Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 259

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Trước thực tiễn mới của sự nghiệp giáo dục và đào tạo,
quán triệt đường lối về đổi mới công tác tư tưởng, lý luận của
Đảng và chủ trương cải cách công tác giảng dạy, học tập bậc đại
học, cao đẳng nói chung, ngày 18-9-2008, Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã ban hành chương trình mới và tổ chức biên
soạn, phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật
xuất bản bộ giáo trình các môn học Lý luận chính trị dành cho
sinh viên đại học, cao đẳng khối không chuyên ngành Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bao gồm ba bộ môn, trong đó có
bộ môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Dựa trên những nội dung chính trong giáo trình, nhằm giúp
cho sinh viên có thể học, tự ôn luyện những kiến thức cơ bản
trong giáo trình, Nhà xuất bản Lí luận chính trị tổ chức xuất bản
cuốn sách Hướng dẫn tự học môn Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin. Nội dung chính của cuốn sách được chia
làm 2 phần:
Phần một: Phương pháp tự học môn Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nội dung chính của phần này
cung cấp cho sinh viên các kỹ năng cơ bản trong việc tổ chức
quá trình tự học, tự ôn tập và thi môn Những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin đạt kết quả cao.
Phần hai: Câu hỏi - Bài tập. Nội dung chính của phần này
là đưa ra các bài tập với những câu hỏi các gợi ý trả lời dựa trên
kết cấu theo Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành nhằm hỗ trợ
cho cho sinh viên trong quá trình tự nghiên cứu và học tập những
nội dung chính yếu nhất của môn học.

4
Việc biên soạn cuốn sách hướng dẫn môn học theo giáo
trình mới với những nội dung luôn được cập nhật, bổ sung chắc
chắn khó tránh khỏi còn thiếu sót, Nhà xuất bản và tập thể tác
giả rất mong nhận được ý kiến đóng góp của bạn đọc để lần xuất
bản sau sách được hoàn chỉnh hơn.
Xin giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.

Tháng 6 năm 2016


NHÀ XUẤT BẢN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

5
Phần một
PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ
CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN

I. GIỚI THIỆU VỀ MÔN HỌC NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ


BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
Môn học này được giảng dạy cho sinh viên năm thứ nhất
khối không chuyên ngành Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
trình độ đại học, cao đẳng với thời lượng 5 đơn vị tín chỉ (tương
đương 8 đơn vị học trình trong đào tạo theo niên chế). Do đặc
thù về nội dung và thời lượng của môn học, để bảo đảm chất
lượng dạy học bộ môn, được sự đồng ý của Bộ Giáo dục và Đào
tạo, nhiều trường đại học, cao đẳng đã phân chia chương trình
môn học thành 2 phần:
- Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin 1
(2 đơn vị tín chỉ) bao gồm Chương mở đầu và Phần thứ nhất:
Thế giới quan, phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác -
Lênin.
- Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin 2
(3 đơn vị tín chỉ) bao gồm Phần thứ hai: Học thuyết kinh tế của
chủ nghĩa Mác - Lênin về phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa và Phần thứ ba: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ
nghĩa xã hội.
1. Mục tiêu của môn học
Môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin nhằm giúp cho sinh viên:
- Xác lập cơ sở lý luận cơ bản nhất để từ đó có thể tiếp cận
được nội dung Môn học Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Tư tưởng Hồ Chí Minh, hiểu biết nền tảng tư
6
tưởng của Đảng;
- Xây dựng niềm tin, lý tưởng cách mạng cho sinh viên;
- Từng bước xác lập thế giới quan, nhân sinh quan và
phương pháp luận chung nhất để tiếp cận các khoa học chuyên
ngành được đào tạo.
2. Mô tả tóm tắt về nội dung môn học
Ngoài Chương mở đầu giới thiệu khái lược về chủ nghĩa
Mác - Lênin và một số vấn đề chung của môn học, căn cứ vào
mục tiêu môn học, nội dung chương trình môn học được cấu trúc
thành 3 phần, 9 chương:
Phần thứ nhất: Thế giới quan, phương pháp luận triết học
của chủ nghĩa Mác - Lênin. Phần này có 3 chương bao quát
những nội dung cơ bản về thế giới quan và phương pháp luận
triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin, bao gồm: Chương I: Chủ
nghĩa duy vật biện chứng; Chương II: Phép biện chứng duy vật;
Chương III: Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phần thứ hai: Học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác -
Lênin về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Phần này có 3
chương trình bày ba nội dung trọng tâm thuộc học thuyết kinh tế
của chủ nghĩa Mác - Lênin về phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa, bao gồm: Chương IV: Học thuyết giá trị; Chương V: Học
thuyết giá trị thặng dư; Chương VI: Học thuyết về chủ nghĩa tư
bản độc quyền và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Phần thứ ba: Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ
nghĩa xã hội. Phần này có 3 chương, trong đó có 2 chương khái
quát những nội dung cơ bản thuộc lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin về chủ nghĩa xã hội và một chương khái quát chủ nghĩa xã
hội hiện thực và đề cập tới triển vọng của chủ nghĩa xã hội, bao
gồm: Chương VII : Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và

7
cách mạng xã hội chủ nghĩa; Chương VIII: Những vấn đề chính
trị - xã hội có tính quy luật trong tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa; Chương IX: Chủ nghĩa xã hội hiện thực và triển vọng.
3. Một số yêu cầu cơ bản đối với sinh viên khi học tập,
nghiên cứu
Để quá trình học tập, nghiên cứu Môn học Những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin đạt kết quả tốt, người học
cần thực hiện được một số yêu cầu cơ bản sau đây:
- Học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin cần phải hiểu đúng tinh thần, thực chất của
nó; chống xu hướng kinh viện, giáo điều.
- Học tập, nghiên cứu mỗi luận điểm của chủ nghĩa Mác
-Lênin phải đặt chúng trong mối liên hệ với các luận điểm khác,
ở các bộ phận cấu thành khác để thấy sự thống nhất trong tính đa
dạng và nhất quán của mỗi tư tưởng nói riêng, của toàn bộ chủ
nghĩa Mác - Lênin nói chung.
- Trong quá trình học tập phải gắn những luận điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam và
thực tiễn thời đại để thấy sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã
thực hiện trong từng giai đoạn lịch sử.
- Quá trình học tập, nghiên cứu đồng thời cũng là quá trình
giáo dục, tự giáo dục, tu dưỡng và rèn luyện để từng bước hoàn
thiện mình trong đời sống cá nhân cũng như trong đời sống cộng
đồng xã hội.
- Quá trình học tập, nghiên cứu đồng thời cũng phải là quá
trình tổng kết, đúc kết kinh nghiệm để góp phần phát triển tính
khoa học và tính nhân văn vốn có của chủ nghĩa Mác -Lênin.
- Việc học tập, nghiên cứu các nguyên lý cơ bản của chủ
8
nghĩa Mác - Lênin cũng cần phải đặt nó trong lịch sử phát triển
tư tưởng nhân loại bởi nó là sự kế thừa và phát triển những tinh
hoa của lịch sử đó trong những điều kiện lịch sử mới.
Những yêu cầu trên thống nhất hữu cơ với nhau, giúp cho
quá trình học tập, nghiên cứu không chỉ kế thừa được tinh hoa
của chủ nghĩa Mác - Lênin mà quan trọng hơn, nó giúp người
học nghiên cứu vận dụng được tinh hoa ấy trong các hoạt động
nhận thức và thực tiễn.
II. PHƯƠNG PHÁP TỰ HỌC HỌC MÔN HỌC NHỮNG
NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
Quá trình học tập đồng thời cũng là một quá trình hoạt
động, lao động, sáng tạo của con người. Kết quả học tập không
chỉ phụ thuộc vào tư chất, năng lực tư duy của người học,
phương pháp giảng dạy của người thầy, điều kiện cơ sở vật chất,
trang thiết bị, tài liệu, giáo trình,… mà còn phụ thuộc rất nhiều
vào phương pháp học tập của mỗi cá nhân. R.Đềcáctơ - triết gia
Pháp thế kỷ XVII đã từng khẳng định: “Thiếu phương pháp thì
người tài cũng có thể không đạt kết quả. Có phương pháp thì
người tầm thường cũng làm được những việc phi thường”. Do
đó, vấn đề làm sao lựa chọn được phương pháp học tập phù hợp
với năng lực của bản thân và yêu cầu đặc thù của mỗi môn học
luôn là sự quan tâm hàng đầu của người học.
Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin là môn
học thuộc khoa học Lý luận chính trị có nội dung phong phú, đa
dạng và được tổng hợp từ nhiều lĩnh vực. Nội dung của môn học
gắn liền với một hệ thống các khái niệm, phạm trù, nguyên lý,
quy luật có tính khái quát, trừu tượng hóa cao.
Trong quá trình tiếp cận, học tập môn Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhiều sinh viên vẫn còn lúng

9
túng, chưa tìm ra phương pháp học tập đúng đắn, phù hợp và
hiệu quả nên kết quả học tập chưa được như mong đợii. Để xác
định cho mình phương pháp học tập phù hợp với đặc thù của
môn học cũng như phù hợp với năng lực của bản thân, các em có
thể tham khảo một số gợi ý sau đây:
1. Một số gợi ý trong việc xác định phương pháp tự học
phù hợp đối với Môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin
1.1. Chuẩn bị cho quá trình học tập
Học cũng như các hoạt động lao động, sáng tạo khác để đạt
kết quả như mong muốn đòi hỏi sinh viên luôn phải có sự chuẩn
bị chu đáo cả trước và trong quá trình học tập. Vậy để học tốt
Môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -Lênin,
sinh viên phải chuẩn bị những gì?
* Chuẩn bị trước khi bắt đầu môn học:
- Sinh viên nên tiếp cận tìm hiểu chương trình môn học để
thấy được những nội dung sẽ học, nghiên cứu, để từ đó chuẩn bị
những giáo trình, tài liệu, phương tiện cần thiết phục vụ cho việc
học tập.
- Xác định rõ động cơ, mục tiêu học tập của bản thân đối
với môn học.
- Có thể thông qua những sinh viên ở các khóa trước để tìm
hiểu thêm các nội dung liên quan đến môn học như: thông tin về
giảng viên bộ môn (để lựa chọn giảng viên), giáo trình, tài liệu
tham khảo, cách thức kiểm tra, đánh giá... Những kinh nghiệm
học tập và thông tin do sinh viên các khóa trước cung cấp sẽ rất
hữu ích đối với những sinh viên đang bắt đầu tiếp cận môn học
trong việc giúp các em hình dung đầy đủ hơn về môn học, lựa
chọn giảng viên bộ môn, chuẩn bị tốt hơn về tâm thế, phương

10
pháp học tập, ôn tập và làm bài kiểm tra, bài thi, cách thức ghi
chép bài giảng trên lớp và tìm kiếm giáo trình, tài liệu, phương
tiện liên quan.
* Chuẩn bị trước khi bắt đầu một bài học:
- Luôn đọc và tìm hiểu trước các bài học tiếp theo trong
chương trình. Đồng thời phải đọc và suy nghĩ về các nội dung
trong các bài đã được học trước đó để tạo tiền đề tiếp cận tốt hơn
những bài học tiếp theo.
- Khi đọc trước bài giảng cần phải chú ý đánh dấu những
chỗ khó hoặc chưa hiểu để tập trung nhiều hơn vào những nội
dung đó khi nghe giảng trên lớp. Nếu thấy cần thiết thì nên đặt ra
những câu hỏi, thắc mắc để khi lên lớp có thể trao đổi với giảng
viên hoặc bạn học.
1.2. Đọc giáo trình và tài liệu tham khảo
Sách là người thầy vĩ đại. Thông qua việc đọc sách, chúng
ta có thể thu được nhiều thông tin bổ ích, học hỏi được nhiều
kinh nghiệm, kiến thức khoa học từ kho tàng tri thức rộng lớn
của nhân loại.
Các mức độ đọc sách:
Mức 1: Đọc để nhớ và tái hiện lại nội dung một cách máy.
Đây là cách đọc thụ động nhưng vẫn được nhiều sinh viên
áp dụng. Khi chuẩn bị thi hoặc khi được giảng viên yêu cầu, các
em thường dành nhiều thời gian để đọc lại vở ghi, bài giảng hoặc
giáo trình của môn học nhằm cố gắng ghi nhớ, tái hiện lại nội
dung càng nhiều, càng chi tiết càng tốt. Thực chất đây là một
cách học vẹt. Cách đọc này vừa mất nhiều thời gian, vừa không
giúp các em hiểu và nắm được bản chất của vấn đề đang học.
Mức 2: Đọc để tra cứu thông tin.
Cách đọc này được áp dụng khi người đọc cần tìm, trích
11
dẫn những nội dung cụ thể hoặc những số liệu, sự kiện,… trong
sách, giáo trình. Để đạt mục đích của mình, người đọc chỉ cần dò
mục lục và đọc một chương hoặc phần có chứa đựng thông tin
cần tìm. Cách đọc này giúp người học lấy được thông tin nhưng
nhiều khi không nắm được kiến thức trong giáo trình một cách
hệ thống.
Mức 3: Đọc để xử lý nội dung của tài liệu, giáo trình.
Đây là cách vừa đọc vừa suy nghĩ, phân tích nội dung của
tài liệu nhằm tìm ra lôgíc trình bày, mối liên hệ giữa các nội
dung. Cách đọc này vừa giúp người đọc nhìn thấy bức tranh toàn
cảnh vừa giúp nắm được nội dung trọng tâm, cốt lõi của giáo
trình, tài liệu. Sau khi đọc xong, người đọc có thể đưa ra nhận
xét về nội dung, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của toàn bộ cũng
như của từng nội dung trong giáo trình, tài liệu; rút ra những
điều mà người đọc cảm thấy tâm đắc, những điểm mới trong nội
dung giáo trình tài liệu; rút ra được những điểm mới và tâm đắc;
so sánh giáo trình, tài liệu với các tài liệu đã đọc trước đó. Trên
cơ sở phân tích, nắm vững nội dung, cấu trúc của giáo trình, tài
liệu, người đọc có thể sắp xếp lại nhằm tạo ra một hình thức mới
cho tài liệu. Cách đọc này giúp người học tiếp cận, xử lý giáo
trình, tài liệu ở chiều sâu, thể hiện tính chủ động, sáng tạo của
người học. Những người có kỹ năng đọc và xử lý thông tin ở
mức độ này thường có thành tích cao trong học tập.
Một số gợi ý giúp cho việc đọc tài liệu, giáo trình hiệu quả:
Mỗi người có những đặc điểm tâm lý, trình độ, khả năng
tiếp cận tài liệu khác nhau và cách đọc cũng khác nhau. Có
người đọc sách với tốc độ nhanh nhưng vẫn rất tập trung và hiệu
quả, ngược lại có người đọc với tốc độ chậm nhưng kiến thức
thu được lại không nhiều. Dưới đây là một số gợi ý giúp các em

12
đọc sách hiệu quả hơn.
- Trước khi chính thức đọc các em cần dựa vào mục đích và
yêu cầu của môn học để lựa chọn tài liệu cần đọc. Trước tiên,
nên đọc lời nói đầu, mục lục, phần giới thiệu và tóm tắt của các
chương, sau đó đọc lướt để có cái nhìn khái quát về nội dung và
bố cục của tài liệu.
- Đọc với tốc độ nhanh sẽ giúp tăng khả năng tập trung và
tiếp thu thông tin, do đó cần rèn luyện thói quen đọc nhanh. Để
đọc sách với tốc độ nhanh, trong quá trình đọc các em cần mở
rộng tầm nhìn của mắt (để nhìn thấy nhiều từ hơn) và tránh thói
quen đọc bằng môi (đọc mấp máy môi), đọc thầm (đọc thầm
từng chữ trong đầu), đọc lùi (đọc đi đọc lại một câu hoặc một số
từ), đọc từng chữ một.
- Luôn kết hợp giữa việc đọc với việc đặt ra những câu hỏi.
Đọc kỹ và luôn tư duy theo hướng trả lời những câu hỏi đã đặt ra
và giải quyết những vấn đề giảng viên yêu cầu (nếu có).
- Tìm các các từ khóa quan trọng và ý chính của mỗi đoạn
văn (có thể đánh dấu hoặc ghi ra giấy). Cuối mỗi phần, mỗi
chương, mỗi mục của tài liệu nên dừng lại để chốt những điểm
chính yếu nhất.
- Sau khi đọc xong mỗi phần của tài liệu cần kiểm tra lại
toàn bộ, chú ý đến bố cục nội dung tài liệu, ý đồ của tác giả.
- Sau khi xác định được những thông tin cần tìm, cần đưa
ra những đánh giá của cá nhân về những thông tin trong tài liệu
và rút ra những kết luận cần thiết.
- So sánh, đối chiếu, phân tích để thấy được mối liên hệ
giữa các nội dung, các chương, bài trong giáo trình, tài liệu.
Ngoài giáo trình chính thức và bài giảng do giảng viên
cung cấp, các em nên tìm đọc thêm một số tài liệu có liên quan
13
đến các chủ đề, nội dung của môn học để vừa đọc, vừa phân tích,
so sánh, đối chiếu giữa các giáo trình, tài liệu nhằm tìm ra những
cách tiếp cận phù hợp nhất theo lập luận và cách hiểu của mình.
Sau khi đọc và phân tích tài liệu, các em nên ghi lại những
nhận xét của bản thân về cấu trúc, nội dung của tài liệu, những
điểm mới, những phát hiện mà bản thân thấy tâm đắc,… Các em
cũng có thể trao đổi tài liệu với bạn bè hoặc người khác để cùng
đọc, thảo luận và chia sẻ về những vấn đề cùng quan tâm liên
quan đến nội dung tài liệu.
1.3. Nghe giảng và ghi chép
Bài giảng của giảng viên trên lớp là sự truyền đạt những
nội dung cơ bản của môn học. Khi giảng dạy một bài cụ thể,
giảng viên thường chỉ chọn lọc những thông tin cơ bản, thiết
thực nhằm cung cấp cho người học một cái nhìn khái quát về vấn
đề đang trình bày. Do đó, để nắm được nội dung bài học một
cách hiệu quả, sinh viên trong quá trình học trên lớp phải biết
cách lắng nghe, ghi chép và trao đổi một cách khoa học.
* Nghe giảng
- Đọc trước bài học ở nhà trước khi nghe giảng trên lớp.
Đánh dấu những chỗ khó, chưa hiểu. Điều này sẽ giúp các em
phát hiện ra các nội dung cần quan tâm và hướng sự tập trung
của mình vào chỗ cần chú ý khi nghe giảng.
- Người nghe phải tập trung chú ý với một thái độ tích cực,
cách nhìn độc lập, không có thành kiến, định kiến với môn học
và người dạy. Khi nghe giảng cần kiểm soát những biểu hiện,
hành vi mất tập trung của bản thân như: (i) Nói chuyện gây mất
trật tự; (ii) Làm việc riêng (sử dụng điện thoại di động, laptop,
đọc báo, đọc truyện…); (iii) Thể hiện thái độ căng thẳng, mệt
mỏi thờ ơ với bài giảng (ngáp vặt, ngủ trong lớp, nhìn ra ngoài,

14
…)
- Phải xác định được những nội dung cơ bản, trọng tâm của
bài giảng. Mỗi bài giảng đều có những nội dung cơ bản, trọng
tâm. Bên cạnh những nội dung đó, trong quá trình lên lớp giảng
viên có thể liên hệ, mở rộng để cung cấp thêm những thông tin,
sự kiện, số liệu, chuyện kể, tình huống,…để làm cho nội dung
bài học trở nên sinh động. Do đó, trong mỗi bài giảng luôn có
những nội dung sinh viên “phải biết”, “cần biết” và “nên biết”.
Tương ứng với đó là những nội dung giảng viên “phải nói”, “cần
nói” và “nên nói”. Nắm được kiến thức cơ bản, trọng tâm của bài
giảng cũng có nghĩa là sinh viên nắm được cái “phải biết”. Muốn
vậy các em phải nghe và xác định được đâu là nội dung giảng
viên “phải nói” để tập trung sự chú ý. Có thể nhận biết nội dung
cơ bản, trọng tâm của bài giảng qua các dấu hiệu sau:
+ Số lần các từ hoặc cụm từ được giảng viên sử dụng hoặc
nhấn mạnh nhiều lần.
+ Các kí hiệu, kí tự đặc biệt được giảng viên sử dụng.
+ Tốc độ, cường độ và ngữ điệu của lời giảng, các sắc thái,
cử chỉ… của giảng viên.
- Trong quá trình nghe giảng, nếu thấy có gì thắc mắc hoặc
chưa hiểu nên mạnh dạn đặt câu hỏi hoặc đề nghị giáo viên cung
cấp thêm thông tin. Tùy vào hoàn cảnh của lớp học mà các em
có thể chuyển những thắc mắc, đề xuất của bản thân cho giảng
viên bằng lời nói hoặc viết ra giấy. Khi đặt câu hỏi hoặc nêu đề
xuất với giáo viên, các em cần chú ý:
+ Không làm gián đoạn bài giảng bằng sự tranh luận, phê
phán.
+ Xem xét thông tin từ nhiều góc độ, cân nhắc kỹ về vấn đề
sẽ hỏi hoặc đề nghị.

15
+ Câu hỏi phải rõ nghĩa, tập trung vào nội dung chính,
không lạc đề hoặc vượt ra ngoài phạm vi những vấn đề đang
nghe.
+ Biết dừng câu hỏi đúng lúc.
- Khi nghe giảng cần tuân thủ nguyên tắc “nghe trước, đánh
giá sau”. Đừng cố gắng nhớ mọi thứ mà cần tập trung vào các
điểm chính và sắp xếp một cách lôgíc các thông tin quan trọng
để hiểu và ghi nhớ bài giảng tốt hơn.
Việc học tập trên lớp sẽ phát huy hiệu quả đối với sinh viên
nếu các em biết kết hợp một cách khoa học giữa nghe giảng với
ghi chép.
* Ghi chép
- Mục đích của việc ghi chép khi nghe giảng là nhằm:
+ Lưu trữ thông tin.
+ Giúp người học hiểu và nhớ nội dung bài giảng tốt hơn.
+ Sắp xếp thông tin để thấy được cấu trúc bài giảng.
+ Nhận diện được phương pháp tiếp cận và xử lý thông tin
của giảng viên bộ môn.
+ Có thêm tài liệu phục vụ cho việc tự học, tự nghiên cứu,
ôn tập và tham khảo khi cần thiết.
- Một số cách ghi chép:
+ Tốc kí (ghi nguyên văn lời giảng của giảng viên).
+ Ghi dàn ý (ghi những ý chính).
+ Ghi những gì cần thiết (những nội dung mà người nghe
cho là thiết thực).
+ Ghi khái quát theo cách hiểu của bản thân.
Trong các cách ghi chép nói trên, cách ghi khái quát theo
cách hiểu của bản thân được đánh giá là phù hợp và hiệu quả

16
nhất vì đó là cách ghi kết hợp với nghe - hiểu, nghe để ghi và ghi
để nghe.
- Để ghi chép hiệu quả bài giảng, các em cần chuẩn bị đầy
đủ vở, các loại bút, dụng cụ phục vụ cho việc ghi chép. Phải đọc
trước bài giảng, giáo trình và các tài liệu tham khảo liên quan
đến bài học để phục vụ cho việc nghe giảng và ghi chép.
- Việc ghi chép trong quá trình nghe giảng cần chú ý các
yêu cầu sau:
+ Kết hợp linh hoạt giữa việc nghe - ghi chép - suy nghĩ.
+ Thông tin ghi chép cần sắp xếp một cách lôgíc (nhìn vào
vở ghi có thể thấy được rõ rằng mối quan hệ giữa các nội dung
của bài học).
+ Ghi ngắn gọn, súc tích, thống nhất cách sử dụng chữ viết
tắt, kí hiệu trong suốt quá trình ghi chép.
+ Trong quá trình ghi chép, cần ghi đầy đủ các khái niệm,
phạm trù quan trọng, các đoạn trích dẫn kinh điển... Cố gắng
không bỏ sót các thuật ngữ mới, các tài liệu quan trọng được giới
thiệu. Ghi lại các ý tưởng, gợi ý độc đáo nảy sinh trong quá trình
nghe giảng. Ghi nhanh các sơ đồ, hình vẽ minh họa (nếu có).
+ Không nên ghi chép quá trau chuốt, cầu kỳ cũng như ghi
chép một cách tùy tiện, cẩu thả.
+ Có thể sử dụng các loại chữ, cỡ chữ, màu chữ khác nhau
hoặc gạch chân để đánh dấu nhằm dễ phân biệt các đề mục.
+ Nên chừa lề đủ rộng để ghi những suy nghĩ, thắc mắc nảy
sinh hoặc những nội dung bổ sung khi cần thiết.
+ Thường xuyên đọc và xem lại các ghi chép nhằm bổ sung
những thiếu sót trong quá trình nghe giảng và sửa các lỗi vô tình
mắc phải khi ghi chép.
+ Có thể trao đổi vở ghi với các bạn cùng nhóm hoặc cùng
17
lớp để tham khảo, học hỏi cách ghi chép của nhau đồng thời bổ
sung, sửa chữa sai sót (nếu có).
Trong quá trình học tập Môn học Những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin, đa số sinh viên chọn cách ghi theo
kiểu tốc kí hoặc dàn ý theo các gạch đầu dòng. Mỗi cách ghi này
đều có ưu điểm và hạn chế riêng. Tuy nhiên, có một cách ghi
chép khác cũng đang bước đầu được ứng dụng trong quá trình
học tập bộ môn, đó là ứng dụng Sơ đồ tư duy vào việc ghi chép,
mã hóa, sơ đồ hóa nội dung bài học. Cách ghi chép này đang tỏ
ra có nhiều triển vọng, góp phần phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học, giúp sắp xếp nội dung bài học
theo một trật tự lôgic, hệ thống mở, giúp ghi nhớ và huy động
thông tin nhanh chóng, cho phép bổ sung, điều chỉnh linh hoạt,
trình bày lại bài học theo cách hiểu và mang đậm dấu ấn, bản sắc
cá nhân.
1.4. Ôn tập và thi
* Ôn tập
- Ôn tập là một khâu hết sức quan trọng trong quá trình học
tập. Việc ôn tập giúp chúng ta củng cố, hệ thống lại những kiến
thức đã lĩnh hội được trong quá trình nhận thức trước đó. Ôn tập
giúp cho việc lưu giữ thông tin, liên hệ, vận dụng tri thức của
môn học tốt hơn. Đồng thời, việc ôn tập một cách khoa học còn
giúp cho sinh viên hoàn thành tốt các bài kiểm tra, bài thi với kết
quả cao hơn.
Hiện nay, trong quá trình học tập, nhiều sinh viên chưa
thực sự quan tâm đến việc lựa chọn cho mình một cách thức ôn
tập phù hợp và hiệu quả, đa số sinh viên vẫn ôn tập thụ động.
Cách ôn tập này có một số biểu hiện sau:
+ Học thuộc lòng giáo trình, bài giảng hoặc vở ghi một

18
cách máy móc.
+ Trên cơ sở đề cương, câu hỏi ôn tập do giảng viên cung
cấp khi kết thúc môn học, sinh viên căn cứ vào giáo trình, bài
giảng, vở ghi, tài liệu hỏi đáp môn học,… soạn ra phần trả lời và
học thuộc lòng để thi.
+ Chỉ bắt tay vào ôn tập trước ngày thi một vài ngày theo
kiểu “nước đến chân mới nhảy” nhằm đối phó với việc thi kết
thúc môn.
Ôn tập thụ động được nhiều sinh viên sử dụng và phổ biến
ở những môn khoa học xã hội, các môn Lý luận chính trị trong
đó có Môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin. Ôn tập theo cách này nặng về đối phó, mất nhiều thời
gian, việc lưu giữ, ghi nhớ thông tin bị hạn chế, máy móc, sinh
viên không có khả năng liên hệ, vận dụng tri thức của môn học
vào thực tiễn vì không hiểu được bản chất của vấn đề. Do đó,
cách ôn tập này thường khiến kết quả kiểm tra, thi kết thúc môn
của sinh viên không cao.
Cách ôn tập hiệu quả nhất đối với Môn học Những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin mà sinh viên nên lựa chọn
là ôn tập tích cực. Đây là cách người học tiến hành ôn tập một
cách tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và khoa học. Ôn tập
tích cực có một số biểu hiện sau:
+ Quá trình ôn tập được thực hiện theo một kế hoạch đã
được xác định.
+ Có đủ giáo trình, vở ghi trên lớp, tài liệu tham khảo, giấy
nháp… phục vụ cho việc ôn tập.
+ Ôn tập sau mỗi bài học mà không chờ đến khi kết thúc
môn.
+ Diễn đạt, trình bày lại nội dung vấn đề ôn tập theo dàn ý
19
và theo cách hiểu của bản thân.
+ Chủ động trao đổi với giảng viên bộ môn hoặc bạn cùng
nhóm lớp những thắc mắc, khó hiểu gặp phải trong quá trình ôn
tập.
- Một số gợi ý để việc ôn tập đạt kết quả tốt:
+ Trước hết, sinh viên phải đọc giáo trình, vở ghi trên lớp,
các tài liệu tham khảo.
+ Hệ thống hóa cấu trúc của toàn bộ nội dung chương trình
và cấu trúc từng chương, bài, từng tiểu mục,… Điều này giúp
các em nhớ lại nội dung chủ yếu của toàn bộ chương trình cũng
như từng phần của môn học. Các em có thể nhớ lại bằng cách tự
đặt câu hỏi và tự trả lời.
Ví dụ: Ngoài chương mở đầu, nội dung chương trình, giáo
trình Môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
-Lênin được chia thành mấy phần? Mỗi phần có mấy chương?
Tên của Chương 1 trong Phần thứ nhất là gì ? Chương này gồm
có mấy nội dung? Mục I được đặt tên là gì? Mục này có những
nội dung nào?...
Các em hãy tự nhớ (không nhìn vào giáo trình, vở ghi, tài
liệu) và ghi lại câu trả lời của mình lên giấy nháp để sau đó tự
kiểm tra, đối chiếu với giáo trình, vở ghi. Chỗ nào quên các em
có thể xem lại giáo trình, vở ghi,… để bổ sung. Bằng cách này,
các em sẽ dần dần hệ thống hóa được những nội dung chính,
đồng thời phát hiện, bổ sung kịp thời những chỗ bị quên. Hoạt
động này nên lặp lại nhiều lần.
+ Môn học này có nhiều khái niệm, phạm trù có tính khái
quát, trừu tượng. Nếu không hiểu được những khái niệm, phạm
trù đó thì sẽ không thể hiểu được các nội dung tiếp theo, đặc biệt
là ở phần thứ nhất trong nội dung giáo trình. Do đó, các em cần

20
phải phân tích và nắm vững các khái niệm, phạm trù cơ bản của
mỗi chương, bài (xem Mục 1.6).
+ Đối với mỗi bài, mỗi nội dung cụ thể, các em cần phân
tích lại giáo trình, vở ghi để tìm ra trọng tâm, tập trung nắm
những ý chính dưới dạng dàn ý. Cố gắng tìm ra lôgíc trình bày
của các nội dung. Ví dụ: nội dung các nguyên lý, quy luật, các
cặp phạm trù của phần thứ nhất: Thế giới quan, phương pháp
luận triết học của chủ nghĩa Mác - Lênin luôn được cấu trúc
thành ba phần rất rõ: (1) Các khái niệm liên quan; (2) Mối quan
hệ biện chứng giữa các mặt, các hiện tượng,… được phản ánh
trong nguyên lý, quy luật, cặp phạm trù,…; (3) Ý nghĩa về mặt
phương pháp luận.
+ Sau khi đã nắm được một nội dung hoặc vấn đề nào đó,
các em hãy sắp xếp, trình bày lại nội dung, vấn đề đó theo cách
hiểu của mình một cách cô đọng, súc tích nhất.
+ Các em có thể mã hóa nội dung đó bằng các kí hiệu, chữ
viết, hình vẽ, sơ đồ… và trình bày lại trên giấy nháp hoặc vở ôn
tập. Các hình vẽ, sơ đồ,… cần phải đơn giản nhưng vẫn chứa đầy
đủ thông tin cốt lõi. Ứng dụng Sơ đồ tư duy (mind map) trong
quá trình ôn tập là một hướng mà các em nên quan tâm và áp
dụng. Vì với loại sơ đồ này, các em có thể nắm vấn đề một cách
hệ thống, nhớ nhanh, tri thức liên tục được bổ sung, làm giàu
thêm, khi cần sử dụng thông tin để diễn đạt, trình bày một vấn đề
gì đó (để làm bài thi chẳng hạn) sẽ huy động được rất nhanh, hệ
thống và ít bị nhầm lẫn.
+ Cần căn cứ vào mỗi nội dung, mỗi ý trong bài để đặt ra
các câu hỏi xoay quanh những nội dung đó và tự mình trả lời.
Đánh dấu những chỗ trả lời sai để khắc phục. Hoạt động này nên
lặp lại nhiều lần đến khi chắc chắn không còn sai sót.

21
+ Có thể áp dụng các cách ôn tập nói trên trong quá trình
học nhóm. Thay vì viết ra câu hỏi, dàn ý, sơ đồ hóa, câu trả lời,
… trên giấy nháp, vở ôn tập, các em có thể thay nhau đặt câu
hỏi, trả lời, trình bày sau đó đối chiếu với giáo trình, vở ghi để
bổ sung, chỉnh sửa, rút kinh nghiệm. Thông qua ôn tập theo
nhóm, các em có cơ hội để học hỏi, bổ sung cho nhau. Điều này
giúp cho việc ôn tập nhẹ nhàng, sinh động và hứng thú hơn.
+ Trong quá trình ôn tập, nếu nảy sinh những thắc mắc, có
nội dung chưa hiểu mà bản thân và các bạn trong nhóm, lớp
không thể trả lời cần phải trao đổi và nhờ giảng viên bộ môn để
có được câu trả lời chính xác.
* Làm bài thi (kiểm tra):
Nhà trường tổ chức các kì thi để đánh giá kết quả giảng dạy
của giảng viên và kết quả học tập của sinh viên. Thông qua kết
quả thi, giảng viên biết được kết quả học tập của nhóm lớp do
mình phụ trách. Trên cơ sở đó, giảng viên có những điều chỉnh
cần thiết về chuyên môn và nghiệp vụ giảng dạy. Thông qua kết
quả thi, sinh viên đánh giá được năng lực học tập của bản thân,
từ đó điều chỉnh ý thức, thái độ, phương pháp,… học tập sao cho
phù hợp.
Hiện nay, đối với khối sinh viên không chuyên ngành Mác
-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đa số các trường đại học, cao
đẳng áp dụng hình thức trắc nghiệm tự luận đối với bài thi các
môn Lý luận chính trị, trong đó có Môn học Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Khi làm bài thi theo hình thức
này, các em lưu ý một số gợi ý sau:
+ Bình tĩnh đọc kỹ đề thi. Lưu ý cơ số điểm, thời gian dành
cho từng câu.
+ Chọn những câu mình nắm chắc nhất hoặc chắc chắn trả

22
lời được để trả lời trước.
+ Trước khi viết câu trả lời chính thức vào giấy thi hãy
vạch dàn ý câu trả lời ra giấy nháp. Bằng cách này, các em vừa
có thể kiểm tra lại kiến thức của bản thân, vừa chọn được cách
trình bày phù hợp nhất cho câu trả lời của mình.
+ Khi trình bày phần trả lời trong giấy thi cần phải đủ các ý
cơ bản. Phải trình bày sao cho giáo viên khi chấm thi chỉ cần đọc
lướt là đã có thể nhận ra ngay bố cục của câu trả lời với những ý
cơ bản.
+ Chữ viết phải đúng chính tả, sạch sẽ, dễ đọc, trong bài thi
chỉ sử dụng một màu mực (không sử dụng màu mực đỏ).
+ Cần phân bổ thời gian hợp lý cho từng câu, từng nội
dung. Bảo đảm để không ảnh hướng đến thời gian làm các câu
khác gây tác động không tốt đến kết quả bài thi.
+ Khi trình bày phần trả lời, các em có thể đưa vào các sơ
đồ, hình vẽ liên quan nếu thấy cần thiết.
+ Trước khi nộp bài, cần dành vài phút xem lại bài thi để có
những sửa chữa, bổ sung hoặc điều chỉnh kịp thời.
1.5. Một số gợi ý cho quá trình tự học
Thực tế cho thấy, năng lực tự học của mỗi cá nhân chính là
một trong những yếu tố quyết định thất bại hay thành công của
mỗi người trong cuộc sống. Tự học là phương pháp học tập cơ
bản và suốt đời của mỗi người. Phương pháp tự học đúng đắn sẽ
giúp chúng ta thường xuyên làm mới chính mình, bổ sung, cập
nhật thêm tri thức và không ngừng tự hoàn thiện bản thân để
thích ứng với cuộc sống vốn luôn luôn biến đổi.
Khi các trường đại học, cao đẳng ở nước ta đang từng bước
chuyển sang đào tạo theo hệ thống tín chỉ thì việc tăng cường tự
học càng trở thành yêu cầu có tính bắt buộc đối với mỗi sinh
23
viên. Để nắm được kiến thức, kỹ năng của bài học thì tương ứng
với mỗi một giờ học có sự hướng dẫn của giáo viên ở trên lớp,
đòi hỏi mỗi sinh viên phải bỏ ra ít nhất từ 2 đến 4 giờ để tự học,
tự nghiên cứu, thực hành, vận dụng. Kết quả học tập, rèn luyện
của nhiều sinh viên hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu ngày
càng cao của xã hội là do nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể
đến ý thức tự giác và năng lực tự học của chính các em. Trong
quá trình tự học, khó khăn lớn nhất mà nhiều sinh viên gặp phải
chính là việc thiếu các kỹ năng tự học như: lập kế hoạch, kiểm
soát và quản lý quá trình tự học, sưu tầm và phân loại tài liệu học
tập, đánh giá kết quả tự học,…
Để việc tự học của bản thân đạt kết quả tốt, các em cần lưu
ý một số gợi ý sau:
- Bản thân các em phải có hứng thú và phải xác định rõ
động cơ học tập đối với môn học.
- Phải sưu tầm đầy đủ giáo trình, tài liệu, phương tiện hỗ
trợ cần thiết.
- Phải xây dựng một kế hoạch tự học cho bản thân theo
từng tuần, từng tháng, từng học kỳ và kiên trì thực hiện kế hoạch
đó.
- Phải tham gia đầy đủ, nghiêm túc các buổi học, các buổi
thảo luận trên lớp.
- Thường xuyên đọc để xử lý thông tin trong giáo trình, tài
liệu tham khảo.
- Có phương pháp nghe giảng và ghi chép khoa học ở trên
lớp.
- Tích cực tham gia các hoạt động thảo luận, thảo luận trên
lớp.
- Mạnh dạn trao đổi với giảng viên về những thắc mắc của
24
bản thân liên quan đến nội dung các bài học.
- Thường xuyên trao đổi và chia sẻ thông tin, tài liệu với
các bạn cùng nhóm, cùng lớp hoặc cùng khóa.
- Thường xuyên ôn tập một cách tích cực.
- Trong và sau mỗi quá trình học tập căng thẳng, cần sắp
xếp dành những khoảng thời gian nhất định cho việc thư giãn,
nghỉ ngơi một cách hợp lí. Không nên học một cách gượng ép, vì
học như vậy sẽ không có sự tập trung, mất thời gian và không
hiệu quả.
- Ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình tự học như
khai thác thông tin từ internet, trao đổi thông tin với giảng viên
hoặc với bạn học, ứng dụng các phần mềm như MS. Powerpoint,
MS.Frontpage, eXe e-Learning,… để trình bày các chủ đề thảo
luận.
- Thường xuyên tự kiểm tra, tự đánh giá kết quả học tập
của bản thân để kịp thời có những điều chỉnh cho phù hợp.
1.6. Học khái niệm, phạm trù trong môn Những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
Một trong những điều khiến nhiều em sinh viên lo lắng khi
học Môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
-Lênin chính là việc tiếp cận hệ thống khái niệm, phạm trù của
môn học này. Những khái niệm, phạm trù của môn học rất khái
quát, trừu tượng nên rất khó hiểu, nhất là những khái niệm, phạm
trù trong Phần thứ nhất: Thế giới quan, phương pháp luận triết
học của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong quá trình học tập, nhiều
em đã bỏ ra rất nhiều thời gian để học thuộc những khái niệm,
phạm trù này theo kiểu “học vẹt” mà không hiểu được nội dung
của những khái niệm, phạm trù đó. Điều này không chỉ làm các
em mất thời gian mà không đem lại hiệu quả như mong muốn.

