Professional Documents
Culture Documents
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM PDF
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM PDF
CHUYỆN HUYỀN BÍ KIM CỔ SƯU TẦM PDF
Đây là vong linh của ngƣời phụ nữ chết trong khi sinh khó.
Chính vì chết trong đau đớn và mất mát nên loại ma này đƣợc coi là rất hung bạo.
Phi Krahang
Ma này xuất hiện với hình dáng một ngƣời đàn ông với lông và đuôi nhƣ một con chim.
Khuôn mặt nhƣ quái thú.
Nó ăn filth và glows vào ban đêm.(dịch không đƣợc)
Đây là loại vong linh khó chịu và đáng sợ.
Phi Krasi (Ma xó)
Krasi có màu của lửa, thân dài, có đuôi màu xanh. Loài ma này thƣờng đƣợc các bà phù thủy
(bà đồng) triệu tập theo bên ngƣời.
Ma krasi thích sống ở dƣới những mô gò và thƣờng không gây hại cho con ngƣời.
Đôi mắt của nó thƣờng không chớp và không dám nhìn vào mắt ngƣời.
Trƣớc khi phù thủy có luyện ma krasi chết, họ sẽ tìm một ai đó kế thừa để trao lại những con
ma krasi này.
Phi Lok
Đây là một dạng địa linh.
Nó sợ con ngƣời và ít khi làm hại đến ai nếu nhƣ không xâm phạm gì đến nó. Loài này thỉnh
thoảng vẫn hiện lên cho con ngƣời bắt gặp.
Phi Prai --
Vong hồn của ngƣời phụ nữ đã chết trong khi sinh con. Đồng thời, cơ thể của cô ta đƣợc các
thầy pháp luyện thành nơi trú ngụ cho một loại ma con gọi là Phi Tai Tong Klom.( một dạng
Gumanthong)
Để luyện phép, thầy phù thủy phải đặt nến dƣới cằm của xác chết, và từ tinh chất dầu chảy ra
từ xác chết, ông thầy có thể dùng cho nhiều việc, một trong những việc ấy là quyến rũ phụ
nữ.
Phi TAI Hà
Những linh hồn này thƣờng ám nhập các phụ nữ. Khi rút hết sinh khí của ngƣời này, nó có
thể chuyển sang ngƣời phụ nữ khác có cùng sở nghiệp, giống nhƣ một loại kí sinh trùng vậy.
Phi HAi --
Đây là loài ma đói, một loài vong linh chết một cái chết không tự nhiên nhƣ: chiến tranh, bạo
lực, tai nạn, chết cháy... không ai cúng bái.
Loài ma này luôn tìm mọi cơ hội ám nhập con ngƣời để có thể thỏa mãn cơn đói và sự uất
hận vì chết không yên.
Bình thƣờng, chúng có thể gây ra nhiều tình huống để hại nạn nhân nhƣ: xô té sông, té vào xe
tải...
Phi Pop --
Một loại vong linh rất dữ dằn và nguy hiểm thƣờng hiện lên dƣới hình dáng một ngƣời con
gái đẹp. (Ở Việt Nam, vùng Tây Nguyên, ngƣời dân tộc gọi là ma lai rút ruột).
Chúng thƣờng xuất hiện trong đêm, khi cái đầu rời khỏi thân thể bay đi kiếm ăn với đùm ruột
lòng thòng. Do đó, hãy cẩn thận phụ nữ xinh đẹp.
Loại ma có lẽ là đáng sợ hơn bất kỳ loài khác ở Thái Lan.
PHI TAI TONG KLOM
Ngƣời Thái có niềm tin rằng một ngƣời mẹ với đứa bé chết trong bụng mẹ có thể trở thành
một loài ma dữ dằn ghê gớm.
Vì vậy, chỉ có các-mạnh tâm trí ngƣời sở hữu những kiến thức ma thuật tiên tiến để chống lại
ma quái có thể làm điều này.
NAM MAN PRAI
(Nam Man = dầu, Prai = nữ ma).
Các thầy bùa Thái muốn luyện dầu nhƣ nhu cầu để kích dục cho đối tƣợng, họ sẽ luyện phép
này... Sử dụng các ngọn nến từ từ sƣởi ấm dƣới cằm của xác chết để lấy dầu từ xác chết chảy
ra. Chất dầu này sẽ dùng để luyện dầu yêu.
Những niềm tin vào ma và tinh thần vẫn còn phổ biến rộng rãi trên toàn Thái Lan & Châu Á.
Ma Hồi giáo đã xuất hiện mà có thể đƣợc hƣớng giảm do hƣng thịnh một miếng thịt heo (tốt
hơn là một con lợn của ngƣời đứng đầu) lúc đó.
Gumanthong- Cậu bé Vàng
Bài viết này của TADN đăng trên blog. Tôi đã sao lại rồi bổ sung thêm một chút để anh chị
em nghiên cứu.
(TADN)Kumanthông là tên gọi của ngƣời Thái dành cho quỷ nhi, một anh nhi đƣợc thầy gia
công tế luyện. Tinh thần trong sáng của đứa bé hết hợp chú thuật và thần lực của các vị Tổ
thông qua việc tế luyện công phu của pháp sƣ sẽ cho ra đời một tiểu quỷ có nhiều khả năng
đặc biệt.
Kumanthông đƣợc sử dụng với nhiều mục đích khác nhau: Tăng ích (chiêu tài, câu khách,
buôn may bán đắt), Kính ái ( tạo tình cảm ), Tức tai (bảo hộ thân chủ trong những trƣờng hợp
gặp nguy hiểm, mách bảo trƣớc những chuyện nguy hiểm…), Hàng phục (phá phách đối thủ,
gây bệnh…), Câu triệu (gọi ngƣời đi xa…). Tuỳ theo mục đích của thầy mà Kumanthông
đƣợc luyện theo những cách khác nhau. Nhƣng cách luyện cơ bản nhất vẫn là ra nghĩa địa tìm
xác chết một ngƣời phụ nữ đang có mang vừa chết trong thời gian 21 ngày. Sau khi bày đồ lễ
vật cúng, ông thầy xin ngƣời phụ nữ đứa con trong bụng rồi đào xác lên mổ bụng lấy đứa bé.
Trong lúc làm phép tuyệt đối không có ngƣời thƣờng ở gần, vì vong hồn ngƣời mẹ có thể
phẫn uất mà vật chết những ai không có phép hộ thân.
Lấy đƣợc xác về, thầy phù thủy phải đem ngay đến một lò thiêu gần đó để thực hiện công
đoạn thứ hai là sấy xác chết.
Cũng có thể thiêu thành tro rồi lấy tro cốt ấy hòa với những chất liệu khác đổ khuôn ra những
pho tƣợng nhỏ. Khi xác đứa bé đã khô hẳn lúc bấy giờ nó nhỏ gần bằng nắm tay. Ông thầy
dùng vải quấn lại để lên bàn thờ mà luyện.
Lễ vật cúng cho quỷ nhi thƣờng là sữa, nƣớc ngọt, bánh kẹo
Nhiều ý kiến cho rằng Kumanthông là Thiên linh cái.Điều này không phải, bởi vì Thiên linh
cái là một loại khác không liên quan.
Thông thƣờng ngƣời ta dùng Kumanthông trong việc cầu tài bảo. Tƣợng cậu bé thƣờng làm
bằng vàng, bằng đồng, bằng đất nung. Nhƣng tƣợng gốc là xác đứa bé, ông thầy không dại gì
cho ngƣời ngoài thấy …
Đa số thƣờng phết vàng lên tƣợng thể hiện sự sùng bái và tăng thêm giá trị cho tƣợng. Do
vậy, Kumanthông còn đƣợc gọi là cậu bé Vàng.
Hình tƣớng cậu bé Vàng đƣợc thể hiện ở nhiều dạng khác nhau. Có 5 dạng chủ yếu: Ngồi xếp
bằng, quỳ, đứng, ngồi xổm, nằm. Đa số tƣợng đƣợc tạo ra đều có hình dáng đƣa tay ngoắc.
Dù là quỷ, nhƣng Kumanthông vẫn là trẻ con. Cho nên các vị này phá phách rất hồn nhiên,
bất kể ngƣời đời có tin hay không tin, có sợ hay không sợ. Ngƣời nào đƣợc thầy cấp phép có
liên quan đến Quỷ nhi đều đƣợc dặn dò kỹ những biện pháp xử lý trƣớc những tình huống lạ
xảy ra…
DỊ THUẬT KÝ.
Mọi ngƣời đều nói rằng hiện giờ đã tới thời mạt pháp. Mà đã là mạt pháp thì trƣớc tiên sẽ
phải là tà ma ngoại đạo quấy nhiễu chúng sinh để cho các chính đạo tu sĩ có cơ hội trảm yêu
trừ ma. Thấy mọi ngƣời trên diễn đàn ai cũng là nhân sĩ chính đạo hết nên mình xin nhận làm
vai bàng môn tả đạo một phen.
Hiện trên diễn đàn các loại kỳ công tâm pháp, bùa chú ngải nghệ đều đƣợc giới thiệu hết rồi,
nhƣng các dị thuật thì lại ít thấy nên mình xin góp một phần nhỏ kiến thức mong rằng có thể
mua vui một vài trống canh trƣớc mặt các bậc cao nhƣn.
“Nguyệt thần hộ bảo” là một dị thuật rất nổi tiếng ở Việt Nam đặc biệt là thời kỳ trong và sau
giải phóng. Có thể nói ở Việt Nam lúc bấy giờ hầu nhƣ ai cũng nghe nói về tác dụng của dị
thuật này mặc dù ngay cả tên của nó là gì có khi chẳng ai biết đến.
“Nguyệt thần hộ bảo” tên nhƣ ý nghĩa là dị thuật dùng để bảo vệ kho tàng, bảo khố, đƣợc các
tu sĩ ngƣời Hoa áp dụng cho việc bảo vệ các kho báu của các gia tộc ngƣời Hoa định cƣ tại
Việt Nam, vì nhiều lý do phải hồi hƣơng gấp mà không kịp mang theo gia sản, nên đành chôn
giấu và niêm phong kho báu, với mục đích ngày sau con cháu có cơ hội quay trở lại Việt
Nam lấy lại gia sản của tổ tiên.
“Nguyệt thần hộ bảo” mục đích là Hộ bảo, và “ngƣời” hộ bảo đƣợc gọi là “Nguyệt thần”.
Để tạo ra Nguyệt thần, các tu sĩ ngƣời Hoa liền đi khắp nơi trên nƣớc Việt chọn lấy các trinh
nữ tuổi khoảng 12, 13 (Đƣợc gọi là “Nguyệt thƣớc” - Mầm gạo Nguyệt) để chú thuật nuôi
dƣỡng cho đến khi “Nguyệt thƣớc” thành thục thì mang tới kho tàng tiến hành hoàn tất pháp
thuật.
“Nguyệt thƣớc” tất nhiên không phải lựa chọn từ các trinh nữ một cách bừa bãi mà chọn theo
Bát tự một cách quy luật. Tƣơng truyền, trong các loại “Nguyệt thƣớc” có hai loại linh
nghiệm nhất, đồng thời hiệu quả cũng mạnh mẽ nhất:
1, Canh Kim Nguyệt Thƣớc: Đây là những trinh nữ sinh vào giờ Kim, ngày Kim, tháng Kim,
năm Kim, mệnh Kim ngũ cục. Đặc biệt nếu trên ngƣời có khí chất vƣơng giả hoặc khí chất
của gia đình võ tƣớng thì càng thêm hiệu quả.
Canh Kim Nguyệt Thƣớc sau khi thành thục sẽ trở thành Canh Kim Nguyệt Thần (hay còn
gọi là Canh Kim Sát) là một trong những Nguyệt thần thủ hộ có sát tính mạnh nhất, phù hợp
với việc thủ hộ kho tàng của tầng lớp công hầu vƣơng giả.
2, Huyền Âm Nguyệt Thƣớc: Đây là những trinh nữ sinh vào giờ Âm, ngày Âm, tháng Âm,
năm Âm, mệnh Thuỷ lục cục. Đặc biệt trên ngƣời có khí chất hạo thiên của gia tộc văn quan,
hoặc khí chất đoan thục của gia đình hào môn gia giáo thì càng thêm hiệu quả.
Huyền Âm Nguyệt Thƣớc sau khi thành thục sẽ trở thành Huyền Âm Nguyệt Thần (hay còn
gọi là Huyền Âm Sát) là một trong những Nguyệt thần thủ hộ có Âm tính mạnh nhất thiện về
che dấu, phù hợp với việc thủ hộ kho tàng của tầng lớp cổ gia, đại thƣơng phú khả địch quốc.
Sau khi đã “Tuyển thƣớc” thành công, thì chuyển sang “Dƣỡng thƣớc”.
Quá trình “Dƣỡng thƣớc” là việc các tu sĩ ngƣời Hoa dùng dƣợc liệu nuôi dƣỡng “Nguyệt
thƣớc”, dạy cho các “Nguyệt thƣớc” một loại công pháp cơ bản “Nguyên thần hoá âm thuật”
và bắt “Nguyệt thƣớc” phải tu luyện đến đại thành trƣớc năm 15 tuổi, đồng thời chú khắc lên
cơ thể “Nguyệt thƣớc” các loại phù trận tuỳ theo từng tu sĩ.
Những “Nguyệt thƣớc” thành thục (tức là hoàn thành “Nguyên thần hoá âm thuật” trƣớc năm
15 tuổi) sẽ đƣợc lựa chọn một lần cuối để chọn ra “Nguyệt thƣớc” có khí chất tốt nhất, đồng
thời đƣợc đƣa đến kho tàng đúng vào năm 15 tuổi để chuyển thành “Nguyệt thần”
Kho tàng, vốn cũng đƣợc các thuật sĩ ngƣời Hoa lựa chọn trƣớc tại những nơi có hoàn cảnh
phong thuỷ đặc biệt và khó phát hiện.
Tại kho tàng, trƣớc khi bắt đầu nghi thức chuyển hoá. “Nguyệt thƣớc” (Giai đoạn hiện tại còn
có thể gọi là “Nguyệt sát”) đƣợc tắm rửa sạch sẽ, chay tịnh một thời gian, đồng thời đƣợc cho
ngậm một miếng sâm (hoặc phù chú) tuỳ môn phái, đảm bảo có thể duy trì sự sống của
“Nguyệt sát” 100 ngày, và cũng chỉ duy nhất 100 ngày không hơn nửa khắc (Đƣợc gọi chung
“Bách nhật lệnh”), và bị hàn kín miệng lại.
Lúc này “Nguyệt sát” sẽ đƣợc khống chế không thể di động, và đƣợc đặt vào trong trận pháp
tƣơng ứng với loại “Nguyệt thần” của bản thân. Sau đó thì trận pháp đƣợc khởi động bằng
tính mạng và máu huyết của các hạ nhận đào động, vận chuyển báu vật mang vào trong động.
Đồng thời cũng là một cách giữ bí mật vị trí của bảo tàng mà ngƣời Hoa hay dùng.
Trong bảo tàng lúc này các cơ quan ám khí, hoặc độc dƣợc, chƣớng khí (tuỳ bảo tàng và
thuật sĩ) cũng sẽ đƣợc khởi động (hoặc tự khởi động) vào khắc cuối cùng khi mà cửa bảo
tàng (cửa động) đƣợc phong kín.
Cuối cùng, hậu duệ của các đại gia ngƣời Hoa trên sau này chỉ việc mang theo bản đồ, Lệnh
phù phù hợp với pháp trận của bảo tàng, những kiến thức gia truyền liên quan đến việc phá
giải cơ quan bẫy rập… trong động, đồng thời đợi đến đúng thời điểm “Nguyệt thần sát trận”
mở ra trong tháng (Mỗi tháng, trận pháp trong bảo tàng sẽ mở ra khoảng hai, ba ngày -
thƣờng gọi là “Nguyệt thần sát trận”) thì tiến vào lấy bảo vật.
Nhàn đàm: Thực tế, việc lựa chọn “Nguyệt thƣớc” dựa vào Bát tự, việc dùng phong thuỷ lựa
chọn nơi chôn bảo tàng, và việc thiết kế cơ quan bẫy rập… không khó. Điểm mấu chốt của
“Nguyệt thần hộ bảo” là Bí thuật “dƣỡng thƣớc”, công pháp “Nguyên thần hoá âm thuật”,
“Nguyệt thần sát trận” và Bí thuật “Bách nhật lệnh”
Kỳ 2: Chiêu Tài Thánh Nữ
“Chiêu tài thánh nữ” cũng là một dị thuật có công dụng khá nổi tiếng ở Việt Nam trong thời
kỳ sau giải phóng, cuối thời kỳ bao cấp. Vì một vài lý do, nó chỉ đƣợc thực hiện một cách
ngấm ngầm, do một số ít ngƣời có đủ khả năng về tiền bạc, quyền thế… có thể làm đƣợc mà
không sợ bị tóm.
Cũng giống nhƣ “Nguyệt thần hộ bảo”, ngay cả trong thời kỳ toàn thịnh nó cũng chỉ đƣợc
biết đến với công dụng là chính mà danh tự thì hầu nhƣ rất ít ngƣời biết (trừ những đại gia đã
từng thực thi dị thuật này). Và vì vậy, những câu truyện nói về nó càng lúc càng sai lệch đi
rất nhiều. Một trong những dị bản sai lệch đó và đƣợc biết đến nhiều nhất là việc các đấng
mày râu truyền tụng về việc ngủ với gái trinh thì việc làm ăn sẽ may mắn.
Thực tế “Chiêu tài thánh nữ” có thể coi nhƣ là một danh hiệu dùng chung, bởi vì mục đích
của dị thuật này là giúp cho thân chủ có thể “Chiêu tài” và có rất nhiều môn phái, tu sĩ có
đƣợc và có thể thực thi loại phép thuật này (Tất nhiên là hình thức thì đa dạng và hiệu quả thì
cũng không đồng nhất).
Ở đây, tôi nhấn mạnh chữ “Chiêu tài” là mong ngƣời đọc không phải nhầm lẫn giữa Chiêu
tài và Cầu tài.
Cầu tài là bằng vào bí thuật tăng lên vận số để trong hồng trần mênh mang có thể có nhiều
hơn cơ hội nắm đƣợc duyên tài lộc. (Hay ví dụ một cách đơn giản thì cầu tài giống nhƣ là
tăng tỷ lệ đạt đƣợc giải độc đắc trong việc đánh sổ xố vậy).
Tuy nhiên, dù cầu tài thuật có cao minh đến cỡ nào đi nữa thì tối đa cũng chỉ khiến cho ngƣời
đƣợc thi thuật có đƣợc 50-50 cơ hội nắm bắt đƣợc duyên tài lộc mà thôi (Đây là trƣờng hợp
lý tƣởng nhất, thông thƣờng thì ít hơn rất nhiều).
Hơn thế, thƣờng thì bí thuật cầu tài thƣờng để lại những hậu quả lớn cho thân chủ bởi vì vận
số của con ngƣời nói thật cũng chẳng phải dễ dàng tăng lên nhƣ thế (dù chỉ là trong thời gian
ngắn cố định hay cơ hội lý tƣởng tối đa là 50-50).
Thuật “Chiêu tài” thì lại khác (hoặc có thể nói là một loại thuật Cầu tài cao cấp hơn), bởi vì
thứ nhất kết quả “Hoạch tài” (Lấy đƣợc tài lộc) trực tiếp hơn rất nhiều, thứ hai phần “báo
ứng” cũng đến chậm rãi hơn rất nhiều.
Nhƣ đã nói ngay từ đầu “Dị thuật ký” là chuyên nói về những dị thuật bàng môn tà đạo thế
nên “Chiêu tài thánh nữ” cũng không nằm ngoại quy luật này. Vì sao phải nhắc nhở nhƣ vậy?
Đó là bởi vì muốn ngƣời đọc có thể nhìn từ góc độ của tu sĩ tà phải (những ngƣời sẵn sàng
dùng mọi loại thủ đoạn, phép thuật tổn thƣơng ngƣời khác chỉ để lấy đƣợc lợi ích cho bản
thân) để cùng suy xét về nguyên nhân có thuật chiêu tài này.
Ở trên đã nói, thuật Cầu tài kết quả luôn không rõ ràng mà quả báo thì lại gần trong gang tấc.
Điều này khiến những tu sĩ tà phái (gọi tắt là tà tu) gặp khó khăn trong việc thuyết phục các
thân chủ, vốn là các đại gia tinh minh trong chốn thƣơng trƣờng, chính trƣờng quyết định
thực hiện thuật cầu tài và tất nhiên sau đó sẽ đến việc trả thù lao cho mình (có thể là tiền bạc,
có thể là dƣợc liệu...).
“Con ngƣời muốn tăng lên vận số của mình một cách không theo tự nhiên thì phải trả một cái
giá tƣơng tự” đây là một quy luật mà chỉ cần là tu sĩ đạt đến một tầng thứ nhất định, hoặc
những ngƣời thực sự có tri thức đều hiểu. Mà cái giá phải trả ở đây không phải là tiền bạc của
cõi tục mà là tinh huyết và dƣơng thọ (Hoặc vận số). Tuy nhiên, nếu các thân chủ, ngƣời mà
sẽ nhờ các tu sĩ thực hiện thuật cầu tài thông thƣờng hiểu rõ đƣợc điều này thì sẽ chẳng ai
dám thực thi nó cả.
Vấn đề mấu chốt để đánh phá sự thất lợi trong việc “Cầu tài” này chính là phải có ngƣời hy
sinh tinh lực, dƣơng thọ, hay vận số để đổi lấy “Tài lộc”. Tất nhiên, kẻ phải chịu sự hy sinh
này sẽ không phải là thân chủ hoặc tu sĩ. Vì thế Chiêu tài “Thánh nữ” mới đƣợc sinh ra.
Có rất nhiều dị bản của thuật “Chiêu tài thánh nữ” tuỳ theo từng môn phái và tu sĩ thực hiện
mà bản thân tôi cũng chỉ tìm hiểu một phần nên không thể kể hết ra đây, mà chỉ xin miêu tả
lại một thuật sử dụng song trọng liên hoàn trận đƣợc coi là hoàn mỹ nhất trong các loại thuật
“Chiêu tài thánh nữ”, đồng thời xin giữ nguyên danh tự “Chiêu tài thánh nữ” cho thuật này
bởi vì theo tôi nó cũng xứng đáng có đƣợc danh hiệu này nhất.
Để thực hiện “Chiêu tài thánh nữ” trƣớc tiên cần phải có “Thánh nữ”
Không nhƣ “Nguyệt thần hộ bảo” việc lựa chọn “Thánh nữ” trong thuật này cũng dễ dàng
hơn rất nhiều. Trọng yếu là phải đáp ứng đƣợc hai điều kiện. ”Thánh nữ” phải là các cô gái
đồng trinh, tuổi từ 16-20t (hoặc từ 13-18t), đồng thời “Thánh nữ” phải có bát tự thuận hành
với thân chủ. Ví dụ: Thân chủ sinh giờ Kim, ngày Mộc, tháng Thuỷ, năm Hoả thì “Thánh nữ”
sẽ phải đƣợc chọn sinh vào giờ Thổ, ngày Thuỷ, tháng Kim, năm Mộc. (Đây là yếu tố Nhân)
Sau khi đã chọn đƣợc “Thánh nữ” phù hợp, các tà tu sẽ chọn một địa điểm có phong thuỷ
thích hợp để tiến hành bố trí pháp đàn, trận pháp. (Đây là yếu tố Địa). Tại đây, tu sĩ ngƣời
Hoa sẽ sử dụng 108 pháp khí đặc thù “Dẫn Hồn Linh” để bố trí một trận pháp song trọng bao
gồm “Tam Tài Dƣỡng Sinh Trận” kết hợp với “Thuần Âm Tế Thiên Trận”. Trận pháp song
trọng này theo bản thảo cổ nhất mà tôi có trong tay đƣợc gọi là “Tế Nguyệt An Thiên Trận”.
Trƣớc một vụ làm ăn lớn, các tà tu ngƣời Hoa sẽ chọn cho thân chủ một ngày, giờ tốt để tiến
hành thi thuật (Yếu tố Thiên). Trƣớc đó, “Thánh nữ” và thân chủ sẽ đƣợc cho ăn uống vui
chơi, chay tịnh … để đạt đƣợc trạng thái thân thể no đủ và tinh thần bão mãn nhất (Nhân khí
thịnh vƣợng nhất).
Đến đúng giờ các tà tu sẽ cho thân chủ cùng “Thánh nữ” hành phòng. Trong khi đó tu sĩ sẽ sử
dụng ba yếu tố Thiên-Địa_Nhân làm “ngòi nổ” để khởi động trận Tam Tài. Sau đó lại dùng
Tam Tài Trận thúc dục “Dẫn Hồn Linh” thông qua nguyên âm của thánh nữ bị tiết ra sau khi
bị phá thân tiến hành thu một phần hồn phách của “Thánh nữ” đồng thời dùng phần hồn
phách này và khí nguyên âm khởi động nốt “Tế thiên trận” để thực hiện một loại pháp thuật
(Trong các bản thảo cổ tìm đƣợc hầu hết bị hƣ hại phần cuối nên không rõ đƣợc là pháp thuật
gì. Trong bản thảo mới nhất mà tôi tìm đƣợc thì là điệp giai pháp thuật “Ngũ Quỷ Vận Tài”).
Theo những gì thu thập đƣợc thì sau khi thực hiện thuật này những vụ làm ăn thƣờng vô cùng
thuận lợi (kết quả hiện rõ) và đồng thời thân chủ cũng không có nhiều ảnh hƣởng về sau. Có
điều các “Thánh nữ” thì thƣờng chết ngay sau đó (Không quá ba tháng sau khi bị thi thuật).
Nhàn đàm: Mặc dù thuật chiêu tài này thoạt nhìn thì chỉ có một ngƣời bị hại là Thánh nữ, và
thân chủ có vẻ nhƣ không bị quả báo trong suốt cuộc đời của mình. Nhƣng bản thân tôi vẫn
tin rằng vận số con ngƣời tuyệt đối không dễ thay đổi nhƣ thế, báo ứng có thể không đến
ngay trong đời này, nhƣng đến các đời tiếp theo thì rất khó mà nói.
Tất nhiên, nếu ai cho rằng chỉ cần đời này không bị gì thì sau khi chết cũng đâu cần quan tâm
hay đời con cháu có ra sao mình cũng không biết đƣợc thì tôi xin miễn bàn. Chỉ xin khuyên
những ai có hy vọng nhờ vào dị thuật, pháp thuật… để thay đổi vận số của mình nên thận
trọng, số mệnh tốt nhất phải đƣợc tạo thành từ chính sự lao động của đôi bàn tay mới là đáng
quý.
Kỳ 3: Bạch Hổ Nguyên Âm
Đề tài có chút nhạy cảm, đề nghị các member dƣới 18t suy nghĩ kỹ trƣớc khi đọc tiếp. Mọi
hậu quả dẫn đến do việc không ý thức đƣợc giới hạn lứa tuổi tôi sẽ không chịu trách nhiệm.
Mấy tháng trƣớc có đọc một topic trong diễn đàn của một bạn trẻ than phiền về việc nghe tin
đồn việc bạn gái của cậu ta, ngƣời có tình trạng chỗ kín không có lông mao, là một trong
những tƣớng sát phu và nhờ mọi ngƣời giúp đỡ.
Lúc đó tui cũng bận nên chỉ lƣớt qua và để lại một vài lời khuyên giúp bạn trẻ tự tin hơn
trong việc tình cảm của mình, đừng quá câu nệ vào những tin đồn thất thiệt mà có khi dẫn
đến việc nhân duyên bị bỏ lỡ.
Theo góc độ khoa học mà nói, tình trạng nữ giới chỗ kín từ khi sinh ra cho tới lúc chết đi
không có lông mao là một loại gen di truyền khá hiếm có, nhƣng ngoài điều đó ra thì họ cũng
chỉ bình thƣờng nhƣ những ngƣời phụ nữ khác mà không có gì khác biệt cả.
