm
nòng cốt để hỏi cố nhân họ Hoàng nếu gặp cảnh ngộ ấy thì làm thế nào? Hình nhƣ cụ Phan có
ý chận đƣờng rào ngõ không để họ Hoàng viết cho mình tới bức thƣ thứ hai nữa.
Thiệt, lúc ông Phan Văn Mân đem bức thƣ phúc đáp ra Hà Nội, họ Hoàng xem rồi biến sắc,
nếu lúc ấy có bệnh nhức đầu chống mặt gì, tất cũng tiêu tan nhƣ hồi Tào Mạnh Đức đọc bài
hịch của Trần Lâm vậy.
Họ Hoàng sai dịch bức thƣ ra chữ Pháp, đƣa trình Toàn quyền De Lanessan, luôn với tờ báo
cáo của mình, trong đó có câu đại ý: “Bản chức đã lấy hết sự thế lợi hại để tỏ bày khuyên nhủ
Phan Đình Phùng ra hàng, nhƣng y vẫn tỏ ý hôn mê bất ngội (mê mẩn tối tăm không tỉnh),
giờ xin Chính phủ Bảo hộ vì dân mà dùng binh lực tiễu trừ cho hết văn thân loạn phỉ...”
Ấy là lẽ cố nhiên. Đào mả không núng; khuyên hàng không nghe; văn chƣơng không cảm;
thôi thì chỉ còn võ lực. Giờ, quan văn trở vô buồng để cho tƣớng võ lại ra sân khấu.

ẤP THÁI HÀ.
Trên rất nhiều bức bƣu ảnh thời Pháp bắt gặp dòng chú thích Village du Kinh Luoc.
Bạn biết gì về vị quan đầu triều thời Nguyễn và khu thái ấp của ông ta?
Công trình trong hai bức bƣu ảnh trên giống nhau đến mức ngƣời ta dễ kết luận chúng là một
nếu không để ý đến những dòng chú thích "La pagode de Vua Le" và "Monument funéraire
du Kinh Luoc".
Kiến trúc nhà bia và trụ đá đặt tƣợng vua Lê bên hồ Hoàn Kiếm đƣợc sao chép và đƣa vào
một công trình đƣợc xây dựng để suy tôn chính mình của một nhân vật đã đi vào lịch sử với
tội danh hợp tác đắc lực với thực dân Pháp trong việc đàn áp các phong trào khởi nghĩa -
Kinh lƣợc sứ Bắc Kì Hoàng Cao Khải (vice roi - phó vƣơng - theo cách gọi của ngƣời Pháp.

Ấp Thái Hà
Theo TS Bùi Xuân Đính trên trang Đông Tác ấp Thái Hà là phần thƣởng của thực dân Pháp
dành cho Hoàng Cao Khải. Dù đã có dinh thự trong thành phố (entry trƣớc), vị phó vƣơng
muốn lập một khu thái ấp để nghỉ già. Ấp đƣợc xây dựng năm 1893, gồm rất nhiều công trình
kiến trúc dinh thự, lăng mộ, đình chùa...nằm rải rác trên một không gian rất rộng phía bên trái
gò Đống Đa, kéo dài từ phố Đặng Tiến Đông ngày nay tới tận Trƣờng cán bộ Công Đoàn Hà
Nội.

Vì khu ấp nằm trên thế trũng, chủ nhân cho đào mƣơng máng ngang dọc, xung quanh để tiêu
nƣớc, đất đào lên để tôn nền, rồi chia thành vài chục lô vuông vắn.
Khu dinh cơ của Hoàng Cao Khải chiếm một phần tƣ ấp, ở góc Đông Nam đƣờng cái gồm tƣ
dinh nằm sâu trong cổng chính, cổng phụ, cầu bắc qua hào, tƣờng bao. Phần đất ngoài tƣ dinh
đƣợc chia thành lô bán cho các quan lại cao cấp ngƣời Việt xây nhà cửa để biến thành một
khu quý tộc.
Dân chúng đƣợc khuyến khích làm nhà ở xung quanh chùa Đồng Quang, dọc hai bên đƣờng
cái, tạo nên một đoạn đƣờng phố tấp nập. Đƣờng tầu điện chạy ngang khu thái ấp dẫn vào tận
Ngã Tƣ Sở. Từ đầu thập kỷ 10 của thế kỷ XX, nhiều cơ quan thuê nhà trong ấp để đặt trụ sở,
nhƣ Viện Đại lý Pháp, Sở Địa chính Bắc Kỳ, Phòng Thí nghiệm vi trùng học. Năm 1927,
ngƣời Pháp cho lập một trại thu nhận trẻ lang thang tại đây.
Nhiều công trình trong ấp hiện diện trên các bức bƣu ảnh chụp từ cuối thế kỉ XIX đến những
năm 30 thế kỉ XX giúp ta hình dung về sự huy hoàng của nó
Sau CMT8, khu thái ấp về tay chính quyền nhân dân, dù đƣợc xếp hạng là di tích lịch sử cấp
quốc gia, nhƣng trên thực tế nó đã không đƣợc bảo quản, nhiều công trình kiến trúc có giá trị
nghệ thuật đã bị phá, những chiếc cổng, bờ tƣờng cao không cản đƣợc làn sóng ngƣời "nhảy
dù" vào đây sinh sống . Cùng với thời gian, quần thể kiến trúc "Village du Kinh Luoc" gần
nhƣ đã biến mất hoàn toàn giữa một biển dân cƣ phƣờng Trung Liệt.
Lối vào khu lăng mộ Hoàng Cao Khải, đối diện với trƣờng Đại học thuỷ lợi, giờ là con hẻm
ngoắt nghéo, bị ép chặt bởi những ngôi nhà dị dạng. Khi đƣợc hỏi, những sinh viên chờ xe
bus không hề biết cách chỗ mình đứng không xa có một khu lăng mộ đƣợc các nhà sử học
Việt Nam gọi là thành nhà Hồ thứ hai, còn ngƣời Pháp đánh giá là một trong những đỉnh cao
của kiến trúc đá phƣơng Đông.

Lăng Hoàng Cao Khải


Tuy không sánh đƣợc với lăng tẩm các vị vua triều Nguyễn ở Huế về quy mô, nhƣng lăng
Hoàng Cao Khải đƣợc đánh giá là công trình kiến trúc đá đặc sắc. Vì những giá trị của quần
thể di tích kiến trúc này, ngày 25-11-1945, trong Sắc lệnh bảo vệ di tích cổ vật, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chủ trƣơng giữ nguyên hiện trạng khu ấp. Bộ Văn hóa Thông tin cũng đánh giá:
Đây là chứng tích duy nhất của nƣớc ta về một quần thể các công trình lăng tẩm, dinh thự của
một phó vƣơng...Nhƣng trên thực tế sự lẫn lộn trong việc đánh giá một nhân vật trong quá
khứ với giá trị văn hoá lịch sử của một công trình kiến trúc là nguyên nhân làm cho khu di
tích này mất tích.
Những đoạn tả khu lăng mộ Hoàng Cao Khải của những thế hệ ngƣời khác nhau từng sống
tại nơi này.
"Bƣớc qua cổng ấp, thẳng trƣớc mặt chúng tôi và ở tít tận đằng xa là Dinh cụ Quận - Trong
"Ăn Tết bên ngoại" Văn Ngọc kể về những kỉ niệm thời thơ ấu trƣớc CMT8 - Nhƣng trƣớc
khi tới đó, chúng tôi còn phải đi qua một chỗ có cái đài bằng đá hoa cƣơng nhẵn bóng, màu
thẫm, bệ hình tròn, cao độ 60cm, đƣờng kính độ dăm thƣớc, có bậc để đi lên, ở giữa đài là
một cây cột trụ đúc bằng gang, có đƣờng chỉ trang trí nhƣ một thức cột. Bao giờ chúng tôi
cũng dừng lại để trèo lên đây đùa nghịch một lúc, bắt mẹ chúng tôi phải chờ đợi. Nhƣng đi
mấy bƣớc nữa, đến gần dinh cụ Quận, thì chúng tôi chẳng còn dám ho hoe, nghịch ngợm nữa.
Không hiểu sao, cái không khí lạnh lẽo toát ra từ nơi này luôn luôn làm cho chúng tôi hãi sợ,
có lẽ vì hình ảnh cái chiêng và cái trống nằm ở hai đầu hiên vắng ngắt, và đã phủ một lớp bụi
thời gian, khiến cho chúng tôi không khỏi liên tƣởng đến những vụ xử trảm rùng rợn đã từng
xảy ra ở nơi này thời cụ Quận còn sống. Ngƣời dân ở đây đồn rằng, đêm đêm vẫn nghe thấy
tiếng chiêng rất bi ai từ trong dinh ngân ra!"
Cây cột Văn Ngọc nhắc đến hiện diện trên rất nhiều bức bƣu ảnh thời ấy, chủ nhân thái ấp có
ý gì khi sao chép và dựng trong khu lăng mộ của mình một bản sao trụ đá đặt tƣợng vua Lê ,
nhƣng trái với mong muốn, cây cột đã không tồn tại với thời gian, không rõ công trình này bị
phá bỏ khi nào vì không thấy bóng dáng nó trong đoạn hồi kí của một ngƣời Hà nội tả khu
lăng thập kỉ 60.
"Đối diện với cổng trƣờng đại học Thuỷ Lợi ngày nay là cổng chính vào lăng Hoàng Cao
Khải. Phía ngoài đƣờng cái (đƣờng Nguyễn Trãi ngày nay) là một bức tƣờng rào phía trƣớc
lăng, cao đến hơn 4 mét, dài cả trăm mét, ở chính giữa là cổng vào lăng làm bằng sắt rất lớn
với những hoa văn đúc bằng gang, hai cánh mở ra hai bên rộng đến mức ô tô tải vào đƣợc.
Qua cổng là một con đƣờng lát gạch đinh rộng khoảng 4 mét dẫn vào bên trong, hai bên là
vƣờn nhãn và thảm cỏ xanh tốt quanh năm. Ngay lối vào lăng ở phía bên trái là mộ của con
gái út Hoàng Cao Khải, cạnh mộ có hai cây roi to, quả rất ngon. Quá một chút là mộ con gái
thứ của ông ta xây bằng gạch và xi măng.
Con đƣờng dẫn vào thẳng đến một cái hồ bán nguyệt tuyệt đẹp ở trung tâm của lăng, vòng
cung hƣớng ra ngoài, có bờ gạch xây cao lên cách mặt đất 40 cm rất sạch sẽ, bờ bao quanh hồ
xây gạch đinh xuống đến tận đáy, trên thành hồ có những hốc thoát nƣớc hình vuông cách
đều nhau khoảng 30 mét để thoát nƣớc ra ngoài khi hồ quá đầy vì một lý do nào đấy. Dƣới hồ
trồng sen, nƣớc trong hồ trong suốt và rất sâu. Chỉ có một lối xuống hồ duy nhất là ở chính
giữa bờ thẳng phía bên trong nơi ngƣời dân ở quanh vùng đến gánh nƣớc về ăn, không ai
đƣợc phép rửa ráy hay tắm giặt ở đây. Ngƣời ta có thả cá chép trong hồ, không phải để ăn mà
là để kiểm tra chất lƣợng nƣớc.
Đối diện với lối lên xuống hồ là lăng chính của vợ chồng Hoàng Cao Khải hoàn toàn bằng đá
cẩm thạch trắng, rất lớn và hoành tráng, trần cách sàn hơn 4 mét, ở giữa có một cái bàn đá
màu trắng rộng và rất mát, trẻ con leo lên đó ngồi dăm bảy đứa thoải mái. Mộ của Hoàng Cao
Khải ở bên trái, của vợ ông ta ở bên phải, đều bằng đá cẩm thạch trắng cực đẹp, chạm trổ tinh
vi, có khắc những dòng chữ Hán sắc xảo.
Phía trƣớc mộ là hai hàng lính đá mỗi bên 4 ngƣời bồng gƣơm, cao gần bằng ngƣời thật, đầu
đội mũ nhỏ có tua đứng gác."
Để ý các bức ảnh trên sẽ thấy ban đầu mộ (hoặc mộ chờ) của vợ chồng Hoàng Cao Khảo để
lộ thiên trên một nền đá có tƣờng bao, bờ tam cấp dẫn lên đƣợc trang trí bằng hai khối đá tạc
hoa văn cách điệu hình rồng, về sau một toà lăng đƣợc dựng bên trên, toà lăng này còn tồn tại
tới ngày nay.
Tiếp tục lời kể: "Phía sau mộ là một quả đồi khá cao, trên đỉnh đồi dựng một nhà tam quan
để hóng mát. Từ trên đồi có thể nhìn thấy toàn cảnh một vùng rất rộng. Có một bậc thang xây
bằng gạch đinh màu đỏ rộng đến 8 mét từ chân đồi thẳng lên đến tận nhà tam quan trên đỉnh
đồi, tổng cộng có 108 bậc. Có một dạo ngƣời ta lấy nơi đây làm nhà mẫu giáo. Ngày hai buổi
sáng, chiều các bé cùng phụ huynh phải leo bậc thang mệt đứt hơi, sau vì bất tiện mới bỏ.
Bên phải mộ Hoàng Cao Khải là mộ Hoàng Trọng Phu, con trai trƣởng của Hoàng Cao Khải
xây bằng đá xanh, đẹp và uy nghi không kém."

Bài từ Nhans Blog


( Xem tiếp phần còn lại. dienbatn. )

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM


. BÀI 12.
Thứ Bảy, ngày 15 tháng 11 năm 2014
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM . BÀI 12.

MỘT SỐ TƢ LIỆU VỀ HOÀNG CAO KHẢI.


( Tiếp theo )
Và những gì diễn ra sau khi khu thái ấp này đƣợc công nhận là di tích quốc gia?
"Trƣớc 1963, nơi đây thƣờng đƣợc các trƣờng ở Hà Nội chọn làm nơi cắm trại cho học sinh.
Ngày thƣờng ở đây rất vắng vì trong khu vực lăng chỉ có vài gia đình sinh sống ở mép rìa bên
phải và bên trái phía sau lăng. Mọi chuyện bắt đầu thay đổi vào một buổi tối mùa đông năm
1964 khi những ngƣời sống gần đó nghe thấy một tiếng động lớn từ phía lăng mộ Hoàng
Trọng Phu. Sáng ra mới biết có kẻ đã phá mộ để tìm của. Rồi khu lăng mộ đƣợc canh gác cẩn
thận nhƣng số ngƣời tò mò ngày càng tăng. Khi giặc Mỹ bắt đầu đánh bom miền Bắc, khu
lăng mộ yên tĩnh và tuyệt đẹp này bắt đầu bị xáo trộn bởi những ngƣời không biết ở đâu đến
dựng nhà và ở luôn. Vì chính quyền không can thiệp nên làn sóng ngƣời đến chiếm đất làm
nhà ngày càng tăng. Đến khi giặc Mỹ ném bom Khâm Thiên thì hàng loạt gia đình trên phố
đổ bộ vào lăng Hoàng Cao Khải và đƣờng vào Chùa Bộc là hai nơi hoang vắng bậc nhất thời
bấy giờ. Tất cả các công trình kiến trúc nguy nga tráng lệ bị xâu xé tan hoang, đất bị chiếm,
hồ bị lấp, cây bị chặt, đồi bị san. Cái con đƣờng bé chỉ đặt vừa bàn chân của những ngƣời đi
cúng chùa Bộc tạo nên bỗng chốc biến thành một cái xóm có tên nôm na là Xóm Liều bởi ở
đó ngƣời ta từ nhiều nơi đổ về dựng nhà dựng cửa sinh sống, chả còn gì để mà không liều.
Thời chiến tranh mà, thông cảm. Ai chứng kiến cảnh này vào thời đó thì biết rõ một điều là
xét về nguồn gốc thì những gia đình sống trong phạm vi lăng Hoàng Cao Khải và đƣờng
Chùa Bộc ngày đó không ai có một tờ giấy lận lƣng cả. Tất cả đều nhảy dù vào hết. Sau này,
mọi thứ giấy tờ, bằng khoán, chủ quyền nhà đất của họ đều là hợp thức hoá cả thôi. Tiếc thay,
một công trình tuyệt mỹ đã bị san bằng. Kể ra thì cũng khó bảo tồn: Hoàng Cao Khải là quan
đầu triều của triều Nguyễn làm tay sai cho Pháp có nhiều nợ máu với dân thì làm sao có thể
bảo tồn lăng mộ của ông ta truyền lại cho hậu thế tƣơng tự nhƣ các ông vua ở kinh thành Huế
đƣợc. Có tiếc chỉ là tiếc cái tài hoa, khéo léo, công sức và trí tuệ của những ngƣời thợ thủ
công ngày xƣa. Nhà tôi sống ở cạnh đó, cách cái lăng này có một cái hồ nhỏ, ngày nào chả
qua đây trèo roi, câu cá nên thuộc lòng từng vết nứt của các viên gạch, từng nét khắc hoạ trên
đá, từng cái bƣớu trên cây. Ờ, mà cá chép trong hồ sen này cực ngon nha, dƣới hồ chỉ toàn
sen, lơ thơ vài cọng rong đuôi chó, nƣớc thì trong vắt, có gì ăn đâu, thế mới lạ. Thôi, tất cả đã
qua rồi."
Thuộc thế hệ con cháu bác Thảo Nguyên, nhƣng tôi còn nhớ rất rõ khu lăng này. Hồi học
trƣờng Trung Liệt (phía sau gò Đống Đa), các bạn trong lớp tôi phần lớn là dân Thái Hà và
xóm liều Chùa Bộc, những buổi nghỉ học chúng tôi thƣờng lang thang sang lăng chơi hay đi
xem thi bơi ở bể bơi Đống Đa, ấn tƣợng về khu lăng trong tôi là một cảm giác lạnh lẽo, rờn
rợn. Không biết bao nhiêu lần tôi đã hỏi dám bạn "thổ dân" trong cái quan tài đá kia có xác
ngƣời không, và cũng chƣa bao giờ tôi dám đá bóng ở cái khoảnh sân có mấy ông quan bằng
đá đứng nhìn.
Hơn ba năm quay trở lại nơi này, cái cảm rờn rợn ấy vẫn không mất, thêm vào đó là cảm giác
rùng mình vì sự man rợ của con ngƣời .
Hồ nƣớc trong và sâu với cái tên mỹ miều Tẩm Nguyệt (Dầm Trăng) giờ trở thành hồ chứa
nƣớc thải, bám quanh nó là một các chợ ồn ào, bẩn thỉu với đủ các loại hàng quán, dịch vụ.
Lối xuống hồ bị bịt bằng những thứ phế thải. Khó khăn lắm mới nhận ra lăng Hoàng Cao
Khải mầu đá xám chìm nghỉm dƣới những ngôi nhà, quán nhậu. Một tấm biển "Sân chơi trẻ
em" treo trƣớc lăng.
Công trình phúc lợi công cộng mang tên "Sân chơi trẻ em". Lăng bị biến thành Trụ sở tuần
tra nhân dân cụm 9 phƣờng Trung Liệt. Tất cả các khoảng trống của kiến trúc đá đƣợc bịt
kín bằng gạch, lỗ hoa và cửa sắt, một lớp nƣớc xi măng đƣợc quét lên giả mầu đá.
Không khí thê lƣơng bao trùm phía trong những bít bùng này. Bàn ghế phủ bụi lỏng chỏng
khắp nơi, vƣơng vãi bên hai cỗ quan tài đá - phần mộ của vợ chồng Hoàng Cao Khải - vài
cọng chân hƣơng chuột xô đổ.
Vỡ mẻ nham nhở một bậc tam cấp với hai bờ đá tạc khối mây hình rồng ám những vết khói vì
hoá vàng, có vẻ nhƣ hậu duệ của dòng họ này vẫn qua đây thắp hƣơng cho ngƣời đã chết .
Quan quân xếp hàng tám vị giờ còn ba, bị chôn chặt vào nền bê tông đến quá đầu gối .

sứt sẹo,
nham nhở
Còn cái vật nằm chơ giữa vũng nƣớc nƣớc rửa bát trƣớc nhà hàng kia chẳng nhận ra là
mảnh vỡ còn lại của thứ gì: chẳng phải ngƣời, cũng chẳng phải ngựa, voi ...
Lăng Hoàng Trọng Phu .
Cách lăng Hoàng Cao Khải chừng 100m là lăng Hoàng Trọng Phu - tổng đốc Hà Đông, con
trai cả của Hoàng Cao Khải
Không thể có đƣợc một bức hình toàn cảnh lăng vì mọi hƣớng đều bị che khuất bởi những
ngôi nhà chen chúc nhau trên con đƣờng ngoắt nghéo đầy hàng quán. Với những vòm cửa bị
bịt, lăng đã biến thành "tƣ dinh" của một hộ gia đình ba thế hệ.
Mọi sinh hoạt hàng ngày từ ăn ngủ, yêu đƣơng, sinh con đẻ cái đều diễn ra bên cái quan tài
đá từng bị bọn đạo trích cậy phá tìm của. Ngƣời sống và ngƣời chết chung nhau nơi cƣ ngụ.
Bà chủ hộ từng kể với báo chí dạo đầu thấy ngài về, đi đi lại lại khắp nhà, con dâu cả của bà
sợ hãi phải bỏ về quê. Rùng mình!
Trăm năm đá bắt đầu mòn.
Bức tƣờng bít lăng đƣợc tận dụng làm Bảng tin tổ dân phố .
Khói bếp .
và quảng cáo
Hoàng Cao Khải chỉ tạc hai bờ mây cách điệu hình rồng (Vân hoá rồng) cho lăng mộ của
mình, nhƣng con trai ông tạc cho mình hẳn một đôi rồng. Đâu mất một con?
Đây! Nó bị giam sau rào sắt của gia đình này .

Khu đền thờ Hoàng Cao Khải .


Cách khu lăng không xa là khu đình thờ của họ Hoàng 7 gian, lớn hơn tất cả những ngôi
đình trên địa bàn Hà Nội. Trƣớc cửa đình là một hồ vuông diện tích vài trăm mét vuông, bờ
bó bằng đá xanh, quy mô lớn hơn hồ vuông ở Văn Miếu. Vào dịp sinh nhật mình hoặc khi có
việc vui, các dịp khánh tiết, chủ thái ấp thƣờng tổ chức các chầu hát, quan lại các tỉnh về dự
khá đông, có cả bơi thuyền tại hồ vuông.

Một dãy nhà cao tầng bám theo mặt phố Đặng Tiến Đông ngăn cách Hồ Vuông với gò Đống
Đa .
Thể hiện tính khí chủ nhân, đôi rồng trên mặt hồ trông rất hung dữ .
Khu đình thờ dòng họ Hoàng giờ là phân viện Nguyễn Ái Quốc .
Những tấm biển: Phòng đọc, nhà A, Nhà B cho thấy công năng sử dụng công trình này đã
thay đổ. Biết đâu đó lại là điều may mắn giúp công trình này tránh đƣợc sự tàn phá thê thảm
của ngƣời dân nơi đây .
Hành lang khu điện. Một cảm giác ghê sợ khi nhìn những hình rồng nhe răng há miệng đỏ
lòm. Những hình trang trí trên gạch lát có nói lên điều gì về chủ nhân khu thái ấp?
Photo by ttnhan
Location: Thai Ha Hamlet - Tây Sơn street .
( Còn bài tiếp theo ).

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM


. BÀI 13.
Thứ Bảy, ngày 15 tháng 11 năm 2014
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM . BÀI 13.
MỘT SỐ TƢ LIỆU VỀ HOÀNG CAO KHẢI.
( Tiếp theo và hết )

Phòng khách nhà Hoàng Cao Khải .


Trong lịch sử, Hoàng Cao Khải, đại thần dƣới triều vua Thành Thái, đƣợc nhìn nhận nhƣ một
nhân vật phản diện với những tội danh hợp tác với ngƣời Pháp đàn áp các phong trào nghĩa
quân chống Pháp. Entry trƣớc đã giới thiệu về khu thái ấp của vị phó vƣơng này. Bạn có
muốn ngó vào phòng khách nhà ông ta?

Hoàng Cao Khải, Kinh lƣợc sứ Bắc Kỳ cuối cùng của triều Nguyễn, đƣợc ngƣời Pháp gọi là
Phó vƣơng (vice roi)
Chân dung con ngƣời này xuất hiện trên nhiều tấm bƣu thiếp: khăn đóng, áo dài nặng trĩu
mề đay, móng tay để dài, khuôn mặt với ánh mắt và khóe miệng độc ác .
Khi về hƣu ông ta sống tại ấp Thái Hà, cái tên đƣợc ghép từ quê làng Đông Thái, và Hà Nội.
Hình ảnh vƣờn cảnh trong khu thái ấp. Chú thích trên các bức ảnh này cho biết chúng đƣợc
chụp khi vị phó vƣơng này nghỉ hƣu (l'ancien vice roi/ ex-vice roi).

Hiên ngoài phòng khách .


Phong cách bài trí pha trộn Đông Tây .
Không biết chữ Hán nên không rõ hoành phi câu đối viết những gì!
Một con nghê vàng trang trí trong phòng khách.
Photo by ttnhan

Location: Thai Ha Hamlet - Tây Sơn street .

MỘ HOÀNG TÍCH TRÍ CON CỦA QUAN ĐẠI THẦN HOÀNG CAO KHẢI .
Trong khu Từ đƣờng của dòng họ Kiều , tại làng Đồng Thái - ĐỨC THỌ - HÀ TĨNH , có một
ngôi mộ của con trai Quan Đại thần HOÀNG CAO KHẢI là HOÀNG TÍCH TRÍ. Hiện nay
ngôi mộ này đang bị sụp lở nghiêm trọng , không ngƣời thờ cúng. Chỉ đôi khi dòng họ Kiều
tế lễ , họ mới thắp cho vài nén nhang. Hiện nay , không biết thân nhân của họ Hoàng ly tán
đi đâu , nếu đọc đƣợc những dòng này , xin liên hệ với dienbatn để tìm cách tôn tạo lại.

dienbatn giới thiệu.

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM


. BÀI 14.
Thứ Hai, ngày 17 tháng 11 năm 2014
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM . BÀI 14.

MUÔN MA HỜI SỜ SOẠN DẮT NHAU ĐI .