25
Do đó, để góp phần học tốt môn học này, các em cần biết cách
học để nắm vững hệ thống khái niệm, phạm trù của môn học.
* Khái niệm và phạm trù:
- Khái niệm là một hình thức cơ bản của tư duy, nó phản
ánh các dấu hiệu, thuộc tính, những mối liên hệ chung, bản chất
nhất của sự vật, hiện tượng.
- Phạm trù là những khái niệm rộng nhất, phản ánh những
dấu hiệu, những thuộc tính, những mối liên hệ chung nhất, cơ
bản nhất của các sự vật, hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất
định.
* Cấu trúc lôgíc của khái niệm:
Bất cứ một khái niệm nào cũng bao hàm hai bộ phận hợp
thành: nội hàm và ngoại diên.
- Nội hàm của khái niệm là tập hợp các dấu hiệu cơ bản,
đặc trưng của đối tượng được phản ánh trong khái niệm. Nó trả
lời câu hỏi “nó là cái gì ?”.
Ví dụ: với khái niệm “chất” (Chất là phạm trù triết học
dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện
tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó,
phân biệt nó với các sự vật, hiện tượng khác), chúng ta thấy có 3
dấu hiệu cơ bản trong nội hàm của khái niệm “chất”:
(1). Chất tồn tại trong các sự vật, hiện tượng một cách
khách quan, không do ai áp đặt.
(2). Là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính (tổng hợp các
thuộc tính) của sự vật.
(3). Là căn cứ để phân biệt các sự vật, hiện tượng.
- Ngoại diên của khái niệm là tập hợp những sự vật, hiện
tượng chứa đựng những dấu hiệu phản ánh trong nội hàm khái
niệm. Nó trả lời câu hỏi “nó gồm những gì ?”.
26
Ví dụ: ngoại diên của khái niệm “chất” là tất cả những đối
tượng nào có 3 dấu hiệu cơ bản đã được chỉ ra ở trên.
* Gợi ý cách học khái niệm, phạm trù của Môn học Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin:
- Để nhận biết nội hàm của khái niệm, phạm trù, sinh viên
cần:
+ Đọc thật kỹ khái niệm nhiều lần.
+ Tìm hiểu vị trí, vai trò của khái niệm, phạm trù đang học
trong nội dung bài học, môn học.
+ Trong một số trường hợp cần tìm hiểu xem khái niệm,
phạm trù đó được định nghĩa theo phương pháp nào? Chẳng hạn,
để hiểu định nghĩa phạm trù vật chất của V.I.Lênin, các em cần
tìm hiểu phương pháp mà V.I.Lênin đã sử dụng để định nghĩa
phạm trù này.
Thứ nhất, V.I.Lênin đã quy vật chất về phạm trù triết học -
xem xét dưới góc độ triết học (để tránh việc đồng nhất vật chất
với những dạng cụ thể).
Thứ hai, khi định nghĩa vật chất, V.I.Lênin đã đặt “vật chất”
trong mối quan hệ với “ý thức” (cảm giác) để một mặt vừa giải
quyết nội dung vấn đề cơ bản của triết học, mặt khác làm nổi bật
các thuộc tính cơ bản của vật chất.
+ Làm rõ và nắm vững các khái niệm, thuật ngữ liên quan
trong nội dung của khái niệm, phạm trù.
Ví dụ: để tìm hiểu phạm trù "hình thái kinh tế - xã hội"
(“Hình thái kinh tế - xã hội dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn
lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho
xã hội đó phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của lực
lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được
xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy), các em phải hiểu và
27
nắm vững các khái niệm liên quan như: “quan hệ sản xuất”, “lực
lượng sản xuất”, “kiến trúc thượng tầng”,…
+ Theo dõi cách phân tích, giảng giải về khái niệm đó của
giảng viên khi học ở trên lớp.
+ Phân tích nội dung của khái niệm và liệt kê ra những dấu
hiệu, thuộc tính cơ bản của đối tượng được phản ánh trong khái
niệm, phạm trù đó.
Ví dụ: với khái niệm "hàng hóa" (Hàng hóa là sản phẩm
lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông
qua trao đổi mua bán). Khi phân tích khái niệm này ta sẽ thấy
một đối tượng để trở thành hàng hóa phải có 3 dấu hiệu cơ bản:
(i) là sản phẩm lao động; (ii) có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của
con người (phải có công dụng); và (iii) phải được đem ra trao đổi
mua bán trên thị trường.
+ Tìm từ trong cuộc sống những biểu hiện hoặc ví dụ có
liên hệ đến mỗi dấu hiệu, thuộc tính đó (tiếp cận nội hàm của
khái niệm).
- Để nắm vững khái niệm, sinh viên cần:
+ Trên cơ sở các dấu hiệu, đặc trưng (nội hàm) của khái
niệm đã được nhận biết hãy mã hóa hoặc sơ đồ hóa nội dung của
khái niệm, phạm trù một cách đơn giản.
+ Hãy định nghĩa lại khái niệm, phạm trù đó một cách đơn
giản theo ý hiểu của bản thân. Ví dụ: sau khi phân tích phương
pháp và nội dung định nghĩa phạm trù “vật chất" của V.I.Lênin,
chúng ta có thể định nghĩa lại một cách ngắn gọn “vật chất là
toàn bộ những gì đang tồn tại khách quan với ý thức và có thể
nhận thức được bằng cảm giác (hay còn gọi là thuộc tính phản
ánh)”.
+ Tìm trong cuộc sống và liệt kê ra những sự vật có những
28
dấu hiệu, thuộc tính giống với những dấu hiệu, thuộc tính của
đối tượng được phản ánh trong khái niệm, phạm trù (tiếp cận
ngoại diên của khái niệm).
- Để phát triển khái niệm, phạm trù đã học, sinh viên cần:
+ Đặt khái niệm, phạm trù đang học trong mối liên hệ với
các khái niệm, phạm trù hoặc nội dung đã học trước đó và sẽ học
sau đó.
+ Sử dụng khái niệm, phạm trù để thử liên hệ, lý giải một
số hiện tượng trong cuộc sống.
+ Tự rút ra ý nghĩa phương pháp luận từ việc nghiên cứu
khái niệm, phạm trù đó.
1.7. Ứng dụng công nghệ thông tin trong học tập Môn
học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
* Khai thác thông tin:
Hiện nay, mạng internet là một kênh thông tin khổng lồ có
khả năng cung cấp thông tin vô cùng phong phú, đa dạng. Khai
thác internet phục vụ cho việc học sẽ mang lại nhiều hiệu quả
thiết thực. Với các thông tin có nội dung thiết thực, cần thiết cho
việc học Môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin, chúng ta có thể tải về để làm tư liệu phục vụ quá trình học
tập hoặc đưa vào thư viện dự trữ, khi cần có thể dùng đến. Thông
tin trên internet rất phong phú đến từ nhiều nguồn khác nhau nên
rất khó kiểm chứng, Điều này đòi hỏi chúng ta phải xử lý, “gạn
đục khơi trong” để có được những thông tin chính xác, tin cậy và
khoa học. Vì không phải thông tin nào cũng có thể được tìm thấy
trên internet, nên trong quá trình học tập, bên cạnh việc khai thác
nguồn thông tin từ internet các em cần phải tích cực tìm kiếm
thông tin từ các nguồn khác như các thư viện, nhà sách,…
* Lưu trữ và trao đổi thông tin:
29
- Sự phát triển của công nghệ thông tin đã mang lại cho
người học những tiện ích trong việc khai thác thông tin. Ngoài
ra, nó còn mang lại cho người học những công cụ và phương tiện
lưu trữ, cất giữ, bảo quản thông tin rất hiệu quả. Người học có
thể tạo ra những thư viện mở cho riêng mình. Để lưu trữ thông
tin một cách hiệu quả, cần lưu ý:
+ Trang bị đủ các thiết bị, phương tiện lưu chứa thông tin
như ổ cứng, USB, đĩa CD, VCD, DVD,….
+ Phân loại, sắp xếp các tài liệu một cách khoa học để tiện
cho việc bổ sung, tra cứu.
- Sự phát triển mạnh mẽ của internet và các công cụ thảo
luận điện tử, các công cụ soạn thảo website, chat, tạo diễn đàn,…
đã mở ra cho người học nhiều cơ hội học hỏi, trao đổi thông tin
hiệu quả. Thông qua các công cụ này, sinh viên có thể trực tiếp
trao đổi với giảng viên và những người khác về những vấn đề mà
các em quan tâm liên quan đến nội dung môn học. Trong quá
trình tranh luận, trao đổi trên các diễn đàn các em phải tuân thủ
nội quy diễn đàn và chịu trách nhiệm về những phát ngôn cũng
như thông tin do mình cung cấp.
* Ứng dụng để soạn và trình diễn các bài báo cáo:
Ngày nay, do sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông
tin, các phần mềm có thể ứng dụng trong dạy và học ngày càng
nhiều. Sinh viên có thể ứng dụng các phần mềm như MS.
Powerpoint, MS.Frontpage, eXe e-Learning,… để phục vụ việc
học tập một cách hiệu quả. Trong các phần mềm nói trên, MS.
Powerpoint được đánh giá là một trong những phần mềm ứng
dụng để viết và trình diễn các báo cáo rất hiệu quả.
MS. Powerpoint là phần mềm tiện ích có thể tạo ra các
công cụ trình diễn có minh họa như các bản trình diễn (slide

30
show) trên màn hình vi tính thể hiện dưới nhiều dạng: văn bản
(text), đồ hoạ (graphics), ảnh chụp (image), hoạt ảnh
(animation), dạng video audio với màu sắc, hình ảnh đẹp, gây ấn
tượng và hấp dẫn. Đặc biệt, với chức năng tạo các "slide show"
hay còn gọi là các "trang trình diễn", PowerPoint được sử dụng
rất nhiều trong việc tạo ra các báo cáo khoa học, các bài trình
bày đa phương tiện hấp dẫn. MS. PowerPoint có thể ứng dụng
trong học Môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin vì nó có một số ưu thế như:
- Giao diện đẹp, hiệu ứng hình ảnh, âm thanh, màu sắc
phong phú.
- Cho phép chèn hình ảnh hay video clip và tạo lập sơ đồ,
biểu đồ, mô hình trên một phông nền có màu sắc hài hòa hỗ trợ
người trình bày trong việc giải thích, mở rộng, liên kết kiến thức.
- Cho phép kết nối từng nội dung trong bài để tạo thành
một chương trình lôgíc giúp cho bài trình bày bảo đảm được tính
hệ thống, khoa học. Đồng thời, cho phép tạo một trình diễn các
hình ảnh, kí tự tiếp nối liên tục theo những hiệu ứng khác nhau
để tạo thành trang viết động.
- PowerPoint có khả năng tích hợp tốt cùng một lúc nhiều
chức năng khác nhau như: chức năng mô hình hóa, chức năng
thông tin, chức năng điều khiển và định hướng thông tin, chức
năng luyện tập và thực hành, chức năng thiết kế, kiểm tra đánh
giá ...
Hiện nay, việc ứng dụng eXe e-Learning trong học tập Môn
học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng
bắt đầu được nhiều sinh viên hưởng ứng. Phần mềm này với các
công cụ soạn bài báo cáo, công cụ mô phỏng, công cụ tạo bài
kiểm tra, các công cụ tạo bài trình bày có multimedia và các

31
công cụ thảo luận điện tử, công cụ soạn thảo website, chat, tạo
diễn đàn,… sẽ thúc đẩy tính tương tác, đối thoại và cộng tác giữa
người học với người dạy, giữa người học với người học. Điều
này giúp cho việc học tập trở nên linh hoạt, hợp lí hơn, tạo điều
kiện thúc đẩy việc tự học, tự nghiên cứu thuận lợi hơn.
Nếu cần ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình tạo
lập các bản đồ tư duy, các em có thể sử dụng các phần mềm như
Free Mind, Mindomo, Buzan's iMindMap, Mindjet
Mindmanager, Inspiration, Visual Mind…
1.8. Ứng dụng bản đồ tư duy (mind map) trong quá trình
học tập Môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin
Ý tưởng và phương pháp sử dụng bản đồ tư duy (mind
map) được vạch ra bởi Tony Buzan (sinh năm 1942).
* Bản đồ tư duy là gì?
Bản đồ tư duy là phương pháp được đưa ra để tận dụng khả
năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi
tiết, tổng hợp hay để phân tích một vấn đề dưới dạng lược đồ
phân nhánh. Khác với máy tính, ngoài khả năng ghi nhớ kiểu
tuyến tính (ghi nhớ theo một trình tự nhất định giống như trình tự
biến cố xuất hiện của 1 câu truyện) thì não bộ còn có khả năng
tạo sự liên kết giữa các dữ kiện với nhau. Phương pháp này khai
thác cả hai khả năng này của bộ não. Tùy theo cách tiếp cận mà
có những cách diễn đạt khác nhau về bản đồ tư duy như:
- Bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng nhiều
màu sắc và hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Ý
tưởng hay hình ảnh trung tâm này sẽ được phát triển bằng các
nhánh tượng trưng cho những ý chính và đều được nối với ý
trung tâm (Tony Buzan).

32
Trong cuốn sách Sử dụng Bản đồ tư duy trong công việc,
nhóm Tư duy mới (New Thinking Group) đã đưa ra quan niệm cụ
thể và đầy đủ hơn: bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử
dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng, đào sâu các ý tưởng. Ở giữa
bản đồ là một ý tưởng hay hình ảnh trung tâm. Ý tưởng hay hình
ảnh trung tâm này sẽ được phát triển bằng các nhánh tượng trưng
cho những ý chính và đều được nối với ý trung tâm. Các nhánh
chính lại được phân thành những nhánh nhỏ nhằm nghiên cứu
chủ đề ở mức độ sâu hơn nữa. Nhờ sự kết nối giữa các nhánh mà
các ý tưởng cũng có sự liên kết dựa vào mối liên hệ của bản thân
các ý. Điều này khiến bản đồ tư duy có thể bao quát được các ý
tưởng trên một phạm vi sâu rộng mà một bản liệt kê các ý tưởng
thông thường không thể làm được.
Mặc dù diễn đạt khác nhau nhưng tất cả các quan niệm trên
đều hướng đến một kết luận chung là: bản đồ tư duy là công cụ
tổ chức tư duy, giúp con người làm việc khoa học, sáng tạo.
* Cấu trúc của bản đồ tư duy:
Một cách điển hình, bản đồ tư duy có cấu trúc như sau:

Cấu trúc bản đồ tư duy


Không giống như cách viết thông thường, bản đồ tư duy
không xuất phát từ trái sang phải và từ trên xuống dưới theo kiểu
truyền thống. Thay vào đó, bản đồ tư duy được vẽ, viết và đọc
33
theo hướng bắt nguồn từ trung tâm di chuyển ra phía ngoài và
sau đó là theo chiều kim đồng hồ.
Bản đồ tư duy có cấu tạo như một cái cây có nhiều nhánh
lớn, nhỏ mọc xung quanh. "Cái cây" ở giữa bản đồ là một ý
tưởng chính hay hình ảnh trung tâm. Nối với nó là các nhánh lớn
thể hiện các vấn đề liên quan với ý tưởng chính. Các nhánh lớn
sẽ được phân thành nhiều nhánh nhỏ, rồi nhánh nhỏ hơn, nhánh
nhỏ hơn nữa nhằm thể hiện chủ đề ở mức độ sâu hơn. Sự phân
nhánh cứ thế tiếp tục và các kiến thức, hình ảnh luôn được nối
kết với nhau. Sự liên kết này tạo ra một "bức tranh tổng thể" mô
tả ý tưởng trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng.
* Cách đọc thông tin trong bản đồ tư duy

Bốn kết cấu chính I, II, III, IV trong bản đồ phía trên được
gọi là các nhánh chính. Bản đồ tư duy này có bốn nhánh chính vì
nó có bốn tiêu đề phụ. Số tiêu đề phụ là số nhánh chính. Đồng
thời các nhánh chính của bản đồ tư duy được đọc theo chiều kim
đồng hồ, bắt nguồn từ nhánh I tới nhánh II, rồi nhánh III và cuối
cùng là nhánh IV.
Các từ khóa được viết và đọc theo hướng từ trên xuống
dưới trong cùng một nhánh chính.
* Những lợi ích mà bản đồ tư duy mang lại cho chúng ta
trong học tập:
34
- Giúp chúng ta nhìn thấy "bức tranh tổng thể", nắm vấn đề
một cách hệ thống.
- Giúp chúng ta phát hiện và giải quyết tốt các vấn đề nảy
sinh trong quá trình học tập.
- Giúp chúng ta truyền đạt thông tin đến mọi người một
cách hiệu quả.
- Kích hoạt trí sáng tạo.
- Hỗ trợ khả năng ghi nhớ.
- Tiết kiệm thời gian học tập.
- Tạo ra sự tự tin, hứng thú và niềm say mê trong học tập.
* Các bước tạo lập bản đồ tư duy:
Sinh viên có thể tham khảo hướng dẫn về cách tạo lập bản
đồ tư duy của Adam Khoo trong cuốn sách Tôi tài giỏi, bạn cũng
thế ! (Dịch giả Trần Đăng Khoa - Uông Xuân Vy, Nxb. Phụ Nữ,
xuất bản năm 2010) hoặc hướng dẫn của Tony Buzan trong cuốn
sách Lập bản đồ tư duy (Dịch giả Nguyễn Thế Anh, Nxb. Lao
động - Xã hội, xuất bản năm 2010). Theo Adam Khoo, bản đồ tư
duy có thể được tạo lập qua 4 bước sau:
Bước 1. Vẽ chủ đề ở trung tâm.
- Cần vẽ chủ đề ở trung tâm để từ đó phát triển ra các ý
khác.
- Có thể tự do sử dụng tất cả màu sắc mà bạn thích.
- Không nên đóng khung hoặc che chắn mất hình vẽ chủ đề
vì chủ đề cần được làm nổi bật dễ nhớ.
- Có thể bổ sung từ ngữ vào hình vẽ chủ đề nếu chủ đề
không rõ ràng.
- Khi vẽ cần điều chỉnh kích cỡ của chủ đề cho phù hợp.
Bước 2. Vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm.

35
- Các tiêu đề phụ cần được bố trí đều quanh hình ảnh trung
tâm.
- Tiêu đề phụ nên được viết bằng chữ IN HOA nằm trên các
nhánh dày để làm nổi bật, hoặc được viết bằng màu mực khác
với chủ đề trung tâm.
- Tiêu đề phụ được vẽ gắn liền với trung tâm.
- Tiêu đề phụ nên được vẽ theo hướng chéo góc (chứ không
nằm ngang) để nhiều nhánh phụ khác có thể được vẽ tỏa ra một
cách dễ dàng.
- Để các nhánh của bản đồ tư duy có độ cong tự nhiên
Bước 3. Vẽ thêm các ý chính và các chi tiết hỗ trợ cho các
tiêu đề phụ.
- Chỉ nên tận dụng các từ khóa và hình ảnh.
- Bất cứ lúc nào có thể, hãy dùng những biểu tượng, cách
viết tắt để tiết kiệm không gian vẽ và thời gian.
- Mỗi từ khóa, hình ảnh nên được vẽ trên một đoạn gấp
khúc riêng trên nhánh. Trên mỗi đoạn nên chỉ có tối đa một từ
khóa. Việc này giúp cho nhiều từ khóa mới và những ý khác
được nối thêm vào các từ khóa sẵn có một cách dễ dàng (bằng
cách vẽ nối ra từ một đoạn).
- Tất cả các nhánh của một ý nên tỏa ra từ một điểm và nên
có cùng một màu.
- Thay đổi màu sắc khi đi từ một ý chính ra đến các ý phụ
cụ thể hơn.
Bước 4. Có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan
trọng thêm nổi bật, cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn
(lưu ý: việc sử dụng màu sẽ nâng cao chất lượng và vận tốc ghi
nhớ).
Chúng ta có thể tạo lập bản đồ tư duy bằng phương pháp
36
thủ công hoặc có thể sử dụng các phần mềm như Mindjet
Mindmanager, Buzan's iMindMap, Free Mind, Mindomo,
Inspiration, Visual Mind… để tạo lập các bản đồ tư duy.
Các em nên ứng dụng bản đồ tư duy trong quá trình học tập
(ghi chép, ôn tập) Môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Việc sử dụng bản đồ tư duy trong quá trình
học tập chắc chắn sẽ mang lại cho các em nhiều niềm vui, hứng
thú với những kết quả tích cực.
2. Giới thiệu giáo trình, tài liệu phục vụ cho việc học
tập, nghiên cứu Môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin
- Chương trình Môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
- Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
-Lênin do Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo biên soạn, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia - Sự thật xuất bản.
- Tài liệu tham khảo: Giáo trình các môn học Triết học Mác
-Lênin, Kinh tế chính trị Mác-Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa
học do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức biên soạn, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2007.
- Các tài liệu phục vụ dạy và học chương trình Lý luận
chính trị do Bộ Giáo dục và Đào tạo trực tiếp chỉ đạo, tổ chức
biên soạn.

37
Phần hai
CÂU HỎI - BÀI TẬP

Chương mở đầu
Nhập môn những nguyên lí cơ bản của Chủ
nghĩa Mác - Lê nin

Bài tập 1
a. Chủ nghĩa Mác - Lênin là gì và được cấu thành từ
những bộ phận lý luận cơ bản nào?
b. Bộ phận lý luận cơ bản nào giữ vai trò là cơ sở nền tảng
cho toàn bộ hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin?
Gợi ý trả lời:
a. Chủ nghĩa Mác - Lênin “là hệ thống quan điểm và học
thuyết” khoa học do C.Mác, Ph.Ăngghen xây dựng, V.I.Lênin
bảo vệ và phát triển; là sự kế thừa và phát triển những giá trị tư
tưởng của nhân loại, trên cơ sở thực tiễn của thời đại; là thế giới
quan và phương pháp luận phổ biến của nhận thức khoa học và
thực tiễn cách mạng; là khoa học về sự nghiệp giải phóng giai
cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi chế độ áp
bức, bóc lột và tiến tới giải phóng con người.
Chủ nghĩa Mác - Lênin được cấu thành từ ba bộ phận lý
luận cơ bản: Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị học Mác -
Lênin và Chủ nghĩa xã hội khoa học, trong đó:
- Triết học Mác - Lênin là bộ phận nghiên cứu những quy
luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư
duy nhằm xây dựng thế giới quan và phương pháp luận chung

38
nhất của nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng.
- Kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu những quy luật
kinh tế của xã hội, đặc biệt là nghiên cứu những quy luật kinh tế
của sự phát sinh, phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của
phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu làm sáng tỏ những
quy luật khách quan của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa,
sự chuyển biến lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
và tiến tới chủ nghĩa cộng sản.
b. Ba bộ phận lý luận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin có
đối tượng nghiên cứu cụ thể khác nhau nhưng đều nằm trong hệ
thống lý luận khoa học thống nhất - đó là khoa học về sự nghiệp
giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng nhân dân lao động khỏi
chế độ áp bức, bóc lột, tiến tới giải phóng con người. Trong đó,
Triết học Mác - Lênin được coi là bộ phận giữ vai trò là cơ sở
nền tảng cho toàn bộ hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin.

Bài tập 2
a. Phân tích những điều kiện, tiền đề dẫn đến sự ra đời chủ
nghĩa Mác.
b. Cho biết điều kiện, tiền đề giữ vai trò quan trọng nhất
đối với sự ra đời của chủ nghĩa Mác? Tại sao?
Gợi ý trả lời:
a. Những điều kiện, tiền đề dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa
Mác
- Điều kiện kinh tế - xã hội:
+ Về mặt kinh tế: Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40
thế kỷ XIX. Đây là thời kỳ phương thức sản xuất tư bản chủ
39
nghĩa ở các nước Tây Âu đã phát triển mạnh mẽ trên cơ sở
những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp. Cuộc cách
mạng công nghiệp đánh dấu sự chuyển biến từ nền sản xuất thủ
công tư bản chủ nghĩa sang nền sản xuất đại công nghiệp tư bản
chủ nghĩa; đồng thời làm cho mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất
mang tính xã hội hoá với quan hệ sản xuất mang tính tư nhân tư
bản chủ nghĩa ngày càng trở nên gay gắt (bộc lộ qua cuộc khủng
hoảng kinh tế năm 1825).
+ Về mặt xã hội: Cuộc cách mạng công nghiệp cùng với sự
phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã tạo ra
những thay đổi sâu sắc cục diện xã hội, nhất là sự hình thành và
phát triển của giai cấp vô sản. Mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa
lực lượng sản xuất mang tính xã hội hoá với quan hệ sản xuất
mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa biểu hiện về mặt xã hội
thành mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Điều
này thể hiện qua phong trào đấu tranh mạnh mẽ của giai cấp vô
sản chống lại sự áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản, tiêu biểu là
cuộc khởi nghĩa của thợ thuyền ngành dệt thành phố Lyông
(Pháp) năm 1831, 1834; Phong trào Hiến chương ở nước Anh
(1835-1848), khởi nghĩa của những người thợ dệt ở Xilêdi (Đức)
năm 1844, v.v.. Thực tiễn của những cuộc đấu tranh nói trên đã
đặt ra một nhu cầu khách quan, bức thiết, đó là phải trang bị cho
giai cấp vô sản một hệ thống lý luận cách mạng và khoa học.
- Tiền đề lý luận:
+ Triết học cổ điển Đức với các đại biểu xuất sắc như
I.Cantơ (1724-1804), L.Phoiơbắc (1804-1872) và Hêghen (1770-
1831) đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành thế giới quan
và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác. Phép biện
chứng duy tâm của Hêghen và chủ nghĩa duy vật, vô thần của

40
L.Phoiơbắc được coi là tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật của
chủ nghĩa Mác - Lênin.
+ Kinh tế chính trị cổ điển Anh với các đại biểu tiêu biểu
như A.Xmít, Đ.Ricácđô. Kinh tế chính trị cổ điển Anh đã xây
dựng lý luận giá trị của lao động, đưa ra kết luận quan trọng về
nguồn gốc của giá trị và nguồn gốc của lợi nhuận, chỉ ra các quy
luật kinh tế khách quan… đã trở thành tiền đề lý luận quan trọng
cho sự ra đời của lý luận về kinh tế chính trị - một trong ba bộ
phận lý luận cơ bản cấu thành chủ nghĩa Mác.
+ Chủ nghĩa xã hội không tưởng với các đại biểu xuất sắc
như H.Xanh Ximông (1976-1725), S.Phuriê (1772-1837),
R.Ôoen (1771-1858). Chủ nghĩa xã hội không tưởng với tinh
thần nhân đạo sâu sắc, phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa tư bản, đưa
ra những quan điểm đúng đắn về quá trình phát triển của lịch sử,
những dự đoán về các đặc trưng cơ bản của xã hội tương lai… đã
trở thành tiền đề lý luận quan trọng cho sự ra đời của lý luận
khoa học về chủ nghĩa xã hội (chủ nghĩa xã hội khoa học) trong
chủ nghĩa Mác.
- Tiền đề khoa học tự nhiên:
+ Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Đây là cơ
sở khoa học để khẳng định rằng vật chất và vận động của vật
chất không do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt. Chúng chỉ
chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác thông qua quá trình vận
động.
+ Thuyết tiến hóa của Đácuyn (năm 1859) đã đem lại cơ sở
khoa học về sự phát sinh, phát triển đa dạng bởi tính di truyền,
biến dị và mối liên hệ hữu cơ giữa các loài thực vật, động vật
trong quá trình chọn lọc tự nhiên.

41
+ Thuyết tế bào do nhà thực vật học M.J. Slaiđen phát hiện
năm 1838 và nhà động vật học T.Svannơ phát triển năm 1839.
Những phát hiện nêu trên đã chỉ ra sự thống nhất về mặt
nguồn gốc hình thái của các loài sinh vật, vạch ra quá trình biện
chứng của sự vận động, phát triển, chuyển hoá không ngừng của
thế giới các sự vật, hiện tượng.
b. Đối với sự ra đời của chủ nghĩa Mác, điều kiện kinh tế -
xã hội giữ vai trò quan trọng nhất, vì đó chính là cơ sở, nguồn
gốc và động lực cơ bản trực tiếp thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa
Mác.

Bài tập 3
a. Khái quát các giai đoạn hình thành và phát triển của
chủ nghĩa Mác - Lênin.
b. Quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn
cách mạng nước ta từ năm 1930 đến nay có đóng góp gì cho quá
trình phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin?
Gợi ý trả lời:
a. Chủ nghĩa Mác - Lênin được hình thành và phát triển
qua ba giai đoạn lớn sau đây:
- Giai đoạn hình thành và phát triển do C.Mác, Ph.Ăngghen
thực hiện:
+ Thời kỳ 1842-1848
Trong thời kỳ này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa một
cách có phê phán những tinh hoa của chủ nghĩa duy vật và phép
biện chứng để xây dựng nên thế giới quan duy vật biện chứng và
phép biện chứng duy vật. Các ông đã đề xuất những nguyên lý
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa xã hội khoa học và
bước đầu thể hiện tư tưởng về giá trị thặng dư. Sự ra đời tác
42
phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (năm 1848) đã đánh dấu
cho sự hình thành về cơ bản của chủ nghĩa Mác. Trong tác phẩm
này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra quy luật vận động của lịch
sử, thể hiện tư tưởng cơ bản về lý luận hình thái kinh - tế xã hội,
về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Với các quan điểm này, C.Mác
và Ph.Ăngghen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.
+ Thời kỳ 1849-1895:
Đây là thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục phát triển,
hoàn thiện của chủ nghĩa Mác. Trong giai đoạn này, cùng với các
hoạt động thực tiễn, trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa duy vật lịch
sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nghiên cứu một cách toàn diện
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Trên cơ sở phát hiện ra phạm trù hàng hóa sức lao động,
C.Mác đã tìm ra nguồn gốc của giá trị thặng dư, chỉ ra bản chất
bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Lý luận về giá trị thặng dư được
C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày toàn diện, sâu sắc trong bộ Tư
bản. Tác phẩm này không chỉ mở đường cho sự hình thành hệ
thống lý luận kinh tế chính trị mới trên lập trường giai cấp vô sản
mà còn củng cố, phát triển quan điểm duy vật lịch sử thông qua
lý luận hình thái kinh tế - xã hội, làm cho quan điểm duy vật về
lịch sử không còn là một giả thuyết mà là một nguyên lý đã được
chứng minh một cách khoa học. Bộ Tư bản còn là tác phẩm chủ
yếu và cơ bản trình bày về chủ nghĩa xã hội khoa học thông qua
việc làm sáng tỏ quy luật hình thành, phát triển và diệt vong tất
yếu của chủ nghĩa tư bản, sự thay thế nó bằng chủ nghĩa xã hội
và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Bên cạnh đó, thông
qua nhiều công trình nghiên cứu khác, C.Mác và Ph.Ăngghen
tiếp tục phát triển tư tưởng về chủ nghĩa duy vật lịch sử, về cách
mạng vô sản, về nhà nước chuyên chính vô sản, về thời kỳ quá

43
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, các giai đoạn xây
dựng chủ nghĩa cộng sản…
- Giai đoạn V.I.Lênin bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác:
+ Thời kỳ 1893 – 1907: V.I.Lênin đã nghiên cứu và đứng
vững trên lập trường khoa học của chủ nghĩa Mác, phê phán
những sai lầm trong việc nghiên cứu, vận dụng chủ nghĩa Mác ở
nước Nga.
+ Thời kỳ 1907 – 1917: V.I.Lênin tiếp tục nghiên cứu và
phát triển chủ nghĩa Mác. Ông đã tổng kết các thành tựu mới
trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, đưa ra định nghĩa kinh điển về
vật chất; giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập
trường duy vật khoa học, hoàn thiện lý luận nhận thức. Bảo vệ
nguồn gốc lịch sử, bản chất và kết cấu của chủ nghĩa Mác, tiếp
tục bổ sung, hoàn thiện phép biện chứng duy vật, phát triển tư
tưởng về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về nhà nước và chuyên
chính vô sản, về cách mạng xã hội, vai trò của Đảng Cộng sản và
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội,…
+ Thời kỳ từ sau Cách Mạng Tháng Mười Nga năm 1917
đến năm 1924: Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga,
V.I.Lênin tiếp tục vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào thực tiễn
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga. Từ những vấn
đề nảy sinh trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác vào điều
kiện cụ thể của nước Nga Xôviết, V.I.Lênin tiếp tục bổ sung,
phát triển thêm nhiều nội dung, luận điểm mà thời kỳ C.Mác,
Ph.Ăngghen trước đó chưa đặt ra như chống chủ nghĩa chiết
trung và thuyết ngụy biện; phát triển học thuyết Mác về nhân tố
quyết định thắng lợi của một chế độ xã hội, về giai cấp, về hai
nhiệm vụ cơ bản của giai cấp vô sản, về chiến lược, sách lược
của đảng vô sản trong điều kiện lịch sử mới, về thời kỳ quá độ

44
lên chủ nghĩa xã hội, về kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội,…
- Giai đoạn từ sau khi V.I.Lênin mất (năm 1924) đến nay:
Trong giai đoạn này, các Đảng Cộng sản và công nhân
quốc tế, các nhà tư tưởng và các nhà lý luận của chủ nghĩa Mác
tiếp tục nghiên cứu, bảo vệ, bổ sung, vận dụng, phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin cho phù hợp với thực tiễn cách mạng ở mỗi
nước trong thời kỳ mới.
b. Quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn
cách mạng nước ta từ năm 1930 đến nay đã có những đóng góp
nhất định cho sự phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bởi vì,
quá trình vận dụng đó cũng chính là quá trình tiếp tục bảo vệ, bổ
sung, hoàn thiện và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều
kiện thực tiễn ở Việt Nam.

45
Phần thứ nhất :
THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP
LUẬN TRIẾT HỌC của Chủ nghĩa Mác Lê
nin
Chương I
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG

Bài tập 4
a. Triết học là gì? Khái quát nội dung vấn đề cơ bản của
triết học.
b. Tại sao mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được coi là
vấn đề cơ bản của triết học?
c. Việc giải quyết nội dung vấn đề cơ bản của triết học đã
dẫn đến sự xuất hiện những trường phái triết học nào?
Gợi ý trả lời:
a. Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con
người về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con người
trong thế giới đó.
Theo Ph.Ăngghen: "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học,
đặc biệt là của triết học hiện đại, là mối quan hệ giữa tư duy và
tồn tại”1. Nói cách khác, vấn đề cơ bản của triết học chính là vấn
đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Nội dung vấn đề cơ bản của triết học gồm có hai mặt:
- Mặt thứ nhất, trả lời câu hỏi giữa ý thức và vật chất thì cái
nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào?
- Mặt thứ hai, trả lời câu hỏi con người có khả năng nhận

1
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.21, tr.403.
46
thức thế giới hay không?
b. Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức được coi là vấn đề
cơ bản của triết học là vì đây là vấn đề trọng tâm, xuyên suốt và
chi phối toàn bộ tiến trình phát triển của lịch sử triết học; cách
giải quyết nội dung vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở, tiêu chí
để xác định lập trường, quan điểm và phân biệt các trường phái
triết học khác nhau trong lịch sử.
c. Căn cứ vào cách giải quyết vấn đề cơ bản của triết học để
nhận diện các trường phái triết học.
- Việc giải quyết mặt thứ nhất trong nội dung vấn đề cơ bản
của triết học đã dẫn đến sự đối lập và cuộc đấu tranh gay gắt
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, trong đó:
+ Chủ nghĩa duy vật cho rằng bản chất của thế giới là vật
chất; vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ hai; vật chất có
trước ý thức và quyết định ý thức. Chủ nghĩa duy vật có 3 hình
thức cơ bản là chủ nghĩa duy vật chất phác thời cổ đại, chủ nghĩa
duy vật siêu hình thời cận đại và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
+ Chủ nghĩa duy tâm cho rằng bản chất của thế giới là tinh
thần; ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ hai; ý thức có
trước và quyết định vật chất. Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức
cơ bản là chủ nghĩa duy tâm khách quan và chủ nghĩa duy tâm
chủ quan.
- Việc giải quyết mặt thứ hai trong nội dung vấn đề cơ bản
của triết học đã chia các nhà triết học thành các phái: khả tri
luận - thừa nhận khả năng nhận thức thế giới của con người và
bất khả tri luận (hay còn gọi là không thể biết) - phủ nhận khả
năng nhận thức thế giới của con người và phái hoài nghi luận.
Ngoài ra, xung quanh việc giải quyết nội dung vấn đề cơ
bản của triết học còn xuất hiện các trường phái nhất nguyên

47
luận, nhị nguyên luận và đa nguyên luận.

Bài tập 5
a. Trình bày những hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật
và một số nhà triết học đại diện cho mỗi hình thức đó?
b. Trong các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật, hình
thức nào được coi là phát triển ở trình độ cao nhất trong lịch sử
triết học? Tại sao?
Gợi ý trả lời:
a. Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật đã phát triển
qua 3 hình thức cơ bản với các đại diện tiêu biểu sau:
- Chủ nghĩa duy vật chất phác, là các học thuyết, tư tưởng
triết học duy vật thời kỳ cổ đại ở Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp.
Những đại diện tiêu biểu như Talét, Hêraclít, Đêmôcrít,… (Hy
Lạp), thuyết ngũ hành (Trung Quốc), phái Sàmkhya (Ấn Độ).
- Chủ nghĩa duy vật siêu hình là hình thức cơ bản của chủ
nghĩa duy vật, phát triển rõ nét từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII,
và đạt đỉnh cao vào thế kỷ XIX, nó gắn với thời kỳ cơ học cổ
điển phát triển mạnh, do đó chịu sự tác động mạnh mẽ của
phương pháp tư duy siêu hình, máy móc. Những đại diện tiêu
biểu như Ph.Bêcơn, Đ.Điđơrô, L.Phoiơbắc,…
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng do C.Mác và Ph.Ăngghen
xây dựng từ những năm 40 của thế kỷ XIX và được V.I.Lênin
phát triển.
b. Trong các hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật, chủ
nghĩa duy vật biện chứng là hình thức phát triển ở trình độ cao
nhất của chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học, vì:
- Trên cơ sở kế thừa những tinh hoa của lịch sử triết học,
khái quát những thành tựu khoa học và căn cứ vào thực tiễn thời
48
đại, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khắc phục được những mặt
hạn chế của chủ nghĩa duy vật chất phác và chủ nghĩa duy vật
siêu hình trước đó.
- Sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật với phương
pháp luận biện chứng đã mang lại cho chủ nghĩa duy vật biện
chứng tính đúng đắn, khoa học và thuyết phục.
- Là cơ sở để giải thích một cách khoa học các hiện tượng,
quá trình lịch sử đã và đang diễn ra (chủ nghĩa duy vật lịch sử).
- Trang bị cho chúng ta thế giới quan và phương pháp luận
khoa học.

Bài tập 6
a. Khái quát các quan niệm của triết học duy vật trước
Mác về vật chất và chỉ ra những ưu điểm và hạn chế của các
quan niệm đó?
b. Những phát hiện khoa học nào (giai đoạn những năm
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX) đã góp phần chỉ ra sai lầm trong
quan niệm về vật chất của triết học duy vật trước Mác?
Gợi ý trả lời:
a. Vật chất với tư cách là phạm trù triết học đã có lịch sử
phát triển trên 2.500 năm. Đây chính là phạm trù cơ bản và nền
tảng của chủ nghĩa duy vật nói chung và chủ nghĩa duy vật biện
chứng nói riêng.
- Khái quát lại các quan niệm của triết học duy vật trước
C.Mác về vật chất:
Trước khi chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời, nhìn chung,
các nhà triết học duy vật quan niệm vật chất là một hay một số
chất tự có, đầu tiên, được coi là “khởi nguyên” sản sinh ra toàn
bộ thế giới.
49
+ Chủ nghĩa duy vật chất phác (thời kỳ cổ đại) đã đồng
nhất vật chất với những dạng tồn tại cụ thể của vật chất. Chẳng
hạn, ở Hy Lạp cổ đại, Talét cho rằng khởi nguyên của thế giới là
nước, Anaximen thì cho rằng đó là không khí, Hêraclít khẳng
định đó là lửa, Lơxíp và Đêmôcrít quy về nguyên tử,… Ở Trung
Quốc cổ đại, thuyết Ngũ hành cho rằng thế giới được tạo nên từ
kim - mộc - thủy - hỏa - thổ. Ở Ấn Độ cổ đại, phái Sàmkhya quy
khởi nguyên của thế giới về “Pràkriti” (vật chất đầu tiên). Phái
Lokayata thì cho rằng tất cả mọi sự vật và hiện tượng trong vũ
trụ đều do bốn nguyên tố đất, nước, lửa và không khí cấu thành.
Nhìn chung, các quan niệm về vật chất của triết học duy vật thời
kỳ này còn mang nặng tính chất trực quan, cảm tính.
+ Chủ nghĩa duy vật siêu hình (thế kỷ XVII, XVIII) với các
đại diện tiêu biểu như Ph.Bêcơn, R.Đềcáctơ, T.Hốpxơ Đ.Điđơrô,
… vẫn không có những thay đổi căn bản. Trên cơ sở kế thừa
quan niệm của các nhà duy vật cổ đại, kết hợp với sự hỗ trợ của
khoa học thực nghiệm và phương pháp siêu hình đang thống trị
trong triết học, họ tiếp tục đi sâu tìm hiểu cấu trúc vật chất của
giới tự nhiên trong sự biểu hiện cảm tính của nó. Do đó, quan
niệm về vật chất của các nhà duy vật thời kỳ này còn mang tính
siêu hình, máy móc.
- Ưu điểm và hạn chế trong quan niệm về vật chất của triết
học duy vật trước C.Mác:
+ Ưu điểm:
• Trong quan niệm về vật chất của mình, các nhà triết học
duy vật trước C.Mác đã đi đúng hướng khi xuất phát từ chính thế
giới vật chất để giải thích về thế giới vật chất (vật chất là cái có
trước và quyết định ý thức).
• Quan niệm về vật chất của các nhà triết học duy vật trước

50
C.Mác đã đặt nền móng và cung cấp những tiền đề cần thiết cho
chủ nghĩa duy vật biện chứng sau này kế thừa, phát triển và xây
dựng được quan niệm đúng đắn về vật chất. Mặc dù còn nhiều
hạn chế, song những quan niệm về vật chất của các nhà triết học
duy vật trước C.Mác từng là chỗ dựa tích cực cho chủ nghĩa duy
vật trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm trong suốt tiến
trình lịch sử triết học trước đó.
+ Hạn chế:
• Đồng nhất vật chất (theo nghĩa triết học) với những dạng
tồn tại cụ thể của nó. như đất, nước, lửa, không khí, nguyên tử,
vật thể,…
• Còn mang nặng tính chất trực quan, cảm tính.
• Chưa thấy và lý giải được bản chất của mối quan hệ giữa
vật chất và ý thức. Nhiều quan niệm còn bị chi phối bởi phương
pháp siêu hình, giải thích một cách máy móc, cơ học, đồng nhất
vật chất với thuộc tính, chưa lý giải đúng về nguồn gốc vận động
của vật chất,…
• Chưa tìm được cơ sở để xác định những biểu hiện của vật
chất trong đời sống xã hội nên thường rơi vào duy tâm khi giải
quyết những vấn đề về xã hội.
Những hạn chế nói trên chủ yếu bị quy định bởi những hạn
chế của điều kiện lịch sử - xã hội, của trình độ phát triển khoa
học và nhận thức trong giai đoạn lịch sử trước C.Mác.
b. Những phát hiện khoa học góp phần chỉ ra sai lầm trong
quan niệm về vật chất của triết học duy vật trước C.Mác (giai
đoạn những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX):
- Năm 1895, Rơnghen phát hiện ra tia X.
- Năm 1896, A.H.Béccơren phát hiện ra hiện tượng phóng
xạ.
51
- Năm 1897, J.J.Tômxơn phát hiện ra điện tử.
- Năm 1901, Kaufman phát hiện ra mối quan hệ giữa vận
tốc và khối lượng của điện tử.
- Năm 1905, A.Anhxtanh công bố thuyết tương đối,...

Bài tập 7
a. Phân tích nội dung định nghĩa vật chất của V.I.Lênin.
b. Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin có ý nghĩa như thế
nào đối với sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và nhận thức
khoa học?
Gợi ý trả lời:
a. Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:
- Định nghĩa vật chất của V.I.Lênin được trình bày trong tác
phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán như
sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”1.
- Phân tích nội dung định nghĩa:
Thứ nhất, cần phải phân biệt “vật chất” với tư cách là
phạm trù triết học với những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
Vật chất với tư cách là phạm trù triết học là kết quả của sự khái
quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ
vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô
hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; còn tất cả những sự
vật, hiện tượng chỉ là những dạng biểu hiện cụ thể của vật chất
nên nó có quá trình phát sinh, phát triển và chuyển hóa.
Thứ hai, thuộc tính cơ bản, phổ biến nhất của mọi dạng vật
1
1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva,1980, t.18, tr.151.
52
chất là tồn tại khách quan với ý thức, tức là tồn tại bên ngoài ý
thức, có trước ý thức, độc lập với ý thức, không phụ thuộc vào ý
thức con người, dù con người có nhận thức được nó hay không
(giải quyết mặt thứ nhất trong nội dung vấn đề cơ bản của triết
học).
Thứ ba, vật chất, dưới những dạng tồn tại cụ thể của nó là
cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián
tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người
là sự phản ánh đối với vật chất, vật chất là cái được ý thức phản
ánh. Hay nói cách khác, nhờ có thuộc tính phản ánh mà thông
qua các giác quan của mình, con người có thể nhận thức được
thế giới vật chất (giải quyết mặt thứ hai trong nội dung vấn đề cơ
bản của triết học).
b. Ý nghĩa của định nghĩa vật chất đối với sự phát triển của
chủ nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:
- Khắc phục được những hạn chế trong quan niệm về vật
chất của triết học duy vật trước C.Mác để đưa ra quan niệm đúng
đắn, khoa học về vật chất (tránh đồng nhất vật chất với các dạng
tồn tại cụ thể của nó).
- Chỉ ra những thuộc tính cơ bản của vật chất: tồn tại khách
quan và thuộc tính phản ánh, đồng thời giải quyết được cả hai
mặt trong nội dung vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường
duy vật biện chứng.
- Đưa chủ nghĩa duy vật và vật lí học thoát ra khỏi cuộc
khủng hoảng về thế giới quan những năm cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX, cho phép khắc phục được những cuộc khủng hoảng
tương tự có thể xảy ra trong tương lai, cổ vũ các nhà khoa học
tiếp tục đi sâu nghiên cứu để khám phá ra những cấu trúc mới
của vật chất.

53
- Đặt cơ sở nền tảng thế giới quan và phương pháp luận
khoa học cho sự phát triển của các khoa học tự nhiên và khoa
học xã hội, trong đó có quan điểm duy vật về lịch sử.

Bài tập 8
a. Vật chất có thể tồn tại tách rời với vận động hay không ?
Tại sao?
b. Ph.Ăngghen đã phân chia vận động của vật chất thành
những hình thức cơ bản nào?
c. Giữa vận động và đứng im có quan hệ với nhau như thế
nào?
d. Vật chất có quan hệ như thế nào với không gian và thời
gian?
Gợi ý trả lời:
a. Vật chất không thể tồn tại tách rời với vận động, vì vận
động chính là phương thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính cố
hữu của vật chất.
- Thông qua vận động, vật chất mới tồn tại và biểu hiện sự
tồn tại của mình thông qua những dạng tồn tại cụ thể. Các thuộc
tính của vật chất chỉ biểu hiện thông qua vận động. Do đó, không
có vật chất không vận động, cũng như không có vận động ở bên
ngoài vật chất.
- Vận động của vật chất là quá trình tự thân vận động, tự
thân biến đổi.
- Thế giới vật chất không do ai sinh ra và không ai có thể
tiêu diệt, nó chỉ có thể chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác
thông qua quá trình vận động.
b. Dựa trên những thành tựu khoa học ở thời đại mình,
Ph.Ăngghen đã phân chia vận động của vật chất thành 5 hình
54
thức cơ bản sau:
(1). Vận động cơ học (sự di chuyển vị trí của các vật thể
trong không gian).
(2). Vận động vật lý (vận động của phân tử, điện tử, các hạt
cơ bản, các quá trình nhiệt, điện,…).
(3). Vận động hóa học (quá trình hóa hợp và phân giải của
các chất).
(4). Vận động sinh học (sự tiến hóa của các giống loài trong
sinh quyển, sự trao đổi chất giữa cơ thể sống với môi trường, vận
động của các cơ thể sống,…).
(5). Vận động xã hội (sự biến đổi trong các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa,… của đời sống xã hội).
- Từ hình thức vận động cơ học đến hình thức vận động xã
hội nó thể hiện trình độ từ thấp đến cao của các hình thức vận
động.
- Mỗi hình thức vận động thường đặc trưng cho những
dạng vật chất có kết cấu tương ứng.
- Hình thức vận động ở trình độ thấp hơn không thể bao
hàm hình thức vận động ở trình độ cao hơn, nhưng hình thức vận
động ở trình độ cao hơn có thể bao hàm trong nó hình thức vận
động ở trình độ thấp hơn.
Xã hội
Sinh
Hoá

55
- Trong quá trình tồn tại, một sự vật, hiện tượng có thể
tham gia vào nhiều hình thức vận động khác nhau, nhưng bao
giờ cũng có một hình thức vận động đặc trưng.
c. Quan hệ giữa vận động và đứng im:
Đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động, là vận
động trong thế cân bằng, ổn định tương đối của sự vật. Do đó, sự
đứng im chỉ là tương đối, tạm thời. Vận động là tuyệt đối, vĩnh
viễn. Vận động bao hàm trong nó sự đứng im.

Vận động
Đứng im

d. Không gian và thời gian là những hình thức tồn tại của
vật chất:
Vật chất, không gian, thời gian không thể tồn tại tách rời
nhau, không có không gian và thời gian không có vật chất cũng
như không thể có sự vật, hiện tượng vật chất nào tồn tại ngoài
không, thời gian.

Bài tập 9
a. Khái quát quan điểm của triết học duy vật biện chứng về
nguồn gốc của ý thức.

56
b. Tại sao một số loài động vật cấp cao có bộ óc, có hệ
thần kinh và năng lực phản ánh tương đối phát triển nhưng
chúng vẫn không có ý thức như con người?
Gợi ý trả lời:
a. Quan điểm của triết học duy vật biện chứng về nguồn
gốc của ý thức:
Theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, ý thức có
nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc tự nhiên:
Những yếu tố cấu thành điều kiện tự nhiên cho sự hình
thành ý thức:
+ Bộ óc người.
+ Mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan.
+ Thuộc tính phản ánh - với tư cách là thuộc tính vốn có
của mọi dạng vật chất.
Trong đó, phản ánh là năng lực giữ lại, tái hiện lại ở cấu
trúc vật chất này những đặc điểm của cấu trúc vật chất khác và
ngược lại, khi giữa chúng có sự tác động lẫn nhau.
Tương ứng với trình độ tiến hóa của các dạng vật chất mà
phản ánh cũng có những cấp độ và hình thức khác nhau.
Tương ứng với vật chất vô sinh - là phản ánh vật lý, hóa
học
Tương ứng với vật chất hữu sinh - là phản ánh sinh học
(phản ánh tâm lý động vật là hình thức phản ánh ở trình độ cao
nhất trong số các hình thức phản ánh sinh học).
Tương ứng với hệ thần kinh và bộ óc của con người - là
phản ánh ý thức, đây là hình thức và cấp độ phản ánh ở trình độ
cao nhất. Nó chỉ được thực hiện ở dạng vật chất đặc biệt, phát

57
triển ở trình độ cao nhất, đó là bộ óc người.
- Nguồn gốc xã hội:
Lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đây được
coi là hai nhân tố kích thích chủ yếu, thúc đẩy sự hình thành ý
thức ở con người.
+ Lao động là quá trình con người sử dụng công cụ tác
động vào giới tự nhiên nhằm thay đổi giới tự nhiên cho phù hợp
với nhu cầu con người.
Quá trình lao động giúp con người từng bước rèn luyện,
hoàn thiện các giác quan, khí quan, các cơ quan nhận biết. Qua
đó, thúc đẩy sự hình thành và phát triển ý thức ở con người.
Thông qua lao động, con người sử dụng công cụ tác động,
chinh phục, cải biến giới tự nhiên, buộc giới tự nhiên phải bộc lộ
những thuộc tính, đặc điểm, quy luật vận động,... của chúng để
con người nhận thức. Trên cơ sở những tri thức và kinh nghiệm
thu được thông qua quá trình lao động, con người từng bước khái
quát thành các hệ thống tri thức và lý luận khoa học, góp phần
thúc đẩy sự phát triển của ý thức ở con người.
+ Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất chứa đựng thông
tin mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ, ý thức không thể
tồn tại và thể hiện.
Lao động là một trong những động lực chính thúc đẩy sự
xuất hiện của ngôn ngữ. Để lao động một cách hiệu quả, con
người phải giao tiếp, trao đổi kinh nghiệm, tổ chức và phân công
lao động,… do đó, ngôn ngữ với tư cách là một phương tiện giao
tiếp, truyền tải thông tin,… đã từng bước hình thành và được sử
dụng để đáp ứng nhu cầu đó. Do đó, quá trình biến đổi, phát
triển của ngôn ngữ luôn gắn liền với quá trình biến đổi, phát
triển của sản xuất.