Theo góc độ huyền thuật cũng vậy, dù rằng trong quan niệm cổ xƣa đều gọi những ngƣời phụ
nữ chỗ kín không có lông mao tự nhiên là Bạch Hổ và đều coi là có tƣớng sát chồng, nhƣng
thực tế những ngƣời thực sự hiểu biết huyền thuật đối với điều này đều sẽ chỉ cƣời nhạt mà
thôi.
Bạch Hổ Nguyên Âm theo những tài liệu cổ xƣa lƣu lại đều cho rằng là một trong những “tài
liệu” quý hiếm mà giới tu sĩ Trung Hoa cổ đại (nhất là hạ trung tầng) vô cùng coi trọng. Lý
do tạm thời chƣa nói, nhƣng việc nó quý hiếm là không thể phủ nhận và đặt ra nghi vấn cho
việc có phải bất cứ ngƣời phụ nữ nào có tình trạng kể trên cũng là Bạch Hổ hay không?!!
Không khó để trả lời nghi vấn này. Bởi vì cho dù việc ngƣời phụ nữ có tình trạng chỗ kín
không có lông mao là rất hiếm, nhƣng với tình thế của đất nƣớc lấy đông dân mà nổi tiếng từ
ngàn xƣa nhƣ Trung Quốc, thì dẫu tỷ lệ xuất hiện là một trên một vạn đầu ngƣời, nó cũng
không quá có thể coi là vấn đề. (Nói vui một chút, trong các phim cổ trang, dã sử lịch sử
Trung Quốc đã công chiếu, ai cũng biết mỗi khi Trung Hoa cổ đại có chiến tranh thì lƣợng
quân sĩ họ thƣờng dùng đều đƣợc tính bằng đơn vị vạn. Quy mô trung bình thì 1, 2 vạn. Quy
mô lớn thì vài chục vạn đến trăm vạn cũng bình thƣờng. Mà cứ coi một bà mẹ cả đời chỉ ăn
và đẻ ra đƣợc 10 đứa con, thì việc đẻ ra tầm trăm vạn quân cũng cần phải có tới mƣời vạn
ngƣời phụ nữ. Nhƣ thế thì ít nhất một đời ngƣời cũng có thể xuất hiện 10 “Bạch Hổ” là ít).
Tuy nhiên, với lƣợng dân đông đảo nhƣ thế Bạch Hổ Nguyên Âm vẫn đƣợc coi là vô cùng,
vô cùng hiếm. Điều đó cho thấy không phải bất cứ ngƣời phụ nữ nào có tình trạng tế nhị kể
trên đều là Bạch Hổ cả. Vậy nhƣ thế nào mới có thể là Bạch Hổ Nguyên Âm? Và tại sao
trong văn hóa Trung Hoa cổ lại cho rằng những ngƣời phụ nữ có tình trạng bề ngoài giống
Bạch Hổ lại là tƣớng sát phu? Và tại sao nó lại đƣợc giới thuật sĩ coi trọng?
Xin thƣa Bạch Hổ đúng là ngƣời phụ nữ có tình trạng tế nhị nhƣ đã nói từ đầu, nhƣng những
ngƣời phụ nữ đó phải là ngƣời sinh vào giờ âm, ngày âm, tháng âm, năm Nhâm Dần hoặc
Giáp Dần thì mới tạm coi là chuẩn. Nếu muốn thực sự đúng phải là những ngƣời đƣợc sinh
sống từ nhỏ tại nơi có điều kiện phong thủy dồi dào thuận lợi (nếu đƣợc cho ăn học lục nghệ
đến một ngƣỡng nhất định thì càng tốt vì nhƣ thế ngƣời càng có anh khí), với điều kiện Trung
Quốc cổ đại thì đó thƣờng là các tiểu thƣ khuê các con nhà quan lại quyền quý (Điều này
cũng là một trong những yếu tố quan trong dẫn đến việc gây ra sai lệch trong tƣ duy của dân
chúng Trung Hoa tạo thành cái gọi là “tƣớng sát phu”)
Theo Thái Thƣợng Đan Kinh, “ngƣời con gái” Bạch Hổ có âm nguyên khí dồi dào, tinh thuần
gấp trăm lần phụ nữ thông thƣờng, đồng thời âm nguyên khí có tính trung hòa lợi cho việc ôn
dƣỡng khí tức, bồi dƣỡng sinh cơ, không bài xích bất cứ một loại công pháp nào cả. Đặc biệt
Bạch Hổ Nguyên Âm (trinh tiết của Bạch Hổ) cực kỳ thích hợp cho việc đột phá đạo quan
(hoặc có ngƣời gọi là huyền quan).
Ngoài ra, theo một số tài liệu khác còn miêu tả. “Bạch Hổ” trời sinh vũ mị, ngọc cốt băng
cơ... thích hợp với các chủng mị công, âm công, tà công mang tính băng hàn, âm mộc, cổ
thuật.
Nói chung chính vì âm nguyên khí của Bạch Hổ vô cùng thuận lợi cho việc tăng trƣởng đạo
hạnh cho tu sĩ bất kể tu sĩ đó tu luyện loại công pháp nào (Nói theo cách của Kim Dung thì là
tăng trƣởng công lực)... Đặc biệt Bạch Hổ Nguyên Âm lại càng trực tiếp có thể giúp tu sĩ
vƣợt qua đạo quan, huyền quan (Up level) nên những ngƣời con gái Bạch Hổ thƣờng đƣợc
coi là lô đỉnh hay đạo lữ tốt nhất cho việc song tu.
Thái Thƣợng Đan Kinh cũng cho rằng Bạch Hổ Nguyên là một trong 16 dạng Nguyên Địa kỳ
chân tốt nhất trong việc giúp ngƣời tu đạo bƣớc một bƣớc dài trên con đƣờng thành tiên,
trƣờng sinh bất lão.
Quay trở lại với “nhân gian”, do âm nguyên khí của Bạch Hổ dồi dào và tinh thuần vƣợt trội,
điều này mặc dù có lợi cho việc tu luyện của tu sĩ, nhƣng đối với ngƣời phổ thông lại khá
“khó gặm, khó tiêu”.
Nam nhân bình thƣờng sau khi giao hợp với Bạch Hổ thƣờng không chịu nổi âm nguyên khí
của Bạch Hổ xâm nhập cơ thể (đặc biệt là các dạng công tử môn đăng hộ đối, nhƣng thân thể
yếu nhƣợc) nên thƣờng chết ngay trong đêm tân hôn. Ngƣời khỏe mạnh có thể tránh đƣợc
điều này thì cũng bị âm nguyên khí ăn mòn dần cơ thể nên cũng thƣờng chết sớm.
Điều này trong mắt cổ hủ, thiếu kiến thức của ngƣời cổ đại lập luận thành Bạch Hổ là tƣớng
sát phu. Nhất là khi Bạch Hổ thƣờng là tiểu thƣ con quan, nên nhà chồng thƣờng cũng là thế
gia, điều đó khiến cho sự nhận định này càng thêm tăng thêm trọng lƣợng trong tính “xác
thực”. Và tất nhiên, ngƣời ta không nắm rõ thế nào là Bạch Hổ mà chỉ suy đoán nhờ “dấu
hiệu đặc trƣng” vô cùng dễ nhận biết của “Bạch Hổ” để suy xét “tƣớng sát phu” mà thôi.
Nhàn đàm: Chuyện tình cảm là vô cùng thiêng liêng, nếu các bạn trai trong diễn đàn có diễm
phúc gặp phải bạn gái có tình trạng “Bạch Hổ” cũng đừng nên nhận định ngay là “tƣớng sát
phu” mà thành ra lƣơng duyên lỡ dở, để sau này hối tiếc.
Mà cho dù bạn gái thực sự là Bạch Hổ thì cũng có sao, bởi vì Bạch Hổ vốn dĩ là trời sinh vũ
mị dù nhƣ thế có phải chết đi nữa ít nhất cũng có thể là Quỷ phong lƣu.
Nguồn : Nghinh Phong
thegioivohinh.com
1. ĐỘNG MỘ.
Phụ thân tôi thốt nhiên bị Thiên đầu thống ( đau nửa đầu đằng sau ) rất dữ dội. Thuốc ta, tầu,
tây nhiều nhƣng chẳng đỡ chút nào . Nhờ "Bói ra - Khoa thấy " , ông Thầy bảo phải xem lại
ngôi mộ Tứ đại dòng họ ( tức phụ thân tôi gọi là ông nội ). Ngôi mộ này nằm ở Đống Hàng
Đồng - HẢI DƢƠNG.
Xƣa kia, Đống Hàng Đồng chơ vơ , nhƣng rồi cụ Chánh Sỹ ( có con trai lớn là anh Quế cùng
học một lớp với tôi ) đến lập ấp gần đó , trồng tre làm hàng rào sát cạnh Đống ấy. Lúc bới đất
lên , rễ tre đã phủ kín cả tiểu sành và chui vào qua khe nắp đậy . Chúng tôi phải dỡ hết xƣơng
ra , rửa lại bằng nƣớc Ngũ vị hƣơng sau đó mới chôn lại . Rồi còn phải khơi một rãnh thực
sâu giữa bờ tre và Đống Hàng Đồng , thƣờng thƣờng phải lên chăm nom , chặt hết rễ tre
không cho vƣợt qua ranh giới nữa mới đƣợc yên , phụ thân tôi mới khỏi đau đầu .
Cùng một ngƣời ở làng Hàn chúng tôi , chừng 50 tuổi bị đau ngang ngực nhƣ có gì đè lên .
Thày bói bảo rằng "Động mộ " ( mộ tức là mả tròn - Ta thƣờng nói : Mồ tròn , Mả dài ). Và
lạ quá, lúc bới hết đất lên , thì thấy cái nắp tiểu sành đã vỡ , những mảnh sành nằm nghiêng
chọc xuống xƣơng . Lau rửa xƣơng cốt lại , thay tiểu khác , quả nhiên gia chủ hết đau.
2.HUNG TÁNG.
Và đây là một trƣờng hợp hung táng ( tức là chƣa hết cốt ). Ông Lý Cựu XYZ ở cạnh nhà tôi ,
trƣớc cổng Nhà thƣơng Hải Dƣơng, cứ nhƣ bị dùi đâm vào đầu và các khớp xƣơng . Lần này
không phải Thày Pháp, cũng không phải "Bói ra - Khoa thấy ", mà do Thày Địa lý ở Cổng
Chông xem hộ . Thày ra mả, nhổ mấy cây cỏ về xem rễ , rồi đoán là " Mả động " . ( Xin nói
thêm điều này : Ngƣời lớn kể rằng các Thày Địa lý thực tài giỏi , có thể xem rễ cỏ cây mọc
trên mồ mả mà có thể biết đƣợc mồ mả đó có Kết hay không ? Nghe vậy xin thuật lại nhƣ vậy
).
Mở mả ra , nƣớc đầy ăm ắp , phải lấy thau múc nƣớc đổ vào rổ để lọc xƣơng nhỏ . Nƣớc cạn,
thò tay xuống bới xƣơng thì thấy nhung nhúc những cá Trê , và không rõ làm thế nào chúng
chui đƣợc cả vào sọ , rồi không ra đƣợc , mà con nào con nấy đỏ nhƣ máu cả . Thực là ghê
khiếp . Những cái túi bằng Đũi bọc hai bàn tay và hai bàn chân , cũng bị cá Trê chui vào nằm
trong đó . Phải vét cho kỳ hết , lọc trên rổ , mới lấy đƣợc trọn vẹn cả bộ xƣơng để " Cải táng
". Mả đó là mả bố Ông Lý Cựu XYZ . Sau khi đã " tắm rửa " sạch sẽ cho cụ cố bằng nƣớc
Ngũ vị hƣơng và chôn trên gò cao , ông Lý Cựu khỏi hẳn bệnh buốt óc và những đốt xƣơng.
3. THẦN TRÙNG.
Anh Vệ Tạo ở làng tôi có bà mẹ chết chƣa đƣợc bao lâu , thì anh bị đau nặng phải vào nằm ở
Nhà thƣơng Hải Dƣơng . Một đêm đã khuya , thanh vắng tứ bề , anh vẫn thức mà nghe rõ
ràng tiếng từ ngoài cửa phòng gọi vào : Tạo ! Tạo..
Đúng tiếng mẹ anh rồi , sai sao đƣợc . Mẹ anh đâu còn sống mà gọi . Nhờ đã đƣợc các bậc
già nua dặn kỹ từ trƣớc là nếu đêm hôm khuya khoắt , có ai gọi , dù đích danh mình , cũng
chớ mà có trả lời , kẻo ma nó bắt mất vía . ( Ở vùng Thƣơng du , những ngƣời đi rừng cũng
kiêng không gọi tên nhau , mà chỉ hú thôi để ma khỏi bắt mất vía ) . Tạo im lặng hoàn toàn để
rồi mấy phút sau không thấy tiếng gọi nữa .
Hôm sau, gia đình anh Tạo phải mời Thày Pháp về cúng trừ " Trùng " . Thày cho biết , nếu
đêm qua Tạo lên tiếng thì " Trùng Thần nanh mỏ đỏ " đã thu vía anh để đem đi khảo đả cho
đế khi Tạo chết , rồi nó lại đả vong mẫu anh phải đƣa về bắt những ngƣời khác . Thầy Pháp
chỉ cúng lễ , và Bùa phép trấn áp " Thần trùng " , một thời gian nào đó thôi , chứ không thể
trừ diệt hẳn đƣợc nó . Gia đình anh Vệ Tạo còn phải đi thỉnh " Bùa ếm mả " nữa mới yên .
Thày Pháp danh tiếng làm " Bùa ếm mả " , trừ mọi loại Trùng : Trùng tang, Trùng Khô kháo
, dữ tợn nhất là Trùng Thần nanh mỏ đỏ : Hai con chim xanh , mỏ đỏ nhƣ lửa , cứ con bay
lên , con bổ xuống trên mả ngƣời bị trùng . Và mỗi lần nó bổ xuống là từ lòng mả lại có tiếng
rú lên nhƣ ngƣời bị kìm kẹp, tra tấn . Quán tại làng Giông _ Huyện Thanh Hà , bên kia cầu
Phú Lƣơng tỉnh Hải Dƣơng chừng vài chục cây số . Chính gia đình chúng tôi phải cầu cứu
đến Thày một lần. Tất cả Bùa chú đƣợc nhồi vào một ống tre bịt kín, phía dƣới đẽo nhọn nhƣ
đầu cái đòn sóc . Lựa buổi sáng tinh sƣơng , âm thầm đem Bùa đó ra đóng bên mả thực sâu ,
lấp đất cho kỹ .Theo lời các bậc già cả , thì Bùa đó có công năng phi thƣờng , làm Linh hồn
bị mù đặc , không còn biết lối nào mà dẫn Thần trùng về bắt con cháu nữa .
4.TRÙNG KHÔ KHÁO.
Đây là chuyện có thực mà chính tôi có mặt tại chỗ . Từ ngày bà ngoại vợ tôi mất đi , ngành
Trƣởng họ Lê bị lục đục, đau ốm liên miên , gia súc chết, làm ăn hết sức lủng củng , nhƣ thế
đã hơn 3 năm . Nhờ "Bói ra - Khoa thấy ", nên phải rƣớc Thày Phù thủy về cúng lễ , trừ ta,
giải hạn cho . Thày Pháp cho biết là mả bà ngoại vợ tôi bì " Trùng Khô kháo " , cần phải mở
để yểm Bùa trừ trùng . Nhƣng làm sao thầy biết đƣợc mà dám quyết đoán nhƣ thế ?
Quá giờ Tý một đêm thanh vắng và yên lặng hoàn toàn , chúng tôi mới ra mả . Trƣớc khi
Thày Pháp bắt tay vào công việc , mỗi ngƣời chúng tôi đƣợc ngậm một lá Bùa tết sẵn và đeo
vào khuy áo trƣớc ngực . Đâu đấy rồi Thày mới cho động thổ . Tay Thày luôn luôn bắt ấn,
miệng niệm Thần chú . Lúc bắt đầu cậy nắp ván Thiên , Thày hét lên một tiếng thực to .
Chúng tôi đều thấy rõ xác chết vẫn còn y nguyên nhƣ lúc mới nhập quan, chƣa tiêu đi đƣợc
chút nào, mà lạ lùng hơn là cũng không có mùi hôi thối . Thày Pháp đã ngậm sẵn một đạo
Bùa ở miệng , cúi sát tận mặt xác chết , lấy dao cậy răng, nhả Bùa vào trong miệng xác khô ,
rồi yểm Linh phù trên xác và xung quanh . Một đạo Bùa đƣợc đặt từ ngực đến chân , sau đó
mới đậy nắp và lấp đất . " Nhả hết Bùa ra, Trùng Khô kháo đã bị đánh bạt đi rồi , không còn
phải sợ nữa " - Thầy Pháp bảo chúng tôi nhƣ vậy , rồi mọi ngƣời ra về . Từ sau đó ngành
Trƣởng họ lê lại làm ăn yên ổn nhƣ cũ .
5. MẢ KẾT.
Khu tích điền làng chúng tôi , hồi 1916 , đƣợc san bằng để xây dựng trƣờng nam Tiểu học
Pháp - Việt , cả cái nghĩa địa rộng có mấy nghìn ngôi mộ cũng đƣợc rời đi .
Ngƣời ta kể lại : Lúc hốt cốt , họ có gặp một ngôi mộ , mở nắp tiểu sành ra , thấy xƣơng vẫn
đầy ăm ắp , mà tơ hồng phủ kín đầy tiểu . Xƣơng trong tiểu vẫn còn nguyên vẹn , không hƣ
hao nhƣ là " đƣợc đất ". Tơ hồng trên nắm xƣơng nói trên , nhờ chỗ đất tốt mới có . Nó là
thứ chỉ hồng từ trong xƣơng mà sinh ra . Xƣơng đƣợc tơ hồng phủ đầy là do mả tang đúng
Long mạch . Mả nhƣ thế mà bị phá đi là tai họa đến ngay.
Đau khổ cho gia đình nào đó : Mả Kết mà bị phá nhƣ thế , con cháu , dòng họ nhà đó sẽ lụn
bại không tránh đƣợc .
Trên đây là mấy câu chuyện phiền phức mà nắm xƣơng trong lòng đất gây nên cho dòng họ ,
con cháu cùng huyết thống, chứng minh thực tế rõ ràng sợi dây liên lạc vô hình thiêng liêng
không thể cãi đƣợc giữa ngƣời sống và ngƣời chết .
Nếu tìm đƣợc đất tốt, đƣợc Linh huyệt thì còn gì quý bằng . Nhƣng việc đó đâu phải dễ dàng
, phải dày Âm đức lắm mới đƣợc những " Đại Huyệt " , chả thế mà Cổ Đức đã từng răn dạy "
Tiên tích đức - Hậu tầm Long " .
Còn nếu cả cuộc đời chỉ làm việc thất âm đức , mà cố đấm ăn xôi , cũng học đòi tìm đất cho
con cháu làm công hầu khanh tƣớng thì đâu có đƣợc . Không khéo lại gặp Thày gà mở huyệt
chẳng ngắm, ngắm hang rắn , nó cắn cho lụn bại dòng giống ác đức hại nhân .
Lúc này đây , khoa Địa lý gần nhƣ thất truyền , dù Thánh sƣ Tả Ao tái sinh đi nữa , dám chắc
cũng chẳng làm nên chuyện gì tốt nhƣ nghìn xƣa . ....
TRỌNG MẠC ĐẶNG KIM THANH - Báo KHHB.
Bổ sung:
Ở một dải đất Bảo Khánh huyện Thƣờng Đức tỉnh Hồ Nam trƣớc đây, tập tục tƣơng truyền
về một phép gọi là di chuyển xác chết. Những vị đạo sĩ ở đây có một thứ chú ngữ đặc biệt bí
mật dùng để trục gọi linh giới nhập vào giữ xác. Muốn cho xác chết di chuyển, họ cắm một
cây phƣớng dẫn hồn lên xác chết rồi hƣớng về thây ma niệm chú. Xác chết bỗng cử động
đƣợc nhƣ cái máy và di chuyển theo đạo sĩ.
Khi đến quán trọ, họ đem thây ma đặt ở ngoài phòng, đứng úp mặt vào tƣờng. Khi cần qua
sông, họ đem thây ma đặt ở cuối khoang thuyền hoặc ở đầu thuyền. Nhƣ thế có thể bình an về
tới quê hƣơng... Sau này họ di chuyển vào ban đêm và ngủ ở đền miếu bỏ hoang chẳng qua là
sợ mọi ngƣời để ý hoặc sợ hãi đó thôi. Dù cuộc hành trình kéo dài cả tháng, dù trời nóng bức
hay mƣa dầm, xác chết cũng không biến đổi chút nào và cũng không phát ra mùi hôi thối.
Nhƣng có một điều cấm kị là không đƣợc để xác ngã vật ra đằng sau, vì khi đó xác sẽ bốc
mùi, giòi bọ lúc nhúc, không sao dựng xác trở dậy đƣợc nữa. Về đến nhà, ngƣời thân đã
chuẩn bị áo quan sẵn sàng, đạo sĩ lập tức chỉ huy mọi ngƣời đƣa xác vào quan tài, đóng nắp
lại ngay. Nếu không, chừng hai giờ sau, xác chết sẽ nát rữa, không sao gom lại đƣợc.
Phép chuyển xác này đã có từ mấy ngàn năm, nhƣng nhiều ngƣời không rõ nguyên nhân từ
đâu. Có một truyền thuyết để lại trong giới luyện đan (tu tiên gia) cho rằng phép này truyền
lại từ Lý Thiết Quài, vị tiên trƣởng trong Bát Tiên. Ông đã truyền phép này cho Huyền Châu
Tử nhằm dễ dàng đƣa xác Đông Phƣơng Sóc về Hải Ninh... câu chuyện thế này...
Đời vua Hán Vũ Đế, Đông Phƣơng Sóc làm quan trong triều nhƣng bí mật tu tiên. Sau này
thành tựu các pháp, thần thông quảng đại nên thƣờng giở trò du hí. Hán Vũ Đế muốn cầu
trƣờng sinh nên bắt Đông Phƣơng Sóc hái cho một trái đào. Lịnh vua khó cãi, vả lại muốn
hóa độ nhà vua nên Đông Phƣơng Sóc lẻn lên thƣợng giới ăn trộm đào tiên. Việc này phạm
luật trời vì vậy ông bị số chém đầu.
Lúc ấy, Hán Vũ Đế say mê một thuật sĩ khác là Lý Thiếu Quân, vốn là rùa quạ thành tinh vào
triều mê hoặc nhà vua. Thiếu Quân đã từng quây màn trƣớng, hóa sƣơng mù triệu hồn Lý Phi
nƣơng nƣơng về cho Vũ Đế gặp mặt... nhƣng đó lại là một câu chuyện khác. Đƣợc trọng
dụng, Thiếu Quân tìm cách *** hại Đông Phƣơng Sóc. Viện cớ ông này phạm tội khi quân,
Lý Thiếu Quân mƣợn Thƣợng Phƣơng bảo kiếm của vua chém đầu Đông Phƣơng Sóc. Mỗi
lần chém xong, đầu mới lại mọc lên... Cuối cùng Lý Thiếu Quân phải lấy ngọc tỉ của vua
đóng vào vải vàng, đợi đầu Đông Phƣơng Sóc vừa rụng là án ngay vào chỗ chém. Ngọc tỉ nhà
vua đã làm cho phép thay đầu của Đông Phƣơng Sóc vô dụng. Ông đành chịu chết. Sau,
Huyền Châu Tử theo lời chỉ dẫn của Lý Thiết Quài, gắn đầu vào thân, giắt lá phù Cửu chuyển
hòan hồn vào tóc, cắm lá phƣớng dẫn hồn vào ngƣời mà dẫn xác của Đông Phƣơng Sóc về
Hải Ninh để hòan tất duyên phần. Sau này, Huyền Châu Tử phạm luật trời, để dân bị ngập lụt
chết nhiều nên bị hóa thành hạc trắng trong 500 năm lập một vạn công đức mà tu thành chánh
quả. Tƣơng truyền, phép dẫn thi chính là do Huyền Châu Tử truyền lại thế gian này...
Bổ xung :
Nhân thấy huynh nói đến ”con linh miêu” nên xin mạn phép bàn góp đôi lời, may ra có thể
giải tỏa đƣợc thắc mắc trong lòng HaiPhong chăng.
Với khoa học thì linh miêu không thể nào có thật, vì loài có vú và loài bò sát cách nhau quá
xa, không thể nào thụ tinh và lai giống đƣợc. Nhƣng đối với giới huyền thuật thì sinh vật này
có thật, và còn đƣợc dùng để luyện phép nữa. Hì hì, xin đƣợc miễn nói ra linh miêu dùng để
luyện phép gì. Ở đây cao thủ huyền môn nhiều nhƣ lá mùa thu, chắc các cao thủ dƣ biết linh
miêu đƣợc dùng để luyện phép gì rồi. Biết rồi cƣời mím mím thôi nhe. Huynh, đệ, tỉ, muội
nào chƣa biết, thì xin đừng hỏi, và cũng đừng nóng lòng muốn biết. Có duyên sẽ biết thôi.
Huynh Thanh-Pali ơi, hồi đó, khi chƣa nhập môn, HaiPhong vẫn thƣờng theo chầu rìa thầy và
các sƣ huynh sau này của HaiPhong, và đƣợc nghe các sƣ huynh kể về linh miêu giống nhƣ
huynh kể vậy. Các sƣ huynh của HaiPhong có kể cho HaiPhong nghe thêm vài chi tiết nhƣ
sau:
Linh miêu thƣờng hay sống và chết ở ngoài đồng, hay nơi mồ hoang, mã lạc. Linh miêu có
linh tánh, có ai muốn bắt nó, nó liền biết và trốn ngay. Muốn dùng linh miêu luyện phép, tốt
nhất là dùng linh miêu đã chết, phần vì khó mà tìm và bắt đƣợc linh miêu sống. Phần vì gặp
đƣợc xác linh miêu chết, thì xem nhƣ mình có duyên luyện đƣợc phép vậy.
HaiPhong đã trải qua một việc, khiến hai mƣơi mấy năm nay, mỗi khi nghe đến hai chữ ”linh
miêu” là nhớ lại chuyện xƣa, lòng vẫn còn thắc mắc.
Chuyện nhƣ sau, hồi đó, sau khi nghe các sƣ huynh kể về linh miêu, nghe rồi để đó, nhƣ nghe
một truyền thuyết, không mong gì gặp hay bắt đƣợc con vật có linh tánh này. Cho đến một
ngày…
Cuối xóm của HaiPhong có một nghĩa địa lớn, mồ mã đƣợc xây lộn xộn, không theo hàng lối.
HaiPhong cùng những ngƣời bạn lối xóm, lớn, nhỏ thƣờng ra nghĩa địa này chơi vào buổi
trƣa, hay chiều. Buổi tối chỉ dám ra, khi tụ họp đƣợc một nhóm đông ngƣời.
Một buổi trƣa mùa hè, nắng gắt, không biết mắc chứng gì, HaiPhong lang thang ra nghĩa địa
một mình, đi từ ngôi mộ này sang ngôi mộ khác. Đến một ngôi mộ xây rất thấp, lƣng mộ
bằng phẳng, thì bắt gặp một đống da, lông bầy nhầy, vài cái xƣơng sƣờn, xƣơng chân và một
cái sọ. Nhìn vào cái đống bầy nhầy này, HaiPhong biết ngay là phần còn xót lại của một con
mèo chết. Lòng nhủ thầm ”không biết con mèo này chết hồi nào, mà rã trơ xƣơng nhƣ thế
này? Hay là có quạ, chó gì xơi xác con mèo này?” Vừa nghĩ đến đây, HaiPhong chợt nhớ đến
lời các sƣ huynh kể về linh miêu. Nhìn cái xƣơng sọ trắng hếu, sạch trơn HaiPhong định
lƣợm, nhƣng chợt nghĩ ”Hay là chạy về gọi mấy anh luyện bùa ra đây lấy sọ linh miêu về.