Tôi mở chủ đề này sẽ lƣợm lặt về những huyền thoại về nền văn hóa Chăm pa đã mất. Và
cũng mong mem nào ở miền trung cùng cố gắng thu thập tài liệu và chia sẻ lên đây.
Miền trung nơi mà xƣa kia là thủ đô của ngƣời Chăm pa rải dài từ Đà Nẵng cho đến Bình
thuận. Chả biết vô tình hay hữu ý mà bây giờ dự báo thời tiết trên VTV luôn gộp lại 1 dải từ
Đà Nẵng đến Bình Thuận nhƣ vố tình nhắc lại 1 thời vang bóng của 1 vƣơng quốc mà vết
tích để lại không phải là nhỏ. Những tháp Chàm lững lững chỉ vào trời xanh tồn tại qua bao
cuộc bể dâu của đât nƣớc và ghi dấu ấn vào nền văn hóa nhận loại qua chứng chỉ UNESCO
nhƣ là bằng chứng công nhận 1 nền văn minh rực rỡ của Châu Á bị biến mất
Huyền lực của 1 nền văn hóa bị biến mất vẫn tồn tại trong dân gian qua những truyền thuyết,
huyền thoại và thậm chí ghi dấu ấn phi vật thể lên rất nhiều thứ theo thời gian. Ví nhƣ bút
danh Chế Lan Viên của nhà thơ Phan Ngọc Hoan đƣợc hình thành qua những cảm nhận hoài
niệm về 1 nền văn hóa Chăm Pa tại Bình Định. Có lẽ Chế Lan Viên đã ngoại cảm đƣợc
huyền lực Chăm Pa đến nỗi ông lấy bút danh họ Chế ( Tƣởng nhớ về Chế Bồng Nga, hay
Che Bonguar, (tên thật là Po Binasor hay Po Bhinethuor) là niên hiệu của vị vua thuộc vƣơng
triều thứ 12 của nhà nƣớc Chiêm Thành. Trong thời kỳ ông cầm quyền, nhà nƣớc Chiêm
Thành rất hùng mạnh, từng đem quân nhiều lần xâm phạm Đại Việt của nhà Trần. Không rõ
ngày tháng năm sinh cũng nhƣ ngày tháng mất của ông, chỉ biết rằng ông bị giết năm 1390
khi đang đem quân tấn công Thăng Long lần thứ 4.) và viết những vần thơ ngoại cảm :
Đây, những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn,
Muôn Ma Hời sờ soạng dắt nhau đi.
Những rừng thẳm bóng chiều lan hỗn độn,
Lừng hƣơng đƣa, rộn rã tiếng từ quy.
Tôi vốn dĩ là ngƣời miền trung, sống cạnh những tháp Chàm. Tôi cũng bị ám ảnh rất nhiều từ
câu thơ
Muôn ma Hời sờ soạn dắt nhau đi
Vậy ma Hời là ma gì, xin trích tƣ liệu nghiên cứu của Nguyễn Trọng:
Ma Hời là hồn ma của ai?
Trƣớc khi tìm hiểu về Ma Hời mà rất ít sử liệu đề cập tới, chúng tôi muốn nói về từ ngữ Hời
bởi đâu mà ra. Theo ông Nguyễn văn Huy, một nhà nghiên cứu công phu về Chiêm Thành thì
từ ngữ Hời xuất phát từ ngôn ngữ Chàm: “Danh xƣng Hời rất ít đƣợc nhắc đến, ngƣời ta chỉ
thấy chữ này xuất hiện một vài lần trong tập thơ Điêu Tàn năm 1937, của Chế Lan Viên. Hời
là cách đọc trại đi từ chữ Hroi (H‟roi hay Ho Roi), tên của một bộ lạc sơn cƣớc sinh sống trên
vùng rừng núi phía Tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định ( Chế Lan Viên sinh
quán tại Bình Định). Ngƣời Hời thực ra cũng là ngƣời Champa, vì trƣớc kia là thần dân của
vƣơng quốc Chiêm Thành di cƣ đi tận lên Tây Nguyên tránh loạn rồi định cƣ luôn ở đấy, họ
vẫn còn giữ ngôn ngữ và một số phong tục tập quán của ngƣời Chàm đồng bằng trong những
sinh hoạt thƣờng nhật”.
Trong cuốn “Linh Địa Trà Kiệu”, ông Lê Công Đắc, sinh quán tại đây, đã viết nhiều về Ma
Hời và Thành Hời. Ma Hời ở đây, nhƣ đã nói ở trên, là Ma Chàm. Còn Thành Hời tức là
thành Trà Kiệu, tiếng Chàm là Sinhapura, đế đô của vƣơng quốc Chàm trong nhiều thế kỷ,
cho đến giữa thế kỷ VIII thì dời về Ninh Thuận, rồi Quảng Nam, và sau cùng là Trà Bàn
Vijaya ở Bình Định. Trà Bàn là nói toàn vùng tỉnh Bình Định ngày nay, còn Đồ Bàn là kinh
đô, nói theo tài liệu của một vài nhà khảo cổ ngoại quốc.
Năm 1471, kinh đô Đồ Bàn bị thất bại và tàn phá khi vua Lê Thánh Tôn đem quân chinh phạt
Chiêm Thành, theo bài của ông Nguyễn Đức Hiệp ngày 4/12/04 phổ biến trên Internet. Theo
ông này thì nhà vua đã dùng chính sách phá huỷ văn hóa để tiêu diệt dân tộc Chiêm Thành và
năng lực tinh thần nƣớc Chàm: đền đài, cung điện, tháp, bia ký, tƣ liệu phản ảnh đặc trƣng
của văn hoá Chàm đều bị phá huỷ, quân nhân và nghệ nhân bị tàn sát hay bị bắt đi. Có tài liệu
khác lại nói rằng vua Lê Thánh Tông đã đem một đoàn thuyền và lục quân hùng mạnh đánh
Vijaya. Sau khi chiếm đƣợc, nhà vua Lê Thánh Tông ra lệnh phá huỷ thành Đồ Bàn, giết hơn
bốn chục ngàn quân Chàm và bắt đƣa về Thăng Long hơn ba chục ngàn tù binh, trong đó có
nhiều cung nữ biết ca hát và nhảy múa. Thời điểm này chƣa phải là ngày vƣơng quốc Chiêm
Thành bị tiêu diệt hoàn toàn, biến mất trên lãnh thổ duyên hải miền Trung. Những cuộc nổi
dậy và đánh phá lẻ tẻ của vƣơng quốc Chàm bị thu hẹp còn kéo dài cho mãi tới năm 1692 thì
Chúa Nguyễn đã đại thắng, đổi tên nƣớc Chiêm Thành là Trấn Thuận Thành, gồm có Phan
Rang, Phố Hải và Phan Rí. Trấn ngày xƣa rộng nhƣ một tỉnh bây giờ.
...
Ngƣời viết sẽ có bài nói về ảnh hƣởng nhạc Chiêm Thành đối với các điệu Nam Ai, Nam
Bình của xứ Huế. Mảnh đất sông Hƣơng núi Ngự này, đổi bằng giá của mối tình Huyền Trân
Công chúa và Trần Khắc Chung, lúc nào cũng u buồn lai láng, nhƣ tiếng cầu kinh của nàng
công chúa góa chồng, ngày đêm niệm Phật, mong cho chóng đến ngày thoát khỏi cõi đời trần
tục tái ngộ cùng ngƣời yêu trong mộng...
Còn chuyện Ma Hời và Thành Hời thì sao? Ngƣời viết có phỏng vấn một vài đồng bào lớn
tuổi gốc Trà Kiệu định cƣ ở Hoa Kỳ thì họ đều nói rằng chuyện Ma Hời đã đƣợc các cụ ngày
xƣa kể lại nghe nhƣ một chuyện cổ tích. Còn chính họ chƣa bao giờ gặp Ma Hời hay bị Ma
Hời quấy phá hay đe dọa. Nhƣng theo tác giả cuốn Linh Địa Trà Kiệu, chuyện về Ma Hời có
thật và xem ra ghê gớm, rùng rợn lắm!
Ma Hời là những hồn ngƣời Chiêm Thành hiện về để nhìn lại thành xƣa lối cũ, nhìn lại
những cung điện và tháp cao do họ và tổ tiên của họ xây cất, để lại muôn đời về sau. Những
tháp này đƣợc xây bằng đất nung, không phải bằng đá cho nên không kiên cố và tồn tại lâu
dài với thời gian và qua bao nhiêu cuộc chiến tƣơng tàn, đẫm máu.
Câu chuyện thứ nhất :
Không hợp tác với mày vì mày là kẻ đào mồ mả ngƣời ta.
Xung quang làng tôi sinh sống không những có hệ thống Tháp Chàm mà còn có rất nhiều mộ
Chàm. Hình dáng các ngôi mô này là giống nhƣ cái mai rù lù lù 1 đống đen sì vì rong rêu qua
thời gian. Kích thƣớc khung của mộ bề ngang khoảng 2m, bề dài khoảng 3,5m, bề cao
khoảng 0,8m đƣợc làm bằng hợp chất Ô dƣớc. Hợp chất này hiện tại dân làng tôi có biết công
thức của nó đó là hỗn hợp của Vôi, Mật mía đƣờng và các loại lá cây giã nát pha trộn vào.
Trong đó lá cây chành rành là chủ yếu.
Dù trải qua hàng trăm năm nhƣng các mộ này không hề sứt mẻ theo thời gian chỉ có rêu
phong làm cho nó đen sì sì thôi và rất cứng, cứng nhƣ là đá. Vào khoảng những năm thập kỷ
80 thế kỷ trƣớc lúc mà ngƣời dân đói khổ quá chứ trƣớc đó không ai dám rờ vào các mộ này.
Vì đói ngƣời ta sẵn sàng đục đá phá rừng để kiếm miếng ăn thì kiêng nể chi những cái mộ
Chàm vô chủ mà lại nghe lời đồn đãi có vàng. Thế là đám thanh niên chúng tôi tụ tập lại và
bàn bạc ra quyết định đào các mộ ấy tìm vàng. Tại sao chỉ có thanh niên, vì chỉ có chúng tôi
mới ngông cuồng, phiêu lƣu máu nóng và vô đạo đức tức thời chứ ngƣời già thì lúc nào cũng
nghiêng mình kính cẩn trƣớc Tháp và Mộ Chàm vì những gì họ đã chứng kiến là quá đủ để
họ sợ 1 huyền lực từ nền Văn minh biến mất này. Rải rác quanh làng chúng tôi có khoảng vài
chục ngôi mộ Chàm. Sau 1 thời gian bàn bạc kín và chuẩn bị sẵn đồ nghề cuốc xẻng búa
đục…Và chúng tôi quyết định ra tay. Lịch trình hoạch đình rõ ràng, chỉ hàng động buổi tối
có trăng vì ban ngày sợ các bô lão ra ngăn cản, đào buổi tối và khi kết thúc 1 buổi đào thì lấp
trả lại và ngụy trang y nhƣ cũ nhƣ chƣa có gì xảy ra.

Ngôi mộ thứ nhất: 2 cái chết rụng rời .


Theo lịch trình đƣợc phân công thì buổi chiều hôm ấy 3 cậu đƣơc phân công đi tiền trạm, tập
kết dụng cụ đào, điều nghiên hình dáng để đào nhƣ thế nào và sẽ ngụy trang nhƣ thế nào. Ra
tới nơi thì quái lạ, cái mộ ấy chần dần bao lâu nay trẻ chăn bò trèo lên trèo xuống thậm chí
chơi cầu tuột mà có thấy gì đâu. Mà bây giờ bỗng nhiên lại thấy 1 cặp rắn đen sì to bằng cổ
chân đầu có mồng lòng vòng quanh mộ. Thời ấy không có phong trào bắt rắn nhậu nhƣ bây
giờ nên trong nhóm có 2 cậu lấy cây quơ quào chọi đất đá hù dọa cho cặp rắn bỏ đi. Cậu còn
lại vì dát nên đứng cách xa. Cặp rắn rồi cũng bỏ đi và mọi thứ cũng chuẩn bị xong. Tất cả
cùng về nhà cơm nƣớc và chuẩn bị cho 1 buổi tối đào trộm mộ. Nhóm chúng tôi khoảng 10
ngƣời, mạnh thằng nào thằng ấy cơm tối xong và tụ họp lại theo 1 địa điểm hẹn trƣớc với
lòng háo hức vừa phiêu lieu vừa cảm giác mạnh của kẻ trộm, cảm giác sợ sệt về những huyền
bí mộ Chàm…Nhƣng chờ mãi chẳng thấy 2 thằng lúc chiều đi tiền trạm ra điểm hẹn. Quá
lâu, quá trễ chúng tôi cho ngƣời về nhà hắn tìm. Vô tới sân nhà nhà thì vẫn thấy nhà bình
thƣờng mọi ngƣời đang tụ tập giữa sân nhà dƣới ánh trăng sau bữa cơm tối cƣời đùa vui vẻ
sau 1 ngày làm đồng cực nhọc.
Dạ, Bác ơi cho con tìm thằng A ạ, nó có nhà không Bác
Ờ nó nằm trong nhà nè con
Nó ngủ hả Bác, sao mà ngủ sớm thế
Ừ, hông biết nó làm sao, chiều về lúc dọn cơm ra thì nó kêu mệt không muốn ăn và đi nằm
trƣớc. Chắc nó mệt muốn ngủ đó con, vào mà kêu nó dậy
Ở quê, ngƣời ta không có tài sản gì quí giá nên ngƣời trong làng có thể ra vổ nhà bất kỳ ai đó
1 cách thoải mài mà không sợ mất mát hay gán ghép tội trộm cắp gì.
Thế là cái chết của 2 cậu đuổi rắn giống nhƣ nhau, cùng 1 thời điểm. Và bí mật chỉ có nhóm
thanh niên chúng tôi biết…
Rụng rời tất cả. Và kế hoạch đào mộ đƣợc hoãn vô thời hạn cho đến 1 ngày….
Khám phá thung lũng huyền thoại
Núi Chúa, ngọn núi đƣợc xem là kỳ bí nhất Quảng Nam, đang lƣu giữ những câu chuyện
hoang đƣờng trong tâm trí ngƣời dân vùng tây Quế Sơn và thƣợng nguồn sông Thu Bồn.
Những dấu tích văn hóa độc đáo khu vực này đã từng manh nha trong một tour leo núi mạo
hiểm của những du khách quốc tế…
Có thể xem núi Chúa là một ngọn núi kỳ bí nhất của vùng đất Quảng Nam. Theo tín ngƣỡng
của ngƣời Chăm xƣa, núi Chúa hay còn gọi Hòn Đền (Kasula) là đỉnh núi thiêng tƣợng trƣng
cho đấng tối cao Shiva- vị thần sáng tạo và hủy diệt. Sông Thu Bồn là sông Mẹ Ganga tƣợng
trƣng cho sông thiêng gắn liền với tín ngƣỡng của những nền văn minh lúa nƣớc.
Âm dƣơng giao hòa, cảnh sắc gợi mở cho những liên tƣởng độc đáo chung quanh đời sống
của con ngƣời ở xứ sở này. Những ngày nắng đẹp, từ dƣới thung lũng Mỹ Sơn, nơi có khu
đền tháp lộng lẫy đƣợc UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới nhìn lên dỉnh trông
nhƣ một chiếc mỏ của chim đại bàng khắc họa khắc họa vào trời xanh uy nghi hoành tráng.
Nhƣng lạ lùng thay, từ thung lũng Tây Viên bên kia núi Chúa thuộc vùng Trung Lộc của
huyện Quế Sơn nhìn lên, đỉnh núi Chúa tròn đều đặn nhƣ một bầu sữa mẹ. Một ngọn núi,
đứng ở những góc nhìn khác nhau sẽ có những dáng vẻ khác nhau nhƣ các góc cạnh phức tạp
trong tính cách và đời sống tâm hồn của con ngƣời đất này.
Thuở thiếu thời chăn trâu cắt cỏ ban đêm trong thung lũng sau ngọn Hòn Đền, thỉnh thoảng
chàng mục đồng bắt gặp những ánh sao băng không phải màu xanh ánh chớp mà là màu máu
xẹt từ đỉnh núi này đến đỉnh núi Cà Tang. Ngƣời lớn trong làng thƣờng cấm trẻ con “quở”
đến ánh lửa này. Trong tâm tƣởng của họ, đó là lúc ông Ông đi thăm bà. Núi Ông chính là núi
Chúa, núi Bà là núi Cà Tang nằm cách nhau chừng 10 cây số theo đƣờng chim bay ở hai
hƣớng Đông- Tây nối nhau tạo thành thung lũng Trung Lộc.
Một vùng đất nhỏ nhƣng có số phận kỳ lạ nhất trong lịch sử xứ Quảng Nam đã từng đƣợc
khâm sứ Jean Baille nhắc đến trong cuốn sách Souvenir d‟ Annam từ cuối thế kỷ XIX gắn
liền với những ngƣời anh hùng thảo dã đứng lên chống Pháp trong phong trào Nghĩa Hội. Trí
tƣởng tƣợng của con ngƣời sống trong thung lũng huyền bí này quả là phong phú khi dựng
lên câu chuyện tình yêu thiêng liêng giữa hai …ngọn núi trong những đêm trời quang mây
tạnh, hay xuân thu nhị kỳ có nắng đẹp mây lành tình tứ.
Ngƣời làng Tây Viên bên kia núi Chúa còn gọi tên ngọn núi này là núi Aán. Đây không phải
là một câu chuyện huyền thoại hay hoang đƣờng bởi yếu tố thật, đáng tin cậy mà các nhà
nghiến cứu hoặc điền dã hay thám hiểm (rất ít ở Việt Nam) phải lƣu tâm. Những ngƣời thợ
rừng lâu năm cả quyết rằng đã tận mắt nhìn thấy trên một vách đá dựng đứng, cao 30 mét ở
gần đỉnh núi Chúa có một dấu ấn son đỏ chót hình tròn ở giữa là hình vuông tồn tại từ bao
đời nay trƣớc nắng dội mƣa dầm. Không biết bằng cách nào, ngƣời xƣa, ai đó đã khắc biểu
tƣợng Âm- Dƣơng, linga-yoni đƣợc cách điệu vào vách đá dựng ngƣợc đến mức con ngƣời
không thể dùng phƣơng tiện nào trèo lên đƣợc. Một vòng tròn bên ngoài bao bọc một hình
vuông cũng chính là biểu tƣợng của tổ chức UNESCO hiện nay!
Logo của Unesco

Dƣới chân núi Chúa, cuối làng Tây Viên có hai vũng nƣớc nóng quanh năm sôi sùng sục,
tƣơng truyền gọi là vũng Ông và vũng Bà. Vũng Ông nhỏ nhƣng sôi nhiều hơn vũng Bà rộng
và nhiệt độ thấp hơn chút ít. Tây Viên nay thuộc xã Quế Lộc huyện Quế Sơn là đại bản doanh
của căn cứ Tân Tỉnh của Nguyễn Duy Hiệu lập nên thời chống Pháp với ý chí “thay trời hành
đạo” nhƣng mƣu sự bất thành. Đó cũng chính là quê hƣơng của cụ Nguyễn Đình Hiến trong
“tam hùng” của xứ Quảng. Nằm sau lƣng Khu di tích Chăm Mỹ Sơn, thung lũng huyền thoại
này có thể là hậu cứ của vƣơng quốc Chămpa trƣớc kia với nhiều dấu tích còn lại nhƣ những
ngôi mộ cổ bằng đá bên triền núi Cà Tang cùng một vài ngôi tháp nhỏ đã đổ nát và hoang
phế. Những năm 40 của thế kỷ trƣớc, trung niên thi sĩ Bùi Giáng trốn đời lên ngụ ở đất này
để làm chàng Tô Vũ chăn dê.
Nếu các bạn muốn một lần thử làm Tô Vũ ở nơi “ đồi tăm tắp chạy về ôm chân núi” thơ
mộng và huyền hoặc này thì có thể vƣợt con đƣờng độc đạo qua đèo Le hoặc xuống thuyền từ
phố cổ Hội An để lên mạn ngƣợc Thu Bồn. Tuy nhiên, leo núi Hòn Đền đầy mạo hiểm và
hấp dẫn để đến đấy thật thú vị hơn! Khách du lịch Việt Nam chƣa ai hề có ý tƣởng đấy trong
khi nhóm đua thuyền buồm quốc tế đến Việt Nam đã từng có ý định thực hiện hồi tháng 7-
2005 vừa qua. Tuy nhiên, giờ cuối, có sự trục trặc gì đó về thời gian nên tour vƣợt Hòn Đền
phải hoãn lại.
Sau khi cái chết của 2 ngƣời bạn đã làm cho nhóm chúng tôi mặc cảm tội lỗi không thể tƣởng
tƣợng nỗi. Và cái sợ bị trừng phạt tiếp theo làm cho nhóm chúng tôi mất ăn mất ngủ, ám ảnh
dằn vặt, nhất là cậu thứ 3 cùng đi tiền tạm hôm đó. Cậu ấy nghĩ rằng sớm muộn gì cũng đến
lƣợt cậu. Chúng tôi sợ đến mức có đi đâu ra ngoài đồng ruộng cũng né tránh không dám đi
gần các Tháp Chàm và các mộ Chàm. Nhƣng tuyệt nhiên không dám hé lộ điều gì cho ngƣời
lớn trong làng biết
Thế rồi thời gian trôi qua cũng đƣợc gần 2 năm sau khi 2 ngƣời bạn chúng tôi mất. Nỗi sợ hãi
cũng vơi dần. Nhóm chúng tôi cũng tản mác, bỏ quê đi xa xứ làm ăn cũng gần phân nửa,
trong đó có những ngƣời vì không chịu nổi nỗi sợ mà bỏ quê ra đi.
Bỗng một hôm cả làng chúng tôi xôn xao về 1 đoàn ngƣời lạ, lạ từ cách ăn mặc, tiếng nói, cử
chỉ…vào làng chúng tôi dò hỏi ( sau này tôi mới biết đó là ngƣời Chăm) các khu mộ ấy. Lập
tức nhóm chúng tôi xung phong dẫn đƣờng và không quên theo dõi sát sao mọi cử chỉ hành
động của họ. Vừa đi tìm các ngôi mộ, họ vừa trải tấm bản đồ vẽ trên vải cũ mèm nhàu nát
theo năm tháng và trao đổi với nhau bằng Tiếng Chăm nên chúng tôi không biết gì cả. Nhƣng
nhìn trên bản đồ, các ký hiệu chúng tôi cũng không hiểu gì, ngoại trừ các chỉ điểm về các mộ
là chúng tôi hiểu vì địa hình chúng tôi nắm rõ trong lòng bàn tay
Cơn khát vàng của chúng tôi lần nữa lại ập đến, cứ y nhƣ là tài sản khổng lồ của mình đang
sắp mất vào tay nhóm ngƣời Chăm này. Chúng tôi lo lắng thật sự, lo lắng nhƣ ngƣời sắp mất
của và cảm giác rằng nhóm ngƣời Chăm đang đến để ăn cắp. Nhƣng lạ thay, sau khi chỉ chọ
hết tất cả các mộ, họ vẫn không làm gì cả đến các mộ ấy thậm chí cũng không thèm bƣớc lại
gần mộ đến tầm 1m, mà họ chỉ quan tâm vào cái bản đồ, tụm năm tụm ba họ bàn tán suy tƣ
thậm chí là cãi lộn với nhau. Họ dò xét đƣợc 2 ngày, lục lạo từ lùm tre bụi rậm mà kg hề đào
bới 1 cái gì, cuối cùng rồi họ cũng ra đi mà không lấy đƣợc thứ gì. Chúng tôi thở phào nhẹ
nhõm vì dù sao họ cũng không có lấy cái gì cả. Sau khi họ đi, cả làng tôi không ngớt bàn tán
xôn xao về vụ này, Vàng, Vàng và Vàng từ ông đang cày ruộng cho đến bà bán rau ngoài chợ
tất cả cùng 1 chủ đề. Khoảng 10 ngày sau, ở làng kế bên chúng tôi có 1 ông thầy Pháp
(chuyên chữa trị tà ma cho dân xung quanh để kiếm cơm thôi chứ cũng chẳng giàu có gì vì
vào thời buổi ấy tất cả cùng nghèo cùng ăn cơm độn với lá khoai ngòai vƣờn luộc chấm muối
) qua làng chúng tôi rủ rê mọi ngƣời:
Đào Vàng
Đào tất cả các cái mộ ấy đề lấy vàng. Vàng tấn ở dƣới đó đó…
Đào vàng, đào vàng. Điệp khúc ấy đƣợc nhắc đi nhắc lại trên miệng mỗi ngƣời và cả dân làng
tôi từ ban đầu sợ sệt, tò mò sau đó sôi nổi lên vì thầy Phát tuyên bố:
Ăn thua gì mấy con ma hời này, tui búng ngón tay nó chạy hết ráo. An tâm đi mấy ngƣời bỏ
sức ra đào để tui lo vụ kia cho. Nếu chết thì tui chết trƣớc chớ, có gì đâu mà lo…
Và thật tình là dân quê có khác, họ thật thà nông cạn cộng với cái đói khổ làm họ mờ cả mắt
mà tin lời thầy Pháp. Suy nghĩ của họ không vƣợt đƣợc cái đọt chuối sau vƣờn. Họ không hề
đặt dấu hỏi là Thầy Pháp chết trƣớc rồi họ chết sau hay thầy Pháp chỉ chết có 1 mình còn họ
không sao khi quyết định đào mộ Chăm
Bàn tán khoảng 1 tuần thì trong làng tôi chia làm 2 phe: Một bên quyết định đào, một bên ra
sức ngằn cản. Mà nhóm chúng tôi lại đứng về phe thứ 2, và dù rất muốn đƣa ra bằng chứng
để ngăn cản nhƣng chúng tôi không đủ can đảm để nói
( Tại sao dân tình ở tôi lại ám ảnh về Vàng của ngƣời Chăm đến thế, vì đã có rất nhièu ngƣời
vô tình nhặt đƣợc vàng và có nhiều huyền thoại về vàng chăm tôi sẽ kể ở các bài sau)
Thế rồi việc gì đến phải đến. Dẫn đầu là thầy Pháp, theo sau khoảng 15 ngƣời lực lƣỡng với
mâm lễ và dụng cụ đào tiến ra mộ Chăm
Sau 1 hồi khua nhang lẩm bẩm đủ thứ, mọi ngƣời bắt đầu đào. Mọi việc diễn ra rất suông sẻ,
nhƣng vì mộ cứng quá họ đục đẽo đâu mất 3 ngày 3 đêm mới phá đƣợc. Khi đào xuống dƣới
thì chẳng có gì ngoài những lớp vôi và than hoạt tính, đào hết lớp vôi và than thì gặp đất
nguyên thổ và vẫn không cò gì. Cái cảm giác hồ hởi ban đầu mất dần và thay vào đó là hụt
hẫng và mệt mỏi, họ phải chia ca đào cả đêm vì sợ nghỉ đêm nhỡ có nhóm nào tới đào lƣợm
mất thành quả của họ.Sau khi kết thúc 1 ngôi mộ không có gì, cũng giống nhƣ dò vé số khi
trật cái giải 7 giải sáu, năm …lần lƣợt thì ngƣời dò lại càng hy vọng mình sẽ vào giải đặc
biệt. Họ bàn luận tiếp tục đào cái thứ 2 sau khi nghỉ ngơi vài ngày và họ ra về.
Nhóm chúng tôi cũng lien tục tụ tập bàn tán và theo dõi sát sao tiến trình đào mộ. Chúng tôi
thầm khen cha thầy Pháp này cao tay thật. Nhƣng ngờ đâu trong vòng 2 ngày nghỉ thì đƣợc
tin Thầy Pháp đã ra đi bán muối sau 1 bữa cơm chiều bỏ ăn. Cả dân làng tôi hoảng loạn, nhất
là những ngƣời tham gia đào mộ, vơ con khóc nhƣ ri cứ nhƣ chuẩn bị tiễn biệt chồng con của
họ ra đi tiếp theo. Lúc đó nhóm phản đối đƣợc mặt dạy đời:
Thấy chƣa, đồ tham lam
Thằng thầy Pháp nó nói nó chết trƣớc chứ có nói tụi bay không chết đâu…
Các bô lão thì :
Thất đức thất đức. Động trời động trời. Cả cái làng này xƣa giờ ăn ở hiền lành sao mà sinh ra
cái đám đi phá mồ phá mả ngƣời ta nhƣ thế này không biết. Chết toi cả cái làng này rồi
Và bắt đầu một cuộc chạy đua ra mộ chăm mà cúng, thơi thì họ vái lạy đủ tứ phƣơng, rầm rập
suốt ngày. Có bà vợ còn mua thức ăn ngon về cho chồng ăn vì ảnh không còn biết sống đến
ngày nào…
Nhƣng cuối cùng thì tất cả đều sống khỏe, bây giờ gặp lại nhắc những chuyện cũ thì vừa sợ
vừa bắt cƣời. Những ngƣời trải qua cảm giác sắp chết trở về thì sống hiền lành hẳn ra và các
bà vợ thì bẽn lẽn khi hỏi vào lúc đó mua đồ ăn ngon về cho ảnh ăn vậy tối có tranh thủ
không…Và nhóm chúng tôi đến lúc đó mới dám công bố ra sự thật về cái chết của 2 cậu bạn.
Cả làng lại đƣợc 1 phen chƣởi bới cho bõ tức vì chúng nó biết mà nó không nói
Còn về các ngôi mô chăm vẫn còn và lâu lâu lại có nhóm ngƣời Chăm đến tìm, trải tấm bản
đồ ra chỉ chỉ chỏ chỏ rồi về. Tuyệt nhiên dân làng tôi không thèm quan tâm đến họ nữa…
Và tại sao tôi mở đầu câu chuyện này bằng cái câu : Tao không hợp tác với mày vì mày là kẻ
đào mồ phá mả ngƣời ta

Vào năm 2001 tôi và ngƣời bạn thân ngƣời Hoa dự định mở công ty chung để làm ăn. Mọi
việc bàn tính đến nơi đến chốn và sắp chuẩn bị tiến hành thì nhân trong lúc trà dƣ tửu hậu với
nó, tôi cũng kể cho nó nghe về chuyện này. Thế là, 1 cách nghiêm túc nó từ chối hẳn với 1
câu phán xanh dờn nhƣ vậy.