58
Ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp, nó còn là
“cái vỏ vật chất của tư duy”, là sự biểu hiện của tư tưởng ra bên
ngoài. Do đó, không có ngôn ngữ, ý thức không thể tồn tại, thể
hiện và phát triển.
b. Một số loài động vật cấp cao có bộ óc, có hệ thần kinh
và năng lực phản ánh tương đối phát triển nhưng chúng vẫn
không có ý thức như con người là vì chúng thiếu những điều
kiện xã hội cần thiết (nguồn gốc xã hội), trong đó có lao động và
ngôn ngữ.

Bài tập 10
a. Khái quát quan điểm của triết học duy vật biện chứng về
bản chất và kết cấu của ý thức.
b. I.Cantơ đã đề cao tính chất nào của ý thức khi nói rằng
"cái đẹp không ở nơi má hồng người thiếu nữ mà trong đôi mắt
kẻ si tình"?
Gợi ý trả lời:
a. Bản chất và kết cấu của ý thức:
- Bản chất của ý thức: ý thức là sự phản ánh năng động,
sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc người; là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan.
Bản chất của ý thức biểu hiện ở những khía cạnh sau:
+ Ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo, không phải là
sự sao chép đơn giản, máy móc. Tính sáng tạo của phản ánh ý
thức thể hiện ở chỗ ý thức có khả năng phản ánh bản chất, quy
luật của sự vật, hiện tượng; ý thức con người có khả năng biến
đổi hình ảnh (cảm tính và lý tính) của sự vật trong đầu óc của
mình, tạo ra mô hình mới để từ đó biến đổi sự vật trong hoạt
động thực tiễn.
59
+ Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Ý
thức là hình ảnh của thế giới khách quan, do thế giới khách quan
quy định cả về nội dung và hình thức biểu hiện, nhưng nó không
còn y nguyên như thế giới khách quan mà đã được cải biến thông
qua lăng kính chủ quan (tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, kinh
nghiệm, tri thức, nhu cầu...) của con người. Theo C.Mác: ý thức
“chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc
con người và được cải biến đi trong đó”1.
+ Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã
hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với hoạt động thực
tiễn, không những chịu tác động của các quy luật sinh học mà
còn chủ yếu là các quy luật xã hội, do nhu cầu giao tiếp xã hội và
các điều kiện sinh hoạt hiện thực của xã hội quy định. Với tính
năng động, ý thức sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu của thực
tiễn xã hội.
- Kết cấu của ý thức:
Ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố có quan
hệ mật thiết với nhau, trong đó cơ bản nhất là tri thức, tình cảm
và ý chí.
+ Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết
quả của quá trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối
tượng được nhận thức dưới dạng ngôn ngữ. Tri thức là phương
tiện tồn tại của ý thức và là điều kiện để ý thức phát triển.
Căn cứ vào lĩnh vực phản ánh, tri thức có thể chia thành
nhiều loại như: tri thức về tự nhiên, tri thức về con người và xã
hội.
Căn cứ vào trình độ phát triển của nhận thức, tri thức có thể
chia thành: tri thức thông thường và tri thức khoa học, tri thức

1
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.35.
60
kinh nghiệm và tri thức lý luận, tri thức cảm tính và tri thức lý
tính,...
+ Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con
người trong các quan hệ. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của
sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái quát những
cảm xúc cụ thể của con người khi nhận sự tác động của ngoại
cảnh.
Tình cảm biểu hiện và phát triển trong mọi lĩnh vực đời
sống của con người, là động lực thúc đẩy hoạt động nhận thức và
thực tiễn. Tùy vào từng đối tượng nhận thức và sự rung động của
con người về đối tượng đó trong các quan hệ mà hình thành nên
các loại tình cảm khác nhau như tình cảm đạo đức, tình cảm
thẩm mỹ, tình cảm tôn giáo,…
Tri thức là cơ sở làm cho tình cảm trở nên sâu sắc, tình cảm
là động lực thúc đẩy con người vươn tới khám phá và chiếm lĩnh
tri thức.
+ Ý chí là khả năng huy động sức mạnh bản thân mỗi
người để vượt qua những cản trở trong quá trình thực hiện mục
đích.
Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức, một biểu hiện
của ý thức trong thực tiễn mà ở đó con người tự ý thức được mục
đích của hành động nên tự đấu tranh với mình và ngoại cảnh để
thực hiện đến cùng mục đích đã lựa chọn. Có thể coi ý chí là
quyền lực của con người đối với mình, nó điều chỉnh hành vi để
con người hướng đến mục đích một cách tự giác, nó cho phép
con người tự kiềm chế, tự làm chủ bản thân và quyết đoán trong
hành động theo quan điểm và niềm tin của mình.
Giá trị chân chính của ý chí không chỉ thể hiện ở cường độ
của nó mạnh hay yếu mà chủ yếu thể hiện ở nội dung, ý nghĩa

61
của mục đích mà ý chí hướng đến.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện
chứng với nhau, song tri thức là yếu tố quan trọng nhất; là
phương thức tồn tại của ý thức, đồng thời là nhân tố định hướng
đối với sự phát triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu
tố khác.
b. Khi nói “cái đẹp không ở nơi má hồng người thiếu nữ
mà trong đôi mắt kẻ si tình”, I.Cantơ đã đề cao tính chủ quan của
ý thức. Hình ảnh của tg khách quan (ng phụ nữ , hình dáng, mái
tóc vẻ ngoài,nội tâm bên trong,....) đc ghi lại trong bộ óc ng khác
thì bị biến đổi ....

Bài tập 11
a. Nêu quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức.
b. Từ việc xem xét mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, hãy
rút ra ý nghĩa phương pháp luận cần thiết.
c. Câu tục ngữ: "Một người lo bằng một kho người làm" đề
cập đến vai trò của vật chất hay ý thức đối với hoạt động của
con người trong cuộc sống?
Gợi ý trả lời:
a. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng: mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Mối
quan hệ này thể hiện qua hai mặt sau:
- Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của
ý thức, quyết định ý thức, vì:
+ Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao
62
là bộ óc người. Do đó, nếu không có hệ thống phản ánh của cơ
thể người và bộ óc người thì không có ý thức.
+ Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã
hội của ý thức (thế giới khách quan, hệ thống phản ánh của cơ
thể người cùng bộ óc, thuộc tính phản ánh, lao động, ngôn
ngữ,...) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
+ Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ
quan về thế giới vật chất nên nội dung, hình thức biểu hiện và
mọi sự biến đổi của ý thức được quyết định bởi vật chất.
- Ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người, vì:
+ Ý thức chỉ có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người.
+ Ý thức có thể định hướng, vạch kế hoạch, đưa ra những
dự báo,… giúp con người trong hoạt động thực tiễn và hoạt động
cải tạo hiện thực khách quan.
+ Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất diễn ra
theo hai hướng: nếu ý thức của con người phản ánh đúng hiện
thực khách quan, dự báo chính xác, định hướng, đưa ra được các
biện pháp phù hợp với quy luật khách quan và yêu cầu của thực
tiễn sẽ tác động tích cực đến hoạt động thực tiễn của con người
cũng như đối với hiện thực khách quan. Ngược lại, nếu ý thức
của con người phản ánh không đúng hiện thực khách quan, dự
báo thiếu chính xác, định hướng và các biện pháp đưa ra không
phù hợp với quy luật khách quan và yêu cầu của thực tiễn sẽ tác
động tiêu cực đến hoạt động thực tiễn của con người cũng như
hiện thực khách quan.
Hành động và hoạt động thực tiễn của con người đúng hay
sai, thành công hay thất bại, hiệu quả hay không hiệu quả luôn

63
phụ thuộc một phần rất lớn vào nhận thức, ý thức của họ.
b. Ý nghĩa phương pháp luận:
Để hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn luôn thành
công và đạt hiệu quả, chúng ta phải luôn xuất phát từ thực tế
khách quan, tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng
động chủ quan.
- Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là
xuất phát từ tính khách quan của vật chất, có thái độ tôn trọng
đối với hiện thực khách quan, mà căn bản là tôn trọng quy luật,
nhận thức và hành động theo quy luật; tôn trọng vai trò quyết
định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con
người và xã hội. Điều đó đòi hỏi trong nhận thức và hành động,
con người phải xuất phát từ thực tế khách quan để xác định mục
đích, đề ra đường lối, chủ trương, kế hoạch, biện pháp; phải lấy
thực tế khách quan làm cơ sở, phương tiện; phải tìm ra những
nhân tố vật chất, tổ chức những nhân tố ấy thành lực lượng vật
chất để hành động.
- Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích
cực, năng động, sáng tạo của ý thức và phát huy vai trò nhân tố
con người trong quá trình vật chất hóa tính tích cực, nang động,
sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức
khoa học; tích cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa
học. Mặt khác, phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành,
củng cố nhân sinh quan tiến bộ, tình cảm, nghị lực để có sự
thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân văn trong
định hướng hành động.
Để tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ
quan trong nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng, chống và
khắc phục bệnh chủ quan, duy ý chí; mặt khác, cũng cần chống

64
chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem
thường lý luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động,… trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn.
c. Câu tục ngữ: “Một người lo bằng một kho người làm” đề
cập đến vai trò của ý thức đối với hoạt động của con người trong
cuộc sống.

65
Chương II
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

Bài tập 12
a. Trình bày khái niệm biện chứng và phép biện chứng.
b. Phép biện chứng có những hình thức cơ bản nào?
c. Đánh giá quan điểm cho rằng "biện chứng và siêu hình là
hai phương pháp nhận thức đối lập nhau".
Gợi ý trả lời:
a. Khái niệm biện chứng, phép biện chứng:
- Biện chứng là khái niệm dùng để chỉ những mối liên hệ,
tương tác, chuyển hóa và vận động, phát triển theo quy luật của
các sự vật, hiện tượng, quá trình trong giới tự nhiên, xã hội và tư
duy.
- Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện
chứng của thế giới thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa
học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc, phương pháp luận
của nhận thức và thực tiễn.
b. Phép biện chứng đã phát triển qua ba hình thức cơ bản
sau:
- Phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu
tiên của phép biện chứng. Nó là nội dung cơ bản trong nhiều hệ
thống triết học của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp cổ đại.
- Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức, được khởi đầu từ
I.Cantơ và hoàn thiện bởi Hêghen.
- Phép biện chứng duy vật, do C.Mác, Ph.Ăngghen sáng
lập và V.I.Lênin phát triển.
c. Trong lịch sử triết học, biện chứng và siêu hình là hai
phương pháp nhận thức đối lập nhau, vì:
66
- Nếu phương pháp biện chứng xem xét sự vật, hiện tượng
trong sự tác động qua lại, ràng buộc, quy định, thâm nhập và
chuyển hóa lẫn nhau thì phương pháp siêu hình xem xét sự vật,
hiện tượng trong sự cô lập, tách rời.
- Nếu phương pháp biện chứng xem xét sự vật, hiện tượng
trong sự vận động, biến đổi không ngừng thì phương pháp siêu
hình xem xét sự vật, hiện tượng trong sự tĩnh tại.
- Nếu phương pháp biện chứng xem xét sự vật, hiện tượng
trong tính chỉnh thể, hệ thống, toàn diện thì phương pháp siêu
hình xem xét sự vật, hiện tượng một cách phiến diện, một chiều.

Bài tập 13
a. Phép biện chứng duy vật là gì? Nêu những đặc trưng cơ
bản của phép biện chứng duy vật.
b. Phép biện chứng duy vật được trình bày thông qua
những nguyên lý, quy luật cơ bản nào?
Gợi ý trả lời:
a. Khái niệm phép biện chứng duy vật:
Theo Ph.Ăngghen: "Phép biện chứng ... là môn khoa học
về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của
tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”1.
Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến, Ph.Ăngghen còn đưa ra một định nghĩa khác về phép biện
chứng duy vật: “phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ phổ
biến”2.
Khi nhấn mạnh vai trò của nguyên lý về sự phát triển trong
phép biện chứng mà C.Mác đã kế thừa từ triết học của Hêghen,
1
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.20, tr.201.
2
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.20, tr.445.
67
V.I.Lênin cho rằng phép biện chứng “là học thuyết về sự phát
triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến
diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người,
nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không
ngừng”1.
b. Phép biện chứng duy vật có hai đặc trưng cơ bản sau:
- Phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin là
phép biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới quan
duy vật khoa học. Với đặc trưng này phép biện chứng của chủ
nghĩa Mác - Lênin chẳng những có sự khác biệt căn bản với
phép biện chứng duy tâm của Hêghen mà còn có sự khác biệt về
trình độ so với phép biện chứng duy vật cổ đại.
- Trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác -
Lênin có sự thống nhất giữa nội dung của thế giới quan duy vật
biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật, do đó nó
không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là công cụ để
nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Mỗi nguyên lý, quy luật
trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin không
chỉ là sự giải thích đúng đắn về tính biện chứng của thế giới mà
còn là phương pháp luận khoa học của việc nhận thức và cải tạo
thế giới.
c. Phép biện chứng duy vật được trình bày thông qua hai
nguyên lý và ba quy luật cơ bản sau:
- Hai nguyên lý: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến;
Nguyên lý về sự phát triển.
- Ba quy luật cơ bản: Quy luật chuyển hóa từ những sự thay
đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại; Quy
luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập; Quy luật phủ

1
3. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva,1980, t.23, tr.53.
68
định của phủ định.
Ngoài hai nguyên lý và ba quy luật cơ bản nêu trên, phép
biện chứng duy vật còn thể hiện qua 6 cặp phạm trù - thực chất
đây là 6 quy luật không cơ bản của phép biện chứng duy vật, bao
gồm các cặp phạm trù cái riêng và cái chung, nguyên nhân và kết
quả, tất nhiên và ngẫu nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và
hiện tượng, khả năng và hiện thực.

Bài tập 14
a. Trình bày cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và
quan điểm lịch sử - cụ thể.
b. Đối lập với quan điểm toàn diện là gì?
Gợi ý trả lời:
a. Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và quan điểm lịch
sử - cụ thể:
- Khái niệm quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ
thể:
+ Quan điểm toàn diện là quan điểm đòi hỏi trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn cần phải xem xét sự vật, hiện tượng
trong mối quan hệ biện chứng qua lại giữa các bộ phận, các yếu
tố, giữa các mặt của sự vật, hiện tượng và trong sự tác động qua
lại giữ sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện tượng khác.
+ Quan điểm lịch sử - cụ thể là quan điểm đòi hỏi trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính
chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải
quyết; phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của từng mối liên
hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những
giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong nhận thức và hành động.
- Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện và quan điểm lịch
69
sử - cụ thể chính là nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến.
+ Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến:
• Mối liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự quy định, sự tác
động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay
giữa các mặt, các yếu tố của mỗi sự vật, hiện tượng trong thế
giới.
• Mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ các mối
liên hệ tồn tại phổ biến ở nhiều sự vật, hiện tượng trong thế giới.
+ Tính chất của các mối liên hệ:
• Các mối liên hệ mang tính khách quan.
Thế giới vật chất tồn tại thông qua vận động, vận động dẫn
đến liên hệ. Vì vận động là phương thức tồn tại, là thuộc tính cố
hữu, khách quan của vật chất, do đó, liên hệ giữa các sự vật, hiện
tượng cũng mang tính khách quan. Chừng nào thế giới vật chất
còn vận động, thì chừng đó giữa các sự vật, hiện tượng trong thế
giới vẫn tiếp tục xuất hiện các mối liên hệ.
• Các mối liên hệ mang tính phổ biến.
Thế giới vật chất là một chỉnh thể, một hệ thống thống nhất
ở tính vật chất của nó. Mỗi sự vật, hiện tượng chỉ là một mắt
khâu, mắt xích trong chỉnh thể, hệ thống đó. Sự liên hệ giữa các
sự vật, hiện tượng luôn diễn ra, tồn tại ở mọi nơi, mọi chỗ, mọi
lúc, mọi thời điểm, liên tục về không gian và thời gian. Do đó,
các mối liên hệ luôn mang tính phổ biến.
• Các mối liên hệ mang tính phong phú, đa dạng.
Điều này thể hiện ở vị trí, vai trò, tính chất, đặc điểm, hình
thức,… khác nhau của các mối liên hệ trong những điều kiện
không gian, thời gian cụ thể.
Tóm lại, các sự vật, hiện tượng trong thế giới luôn tồn tại
70
trong sự liên hệ, tác động qua lại. Những mối liên hệ giữa các sự
vật, hiện tượng trong thế giới mang tính khách quan, tính phổ
biến và tính đa dạng, phong phú. Do đó, trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn, khi xem xét hay tác động lên sự vật,
hiện tượng cần phải tôn trọng quan điểm toàn diện, quan điểm
lịch sử - cụ thể. Hai quan điểm này cũng không thể tách rời quan
điểm phát triển.
b. Đối lập với quan điểm toàn diện là quan điểm siêu hình,
phiến diện.

Bài tập 15
a. Trình bày cơ sở lý luận của quan điểm phát triển và
quan điểm lịch sử - cụ thể.
b. Quá trình phát triển của các sự vật, hiện tượng có bao
hàm cả những thất bại, đi xuống hoặc những bước thụt lùi tạm
thời hay không? Tại sao?
Gợi ý trả lời:
a. Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển và quan điểm lịch
sử - cụ thể:
- Khái niệm quan điểm phát triển và quan điểm lịch sử - cụ
thể:
+ Quan điểm phát triển là quan điểm đòi hỏi trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn cần phải xem xét sự vật, hiện tượng
trong toàn bộ quá trình vận động, trong xu thế và xu hướng phát
triển tất yếu của chúng.
+ Quan điểm lịch sử - cụ thể là quan điểm đòi hỏi trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải xét đến những tính
chất đặc thù của đối tượng nhận thức và tình huống phải giải
quyết; phải xác định rõ vị trí, vai trò khác nhau của từng mối liên
71
hệ cụ thể trong những tình huống cụ thể để từ đó có được những
giải pháp đúng đắn và có hiệu quả trong nhận thức và hành động.
- Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển và quan điểm lịch
sử - cụ thể chính là nội dung của nguyên lý về sự phát triển.
+ Khái niệm phát triển:
Phát triển là quá trình vận động theo khuynh hướng đi lên,
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn của các sự vật, hiện tượng.
Phát triển chỉ là một khuynh hướng vận động (vận động đi
lên), do đó vận động bao hàm trong nó sự phát triển.
+ Tính chất của sự phát triển:
• Sự phát triển mang tính khách quan.
Phát triển là quá trình vận động theo khuynh hướng đi lên.
Vì vận động của vật chất là quá trình tự thân vận động, nó tồn tại
khách quan, do đó, phát triển - với tư cách là một khuynh hướng
của vận động (vận động theo khuynh hướng đi lên) cũng mang
tính khách quan.
• Sự phát triển mang tính phổ biến.
Phát triển là khuynh hướng vận động được thể hiện ở tất cả
các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Mỗi sự vật, hiện tượng
đều có thể bao hàm trong nó khả năng của sự phát triển, phát
sinh từ chính sự vận động của nó và chịu sự chi phối của nhiều
khuynh hướng phát triển khác.
• Sự phát triển mang tính đa dạng, phong phú.
Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được quy định
bởi tính đa dạng, phong phú của thế giới các sự vật, hiện tượng.
Mỗi sự vật, hiện tượng trong những điều kiện, hoàn cảnh, lĩnh
vực,… khác nhau sẽ có phương thức, cách thức phát triển khác
nhau.
72
Tóm lại, các sự vật, hiện tượng trong thế giới luôn tồn tại
trong sự vận động, phát triển không ngừng. Sự phát triển của thế
giới các sự vật, hiện tượng mang tính khách quan, tính phổ biến
và tính đa dạng, phong phú. Do đó, trong hoạt động nhận thức và
hoạt động thực tiễn, khi xem xét hay tác động lên sự vật, hiện
tượng cần phải tôn trọng quan điểm phát triển, quan điểm lịch sử
- cụ thể. Hai quan điểm này cũng không thể tách rời quan điểm
toàn diện.
b. Quá trình phát triển của các sự vật, hiện tượng có thể bao
hàm cả những thất bại, đi xuống hoặc những bước thụt lùi tạm
thời. Vì quá trình phát triển không phải lúc nào cũng diễn ra theo
một đường thẳng đi lên mà luôn là quá trình quanh co, phức tạp,
bao hàm các những thất bại, đi xuống hoặc những bước thụt lùi
tạm thời do sự vận động chệch hướng của sự vật, hiện tượng gây
ra.

Bài tập 16
a. Từ mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung,
hãy rút ra những ý nghĩa phương pháp luận cần thiết.
b. Giữa cái đơn nhất với cái riêng và cái chung có quan hệ
với nhau như thế nào?
Gợi ý trả lời:
a. Cái riêng và cái chung:
- Khái niệm cái riêng, cái chung:
+ Cái riêng là phạm trù dùng để chỉ một sự vật, một hiện
tượng hay một quá trình riêng lẻ nhất định.
+ Cái chung là phạm trù dùng để chỉ những thuộc tính,
những mặt, những yếu tố, những đặc điểm,… lặp lại phổ biến ở
nhiều sự vật, hiện tượng.
73
Trong mỗi sự vật, hiện tượng ngoài cái chung còn tồn tại
cái đơn nhất. Cái đơn nhất là những đặc tính, những tính chất,…
chỉ tồn tại ở một sự vật, một hiện tượng nào đó mà không lặp lại
ở các sự vật, hiện tượng khác.
- Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung thể
hiện ở các khía cạnh sau:
+ Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng và thông qua cái
riêng để biểu hiện sự tồn tại của nó.
+ Cái riêng cũng chỉ tồn tại trong mối quan hệ với cái
chung. Không có cái riêng hoặc cái chung tồn tại độc lập, tuyệt
đối tách rời nhau.
+ Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú, đa dạng hơn cái
chung; cái chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc và gần với bản
chất của cái riêng. Cái riêng là tổng hợp của cái chung và cái đơn
nhất; cái chung biểu hiện tính phổ biến, tính quy luật của nhiều
cái riêng.
+ Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau
trong những điều kiện xác định.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Muốn nắm được cái chung thì cần phải xuất phát từ
những cái riêng bởi cái chung không tồn tại trừu tượng ngoài
những cái riêng.
+ Muốn tiếp cận bản chất, tính quy luật của cái riêng thì
nên bắt đầu từ việc xem xét những cái chung.
+ Trong nhận thức và hành động, nếu tuyệt đối hóa cái
riêng sẽ rơi vào sự bảo thủ, trì trệ, cục bộ, địa phương chủ nghĩa,
… Nếu tuyệt đối hóa cái chung sẽ rơi vào chủ nghĩa giáo điều,
rập khuôn, máy móc. Do đó, cần phải căn cứ vào điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể của từng cái riêng để vận dụng một cách linh hoạt
74
cái chung sao cho phù hợp, hiệu quả.
+ Cái chung và cái đơn nhất có thể chuyển hóa cho nhau,
do đó, cần phải phân biệt giữa cái đơn nhất tiến bộ (mầm mống
của cái mới) và cái đơn nhất lạc hậu (tàn dư của cái cũ) để quan
tâm, tạo điều kiện cho cái đơn nhất tiến bộ chuyển hóa thành cái
chung, cái phổ biến.
b. Cái đơn nhất trong quan hệ với cái riêng và cái chung:
- Với cái riêng:
+ Giống với cái chung, cái đơn nhất cũng là những đặc
điểm, tính chất, mặt, bộ phận nào đó của cái riêng (nhưng khác
với cái chung là những mặt, đặc điểm,… này không lặp lại phổ
biến ở những cái riêng khác). Do đó, quan hệ giữa cái đơn nhất
và cái riêng là quan hệ giữa cái bộ phận và cái toàn thể.
+ Cái đơn nhất là cơ sở để phân biệt cái riêng này với cái
riêng khác.
- Với cái chung:
+ Cái đơn nhất và cái chung đều là bộ phận, đặc điểm,
thuộc tính, mặt,… nào đó của cái riêng, cùng tồn tại trong cái
riêng (cái chung lặp lại phổ biến ở những cái riêng khác còn cái
đơn nhất thì không).
+ Trong những điều kiện xác định, cái đơn nhất có thể
chuyển hóa thành cái chung và ngược lại.

Bài tập 17
a. Từ mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết
quả, hãy rút ra những ý nghĩa phương pháp luận cần thiết.
b. Câu ca dao "Sinh con rồi mới sinh cha/Sinh cháu giữ
nhà rồi mới sinh ông" nhấn mạnh đến khía cạnh nào trong mối
quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả?
75
Gợi ý trả lời:
- Khái niệm nguyên nhân, kết quả:
+ Nguyên nhân là phạm trù dùng để chỉ sự tác động lẫn
nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hay giữa các sự
vật, hiện tượng với nhau, từ đó tạo ra một sự biến đổi nhất định.
Nguyên nhân có nhiều loại: nguyên nhân trực tiếp, nguyên
nhân gián tiếp; nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài;
nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan,…
+ Kết quả là phạm trù dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện
do những tác động lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố trong một
sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
- Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả:
Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ
biện chứng mang tính khách quan, tất yếu và phổ biến. Mối quan
hệ này biểu hiện ở những mặt sau đây:
+ Nguyên nhân sinh ra kết quả.
• Xét theo trình tự thời gian của mối quan hệ thì nguyên
nhân bao giờ cũng có trước kết quả, kết quả phải xuất hiện sau
nguyên nhân. Mối quan hệ nhân quả không chỉ đơn thuần là sự
đi kế tiếp nhau về thời gian (cái này có trước cái kia), mà là mối
liên hệ sản sinh: cái này tất yếu sinh ra cái kia. Chỉ có mối quan
hệ tất yếu về mặt thời gian mới là quan hệ nhân quả.
• Một nguyên nhân có thể sinh ra một hoặc nhiều kết quả
và một kết quả có thể do một hoặc nhiều nguyên nhân sinh ra.
+ Kết quả có thể tác động trở lại quy định nguyên nhân
sinh ra nó.
Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng sau khi xuất hiện,
kết quả lại có ảnh hưởng trở lại đối với nguyên nhân, nó có thể
thúc đẩy hoặc kìm hãm tác dụng của nguyên nhân.
76
+ Nguyên nhân và kết quả có thể thay đổi vị trí cho nhau.
Điều này có nghĩa là một sự vật, hiện tượng nào đó trong
mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng trong mối quan hệ khác
lại là kết quả và ngược lại.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều có nguyên nhân
sinh ra nó, do đó, để nhận thức và tác động lên sự vật, hiện tượng
trước hết cần phải tìm hiểu nguyên nhân sinh ra nó.
+ Một kết quả có thể được sinh ra bởi nhiều nguyên nhân,
vì vậy để kết quả xảy ra hoặc không xảy ra theo ý muốn có thể
phối hợp để các nguyên nhân sinh ra nó tác động cùng chiều
hoặc ngược chiều nhau.
+ Trong quá trình nhận thức và hoạt động thực tiễn, cần
phân loại nguyên nhân một cách chính xác để nhận thức và có
các biện pháp tác động phù hợp, hiệu quả.
+ Kết quả có thể tác động trở lại quy định nguyên nhân
sinh ra nó. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải
khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc
đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng.
b. Câu ca dao “Sinh con rồi mới sinh cha/Sinh cháu giữ
nhà rồi mới sinh ông” nhấn mạnh đến vai trò của kết quả trong
quan hệ với nguyên nhân: kết quả (con, cháu) có thể tác động trở
lại quy định nguyên nhân (cha, ông) sinh ra nó.

Bài tập 18
Từ mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên,
hãy rút ra những ý nghĩa phương pháp luận cần thiết.
Gợi ý trả lời:
- Khái niệm tất nhiên, ngẫu nhiên:
77
+ Tất nhiên là phạm trù dùng để chỉ cái xảy ra do những
nguyên nhân cơ bản, bên trong của sự vật, hiện tượng quyết định
và trong những điều kiện nhất định, nó phải xảy ra đúng như thế,
không thể khác.
+ Ngẫu nhiên là phạm trù dùng để chỉ cái xảy ra do những
nguyên nhân bên ngoài quyết định, do đó nó có thể xuất hiện
hoặc không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc như thế
khác.
- Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên:
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại khách quan trong
hiện thực và đều có vai trò nhất định đối với sự phát triển của sự
vật và hiện tượng, trong đó tất nhiên giữ vai trò quyết định.
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên là hai mặt vừa thống nhất, vừa
đối lập.
• Sự thống nhất giữa tất nhiên và ngẫu nhiên thể hiện: tất
nhiên vạch đường đi cho mình thông qua vô số cái ngẫu nhiên.
Ngẫu nhiên là biểu hiện một mặt, một khía cạnh nào đó của cái
tất nhiên.
• Sự đối lập giữa tất nhiên và ngẫu nhiên thể hiện: tất nhiên
là cái chắc chắn sẽ xảy ra đúng như thế, không thể khác, còn
ngẫu nhiên là cái có thể xảy ra hoặc không xảy ra, có thể xảy ra
như thế này hoặc như thế khác. Tất nhiên ổn định và phản ánh
sâu sắc quy luật, bản chất của sự vật, còn ngẫu nhiên không ổn
định, là những biểu hiện cụ thể, phong phú, đa dạng,…
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên có thể chuyển hóa lẫn nhau
trong những điều kiện nhất định.
Tất nhiên và ngẫu nhiên không nằm yên ở trạng thái cũ mà
thay đổi cùng với sự thay đổi của sự vật, hiện tượng và trong
những điều kiện nhất định tất nhiên có thể chuyển hoá thành
78
ngẫu nhiên và ngược lại. Ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
chỉ có ý nghĩa tương đối.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Vì cái tất nhiên là cái chắc chắn sẽ xảy ra, không thể
khác, do đó trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải căn
cứ vào cái tất nhiên chứ không thể căn cứ vào cái ngẫu nhiên.
+ Do cái tất nhiên vạch đường đi cho mình thông qua vô số
cái ngẫu nhiên, cái ngẫu nhiên là biểu hiện một khía cạnh nào đó
của cái tất nhiên, nên để tìm hiểu, tiếp cận cái tất nhiên phải bắt
đầu từ việc xem xét những cái ngẫu nhiên.
+ Vì cái ngẫu nhiên có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện,
có thể xuất hiện như thế này hoặc như thế khác, nên trong hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần có các phương án dự
phòng để đề phòng những sự biến ngẫu nhiên có thể xảy ra.
+ Trong những điều kiện nhất định, tất nhiên và ngẫu nhiên
có thể chuyển hóa cho nhau, vì vậy cần tạo ra những điều kiện
nhất định để cản trở hoặc thúc đẩy sự chuyển hóa của chúng theo
mục đích nhất định.

Bài tập 19
Từ mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức,
hãy rút ra những ý nghĩa phương pháp luận cần thiết.
Gợi ý trả lời:
- Khái niệm nội dung, hình thức:
+ Nội dung là phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả
những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật, hiện
tượng.
+ Hình thức là phạm trù dùng để chỉ phương thức tồn tại và
phát triển của sự vật, hiện tượng đó, là hệ thống các mối liên hệ
79
tương đối bền vững giữa các yếu tố của nó.
- Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức:
+ Nội dung và hình thức luôn thống nhất biện chứng với
nhau trong mỗi sự vật, hiện tượng.
• Không có nội dung nào lại không có một hình thức nhất
định. Cũng không có một hình thức nào lại không chứa đựng
một nội dung nhất định.
• Cùng một nội dung có thể biểu hiện trong nhiều hình
thức, cùng một hình thức có thể chứa đựng nhiều nội dung.
+ Trong mỗi sự vật, hiện tượng, khuynh hướng chủ đạo của
nội dung là khuynh hướng biến đổi, còn hình thức là mặt tương
đối ổn định.
+ Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong
quá trình vận động, phát triển của sự vật. Nội dung thay đổi bắt
buộc hình thức phải thay đổi theo cho phù hợp nhưng không phải
lúc nào cũng có sự phù hợp tuyệt đối giữa nội dung và hình thức.
+ Sự tác động trở lại của hình thức đối với nội dung. Hình
thức do nội dung quyết định nhưng hình thức có tính độc lập
tương đối và tác động trở lại nội dung. Sự tác động của hình thức
đến nội dung thể hiện ở chỗ: nếu phù hợp với nội dung thì hình
thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy nội dung phát triển; nếu
không phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ ngăn cản, kìm hãm
sự phát triển của nội dung.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Vì nội dung và hình thức luôn gắn bó với nhau trong quá
trình vận động, phát triển của sự vật, do vậy trong nhận thức
không được tách rời, tuyệt đối hóa vai trò của nội dung hoặc
hình thức.
+ Nội dung quyết định hình thức, do vậy để nhận thức và
80
cải tạo được sự vật, trước hết ta phải căn cứ vào nội dung, muốn
thay đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải thay đổi nội dung
của nó.
+ Hình thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
nội dung, do vậy trong hoạt động thực tiễn phải thường xuyên
đối chiếu giữa nội dung và hình thức, làm cho hình thức phù hợp
với nội dung để thúc đẩy nội dung phát triển.

Bài tập 20
Từ mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng,
hãy rút ra những ý nghĩa phương pháp luận cần thiết.
Gợi ý trả lời:
- Khái niệm bản chất, hiện tượng:
+ Bản chất là phạm trù dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả
những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định ở bên
trong quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật.
+ Hiện tượng là phạm trù dùng để chỉ những sự biểu hiện
ra bên ngoài của bản chất.
- Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
Bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan, là hai mặt
vừa thống nhất, vừa đối lập trong mỗi sự vật.
+ Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng biểu hiện ở
chỗ:
• Bản chất luôn luôn được bộc lộ ra qua hiện tượng; còn
hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của bản chất ở mức độ nhất
định.
• Bản chất và hiện tượng về căn bản là phù hợp với nhau.
Bản chất nào thì có hiện tượng ấy, bản chất khác nhau sẽ bộc lộ

81
ở những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng
biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện
tượng biểu hiện nó cũng mất theo.
• Dù có những hiện tượng phản ánh xuyên tạc, không đúng
bản chất thì ở mức độ nào đó, dù ít hay nhiều vẫn có hiện tượng
phản ánh đúng bản chất.
+ Sự đối lập giữa bản chất và hiện tượng thể hiện ở chỗ:
• Bản chất là cái chung, cái tất yếu, còn hiện tượng là cái
riêng biệt, phong phú và đa dạng.
• Bản chất là cái bên trong, hiện tượng là cái bên ngoài.
• Bản chất là cái tương đối ổn định, hiện tượng là cái
thường xuyên biến đổi.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Bản chất phản ánh tính tất yếu, tính quy luật trong quá
trình tồn tại, vận động, phát triển của sự vật nên trong nhận thức
và thực tiễn cần phải căn cứ vào bản chất chứ không chỉ dừng lại
ở việc xem xét hiện tượng bề ngoài.
+ Muốn tiếp cận bản chất phải bắt đầu từ việc xem xét, tìm
hiểu những hiện tượng phản ánh nó. Cần phân tích, tổng hợp,…
để tìm ra các hiện tượng đặc trưng, điển hình từ đó mới có thể
hiểu được bản chất của sự vật.
+ Bản chất của các sự vật tương đối ổn định chứ không
phải là bất biến. Nhận thức bản chất là một quá trình phức tạp đi
từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất
sâu sắc hơn.

Bài tập 21
Từ mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực,
hãy rút ra những ý nghĩa phương pháp luận cần thiết?
82
Gợi ý trả lời:
- Khái niệm khả năng, hiện thực:
+ Khả năng là phạm trù dùng để chỉ là cái chưa xuất hiện,
chưa tồn tại trong thực tế, nhưng sẽ xuất hiện và tồn tại thực sự
khi có đủ các điều kiện tương ứng.
+ Hiện thực là phạm trù dùng để chỉ những gì hiện có, hiện
đang tồn tại thực sự.
- Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực:
+ Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, không tách rời nhau, thường xuyên chuyển hóa lẫn
nhau trong quá trình phát triển của sự vật.
Khả năng trong những điều kiện nhất định thì biến thành
hiện thực. Hiện thực mới lại mở ra khả năng mới và trong những
điều kiện nhất định khả năng mới lại chuyển hóa thành hiện
thực.
+ Cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật
có thể tồn tại một hoặc nhiều khả năng (khả năng gần, khả năng
xa, khả năng tất nhiên, khả năng ngẫu nhiên,…).
+ Để khả năng biến thành hiện thực, thường cần không
phải chỉ một điều kiện mà là một tập hợp nhiều điều kiện. Trong
đời sống xã hội, để khả năng biến thành hiện thực cần phải có đủ
những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan cần thiết.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần phải dựa vào
hiện thực để nhận thức và hành động.
+ Căn cứ vào hiện thực để nhận thức, dự báo, tính đến tất
cả các khả năng trên cơ sở đó có kế hoạch, phương pháp phù
hợp, chuẩn bị đủ các điều kiện cần thiết để ứng phó và hành
động một cách hiệu quả.
83
+ Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phải khai
thác và phát huy vai trò của nhân tố chủ quan để biến khả năng
thành hiện thực theo mục đích nhất định.

Bài tập 22
a. Từ phương thức vận động, phát triển nói chung của thế
giới các sự vật, hiện tượng, hãy rút ra những ý nghĩa phương
pháp luận cần thiết.
b. Tại sao khi sử dụng thuốc chữa bệnh, chúng ta không
được sử dụng quá liều lượng đã quy định?
Gợi ý trả lời:
a. Phương thức vận động, phát triển nói chung của thế giới
các sự vật, hiện tượng được chỉ ra trong quy luật chuyển hóa từ
những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại.
- Khái niệm chất, lượng:
+ Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định
khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc
tính của sự vật, làm cho sự vật là nó mà không phải là cái khác.
Như vậy, chất (theo nghĩa triết học) là:
• Cái tồn tại khách quan, vốn có ở các sự vật, hiện tượng.
• Là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính của sự vật (tổng
hợp các thuộc tính của sự vật).
• Là căn cứ để phân biệt các sự vật này với sự vật khác.
+ Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định
khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng về phương diện: số
lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp
điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện

84
tượng.
Như vậy, lượng (theo nghĩa triết học) là:
• Cái tồn tại khách quan, vốn có ở các sự vật, hiện tượng.
• Biểu hiện: (1) quy mô của sự vật, hiện tượng; (2) số
lượng của sự vật, hiện tượng; (3) trình độ vận động, phát triển
của sự vật, hiện tượng; (4) nhịp điệu vận động, phát triển của sự
vật, hiện tượng.
Lượng thường được biểu thị bằng các con số hoặc các đại
lượng cụ thể, cũng có khi lượng được diễn đạt thông qua những
hình tượng hoặc khái niệm trừu tượng.
- Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng:
+ Chất và lượng luôn tồn tại thống nhất trong mỗi sự vật,
hiện tượng. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất
giữa mặt chất và mặt lượng. Chúng tác động qua lại, quy định
lẫn nhau. Sự thống nhất giữa chất và lượng được đặc trưng bằng
khái niệm độ.
Độ là khoảng giới hạn mà ở đó những thay đổi dần dần về
lượng chưa dẫn đến những thay đổi căn bản về chất của sự vật.
Trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó mà
chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác.
+ Sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất.
Sự thay đổi về lượng đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu
dẫn đến những thay đổi về chất của sự vật, chất cũ mất đi, chất
mới xuất hiện.
Giai đoạn chuyển hóa về chất của sự vật do những thay đổi
về lượng trước đó gây ra được gọi là bước nhảy.
Thời điểm bước nhảy được thực hiện được gọi là điểm nút.
Bước nhảy có nhiều hình thức: bước nhảy nhanh, bước

85
nhảy chậm, bước nhảy toàn bộ, bước nhảy cục bộ,...
Bước nhảy xuất hiện đánh dấu sự kết thúc một giai đoạn
vận động, phát triển; đồng thời cũng là sự khởi đầu cho một quá
trình vận động, phát triển mới tiếp theo.
+ Sự thay đổi về chất tác động trở lại, quy định sự thay đổi
về lượng.
Sự thay đổi về lượng sớm muộn sẽ dẫn đến những thay đổi
về chất. Tuy nhiên, khi chất (những thuộc tính) mới của sự vật
xuất hiện thì nó cũng đòi hỏi lượng (quy mô, số lượng, trình độ
và nhịp điệu vận động, phát triển) của sự vật phải có những thay
đổi tương ứng cho phù hợp.
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống
nhất biện chứng giữa hai mặt chất và lượng. Sự thay đổi dần dần
về lượng tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất. Chất mới ra đời
sẽ tác động trở lại, quy định sự thay đổi của lượng mới. Quá
trình đó liên tục diễn ra, đó cũng chính là phương thức (cách
thức) vận động, phát triển nói chung của thế giới các sự vật, hiện
tượng.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại là cơ sở giúp chúng ta
nhận thức đúng đắn phương thức vận động, phát triển nói chung
của thế giới các sự vật, hiện tượng.
+ Do chất và lượng luôn thống nhất với nhau nên trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn luôn phải xem xét chất và
lượng trong mối quan hệ biện chứng.
+ Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, để có
một chất mới, một sự vật mới xuất hiện đòi hỏi phải bắt đầu tạo
ra sự tích lũy về lượng, thúc đẩy cho lượng biến đổi đến giới hạn
86
của độ và tạo điều kiện cho bước nhảy được thực hiện. Khi chất
mới xuất hiện cần phải điều chỉnh về lượng để có một lượng mới
tương ứng, đáp ứng được yêu cầu của chất mới.
+ Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần
khắc phục tư tưởng nôn nóng, tả khuynh (nóng vội, chủ quan,
chưa tích lũy đủ về lượng nhưng bất chấp quy luật để thực hiện
bước nhảy về chất) và tư tưởng bảo thủ, hữu khuynh (lượng thay
đổi vượt quá giới hạn của độ (điểm nút) nhưng không dám thực
hiện bước nhảy về chất).
+ Cần phân biệt các hình thức của bước nhảy để nhận thức
và vận dụng linh hoạt sao cho phù hợp và hiệu quả.
+ Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cùng
với việc tích lũy, thúc đẩy sự thay đổi về lượng, cần phân tích
tình hình để kịp thời phát hiện, chớp thời cơ nhằm chuyển từ
những thay đổi dần dần về lượng (có tính chất tiến hóa) sang
thay đổi về chất (có tính cách mạng).
b. Vì liều lượng (lượng) thay đổi sẽ làm thuộc tính, công
dụng,... (chất) của thuốc thay đổi và có thể gây nguy hiểm đến
tính mạng của chúng ta.

Bài tập 23
a. Từ nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá
trình vận động và phát triển, hãy rút ra những ý nghĩa phương
pháp luận cần thiết.
b. Đánh giá quan điểm cho rằng“để cuộc sống trở nên tốt
đẹp hơn chúng ta cần phải thủ tiêu hoặc điều hòa các mâu thuẫn
khi chúng xuất hiện”.
Gợi ý trả lời:
a. Nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình
87
vận động và phát triển của thế giới các sự vật, hiện tượng đã
được chỉ ra trong quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập (quy luật mâu thuẫn).
- Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất của mâu thuẫn:
+ Mâu thuẫn là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống
nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự
vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau. Nói
cách khác, mâu thuẫn chính là sự liên hệ, tác động qua lại giữa
các mặt đối lập.
+ Mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ những mặt, những
thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau,
nhưng đồng thời là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau.
+ Các tính chất của mâu thuẫn:
Mâu thuẫn có 3 tính chất cơ bản sau: tính khách quan; tính
phổ biến; tính đa dạng, phong phú.
- Quá trình vận động của mâu thuẫn:
Mâu thuẫn là một quá trình, trong đó các mặt đối lập vừa
thống nhất vừa đấu tranh với nhau.
+ Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự
liên hệ theo hướng ràng buộc, quy định lẫn nhau, làm tiền đề tồn
tại cho nhau của các mặt đối lập.
+ Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ sự
liên hệ theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau của các mặt đối
lập.
Trong quá trình vận động của mâu thuẫn, thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập là hai mặt, hai trạng thái luôn
thống nhất với nhau. Sự tồn tại, phát triển của sự vật ở mỗi thời
điểm phụ thuộc vào mặt, trạng thái nào đang chiếm ưu thế. Nếu
sự thống nhất của các mặt đối lập (ràng buộc lẫn nhau) chiếm ưu
88
thế thì sự vật vận động, phát triển trong trạng thái cân bằng, ổn
định tương đối. Nếu sự đấu tranh của các mặt đối lập (sự bài trừ,
phủ định nhau) chiếm ưu thế nó sẽ phá vỡ trạng thái ổn định của
sự vật, đẩy mâu thuẫn đến cao trào, đỉnh điểm, các mặt đối lập sẽ
chuyển hóa nhau và mâu thuẫn được giải quyết. Sự vật cũ mất
đi, sự vật mới ra đời và lại tiếp tục vận động, phát triển gắn với
một quá trình mâu thuẫn mới,…
Như vậy, mâu thuẫn và quá trình giải quyết mâu thuẫn
chính là nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến thúc đẩy sự vận
động, phát triển không ngừng của thế giới các sự vật, hiện tượng.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là
cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng đắn về nguồn gốc,
khuynh hướng, động lực vận động và phát triển nói chung của
thế giới các sự vật, hiện tượng.
+ Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là
nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển, do vậy trong
nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện
mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được nguồn
gốc, bản chất, khuynh hướng của sự vận động và phát triển.
+ Mâu thuẫn là một quá trình, do đó giải quyết mẫu thuẫn
cũng là một quá trình. Trong quá trình giải quyết mâu thuẫn cần
căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể, từng giai đoạn của mâu
thuẫn, từng loại mâu thuẫn,… để có cách thức giải quyết khác
nhau sao cho phù hợp, hiệu quả.
b. Mâu thuẫn và quá trình giải quyết mâu thuẫn là nguồn
gốc, động lực cơ bản, phổ biến thúc đẩy sự vận động, phát triển.
Do đó, để thúc đẩy quá trình vận động, phát triển của thế giới
các sự vật, hiện tượng, mọi mâu thuẫn cần phải được giải quyết

89
một cách hợp lý, khoa học. Việc điều hòa hoặc thủ tiêu mâu
thuẫn sẽ kìm hãm hoặc thủ tiêu nguồn gốc, động lực của sự vận
động, phát triển.