Không chừng mấy ảnh phải làm phép trƣớc khi lƣợm về luyện phép”. Nghĩ vậy, HaiPhong
liền chạy ù vào xóm và gặp ngay hai anh đang ngồi tán dóc trƣớc thềm nhà hàng xóm.
HaiPhong nói ngay ”Hai anh theo em mau, có cái này hay lắm, đang ở ngoài chòm mã”. Hai
anh chàng nhìn bộ dạng hớt hơ, hớt hải, vừa chạy vừa nói của HaiPhong, thì tin là có chuyện
gì lạ đây, nên liền đứng dậy chạy theo. Vừa chạy vừa hỏi ”Chuyện gì vậy?” HaiPhong nói
nhỏ ”Hình nhƣ có xƣơng sọ của con linh miêu ngoài chòm mã”. Hai anh chàng tự dƣng nhƣ
phát cuồng lên, vừa chạy vừa la ”mau lên, mầy chạy chậm quá vậy”.
Ra tới nơi, thì lạ chƣa, da, lông, xƣơng sƣờn, xƣơng chân còn đó, nhƣng cái xƣơng xọ thì đã
biến mất! Hai anh chàng dòm tới, dòm lui, rồi hỏi ”Đâu, xƣơng sọ đâu?”. HaiPhong giơ tay
ra chỉ và nói ”Hồi nãy nó nằm chần dần ở đây, bây giờ đâu mất tiêu rồi, sao chỉ còn lại da,
lông, xƣơng sƣờn, xƣơng chân không vầy cà!” Nhìn đống da, xƣơng, hai anh chàng tin là
HaiPhong không nói dóc, nên vừa lục tìm dáo dác sang các mả bên cạnh, vừa nói ”Mầy nhớ
kỹ coi, có phải chổ này không”. HaiPhong trả lời ngay ”Thì ở đây chớ đâu. Da, lông, xƣơng
còn rành rành đây mà!”. Lục tìm một lúc không đƣợc gì, một trong hai anh xà vào một bụi
cây gần đó, bẽ một nhánh, đếm lá trên nhánh cây, miệng lẫm bẫm ”Chắc nó biến mất rồi,
không tìm đƣợc đâu”, nhƣng vẫn tiếp tục tìm. Lục tìm thêm một lúc nữa, hai anh chàng đành
chịu thua, đi lững thửng vào xóm, mặt mày tiu ngĩu nhƣ vừa đánh mất vật gì quí giá lắm.
HaiPhong lẽo đẽo theo sau. Một trong hai anh quay lại nói với HaiPhong ”Mầy ngu quá, gặp
không chớp liền, chạy về kêu tụi tao làm gì, lại còn nói tên nó ra nữa, nó nghe đƣợc nên…
biến mất rồi. Chuyện này không đƣợc nói với ai, nghe mậy!”. HaiPhong thấy quê quê, nên
ậm ừ cho xong chuyện.
Khoảng một tuần lễ sau, HaiPhong đi la cà trong xóm, thấy thầy trò các anh ngồi nói chuyện,
liền xà vào nghe ké. Nói hết chuyện đời, qua chuyện đạo, sang đến phần nói về các linh vật
luyện phép, thì một trong hai anh đi tìm sọ linh miêu với HaiPhong hôm trƣớc, chính là anh
đã căn dặn HaiPhong không đƣợc nói ra chuyện tìm sọ linh miêu, nhịn không đƣợc bèn kể
với thầy ”Hôm trƣớc, thằng Phong thấy… ở chòm mã… sƣơng sọ… ra đến… mất tiêu!”
Thầy nghe xong im lặng ra chiều suy nghĩ, nét mặt phản phất chút nuối tiếc, ngẫn ngơ. Bất
chợt thầy cƣời khà khà, có lẽ thầy cƣời cái tánh khờ khờ, trẻ con của HaiPhong, rồi nói ”Các
linh vật luyện phép, phải có duyên may mới gặp đƣợc, gặp rồi không lấy, để cho duyên may
đi qua, làm sao tìm lại đƣợc!”.
Hai mƣơi mấy năm qua, trong đầu HaiPhong luôn phân vân giữa hai giải đáp.
Gải đáp thứ nhất là con linh miêu có thật. Và nó có tánh linh đến độ chết trơ xƣơng, vẫn biết
biến mất, không cho ngƣời ta lấy phần xƣơng của nó luyện phép.
Giải đáp thứ hai dễ tin và có vẽ khoa học hơn. Đó là sự biến mất của chiếc xƣơng sọ chỉ là
một sự trùng hợp. Trong lúc HaiPhong chạy vào xóm, rồi chạy trở ra, con chó nào đó đã thấy
và tha cái sọ đi chỗ khác để xơi tái. Nếu quả thật cái sọ bị chó tha đi, thì con chó tinh quái
nầy có biết chăng, việc nó chỉ tha chiếc sọ, bỏ lại xƣơng sƣờn, xƣơng chân, đã gieo một thắc
trong lòng HaiPhong suốt hai mƣơi mấy năm qua?
Huynh Thanh-Pali và các huynh, đệ, tỉ, muội, ơi, nhƣ vậy con linh miêu có thật không? Cái
xƣơng sọ HaiPhong gặp là xƣơng sọ của linh miêu, hay chỉ là sƣơng sọ của một con mèo
bình thƣờng?
Chuyện Địa Lý: Giai thọai về ngôi mộ nhà họ “Ngô Đình” tại
huyện Lệ Thủy, tình Quảng Bình
Tác giả: Tạp chí Khoa Học Huyền Bí số 1B(75) ngày 20 tháng 1-1975
Khỏang cuối thế kỷ 19 đời vua Tự Đức tại làng Đại Phong (tục danh Đợi), huyện Phong Lộc
(sau đổi thành huyện Lệ Thủy), tỉnh Quảng Bình, có một nông dân đến ngụ cƣ trong
làng,...vợ chết sớm, chỉ có một cậu con trai nhỏ độ 6 tuổi, hằng ngày làm mƣớn sinh sống.
Ban hội tề ở đình làng này cắt cử ông đến phục dịch ở đình làng mỗi khi có hội họp hoặc tế
lể.
Sau đó, trong một cơn bệnh nặng, ông qua đời, đƣợc ban hội tề làng cử 4 dân đinh đƣa thi hài
ống đến an táng lại “Bến Đẻ” một vùng rừng núi ngƣợc dòng sông Kiến Giang cách làng Đại
Phong độ 3 cây số ngàn.
Vì mới đến ngụ cƣ, không có địa vị trong làng, không thân thuộc, lại quá nghèo, nên công
việc tổ chức mai táng cũng chỉ đơn sơ và vội vàng.
Ngôi mộ
Khi 4 dân đinh chèo thuyền đƣa thi hài ông đến “Bến Đẻ” thì trời đã về chiều, mà nơi này có
tiếng nhiều cọp, nên khi dân đinh đang khiêng thi hài ông từ bến đậu thuyền tiến vào núi,
bỗng có nhiều tiếng cọp gầm gừ quanh vùng. Dân đinh sợ quá vội hạ xuống cùng nhau hối hả
đào một huyệt cạnh đƣờng mòn, nhƣng đào chƣa xong thì tiếng gầm thét của chúa sơn lâm
càng rền vang đâu đó, 4 dân đinh khiếp đảm liền đặt thi hài ông xuống huyệt còn quá cạn rồi
lấp đất qua loa, đọan vội vã cùng nhau co giò chạy về bến xuống thuyền chèo về nhà, định
bụng sáng hôm sau sẽ trở lại sửa sang lại chu đáo hơn kẻo tội nghiệp ngƣời quá cố.
Qua hôm sau, số dân đinh này chèo thuyền trở lại, thì lạ thay, ngôi mộ chiều hôm trƣớc mới
lấp qua loa chƣa thành nấm, nay đã hóa thành một gò đất tròn trịa do mối tạo lên lớn bằng
một căn nhà. Các bậc lão thành trong làng và lân cận nghe tin, lũ lƣợt đến xem và đều cho là
ngôi mộ thiên táng.
Nhƣng rồi câu chuyện cũng theo thời gian đi và quên lãng, không ai lƣu tâm bàn tán gì đến
nữa. Mỗi lần ai đi ngang qua ngôi mộ này cũng không còn để ý đến một gò đất cây cỏ um
tùm vì không ngƣời viếng thăm săn sóc từ năm này qua năm khác.
Cụ Ngô Đình Khả
Ông cụ qua đời, để lại cậu con trai côi cút mới lên 8, mặt mũi rất khôi ngô dĩnh ngộ, nên
đƣợc vị cố đạo Thiên Chúa ở xứ đạo Mỹ Phƣớc cạnh làng Đại Phong nhận đem về nuôi cho
ăn học. Cậu bé đó là cụ Ngô Đình Khả sau này đó.
Sau này, cậu bé đƣợc cho ra Hà Nội học, thi đậu tốt nghiệp trƣờng thông ngôn Đông Pháp,
đƣợc bổ làm thông phán tại tòa Thống sứ Bắc Kỳ tại Hà Nội (trƣờng này giống học viện hành
chánh bây giờ).
Theo thông lệ xƣa, hễ ai đƣợc nhà nƣớc bảo hộ hay Nam triều bộ nhậm chức tƣớc gì thì đều
đƣợc nhà nƣớc, thông tƣ về nguyên quán và ban hội tề làng phải tổ chức lên tỉnh rƣớc sắc
bằng về làng, nhằm làm tăng vinh dự cho ngƣời đƣợc bổ nhậm, thƣờng gọi là “tƣ án quán”.
Tại làng, ngƣời nào có phẩm hàm cao thì đƣợc làng cấp phần ruộng tốt giao cho thanh nhân
canh tác.
Nhƣng khi đƣợc nhà nƣớc bảo hộ ở Hà Nội tƣ án quán, tòa công sứ và dinh tuần vũ tỉnh
Quảng Bình báo cho làng Đại Phong lên tỉnh rƣớc sắc bằng cụ Khả, thì ban hội tề làng này từ
khƣớc viện lý do làng Đại Phong không có ai tên là Ngô Đình Khả cả, bởi vì nếu nhận có, tất
cụ Ngô Đình Khả sẽ là vị tiên chỉ của làng này, trong khi làng này chỉ có những quan nhỏ
cửu, bát phẩm mà thôi.
Do sự khƣớc từ trên, cu Ngô Đình Khả giận làng Đại Phong, sau đó cụ kết hôn với một thiếu
nữ trâm anh ở làng Phú Cam gần kinh đô Huế và nhận làm công dân của làng này.
Sau này cụ Ngô Đình Khả chuyển cái ngạch Nam triều rồi lần lƣợt thăng tiến trên đƣờng
họan lộ, đến triều vua Thành Thái ngài thăng chức Thƣợng thơ bộ Học, Hiệp ta Đại học sĩ.
Dân làng Đại Phong lúc bấy giờ hối tiếc việc không thừa tiếp một công dân anh tài vẻ vang
cho làng xóm, nên đã cùng nhau vào Huế xin tạ lỗi và thỉnh cầu đƣợc tiếp nhận cụ về làng,
đƣợc cụ chấp thuận. từ đó, cụ là công dân làng Đại Phong. Cụ đã góp công xây dựng ngôi
đình làng Đợi to lớn và ngôi nhà thờ nguy nga hiện nay vẫn còn.
Gái và trai
Cụ Ngô Đình Khả sinh đƣợc 2 gái và 6 trai: hai gái là bà cụ Cả Lễ và bà cụ Ấm, 6 trai là cụ
nguyên tổng đốc tỉnh Quảng Nam Ngô Đình Khôi, Đức tổng Giám mục Ngô đình Thục,
nguyên tổng thống đệ nhứt VNCH Ngô Đình Diệm, nguyên cố vấn Ngô Đình Nhu, nguyên
đại sứ VNCH tại Anh quốc Ngô Đình Luyện và nguyên cố vấn cao nguyên trung nguyên
Trung phần Ngô Đình Cẩn.
Năm 1936, cụ bà Ngô Đình Khả cùng các con gồm các ông Ngô Đình Khôi, Đức cha Ngô
Đình Thục, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn (vắng mặt ông Ngô Đình
Luyện có lẽ du học ngọai quốc) về làng Đại Phong thăm làng. Trƣớc khi về làng, cụ bà và
các con đến Bến Đẻ viếng mộ cọ cố Tam Đại Tổ.
Chạm long mạch
Năm 1938, ông Paul Ngọc, một nhà kinh doanh khai khẩn đất hoang nguyên quán Đồng Hới
đƣợc phép khai khẩn đồn điền Ba Canh (tả ngạn sông Kiến Giang song song với vùng núi
Bến Đẻ, Bến Trấm), ông này vô tình cho đào một con mƣơng dẫn nƣớc vào đồn điền để canh
tác đã chạm phải long mạch của ngôi mộ thiên táng của nhà họ Ngô Đình kể trên và tai nạn
đã đƣa đến nho nhà họ Ngô là:
- Thƣợng thơ bộ Lại của triều đình Huế Ngô Đình Diệm bị hòang đế Bảo Đại cất chức
thƣợng thơ thu hồi tất cả phẩm trật và huy chƣơng vì đã chống đối lệnh hòang đế.
- Tổng đốc Quảng Nam Ngô Đình Khôi phải bị rắc rối một thời gian vì đã chống đối gây sự
bất hòa với viên phó tòan quyền Đông Pháp Nouailletas.
Năm 1944, ông Paul Ngọc đƣợc chuyên viên canh nông Nhật bổn yểm trợ khuếch trƣơng đào
các con kinh dẩn thủy trong đồn điền Ba Canh của ông, vô tình đã chạm vào long mạch của
ngôi mộ kể trên, nên lại một lần nữa gây đại nạn cho nhà họ Ngô là:
- Ông Ngô Đình Khôi và con trai đầu lòng là Ngô Đình Huân bị chính quyền VM bắt và thủ
tiêu sau cuộc cách mạng mùa thu 1945.
- Ông Ngô Đình Diệm cũng bị chính quyền VM bắt giam nhƣng đã trốn thóat bôn đào ra
ngọai quốc.
Hàn lại long mạch
Nhƣng nhờ thời gian Đồng minh đánh Nhật và VN chống Pháp, mọi công tác tại đồn điền
này đều phải đình chỉ, các kinh đào dẫn thủy nhờ thời gian qua đã lấp lại hết. Long mạch đã
đƣợc hàn gắn lại nên vận số nhà họ Ngô lại phục hƣng bột phát hơn trƣớc:
- Tháng 7-1954, ông Ngô Đình Diệm về nƣớc chấp chánh rồi trở thành vị tổng thống sáng lập
nền đệ nhất cộng hòa VN.
- Cùng lúc, bào đệ là ông Ngô Đình Nhu nắm giữ chức cố vấn nòng cốt của chế độ, ông Ngô
Đình Luyện giữ chức đại sứ VNCH tại Anh Quốc, ông Ngô Đình Cẩn trở nên vị lãnh chúa
của miền Trung. Còn Đức Cha Ngô Đình Thục lên chức Tổng Giám Mục và có thể sẽ là vị
Hồng Y đầu tiên của Công Giáo tại VNCH.
Lại chạm Long Mạch
Nhƣng vào khỏang năm 1960-1962, chế độ miền Bắc bắt đầu đặt nặng công cuộc yểm trợ tận
lực cho Mặt trận Giải Phóng miền Nam đƣợc Trung Cộng viện trợ xây đắp xa lộ từ Bắc vào
Đồng Hới qua Hậu Hùng, Mỹ Đức đến vùng đồn diền Ba Canh tiến sát vĩ tuyến 17 và vùng
Ba Canh trở thành căn cứ sản xuất và bổ túc vủ khí để chuyển vào Nam. Họ đào những
đƣờng hầm sâu để đặt cơ xƣởng dƣới lòng đất hầu tránh oanh kích đã làm đứt hẳn long mạch
của ngôi mộ thiên táng nhà họ Ngô tại Bến Đẻ. Sự kiện này đƣa đến đại nạn cho tòan thể gia
đình họ Ngô Đình vào mùa đông năm 1963 nhƣ chúng ta đã rõ.Âu cũng là do thiên định cho
sự kết phát của ngôi mộ kể trên phải chịu trong giai đọan đại biến này thôi. Rồi nếu hồng
phúc của nhà họ Ngô Đình trời còn dành cho phần trƣờng cửu hơn, thì biết đâu sau này lại có
những sự kiện đƣa đến hàn gắn lại long mạch để lớp hậu duệ nhà họ Ngô Đình tái phục hƣng
vĩ đại hơn nữa.
Về phƣơng diện phong thủy, phải chăng ngôi mộ kể trên đã chung tú bới non sông hùng vĩ
của huyện Lệ Thủy từ phía Nam có 3 hòn núi An Mã dẫn về Bến Trấm, Bến Đẻ và phía Tây
có núi Đầu Mâu chung khí về biển Hạc Hải ờ phía Đông Bắc trải long mạch dựa theo sông
Kiến Giang ngƣợc lên Tróc Vực quy tụ vào ngôi mộ này kết phát đến tột đỉnh, Đế, Bá, Công,
Hầu chăng ?
Kẻ viết giai thọai này chỉ là kẻ hậu sinh, nhờ đƣợc sinh sống ở quê hƣơng từ thuở thiếu thời,
đƣợc các bậc tiền bối truyền thọai lại mà thôi. Nay xin viết lại để mong chƣ hải nội tiền bối
nhất là liệt quý vị cao niên đồng hƣơng hiện ờ Miền Nam phủ chính lại cho, hầu xây dựng
đích thực một sử liệu không những chỉ ở lãnh vực địa lý mà cả cho danh nhân chí của Việt
Nam nữa ./.
Tây Đô tháng 10-1973.
BỔ XUNG.
* "Thế đất “Đầu Mâu vi bút, Hạc-Hải vi nghiêng” ở làng Lệ-Thủy, tỉnh Quảng-Bình đã xuất
phát tổng thống Ngô-đình-Diệm, Võ-nguyên-Giáp và thiếu tƣớng Đỗ-Mậu. "
* (Lệ Thủy là một huyện thuộc tỉnh Quảng Bình, Việt Nam. Phía nam giáp huyện Vĩnh Linh
(thuộc tỉnh Quảng Trị), phía bắc giáp huyện Quảng Ninh (Quảng Bình), phía tây giáp tỉnh
Khammouan của Lào, phía đông giáp Biển Đông. Diện tích tự nhiên 142.052 ha, dân số năm
1998 là 140.804 ngƣời Đây là quê hƣơng của Sùng Nham hầu Dƣơng Văn An, Chiêu Vũ hầu
Nguyễn Hữu Dật, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Kim tử Vinh Lộc Đại phu Đặng Đại
Lƣợc, Thạc Đức hầu Đặng Đại Độ, Sƣ bảo Nguyễn Đăng Tuân, Vũ Đăng Phƣơng, Đại tƣớng
Võ Nguyên Giáp, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm. Lệ Thủy nổi tiếng với
sông Kiến Giang, khu nghỉ mát suối nƣớc khoáng Bang, văn hóa đặc trƣng Hò khoan Lệ
Thủy, trong đó có điệu hò khoan chèo đò, hò giã gạo. Hằng năm, vào ngày 2 tháng 9, nơi đây
diễn ra đua thuyền truyền thống. Trong Chiến tranh Việt Nam, nơi đây là chiến trƣờng ác liệt
với mật độ bom rải thảm của Không quân Mỹ với mật độ dày đặc.
Phía tây là dãy Trƣờng Sơn, địa hình dốc theo hƣớng đông với vùng núi, đồi, có suối nƣớc
khoáng Bang với nguồn nƣớc khoáng đang đƣợc khai thác làm nơi nghỉ dƣỡng và làm nƣớc
uống đóng chai. Ở giữa là một dải đồng bằng hẹp hai bên bờsông Kiến Giang. Ven biển là
một dải cồn cát trắng. Vùng biển của huyện Lệ Thủy là những bãi cát trắng, nƣớc biển sạch.
Hiện đã có bãi tắm tại Ngƣ Thủy đƣợc đƣa vào khai thác.) - Theo vi.wikipedia.org/
* NHỮNG TRƢỜNG HỢP MỘ TỐT:
1. Phù địa: Là mạch đất chỗ chôn mộ ngày càng nổi lên cao, do thủy tụ làm cho đất nở
trƣơng ra. ( Khác với phù sa là đất bồi do hiện tƣợng xâm thực của cuồng lƣu.)
2. Đất xốp: Nhẹ và mịn màng gần ao hồ, sông, bể. Huyệt đào lên thấy đất đỏ mịn nhƣ tròng
đỏ hột gà.
3. Mộ kết: Là một điểm trong long mạch có mật độ siêu vật chất cao nhất và động nhất; đồng
thời có cảm trƣờng siêu vật lý đi qua thƣờng trực và cao diệu. Cảm trƣờng siêu vật lý phân
giải và làm tê liệt tà vật, tà khí, vi sinh vật hủ hóa, nên hài cốt không bị tiêu hủy và bề mặt
sinh cơ còn tiếp tục sinh sản dƣới một hình thức khác lạ của sinh vật hạ đẳng nhƣ là nấm
mốc, mối đùn, thủy tụ.
*Nấm mốc: Làm di hài còn nguyên vẹn và bên ngoài đƣợc bao bọc bởi một mạng tơ trắng
hay xanh, vàng, do ngoại bì biến thái.
*Kết mối: Là mối (termite) tập họp, tạo thành một lớp keo bảo vệ hài cốt kiên cố nhƣ xây xi
mân. (Tin đồn rằng mộ ông nội của tổng thống Thiệu ở làng Tri-Thủy ở Phan-Rang kết mối).
*Kết thủy: Hay thủy tụ là hài cốt đƣợc một lớp nƣớc trong bảo vệ qua nhiều chục năm nhƣ
một thứ nƣớc ƣớp xác. Nếu bốc mộ thì nƣớc sẽ nhanh chóng hóa đục và hài cốt tức khắc ngã
nàu đen. ( Thầy địa lý cho rằng mộ ông nội của tiến sĩ Lê-qúi-Đôn ở huyện Duyên-Hà, tỉnh
Thái-Bình, kết thủy ?)
* NHỮNG TRƢỜNG HỢP MỘ XẤU:
1. Mộ chôn gần cây cổ thụ, để rễ cây đâm vào hài cốt thì con cháu bị mổ xẻ, bại liệt, đui mù,
câm điếc, giảm thọ.
2. Mộ chôn gần freeway, đƣờng xe lửa, bến tàu, hay nhà máy kỹ nghệ nặng, làm nhiễu động
âm phần: Con cháu gian xảo, buôn gian bán lận, cờ bạc, hút xách.
3. Mộ chôn chỗ quanh năm ngập nƣớc phèn, hay sình lầy: Con cháu bị bịnh phì mập, phù
thủng, đau thận, đau lƣng, hƣ răng hay mục răng.
4. Triệt địa là đào ao nuôi cá, khai mƣơng nƣớc, làm đƣờng xe lửa, xây xa lộ trên đầu mộ:
Long mạch bị cắt đứt! Chết bất đắc hay tuyệt tự, không con trai nối dõi.
5. Mộ chôn ở diên địa (đất có pha quặng chì), bị phá khí thái cực, gây điên đảo âm dƣơng,
nên con cháu có ngƣời bất phân phái tính, bán nam, bán nữ. Đồng tính luyến ái.
6. Quan quách mà đóng đinh sắt, thép hay chôn theo vàng bạc, châu báu: Con cháu điên
khùng, ung thƣ.
7. Quan tài bằng đá hay kim khí, thì con cháu ngỗ nghịch, dâm đãng, giang hồ, tâm thần loạn
trí, phạm pháp.
8. Mộ xây bằng bê tông cốt sắt mà bít kín mặt nấm, sẽ tạo ra áp lực của nƣớc, của khí. Khi
nhục thể bắt đầu thối rữa, phát sinh ra nhiệt, khiến con cháu bị huyết áp cao, tiểu đƣờng, hay
cholesterol.
9. Bia mộ để dƣới chân: Con cháu ngu đần, vất vả cơ hàn. (Rất may, hầu hết các nghĩa địa ở
Mỹ đều để bia trên đầu, nhƣ Rose Hill, Peek family,Westminster Memorial Park, Chúa Chiên
Lành...)
10. Dùng quế, trầm, tro, củi tẩm liệm: Con cháu bị bệnh lở lói, phung cùi, xấu xí.
11. Dùng lụa tơ tằm để tẩm liệm hài cốt. Bỏ nhiều giấy vàng bạc có bột kim khí thì con cháu
hay trở thành đồng cô cốt cậu, chồng con lận đận. Bỏ hột xoàn hay vàng vào miệng ngƣời
chết để phạn hàm, thì đời sau tuyệt tự, không con trai nối dõi.
12. Long hổ giao nhau. Núi đồi bên trái mộ và những gò đồi bên tay phải mộ, đụng vào nhau
ở tiền án hay minh đƣờng: Loạn luân, anh em dòng họ lấy nhau. (Nhƣ ngôi mộ nhà Trần kết
phát 200 năm, nhƣng gia tộc ruột thịt lấy nhau, vì sợ mất ngôí!)
13. Mộ nghịch long, tức là đầu mộ để dƣới thấp, chân hƣớng về tổ sơn trên cao: Con cháu
loạn thần tặc tử, bất hiếu, bất trung.
14. Mộ đang kết khí, kết thủy, kết mối mà bốc mộ dời đi: Con cháu suy sụp, chết bất đắc.
(Nghĩa trang Mạc-đỉnh-Chi ở Sài-Gòn khi bị giải tỏa, nhiều ngôi mộ nằm ở tầng trên mà lại
kết thủy đầy nƣớc trong veo, trong khi mộ ở tầng dƣới không kết tốt, lại thấy khô ran.)
15. Trùng táng hay trùng huyệt, tức là chôn nhằm chỗ mà trƣớc đây đã có ngƣời chôn rồi;
hoặc có xƣơng thú nhƣ voi, trâu, bò: Con cháu bị bệnh nan y và chết trùng tang liên táng.
Nghĩa là nhiều ngƣời chết liên tục trong vòng 3 năm. Nếu nút áo của ngƣời chết bằng xƣơng
thú hay kim khí, cũng phải cắt bỏ, chứ không để nguyên nhƣ vậy mà chôn theo ngƣời chết.
16. Ngƣời Khmer thƣờng xây mộ bằng đá ong, dùng tà thuật chôn theo ngƣời chết những
tƣợng sa thạch, và an táng trên nọa địa hay thiết địa, (đất khô cứng vì có quặng kim khí) nên
con cháu tàn ác dã man, chết vì gƣơm đao, súng đạn, suýt bị diệt chủng. (“Cánh đồng chết”
với những núi sọ ngƣời đã làm cả thế giới hãi hùng!).
17. Ngƣời Do-Thái và ngƣời Nhật ngày xƣa, có tập tục hỏa thiêu rồi giữ lại hài cốt mà không
chịu chôn cất. Hậu qủa là thế hệ sau làm nạn nhân của lò thiêu Hitler và bom nguyên tử.
Trong đại chiến thứ 2, Đức-quốc-Xã của Hitler muốn tiêu diệt ngƣời Do-Thái nên đã tập
trung họ lại rồi lùa ï vào lò thiêu. Còn ngƣời Nhật ở Mã-Đảo và Trƣờng-Kỳ bị thiêu hủy vì 2
trái bom nguyên tử.( Đây là một thứ nhân quả vật lý, khác với nhân qủa của nhà Phật. Ví dụ
bà mẹ lận đận chồng con hai ba đời. Con gái sau đó cũng trắc trở hai ba đời chồng. Trong gia
đình có ngƣời chết trôi, phải lo đoạn nghiệp , vì sợ về sau sẽ có ngƣời chết chìm nữa. Cha
chết bất đắc, con cũng chết thảm nhƣ gia đình Kennedy.) ( Quảng Đức )
Dãy núi Truồi từ đó đã nhƣ một bức thành kiên cố chia đôi tình nhân loại với cảnh huyền bí
của sơn lâm.