HUYỀN THOẠI VỀ KHO BÁU CHĂM Ở THÁP CỔ BÌNH ĐỊNH .

Vƣơng quốc Chămpa (192-1822) đã sáng tạo ra một nền văn hóa độc đáo, mang đậm sắc
thái riêng biệt. Đến nay, tỉnh Bình Định đã phát hiện khoảng 117 cổ vật thời Chămpa và 414
sản phẩm làm bằng gốm cổ thuộc nhiều giai đoạn khác nhau. Đáng chú ý là kỹ thuật xây
dựng tháp Chàm - một trong những đề tài đƣợc đƣa ra khảo luận khoa học...

Bí ẩn của tháp Chàm .


Theo Viện Khảo cổ học Việt Nam, di tích văn hóa Chăm đƣợc phân bổ đều khắp trên dải đất
các tỉnh duyên hải miền Trung, từ vĩ tuyến 11 đến 18, từ Quảng Bình vào đến Bình Thuận. ở
Tây nguyên, các di tích Chăm cũng xuất hiện rải rác ở các địa phƣơng nhƣ: Gia Lai, Kon
Tum, Đăk Lăk, Lâm Đồng. Bình Định xƣa kia từng là kinh đô của Vƣơng quốc Chăm, hiện ở
đây vẫn còn lƣu lại 14 ngôi tháp cổ. Những cuộc khai quật tự phát của cƣ dân đã tìm thấy
nhiều di vật cổ có giá trị nhƣ buồng cau, lá trầu, những vật thờ cúng bằng vàng... nằm sâu
dƣới lòng đất từ cả ngàn năm nay. Bình Định thuộc vùng Vijava từ thế kỷ X đến XV, từng là
kinh đô của Chămpa (1000-1471). Cùng với thành Chà Bàn, hàng loạt công trình tôn giáo
cũng đã đƣợc xây dựng ở đây. Khác với di tích Chăm ở Quảng Nam rất tập trung, các di tích
ở Bình Định lại đƣợc xây dựng rải rác khắp nơi. Hiện có 14 công trình kiến trúc tập trung tại
8 địa danh: Bánh ít, Dƣơng Long, Hƣng Thạnh, Cánh Tiên, Phú Lốc, Phú Thiện, Bình Lâm
và Hòn Chuông. Ngoài ra, còn có 4 tòa thành cổ gồm Thị Nại, Đồ Bàn, An Thành, Uất Trì và
hàng loạt tác phẩm điêu khắc - những phế tích của tháp Chàm nhƣ giếng cổ hình vuông, rắn
Naga, trụ văn bia, tƣợng thần điểu Garuđa, phù điêu Lăng Ông, tƣợng tu sĩ, khu mộ cổ... đều
đƣợc phát hiện tại Bình Định. Trong tất cả các cổ vật phát hiện đƣợc, đáng chú ý là di vật
tƣợng tu sĩ ở chùa Linh Sơn thuộc thôn Hải Giang, xã Nhơn Hải, thành phố Quy Nhơn.
Những cƣ dân ở đây trong khi canh tác đã phát hiện bức tƣợng chôn sâu dƣới lòng đất và đã
đào lên đem hiến cho chùa. Dân địa phƣơng gọi là chùa Phật Lồi. ở Quy Nhơn, hiện vẫn còn
dấu vết các lăng mộ cổ của ngƣời Chăm tại xã đảo Nhơn Châu. Lịch sử Vƣơng quốc Chămpa
từ thời hoàng kim đến lúc suy vong đã lƣu lại cho hậu thế hàng chục ngôi tháp cổ với những
kiểu kiến trúc, chạm trổ độc đáo, bí hiểm. Ở khu vực duyên hải miền Trung hiện có trên 19
khu tháp với hơn 40 ngôi tháp cổ lớn nhỏ.

Và con tàu gặp nạn...


Ch. Lemire đã mô tả các tháp cổ Chămpa phân bố ở tỉnh Bình Định trong tác phẩm Les Tours
kiames de la Province de Binh Dinh nhƣ sau: “Trong các tháp có các tƣợng, rất có thể chúng
bằng vàng hoặc bằng bạc, có mắt bằng ngọc và răng bằng kim cƣơng. Chúng đã bị lấy mất
ngay từ đầu. Những tƣợng bằng đá có thể bị lấy đi ngay sau đó. Ngƣời ta đã đào các bức
tƣợng để bóc gỡ các tranh thánh đã đƣợc gắn vào đó. Các tháp Bạc (ngƣời Việt Nam quen
gọi là tháp Bánh ít) phô bày hàng loạt công trình đáng lƣu ý, phần lớn các tƣợng đều bằng
vàng hoặc bằng đá thếp vàng. Tƣợng cuối cùng che vòm đã đƣợc mang sang Pháp năm 1886.
Gần 80 tấn đá chạm đƣợc dành cho Bảo tàng Lyon đã đƣợc tàu Mêkông chuyển về Pháp dƣới
sự coi sóc của Tiến sĩ Maurice. Tàu Mêkông bị đắm ở Hồng Hải và những ngƣời Somalis
tƣởng rằng đã tìm thấy kho báu nên đã đem vào bờ một số lớn những hòm nặng này, nhƣng
họ chỉ tìm thấy đá và đá...".
Bức màn bí mật bao quanh số phận của con tàu Mêkông đã thách đố các nhà khoa học, giới
săn lùng cổ vật và cả những kẻ hiếu kỳ hơn 100 năm. Trong số những ngƣời tìm cách sở hữu
kho báu trên tàu Mêkông có giáo sƣ Robert Stenout (Pháp). Đến tháng 10.1995, sau hơn 30
năm mày mò nghiên cứu ở hàng trăm thƣ viện, sở lƣu trữ văn khố, các hải cảng, nhiều hãng
tàu biển..., R. Stenout đã khoanh vùng một cách chính xác vị trí mà tàu Mêkông bị đắm tại
mũi Guadaqui ở biển Hồng Hải. Theo R. Stenout, Mêkông là một con tàu lớn đƣợc thiết kế
với hai chức năng chở khách và chở hàng nhƣng điều này không làm ảnh hƣởng đến sự thanh
nhã của nó. Những năm đầu thế kỷ XX, do còn hạn chế về kỹ thuật, hành trình Đông Dƣơng -
Pháp là một hành trình dài, mất nhiều ngày, nên Mêkông đƣợc xây dựng, bài trí hoàn hảo,
sang trọng và nguy nga nhƣ một cung điện di động trên mặt biển. Chuyến đi định mệnh của
tàu Mêkông vào năm 1906 chở theo 180 sĩ quan, thủy thủ, 66 hành khách cùng hàng tấn cổ
vật bằng vàng và một khoang bí mật chứa đầy hàng mà theo khảo sát ban đầu của đội thợ lặn
thuộc tàu Scorbio do thuyền trƣởng Campell chỉ huy (tàu Scorbio là con tàu mà Stenout sử
dụng trong cuộc khai quật của mình) thì hàng trăm nghìn thỏi vàng có trong khoang hàng bí
mật này nhƣ huyền thoại về Mêkông đã lan truyền là có thật.
Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau khi định vị đƣợc tàu Mêkông và kho báu bí mật thì nƣớc có chủ
quyền trên vùng lãnh hải mà tàu Mêkông bị đắm đã nổ ra một cuộc nội chiến khốc liệt, việc
thu hồi kho báu trên tàu Mêkông đành dừng lại... kho báu mà tàu Mêkông có nhiệm vụ đƣa
về Pháp chủ yếu đƣợc thu gom trên khu vực Vijava từ Quảng Nam đến Bình Thuận và chắc
chắn đây chƣa phải là kho báu duy nhất của Vƣơng quốc Chămpa.

Những thỏi vàng ròng biến mất .


Theo một truyền thuyết thì trên chóp đỉnh của Tháp Đôi, cụm tháp gồm hai chiếc nằm ở
thành phố Quy Nhơn, có 2 quả cầu lớn làm bằng vàng ròng. Cả hai khối vàng này đã bị các
thủy thủ ngƣời da trắng của một chiếc tàu châu Âu đến cƣớp đoạt và mang xuống tàu sau một
cuộc tấn công chớp nhoáng. Ngƣời Chăm cổ không quá đề cao giá trị của vàng và sử dụng
chúng với khối lƣợng lớn một cách khá phổ biến trong các công trình kiến trúc đền tháp của
mình. Có thể lý giải rằng, đó là do dân tộc này đƣợc tạo hóa ƣu đãi quyền sở hữu nhiều mỏ
vàng có trữ lƣợng phong phú. Vàng đƣợc đem đi đúc tƣợng thần để thờ, đúc phù điêu và dát
lên các tƣợng thờ để trang trí... Truyền thuyết cũng cho biết rằng, ngƣời Chăm sau khi dựng
tƣợng vàng ở các đền tháp thƣờng quét lên thân tƣợng một lớp sơn đặc chế. Kho báu Chămpa
đƣợc các nhà khoa học Pháp nhắc đến từ khá lâu. Kho báu cuối cùng - nơi lƣu giữ những gì
còn lại của vƣơng triều Chămpa đã đƣợc đề cập trong tác phẩm Un royaume disparu - Les
Chams et leur art - 1923 (Pháp). Sự giàu có đầy bí ẩn của Vƣơng quốc Chămpa có thể đúng
nhƣ các công trình nghiên cứu khoa học đã công bố. Nhƣng ngay cả khi sự thật không phải là
nhƣ thế thì với việc thừa hƣởng 14 quần thể tháp Chàm cổ còn lại đến nay, có thể khẳng định
rằng: Bình Định đang sở hữu một phần kho báu của nhân loại.

Ngàn năm còn một chút này...


Tháp Đôi đƣợc xây dựng vào cuối thế kỷ XII còn đƣợc gọi là tháp Hƣng Thạnh. Vào ngày
10.7.1980, Tháp Đôi đƣợc Nhà nƣớc xếp vào danh mục những di tích lịch sử - văn hóa quốc
gia. Tháp Đôi đƣợc các nhà nghiên cứu xếp vào loại di sản độc đáo của nghệ thuật kiến trúc
Chămpa. So với các ngọn tháp khác trong vùng, Tháp Đôi không hề giống bất kỳ một ngôi
tháp cổ nào hiện có. Thế nhƣng, đến nay các nhà khoa học vẫn chƣa tìm ra lý do của sự khác
thƣờng này.
Cùng với di tích Tháp Đôi, chúng ta ngƣợc lên vùng "Tây Sơn hạ đạo" để chiêm ngƣỡng cụm
tháp Dƣơng Long. Ngày xƣa ngƣời Pháp gọi đây là Tháp Ngà, dân địa phƣơng thì gọi là tháp
An Chánh. Tháp Dƣơng Long có 3 tòa tháp cổ với chiều cao từ 29 đến 36 m. Các hệ thống
cửa phần lớn đã bị sụp đổ, hƣ hỏng. Tuy vậy, nhìn vào các tác phẩm điêu khắc còn sót lại,
chúng ta liên tƣởng đến những nghệ nhân Chăm đã từng dày công sáng tạo một nền văn hóa
độc đáo. Nhiều nhà nghiên cứu hiện nay đã xác định niên đại của tháp vào khoảng nửa sau
thế kỷ XII. Đây là cụm di tích thứ 2 đƣợc Bộ Văn hóa xếp hạng cùng lúc với Tháp Đôi Quy
Nhơn. Sau hai cụm Tháp Đôi, tháp Dƣơng Long là tháp Cánh Tiên và tháp Bánh ít. Tháp
Cánh Tiên đƣợc ngƣời Chăm xây dựng ngay ở trung tâm thành Đồ Bàn, nay thuộc địa phận
xã Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Theo tài liệu của ngƣời Pháp, tháp Cánh Tiên
còn đƣợc gọi là Tháp Đồng, nhƣng vì sao có tên gọi này thì vẫn chƣa xác định đƣợc. Tháp
cao khoảng 20 m, trông xa giống nhƣ đôi cánh của nàng tiên trong chuyện cổ tích đang bay
lên trời xanh. Tháp Cánh Tiên đƣợc xây dựng một phần bằng chất liệu đá sa thạch, xung
quanh có nhiều phù điêu chạm khắc tạo cho ngôi tháp cổ một dáng vẻ độc đáo. Khác với tháp
Cánh Tiên, cụm tháp Bánh ít có đến 4 tòa tháp lớn nhỏ khác nhau. Gọi là tháp Bánh ít bởi vì
khi đứng từ xa nhìn lại, cụm tháp giống nhƣ những chiếc bánh ít lá gai - một sản vật thƣờng
thấy trong các dịp cúng lễ, giỗ chạp ở miền Trung. Ngƣời Pháp gọi đây là Tháp Bạc. Tất cả
đều nằm trên một đỉnh đồi thuộc địa phận xã Phƣớc Hiệp, huyện Tuy Phƣớc, cách thành phố
Quy Nhơn khoảng 20 km. 4 ngôi tháp cổ này đều có các tƣợng thờ, hình vũ nữ đang múa,
hình voi, hình các vị thần linh. Kiểu trang trí làm cho ta có cảm giác nhƣ đang lạc vào thế
giới thần bí của ngƣời Chăm cổ xƣa. Cũng tại Bình Định còn có tháp Bình Lâm nằm ở xã
Phƣớc Hòa (Tuy Phƣớc). Ngƣời dân ở đây kể lại rằng, thôn Bình Lâm là nơi có những cƣ dân
ngƣời Việt lần đầu tiên đến đây khai phá mở mang vùng đất phì nhiêu này. Trong hệ thống
tháp Chàm Bình Định, thì tháp Bình Lâm là nhóm tháp cổ có niên đại sớm nhất. Một cụm di
tích khác có tên là tháp Thủ Thiện ở xã Bình Nghi (Tây Sơn) nằm bên Quốc lộ 19. Năm
1995, ngọn tháp này đã đƣợc Nhà nƣớc xếp hạng di tích. Tuy vậy, cũng giống nhƣ các cụm
di tích tháp Chàm khác ở Bình Định, ngọn tháp Thủ Thiện hiện đang bị đổ nát nghiêm trọng.
Nhiều di tích, cấu trúc của ngọn tháp đã bị thời gian và con ngƣời phá hủy. Di tích cuối cùng
đƣợc xếp hạng cùng lúc với tháp Thủ Thiện là tháp Phú Lốc. Ngƣời Pháp đặt tên là Tháp
Vàng. Phú Lốc nằm giáp ranh giữa 2 huyện An Nhơn và Tuy Phƣớc. Tháp nằm trên đỉnh một
quả đồi cao 76 m so với mực nƣớc biển. Ngọn tháp đã bị đổ nát khá nhiều, tuy nhiên, nhìn
một cách tổng quát vẫn thấy đƣợc dáng vẻ bề thế, uy nghi của một công trình kiến trúc cổ.
Ngoài 7 cụm tháp ở Bình Định đã đƣợc Nhà nƣớc xếp hạng, hiện nay vẫn còn một số di tích
tháp cổ khác chỉ còn chân đế, hoặc đã bị sụp đổ do ngƣời dân đào bới tìm vàng, trong đó có
tháp Hòn Chuông ở huyện Phù Cát. Ngôi tháp cổ này cùng nhiều tháp Chàm khác đang đòi
hỏi có sự trùng tu.
Có thể nói rằng, 8 cụm tháp với tổng số 14 tòa tháp cổ còn lại trên đất Bình Định đƣợc xem
nhƣ một loại tài sản vô giá mà lịch sử đã ban tặng cho miền Trung nƣớc ta. Những bí ẩn về
tháp Chàm mặc dù đã đƣợc tìm hiểu nghiên cứu từ cả chục năm nay, tuy vậy cũng chỉ là
những nghiên cứu bên ngoài. Chúng ta tin rằng ở đó còn khá nhiều điều kỳ lạ, nhiều huyền
thoại lý thú cần đƣợc làm sáng tỏ.
Nguồn:Tạp chí hoạt động khoa học
Nhƣ bài trên tôi đã nói Vàng ngƣời Chăm lúc hiện lúc ẩn. Nhƣ thế vẫn chƣa là gì so với
những chuyện tôi kể ra đây
Vàng của ngƣời Chăm có nhiều hình dạng. Nhƣng loại vàng mà ngƣời ta gặp đƣợc khi đào
đất thì chỉ là Vàng hình dáng các loại đồ vật, trái cây, vàng lá chứ tuyệt nhiên không bao giờ
gặp đƣợc loại Vàng có hình dáng thú. Vàng hình dáng thú bao gồm : bầy Trâu, bầy Ngựa,
Bầy gà ( mẹ và con). Không có hình của Bò và Lợn.
Điều đặc biệt là Vàng loại này ban đêm tối trăng thƣờng hay xuất hiện dƣới dạng vật thể
sống. Ví dụ ngƣời ta thấy đƣợc bầy ngựa Vàng vừa đi vừa hú hí, tiếng vó ngựa len keng, Gà
mẹ dắt đàn con đi với đầy đủ âm thanh chim chíp nhƣ 1 bầy gà sống thật sự. Các đốm vàng
chớp sáng và di chuyển trong đêm. Theo truyền thuyết kể rằng khi chôn vàng Ngƣời Chăm
đã chôn luôn ngƣời sống đồng trinh theo để canh giữ, chăn giắt.
Hiện tƣợng này dân làng tôi quá rành, rất thƣờng hay gặp và điều đó trở nên hết sức bình
thƣờng. Ngay nhà tôi cũng có 1 bầy gà vàng ban đêm hay xuất hiện khu vực gần giếng nƣớc,
trong dòng tộc tôi cũng có 2 ngƣời đƣợc gà Vàng. Gà mẹ to tầm ngón chân cái, 1 bầy trên 10
con gà con to tầm ngón tay cái ( số lƣợng kg đều nhau).Có lẽ từ lâu đời dân làng tôi đã biết
cách săn bắt loại Vàng này. Bạn không chạy theo rƣợt bắt nó đƣợc dù là có đông ngƣời. Kinh
nghiệm là nếu thấy nó vào khu vực vƣờn nhà mình thì mình cứ bình tĩnh vào lấy nhang đốt
khấn cầu xin . Nếu nhƣ số mình đƣợc thì tự ắt nó chạy lại trƣớc mặt mình và hiện nguyên
hình, mình cứ việc lƣợm mà thôi. Cũng có vài ngƣời đƣợc nhƣng không biết giữ, ôm bầy gà
cất vào tủ sáng dậy nó chạy mất tiêu. Ấy là sau khi đƣợc, phải lập tức bắt bếp lửa lên cho nó
vào mà rang lên cho thật nóng sau đó đem ra đập dập cho mất hình dạng thì mới giữ lại đƣợc.
Theo kinh nghiệm dân làng tôi thì mức độ độc tính của Vàng ngựa là cao nhất sau đó đến
Trâu và cuối là Gà. Đƣợc Vàng bầy ngựa mà không biết cách cúng kiếng làm từ thiện thì ra
đi vài ba mạng ngƣời trong gia đình nhƣ chơi. Làng tôi cũng có 1 ngƣời đƣợc 1 bầy Ngựa
nhƣng vì sợ dân làng bà con biết xin tiền nên ém nhẹm. Không cúng kiếng, từ thiện gì cả, thế
là bà Vợ ra đi tích tắc, các đứa con sau khi lập gia đình thì tàn tạ, điên khùng và chết rất
thảm. Nói chung khi đƣợc Vàng Chăm thì phải từ thiện khoảng 1 nữa số Vàng thì mới mong
đƣợc an toàn
Hiện tại Làng tôi vẫn còn 4 bầy gà xuất hiện, 1 con ngựa độc đi lang thang, 1 cặp Trâu nhƣng
cặp Trâu này luôn có ngƣời theo chăn dắt vì còn nghe đƣợc ngƣời chăn hát đồng dao nhƣ sau:
Mong cho hết tháng hết ngày

Trâu này dắt lại trao tay họ Đoàn.


Cặp Trâu này chỉ xuất hiện vào những đêm tối trời mƣa nhiều.
Nhà Ngoại tôi là họ Đoàn, nhƣng thấy Vàng Trâu và Ngựa thì thật chẳng ai tham.
Tôi vốn là ngƣời mê cây Mai Vàng từ hối còn bé. Tôi đi lang thang khắp nơi để mua mai về
trồng. Tình cờ cũng gặp đƣợc 1 anh Bạn cùng sở thích cách nhà tôi khoảng 7km. Cả 2 đi lang
thang tìm mua mai và cũng lắm câu chuyện bà tám với nhau trong đó cũng có đề tài Vàng
Chăm. Quả thật những chuyện tôi kể trên đây không ăn thua gì với anh ta vì làng anh ta nằm
ngay trên khu “Đô Thị” Chăm ngày xƣa thì phải, bây giờ dân làng xây nhà, đào giếng gặp
phải rất nhiều vết tích xây dựng cũ của Chàm. Gà Vàng Trâu Vàng Ngựa Vàng biết đi ban
đêm là điều bình thƣờng, anh ta còn bảo trong vƣờn nhà anh ta còn có 1 tấm phản ngựa bằng
Vàng biết bay vào ban đêm nhƣng không tài nào săn nó đƣợc…

LỜI NGUYỀN TRÊN CÁC KHO BÁU CHĂM (1)


Tƣợng sƣ tử hiện đang trƣng bày trƣớc cổng Bảo tàng tổng hợp Bình Định. Đẹp thế này mà
bảo vệ rất lỏng lẻo, mỗi khi đi ngang qua đây ta lại thót ruột nhè nhẹ vì sợ nó bị kẻ trộm rinh
mất.
Những tƣợng cổ, kho vàng, báu vật của dân tộc Chăm luôn luôn là mơ ƣớc của những ngƣời
săn lùng cổ vật. Cơn sốt săn tìm báu vật, vàng Chăm đã bắt đầu từ mấy thế kỷ trƣớc, đặc biệt
là trên vùng kinh đô Vijaya (tức Bình Định ngày nay) và hạ nhiệt từ rất lâu, nhƣng dứt hẳn thì
chƣa bao giờ. Chúng âm ỉ mãi cho đến nay với những huyền thoại hƣ ảo nhƣng hấp dẫn.
Theo nhiều tƣ liệu khoa học, lịch sử thì ngƣời Pháp chính là những ngƣời đầu tiên phát hiện
và đánh giá tầm vóc của văn hóa Chăm. Cũng chính họ là những ngƣời đầu tiên săn tìm, khai
quật, vét cạn những cổ vật Chăm quý giá.
Năm 1886 gần 80 tấn đá chạm, phù điêu, tƣợng cổ các loại... đã đƣợc các chuyên gia Pháp
gom lại từ Tháp Bánh Ít (tức Tháp Bạc theo cách gọi của ngƣời Pháp) để chuyển về Bảo tàng
Lyon bằng tàu Mekong dƣới sự giám sát của Tiến sĩ Maurice.