Bài tập 24
a. Từ khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi quá trình
vận động, phát triển của thế giới các sự vật, hiện tượng, hãy rút
ra những ý nghĩa phương pháp luận cần thiết.
b. Đặc điểm nào của phủ định biện chứng được chứng
minh qua các định luật di truyền của G.Menden ?
Gợi ý trả lời:
a. Khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận
động và phát triển của thế giới các sự vật, hiện tượng đã được
chỉ ra trong quy luật phủ định của phủ định.
- Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng:
+ Phủ định là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong
quá trình vận động và phát triển.
+ Phủ định biện chứng là là sự phủ định tự thân, phát triển
tự thân dẫn đến sự ra đời của cái mới, cái phủ định, cái tiến bộ
hơn.
Phủ định biện chứng tạo ra điều kiện, tiền đề cho quá trình
phát triển tiếp theo của sự vật.
Phủ định biện chứng có hai đặc điểm cơ bản sau:
• Phủ định biện chứng có tính khách quan vì nguyên nhân
của sự phủ định nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng; đó
là kết quả tất yếu của quá trình thay đổi về lượng dẫn đến sự thay
đổi về chất và ngược lại trong mỗi sự vật, kết quả của quá trình
giải quyết mâu thuẫn bên trong bản thân sự vật,… Vì thế, phủ
định biện chứng chính là sự tự thân phủ định.
90
• Phủ định biện chứng có tính kế thừa, phủ định biện chứng
là quá trình cái mới (cái phủ định) ra đời trên cơ sở loại bỏ
những mặt không phù hợp, kế thừa những mặt, những yếu tố hợp
lý trong thành phần của cái cũ (cái bị phủ định) để đưa vào cái
mới sau khi đã cải biến chúng. Nhờ tính kế thừa mà phủ định
biện chứng không phải là sự phủ định sạch trơn cái cũ mà trái
lại, trên cơ sở kế thừa, mang theo những hạt nhân hợp lý của cái
cũ để phát triển thành cái mới, tạo nên tính liên tục của sự phát
triển.
- Phủ định của phủ định:
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, sợi dây
chuyền của những lần phủ định biện chứng là vô tận. Cái mới
phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới này lại trở nên cũ và bị cái
mới hơn phủ định. Sự phát triển của sự vật thông qua những lần
phủ định như thế tạo nên một khuynh hướng phát triển tất yếu là
đi từ thấp đến cao một cách vô tận theo đường “xoáy ốc”. Trong
mỗi chu kỳ của sự phát triển, sự vật sau nhiều lần phủ định
dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở mới cao hơn.
Phủ định của phủ định là quá trình:
+ Luôn có sự thống nhất giữa hai mặt loại bỏ và kế thừa,
phủ định và khẳng định.
+ Mang tính chu kỳ, mỗi chu kỳ phải có ít nhất từ hai lần
phủ định trở lên mới có thể tạo ra một chu kỳ “phủ định của phủ
định”.
+ Có khuynh hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, đặc trưng của
nó là sự xuất hiện của cái mới, cái tiến bộ hơn (cái phủ định) để
thay thế cho cái cũ, cái lạc hâu (cái bị phủ định). Khuynh hướng
này được mô tả giống như đường “xoáy ốc” đi lên. Đường “xoáy

91
ốc” là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng: tính liên tục (kế
thừa), tính chu kỳ (lặp lại) và tính tiến lên trong quá trình phát
triển của thế giới các sự vật, hiện tượng.
Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ
định chỉ ra khuynh hướng cơ bản, phổ biến của mọi quá trình
vận động và phát triển. Đó là quá trình cái mới ra đời trên cơ sở
loại bỏ và kế thừa những mặt nào đó của cái cũ bị nó phủ định.
Quá trình đó diễn ra một cách liên tục theo những chu kỳ giống
như một đường “xoáy ốc” đi lên.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận
thức một cách đúng đắn về khuynh hướng vận động, phát triển
nói chung của thế giới các sự vật, hiện tượng.
+ Phủ định của phủ định là quá trình mang tính kế thừa, do
đó trong nhận thức và thực tiễn cần tránh thái độ phủ định sạch
trơn, phải biết kế thừa một cách có chọn lọc những mặt, những
yếu tố tích cực từ thành phần của cái cũ, cái bị phủ định để đưa
vào, làm tiền đề thúc đẩy sự phát triển của cái mới.
+ Theo khuynh hướng tất yếu của sự phát triển, những cái
cũ kỹ, lạc hậu, hư hỏng sớm muộn sẽ phải nhường chỗ cho
những cái mới, cái tiến bộ, cái tốt tươi hơn. Do đó, để góp phần
thúc đẩy sự phát triển, chúng ta cần quan tâm, phát hiện, đặt
niềm tin vào cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển.
b. Các định luật di truyền của G.Menden đã góp phần
chứng minh rằng luôn có tính kế thừa trong quá trình phủ định
biện chứng.

Bài tập 25
a. Nêu khái niệm thực tiễn và các hình thức cơ bản của
92
thực tiễn.
b. Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, hãy rút ra
những ý nghĩa phương pháp luận cần thiết.
Gợi ý trả lời:
a. Thực tiễn và các hình thức của thực tiễn:
- Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục
đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự
nhiên và xã hội.
- Các hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn (gồm 3 hình
thức):
+ Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản, đầu tiên
của thực tiễn. Đây là hoạt động mà trong đó con người sử dụng
công cụ lao động tác động vào giới tự nhiên để tạo ra của cải vật
chất và các điều kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại và phát
triển của mình.
+ Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của các tổ chức
cộng đồng người, các tổ chức khác nhau trong xã hội nhằm cải
biến các những quan hệ chính trị - xã hội để thúc đẩy xã hội phát
triển.
+ Thực nghiệm khoa học là một hình thức đặc biệt của hoạt
động thực tiễn. Đây là hoạt động được tiến hành trong những
điều kiện do con người tạo ra, gần giống, giống hoặc lặp lại
những trạng thái của tự nhiên và xã hội nhằm xác định những
quy luật vận động của đối tượng nghiên cứu.
b. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức và ý nghĩa
phương pháp luận:
- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
+ Thực tiễn là cơ sở nhận thức.
Thực tiễn là điểm xuất phát trực tiếp của nhận thức, nó đề
93
ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động,
phát triển của nhận thức. Thông qua hoạt động thực tiễn, con
người sử dụng công cụ lao động tác động, chinh phục và cải biến
tự nhiên và xã hội, những thuộc tính, đặc điểm, mối liên hệ,…
giữa các sự vật, hiện tượng dần dần bộc lộ. Từ những tài liệu
cảm tính ban đầu, thông qua quá trình nhận thức (so sánh, phân
tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa,…) con người từng
bước nắm bắt được bản chất, quy luật vận động, phát triển của
thế giới để hình thành nên hệ thống tri thức và lý luận khoa học.
+ Thực tiễn là động lực của nhận thức.
Thực tiễn đặt ra nhiệm vụ cho nhận thức giải quyết, thông
qua việc giải quyết những nhiệm vụ do thực tiễn đặt ra mà nhận
thức không ngừng phát triển. Thực tiễn còn giúp con người hoàn
thiện các giác quan, khí quan, cơ quan nhận biết; cung cấp cho
con người những phương tiện, công cụ thực nghiệm để hỗ trợ
cho quá trình nhận thức của con người.
+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức.
Xét đến cùng thì mục đích mà mọi quá trình nhận thức
hướng tới chính là thực tiễn. Nhận thức là để góp phần làm cho
hoạt động thực tiễn của con người ngày càng hiệu quả hơn, cuộc
sống của con người ngày càng tốt đẹp hơn.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra và xác minh tính đúng
đắn của chân lý.
Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng không thể
vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn, chịu sự kiểm nghiệm
trực tiếp của thực tiễn. Qua thực tiễn để bổ sung, điều chỉnh, sửa
chữa, phát triển và hoàn thiện kết quả nhận thức. C.Mác viết:
“Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân
lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận

94
mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người
phải chứng minh chân lý”1.
Như vậy, thực tiễn không chỉ là cơ sở, động lực, là mục
đích của nhận thức mà còn là tiêu chuẩn để kiểm tra và xác minh
tính đúng đắn của nhận thức.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
Từ vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi chúng ta
trong nhận thức và hành động phải luôn luôn quán triệt quan
điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất
phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, coi trọng công tác
tổng kết thực tiễn. Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn,
học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của
bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều,… Ngược lại, nếu tuyệt đối
hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng và kinh
nghiệm chủ nghĩa. Do đó, nguyên tắc thống nhất giữa thực tiễn
với lý luận phải là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thực tiễn
và hoạt động lý luận. Lý luận không gắn liền với thực tiễn là lý
luận suông, ngược lại thực tiễn không được soi sáng bởi lý luận
khoa học sẽ trở thành thực tiễn mù quáng.

Bài tập 26
a. Trình bày quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
về nhận thức.
b. Quan điểm duy vật biện chứng về nhận thức được đưa
ra dựa trên những nguyên tắc cơ bản nào?
c. Phân biệt một số trình độ cơ bản của nhận thức.
Gợi ý trả lời:
a. Nhận thức là một quá trình phản ánh tích cực, tự giác và
1
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.9-10.
95
sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc con người trên cơ sở thực
tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan đó.
b. Quan điểm duy vật biện chứng về nhận thức được đưa ra
dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:
Một là, thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, độc
lập với ý thức con người.
Hai là, thừa nhận con người có khả năng nhận thức được
thế giới khách quan; coi nhận thức là sự phản ánh thế giới khách
quan vào trong bộ óc của con người, là hoạt động tìm hiểu khách
thể của chủ thể; thừa nhận không có cái gì là không thể nhận
thức được mà chỉ có những cái con người chưa nhận thức được.
Ba là, khẳng định sự phản ánh đó là một quá trình biện
chứng, tích cực, tự giác và sáng tạo. Quá trình phản ánh ấy diễn
ra theo trình tự từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ
hiện tượng đến bản chất, từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất
sâu sắc hơn,…
Bốn là, coi thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp nhất của
nhận thức, là động lực, mục đích của nhận thức và là tiêu chuẩn
để kiểm tra chân lý.
c. Các trình độ cơ bản của nhận thức:
Nhận thức là một quá trình và quá trình đó bao gồm các
trình độ nhận thức khác nhau.
- Có thể phân chia các trình độ nhận thức thành nhận thức
kinh nghiệm và nhận thức lý luận, trong đó:
+ Nhận thức kinh nghiệm là trình độ nhận thức hình thành
từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong giới tự
nhiên, xã hội hoặc qua các thí nghiệm khoa học. Kết quả của
nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm, bao gồm
tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa
96
học.
+ Nhận thức lý luận là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu
tượng, có tính hệ thống trong việc khái quát bản chất, quy luật
của các sự vật, hiện tượng.
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai
đoạn nhận thức khác nhau, có mối quan hệ biện chứng với nhau,
trong đó nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận.
Nhận thức lý luận không hình thành một cách tự phát, trực tiếp,
do đó, nó có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn
sự hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn
kinh nghiệm hợp lý phục vụ cho hoạt động thực tiễn.
- Có thể phân chia các trình độ nhận thức thành nhận thức
thông thường và nhận thức khoa học, trong đó:
+ Nhận thức thông thường là loại nhận thức được hình
thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày
của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả
những đặc điểm chi tiết, cụ thể và với sắc thái khác nhau của sự
vật, hiện tượng. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính
phong phú, nhiều vẻ, gắn liền với quan niệm sống hàng ngày.
+ Nhận thức khoa học là loại nhận thức được hình thành
một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm, bản chất,
những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Nhận thức
khoa học diễn ra dưới dạng trừu tượng lôgíc, gắn liền với hệ
thống khái niệm, phạm trù, quy luật khoa học. Để nhận thức
khoa học, con người phải sử dụng một hệ thống các phương
pháp nghiên cứu và được diễn đạt bằng cả ngôn ngữ thông
thường và thuật ngữ khoa học.
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc
thang khác nhau về chất của quá trình nhận thức nhằm đạt tới các

97
tri thức chân thực. Giữa chúng có liên hệ chặt chẽ với nhau: nhận
thức thông thường là cơ sở cho nhận thức khoa học ngược lại khi
đã đạt đến trình độ nhận thức khoa học nó lại tác động trở lại
nhận thức thông thường, làm cho nhận thức thông thường phát
triển.

Bài tập 27
a. Trình bày quan điểm của V.I.Lênin về con đường biện
chứng của sự nhận thức chân lý.
b. Vẽ sơ đồ thể hiện mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính,
nhận thức lý tính và thực tiễn.
Gợi ý trả lời:
a. Quan điểm của V.I.Lênin về con đường biện chứng của
sự nhận thức chân lý:
Trong tác phẩm Bút ký triết học, V.I.Lênin khái quát con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý như sau: từ trực
quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng
đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan.
- Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu của quá trình
nhận thức. Ở giai đoạn này, con người nhận thức sự vật một cách
trực tiếp, cảm tính và dừng lại ở sự phản ánh những biểu hiện
bên ngoài mà chưa phản ánh được bản chất, quy luật sâu sắc ở
bên trong của sự vật. Nhận thức cảm tính được thực hiện qua ba
hình thức cơ bản là: cảm giác, tri giác và biểu tượng.
+ Cảm giác là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh các
thuộc tính riêng lẻ của các sự vật, hiện tượng khi chúng tác động
trực tiếp vào các giác quan của con người. Cảm giác là nguồn
gốc của mọi sự hiểu biết, là kết quả của sự chuyển hoá những
98
năng lượng kích thích từ bên ngoài thành yếu tố ý thức.
+ Tri giác là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh tương
đối toàn vẹn sự vật khi sự vật đó đang tác động trực tiếp vào các
giác quan con người. Tri giác là sự tổng hợp các cảm giác. So
với cảm giác thì tri giác là hình thức nhận thức đầy đủ hơn,
phong phú hơn.
+ Biểu tượng là hình thức nhận thức cảm tính phản ánh
tương đối hoàn chỉnh sự vật do sự hình dung lại, nhớ lại sự vật
khi sự vật không còn tác động trực tiếp vào các giác quan.
- Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận
thức. Ở giai đoạn này, con người phản ánh một cách gián tiếp,
khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của sự vật,
hiện tượng khách quan. Nhận thức lý tính được thực hiện thông
qua ba hình thức cơ bản là khái niệm, phán đoán và suy lý.
+ Khái niệm là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính,
phản ánh những đặc tính bản chất của sự vật, hiện tượng.
Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng
hợp các đặc điểm, thuộc tính của sự vật, hiện tượng hay một lớp
các sự vật, hiện tượng. Nó là cơ sở để hình thành nên những
phán đoán trong quá trình con người tư duy về sự vật, hiện tượng
khách quan.
+ Phán đoán là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính,
được hình thành thông qua việc liên kết các khái niệm với nhau
nhằm khẳng định hay phủ định một đặc điểm, một thuộc tính nào
đó của đối tượng nhận thức.
Theo trình độ phát triển của nhận thức có thể chia thành:
phán đoán đơn nhất, phán đoán đặc thù, phán đoán phổ biến.
Phán đoán phổ biến là hình thức phản ánh thể hiện sự bao quát
rộng lớn nhất về thực tại khách quan.

99
+ Suy lý là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, được
hình thành trên cơ sở liên kết các phán đoán nhằm rút ra tri thức
mới về sự vật. Điều kiện để có bất cứ một suy lý nào cũng là
phải trên cơ sở những tri thức đã có dưới hình thức là những
phán đoán, đồng thời tuân theo những quy tắc lôgíc của các loại
hình suy luận: suy luận quy nạp (đi từ cái riêng đến cái chung),
suy luận diễn dịch (đi từ cái chung đến cái riêng, cái cụ thể).
- Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính
và thực tiễn:
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc
thang khác nhau của cùng một quá trình nhận thức, chúng
thường diễn ra đan xen vào nhau nhưng có chức năng, nhiệm vụ
khác nhau:
+ Nhận thức cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác
động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính.
+ Nhận thức lý tính có tính khái quát cao nhờ đó hiểu được
bản chất, quy luật vận động của sự vật, giúp cho nhận thức cảm
tính có được sự định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.
+ Nhận thức lý tính mới chỉ đạt được những tri thức về đối
tượng nhưng những tri thức đó có chính xác hay không cần phải
có sự kiểm nghiệm của thực tiễn, tức là nhận thức phải quay trở
về với thực tiễn, dùng thực tiễn để đo lường tính chân thực của
nhận thức. Thực tiễn chính là cơ sở, động lực, là mục đích của
mọi quá trình nhận thức.
Tóm lại, theo V.I.Lênin con đường biện chứng của sự nhận
thức chân lý xuất phát từ thực tiễn, lấy thực tiễn làm cơ sở, động
lực, trải qua các giai đoạn nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính
để có được những tri thức mới. Những tri thức mới này được vận
dụng vào thực tiễn để kiểm tra, xác minh, đồng thời góp phần

100
làm cho hoạt động thực tiễn trở nên hiệu quả hơn. Sự biến đổi
không ngừng của hoạt động thực tiễn: một mặt sẽ tiếp tục điều
chỉnh, bổ sung, hoàn thiện các tri thức đó, mặt khác sẽ đặt ra
những nhu cầu nhận thức mới, đồng thời cung cấp những tài liệu
cảm tính và thực nghiệm để thúc đẩy quá trình nhận thức của con
người.
b. Sơ đồ thể hiện mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính,
nhận thức lý tính và thực tiễn:

NTLT Tri thức mới


TT
NTCT

Bài tập 28
a. Chân lý là gì? Các tính chất của chân lý.
b. Chân lý có vai trò như thế nào đối với thực tiễn?
Gợi ý trả lời:
a. Chân lý và các tính chất của chân lý:
- Chân lý là khái niệm dùng để chỉ những tri thức có nội
dung phù hợp với thực tế khách quan mà sự phù hợp đó đã được
kiểm tra và chứng minh bởi thực tiễn.
- Các tính chất của chân lý:
+ Chân lý có tính khách quan: tính khách quan của chân lý
biểu hiện nội dung phản ánh của chân lý độc lập với ý thức của
con người, không phải là sản phẩm thuần tuý chủ quan, mà nội
dung nó thuộc về khách quan, do thế giới khách quan quy định.

101
+ Chân lý có tính tuyệt đối và tính tương đối:
• Tính tuyệt đối của chân lý là tính phù hợp hoàn toàn đầy
đủ giữa nội dung phản ánh của tri thức với hiện thực khách quan.
Về nguyên tắc, con người có thể đạt tới tính tuyệt đối của
chân lý. Bởi vì, khả năng nhận thức của con người là vô hạn.
Song, khả năng đó bị hạn chế bởi những điều kiện cụ thể, bởi
điều kiện xác định về không gian, thời gian của đối tượng được
phản ánh.
• Tính tương đối của chân lý là tính phù hợp nhưng chưa
hoàn toàn đầy đủ giữa nội dung phản ánh của những tri thức với
hiện thực khách quan. Điều đó có nghĩa giữa nội dung của chân
lý với khách thể phản ánh chỉ mới phù hợp từng phần, từng bộ
phận, ở một khía cạnh nào đó trong những điều kiện nhất định.
Tính tương đối và tính tuyệt đối của chân lý không tồn tại
tách rời nhau mà có sự thống nhất biện chứng với nhau. Một
mặt, chân lý tuyệt đối là tổng số của các chân lý tương đối; mặt
khác, trong mỗi chân lý mang tính tương đối bao giờ cũng chứa
đựng những yếu tố của tính tuyệt đối. Chân lý tuyệt đối và chân
lý tương đối là hai mặt của một chân lý cụ thể. Nhận thức đúng
đắn mối quan hệ biện chứng giữa tính tương đối và tính tuyệt đối
của chân lý có ý nghĩa quan trọng trong việc phê phán và khắc
phục sai lầm cực đoan trong nhận thức và hành động.
+ Chân lý có tính cụ thể: tính cụ thể của chân lý là đặc tính
gắn liền và phù hợp giữa nội dung phản ánh với một đối tượng
nhất định cùng các điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Bất kỳ
chân lý nào cũng gắn liền với những điều kiện lịch sử - cụ thể,
do đó “không có chân lý trừu tượng”, “chân lý luôn luôn là cụ
thể”.
b. Vai trò của chân lý đối với thực tiễn:

102
Hoạt động thực tiễn chỉ có thể thành công và có hiệu quả
khi con người có tri thức đúng đắn về thực tế khách quan và vận
dụng đúng đắn tri thức đó trong hoạt động thực tiễn. Do đó, chân
lý là một trong những điều kiện tiên quyết bảo đảm sự thành
công và tính hiệu quả của hoạt động thực tiễn.
Chân lý được nhận thức, phát hiện, bổ sung và hoàn thiện
nhờ thực tiễn, đồng thời sự phát triển của thực tiễn phụ thuộc
vào sự vận dụng đúng đắn những chân lý mà con người đã đạt
được thông qua hoạt động thực tiễn và nhận thức.

103
Chương III
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

Bài tập 29
a. Trình bày khái niệm sản xuất vật chất, phương thức sản
xuất.
b. Phân tích vai trò của sản xuất vật chất, phương thức sản
xuất đối với sự tồn tại, phát triển của xã hội.
Gợi ý trả lời:
a. Sản xuất vật chất và phương thức sản xuất:
- Sản xuất vật chất là một loại hình hoạt động thực tiễn với
mục đích cải biến các đối tượng của giới tự nhiên theo nhu cầu
tồn tại, phát triển của con người và xã hội.
Sản xuất vật chất là một loại hình hoạt động có tính khách
quan, tính xã hội, tính lịch sử và tính sáng tạo.
- Phương thức sản xuất là những cách thức mà con người
sử dụng để tiến hành quá trình sản xuất của xã hội ở những giai
đoạn lịch sử nhất định.
Mỗi xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định đều có
phương thức sản xuất của nó với những đặc điểm riêng.
b. Vai trò của sản xuất vật chất và phương thức sản xuất đối
với sự tồn tại, phát triển của xã hội:
- Sản xuất vật chất giữ vai trò là nhân tố quyết định sự sinh
tồn, phát triển của con người và xã hội.
C.Mác đã kết luận: “…tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại
của con người, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là: người
ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”.
Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức
uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi
104
lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn
những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất” 1.
Do đó, sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản của con người, là
cái để phân biệt hoạt động của con người với con vật.
- Sản xuất vật chất là hoạt động nền tảng làm phát sinh,
phát triển những mối quan hệ, những tổ chức, kết cấu và thiết
chế xã hội.
Để tiến hành sản xuất vật chất, con người tất yếu phải thiết
lập nên những mối quan hệ nhất định với nhau, đó chính là
những quan hệ sản xuất và trên cơ sở những quan hệ sản xuất
này mà làm phát sinh các mối quan hệ khác như: chính trị, đạo
đức, pháp luật... Khái quát lịch sử phát triển của nhân loại,
C.Mác đã kết luận: "việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật
chất trực tiếp và chính, mỗi một giai đoạn phát triển kinh tế nhất
định của một dân tộc hay một thời đại tạo ra một cơ sở, từ đó mà
người ta phát triển các thể chế nhà nước, các quan điểm pháp
quyền, nghệ thuật và thậm chí cả những quan niệm tôn giáo của
con người ta"2.
- Sản xuất vật chất là cơ sở của sự hình thành, biến đổi và
phát triển của xã hội loài người. Sự phát triển của sản xuất vật
chất quyết định sự biến đổi, phát triển của toàn bộ đời sống xã
hội. Do đó, để giải thích và giải quyết các vấn đề của đời sống xã
hội thì phải xuất phát từ thực trạng sản xuất vật chất của xã hội.
- Sự phát triển kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất
đã thúc đẩy quá trình phát triển xã hội loài người từ trình độ thấp
đến trình độ cao. Nói cách khác, sự phát triển của lịch sử nhân
loại chính là lịch sử phát triển thay thế nhau của các phương thức
sản xuất.
1
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.39 - 40.
2
2. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.19, tr.500.
105
Để phân biệt các thời đại kinh tế phải căn cứ vào phương
thức sản xuất đặc trưng của mỗi thời đại. Sự phát triển của
phương thức sản xuất quyết định sự biến đổi, phát triển của xã
hội, do đó để thúc đẩy xã hội phát triển cần phải thúc đẩy sự phát
triển của phương thức sản xuất.

Bài tập 30
a. Trình bày khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản
xuất.
b. Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, nhân tố
nào giữ vai trò quyết định? Tại sao?
c. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất biểu hiện qua
những yếu tố nào? Thước đo trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất là gì?
Gợi ý trả lời:
a. Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất:
- Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh
thần tạo thành sức mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo nhu
cầu sinh tồn, phát triển của con người.
Lực lượng sản xuất được cấu thành bởi sự kết hợp của hai
nhân tố: người lao động và tư liệu sản xuất. Đây là những nhân
tố cơ bản, tất yếu tạo thành nội dung vật chất của quá trình sản
xuất.
- Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu
sản xuất, quan hệ trong tổ chức - quản lý quá trình sản xuất và
quan hệ trong phân phối kết quả quá trình sản xuất đó. Những
mặt quan hệ này tồn tại trong sự liên hệ, ràng buộc và chi phối
106
lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò
quyết định nhất.
b. Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, nhân tố
người lao động giữ vai trò quyết định. Vì suy đến cùng thì các tư
liệu sản xuất chỉ là sản phẩm lao động của con người, đồng thời
giá trị và hiệu quả thực tế của các tư liệu sản xuất phụ thuộc vào
trình độ thực tế sử dụng và sáng tạo của người lao động.
c. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
- Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình
độ chinh phục giới tự nhiên của con người.
- Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của
công cụ lao động; trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng của con
người lao động; trình độ tổ chức, quản lý và phân công lao động
xã hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
- Thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
năng suất lao động xã hội.

Bài tập 31
a. Phân tích nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
b. Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và phương thức
sản xuất có quan hệ với nhau như thế nào?
Gợi ý trả lời:
- Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất chỉ ra mối quan hệ biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
+ Lực lượng sản xuất là tổng hợp các yếu tố vật chất và
tinh thần tạo thành sức mạnh thực tiễn cải biến giới tự nhiên theo
nhu cầu sinh tồn, phát triển của con người.
107
+ Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất (thể hiện ở ba mặt cơ bản là quan hệ về sở hữu
tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức - quản lý quá trình sản
xuất và quan hệ trong phân phối kết quả lao động).
+ Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh trình
độ chinh phục giới tự nhiên của con người. Nó biểu hiện ở trình
độ của công cụ lao động; trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng của
con người lao động; trình độ tổ chức, quản lý và phân công lao
động xã hội; trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
- Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất:
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản
xuất là mối quan hệ thống nhất biện chứng, trong đó lực lượng
sản xuất quyết định quan hệ sản xuất và quan hệ sản xuất tác
động trở lại lực lượng sản xuất.
• Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ
sản xuất được thể hiện ở chỗ:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản,
tất yếu của quá trình sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất là nội
dung vật chất của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là
hình thức kinh tế của quá trình đó. Do đó, khi lực lượng sản xuất
(nội dung vật chất của quá trình sản xuất) biến đổi thì quan hệ
sản xuất (hình thức kinh tế của quá trình đó) sớm muộn cũng
phải biến đổi theo.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định, tương ứng với trình
độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
(muốn tồn tại và thúc đẩy sản xuất phát triển) phải điều chỉnh
trên cả ba phương diện: sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức - quản lý
sản xuất, phân phối kết quả quá trình sản xuất sao cho phù hợp

108
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
• Quan hệ sản xuất với tư cách là hình thức kinh tế của quá
trình sản xuất luôn tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Sự tác động này diễn ra theo cả hai chiều hướng tích cực và
tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào tính phù hợp hay không phù hợp
của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất.
Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực
lượng sản xuất sẽ tạo ra tác động tích cực, thúc đẩy và tạo điều
kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Nếu không phù hợp sẽ tạo
ra tác động tiêu cực, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất.
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất là mối quan hệ thống nhất có bao hàm khả năng chuyển hóa
thành các mặt đối lập và phát sinh mâu thuẫn.
Khi một phương thức sản xuất mới xuất hiện, khi đó quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất và "tạo địa bàn đầy đủ" cho lực lượng sản xuất phát triển.
Để đáp ứng nhu cầu của nền sản xuất xã hội, lực lượng sản
xuất phải thường xuyên biến đổi, phát triển. Trong khi đó, quan
hệ sản xuất có khuynh hướng ổn định, biến đổi chậm hơn. Sự
phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm
cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp dần dần trở nên không phù
hợp với sự phát triển của nó. Sự không phù hợp đó dần dần biến
quan hệ sản xuất trở thành "xiềng xích" của lực lượng sản xuất,
kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất đang phát triển với quan hệ sản xuất lạc hậu đang
kìm hãm nó xuất hiện và ngày càng trở nên sâu sắc. Khi quan hệ
sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo

109
quy luật chung, quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan
hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên,
việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ
sản xuất là một quá trình phức tạp. Nó phải thông qua nhận thức
và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai
cấp phải thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã
hội. C.Mác đã viết: "Tới một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với
những quan hệ sản xuất hiện có..., trong đó từ trước đến nay các
lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức
phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành
những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời
đại một cuộc cách mạng xã hội"1.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động trong toàn
bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Bằng việc chỉ ra mối quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, quy luật này
đã chỉ ra nguồn gốc và động lực cơ bản nhất đối với sự vận
động, phát triển của phương thức sản xuất, nền sản xuất vật chất
và rộng hơn là sự vận động, phát triển của toàn bộ đời sống xã
hội.
b. Quan hệ giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất với
phương thức sản xuất:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt cơ bản
cấu thành của mỗi phương thức sản xuất. Trong đó, lực lượng
sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức của
phương thức sản xuất.

1
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.13, tr.15.
110
Sự tồn tại và phát triển của mỗi phương thức sản xuất xét
đến cùng là do sự phát triển của lực lượng sản xuất cùng với mâu
thuẫn và sự vận động của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất (hợp thành nội dung và hình thức của nó) quy
định.

Bài tập 32
a. Trình bày khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng
tầng.
b. Trong xã hội có giai cấp, đặc biệt trong các xã hội hiện
đại, thiết chế nào giữ vai trò quan trọng nhất trong hệ thống
kiến trúc thượng tầng của xã hội?
c. Trong các hình thái ý thức xã hội đang tồn tại trong kiến
trúc thượng tầng của xã hội nước ta hiện nay, những hình thái ý
thức xã hội nào có quan hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng?
Gợi ý trả lời:
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng:
- Cơ sở hạ tầng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những
quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất
định.
Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể có thể bao gồm quan
hệ sản xuất thống trị, quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ và
quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai. Trong đó,
quan hệ sản xuất thống trị bao giờ cũng giữ vai trò chủ đạo, chi
phối các quan hệ sản xuất khác, nó quy định xu hướng chung của
đời sống kinh tế - xã hội và giữ vai trò là đặc trưng cho chế độ
kinh tế của một xã hội nhất định.
Xét trong phạm vi phương thức sản xuất thì quan hệ sản
xuất là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, nhưng xét
111
trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan hệ sản xuất "hợp
thành" cơ sở kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực, trên đó
hình thành nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.
- Kiến trúc thượng tầng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ
hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết
chế chính trị - xã hội tương ứng, được hình thành trên một cơ sở
hạ tầng nhất định.
Kiến trúc thượng tầng của xã hội là một kết cấu phức tạp.
Từ giác độ chung nhất có thể thấy kiến trúc thượng tầng của một
xã hội bao gồm: hệ thống các hình thái ý thức xã hội (hình thái ý
thức chính trị, pháp quyền, tôn giáo, ...) và các thiết chế chính trị
- xã hội tương ứng của chúng (nhà nước, đảng, giáo hội,...).
b. Trong xã hội có giai cấp, đặc biệt trong các xã hội hiện
đại, nhà nước là thiết chế giữ vai trò quan trọng nhất trong hệ
thống kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Trong điều kiện xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp,
nhà nước là một bộ máy tổ chức quyền lực và thực thi quyền lực
đặc biệt của xã hội.
Về danh nghĩa, nhà nước là hệ thống tổ chức đại biểu cho
quyền lực chung của xã hội để quản lý, điều khiển mọi hoạt động
của xã hội, thực hiện chức năng chính trị và chức năng xã hội
cùng chức năng đối nội và đối ngoại của quốc gia.
Về thực chất, nhà nước là công cụ quyền lực thực hiện
chuyên chính giai cấp của giai cấp thống trị, tức là giai cấp nắm
giữ những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
c. Trong các hình thái ý thức xã hội đang tồn tại trong kiến
trúc thượng tầng của xã hội nước ta hiện nay, ý thức chính trị và
ý thức pháp quyền là những hình thái ý thức xã hội có mối liên
hệ trực tiếp với cơ sở hạ tầng.

112
Bài tập 33
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng.
Gợi ý trả lời:
- Khái niệm cơ sở hạ tầng, kiến trúc thượng tầng:
+ Cơ sở hạ tầng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những
quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất
định.
+ Kiến trúc thượng tầng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ
hệ thống kết cấu các hình thái ý thức xã hội cùng với các thiết
chế chính trị - xã hội tương ứng, được hình thành trên một cơ sở
hạ tầng nhất định.
- Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng:
Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai phương diện
cơ bản của đời sống xã hội - đó là phương diện kinh tế và
phương diện chính trị - xã hội. Chúng có quan hệ thống nhất
biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng đóng vai trò quyết
định đối với kiến trúc thượng tầng, đồng thời kiến trúc thượng
tầng thường xuyên có sự tác động trở lại cơ sở hạ tầng.
+ Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc
thượng tầng:
Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc
thượng tầng được thể hiện trên nhiều phương diện:
• Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ sinh ra một kiến trúc thượng tầng
tương ứng với nó. Do đó, tính chất của kiến trúc thượng tầng là
do tính chất của cơ sở hạ tầng quyết định.
• Những biến đổi trong cơ sở hạ tầng sớm muộn sẽ kéo
113
theo những biến đổi tương ứng trong kiến trúc thượng tầng.
C.Mác viết: "Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng
tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng"1.
• Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế
thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt chính trị và đời sống tinh
thần của xã hội.
• Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các
mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị tư tưởng; những mâu thuẫn,
xung đột về chính trị tư tưởng là biểu hiện những mâu thuẫn,
xung đột trong cơ sở kinh tế của xã hội.
• Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước,
pháp quyền, triết học, tôn giáo,... đều trực tiếp hay gián tiếp phụ
thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
+ Vai trò tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với
cơ sở hạ tầng:
• Tùy thuộc vào bản chất vào vị trí, vai trò của mỗi yếu tố
trong kiến trúc thượng tầng và những điều kiện cụ thể mà sự tác
động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng có thể
thông qua nhiều phương thức. Trong điều kiện kiến trúc thượng
tầng có yếu tố nhà nước thì nhà nước là nhân tố tác động trực
tiếp và mạnh mẽ nhất tới cơ sở hạ tầng của xã hội. Trong điều
kiện đó thì phương thức tác động của các yếu tố khác thuộc kiến
trúc thượng tầng tới cơ sở hạ tầng phải thông qua yếu tố nhà
nước mới có thể thực sự phát huy mạnh mẽ vai trò thực tế của
nó.
• Sự tác động của các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng tới
cơ sở hạ tầng có thể diễn ra theo nhiều xu hướng khác nhau,
thậm chí đối lập nhau. Chẳng hạn tác động nhằm duy trì cơ sở

1
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.13, tr.15.
114
kinh tế hiện tại để qua đó duy trì chế độ xã hội hiện có, hoặc tác
động để xóa bỏ cơ sở kinh tế hiện tại để xác lập một cơ sở kinh
tế khác nhằm xây dựng chế độ khác,…
• Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ
tầng có thể diễn ra theo hướng tích cực hoặc tiêu cực. Nếu kiến
trúc thượng tầng tác động phù hợp với các quy luật kinh tế khách
quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển,
ngược lại, nếu tác động không phù hợp với các quy luật kinh tế
khách quan thì nó sẽ kìm hãm, phá hoại sự phát triển kinh tế.
Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự
phát triển kinh tế, nhưng không làm thay đổi được tiến trình phát
triển khách quan của xã hội. Xét đến cùng, cơ sở hạ tầng đóng
vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Nếu kiến trúc
thượng tầng kìm hãm phát triển kinh tế thì sớm hay muộn, bằng
cách này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay
thế bằng kiến trúc thượng tầng mới tiến bộ và phù hợp hơn để
thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển.

Bài tập 34
a. Tồn tại xã hội là gì? Trong các yếu tố cơ bản của tồn tại
xã hội, yếu tố nào là cơ bản nhất?
b. Ý thức xã hội là gì? Phân biệt ý thức cá nhân và ý thức
xã hội? Chỉ ra kết cấu của ý thức xã hội?
c. Trong xã hội nguyên thủy, ý thức xã hội có mang tính
giai cấp hay không? Tại sao?
Gợi ý trả lời:
a. Tồn tại xã hội:
- Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ phương diện sinh
hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
115
- Trong các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội (bao gồm
phương thức sản xuất, các yếu tố thuộc điều kiện tự nhiên - hoàn
cảnh địa lý, dân cư), phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất.
b. Ý thức xã hội:
- Ý thức xã hội là khái niệm dùng để chỉ phương diện sinh
hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh
tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
- Các ý thức cá nhân đều phản ánh tồn tại xã hội với mức
độ khác nhau. Do đó, nó không thể không mang tính xã hội.
Song ý thức cá nhân không phải lúc nào cũng thể hiện quan điểm
tư tưởng, tình cảm phổ biến của cộng đồng, của xã hội trong
những giai đoạn phát triển nhất định. Giữa ý thức xã hội và ý
thức cá nhân có sự thống nhất biện chứng nhưng không đồng
nhất. Quan hệ giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân là quan hệ
giữa cái chung và cái riêng.
- Ý thức xã hội có cấu trúc hết sức phức tạp. Có thể tiếp
cận kết cấu của ý thức xã hội từ nhiều phương diện khác nhau.
+ Căn cứ vào nội dung và lĩnh vực phản ánh thì ý thức xã
hội bao gồm: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo
đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, ý thức khoa học…
+ Căn cứ theo trình độ phản ánh của ý thức xã hội đối với
tồn tại xã hội thì ý thức xã hội được chia thành:
Ý thức xã hội thông thường: là toàn bộ những tri thức,
những quan niệm của con người trong một cộng đồng nhất định,
được hình thành một cách trực tiếp từ hoạt động trực tiếp hàng
ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa thành lý luận.
Ý thức lý luận: là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ
thống hóa, khái quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình
bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. Ý thức lý
116
luận có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách khái
quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của
các sự vật, hiện tượng. Ý thức lý luận đạt trình độ cao và mang
tính hệ thống tạo thành các hệ tư tưởng.
+ Căn cứ theo trình độ và hai phương thức phản ánh đối
với tồn tại xã hội có thể phân thành tâm lý xã hội và hệ tư tưởng
xã hội:
Tâm lý xã hội là toàn bộ đời sống tình cảm, tâm trạng, khát
vọng, ý chí... của những cộng đồng người nhất định, phản ánh
trực tiếp và tự phát hoàn cảnh sống của họ.
Hệ tư tưởng xã hội là toàn bộ các hệ thống quan niệm, quan
điểm xã hội như chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn
giáo... là sự phản ánh gián tiếp và tự giác đối với tồn tại xã hội.
c. Trong xã hội nguyên thủy, ý thức xã hội không mang tính
giai cấp vì khi đó trong xã hội chưa xuất hiện giai cấp và đối
kháng giai cấp.

Bài tập 35
Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội, rút ra ý nghĩa phương pháp luận cần thiết.
Gợi ý trả lời:
- Khái niệm tồn tại xã hội, ý thức xã hội:
+ Tồn tại xã hội là khái niệm dùng để chỉ phương diện sinh
hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
+ Ý thức xã hội là khái niệm dùng để chỉ phương diện sinh
hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh
tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
- Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã
hội:
117
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử thì tồn tại xã
hội và ý thức xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau. Mối
quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội thể hiện
ở hai mặt sau:
+ Tồn tại xã hội giữ vai trò quyết định đối với ý thức xã
hội.
• Ý thức xã hội nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn
tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Do đó, tồn
tại xã hội như thế nào thì ý thức xã hội phản ánh nó sẽ như thế
ấy. Đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ
sở đời sống vật chất, vì vậy không thể tìm nguồn gốc của tư
tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó mà phải tìm trong đời
sống vật chất đã sinh ra nó và đang được nó phản ánh. Theo
C.Mác: “... không thể nhận định về một thời đại đảo lộn như thể
căn cứ vào ý thức của thời đại đó. Trái lại, phải giải thích ý thức
ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung
đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ
sản xuất xã hội”1.
• Ý thức xã hội là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội và phụ
thuộc vào tồn tại xã hội. Ở những thời kỳ lịch sử khác nhau, điều
kiện đời sống vật chất khác nhau thì ý thức xã hội cũng khác
nhau. Mỗi khi tồn tại xã hội (nhất là phương thức sản xuất) biến
đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về
chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật...
tất yếu sẽ biến đổi theo. Do đó, “không phải ý thức của con
người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của con
người quyết định ý thức của họ”2.
+ Ý thức xã hội có tính độc lập tương đối trong quan hệ với
1
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.13, tr.15.
2
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.13, tr.15.
118
tồn tại xã hội.
Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với
ý thức xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội
như một yếu tố thụ động, trái lại còn nhấn mạnh đến sự tác động
trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội, nhấn mạnh tính
độc lập tương đối của ý thức xã hội trong mối quan hệ với tồn tại
xã hội. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội trong mối quan
hệ với tồn tại xã hội biểu hiện ở những điểm sau đây:
• Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi tồn tại xã hội cũ đã mất
đi, nhưng ý thức xã hội phản ánh nó vẫn còn tồn tại dai dẳng,
nhiều yếu tố của ý thức xã hội có thể còn tồn tại rất lâu dài ngay
cả khi tồn tại xã hội - cơ sở nảy sinh ra nó đã được thay đổi căn
bản. Sở dĩ như vậy là vì:
Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc
độ nhanh mà ý thức xã hội không phản ánh kịp sự thay đổi đó và
trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã
hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại
xã hội.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán
cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã
hội.
Ba là, trong xã hội có giai cấp, các giai cấp và lực lượng
phản tiến bộ thường lưu giữ một số tư tưởng có lợi cho họ nhằm
chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
• Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
Khi khẳng định tính lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với
tồn tại xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời thừa nhận
rằng, trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người,
119
đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự
phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác
dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng
hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát
triển của tồn tại xã hội đặt ra.
Khi nói, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội thì
không có nghĩa ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết
định mà suy đến cùng, nó luôn bị tồn tại xã hội quy định.
• Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó.
Lịch sử phát triển của đời sống tinh thần xã hội cho thấy
rằng, những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện
trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa
những tài liệu lý luận của các thời đại trước.
• Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong
sự phát triển của chúng.
Ý thức xã hội bao gồm nhiều bộ phận, nhiều hình thái khác
nhau. Các hình thái ý thức xã hội không tách rời nhau, mà
thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau. Sự tác động đó làm cho
ở mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không thể
giải thích được một cách trực tiếp từ tồn tại xã hội.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường
ở mỗi thời đại tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình
thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu sẽ tác động mạnh đến các
hình thái khác. Chẳng hạn ở Hy Lạp thời cổ đại thì triết học và
nghệ thuật từng đóng vai trò đặc biệt. Thời trung cổ ở Tây Âu thì
tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết học, nghệ thuật, pháp
quyền... Ngày nay, trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái
ý thức xã hội thì ý thức chính trị thường có vai trò đặc biệt quan
trọng.

120
• Ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những phê phán quan
điểm duy tâm (tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội) mà còn
bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường khi phủ nhận tác động tích
cực của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội. Ph.Ăng ghen viết:
“Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, v.v. đều dựa trến cơ sở sự phát triển kinh tế.
Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng
đến cơ sở kinh tế”1. Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự
phát triển xã hội phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, vào tính
chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh,
vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng, vào mức
độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát
triển xã hội; vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần
chúng...
Sự tác động của ý thức xã hội tới tồn tại xã hội biểu hiện
qua hai chiều hướng. Nếu ý thức xã hội tiến bộ thì tác động thúc
đẩy tồn tại xã hội phát triển, nếu ý thức xã hội lạc hậu sẽ cản trở
sự phát triển của tồn tại xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính
độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp
trong lịch sử phát triển của ý thức xã hội và khẳng định mối quan
hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội là mối quan hệ biện
chứng, trong đó: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức
xã hội có tính độc lập tương đối và có thể tác động trở lại tồn tại
xã hội.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
Quan điểm về vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý

1
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t.39, tr.271.
121
thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội là một
trong những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, một
trong những cơ sở phương pháp luận căn bản của hoạt động nhận
thức và thực tiễn.
- Theo nguyên lý này, một mặt, để nhận thức đúng đắn các
hiện tượng của đời sống tinh thần xã hội phải căn cứ vào tồn tại
xã hội đã nảy sinh ra nó và đang được nó phản ánh; mặt khác
cũng cần phải giải thích các hiện tượng tinh thần của đời sống xã
hội từ những phương diện khác nhau trong tính độc lập tương
đối của ý thức xã hội.
- Thực tiễn cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải tiến
hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội,
trong đó thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản để thay đổi ý
thức xã hội; đồng thời cũng cần phải thấy rằng những tác động
của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng
có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã
hội.

Bài tập 36
a. Hình thái kinh tế - xã hội là gì?
b. Chỉ ra các yếu tố cơ bản hợp thành cấu trúc của hình
thái kinh tế - xã hội. Cho biết yếu tố nào giữ vai trò quyết định
nhất. Tại sao?
c. Chúng ta cần dựa vào tiêu chuẩn khách quan nào để
phân biệt các chế độ xã hội khác nhau trong lịch sử?
Gợi ý trả lời:
a. Khái niệm hình thái kinh tế - xã hội:
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa
duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất
122
định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù
hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một
kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan
hệ sản xuất ấy.
b. Cấu trúc của hình thái kinh tế - xã hội:
Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có
cấu trúc phức tạp, trong đó có các yếu tố cơ bản là lực lượng sản
xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi yếu tố của
hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn
nhau, thống nhất với nhau.
Trong các yếu tố cơ bản hợp thành cấu trúc của hình thái
kinh tế - xã hội thì lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết định
nhất, vì lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của
mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Suy đến cùng, sự phát triển của
lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành, phát triển và thay
thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội.
c. Tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội
khác nhau trong lịch sử chính là quan hệ sản xuất đặc trưng cho
các chế độ xã hội đó.