BÍ ẨN TRẦM HƢƠNG
Bài 1 : VÀI DÒNG LỊCH SỬ.
Trầm có tác dụng tuyệt hảo đối với sức khỏe con ngƣời, theo 3 con đƣờng: xông, uống và ăn.
Trầm trong thiên nhiên có tác dụng khử độc không khí, trừ lam chƣớng, làm trong sạch môi
trƣờng sống. Ngƣời xƣa biết rõ điều này nên mới tổng kết: “tẩy vũ trụ chi trƣợc”.
Hiện nay, dó bầu tự nhiên ở độ cao từ 1.000 mét trở xuống đã hoàn toàn bị hủy diệt. Khi đã
khai thác hết trầm, ngƣời ta còn đốn sạch cả những cây dó chƣa có trầm mang về nấu dầu
xuất khẩu. Cứ băm ra 1 tấn cây dó mới nấu đƣợc 1 lít dầu trầm…
Hơn hai thế kỷ qua, nhiều sử gia, nhiều học giả đã từng tốn nhiều công sức trong việc nghiên
cứu của mình, nhằm tìm hiểu đâu chính là sự thật về lần vĩnh biệt của vị anh hùng dân tộc
Nguyễn Huệ vua Quang Trung, vị Ðại Ðế đã làm rạng rỡ cho cơ đồ Việt Nam! Chuyện tức
tƣởi bƣớc vào cõi vĩnh hằng không phải chỉ dành riêng với cá nhân ông ta mà còn là sự uất ức
chung cho cả dân tộc Việt Nam ta. Do đó, vấn đề bàn cãi đâu là nguyên do chính đáng nhất
của nó vẫn còn bao trùm bởi chiếc màn dày đặc của sự bí mật. Nếu ai đó đƣa ra cân trả lời để
kết luận "Nhà vua chết vì bệnh." thì chúng ta khỏi nói thêm nữa... Hiện tại, ngƣời viết bài này
chỉ biết kiểm nghiệm lại những gì có trong tài liệu sƣu tầm đƣợc, để gọi là phần nào đó, ghi
góp thêm cho cách giải đáp "thắc mắc" thôi. Chuyện "Chiếc áo ấm" mà Càn Long (vua
Thanh) cẩn tặng vua Quang Trung để mặc lúc ngự hàn, là một nghi vấn nằm trong những
nghi vấn khác mang tính: "khó tin nhƣng có thật", vì chỉ có nó mới có thể nói lên cả một kế
hoạch lâu dài của các nhà "lý số" Tàu dƣới triều Càn Long quyết hại chết vua ta, để trừ mọi
hậu hoạn nơi bờ cõi phƣơng Nam của họ.
Sách "Ngụy Tây Liệt Truyện" của bộ sử ký "Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện", quyển 30
trang 42, các sử quan triều Nguyễn ghi nhƣ sau: "...Một hôm về chiều, Quang Trung đang
ngồi, bỗng xây xẩm tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm
gậy sắt mắng rằng: Ông cha ngƣơi sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân của Chúa, Ngƣơi
sao dám phạm đến lăng tẩm? Rồi lấy gậy đánh vào trán, Quang Trung mê man ngã xuống,
bất tỉnh nhân sự, lâu lắm. Lúc tỉnh dậy nhà vua đem việc ấy nói với quan trung thƣ Trần Văn
Kỷ. Từ đó bịnh chuyển nặng mới triệu quan trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu về bàn bạc
để dời đô ra đó. Thƣơng nghị chƣa xong thì Thế Tổ ta đã lấy lại đƣợc Gia Ðịnh, chiếm Bình
Thuận, Bình Khang, Diên Khánh, thanh thế chấn động. Quang Trung nghe đƣợc lo buồn,
bịnh ngày càng kịch liệt..." Ðọc những trang sử này, chúng ta có thể hiểu đƣợc ý chính của
các sử quan triều Nguyễn, họ muốn dựng lên một huyền thoại, nhằm thóa mạ vua Quang
Trung. Dụng ý chính ở đây là để ghép tội, và chứng minh rằng vua Tây Sơn là ngƣời: Vô đạo
và tàn bạo.
Tiếm đoạt thành Phú Xuân, xâm phạm lăng tẩm các Chúa Nguyễn nên bị tổ tiên các Chúa
Nguyễn trừng phạt Vì đang bệnh mà vua Quang Trung còn phải lo lắng thêm việc con cháu
Chúa Nguyễn phục thù, đang chiến thắng tại nhiều nơi, lấn chiếm dần các phần đất phía
Nam... và lãnh thổ Tây Sơn ngày một thu hẹp lại. Do đó, nhất định bệnh tình nhà vua ngày
một nặng thêm, và rồi nhất định phải chết. Dầu có nói gì chăng nữa, họ cũng không thể che
giấu hành vi trả thù, một sự trả thù dã man, tàn bạo đối với một triều đại từng làm cho họ xích
bích xang bang, sống trong tan tác, cơ hồ nhƣ bị hủy diệt luôn. Cho nên khi chiến thắng rồi,
họ quên bẵng thời điểm lịch sử 1792 (năm vua Quang Trung mất), tình thế chiến trƣờng đem
ra so sánh, binh đội phe Nguyễn Ánh chỉ là một nhóm ngƣời nhỏ lẻ tẻ, ô hợp, chƣa đủ khả
năng chống chọi với đại binh Tây Sơn. Sách "Ðại Nam Thực Lục Chính Biên", là bộ sách sử
tuy đƣợc cả triều Nguyễn ca tụng, nhƣng phần "Ðệ Nhất Kỷ" cũng phải ghi: "Tháng 3 năm
Nhâm Tý (1792) nhân khi gió Nồm thổi, Nguyễn vƣơng sai tƣớng là Nguyễn Văn Trƣơng
cùng Nguyễn Văn Thành đem chiến thuyền từ cửa Cần Giờ ra đốt phá thủy trại Tây Sơn ở
của Thị Nại (Quy Nhơn) rồi rút lui về. Khi lui về Nam, Nguyễn Ánh có ý định chiếm Phan
Rang, Phan Rí... nhƣng cuối cùng Nguyễn Ánh thấy chống không nổi, phải cho rút quân về
lại Gia Ðịnh". Nhƣ vậy, giai đoạn từ mùa hè 1792 trở về trƣớc, Nguyễn Ánh đã không thể có
mặt trên đất miền Trung, mà phải lo cố thủ Gia Ðịnh, có nghĩa là triều đại Tây Sơn vẫn còn
cai quản phần đất từ Gia Ðịnh trở ra Bắc và chính lúc bình yên trên phần đất cai quản của
mình nhƣ thế này, vua Quang Trung bị bệnh, rồi sau đó băng hà. Không giống nhƣ nội dung
đoạn sử trên mô tả: Về tính huyền thoại huyễn hoặc: bị ông tiên nào đó đánh cho một gậy để
phải lâm bệnh Về mặt thực tế cụ thể: nhƣ lo âu mất đất và bị thua trên chiến trƣờng... Chính
hai lý do này đã khiến vua Quang Trung buồn phiền, rồi bệnh nặng mà băng hà? Thực ra, từ
năm 1787 trở đi, vua Quang Trung bận rộn rất nhiều về chuyện nội trị, phần khác cần đối phó
loạn lạc tại Bắc Hà! Riêng phía Nam, cũng có chuyện cần cấp giải quyết, vì sự cai quản non
kém của Ðông Ðịnh Vƣơng Nguyễn Lữ, tạo điều kiện thuận lợi để Nguyễn Ánh chiếm lại
Gia Ðịnh. Và cũng nhờ vào sự bận rộn này mà bắt đầu từ năm 1787 cho đến năm 1792,
Nguyễn Ánh mới có cơ hội chiếm lại rồi củng cố thành Gia Ðịnh. Mãi tới tháng 5 năm 1790,
Nguyễn Ánh cho Lê Văn Câu (có sách ghi là Lê Văn Quân, một đại công thần, có thứ bậc
trên cả Võ Tánh, Nguyễn Văn Thành) đem quân ra đánh chiếm Bình Thuận. Chƣa đầy một
tháng sau đó, Tây Sơn phản công, quân lính Câu tan tác, phải cấp báo về Gia Ðịnh xin
Nguyễn Ánh cho viện binh. Ánh không chấp thuận trong tình thế nguy cấp này, Nguyễn Văn
Câu đành rút chạy về Phan Rí, quân binh Tây Sơn tiếp tục truy kích, Câu phải chạy thẳng về
Gia Ðịnh... Trƣớc một bại tƣớng từng sống chết với mình, Nguyễn Ánh không những không
tìm cách che chở, bảo bọc, mà còn tỏ ra không thƣơng tiếc, nhất định nghị tội, bãi chức... Quá
uất ức, Câu đành uống thuốc độc, kết liễu đời mình. Thƣơng thay cho một vị đại tƣớng tìm
lầm chúa thờ! Trở lại cái chết của vua Quang Trung, chúng ta không nhìn nội dung trên ở
khía cạnh mạ lỵ cá nhân, mà trên sự kiện nguyên do cái chết. Từ đó chúng ta cũng có thể kết
luận họ đã xác nhận vua Quang Trung chết vì bệnh. Ðọc sử Việt Nam, có rất nhiều cách giải
thích khác về cái chết của vị anh hùng dân tộc của chúng ta, nhƣng không mấy hấp dẫn. Do
đó, ngƣời viết phải tìm thấy thêm trong "Ðại Thanh Thực Lục" và "Ðông Hoa Toàn Lục" (Sử
Trung Quốc) ghi rằng:"Năm Càn Long thứ 58 (vào tháng 1 năm 1793), Quách Thế Huân
khấu báo lên Càn Long là An Nam quốc vƣơng Quang Trung đã chết vì bệnh".Càn Long, hơi
giật mình rồi nhƣ đang suy nghiệm một điều gì có thể đúng với dự tính trƣớc đó của ông ta...
Phải chăng, vua Thanh đã biết trƣớc đƣợc một chuyện gì chăng về cái phải xảy ra với vua
Quang Trung? Theo hắn ta phải sớm hơn... (vì khoảng sáu tháng sau ngày vua Quang Trung
băng hà, Càn Long mới biết tin). Tại Bắc kinh, trƣớc lúc đó, Vũ Văn Dũng đƣợc tin mật, vị
trƣởng đoàn sứ thần này xỉu đi... Khi tỉnh lại, liền gấp rút từ tạ vua Thanh mà trở về Phú
Xuân ngay. Chính sự đau đớn này, Vũ Văn Dũng đã làm bài thơ (Tập san sử địa số 9, Sai
Gòn 1968, trang 154):
"Bố y phấn tích ngũ niên phong
Mai cổ thi vi tự bất đồng
Thiên vị Ngô Hoàng tăng nhất kỷ
Bất ƣ Ðƣờng, Tống thuyết anh hùng".
Tạm dịch:
Năm năm dựng nghiệp tự thân nông
Thời trƣớc thời sau có mấy ông?
Có thƣơng, trời cho mƣơi năm nữa,
Anh hùng Ðƣờng, Tống khó so công!
Vua Quang Trung mất vào mùa Thu 1792, nửa năm sau Mãn Thanh mới biết, và cho ngƣời
sang báo tang. Sự chậm trễ này không phải do Quách Thế Trung, mà chính do sự sắp đặt của
hoàng triều Phú Xuân muốn làm vậy. Trong "Ðông Hoa Toàn Lục", quyển 117, trang 5s, đã
ghi lại ý trách móc của Càn Long: "Quốc Vƣơng Nguyễn Quang Bình đã mất ở Nghệ An vào
tháng 9 năm ngoái. Vua Càn Long liền quở trách ngƣời đƣa tin nhƣ thế là quá chậm, chắc
bây giờ đã tống táng rồi". Sự việc rõ ràng bên trong có dụng ý riêng, vì không phải báo về
cái chết của Nguyễn Quang Bình chậm, mà còn sai chỗ nữa (Phú Xuân chứ không phải Nghệ
An). Mặt khác, Phú Xuân còn cho làm mộ giả của vua bên Hồ Tây để đón sứ thần Mãn
Thanh sang phúng điếu. Sứ Thanh đến, muốn vào thăm Phú Xuân, triều thần Tây Sơn nhất
định không cho, còn tìm mọi cách đánh lạc hƣớng nhƣ dẫn họ lên tận Sơn Tây, khi sứ Thanh
phát hiện, triều thần Tây Sơn mới chịu dẫn họ trở lại, nhƣng chỉ dừng ở Thăng Long mà thôi.
Những việc nhà Thanh làm rất mâu thuẫn và bí mật, nhất là việc đòi phải vào đến tận Phú
Xuân xem xét... Năm 1789, chính Thành Lâm không chịu vào Phú Xuân để phong vƣơng cho
vua Quang Trung (lần đầu sau khi Phạm Công Trị đóng vua Quang Trung giả), mà chỉ tại
Thăng Long, viện lý do không đƣợc trái lệ thƣờng (Các triều đại trƣớc mỗi khi Trung Hoa
cho sứ sang nƣớc ta làm lễ phong vƣơng, đều thực hiện tại Thăng Long theo qui lệ của các
vua Trung Hoa), nhƣng lần này lại đòi vào tận Phú Xuân để điếu tang. Tại sao triều thần Tây
Sơn không cho Thành lâm vào Phú Xuân? Cũng nhƣ vua Quang Trung luôn cho ngƣời giả
mình để tiếp xúc với nhà Thanh? Tất cả mọi nghi vấn nhƣ thế này chỉ có vua Quang Trung và
các cận thần của ông ta mới biết! Ngày nay, chúng ta sao có thể suy đoán rằng: triều thần Tây
sơn sợ các thầy địa lý Tàu ếm bùa ếm ngãi nơi mộ vua Quang Trung!(?). Giai đoạn xã hội lúc
đó, chuyện xảy ra nhƣ thế này không phải là không có. Triều thần Tây Sơn làm sao lƣờng
trƣớc chuyện rửa nhục "thất trận Xuân Kỷ Dậu"? (Vào cuối năm 1788, Tôn Sĩ Nghị ngày nào
cũng cấp báo tin thắng trận, vua Càn Long vô cùng mừng rỡ, tiệc mừng đƣợc liên tiếp tổ
chức, ba quân luôn đƣợc cất nhắc thăng thƣởng (tăng thêm một tháng lƣơng cho đội quân
viễn chinh dùng để ăn tết trên xứ Nam). Chính Càn Long đã chọn ngày mồng 5 Tết làm ngày
"Hội mừng công, bình định đƣơng An Nam", các Ðại thần, các Ðại học sĩ, các Văn nhân,
quan chức phải tề tựu về kinh đô (Bắc Kinh) cùng nhau xƣớng họa, bình phẩm, gọi là chúc
mừng thọ nhân buổi đầu năm lên vua. Thực ra, đây là việc mừng chiến thắng bình định
phƣơng Nam. Nhƣng, ngày mồng 5 đã làm họ ê chề đau đớn, vì họ không có thắng lợi, mà
ngƣợc lại đã bị vua Quang Trung xóa sổ 29 vạn quân xâm lƣợc tinh nhuệ ngay trên đất Thăng
Long! Tàn quân Thanh khi chạy về lại nƣớc mình, chỉ còn vỏn vẹn 5.500 ngƣời mà đa số đều
bị sứt tay gãy gọng! Thật đột ngột, thật bất ngờ, và cũng thật đau đớn nữa... Trƣớc tin này,
Càn Long vẫn bình tĩnh, ra lệnh chiêu an Tôn Sĩ Nghị, ghép tội cho Lê Chiêu Thống... Sự
thật thế nào cũng phải phơi bày, nên về sau, Càn Long biết đƣợc lỗi lầm do Tôn Sĩ Nghị gây
nên, mới xuống chiếu nghiêm trị, bãi chức họ Tôn, cho Phúc Khang An thay thế làm lƣỡng
Quảng Tổng Ðốc, cầm giữ 50 vạn quân để bảo vệ biên giới tiếp giáp với An Nam. Trƣớc tình
hình nhƣ thế này, vua Quang Trung nhất định không thể khinh xuất, đã phải cùng triều thần
nghị bàn quyết định dùng ngoại giao để giải quyết cuộc chiến đầy thầm lặng này. Ðại Nam
Chính Biên Liệt Truyện, quyển 30, trang 36s, ghi lại bức thƣ của Thang Hùng Nghiệp (quan
đạo Tả Giang) viết cho vua Quang Trung nhƣ sau: "Lê Duy Kỳ đã trốn ra khỏi nƣớc, thiên
triều không ủng hộ cho y làm vua nƣớc Nam nữa. Vậy trong khi chƣa có ngƣời đến gõ cửa
quan xin thụ phong, thì "Ngƣời" nên đến sớm để đƣợc đặc ân...". Cơ hội hòa hoãn với Thanh
triều coi nhƣ đã nắm chắc trong tay, vua Quang Trung liền cho đòi Ngô Thời Nhiệm vào
chầu, giao cho nhiệm vụ thảo thƣ trả lời vua Thanh. Cũng trong sách này, quyển 30, trang
136b, 37a, có viết lại lời Phúc An Khang nói về tình hình sau vụ Xuân Kỷ Dậu: "...đã chính
thấy mắt Nghị trơ trọi một mình chạy về. Sau đó, tai hại đƣợc nghe thanh thế của vua Quang
Trung nên trong bụng không khỏi rụt rè, lo sợ... bèn nói nhỏ với viên thuộc quan rằng: Nam -
Bắc thôi việc binh đao đó là phúc của sinh dân, mà là điều may mắn cho quân ở ngoài bờ
cõi. Ta nghe nói viên quan coi việc giấy tờ của nƣớc Nam tên là Ngô Thì Nhậm, bao nhiêu
thƣ từ, từ trƣớc đến nay đều do tay y mà ra. Vậy ngƣơi nên viết thƣ trả lời, bảo y chuyên tâm
chủ trƣơng việc giảng hòa, gấp rút viết tờ biểu tạ tội đƣa sang, ta sẽ ở trong giúp đỡ cho,
việc ấy thế nào cũng xong..." Vua Quang Trung xuống chỉ bảo Hồ Hổ hầu làm chính sứ sang
Trung Hoa, trực tiếp gặp Thang Hùng Nghiệp. Nội dung tờ biểu đã nói lên đƣợc tính nhún
nhƣờng, kèm theo sự giải thích rõ ràng lý do phế bỏ Lê Chiêu Thống. Riêng việc va chạm với
binh đội thiên triều, thì đây chẳng qua là cách đối xử quá vụng về của Tôn Sĩ Nghị mà thôi.
Trong đoạn chót, nội dung thƣ, tỏ ra cứng rắn, không chịu lép vế, có đoạn rất đanh thép, mỉa
mai, hăm dọa (Sách vừa dẫn cùng trang): "...Tôn Sĩ Nghị lấy địa vị đại thần ở biên cƣơng, lại
vì tiền hay vì gái mà đem tờ biểu chƣơng của thần xé ném xuống đất, làm nhục sứ giả, ý
muốn động binh dấy quân, không biết việc đó quả do Ðại Hoàng Ðế sai khiến hay do Tôn Sĩ
Nghị? Thử hỏi vì một ngƣời đàn bà sai khiến mong lập công ở biên cƣơng mà cầu lợi lớn có
đáng mặt quân tử không?..." Trong phần cuối thƣ Ngô Thời Nhiệm còn nhấn mạnh: "...nay
đƣờng đƣờng là triều đình thiên tử, lại đi so hơn thua với một nƣớc rợ nhỏ, ắt là muốn cùng
khốn binh sĩ, lạm dụng vũ lực hầu sƣớng khoái cái lòng tham lam tàn bạo, thì chắc lòng dạ
của Thánh Thƣợng cũng không nhẫn. Còn nếu nhƣ cứ chiến tranh kéo dài, tính thế đến nỗi
nào thì thật không phải do thần muốn, mà thần cũng không dám nói trƣớc rồi tình thế sẽ đi
đến đâu..." Ðọc xong thơ, Thang Hùng Nghiệp run sợ, nhƣng vẫn cố giữ thái độ thật ôn hòa,
bình tĩnh nói với Hồ Hổ hầu rằng: "...nay không phải là lúc hai nƣớc đánh nhau, sao lại hành
sự toàn một giọng giận dữ? Nói nhƣ thế là để cần phong vƣơng hay muốn gây rối can qua
chăng?..." Ðối với chuyện này, Thang Hùng Nghiệp thật dở khóc dở cƣời, không biết phải
làm thế nào, thủ tiêu ngay lá thơ thì không dám mà trình lên Càn Long thì lại càng không
dám hơn. Sự việc mà đổ bể, Thang Hùng Nghiệp sẽ mất hết lòng tin của Càn Long đối với Y.
Do vậy, từ đó về sau, mọi giao thiệp với Ðại Nam đều về một tay Phúc Khang An bƣng bít lo
liệu. Chuyện ngoai giao giữa hai nƣớc kể từ đó mỗi ngày một mật thiết hơn. Tháng 11 năm
1789, khi đọc tờ biểu của Tôn Vĩnh Thanh, nói về kết quả công việc Thành Lâm sang Thăng
Long phong vƣơng cho Nguyễn Quang Bình, Càn Long chỉ thị ngay cho Tôn Vĩnh Thanh
(Ðại Thanh Thực Lục, quyển 1342, trang 17a): "Trẫm xét Thành Lâm sang Thăng Long tuyên
phong, tất chắc mục kích đƣợc quốc vƣơng và phong thổ nƣớc ấy, Trẫm muốn đích thân xét
hỏi viên quan ấy sẽ đƣợc rõ ràng hơn là lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh, phải cho ngay Thành
Lâm tiến kinh, để Trẫm hỏi..." Sứ Thanh - Thành Lâm, trong chuyến sang nƣớc Nam phong
vƣơng, vua Càn Long có gởi tặng vua Quang Trung một chiếc áo choàng màu, trên đó thêu 7
chữ: "Xa Tâm Chiết Trục Ða Ðiền Thử" Và kèm theo một bài thơ trong đó có câu: "Phát
Dị Nam Bang Y Dữ Quan" (Mũ áo không khác gì ngƣời nƣớc Nam). Lúc đó không ai có thể
hiểu đƣợc nội dung "7 đại tự" thêu trong chiếc áo, mang ý gì... Năm 1792, sau khi vua Quang
Trung băng hà, Càn Long lại làm thêm một bài thơ khác nhắc lại, ở câu thứ 7 với 7 chữ:
"Thất Tự Bất Năng Bãi Ai Thuật" (ý nói: 7 chữ không dứt đƣợc niềm xót xa của Trẫm) Và
câu:"Trung Thu Thƣợng Ức Y Quan Túc" (Trong mùa Thu trƣớc Trẫm nhớ Quốc vƣơng đã
có áo mão đoan trang), và thêm câu: "Hoài Nghi Kham Tiếu Ðại Kim Nhân" (Hoài nghi và
đáng cƣời việc triều trƣớc bắt phải làm việc cống ngƣời vàng để thay thế). Cái ái ngại và lo
lắng nhất khi vua Quang Trung còn tại vị, là Càn Long vẫn cứ đòi gặp cho bằng đƣợc con
ngƣời bằng xƣơng bằng thịt của Nguyễn Quang Bình? Chuyện bí mật vẫn chƣa ai có thể
khám phá ra vua Thanh có hàm ý gì trong "chiếc áo tặng"? Nội dung lời thơ? Tại sao "7 chữ"
đó lại không nói hết đƣợc nỗi xót xa?... Tặng "chiếc áo" chắc có lý do "đặc biệt" bên trong,
nên Càn Long mới nhắc đi nhắc lại mãi?... Phải chăng triều Minh đòi vua Lê Thái Tổ (Lê
Lợi) cống "ngƣời vàng", thì triều Thanh đòi vua Quang Trung cống "ngƣời thật"? Vua Càn
Long cho vẽ truyền thần Quang Trung (Phạm Công Trị 1790) có mƣu mô gì? Có thể Càn
Long đã biết ngƣời đƣợc vẽ hình không phải là Quang Trung thật? Ngƣợc lại, Quang Trung
giả xin một bức chân dung của Càn Long thì lại không đƣợc?... (bài biểu của sứ đoàn nƣớc
Nam nộp cho Phúc Khang An để trình lên Càn Long: "Nay hạ thần muốn xin một bức chân
dung của Hoàng Ðế để mang về nƣớc, kính cẩn cung phụng ở điện Kính Thiên"). Trên thực
tế, Mãn Thanh, không hề đặt điều kiện tiền bạc cho sự bang giao giữa 2 nƣớc. Không những
bãi bỏ lệ cống ngƣời vàng mà còn chịu chi phí rộng rãi, nồng hậu mọi khoản tiếp đón cho cả
đoàn sứ thần nƣớc Nam cả chuyến đi lẫn chuyến về. Nhất định không thể sai lầm khi có nhận
định rằng ở đằng sau bộ mặt dễ thƣơng đầy vẻ hiếu hòa kia, sẽ có một âm mƣu gì thật đáng
sợ? Trả thù? Càn Long đang ráo riết thi hành một kế hoạch, và chƣa có cơ hội bộc lộ ra bên
ngoài?... Mùa Thu 1792, vua Quang Trung băng hà, triều thần Tây Sơn mới có thể khám phá
ra đƣợc ý nghĩa của "7 đại tự" kim tuyến thêu trong "chiếc áo" tai ác kia!Theo cách chiết tự
và diễn nghĩa từ 7 chữ "Xa Tâm Chiết Trục Ða Ðiền Thử" đã có ý nói rõ: Nguyễn Huệ chết
vào năm Tý. Vì chữ "Xa" và chữ "Tâm" đem ghép lại là chữ "Huệ"; "Chiết Trục" là gẫy trục;
"Thử" là chuột mà chuột là "Tý", hay năm Tý... Nhƣ thế, phải chăng từ năm 1790 trở về
trƣớc, Càn Long đã đoán đƣợc số mạng của vua Quang Trung sẽ mất vào năm Tý? Chúng ta
có thể đƣa ra hai cách suy nghĩ để lý giải lập luận này: 1).- Càn Long là một vị vua giỏi nhất,
thông minh nhất của Thanh Triều, nhƣ thế về thuật số, bấm độn, tính quẻ, ông ta không thể
không tinh thông. 2).- Chính Càn Long là ngƣời có âm mƣu và dự mƣu giết cá nhân vua
Quang Trung từ lâu, và đã dùng thuật số ếm vào chiếc áo bào, hay gài độc vào 7 đại tự kim
tuyến để vua Quang Trung khi mặc vào sẽ bị chất độc khuếch tán từ từ. Cho đến hôm nay,
đối với việc ra đi của vua Quang Trung vẫn còn là chuyện bí mật, chƣa một ai có thể giải đáp
đƣợc những câu hỏi: "Tại sao nhà vua lại chết vào lúc tuổi đời đang sung mãn (đang đi vào
độ tuổi 40), công danh, thắng lợi cứ dồn dập ập đến? Nhà vua đã chết vì bệnh? Hay chết vì bị
đầu độc, bị ếm bùa ngãi của Càn Long? Và cũng có thể chết vì bức chân dung của Phạm
Công Trị vẽ bằng một loại mực có pha hóa chất cực độc cộng thêm việc dùng bùa chú ếm
vào chân dung đó? Hay chết vì những hoạt động tình báo của đối phƣơng? (kẻ thù gài điệp
viên vào cạnh bệ rồng? Cũng có thể là sự trả thù của con cháu nhà Lê? Của Nguyễn Ánh? Và
cũng có thể là do đoàn sứ bộ của Thành Lâm (Thành Lâm là một ngƣời rất giỏi thuật số hồi
ấy)? Sau cùng cũng có thể là sự ám hại từ phía Nguyễn Nhạc?..." Tất cả những câu hỏi trên
đều phát xuất từ các giả thuyết của một vấn đề: "Cái chết của vua Quang Trung". Rốt cuộc,
những nhà nghiên cứu chỉ có thể kết luận: "Ông ta chết vì bệnh"! Thật đơn giản, bị bệnh mà
không chữa trị đúng cách, dĩ nhiên chỉ có chết! Không thể có một ai bài bác nổi lập luận này!