Trên đƣờng vận chuyển, đến Hồng Hải, không rõ vì lý do gì con tàu này bị đắm. Những thổ
dân Somalia nghĩ rằng đây là con tàu chở vàng bạc châu báu nhƣng họ đã thất vọng khi
những chiếc hòm vớt đƣợc chỉ có đá và đá... Sau này ngƣời ta không sao tìm lại đƣợc những
thùng cổ vậy ấy và một bí mật bao trùm lên con tàu Mekong bởi hồ sơ con tàu, danh sách
hàng hóa cũng bị thất lạc. [ít lâu sau khi phóng sự này đăng trên Thế giới Mới, có ngƣời cung
cấp cho mình thông tin về con tàu này, đổi lại là mình copy dù ngƣời ta hai cuốn sách ở Thƣ
viện Bình Định. Sở dĩ có việc này là vì những cuốn sách đƣợc bảo vệ rất kỹ. Mình "phô"
đƣợc là vì có quan hệ riêng, và trƣớc đó có tặng cho Thƣ viện phó bản môt cuốn sách mà thƣ
viện tìm đã lâu mà không thấy].
Phù điêu tƣợng nũ thần Mahisamandhi - niên đại thế kỷ XII. Hiện vật này đã đƣợc tỉnh Bình
Định đề nghị công nhận là bảo vật quốc gia. Năm 2005 nó đã đƣợc Nhà nƣớc Việt Nam cho
Bảo tàng Dân tộc học Vƣơng quốc Bỉ mƣợn để trƣng bày. Riêng chi phí để mua bảo hiểm của
nó không thông thôi đã là 50.000 USD.
Bên cạnh các mà khoa học, ngày ấy có nhiều ngƣời khác đã biết đến các gọi là Kho báu
Chămpa. Những kho báu này càng trở nên hấp dẫn khi nhiều học giả trong đó có ông De
Lagreé đã công bố những khám phá trong đó có những đoạn mô tả đại loại - ở khu vực đền
Tháp Chămpa ngƣời ta đặt nhiều tƣợng kim loại, tƣợng đá dát vàng, bên trong tháp có nhiều
vật quý, tƣợng nhỏ, phù điêu bằng vàng, bạc....
Nhiều năm sau đó do tình hình xã hội Việt Nam chƣa ổn định, những năm tháng chiến tranh
liên miên không cho phép ngƣời ta đi sâu tìm hiểu những bí mật còn chôn giấu trong lòng
đất. Tuy vậy, những gì đã phơi ra dƣới ánh mặt trời cũng đủ làm các nhà khoa học thán phục
văn hóa Chăm, trình độ văn minh của dân tộc này.
Jeanne Leuba, một học giả Pháp chuyên nghiên cứu lịch sử, văn hóa Chămpa đã viết: “Một
trong số rất nhiều những chủng tộc bí hiểm ở phƣơng Đông cho đến ngày nay vẫn còn rất ít
ngƣời biết đến, một trong những chủng tộc lý thú nhất mà nguồn gốc chính thức của họ vƣợt
khỏi sự hiểu biết hiện nay của chúng ta, một dân tộc mà sự phát triển qua một thời đại đã bị
xáo trộn bởi các dân tộc lớn, một dân tộc mà cho ngày nay chúng ta đang nghiên cứu các di
tích.... Đó là dân tộc “Chăm” (Một quốc gia bị diệt vong). Cùng với những đánh giá trang
trọng nhƣ vậy, các nhà nghiên cứu cũng không quên đƣa ra nhận định gây nhiều hệ lụy cho
các thế hệ sau này - Chămpa một quốc gia rất giàu có!
Sau ngày miền Nam đƣợc giải phóng, đất nƣớc thống nhất, cơn sốt đi tìm kho báu Chăm hay
nhƣ một cách gọi khác là đi tìm vàng Hời lại bộc phát, lần này do chính hậu duệ của dân tộc
Chămpa tiến hành.
Quãng những năm 1976-1978 ở Quy Nhơn xuất hiện vô số ngƣời Chăm ngồi bốc mạch bán
thuốc dọc các đƣờng phố Lê Hồng Phong, Trần Hƣng Đạo, Phan Bội Châu... Những ngƣời
này dần dần di chuyển địa bàn hoạt động về những vùng in đậm dấu ấn văn hóa Chăm nhƣ
An Nhơn, Hoài Nhơn, Tuy Phƣớc, Hoài Ân... Anh Nhị - cán bộ UBND huyện Hoài Ân kể:
“Từ xa xƣa ở vùng này đã tồn tại những truyền thuyết về vàng Hời. Trên thực tế ngƣời ta
cũng đã nhặt đƣợc khá nhiều đồ dùng bằng vàng, bạc, nhiều thứ trong số này sau đó đƣợc xác
nhận là của ngƣời Hời (tức ngƣời Chăm). Thỉnh thoảng sau mùa lụt, những ngƣời sống ở ven
bờ sông Kim Sơn (con sông đƣợc mệnh danh là con sông Vàng do có nhiều vàng sa khoáng)
thƣờng nhặt đƣợc một số mảnh vỡ của bát đĩa, bình đựng .... bằng vàng bạc và cả bằng gốm
đất. Chính tôi cũng đã chứng kiến cảnh những ngƣời Chăm đi tìm mộ tổ tiên nhƣ họ nói,
cảnh họ cúng tế, đào bới một cách bí mật và biến mất đột ngột nhƣ kiểu họ xuất hiện....”.
Hoài Ân là vùng trung du có nhiều di chỉ văn hóa Chăm đến nay vẫn còn lƣu danh Mả Lỏi,
Mả Bà Cóc..., rất có thể những mảnh vỡ ấy là do nƣớc lũ xói lở cuốn trôi đi từ các di chỉ nhƣ
vậy. Ông D ở Ân Tín, một ngƣời xác nhận là đã từng cầm trong tay nhiều buồng cau, lá trầu,
con cóc bằng bạc và đồng (không có cái nào bằng vàng) kể rằng: “Nhiều ngƣời đã tìm cách
đào bới các ngôi mộ cổ, những nơi nghi có chôn giấu báu vật nhƣng tôi chƣa nghe ai nói đã
tìm thấy vàng. Riêng đồ bạc, đồ đồng nhƣ tôi thì có khá nhiều. Tuy thế, không hiểu sao khi
giữ những vật ấy tôi bị đau ốm liên miên, mãi đến lúc nghe lời ngƣời ta mách - vứt trả những
thứ ấy xuống sông, tôi mới khỏi bệnh. Thật bí hiểm!”
Tƣơng tự nhƣ Hoài Ân, ở vùng suối vàng thuộc Hoài Sơn, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình
Định, nhiều ngƣời già xác nhận với chúng tôi rằng đã có nhiều ngƣời nhặt đƣợc chén vàng,
đĩa vàng bên bờ suối này, nhƣng những thứ thu lƣợm đƣợc ở đây chẳng thấm tháp gì so với
kho báu ở Hố Giang.
Hố Giang là một dãy núi chứa nhiều huyền thoại về... kho báu trong đó đáng lƣu ý nhất là
tảng đá chữ. Đó là một tảng đá cao khoảng 2m3 dài gần 5 m trên mặt có những dòng chữ
Sankrit mang ý nghĩa bí mật của ngƣời Chăm. Tân - ngƣời dẫn đƣờng, đƣa tôi đến bên tảng
đá chữ chứa nhiều bí ẩn ấy và cho biết: Cách đây chừng vài tháng, ông X, một tay chuyên rà
phế liệu kim loại đã đào đƣợc một pho tƣợng Chăm đúc bằng kim loại màu vàng, nghe đây
đã bán đƣợc với giá 200 triệu đồng. Có rất nhiều nhóm rà phế liệu sau đó đã quần nát vùng
này nhƣng đƣợc gì hay không chƣa nghe ai tiết lộ, riêng dân địa phƣơng ngƣời ta rất ngại vì
tƣơng truyền rằng kho báu Hố Giang đã bị đè lên bởi một lời nguyền độc địa của ngƣời Hời
bí hiểm.
Lịch sử còn ghi rằng vào khoảng thế kỷ XII-XIII, Vƣơng quốc Chămpa phải đối phó với cuộc
chiến tranh kéo dài suốt trăm năm với những ngƣời Khơme phƣơng Nam, cùng với việc phải
dời đô sang bờ Bắc của một nhánh sông Côn, một phần kho báu của vƣơng quốc đã đƣợc
chuyển về chôn giấu rải rác ở khu vực rừng núi cách xa kinh đô Vijaya mà ngày nay có thể
thuộc địa bàn các huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn.
Đến năm 1282, trong âm mƣu tiêu diệt nƣớc Đại Việt, Toa Đô - một viên tƣớng của đế quốc
Nguyên Mông đã chỉ huy một cánh quân theo đƣờng thủy tấn công vào Chămpa, nhằm tạo
gọng kìm thứ hai kẹp chặt lấy Đại Việt. Vua Chăm và triều đình đã bỏ trống kinh đô Vijaya,
chạy lên vùng Hoài Nhơn ngày nay để cố thủ. Nhiều sử sách còn ghi lại rằng Toa Đô đã
chiếm một kinh đô trống rỗng, kho tàng đã đƣợc sơ tán từ rất sớm. Ngƣời Chăm vốn e ngại
sự hung hãn của đế quốc Nguyên Mông nên sau chiến tranh vẫn cất giấu một phần kho báu ở
xa kinh đô, phòng khi lỡ vận. Sự thật lịch sử cũng nhƣ việc phát hiện những mẫu nhỏ của
những vật dụng bằng vàng đã chứng minh đƣợc phần nào cho luận cứ kể trên.

LỜI NGUYỀN TRÊN CÁC KHO BÁU CHĂM (2)

Tháng 4.1997 nghe tin có ngƣời rà đƣợc một khối lƣợng lớn vàng bạc của huyện Phù Cát
(Bình Định) lập tức chúng tôi tìm hiểu và đƣợc Thế Hà, một đồng nghiệp ở Đài Truyền thanh
huyện cho biết: “Ngày 5.4.1997 anh Trần Văn An - ngƣời ở xã Cát Tân khi rà sắt để tìm phế
liệu tại thôn Hƣng Mỹ thuộc xã Cát Hƣng đã phát hiện một hũ bằng đồng chứa nhiều đổ cổ
(chén đĩa bằng vàng và bạc)... reo mừng vì sự giàu có bất ngờ An đã ôm chiếc hũ chạy đi
mất. Những ngƣời đang làm cỏ mía quanh đó vội ùa lại và hợp sức khoét rộng cái hố, đào sâu
hơn và vận may đã mỉm cƣời với họ. Ở độ sâu hơn 1,5m nhóm ngƣời này đã tìm thấy một hũ
lớn bằng sành bên trong chứa nhiều vật dụng bằng vàng nhƣ bình đựng, đĩa, tô chén, một số
khác trông nhƣ đồ trang sức với khối lƣợng ƣớc tính khoảng 3kg. Những ngƣời này đã dùng
rựa để chia đều số vàng này ra. Những gì mà ông An và nhóm ngƣời kia khai quật đƣợc nếu
tính theo giá trị của vàng ƣớc đƣợc 400 triệu đồng. Nhận đƣợc tin Công an Phù Cát đã tìm
cách thu hồi, nhƣng kết quả chỉ đƣợc 1 hũ, 6 bình đựng, 9 đĩa và vẻn vẹn có 5 lạng vàng...”
Sự kiện này đã gieo vào những ngƣời chuyên rà tìm phế liệu giấc mộng tìm thấy kho báu của
ngƣời Hời. Nhƣng cứ nhƣ một trò cút bắt bí hiểm, hàng trăm nhóm với nhiều máy dò tìm kim
loại chia nhau rà nát những cánh rừng, đồng ruộng, ven sông... nhƣng “vàng Hời” vẫn im
lặng không chịu lên tiếng. Khi nhiều nhóm chán nản bỏ cuộc thì cuối tháng 10.1997 ông Lê
Văn An (trú ở thôn Phú Thọ, xã Tây Phú, huyện Tây Sơn) cùng một ngƣời đàn ông tên Liêm
gốc gác ở Thanh Hóa đã gây chấn động khi khai quật đƣợc một số lƣợng lớn cổ vật bằng
vàng.
Nơi mà hai ông tìm đƣợc “kho báu” nằm trên núi Hòn Gà (xã Bình Thành, huyện Tây Sơn).
Số lƣợng cổ vật tìm thấy theo ông An gồm: 5 pho tƣợng cổ cao khoảng 35cm, đƣờng kính
thân tƣợng khoảng 5cm, 4 tƣợng khác cao khoảng 30cm, đƣờng kính thân tƣợng khoảng
4cm, 4 lục bình có kích thƣớc lớn hơn một chút, điều đặc biệt là toàn bộ số cổ vật này đều
đƣợc chế tác bằng vàng ròng. Hai ông An- Liêm đã bán số cổ vật khai quật đƣợc cho một
ngƣời lạ mặt trƣớc khi cơ quan an ninh, các nhà nghiên cứu khoa học, bảo tàng kịp can thiệp.
Theo lời ông H, một chuyên gia đồ cổ mà chúng tôi đã tới tham vấn thì ngƣời mua đƣợc số
đồ cổ ấy đã trúng một cái giá rất hời - khoảng hơn 1 tỷ đồng.
Trƣớc khi cơn sốt vàng Hời trở lại, những ngƣời chuyên đi rà sắt phế liệu coi đây là nghề
chính của mình, việc rà đƣợc vài chục ký đƣợc coi là trúng mánh. Mọi việc trở nên khác hẳn
khi rải rác đây đó trên địa bàn tỉnh Bình Định một vài nhóm thay vì tìm thấy sắt phế liệu đã
gặp vàng, đồ cổ. Biết tôi đang tìm những thông tin mới xung quanh những chuyện kho báu
của ngƣời Hời, Hải - một ngƣời bạn thuở thiếu thời đã tiết lộ: “Thật ra những ngƣời đi tìm sắt
phế liệu chỉ là những kẻ gặp may mà thôi, xác suất gặp đƣợc cổ vật của họ rất thấp. Cách đây
chừng 4 năm ở tỉnh Bình Định đã có khoảng 5 nhóm ngƣời lẳng lặng săn tìm cổ vật Chăm
dƣới danh nghĩa là đào cây dại trên núi, đồi để làm bonsai, cây kiểng thế. Họ đã xới tung
nhiều đồi núi ở Tuy Phƣớc, An Nhơn, Hoài Ân...
Thời ấy máy dò tìm kim loại không đƣợc phổ biến nhƣ bây giờ, những tay săn đồ cổ vì vậy
phải dựa vào thƣ tịch cổ, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học mà họ sƣu tầm
đƣợc. Tớ đã đƣợc một nhóm nhƣ vậy thu nạp, nhóm này quần miết ở khu rừng ở gần Tháp
Bánh Ít, vùng Đồi Bạt lân cận và khi có điều kiện cũng không quên xoi thử một vài hố ở gần
chân tháp. Những tay đầu lĩnh có đạt đƣợc mục đích hay không thì tớ không đƣợc biết nhƣng
chắc chắn họ đã thu đƣợc ít nhiều đồ cổ. Chỉ đến khi xảy ra một vài tai nạn trong việc đào tìm
cổ vật, cùng với lúc câu chuyện về những lời nguyền có vẻ nhƣ đang trở thành sự thật thì
nhóm này tự rã đám. Vàng bạc thì không chắc chứ đồ cổ thì chắn chắn có rất nhiều bởi Thập
Tháp Di Đà Tự là ngôi chùa vốn đƣợc xây trên khu đất ngày xƣa đã từng tồn tại 10 ngôi tháp
Chăm mà ngƣời ta đã phá đi mất để lấy vật liệu làm chùa. Cổ vật chắc vẫn còn nhiều, chỉ có
điều chúng nằm rất sâu trong lòng đất mà thôi. Mới đây một số ngƣời đã dùng máy rà kim
loại để tìm vàng ở vùng Tháp Cánh Tiên (An Nhơn) nghe đâu khi gần đạt kết quả thì bị công
an giải tỏa, các chuyên gia của Bảo tàng Bình Định đã tiếp tục công việc và thu đƣợc khá
nhiều hiện vật....”
Sở dĩ những cuộc săn lùng kho báu Chăm không bị lụi tàn nhƣ những cuộc săn lùng tƣơng tự
ở Bình Thuận, Đồng Nai những năm trƣớc, hoặc nhƣ cuộc săn lùng kho báu của Vua Hàm
Nghi mới đƣợc một số báo đài nói đến gần đây là vì khác với chúng, kho báu Chăm không
chỉ có huyền thoại mà thỉnh thoảng còn hé ra một vài “ví dụ” thực tế có sức hấp dẫn, quyến
rũ lớn. Mặt khác Chămpa là một quốc gia có thật, tƣ liệu lịch sử, khảo cổ về nó cũng nhiều
hơn hẳn. Tuy nhiên sẽ vô cùng thiếu sót nếu chúng tôi không nói đến hậu quả thảm khốc,
những hệ lụy đau lòng mà những ngƣời theo đuổi giấc mộng vàng Hời đã gặp phải.
Ngày 29.11.1996 nhóm thanh niên gồm 4 ngƣời là Trần Văn Đông, Võ Văn Ngọc, Cao
Thành Trọng, Huỳnh Công Báu tổ chức đào “phế liệu” ở thôn Hội An, xã Ân Thạnh, Hoài
Ân. Nhóm này đã rà đƣợc một quả đạn pháo 81 ly và Trọng, Ngọc, Báu đã chết ngay tại chỗ
khi tìm cách...đập quả đạn ra để lấy thuốc nổ. Đông- ngƣời may mắn thoát chết kể lại- lúc
mới cào ra lớp đồng bên ngoài vỏ đạn đứa nào cũng tƣởng là vàng, khi phát hiện đó là đạn
pháo cả nhóm mới bàn rằng sẽ bán quả đạn này đi để lấy tiền tổ chức rà tiếp biết đâu sẽ gặp
may. Ai ngờ...
Nhƣng đây vẫn chƣa phải là kết cục thảm khốc nhất, ngày 18.01.1997 tại cơ sở buôn bán phế
liệu kim loại của mình, ông Nguyễn Thanh Phong (An Nhơn - Bình Định) đã thuê anh Sang
một ngƣời chuyên rà phế liệu cƣa quả bom 500 ký. Bom nổ, vợ và 2 con ông Phong, anh
Sang và một ngƣời bán kem gần đó đã tan xác, máu của những kẻ xấu số nhuộm đỏ cả rặng
me tây cách đó khá xa. Ông Phong may mắn thoát chết do không có mặt ở nơi cƣa bom,
nhƣng 4 cái chết bị thảm kia đã giáng vào ông một đòn chí mạng.
Những nhóm rà phế liệu là dân An Nhơn đang hoạt động rải rác khắp nơi trong tỉnh vội vã
trở về do quá kinh hãi! Câu chuyện đáng cƣời ra nƣớc mắt nhất lại sảy ta ở huyện An Lão,
một nhóm 3 ngƣời đi rà chung với nhau khi vừa thấy ánh vàng hấp dẫn lóe lên trong hố, cả 3
đã xông vào “dần” nhau một trận chí tử, hai ngƣời yếu hơn đã thua cuộc, ngƣời chiến thắng -
kẻ khỏe nhất đã xông lại đào tiếp để sở hữu riêng kho báu đã trọng thƣơng, bị mất một cánh
tay, một bàn chân vì kho báu phát nổ bởi đó là một quả đạn M79.
Ngƣời ta bảo đó là kết quả của những lời nguyền trên kho báu Chăm và hy vọng điều đó sẽ
cảnh tỉnh những ai có giấc mộng giàu xổi từ những di chỉ văn hóa Chăm chứa đầy những mối
hiểm nguy. Nhƣng không, cơn sốt cổ vật thậm chí còn làm dấy lên một nỗi buồn mà sau này
tôi đã gọi là Nỗi buồn cổ vật Việt Nam, gọi nhƣ thế một phần còn vì sự thờ ơ của những
ngƣời giữ trọng trách trong tay.
Nguồn :

http://blog.360.yahoo.com/blog-ROyvp4ElaadRDv0NfOZRr2Utfg--?cq=1&p=2919

dienbatn giới thiệu.

CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM


. BÀI 15.

Thứ Tƣ, ngày 19 tháng 11 năm 2014


CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƢU TẦM . BÀI 15.

THẦN ĐỘC CƢỚC.


Ông nầy nguyên ngƣời làng Toàn Đông, huyện Bảo An, phủ Từ Sơn, tinh Bắc Ninh. Cha
ngài là Nguyên Lê vốn là một pháp sƣ lừng danh, không có còn trai nói dõi, ông cầu nguyện
đức Phật và nhiều quyền lực tôn giáo khác để can thiệp với Ngọc Hoàng. Vị thần tối cao liền
cho xuống trần một vị thần vào đầu thai trong nhà và làm con của Nguyên Lê.
Ngƣời ta đặt tên Ngài là Nguyên Độc, tới 10 tuổi, cậu bé Độc đã biết thành thạo về nghệ
thuật phù phép và có thể thực hiện đƣợc những gì cậu đã vì bốc đồng tình cờ mà làm ra. Một
ngày kia, cậu đánh trống và làm những động tác triệu thỉnh chung chung, khiến động thấu
đến thiên đình và vang động khắp bốn phƣơng nhângian.Ngọc Hoàng không chịu nổi
nhungchan động quái gở nhƣ vậy, nên Ngài liền phái xuống trần một vị “Chu Tử” (mặc quần
áo đỏ) thuộc dạng một sĩ quan tùy viên để đi lấy tin tức về sự náo đồng kia. Viên sĩ quan này,
noi theo các tiếng động, xuống tới nhà của Nguyên Lê và thay vì gặp ở đó nhƣ điều ông dự
kiến là một đám đông ồn ào, hỗn độn dữ dội, ông lại chỉ thấy có một mình cậu bé Nguyên
Độc ở đó, cậu lại đang bình thản ngủ vùi. Lợi dụng dịp may hiếm có, vị thần áo đỏ rút gƣơm
ra, chém một nhát, chặt đôi thân thể cậu bé, ông mang một phần thân thể về trình Ngọc
Hoàng. Sau đó ông Nguyên Lê vừa trở về nhà, nhìn thấy con bị chém đứt làm hai, vô cùng
hoảng hốt, ông ôm chầm phần còn lại của đứa con mà đi chôn. Sau 100 ngày, ông lao vào đủ
các cuộc cúng tế, nguyện cầu và sử dụng phù chú, ông gặp lại đứa con bị chém của mình.Cậu
bé sống lại, lành hẳn các vết thƣơng và còn khỏe mạnh hơn cả trƣớc kia. Cậu bé tìm cho mình
những kiếm, gƣơm, cờ và gậy phép và từ đó cậu có đƣợc các quyền lực phi thƣờng. Danh
tiếng của cậu liền đƣợc truyền rao xa xa, nên từ đó cậu đƣợc tôn vinh là tổ sƣ vua la vị tổ bảo
hộ cho tất cả các pháp sƣ.
Việc thờ cúng các vị thần này thật giản đơn và các nghi thức pháp thuật hiện tôi đang có
trong tay không khác mấy, vào chi tiết, với các lễ lộc phụng cúng dành cho các vị thần này.
Ngƣời thấy bùa phải ” cầu nguyện cả ngày lẫn đêm và dâng cùng lễ vật vào những ngày
mùng 1 và ngày 15( ngày rằm) của mỗi tháng” . Muốn cúng bái, mỗi pháp sƣ đều có sẵn
trong nhà một bàn thờ, thƣờng thƣờng ít trang hoàng diêm dúa, đặt trong cái am nhỏ, cất
riêng biệt. Trên bàn thờ có các hình vẽ và các tƣợng bằng giấy ít khi làm bằng gỗ, của Phật,
Ngọc Hoàng, Lão Quân, của Tam Danh và Độc Cƣớc. Các tƣợng này xếp hàng theo cấp bậc
trên các bệ có độ cao thấp khác nhau, theo thứ tự, nhƣ tôi vừa kể. Rồi tới các linh thần thứ
cấp, nhƣ các Hộ Pháp, nhƣ các vị Thiên Sứ giữ gìn bảo về pháp luật. Các vị này đƣợc giao
trọng trách truyền mệnh lệnh của chƣ thần. Trƣớc bàn thờ, có các lƣ hƣơng, các đỉnh trầm
hƣơng và tất cả các phụ tùng thƣờng dùng trong việc thờ cúng. Chính tại đây, ông thầy bùa
mỗi ngày đến cầu nguyện và làm bùa chú. Trên một chiếc bàn thấp hơn, vào những ngày hiến
tế, ông đặt các phẩm vật cúng : cơm, rƣợu, cau và trầu, gà, hoa trái, bó vàng giấy và bạc
giấy.,v.v… Các ngày cúng diễn ra vào các ngày đầu tháng ( tuần trăng mới =30, mồng một
hàng tháng) và ngày trăng tròn ( 15 mỗi tháng âm lịch). Đây chính là những ngày nguy của
ngƣời Việt xƣa và nay vì là ngày hàng tháng bà Nguyệt (trăng) kết duyên với mặt trời. Ngày
mồng một đầu tháng chính là ngày mặt trăng nhú ra khỏi các tia nắng tàn tạ của mặt trời lặn,
và mặt nguyệt mới nhận đƣợc nguyên lý sáng đầu tiên để lớn dần lên tới ngày 15 rồi giảm bớt
đi vào cuối tháng và đuoc sáng trở lại vào tháng kế tiếp.Nhƣ vậy, mặt trăng trở thành biểu
tƣợng của nguyên lý âm và từ đấy, cùng chia sẻ với nữ giới ảnh hƣởng mầu nhiệm của
nguyên lý âm, mà ngƣời ta gán hẳn cho vầng nguyệt. Mặt khác, mặt trăng nhƣ vậy đƣơng
nhiên đƣợc mời gọi đóng vai trò trọng yếu trong pháp thuật mà các lễ tục thƣờng thƣờng
đƣợc thực hiện về đêm, vào lúc trăng vừa xuất hiện. Chính vì các lý do này mà những ngày 1
và 15 trong tháng âm lịch đều đặc biệt đƣợc chỉ định để tổ chức các cuộc cúng kiến dành cho
các Thánh tổ của phù chú.

Có 1 thuyết khác về Độc Cƣớc nhƣ sau.


Chuyện kể rằng thời xƣa có một bọn quỷ mũi đỏ đến vùng biển Sầm Sơn làm hại dân lành.
Có một chú bé mồ côi cha vừa chui ra khỏi bụng mẹ đã lớn nhanh nhƣ thổi và trở thành
ngƣời khổng lồ. Chàng khổng lồ đánh thắng bọn quỷ ngoài biển, quỷ tràn vào đất liền cƣớp
phá, nếu chàng ở trong đất liền thì quỷ lại phá ở ngoài khơi. Chàng nghĩ cách lấy búa tự xẻ
đôi thân mình, một nửa thân và một chân đứng ngự trên đỉnh Sầm Sơn, một nửa thân và một
chân theo bè mảng ra khơi hộ vệ dân chài. Từ đó, bọn quỷ vào bờ hay ra biển đều thấy chàng
khổng lồ, chúng bỏ đi nơi khác kiếm ăn, không dám bén mảng đến vùng biển này nữa. Từ đó
xuất phát tên gọi thầnĐộc Cƣớc, nghĩa là „Một chân‟.
( Theo Thế giới vô hình )
Độc Cƣớc là một vị thần Việt Nam, nơi thờ chính đặt tại đền Độc Cƣớc ở Sầm Sơn, Thanh
Hóa. Theo đạo sắc phong năm Cảnh Hƣng thứ 14 (1783), thì thần Độc Cƣớc tên là Chu Văn
Khoan, có tài đức, giúp các đời vua dẹp yên giặc giã, giữ gìn bờ cõi, thần có hiệu là Đại pháp
sƣ, có 7 phép màu để trị ma quỷ gian ác… và đƣợc vua phong bốn chữ: Độc Cƣớc sơn triều.
Chuyện kể rằng thời xƣa có một bọn quỷ mũi đỏ đến vùng biển Sầm Sơn làm hại dân lành.
Có một chú bé mồ côi cha vừa chui ra khỏi bụng mẹ đã lớn nhanh nhƣ thổi và trở thành
ngƣời khổng lồ. Chàng khổng lồ đánh thắng bọn quỷ ngoài biển, quỷ tràn vào đất liền cƣớp
phá, nếu chàng ở trong đất liền thì quỷ lại phá ở ngoài khơi. Chàng nghĩ cách lấy búa tự xẻ
đôi thân mình, một nửa thân và một chân đứng ngự trên đỉnh Sầm Sơn, một nửa thân và một
chân theo bè mảng ra khơi hộ vệ dân chài. Từ đó, bọn quỷ vào bờ hay ra biển đều thấy chàng
khổng lồ, chúng bỏ đi nơi khác kiếm ăn, không dám bén mảng đến vùng biển này nữa. Từ đó
xuất phát tên gọi thần Độc Cƣớc, nghĩa là 'Một chân'.