Bài tập 37
a. Tại sao nói sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là
một quá trình lịch sử - tự nhiên?
b. Chỉ ra giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã
hội.
Gợi ý trả lời:
a. Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình lịch sử - tự nhiên:
Khi phân tích sự phát triển của lịch sử nhân loại theo lý
123
luận hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác cho rằng: “sự phát triển
của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên”1.
Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội được coi là một
quá trình lịch sử - tự nhiên, là vì :
- Sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá
trình tuân theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của
chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội mà trước hết là
quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở
hạ tầng.
- Nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự phát triển các hình thái kinh
tế - xã hội đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát
triển của lực lượng sản xuất. Chính sự phát triển của lực lượng
sản xuất đã quyết định, làm thay đổi quan hệ sản xuất. Đến lượt
mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng
thay đổi theo, và do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay
thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn. Quá
trình đó diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo ý
muốn chủ quan. Theo V.I.Lênin: “Chỉ có đem quy những quan
hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan
hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người
ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển
của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự
nhiên”2.
- Con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi
phối bởi các quy luật chung, mà còn bị tác động bởi các điều
kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống văn hóa, về điều
1
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.21
2
1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t.1, tr.163.
124
kiện quốc tế... Chính vì vậy, lịch sử phát triển của nhân loại hết
sức phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng
trong lịch sử phát triển của mình. Có những dân tộc lần lượt trải
qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao; nhưng cũng có
những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế - xã hội
nào đó. Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá
trình lịch sử - tự nhiên chứ không phải theo ý muốn chủ quan.
Như vậy, quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã
hội không chỉ diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự, mà còn
bao hàm cả sự bỏ qua, trong những điều kiện nhất định, đối với
một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
b. Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội:
Với sự ra đời của chủ nghĩa duy vật lịch sử mà hạt nhân
của nó là lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã cung cấp một
phương pháp luận thực sự khoa học trong nghiên cứu về lĩnh vực
xã hội.
Thứ nhất, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, sản xuất
vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất
quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất và cũng là nhân tố
quyết định trình độ phát triển của đời sống xã hội và lịch sử nói
chung, do đó việc giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội
không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng hoặc ý chí chủ quan của
con người mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát triển của
sản xuất xã hội, từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Thứ hai, xã hội là một cơ thể sống động, trong đó các
phương diện của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống cấu
trúc chặt chẽ, tác động qua lại với nhau, trong đó quan hệ sản
xuất đóng vai trò là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các quan hệ
khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội

125
khác nhau. Vì vậy, để lý giải các vấn đề đời sống xã hội cần xuất
phát từ quan hệ sản xuất hiện thực của xã hội để phân tích các
phương diện khác nhau (chính trị, pháp luật, văn hóa, khoa
học...) của đời sống xã hội và mối quan hệ giữa chúng.
Thứ ba, sự vận động, phát triển của xã hội là quá trình lịch
sử - tự nhiên, diễn ra theo quy luật khách quan chứ không phải
theo ý muốn chủ quan, do đó muốn nhận thức và giải quyết đúng
đắn, có hiệu quả những vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi
sâu nghiên cứu quy luật vận động, phát triển của xã hội.

Bài tập 38
a. Giai cấp là gì? Phân biệt khái niệm giai cấp với khái
niệm tầng lớp xã hội. Trí thức là một giai cấp hay một tầng lớp
trong xã hội?
b. Tại sao nói giai cấp và đối kháng giai cấp chỉ là "hiện
tượng có tính lịch sử"?
c. Đấu tranh giai cấp là gì? Đấu tranh giai cấp có vai trò
như thế nào đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối
kháng giai cấp?
Gợi ý trả lời:
a. Khái niệm giai cấp:
- Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, V.I.Lênin định nghĩa giai
cấp như sau: “Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn
gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống
sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của
họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và
thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong
tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức
hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được
126
hưởng”1.
Như vậy, sự ra đời, tồn tại của các giai cấp gắn với những
hệ thống sản xuất xã hội nhất định. Sự khác nhau về địa vị của
giai cấp trong hệ thống sản xuất là do:
+ Sự khác nhau về quan hệ của họ đối với việc sở hữu
những tư liệu sản xuất của xã hội.
+ Sự khác nhau về vai trò của họ trong tổ chức quản lý sản
xuất, tổ chức quản lý lao động xã hội.
+ Sự khác nhau về phương thức và quy mô thu nhập những
sản phẩm lao động của xã hội.
Trong những sự khác nhau trên đây, sự khác nhau về sở
hữu đối với tư liệu sản xuất có ý nghĩa quan trọng quyết định
nhất. Do đó, trong những xã hội có giai cấp, giai cấp nào nắm
được tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội sẽ trở thành giai cấp
thống trị xã hội và sử dụng quyền lực thống trị của mình để
chiếm đoạt những sản phẩm lao động của các giai cấp, tầng lớp
khác trong xã hội.
- Khái niệm tầng lớp xã hội được sử dụng để chỉ sự phân
tầng, phân lớp, phân nhóm giữa những con người trong cùng một
giai cấp theo địa vị và sự khác biệt cụ thể của họ trong giai cấp
đó hoặc dùng để chỉ những nhóm người ngoài kết cấu các giai
cấp trong một xã hội nhất định.
- Trí thức không phải là một giai cấp trong xã hội mà chỉ là
một tầng lớp xã hội.
b. Giai cấp và đối kháng giai cấp chỉ là “hiện tượng có tính
lịch sử”:
Giai cấp và đối kháng giai cấp chỉ là “hiện tượng có tính
lịch sử” có nghĩa là giai cấp và đối kháng giai cấp chỉ xuất hiện,
1
1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.39, tr.17-18.
127
tồn tại gắn liền với những giai đoạn lịch sử nhất định. Trong quá
trình phát triển của lịch sử nhân loại, khi sản xuất phát triển đến
một trình độ nhất định sẽ tạo ra những điều kiện kinh tế - xã hội
cần thiết thúc đẩy sự hình thành giai cấp và đối kháng giai cấp.
Do đó, chừng nào những điều kiện kinh tế - xã hội sinh ra nó còn
tồn tại thì giai cấp và đối kháng giai cấp tiếp tục tồn tại. Sự phát
triển của sản xuất đến một lúc nào đó sẽ dẫn đến xóa bỏ những
điều kiện kinh tế - xã hội làm cơ sở cho sự tồn tại của giai cấp và
đối kháng giai cấp, khi đó giai cấp và đối kháng giai cấp sẽ
không còn cơ sở để tồn tại.
Trong xã hội nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất chưa phát
triển, năng suất lao động rất thấp, sản phẩm làm ra chưa đủ nuôi
sống người nguyên thuỷ. Để tồn tại, họ phải sống nương tựa vào
nhau theo bầy đàn, lệ thuộc nhiều vào tự nhiên, khi đó giai cấp
chưa xuất hiện.
Sản xuất ngày càng phát triển với sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Công cụ sản xuất bằng kim loại ra đời thay thế
công cụ bằng đá, năng suất lao động nhờ đó tăng lên và phân
công lao động nhờ đó từng bước được hình thành, của cải dư
thừa xuất hiện, những người có chức quyền trong các thị tộc, bộ
lạc đã chiếm đoạt của cải dư thừa làm của riêng; chế độ tư hữu ra
đời, bất bình đẳng về kinh tế nảy sinh trong nội bộ công xã, đó
chính là cơ sở của sự xuất hiện giai cấp.
Như vậy, sự ra đời và tồn tại chế độ chiếm hữu tư nhân về
tư liệu sản xuất (đặc biệt là đối với những tư liệu sản xuất chủ
yếu của xã hội) là nguồn gốc trực tiếp cho sự ra đời giai cấp.
Nguồn gốc sâu xa cho sự xuất hiện của giai cấp trong xã hội là
do tình trạng phát triển chưa đầy đủ của lực lượng sản xuất. Khi
lực lượng sản xuất phát triển tới mức đầy đủ thì chính nó lại là

128
nguyên nhân khách quan dẫn đến xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất, do đó xóa bỏ giai cấp, đối kháng và đấu
tranh giai cấp trong xã hội. Đó là cơ sở để C.Mác kết luận rằng:
“Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với các giai đoạn phát
triển lịch sử nhất định của sản xuất”1. Nói cách khác, sự xuất
hiện, tồn tại của giai cấp và đối kháng giai cấp trong xã hội chỉ là
“hiện tượng có tính lịch sử”.
c. Đấu tranh giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp:
- Khái niệm đấu tranh giai cấp:
Theo V.I.Lênin, khái niệm đấu tranh giai cấp dùng để chỉ
“cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và
lao động, chống bọn có đặc quyền đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn
bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay
những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư
sản”2.
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của
những người lao động làm thuê, những người nô lệ, bị bóc lột về
kinh tế, bị áp bức về chính trị - xã hội chống lại những kẻ áp
bức, bóc lột nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẫn lợi ích kinh tế và
chính trị - xã hội giữa giai cấp thống trị và bị trị ở những phạm vi
và mức độ khác nhau.
Đấu tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự phát
triển mang tính xã hội hóa ngày càng sâu rộng của lực lượng sản
xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Biểu
hiện của mâu thuẫn này về phương diện xã hội: mâu thuẫn giữa
một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ - đại diện cho phương
thức sản xuất mới, với một bên là giai cấp thống trị bóc lột - đại
diện cho những lợi ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.
1
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.28, tr.662.
2
2. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva,1977, t.7, tr.237 - 238.
129
- Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát
triển của xã hội có đối kháng giai cấp:
+ Vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước là vấn
đề trung tâm, cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội. Sự
ra đời, tồn tại của các kiểu và hình thức nhà nước vừa là kết quả,
vừa là biểu hiện của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội.
+ Đấu tranh giai cấp giữ vai trò là một trong những phương
thức, động lực cơ bản thúc đẩy sự tiến bộ, phát triển xã hội trong
điều kiện xã hội có sự phân hóa thành đối kháng giai cấp.
• Đấu tranh giai cấp là động lực cơ bản thúc đẩy sự vận
động, phát triển của xã hội có giai cấp, vì đấu tranh giai cấp tất
yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế phương thức sản xuất
cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương thức
sản xuất mới ra đời mở đường cho sản xuất xã hội phát triển. Sản
xuất phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ
mọi mặt đời sống xã hội. Dựa vào tiến trình phát triển của lịch
sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng đỉnh cao của đấu
tranh giai cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội như là đòn
bẩy thay đổi các hình thái kinh tế - xã hội, vì vậy “đấu tranh giai
cấp là động lực trực tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp” 1.
• Đấu tranh giai cấp là phương thức thúc đẩy sự tiến bộ và
phát triển xã hội có đối kháng giai cấp. Trong xã hội có đối
kháng giai cấp thì sự phát triển của xã hội chỉ có thể thực hiện
được thông qua những cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết
những mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế, chính trị, xã
hội. Do đó, đấu tranh giai cấp là cách thức để giải quyết mâu
thuẫn trong mỗi phương thức sản xuất, qua đó góp phần thúc đẩy
sự phát triển xã hội.

1
1. Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.388.
130
Bài tập 39
a. Cách mạng xã hội là gì? Phân biệt “cách mạng xã hội”
với “cải cách”, “đảo chính”.
b. Chỉ ra những nguyên nhân cơ bản dẫn đến cách mạng
xã hội.
c. Cách mạng xã hội có vai trò như thế nào đối với sự phát
triển của xã hội có đối kháng giai cấp?
Gợi ý trả lời:
a. Các khái niệm “cách mạng xã hội”, “cải cách”, “đảo
chính”:
- Khái niệm cách mạng xã hội:
+ Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính
chất bước ngoặt và căn bản về chất trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, là phương thức thay thế hình thái kinh tế - xã hội lỗi
thời bằng hình thái kinh tế - xã hội mới phát triển ở trình độ cao
hơn.
+ Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế
độ chính trị đã lỗi thời, thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn
của giai cấp cách mạng.
Dù theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp, giành chính quyền vẫn
là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Bởi vì, chỉ khi
nào giành được chính quyền, giai cấp cách mạng mới xác lập
được địa vị lãnh đạo của mình, tiến tới bảo đảm được quyền lực
của mình trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Cách mạng xã hội khác với cải cách. Cải cách là khái
niệm dùng để chỉ những cuộc cải biến diễn ra trên một hay một
số lĩnh vực của đời sống xã hội, trong phạm vi một hình thái
kinh tế - xã hội, nhằm hoàn thiện hình thái kinh tế - xã hội đó.
131
- Cách mạng xã hội cũng khác với đảo chính. Đảo chính là
khái niệm dùng để chỉ những sự biến tranh giành địa vị quyền
lực nhà nước giữa các lực lượng chính trị (thường trong cùng
một giai cấp) và với chủ trương không thay đổi bản chất chế độ
hiện thời. Đảo chính có thể được tiến hành dưới hình thức bạo
lực hoặc phi bạo lực.
b. Nguyên nhân của cách mạng xã hội:
- Nguyên nhân sâu xa, đồng thời cũng là nguyên nhân
khách quan dẫn đến cách mạng xã hội là mâu thuẫn gay gắt
trong bản thân nền sản xuất vật chất của xã hội, đó là mâu thuẫn
giữa nhu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất với
sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đã trở nên lỗi thời mà không
một cuộc cải cách kinh tế hay chính trị nào giải quyết được. Biểu
hiện về mặt chính trị - xã hội của mâu thuẫn đó là đấu tranh giai
cấp, dẫn đến bùng nổ các cuộc cách mạng xã hội.
- Nguyên nhân chủ quan là sự phát triển về nhận thức và tổ
chức của giai cấp cách mạng, tức giai cấp đại diện cho phương
thức sản xuất mới tiến bộ hơn, từ đó tạo ra phong trào đấu tranh
giai cấp từ tự phát đến tự giác và khi có sự kết hợp chín muồi
của các nhân tố khách quan và chủ quan, tức tạo được thời cơ
cách mạng thì khi đó tất yếu cách mạng sẽ bùng nổ.
c. Vai trò của cách mạng xã hội đối với sự phát triển của xã
hội có đối kháng giai cấp:
- Cách mạng xã hội là phương thức phát triển của xã hội có
đối kháng giai cấp.
Thông qua cách mạng xã hội, hình thái kinh tế - xã hội cũ,
lạc hậu được thay thế bởi hình thái kinh tế - xã hội mới, tiến bộ
hơn. C.Mác cho rằng: cách mạng xã hội là “đầu tầu của lịch sử”,
là phương thức thực hiện sự phát triển của các hình thái kinh tế -

132
xã hội.
- Cách mạng xã hội là động lực cơ bản thúc đẩy sự phát
triển của các xã hội có đối kháng giai cấp. Nhờ những cuộc cách
mạng xã hội mà các mâu thuẫn cơ bản của đời sống xã hội trên
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,… được giải quyết triệt
để, từ đó tạo ra động lực thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã
hội.
Vai trò của cách mạng xã hội đối với sự phát triển của xã
hội có đối kháng giai cấp đã được chứng minh đầy đủ thông qua
thực tiễn sinh động của những cuộc cách mạng xã hội trong lịch
sử nhân loại mấy nghìn năm qua.

Bài tập 40
a. Phân tích khái niệm "con người" theo quan điểm của
chủ nghĩa duy vật lịch sử.
b. Trình bày quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về
bản chất của con người.
c. Tại sao nói con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch
sử?
d. Rút ra ý nghĩa phương pháp luận từ việc nghiên cứu
quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người và bản
chất của con người.
Gợi ý trả lời:
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người:
- Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội;
a . có sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và
xã hội.
+ Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự hình thành, tồn tại
và phát triển của con người là giới tự nhiên, do đó, trước hết con
133
người có bản tính tự nhiên. Bản tính tự nhiên của con người thể
hiện ở hai giác độ sau đây:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài
của giới tự nhiên, cơ sở khoa học của kết luận này đã được
chứng minh bằng sự phát triển của chủ nghĩa duy vật và khoa
học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của Đácuyn về sự tiến hóa
của các loài.
Thứ hai, con người là bộ phận của giới tự nhiên, giới tự
nhiên “là thân thể vô cơ của con người”. Do đó, sự tồn tại của
con người và xã hội thường xuyên chịu sự chi phối bởi các điều
kiện, quy luật của giới tự nhiên một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Ngược lại, trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, con
người cũng thường xuyên tác động trở lại, làm biến đổi giới tự
nhiên vốn là “thân thể vô cơ” của mình. Con người sẽ không thể
tồn tại nếu tách rời giới tự nhiên.
+ Con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là kết quả
của quá trình tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên, nhưng tự nhiên
mới chỉ mang lại cho con người một nền tảng sinh vật. Để trở
thành “người” theo đúng nghĩa của nó thì bên cạnh bản tính tự
nhiên (mặt sinh vật), mỗi con người phải mang bản tính xã hội.
Bản tính xã hội chính là bản tính đặc thù của con người. Bản tính
xã hội của con người thể hiện ở hai mặt sau:
Một là, xét về nguồn gốc hình thành, loài người không chỉ
là kết quả của quá trình tiến hóa của giới tự nhiên mà còn là kết
quả của những điều kiện xã hội không thể thiếu, mà trước hết và
cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ lao động, thông qua
lao động mà con người có khả năng vượt qua các loài động vật
khác để tiến hóa và phát triển thành người.
Hai là, sự tồn tại và phát triển của con người luôn bị chi

134
phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến
đổi thì mỗi con người cũng biến đổi và ngược lại, sự phát triển
của mỗi cá nhân lại trở thành tiền đề cho sự phát triển xã hội.
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại
trong tính thống nhất của nó, quy định lẫn nhau, tác động lẫn
nhau, làm biến đổi lẫn nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động
sáng tạo của con người trong quá trình làm ra lịch sử của chính
mình.
b. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về bản chất
của con người:
Theo C.Mác: “Bản chất con người không phải là một cái
trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực
của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”1.
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu
tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con
người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch
sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch
sử đó, bằng mọi hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra
những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể
lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó
(như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh
tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...), con người mới bộc lộ
toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Khẳng định bản chất xã hội của con người không có nghĩa
là chủ nghĩa duy vật lịch sử phủ nhận mặt tự nhiên trong đời
sống con người; trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự phân biệt
giữa con người và thế giới động vật trước hết là ở bản chất xã
hội và đấy cũng là để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết học

1
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.11.
135
trước Mác không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt
khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy
luật chứ không thể là duy cái duy nhất; do đó, cần phải thấy
được các biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá
nhân cả về phong cách, nhu cầu và lợi ích trong cộng đồng xã
hội.
c. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử:
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì
không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch
sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới tự nhiên. Song, điều quan
trọng hơn cả là: con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử.
Ph.Ăngghen cho rằng: thú vật cũng có một lịch sử phát triển dần
dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch
sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng
tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng
không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại,
con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này
bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình
một cách có ý thức bấy nhiêu.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt
động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên,
đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế
giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con
người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình để làm
phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai
theo mục đích của mình.
Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại
của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và
bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội,

136
con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã
hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu
do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng
không tồn tại quy luật xã hội, và do đó, không có sự tồn tại của
toàn bộ lịch sử xã hội loài người. Do đó, lịch sử chính là quá
trình hoạt động của con người nhằm theo đuổi những mục đích
nhất định, và trong quá trình hoạt động để nhằm theo đuổi những
mục đích nhất định ấy, con người đã không ngừng sáng tạo ra
lịch sử và sáng tạo ra chính bản thân mình.
d. Ý nghĩa phương pháp luận:
Từ quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về con người
và bản chất của con người, có thể rút ra ý nghĩa phương pháp
luận sau đây:
- Để lý giải một cách khoa học những vấn đề về con người
thì không thể chỉ đơn thuần căn cứ vào phương diện bản tính tự
nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết định phải là từ
phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế -
xã hội của nó.
- Động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội
chính là năng lực sáng tạo lịch sử của con người. Vì vậy, phát
huy năng lực sáng tạo của mỗi con người là phát huy nguồn
động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
- Sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng
sáng tạo lịch sử của nó phải hướng vào việc giải phóng những
quan hệ kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, có thể khẳng định giá trị
căn bản nhất của cách mạng xã hội chủ nghĩa là ở mục tiêu xóa
bỏ triệt để các quan hệ kinh tế - xã hội áp bức, bóc lột nhằm giải
phóng con người, phát huy cao nhất năng lực sáng tạo của con
người, đưa con người tới sự phát triển tự do và toàn diện.

137
Bài tập 41
a. Quần chúng nhân dân là gì? Quần chúng nhân dân bao
gồm những lực lượng cơ bản nào? Lực lượng nào đóng vai trò
là hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân?
b. Quần chúng nhân dân có vai trò như thế nào trong tiến
trình phát triển của lịch sử?
Gợi ý trả lời:
a. Quần chúng nhân dân:
- Quần chúng nhân dân là một bộ phận cùng có chung lợi
ích căn bản, bao gồm những thành phần, những tầng lớp và
những giai cấp, liên kết lại thành tập thể dưới sự lãnh đạo của
một cá nhân, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những vấn
đề kinh tế, chính trị, xã hội của một thời đại nhất định.
- Quần chúng nhân dân được tạo thành từ những lực lượng
cơ bản sau:
+ Những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các
giá trị tinh thần cho xã hội.
+ Những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp
bức, bóc lột, đối kháng với nhân dân.
+ Những giai cấp, những tầng xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã
hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên
các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các
giá trị tinh thần cho xã hội (nhân dân lao động) đóng vai trò là
hạt nhân cơ bản của quần chúng nhân dân.
b. Vai trò của quần chúng nhân dân:
Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân là

138
chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự
phát triển lịch sử. Do đó, lịch sử trước hết và căn bản là lịch sử
hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội.
Vai trò chủ thể sáng tạo lịch sử, quyết định tiến trình phát
triển lịch sử của quần chúng nhân dân được thể hiện ở ba nội
dung sau:
- Quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của
mọi xã hội, trực tiếp tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn
tại và phát triển của con người và xã hội.
- Quần chúng nhân dân là lực lượng trực tiếp hoặc gián tiếp
sáng tạo ra các giá trị tinh thần của xã hội. Hoạt động của quần
chúng nhân dân là cơ sở hiện thực và là cội nguồn phát sinh
những sáng tạo văn hóa tinh thần của xã hội; mọi giá trị sáng tạo
tinh thần dù qua phương thức nào thì cuối cùng cũng là để phục
vụ hoạt động của quần chúng nhân dân, chỉ có ý nghĩa hiện thực
khi được vật chất hóa bởi hoạt động thực tiễn của nhân dân.
- Quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của
mọi cuộc cách mạng và cải cách trong lịch sử. Cách mạng xã hội
hoặc cải cách xã hội chỉ có thể thành công nếu xuất phát từ lợi
ích và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân thực hiện.

Bài tập 42
a. Để trở thành lãnh tụ của nhân dân và được quần chúng
nhân dân tín nhiệm, cá nhân lãnh tụ phải có những phẩm chất
cơ bản nào?
b. Lãnh tụ có nhiệm vụ và vai trò như thế nào trong quá
trình phát triển của lịch sử?
Gợi ý trả lời:
139
a. Lãnh tụ:
- Lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách
mạng của quần chúng nhân dân tạo nên, gắn bó mật thiết với
quần chúng nhân dân.
- Để trở thành lãnh tụ của nhân dân và để được quần chúng
nhân dân tín nhiệm, lãnh tụ phải là người có các phẩm chất sau:
+ Có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận
động, phát triển của lịch sử.
+ Có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý
chí và hành động của quần chúng nhân dân vào việc giải quyết
những nhiệm vụ lịch sử, thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của
lịch sử.
+ Gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh vì lợi
ích của quần chúng nhân dân.
b. Nhiệm vụ, vai trò của lãnh tụ:
- Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có
nhiệm vụ chủ yếu như sau:
+ Nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại, trên cơ
sở hiểu biết những quy luật khách quan của các quá trình kinh tế,
chính trị, xã hội.
+ Định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành
động cách mạng.
+ Giác ngộ, tập hợp, tổ chức, giáo dục và động viên quần
chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhằm
hướng vào giải quyết những mục tiêu cách mạng đề ra.
- Từ nhiệm vụ trên ta thấy lãnh tụ có vai trò to lớn đối với
phong trào quần chúng như sau:
+ Thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ của xã hội. Nếu lãnh
tụ nắm bắt được những quy luật vận động và phát triển của xã
140
hội thì sẽ thúc đẩy xã hội phát triển; ngược lại, nếu không nắm
bắt được những quy luật của lịch sử xã hội thì lãnh tụ sẽ kìm
hãm sự phát triển đối với xã hội, thậm chí có thể dẫn lịch sử đến
những bước quanh co, phức tạp.
+ Lãnh tụ là người sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội,
là linh hồn của các tổ chức đó. Vì vậy, lãnh tụ là người tổ chức,
điều khiển và quản lý các tổ chức chính trị, xã hội, có vai trò và
ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại, phát triển và hoạt động của các tổ
chức ấy.
+ Lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành những
nhiệm vụ mà thời đại đó đặt ra. Do đó, không có một lãnh tụ
chung cho mọi thời đại mà chỉ có lãnh tụ gắn với một thời đại
nhất định.

Bài tập 43
a. Quần chúng nhân dân có thể sáng tạo ra lịch sử mà
không cần đến vai trò của cá nhân lãnh tụ hay không? Tại sao?
b. Rút ý nghĩa phương pháp luận từ việc nghiên cứu vai trò
của quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ đối với tiến trình
phát triển của lịch sử?
Gợi ý trả lời:
a. Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không
bao giờ có thể tách rời vai trò cụ thể của mỗi cá nhân, đặc biệt là
vai trò của các cá nhân lãnh tụ, vì lãnh tụ là người giác ngộ, tập
hợp, tổ chức, giáo dục và động viên quần chúng, thống nhất ý
chí và hành động của quần chúng nhằm hướng vào giải quyết
những nhiệm vụ chung của thời đại. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Trong
lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị,
nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những
141
lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ
chức và lãnh đạo phong trào”1.
b. Ý nghĩa phương pháp luận:
Quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về vai trò sáng tạo
lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của các cá nhân đối
với tiến trình lịch sử đã cung cấp một phương pháp luận khoa
học quan trọng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Thứ nhất, lý giải một cách khoa học về vai trò quyết định
lịch sử của quần chúng nhân dân, chống những quan điểm sai
trái của chủ nghĩa duy tâm, đồng thời đem lại phương pháp luận
khoa học trong việc nghiên cứu, đánh giá vai trò của cá nhân,
của vĩ nhân, của lãnh tụ trong cộng đồng xã hội.
Thứ hai, cung cấp phương pháp luận khoa học để các Đảng
Cộng sản phân tích các lực lượng xã hội, tổ chức xây dựng lực
lượng quần chúng nhân dân trong công cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa, tập hợp đông đảo lực lượng quần chúng nhân dân để
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.

1
1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva,1978, t.4, tr.473.
142
Phần thứ hai
HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC - LÊNIN
VỀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT TƯ BẢN
CHỦ NGHĨA

Chương I
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ

Bài tập 44
a. Thế nào là sản xuất hàng hóa?
b. Phân tích điều kiện ra đời, đặc trưng cơ bản và ưu thế
của sản xuất hàng hóa.
Gợi ý trả lời:
a. Khái niệm sản xuất hàng hóa:
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản
phẩm được sản xuất ra để trao đổi hoặc mua bán trên thị
trường. Nói cách khác, nó là hình thức tổ chức kinh tế, trong đó
mối quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất được thực hiện
thông qua việc mua bán sản phẩm lao động của nhau trên thị
trường.
b. Điều kiện ra đời, đặc trưng cơ bản và ưu thế của sản xuất
hàng hóa:
- Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa:
+ Thứ nhất, có sự phân công lao động xã hội (điều kiện
cần). Do có sự phân công lao động xã hội nên mỗi người chỉ sản
xuất một hay một số loại sản phẩm nhất định, vì vậy họ phải cần
143
đến sản phẩm của nhau, buộc phải trao đổi với nhau. Mặt khác,
phân công lao động xã hội làm cho năng suất lao động tăng lên,
sản phẩm thặng dư ngày càng nhiều nên càng thúc đẩy sự trao
đổi sản phẩm.
+ Thứ hai, có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa
những người sản xuất (điều kiện đủ). Điều này làm cho những
người sản xuất độc lập với nhau, nhưng họ lại nằm trong hệ
thống phân công lao động xã hội nên họ phụ thuộc vào nhau.
Muốn tiêu dùng sản phẩm của nhau, người này phải mang sản
phẩm của mình trao đổi với sản phẩm của người khác dưới hình
thái hàng hóa.
- Đặc trưng cơ bản của sản xuất hàng hóa:
+ Sản xuất hàng hóa có mục đích là sản xuất ra sản phẩm
để trao đổi hoặc mua bán. Điều đó có nghĩa là, sản phẩm được
sản xuất ra không phải để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của chính
người trực tiếp sản xuất ra nó, mà để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của người khác, của xã hội thông qua trao đổi, mua bán.
+ Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư
nhân vừa mang tính xã hội. Lao động của người sản xuất hàng
hóa mang tính chất xã hội, vì sản phẩm do họ làm ra là để đáp
ứng nhu cầu của người khác, của xã hội. Còn lao động của người
sản xuất hàng hóa mang tính chất tư nhân, vì sản xuất cái gì, như
thế nào là công việc riêng, mang tính độc lập của mỗi người.
- Ưu thế của sản xuất hàng hóa:
+ Khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ
thuật của từng người, từng cơ sở cũng như từng vùng, từng địa
phương. Đồng thời, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại thúc
đẩy phân công lao động xã hội phát triển, làm cho năng suất lao
động xã hội tăng lên nhanh chóng, số lượng và chất lượng sản

144
phẩm làm ra đáp ứng nhu cầu xã hội tốt hơn.
+ Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mô sản xuất không còn
bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi
cá nhân, gia đình, cơ sở, địa phương, mà nó được mở rộng, dựa
trên cơ sở nhu cầu và nguồn lực của xã hội. Điều này lại tạo điều
kiện thuận lợi cho việc ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ
thuật, công nghệ vào sản xuất... thúc đẩy sản xuất phát triển.
+ Sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó như
quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh... buộc
người sản xuất hàng hóa phải luôn năng động, nhạy bén, biết
tính toán, cải tiến kỹ thuật… làm cho chi phí sản xuất hạ xuống
đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao
hơn.
+ Sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao lưu kinh tế
giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước... không chỉ làm
cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần của
người dân cũng được nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.

Bài tập 45
a. Hàng hóa là gì?
b. Trình bày hai thuộc tính của hàng hóa và mối quan hệ
giữa hai thuộc tính đó với tính chất hai mặt của lao động sản
xuất hàng hóa.
c. Nêu ý nghĩa của việc phát hiện ra tính chất hai mặt của
lao động sản xuất hàng hóa.
Gợi ý trả lời:
a. Khái niệm hàng hóa:
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn được
nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán. Hàng
145
hóa có thể ở dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực
phẩm... hoặc ở dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận
tải hay dịch vụ của bác sĩ, nghệ sĩ...
b. Hai thuộc tính của hàng hóa và mối quan hệ giữa hai
thuộc tính đó đối với tính chất hai mặt của lao động sản xuất
hàng hóa.
* Hai thuộc tính của hàng hóa
- Giá trị sử dụng của hàng hóa: là công dụng của vật phẩm
thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. Bất cứ hàng hóa nào
cũng có một hay một số công dụng nhất định. Chính công dụng
(tính có ích đó) làm cho hàng hóa có giá trị sử dụng. Ví dụ công
dụng của gạo là để ăn, vải để mặc, xe đạp để đi....
Giá trị sử dụng của hàng hóa là do những thuộc tính tự
nhiên của thực thể hàng hóa đó quyết định nên nó là phạm trù
vĩnh viễn. Giá trị sử dụng của hàng hóa được phát hiện dần dần
trong quá trình phát triển của khoa học - công nghệ và lực lượng
sản xuất nói chung. Giá trị sử dụng của hàng hóa không phải là
giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp ra nó mà là giá trị sử
dụng cho người khác, cho xã hội, thông qua trao đổi, mua bán.
- Giá trị của hàng hóa: là lao động xã hội của người sản
xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Còn giá trị trao đổi chỉ là
hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị hàng hóa; giá trị là
nội dung, là cơ sở của giá trị trao đổi. Bản chất của giá trị biểu
hiện mối quan hệ sản xuất giữa những người sản xuất hàng hóa.
Vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong nền sản
xuất hàng hóa.
* Mối quan hệ giữa hai thuộc tính với tính chất hai mặt
của lao động sản xuất hàng hóa:
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính nêu trên vì lao động sản

146
xuất hàng hóa có tính chất hai mặt: lao động cụ thể và lao động
trừu tượng. Trong đó, lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của
hàng hóa; còn lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa.
- Lao động cụ thể: là lao động có ích biểu hiện dưới một
hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.
Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao
động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Chính cái
riêng đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau.
Trong xã hội có nhiều loại hàng hóa với những giá trị sử
dụng khác nhau là do có nhiều loại lao động cụ khác nhau. Nếu
phân công lao động xã hội càng phát triển thì càng có nhiều loại
giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
- Lao động trừu tượng: là lao động của người sản xuất hàng
hóa khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách
khác, đó chính là sự tiêu hao sức lao động của người sản xuất
hàng hóa nói chung. Chỉ có lao động sản xuất hàng hóa mới có
tính chất lao động trừu tượng.
Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa tạo
ra giá trị của hàng hóa. Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao
động trừu tượng của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Đó
cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hóa. Lao động trừu tượng
là phạm trù lịch sử riêng có của sản xuất hàng hóa.
c. Ý nghĩa của việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao
động sản xuất hàng hóa:
- Đem đến cho lý thuyết giá trị - lao động một cơ sở khoa
học thực sự. Các nhà kinh tế trước Mác cho rằng, lao động tạo ra
giá trị, nhưng không biết tính chất nào của lao động tạo ra giá trị.
C.Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao
động sản xuất hàng hóa, và chỉ rõ tính chất trừu tượng của lao

147
động sản xuất hàng hóa đã tạo ra giá trị của hàng hóa.
- Vạch rõ nguồn gốc của giá trị sử dụng và giá trị của hàng
hóa. Số lượng giá trị của hàng hóa được quyết định bởi số lượng
lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong
hàng hóa. Thực chất của trao đổi hàng hóa là trao đổi các giá trị
sử dụng khác nhau với lượng giá trị bằng nhau.
- Chỉ ra xu hướng vận động ngược chiều nhau giữa khối
lượng hàng hóa với lượng giá trị của nó khi có sự biến đổi về
năng suất lao động. Khi năng suất lao động tăng lên thì khối
lượng hàng hóa (lượng giá trị sử dụng) được sản xuất ra tăng lên,
nhưng lượng giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa lại giảm xuống.
- Giải thích được nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư,
phân tích được bản chất tư bản bất biến và tư bản khả biến… do
đó đem lại cơ sở khoa học vững chắc cho học thuyết giá trị thặng
dư, học thuyết tích lũy, học thuyết tái sản xuất,...

Bài tập 46
a. Lượng giá trị hàng hóa là gì?
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa?
c. Cấu thành lượng giá trị hàng hóa?
Gợi ý trả lời:
a. Lượng giá trị hàng hóa:
Lượng giá trị của hàng hóa là số lượng lao động hao phí để
sản xuất ra hàng hóa, nó được tính bằng thời gian lao động hao
phí để sản xuất hàng hóa đó.
Lượng giá trị xã hội của hàng hóa được tính bằng thời gian
lao động xã hội cần thiết để sản xuất hàng hóa.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để

148
sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội
với một trình độ kỹ thuật trung bình, một trình độ thành thạo
trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.
Thông thường, thời gian lao động xã hội cần thiết gần sát
với thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất và cung
ứng tuyệt đại bộ phận hàng hóa đó trên thị trường.
b. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa:
- Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động,
được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất trong một đơn vị thời
gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị
sản phẩm. Năng suất lao động tăng lên thì thời gian lao động để
sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống, do đó giá trị của
một đơn vị hàng hóa giảm xuống và ngược lại. Như vậy, lượng
giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.
- Cường độ lao động là khái niệm chỉ mức độ hao phí sức
lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn
trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động. Khi cường độ
lao động tăng lên thì số lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên và
hao phí sức lao động cũng tăng lên tương ứng, do đó tổng giá trị
hàng hóa tăng lên, nhưng giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn
không đổi.
- Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định
đến lượng giá trị của hàng hóa. Theo mức độ phức tạp của lao
động người ta chia lao động thành lao động giản đơn (lao động
mà bất kỳ một người lao động bình thường nào cũng có thể thực
hiện được không cần phải trải qua đào tạo) và lao động phức tạp
(lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể thực
hiện được)..
c. Cấu thành lượng giá trị hàng hóa:

149
Để sản xuất hàng hóa cần phải chi phí lao động, bao gồm
lao động quá khứ tồn tại trong các yếu tố tư liệu sản xuất và lao
động sống hao phí trong quá trình chế biến tư liệu sản xuất thành
sản phẩm mới.
Trong quá trình sản xuất, lao động cụ thể của người sản
xuất có vai trò bảo tồn và di chuyển giá trị cũ (c) vào sản phẩm
mới, còn lao động trừu tượng có vai trò làm tăng thêm giá trị, tạo
ra giá trị mới cho sản phẩm (v+m). Vì vậy, cấu thành lượng giá
trị hàng hóa bao gồm hai bộ phận: giá trị cũ tái hiện và giá trị
mới. Ký hiệu: W = c + v + m.

Bài tập 47
a. Chỉ ra nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền tệ.
b. Trình bày quy luật lưu thông tiền tệ và lạm phát.
Gợi ý trả lời:
a. Nguồn gốc, bản chất và chức năng của tiền tệ:
- Nguồn gốc, bản chất của tiền tệ: Tiền tệ ra đời là kết quả
tất yếu của quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi
hàng hóa và của các hình thái giá trị hàng hóa. Có bốn hình thái
giá trị:
+ Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: Trao đổi hoàn
toàn mang tính ngẫu nhiên, vật trao đổi trực tiếp với vật. Phương
trình trao đổi là: xH1 = yH2 . Ở đây, hàng hóa H1 biểu hiện giá trị
của mình ở hàng hóa H2 , còn H2 đóng vai trò là vật ngang giá.
+ Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng: Khi có nhiều hàng
hóa trao đổi trên thị trường thì một hàng hóa có thể đem trao đổi
với nhiều hàng hóa khác, làm ra đời hình thái giá trị đầy đủ hay
mở rộng.
+ Hình thái chung của giá trị: Khi sản xuất hàng hóa phát
150
triển hơn, quan hệ trao đổi trở nên thường xuyên, rộng rãi hơn,
thì có một hàng hóa tách ra làm vật ngang giá chung, làm xuất
hiện hình thái giá trị chung. Ở đây, tất cả các hàng hóa đều biểu
hiện giá trị của mình ở vật ngang giá chung.
+ Hình thái tiền tệ: Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát
triển hơn nữa, thị trường được mở rộng, thì đòi hỏi phải hình
thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật giá chung được cố
định ở một vật độc tôn và phổ biến thì hình thái tiền tệ xuất hiện.
Như vậy, tiền tệ là hàng hóa đặc biệt được tách ra làm vật
ngang giá chung thống nhất cho các hàng hóa khác, nó thể hiện
lao động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất
hàng hóa.
- Chức năng của tiền tệ: có năm chức năng sau:
+ Thước đo giá trị: Tiền tệ dùng tiền để biểu hiện và đo
lường giá trị của các hàng hóa khác. Khi thực hiện chức năng
này, thì giá trị hàng hóa được biểu hiện bằng một lượng tiền nhất
định gọi là giá cả hàng hóa. Giá cả của hàng hóa có thể lên
xuống xoay quanh giá trị, nhưng tổng số giá cả luôn bằng tổng
số giá trị.
+ Phương tiện lưu thông: tiền làm môi giới trung gian
trong trao đổi hàng hóa. Khi thực hiện chức năng này đòi hỏi
phải có lượng tiền mặt trên thực tế, tức tiền thật và khi đó trao
đổi hàng hóa vận động theo công thức H - T - H.
+ Phương tiện cất trữ: tiền được rút khỏi lưu thông đi vào
cất trữ. Chức năng phương tiện cất trữ làm cho tiền trong lưu
thông thích ứng một cách tự phát với nhu cầu tiền cần thiết trong
lưu thông.
+ Phương tiện thanh toán: Khi sản xuất và trao đổi hàng
hóa phát triển đến một giai đoạn nào đó tất yếu sẽ nảy sinh việc

151
mua bán chịu và do đó, xuất hiện chức năng phương tiện thanh
toán của tiền. Thực hiện chức năng này, tiền được dùng để chi trả
sau khi công việc giao dịch, mua bán đã hoàn thành.
+ Tiền tệ thế giới:
Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra bên ngoài biên giới tiền
quốc gia và hình thành quan hệ buôn bán giữa các nước thì xuất
hiện chức năng tiền tệ thế giới. Với chức năng này, tiền phải có
đủ giá trị, phải là vàng hoặc các ngoại tệ mạnh.
b. Quy luật lưu thông tiền tệ và lạm phát:
- Quy luật lưu thông tiền tệ: là quy luật xác định số lượng
tiền cần thiết cho lưu thông hàng hóa trong một thời kỳ nhất
định.
Khi tiền chỉ thực hiện chức năng phương tiện lưu thông thì
số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được tính theo công thức:

PxQ
M=
Trong đó: V

M: là lượng tiền cần thiết cho lưu thông;


P: là mức giá cả;
Q: là khối lượng hàng hóa, dịch vụ đem ra lưu thông;
V: là số vòng chu chuyển trung bình của đồng tiền cùng
loại.
Khi tiền thực hiện cả chức năng phương tiện thanh toán thì
số lượng tiền cần thiết cho lưu thông được tính theo công thức:

PQ - (PQ1 + PQ2) + PQ3


M=
V
Trong đó:
152
PQ: là tổng giá cả hàng hóa đem bán;
PQ1: là tổng giá cả hàng hóa bán chịu;
PQ2: là tổng giá cả hàng hóa khấu trừ cho nhau;
PQ3: là tổng giá cả hàng hóa bán chịu đến kỳ thanh toán.
- Lạm phát: là một hiện tượng khủng hoảng tiền tệ trong
nền kinh tế hàng hóa, nó biểu hiện rõ ở sự tăng lên của chỉ số giá
cả, sự tụt giá của tiền, sản xuất đình đốn, tiền lương thực tế giảm.
Căn cứ vào mức giá tăng lên, có thể chia lạm phát thành ba
loại: lạm phát vừa phải (chỉ số giá cả tăng lên dưới 10%/năm);
lạm phát phi mã (chỉ số giá cả tăng trên 10%/ năm); và siêu lạm
phát (chỉ số giá cả tăng lên hàng trăm, hàng nghìn lần và hơn
nữa trong một năm);
Lạm phát dẫn tới sự phân phối lại các nguồn thu nhập giữa
các tầng lớp dân cư; khuyến khích đầu cơ hàng hóa, cản trở sản
xuất kinh doanh, các hoạt động kinh tế bị méo mó biến dạng,
tâm lý người dân hoang mang... Lạm phát là hiện tượng chung
của nền kinh tế hàng hóa và có tác động tiêu cực đến nền kinh tế.
Vì vậy, ổn định tiền tệ, chống lạm phát là một trong những mục
tiêu hàng đầu của các nước trên thế giới.

Bài tập 48
a. Trình bày nội dung, yêu cầu và tác động của quy luật giá
trị trong nền sản xuất hàng hóa.
b. Nêu biểu hiện của quy luật giá trị trong các giai đoạn
phát triển của chủ nghĩa tư bản.
c. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật này đối với sự phát triển
nền kinh tế thị trường ở Việt Nam?
Gợi ý trả lời:

153
a. Nội dung, yêu cầu và tác động của quy luật giá trị trong
nền sản xuất hàng hóa:
- Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và
trao đổi hàng hóa. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở
đó có quy luật giá trị hoạt động.
- Quy luật giá trị yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải
dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên cơ sở hao phí lao
động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất, quy luật giá trị đòi hỏi người sản xuất phải
làm sao cho mức hao phí lao động cá biệt của mình phải phù hợp
với mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Còn trong trao đổi,
hay lưu thông phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá: hai
hàng hóa được trao đổi với nhau khi cùng kết tinh một lượng lao
động như nhau, hoặc trao đổi, mua bán hàng hóa phải thực hiện
với giá cả bằng giá trị.
- Trong nền sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị có ba tác
động sau:
+ Một là, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa. Dựa vào
sự biến động của giá cả thị trường, người sản xuất sẽ mở rộng
sản xuất những mặt hàng đang thiếu, bán chạy, nhiều lãi và
ngược lại sẽ thu hẹp sản xuất, thậm chí đóng cửa không sản xuất
những mặt hàng ế thừa, giá thấp. Kết quả là các yếu tố sản xuất
như tư liệu sản xuất, sức lao động, tiền vốn được dịch chuyển từ
ngành này sang ngành khác; làm cho quy mô sản xuất của ngành
này mở rộng, ngành khác thu hẹp. Ngoài ra, hàng hóa được di
chuyển từ nơi giá thấp đến nơi giá cao. Từ đó phân phối các
nguồn hàng hóa một cách hợp lý hơn giữa các vùng của đất
nước, giữa trong nước với ngoài nước, giữa cung và cầu về các
loại hàng hóa trong xã hội.