Tình hình chính trị xã hội ở giai đoạn cuối thế kỷ 18 của nƣớc ta thật quá nhiều biến động. Sự
xôn xao không những xảy ra ngay trong cung đình mà ngay cả trong dân gian... Bởi vậy theo
sau một vấn đề chính thƣờng đƣợc gài thêm những chuyện phụ, nhằm tô vẽ cho sự phát triển
giáo phái "Thần quyền" của những kẻ lãnh đạo phong kiến... Làm sao ngày nay chúng ta
không thể không hoài nghi về các tài liệu để lại? Cũng cùng trong một thời gian lịch sử, lại
mang nội dung trái ngƣợc nhau? Chúng ta có thể tin tƣởng ngày chết của một ngƣời phải
đúng vào ngày giỗ hàng năm do con cháu dựng ra để tƣởng niệm. Nhƣng, cũng có thể vì một
lý do an nguy nào đó, mà con cháu nhất định chọn ngày khác, trùng với ngày qui tiên của
ngƣời trƣởng tộc của họ? Ðây cũng là cách giải quyết mang tính tục lệ của ngƣời Việt Nam
chúng ta. Ngày vĩnh biệt của vua Quang Trung có thể rơi vào tình trạng này lắm...
Trong dân gian ở miền nam lễ này còn đƣợc gọi là "Lễ thƣợng đòn dong" nghĩa là lễ đƣa cây
đòn dong lên. Đòn dong = đòn vong theo cách phát âm dân dã phía nam. Trƣớc khi kiểu nhà
gạch xây trở nên phổ biến thì kiểu nhà thông dụng là nhà gỗ. Dù bộ khung nhà là toàn bằng
gỗ xẻ hay là trƣng dụng bằng cây cau, cây tràm, cây tre tàu, cây tre tầm vông . . . thì kết cấu
chung cũng gồm cột, xiên, kèo, đòn tay vv. Sơ lƣợc về nhà một gian có khung gỗ xẻ :
+ Cột: Chịu lực chính,dựng thẳng đứng trên viên tán bằng đá đẻo, bao gồm cột hàng nhất
(cao nhất và còn đƣợc gọi là cột cái) cột hàng nhì và cột hàng ba (chống đỡ hiên nhà nên
hàng hiên còn đƣơc gọi là hàng ba)
+ Xiên: Kết nối các dãy cột, nằm ngang và xuyên qua các thân cột, bao gồm xiên giữa, xiên
hông, xiên trƣớc, xiên sau.
+ Kèo: nằm xuôi nghiêng, gác trên đỉnh cột. Với một gian nhà rộng còn có thêm kèo dơi ở
giữa, thiếu cây cột đỡ mà đặt lên đoạn cây chõng tựa lên cây xiên thôi.
+ Đòn tay: nằm vắt ngang lên dãy kèo, thƣờng có 9 đòn tay cho mỗi một bên mái nhà (chỉ
đếm số đòn tay từ cột hàng nhì đến cột hàng nhất)
Cây đòn vong chính là một cây đòn tay đặc biệt (nhƣng không đƣợc tính vào số đòn tay) nằm
trên cùng, cao nhất, chổ giao nhau của hai mái nhà trƣớc và sau. Cây đòn vong đƣợc bào đẻo
cho thân tròn hoặc bát giác, đƣợc "cƣng" nhất và đƣợc xem là "mang linh hồn" của một căn
nhà hồi xƣa. Vì ngày trƣớc, khi còn chƣa dùng 'tole' kẽm thì mái nhà đƣợc lợp bằng ngói
hoặc bằng lá dừa, lá cỏ tranh ... nên rất cần độ dốc nghiêng để nƣớc mƣa xuôi chảy, do đó
nhà phải làm theo kiểu hai mái mà vẫn lộ rõ đỉnh nóc thật cao và căn nhà nào cũng có cây
đòn vong ở cao tận cùng trên đỉnh.
Toàn bộ khung nhà đƣợc tính tóan cẩn thận, đƣợc đo cắt đục đẻo bào gọt hoàn chỉnh từng chi
tiết, đƣợc ráp thử riêng từng bộ với nhau trƣớc khi dựng. Công đoạn chuẩn bị này là chiếm
nhiều thời gian và công sức nhất cho bộ khung mà vẫn chƣa làm gì "động thổ". Cách làm nhà
gỗ của ngƣời xƣa tuy còn là "dân quê thôn dã" so với xã hội công nghiệp ngày nay, nhƣng
nhờ kiến thức và kinh nghiệm tích lũy qua nhiều thế hệ nên xem ra lại rất khoa học và sáng
tạo. Các thiết kế mộng, ngàm, con sẻ, con nêm . . . gíup cho việc lắp ráp mau chóng mà vẫn
vững chải, khi cần chuyển chổ ở dời nhà đi thì tháo dỡ dễ dàng mà giữ đƣợc gần nguyên vẹn.
Và điều quan trọng là làm đƣợc nhiều công đoạn ngay tại dƣới mặt đất, hạn chế bớt việc thi
công trên cao vừa khó khăn nguy hiểm lại mắc công leo lên leo xuống.
Vào ngày lành tháng tốt dựng khung nhà thì có một lễ cúng để khấn vái ông bà, đất đai, nhà
cửa trong đó có Lễ thựơng đòn vong vào đúng giờ đã đƣợc chọn trƣớc. Lễ này do một ngƣời
hội đủ phúc lộc thọ đứng ra cúng kiến và chỉ đạo, kết hợp với gia trƣởng, tộc trƣởng, thợ cả
và ngƣời hợp tuổi để đƣa cây đòn vong lên. Nếu bộ khung kịp lắp ráp, thƣờng thì cũng mau
vì đã chuẩn bị kỷ lƣỡng, thì cây đòn vong đƣợc đặt vào đúng chổ của nó luôn. Nếu không kịp
ráp bộ khung, vì chọn vào giờ quá sớm trong ngày hoặc vì bộ khung lớn và phức tạp hay
chƣa kịp hoàn tất khâu chuẩn bị, thì cây đòn vong vẫn đƣợc đƣa lên ngay vị trí của nó sau
này và đựơc giá đỡ tạm thời, tựơng trƣng cho căn nhà sẽ đựơc cất lên sau. Lễ này làm nghiêm
trang lắm. Và nhƣ Dienbatn đã nói, có một cuốn lịch Tàu đƣợc treo mãi mãi vào cây đòn
vong, không ai đụng đến.
Lẽ thông thƣờng, gia chủ và thầy thợ làm nhà đều cầu mong may mắn cho căn nhà mới. Căn
nhà ở nào đựơc bình an hạnh phúc và làm ăn khấm khá thì vị thợ cả đƣợc cho là "mát tay" và
sẽ đƣợc đắt mối làm nhà. Trong quá trình làm nhà thì gia chủ rất mực săn sóc thầy thợ, hoàn
chỉnh trả công xong còn chiêu đãi để tỏ lòng biết ơn. Tuy vậy, vẫn có đồn đãi cho rằng gia
chủ nào đối đãi thầy thợ không hậu hỉ sẽ bị thợ cả biết thuật Lỗ Ban ếm cho gia đạo bất hoà,
làm ăn thất bát, ngóc đầu không nổi.
Nhân tiện nhắc đến Lỗ Ban nên có vài lời về cây thƣớc Lỗ Ban luôn. Đến giờ lƣu truyền vài
chuẩn khác nhau về cây thƣớc Lỗ Ban chẳng biết cái nào là đúng (cây thƣớc của ông Bố NT
từng dùng thì dài 40,5 cm). Ngƣời thợ mộc ngày trƣớc theo cây thƣớc Lỗ Ban này tìm "cung
tốt" để tính toán và lên qui cách một số thông số trong căn nhà. Bởi vì thầy thợ ai ai cũng
theo thƣớc này nên hoá ra nhà cửa có một số qui cách rập khuôn giống nhau hoặc chỉ thay đổi
xê xích chút ít nên cũng thuận tiện cho việc thiết kế và thi công. Và nhìn chung, nếu "chọn"
theo các số đo thuộc cung tốt trên thƣớc này thì nhà cửa, nội thất lại đƣợc phù hợp với đặc
điểm sinh lý chung của cơ thể con ngƣời, chẳng hạn nhƣ chiều cao, khổ vai, tầm với tay, sải
bƣớc chân đi, khác biệt cao độ tƣơng quan giữa ngồi xuống và đứng thẳng lên ... và cũng
đƣợc thuận tiện trong ăn ở theo nhƣ tập quán sinh hoạt thuở trƣớc.
Ngày nay thịnh hành kiểu nhà bê tông đúc, nhà gạch xây một mái lợp 'tole' dốc thoai thoải,
nên dù còn sử dụng cây đòn tay để lợp mái nhà nhƣng không còn cây đòn vong, vẫn cúng
kiến làm lễ khởi công động thổ đào móng nhƣng không còn Lễ Thƣợng Lƣơng và cũng hiếm
thấy quyển lịch Tàu bụi bám nằm treo trên nóc nhà.
(Của anh Hồng Đức bên Palawan ).
BÙA THƢỢNG LƢƠNG DO DIENBATN KHÔI PHỤC LẠI TỪ BÙA CỔ .
姜太公在此百無禁忌
Đọc: Khƣơng Thái Công tại thử bách vô cấm kị
Nghĩa: Khƣơng Thái Công tại đây, tà ma đi hết.
ĐỒ LỄ THƢỢNG LƢƠNG :
1/ Xôi - gà.
2/ một bộ Quan Thần linh ( mũ - áo - ủng - ngựa - 1000 vàng hoa ) tất cả màu vàng+ 200
cuốn Thọ sinh kinh – tiền mã.
3/ 01 đĩa ngũ quả ( 5 loại ).
4/ o1 bình hoa cúc hay hồng.
5/ 3 cốc trà - 3 cốc rƣợu - 3 cốc nƣớc.
6/ 9 cây nến cốc màu đỏ.
7/ Trầu cau - rƣợu - thuốc lá.
8/ ít giấy tiền vàng bạc cúng vong.
9/ Gạo , muối.
10/ 01 tô cháo trắng.
11/ bỏng ngô, ngô , khoai luộc.
12/ 01 bó hƣơng.
13/ Một bộ Tam sên : Thịt luộc – 01 trứng vịt luộc – một nhúm tôm nõn.
Khi dọn đến nhà mới cần mang trƣớc : Bàn thờ - Gạo đầy thùng – Muối đầy hũ – Bật lửa mới
vài cái.
Lƣơng Đức Mến (soạn từ nhiều nguồn tham khảo, dùng trong gia tộc).
[1] Nếu mƣợn tuổi làm nhà:
- Trƣớc đó phải làm giấy tờ bán tƣợng trƣng khu đất đó cho ngƣời mƣợn tuổi lấy 99.000
đồng có làm giấy tờ, chủ nhà giữ giấy này.
- Khi động thổ: ngƣời mƣợn tuổi thay gia chủ khấn vái và động thổ nhƣ trên. Lúc này gia chủ
phải lánh khỏi nơi làm nhà xa từ 50m trở lên, sau khi hoàn tất việc động thổ xong mới trở về.
- Các kỳ đổ mái tầng 1, tầng 2… và tầng cuối cùng, ngƣời mƣợn tuổi vẫn tiếp tục dâng
hƣơng, khấn lễ, gia chủ vẫn phải lánh mặt lúc làm lễ.
- Khi nhập trạch: ngƣời mƣợn tuổi làm mọi thủ tục dâng hƣơng, khấn thành lời bàn giao nhà
cho gia chủ. Gia chủ làm giấy tờ mua lại nhà với giá 100.000 đồng và khấn cầu, lễ theo phần
nhập trạch.
[2] Xem thêm ở đây: http://holuongduclaocai.blogspot.com/2013/08/chu-y-trong-phan-kinh-
thinh-cua-van-khan.html
[3] Thay đổi từng năm trong Vòng luân phiên các Thái Tuế tinh quân trong Lục thập Hoa
giáp, xem tại đây: http://holuongduclaocai.blogspot.com/2012/01/vong-thai-tue.html
[4] Tên quan Hành khiển, Thần và Phán quan (Lƣu niên Hành khiển) thay đổi theo Thập nhị
Địa Chi của năm, xem: http://holuongduclaocai.blogspot.com/2011/02/luu-nien-hanh-
khien.html
Nhìn tổng thể hình sông thế núi của Đất Việt Ngàn Năm cả đồng bằng sông Hồng là đại cục
mà nguyên khí đại tụ tại Thăng Long xứng đáng là đại đô nhiều đời ( tuy vậy cần có nhiều cải
tạo mới phát huy hết sức mạnh vốn có của nó), vận mệnh của quốc gia phần nhiều đƣợc
quyết định bởi phong thuỷ của đại cục này. Xét tới ba tỉnh Hà Đông, Bắc Ninh và Hải Dƣơng
là trung cục mà nguyên khí "trung tụ" tại ba huyện Thanh trì, Đông ngàn và Thanh Lâm, ba
nơi này tạo thành thế chân vạc tiền, tả, hữu hỗ trợ nguyên khí cho Thăng Long (Tất nhiên còn
nhiều trung cục khác hỗ trợ). Để thấy đƣợc sự độc đáo của mỗi vùng chúng ta sẽ lần lƣợt tiến
hành phân tích hình sông thế núi của ba khu vực này :
Tỉnh Hà Đông với trung tâm là huyện Thanh Trì toạ lạc trên một miền đất đồng bằng lƣng
dựa núi mặt hƣớng thuỷ là nơi long đình khí chỉ của một một long mạch tới từ Trung Quốc.
Long mạch - Chi trung kết cán- cỡ trung bình chạy theo hƣớng tây bắc đông nam ( kẹp bởi
hai đại giang là Đà giang và Mã Giang) bắt nguồn từ sơn nguyên Tây Tạng chạy qua Vân
Nam Trung Quốc hƣớng về phía nam qua Lào vào Việt Nam tại tỉnh Điện Biên, Lai châu với
các dãy núi cao trên 2000m . Khi tiến vào Việt Nam long bắt đầu thoát xác từ già hoá trẻ- dấu
hiệu của sinh khí tăng dần, đến khu vực hồ Hoà Bình Trung cán long này thúc yết rồi phân ra
làm ba nhánh
Tả chi tạo thành tay long quay ngƣợc lên phía bắc đi theo Đà giang tạo thành dãy Ba vì hùng
vĩ với ba ngọn núi là núi Ông, núi Bà (1120m) và núi Chẹ ( Tản Viên 1287m), ngọn giữa Tản
Viên có hình thắt cổ bồng, trên toả ra nhƣ cái tán ( long mạch đại quí cách).
Hữu chi tạo thành tay hổ tiếp tục di chuyển về phía đông nam rồi tách ra làm 3 chi nhỏ phân
cách bởi hai con sông là sông Bồi và sông Bƣởi. Chi ngoài cùng còn rất hùng hậu đột khởi
nên dãy núi Phu Nha Phong cao 1587 m kẹp bởi hai con sông là sông Mã và sông Bƣởi. Chi
giữa long đi trƣờng viễn tạo thành dày Tam Điệp chạy ra sát biển, kẹp bởi hai con song Bƣởi
và Bồi. Chi trong cùng chạy về khu vực chùa Hƣơng nổi tiếng và kết thúc tai nơi giao hội của
hai con song Bồi và Đáy.
Trung chi huyền vũ khí mạch trung tụ chạy về phía đông bắc "băng hồng" qua song đáy thoát
hết sát khí hƣớng về Thăng Long Hà Nội và kết thúc tại huỵên Thanh Trì. Tại nơi kết thúc
này hàng loạt các gò đống đột khởi nhƣ một hệ thống mà phía trƣớc là một loạt các đầm nƣớc
tự nhiên trong và sâu nổi tiếng ( Phía giáp Thanh Trì với sông Hồng là rốn nƣớc của thành
phố) tạo thành một trong năm các thức kết huỵêt gọi là "Cứ thuỷ cục". Tới đây chắc các bạn
đã rõ vì sao nơi này chiếm tới 70% nhân tài của một vùng rộng lớn rồi.
Tỉnh Bắc Ninh tƣơng tự nhƣ tỉnh lị Hà Đông toạ lạc trên một miền đất đồng bằng bằng phẳng
có triều cao từ 20 đến 50 m so với mặt nƣớc biển , lƣng dựa núi mặt nhìn núi xa xa về phía
đông là Lục Đầu giang ( cách cục đặc biệt). Tỉnh là nơi kết thúc của một long mạch đại cán
phát nguyên từ Tây Tạng rẽ nhánh về phía đông ( Tay long của đại cục Thăng Long) đi qua
Trung Quốc, một chi long của đại cán long này rẽ nhánh xuống phía nam tạo thành cánh cung
Ngân Sơn cao trên 1800 m chạy xuống miền bắc của nƣớc Việt qua Cao Bằng, Bắc Cạn chi
long này trẻ hoá. Trên đƣờng đi của cánh cung Ngân Sơn một chi long nhỏ tiếp tục tách ra
chạy theo hƣớng tây nam tạo ra núi Phia Booc cao 1578 m đi qua Tuyên Quang ( kẹp giữa
hai song Thao và Cầu) chuyển hƣớng đông nam đột khởi lên dãy Tam Đảo có 3 đỉnh nhô lên
liền nhau gần Thác Bạc, nhƣ ba hòn đảo : Phù Nghĩa, Thạch Bàn và Thiên Thị cao tƣơng ứng
1250m, 1420m, 1591m . Dãy Tam Đảo tiếp tục di chuyển theo hƣớng đông nam khởi núi Sóc
Sơn trung tụ tai huyện Đông Ngàn, dƣ khí còn tiếp tục di chuyển đột khởi một loạt các dãy
núi chay theo hƣớng bắc nam là Tiên Du, Vũ Ninh và Thiên Thai ngăn lấp lấy minh đƣờng
trƣớc mặt. Thế của long gia thì thật là kém xa so với Hà Đông tuy vậy nó lại quí ở chỗ có
nhiều các chi long khác chầu về nhƣ cánh cung Sông Gâm, cánh cung Bắc Sơn, dẫy Cai
Kinh, dẫy Mẫu Sơn và cánh cung Đông Triều, nên cuối cùng thì sinh khí chầu tụ xem ra lại
nhỉnh hơn so với thế đất của tỉnh Hà Đông.
Xét riêng huyện Đông Ngàn là một vùng đồng bằng phì nhiêu lƣng dựa vào dãy Tam Đảo có
hình "thƣơng khố", phía trƣớc hƣớng về Lục Đầu giang lại bị ngăn lấp bởi ba dãy núi Tiên
Sơn, Vũ Ninh và Thiên Thai chính là đại quí cách kết huyệt mà không cần có nƣớc trong
phong thuỷ gọi là "Can pha cục". Ngƣời viết xin trích một đoạn trong sách cổ " Phía trƣớc địa
huỵêt không có thuỷ lƣu, không tìm thấy thuỷ, núi non hai bên tiền, tả, hữu chắn ngang ngăn
lấp minh đƣờng là đại quí địa nếu hành long có hình thƣơng khố". Đến đây thì chắc ai cũng
hiểu tại sao Đông Ngàn lại là huyện có nhiều ngƣời đõ đạt cao đến nhƣ vậy, thêm nữa vì
hành long có hình "thƣơng khố' nên đây cũng là huyện giầu nhất miền bắc nếu không muốn
nói là cả nƣớc có nhiều nhân vật sinh ra tại đây có tài sản lên tới hàng ngàn tỷ đồng Việt
Nam. Ngƣời viết đã có dịp ghé thăm Đền Đô thời tám vị vua nhà Lý ( vua thứ chín đƣợc thờ
tại nơi khác) đƣợc nghe câu truyện dòng họ Lý đƣợc ngôi đất cửu long tranh châu ( một cụ
già còn thuật lại xƣa kia khi cụ còn bé khi trời mua to quả là có nhiều dòng nƣớc chầu về một
khu đất) mà phát ra chín đời vua Lý lƣu danh sử sách , ngẫm thì cũng không sai vì trung cục
đại quí cách còn thiếu thuỷ của tiểu cục quí cách nữa thôi là đủ cho đế nghiệp.
Tỉnh Hải Dƣơng toạ lạc trên vùng đất trung tâm đồng bằng bắc bộ xung quanh đƣợc bao bọc
bởi các con sông chính : S. Thái Bình, Kinh Thầy ở phía đông, S. Lục Nam, Đuống ở phía
bắc, S. Hồng ở phía tây và S. Luộc ở phía đông, ngoài ra trong địa phận tỉnh còn có các sông
nhƣ : S. Rang, S. Kinh Môn, S. Sặt, S. Hƣơng, S. Đá Vách, S. Cẩm Giàng, S. Cửa An, S. Tứ
Kỳ, S. Mía… chảy qua mà sông nào cũng uốn lƣợn hữu tình. Tỉnh có hai trung tụ là Nam
Sách và Bình Giang ( sẽ đề cập sau) cách thức kết của hai trung tụ này đều lấy thuỷ là trọng
Xét về sơn, địa mạch của Hải Dƣơng là sự chầu tụ và giao thoa của của 4 địa mạch lớn từ
phía tây bắc, bắc, đông và đông bắc đổ dồn về phía Lục Đầu Giang
Xét về thuỷ, Lục Đầu Giang là cách cục thuỷ vô cùng đặc biệt mang lại vƣợng khí lớn cho cả
vùng đất. Ta sẽ đi sâu một chút để phân tích đặc điểm này qua quái tƣợng
1. Lục đầu mang tƣợng âm vì lục tƣợng quái là âm, tụ tại miền bắc là nơi âm sinh đến cực
điểm kết hợp với Cửu Long Giang ( Cửu Vĩ Long Giang) mang tƣợng dƣơng vì cửu là
dƣơng, tản ra ở miền nam nơi dƣơng sinh đến cực điểm tạo thành thế cửu lục xung hoà âm
dƣơng hợp khắc của nƣớc Việt ( tƣợng này nói lên rất nhiều điều …)
2. Âm lục, dƣơng cửu, đầu dƣơng , đuôi âm nên thấy rõ nguyên lý của vũ trụ trong âm có
dƣơng , trong dƣơng có âm.
3. Lục Đầu Giang nếu nhìn qua thì thực chất chỉ có 4 dòng thuỷ lai chầu về là : S. Cầu, S.
Thƣơng, S. Lục Nam và S. Đuống ( S. Thiên Đức) còn hai sông là S. Thái Bình và S. Kinh
Thầy là hai dòng thuỷ khứ. Nhƣ vậy sao gọi là Lục Đầu đƣợc ? Tuy vậy trong lịch sử có hai
lần triều cƣờng qua cửa Thái Bình và Bạch Đằng làm đổi dòng của hai con sông này tạo ra
những cuộn xoáy lớn tại Lục Đầu ( do 6 dòng nƣớc đổ về) Lục Đầu trở về đúng nghĩa của nó
là địa tƣợng sau đó xuất hiện nhân tài xuất chúng là hai vị anh hùng dân tộc gắn liền với hệ
thống này là Ngô Quyền và Hƣng Đạo Đại Vƣơng Trần Quốc Tuấn
Huyện Nam Sách là trung tụ thứ nhất của Hải Dƣơng đƣợc bao bọc bởi hai con sông Thái
Bình và Kinh Thầy, đây là cách thức kết mà phong thuỷ gọi là hoành thuỷ cục ( thuỷ thành
uốn lƣợn bao bọc). Phần lớn vƣợng khí của Lục Đầu dồn tụ về khu vƣợc này tạo ra hàng
nghìn gò đống lớn nhỏ đột khởi nhƣ một hệ thống mà Thanh Lâm là trung tâm, điều này giải
thích tại sao huyện Nam Sách thị trấn Thanh Lâm từ xƣa đến nay nhân tài sinh ra mãi không
hết.
"Thực tế thì ta thấy, so với nhiều quan lại khác đƣơng thời, Hoàng Cao Khải dù bị quy là tay
sai đắc lực cỡ chóp bu của thực dân, nhƣng ngƣời ta chỉ nghi ngờ ông, chứ ông không bị bất
bình, không bị vạch tội ác... Còn nhƣ nhà chí sĩ yêu nƣớc Phan Châu Trinh khi sống ở Pháp
(1920) đƣợc tin cựu Toàn quyền A.Sarraut qua thăm Đông Dƣơng, cụ Phan đã viết thƣ riêng
báo cho "Tân ấp tƣớng công Hoàng Đại nhân" (lúc này đã về hƣu sống ở ấp Thái Hà), trong
thƣ có những đoạn biểu thị tình cảm đối với Hoàng Cao Khải nhƣ sau: "Năm 1910, khi Trinh
ở Nam Kỳ từng đƣợc ngài Tham biện tỉnh Mỹ Tho đem cho xem cuốn Việt sử kính (tức cuốn
Gƣơng sử Nam) của ngài soạn. Đọc xong dấy lên nhiều điều cảm xúc. Tuy việc lập ý dùng từ
gãy gọn nhẹ nhàng, không thể khiến cho ngƣời tuổi trẻ tân tiến hoan nghênh hết đƣợc, nhƣng
trong đó với sự nhìn nay nhớ xƣa, xét việc đã qua biết điều sắp tới về tiền đồ thành bại mất
còn của Tổ quốc của chúng ta, một lời ca thán ba lần thở dài, trƣớc sự chỉ dẫn ra con đƣờng
mê lộ của ngƣời nƣớc ta, chƣa từng không lƣu ý đến nhiều lần vậy. Qua đó, Trinh biết là
Tƣớng công tuy cấp lƣu dũng thoái (chảy gấp lui mau), vui thú điền viên, mắt thờ ơ nhƣng
lòng nóng hổi chƣa từng có một ngày quên Tổ quốc."
PHẢI CHĂNG CAO BÁ QUÁT LÀ CHA ĐẺ CỦA PHÓ VƢƠNG BẮC KỲ HOÀNG
CAO KHẢI?
THÁI DOÃN HIỂU
Thân sinh của Cao Bá Quát là ông đồ Cao Hữu Chiếu - một danh nho tuy không đỗ đạt gì.
Ông hƣớng con cái vào đƣờng khoa cử với rất nhiều kỳ vọng. Đời Chu có 8 kẻ sĩ : Bá Đạt -
Bá Quát, Trọng Đột - Trọng Hốt; Thúc Dạ - Thúc Hạ, Quý Tuỳ - Quý Đa. Tám hiền sĩ đời
Chu này đều là bốn cặp sinh đôi. Ông chọn hai tên trong tám kẻ sĩ đời Chu đặt tên cho hai
đứa con sinh đôi của mình: Cao Bá Đạt, Cao Bá Quát là muốn cho hai con sẽ trở thành những
bậc hiền tài giúp nƣớc. Cao Bá Quát đặt tên tự cho mình là Chu thần (quan nhà Chu) cũng
ngụ ý đó.
Về nhân vật kiệt xuất này trong bộ Giai thoại Kẻ sĩ việt Nam, NXB Văn hoá Dân tộc, Hà Nội
1997, tôi (TDH) đã viết “Cao Bá Quát (1808-1855) là nhà thơ lớn của dân tộc. Anh hùng thời
nhà Nguyễn. Tự Chu Thần, hiệu Cúc Đƣờng và Mẫn Hiên. Quê làng Phú Thị, Gia Lâm, xứ
Kinh Bắc (nay thuộc Hà Nội). Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, thanh liêm. Họ
Cao là một cự tộc ở làng Phú Thị, nhiều đời khoa bảng. Anh ruột là Cao Bá Đạt đỗ cử nhân,
làm tri huyện Nông Cống, một huyện giàu nhất tỉnh Thanh Hóa. Cao Bá Quát là chú ruột Cao
Bá Nhạ, tác giả Trần tình khúc.