Tƣởng nhớ công ơn của Độc Cƣớc, ngƣời dân Sầm Sơn đã lập miếu thờ thần ngay bên tảng
đá có vết lõm dấu chân khổng lồ tƣơng truyền là bàn chân của chàng. Về sau miếu trở thành
đền Độc Cƣớc.
THAM KHẢO THÊM.
Nếu các tôn giáo có nhiều hệ phái thì đạo phù thủy ở Việt Nam ta cũng vậy.
Phù thủy ở miền Bắc VN đầu tiên từ Tàu truyền sang , cho nên chúng ta cũng cần biết qua
nguồn gốc phù thủy ở Tàu trƣớc . Theo lịch sử Trung Quốc thì khi Xuy Vƣu chống lại vua
Hoàng Đế thì y đã dùng bùa ngải , thƣ, chú để đánh quân của Hoàng Đế .Vua Hoàng Đế lại
thua nhiều trận sau nhờ đƣợc Bà Cửu Thiên Huyền Nữ dạy cho 8 ngày về các bùa phép để
phá Xuy Vƣu .
Huyền Nữ dạy Hoàng Đế từ ngày Nhâm Tý, Qúy Sửu trừ hai ngày Giáp Dần, Ất Mão thôi rồi
lại dạy tiếp từ ngày Bính Thìn đến hết ngày Tân Dậu tổng cộng là 8 ngày, nhờ thế Hoàng Đế
biết chế kim nam châm "chỉ nam" và bùa phép phản công lại Xuy Vƣu khiến cho bộ lạc này
tan rả phải rút lên núi cao mà ở . Sau này họ hóa tha h bộ lạc Mèo "Miêu tộc" và vùng núi họ
ở gọi là vùng Miêu cƣơng nơi chứa nhiều bí hiểm và độc địa . Sau đó Hoàng Đế truyền lại
cho Chúc Do Thập Tam Chƣởng mà đại đa số là bùa chú trị bịnh cho binh sĩ thời đó . Nhƣ
vậy là nghành Đông Y cũng có một khoa t i bịnh bằng bùa phép nhƣ : - Chữa bịnh Truyền thi
lao sái . - Các bịnh mụn nhọt . - Dùng khi châm cứu . Đó là những cách dùng bùa lẫn với
dùng thuốc .Thí dụ : Chữa bịnh Lao truyền thì dùng bùa dán để vây con trùng lao rồi dùng
ngải cứu mà đốt .Muốn làm tan nhọt thì thƣ phù trên mụn cho tan đi hoặc cho vỡ đi gọi là
đinh gíap thần phù ( Lọai này biên gỉa đã thí nghiệm thấy rất linh diệu và gia phụ đã trị cho
cả trăm ngƣời bị lên đinh lên bắp chuối và mụn xoài đều tan hoặc vỡ cả ) và lọai bùa khi
châm cứu là để mở các huyệt đạo trong ngƣời trƣớc khi châm cứu. Phù thì gọi là Thái Ất thần
phù và chú thì gọi là Càn Nguyên thần chú. Đến Khƣơng Tử Nha tức Thái công khi cầm quân
phạt Trụ thì lại đem áp dụng phù chú vào binh pháp trận đồ, vào các việc bệnh, tử trong quân
doanh mà sau này Trƣơng Tử Phòng và Gia Cát cũng nhƣ Lƣu Bá Ôn đều áp dụng theo. Loại
phù thuỷ trên đƣợc gọi là chính đạo và thƣờng do các đạo sĩ, những ngƣời tu Tiên sử dụng.
Đến đời Tống thì Trƣơng Thiên Sƣ ở Long Hổ Sơn cho đệ tử truyền bá nhiều thứ phù phép
trong dân gian do đó nghành phù thuỷ lan tràn khắp chốn. Riêng về nghành phù thủy đã nói ở
trên là thuộc về thần đạo và sử dụng đến “Thiên Tinh "các sao Thiên Thần , Thiên Tƣớng
Thiên Binh nhƣ Lục Giáp Thần Binh v.v... Còn một nghành phù thủy chuyên môn thờ Qủi,
chuyên môn dùng chúa Qủi để sai khiến ma qủi và trị qủi thì gọi là Độc Cƣớc Môn-Môn phái
thờ Thần Độc Cƣớc .Nghành phù thủy này nửa tà nửa chính, nhƣng các giới đạo sĩ thì gọi
thẳng họ là tà đạo. Khi vào nhà một ông phù thuỷ nhìn lên bàn thấy có thờ một ông tƣợng chỉ
có nửa ngƣời đứng với một chân, một tay, một mắt,một tai, một lỗ mũi - nghĩa là đúng y nhƣ
là một ngƣời bị chẻ dọc làm hai - thì đó là thần tƣợng Độc Cƣớc, chúa của Qủi.
Ngƣời ta không rõ ông Độc Cƣớc này ra đời từ bao giờ , chỉ thấy truyền thuyết nói rằng:
“Đời Thƣợng Cổ ở bên Tàu có một vị nho sinh, một hôm vào trong núi tìm Hoa Lan và
thƣởng cảnh . Khi trở về thì gặp một ngƣời con gái đang định nhẩy xuống vực sâu tự tử .
Chàng nho sinh bèn giữ lại kịp và hỏi lý do thì cô gái cho biết là nàng bị cha mẹ ép gả cho
một tên cƣờng hào giàu có lớn hơn nàng tới 40 tuổi cho nên nàng phẩn chí muốn chết .Nàng
định đến nhà cậu ở nhờ nhƣng đi đến đây hết tiền, nên lên mõm nuí này để tự vận . Chàng
nho sinh thấy nàng nói năng mềm mỏng và mặt lại rất đẹp, đời chàng chƣa hề gặp. Lúc đó
chàng đến đây du học, tiền bạc có sẳn lại ở có một mình trong một căn nhà mà chàng thuê
ngƣời dựng lên ở nơi vắng vẻ nay nếu nàng chịu lấy thì ta đƣa nàng về ở chung để nàng lo
việc cơm áo cho ta. Nghĩ thế chàng liền ƣớm hỏi cô gaí thì cô gái gật đầu. Chàng nho sinh
đƣa cô gái về nhà ở và sai nàng đi chợ mua sắm thức ăn, chàng ở nhà đọc sách . Một năm sau
nàng sinh hạ đƣợc con trai đầu lòng rất ngộ nghĩnh . Vợ chồng ăn ở với nhau rất hạnh phúc
cho tới năm đứa trẻ lên 4 tuổi thì một hôm gần Tết chàng ra thị trấn mua bút giấy bổng gặp vị
đạo sĩ , vị đạo sĩ nhìn chàng rồi hoảng hốt than nhỏ : -Ôi! ngƣời sắp chết đến nơi rồi không
biết .Tiếc thay ! Chàng lấy làm lạ , bèn vòng tay làm lể và xin vị đạo sĩ chỉ dạy cho. Vị đạo sĩ
nói, chàng đã lấy phải một con yêu tinh nó đã thu hút tinh khí của mấy trăm ngƣời rồi, nay nó
sắp thành một loài qủi Tiên không ai trừ nổi , vậy chàng phải tránh xa nó không thì chết.
Chàng nho sĩ cả sợ vội van xin vị đạo sĩ hảy cứu chàng và vì đời trừ hại gíup. Vị đạo sĩ nói : -
Nó thụ hấp tinh khí của nhiều ngƣời rồi nên ta không đủ sức giết nó . Vậy ta cho ngƣơi một
đạo phù này đem về dán ở cửa chính còn một đạo thì đeo vào ngƣời . Hể khi nào nó đi chợ thì
ngƣơi ở nhà hả dán bùa và đeo bùa .rồi ở trong nhà , khi nó về nó sẽ không vào nhà đƣợc , dù
cử mở .Nó sẽ gọi ngƣơi mở cửa cho nó vào thì ngƣơi biết nó yêu tinh đuổi nó đi . Chàng nho
sinh nhận hai đạo phù đem về giấu kín trong quyển sách không cho vợ hay biết . Hôm sau
chàng sai vợ đi chợ sắm tết .Khi ngƣời vợ đi khỏi chàng đem hai đạo bùa ra đeo và dán ở cửa
. Đến qúa trƣa ngƣời vợ về đến sân bỏ thúng xuống và đứng ở sân gọi chồng mở cửa cho
nàng vào. Chàng nho sinh bèn đuổi nàng đi và cho biết nàng là yêu tinh .ngƣời vợ thấy chồng
đuổi bèn giơ tay vẫy , thì thằng bé đang chơi ở một góc nhà , thấy mẹ vẫy bèn chạy ra sân .
Chàng nho sinh không kịp giữ lại .Đứa trẻ ra đến sân thì con yêu cầm hai cổ chân đứa trẻ xé
ngƣợc lên và le lƣỡi ra nhƣ ngƣời ta dùng kiếm mà rọc ,đứa bé liền bị xé nhƣ chẻ làm hai .
Con yêu vất hai nửa đứa trẻ xuống sân thì một nửa đứng lên còn một nửa té nằm trên đất
.Con yêu gọi lớn : -Ngƣời không lấy ta nữa thì con đó , chia đôi mỗi ngƣời một nửa . Rồi nó
chạy đi và cái nửa xác sống nhảy theo sau mà đi vào núi. Cái nửa ngƣời đó là Thần Độc Cƣớc
là chúa Qủi". Muốn thờ thần này thời xƣa thầy phù thủy cứ ba năm phải tế sống bằng cách
giết ngƣời tại bàn thờ để lấy tim và máu tế thần Độc Cƣớc. Nếu trong năm đó mà không mua
đƣợc ngƣời về thì thầy phù thủy phải dùng đệ tử hay con cái, gia nhân mà tế thay. Sách đời
Đƣờng có ghi truyền, Thôi Vĩ vốn là con trai nhà thơ Thôi Hƣớng đời Đƣờng. Thôi Vĩ qua
Giao Châu thăm cha làm Thái Thú, lúc về qua Phiên Ngƣng vì giỏi khoa châm cứu nên đƣợc
một ông thầy phù thủy ở miền núi gần Dƣơng Thành mời đến châm cứu chữa gíup bệnh bƣớu
. Thôi Vĩ đến nơi chữa khỏi bệnh cho thầy phù thuỷ, và đƣợc mời ở chơi, thầy phù thủy này
vốn cho ngƣời nhà đem cả vạn lạng bạc đi để mua ngƣời mà không mua đƣợc, nên lão ta
quyết định lừa bắt Thôi Vĩ giết đi để tế thần Độc Cƣớc. May là Thôi Vĩ đẹp trai, lại giỏi đàn
nên đứa con gái thầy phù thủy nó mê và nó ngầm báo cho Thôi Vĩ trốn đi Ở Việt Nam ở mỗi
tỉnh có ít ra 5, 7 ông thầy phù thuỷ thờ thần Độc Cƣớc . Có thờ thần Độc Cƣớc thì mới dễ thu
âm binh , mới dễ tróc tà nhƣng sau này không thiêng nữa vì thần Độc Cƣớc không đƣợc cúng
bằng ngƣời sống . Ngoài việc thờ thần Độc Cƣớc , nhiều thầy phù thủy lập điện thờ Hƣng
Đạo Vƣơng Trần Quốc Tuấn , tục gọi là Đức Thánh Trần, và thờ các tƣợng khác, nhƣ Phạm
Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tƣợng. Trên bàn thờ Đức Thánh Trần thì dƣới gầm bàn phải thờ Ngũ
Hổ Tƣớng , để sai đi tróc tà. Đạo thờ Đức Tha h Trần gọi là Đạo Nội . Trên toàn quốc có đến
mấy ngàn ông thầy phù thủy thờ Đạo Nội . Họ là đệ tử của Đức Thánh Trần Hƣng Đạo, nên
hàng năm họ phải đi lễ ở đền Kiếp Bạc, trên sông Vạn Kiếp để tạ lễ gọi là" đi trẩy hội cha "
(Tháng 8 hội cha, thánh 3 hội mẹ). Đạo Nội Đức Thánh Trần cũng ra tay ấn quyết phù chú
khu tà tróc qủi bằng bùa phép nhƣng đại đa số là để trị : - Những ngƣời đàn bà bị ma làm( qủi
ám). - Những ngƣời hữu sinh vô dƣỡng - Những tiền oan nghiệt chƣớng ( tiền phu, tiền thê
v.v...). Cứ theo các sách ghi trong các điện của thầy phù thủy thì vào thời kỳ Đức Trần Hƣng
Đạo đánh quân Mông Cổ có tên Tàu lai là Nguyễn Bá Linh đi theo quân Mông Cổ dọ thám
quân ta và tác oai tác quái khắp các miền từ Bắc Ninh xuống đến Hải Dƣơng, Kiến An .
Nguyễn Bá Linh có phép phù thủy biến hóa đƣợc cho nên bắt đƣợc mấy lần nó lại trốn thoát.
Các vị đạo sĩ Việt Nam phải luyện bùa vào chỉ ngũ sắc để khi bắt đƣợc thì dùng chỉ mà buộc
cổ nó. Sau khi bắt đƣợc thì quân ta đem ra chém nhƣng cứ chém đứt đầu rơi xuống, trông lại
nó vẫncòn nguyên đầu. Sách ghi là chém đầu nó mọc đầu kia nên không làm sao chém đƣợc
nó . Sự việc tâu lên nhà vua và Hƣng Đạo Vƣơng .Đức TRần Hƣng Đạo bèn ra lệnh bôi cứt
gà sáp vào gƣơm mà chém Nguyễn Bá Linh "còn tên nữa là Phạm Nhan"đƣợc giải về
Chƣơng Dƣơng chém . Khi bị chém nó kêu lên là nó sẽ là qủy ở đất nƣớc An Nam và cho nó
ăn gì?( có nghĩa cúng nó bằng gì? ), vị quan Giám Hình và đao phủ rủa lại nó là :" cho mầy
ăn máu bà đẻ!". Khi xác bị vằm ra ném xuống nƣớc và bụi cây thì :"dài làm rắn, ngắn làm
đỉa, lia tia làm muỗi " nghía là hóa thành các động vật hút máu hại ngƣời . Sau khi chết,
Phạm Nhan chuyên đi hút máu và âm nhập các sản phụ . Vì thế mà ngƣời ta phải nhờ oai Đức
thánh Trần để trừ khử nó . Do tích đó mà đạo phù thủy Việt Nam gọi là Đạo nội ra đời. Đạo
này dùng kiếm ấn của Đức Thánh Trần làm phù hiệu chuyên trừ Phạm Nhan và các loại tà
ma, cũng có bùa chú đầy đủ . Khi bắt tà ma thì dùng Ngũ Hổ và các Hổ Tƣớng của Đức
Thánh Trần phụ lên giúp . Các việc về tiền oan nhƣ tiền Thê" giết vợ cả lấy vợ kế và hồn vợ
cả hiện về báo thù bóp chết hết mọi đứa con và làm cho ngƣời vợ kế bệnh nặng" quan trọng
lắm mà các vị quan tƣớng nhƣ Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão không xử nổi thì mới phụ đồng
thỉnh Đức Thánh Trần về . Ông Nguyễn Đăng Thục có viết một cuốn sách khảo cứu về Đạo
Nội nay"X.B ở VN hồi Đệ Nhất Cộng Hòa"các thầy phù thủy ở VN thƣờng dùng vỏ và thân
cây núc nác "tức là cây Hoàng Bá một vị thuốc Bắc, cây gỗ Đào, gỗ Dƣơng Liễu để làm ấn .
Các đạo sĩ dùng phép phù thủy vào các việc hành binh nhƣ lập trận đồ, sử dụng Thiên binh
thì thì phải dùng"Cây Gỗ Táo Bị Sét Đánh" gọi là"lôi kinh mộc táo" hoặc "cây gỗ trầm
hƣơng" mà làm ấn thì ấn mới linh. Muốn luyện bùa tàng hình thì phải thu bùa trên thanh quế
để xuất nhập doanh trận của địch. Vị Tiên Hàn Tƣơng Tử có truyền lại cho phép luyện bùa "
Bạch Hạc Tử Chi Phu" rất linh diệu để tàng hình nhờ Hạc Thần giúp sức "Qúi vị coi lịch
ngày Mồng 1 Tết thƣờng ghi Hạc Thần để luyện bùa". Bùa để trừ tà và nhất là để trừ Phạm
Nhan nguyễn Bá linh rất cần có máu ngƣời bị chết chém cho nên thời xƣa khi có ngƣời bị xử
trảm thì các thầy phù thủy kéo đến pháp trƣờng có cả trăm ngƣời để lấy máu kẻ bị chém. Họ
phải đút lót lính canh cho họ ngồi gần chổ tử tù bị chém để khi vòi máu của tử tù phun ra thì
họ dùng giấy bản mà hứng lấy ngay thấm trên đất mà lấy. Thời xƣa ngƣời Việt Nam mê tín
nên mỗi khi trong nhà có ngƣời bệnh thì đều ngỡ là bị ma làm qủi ám.Nhất là khi có ngƣời
nhà chết thì thƣờng sợ là bị" chết trùng" hay là nhà ở không yên ổn nên con ốm,v ợ đau, gà
mái gáy gở , em hóa điên , chị hóa dại thì ngỡ là bị tà ma quấy phá , hay là trong nhà ngỡ có
thạch tinh cốt khí thì phải nhờ đến thầy phù thủy . Thầy phù thủy chân truyền chính đạo là
cứu nhân độ thế thì vẫn có nhƣng rất hiếm, còn đa số đều là mê tín dị đoan tin theo tà thuyết
tà đạo để kiếm tiền trục lợi .Cho nên khắp từ miền Bắc VN vào đến Nghệ Tĩnh không mấy
làng không có thầy phù thủy. Nhƣng thầy cao tay chân chính thì cả huyện may ra mới đƣợc
một ông. Các ông thầy đó đại đa số tuyệt tự , truyền thuyết nói là bị ma qủi nó báo thù vì khu
trục nó ra. Đến nhƣ ở miền Nam thì lại thêm một số ông thầy làm Bùa kiêm nuôi Ngải nhƣ
làm ngải yêu, ngải cầu tài, ngải hành hạ thân chủ ( Nhƣ thân chủ không đóng tiền cúng hàng
tháng thì làm họ đau bụng , nhức đầu v.v... ).

(Sƣu tầm trên Internet)


Bản văn sai luyện thần độc cƣớc
Đệ tử tôi nay nhang phần một truyện .
Thủa ban rồi tu luyện Thần binh .
Chiêm Thiên nhung Quốc có danh .
Kể từ hồng tạo mấy sinh kia là.
Càn Khôn nhị Khí sinh ra .
Không không , sắc sắc hóa ra dị hình .
Có Thiên tinh diệu bằng non nƣớc núi .
Dáng cao cao nghìn trƣợng cao mây .
Phép anh Linh nào có ai tày .
Động chân nở đất , ra tay động rừng .
Mặt đen tựa lửa hòn than
Răng trắng san sát , môi hồng tựa son .
Nguyên giáng sinh Sơn Tiêu núi ấy .
Có uy hùng ai thấy dám đang .
Hiệu là Lốc Tƣớng Thần Vƣơng .
Bản thân bối Phúc có danh đại Thần .
Khi cơ hàn tần lao chi khổ .
Đến tuần này biến thảo thành nhân .
Hiện lên Mao khổng hóa thân .
Đằng vân Thế giới xa gần mọi nơi .
Cứu nhhân gian lại thôi súc vật .
Đả Tà ma , trảm diệt Tà tinh .
Tả thủ cầm cờ Lôi phơi phới .
Hữu thủ cầm búa sắt hăm hăm .
Lại hay phƣơng tiện cứu dân .
Chữa ngƣời tật khổ , bệnh nhân mê đồ .
Phá oan gia , đoạn trừ túc trái .
Giết Tà Thần , đẳng chúng Tà tinh .
Trảm Phạm Nhan , Bá Linh phục Quốc .
Tróc mẹ danh Càn sát bà Vƣơng .
Bao nhiêu Tà quỷ chúng bay .
Thu lại nhập Ngục , đả cho tan tành .
Hỡi Già Lô Lốc Tƣớng kia ơi .
Chính thang nhất vị anh Linh .
Giờ Thày luyện tập về chƣng bản Đàn .
Có uy cƣờng đêm ngày ứng hiện .
Nghe Chú Ấn , Quyết gọi là tốc thôi .
Dù chơi non núi xa xôi thời về .
Chớ hoãn trì ngang đƣờng ngang xá .
Chớ cƣỡng Phù , cƣỡng Chú làm chi .
Thày nay Ấn , Quyết thì về .
Để Thày sai khiển việc gì cho hay ,
Nhƣ cờ này hóa ra cờ lệnh .
Chuyển cờ này quân tƣớng sửa sang .
Uy hùng chính đức nghiêm trang .
Binh quyền kíp phá Quỷ Vƣơng tung hoành .
Khi sai hành bất phân thời khắc .
Chớ lỗi lầm , thét mắng chẳng tha .
Chẳng nên thét mắng đôi lời .
Việc trong cấm giới , việc ngoài cấm ngăn .
Nào khi cứu Thế độ dân .
Dẹp đƣờng mở lối Sƣ nhân đi về .
Ba hồi Mõ đả thì nghe .
Chơi đâu kíp chóng thì về .
Một là sai khiển việc gì cho hay .
Trƣớc hộ Thày tuế bằng non Nhạc .
Đạo Quân sƣ chẳng khác Thái sơn .
Tháng ngày bổng lộc thƣờng tuôn .
Đông Tây đem lại Bắc Nam thu về .
Của Thiên Khê bạc tiền vô số .
Lợn cùng gà , vải vóc chứa chan .
Chữ rằng dĩ Đức báo Ân .
Thày toan trợ Tƣớng , Tƣớng nay giúp Thày .
Gia trung này đêm ngày tuần thú .
Cắt ba quân canh cổ truyền lao .
Có ai xâm phạm ra vào .
Đả đòn buộc trói , đem giam gia hình .
Trong phép Quan đả là lệnh ƣớc .
Cứ ba hồi mõ đả thì nghe .
Lƣng đeo đai bạc hoa cù .
Tay cầm chìa khóa kỳ khu chữa ngƣời .
Hoặc ai phải Khí nặng giời .
Đến không cũng khỏi ngồi chơi cũng hèo .
Phép xƣa nay vốn vì có khác .
Mõ là sai bắt nhiều điều .
Một đƣờng đƣờng nghiệm trăm chiều chiều hay .
Xƣa kia xốc vác Thái sơn .
Nay sao phép đã lên ngàn
Ngao du đón Nguyệt chơi miền Thanh cung .
Nay tôi có việc thì dùng .
Mời ông tốc giáng bản Đàn cho mau .
Là tật tốc giáng .
Nhang hoa thỉnh .
Sắc hỡi hỡi Sơn Tiêu Độc Cƣớc. Hồng tao xƣa sinh, vị thân mẫu không không sắc sắc. Nhất
nhỡn sơn đầu thủ túc chi dị hình.
Sơn Tiêu Độc Cƣớc A Lôc đại vƣơng, hiệu Chu Văn Minh thần tƣớng. Tả tƣớng độc cƣớc,
hữu tƣớng độc tôn, Độc Cƣớc thiền sƣ thế tôn Độc Cƣớc đại tƣớng. Các đẳng tƣớng âm binh
vạn vạn hằng hà sa số tật tốc giáng hạ bản đàn. nhang hoa thỉnh .

BÀI THƠ CỦA ĐẶNG HUY TRỨ TẠI ĐỀN ĐỘC CƢỚC THANH HÓA
Yết Độc Cƣớc Tiểu Tiêu Thần Linh Từ.
Hà niên ngọc chỉ đáo Đông minh
Hƣơng hỏa thiên thu hộ bất quynh
Khí hữu tƣ chung duy chính trực
Tức chung sở lý tức anh linh
Nguy nga cổ miếu sơn đồng trí
Huy hách thần công thạch khả minh
Tọa trấn hải cƣơng xung yếu địa
Kiêm thiên kình ngạc tảo tiềm hình.
Dịch thơ:
Viếng Thăm Đền Thần Độc Cƣớc
Gót ngọc năm nao đến biển Đông
Nghìn năm hƣơng khói cửa toang không *
Trui rèn cƣơng trực nên anh khí
Đặt bƣớc hoang liêu hỏa điện thông
Miếu cổ nguy nga non sách thế
Công ơn hiển hách đá ghi công
Biển bờ xung yếu oai nghiêm trấn
Kình ngạc dông càn lặng đáy sông.
Hoàng Công Khanh dịch.

THAM KHẢO THÊM .


Tam Danh Độc Cƣớc.
Giống nhƣ tất cả các hiệp hội ở Việt Nam xƣa (An Nam).Hiệp hội các nhà thầy bùa cũng có
những vị thần chủ riêng gọi là Tổ sƣ, coi nhƣ nhà sáng lập ra nghệ thuật hay khoa học ứng
dụng. Thần chủ Tổ sƣ của ma thuật là những vị Tam Danh và Độc Cƣớc. Đối với quý vị này,
các ông thầy bùa, thầy pháp đều dành riêng một lối tôn thờ đặc biệt thƣờng xuyên.
" Muốn tham gia vào nghề phù thủy, đoạn vào đầu của một bản thảo viết về pháp thuật mà tôi
có đã viết :Cần nhất, trƣớc hết phải sùng bái vị thánh Tam Bành hay Tam Danh, gốc ngƣời
huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, hoặc nói khác đi là Độc Cƣớc, góc ngƣời ở phủ Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh, cả hai đều đƣợc thừa nhận nhƣ hai vị thánh bảo vệ cho học thuyết về pháp thuật."
- Sau đây là truyền thuyết lƣu hành rộng nhất liên quan đến vị thần đầu tiên là ông tƣớng Tam
Danh ; một ngƣời đàn bà ở làng Bảo Ngũ ( Vụ Bản, Nam định) đã một lần sinh ra thay vì đứa
con nhƣ ngƣời bình thƣờng, lại sinh ra 3 loại bao nhƣ hình cái túi, trong bao thứ nhất có một
cái sừng, trong bao thứ hai có một cái đầu ( sỏ) và trong bao thứ ba có một bó sắt. Hai vợ
chồng cả sợ đều đem chôn tất cả các vật dễ sợ này ở đầu làng, nhƣng kể từ đó trở đi, các ma
quái đủ loại liền hiện ra mà không ai trừ khử nổi. Vậy mà, vào lúc đó (dƣới triều vua Hồng
Đức (Lê Thánh Tôn) triều Lê, cả xứ đâu đâu cũng có giặc cƣớp nổi lên, vua Lê liền ban chiếu
cho tất cả yêu quái trong xứ Bảo Ngũ là vua sẽ phong chức Đại Tƣớng Âm binh cho vị nào
có thể dẹp hết các loại giặc cƣớp gây rối trong nƣớc.Tuy không bị tấn công lần nào, những
bất ngờ các băng cƣớp đều bị quét sạch. Nhƣ vậy nên vua Lê liền tấn phong cho ba vị yêu
tinh thắng trận có tên là Tam Danh Đại Tƣớng, tức là vị tƣớng lãnh âm binh có 3 tên :
SỪNG, SỎ, SẮT. Một ngôi đền đƣợc dựng lên để thờ cúng ba vị này và từ đó các pháp sƣ
triệu thỉnh tam vị coi nhƣ là sự tổ của họ.
Chúng ta nên ghi nhận thêm điều này, tuy thoáng qua, nhƣng rất đáng quan tâm là dù truyền
thuyết và huyền thoại xác định từ nguyên thủy thành ngữ Tam Danh chii định ba nhân cách
riêng biệt, nhƣng các tên gọi từ đó về sau không còn đƣợc áp dụng, mấy khi mà chỉ định để
nói riêng một vị thần duy nhất. Có lẽ ngƣời ta còn muốn ghi nhớ lại thuở ban sơ cái kỉ niệm
về một Bộ Tam Thể Xƣa, vì ngƣời ta còn đặt ra ba tên một lƣợt, rất phân biệt là :
*BÀNH KIỀU
*BÀNH CHẤT
*BÀNH CỨ
-Tục nói thành ngôn ngữ bình dân là SỪNG , SỎ , SẮT

TÌM HIỂU VỀ THẦN TAM DANH VÀ ĐỘC CƢỚC.