154
+ Hai là, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất,
tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, thúc đẩy lực
lượng sản xuất xã hội phát triển. Trong sản xuất hàng hóa, người
sản xuất nào cũng muốn có nhiều lãi. Muốn vậy, những người
sản xuất phải tìm mọi cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức
quản lý sản xuất, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao
động... Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này
diễn ra mạnh mẽ hơn. Kết quả là lực lượng sản xuất phát triển
mạnh mẽ, năng suất lao động không ngừng tăng lên, chi phí sản
xuất xã hội không ngừng giảm xuống.
Ba là, phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu
nghèo, làm xuất hiện nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa.
Trong sản xuất hàng hóa, dưới sự tác động của quy luật giá trị và
các quy luật khác, tất yếu dẫn đến kết quả: những người có điều
kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ cao, có kiến thức, trang bị kỹ
thuật tốt, có vốn..., hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao
động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ
sẽ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh,
thậm chí thuê lao động trở thành ông chủ. Ngược lại, những
người không có các điều kiện trên, làm ăn kém cỏi hoặc gặp rủi
ro, tai nạn sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể
phá sản trở thành lao động làm thuê. Đây cũng chính là một
trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
b. Biểu hiện của quy luật giá trị trong các giai đoạn phát
triển của chủ nghĩa tư bản:
Chủ nghĩa tư bản phát triển qua hai giai đoạn: tự do cạnh
tranh và độc quyền.
- Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, quy

155
luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất. Giá trị
chuyển hóa thành giá cả sản xuất. Giá cả sản xuất là sự vận động
của giá trị của hàng hóa trong điều kiện tự do cạnh tranh của tư
bản và được xác định bằng chi phí tư bản cộng lợi nhuận bình
quân:
WSX = K + p

- Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, quy luật giá
trị được biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền. Trong giai
đoạn này, các tổ chức độc quyền áp dụng cơ chế giá cả độc
quyền thấp khi mua và giá cả độc quyền cao khi bán. Kết quả là
các giá trị hàng hóa được chuyển hóa thành giá cả độc quyền:
WĐQ = K + pĐQ
c. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật giá trị đối với sự
phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam:
Nghiên cứu quy luật giá trị có ý nghĩa rất lớn đối với phát
triển nền kinh tế thị trường ở nước ta, biểu hiện ở hai mặt sau:
- Mặt tích cực biểu hiện ở chỗ:
+ Nó buộc các chủ thể kinh tế phải nhạy bén, năng động
trong sản xuất, kinh doanh, phải tìm cách tăng năng suất lao
động, giảm chi phí sản xuất để hạ giá thành sản phẩm; phải tìm
đến ngành hoặc lĩnh vực mà mình có lợi thế, đến mặt hàng có
nhiều người cần, tức là phải nâng cao hiệu quả trong hoạt động
kinh tế.
+ Nó tác động làm cho cơ cấu của nền sản xuất được điều
chỉnh một cách linh hoạt phù hợp với cơ cấu tiêu dùng của xã
hội.
+ Nó buộc các chủ thể kinh tế phải cạnh tranh với nhau,

156
điều này làm cho các nguồn lực của xã hội được sử dụng có hiệu
quả, kích thích tiến bộ kỹ thuật và công nghệ, thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển.
+ Nó còn có tác động bình tuyển người sản xuất, nhờ đó
chọn ra được những người năng động, tài kinh doanh, biết làm
giàu; đồng thời buộc những người kém cỏi phải vươn lên, tích
cực hơn nếu không muốn trở thành nghèo khó.
Với tác động này, chúng ta cần phải tôn trọng và phát huy
vai trò tự điều tiết của quy luật giá trị để phân bổ các nguồn lực
của xã hội cho các ngành, các lĩnh vực một cách linh hoạt và có
hiệu quả; xây dựng các vùng kinh tế chuyên môn hóa; lựa chọn
kỹ thuật, công nghệ mới; định hướng đào tạo nguồn nhân lực,
thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa và thúc đẩy nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát triển.
- Mặt tiêu cực biểu hiện ở chỗ:
+ Nó gây ra tình trạng khai thác cạn kiệt tài nguyên, đổ
chất thải bừa bãi, mất cân bằng sinh thái và gây ô nhiễm môi
trường.
+ Nó dẫn đến khủng hoảng kinh tế và các căn bệnh kinh tế
khác (đình trệ, suy thoái, lạm phát tiền tệ...) có cơ hội phát triển.
+ Nó dẫn đến sự mất bình đẳng về thu nhập trong xã hội,
tác động tiêu cực đến tiến bộ xã hội…
Vì vậy, nhà nước cần nghiên cứu, tìm tòi các giải pháp
ngăn ngừa, khắc phục những tác động tiêu cực của quy luật.

157
Chương V
HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ

Bài tập 49
a. Trình bày công thức chung của tư bản?
b. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản là gì ?
c. Vì sao phân tích hàng hóa sức lao động là chìa khóa để
giải quyết mâu thuẫn đó?
Gợi ý trả lời:
a. Công thức chung của tư bản:
Tiền là sản vật cuối cùng của lưu thông hàng hóa, đồng thời
là hình thái xuất hiện đầu tiên của tư bản. Mọi tư bản đều biểu
hiện trước hết là một số tiền nhất định, nhưng bản thân tiền chưa
hẳn là tư bản. Tiền chỉ trở thành tư bản trong những điều kiện
nhất định, khi chúng được sử dụng để bóc lột lao động của người
khác.
Tiền trong lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo
công thức: H - T - H (Hàng - Tiền - Hàng).
Tiền trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa vận động theo
công thức: T - H - T’ (Tiền - Hàng - Tiền).
Điểm giống nhau của hai công thức trên là: đều cấu thành
bởi hai yếu tố hàng và tiền; đều chứa đựng hai hành vi đối lập
nhau là mua và bán; đều biểu hiện quan hệ kinh tế giữa người
mua và người bán.
Tư bản vận động theo công thức T - H - T’, trong đó T’ = T
+ T (T là số tiền trội hơn số tiền ứng ra, được gọi là giá trị
thặng dư và ký hiệu là m). Số tiền ứng ra ban đầu (T) chuyển hóa
thành tư bản (ký hiệu K). Như vậy, tiền (T) chỉ biến thành tư bản
khi được dùng để mang lại giá trị thặng dư (m) cho nhà tư bản.
158
Sự vận động của tư bản không có giới hạn.
Công thức T - H - T’ với T’ = T + m được gọi là công thức
chung của tư bản, vì sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện
trong lưu thông dưới dưới dạng khái quát này.
b. Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản:
Trong công thức T - H - T’, trong đó T’ = T + m; vậy m do
đâu mà có?
Thoạt nhìn, ta có cảm giác hình như giá trị thặng dư được
sinh ra trong lưu thông. Nhưng thực chất lưu thông và bản thân
tiền tệ trong lưu thông không hề tạo ra giá trị.
Tuy nhiên, nếu người có tiền không tiếp xúc gì với lưu
thông, tức đứng ngoài lưu thông thì cũng không làm cho tiền của
mình lớn lên được.
"Vậy là tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng
không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện
trong lưu thông và đồng thời không phải trong lưu thông"1. Đó là
mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.
c. Phân tích hàng hóa sức lao động là chìa khóa để giải
quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản:
Để giải quyết mâu thuẫn trong công thức chung của tư bản,
C.Mác đã tìm được trên thị trường một loại hàng hóa mà việc sử
dụng nó có thể tạo ra được giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó.
Hàng hóa đó là hàng hóa sức lao động.
- Sức lao động là toàn bộ những năng lực (thể lực và trí
lực) tồn tại trong một con người và được người đó sử dụng vào
sản xuất.
- Trong mọi xã hội, sức lao động luôn là yếu tố của sản
xuất, nhưng nó chỉ trở thành hàng hóa khi người có sức lao động
1
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.249.
159
phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của
mình,có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa và
người có sức lao động không có tư liệu sản xuất cần thiết để tự
mình đứng ra tổ chức sản xuất nên muốn sống phải bán sức lao
động cho người khác sử dụng.
- Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động.
Giá trị hàng hóa sức lao động được xác định bằng giá trị
của toàn bộ tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì đời sống bình
thường của công nhân và gia đình anh ta, cộng với những phí tổn
để đào tạo người công nhân có một trình độ nhất định.
Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động, trước hết nó
cũng thỏa mãn một nhu cầu nào đó của người mua, tức là để tiêu
dùng vào quá trình lao động. Nhưng nó khác với các hàng hóa
thông thường ở chỗ: trong quá trình lao động, nó tạo ra một
lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, đó là giá trị
thặng dư. Đặc điểm này chính là chìa khóa để giải quyết mâu
thuẫn trong công thức chung của tư bản.

Bài tập 50
a. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, tỷ suất và khối
lượng giá trị thặng dư?
b. Phân biệt tư bản bất biến và tư bản khả biến?
c. Căn cứ và ý nghĩa của việc phân chia cặp phạm trù này?
Gợi ý trả lời:
a. Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư, tỷ suất và khối
lượng giá trị thặng dư:
- Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư:
Chẳng hạn, đối với nhà tư bản sản xuất sợi: để sản xuất 10
kg sợi, phải ứng ra số tiền 10 USD để mua 10 kg bông; hao mòn
160
máy móc để chuyển hết 10 kg bông thành sợi là 2 USD và mua
sức lao động trong cả ngày (8 giờ) là 4 USD. Giả định việc mua
này đúng giá trị và mỗi giờ lao động sống của công nhân tạo ra
giá trị mới kết tinh trong sản phẩm là 1 USD.
Giả sử trong 4 giờ lao động đầu, bằng lao động cụ thể,
người công nhân đã chuyển hết 10 kg bông thành sợi và bằng lao
động trừu tượng người công nhân tạo thêm lượng giá trị mới là 4
USD. Kết quả nhà tư bản có một khối lượng hàng hóa sợi với giá
trị là 16 USD. Nhà tư bản đem bán khối lượng sợi ấy trên thị
trường theo đúng giá trị và thu được 16 USD. Nếu ngày lao động
ngừng ở đây thì nhà tư bản chưa có giá trị thặng dư. Nhưng, vì
nhà tư bản thuê công nhân cả ngày (8 giờ), chứ không phải 4 giờ,
nên người công nhân phải tiếp tục lao động thêm 4 giờ nữa.
Trong 4 giờ lao động tiếp, nhà tư bản chỉ phải chi phí 12
USD (10 USD mua 10 kg bông và 2 USD khấu hao máy móc),
mà không phải trả tiền công nữa. Nhưng tương tự như 4 giờ lao
động đầu, nhà tư bản vẫn có một lượng hàng hóa sợi giá trị là 16
USD.
Tổng cộng trong một ngày lao động 8 giờ, nhà tư bản phải
chi phí: 20 USD để mua bông, hao mòn máy móc 4 USD, trả
công cho công nhân là 4 USD, tổng cộng bằng 28 USD. Nhưng
khi đem bán 20 kg sợi trên thị trường đúng giá trị, nhà tư bản lại
thu đượng 32 USD, số tiền dôi ra là 4 USD. Phần giá trị dôi ra
này chính là giá trị thặng dư (m).
Vậy, giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá
trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản
chiếm không. Nguồn gốc duy nhất của giá trị thặng dư là lao
động của công nhân không được trả công.
- Tỷ suất giá trị thặng dư:

161
Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ phần trăm giữa số lượng giá
trị thặng dư (m) và tư bản khả biến (v) cần thiết để sản xuất ra
lượng giá trị thặng dư đó, (ký hiệu m’). m’ được tính bằng công
thức sau:
m
m'  100%
v
Công thức tính tỷ suất giá trị thặng dư còn có dạng:
t'
m'   100%
t
Trong đó: t là thời gian lao động tất yếu
t’ là thời gian lao động thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh chính xác trình độ bóc lột
của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê.
- Khối lượng giá trị thặng dư:
Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị
thặng dư và tổng tư bản khả biến đã được sử dụng.
Nếu ký hiệu M là khối lượng giá trị thặng dư, thì M được
xác định bằng công thức:
m
M  V
M = m’.V hoặc v

Trong đó V là tổng tư bản khả biến.


Khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô bóc lột của tư
bản đối với lao động. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì khối
lượng giá trị thằng dư càng lớn vì trình độ bóc lột giá trị thặng
dư càng tăng.
b. Phân biệt tư bản bất biến và tư bản khả biến:
- Tư bản bất biến là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức
tư liệu sản xuất (nhà xưởng, máy móc, thiết bị, nhiên liệu,

162
nguyên liệu, vật liệu phụ...) mà giá trị của nó được lao động cụ
thể của người công nhân làm thuê bảo tồn và chuyển nguyên vẹn
vào sản phẩm mới, tức là giá trị không thay đổi về lượng trong
quá trình sản xuất, ký hiệu là c.
- Tư bản khả biến là bộ phận tư bản dùng để mua sức lao
động, tuy không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu
tượng của người công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là có sự
biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất, ký hiệu là v.
Tư bản bất biến (c) chỉ là điều kiện cần thiết không thể
thiếu để sản xuất ra giá trị thặng dư, còn tư bản khả biến (v) có
vai trò quyết định trong quá trình đó, mới là nguồn gốc tạo ra giá
trị thặng dư.
c. Căn cứ và ý nghĩa của việc phân chia cặp phạm trù này:
- Nó vạch rõ nguồn gốc duy nhất của giá trị thặng dư là do
sức lao động của công nhân làm thuê biểu hiện dưới hình thức tư
bản khả biến tạo ra. Tư bản bất biến tuy không là nguồn gốc của
giá trị thặng dư, nhưng là điều kiện khách quan cần thiết để sản
xuất và tăng năng suất lao động của công nhân.
- Nó giúp người lao động có cơ sở để phê phán quan điểm
của giai cấp tư sản cho rằng máy móc sinh lời cho nhà tư bản
chứ không phải nhà tư bản bóc lột công nhân làm thuê.

Bài tập 51
a. TRình bày các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư.
b. Sự giống nhau và khác nhau giữa các phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư lag gì?.
c. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
Gợi ý trả lời:
a. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
163
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: là phương
pháp sản xuất giá trị thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao
động xã hội, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu
không thay đổi.
Thí dụ, ngày lao động là 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là
4 giờ, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ, mỗi giờ công nhân
tạo ra một giá trị mới là 1 USD thì giá trị thặng dư tuyệt đối là 4
USD và tỷ suất giá trị thặng dư là:
4
m'   100%  100%
4
Nếu kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa, trong khi mọi
điều kiện khác vẫn không đổi, thì tỷ suất giá trị thặng dư sẽ tăng
lên thành:
6
m'   100%  150%
4
- Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối: là
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư do rút ngắn thời gian lao
động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động xã hội, nhờ
đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ
dài ngày lao động, cường độ lao động vẫn như cũ.
Thí dụ, ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là lao động tất
yếu, 4 giờ là lao động thặng dư. Nếu thời gian lao động tất yếu
giảm đi 2 giờ, thì thời gian lao động thặng dư sẽ tăng từ 4 giờ lên
6
m'   100%  300%
6 giờ và 2

Để giảm thời gian lao động tất yếu, tức là giảm giá trị sức
lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ cần
thiết cho người công nhân. Muốn vậy phải tăng năng suất lao

164
động xã hội trong các ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt và các
ngành sản xuất tư liệu sản xuất có liên quan.
- Giá trị thặng dư siêu ngạch: là giá trị thặng dư thu được do
áp dụng công nghệ mới sớm hơn các xí nghiệp khác làm cho giá
trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Trong từng xí nghiệp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một
hiện tượng tạm thời, nhưng trong phạm vi xã hội thì nó lại luôn
tồn tại. Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất để
thúc đẩy các nhà tư bản đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao
động cá biệt, đánh bại đối thủ của mình trong cạnh tranh.
b. Sự giống và khác nhau giữa phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư tương đối, giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư
siêu ngạch:
- Giống nhau:
+ Đều có mục đích làm cho thời gian lao động thặng dư kéo
dài ra, làm m’ và M tăng lên, tức là đều nâng cao trình độ và quy
mô bóc lột của tư bản đối với lao động làm thuê.
+ Đều được thực hiện dựa trên có sở tăng năng suất lao
động.
- Khác nhau
Phương pháp sản xuất Phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư tuyệt đối giá trị thặng dư tương đối
Kéo dài thời gian lao động Rút ngắn thời gian lao động
vượt quá thời gian lao động tất yếu
tất yếu
Dựa vào tăng cường độ lao Dựa vào tăng năng suất lao
động động
Vấp phải giới hạn về thời Không có giới hạn vì việc áp
gian trong ngày và thời gian dụng công nghệ sản xuất mới

165
để công nhân tái sản xuất sức tạo khả năng tăng năng suất
lao động lao động lên vô hạn

Phương pháp sản xuất Phương pháp sản xuất giá trị
giá trị thặng dư tương đối thặng dư siêu ngạch
Dựa vào tăng năng suất lao Dựa vào tăng năng suất lao
động xã hội động cá biệt

c. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này:


Nghiên cứu nội dung trên, một mặt giúp chúng ta hiểu rõ
hơn bản chất bóc lột của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa; mặt
khác, nếu tạm thời gạt bỏ bản chất ấy, thì có thể thấy rằng các
phương pháp sản xuất giá trị thăng dư, nhất là phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tương đối và phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư siêu ngạch, có thể vận dụng trong các doanh nghiệp ở
nước ta nhằm kích thích sử dụng kỹ thuật mới, cải tiến tổ chức
quản lý, tiết kiệm chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động xã
hội, tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội.

Bài tập 52
a. Phân tích nội dung, vai trò và biểu hiện của quy luật giá
trị thặng dư.
b. Trong điều kiện hiện nay, sản xuất giá trị thặng dư có
những đặc điểm gì?
Gợi ý trả lời:
a. Nội dung, vai trò và biểu hiện của quy luật giá trị thặng
dư:
- Nội dung của quy luật giá trị thặng dư là sản xuất nhiều
và ngày càng nhiều hơn giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng
166
cách tăng cường bóc lột công nhân làm thuê.
Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế cơ bản
phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản
xuất đó. Theo C.Mác quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế
tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Không có
sản xuất giá trị thặng dư thì không có chủ nghĩa tư bản.
Quy luật giá trị thặng dư không những chỉ vạch rõ mục
đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa mà còn vạch rõ phương
tiện, thủ đoạn để đạt mục đích như: tăng cường bóc lột công
nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động, kéo dài ngày
lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất. Quy luật
giá trị thặng dư là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư
bản: mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, mâu thuẫn giữa giai cấp
tư sản và giai cấp công nhân.
- Vai trò của quy luật giá trị thặng dư:
+ Quyết định mục đích, bản chất, nguyên tắc phân phối cơ
bản và phương hướng phát triển của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa.
+ Chi phối các quy luật kinh tế khác, hướng sự hoạt động
của các quy luật kinh tế này phục vụ cho sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản.
+ Tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội tư bản. Một mặt,
nó thúc đẩy kỹ thuật, phân công lao động xã hội phát triển, làm
cho lực lượng sản xuất, năng suất lao động tăng lên nhanh chóng
và nền sản xuất được xã hội hóa cao. Mặt khác, nó làm cho các
mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, trước hết là mâu thuẫn
cơ bản - mâu thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với sự
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày
càng sâu sắc, quy định xu hướng lịch sử tất yếu phải thay thế chủ

167
nghĩa tư bản bằng một xã hội mới cao hơn.
- Biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư: Giá trị thặng dư
được biểu hiện thành lợi nhuận và sự vận động của quy luật giá
trị thặng dư được biểu hiện thành quy luật lợi nhuận. Trong giai
đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, sự vận động của quy luật
giá trị thặng dư biểu hiện thành quy luật lợi nhuận bình quân.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, quy luật giá trị
thặng dư được biểu hiện thành quy luật lợi nhuận độc quyền.
b. Những đặc điểm của sản xuất giá trị thặng dư trong điều
kiện hiện nay:
- Do kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng rộng rãi
nên khối lượng giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng
năng suất lao động. Đặc điểm này cho thấy chi phí lao động sống
trong một đơn vị sản phẩm giảm nhanh, vì máy móc hiện đại
thay thế được nhiều lao động sống hơn.
- Cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện
nay có sự biến đổi lớn. Do áp dụng rộng rãi kỹ thuật và công
nghệ hiện đại nên lao động phức tạp, lao động trí tuệ tăng lên,
giữ vai trò quyết định trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư; tỷ
suất, khối lượng giá trị thặng dư ngày càng cao.
- Sự bóc lột của các nước tư bản phát triển trên phạm vi
quốc tế ngày càng được mở rộng dưới nhiều hình thức như: xuất
khẩu tư bản và hàng hóa, trao đổi không ngang giá... Sự cách
biệt giữa những nước giàu và những nước nghèo ngày càng tăng.

Bài tập 53
a. Phân tích bản chất tiền công và các hình thức tiền công
cơ bản.
b. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận tiền công.
168
Gợi ý trả lời:
a. Bản chất của tiền công và các hình thức tiền công cơ
bản:
- Bản chất của tiền công trong chủ nghĩa tư bản là hình
thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, hay là
giá cả của hàng hóa sức lao động, nhưng lại biểu hiện ra bề ngoài
thành giá cả của lao động.
Sự thật thì tiền công không phải là giá cả của lao động, lao
động không phải là hàng hóa. Bởi vì: thứ nhất, nhà tư bản trả
tiền công cho công nhân sau khi công nhân đã lao động để sản
xuất ra hàng hóa; thứ hai, tiền công được trả theo thời gian lao
động (giờ, ngày, tuần, tháng), hoặc theo số lượng hàng hóa đã
sản xuất được.
Cái mà nhà tư bản mua của công nhân không phải là lao
động mà là sức lao động. Tiền công không phải là giá trị hay giá
cả của lao động mà chỉ là giá trị hay giá cả của hàng hóa sức lao
động.
- Các hình thức tiền công cơ bản:
+ Tiền công tính theo thời gian là hình thức tiền công mà số
lượng của nó ít hay nhiều tùy theo thời gian lao động của công
nhân (giờ, ngày, tuần, tháng) dài hay ngắn.
+ Tiền công tính theo sản phẩm là hình thức tiền công mà
số lượng của nó phụ thuộc vào số lượng sản phẩm mà công nhân
đã làm ra, hoặc số lượng công việc đã hoàn thành trong một thời
gian nhất định.
b. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận tiền công:
Trong xã hội tư bản, tiền công thực tế có xu hướng hạ thấp.
Bởi vì, trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền công
danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều
169
khi không theo kịp mức tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ;
đồng thời thất nghiệp là hiện tượng thường xuyên, điều đó khiến
cho nhà tư bản mua sức lao động dưới mức giá trị của nó. Tuy
nhiên, sự hạ thấp của tiền công thực tế chỉ diễn ra như một xu
hướng, vì có những nhân tố chống lại sự hạ thấp của tiền công,
như cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi tăng tiền công,
nhu cầu sức lao động có chất lượng cao buộc nhà tư bản phải
kích thích người lao động bằng lợi ích vật chất…
Đối với nước ta hiện nay, cần phải quan tâm đến tiền công
danh nghĩa và tiền công thực tế của người lao động, nhất là tiền
công thực tế. Thực hiện chính sách tiền công, tiền lương hợp lý
là đòn bẩy thúc đẩy kinh tế phát triển. Từng bước nâng cao năng
suất lao động, đổi mới kỹ thuật, tăng thu nhập cho người lao
động, thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội trong phân phối thu
nhập.

Bài tập 54
a. Phân tích thực chất và động cơ của tích lũy tư bản.
b. Nêu các nhân tố quyết định quy mô tích lũy tư bản.
Gợi ý trả lời:
a. Thực chất và động cơ của tích lũy tư bản:
Nét điển hình của chủ nghĩa tư bản là tái sản xuất mở rộng.
Để tái sản xuất mở rộng, nhà tư bản phải biến một phần giá trị
thặng dư thành tư bản để tăng thêm tư bản ứng trước. Sự chuyển
hóa một phần giá trị thặng dư thành tư bản gọi là tích lũy tư bản.
Như vậy, thực chất của tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một
phần giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản
xuất, hay là quá trình tư bản hóa giá trị thặng dư.
Động cơ của tích lũy tư bản là quy luật kinh tế cơ bản của
170
chủ nghĩa tư bản - quy luật giá trị thặng dư. Muốn tăng khối
lượng giá trị thặng dư, muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh
tế thị trường, các nhà tư bản phải mở rộng sản xuất bằng tích lũy
tư bản.
b. Các nhân tố làm tăng quy mô tích lũy tư bản:
- Trình độ bóc lột giá trị thặng dư (m’): Muốn tăng khối
lượng giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tăng thêm máy móc, thiết
bị và công nhân. Nhưng nhà tư bản có thể không tăng thêm công
nhân mà bắt số công nhân hiện có cung cấp thêm một lượng lao
động bằng cách tăng thời gian lao động và cường độ lao động.
Trình độ bóc lột giá trị thặng dư càng tăng thì khối lương giá trị
thặng dư càng tăng, do đó quy mô tích lũy tư bản càng tăng.
- Năng suất lao động: Năng suất lao động tăng lên thì giá cả
tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng giảm. Sự giảm này dẫn đến
lượng giá trị thặng dư nhất định dành cho tích lũy cũng có thể
chuyển hóa thành một khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao
động phụ thêm nhiều hơn trước. Năng suất lao động càng tăng
lên sẽ càng làm cho giá trị tư bản cũ tái hiện dưới hình thái hữu
dụng mới càng nhanh.
- Sự chênh lệch giữa tư bản sử dụng và tư bản tiêu dùng:
Máy móc, thiết bị càng hiện đại, sự chênh lệch giữa tư bản sử
dụng và tư bản tiêu dùng càng lớn, thì sự phục vụ không công
của tư liệu lao động càng lớn, tư bản lợi dụng được những thành
tựu của lao động quá khứ càng nhiều, nhờ vậy quy mô tích lũy tư
bản càng lớn.
- Quy mô của tư bản ứng trước: Với trình độ bóc lột không
thay đổi thì khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng tư bản khả
biến quyết định. Do đó, quy mô của tư bản ứng trước, nhất là bộ
phận của tư bản khả biến càng lớn thì khối lượng giá trị thặng dư

171
càng lớn, tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích lũy tư bản.

Bài tập 55
a. Tích tụ tư bản, tập trung tư bản là gì ? Nêu mối quan hệ
giữa chúng.
b. Vai trò của tích tụ và tập trung tư bản đối với sự phát
triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa được thể hiện như thế
nào?.
c. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
Gợi ý trả lời:
a. Tích tụ tư bản, tập trung tư bản và mối quan hệ giữa
chúng:
- Khái niệm tích tụ tư bản và tập trung tư bản
+ Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô tư bản cá biệt
bằng cách tư bản hóa một phần giá trị thặng dư trong một xí
nghiệp nào đó, nó là kết quả trực tiếp của tích lũy tư bản. Thực
chất của tích tụ tư bản là quá trình tích lũy tư bản.
+ Tập trung tư bản là sự tăng quy mô tư bản cá biệt bằng
cách hợp nhất một số tư bản nhỏ thành một tư bản lớn hơn. Tập
trung tư bản diễn ra bằng hai phương pháp tự nguyện và cưỡng
bức.
- Quan hệ giữa tích tụ tư bản và tập trung tư bản:
+ Giống nhau:
Cả tích tụ tư bản và tập trung tư bản đều làm tăng quy mô
tư bản cá biệt; tăng cường sự bóc lột của tư bản đối với lao động
làm thuê; tăng cường sự thống trị của giai cấp tư sản đối với giai
cấp vô sản.
+ Khác nhau:

172
Tích tụ tư bản không chỉ làm tăng quy mô tư bản cá biệt
mà còn làm tăng quy mô tư bản xã hội. Tích tụ tư bản có giới
hạn hẹp, phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Tích tụ tư
bản phản ánh mối quan hệ trực tiếp giữa giai cấp công nhân và
giai cấp tư sản.
Tập trung tư bản chỉ làm tăng quy mô tư bản cá biệt mà
không làm tăng quy mô tư bản xã hội. Tập trung tư bản có giới
hạn rất rộng. Tập trung tư bản phản ánh mối quan hệ trực tiếp
giữa các nhà tư bản với nhau.
b. Vai trò của tích tụ và tập trung tư bản đối với sự phát
triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa:
- Quá trình tích tụ và tập trung tư bản làm tăng quy mô tư
bản cá biệt, làm cho nhà tư bản có thêm điều kiện mở rộng sản
xuất, tăng năng suất lao động.
- Thúc đẩy gia tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản. Quá trình
gia tăng cấu tạo hữu cơ của tư bản tất yếu thúc đẩy quá trình
hình thành nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa.
- Giúp nền sản xuất sớm có được những doanh nghiệp lớn,
sử dụng công nghệ hiện đại…
c. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này:
- Giúp thấy rõ nguyên nhân trực tiếp gây ra nạn thất nghiệp
trong chủ nghĩa tư bản. Chính cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ đã làm cho nhu cầu về sức lao động giảm một cách tương
đối. Nạn thất nghiệp đã dẫn giai cấp công nhân đến tình trạng
bần cùng hóa dưới hai dạng: bần cùng hóa tuyệt đối và bần cùng
hóa tương đối.
- Đối với nước ta, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; đô thị hóa cũng sẽ làm cho cấu tạo hữu cơ thay đổi theo
hướng tăng c giảm v dẫn đến tình trạng thất nghiệp ngày càng
173
gia tăng. Giải quyết việc làm, tăng thu nhập, ổn định và nâng cao
đời sống của người lao động đang là vấn đề cấp bách đòi hỏi
chính phủ phải quan tâm giải quyết. Vì vậy, khi nghiên cứu vấn
đề này chúng ta có thể rút ra được bài học cần thiết trong quá
trình giải quyết việc làm, chống thất nghiệp hiện nay.

Bài tập 56
a. Thế nào là tuần hoàn và chu chuyển của tư bản?
b. Trình bày những biện pháp làm tăng tốc độ chu chuyển
tư bản.
c. Phân tích căn cứ và ý nghĩa của việc phân chia tư bản
cố định, tư bản lưu động.
Gợi ý trả lời:
a. Tuần hoàn và chu chuyển của tư bản:
- Tuần hoàn của tư bản:
Mọi tư bản sản xuất trong quá trình tuần hoàn đều vận
động theo công thức:

SLĐ
T-H ... SX ... H’ - T’

Sự vận động nàyTLSXtrải qua ba giai đoạn (hai giai đoạn lưu
thông và một giai đoạn sản xuất), tồn tại dưới ba hình thức và
thực hiện ba chức năng.
+ Giai đoạn thứ nhất:
Tư bản hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, tồn tại dưới
hình thái tư bản tiền tệ, thực hiện chức năng mua các yếu tố sản
xuất (tư liệu sản xuất và sức lao động).
Quá trình lưu thông được biểu thị như sau:

174
SLĐ
T–H
TLSX
Kết thúc giai đoạn này tư bản tiền tệ biến thành tư bản sản
xuất.
+ Giai đoạn thứ hai:
Tư bản hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, tồn tại dưới hình
thái tư bản sản xuất, có chức năng kết hợp hai yếu tố tư liệu sản
xuất và sức lao động để sản xuất ra giá trị hàng hóa trong đó có
giá trị thặng dư. Đây là giai đoạn có ý nghĩa quyết định nhất, vì
nó gắn trực tiếp với mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Sự vận động của tư bản ở giai đoạn này biểu thị như sau:

SLĐ
H ... SX ... H’
TLSX

Kết thúc giai đoạn này, tư bản sản xuất chuyển hóa thành tư
bản hàng hóa.
+ Giai đoạn thứ ba:
Tư bản quay lại hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, tồn tại
dưới hình thái tư bản hàng hóa, có chức năng là thực hiện giá trị
hàng hóa, trong đó có giá trị thặng dư.
Sự vận động của tư bản ở giai đoạn này biểu thị như sau:
H’ - T’
Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hóa chuyển hóa thành
tư bản tiền tệ. Đến đây mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa
đã được thực hiện, tư bản quay trở lại hình thái ban đầu nhưng
với số lượng lớn hơn trước. Quá trình đó tiếp tục được lặp đi, lặp
lại không ngừng gọi là sự vận động tuần hoàn của tư bản.
Vậy, tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư
175
bản trải qua ba giai đoạn, lần lượt mang ba hình thái khác nhau,
thực hiện ba chức năng khác nhau để rồi lại quay trở về hình thái
ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư.
- Chu chuyển của tư bản:
Chu chuyển tư bản là sự tuần hoàn của tư bản, nếu xét nó là
một quá trình định kỳ đổi mới và lặp đi, lặp lại không ngừng.
Những tư bản khác nhau chu chuyển với vận tốc khác nhau
tùy theo thời gian chu chuyển của tư bản. Thời gian chu chuyển
của tư bản là thời gian tính từ khi tư bản ứng ra dưới một hình
thái nhất định cho đến khi thu về dưới hình thái đó có kèm theo
giá trị thặng dư (thời gian tư bản thực hiện được một vòng tuần
hoàn). Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm thời gian sản
xuất và thời gian lưu thông.
b. Những biện pháp làm tăng tốc độ chu chuyển của tư bản:
Tốc độ chu chuyển tư bản là số vòng (lần) chu chuyển của
tư bản trong một năm. Để làm tăng tốc độ chu chuyển tư bản,
các nhà tư bản đã thực hiện các biện pháp sau:
- Nâng cao năng suất lao động để rút ngắn thời gian lao
động;
- Hoàn thiện các vật sản xuất để rút ngắn thời gian gián
đoạn lao động;
- Giảm trữ lượng sản xuất để rút ngắn thời gian dự trữ;
- Khấu hao nhanh tư bản cố định để rút ngắn thời gian chu
chuyển chung và chu chuyển thực tế của tư bản.
- Hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng để rút ngắn thời gian
lưu thông;
- Hoàn thiện các yếu tố liên quan đến thị trường để mua
bán hàng hóa nhanh hơn…
c. Căn cứ và ý nghĩa của việc phân chia tư bản cố định, tư
176
bản lưu động:
- Tư bản cố định (KCĐ) là một bộ phận của tư bản sản xuất
đồng thời là bộ phận chủ yếu của tư bản bất biến (máy móc, thiết
bị, nhà xưởng...), tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng
giá trị của nó không chuyển hết một lần mà chuyển dần từng
phần vào sản phẩm mới theo mức độ hao mòn của nó trong quá
trình sản xuất.
- Tư bản lưu động (KLĐ) là một bộ phận của tư bản sản
xuất, gồm một phần tư bản bất biến (nguyên liệu, nhiên liệu, vật
liệu phụ...) và tư bản khả biến (sức lao động) được tiêu dùng
hoàn toàn trong một chu kỳ sản xuất và giá trị của nó được
chuyển toàn bộ vào sản phẩm mới trong quá trình sản xuất.
- Căn cứ và ý nghĩa của việc phân chia cặp phạm trù:
+ Căn cứ: việc phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư
bản lưu động, căn cứ vào phương thức chuyển dịch giá trị khác
nhau của từng bộ phận tư bản vào sản phẩm mới trong quá trình
sản xuất.
+ Ý nghĩa: sự phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư
bản lưu động tuy không phản ánh được nguồn gốc sinh ra giá trị
thặng dư, nhưng lại có ý nghĩa quan trọng trong quản lý kinh tế.
Việc sử dụng tiền vốn trong sản xuất kinh doanh phải hợp lý
nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Tận dụng tối đa công nghệ máy
móc, thiết bị để tránh hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình, tiết
kiệm nguyên vật liệu, nhiên liệu… là khoa học và nghệ thuật
quản lý kinh tế, đồng thời là đòi hỏi bức xúc ở nước ta hiện nay.

Bài tập 57
a. Thế nào là tái sản xuất tư bản xã hội?
b. Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất
177
giản đơn và tái sản xuất mở rộng là gì?
Gợi ý trả lời:
a. Tái sản xuất tư bản xã hội:
- Tái sản xuất tư bản xã hội là sự lặp lại không ngừng của
tái sản xuất tư bản chủ nghĩa trên phạm vi toàn xã hội, là tái sản
xuất của tất cả các tư bản cá biệt trong mối quan hệ phụ thuộc
lẫn nhau, đan xen vào nhau.
- Theo quan điểm của C.Mác, toàn bộ nền sản xuất tư bản
chủ nghĩa được phân chia thành hai khu vực lớn:
+ Khu vực I: sản xuất tư liệu sản xuất;
+ Khu vực II: sản xuất tư liệu tiêu dùng.
Tỷ lệ thực hiện sản phẩm giữa hai khu vực là một trong
những tỷ lệ cơ bản của nền kinh tế quốc dân.
b. Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất
giản đơn và tái sản xuất mở rộng
- Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất
giản đơn:
+ Toàn bộ giá trị mới do lao động sáng tạo ra trong khu vực
I phải bằng giá trị tư bản bất biến đã hao phí ở khu vực II.
I (v + m) = IIc
Đây là điều kiện cơ bản nhất để thực hiện tái sản xuất giản
đơn tư bản xã hội, nó nói lên mối quan hệ giữa hai khu vực trong
tái sản xuất giản đơn.
+ Toàn bộ giá trị sản phẩm của khu vực I phải bằng giá trị
tư bản bất biến đã hao phí của cả hai khu vực.
I (c + v + m) = Ic + IIc
Đây là điều kiện nói lên vai trò của khu vực I trong tái sản
xuất giản đơn.

178
+ Toàn bộ giá trị sản phẩm của khu vực II sẽ bằng giá trị
mới do lao động sáng tạo ra ở cả hai khu vực.
I (v + m) + II (v + m) = II (c + v + m)
Đây là điều kiện nói lên vai trò của khu vực II trong tái sản
xuất giản đơn.
- Điều kiện thực hiện sản phẩm xã hội trong tái sản xuất
mở rộng:
+ Toàn bộ giá trị mới ở khu vực I phải lớn hơn giá trị tư
bản bất biến ở khu vực II.
I (v + m) > II c
Điều kiện thực hiện trong trao đổi:

I (v + v + m2) = II (c + c1)
Điều kiện này nói lên mối quan hệ giữa hai khu vực trong
tái sản xuất mở rộng.
+ Toàn bộ giá trị sản phẩm của khu vực I phải lớn hơn giá
trị tư bản bất biến ở cả hai khu vực.
I (c + v + m) > Ic + IIc
Điều kiện thực hiện trong trao đổi:
I (c + v + m) = I (c + c ) + II (c +c)
Điều kiện này nói lên vai trò của khu vực I trong tái sản
xuất mở rộng.
+ Toàn bộ giá trị mới ở cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị
sản phẩm của khu vực II.
I (v + m) + II (v + m) > II (c + v + m)
Điều kiện thực hiện trong trao đổi:
I (v + m) + II (v + m) = II (c + v + m) + (I + II) c
Điều kiện này nói lên vai trò của giá trị mới trong tái sản
xuất mở rộng.
179
Như vậy, việc thực hiện tái sản xuất mở rộng đòi hỏi những
tỷ lệ cân đối giữa hai khu vực. Dưới chủ nghĩa tư bản, những tỷ
lệ đó hình thành một cách tự phát và thường xuyên bị phá vỡ,
nên có thể xảy ra sự mất cân đối giữa các khu vực của nền kinh
tế. Nếu sự mất cân đối này không được điều chỉnh để kiến lập sự
cân đối mới thì tất yếu sẽ dẫn đến hiện tượng khủng hoảng kinh
tế.

Bài tập 58
a. Lợi nhuận là gì ? Nêu mối quan hệ giữa lợi nhuận với
giá trị thặng dư.
b. Tỷ suất lợi nhuận là gì ? Nêu mối quan hệ giữa tỷ suất
lợi nhuận với tỷ suất giá trị thặng dư.
Gợi ý trả lời:
a. Lợi nhuận và quan hệ giữa lợi nhuận với giá trị thặng dư:
- Lợi nhuận:
Lợi nhuận (kí hiệu là p) là giá trị thặng dư khi được quan
niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước, là kết quả hoạt
động của toàn bộ tư bản đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Công thức tính lợi nhuận: p = W - k
Lúc này, công thức W = k + m chuyển thành W = k + p.
- Quan hệ giữa lợi nhuận với giá trị thặng dư:
+ Giống nhau: cả lợi nhuận (p) và giá trị thặng dư (m) đều
có chung là một nguồn gốc là kết quả lao động không được trả
công của công nhân.
+ Khác nhau: phạm trù giá trị thặng dư phản ánh đúng
nguồn gốc và bản chất của nó là kết quả của sự chiếm đoạt lao
động không công của công nhân. Ngoài ra, phạm trù lợi nhuận là

180
hình thức biến tướng của giá trị thặng dư, nó phản ánh sai lệch
bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
b. Tỷ suất lợi nhuận và quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận với
tỷ suất giá trị thặng dư:
- Tỷ suất lợi nhuận:
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số giá trị
thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước, thường được tính trong
một năm, ký hiệu p’.
m
p'   100%
cv
Trong thực tế, nhà tư bản thường tính p’ hằng năm bằng tỷ
lệ phần trăm giữa tổng số lợi nhuận thu được và tổng tư bản ứng
trước.
p
p'   100%
k
- Quan hệ giữa tỷ suất lợi nhuận và tỷ suất giá trị thặng dư:
+ Tỷ suất lợi nhuận phụ thuộc vào tỷ suất giá trị thặng dư.
Nếu m’ tăng thì p’ cũng tăng và ngược lại, nếu m’ giảm thì p’
giảm.
+ Tỷ suất lợi nhuận (p’) khác tỷ suất giá trị thặng dư (m’)
cả về lượng và chất.
Về lượng, tỷ suất lợi nhuận (p’) luôn nhỏ hơn tỷ suất giá trị
thặng dư (m’).
m m
p'   100% m'   100%
p’ < m’; (vì cv còn v )
Về chất, m’ phản ánh đúng mức độ bóc lột của nhà tư bản
đối với lao động. Còn p’ chỉ nói lên mức doanh lợi của việc đầu
tư tư bản; nó chỉ cho các nhà tư bản thấy đầu tư vào đâu thì có
lợi hơn (ngành có p’ lớn hơn). Do đó p’ là mục tiêu cạnh tranh, là
181
động lực thúc đẩy sự hoạt động của các nhà tư bản.

Bài tập 59
a. Trình bày sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và
giá cả sản xuất.
b. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này.
Gợi ý trả lời:
a. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá cả sản
xuất:
- Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân:
Vì mục đích lợi nhuận, các nhà tư bản cạnh tranh quyết liệt
với nhau. Có hai loại cạnh tranh là cạnh tranh trong nội bộ ngành
và cạnh tranh giữa các ngành.
+ Cạnh tranh trong nội bộ ngành là cạnh tranh giữa các xí
nghiệp trong cùng một ngành, sản xuất cùng một loại hàng hóa,
nhằm mục đích giành giật ưu thế trong sản xuất và trong tiêu thụ
hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả của loại
cạnh tranh này dẫn đến hình thành giá trị thị trường của hàng
hóa, điều kiện sản xuất trung bình của một ngành thay đổi, chất
lượng hàng hóa được nâng cao, chủng loại hàng hóa phong
phú…
+ Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các xí
nghiệp tư bản kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau,
nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Kết quả là các tỷ suất
lợi nhuận cá biệt chuyển hóa thành tỷ suất lợi nhuận bình quân,
lợi nhuận cá biệt chuyển hóa thành lợi nhuận bình quân và giá trị
hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản xuất.
Tỷ suất lợi nhuận bình quân là “con số trung bình” của tất
cả các tỷ suất lợi nhuận khác nhau; hay tỷ suất lợi nhuận bình
182
quân là tỷ số theo phần trăm giữa tổng giá trị thặng dư và tổng tư
bản xã hội.
Lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau của những
tư bản bằng nhau, đầu tư vào những ngành khác nhau. Nó chính
là lợi nhuận mà các nhà tư bản thu được căn cứ vào tổng tư bản
đầu tư nhân với tỷ suất lợi nhuận bình quân, bất kể cấu tạo hữu
cơ của tư bản như thế nào.
- Sự hình thành giá cả sản xuất:
Giá cả sản xuất là giá cả bằng chi phí sản xuất tư bản chủ
nghĩa cộng với lợi nhuận bình quân.
Giá cả sản xuất  k  p . Giá trị là cơ sở của giá cả sản xuất.
Giá cả sản xuất là cơ sở của giá cả thị trường. Giá cả thị trường
xoay quanh giá cả sản xuất.
Khi giá trị hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản xuất thì
quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất.
b. Ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này:
Nghiên cứu sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân và
giá cả sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng cả về mặt lý luận và
thực tiễn.
- Trước hết, lý luận này là sự tiếp tục phát triển lý luận giá
trị và giá trị thặng dư của C.Mác theo tiến trình đi từ trừu tượng
đến cụ thể, thấy được quan hệ cạnh tranh giữa các nhà tư bản
trong việc giành giật lợi nhuận với nhau.
- Lý luận này cho thấy toàn thể giai cấp tư sản đã bóc lột
toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê. Vì vậy, muốn giành thắng
lợi, giai cấp công nhân phải đoàn kết lại đấu tranh với tư cách là
một giai cấp, kết hợp đấu tranh kinh tế với đấu tranh chính trị.

Bài tập 60
183
a. Phân tích sự hình thành tư bản thương nghiệp và lợi
nhuận thương nghiệp
b. Phân tích sự hình thành tư bản cho vay và lợi tức cho
vay.
Gợi ý trả lời:
a. Tư bản thương nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp:
- Tư bản thương nghiệp: là một bộ phận của tư bản công
nghiệp được tách ra chuyên thực hiện chức năng lưu thông hàng
hóa, phục vụ cho sự vận động của tư bản công nghiệp. Công
thức vận động của tư bản thương nghiệp là: T - H - T’.
- Tư bản thương nghiệp xuất hiện có vai trò và lợi ích to
lớn:
+ Nhờ có tư bản thương nghiệp chuyên trách việc mua -
bán hàng hóa mà lượng tư bản ứng vào lưu thông và chi phí lưu
thông nhỏ hơn khi những người sản xuất trực tiếp đảm nhận
chức năng này.
+ Nhờ có tư bản thương nghiệp chuyên trách việc mua -
bán hàng hóa, người sản xuất có thể tập trung chăm lo việc sản
xuất, giảm dự trữ sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng giá trị
thặng dư.
+ Nhờ có tư bản thương nghiệp chuyên trách việc mua -
bán hàng hóa, sẽ rút ngắn thời gian lưu thông, tăng nhanh chu
chuyển tư bản, từ đó tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư
hằng năm.
- Lợi nhuận thương nghiệp: là một phần của giá trị thặng
dư, được tạo ra trong quá trình sản xuất mà nhà tư bản công
nghiệp phải nhường cho nhà tư bản thương nghiệp để tư bản
thương nghiệp bán hàng hóa cho mình (ký hiệu là p).
Lợi nhuận thương nghiệp là hình thức biến tướng của giá
184
trị thặng dư. Nguồn gốc của nó cũng là một bộ phận lao động
không được trả công của công nhân.
Tư bản công nghiệp nhường một phần giá trị thặng dư cho
tư bản thương nghiệp bằng cách bán hàng hóa thấp hơn giá trị
thực tế của nó, sau đó tư bản thương nghiệp bán đúng giá trị thu
về lợi nhuận thương nghiệp.
b. Tư bản cho vay và lợi tức cho vay:
- Tư bản cho vay: là tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi mà
người chủ sở hữu của nó cho nhà tư bản khác sử dụng trong một
thời gian nhất định để nhận được một khoản tiền lời nào đó (gọi
là lợi tức).
Công thức vận động của tư bản cho vay là: T - T’.
Tư bản cho vay có đặc điểm:
+ Quyền sở hữu tư bản tách rời quyền sử dụng tư bản. Đối
với người cho vay nó là tư bản sở hữu, đối với người đi vay nó là
tư bản sử dụng.
+ Tư bản cho vay là một hàng hóa đặc biệt, vì khi cho vay
người bán chỉ bán quyền sử dụng; lợi tức chính là giá cả của
hàng hóa tư bản cho vay.
+ Tư bản cho vay là tư bản được sùng bái nhất, nó gây ấn
tượng hình như tiền đã đẻ ra tiền.
b. Lợi tức và tỷ suất lợi tức cho vay: là một phần của lợi
nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay trả cho nhà tư bản cho vay
về quyền sở hữu để được quyền sử dụng tư bản trong một thời

gian nhất định, ký hiệu là Z CV . Lợi tức cho vay, thực chất là một
phần của giá trị thặng dư được tạo ra trong sản xuất.
Giới hạn của lợi tức cho vay ở trong khoảng: 0 < Z < P .
Người cho vay và người đi vay thỏa thuận với nhau về tỷ

185
suất lợi tức.
Tỷ suất lợi tức cho vay là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa

tổng số lợi tức ( Z CV ) và số tư bản tiền tệ cho vay ( K CV ) trong

một thời gian nhất định, ký hiệu Z 'CV .


Z CV
Z '  100%
K CV .