Thuở nhỏ, Cao Bá Quát nổi tiêng thần đồng. Năm 1831 (Minh Mệnh thứ 12), ông đỗ á
nguyên kỳ thi hƣơng ở Thăng Long, nhƣng về sau bộ duyệt lại đánh xuống cuối bảng. Những
năm về sau (1832-1835) hai phen ông vào Huế thi hội đều bị đánh hỏng vì lời văn phóng đạt,
“ngông” không chịu khuôn phép song tiếng tăm đã lẫy lừng. Từ đó, Cao thƣờng ngao du đó
đây, lấy văn chƣơng phúng thích chính trị làm lẽ sống ở đời. Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841),
theo lời đề cử của quan đầu tỉnh Bắc Ninh, ông đƣợc cử vào kinh sung chức hành tẩu bộ lễ.
Cao có chân trong Mặc vân Thi xã nổi tiếng của Tùng Thiên công Miên Thẩm và Tuy Lý
công Miên Trinh. Đây là thời kỳ Cao Bá Quát và Phƣơng Đình Nguyễn Văn Siêu đƣợc nổi
danh “Thần Siêu, Thánh Quát”.
Năm 1841, nhân một khoa thi hƣơng – ân khoa của Thiệu Trị, Cao đƣợc cử làm sơ khảo kỳ
thi Thừa Thiên. Vì mến tài một số sĩ tử, ông lấy muội đèn chữa quyển của thí sinh phạm húy.
Việc bại lộ, Cao bị tra tấn, suýt bị tội chết, sau phải đi làm lao dịch theo một đoàn thuyền của
hoàng gia đi mua hàng xa xỉ ở Indônêxia. Từ nƣớc ngoài trở về, Cao bị thải về Hà Nội, sống
nhờ vợ bên hồ Trúc Bạch. Năm 1847, ông đƣợc triệu vào kinh, đến năm Tự Đức thứ ba 1850,
ông ra làm giáo thụ ở phủ Quốc Oai (Sơn Tây), gần nhƣ bị đuổi khéo về Bắc.
Năm 1853, Cao Bá Quát lấy cớ mẹ già, thôi chức giáo thụ và năm sau 1854 làm quân sƣ cho
Lê Duy Cự dấy nghĩa ở Mỹ Lƣơng (Mỹ Đức, Hoà Bình) chống lại triều đình nhà Nguyễn.
Bọn phong kiến gọi là giặc Châu Chấu. Khởi nghĩa thất bại, Cao hy sinh ngay trong trong
trận đánh cuối cùng ở huyện Yên Sơn. Tự Đức đã tru di ba họ nhà ông 1855 (1).
Cao Bá Quát sáng tác nhiều, cả Hán lẫn Nôm : Tài tử đa cùng phú, Cao Bá Quát thi tập, Cúc
Đƣờng thi thảo, Cao Chu Thần di cảo, Mẫn Hiên thi tập (4 tập). Tất cả có trên 1.000 bài.
Thơ Cao Bá Quát nổi tiếng hay, tài năng thi hào đƣợc ngƣời đƣơng thời và đời sau xem nhƣ
thần thánh che mờ cả thời Tiền Hán và Thịnh Đƣờng. Đức độ của ngƣời đƣợc muôn đời kính
trọng, xót thƣơng.
Thƣơng ai bảy nổi ba chìm
tấm lòng phản kháng vẫn còn sáng soi.
(Sóng Hồng)”
*
Trên con đƣờng viễn du Phú Thị - kinh đô Huế, Cao Bá Quát thƣờng ghé thăm anh trai Cao
Bá Đạt làm tri huyện Nông Cống. Tại huyện đƣờng của ông anh có một viên thƣ lại là Hoàng
Văn Đồng. Ông này có một ngƣời vợ tuyệt thế giai nhân, giỏi thi phú. Ngƣời đẹp Mỹ Lệ
thƣờng xƣớng họa rất tâm đắc với Bá Quát. Một số bài thơ viết về phong cảnh Thanh Hóa
nhƣ Vịnh Thanh Hoá Miêu Tử sơn (Vinh núi Con Mèo ở Thanh Hoá), Vọng phu thạch (Hòn
Vọng Phu Thanh Hóa)…còn lại trong di cảo của Cao là ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt này.
Ở đây, đã nẩy nở một thiên tình sử giữa danh sĩ với giai nhân. Mối tình của họ kéo dài 5 năm
từ 1848-1853, để lại biết bao huyền thoại. Áng thơ tình diễm tuyệt dƣới đây là của nàng Mỹ
Lệ gửi ngƣời tình Chu Thần Cao Báo Quát:
ĐÊM MƢỜI BẢY DƢỚI ÁNH TRĂNG VIẾT CHẠY BÖT GỬI BẠN
Trời cao, sao lác đác
Trăng sáng trong nhƣ nƣớc
Lạnh lùng tiếng sâu mùa kêu
Sàn sạt gió vàng nổi dậy.
Trên nhà có một ngƣời đẹp
Ngồi tựa lan can buồn không nói
Bỗng đứng dậy xem đêm đã khuya chƣa
Bƣớc một bƣớc lại dừng một bƣớc
Không lo đêm dài lạnh
Chỉ sợ đêm sắp tàn
[Nghĩ lại} khi thiếp tuổi đôi tám
Cũng đầy đặn nhƣ trăng
Lớn lên vẫn yêu cái đẹp xƣa
Những tƣởng giữ mãi đƣợc nhƣ thế
Kéo áo bọc lấy ánh trăng
Không nỡ dễ dàng bỏ phí
Xén ra thành bức thƣ hợp hoan
Gửi cho chàng những điều tâm sự.
Dịch thơ:
Trời cao sao lác đác,
Trăng sáng trong nhƣ nƣớc,
Sâu mùa kêu tỉ tê,
Gió thu thổi hiu hắt.
Có ngƣời đẹp trên lầu,
Tựa lƣng buồn nín bặt.
Dậy xem canh mấy rồi,
Dạo quanh lại dừng bƣớc.
Chẳng lo đêm dài lạnh,
Chỉ tiếc trăng hầu khuất.
Thiếp thuở đôi tám xƣa,
Vẻ so trăng chẳng khác,
Lớn lên tƣởng vẫn còn,
Sắc đắm ngƣời nhƣ trƣớc.
Túm áo bọc ánh trăng,
Chẳng nỡ hoài bỏ dứt
Xén làm bức thƣ tình,
Gửi bạn lời tâm phúc!
KHƢƠNG HỮU DỤNG
Tình cảm quá đẹp giữa hai ngƣời qua bài thơ đã thật nặng gánh trần duyên. Năm 1850, điều
mà Cao Bá Quát mãi mãi không thể ngờ tới là đôi tài tử có với nhau cậu con trai Hoàng Văn
Khải – theo khai sinh họ bố chính thống hiện thời. Sau này, khi cả hai ông bố đẻ và bố nuôi
không còn trên thế gian nữa, bà mẹ mới gọi con trai 18 tuổi lại, tiết lộ bí mật này trƣớc khi
cậu đậu cử nhân ân khoa 1868 dƣới triều Tự Đức - cùng khoa với Phan Đình Phùng. Cậu
Khải rất đỗi kinh ngạc, đành chấp nhận sự thật kinh hoàng, không ngờ mình là một giọt máu
của bậc kỳ tài nổi loạn, xin đổi khai sinh lấy chữ Cao ghép vào giữa thành HOÀNG CAO
KHẢI !
Hoàng Cao Khải mới đỗ cử nhân, bổ làm huấn đạo, rồi tri huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa).
Tuy quan tƣớc ở hàng tam phẩm nhƣng theo năng lực vẫn đƣợc Nguyễn Hữu Độ dẫn dắt, tiến
cử phong lên làm Tổng đốc Lạng Sơn, tổng đốc Hải Dƣơng, tổng đốc Bắc Ninh... Với thành
tích đánh dẹp phong trào Cần vƣơng ở Bắc bộ, và giải giáp cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy, Hoàng
Cao Khải đã đƣợc Triều đình nhà Nguyễn tấn phong đến chức Khâm sai Kinh lƣợc sứ Bắc
Kỳ (ngƣời Pháp gọi là Phó vƣơng - vice), quyền uy nghiêng ngửa thiên hạ. Cuối đời, ông
đƣợc triệu về Kinh giữ chức Thƣợng thƣ bộ Binh. Nhìn chung, Hoàng Cao Khải là nhân vật
lịch sử công ít tội nhiều.
(1) Nhƣng theo dã sử thì lại khác. Cao không chết mà sống ẩn vào dân gian một thời gian dài.
Nhà văn Xuân Cang bảo tôi: “Cao Bá Quát tuổi con rồng, mà lại là rồng đất trốn trong hang
thì có trời bắt đƣợc”. Điều Xuân Cang nói ứng với lệnh truy nã Cao Bá Quát của triều đình
nhà Nguyễn vẫn có hiệu lực vào năm 1858 và mãi về sau.
Thƣ trả lời của Cụ Đốc Tít đối với Tổng đốc Hải an - Hoàng Cao Khải
NGUYỄN QUANG TUYẾN (ST giới thiệu))
Bức thƣ 1 ( trích bài dịch từ chữ hán nôm dịch ra chữ quốc ngữ )
Hải- An Tổng đốc Hoàng Cao Khải
Kính gửi: Quan đề đốc Hải Dƣơng – Quảng Yên Mạc Tƣớng quân soi xét.
Tôi thiết nghĩ việc của Ngài làm tuy là rất chính nghĩa, nhƣng chƣa đúng với thời cơ. Ngày
xƣa ông Mạnh Tử nói dẫu có trí tuệ, nhƣng kém thế thời thì không thành, dẫu có tƣ chất
thông minh nhƣng lỗi thời thì cũng hỏng, vả chăng kẻ tuấn kiệt phải theo thời, ngƣời thông
đạt phải biết mệnh.
Nay Tiên đế đã ký hòa ƣớc với chính phủ Pháp bảo hộ rồi, triều đình cũng đã lập nên Vua
mới, trong nam, ngoài bắc, trên trời dƣới biển đều là vƣơng thổ, vƣơng thần cả.
Ngài phụng mạng Vua Hàm Nghi để cứu vãn thời thế, đó là một việc làm lấp biển, vá trời,
chí khí thì to, nhƣng thành công đƣợc cũng là hiếm có. Vả chăng Vua Hàm Nghi cũng đã bị
triều đình bãi bỏ, coi nhƣ là phế đế. Nhân dân chỉ biết theo mệnh của triều đình, yên ổn làm
ăn, không muốn gây việc binh đao nữa. Vậy thì Ngài tuy hết lòng kêu gọi cũng nhƣ vịt nghe
sấm, nƣớc đổ lá khoai thôi, ai là ngƣời hƣởng ứng chứ. Chi bằng Ngài lựa theo thời thế, cùng
chúng tôi hợp tác, để trị quốc, an dân, đã không trái với lệnh triều đình, mà lại biết lựa theo
thời thế, việc làm chỉ bằng một nửa, mà công lại gấp đôi. Vả chăng ngƣời Pháp vốn trọng
ngƣời có tài năng, có nghĩa khí, lại đƣợc chúng tôi tiến cử lên, tất nhiên ngài sẽ đƣợc trọng
dụng lắm, ý Ngài thế nào ? xin cho tôi đƣợc biết.
Kính chúc Ngài mạnh khỏe và rất mong Ngài là bạn đồng liêu với chúng tôi.
Kính thƣ :
Hoàng Cao Khải
Với chí khí khảng khái, phẩm chất anh hùng bất khuất, thà hy sinh của cụ Đốc Tít để chiến
đấu vì nƣớc, vì dân. Vì vậy mà Hoàng Cao Khải không thể dụ dỗ đƣợc, nên đã nghĩ ra nhiều
mƣu gian quỷ kế để phá hủy đốt cháy làng xóm, nhà thờ, đình chùa, lăng mộ, tàn sát hàng
nghìn bà con, dòng họ Nguyễn gốc Mạc quê tôi và những vùng phụ cận, cùng những ngƣời đi
theo nghĩa quân, hoặc giúp đỡ cho nghĩa quân chống Pháp.
Sau đây là bức thƣ thứ 3:
Do cuộc chiến đấu không cân sức, địch cắt đƣờng tiếp tế lƣơng thực và vũ khí đạn, thuốc
cứu chữa thƣơng bệnh binh, và đầu độc nguồn nƣớc. Đồng thời địch còn dùng thủ đoạn vô
cùng thâm độc hèn hạ đốt phá san phẳng làng mạc, tàn sát con cháu dòng tộc họ Nguyễn gốc
Mạc và bà con quanh vùng. Vì vậy cùng với bối cảnh chung của cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy đã
thất bại. ( Nhƣng đây là một thành tích của tay sai Tổng đốc Hoàng Cao Khải để dâng lên
quan thầy Pháp ).
Nằm rải rác ở khu vực phía Tây gò Đống Đa, gồm nhiều công trình kiến trúc tinh xảo đƣợc
đánh giá là đạt đến trình độ kỹ thuật cao tay trong nghệ thuật điêu khắc đá của ngƣời Việt.
( Còn phần tiếp theo - dienbatn )
Ngƣời hạ bút viết bức thƣ khuyên nhủ Phan ra hàng, chính là ngƣời đồng hƣơng, đồng thời
với cụ, lại có tình thông gia với nhau nữa: ông Hoàng Cao Khải.
Lúc này họ Hoàng đang làm Bắc kỳ Kinh lƣợc sứ tôn nghiêm hiển hách; ngƣời Pháp gọi là
"phó vƣơng" (vice roi). Thiếu gì ngƣời làng Đông Thái muốn tránh hoạ phải chạy ra Bắc, núp
dƣới bóng che chở và đầu thân làm môn hạ của họ Hoàng, ngay đến ngƣời trong thân tộc cụ
Phan cũng có.
Xuất thân chỉ là một thầy cử nhân đậu trẻ, rồi ở nhà nhàn cƣ vô sự, cờ bạc chơi bời, đến đỗi
bán hết gia viên điền sản, chỉ còn một nƣớc tự tử đến nơi, họ Hoàng bỏ nhà đi ra Bắc hà, gặp
đƣợc ngƣời tri kỷ, rồi cỡi voi đánh giặc, tuỳ thế lập công danh, thấm thoát không mấy năm
mà làm tới kinh lƣợc, phong tới Quận công, ai cũng phải chịu là ngƣời có tài lớn.
Nếu cụ Phan là anh hùng muốn tạo lại thời thế mà tạo không đƣợc, thì họ Hoàng chính là anh
hùng bởi thời thế tạo ra.
Cùng thời, cùng làng, hai ngƣời đi khác hẳn con đƣờng chí hƣớng, mà cùng đến chỗ cực
đoan, cùng có tên tuổi lớn trong lịch sử. Đối với thời thế, mỗi ông là một đại biểu cho một
trào lƣu tƣ tƣởng hành vi của Việt Nam: có họ Hoàng nên khí tiết họ Phan càng rõ rệt, có họ
Phan nên sự nghiệp họ Hoàng càng vẻ vang, ấy là một chỗ sắp đặt của lịch sử éo le khôn
khéo lắm vậy.
Cuối tháng 10 năm Giáp Ngọ, Hoàng Cao Khải viết thƣ rồi sai chính ngƣời nội đệ (em vợ)
mình vừa là ông anh con nhà bác của cụ Phan là Phan Văn Mân đêm lên núi Vụ Quang.
Không ai khác hơn ông này mà dám lĩnh mệnh đi sứ, nhất là đi sứ chiêu hàng, vì nếu ngƣời
khác chắc là nghĩa binh làm thịt.
Mặc lòng là bà con thân quyến, Phan Văn Mân phải trải nhiều lớn gian nan nguy hiểm mới
vô đến đại doanh. Mới thấy ông đƣờng huynh thò mặt vô, cụ Phan cả cƣời và nói:
- Anh đi làm thuyết khách cho Hoàng Cao Khải khó nhọc lắm hè!
Vì cụ đã đƣợc tin báo trƣớc cho biết.
Cụ xem thƣ rồi thở dài:
- Không dè ngƣời khuyên nhủ tôi ra hàng là cố nhân Hoàng Cao. Tôi thề quyết làm việc tôi
làm đây tới cùng, dầu sấm sét búa rìu cũng không làm sao cho tôi thay lòng đổi chí đƣợc, anh
về nói giùm cho Hoàng Cao biết nhƣ thế. Nếu tôi không làm xong đƣợc công việc vua uỷ
thác, dân trông mong và không rửa hận cho khô cốt của tổ tiên ở dƣới đất, thì chỉ có một cách
là chết theo hoài bão tâm chí mình mà thôi.
Rồi tức thời, cụ cầm bút viết thƣ trả lời, trao cho ông Phan Văn Mân đem về. Lúc anh em từ
biệt, cụ ân cần dặn với:
- Cũng may phƣớc cho ngƣời đem thƣ chiêu hàng chính là anh, nếu là ai khác thì bộ hạ của
tôi chắc làm tƣơng mắm để gửi biếu Hoàng Cao nếm thử. Lần sau y có sai đi, anh đừng lãnh
mệnh nữa nghe!
Ta đọc cả hai bức thƣ dịch ra dƣới đây, tức nhƣ hai bức tranh phóng đại tâm tích chí khí của
hai ông cùng một làng với nhau, mà hai đàng xa cách nhau tuyệt mù không thế nào gặp nhau
đƣợc là phải.
Bức thƣ cụ Phan trả lời, viết thật nhẹ nhàng mà đau đớn, tử tế mà cƣơng quyết, tỏ ra mình
chết thì thôi, không chịu bãi binh quy hàng. Cụ lại khéo đem quân mạng và dân tâm ra làm
nòng cốt để hỏi cố nhân họ Hoàng nếu gặp cảnh ngộ ấy thì làm thế nào? Hình nhƣ cụ Phan có
ý chận đƣờng rào ngõ không để họ Hoàng viết cho mình tới bức thƣ thứ hai nữa.
Thiệt, lúc ông Phan Văn Mân đem bức thƣ phúc đáp ra Hà Nội, họ Hoàng xem rồi biến sắc,
nếu lúc ấy có bệnh nhức đầu chống mặt gì, tất cũng tiêu tan nhƣ hồi Tào Mạnh Đức đọc bài
hịch của Trần Lâm vậy.
Họ Hoàng sai dịch bức thƣ ra chữ Pháp, đƣa trình Toàn quyền De Lanessan, luôn với tờ báo
cáo của mình, trong đó có câu đại ý: “Bản chức đã lấy hết sự thế lợi hại để tỏ bày khuyên nhủ
Phan Đình Phùng ra hàng, nhƣng y vẫn tỏ ý hôn mê bất ngội (mê mẩn tối tăm không tỉnh),
giờ xin Chính phủ Bảo hộ vì dân mà dùng binh lực tiễu trừ cho hết văn thân loạn phỉ...”
Ấy là lẽ cố nhiên. Đào mả không núng; khuyên hàng không nghe; văn chƣơng không cảm;
thôi thì chỉ còn võ lực. Giờ, quan văn trở vô buồng để cho tƣớng võ lại ra sân khấu.
ẤP THÁI HÀ.
Trên rất nhiều bức bƣu ảnh thời Pháp bắt gặp dòng chú thích Village du Kinh Luoc.
Bạn biết gì về vị quan đầu triều thời Nguyễn và khu thái ấp của ông ta?
Công trình trong hai bức bƣu ảnh trên giống nhau đến mức ngƣời ta dễ kết luận chúng là một
nếu không để ý đến những dòng chú thích "La pagode de Vua Le" và "Monument funéraire
du Kinh Luoc".
Kiến trúc nhà bia và trụ đá đặt tƣợng vua Lê bên hồ Hoàn Kiếm đƣợc sao chép và đƣa vào
một công trình đƣợc xây dựng để suy tôn chính mình của một nhân vật đã đi vào lịch sử với
tội danh hợp tác đắc lực với thực dân Pháp trong việc đàn áp các phong trào khởi nghĩa -
Kinh lƣợc sứ Bắc Kì Hoàng Cao Khải (vice roi - phó vƣơng - theo cách gọi của ngƣời Pháp.
Ấp Thái Hà
Theo TS Bùi Xuân Đính trên trang Đông Tác ấp Thái Hà là phần thƣởng của thực dân Pháp
dành cho Hoàng Cao Khải. Dù đã có dinh thự trong thành phố (entry trƣớc), vị phó vƣơng
muốn lập một khu thái ấp để nghỉ già. Ấp đƣợc xây dựng năm 1893, gồm rất nhiều công trình
kiến trúc dinh thự, lăng mộ, đình chùa...nằm rải rác trên một không gian rất rộng phía bên trái
gò Đống Đa, kéo dài từ phố Đặng Tiến Đông ngày nay tới tận Trƣờng cán bộ Công Đoàn Hà
Nội.
Vì khu ấp nằm trên thế trũng, chủ nhân cho đào mƣơng máng ngang dọc, xung quanh để tiêu
nƣớc, đất đào lên để tôn nền, rồi chia thành vài chục lô vuông vắn.
Khu dinh cơ của Hoàng Cao Khải chiếm một phần tƣ ấp, ở góc Đông Nam đƣờng cái gồm tƣ
dinh nằm sâu trong cổng chính, cổng phụ, cầu bắc qua hào, tƣờng bao. Phần đất ngoài tƣ dinh
đƣợc chia thành lô bán cho các quan lại cao cấp ngƣời Việt xây nhà cửa để biến thành một
khu quý tộc.
Dân chúng đƣợc khuyến khích làm nhà ở xung quanh chùa Đồng Quang, dọc hai bên đƣờng
cái, tạo nên một đoạn đƣờng phố tấp nập. Đƣờng tầu điện chạy ngang khu thái ấp dẫn vào tận
Ngã Tƣ Sở. Từ đầu thập kỷ 10 của thế kỷ XX, nhiều cơ quan thuê nhà trong ấp để đặt trụ sở,
nhƣ Viện Đại lý Pháp, Sở Địa chính Bắc Kỳ, Phòng Thí nghiệm vi trùng học. Năm 1927,
ngƣời Pháp cho lập một trại thu nhận trẻ lang thang tại đây.
Nhiều công trình trong ấp hiện diện trên các bức bƣu ảnh chụp từ cuối thế kỉ XIX đến những
năm 30 thế kỉ XX giúp ta hình dung về sự huy hoàng của nó
Sau CMT8, khu thái ấp về tay chính quyền nhân dân, dù đƣợc xếp hạng là di tích lịch sử cấp
quốc gia, nhƣng trên thực tế nó đã không đƣợc bảo quản, nhiều công trình kiến trúc có giá trị
nghệ thuật đã bị phá, những chiếc cổng, bờ tƣờng cao không cản đƣợc làn sóng ngƣời "nhảy
dù" vào đây sinh sống . Cùng với thời gian, quần thể kiến trúc "Village du Kinh Luoc" gần
nhƣ đã biến mất hoàn toàn giữa một biển dân cƣ phƣờng Trung Liệt.
Lối vào khu lăng mộ Hoàng Cao Khải, đối diện với trƣờng Đại học thuỷ lợi, giờ là con hẻm
ngoắt nghéo, bị ép chặt bởi những ngôi nhà dị dạng. Khi đƣợc hỏi, những sinh viên chờ xe
bus không hề biết cách chỗ mình đứng không xa có một khu lăng mộ đƣợc các nhà sử học
Việt Nam gọi là thành nhà Hồ thứ hai, còn ngƣời Pháp đánh giá là một trong những đỉnh cao
của kiến trúc đá phƣơng Đông.
sứt sẹo,
nham nhở
Còn cái vật nằm chơ giữa vũng nƣớc nƣớc rửa bát trƣớc nhà hàng kia chẳng nhận ra là
mảnh vỡ còn lại của thứ gì: chẳng phải ngƣời, cũng chẳng phải ngựa, voi ...
Lăng Hoàng Trọng Phu .
Cách lăng Hoàng Cao Khải chừng 100m là lăng Hoàng Trọng Phu - tổng đốc Hà Đông, con
trai cả của Hoàng Cao Khải
Không thể có đƣợc một bức hình toàn cảnh lăng vì mọi hƣớng đều bị che khuất bởi những
ngôi nhà chen chúc nhau trên con đƣờng ngoắt nghéo đầy hàng quán. Với những vòm cửa bị
bịt, lăng đã biến thành "tƣ dinh" của một hộ gia đình ba thế hệ.
Mọi sinh hoạt hàng ngày từ ăn ngủ, yêu đƣơng, sinh con đẻ cái đều diễn ra bên cái quan tài
đá từng bị bọn đạo trích cậy phá tìm của. Ngƣời sống và ngƣời chết chung nhau nơi cƣ ngụ.
Bà chủ hộ từng kể với báo chí dạo đầu thấy ngài về, đi đi lại lại khắp nhà, con dâu cả của bà
sợ hãi phải bỏ về quê. Rùng mình!
Trăm năm đá bắt đầu mòn.
Bức tƣờng bít lăng đƣợc tận dụng làm Bảng tin tổ dân phố .
Khói bếp .
và quảng cáo
Hoàng Cao Khải chỉ tạc hai bờ mây cách điệu hình rồng (Vân hoá rồng) cho lăng mộ của
mình, nhƣng con trai ông tạc cho mình hẳn một đôi rồng. Đâu mất một con?
Đây! Nó bị giam sau rào sắt của gia đình này .
Một dãy nhà cao tầng bám theo mặt phố Đặng Tiến Đông ngăn cách Hồ Vuông với gò Đống
Đa .
Thể hiện tính khí chủ nhân, đôi rồng trên mặt hồ trông rất hung dữ .
Khu đình thờ dòng họ Hoàng giờ là phân viện Nguyễn Ái Quốc .
Những tấm biển: Phòng đọc, nhà A, Nhà B cho thấy công năng sử dụng công trình này đã
thay đổ. Biết đâu đó lại là điều may mắn giúp công trình này tránh đƣợc sự tàn phá thê thảm
của ngƣời dân nơi đây .
Hành lang khu điện. Một cảm giác ghê sợ khi nhìn những hình rồng nhe răng há miệng đỏ
lòm. Những hình trang trí trên gạch lát có nói lên điều gì về chủ nhân khu thái ấp?
Photo by ttnhan
Location: Thai Ha Hamlet - Tây Sơn street .
( Còn bài tiếp theo ).
Hoàng Cao Khải, Kinh lƣợc sứ Bắc Kỳ cuối cùng của triều Nguyễn, đƣợc ngƣời Pháp gọi là
Phó vƣơng (vice roi)
Chân dung con ngƣời này xuất hiện trên nhiều tấm bƣu thiếp: khăn đóng, áo dài nặng trĩu
mề đay, móng tay để dài, khuôn mặt với ánh mắt và khóe miệng độc ác .
Khi về hƣu ông ta sống tại ấp Thái Hà, cái tên đƣợc ghép từ quê làng Đông Thái, và Hà Nội.
Hình ảnh vƣờn cảnh trong khu thái ấp. Chú thích trên các bức ảnh này cho biết chúng đƣợc
chụp khi vị phó vƣơng này nghỉ hƣu (l'ancien vice roi/ ex-vice roi).
MỘ HOÀNG TÍCH TRÍ CON CỦA QUAN ĐẠI THẦN HOÀNG CAO KHẢI .
Trong khu Từ đƣờng của dòng họ Kiều , tại làng Đồng Thái - ĐỨC THỌ - HÀ TĨNH , có một
ngôi mộ của con trai Quan Đại thần HOÀNG CAO KHẢI là HOÀNG TÍCH TRÍ. Hiện nay
ngôi mộ này đang bị sụp lở nghiêm trọng , không ngƣời thờ cúng. Chỉ đôi khi dòng họ Kiều
tế lễ , họ mới thắp cho vài nén nhang. Hiện nay , không biết thân nhân của họ Hoàng ly tán
đi đâu , nếu đọc đƣợc những dòng này , xin liên hệ với dienbatn để tìm cách tôn tạo lại.