Tuy vậy, trong phần lớn các lời thỉnh triệu, ngƣời ta vẫn gọi cả ba bằng một tên Tam Danh và
coi nhƣ chỉ có một vị thần mà thôi. Tại đây có một thí dụ lạ lùng về ma thuật là các chữ tên.
Giống nhƣ việc đặt tên cho một hiện tƣợng, là đủ cho nó có một hiện hữu tại thân, còn đặt tên
cho 3 vật khác nhau bằng một tên riêng thí dụ gom cả ba vật về làm một, thực ra tên ấy vẫn là
ba. Hiện tƣợng này trong tâm lý học tôn giáo là tự nó cụ thể hoá bằng cảnh nào đó, trong
cách ngƣời ta biểu hiện thần Tam Danh.Ngƣời ta làm ra một bức tƣợng nhỏ, chỉ có một thân
thể mà lại có 3 đầu, ngƣời ta thƣờng gặp các tƣợng này trên các bàn thờ riêng biệt của các vị
pháp sƣ. Ta có thể đặt câu hỏi nguồn gốc của truyền thuyết mà tôi vừa kể do đâu mà có, đây
là kết quả các cuộc tìm tòi tra cứu của tôi. Tôi không dám cho đây là điều khẳng định đúng :
từ Tam Bành, trong tiếng Hán Việt có nghĩa là : các bản năng xấu. Theo triết lý đạo giáo, tất
cả nhân sinh đều chứa trong ngƣời ba loại linh hồn là Tam Bành, nó không ngừng xui khiến
con ngƣời cứ làm điều xấu xa tàn ác trong mục đích duy nhất là sau đó nó kết tội con ngƣời ở
tận thiên đình, dƣới điện Ngọc Hoàng, về các tội lỗi mà con ngƣời mắc phải. Có thể là học
thuyết đạo giáo của ngƣời Trung Hoa, khi mang nhập vào Việt Nam đã bị biến thể giống nhƣ
các học thuyết của Phật giáo và chính Tam Bành đã biến thành bộ Tam Thế hiện nay. Điều
này càng dễ hiểu cũng nhƣ các tên đặt của ngƣời Việt Nam cho ba dạng linh hồn :SỪNG,
SỎ, SẮT, có lẽ giống nhƣ tố cáo sự giống nhau về tinh thần, đạo đức, với Tam Bành của
ngƣời Trung Hoa.Sừng là sừng, còn Sỏ là đầu, những cả hai có một ý nghĩa kép, tạo thành
một thành ngữ kép : Sừng Sỏ có nghĩa là : cứng đầu, ƣơng ngạnh, giỏi chịu đựng.
Mặt khác sát ( trong truyền thuyết,ngƣời ta kể tên sắt thay vì sát theo ý niệm của Đạo Lão.
Nhƣng không có gì chứng mình rõ ràng là sự cái biển này chị xảy ra và đƣợc chấp nhận về
nhƣ cầu của vấn để tìm cho ra một nguyên nhân chính đáng để thay đổi. Và vì thế ngƣời ta đã
tạo ra một từ có vẽ gần giống với truyền thuyết, theo đó các bao đƣợc sinh ra có chứa mỗi
bao một vật) có nghĩa là giết, là cho chết bằng gƣơm, đao, bằng sắt ( giết là điều xấu xa
không tốt). Nhƣ vậy, ta thấy cả ba đều gần gũi nhau qua định nghĩa chung của từ Bành :bản
năng xấu.Điều này cho chúng ta có quyền giả định từ Tam Bành hay Tam Danh của ngƣời
Việt xƣa( An Nam) chẳng gì khác hơn là khái niệm nguyên thủy của Đạo giáo Trung Quốc
đã bị biến cải một cách sâu đậm.
Vị chủ sƣ thứ hai của pháp thuật, theo bản thảo tìm đƣợc của tôi là thần Độc Cƣớc ( một
chân). Ông nầy nguyên ngƣời làng Toàn Đông, huyện Bảo An, phủ Từ Sơn, tinh Bắc Ninh.
Cha ngài là Nguyên Lê vốn là một pháp sƣ lừng danh, không có còn trai nói dõi, ông cầu
nguyện đức Phật và nhiều quyền lực tôn giáo khác để can thiệp với Ngọc Hoàng. Vị thần tối
cao liền cho xuống trần một vị thần vào đầu thai trong nhà và làm con của Nguyên Lê.
Ngƣời ta đặt tên Ngài là Nguyên Độc, tới 10 tuổi, cậu bé Độc đã biết thành thạo về nghệ
thuật phù phép và có thể thực hiện đƣợc những gì cậu đã vì bốc đồng tình cờ mà làm ra. Một
ngày kia, cậu đánh trống và làm những động tác triệu thỉnh chung chung, khiến động thấu
đến thiên đình và vang động khắp bốn phƣơng nhân gian.Ngọc Hoàng không chịu nổi những
chấn động quái gở nhƣ vậy, nên Ngài liền phái xuống trần một vị "Chu Tử" (mặc quần áo đỏ)
thuộc dạng một sĩ quan tùy viên để đi lấy tin tức về sự náo động kia. Viên sĩ quan này, noi
theo các tiếng động, xuống tới nhà của Nguyên Lê và thay vì gặp ở đó nhƣ điều ông dự kiến
là một đám đông ồn ào, hỗn độn dữ dội, ông lại chỉ thấy có một mình cậu bé Nguyên Độc ở
đó, cậu lại đang bình thản ngủ vùi. Lợi dụng dịp may hiếm có, vị thần áo đỏ rút gƣơm ra,
chém một nhát, chặt đôi thân thể cậu bé, ông mang một phần thân thể về trình Ngọc Hoàng.
Sau đó ông Nguyên Lê vừa trở về nhà, nhìn thấy con bị chém đứt làm hai, vô cùng hoảng hốt,
ông ôm chầm phần còn lại của đứa con mà đi chôn. Sau 100 ngày, ông lao vào đủ các cuộc
cúng tế, nguyện cầu và sử dụng phù chú, ông gặp lại đứa con bị chém của mình.Cậu bé sống
lại, lành hẳn các vết thƣơng và còn khỏe mạnh hơn cả trƣớc kia. Cậu bé tìm cho mình những
kiếm, gƣơm, cờ và gậy phép và từ đó cậu có đƣợc các quyền lực phi thƣờng. Danh tiếng của
cậu liền đƣợc truyền rao xa xa, nên từ đó cậu đƣợc tôn vinh là tổ sƣ vua la vị tổ bảo hộ cho
tất cả các pháp sƣ.
Việc thờ cúng các vị thần này thật giản đơn và các nghi thức pháp thuật hiện tôi đang có
trong tay không khác mấy, vào chi tiết, với các lễ lộc phụng cúng dành cho các vị thần này.
Ngƣời thấy bùa phải " cầu nguyện cả ngày lẫn đêm và dâng cùng lễ vật vào những ngày
mùng 1 và ngày 15( ngày rằm) của mỗi tháng" . Muốn cúng bái, mỗi pháp sƣ đều có sẵn
trong nhà một bàn thờ, thƣờng thƣờng ít trang hoàng diêm dúa, đặt trong cái am nhỏ, cất
riêng biệt. Trên bàn thờ có các hình vẽ và các tƣợng bằng giấy ít khi làm bằng gỗ, của Phật,
Ngọc Hoàng, Lão Quân, của Tam Danh và Độc Cƣớc. Các tƣợng này xếp hàng theo cấp bậc
trên các bệ có độ cao thấp khác nhau, theo thứ tự, nhƣ tôi vừa kể. Rồi tới các linh thần thứ
cấp, nhƣ các Hộ Pháp, nhƣ các vị Thiên Sứ giữ gìn bảo về pháp luật. Các vị này đƣợc giao
trọng trách truyền mệnh lệnh của chƣ thần. Trƣớc bàn thờ, có các lƣ hƣơng, các đỉnh trầm
hƣơng và tất cả các phụ tùng thƣờng dùng trong việc thờ cúng. Chính tại đây, ông thầy bùa
mỗi ngày đến cầu nguyện và làm bùa chú. Trên một chiếc bàn thấp hơn, vào những ngày hiến
tế, ông đặt các phẩm vật cúng : cơm, rƣợu, cau và trầu, gà, hoa trái, bó vàng giấy và bạc
giấy.,v.v... Các ngày cúng diễn ra vào các ngày đầu tháng ( tuần trăng mới =30, mồng một
hàng tháng) và ngày trăng tròn ( 15 mỗi tháng âm lịch). Đây chính là những ngày nguy của
ngƣời Việt xƣa và nay vì là ngày hàng tháng bà Nguyệt (trăng) kết duyên với mặt trời. Ngày
mồng một đầu tháng chính là ngày mặt trăng nhú ra khỏi các tia nắng tàn tạ của mặt trời lặn,
và mặt nguyệt mới nhận đƣợc nguyên lý sáng đầu tiên để lớn dần lên tới ngày 15 rồi giảm bớt
đi vào cuối tháng và đuoc sáng trở lại vào tháng kế tiếp.Nhƣ vậy, mặt trăng trở thành biểu
tƣợng của nguyên lý âm và từ đấy, cùng chia sẻ với nữ giới ảnh hƣởng mầu nhiệm của
nguyên lý âm, mà ngƣời ta gán hẳn cho vầng nguyệt. Mặt khác, mặt trăng nhƣ vậy đƣơng
nhiên đƣợc mời gọi đóng vai trò trọng yếu trong pháp thuật mà các lễ tục thƣờng thƣờng
đƣợc thực hiện về đêm, vào lúc trăng vừa xuất hiện. Chính vì các lý do này mà những ngày 1
và 15 trong tháng âm lịch đều đặc biệt đƣợc chỉ định để tổ chức các cuộc cúng kiến dành cho
các Thánh tổ của phù chú.

TÌM HIỂU VỀ CÁC VỊ THỦY TỔ CỦA BÙA CHÖ.


Một vị thần rất đƣợc trọng vọng trong ngành pháp thuật Việt Nam là thần Huyền Đàn (1).
Huyền Đàn chính là một tƣớng lãnh có nguồn gốc từ Trung Hoa. Ngƣời Việt vẫn thích cầu
Ngài nhƣ một ngƣời đồng hƣơng của họ.Họ cho Huyền Đàn sinh ra ở Bắc Việt dƣới triều vua
Đinh Tiên Hoàng, triều đại nhà Đinh (968 sau TC). Thần có tất cả những bí mặt của thiên
nhiên có huyền năng thắng thiên và độn thổ, cởi trên lƣng hắc hổ. Thần có một thanh gƣơm
thần, một sợi dây mầu nhiệm và một cây đũa bói toán nên tất cả mọi sự đối với Ngài việc gì
cũng làm đƣợc. Với tƣ cách là một tƣớng lãnh chỉ huy, Ngài tham gia vào nhiều cuộc chiến
và luôn luôn chiến thắng (2). Sau khi Ngài chết, Ngọc Hoàng Thƣợng Đế đặt dƣới quyền
Ngài tất cả 12 vị tƣớng lĩnh của thiên đỉnh. Các pháp sƣ sử dụng nhiều nhat vị thần nầy.
Huyền Đàn không phải là nhân vật lịch sử độc nhất đã đƣợc tôn vinh thành một đấng thần
linh trong nền phù chú Việt. Còn có một vị khác đƣợc nhiều ngƣời biết hơn là : Lão Tử hay
Lão Quân, nhƣ tiếng Việt goi Ngài. Ở đây, việc thờ cúng dành cho các đại linh hồn của
những đại nhân vật lại đuoc biến đổi khá sâu sắc nên dễ khiến ta hiểu lầm.Tín ngƣỡng dân
gian đã có sẵn truyền thuyết rất nổi danh trong lịch sử, tạo cho mỗi vị thần thánh một thứ nửa
thần thánh, nửa phàm nhân có đƣợc những quyền lực siêu nhiên.
Lão Quân theo tầng lớp bình dân ngƣời Việt, sinh ra đã có tóc bạc, có ba lỗ tai dài, mỗi lỗ có
ba ống dẫn thanh, có đôi mắt và miệng vuông , mũi tạc bằng hai chiếc xƣơng , râu dài, trán
rộng và răng thƣa. Mẹ Ngài mang thai 81 năm và sinh Ngài ra ở nách.Lão Quân hiện nay là
một trong ba vị thủ lĩnh của học thuyết qua đó có pháp sƣ thƣờng vẫn cầu nguyện. Sau đây là
một trong những lời cầu nguyện ngƣời ta dâng lên Lão Quân khi khai lễ : " Sự ra đời của
Ngài thật mầu nhiệm, nên ngƣời ta tôn vinh Ngài là Thánh. Ngài bƣớc vào đời bằng nách trái
của mẹ Ngài, dƣới một cội đào đang đƣợc trổ hoa trong vƣờn. Chính vì vậy, ngƣời ta đã đặt
cho Ngài tên là Huyền Lý, nhƣng tên thật của Ngài là Thái Bạch và bí danh của Ngài là Lão
Đam, Ngài đội một chiếc mũ có bao phủ trăm đóa hoa vàng y, và Ngài có khả năng nguyền
rủa bọn tà ma. Ngài có thể tặng cho bọn hữu tử 100 thứ bệnh dữ dội và Ngài biết nghệ thuật
tạo ra Tam Độn Phản Ác (3). Tín đồ của Ngài cầu khẩn xin Ngài giáng trần để chứng kiến
cuộc cúng tế này". Có thể có kẻ cho rằng thật bất ngờ việc thờ cúng dành cho một đại triết
nhân đời thƣờng với Khổng Phu Tử lại thoái hóa trở thành một hệ thống thực hành bùa chú
nhƣ Đạo Lão hiện nay, đã biết rõ nguyên lý lớn của ma thuật chúng ta sẽ hiểu dễ dàng hơn sự
cải biến này
Học thuyết của Lão Tử, gọi là đạo, từ đó phát sinh Đạo Lão, có nét đặc trƣng là do hoc thuyết
đó thừa nhận sự tồn tại của một nguyên lý đầu tiên tức là đạo. Từ đạo toát ra tất cả mọi sự
hiện hữu trong thiên nhiên.Đạo đƣợc nhà hiền triết bên Trung Hoa định nghĩa : Là nguyên lý
cao cả của cuộc sinh tồn, là sinh lực và là lúc sáng tạo, là nguyên lý chung của vũ trụ. Không
có vật gì mà đạo không thấm nhuần, đạo là nguyên nhân của sự hiện hữu, là nguyên lý làm
phát sinh mọi sinh linh. Đạo là cái mà cả trời và đất đều rút ra đƣợc tinh chất của chính mình.
Đạo là lực bất phân chia, toàn năng, toàn thiện, có trƣớc cả trời lẫn đất, vô dạng , vô danh, vô
thân, thực hiện đơn độc, bất biến, chu tuần khắp nơi vĩnh cửu (4). trong sách đạo đức kinh ta
còn đọc đƣợc :
" Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhi sinh tam, và tam sinh ra vạn vật " một nhà bình luận ngƣời
Trung Hoa giải thích : " cái một tiên thiên chia ra thành 2 nguyên lý : dƣơng (đực) và âm
(cái), rồi cả 2 nguyên lý kết hợp lại từ đó có thái hòa trong vũ trụ ''.
Nhƣ vậy, vũ trụ luận của Đạo Lão gần gũi liên hệ tới phần vũ trụ luận mà ngƣời Việt thƣờng
hay gọi là cái Tinh. Nhƣ vậy, Đạo gần gũi với cái Tinh và ta có thể tự hỏi phải chăng ở đây
đã có sẵn và cùng một thứ khái niệm đƣợc trình bày diễn tả thành hai ngôn từ khác nhau? Dù
sao, cách định nghĩa của hai phia cũng trùng hợp với nhau một cách lạ thƣờng và chúng ta có
thể tự giải thích cho riêng mình Đạo chính là Tinh và hai cái đã có thể trùng hợp với nhau
bằng một nguyên lý lớn về ma thuật và học thuyết triết học lấy đó làm đối tƣợng đã trở thành
một thứ kinh thánh cho các nhà phù thủy Trung Hoa và ngƣời Việt Nam.
Dù sao cũng không thể bảo rằng việc thờ phụng Lão Tử là hoàn toàn thuộc về ma thuật. Thật
vậy, viec thờ phụng này đụng chạm tới việc tôn thờ các linh thần, đã bị biến cải bằng cách
nào đó. Nhƣ tôi đã nói ở trên kia, tất cả tính cách mềm dẻo và vô cơ của ma thuật có khuynh
hƣớng tích tụ lại, cố định lại, và tự tổ chức lại để tiến tới thành những hệ thống tôn giao đích
thực.
* (1) Huyền = đen, sâu. Đàn = mô đất cao, nơi cúng kiến, tế lễ. Sách BÙA CHÖ ĐẠI TOÀN
viết về Huyền Đàn nhƣ đƣợc giao cho trách nhiệm điều khiển một hội đồng tƣ vấn ở Thiên
Cung, hội đồng này nhóm họp ở một nơi gọi là Huyền Đàn = mô đất cao màu đen.
* (2) Cần chú ý rằng trong thời gian khá lâu, ngƣời Việt đã coi nghệ thuật quân sự nhƣ một
thứ nghệ thuật chủ yếu có tính ma thuật. Các tƣớng lĩnh trƣớc khi ra trận, không chỉ cúng bái
tế lễ để tạo lợi thế cho mình về phần vận mệnh của binh khí, mà còn lao vào chống giặc bằng
những cách thƣ phù nhằm mục đích tiêu diệt địch hay loại địch ra khỏi vòng chiến đấu, ngay
trƣớc khi lâm chiến. Ngƣời ta vẫn còn tìm thấy trong tay các vị thầy pháp những tác phẩm về
phù chú quân sự, trong đó có các biện pháp để chiến thắng đều đƣợc nghiên cứu. Ta sẽ gặp
trong đó những lệnh hành quân đƣợc định danh là trận Bạch Hổ, trận Phi Xà, v.v...Chính tôi
đã từng chứng kiến một trong những kỳ công đƣợc thực hành dựa theo truyền thống quân sự
này vào lễ hội tại làng Phù Đổng ( thuộc tỉnh Bắc Ninh).
* (3) Tam Độn : Ba phép độn, còn gọi là : phép độn, xem độn, đánh độn, cách bói độn, thực
hiện bằng cách bấm đếm các đốt ngón tay. Phản ác, ma thuật qua đó các pháp sƣ đốt nhà, hay
trộm lấy vật gì họ thích, bằng cách sai khiến con bù nhìn gọi là con môi.
* (4) Đạo đức kinh -trƣơng XXV. Bản dịch của L.de Rosny. Dịch giả coi Đạo định nghĩa nhƣ
vậy chính là trời ( Đạo giáo trang 95) . Tuy vậy ở trang 97, ông thừa nhận ý tƣởng Thƣợng
Đế này đƣợc phát triển dƣới dạng " Thần nhân đồng nhất thể " ( Anthropomorphisme) để loại
trừ tất cả ý kiến.

CÁC NGHI THỨC PHÙ CHÖ.


Từ toàn bộ các khái niệm và nghi thức về phù chú mà ít nhiều chúng ta đã biết, có nhiều điều
bó buộc rõ rệt và nhiều phƣơng cách hành xử cần tôn trọng thật chặt chẽ. dù ngƣời ta muốn
phòng vệ chống lại những ảnh hƣởng xấu hay ngƣời ta tìm cách chế ngự để phục vụ cho
mình, hoặc biến các ảnh hƣởng khác thuận lợi vì lợi ích của mình.Nhiều nghi thức đã thành
những quy pháp hành xử, có thể xếp thành hai loại.
1. Các lễ nghi cấm chị hay cầu đảo phép thuật thụ động
2. Các lễ nghi chủ động hay tế nhân độ thế, tức là các lễ nghi trừ yếm
Cả hai loại nghi thức này, dẫu có khác nhau, đều có tính chung. Dù là nghi thức nào cũng đều
có tôn chỉ nhầm vào nội dung phù phép. Ở đấy, quy tắc tổng hòa chung là TINH vẫn đang
hoạt động và tùy theo trƣờng hợp sẽ diễn ra cách hành lễ thế nào để tiếp cận hãy để cách ly
cái TINH ấy. Hơn nữa, tất cả mọi nghi thức không hề có ngoại lệ đều đƣợc chế ngự hay lãnh
đạo bởi một ý tƣởng chuyên biệt thần bí nên cần ý thức về một thế giới đặc biệt siêu hình rất
nguy hiểm khi tiếp xúc với thế giới ấy. Và chính vì tính cách đặc biệt này, các nghi thức cầu
đảo hay trừ yếm đều liên kết chặt chẽ với nhau. Không chỉ có nghi thức nọ mà không có nghi
thức kia. Và không bao giờ hai nghi thức ấy tách rời nhau. Chúng gắn bó với nhau nhƣ bóng
với hình. Các sự kiêng cữ và cấm kỵ có tính nghi thức nhƣ : nhịn đói, trong sạch về thể xác,
v.v...chỉ có thể đƣợc kết hợp với các nghi thức chủ động, tức là nghi thức trừ yếm để tế nhân
độ thế muốn cho hiệu năng đạt càng cao, ngƣời hành lễ phải tự chủ động khép mình vào các
điều cấm kỵ càng nhiều. Đây chỉ là biện pháp chuẩn bị giúp cho vị pháp sự tiếp xúc với thế
giới huyền linh mà khỏi sợ nguy hiểm. Nếu không cần tiếp xúc với thế giới này và đi vào thế
giới siêu linh thì các biện pháp cữ kiêng không còn ích lợi gì nữa.
Dù vậy, ta cũng cần thấy rõ sự phân biệt hai thứ nghi thức khác nhau giữa pháp thuật tích cực
( chủ động ) và pháp thuật tiêu cực ( thụ động ) thực ra không phù hợp với thực tế các sự
việc. Tôi chỉ bàn tới các vấn đề này là để cho phần trình bày sau đây thêm sáng sủa và dễ
dàng hơn thôi.
Trong cùng mục đích muốn, chúng ta trƣớc hết bày một số phụ tùng của vị pháp sƣ ( thầy) :
dụng cụ, thuốc, bùa, v.v... và nên nghiên cứu thêm một số nghi thức sơ đẳng : vật cầm tay ,
bộ gõ đƣợc sử dụng thƣờng nhất, coi nhƣ là những vật phụ tùng bổ sung cho các nghi lễ phức
tạp.
(I). Hành trang của vị pháp sƣ không phức tạp lắm, gồm có :
1/ Những lá cờ ngũ sắc : gọi là cờ ngũ hành dùng để xua đuổi tà ma khi cần làm phép cho
một ngƣời bị quỷ ám hoặc khi cần sử dụng một tay đồng cốt.
2/ Những cây kiếm gỗ cùng roi , gậy, roi mây, đủ cỡ dùng để đánh hoặc trục xuất những con
tà.
3/ Một số loại các vật gây âm thanh : mỏ gỗ, thanh la, não bạc bằng kim loại, có mục đích
làm cho các con tà sợ phải dang ra.
Bộ đồ tế nhuyễn này nhƣ ta thấy , toàn có tính cách phòng vệ, ngƣời ta còn giả định nhiều
phƣơng tiện hành động khác trong số đó có các lá bùa ếm chiếm vị trí quan trọng nhất.
Những loại bùa, phần lớn bằng giấy, có nhiều màu khác nhau :
- Trắng
- Đỏ
- Vàng
Tùy theo trƣờng hợp sử dụng. Trên các tờ giấy này, ngƣời phù thủy vẽ lên những chữ đặc
biệt, chữ Hán, thƣờng đƣợc biến dạng và cách điệu, tùy theo các quy ƣớc riêng , hoặc là hình
mặt ngƣời , đầu, mình thú dƣới dạng hoàn toàn tƣợng trƣng, chỉ gợi lại những hình ảnh hay
những đƣờng nét tiêu biểu thật xa xôi hay chỉ na ná với sự thật mà họ muốn diễn tả. Những
sự biến dạng cố ý này chẳng có mục đích nào khác hơn là đáp ứng đƣợc yêu cầu và tính chất
thiết yếu của bùa chú, nói lên đƣợc nét riêng tƣ của trƣờng phái và tôn chỉ pháp thuật, nên lúc
nào cũng có vẽ bí ẩn, huyền hoặc mà ý nghĩa đích thực của nó đã thoát khỏi sự tầm thƣờng và
thông tục.
Muốn làm bùa, phải có những quy cách chính xác, cần đƣợc tôn trọng kỹ lƣỡng để không làm
mất tính linh nghiệm của bùa. Trƣớc hết có những quy cách để định hƣớng lá bùa. Khi vẽ bùa
cần nên đứng xoay mặt về hƣớng tây vào tháng 1, tháng 5 và tháng 9, xoay mặt về hƣớng
nam vào những tháng 2, 6, 10, xoay về hƣớng đông các tháng 3, 7, 11. Và xoay về hƣớng bắc
các tháng 4, 8, 12.
Cần xem kỹ mối tƣơng quan giữa các mùa tiết, các tháng với bảng phân loại ngũ hành mà
ngƣời Việt Nam ta đã rất quen thuộc và biết rõ tác dụng của từng phƣơng hƣớng vào các giai
đoạn, thời tiết trong năm. Do đó ta có các hƣớng giờ thuận hay không thuận và anh hƣởng
của các phƣơng hƣớng tác động lên sự cát hung, tƣơng đƣơng với các mùa, các giai đoạn thời
gian, v.v...Vị pháp sƣ khi về bùa, nên định ra đƣợc hƣớng nào có gió thuận và đƣa tới điều
cát tƣờng, gọi là hƣơng sinh khí ( luồng gió mang sự sống ) để xoay về hƣớng đó. Đƣơng
nhiên, nhƣ các nguyên tắc đã nêu, sự định hƣớng này cần thay đổi theo từng lúc trong năm và
theo vị trí mình đang đứng.
Nhƣ trên, tôi đã nhắc đến cái Tinh. Vậy cái Tinh là gì ta thử tìm hiểu :
Nếu, tới đây, chúng ta thấy cái Tinh tác động lên sự vật hay lên các sinh vật nhƣ một thứ
dòng chảy vô ngã, thì ta cũng không nên quên rằng Tinh cũng có những dạng nhân linh đối
với các bản thể anh linh ( những ngƣời khuất mày, khuất mặt = linh hồn ). Trong những điều
kiện mới này, các hành động của Tinh không còn giống nhƣ trƣớc nữa.
Trong quan niệm đầu tiên, Tinh là thành tố có nhiều đặc tính và đức tính của cả vật thể lẫn
sinh thể. Tinh hành động theo những quy luật nhất định. Những ai biết sử dụng sức mạnh mù
quáng này đều có thể điều tiết các lực ấy vào luồng, điều khiển chúng về hƣớng này hay
hƣớng khác, khiến chúng sinh sản ra lực theo ý riêng của mình và có hiệu quả lợi hay hại tuỳ
ý.
Với các linh hồn, Tinh không còn dễ vận dụng nhƣ vậy nữa. Các bản thể nhân sinh đã giải
phóng cho Tinh đều có nghị lực riêng. Nghị lực này có thể đối chọi với nghị lực của con
ngƣời.
Từ đó cho các thầy phù thuỷ có nhiều quy pháp điều hành ; và điều kiện đầu tiên để khám
phá ra các quy pháp đó và áp dụng vào theo đúng chủ đích là phải biết dùng các linh hồn đó
thế nào, bản chất của hồn, hồn tụ ở đâu, thƣờng thƣờng hồn xuất hiện ra sao?
BẢN CHẤT CỦA HỒN ? Chúng ta đã biết bản chất này qua định nghĩa bởi vì chúng ta biết
rằng Hồn là một phần của Linh Hồn tổng thể: tức Thần hay Quỷ, là những bản thế tế vi , ở
mức độ vật thể có chừng mực, đa số vô hình, nhƣng chúng lại biểu hiện sự hiện hữu của
chúng qua các hành vi. Ta nên thêm vào. Vì dƣới dạng sinh linh hữu ngã, chúng vẫn có một ý
chí, thƣờng thƣờng là ham hố và đua đòi, nhu cầu, dục tính, giống nhƣ con ngƣời. Họ cũng
có tâm lý mà chúng ta cần nghiên cứu ngang tầm nhƣ -nếu ta có thể gọi - " tâm lý của linh
hồn. "
Một đoạn trong Trung Dung của Khổng Tử cho chúng ta cách mô tả rất chính xác về ý tƣởng
mà ngƣời Hoa cũng nhƣ ngƣời Việt gán cho linh hồn nói chung : Khổng Tử nói : Mọi năng
lực tinh vi của Trời Đất đều lớn lao và sâu kín. Ngƣời ta tìm cách nhận thức các lực ấy,
nhƣng không ai nhìn thấy chúng đâu. Ngƣời ta tìm cách lắng nghe nhƣng vẫn không ai nghe
thấy chúng. Đƣợc coi nhƣ bản thể của sự vật, chúng không bao giờ tách rời khỏi sự vật ...Đây
chính là một Đại Dƣơng mênh mông đầy sự thông minh tinh tế, chúng ở khắp nơi, bên trên
chúng ta, bên tả, bên hữu chúng ta, và bao vây chúng ta khắp nơi.
KINH THI viết :
"Linh hồn đến hay đi đều không xác định.Dù quá tinh tế và vô hình, linh hồn vẫn biểu hiện
dƣới dạng nhân thân của bản thể, bản thể của hồn là bản thể hiện thực, thật, hồn không thể
biểu hiện dƣới dạng nào khác đƣợc."
Chúng ta thấy lại ở đây cái Tinh Khí mà chúng ta đã lấy làm nguồn gốc của khái niệm về linh
hồn. Cái bản thể này nếu không có nó sẽ không có gì bieu hiện ra sự hiện hữu của nó. Đó là
cái dòng chảy gắn bó với mọi vật thể mà sự có mặt và hành động của nó đều phải khái quát.
giống nhƣ dòng chảy linh hồn đều không thể sờ mó đƣợc mà chỉ gần nhƣ phi vật thể. Vì vậy
ý kiến ta có về nó thật hết sức mơ hồ.
Ông Cadiere viết : " Đó là những âm vang của tiếng nói con ngƣời trong đêm tối, trên bờ cát,
những hình dạng ly kỳ hiện ra trong cảnh nửa sáng nửa tối ; đó là tiếng sóng vỗ rì rào trên lớp
sỏi ; là bóng cây cổ thụ bên đƣờng ; là tiếng rì rào của gió trong cành cây." Nhƣ chúng ta đã
thấy trƣớc đây, những Ma Trơi là các ánh lửa bay chập chờn ; Ma Xó xuất hiện nhƣ các bóng
tối lƣớt qua ; Ma Mọi gây tiếng động giống nhƣ cơn gió lốc, nhiều ma khác để lại sau nó
những đám mây bụi mịt mù. Chúng ta luôn luôn thấy xuất hiện cái ý tƣởng về khí, hơi, gió có
sức gây nhiều hiệu quả. Một ý tƣởng thống quát toàn sự vật, trong đó Tinh Khí đƣợc định
hình.
Giống nhƣ Tinh Khí các hồn ma dù có thuộc tính loãng cũng đều có tính cách vật thể có mức
độ. ( tức thuộc về vật chất phần nào ). Ngƣời ta có thể nắm bắt chúng nhƣ nắm bắt các vật thể
cứng.
Chúng ta đã từng thấy muốn chận bắt những con Ma Đậu, ngƣời ta chặn một tấm lƣới quanh
chiếc nôi của đứa bé ốm.