Trong đó K CV là số tư bản cho vay.


Giới hạn của tỷ suất lợi tức cho vay nằm trong khoảng:

0 < Z 'CV < P’.


Tỷ suất lợi tức cho vay cao hay thấp phụ thuộc vào tỷ suất
lợi nhuận bình quân, tỷ lệ phân chia lợi nhuận bình quân thành
lợi tức cho vay và lợi nhuận của nhà tư bản hoạt động, tình hình
cung - cầu về tư bản cho vay trên thị trường và sự hoàn thiện của
các tổ chức tín dụng.

Bài tập 61
a. Phân tích sự hình thành công ty cổ phần và thị trường
chứng khoán.
b. Nêu ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này ở
nước ta.
Gợi ý trả lời:
a. Sự hình thành công ty cổ phần và thị trường chứng
khoán:
- Sự hình thành công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là loại hình xí nghiệp lớn mà vốn của nó
hình thành từ việc liên kết nhiều tư bản cá biệt và các nguồn tiết
kiệm cá nhân thông qua việc phát hành cổ phiếu.
186
Cổ phiếu là loại chứng khoán có giá, bảo đảm cho người sở
hữu nó được quyền nhận một phần thu nhập của công ty dưới
hình thức lợi tức cổ phiếu (hay cổ tức). Lợi tức cổ phiếu không
cố định mà phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty. Về nguyên tắc, công ty cổ phần không hoàn lại vốn
cho chủ cổ phiếu; cổ phiếu bị mất giá trị khi công ty bị phá sản.
Cổ phiếu có nhiều loại: cổ phiếu thường; cổ phiếu ưu đãi; cổ
phiếu ghi danh; cổ phiếu không ghi danh.
Cổ phiếu được mua bán trên thị trường theo giá cả gọi là
thị giá cổ phiếu.
Z CP

Thị giá cổ phiếu Z 'CV

Thị giá cổ phiếu luôn biến động, một phần do sự biến động
của tỷ suất lợi tức ngân hàng, một phần vì những đánh giá về
tình trạng hoạt động của công ty cổ phần, về lợi tức cổ phiếu dự
đoán sẽ thu được.
Người mua cổ phiếu gọi là cổ đông. Về mặt tổ chức và
quản lý, đại hội cổ đông có quyền bầu ra hội đồng quản trị và
thông qua các quyết định hoạt động của công ty. Nhưng phiếu
biểu quyết trong đại hội cổ đông do số lượng cổ phiếu quy định,
vì vậy những nhà tư bản nắm được số cổ phiếu khống chế sẽ có
khả năng thao túng mọi hoạt động của công ty.
Ngoài cổ phiếu, khi cần vốn cho hoạt động kinh doanh,
công ty cổ phần còn phát hành trái phiếu.
Khác với cổ phiếu, trái phiếu cho người sở hữu nó có
quyền được nhận một khoản lợi tức cố định và được hoàn trả lại
vốn sau thời hạn ghi trên trái phiếu.
Người mua trái phiếu không được tham gia đại hội cổ
đông.
187
- Thị trường chứng khoán:
Thị trường chứng khoán là trị trường mua bán các loại
chứng khoán. Chứng khoán là các loại giấy tờ có giá như cổ
phiếu, trái phiếu, công trái, tín phiếu, văn tự cầm cố…
Thị trường chứng khoán được phân thành hai cấp độ: thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là thị
trường mua bán các chứng khoán trong lần phát hành đầu tiên.
Thị trường thứ cấp là thị trường mua đi bán lại các chứng khoán
và thường được thực hiện thông qua các sở giao dịch chứng
khoán.
Thị trường chứng khoán là loại thị trường phản ứng rất
nhạy bén đối với các biến động về kinh tế, chính trị, quân sự...,
là “phong vũ biểu” của nền kinh tế. Giá cả chứng khoán tăng,
biểu hiện nền kinh tế đang phát triển, ngược lại là biểu hiện nền
kinh tế đang sa sút, khủng hoảng. Vì vậy, trong nền kinh tế thị
trường, người ta luôn theo dõi sự biến động của thị trường này
bằng chỉ số chứng khoán.
b. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu vấn đề này ở nước
ta:
Đối với nước ta hiện nay, việc nghiên cứu công ty cổ phần
và thị trường chứng khoán có ý nghĩa thực tiễn rất sâu sắc trong
việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, bởi vì:
- Nó huy động vốn có hiệu quả và giải quyết tốt mối quan
hệ vấn đề quyền sở hữu với quyền sử dụng nhằm ổn định giá cả,
chống lạm phát và thực hiện tốt việc lưu thông tiền tệ ở nước ta
hiện nay.
- Nó tích tụ và tập trung được các nguồn vốn nhàn rỗi trong
mọi tầng lớp dân cư, trong các thành phần kinh tế và thu hút

188
được vốn đầu tư ở nước ngoài để phát triển sản xuất kinh doanh.
- Kết hợp một cách chặt chẽ và hài hòa các lợi ích kinh tế.
Phát huy được sức mạnh của các hình thức sở hữu, các thành
phần kinh tế khác nhau.
Với ý nghĩa đó, Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định
cần phải thực hiện các biện pháp đồng bộ để phát triển nhanh thị
trường chứng khoán thành một kênh huy động vốn quan trọng
trong nền kinh tế.

Bài tập 62
a. Trình bày bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa và các
hình thức địa tô.
b. Nêu ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận địa tô.
Gợi ý trả lời:
a. Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa và các hình thức địa
tô:
- Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa: là một bộ phận lợi
nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân của tư bản đầu tư
trong nông nghiệp do công nhân nông nghiệp tạo ra mà nhà tư
bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ để được quyền
sử dụng đất trong một thời gian.
Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa phản ánh quan hệ bóc
lột gián tiếp của địa chủ đối với công nhân nông nghiệp.
- Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa:
+ Địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi
nhuận bình quân thu được trên ruộng đất có điều kiện sản xuất
thuận lợi hơn. Nó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung
được quy định bởi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất và
giá cả sản xuất cá biệt trên ruộng đất tốt và trung bình (ký hiệu
189
RCL ).

Địa tô chênh lệch có hai loại: địa tô chênh lệch I và địa tô


chênh lệch II.
• Địa tô chênh lệch I là loại địa tô thu được trên những
ruộng đất có điều kiện tự nhiên thuận lợi. Chẳng hạn, có độ màu
mỡ tự nhiên thuận lợi (trung bình hoặc tốt) và có vị trí địa lý gần
nơi tiêu thụ hay gần đường giao thông.
• Địa tô chênh lệch II là loại địa tô thu được gắn liền với
thâm canh tăng năng suất, là kết quả của tư bản đầu tư thêm trên
cùng một đơn vị diện tích.
+ Địa tô tuyệt đối là loại địa tô mà tất cả các nhà tư bản
kinh doanh nông nghiệp đều phải nộp cho địa chủ, cho dù ruộng
đất đó tốt hay xấu, ở xa hay gần. Cơ sở của địa tô tuyệt đối là do
cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp thấp hơn trong công
nghiệp.
+ Địa tô độc quyền là hình thức đặc biệt của địa tô tư bản
chủ nghĩa. Địa tô độc quyền có thể tồn tại trong nông nghiệp,
công nghiệp khai thác và ở các khu đất trong thành thị. Nguồn
gốc của địa tô độc quyền cũng là lợi nhuận siêu ngạch mà nhà tư
bản phải nộp cho địa chủ.
- Giá cả ruộng đất: ruộng đất trong xã hội tư bản không chỉ
cho thuê mà còn được bán. Giá cả ruộng đất là hình thức địa tô
tư bản hóa. Bởi ruộng đất đem lại địa tô, tức là đem lại một thu
nhập ổn định bằng tiền nên nó được xem như một loại tư bản đặc
biệt. Còn địa tô chính là lợi tức của tư bản đó. Do vậy, giá cả
ruộng đất chỉ là giá mua quyền thu địa tô do ruộng đất mang lại
theo tỷ suất lợi tức hiện hành. Nó tỷ lệ thuận với địa tô và tỷ lệ
nghịch với tỷ suất lợi tức tư bản gửi vào ngân hàng.

190
R

Giá cả ruộng đất Z ' NH

b. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận địa tô:


- Vạch rõ bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong
nông nghiệp, mà còn là cơ sở khoa học để nhà nước xây dựng
luật đất đai, các chính sách giá cả nông sản, thuế đối với nông
nghiệp và các ngành khác có liên quan đến đất đai, làm cho việc
sử dụng đất có hiệu quả hơn.
- Đây cũng là cơ sở để xác định rõ chủ sở hữu và chủ sử
dụng đất, để nhà nước giao quyền sử dụng đất cho nông dân và
các tổ chức kinh tế, xã hội; tạo điều kiện hình thành cơ chế
chuyển quyền sử dụng đất giữa các chủ thể kinh tế...
- Để việc sử dụng đất có hiệu quả, nhà nước cần có quy
hoạch tổng thể, ổn định; trên cơ sở đó định hướng sử dụng đất
cho các ngành, địa phương; tạo điều kiện cho các chủ đầu tư và
bảo đảm quyền sử dụng đất cũng như lợi ích lâu dài cho người
nông dân và các chủ thể kinh tế khác.

191
Chương VI
HỌC THUYẾT VỀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC
QUYỀN VÀ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN ĐỘC QUYỀN
NHÀ NƯỚC

Bài tập 63
a. Trình bày nguyên nhân hình thành và bản chất của chủ
nghĩa tư bản độc quyền.
b. Nêu những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư
bản độc quyền.
Gợi ý trả lời:
a. Nguyên nhân hình thành và bản chất của chủ nghĩa tư
bản độc quyền:
- Nguyên nhân hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền:
Vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX trong đời sống kinh tế,
chính trị của các nước tư bản chủ nghĩa xuất hiện quá trình
chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa
tư bản độc quyền. Sự xuất hiện này do những nguyên nhân chủ
yếu sau:
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của
tiến bộ khoa học - kỹ thuật đã đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất, hình thành các xí nghiệp có quy mô lớn; từ đó đòi
hỏi phải có những hình thức tổ chức kinh tế mới.
+ Sự tác động của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản
như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích lũy… ngày càng
mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội theo hướng tập
trung sản xuất quy mô lớn.
+ Sự cạnh tranh tự do, một mặt, buộc các nhà tư bản phải
tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích lũy để thắng thế trong
cạnh tranh. Mặt khác, dẫn đến nhiều doanh nghiệp nhỏ, kỹ thuật
192
thấp kém, hoặc bị các đối thủ mạnh hơn thôn tính, hoặc phải liên
kết với nhau để đứng vững trong cạnh tranh. Vì vậy, xuất hiện
một số xí nghiệp tư bản lớn nắm địa vị thống trị một ngành hay
một số ngành công nghiệp.
+ Sự khủng hoảng kinh tế làm cho nhiều xí nghiệp nhỏ và
vừa bị phá sản; một số tồn tại phải đổi mới kỹ thuật để thoát khỏi
khủng hoảng, do đó thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất.
+ Những xí nghiệp lớn có tiềm lực kinh tế mạnh tiếp tục
cạnh tranh với nhau ngày càng khốc liệt, khó phân thắng bại, vì
thế nảy sinh xu hướng thỏa hiệp, từ đó hình thành các tổ chức
độc quyền.
+ Sự phát triển của tín dụng tư bản chủ nghĩa mở rộng, trở
thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc
hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các
tổ chức độc quyền.
- Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền:
Chủ nghĩa tư bản độc quyền là chủ nghĩa tư bản trong đó ở
hầu hết các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế tồn tại các tổ
chức tư bản độc quyền và chúng chi phối sự phát triển của toàn
bộ nền kinh tế. Sự ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn
không làm thay đổi được bản chất của chủ nghĩa tư bản. Bản
thân quy luật lợi nhuận độc quyền cũng chỉ là hình thức biến
tướng của quy luật giá trị thặng dư.
b. Những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc
quyền:
- Sự tập trung sản xuất và sự thống trị của các tổ chức độc
quyền. Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các
tổ chức độc quyền. Nhờ nắm được địa vị thống trị trong lĩnh vực
sản xuất và lưu thông, các tổ chức độc quyền có khả năng định ra

193
giá cả độc quyền. Khi bán, họ định ra giá cả độc quyền cao; khi
mua, họ định ra giá cả độc quyền thấp, qua đó họ thu được lợi
nhuận độc quyền.
- Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính. Tích tụ, tập
trung tư bản trong ngân hàng dẫn đến sự hình thành các tổ chức
độc quyền trong ngân hàng. Các tổ chức độc quyền này có quyền
lực vạn năng chi phối mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Các tổ
chức độc quyền ngân hàng cho các tổ chức độc quyền công
nghiệp vay và nhận gửi những số tiền lớn của các tổ chức độc
quyền công nghiệp trong một thời gian dài, nên lợi ích của chúng
xoắn xuýt với nhau, hai bên tìm cách thâm nhập vào nhau. Từ
đó, hình thành một loại tư bản mới gọi là tư bản tài chính.
- Xuất khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra
nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm
đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi khác ở nước nhập khẩu tư
bản. Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức chủ
yếu: xuất khẩu tư bản trực tiếp và xuất khẩu tư bản gián tiếp.
Xuất khẩu tư bản trực tiếp là đưa tư bản ra nước ngoài để trực
tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao. Xuất khẩu tư bản gián tiếp là
cho vay để thu lợi tức.
- Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc
quyền. Việc xuất khẩu tư bản tăng lên về quy mô và mở rộng
phạm vi, tất yếu dẫn đến việc phân chia thế giới về mặt kinh tế,
nghĩa là phân chia lĩnh vực đầu tư tư bản, phân chia thị trường
thế giới giữa các tổ chức độc quyền. Nó được thực hiện thông
qua ký kết các hiệp định để phân chia thị trường, khu vực xuất
khẩu, dựa trên tương quan lực lượng kinh tế giữa các cường
quốc tư bản.
- Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế

194
quốc. Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng
cường bằng sự can thiệp, phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các
cường quốc tư bản. Sự can thiệp này đã biến các nước đó thành
một nước đế quốc tư bản chủ nghĩa.

Bài tập 64
a. Trình bày nguyên nhân ra đời, bản chất và biểu hiện chủ
yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
b. Phân tích những nét mới trong sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản hiện đại.
Gợi ý trả lời:
a. Nguyên nhân ra đời, bản chất và biểu hiện chủ yếu của
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:
- Nguyên nhân ra đời của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước:
+ Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến quy mô của
nền kinh tế ngày càng lớn, tính chất xã hội hóa của nền kinh tế
ngày càng cao đòi hỏi phải có một hình thức quan hệ sản xuất
mới, sự điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối, một kế
hoạch hóa tập trung từ một trung tâm.
+ Sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất
hiện một số ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân
không thể hoặc không muốn kinh doanh đòi hỏi nhà nước tư sản
phải đứng ra đảm nhiệm kinh doanh các ngành đó, tạo điều kiện
cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác
có lợi hơn.
+ Sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối
kháng giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao
động. Nhà nước tư sản phải có những chính sách để xoa dịu
195
những mâu thuẫn đó bằng các hình thức khác nhau như trợ cấp
thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã
hội...
+ Sự tích tụ và tập trung tư bản cao dẫn đến mâu thuẫn giữa
các tổ chức độc quyền với nhau, mâu thuẫn giữa tư bản độc
quyền với các tổ chức kinh doanh vừa và nhỏ... trở nên gay gắt
cần có sự điều tiết, can thiệp của nhà nước bằng các hình thức
khác nhau.
+ Cùng với xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự bành
trướng của các tổ chức độc quyền quốc tế vấp phải những hàng
rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích với các đối thủ trên thị
trường thế giới. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự điều tiết các
quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế của nhà nước.
- Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức
mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhân với sức mạnh của nhà
nước tư sản thành một thiết chế và thể chế thống nhất, trong đó
nhà nước tư sản bị phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền và can
thiệp vào các quá trình kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích của các tổ
chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.
- Những biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước:
+ Sự kết hợp về nhân sự giữa các tổ chức độc quyền và nhà
nước tư sản. Sự kết hợp này được thực hiện thông qua các đảng
phái tư sản. Chính các đảng phái này đã tạo ra cho tư bản độc
quyền một cơ sở xã hội để thực hiện sự thống trị và trực tiếp xây
dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước.
+ Sự hình thành và phát triển của sở hữu tư bản độc quyền
nhà nước. Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai

196
cấp tư sản độc quyền có nhiệm vụ phục vụ lợi ích của tư bản độc
quyền. Nó biểu hiện ở chỗ sở hữu nhà nước được tăng lên và
mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân
được tăng cường.
+ Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản. Sự điều tiết kinh
tế của nhà nước được thực hiện bằng nhiều công cụ khác nhau
như pháp luật, giá cả, thuế khóa, tài chính - tiền tệ, ngân hàng,
phát triển các xí nghiệp nhà nước... trên cơ sở dung hợp cả ba cơ
chế: thị trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của nhà nước
nhằm phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của từng cơ
chế.
b. Những nét mới trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
hiện đại:
- Sự phát triển nhảy vọt về lực lượng sản xuất. Cùng với sự
lan rộng và phát triển của cách mạng công nghệ thông tin, các
ngành công nghệ cao mới khác như sinh học, vật liệu mới, năng
lượng mới, hàng không vũ trụ... cũng phát triển mạnh mẽ mở ra
không gian mới cho phát triển sức sản xuất xã hội.
- Nền kinh tế đang có xu hướng chuyển từ kinh tế công
nghiệp sang kinh tế tri thức. Cách mạng công nghệ thông tin
hiện nay đang thúc đẩy nền kinh tế tư bản chủ nghĩa chuyển từ
nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Tăng trưởng
của nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức hay tri thức hóa các
quyết sách kinh tế.
- Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất và quan hệ giai cấp.
Biểu hiện nổi bật là sự phân tán quyền nắm cổ phiếu tăng lên,
người lao động cũng có quyền sở hữu một số cổ phiếu tại doanh
nghiệp. Ngoài ra, xuất hiện và có xu hướng tăng lên của tầng lớp
trung lưu, bao gồm những người lao động hoạt động trong lĩnh

197
vực công nghệ thông tin, quản lý
- Thể chế quản lý kinh doanh trong nội bộ doanh nghiệp có
những biến đổi lớn. Doanh nghiệp cải cách cơ chế quản lý, thiết
lập cơ cấu tổ chức hàng ngang và mạng lưới. Phương hướng cải
cách là giảm bớt khâu trung gian, thông tin thuận lợi, phát huy
đầy đủ tính chủ động và trách nhiệm của công nhân, nhằm nâng
cao hiệu quả công tác.
- Điều tiết vĩ mô của nhà nước ngày càng được tăng cường.
Điều này giúp kịp thời điều chỉnh chiến lược tổng thể phát triển
kinh tế, nhằm nâng cao sức cạnh tranh tổng thể của quốc gia.
Đồng thời, vận dụng linh hoạt chính sách tài chính và chính sách
tiền tệ để điều chỉnh các mâu thuẫn trong nền kinh tế, xã hội.
- Các công ty xuyên quốc gia có vai trò ngày càng quan
trọng trong hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa, là lực lượng chủ
yếu thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế. Dựa vào thực lực hùng hậu
của mình, các công ty xuyên quốc gia đã trở thành lực lượng chủ
yếu thúc đẩy toàn cầu hóa kinh tế và chủ nghĩa tư bản độc quyền
xuyên quốc gia phát triển.
- Sự điều tiết và phối hợp quốc tế được tăng cường. Trong
bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, nhà nước của các quốc gia tư
bản chủ nghĩa ngày càng chú trọng phối hợp các chính sách kinh
tế vĩ mô. Sự phối hợp và hợp tác quốc tế được tăng cường rõ rệt,
hiệu quả cũng không ngừng được nâng cao, như sự phối hợp
giữa các nước tư bản về chính sách tài chính, tiền tệ trong từng
khu vực và trên thế giới.

Bài tập 65
a. Phân tích vai trò, hạn chế của chủ nghĩa tư bản.
b. Xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản diễn ra như
198
thế nào trong thời gian tới?

Gợi ý trả lời:


a. Vai trò của chủ nghĩa tư bản:
Trong quá trình phát triển, nếu chưa xét đến hậu quả
nghiêm trọng đã gây ra đối với loài người thì chủ nghĩa tư bản đã
có những đóng góp tích cực đối với sự phát triển sản xuất. Đó là:
+ Thực hiện xã hội hóa sản xuất. Chủ nghĩa tư bản đã thúc
đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh, đạt tới mức điển
hình trong lịch sử và cùng với nó là quá trình xã hội hóa sản xuất
cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Sự phát triển của phân công lao
động và xã hội hóa sản xuất không chỉ diễn ra trong phạm vi
quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế, thúc đẩy mạnh mẽ quá
trình quốc tế hóa sản xuất và đời sống xã hội.
+ Phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động
xã hội. Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực
lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và công
nghệ ngày càng cao. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật và công
nghệ là quá trình giải phóng sức lao động, nâng cao năng lực
chinh phục tự nhiên của con người, nâng cao năng suất lao động
xã hội, tạo ra khối lượng của cải vật chất khổng lồ.
+ Chủ nghĩa tư bản lần đầu tiên trong lịch sử đã thiết lập
nên nền dân chủ tư sản. Nền dân chủ này tuy chưa phải là hoàn
hảo, song so với thể chế chính trị trong các xã hội trước chủ
nghĩa tư bản, thì nó vẫn tiến bộ hơn rất nhiều, vì nó được xây
dựng trên cơ sở thừa nhận quyền tự do thân thể của cá nhân.
- Hạn chế của chủ nghĩa tư bản:
+ Chủ nghĩa tư bản ra đời gắn liền với quá trình tích lũy
nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản. Thực chất, đó là quá trình tích
199
lũy tiền tệ bằng con đường bạo lực tước đoạt đối với những
người sản xuất nhỏ và nông dân tự do và thực hiện sự bóc lột, nô
dịch đối với những nước lạc hậu. Quá trình đó đầy máu, bùn nhơ
và tội ác mà chủ nghĩa tư bản đã gây ra đối với loài người.
+ Cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản
là quan hệ bóc lột của các nhà tư bản đối với công nhân làm
thuê. Chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại thì chừng đó quan
hệ bóc lột còn tồn tại và sự bất bình đẳng, phân hóa xã hội vẫn là
điều không tránh khỏi.
+ Các cuộc chiến tranh thế giới do chủ nghĩa tư bản gây ra
đã để lại cho loài người những hậu quả nặng nề: hàng chục triệu
người vô tội bị giết hại, sức sản xuất xã hội bị tàn phá nặng nề,
tốc độ phát triển kinh tế của thế giới bị kéo lùi lại hàng chục
năm.
+ Chủ nghĩa tư bản phải chịu trách nhiệm chính trong việc
tạo ra hố ngăn cách giữa các nước giàu và các nước nghèo trên
thế giới; trong đó có việc nghèo đói, lạc hậu, thất nghiệp của
hàng trăm triệu người ở các nước kém phát triển.
b. Xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản:
Chủ nghĩa tư bản trong quá trình phát triển của nó, một mặt
đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, tạo ra cơ sở
vật chất - kỹ thuật của nền sản xuất lớn hiện đại; mặt khác, làm
cho mâu thuẫn cơ bản của nó - mâu thuẫn giữa tính chất xã hội
hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với tính chất chiếm
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thêm gay gắt.
Ngày nay, chủ nghĩa tư bản hiện đại đang nắm ưu thế về
vốn, khoa học, công nghệ, thị trường, đang có khả năng thích
nghi và phát triển trong chừng mực nhất định; chủ nghĩa tư bản
cũng buộc phải thực hiện một số điều chỉnh giới hạn về quan hệ

200
sản xuất trong khuôn khổ của nó. Song những điều chỉnh của
chủ nghĩa tư bản không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn
có của nó, không thể vượt quá giới hạn lịch sử của nó.
Mặt khác, các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường cuộc
đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển của
mình. Chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành
công và thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các
dân tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Vì
vậy, sớm hay muộn chủ nghĩa tư bản cũng sẽ bị thay thế bằng
một chế độ mới cao hơn - đó là chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn
thấp là chủ nghĩa xã hội.

201
Phần thứ ba: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC - LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Chương VII
SỨ MỆNH LỊCH SỬ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Bài tập 66
a. Phân tích khái niệm "giai cấp công nhân".
b. Sự khác nhau cơ bản giữa "giai cấp công nhân" và "giai
cấp vô sản" là gì?
c. Ý nghĩa của sự phân chia "giai cấp công nhân "và "giai
cấp vô sản"?
Gợi ý trả lời:
a. Khái niệm giai cấp công nhân:
“Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình
thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công
nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có
tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản
tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản
xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực
lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội”1.
- Cách hiểu trên đây về “giai cấp công nhân” đã làm rõ ba
yếu tố cơ bản sau đây:
+ Một là, về phương thức lao động của giai cấp công
nhân. Nói đến giai cấp công nhân là nói đến một tập đoàn người
1
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
- Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012. tr.363.
202
lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành những công cụ sản xuất
có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và có trình độ xã hội
hóa, quốc tế hóa ngày càng cao.
+ Hai là, về địa vị của giai cấp công nhân trong hệ thống
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Trong các nhân tố cấu thành
lực lượng sản xuất thì giai cấp công nhân là lượng sản xuất cơ
bản, tiên tiến nhất của xã hội, là một lực lượng tạo ra của cải vật
chất, làm giàu cho xã hội bằng phương pháp đại công nghiệp.
+ Ba là, về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân. Hai yếu
tố kể trên tất yếu tạo cho giai cấp công nhân có một vai trò vô
cùng quan trọng: là lực lượng chủ yếu trong việc xóa bỏ chế độ
tư bản chủ nghĩa, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa, “là lực
lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội”.
b. Phân biệt "giai cấp công nhân" với "giai cấp vô sản":
- Trong quan hệ sản xuất của xã hội tư bản chủ nghĩa,
người công nhân không có tư liệu sản xuất (vì họ đã bị giai cấp
tư sản tước đoạt bằng cách này hay cách khác), để có thể tồn tại
được, họ buộc phải đi làm thuê, bán sức lao động của mình cho
nhà tư bản. Đây là cơ sở và đặc trưng nổi bật nhất để gọi giai cấp
công nhân là “giai cấp vô sản”.
- Tuy nhiên, điều này không còn đúng trong trong quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, trong quan hệ sản xuất này,
giai cấp công nhân đã cùng với toàn thể nhân dân lao động trở
thành người làm chủ đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng
nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó
có lợi ích chính đáng của bản thân họ. Chính vì thế, trong trường
hợp này, không thể gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
c. Ý nghĩa của sự phân biệt “giai cấp công nhân” với “giai

203
cấp vô sản”:
Một là, giai cấp công nhân chỉ được coi là giai cấp vô sản
khi gắn liền với điều kiện lịch sử cụ thể, đó là trong quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Do đó, hiện nay, mặc dù giai cấp công
nhân ở các nước tư bản phát triển đã có một số biến đổi (so với
thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX) về một số mặt như tình trạng
sở sở hữu, trình độ lao động, mức sống, điều kiện làm việc,...
nhưng tất cả những khác biệt này không phải vì thế mà làm đổi
thay địa vị “vô sản” của họ trong hệ thống quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa.
Hai là, giai cấp công nhân chỉ có thể xóa bỏ địa vị “vô sản”
của mình trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa khi nào
họ xóa bỏ được chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, và
do đó xóa bỏ được hiện trạng làm thuê nhằm giải phóng giai cấp
mình đồng thời giải phóng toàn bộ xã hội.
Ba là, xuất phát từ địa vị của giai cấp công nhân trong hệ
thống quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nên giai cấp này có lợi
ích cơ bản đối lập trực tiếp với lợi ích của giai cấp tư sản. Trong
cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, lật đổ toàn bộ
trật tự xã hội tư sản, họ là giai cấp khởi xướng, đi đầu trong cuộc
đấu tranh mà ở đó, họ “chẳng mất gì hết ngoài những xiềng xích
trói buộc họ. Họ sẽ giành được cả thế giới” về cho mình. Và sứ
mệnh lịch sử đó của giai cấp công nhân là hoàn toàn tất yếu,
khách quan.

Bài tập 67
a. Trình bày nội dung cơ bản của sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân?
b. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được quy định

204
bởi những điều kiện khách quan nào?
c. Liên hệ với sứ mệnh lịch sử cụ thể của giai cấp công
nhân Việt Nam?
Gợi ý trả lời:
a. Nội dung cơ bản của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân:
Từ nội dung khái niệm về “giai cấp công nhân” và “giai
cấp vô sản”, có thể thấy nét đặc trưng nổi bật của giai cấp công
nhân là ở chỗ: họ vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của bản thân
nền sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại. Do đó, đây là lực
lượng đại biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất ngày
càng tiến bộ, cho xu hướng phát triển của phương thức sản xuất
tương lai. Vì vậy, có thể khẳng định rằng: sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân là lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh xóa
bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ mọi chế độ áp bức, bóc lột
và xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa. Nói như Ph.Ăngghen: “thực hiện sự nghiệp giải
phóng thế giới ấy, đó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện
đại” 1.
b. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân:
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hoàn toàn không
phải do ý muốn chủ quan của bản thân giai cấp này, cũng tuyệt
nhiên không dựa trên những ý niệm, những nguyên lý do một
nhà cải cách thế giới nào phát minh hay phát hiện ra. Sứ mệnh
lịch sử ấy là khách quan. Tính khách quan này được quy định
bởi hai yếu tố cơ bản sau:

1
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.20,
tr.393.
205
- Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong nền
sản xuất hiện đại:
Trong xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa, dựa trên
sự phát triển của nền công nghiệp hiện đại thì công nhân vừa là
chủ thể trực tiếp nhất, vừa là sản phẩm căn bản nhất của nền sản
xuất đó. Từ đó:
+ Giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất hàng đầu của
toàn nhân loại hiện nay.
+ Đây chính là giai cấp ngày càng tạo ra giá trị thặng dư
khổng lồ, làm giàu cho xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của con người.
+ Khi sản xuất đại công nghiệp ngày càng phát triển hiện
đại thì “tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong”, còn
giai cấp công nhân, trái lại ngày càng phát triển về số lượng và
chất lượng.
Địa vị trên khiến cho giai cấp công nhân trở thành lực
lượng duy nhất có khả năng cải tạo các quan hệ xã hội, thực hiện
tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
- Những đặc điểm chính trị - xã hội của giai cấp công nhân:
Thứ nhất, giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách
mạng. Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong cách mạng vì họ
đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, do đó mà cũng đại
diện và quyết định cho sự phát triển tương lai của xã hội loài
người. Ngoài ra, giai cấp công nhân có hệ tư tưởng tiên phong
của thời đại ngày nay đó là chủ nghĩa Mác - Lênin mang tính
cách mạng và khoa học được xây dựng trên cơ sở tiếp thu những
tri thức tiên tiến nhất của thời đại.
Thứ hai, giai cấp công nhân là giai cấp có tinh thần cách
mạng triệt để nhất. Với tư cách là “người lao động”, giai cấp
206
công nhân có những lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của đại
đa số quần chúng nhân dân lao động. Mục tiêu của sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân là không chỉ giải phóng giai cấp mình
mà còn giải phóng toàn bộ xã hội thông qua việc tiến hành cuộc
cách mạng không ngừng nhằm đạt tới mục tiêu cuối cùng.
Thứ ba, giai cấp công nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỷ
luật cao nhất. Là lực lượng lao động trong nền đại công nghiệp
với hệ thống sản xuất mang tính chất dây chuyền và nhịp độ làm
việc khẩn trương, chuẩn xác đã buộc giai cấp này phải tuân thủ
nghiêm ngặt kỷ luật lao động, tiêu chuẩn kỹ thuật,... Đặc biệt,
khi giai cấp công nhân có chính Đảng của mình lãnh đạo và
được vũ trang bởi lý luận khoa học và cách mạng thì tính tổ chức
kỷ luật sẽ càng được củng cố và tăng cường.
Thứ tư, giai cấp công nhân là giai cấp có bản chất quốc tế.
Đã là giai cấp công nhân thì ở đâu cũng có chung những điểm
như nhau (tuy mức độ “đậm nhạt” có thể khác nhau) về địa vị
kinh tế - xã hội, đặc điểm chính trị - xã hội, lợi ích cơ bản và sứ
mệnh lịch sử của mình. Đây là điều kiện để giai cấp công nhân
trên toàn thế giới liên minh, liên kết nhằm chống lại kẻ thù
chung là giai cấp tư sản.
c. Liên hệ với sứ mệnh lịch sử cụ thể của giai cấp công
nhân Việt Nam:
Sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam là thông qua đội
tiên phong của mình là Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo nhân
dân giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính dân chủ nhân
dân (thông qua cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân) và
từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản nhằm giải phóng giai cấp, giải phóng con người (thông
qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa).

207
Đây là sứ mệnh rất khó khăn, gian khổ, lâu dài và phức tạp.
Để thực hiện thắng lợi sứ mệnh cao cả này, giai cấp công nhân
Việt Nam cần thực hiện tốt vai trò là giai cấp lãnh đạo cách
mạng, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập
dân tộc, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và là lực lượng
nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và các tầng lớp khác trong xã hội.

Bài tập 68
a. Đảng Cộng sản có vai trò như thế nào trong quá trình
thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân?
b. Những thành tựu vĩ đại của cách mạng nước ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Gợi ý trả lời:
a. Vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
Sự ra đời và lãnh đạo của Đảng Cộng sản là điều kiện nhân
tố chủ quan hàng đầu bảo đảm cho giai cấp công nhân thực hiện
được sứ mệnh lịch sử của mình. Điều này được lý giải ở những
điểm chính sau:
- Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân giữ
vai trò sáng tạo lịch sử nhưng vai trò đó không thể thực hiện
được nếu như không được tổ chức lại thành lực lượng chính trị
có tổ chức vững chắc, một tổ chức có sự lãnh đạo đúng đắn theo
lý luận khoa học dẫn đường với đội ngũ lãnh tụ có tài năng và
lập trường kiên định. Đối với quá trình thực hiện sứ mệnh của
giai cấp công nhân thì tổ chức đó chính là Đảng Cộng sản.
- Sau khi ra đời, Đảng đưa lý luận khoa học và cách mạng
vào phong trào cách mạng, làm cho giai cấp công nhân nhận
208
thức được vai trò, vị trí của mình trong xã hội; đưa ra con đường,
mục tiêu, phương pháp và biện pháp đấu tranh cách mạng; giáo
dục, giác ngộ và tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân lao
động và thông qua đường lối chiến lược và sách lược cách mạng
để tổ chức phong trào đấu tranh nhằm thực hiện việc lật đổ chế
độ cũ, lỗi thời; thiết lập quyền lực chính trị của giai cấp công
nhân, tổ chức xây dựng xã hội mới về mọi mặt; từng bước tạo ra
những điều kiện giải phóng giai cấp, giải phóng con người và
giải phóng toàn xã hội.
- Đảng chính trị là tổ chức cao nhất, đại biểu tập trung cho
trí tuệ và lợi ích của toàn thể giai cấp. Vì thế, với sự ra đời của
Đảng Cộng sản, phong trào cách mạng của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động mới thật sự mang tính tự giác, mang tính chất
chính trị.
b. Những thành tựu vĩ đại của cách mạng nước ta dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam:
- Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhiều phong trào
yêu nước đã nổ ra nhằm đánh đuổi bọn thực dân, đế quốc và giải
phóng dân tộc. Tuy nhiên, tất cả các phong trào ấy đều thất bại,
đất nước và nhân dân bị chìm đắm trong đêm dài nô lệ và áp
bức. Sự khủng hoảng về đường lối cứu nước và con đường giải
phóng dân tộc chỉ được chấm dứt với sự ra đời và lãnh đạo
phong trào cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Từ năm 1930 đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ
tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân ta
tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua
muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ
đại như sau:
+ Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan

209
ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên Nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự
do.
+ Thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà
đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại
thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất
nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế.
+ Thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng
bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới
đúng đắn, phù hợp thực tiễn Việt Nam.
Với những thắng lợi đã giành được trong hơn 80 năm qua,
nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một
quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ
nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ
đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước
nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng
trong khu vực và trên thế giới.

Bài tập 69
a. Trình bày nguyên nhân, mục tiêu, tiến trình, động lực và
nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa?
b. Liên hệ với nguyên nhân, mục tiêu, động lực và nội dung
phương hướng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam?
Gợi ý trả lời:
a. Nguyên nhân, mục tiêu, tiến trình, động lực và nội dung
của cách mạng xã hội chủ nghĩa:
210
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng nhằm thay
thế chế độ xã hội cũ, lỗi thời (chế độ phong kiến, chế độ tư bản
chủ nghĩa) bằng chế độ xã hội chủ nghĩa. Theo nghĩa hẹp, đây là
một cuộc cách mạng chính trị, được kết thúc bằng việc giai cấp
công nhân cùng với nhân dân lao động giành được chính quyền,
thiết lập được nhà nước chuyên chính vô sản. Còn theo nghĩa
rộng, cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả hai thời kỳ: cách
mạng về chính trị với việc thiết lập được lập nhà nước chuyên
chính vô sản và tiếp theo là thời kỳ giai cấp công nhân và nhân
dân lao động sử dụng nhà nước của mình để cải tạo xã hội cũ,
xây dựng xã hội mới về mọi mặt nhằm thực hiện thắng lợi chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
- Nguyên nhân của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa: cách
mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra có nguyên nhân sâu xa là do mâu
thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa cao với tính
chất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dưới
chủ nghĩa tư bản. Biểu hiện của mâu thuẫn này về mặt chính trị -
xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản
và mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ
nghĩa thực dân, đế quốc. Mâu thuẫn này chỉ có thể được giải
quyết bằng con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa.
- Mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa: thực hiện
thành công chủ nghĩa cộng sản để giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội, giải phóng con người: “biến con người từ vương
quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do”; tạo nên một thể
liên hiệp trong đó “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện
cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” 1. Mục tiêu này
1
1. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4,
tr.628.

211
được thực hiện dần từng bước qua hai giai đoạn trong tiến trình
của cuộc cách mạng gắn với hai mục tiêu cụ thể là: chiếm lĩnh
quyền lực nhà nước và tổ chức xây dựng xã hội mới (xã hội xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
- Động lực của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa: các lực
lượng tạo thành động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa bao
gồm: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và các lực lượng tiến
bộ khác trong xã hội.
+ Giai cấp công nhân vừa là giai cấp lãnh đạo, vừa là động
lực chủ yếu trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Giai cấp nông dân có nhiều lợi ích cơ bản thống nhất với
lợi ích của giai cấp công nhân, trở thành động lực to lớn trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa.
+ Trong nhiều tầng lớp nhân dân lao động khác thì đội ngũ
(tầng lớp) trí thức có vị trí hết sức quan trọng, đặc biệt là trong
nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
- Nội dung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa: với tính
chất là cuộc cách mạng triệt để nhất trong lịch sử, cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực
đời sống xã hội, bao gồm:
+ Trên lĩnh vực chính trị: đập tan nhà nước của giai cấp
bóc lột, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân
lao động. Đây là điều kiện có tính chất tiền đề quyết định mở đầu
cho quá trình cải biến cách mạng để xây dựng xã hội mới.
+ Trên lĩnh vực kinh tế: thay đổi vị trí, vai trò của người
lao động đối với tư liệu sản xuất, thay thế chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất bằng chế độ sở hữu xã
hội chủ nghĩa với những hình thức thích hợp.
+ Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa: làm cho hệ tư tưởng
212
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành hệ tư tưởng chính
thống trong đời sống tư tưởng - văn hóa của toàn xã hội; trở
thành thế giới quan khoa học phổ biến, định hướng mọi hoạt
động sáng tạo của Đảng và quần chúng nhân dân.
Các nội dung của cách mạng xã hội chủ nghĩa nói trên có
quan hệ gắn kết với nhau, tác động qua lại, thúc đẩy nhau cùng
phát triển, trong đó kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo và xây dựng mà
xây dựng là chủ yếu.
b. Nguyên nhân, mục tiêu, động lực và nội dung phương
hướng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
- Nguyên nhân của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam: bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với bọn thực
dân đế quốc cùng bè lũ tay sai và mâu thuẫn giữa giai cấp công
nhân, nông dân với địa chủ phong kiến và tư sản đế quốc. Chính
vì thế, Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta đã chỉ rõ: con
đường cách mạng nước ta là “làm tư sản dân quyền cách mạng
và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản" 1. Từ khi Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời, sự nghiệp đấu tranh của nhân dân
Việt Nam đã kết hợp hai sự nghiệp: giải phóng dân tộc bị áp bức
và giải phóng giai cấp những người lao động.
- Về mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam: giành độc lập cho dân tộc và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội. Kết quả của những mục tiêu này là nhằm xây dựng
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh.
- Về động lực của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam: phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với
khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và

1
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tập 3, tr.1.
213
đội ngũ trí thức làm nòng cốt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
- Về nội dung, phương hướng của cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam:
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn
dân ta cần nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự
cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt
qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các nội dung, phương
hướng cơ bản sau đây:
+ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn
với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
+ Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
+ Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội.
+ Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật
tự, an toàn xã hội.
+ Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình,
hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập
quốc tế.
+ Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại
đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc
thống nhất.
+ Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
+ Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Bài tập 70
214
a. Trình bày tính tất yếu và nội dung của liên minh giữa
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân?
b. Để xây dựng khối liên minh này, cần phải quán triệt
những nguyên tắc cơ bản nào ?
Gợi ý trả lời:
a. Tính tất yếu, cơ sở khách quan, nội dung của liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân.
- Tính tất yếu của liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân:
+ Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng thực
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Nhưng nếu cuộc
cách mạng vĩ đại ấy chỉ có một mình giai cấp công nhân độc lập,
riêng lẻ tiến hành, thì cuộc cách mạng đó chẳng qua chỉ là “một
bài đơn ca ai điếu” (C.Mác).
+ Cách mạng xã hội chủ nghĩa muốn thắng lợi, một trong
những điều kiện tiên quyết là phải có sức mạnh. Sức mạnh này
chỉ có thể có được khi giai cấp công nhân thông qua sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản thiết lập, củng cố, tăng cường vững chắc
khối liên minh với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động
khác trong xã hội. Với sức mạnh đó mà giành chính quyền; với
sức mạnh đó mà xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản, hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.
- Nội dung của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân:
Liên minh về chính trị: đoàn kết để giành lấy chính quyền
về tay giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động; cùng
nhau tham gia vào chính quyền nhà nước từ cơ sở đến trung
ương, cùng nhau bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và mọi thành
215
quả cách mạng.
Liên minh về kinh tế: kết hợp đúng đắn lợi ích giữa hai giai
cấp trong các hoạt động kinh tế để vừa bảo đảm lợi ích của nhà
nước, xã hội, đồng thời phải thường xuyên quan tâm tới lợi ích
của từng giai cấp; thường xuyên quan tâm tới xây dựng một hệ
thống chính sách phù hợp đối với nông dân, nông nghiệp và
nông thôn.
Liên minh về văn hóa - xã hội: thường xuyên giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin trong công nhân, nông dân và các tầng lớp
nhân dân lao động; không ngừng nâng cao trình độ văn hóa,
khoa học, kỹ thuật, công nghệ cho mọi người lao động nhằm đáp
ứng yêu cầu phát triển của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
trên mọi lĩnh vực.
b. Những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng khối liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân:
Một là, phải bảo đảm vai trò lãnh đạo của giai cấp công
nhân trong khối liên minh công - nông. Giai cấp nông dân là giai
cấp gắn với phương thức sản xuất nhỏ, cục bộ, phân tán, không
có hệ tư tưởng độc lập. Do đó, chỉ đi theo hệ tư tưởng của giai
cấp công nhân mới có thể tiến lên nền sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa. V.I.Lênin khẳng định: “chỉ có sự lãnh đạo của giai cấp vô
sản mới có thể giải phóng quần chúng tiểu nông thoát khỏi chế
độ nô lệ tư bản và dẫn họ tới chủ nghĩa xã hội” 1.
Hai là, phải bảo đảm nguyên tắc tự nguyện. Bất cứ một sự
liên minh nào cũng cần phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện mới
có thể bền vững, lâu dài và có hiệu quả. Phải bằng những việc
làm cụ thể để cho giai cấp nông dân nhận thấy rằng đi với giai
cấp vô sản có lợi hơn đi với giai cấp tư sản, từ đó họ tự nguyện

1
1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.44, tr.12
216
đi theo giai cấp công nhân.
Ba là, phải kết hợp đúng đắn các lợi ích của giai cấp công
nhân và giai cấp nông dân. Nguyên tắc này là cần thiết khi giữa
giai cấp công nhân và giai cấp nông dân là những chủ thể kinh tế
khác nhau. Do vậy, cần phải quan tâm giải quyết mâu thuẫn này,
phải thường xuyên phát hiện những mâu thuẫn nảy sinh và giải
quyết kịp thời; phải chú ý tới những lợi ích thiết thực của nông
dân nhằm có sự kết hợp đúng đắn, hợp lý, hài hòa về các lợi ích,
trong đó lợi ích kinh tế là căn bản và quan trọng nhất.