Dƣới chân núi Chúa, cuối làng Tây Viên có hai vũng nƣớc nóng quanh năm sôi sùng sục,
tƣơng truyền gọi là vũng Ông và vũng Bà. Vũng Ông nhỏ nhƣng sôi nhiều hơn vũng Bà rộng
và nhiệt độ thấp hơn chút ít. Tây Viên nay thuộc xã Quế Lộc huyện Quế Sơn là đại bản doanh
của căn cứ Tân Tỉnh của Nguyễn Duy Hiệu lập nên thời chống Pháp với ý chí “thay trời hành
đạo” nhƣng mƣu sự bất thành. Đó cũng chính là quê hƣơng của cụ Nguyễn Đình Hiến trong
“tam hùng” của xứ Quảng. Nằm sau lƣng Khu di tích Chăm Mỹ Sơn, thung lũng huyền thoại
này có thể là hậu cứ của vƣơng quốc Chămpa trƣớc kia với nhiều dấu tích còn lại nhƣ những
ngôi mộ cổ bằng đá bên triền núi Cà Tang cùng một vài ngôi tháp nhỏ đã đổ nát và hoang
phế. Những năm 40 của thế kỷ trƣớc, trung niên thi sĩ Bùi Giáng trốn đời lên ngụ ở đất này
để làm chàng Tô Vũ chăn dê.
Nếu các bạn muốn một lần thử làm Tô Vũ ở nơi “ đồi tăm tắp chạy về ôm chân núi” thơ
mộng và huyền hoặc này thì có thể vƣợt con đƣờng độc đạo qua đèo Le hoặc xuống thuyền từ
phố cổ Hội An để lên mạn ngƣợc Thu Bồn. Tuy nhiên, leo núi Hòn Đền đầy mạo hiểm và
hấp dẫn để đến đấy thật thú vị hơn! Khách du lịch Việt Nam chƣa ai hề có ý tƣởng đấy trong
khi nhóm đua thuyền buồm quốc tế đến Việt Nam đã từng có ý định thực hiện hồi tháng 7-
2005 vừa qua. Tuy nhiên, giờ cuối, có sự trục trặc gì đó về thời gian nên tour vƣợt Hòn Đền
phải hoãn lại.
Sau khi cái chết của 2 ngƣời bạn đã làm cho nhóm chúng tôi mặc cảm tội lỗi không thể tƣởng
tƣợng nỗi. Và cái sợ bị trừng phạt tiếp theo làm cho nhóm chúng tôi mất ăn mất ngủ, ám ảnh
dằn vặt, nhất là cậu thứ 3 cùng đi tiền tạm hôm đó. Cậu ấy nghĩ rằng sớm muộn gì cũng đến
lƣợt cậu. Chúng tôi sợ đến mức có đi đâu ra ngoài đồng ruộng cũng né tránh không dám đi
gần các Tháp Chàm và các mộ Chàm. Nhƣng tuyệt nhiên không dám hé lộ điều gì cho ngƣời
lớn trong làng biết
Thế rồi thời gian trôi qua cũng đƣợc gần 2 năm sau khi 2 ngƣời bạn chúng tôi mất. Nỗi sợ hãi
cũng vơi dần. Nhóm chúng tôi cũng tản mác, bỏ quê đi xa xứ làm ăn cũng gần phân nửa,
trong đó có những ngƣời vì không chịu nổi nỗi sợ mà bỏ quê ra đi.
Bỗng một hôm cả làng chúng tôi xôn xao về 1 đoàn ngƣời lạ, lạ từ cách ăn mặc, tiếng nói, cử
chỉ…vào làng chúng tôi dò hỏi ( sau này tôi mới biết đó là ngƣời Chăm) các khu mộ ấy. Lập
tức nhóm chúng tôi xung phong dẫn đƣờng và không quên theo dõi sát sao mọi cử chỉ hành
động của họ. Vừa đi tìm các ngôi mộ, họ vừa trải tấm bản đồ vẽ trên vải cũ mèm nhàu nát
theo năm tháng và trao đổi với nhau bằng Tiếng Chăm nên chúng tôi không biết gì cả. Nhƣng
nhìn trên bản đồ, các ký hiệu chúng tôi cũng không hiểu gì, ngoại trừ các chỉ điểm về các mộ
là chúng tôi hiểu vì địa hình chúng tôi nắm rõ trong lòng bàn tay
Cơn khát vàng của chúng tôi lần nữa lại ập đến, cứ y nhƣ là tài sản khổng lồ của mình đang
sắp mất vào tay nhóm ngƣời Chăm này. Chúng tôi lo lắng thật sự, lo lắng nhƣ ngƣời sắp mất
của và cảm giác rằng nhóm ngƣời Chăm đang đến để ăn cắp. Nhƣng lạ thay, sau khi chỉ chọ
hết tất cả các mộ, họ vẫn không làm gì cả đến các mộ ấy thậm chí cũng không thèm bƣớc lại
gần mộ đến tầm 1m, mà họ chỉ quan tâm vào cái bản đồ, tụm năm tụm ba họ bàn tán suy tƣ
thậm chí là cãi lộn với nhau. Họ dò xét đƣợc 2 ngày, lục lạo từ lùm tre bụi rậm mà kg hề đào
bới 1 cái gì, cuối cùng rồi họ cũng ra đi mà không lấy đƣợc thứ gì. Chúng tôi thở phào nhẹ
nhõm vì dù sao họ cũng không có lấy cái gì cả. Sau khi họ đi, cả làng tôi không ngớt bàn tán
xôn xao về vụ này, Vàng, Vàng và Vàng từ ông đang cày ruộng cho đến bà bán rau ngoài chợ
tất cả cùng 1 chủ đề. Khoảng 10 ngày sau, ở làng kế bên chúng tôi có 1 ông thầy Pháp
(chuyên chữa trị tà ma cho dân xung quanh để kiếm cơm thôi chứ cũng chẳng giàu có gì vì
vào thời buổi ấy tất cả cùng nghèo cùng ăn cơm độn với lá khoai ngòai vƣờn luộc chấm muối
) qua làng chúng tôi rủ rê mọi ngƣời:
Đào Vàng
Đào tất cả các cái mộ ấy đề lấy vàng. Vàng tấn ở dƣới đó đó…
Đào vàng, đào vàng. Điệp khúc ấy đƣợc nhắc đi nhắc lại trên miệng mỗi ngƣời và cả dân làng
tôi từ ban đầu sợ sệt, tò mò sau đó sôi nổi lên vì thầy Phát tuyên bố:
Ăn thua gì mấy con ma hời này, tui búng ngón tay nó chạy hết ráo. An tâm đi mấy ngƣời bỏ
sức ra đào để tui lo vụ kia cho. Nếu chết thì tui chết trƣớc chớ, có gì đâu mà lo…
Và thật tình là dân quê có khác, họ thật thà nông cạn cộng với cái đói khổ làm họ mờ cả mắt
mà tin lời thầy Pháp. Suy nghĩ của họ không vƣợt đƣợc cái đọt chuối sau vƣờn. Họ không hề
đặt dấu hỏi là Thầy Pháp chết trƣớc rồi họ chết sau hay thầy Pháp chỉ chết có 1 mình còn họ
không sao khi quyết định đào mộ Chăm
Bàn tán khoảng 1 tuần thì trong làng tôi chia làm 2 phe: Một bên quyết định đào, một bên ra
sức ngằn cản. Mà nhóm chúng tôi lại đứng về phe thứ 2, và dù rất muốn đƣa ra bằng chứng
để ngăn cản nhƣng chúng tôi không đủ can đảm để nói
( Tại sao dân tình ở tôi lại ám ảnh về Vàng của ngƣời Chăm đến thế, vì đã có rất nhièu ngƣời
vô tình nhặt đƣợc vàng và có nhiều huyền thoại về vàng chăm tôi sẽ kể ở các bài sau)
Thế rồi việc gì đến phải đến. Dẫn đầu là thầy Pháp, theo sau khoảng 15 ngƣời lực lƣỡng với
mâm lễ và dụng cụ đào tiến ra mộ Chăm
Sau 1 hồi khua nhang lẩm bẩm đủ thứ, mọi ngƣời bắt đầu đào. Mọi việc diễn ra rất suông sẻ,
nhƣng vì mộ cứng quá họ đục đẽo đâu mất 3 ngày 3 đêm mới phá đƣợc. Khi đào xuống dƣới
thì chẳng có gì ngoài những lớp vôi và than hoạt tính, đào hết lớp vôi và than thì gặp đất
nguyên thổ và vẫn không cò gì. Cái cảm giác hồ hởi ban đầu mất dần và thay vào đó là hụt
hẫng và mệt mỏi, họ phải chia ca đào cả đêm vì sợ nghỉ đêm nhỡ có nhóm nào tới đào lƣợm
mất thành quả của họ.Sau khi kết thúc 1 ngôi mộ không có gì, cũng giống nhƣ dò vé số khi
trật cái giải 7 giải sáu, năm …lần lƣợt thì ngƣời dò lại càng hy vọng mình sẽ vào giải đặc
biệt. Họ bàn luận tiếp tục đào cái thứ 2 sau khi nghỉ ngơi vài ngày và họ ra về.
Nhóm chúng tôi cũng lien tục tụ tập bàn tán và theo dõi sát sao tiến trình đào mộ. Chúng tôi
thầm khen cha thầy Pháp này cao tay thật. Nhƣng ngờ đâu trong vòng 2 ngày nghỉ thì đƣợc
tin Thầy Pháp đã ra đi bán muối sau 1 bữa cơm chiều bỏ ăn. Cả dân làng tôi hoảng loạn, nhất
là những ngƣời tham gia đào mộ, vơ con khóc nhƣ ri cứ nhƣ chuẩn bị tiễn biệt chồng con của
họ ra đi tiếp theo. Lúc đó nhóm phản đối đƣợc mặt dạy đời:
Thấy chƣa, đồ tham lam
Thằng thầy Pháp nó nói nó chết trƣớc chứ có nói tụi bay không chết đâu…
Các bô lão thì :
Thất đức thất đức. Động trời động trời. Cả cái làng này xƣa giờ ăn ở hiền lành sao mà sinh ra
cái đám đi phá mồ phá mả ngƣời ta nhƣ thế này không biết. Chết toi cả cái làng này rồi
Và bắt đầu một cuộc chạy đua ra mộ chăm mà cúng, thơi thì họ vái lạy đủ tứ phƣơng, rầm rập
suốt ngày. Có bà vợ còn mua thức ăn ngon về cho chồng ăn vì ảnh không còn biết sống đến
ngày nào…
Nhƣng cuối cùng thì tất cả đều sống khỏe, bây giờ gặp lại nhắc những chuyện cũ thì vừa sợ
vừa bắt cƣời. Những ngƣời trải qua cảm giác sắp chết trở về thì sống hiền lành hẳn ra và các
bà vợ thì bẽn lẽn khi hỏi vào lúc đó mua đồ ăn ngon về cho ảnh ăn vậy tối có tranh thủ
không…Và nhóm chúng tôi đến lúc đó mới dám công bố ra sự thật về cái chết của 2 cậu bạn.
Cả làng lại đƣợc 1 phen chƣởi bới cho bõ tức vì chúng nó biết mà nó không nói
Còn về các ngôi mô chăm vẫn còn và lâu lâu lại có nhóm ngƣời Chăm đến tìm, trải tấm bản
đồ ra chỉ chỉ chỏ chỏ rồi về. Tuyệt nhiên dân làng tôi không thèm quan tâm đến họ nữa…
Và tại sao tôi mở đầu câu chuyện này bằng cái câu : Tao không hợp tác với mày vì mày là kẻ
đào mồ phá mả ngƣời ta
Vào năm 2001 tôi và ngƣời bạn thân ngƣời Hoa dự định mở công ty chung để làm ăn. Mọi
việc bàn tính đến nơi đến chốn và sắp chuẩn bị tiến hành thì nhân trong lúc trà dƣ tửu hậu với
nó, tôi cũng kể cho nó nghe về chuyện này. Thế là, 1 cách nghiêm túc nó từ chối hẳn với 1
câu phán xanh dờn nhƣ vậy.
Vƣơng quốc Chămpa (192-1822) đã sáng tạo ra một nền văn hóa độc đáo, mang đậm sắc
thái riêng biệt. Đến nay, tỉnh Bình Định đã phát hiện khoảng 117 cổ vật thời Chămpa và 414
sản phẩm làm bằng gốm cổ thuộc nhiều giai đoạn khác nhau. Đáng chú ý là kỹ thuật xây
dựng tháp Chàm - một trong những đề tài đƣợc đƣa ra khảo luận khoa học...
Trên đƣờng vận chuyển, đến Hồng Hải, không rõ vì lý do gì con tàu này bị đắm. Những thổ
dân Somalia nghĩ rằng đây là con tàu chở vàng bạc châu báu nhƣng họ đã thất vọng khi
những chiếc hòm vớt đƣợc chỉ có đá và đá... Sau này ngƣời ta không sao tìm lại đƣợc những
thùng cổ vậy ấy và một bí mật bao trùm lên con tàu Mekong bởi hồ sơ con tàu, danh sách
hàng hóa cũng bị thất lạc. [ít lâu sau khi phóng sự này đăng trên Thế giới Mới, có ngƣời cung
cấp cho mình thông tin về con tàu này, đổi lại là mình copy dù ngƣời ta hai cuốn sách ở Thƣ
viện Bình Định. Sở dĩ có việc này là vì những cuốn sách đƣợc bảo vệ rất kỹ. Mình "phô"
đƣợc là vì có quan hệ riêng, và trƣớc đó có tặng cho Thƣ viện phó bản môt cuốn sách mà thƣ
viện tìm đã lâu mà không thấy].
Phù điêu tƣợng nũ thần Mahisamandhi - niên đại thế kỷ XII. Hiện vật này đã đƣợc tỉnh Bình
Định đề nghị công nhận là bảo vật quốc gia. Năm 2005 nó đã đƣợc Nhà nƣớc Việt Nam cho
Bảo tàng Dân tộc học Vƣơng quốc Bỉ mƣợn để trƣng bày. Riêng chi phí để mua bảo hiểm của
nó không thông thôi đã là 50.000 USD.
Bên cạnh các mà khoa học, ngày ấy có nhiều ngƣời khác đã biết đến các gọi là Kho báu
Chămpa. Những kho báu này càng trở nên hấp dẫn khi nhiều học giả trong đó có ông De
Lagreé đã công bố những khám phá trong đó có những đoạn mô tả đại loại - ở khu vực đền
Tháp Chămpa ngƣời ta đặt nhiều tƣợng kim loại, tƣợng đá dát vàng, bên trong tháp có nhiều
vật quý, tƣợng nhỏ, phù điêu bằng vàng, bạc....
Nhiều năm sau đó do tình hình xã hội Việt Nam chƣa ổn định, những năm tháng chiến tranh
liên miên không cho phép ngƣời ta đi sâu tìm hiểu những bí mật còn chôn giấu trong lòng
đất. Tuy vậy, những gì đã phơi ra dƣới ánh mặt trời cũng đủ làm các nhà khoa học thán phục
văn hóa Chăm, trình độ văn minh của dân tộc này.
Jeanne Leuba, một học giả Pháp chuyên nghiên cứu lịch sử, văn hóa Chămpa đã viết: “Một
trong số rất nhiều những chủng tộc bí hiểm ở phƣơng Đông cho đến ngày nay vẫn còn rất ít
ngƣời biết đến, một trong những chủng tộc lý thú nhất mà nguồn gốc chính thức của họ vƣợt
khỏi sự hiểu biết hiện nay của chúng ta, một dân tộc mà sự phát triển qua một thời đại đã bị
xáo trộn bởi các dân tộc lớn, một dân tộc mà cho ngày nay chúng ta đang nghiên cứu các di
tích.... Đó là dân tộc “Chăm” (Một quốc gia bị diệt vong). Cùng với những đánh giá trang
trọng nhƣ vậy, các nhà nghiên cứu cũng không quên đƣa ra nhận định gây nhiều hệ lụy cho
các thế hệ sau này - Chămpa một quốc gia rất giàu có!
Sau ngày miền Nam đƣợc giải phóng, đất nƣớc thống nhất, cơn sốt đi tìm kho báu Chăm hay
nhƣ một cách gọi khác là đi tìm vàng Hời lại bộc phát, lần này do chính hậu duệ của dân tộc
Chămpa tiến hành.
Quãng những năm 1976-1978 ở Quy Nhơn xuất hiện vô số ngƣời Chăm ngồi bốc mạch bán
thuốc dọc các đƣờng phố Lê Hồng Phong, Trần Hƣng Đạo, Phan Bội Châu... Những ngƣời
này dần dần di chuyển địa bàn hoạt động về những vùng in đậm dấu ấn văn hóa Chăm nhƣ
An Nhơn, Hoài Nhơn, Tuy Phƣớc, Hoài Ân... Anh Nhị - cán bộ UBND huyện Hoài Ân kể:
“Từ xa xƣa ở vùng này đã tồn tại những truyền thuyết về vàng Hời. Trên thực tế ngƣời ta
cũng đã nhặt đƣợc khá nhiều đồ dùng bằng vàng, bạc, nhiều thứ trong số này sau đó đƣợc xác
nhận là của ngƣời Hời (tức ngƣời Chăm). Thỉnh thoảng sau mùa lụt, những ngƣời sống ở ven
bờ sông Kim Sơn (con sông đƣợc mệnh danh là con sông Vàng do có nhiều vàng sa khoáng)
thƣờng nhặt đƣợc một số mảnh vỡ của bát đĩa, bình đựng .... bằng vàng bạc và cả bằng gốm
đất. Chính tôi cũng đã chứng kiến cảnh những ngƣời Chăm đi tìm mộ tổ tiên nhƣ họ nói,
cảnh họ cúng tế, đào bới một cách bí mật và biến mất đột ngột nhƣ kiểu họ xuất hiện....”.
Hoài Ân là vùng trung du có nhiều di chỉ văn hóa Chăm đến nay vẫn còn lƣu danh Mả Lỏi,
Mả Bà Cóc..., rất có thể những mảnh vỡ ấy là do nƣớc lũ xói lở cuốn trôi đi từ các di chỉ nhƣ
vậy. Ông D ở Ân Tín, một ngƣời xác nhận là đã từng cầm trong tay nhiều buồng cau, lá trầu,
con cóc bằng bạc và đồng (không có cái nào bằng vàng) kể rằng: “Nhiều ngƣời đã tìm cách
đào bới các ngôi mộ cổ, những nơi nghi có chôn giấu báu vật nhƣng tôi chƣa nghe ai nói đã
tìm thấy vàng. Riêng đồ bạc, đồ đồng nhƣ tôi thì có khá nhiều. Tuy thế, không hiểu sao khi
giữ những vật ấy tôi bị đau ốm liên miên, mãi đến lúc nghe lời ngƣời ta mách - vứt trả những
thứ ấy xuống sông, tôi mới khỏi bệnh. Thật bí hiểm!”
Tƣơng tự nhƣ Hoài Ân, ở vùng suối vàng thuộc Hoài Sơn, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình
Định, nhiều ngƣời già xác nhận với chúng tôi rằng đã có nhiều ngƣời nhặt đƣợc chén vàng,
đĩa vàng bên bờ suối này, nhƣng những thứ thu lƣợm đƣợc ở đây chẳng thấm tháp gì so với
kho báu ở Hố Giang.
Hố Giang là một dãy núi chứa nhiều huyền thoại về... kho báu trong đó đáng lƣu ý nhất là
tảng đá chữ. Đó là một tảng đá cao khoảng 2m3 dài gần 5 m trên mặt có những dòng chữ
Sankrit mang ý nghĩa bí mật của ngƣời Chăm. Tân - ngƣời dẫn đƣờng, đƣa tôi đến bên tảng
đá chữ chứa nhiều bí ẩn ấy và cho biết: Cách đây chừng vài tháng, ông X, một tay chuyên rà
phế liệu kim loại đã đào đƣợc một pho tƣợng Chăm đúc bằng kim loại màu vàng, nghe đây
đã bán đƣợc với giá 200 triệu đồng. Có rất nhiều nhóm rà phế liệu sau đó đã quần nát vùng
này nhƣng đƣợc gì hay không chƣa nghe ai tiết lộ, riêng dân địa phƣơng ngƣời ta rất ngại vì
tƣơng truyền rằng kho báu Hố Giang đã bị đè lên bởi một lời nguyền độc địa của ngƣời Hời
bí hiểm.
Lịch sử còn ghi rằng vào khoảng thế kỷ XII-XIII, Vƣơng quốc Chămpa phải đối phó với cuộc
chiến tranh kéo dài suốt trăm năm với những ngƣời Khơme phƣơng Nam, cùng với việc phải
dời đô sang bờ Bắc của một nhánh sông Côn, một phần kho báu của vƣơng quốc đã đƣợc
chuyển về chôn giấu rải rác ở khu vực rừng núi cách xa kinh đô Vijaya mà ngày nay có thể
thuộc địa bàn các huyện Hoài Ân, Hoài Nhơn.
Đến năm 1282, trong âm mƣu tiêu diệt nƣớc Đại Việt, Toa Đô - một viên tƣớng của đế quốc
Nguyên Mông đã chỉ huy một cánh quân theo đƣờng thủy tấn công vào Chămpa, nhằm tạo
gọng kìm thứ hai kẹp chặt lấy Đại Việt. Vua Chăm và triều đình đã bỏ trống kinh đô Vijaya,
chạy lên vùng Hoài Nhơn ngày nay để cố thủ. Nhiều sử sách còn ghi lại rằng Toa Đô đã
chiếm một kinh đô trống rỗng, kho tàng đã đƣợc sơ tán từ rất sớm. Ngƣời Chăm vốn e ngại
sự hung hãn của đế quốc Nguyên Mông nên sau chiến tranh vẫn cất giấu một phần kho báu ở
xa kinh đô, phòng khi lỡ vận. Sự thật lịch sử cũng nhƣ việc phát hiện những mẫu nhỏ của
những vật dụng bằng vàng đã chứng minh đƣợc phần nào cho luận cứ kể trên.
Tháng 4.1997 nghe tin có ngƣời rà đƣợc một khối lƣợng lớn vàng bạc của huyện Phù Cát
(Bình Định) lập tức chúng tôi tìm hiểu và đƣợc Thế Hà, một đồng nghiệp ở Đài Truyền thanh
huyện cho biết: “Ngày 5.4.1997 anh Trần Văn An - ngƣời ở xã Cát Tân khi rà sắt để tìm phế
liệu tại thôn Hƣng Mỹ thuộc xã Cát Hƣng đã phát hiện một hũ bằng đồng chứa nhiều đổ cổ
(chén đĩa bằng vàng và bạc)... reo mừng vì sự giàu có bất ngờ An đã ôm chiếc hũ chạy đi
mất. Những ngƣời đang làm cỏ mía quanh đó vội ùa lại và hợp sức khoét rộng cái hố, đào sâu
hơn và vận may đã mỉm cƣời với họ. Ở độ sâu hơn 1,5m nhóm ngƣời này đã tìm thấy một hũ
lớn bằng sành bên trong chứa nhiều vật dụng bằng vàng nhƣ bình đựng, đĩa, tô chén, một số
khác trông nhƣ đồ trang sức với khối lƣợng ƣớc tính khoảng 3kg. Những ngƣời này đã dùng
rựa để chia đều số vàng này ra. Những gì mà ông An và nhóm ngƣời kia khai quật đƣợc nếu
tính theo giá trị của vàng ƣớc đƣợc 400 triệu đồng. Nhận đƣợc tin Công an Phù Cát đã tìm
cách thu hồi, nhƣng kết quả chỉ đƣợc 1 hũ, 6 bình đựng, 9 đĩa và vẻn vẹn có 5 lạng vàng...”
Sự kiện này đã gieo vào những ngƣời chuyên rà tìm phế liệu giấc mộng tìm thấy kho báu của
ngƣời Hời. Nhƣng cứ nhƣ một trò cút bắt bí hiểm, hàng trăm nhóm với nhiều máy dò tìm kim
loại chia nhau rà nát những cánh rừng, đồng ruộng, ven sông... nhƣng “vàng Hời” vẫn im
lặng không chịu lên tiếng. Khi nhiều nhóm chán nản bỏ cuộc thì cuối tháng 10.1997 ông Lê
Văn An (trú ở thôn Phú Thọ, xã Tây Phú, huyện Tây Sơn) cùng một ngƣời đàn ông tên Liêm
gốc gác ở Thanh Hóa đã gây chấn động khi khai quật đƣợc một số lƣợng lớn cổ vật bằng
vàng.
Nơi mà hai ông tìm đƣợc “kho báu” nằm trên núi Hòn Gà (xã Bình Thành, huyện Tây Sơn).
Số lƣợng cổ vật tìm thấy theo ông An gồm: 5 pho tƣợng cổ cao khoảng 35cm, đƣờng kính
thân tƣợng khoảng 5cm, 4 tƣợng khác cao khoảng 30cm, đƣờng kính thân tƣợng khoảng
4cm, 4 lục bình có kích thƣớc lớn hơn một chút, điều đặc biệt là toàn bộ số cổ vật này đều
đƣợc chế tác bằng vàng ròng. Hai ông An- Liêm đã bán số cổ vật khai quật đƣợc cho một
ngƣời lạ mặt trƣớc khi cơ quan an ninh, các nhà nghiên cứu khoa học, bảo tàng kịp can thiệp.
Theo lời ông H, một chuyên gia đồ cổ mà chúng tôi đã tới tham vấn thì ngƣời mua đƣợc số
đồ cổ ấy đã trúng một cái giá rất hời - khoảng hơn 1 tỷ đồng.
Trƣớc khi cơn sốt vàng Hời trở lại, những ngƣời chuyên đi rà sắt phế liệu coi đây là nghề
chính của mình, việc rà đƣợc vài chục ký đƣợc coi là trúng mánh. Mọi việc trở nên khác hẳn
khi rải rác đây đó trên địa bàn tỉnh Bình Định một vài nhóm thay vì tìm thấy sắt phế liệu đã
gặp vàng, đồ cổ. Biết tôi đang tìm những thông tin mới xung quanh những chuyện kho báu
của ngƣời Hời, Hải - một ngƣời bạn thuở thiếu thời đã tiết lộ: “Thật ra những ngƣời đi tìm sắt
phế liệu chỉ là những kẻ gặp may mà thôi, xác suất gặp đƣợc cổ vật của họ rất thấp. Cách đây
chừng 4 năm ở tỉnh Bình Định đã có khoảng 5 nhóm ngƣời lẳng lặng săn tìm cổ vật Chăm
dƣới danh nghĩa là đào cây dại trên núi, đồi để làm bonsai, cây kiểng thế. Họ đã xới tung
nhiều đồi núi ở Tuy Phƣớc, An Nhơn, Hoài Ân...
Thời ấy máy dò tìm kim loại không đƣợc phổ biến nhƣ bây giờ, những tay săn đồ cổ vì vậy
phải dựa vào thƣ tịch cổ, các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học mà họ sƣu tầm
đƣợc. Tớ đã đƣợc một nhóm nhƣ vậy thu nạp, nhóm này quần miết ở khu rừng ở gần Tháp
Bánh Ít, vùng Đồi Bạt lân cận và khi có điều kiện cũng không quên xoi thử một vài hố ở gần
chân tháp. Những tay đầu lĩnh có đạt đƣợc mục đích hay không thì tớ không đƣợc biết nhƣng
chắc chắn họ đã thu đƣợc ít nhiều đồ cổ. Chỉ đến khi xảy ra một vài tai nạn trong việc đào tìm
cổ vật, cùng với lúc câu chuyện về những lời nguyền có vẻ nhƣ đang trở thành sự thật thì
nhóm này tự rã đám. Vàng bạc thì không chắc chứ đồ cổ thì chắn chắn có rất nhiều bởi Thập
Tháp Di Đà Tự là ngôi chùa vốn đƣợc xây trên khu đất ngày xƣa đã từng tồn tại 10 ngôi tháp
Chăm mà ngƣời ta đã phá đi mất để lấy vật liệu làm chùa. Cổ vật chắc vẫn còn nhiều, chỉ có
điều chúng nằm rất sâu trong lòng đất mà thôi. Mới đây một số ngƣời đã dùng máy rà kim
loại để tìm vàng ở vùng Tháp Cánh Tiên (An Nhơn) nghe đâu khi gần đạt kết quả thì bị công
an giải tỏa, các chuyên gia của Bảo tàng Bình Định đã tiếp tục công việc và thu đƣợc khá
nhiều hiện vật....”