NGHI THỨC BÙA CHÖ.


Ở miền nam ngƣời ta cắm vào mồ một con ma ác của một ngƣời xa là bằng một cây đinh hay
một thanh sắt cắm lên mộ ở vị trí đầu nằm của ngƣời chết. Khi một bệnh nhân bị ma am, vị
pháp sƣ đƣa cho anh ta một hình nhân tiêu biểu cho con quỷ nhập thân, để bắt quỷ phải chịu
khuất phục và bị nhốt dƣới một cái chén úp. Dƣới buổi chiều, khi trời gần tối, gia đình ngƣời
bệnh phải đem chiếc hình nhơn ra và bỏ vào cối giả 100 chày. Trong một số trƣờng hợp bị
ma ám, chẳng hạn, nếu cả hai vợ chồng đều bị hiếm muộn, không sinh con đƣợc do nhiều
hồn ma nhập vào, thì vị pháp sƣ yêu cầu một số vị thần nào đó chặn lƣới khắp nơi để chận bắt
và khai trừ các tên ôn hoàng. Khi có kẻ nào chết vì Hung Thần, thì nên theo cách sau đây,
giải thoát cho thi hài khỏi bị ma quậy phá ; ngƣời ta làm một lá bùa bằng giấy, trên đó có viết
tên vị hung thần và ngƣời ta đặt bên trong tờ giấy xếp 100 cây kim dành để giữ lấy hồn ma.
Hơn nữa, ngƣời pháp sƣ còn đọc câu thiệu sau đây : " Cầu Đại Soái thiên Quân bắt giữ Thần
Đại Tƣớng Địa Phủ trói chúng lại và các Đƣơng Niên đóng gông chúng."
Nếu các loài ma, ở mức độ nào đó có bản chật vật thể, điều này do các con ma thƣờng hiện ra
một cách hiện thực ; chúng sẽ biểu hiện khác đi vì ý niệm về hồn chỉ đƣợc xem xét theo một
quan điểm đặc biệt, nên sự lý giải chính là nguyên nhân nhân cách hoá các hiện tƣợng ; vì bất
cứ hiện tƣợng nào cũng tác động lên giác quan chúng ta. Một ngƣời sinh trƣởng trong Thung
Lũng Nguồn Sơn kể lại với thầy tôi rằng : " Một lần tôi nhìn thấy con Ma Xó. Tôi đi dài theo
con đƣờng cái quan vào lúc trời chạng vạng. Thình lình tôi nghe phía sau lƣng tôi giống nhƣ
có một bầy heo con chạy ào ào vào hàng rào. Tôi tìm xem việc gì đã xảy ra .... Thình lình tôi
thấy ở ngay giữa đƣờng một đống đen khổng lồ to gần bằng chiếc xe cần xé này... rồi tôi
nghe nhƣ một tiếng gầm gừ lớn. Rồi nhƣ tiếng ken két của những thân tre nghiến vào nhau..."
Các con ma cũng có thể bắt láy bạn, vật bạn xuống đất, đỡ bạn lên, và chống cự lại bạn v.v...
Những con ma nhƣ vậy gần giống nhƣ những ngƣời sống. Sau này ta sẽ gặp. Nó không thể
khác hơn. Trong khi ngƣời ta đã ban bố một nhân cách cá nhân khá rõ nét cho một bản thể
anh linh ta cũng nên trình bày nó bàng cách nào và ở quan điểm này trí tƣởng tƣợng của con
ngƣời thật ngắn ngủi, nó không thể vƣợt qua đƣợc cái vòng lẩn quẩn của thế giới tri giác ; và
đƣơng nhiên nó phải chịu số phận làm ngƣời hay làm thú...ít nhiều kỳ quặc, nhƣng luôn luôn
không nhiều thì ít, nó vẫn hiện thực vì vậy ta phải hình dung đƣợc các linh hồn.
Giống nhƣ mọi sự vật ( không nên quên rằng đối với ngƣời Việt nói riêng và Phuơng Động
nói chung, tất cả mọi sự vật đều có sự sống ). Chia làm hai giới : Dƣơng và Âm. Đại khí của
vũ trụ tác thành hai nguyên lý đối lập, nguyên lý Dƣơng và nguyên lý Âm.
Quỷ Thần cũng vậy, Quỷ hay Thần đều tuỳ thuộc vào sự biểu hiện của nguyen ly Âm hay
Dƣơng. Thần thuộc Dƣơng con Quỷ thuộc Âm. Nhƣ vậy ta thấy cách phân chia này cũng rất
logic : linh hồn của mỗi phạm trù đều tuỳ thuộc vào hai giới tính âm dƣơng cả. Những thứ
con tinh hay yêu tinh đều thuộc âm, chúng hiện ra trong giấc mơ dƣới dạng phụ nữ. Có khi
rất xấu xí, có khi rất đẹp. Một loại hồn ma khác cũng thuộc âm đƣợc gọi là Chƣ Vị, họ là các
tiên nữ sống trong rừng, lùm bụi, cây cối, núi non. Còn có thêm 12 Bà Mụ bảo trợ các trẻ sơ
sinh ; những cô công chúa của Tam Thế Giới ( Tam Thế là : thƣợng, trung, hạ ...)
Giống ngƣời sống, cac hồn ma cũng có những nhu cầu nhƣ con ngƣời. Họ cũng ăn, mặc và
cần nhà cửa, có nô tì v.v... Ngƣời ta dâng cúng cho họ những lễ vật gồm có cơm, gà, vịt, thịt
nƣớng, trái cây, trầu, cau, rƣợu. Ngƣời ta chƣng hoa và đốt hƣơng, cúng vàng, bạc, kể cả các
tiền đồng hiện đại....bằng giấy thƣờng. Trong sách nghi thức thờ Tam Phủ có diễn tả nhƣ sau
:
" Gia đình một cô gái bị bệnh có mời ba Phù Thủy tới. Bà này báo trƣớc là có mời thêm một
số chƣ thần văn võ về dự. Bà yêu cầu các đại lý trần thế của bà phải lƣu ý. Các vị đại biểu
này trình bày rõ họ đã đƣợc giao nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ngƣời trong gia đình. Kẻ nào
không cúng kiến đầy đủ lễ vật, thì khong đƣợc các ngài phù hộ. Do đó họ yêu cầu Bà Thủy
gieo cho họ quyền sửa trị tất cả những kẻ nào chƣa tôn kính bà thật lòng. Họ phải cúng bái
chƣ thần, và Chƣ Vị sẽ ở lại trong đền đài của họ để cho mọi ngƣời sống đƣợc bình an. "
Những linh hồn không có chung sở thích và các sách lễ nghi lại có nhiều chỉ dẫn tỉ mỉ nhƣ :
Hồn nào thích cá chép, hồn nào thích lƣơn, hồn thì ƣa thịt chó, mà chó thì phải có màu nào,
màu nào cần cho vị nào. Hồn Trùng Tang ăn thịt gà, Hồn Thiên Cẩu ăn thịt sống, vì chó thích
thịt sống ; Thần Cấp Ƣớc Ƣơng Sát thích nhất là cái đầu heo v.v... Phẩm vật cúng cho Hƣng
Đạo hay các vị dƣới quyền của ngài phải không cúng thịt. Các Chƣ Vị đòi ngƣời ta đem vào
đền quần áo, nón, giầy, bằng giấy v.v... bởi vì các bà, bà nào cũng thích chƣng diện ( Chƣ Vị
= phái nữ ).
Và các hồn ma cũng mặc quần áo. Vào ngày đầu năm ngƣời ta thay đổi y trang trong tủ quần
áo của chƣ thần. Đối với các Thần Táo, ngƣời ta cúng mão. Đối với các Đƣơng Niên ( lính )
phải cúng cả một lô đủ loại quần áo có bán ở chợ, '' bộ mũ'' gồm có một cái mũ, một áo dài và
một quần dài. Chƣ Vị vốn khó tính, muốn các vị hài lòng, ngƣời ta dâng các cô những hộp nữ
trang, đồ trang điểm, quạt và gƣơng tay v.v... Khi muốn trình bày vị nào, phải luôn luôn cho
thần mặc phẩm phục đội mũ bình thiên tay cầm hốt ngà. Và có lúc thần chỉ có tấm bài vị thì
bài vị phải đƣợc phủ chiếc áo dài hay tấm lụa màu, bên trên đội chiếc mũ trang trí lộng lẫy
bằng vàng hay bạc. Để về trời các linh hồn đều có xe hay vật cởi. Một số, nhƣ các thần bếp,
dùng cá chép hay cua. Nhiều thần khác dùng ngựa voi, ở nhiều đền miếu ngƣời ta gặp các
tƣợng thú bằng đá hay bằng gỗ sơn. Thủy thần có vật cởi là rắn 3 đầu goi la con Lốt. Trƣớc
nhiều bài vị của thần làng xã còn thờ một chiếc tam bản sơn đỏ, có đầu rồng thép vàng gọi là
'' Thuyền Rồng'' dùng để chở ''Ông Thần'' lên thiên giới. Đôi khi còn thấy những chiec cáng,
hay kiệu. Các ngai thờ đặt trên những chiếc xe tay v.v... đó là để cho các hồn thieng sử dụng
khi di chuyển.
Ngƣời thầy bùa chuyên nghiệp biết sử dụng mọi chung loại linh hồn của ngƣời chết, các linh
hồn lang thang, đầu ghênh cuối bãi để yểm trợ ông trong các cuộc trấn yếm, phù phép.Sau
đây là điều ghi chép trong cẩm nang pháp thuật BÙA CHÖ ĐẠI TOÀN : " Việc chiêu tập
vong hồn chỉ có thể thực hiện trong các điều kiện phiếm định. Vào một ngày tháng tốt nào
đó, ngƣời ta phải tổ chức một cuộc lễ chuẩn bị bằng cách cầu khẩn và dâng hiến lễ vật. Rồi vị
pháp sƣ đi ra một nơi vắng vẽ, thƣờng thƣờng là nơi các nghĩa địa, liên tiếp trong 100 đêm
liền, vào giữa đêm hoặc 2,3 giờ khuya, lúc mọi vật đều im ắng, thanh tịnh, côn trùng và chim
chóc đều im hơi lặng tiếng, khi gà chƣa gáy, chó hết sủa.Vị pháp sƣ liền thấy xuất hiện những
con đom đóm, đó là những vong hồn phiêu bạc sắp trở thành âm binh của ông. Ông đặt tên
riêng cho từng âm binh à ban bố chức tƣớc cho chúng, rồi ông bắt chúng biểu diễn quyền lực
riêng của từng đứa, chẳng hạn nhƣ chúng phải làm đau hay chửa lành bệnh cho ngƣời nào đó.
Khi hết 100 ngày chiêu binh, nếu các cuộc cúng bái đều hoàn thành mỹ mãn, pháp sƣ triệu
tập các âm binh lại ở một ngôi đền hay miễu, mà ông đã dọn lên, dành cho công cuộc làm
phép của ông. Nhiều lễ vật bày ra trên bàn thờ, và ông thầy bùa gọi từng vong hồn lại, mỗi
vong ông đã đặt cho một tên riêng, ông mới chỉ định cho từng tên mỗi nhiệm vụ và công tác
mà chúng phải thi hành. Có một số âm binh đƣợc dùng riêng trong công tác phục vụ ngôi đền
nên ở lại ngôi đền thuong xuyên. Kể từ đấy, tất cả các linh hồn đều đáp ứng lại lời kêu gọi
của Thầy pháp và thực hiện công việc do ông chỉ định.
Các vong hồn khác đều là ma. Từ này có ý nghĩa cụ thể là : xác chết (cadavre), nhƣng từ này
đã biến nghĩa và trở thành : kẻ trở về, hồn ma, sau đó lại có nghĩa : hồn gieo họa (esprit
malfaisaut), quỷ (demon). Tôi sẽ minh họa thêm các ý nghĩa này bằng cách ghi vào đây một
trích đoạn trong một bài nghiên cứu đặc sắc của hòa thƣợng THÍCH VIÊN MINH ( ông ở
Thung Lũng Nguồn Sơn, tỉnh Quảng Bình, Miền Trung) :
" Có rất nhiều loại ma, nhƣng tất cả đều có điểm chung này là chúng đeu gây điều xấu cho
con ngƣời , hoặc tối thiểu chung tìm cách làm cho ngƣời ta sợ.
-Ma Trơi, còn gọi là ma lem, là các đốm lửa lập lòe sáng và bay vất vƣởng trong màn đêm,
trên những cánh đồng ngập nƣớc.
-Ma Le là những con ma lè lƣỡi : ngƣời ta kể chuyện có một ngƣời hiện ra và đến gợi chuyện
với bạn, rồi cùng đi cùng đƣờng với bạn. Đến lúc nào đó, anh ta hoi xin bạn một miếng trầu
cau, bạn sẵn lòng trao cho anh ta miếng trầu. Nhƣng, thay vì nhận trầu, hắn lại lè lƣỡi ra, lƣỡi
cứ dài ra dài ra mãi tới đất, để liếm lấy miếng trầu.
-Ma Loạn : là đám ma đông ngƣời chạy dài theo các con đƣờng làng thành bầy trong lúc có
dịch tể trong làng, ngƣời ta không nhìn thấy chúng, nhƣng ban đêm ngƣời ta nghe thấy chúng
lao xao : vào nhà nó đi, hoặc vào nhà nào khác? ( chúng kêu nói với nhau và sáng hôm sau
ngƣời ta phát hiện trong mỗi nhà chúng vào, đều có ngƣời mắc bệnh.)
-Ma Cụt Trốc- túc ma cụt đầu- ma không có đầu là hồn ma của những phạm nhân bị xử trảm.
Ngƣời ta không thể nhìn thấy họ, nhƣng ngƣời ta biết khi có họ đi qua, nếu ma này đi ngang
qua cách đồng lúa, các giẻ lúa liền khô héo ngay, nếu họ đi ngang qua nơi phơi lúa, tất cả hạt
lúa đều khô cả. Đôi khi các ma để lại phía sau chúng những cơn gió lốc xoáy tròn đầy bụi cát.
-Ma Rà: ở dƣới lòng sông, dƣới nƣớc hoặc đáy ao, đầm, đôi khi có đứa chăn trâu tới chơi bên
rìa các hố sâu mà ngƣời ta gặp ở giữa đồng lúa, nó trƣợt chân té xuống hố và bị chết đuối .
Đó là ma rà đã bắt nó đi.
-Một khách lữ hành qua sông bằng đò, trên đƣờng đi ông ta lở làm rơi túi xách, ông ta cúi
xuống nhặt lên, nhƣng mất đà, ông ta té tòm xuống nƣớc. Cô gái chèo đò đang đứng chèo ở
phía sau, không kịp giữ thuyền lại nên ông khách đó bị chết đuối. Ngƣời ta bảo; đó cũng là
ma ra bắt. (1)
- Ma Xó ở trên mặt đất, nhƣng trong các hốc tối tăm và khuất vắng. Bóng tối xuống là ma xó
hiện ra, nhiều lúc chúng hiện trên các cồn đảo giữa các sông lớn. Ban đêm ngƣời ta nhìn thấy
chúng đi qua đi lại, một đứa, hai đứa, rồi ba đứa,...chúng đi theo nhau, không nói với nhau lời
nào. Ngƣời ta lại gần nếu, có ai can đảm dám lại gần, rồi không nhìn thấy gì cả. Hoặc một
ông câu chèo ngang qua, đi câu cua bạn đêm hoặc bỏ lƣới, sẽ nghe ở xa xa nhƣ có tiếng
ngƣời nói chuyện xì xào, nhƣng không ai nghe đƣợc chúng nói gì với nhau. Ngƣời ta càng tới
gần, tiếng nói càng lùi ra xa. Cuối cùng tiếng nói im hẳn trong cảnh thanh vắng tĩnh mịch của
đêm khuya và trong tiếng sóng vỗ rì rào. Đó chính là ma xó nhát họ. "
Ở Miền Bắc, ma xó ( xó là góc, hốc) đáp ứng nhiều với truyền thuyết và tên gọi của nó.
Những con quỷ nấp trong bóng tối, các góc, các xó nhà. Tín ngƣỡng này rất phổ biến trong
dân gian. Ngƣời ta không bao giờ nên để chổi quét nhà trong các xó tối vì ma xó sẽ nhập vào
chổi và nhập vào thân thể của ngƣời dùng chổi. Ngƣời Việt cho rằng ma xó ở đồng bằng
Miền Bắc thƣờng ở trên miền thƣợng du. Đó là những con ma con gái mà thi hài của họ đã bị
chôn trong một góc nhà. Khi các kẽ trộm lẽn vào nhà, họ thƣờng nghe một tiếng nói đếm các
đồ vật mà họ ăn cắp đƣợc : cũng là tiếng ma xó.
Ngƣời Việt Nam sẵn sàng cho rằng ngƣời Hoa sử dụng ma xó để giữ gìn các kho của cải của
họ : rằng, khi họ giàu có, ngƣời Hoa thƣờng lên đƣờng về Tàu, nên họ trao việc giữ gìn của
cải chôn giấu của họ trong một nơi chỉ có họ biết mà thôi , cho một hồn ma gọi là '' thần giữ
cửa '' (2)
- Ma xó thƣờng là các linh hồn cô gái còn trinh, đƣợc mua và đào tạo đặc biệt cho mục đích
giữ của. Đầu tiên ngƣời ta cho họ ngậm ''nhân sâm'' rồi bịt miệng lại bằng một chất keo đặc
biệt. Ngƣời ta liền dẫn cô gái đến nơi giấu của, ngƣời ita dặn dò cô không nên để cho ai động
tới các của quý, mà cô từ nay có bổn phận giữ gìn. Ngƣời ta chôn cô vào hố hoặc đƣờng hầm
cho tới khi cô chết , linh hồn cô gái làm nhiệm vụ canh giữ nhƣ lời ngƣời ta căn dặn.
(1) Ở Hà Nội, ở đáy Hồ Nhỏ ( Hồ Trúc Bạch ) ở ngay trung tâm thành phố, theo truyền
thuyết cũng có ma rà đƣợc ngƣời ta quen gọi là Con Nam. Đây chính là linh hồn của ngƣời
chết đuối, đang tìm ngƣời thay thế để y có thể nhập vào thi thể của một ngƣời đàn ông hay
một con thú. Ngƣời ta kể chuyện có một bà kia, xuống bên bờ nƣớc, liền bị một vật nửa
ngƣời, nửa thú từ dƣới nƣớc ngoi lên lôi bà ta xuống nƣớc. Bà ta kêu cứu và bà may mắn
đƣợc kéo kịp lên bờ bởi nhiều ngƣời nghe tiếng la chạy lại cứu.
(2) Trƣớc khi ngƣời Pháp tới Đông Dƣơng, dƣờng nhƣ có lệnh cấm những ngƣời Hoa nhập
cƣ vào Việt Nam, không cho mang bất cứ tài sản nào họ làm ra đƣợc trong xứ trở về Tàu.
Nhƣ vậy, tức là họ bị cấm trở về xứ sở của họ và để của cải của họ ở lại Bắc kỳ, nên họ thực
hiện bằng cách chôn giấu của cải ở các nơ chỉ có họ biết mà thôi. Vì vậy, ở trong huyện Hải
An ( gần Hải Phòng ) trong làng Trung Hành có một kho vàng thật lớn, bỏ lại do một ngƣời
Tàu chết ở Tàu và dân chúng trong vùng biết đƣợc kho vàng ấy, bị dò tìm khắp nơi trong
nhiều năm dài. Có thể lúc bấy giờ, dƣới quyền thống trị của ngƣời Việt, các ngƣời Hoa đã
dùng tới biện pháp dùng ma xó để giữ gìn các kho tàng của họ. Ta nên coi đây là biện pháp bị
lên án mà hiện nay một số vùng sâu của Trung Quốc còn lƣu hành.

NGHI THỨC BÙA CHÖ.