Sở dĩ những cuộc săn lùng kho báu Chăm không bị lụi tàn nhƣ những cuộc săn lùng tƣơng tự
ở Bình Thuận, Đồng Nai những năm trƣớc, hoặc nhƣ cuộc săn lùng kho báu của Vua Hàm
Nghi mới đƣợc một số báo đài nói đến gần đây là vì khác với chúng, kho báu Chăm không
chỉ có huyền thoại mà thỉnh thoảng còn hé ra một vài “ví dụ” thực tế có sức hấp dẫn, quyến
rũ lớn. Mặt khác Chămpa là một quốc gia có thật, tƣ liệu lịch sử, khảo cổ về nó cũng nhiều
hơn hẳn. Tuy nhiên sẽ vô cùng thiếu sót nếu chúng tôi không nói đến hậu quả thảm khốc,
những hệ lụy đau lòng mà những ngƣời theo đuổi giấc mộng vàng Hời đã gặp phải.
Ngày 29.11.1996 nhóm thanh niên gồm 4 ngƣời là Trần Văn Đông, Võ Văn Ngọc, Cao
Thành Trọng, Huỳnh Công Báu tổ chức đào “phế liệu” ở thôn Hội An, xã Ân Thạnh, Hoài
Ân. Nhóm này đã rà đƣợc một quả đạn pháo 81 ly và Trọng, Ngọc, Báu đã chết ngay tại chỗ
khi tìm cách...đập quả đạn ra để lấy thuốc nổ. Đông- ngƣời may mắn thoát chết kể lại- lúc
mới cào ra lớp đồng bên ngoài vỏ đạn đứa nào cũng tƣởng là vàng, khi phát hiện đó là đạn
pháo cả nhóm mới bàn rằng sẽ bán quả đạn này đi để lấy tiền tổ chức rà tiếp biết đâu sẽ gặp
may. Ai ngờ...
Nhƣng đây vẫn chƣa phải là kết cục thảm khốc nhất, ngày 18.01.1997 tại cơ sở buôn bán phế
liệu kim loại của mình, ông Nguyễn Thanh Phong (An Nhơn - Bình Định) đã thuê anh Sang
một ngƣời chuyên rà phế liệu cƣa quả bom 500 ký. Bom nổ, vợ và 2 con ông Phong, anh
Sang và một ngƣời bán kem gần đó đã tan xác, máu của những kẻ xấu số nhuộm đỏ cả rặng
me tây cách đó khá xa. Ông Phong may mắn thoát chết do không có mặt ở nơi cƣa bom,
nhƣng 4 cái chết bị thảm kia đã giáng vào ông một đòn chí mạng.
Những nhóm rà phế liệu là dân An Nhơn đang hoạt động rải rác khắp nơi trong tỉnh vội vã
trở về do quá kinh hãi! Câu chuyện đáng cƣời ra nƣớc mắt nhất lại sảy ta ở huyện An Lão,
một nhóm 3 ngƣời đi rà chung với nhau khi vừa thấy ánh vàng hấp dẫn lóe lên trong hố, cả 3
đã xông vào “dần” nhau một trận chí tử, hai ngƣời yếu hơn đã thua cuộc, ngƣời chiến thắng -
kẻ khỏe nhất đã xông lại đào tiếp để sở hữu riêng kho báu đã trọng thƣơng, bị mất một cánh
tay, một bàn chân vì kho báu phát nổ bởi đó là một quả đạn M79.
Ngƣời ta bảo đó là kết quả của những lời nguyền trên kho báu Chăm và hy vọng điều đó sẽ
cảnh tỉnh những ai có giấc mộng giàu xổi từ những di chỉ văn hóa Chăm chứa đầy những mối
hiểm nguy. Nhƣng không, cơn sốt cổ vật thậm chí còn làm dấy lên một nỗi buồn mà sau này
tôi đã gọi là Nỗi buồn cổ vật Việt Nam, gọi nhƣ thế một phần còn vì sự thờ ơ của những
ngƣời giữ trọng trách trong tay.
Nguồn :
http://blog.360.yahoo.com/blog-ROyvp4ElaadRDv0NfOZRr2Utfg--?cq=1&p=2919
Tƣởng nhớ công ơn của Độc Cƣớc, ngƣời dân Sầm Sơn đã lập miếu thờ thần ngay bên tảng
đá có vết lõm dấu chân khổng lồ tƣơng truyền là bàn chân của chàng. Về sau miếu trở thành
đền Độc Cƣớc.
THAM KHẢO THÊM.
Nếu các tôn giáo có nhiều hệ phái thì đạo phù thủy ở Việt Nam ta cũng vậy.
Phù thủy ở miền Bắc VN đầu tiên từ Tàu truyền sang , cho nên chúng ta cũng cần biết qua
nguồn gốc phù thủy ở Tàu trƣớc . Theo lịch sử Trung Quốc thì khi Xuy Vƣu chống lại vua
Hoàng Đế thì y đã dùng bùa ngải , thƣ, chú để đánh quân của Hoàng Đế .Vua Hoàng Đế lại
thua nhiều trận sau nhờ đƣợc Bà Cửu Thiên Huyền Nữ dạy cho 8 ngày về các bùa phép để
phá Xuy Vƣu .
Huyền Nữ dạy Hoàng Đế từ ngày Nhâm Tý, Qúy Sửu trừ hai ngày Giáp Dần, Ất Mão thôi rồi
lại dạy tiếp từ ngày Bính Thìn đến hết ngày Tân Dậu tổng cộng là 8 ngày, nhờ thế Hoàng Đế
biết chế kim nam châm "chỉ nam" và bùa phép phản công lại Xuy Vƣu khiến cho bộ lạc này
tan rả phải rút lên núi cao mà ở . Sau này họ hóa tha h bộ lạc Mèo "Miêu tộc" và vùng núi họ
ở gọi là vùng Miêu cƣơng nơi chứa nhiều bí hiểm và độc địa . Sau đó Hoàng Đế truyền lại
cho Chúc Do Thập Tam Chƣởng mà đại đa số là bùa chú trị bịnh cho binh sĩ thời đó . Nhƣ
vậy là nghành Đông Y cũng có một khoa t i bịnh bằng bùa phép nhƣ : - Chữa bịnh Truyền thi
lao sái . - Các bịnh mụn nhọt . - Dùng khi châm cứu . Đó là những cách dùng bùa lẫn với
dùng thuốc .Thí dụ : Chữa bịnh Lao truyền thì dùng bùa dán để vây con trùng lao rồi dùng
ngải cứu mà đốt .Muốn làm tan nhọt thì thƣ phù trên mụn cho tan đi hoặc cho vỡ đi gọi là
đinh gíap thần phù ( Lọai này biên gỉa đã thí nghiệm thấy rất linh diệu và gia phụ đã trị cho
cả trăm ngƣời bị lên đinh lên bắp chuối và mụn xoài đều tan hoặc vỡ cả ) và lọai bùa khi
châm cứu là để mở các huyệt đạo trong ngƣời trƣớc khi châm cứu. Phù thì gọi là Thái Ất thần
phù và chú thì gọi là Càn Nguyên thần chú. Đến Khƣơng Tử Nha tức Thái công khi cầm quân
phạt Trụ thì lại đem áp dụng phù chú vào binh pháp trận đồ, vào các việc bệnh, tử trong quân
doanh mà sau này Trƣơng Tử Phòng và Gia Cát cũng nhƣ Lƣu Bá Ôn đều áp dụng theo. Loại
phù thuỷ trên đƣợc gọi là chính đạo và thƣờng do các đạo sĩ, những ngƣời tu Tiên sử dụng.
Đến đời Tống thì Trƣơng Thiên Sƣ ở Long Hổ Sơn cho đệ tử truyền bá nhiều thứ phù phép
trong dân gian do đó nghành phù thuỷ lan tràn khắp chốn. Riêng về nghành phù thủy đã nói ở
trên là thuộc về thần đạo và sử dụng đến “Thiên Tinh "các sao Thiên Thần , Thiên Tƣớng
Thiên Binh nhƣ Lục Giáp Thần Binh v.v... Còn một nghành phù thủy chuyên môn thờ Qủi,
chuyên môn dùng chúa Qủi để sai khiến ma qủi và trị qủi thì gọi là Độc Cƣớc Môn-Môn phái
thờ Thần Độc Cƣớc .Nghành phù thủy này nửa tà nửa chính, nhƣng các giới đạo sĩ thì gọi
thẳng họ là tà đạo. Khi vào nhà một ông phù thuỷ nhìn lên bàn thấy có thờ một ông tƣợng chỉ
có nửa ngƣời đứng với một chân, một tay, một mắt,một tai, một lỗ mũi - nghĩa là đúng y nhƣ
là một ngƣời bị chẻ dọc làm hai - thì đó là thần tƣợng Độc Cƣớc, chúa của Qủi.
Ngƣời ta không rõ ông Độc Cƣớc này ra đời từ bao giờ , chỉ thấy truyền thuyết nói rằng:
“Đời Thƣợng Cổ ở bên Tàu có một vị nho sinh, một hôm vào trong núi tìm Hoa Lan và
thƣởng cảnh . Khi trở về thì gặp một ngƣời con gái đang định nhẩy xuống vực sâu tự tử .
Chàng nho sinh bèn giữ lại kịp và hỏi lý do thì cô gái cho biết là nàng bị cha mẹ ép gả cho
một tên cƣờng hào giàu có lớn hơn nàng tới 40 tuổi cho nên nàng phẩn chí muốn chết .Nàng
định đến nhà cậu ở nhờ nhƣng đi đến đây hết tiền, nên lên mõm nuí này để tự vận . Chàng
nho sinh thấy nàng nói năng mềm mỏng và mặt lại rất đẹp, đời chàng chƣa hề gặp. Lúc đó
chàng đến đây du học, tiền bạc có sẳn lại ở có một mình trong một căn nhà mà chàng thuê
ngƣời dựng lên ở nơi vắng vẻ nay nếu nàng chịu lấy thì ta đƣa nàng về ở chung để nàng lo
việc cơm áo cho ta. Nghĩ thế chàng liền ƣớm hỏi cô gaí thì cô gái gật đầu. Chàng nho sinh
đƣa cô gái về nhà ở và sai nàng đi chợ mua sắm thức ăn, chàng ở nhà đọc sách . Một năm sau
nàng sinh hạ đƣợc con trai đầu lòng rất ngộ nghĩnh . Vợ chồng ăn ở với nhau rất hạnh phúc
cho tới năm đứa trẻ lên 4 tuổi thì một hôm gần Tết chàng ra thị trấn mua bút giấy bổng gặp vị
đạo sĩ , vị đạo sĩ nhìn chàng rồi hoảng hốt than nhỏ : -Ôi! ngƣời sắp chết đến nơi rồi không
biết .Tiếc thay ! Chàng lấy làm lạ , bèn vòng tay làm lể và xin vị đạo sĩ chỉ dạy cho. Vị đạo sĩ
nói, chàng đã lấy phải một con yêu tinh nó đã thu hút tinh khí của mấy trăm ngƣời rồi, nay nó
sắp thành một loài qủi Tiên không ai trừ nổi , vậy chàng phải tránh xa nó không thì chết.
Chàng nho sĩ cả sợ vội van xin vị đạo sĩ hảy cứu chàng và vì đời trừ hại gíup. Vị đạo sĩ nói : -
Nó thụ hấp tinh khí của nhiều ngƣời rồi nên ta không đủ sức giết nó . Vậy ta cho ngƣơi một
đạo phù này đem về dán ở cửa chính còn một đạo thì đeo vào ngƣời . Hể khi nào nó đi chợ thì
ngƣơi ở nhà hả dán bùa và đeo bùa .rồi ở trong nhà , khi nó về nó sẽ không vào nhà đƣợc , dù
cử mở .Nó sẽ gọi ngƣơi mở cửa cho nó vào thì ngƣơi biết nó yêu tinh đuổi nó đi . Chàng nho
sinh nhận hai đạo phù đem về giấu kín trong quyển sách không cho vợ hay biết . Hôm sau
chàng sai vợ đi chợ sắm tết .Khi ngƣời vợ đi khỏi chàng đem hai đạo bùa ra đeo và dán ở cửa
. Đến qúa trƣa ngƣời vợ về đến sân bỏ thúng xuống và đứng ở sân gọi chồng mở cửa cho
nàng vào. Chàng nho sinh bèn đuổi nàng đi và cho biết nàng là yêu tinh .ngƣời vợ thấy chồng
đuổi bèn giơ tay vẫy , thì thằng bé đang chơi ở một góc nhà , thấy mẹ vẫy bèn chạy ra sân .
Chàng nho sinh không kịp giữ lại .Đứa trẻ ra đến sân thì con yêu cầm hai cổ chân đứa trẻ xé
ngƣợc lên và le lƣỡi ra nhƣ ngƣời ta dùng kiếm mà rọc ,đứa bé liền bị xé nhƣ chẻ làm hai .
Con yêu vất hai nửa đứa trẻ xuống sân thì một nửa đứng lên còn một nửa té nằm trên đất
.Con yêu gọi lớn : -Ngƣời không lấy ta nữa thì con đó , chia đôi mỗi ngƣời một nửa . Rồi nó
chạy đi và cái nửa xác sống nhảy theo sau mà đi vào núi. Cái nửa ngƣời đó là Thần Độc Cƣớc
là chúa Qủi". Muốn thờ thần này thời xƣa thầy phù thủy cứ ba năm phải tế sống bằng cách
giết ngƣời tại bàn thờ để lấy tim và máu tế thần Độc Cƣớc. Nếu trong năm đó mà không mua
đƣợc ngƣời về thì thầy phù thủy phải dùng đệ tử hay con cái, gia nhân mà tế thay. Sách đời
Đƣờng có ghi truyền, Thôi Vĩ vốn là con trai nhà thơ Thôi Hƣớng đời Đƣờng. Thôi Vĩ qua
Giao Châu thăm cha làm Thái Thú, lúc về qua Phiên Ngƣng vì giỏi khoa châm cứu nên đƣợc
một ông thầy phù thủy ở miền núi gần Dƣơng Thành mời đến châm cứu chữa gíup bệnh bƣớu
. Thôi Vĩ đến nơi chữa khỏi bệnh cho thầy phù thuỷ, và đƣợc mời ở chơi, thầy phù thủy này
vốn cho ngƣời nhà đem cả vạn lạng bạc đi để mua ngƣời mà không mua đƣợc, nên lão ta
quyết định lừa bắt Thôi Vĩ giết đi để tế thần Độc Cƣớc. May là Thôi Vĩ đẹp trai, lại giỏi đàn
nên đứa con gái thầy phù thủy nó mê và nó ngầm báo cho Thôi Vĩ trốn đi Ở Việt Nam ở mỗi
tỉnh có ít ra 5, 7 ông thầy phù thuỷ thờ thần Độc Cƣớc . Có thờ thần Độc Cƣớc thì mới dễ thu
âm binh , mới dễ tróc tà nhƣng sau này không thiêng nữa vì thần Độc Cƣớc không đƣợc cúng
bằng ngƣời sống . Ngoài việc thờ thần Độc Cƣớc , nhiều thầy phù thủy lập điện thờ Hƣng
Đạo Vƣơng Trần Quốc Tuấn , tục gọi là Đức Thánh Trần, và thờ các tƣợng khác, nhƣ Phạm
Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tƣợng. Trên bàn thờ Đức Thánh Trần thì dƣới gầm bàn phải thờ Ngũ
Hổ Tƣớng , để sai đi tróc tà. Đạo thờ Đức Tha h Trần gọi là Đạo Nội . Trên toàn quốc có đến
mấy ngàn ông thầy phù thủy thờ Đạo Nội . Họ là đệ tử của Đức Thánh Trần Hƣng Đạo, nên
hàng năm họ phải đi lễ ở đền Kiếp Bạc, trên sông Vạn Kiếp để tạ lễ gọi là" đi trẩy hội cha "
(Tháng 8 hội cha, thánh 3 hội mẹ). Đạo Nội Đức Thánh Trần cũng ra tay ấn quyết phù chú
khu tà tróc qủi bằng bùa phép nhƣng đại đa số là để trị : - Những ngƣời đàn bà bị ma làm( qủi
ám). - Những ngƣời hữu sinh vô dƣỡng - Những tiền oan nghiệt chƣớng ( tiền phu, tiền thê
v.v...). Cứ theo các sách ghi trong các điện của thầy phù thủy thì vào thời kỳ Đức Trần Hƣng
Đạo đánh quân Mông Cổ có tên Tàu lai là Nguyễn Bá Linh đi theo quân Mông Cổ dọ thám
quân ta và tác oai tác quái khắp các miền từ Bắc Ninh xuống đến Hải Dƣơng, Kiến An .
Nguyễn Bá Linh có phép phù thủy biến hóa đƣợc cho nên bắt đƣợc mấy lần nó lại trốn thoát.
Các vị đạo sĩ Việt Nam phải luyện bùa vào chỉ ngũ sắc để khi bắt đƣợc thì dùng chỉ mà buộc
cổ nó. Sau khi bắt đƣợc thì quân ta đem ra chém nhƣng cứ chém đứt đầu rơi xuống, trông lại
nó vẫncòn nguyên đầu. Sách ghi là chém đầu nó mọc đầu kia nên không làm sao chém đƣợc
nó . Sự việc tâu lên nhà vua và Hƣng Đạo Vƣơng .Đức TRần Hƣng Đạo bèn ra lệnh bôi cứt
gà sáp vào gƣơm mà chém Nguyễn Bá Linh "còn tên nữa là Phạm Nhan"đƣợc giải về
Chƣơng Dƣơng chém . Khi bị chém nó kêu lên là nó sẽ là qủy ở đất nƣớc An Nam và cho nó
ăn gì?( có nghĩa cúng nó bằng gì? ), vị quan Giám Hình và đao phủ rủa lại nó là :" cho mầy
ăn máu bà đẻ!". Khi xác bị vằm ra ném xuống nƣớc và bụi cây thì :"dài làm rắn, ngắn làm
đỉa, lia tia làm muỗi " nghía là hóa thành các động vật hút máu hại ngƣời . Sau khi chết,
Phạm Nhan chuyên đi hút máu và âm nhập các sản phụ . Vì thế mà ngƣời ta phải nhờ oai Đức
thánh Trần để trừ khử nó . Do tích đó mà đạo phù thủy Việt Nam gọi là Đạo nội ra đời. Đạo
này dùng kiếm ấn của Đức Thánh Trần làm phù hiệu chuyên trừ Phạm Nhan và các loại tà
ma, cũng có bùa chú đầy đủ . Khi bắt tà ma thì dùng Ngũ Hổ và các Hổ Tƣớng của Đức
Thánh Trần phụ lên giúp . Các việc về tiền oan nhƣ tiền Thê" giết vợ cả lấy vợ kế và hồn vợ
cả hiện về báo thù bóp chết hết mọi đứa con và làm cho ngƣời vợ kế bệnh nặng" quan trọng
lắm mà các vị quan tƣớng nhƣ Yết Kiêu, Phạm Ngũ Lão không xử nổi thì mới phụ đồng
thỉnh Đức Thánh Trần về . Ông Nguyễn Đăng Thục có viết một cuốn sách khảo cứu về Đạo
Nội nay"X.B ở VN hồi Đệ Nhất Cộng Hòa"các thầy phù thủy ở VN thƣờng dùng vỏ và thân
cây núc nác "tức là cây Hoàng Bá một vị thuốc Bắc, cây gỗ Đào, gỗ Dƣơng Liễu để làm ấn .
Các đạo sĩ dùng phép phù thủy vào các việc hành binh nhƣ lập trận đồ, sử dụng Thiên binh
thì thì phải dùng"Cây Gỗ Táo Bị Sét Đánh" gọi là"lôi kinh mộc táo" hoặc "cây gỗ trầm
hƣơng" mà làm ấn thì ấn mới linh. Muốn luyện bùa tàng hình thì phải thu bùa trên thanh quế
để xuất nhập doanh trận của địch. Vị Tiên Hàn Tƣơng Tử có truyền lại cho phép luyện bùa "
Bạch Hạc Tử Chi Phu" rất linh diệu để tàng hình nhờ Hạc Thần giúp sức "Qúi vị coi lịch
ngày Mồng 1 Tết thƣờng ghi Hạc Thần để luyện bùa". Bùa để trừ tà và nhất là để trừ Phạm
Nhan nguyễn Bá linh rất cần có máu ngƣời bị chết chém cho nên thời xƣa khi có ngƣời bị xử
trảm thì các thầy phù thủy kéo đến pháp trƣờng có cả trăm ngƣời để lấy máu kẻ bị chém. Họ
phải đút lót lính canh cho họ ngồi gần chổ tử tù bị chém để khi vòi máu của tử tù phun ra thì
họ dùng giấy bản mà hứng lấy ngay thấm trên đất mà lấy. Thời xƣa ngƣời Việt Nam mê tín
nên mỗi khi trong nhà có ngƣời bệnh thì đều ngỡ là bị ma làm qủi ám.Nhất là khi có ngƣời
nhà chết thì thƣờng sợ là bị" chết trùng" hay là nhà ở không yên ổn nên con ốm,v ợ đau, gà
mái gáy gở , em hóa điên , chị hóa dại thì ngỡ là bị tà ma quấy phá , hay là trong nhà ngỡ có
thạch tinh cốt khí thì phải nhờ đến thầy phù thủy . Thầy phù thủy chân truyền chính đạo là
cứu nhân độ thế thì vẫn có nhƣng rất hiếm, còn đa số đều là mê tín dị đoan tin theo tà thuyết
tà đạo để kiếm tiền trục lợi .Cho nên khắp từ miền Bắc VN vào đến Nghệ Tĩnh không mấy
làng không có thầy phù thủy. Nhƣng thầy cao tay chân chính thì cả huyện may ra mới đƣợc
một ông. Các ông thầy đó đại đa số tuyệt tự , truyền thuyết nói là bị ma qủi nó báo thù vì khu
trục nó ra. Đến nhƣ ở miền Nam thì lại thêm một số ông thầy làm Bùa kiêm nuôi Ngải nhƣ
làm ngải yêu, ngải cầu tài, ngải hành hạ thân chủ ( Nhƣ thân chủ không đóng tiền cúng hàng
tháng thì làm họ đau bụng , nhức đầu v.v... ).
BÀI THƠ CỦA ĐẶNG HUY TRỨ TẠI ĐỀN ĐỘC CƢỚC THANH HÓA
Yết Độc Cƣớc Tiểu Tiêu Thần Linh Từ.
Hà niên ngọc chỉ đáo Đông minh
Hƣơng hỏa thiên thu hộ bất quynh
Khí hữu tƣ chung duy chính trực
Tức chung sở lý tức anh linh
Nguy nga cổ miếu sơn đồng trí
Huy hách thần công thạch khả minh
Tọa trấn hải cƣơng xung yếu địa
Kiêm thiên kình ngạc tảo tiềm hình.
Dịch thơ:
Viếng Thăm Đền Thần Độc Cƣớc
Gót ngọc năm nao đến biển Đông
Nghìn năm hƣơng khói cửa toang không *
Trui rèn cƣơng trực nên anh khí
Đặt bƣớc hoang liêu hỏa điện thông
Miếu cổ nguy nga non sách thế
Công ơn hiển hách đá ghi công
Biển bờ xung yếu oai nghiêm trấn
Kình ngạc dông càn lặng đáy sông.
Hoàng Công Khanh dịch.
Các mùi dễ chịu ngƣợc lại, có một ảnh hƣởng cứu rỗi. Nhang mà ngƣời ta đốt trên bàn thờ
không có mục đích duy nhất là làm sảng khoái các đấng thiêng liêng, mà nhiệm vụ của nhang
còn giúp xua đuổi các tà ma. Ngày đầu năm, tục lệ buộc phải chƣng hoa và xông hƣơng nhà
với hoa thuỷ tiên, là loại hoa có củ, hƣơng thơm nhẹ, nhập từ Trung Quốc và bán rất mắc.
Ngƣời ta đặt vài củ thủy tiên trƣớc bài vị Tổ Tiên. Nếu hoa nở buổi sáng ngày mồng một đó
là dấu hiệu hạnh phúc suốt năm trong nhà.
Vào năm mới, ngƣời ta treo lên mái nhà một gói lá ngải hƣơng có tính cách xua đuổi tà ma.
Các loại cỏ thơm có vai trò lớn lao trong lĩnh vực bùa phép. Ngƣời ta thƣờng dùng các hƣơng
thảo để làm phép.Ngƣời Việt mình còn thừa nhận một cách tổng quát rằng các mùi quá nặng
và xú uế tàn phá các làng hơi hoặc làm tỏa hơi độc hại thâm nhập vào có thể, (5,6)
(1) Cần chú ý rằng các tiếng ''khói'', '' hơi'' và ''mùi'' đều chung tộc ngữ ở cả 2 lĩnh vực âm
ngữ học và ngữ nghĩa học. Chữ khói phân tích thành 2 thành tố : hỏa và hồn ? (quỷ). Còn chữ
hơi, hơi thở có thể xác định với linh hồn các sinh vật hay sự vật : hơi ngƣời, hơi xác chết, hơi
đất v.v...
(2) Ở đây chúng ta da đụng chạm tới ảnh hƣởng huyền vi của tử thần. Ta sẽ nói tới việc này
sau.
(3) Thiên Cƣơng Đại Thánh ( Thiên = trời ; Cƣơng = xác chết chƣa có dấu hiệu phân huỷ ;
Đại = lớn ; Thánh = ông Thánh
(4) Quyết là dấu hiệu làm bằng ngón tay do các pháp sƣ dùng ếm tà ma, hay còn gọi là bắt
Ấn
(5) Ở Trung Quốc vào tháng 5, ngƣời ta có tục mang trên ngực một túi vải nhỏ đựng các
hƣơng thơm để xua đuổi các ảnh hƣởng xấu. Một tục lệ gần giống nhƣ vậy cũng có ở Bắc Kỳ
; vào mùa hè ngƣời ta cho trẻ con đeo một túi nhỏ cùng với vài lá bùa : quả bầu, quả lựu bàng
bạc, con heo nhỏ bằng cây v.v...
(6) Bài đọc thêm -
Ông Hà Hùng Tiến -
Nguyên Trƣởng ban Văn hoá, Viện Văn hoá, Bộ VHTT:
Mƣờng là dân tộc giỏi nhất về bùa chú.
Ngƣời Việt Mƣờng rất giỏi làm bùa chú. Từ thời mới bƣớc chân vào nghề khảo cổ tôi đƣợc
cử công tác ở khu vực có nhiều ngƣời Mƣờng sinh sống, tôi có may mắn đƣợc một ngƣời
Mƣờng dạy cho bùa chú. Ngƣời thày dạy có nói một câu mà tôi còn nhớ mãi. Đó là, chỉ đƣợc
dùng bùa chú làm điều thiện, không làm điều ác. Nếu làm điều ác thì giỏi lắm chỉ làm đƣợc
cho hai trƣờng hợp sau đó thì bản thân sẽ chết.
Suốt những năm 1968 - 1969 tôi đã thâm nhập rất sâu vào đời sống của bà con 8 xã Mƣờng
nhƣ Tân Lạc, Nhân Nghĩa, Quý Hoà, Thành Đạo và học đƣợc rất nhiều bùa. Ngƣời Mƣờng
có nhiều bùa nhƣ bùa yêu, bùa chài ếm, bùa chữa bệnh... Bên cạnh đó ngƣời Thái, Chàm, Tây
Nguyên, Bana, Êđê cũng có rất nhiều cách yểm bùa. Đặc biệt ngƣời Êđê có rất nhiều bùa
thuốc. Các loại bùa phần lớn đƣợc làm từ lá cây tự nhiên nhƣ đinh hƣơng, hƣơng nhu, quế
chi, các loại vỏ cây trên rừng cũng chỉ ngũ sắc, sau đó dùng những lời chú để chú vào đó.
Bùa cũng có thể làm bằng giấy dán lên tƣờng, thƣờng là bùa phép phật để linh hồn quấy phá
trông vào thấy sợ.