Trong số các ma, cần kể thêm " con ma đậu ". Đây là những linh hồn của các ngƣời bị chết vì
bệnh đậu mùa.Chính ma đậu trở về nhập vào thân xác ai , liền gieo bệnh đậu mùa cho ngƣời
đó. Để phòng chống bệnh đầu mùa cho trẻ em, ngƣời ta chăn một tấm lƣới chung quanh
giƣờng ngủ của đứa trẻ.
Ngoài những con ma, chúng ta còn gặp nhiều hồn ma khac, hay là quỷ, đƣợc tuyển chọn
trong số các hồn ngƣời chết. Đó là những '' con tinh '' hay ''yêu tinh'', va '' ngạ quỷ '' v.v...Yêu
tinh là quỷ cái, hồn ma của phụ nữ đã chết, nhập vào thân cây, nên gọi là mộc tinh. Ngƣời địa
phƣơng không đốn các cây cổ thụ là để cho con tinh có chỗ ở. Chính do sự tin tƣởng này nên
ngƣời ta phải, vào lúc tẩn liệm một xác chết vào hòm, ngƣời ta phải cúng kiến bằng những
nghi lễ xua đuổi ta mà, nhằm mục đích trục những con yêu tinh còn ẩn mình trong gỗ của cổ
quan tài.
Cũng có thể cùng trên bình diện này mà các âm binh, các con ma v.v... của các ác hồn đều
gọi chung là hung thần, các hung thần không có nguyên xứ rõ ràng và do đó cũng khác với
các âm bỉnh hay ma, vì các con ma này đƣợc đặc biệt tuyển mộ trong số các linh hồn ngƣời
chết. Nên hung thần cũng không đƣợc giao cho trọng trách gì cố định. Sau đây là cách phân
biệt của tôn giáo )
- Thần Kế Tích Kim Cƣơng ; có thói quen thích làm điều ô uế.
- Mật Tích Kim Cƣơng : có thói quen gây ra điều bí mật tàn ác
- Tam Chủ Giải Phả : làm sụp đỗ các gia đình
- Hô thực, Hô Sát ; luôn đòi ăn và chỉ có ăn, vẫn giết ngƣời
- Vong Vị, Hung Ƣơng : gây ra nhiều điều ác độc hơn cả quỷ
- Cô Lƣ Khô Kháo : Muốn cho nhà lá đã nghèo càng trống trải cạn kiệt hơn nữa v.v...
Quyền hạn của các vị hung thần này không định rõ ràng cho từng vị, nên họ thƣờng giẫm
chân lên nhau, cá tính của từng vị tuy vậy đƣợc ghi nhận rất rõ nhƣ các loại ma và âm binh
v.v... Tất cả bản thể tinh thần mới này vì vậy đều có một tên gọi riêng. Họ cũng có một lý lịch
riêng mà tôi thật sự không dám nêu ra.
Trong các bản liet kê tôi có : một bản xuất phát từ xứ Thanh, bản khác từ đất Ngô, bán thứ ba
ở xứ Yên. (2)
Bản lý lich ghi cả sở thích của từng vị hung thần, ta cần biết để dâng đồ hiến cúng cho đúng:
- Thần nào thich cá chép
- Thần nào thich chó phèn hay con lƣơn
- Thần nào thich chó mực, cá chép hay gà máy vàng v.v...
Còn có một số hồn khác, vẫn đi thanh đoàn đông đảo mà cá tính còn ít đƣợc triển khai, đó là
các hồn gieo tai họa, dịch hạch, dịch ôn nên gọi là "quân ôn".
" Ôn " tiếng Việt có nghĩa là một thứ bệnh, mà đƣợc diễn tả nhƣ tiêu biểu cho các loại vong
hồn uổng tử, chỉ cần gọi chúng là quân ''ôn'', ''dịch'' để gọi chung về cá tính của bọn chúng.
Sau đây là theo thuyết của ngƣời Việt Nam hình dung ra ''quân ôn''.
'' Dƣới triều vua cuối cùng nhà Trần ( 1416 ) có một ngƣời nho sĩ An Nam tên gọi là Di
Thanh, vào thời kỳ này bọn "quân ôn" của nhà vua làm quá nhiều điều càn dở, theo thói quen
của họ, họ thƣờng tụ tập trong các quán rƣợu, làm đủ các trò dâm ô và làm cho nhiều ngƣời
gặp họ đều bị bệnh. Di Thanh không sợ bọn quỷ dữ nầy nên xông xáo đi tìm chúng. Bọn này
vừa sợ vừa phục con ngƣời can đảm liền đầu hàng ông ta. Di Thanh chia chúng ra thành
trung đoàn và tiểu đoàn và bắt chúng tuân phục theo một kỷ luật khắc khe. Sau khi ông ta
chết, ông ta đƣợc phong là lãnh tụ của bọn '' quân ôn '' và bọn '' quân ôn '' từ đó theo sự chỉ
huy của ông ta, đi tàn hại mọi ngƣời.
Nhƣ chúng ta đã chỉ định ở trên, không nên hiểu từ ''quân ôn'' là chủ đề diễn tả bệnh dịch
hạch và dịch tả, mặc dù từ nguyen mang ý nghĩa rõ rằng nhƣ vậy, nhƣng thành ngữ ''quân ôn''
hiện đƣợc dùng để chỉ chung một số các loại bệnh, mà đây là các vị thần mang tai họa giết
hại con ngƣời bằng các dịch bệnh, bằng chiến tranh và đói kém.v.v...
Vậy hiện ta đang đứng trƣớc một ý tƣởng tổng quát còn mơ hồ hơn những gì vừa nói qua ở
trên và tuy vậy ta sẽ thấy ý nghĩa của nó đƣợc xác định rõ dần ra. Bởi vì trong thế giới có một
vị trí tinh thần danh cho các khái niệm về nhân cách khác hẳn. Vậy muốn diễn tả cho ro
nghĩa, chỉ cần ta có một khả năng khái quát hoá thật hoàn bị và tập hợp tất cả những tố chất
chung của một tầng lớp tinh thần vào một con ngƣời và chỉ một con ngƣời mà thôi, ngƣời ấy
sẽ tiêu biểu cho tất cả.
Ngƣời Việt Nam bằng nhiều phƣơng cách khác nhau đã đạt tới trình độ khái quát hóa này.
Nhƣng mặc dù có nhiều phƣơng thức khác nhau, cách khai triển tâm hồn luôn luôn vẫn chỉ có
một. Bao giờ bản thể tâm linh vƣơn lên tới trình độ cao hơn những kẻ khác thì đƣợc gọi là thủ
lãnh và đƣợc đồng hoá với một loại tƣớng lãnh chỉ huy một đội binh. Ngày xƣa, ông ta chính
là vua, hoặc hơn thế nữa, ông ta còn đƣợc coi nhƣ Cha nhƣ Mẹ của các linh hồn thấp
kém.v.v...
Với bon ''quân ôn'' chúng ta nắm bắt ngay phƣơng thức tốt nhất, qua đó tƣ tƣởng tôn giáo
vƣơn lên từ từ tới quan niệm về những bản thể trừu tƣợng thực sự mang nhân tính. Thật vậy,
ta cứ xem bọn ''quân ôn'' cũng có một thủ lĩnh. Đó là ''chúa ôn'', chúa các thứ dịch tể. Những
binh sĩ đều phải tuân theo lệnh của chủ tƣớng, vậy đây không phải là cách tốt nhất để hình
dung đoạn chuyển tiếp từ số lƣợng sang đơn vị đó sao? tức từ tập thể sang cá thể?
Cũng cùng một phƣơng thức nhƣ vậy, ta thấy hình thành cái gọi là ''ma vua'', tức là vua của
các loại ma : Hàn Tín thủ lĩnh của các ác hồn, tức là bọn ma, thì số lƣợng các vị thần mang
tƣớc hiệu ma vƣơng và đại tƣớng, thì cũng nhiều vô số kể.
Mặc khác, chúng ta thấy trong việc thờ cúng tam thế, đã thể hiện cả một giai hệ vô cùng phức
tạp ; các ông hoàng và các bà chúa của nhiều tầng lớp khác nhau, vua nhỏ, vua to, vua cả,
ngọc hoàng thƣợng đế v.v....
1) bản liệt kê này đƣợc ghi trong một bản thảo thần chú có mục đích triệu tập các vị hung
thần có khả năng gây khó khăn cho các linh hồn ngƣời mới chết.
Trong năm, có nhiều ngày xấu, mỗi ngày thuộc vào một vùng quản trị của một vị hung thần.
Nếu ngƣời nào chết đúng vào ngày xấu đó, linh hồn ông chắc chắn bị vi hung thần ngự trị
trong ngày ấy quấy nhiễu.
(2) Các xứ ghi ở đây đều là đất bên Tàu. Các hung thần cũng từ Trung Quốc đƣa sang. Thủ
lĩnh của họ là Hàn Tín, một tƣớng lĩnh nỗi danh đời Hán. ( Trung Quốc )
Trong ngôn ngữ Việt Nam có một thành ngữ Hán Việt là Khí Huyết. Thành ngữ này cho thấy
trong đó ý về Huyết = máu lại gần gũi với ý về Khí = hơi sống. Nhƣng ta có thể chấp nhận
máu loãng còn đƣợc coi nhƣ một động cơ vận tải nguyên lý sống.
Dù có nhƣ vậy máu vẫn đƣợc xem nhƣ một nguyên lý sống hoặc động cơ vận tải cho nguyên
lý này vẫn đóng góp có hiệu quả vào ảnh hƣởng của tất cả những gì liên quan tới ý niệm về
sự sống. Dòng chảy này có một sức mạnh vô cùng huyền bí, và sung sức nữa. Máu là món ăn
thích khẩu trong các bữa tiệc tôn giáo. Để tăng cƣờng sinh lực cho các trẻ em có thể chất
kém, ngƣời ta nhuộm quần áo của chúng, bằng máu chó. Dẫu sao ảnh hƣởng của máu vẫn
thƣờng không tốt, nhƣ nhiều tục lệ đã nêu bằng chứng. Mọi vật có vấy máu đều trở thành
Tinh. Đôi lúc trong một gia đình bất hạnh bệnh tật cứ tới tấp xảy tới gây khốn đốn cho ngƣời
trong gia đình. Có lẽ ở nơi nào đó trong nhà có chôn một tảng đá ''Tinh'' ( Thạch Tinh ). Nó
đã đóng vai trò nhƣ một thứ ''ma ếm'' vì nó đã bị vấy máu ngƣời . Phải tìm cho ra viên đá đó.
Chỉ có các vị pháp sƣ mới có khả năng tìm đƣợc nó, rồi ông mang nó ra ném xuống sông.
Những điều bất hạnh và bệnh tật không còn giáng xuống cho gia đình này nữa.
Một ngƣời đàn bà có kinh kỳ là một ổ tập trung mọi sự ô uế, nên cần tránh tiếp xúc. Vào thời
gian có kinh, mọi sự giao tiếp giới tính đều ngăn cấm đối với ngƣời đàn bà ấy. Ngoài ra bà ta
còn là đối tƣợng của mọi sự cấm kỵ khác khiến bà ta phải giữ gìn hoặc ngƣời khác phải giữ
gìn đối với bà ta. Bà ta không đƣợc rờ tới những món ăn ngâm muối , dƣa cải muối, cà muối,
thịt muối, cá muối, v.v... vì sợ các món ấy bị hỏng. Thế mà bà ta lại đƣợc phép rờ cá món
mức. (1)
Ngƣời phụ nữ không đƣợc phép bƣớc vào những nơi linh thiêng ; bà không nên tham dự các
lễ nghi cúng kiến về tôn giáo. Quần áo bà mặc trong thời kinh kỳ chỉ đƣợc giặt giũ do chính
tay bà giặt vào buổi sáng khi mặt trời mọc và không bao giờ giặt vào ban đêm. (2)
Việc thai sản , ở cữ, nằm chỗ, luôn luôn kèm theo những kỳ làm ''băng'' , ra máu, vì lẽ đó, bị
coi là nguyên nhân gây xuất huyết nên gần nhƣ luôn luôn nguy hiểm. Chính vì vậy ở Miền
Nam , khi tới kỳ sinh nở ngƣời đàn bà phải rút vào một nhà riêng, dƣới giƣờng luôn luôn có
một bếp lửa cháy liên tục (3). Bà mẹ ở một nhà riêng cách ly trong suốt 30 ngày, sau đó
ngƣời ta bỏ hay đốt tất cả đồ đạc đã sử dụng.
Sinh xong, ngƣời ta đặt trƣớc nhà một cành cây đã đốn, bây giờ chỉ còn là một khúc than củi
đã đốt đỏ ở một đầu. Làm nhƣ vậy để gọi là cắm khem, tức là làm dấu hiệu ngăn cấm. Trƣớc
đây đã từng có ngƣời nƣớc ngoài nghiên cứu về văn hoá Việt Nam đã viết về việc này bảo
rằng " làm nhƣ vậy là nhầm ngăn cấm không cho những ngƣời vốn đã từng sinh đẻ khó,
không cho họ vào nhà, hoặc những ngƣời hiếm muộn không con, hoặc những ngƣời sinh sản
bị làm băng, ra máu nhiều...tức là ngăn cấm những phụ nữ đã có trong mình điều xui rủi, bất
hạnh ''. Từ đấy, theo chúng ta, quả là một việc làm có ý nghĩa tuy không đầy đủ. Cần thấy
thêm trong tục lệ này một lời thông báo gởi ra cho kẻ nào từ ngoài tới phải tránh bƣớc vào
nhà, có nguy hiểm vì có đàn bà sinh nở. Những gì xảy ra sau này, sẽ xác nhận thêm lời giải
trên đây.
Nhƣ vậy ở Miền Bắc ( khi xƣa) những phụ nữ xa lạ với gia đình tránh tới thăm viếng những
ngƣời mới nằm chỗ, vì ngƣời ta tin rằng thƣờng thƣờng ngƣời đẻ sẽ truyền lây bệnh cho
những ngƣời ngoài gia đình nếu bệnh nhân rờ rẫm tay chân hoặc trao cho ai vật gì.
Tất cả thành viên trong gia đình và bạn bè ở trong nhà vào lúc sinh nở đều giả định nhƣ đã
mắc một cơn bệnh lây nhiễm mà ngƣời ta quen gọi là ''Cung Long''. Những ngƣời vì thiếu
thận trọng đã bƣớc vào nhà ngƣời ấy có thể mang bệnh đến cho đứa trẻ sơ sinh. Không kẻ
nào đƣợc quyền xem thƣờng việc này và phải luôn tẩy rửa mình thật sạch sẽ.Và bƣớc vào
nhà, luôn đƣợc thông báo trƣớc về việc ở cữ của ngƣời đàn bà , nếu không vƣớng phải bệnh
tật, thì bị tán gia bại sản.
Nhƣ vậy ngƣời ta có thể khẳng định việc thai sản là đáng sợ trong môi trƣờng hợp. Không chỉ
do hành vi sinh nở làm phát sinh việc đó mà còn do mọi việc có liên quan tới việc sinh nở.
Cuống rún và nhau đều có mang nhiều tính chất đặc biệt mà ngƣời ta đã kinh nghiệm thấy.
Cuống rún phải đƣợc giữ suốt cả năm ; khi khô, ngƣời ta dùng nó để trị đau bụng cho chính
đứa trẻ ấy. Muốn trị đau bụng ngƣời ta đốt miếng cuống rún thành than rồi hòa vào nƣớc cho
đứa trẻ uống.
Nhau nổi tiếng có nhiều năng lực trị bệnh hoặc có ảnh hƣởng xấu khiến ngƣời ta giữ nó thật
kỹ lƣỡng hoặc tiêu huỷ di, tùy trƣờng hợp.
Nói chung ở Việt Nam, ngƣời ta chôn nhau hoặc trƣớc cửa nhà, hoặc ở nơi hẻo lánh ngƣời ta
thỉnh thoảng có thể tới thăm để xem tình trạng của đất. Nếu đất chai cứng lại, đứa trẻ dễ bị
nấc cục và nó sẽ bị ói mửa nếu đất trở nên tƣơi xốp hơn. Ngày xƣa , cái nhau đƣợc giữ kỹ với
vôi và 100 cây kim trong một nồi đất đƣợc treo ở một nơi phơi ra ánh nắng ; làm vậy là có
mục đích bảo về cuộc sống cho đứa bé nếu ngƣời mẹ sinh con lần nào cũng sớm bỏ con .Khi
đứa bé đƣợc 10 tuổi , ngƣời ta mang chiếc nồi đất ném xuống giữa dòng. Đôi khi muốn nuôi
đƣợc đứa bé, ngƣời mẹ phải ăn một miếng nhau của bà.
Ngƣời đàn bà sống trong máu me và cũng sinh nở trong máu me, nếu không may bị mất
mạng, tất yếu phải chịu số phận khổ đau. Bà sẽ thoát sinh vào kiếp khác và chuyển luôn số
phận đặc biệt của mình cho ngƣời khác. Nhƣ vậy ngƣời đó đa truyền đạt tính cách tƣơng tợ
của máu me. Từ đó nhiều dân tộc suy nghĩ về đàn bà : đàn bà vốn là bản thể của ô uế.
Nếu ta ra khỏi nhà đi công việc gì đó gặp phải ngƣời đà bà và đặc biệt là ngƣời phụ nữ mang
bầu, thì phải trở về nhà ngay. Việc gì cần giao dịch sẽ không khí nào thành tựu. Các cô gái
khi đến tuổi dậy thì ; không nên rờ tới hoa trái của vài giống cây ; hoa sẽ tàn và trái sẽ
rụng............
(1) Để giải thích cho việc này, chúng ta thấy vật ngâm muối nằm trong cùng một trật tự với
nữ giới (Âm) tức là sự lây lan cứ tiến hành theo một tuyến dễ bị hỏng nhất, nên tác động dễ
dàng lên giới âm của phụ nữ, lên các vật ngâm muối, do tính nhạy cảm của giới nữ và âm
giới ; Cũng vì lý do nhƣ vậy, ngƣời phụ nữ có kinh có thể rờ tới các lọ mức, là vật ƣớp đƣờng
ngọt. Vị ngọt lại nằm trong trật tự khác hẳn, thuộc dƣơng, cho nên cơ may cho chuyện lây
nhiễm khó xảy ra, mức không bị hỏng.
(2) Đêm thuộc âm, quần áo giặt ban đêm do đó không đủ khả năng xua đuổi cac luồng âm khí
huyền bí trong quần áo ( nƣớc cũng thuộc về âm ). Ngƣợc lại, mùa xuân, mặt trời mọc ...đều
thuộc dƣơng và dƣơng sẽ thắng âm ; quần áo dơ bẩn do máu kinh kỳ, phơi ra ánh nắng sẽ
đƣợc hoàn toàn tinh khiết.
(3) Nhằm mục đích khử uế. Ở Bắc kỳ cũng có tục lệ nhƣ vậy. Có đôi khi khử uế bằng lửa
Chính vì sự nổi danh ô uế đó, nên phụ nữ luôn luôn sống riêng biệt.Trong nhà, họ có căn
buồng dành riêng cho họ và họ không bao giờ ngồi ăn chung mâm với đàn ông. Cũng vì lý do
đó, họ luôn luôn đứng riêng ra trong các lễ nghi tôn giáo. Họ chỉ dự vào các lễ tộc trong gia
đình nhƣng không bao giờ đƣợc phép làm chủ lễ.
Tính cách ô uế của phụ nữ mở rộng luôn tới lĩnh vực giao hợp sinh lý. Thƣờng ngƣời ta
thƣờng cho rằng, việc giao hợp vốn làm toát ra một hơi hƣớng, mà kết quả xấu vẫn tác động
lên một số bệnh lý. Khi đứa bé bị đau mắt hay đau trái, cha mẹ đứa bé phải kiêng cữ ngủ
chung : Nếu họ không kiêng cữ điều cấm kỵ này bệnh đứa bé sẽ nặng hơn. Hơn nữa phòng
ngủ ngƣời bệnh phải cẩn thận đóng kín cửa để không cho ngƣời lạ bƣớc vào . Kẻ vào phòng
có thể mang vào cái gọi là "hơi trai gái". Đứa trẻ nếu bị bệnh đậu mùa, sẽ bất tỉnh, rồi có thể
cụt tay hay què chân ; một chiếc xƣơng tay hay chân của nó sẽ vở ra. nếu nó bị đau mắt thì
mắt sẽ nổ. Đứa bé hoàn toàn mất thị giác.
Hành động giao hợp chính là sự ô uế nên nó càng ô uế hơn vào lúc nào đó và nhƣ vậy đó là
hành vi cấm kỵ. Chúng ta đã nói rằng sự cấm kỵ đã trở thành quy luật trong thời gian kinh kỳ
của ngƣời phụ nữ. Nó cũng trở thành điều cấm kỵ vào ngày mồng một và ngày mƣời lăm hay
các ngày 29, 30 mỗi tháng. Đây chính là những ngày của đợt hành kinh mới và là các ngày
trăng tròn hay không trăng. Có lẽ đây là thời kỳ trao đổi giả định của các ảnh hƣởng nguyệt
kỳ, lên kinh kỳ phụ nữ. Cần nên chú ý điều này là mặt trăng đƣợc coi nhƣ đang vào quy kỳ
tác hợp với mặt trời, chồng của mặt trăng; do đó các ngày gọi là " sóc, vọng hay là hối " (1)
có thể đƣợc gọi là "ngày giao phối", ngày thai nghén và ngày sinh nở. Và nhƣ vậy đó là
những ngày ô uế. Sự giao nhiễm mầu nhiệm có thể thiết lập rất đa dạng giữa mặt trăng và
ngƣời phụ nữ, vì phụ nữ và trăng đều thuộc âm phái nên ngƣời đàn ông tham dự vào cuộc
giao hợp coi chừng cũng lây nhiễm sự ô uế.
Chúng ta vừa thấy do sự liên kết tuần tự, các hiệu quả của Tinh có thể chuyển tiếp bằng máu.
Hành động này dù sao đi nữa cũng có thể lnh cảm đƣợc từ xa. Sự ô uế của máu có thể lan tỏa
ra, chẳng hạn nhƣ cho loài thú vật ăn thịt sống. Do chính phẩm cách ăn thịt sống của thú nên
rất có thể con chó cũng bị coi là ô uế ! Ngƣời ta cấm ăn thịt chó (2) nhất là khi ngƣời ta tham
dự vào một lễ nghi tôn giáo. Nghề giết thịt chó thƣờng thƣờng đƣợc bài xích. Rất có thể sự
bài xích này có nguồn gốc từ tín ngƣỡng Phật giáo, theo đó, những cuộc đầu thai làm thú đã
đa phần bị giáng cho những kẻ giết chó, tuy vậy vẫn cho phép suy nghĩ rằng tình trạng giết
thịt chó cũng có thể đƣợc coi nhƣ ô uế vì ngƣời làm thịt chó vốn thƣờng xuyên tiếp xúc với
máu chó.
Không chỉ có những gì tiếp xúc với máu mới có đủ đức tính của máu, mà những gì giống
máu. Chỉ vài mức độ cũng vậy . Sự sống đƣợc đồng hóa với khí, hơi thở; tất cả những cái có
liên quan tới hiện tƣợng sinh lý này đều mang tiếng có chung tính chất huyền bí nhƣ gió và
mùi chẳng hạn.
(1) Đây là tên gọi những ngày ở thƣợng tuần trăng (đầu tháng), trung tuần trăng (giữa tháng)
và hạ tuần trăng (cuối tháng).
(2) Sự cấm kỵ này còn lâu mới đƣợc mọi ngƣời tôn trọng ; trong nhiều khu chợ, chúng ta vẫn
gặp các ngƣời bán thịt chó; thịt này đƣợc ngƣời Việt chuộng ăn, có lẽ vì sự cấm kỵ ở trên.
Thịt chó là loại thịt dễ khiến ngƣời ta háu ăn. Do đó kẻ háu ăn thịt chó biểu thị một nhân cách
đê tiện, hèn hạ.
Có một lời nguyền nhƣ sau :
" Khói bay lên không gian và trở thành không khí trong lành : không khí trong lành bay lên
nữa, trở thành ete ; ete chỉ là một phi vật thể thanh thoát và mạnh. Đây chính là Phật tính, là
tính linh của Đức Phật. Đây là Đạo Đức cao cả, là Ánh Sáng rạng ngời. Ánh Sáng rạng ngời
là nguồn gốc của tất cả tinh lực tiềm tàng của tất cả dõng lực đích thực" .
Còn mùi (1) đƣợc coi nhƣ các cơn phát tỏa, bốc lên từ sinh vật hay sự vật. Vả lại nó đƣợc chỉ
định bằng từ hơi, mà ý nghĩa chính vẫn là "hơi thở". Vậy, sự tƣơng cận của hai từ đã tạo nên
sự khác biệt về ý niệm. Ngƣời Việt đã chấp nhận coi tất cả các khí hơi nhƣ ; hơi thở, hơi tỏa,
phát hơi,...đều có năng lực nhƣ nhau.
Mùi, hay "hơi hƣớng'' phát ra từ xác chết trở thành mùi đáng sợ, không phải vì các mùi ấy
đặc biệt khó ngửi mà vì các mùi ấy phát ra từ một sức mạnh huyền bí do tính chất tan loãng
mầu nhiệm của nó (2). Khi một thi hài không đƣợc chôn cất, ngƣời ta phải cử hành một số lễ
nghi để ngăn ngừa sự phát tiết mùi máu hôi thối có thể rất nguy hại. Vị pháp sƣ trƣớc hết vẽ
bằng khói nhang trên một bình chứa rƣợu có tẩm mùi hƣơng và đọc câu chú sau đây : " Lệnh
cho Đại Thánh Thiên Cƣơng (3) phải ngăn cấm các mùi xú uế sinh ra." Sau đó pháp sƣ phun
rƣợu lên mặt ngƣời chết. Ngƣời ta cũng đạt đƣợc kết quả nhƣ vậy bằng nhiều cách khác nhau
: Hoặc làm một lá bùa đốt ngay, trên lá bùa có ghi công thức hay lời nguyền trên đây. Hoặc
ngƣời ta quạt lên xác chết bằng một cây quạt giấy trên đó cũng có ghi công thức giống trên
mà vẽ bằng một cây nhang cháy đỏ v.v...Ngƣời ta còn có thể đặt lên bụng ngƣời chết một
miếng lƣỡi cày hay một miếng sắt bất kỳ, vừa bắt quyết (4) : TÝ, SỬU, NGỌ, MÃO, DẦN,
và đọc câu thần chú sau đây : " Tất cả các mùi xú uế ở trong xác chết không đƣợc toát ra
ngoài. Thần Thiên Cƣơng hãy mang đi tất cả mùi hôi thối. "
Trên giƣờng xác chết nằm, ngƣời ta đốt một cây thuốc nam thơm để xua đuổi muỗi mòng,
ruồi nhặng. Quan sát thật kỹ cách bày biện này và tôn trọng triệt để các lời hƣớng dẫn của các
pháp sƣ, họ bảo, ngƣời ta có thể giữ gìn xác chết suốt bốn năm ngày không hôi kể cả các
ngày viêm nhiệt.
Nhiều biện pháp phòng ngừa giống nhƣ vậy đƣợc dùng để chống lại hơi hôi miệng gây ra do
các món đã ăn. Tôi ghi lại đây bản ghi trong một tập cẩm nang thƣ của thầy pháp có tên BÙA
CHÖ ĐẠI TOÀN : " Khi các vị pháp sƣ ăn xong ( các món ăn không tinh khiết ) ngay tức
khắc pháp sƣ phải đọc câu thần chú sau đây : " Trung và Hạ, tất cả đều phải quang minh và
tinh khiết. Ta đang đứng giữa thiên và địa cũng nhƣ tất cả muon thú và thảo mộc. Tất cả
những vật ta ăn không thể làm trở ngại chƣ thần linh. Ta khẩn cầu chƣ Thần tích cực "La Ly
Đức Xá Hạ ".
Tất cả mùi hôi thối nói chung nhƣ vậy đều có sẵn một huyền năng lớn hay nhỏ, thiện hay ác
tùy theo mùi ấy thơm hay xú. Chính vì vậy nên củ hành và tỏi đều bị coi là xú ( hôi hám ). Nó
bị cấm ăn trƣớc buổi lễ. Luật nhà phù thủy đều có ghi các điều quy định gắt gao :
" Các chức sắc nhà Pháp (phù thủy) phải giữ gìn tránh uống rƣợu, không ăn hành tỏi. ......." (
tiết 139 - sắc lệnh 1- Về các lễ hiến tế) - Trong sách còn ghi rằng : Kẻ không ăn hành và tỏi
đều đƣợc coi nhƣ giống các vị thần và họ đƣợc ban khen.

Các mùi dễ chịu ngƣợc lại, có một ảnh hƣởng cứu rỗi. Nhang mà ngƣời ta đốt trên bàn thờ
không có mục đích duy nhất là làm sảng khoái các đấng thiêng liêng, mà nhiệm vụ của nhang
còn giúp xua đuổi các tà ma. Ngày đầu năm, tục lệ buộc phải chƣng hoa và xông hƣơng nhà
với hoa thuỷ tiên, là loại hoa có củ, hƣơng thơm nhẹ, nhập từ Trung Quốc và bán rất mắc.
Ngƣời ta đặt vài củ thủy tiên trƣớc bài vị Tổ Tiên. Nếu hoa nở buổi sáng ngày mồng một đó
là dấu hiệu hạnh phúc suốt năm trong nhà.
Vào năm mới, ngƣời ta treo lên mái nhà một gói lá ngải hƣơng có tính cách xua đuổi tà ma.
Các loại cỏ thơm có vai trò lớn lao trong lĩnh vực bùa phép. Ngƣời ta thƣờng dùng các hƣơng
thảo để làm phép.Ngƣời Việt mình còn thừa nhận một cách tổng quát rằng các mùi quá nặng
và xú uế tàn phá các làng hơi hoặc làm tỏa hơi độc hại thâm nhập vào có thể, (5,6)
(1) Cần chú ý rằng các tiếng ''khói'', '' hơi'' và ''mùi'' đều chung tộc ngữ ở cả 2 lĩnh vực âm
ngữ học và ngữ nghĩa học. Chữ khói phân tích thành 2 thành tố : hỏa và hồn ? (quỷ). Còn chữ
hơi, hơi thở có thể xác định với linh hồn các sinh vật hay sự vật : hơi ngƣời, hơi xác chết, hơi
đất v.v...
(2) Ở đây chúng ta da đụng chạm tới ảnh hƣởng huyền vi của tử thần. Ta sẽ nói tới việc này
sau.
(3) Thiên Cƣơng Đại Thánh ( Thiên = trời ; Cƣơng = xác chết chƣa có dấu hiệu phân huỷ ;
Đại = lớn ; Thánh = ông Thánh
(4) Quyết là dấu hiệu làm bằng ngón tay do các pháp sƣ dùng ếm tà ma, hay còn gọi là bắt
Ấn
(5) Ở Trung Quốc vào tháng 5, ngƣời ta có tục mang trên ngực một túi vải nhỏ đựng các
hƣơng thơm để xua đuổi các ảnh hƣởng xấu. Một tục lệ gần giống nhƣ vậy cũng có ở Bắc Kỳ
; vào mùa hè ngƣời ta cho trẻ con đeo một túi nhỏ cùng với vài lá bùa : quả bầu, quả lựu bàng
bạc, con heo nhỏ bằng cây v.v...
(6) Bài đọc thêm -
Ông Hà Hùng Tiến -
Nguyên Trƣởng ban Văn hoá, Viện Văn hoá, Bộ VHTT:
Mƣờng là dân tộc giỏi nhất về bùa chú.

Ngƣời Việt Mƣờng rất giỏi làm bùa chú. Từ thời mới bƣớc chân vào nghề khảo cổ tôi đƣợc
cử công tác ở khu vực có nhiều ngƣời Mƣờng sinh sống, tôi có may mắn đƣợc một ngƣời
Mƣờng dạy cho bùa chú. Ngƣời thày dạy có nói một câu mà tôi còn nhớ mãi. Đó là, chỉ đƣợc
dùng bùa chú làm điều thiện, không làm điều ác. Nếu làm điều ác thì giỏi lắm chỉ làm đƣợc
cho hai trƣờng hợp sau đó thì bản thân sẽ chết.
Suốt những năm 1968 - 1969 tôi đã thâm nhập rất sâu vào đời sống của bà con 8 xã Mƣờng
nhƣ Tân Lạc, Nhân Nghĩa, Quý Hoà, Thành Đạo và học đƣợc rất nhiều bùa. Ngƣời Mƣờng
có nhiều bùa nhƣ bùa yêu, bùa chài ếm, bùa chữa bệnh... Bên cạnh đó ngƣời Thái, Chàm, Tây
Nguyên, Bana, Êđê cũng có rất nhiều cách yểm bùa. Đặc biệt ngƣời Êđê có rất nhiều bùa
thuốc. Các loại bùa phần lớn đƣợc làm từ lá cây tự nhiên nhƣ đinh hƣơng, hƣơng nhu, quế
chi, các loại vỏ cây trên rừng cũng chỉ ngũ sắc, sau đó dùng những lời chú để chú vào đó.
Bùa cũng có thể làm bằng giấy dán lên tƣờng, thƣờng là bùa phép phật để linh hồn quấy phá
trông vào thấy sợ.

THAM KHẢO THÊM ( Tài liệu của Huyền Trí ).


Thỉnh Độc cƣớc giáng Phù.
" Öm sơn tiêu sơn tiêu, Độc cƣớc đáo đàn hồi , tùy phù tùy chú , hỏa tốc động thôi, cấp cấp
nhƣ luật lệnh.
Öm tiêu sơn Độc cƣớc tật tốc giáng ( Bắt quyết tại cung Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn , Tị, Ngọ ).
Cẩn thỉnh Đông phƣơng thanh Đế , Độc cƣớc Tiên ông , thần thông lục trí, lai tòng Ngô độ
Thần phù ( Bắt quyết tại các cung Mão , Ngọ, Dậu , Tý ).
Nam phƣơng xích Đế , Độc cƣớc Tiên ông , thần thông lục trí , lai tòng Ngô độ Thần phù (
Bắt quyết tại các cung Mão , Ngọ, Dậu , Tý ).
Bắc phƣơng hắc Đế , thần thông lục trí , lai tòng Ngô độ Thần phù ( Bắt quyết tại các cung
Mão , Ngọ, Dậu , Tý ).
Tây phƣơng bạch Đế , thần thông lục trí , lai tòng Ngô độ Thần phù ( Bắt quyết tại các cung
Mão , Ngọ, Dậu , Tý ).
Trung ƣơng hoàng Đế , thần thông lục trí , lai tòng Ngô độ Thần phù ( Bắt quyết tại các cung
Mão , Ngọ, Dậu , Tý ).
dienbatn giới thiệu .

You might also like