Bài tập 71
a. Trình bày những cơ sở để các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác - Lênin đưa ra dự báo về sự xuất hiện tất yếu của
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa?
b. Đặc trưng của từng giai đoạn của hình thái kinh tế - xã
hội này?
c. Đảng ta đã xác định những đặc trưng cơ bản của xã hội
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như thế nào?
Gợi ý trả lời:
a. Những cơ sở để các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin đưa ra dự báo về sự xuất hiện tất yếu của hình thái kinh tế
- xã hội cộng sản chủ nghĩa:
Những dự báo của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác -
Lênin về sự ra đời, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa dựa trên hai cơ sở chính sau đây:
Một là, dựa vào tính chất “lịch sử - tự nhiên” của quy luật
thay thế các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao trong lịch
sử phát triển của xã hội loài người. Đó là một quá trình hoàn
toàn tuân theo quy luật khách quan với nguồn gốc sâu xa là sự
217
phát triển tiến bộ của các phương thức sản xuất kế tiếp nhau.
Yếu tố quyết định của sự phát triển đó chính là do sự phát triển
về trình độ của lực lượng sản xuất.
Hai là, dựa vào việc phân tích và chỉ ra những quy luật
khách quan quá trình ra đời, phát triển và tất yếu diệt vong của
hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa từ cơ sở kinh tế khách
quan của nó. Kết quả phân tích cho thấy với bản chất bóc lột,
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chứa đựng bên trong
những mâu thuẫn không thể điều hòa được và chính mâu thuẫn
này là nguyên nhân sâu xa của một cuộc cách mạng xã hội nhằm
lật đổ phương thức sản xuất cũ và xây dựng một phương thức
sản xuất mới tiến bộ hơn.
Dựa trên hai cơ sở trên, các nhà kinh điển đã chỉ ra: dưới
chủ nghĩa tư bản, lực lượng sản xuất phát triển đến trình độ xã
hội hóa càng cao thì càng làm cho mâu thuẫn giữa nhu cầu phát
triển của lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản
xuất mang tính tư nhân tư bản chủ nghĩa càng thêm sâu sắc. Để
giải quyết mâu thuẫn cơ bản này, giai cấp công nhân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tổ chức toàn bộ quần chúng nhân
dân lao động, bằng con đường cách mạng, lật đổ nhà nước của
giai cấp phản động, thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động, tiến hành cải biến cách mạng lâu dài đối với
mọi mặt đời sống xã hội, từng bước xây dựng hình thái kinh tế -
xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong cuộc đấu tranh ấy, “sự sụp đổ
của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất
yếu như nhau”1.
b. Đặc trưng của từng giai đoạn của hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa
1
1. C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995, t.4, tr.613.
218
Căn cứ vào cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học
của chủ nghĩa Mác - Lênin; từ những kết quả nghiên cứu, tổng
kết thực tiễn của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, có thể chia
quá trình phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa thành ba giai đoạn cơ bản sau:
- Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (thời kỳ của "những
cơn đau đẻ kéo dài"). Thời kỳ này được bắt đầu khi thiết lập
được chính quyền của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
dựa trên nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác do Đảng Cộng sản
lãnh đạo. Đây là thời kỳ cải biến cách mạng toàn diện, sâu sắc,
triệt để nhằm xóa bỏ những yếu tố lạc hậu của xã hội cũ bên
cạnh việc tạo ra những nhân tố mới cho chủ nghĩa xã hội.
- Giai đoạn đầu xã hội cộng sản chủ nghĩa (tức chủ nghĩa
xã hội hay xã hội xã hội chủ nghĩa). Đây là giai đoạn đầu (giai
đoạn thấp) của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, là
kết quả trực tiếp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với
những đặc trưng sau:
Về kinh tế: nền đại công nghiệp có trình độ phát triển cao,
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu chiếm vị trí thống trị
vững chắc trong nền kinh tế quốc dân; tạo ra được phương thức
tổ chức lao động mới và chế độ phân phối theo lao động.
Về chính trị: Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân,
có tính nhân dân rộng rãi, tính dân tộc sâu sắc; thực hiện quyền
lực và lợi ích của nhân dân.
Về tư tưởng, văn hóa: xã hội đã thực hiện được sự giải
phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột; thực hiện quyền bình
đẳng xã hội, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện.
- Giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa (tức chủ

219
nghĩa cộng sản). Đây là giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa với những đặc trưng cơ bản:
Về kinh tế: có lực lượng sản xuất phát triển vô cùng hiện
đại; có tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của toàn xã hội; năng suất
lao động hết sức cao (“một ngày tạo ra một lượng sản phẩm bằng
hai mươi năm”, “của cải tuôn ra dào dạt” (C.Mác); phân phối
của cải trong xã hội theo nhu cầu.
Về chính trị: Nhà nước bị tiêu vong; không có sự khác biệt
về giai cấp, giữa lao động chân tay và lao động trí óc.
Về tư tưởng, văn hóa: con người được hoàn toàn tự do, “sự
phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự
do của tất cả mọi người”.
c. Những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam:
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về những đặc
trưng của từng giai đoạn trong hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa và căn cứ vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, đặc biệt là qua những năm thực hiện sự nghiệp đổi
mới, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác định những đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là:
- Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
- Do nhân dân làm chủ;
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển toàn diện;
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn
220
kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển;
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo;
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế
giới.
Các đặc trưng kể trên đã bao trùm và phản ánh khá đầy đủ
các lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế đến chính trị, từ văn
hóa đến xã hội, từ đối nội đến đối ngoại. Quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta cũng chính là quá trình làm cho các đặc
trưng trên dần được biểu hiện ra trong thực tiễn xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để và là cuộc đấu
tranh đầy khó khăn, gian khổ, phức tạp giữa cái cũ và cái mới
nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Vì thế, thời kỳ quá độ này nhất thiết phải trải qua rất
lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh
tế, xã hội đan xen.

Bài tập 72
a. Làm rõ tính tất yếu, đặc điểm, thực chất và nội dung của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội?
b. Đảng ta đã xác định đặc điểm, thực chất và nội dung
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam như thế nào?
Gợi ý trả lời:
a. Tính tất yếu, đặc điểm, thực chất và nội dung của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
- Tính tất yếu của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội:
Để chuyển từ xã hội cũ (phong kiến, tư bản chủ nghĩa) lên
xã hội mới (xã hội xã hội chủ nghĩa) - một xã hội phát triển trên
221
cơ sở vật chất kỹ thuật của chính nó - tất yếu phải trải qua một
thời kỳ quá độ nhất định. Đây chính là thời kỳ cải biến cách
mạng sâu sắc, toàn diện, lâu dài toàn bộ đời sống xã hội; tạo ra
những tiền đề vật chất, tinh thần cần thiết để chủ nghĩa xã hội
thực hiện những nguyên tắc cơ bản trên cơ sở của chính nó. Tính
tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ
các căn cứ sau đây:
+ Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến nào của xã hội từ
trình độ thấp lên trình độ cao hơn đều nhất định phải trải qua một
thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Thời kỳ ấy tất yếu diễn ra vì ở đó
luôn có sự tồn tại đan xen và đấu tranh lẫn nhau giữa các yếu tố
mới và cũ trong quá trình phát triển. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội cũng không nằm ngoài quy luật đó. Đó là chưa kể
sự chuyển biến này là một bước nhảy vọt và căn bản về chất, từ
một chế độ áp bức, bóc lột đến một chế độ giải phóng con người
thì thời kỳ quá độ càng phải mang tính tất yếu, thậm chí có thể
kéo dài, nhất là đối với những nước chưa trải qua phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
+ Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có sự
kế thừa nhất định từ nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Đối với những
nước đã trải qua quá trình phát triển tư bản chủ nghĩa, cần phải
có thời gian để tổ chức, sắp xếp các cơ sở vật chất - kỹ thuật mà
chủ nghĩa tư bản đã tạo ra, hướng nó phục vụ có hiệu quả cho
chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước chưa qua quá trình phát
triển tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội thì cần phải có một
thời kỳ lịch sử lâu dài để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ trọng tâm là tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự

222
phát nảy sinh trong lòng xã hội cũ (phong kiến, tư bản) mà nó
chỉ có thể là kết quả của quá trình cải tạo và xây dựng xã hội chủ
nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản dù ở trình độ cao cũng
chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các
quan hệ xã hội mới. Đây là một công việc mới mẻ, khó khăn và
phức tạp vì vậy rất cần có thời gian để Đảng Cộng sản, giai cấp
công nhân và nhân dân lao động từng bước xây dựng và phát
triển những quan hệ đó.
- Đặc điểm của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội:
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên
cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ
vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Đặc điểm trên đòi hỏi giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động phải biết xoá bỏ những cái gì là
bảo thủ lạc hậu, phản nhân văn, đồng thời phải biết tiếp thu
những cái gì là tiến bộ, nhân văn mà nhân loại đã tạo ra, đồng
thời biết kế thừa những giá trị truyền thống của dân tộc mình.
- Thực chất của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội:
Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội là sự cải biến cách mạng toàn diện, sâu sắc, triệt để
nhằm tạo ra những cơ sở cho chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là thời
kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại,
không còn là giai cấp thống trị và những thế lực chống phá chủ
nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao
động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới, nội
dung mới, mục tiêu mới, hình thức mới và phương pháp mới.
- Nội dung của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội:
Trong lĩnh vực kinh tế:

223
+ Sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã
hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới
theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm
phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân dân lao động.
+ Đối với những nước chưa trải qua phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa nhằm tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội. Đối với những nước này, đây là nhiệm vụ trọng tâm trong
suốt thời kỳ quá độ.
Trong lĩnh chính trị:
+ Đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, phá hoại sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Củng cố nhà nước và xây dựng các tổ chức chính trị - xã
hội ngày càng vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân
trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,…
Trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa:
+ Tuyên truyền, phổ biến những tư tưởng khoa học và cách
mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong toàn xã hội.
+ Xây dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa đậm đà bản
sắc dân tộc, tiếp thu những giá trị tiên tiến của các nền văn hóa
thế giới.
Trong lĩnh vực xã hội:
+ Khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại.
+ Từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển
giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong xã hội nhằm thực
hiện mục tiêu bình đẳng.
+ Xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo
mục tiêu lý tưởng: tự do của người này là điều kiện, tiền đề cho
sự tự do của người khác.
224
b. Đặc điểm, thực chất và nội dung thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam:
- Về đặc điểm:
Quá độ ở nước ta là quá độ từ chế độ phong kiến lạc hậu
(xã hội cũ) lên chủ nghĩa xã hội (xã hội mới) bỏ qua chủ nghĩa tư
bản. Đây là con đường “quá độ gián tiếp” đầy khó khăn, gian
khổ, lâu dài, phức tạp với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức
tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
- Về thực chất:
Ở nước ta, thời kỳ quá độ để xây dựng xã hội mới được bắt
đầu ngay khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân hoàn
thành. “Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu
tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về
chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”1.
- Về nội dung:
Nội dung chủ yếu của thời kỳ quá độ là tiến hành công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây cũng chính là nhiệm vụ
trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Thời kỳ quá độ ở nước ta sẽ
kết thúc đạt được mục tiêu tổng quát “xây dựng được về cơ bản
nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng
về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở
thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh
phúc”2.

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
1

thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.70.
2
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Sđd,
tr.71.
225
Chương VIII
NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CÓ TÍNH
QUY LUẬT TRONG TIẾN TRÌNH CÁCH MẠNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Bài tập 73
a. Có sự khác nhau cơ bản nào giữa nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa và nền dân chủ tư sản?
b. Vì sao nói: “Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là
quá trình tất yếu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”?
Gợi ý trả lời:
a. Sự khác nhau giữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nền
dân chủ tư sản:
- Nền (chế độ) dân chủ là khái niệm dùng để chỉ hệ thống
các thiết chế được xác lập và thực thi trong hiện thực xã hội theo
mục tiêu thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong xã hội đó.
- Nền dân chủ (hay chế độ dân chủ) xã hội chủ nghĩa là hệ
thống thiết chế (nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội,...) được
xác lập và thực thi trong xã hội theo mục tiêu thực hiện quyền
lực cai trị (quản lý, điều khiển, kiểm soát,…) thực sự thuộc về
nhân dân.
- Giữa nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ tư sản
có sự khác nhau rất căn bản, chủ yếu được phân biệt trên các
điểm chính sau đây:
+ Một là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế
của nó là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội;
còn chế độ dân chủ tư sản có cơ sở kinh tế của nó là chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất.
+ Hai là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ

226
được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, quản lý xã hội
bằng Nhà nước xã hội chủ nghĩa; còn nền dân chủ tư sản là nền
dân chủ đặt dưới sự lãnh đạo của các đảng tư sản - tổ chức chính
trị đại biểu cho lợi ích của các tập đoàn tư bản, thông qua nhà
nước tư sản với nhiều hình thức tổ chức cụ thể khác nhau.
+ Ba là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ cho
đại đa số nhân dân lao động; còn nền dân chủ tư sản là nền dân
chủ cho thiểu số, phục vụ lợi ích cho thiểu số - đó là giai cấp tư
sản.
- Đấu tranh cho dân chủ là một quá trình lâu dài và không
thể dừng lại ở dân chủ tư sản. Sự tất yếu diễn ra và thắng lợi của
cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng là sự tất yếu ra đời của một
nền dân chủ mới - dân chủ xã hội chủ nghĩa. Sự hình thành nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới về chất
của chế độ dân chủ trong lịch sử. Lần đầu tiên trong lịch sử, chế
độ dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân được hình thành. Tuy
nhiên, sự hình thành và phát triển của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là một quá trình lâu dài. Cách mạng xã hội chủ nghĩa tạo
ra những điều kiện cần thiết để giải phóng quần chúng nhân dân
lao động, mở rộng dân chủ và trên cơ sở đó cách mạng xã hội
chủ nghĩa cũng lôi cuốn nhân dân lao động vào công cuộc cải tạo
xã hội, xây dựng nền dân chủ mới.
b. Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất
yếu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội:
Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, việc xây dựng
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu. Điều này được
lý giải ở những điểm sau:
- Một là, bắt nguồn từ bản chất của chế độ xã hội chủ
nghĩa. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng chính là quá

227
trình vận động của dân chủ từ khả năng thành hiện thực trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; là quá trình đưa các giá trị,
chuẩn mực, nguyên tắc của dân chủ vào thực tiễn xây dựng cuộc
sống mới. Từ đó, hướng tới một xã hội mà ở đó, mọi tầng lớp
nhân dân được sống trong bầu không khí dân chủ thực sự cũng
chính là một trong những mục tiêu của cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Với nghĩa này, dân chủ là mục tiêu của công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
- Hai là, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, quần
chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo ra lịch sử. Với sự khác biệt
về chất của mình so với các cuộc cách mạng khác, cách mạng xã
hội chủ nghĩa chỉ có thể có thành công bằng phương pháp thực
hành dân chủ một cách rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, biết “động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân,
dựa vào lực lượng vĩ đại của nhân dân”1. Chỉ khi thực hiện được
điều này mới giúp huy cao độ tính tích cực, sáng tạo của nhân
dân. Như vậy, thực hiện dân chủ đầy đủ, rộng rãi trở thành một
yêu cầu khách quan, bảo đảm cho sự thành công của chủ nghĩa
xã hội, đem lại tự do, hạnh phúc thật sự cho tất cả mọi người.
Với ý nghĩa này, dân chủ là động lực của quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
- Ba là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính
là quá trình thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội dưới sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng Cộng sản. Nó trở
thành điều kiện, tiền đề thực hiện quyền lực, quyền làm chủ của
nhân dân. Đây cũng là nhân tố quan trọng chống lại những biểu
hiện của dân chủ cực đoan, vô chính phủ, ngăn ngừa mọi hành vi
coi thường kỷ cương, pháp luật.

1
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr.505.
228
Tóm lại, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một quá
trình tất yếu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, của quá
trình vận động để nền dân chủ “ngày càng tiến tới cơ sở hiện
thực của nó, tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực và được
xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân”2.

Bài tập 74
a. Trình bày những đặc trưng cơ bản của nhà nước xã hội
chủ nghĩa?
b. Trong các chức năng cơ bản của nhà nước xã hội chủ
nghĩa, đâu là chức năng chủ yếu nhất? Vì sao?
Gợi ý trả lời:
a. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa:
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước mới, thay
thế cho nhà nước tư sản nhờ kết quả của cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa; là tổ chức quyền lực đặc biệt, thể hiện lợi ích, ý chí
của nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của chính Đảng của
giai cấp công nhân; là tổ chức mà thông qua đó, Đảng của giai
cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn
xã hội.
Khác với các hình thức nhà nước đã từng có trong lịch sử,
nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt với
những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ cơ bản để
thực hiện quyền lực của nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản.
Hai là, nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng là công cụ chuyên

2
1. C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, t.1,
tr.349.
229
chính của giai cấp nhưng không phải là công cụ để đàn áp một
giai cấp nào đó mà chỉ thực hiện sự trấn áp với những thế lực
phá hoại sự nghiệp cách mạng. Vì thế, nhà nước xã hội chủ
nghĩa là công cụ cơ bản để bảo vệ lợi ích của tuyệt đại đa số
nhân dân. Đây là đặc trưng về nguyên tắc khác hẳn với nhà nước
tư sản.
Ba là, nhà nước xã hội chủ nghĩa trong khi nhấn mạnh sự
cần thiết của bạo lực và trấn áp, vẫn coi vấn đề tổ chức, xây
dựng là đặc trưng cơ bản của nhà nước xã hội chủ nghĩa, của
chuyên chính vô sản. V.I.Lênin cho rằng: chuyên chính vô sản
không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột, và cũng không
phải chủ yếu là bạo lực mà mặt cơ bản của nó là tổ chức xây
dựng toàn diện xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản
chủ nghĩa.
Bốn là, nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, và theo V.I.Lênin, con đường vận động, phát
triển của nó là: ngày càng hoàn thiện các hình thức đại diện nhân
dân, mở rộng dân chủ nhằm lôi cuốn đông đảo quần chúng nhân
dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Năm là, nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước
đặc biệt, “nhà nước không còn nguyên nghĩa”, là “nửa nhà
nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế - xã hội cho sự tồn tại của
nhà nước mất đi thì nhà nước cũng không còn, nhà nước “ tự tiêu
vong”. Đây cũng là một đặc trưng nổi bật của nhà nước vô sản.
Những đặc trưng trên cho thấy nhà nước xã hội chủ nghĩa
có sự khác biệt về chất so với tất cả các kiểu nhà nước khác
trong lịch sử nhân loại. Mục tiêu cuối cùng của nhà nước xã hội
chủ nghĩa là bảo đảm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân trong việc giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và

230
giải phóng con người.
b. Chức năng chủ yếu nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa:
- Nhà nước xã hội chủ nghĩa có hai chức năng sau:
+ Một là, xây dựng những công cụ bạo lực để trấn áp, đập
tan sự phản kháng của kẻ thù với âm mưu chống lại sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền của đất
nước, giữ vững an ninh xã hội. Bạo lực, trấn áp là cái vốn có của
mọi nhà nước, do đó, chức năng này cũng là cái vốn có của nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
+ Hai là, cải biến xã hội cũ, tổ chức có hiệu quả công cuộc
xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ
nghĩa. Từ đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền
lực, vừa là bộ máy hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế,
văn hóa xã hội của nhân dân.
- Bạo lực, trấn áp là cái vốn có của mọi nhà nước, trong đó
có nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin đều cho rằng với bản chất của nhà nước
vô sản, thì việc tổ chức, xây dựng mang tính sáng tạo nhằm cải
biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới là chức năng căn bản, chủ
yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
- Từ hai chức năng trên, nhà nước xã hội chủ nghĩa có
những nhiệm vụ chính là: quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển
kinh tế; cải thiện không ngừng đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân; quản lý văn hóa - xã hội, xây dựng nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa, thực hiện giáo dục - đào tạo con người phát triển toàn
diện, chăm sóc sức khỏe nhân dân… Ngoài ra, nhà nước xã hội
chủ nghĩa còn có chức năng, nhiệm vụ đối ngoại nhằm mở rộng
quan hệ hợp tác, hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau vì sự
phát triển và tiến bộ xã hội của tất cả các nước trên thế giới.

231
Bài tập 75
a. Trình bày những đặc trưng của nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa?
b. Vì sao nói: “văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội”?
Gợi ý trả lời:
a. Những đặc trưng của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa:
- Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong
quá trình lịch sử của mình, biểu hiện trình độ phát triển xã hội
trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
- Sự ra đời, xác lập của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa gắn
liền với hai tiền đề quan trọng là tiền đề chính trị (sau khi giai
cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền) và
tiền đề kinh tế (chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu
được thiết lập). Từ hai tiền đề chính trị và kinh tế đó, tiến trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được thực hiện trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực đời sống tinh thần
và nền văn hóa vô sản (hay còn gọi là nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa). Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng sau:
+ Một là, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là nội dung
cốt lõi, giữ vai trò chủ đạo, quyết định phương hướng phát triển
nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Trong xã hội có giai cấp, tư tưởng,
ý thức hệ giai cấp là nội dung cốt lõi của mọi nền văn hóa. Trong
mọi thời đại, tư tưởng của giai cấp thống trị luôn là tư tưởng
thống trị của thời đại đó. Sau khi giai cấp công nhân trở thành
giai cấp cầm quyền thì chủ nghĩa Mác - Lênin giữ vai trò chủ
đạo trong đời sống tinh thần của xã hội là một tất yếu. Vai trò
232
chủ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa là điều kiện quyết định đưa nhân dân lao động thực sự
trở thành chủ thể tự giác trong sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
Đặc trưng nói trên phản ánh bản chất của giai cấp công nhân và
tính đảng cộng sản của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
+ Hai là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa có
tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc. Đặc trưng này thể
hiện mục đích và động lực nội tại của quá trình xây dựng nền
văn hóa xã hội chủ nghĩa. Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ
nghĩa, hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa không còn là
đặc quyền, đặc lợi của thiểu số giai cấp bóc lột. Ngược lại, giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc là chủ thể
sáng tạo và hưởng thụ. Công cuộc cải biến cách mạng toàn diện
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa từng bước tạo ra tiền
đề vật chất, tinh thần để đông đảo nhân dân lao động tham gia
xây dựng nền văn hóa mới. Chính trong quá trình đó, văn hóa
hướng tới nhân dân, dân tộc và mọi thành tựu văn hóa trở thành
tài sản của nhân dân.
+ Ba là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa được
hình thành, phát triển một cách tự giác, đặt dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân thông qua tổ chức đảng cộng sản, có sự quản
lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
không hình thành và phát triển một cách tự phát. Trái lại, nó phải
được hình thành và phát triển một cách tự giác, có sự quản lý của
nhà nước và có sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công
nhân. Mọi sự coi nhẹ hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng
cộng sản và vai trò quản lý của nhà nước đối với đời sống tinh
thần của xã hội, đối với nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đều nhất
định sẽ làm cho đời sống văn hóa tinh thần của xã hội mất đi
phương hướng chính trị của mình.
233
b. Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội:
- Văn hóa là mục tiêu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Bởi vì, bản chất của văn hoá là sự kết tinh năng lực của con
người. Văn hoá là phương thức bộc lộ, phát huy những năng lực
bản chất con người gắn với những hoạt động sống của họ, làm
cho con người trở nên tốt đẹp hơn, hoàn thiện hơn. Những nội
dung này cũng là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. C.Mác đã từng
khái quát: mỗi bước con người tiến đến văn hoá là mỗi bước con
người tiến đến tự do. Đến V.I.Lênin, tư tưởng đó đã được diễn
đạt cụ thể hơn khi ông đưa ra luận điểm “văn hóa vô sản phải là
sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài
người tích lũy được”1. Chính vì thế, hiểu theo góc độ này thì chủ
nghĩa xã hội là chế độ xã hội mang những đặc trưng của văn hoá
và quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cũng chính là quá trình
xây dựng nền văn hóa tiến bộ nhất, hướng đến phục vụ con
người.
- Văn hóa là động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Bởi vì, các nhân tố văn hoá cũng luôn gắn bó với đời sống
kinh tế - xã hội. Chỉ có làm cho tất cả mọi người đều phải có văn
hóa, phải nâng cao trình độ văn hóa của quần chúng nhân dân thì
mới có thể khắc phục tình trạng thiếu hụt văn hóa, giúp đông đảo
nhân dân lao động chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, nâng cao
trình độ và nhu cầu thụ hưởng văn hóa. Nền văn hoá mới xã hội
chủ nghĩa sẽ tạo những tiền đề quan trọng nâng cao năng suất lao
động, phẩm chất, năng lực, học vấn, giác ngộ chính trị cho quần
chúng nhân dân lao động, v.v.. Đến lượt nó, những cơ sở, điều
kiện vật chất và tinh thần ấy trở thành động lực, yêu cầu cần thiết
trong việc đưa quần chúng nhân dân thực sự trở thành chủ thể
1
1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.41, tr. 362.
234
sản xuất và tiêu dùng, sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá
tinh thần.

Bài tập 76
a. Dân tộc là gì?
b. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
trong việc giải quyết vấn đề dân tộc?
c. Một số quan điểm lớn của nhà nước ta trong việc giải
quyết vấn đề dân tộc?
Gợi ý trả lời:
a. Khái niệm dân tộc:
Dân tộc là một hình thức tổ chức cộng đồng người có tính
chất ổn định được hình thành trong lịch sử; là sản phẩm của quá
trình phát triển lâu dài của lịch sử xã hội. Khái niệm dân tộc
thường được dùng với hai nghĩa:
- Một là, dùng để chỉ cộng đồng người cụ thể nào đó có
mối liên hệ chặt chẽ, bền vững do có chung một số đặc điểm như
kinh tế, ngôn ngữ, tập quán, sinh hoạt văn hóa tạo nên nét đặc
thù so với những cộng đồng khác.
- Hai là, dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định, bền
vững hợp thành nhân dân của một quốc gia, có lãnh thổ chung,
nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung, có truyền thống văn hóa
, truyền thống đấu tranh chung trong quá trình dựng nước và giữ
nước.
Như vậy, về khái niệm dân tộc, nếu theo nghĩa thứ nhất,
dân tộc là bộ phận của quốc gia, là các tộc người; còn theo nghĩa
thứ hai thì dân tộc là toàn bộ nhân dân một nước, là quốc gia -
dân tộc.
b. Những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
235
trong việc giải quyết vấn đề dân tộc:
- Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, cùng với vấn
đề giai cấp, dân tộc là một bộ phận của những vấn đề chung về
cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản; là nội dung quan
trọng, có ý nghĩa chiến lược của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề có ý nghĩa
quyết định đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng, tan rã
của một quốc gia dân tộc.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng nhấn mạnh đến nguyên tắc
chung nhất khi giải quyết vấn đề dân tộc, đó là phải luôn đứng
vững trên lập trường giai cấp công nhân. Điều đó giúp bảo đảm
lợi ích cơ bản, lâu dài của dân tộc.
- Giải quyết vấn đề dân tộc, thực chất là xác lập quan hệ
công bằng, bình đẳng giữa các dân tộc trong một quốc gia, giữa
các quốc gia - dân tộc trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội và ngôn ngữ. Nội dung cơ bản của việc giải quyết
vấn đề dân tộc được thể hiện rõ trong Cương lĩnh dân tộc của
V.I.Lênin. Đây cũng được xem là cương lĩnh dân tộc của chủ
nghĩa Mác - Lênin và Đảng Cộng sản với ba nội dung cơ bản sau
đây:
+ Một là, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng. Đây là quyền
thiêng liêng của các dân tộc. Tất cả các dân tộc, dù đông hay ít
người, có trình độ phát triển cao hay thấp đều có quyền lợi và
nghĩa vụ như nhau, không có đặc quyền, đặc lợi về kinh tế, chính
trị, văn hóa, ngôn ngữ cho bất cứ dân tộc nào. Trong một quốc
gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc phải được pháp
luật bảo vệ và phải được thực hiện trong thực tế. Trong quan hệ
giữa các quốc gia - dân tộc, quyền bình đẳng dân tộc gắn liền với
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa

236
sôvanh nước lớn, chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản
phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế
nhằm thực hiện sự bình đẳng giữa các quốc gia trong quan hệ
quốc tế.
+ Hai là, các dân tộc được quyền tự quyết. Về thực chất,
quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ của mỗi dân tộc, quyền
tự quyết định con đường phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của
dân tộc mình. Quyền dân tộc tự quyết bao gồm quyền tự do phân
lập thành cộng đồng quốc gia dân tộc độc lập (vì lợi ích của các
dân tộc, chứ không phải vì mưu đồ và lợi ích của một nhóm
người nào) và quyền tự nguyện liên hiệp lại với các dân tộc khác
trên cơ sở bình đẳng. Khi xem xét, giải quyết quyền tự quyết của
dân tộc cần đứng vững trên lập trường của giai cấp công nhân:
ủng hộ các phong trào tiến bộ, kiên quyết đấu tranh chống lại
những mưu toan lợi dụng quyền dân tộc tự quyết làm chiêu bài
để can thiệp vào công việc nội bộ các nước, đòi ly khai chia rẽ
dân tộc.
+ Ba là, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc. Đây là tư
tưởng, nội dung cơ bản trong Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin.
Tư tưởng này là sự thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công
nhân, phong trào công nhân và phản ánh tính thống nhất giữa sự
nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp. Đoàn kết giai
cấp công nhân các dân tộc có ý nghĩa lớn lao đối với sự nghiệp
giải phóng dân tộc. Nó có vai trò quyết định đến việc xem xét,
thực hiện quyền bình đẳng dân tộc và quyền dân tộc tự quyết.
Đồng thời, đây cũng là yếu tố tạo nên sức mạnh bảo đảm cho
thắng lợi của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trong
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc.
c. Một số quan điểm lớn của nhà nước ta trong việc giải

237
quyết vấn đề dân tộc:
Xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc và tình hình, đặc điểm
dân tộc ở nước ta, quan điểm lớn của nhà nước ta trong việc giải
quyết vấn đề dân tộc bao gồm những điểm sau:
- Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
cách mạng của nước ta.
- Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn
kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
- Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách, tạo chuyển
biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội vùng dân tộc
thiểu số.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện
các chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở các
cấp.
- Chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành
động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.

Bài tập 77
a. Khái niệm, nguồn gốc ra đời của tôn giáo?
b. Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội?
c. Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong
việc giải quyết vấn đề tôn giáo?
d. Một số quan điểm lớn của nhà nước ta trong việc giải
quyết vấn đề tôn giáo?
238
Gợi ý trả lời:
a. Khái niệm và nguồn gốc ra đời của tôn giáo:
- Khái niệm tôn giáo:
Khi phân tích bản chất tôn giáo với tư cách là một hình thái
ý thức xã hội, Ph.Ăngghen đã cho rằng: “tất cả mọi tôn giáo
chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo - vào trong đầu óc của con
người - của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống
hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở
trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế” 1. Qua
luận điểm này cần lưu ý một số điểm sau đây:
- Tôn giáo không phải là cái tự có mà là sản phẩm của con
người, là sự phản ánh một phần xã hội vào trong ý thức của con
người.
- Tôn giáo sự phản ánh phi lý tính, hoang đường, để rồi sau
đó lấy cái phi lý, cái hoang đường làm chân lý, chuẩn mực để
giải thích hoặc chi phối cái hiện thực.
- Tôn giáo là sản phẩm của con người, nhưng không phải là
con người cá nhân, riêng lẻ, mà là con người xã hội, do đó tôn
giáo là một hiện tượng xã hội.
- Xét về bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội tiêu
cực, nó vừa biểu thị sự phản kháng tiêu cực trước những nỗi khổ
đau và bất hạnh của con người, vừa biểu thị sự nhẫn nhục, sự bất
lực của con người trước những sức mạnh tự phát của tự nhiên và
xã hội.
Tôn giáo được tạo thành bởi ba yếu tố cơ bản, bao gồm ý
thức tôn giáo (gồm tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo), hệ
thống nghi lễ tôn giáo (trong đó hoạt động thờ cúng là yếu tố cơ

1
1. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t.20,
tr.437.
239
bản) và tổ chức tôn giáo (thường có hệ thống từ trung ương đến
cơ sở). Vì vậy, tôn giáo là một lực lượng xã hội trần thế, có tác
động không nhỏ đến đời sống xã hội.
- Nguồn gốc ra đời của tôn giáo:
+ Một là, về nguồn gốc kinh tế - xã hội.
• Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, trình độ thấp kém của
lực lượng sản xuất đã làm cho con người không nắm bắt được
thực tiễn. Do vậy, con người cảm thấy yếu đuối và bất lực trước
tự nhiên rộng lớn và bí ẩn, vì thế, họ đã gán cho tự nhiên những
sức mạnh, quyền lực to lớn, thần thánh hóa những sức mạnh đó.
Đó là hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo.
• Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh
cảm giác yếu đuối trước sức mạnh tự phát của tự nhiên, con
người lại cảm thấy bất lực trước những sức mạnh tự phát của xã
hội hoặc của một thế lực nào đó của xã hội. Không giải thích
được nguồn gốc của sự phân hoá giai cấp và áp bức bóc lột, của
những ngẫu nhiên, may rủi, con người lại hướng niềm tin hư ảo
vào “thế giới bên kia” dưới hình thức các tôn giáo. Như vậy, sự
yếu kém về trình độ phát triển lực lượng sản xuất cùng với sự
bần cùng về kinh tế, áp bức về chính trị, thất vọng, bất lực trước
những bất công xã hội là một trong những nguồn gốc sâu xa của
tôn giáo.
+ Hai là, về nguồn gốc nhận thức.
• Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con
người về tự nhiên, xã hội và bản thân mình là có giới hạn.
Khoảng cách giữa cái biết và cái chưa biết luôn luôn tồn tại. Cho
nên, trước mắt con người, thế giới vừa luôn là cái hiểu được, vừa
luôn là cái bí ẩn. Do không giải thích được cái bí ẩn ấy nên con
người dễ xuyên tạc nó, điều gì khoa học chưa giải thích được,

240
điều đó dễ bị tôn giáo thay thế.
• Sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo còn gắn liền với đặc
điểm nhận thức của con người. Con người ngày càng nhận thức
đầy đủ hơn, sâu sắc hơn thế giới khách quan, khái quát hoá thành
các khái niệm, phạm trù, quy luật. Nhưng càng khái quát hoá,
trừu tượng hóa thì nhận thức của con người ngày càng có nguy
cơ xa rời hiện thực và dễ phản ánh sai lạc hiện thực. Như vậy,
thực chất nguồn gốc nhận thức của tôn giáo là sự tuyệt đối hoá,
cường điệu hoá mặt chủ thể của nhận thức con người, dẫn đến
thiếu khách quan, mất dần cơ sở hiện thực, dễ rơi vào ảo tưởng,
thần thánh hoá đối tượng.
+ Ba là, về nguồn gốc tâm lý.
• Trong cuộc sống, những trạng thái tâm lý mang tính tiêu
cực như sự bất hạnh, đau khổ, nỗi kinh hoàng, sợ hãi,… dễ dẫn
con người đến với tôn giáo để mong được sự an ủi, che chở, giúp
đỡ nhằm làm giảm nỗi khổ đau của con người trong cuộc sống
hiện thực.
• Những trạng thái tâm lý tích cực như sự hân hoan, vui
sướng, mãn nguyện, v.v., đôi khi cũng có thể là một nguyên nhân
dẫn con người đến với tôn giáo. Sự thành đạt, may mắn, hạnh
phúc trong cuộc sống nhiều khi lại được hiểu là do thần thánh
ban cho.
• Lòng kính trọng, sự biết ơn cũng có thể làm xuất hiện
trong con người nhu cầu muốn thần thánh hoá, linh thiêng hoá để
thể hiện lòng kính trọng, sự biết ơn ấy (ví dụ; thờ cúng tổ tiên,
thờ anh hùng dân tộc, ….).
• Một số yếu tố như thói quen, truyền thống, phong tục, tập
quán cũng là những nguyên nhân tâm lý dẫn đến sự hình thành,
duy trì và phát triển niềm tin tôn giáo.

241
b. Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội:
Việc nghiên cứu các nguồn gốc của tôn giáo cung cấp cho
chúng ta cơ sở khoa học để có thể lý giải về nguyên nhân tồn tại
của tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Có nhiều
nguyên nhân cho sự tồn tại của tín ngưỡng tôn giáo, trong đó có
những nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, nguyên nhân nhận thức. Trong tiến trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều
hiện tượng tự nhiên, xã hội và của con người mà khoa học chưa
lý giải được. Do đó, trước những sức mạnh tự phát của giới tự
nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa thể nhận thức và chế ngự
được đã khiến cho một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che chở
và lý giải chúng từ sức mạnh của thần linh.
Hai là, nguyên nhân kinh tế. Trong tiến trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều thành phần với
những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp xã hội. Trong
đời sống hiện thực, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội vẫn còn diễn ra, sự cách biệt khá lớn về đời sống vật
chất và tinh thần giữa các nhóm dân cư còn tồn tại phổ biến. Do
đó, những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên vẫn tác động mạnh mẽ đến
con người, làm cho con người dễ trở nên thụ động với tư tưởng
nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng siêu nhiên.
Ba là, nguyên nhân tâm lý. Tín ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại
lâu đời trong lịch sử nhân loại, đã trở thành niềm tin, lối sống,
phong tục, tập quán, tình cảm của một bộ phận đông đảo quần
chúng nhân dân qua nhiều thế hệ. Bởi vậy, cho dù trong tiến
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa
đã có những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, chính trị - xã hội

242
nhưng tôn giáo vẫn không thể biến đổi ngay cùng với tiến độ của
những biến đổi kinh tế - xã hội mà nó phản ánh.
Bốn là, nguyên nhân chính trị - xã hội. Xét về mặt giá trị,
một số nguyên tắc của tôn giáo là phù hợp với chủ trương,
đường lối, chính sách của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nổi bật
nhất là giá trị đạo đức và giá trị văn hóa với tinh thần nhân đạo,
hướng thiện…, đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận quần
chúng. Chính vì thế, trong một chừng mực nhất định, tôn giáo có
sức hút mạnh mẽ đối với một bộ phận quần chúng nhân dân.
Năm là, nguyên nhân văn hóa. Trong thực tế sinh hoạt văn
hóa xã hội, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo đã đáp ứng được phần
nào nhu cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng xã hội và trong một
mức độ nhất định, có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng, phong
cách, lối sống của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Những sinh
hoạt văn hóa có tính chất tín ngưỡng, tôn giáo ấy đã lôi cuốn một
bộ phận quần chúng nhân dân khi đáp ứng được nhu cầu văn hóa
tinh thần, tình cảm của họ.
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản khiến tôn giáo vẫn
còn tồn tại trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã
hội xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cùng với tiến trình đó, tôn giáo
cũng có những biến đổi cùng với sự đổi thay của những điều
kiện kinh tế - xã hội, với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới.
c. Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin trong
việc giải quyết vấn đề tôn giáo:
Tín ngưỡng, tôn giáo là những vấn đề nhạy cảm và phức
tạp. Do đó, những vấn đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải được xem
xét, giải quyết hết sức thận trọng, cụ thể, chuẩn xác và có tính
nguyên tắc. Giải quyết vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng

243
chủ nghĩa xã hội cần dựa trên những nguyên tắc sau đây:
- Một là, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn
giáo trong đời sống xã hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đó là yêu cầu khách quan của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Hai là, khi tín ngưỡng, tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần
của một bộ phận nhân dân thì nhà nước xã hội chủ nghĩa phải
tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và không tín
ngưỡng của mọi công dân. Cần phát huy những giá trị tích cực
của tôn giáo, nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín
ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân.
- Ba là, thực hiện đoàn kết những người có tôn giáo với
những người không có tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết
toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nghiêm cấm mọi
hành vi chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.
- Bốn là, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong
vấn đề tôn giáo. Mặt tư tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn
giáo. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, khắc phục mặt
này là việc làm thường xuyên, lâu dài. Mặt chính trị là sự lợi
dụng tôn giáo của những phần tử phản động nhằm chống lại sự
nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đấu
tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh vực tôn giáo là
nhiệm vụ thường xuyên, vừa phải khẩn trương, kiên quyết, vừa
phải thận trọng và phải có sách lược phù hợp với thực tế.
- Năm là, phải có quan điểm lịch sử - cụ thể khi giải quyết
vấn đề tôn giáo. Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò và
sự tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội cũng khác
nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về
các lĩnh vực, các vấn đề của xã hội có sự khác biệt. Do đó, cần

244
phải có quan điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét, đánh giá và giải
quyết những vấn đề liên quan đến tôn giáo.
d. Một số quan điểm và chính sách lớn của Nhà nước trong
việc giải quyết vấn đề tôn giáo ở nước ta:
Xuất phát từ các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác -
Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo và thực tiễn tình hình
tôn giáo của nước ta, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra một số
quan điểm và chính sách lớn trong việc giải quyết vấn đề tôn
giáo như sau:
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng,
tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng.
- Phát huy những giá trị văn hoá, đạo đức tốt đẹp của các
tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống
tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Quan tâm và tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh
hoạt theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo đã được Nhà
nước công nhận, đúng quy định của pháp luật.
- Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những
hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá
hoại khối đại đoàn kết dân tộc.

245
Chương IX
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI HIỆN THỰC VÀ TRIỂN
VỌNG

Bài tập 78
a. Trình bày những thành tựu to lớn của chủ nghĩa xã hội
hiện thực?
b. Những thành tựu ấy có ảnh hưởng như thế nào đối với
phong trào cách mạng và tiến trình lịch sử của thế giới?
Gợi ý trả lời:
a. Những thành tựu to lớn của chủ nghĩa xã hội hiện thực:
- Chủ nghĩa xã hội hiện thực là chế độ xã hội được xây
dựng trên thực tế với hai tiền đề quan trọng là tiền đề kinh tế
(chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu được thiết lập) và
tiền đề chính trị (chính quyền đã thuộc về giai cấp công nhân và
quần chúng nhân dân lao động). Từ hai tiền đề kinh tế và chính
trị đó, giai cấp công nhân thông qua chính đảng của mình là
Đảng Cộng sản lãnh đạo quần chúng nhân dân tiến hành cuộc
đấu tranh cách mạng mới nhằm bảo vệ thành quả cách mạng và
cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới với đầy đủ những đặc
trưng của chế độ xã hội chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội hiện thực đầu tiên ra đời ở nước Nga
Xôviết gắn với sự kiện Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
Ngoài Mông Cổ tuyên bố con đường chủ nghĩa xã hội năm 1921,
trong và sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ở châu Âu, châu Á và
khu vực Mỹ Latinh đã có nhiều nước do Đảng Cộng sản lãnh
đạo bằng các phương thức khác nhau đã giành được chính quyền
và sau đó đi lên chủ nghĩa xã hội, bao gồm Nam Tư (1944), Ba
Lan (1945), Việt Nam (1945); Anbani (1946), Bungari (1946),
Hunggari (1947), Rummani (1948), Tiệp Khắc (1948); Triều
246
Tiên (1948), Trung Quốc (1949), Cộng hòa Dân chủ Đức (1949),
Cuba (1959).
- Vậy là, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội
từ một nước đã mở rộng ra nhiều nước ở châu Âu, châu Á và
khu vực Mỹ Latinh. Những nước này đều dựa vào những tiền đề
chủ yếu về kinh tế và chính trị của hình thái kinh tế - xã hội mới
để xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó,
chủ nghĩa xã hội trở thành hệ thống tồn tại song song với hệ
thống tư bản chủ nghĩa. Đến năm 1991, từ những sai lầm của mô
hình phát triển kinh tế - xã hội và đường lối cải tổ, công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã
thất bại. Bên cạnh đó, bằng đường lối cải cách và đổi mới đúng
đắn, một số nước xã hội chủ nghĩa khác đã vượt qua khủng
hoảng và đạt được những thành tựu quan trọng. Chủ nghĩa xã hội
với tư cách là một chế độ xã hội hiện thực vẫn đang được xây
dựng ở Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên, Cuba và Lào.
- Cho dù lịch sử có biến động thế nào, dù ai cố tình xuyên
tạc lịch sử cũng không thể phủ nhận được sự thật là từ năm 1991
đến nay, đặc biệt là từ thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng xã
hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917 đến sự kiện tháng 8
năm 1991, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã vượt qua muôn trùng
khó khăn, phát triển rực rỡ với những thành tựu to lớn, tác động
mạnh mẽ đến tiến trình phát triển lịch sử loài người. Có thể kể ra
những thành tựu hết sức to lớn như sau:
+ Về chính trị: chế độ người bóc lột người đã bị xoá bỏ,
trên phạm vi toàn xã hội không còn tồn tại giai cấp bóc lột, chế
độ xã hội chủ nghĩa từng bước được xây dựng, nhân dân lao
động trở thành người làm chủ đất nước.
+ Về kinh tế: trong hơn 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội,

247
Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt được sự phát
triển mạnh mẽ về tiềm lực kinh tế, xây dựng cơ sở vật chất của
chủ nghĩa xã hội trên quy mô lớn với trình độ hiện đại, bảo đảm
ngày càng tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
+ Về văn hóa, khoa học kỹ thuật: các nước xã hội chủ
nghĩa cũng đã đạt được những thành tựu rực rỡ: nâng cao trình
độ học vấn cho người lao động, dẫn đầu thế giới về nhiều lĩnh
vực, nhất là lĩnh vực nghiên cứu chinh phục khoảng không vũ
trụ. Các lĩnh vực văn hoá, giáo dục, y tế cũng có những thành
tựu to lớn.
Những thành tựu kể trên càng trở nên vĩ đại hơn khi đặt nó
trong bối cảnh trước lúc nhân dân các nước bắt tay xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Khi bắt đầu sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và
xây dựng chủ nghĩa xã hội, các nước này đều có điểm chung nổi
bật là điểm xuất phát thấp với một nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, đất nước bị tàn phá nặng nề vì phải trải qua những cuộc
chiến tranh kéo dài, các thế lực thù địch trong và ngoài nước
điên cuồng chống phá hòng tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản,... Có
thấy hết những khó khăn trên khi bắt tay vào thực hiện những
nhiệm vụ chưa từng có tiền lệ trong lịch sử mới thấy được giá trị,
những thành tựu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của
các nước xã hội chủ nghĩa tạo ra.
b. Ảnh hưởng của những thành tựu đối với phong trào cách
mạng và tiến trình lịch sử của thế giới:
Với những thành tựu kể trên, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã
có những ảnh hưởng, tác động to lớn đối với phong trào cách
mạng và tiến trình lịch sử của thế giới, có thể kể ra như sau:
- Một là, việc có được một nền kinh tế hùng cường, chế độ
chính trị và nền quốc phòng hùng mạnh, sức mạnh của chủ nghĩa

248
xã hội hiện thực đã đóng vai trò quyết định trong việc đánh
thắng và cứu loài người ra khỏi thảm họa phátxít, đẩy lùi nguy
cơ chiến tranh hủy diệt, trở thành thành trì của hòa bình thế giới,
giữ cho nhân loại được sống trong môi trường hòa bình dài nhất
thế kỷ để có điều kiện đầu tư phát triển kinh tế, đi đến những
“hiện tượng thần kỳ” ở nhiều quốc gia, khu vực.
- Hai là, với sự lớn mạnh toàn diện, chủ nghĩa xã hội có
ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống chính trị thế giới, đóng vai trò
quyết định đối với sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế
quốc, hạn chế sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
bá quyền của các nước đế quốc, góp phần làm phát triển mạnh
mẽ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, trở thành chỗ dựa
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, mở ra kỷ nguyên
mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc và thời đại quá độ lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới.
- Ba là, sức hấp dẫn thực tế của chủ nghĩa xã hội đã thúc
đẩy trào lưu đấu tranh cho nền tự do dân chủ ở các nước tư bản
chủ nghĩa và trên toàn thế giới, cổ vũ và củng cố niềm tin vào sự
nghiệp đấu tranh của nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ
nghĩa vì tiến bộ xã hội, đòi các quyền dân sinh, dân chủ, phúc lợi
xã hội. Với sức ép từ phía các nước xã hội chủ nghĩa, các thế lực
cầm quyền ở các nước phương Tây buộc phải nhượng bộ và chấp
nhận thực hiện nhiều yêu sách tiến bộ của nhân dân lao động.
Như vậy, mặc dù chưa được xây dựng và phát triển đầy đủ
nhưng chủ nghĩa xã hội hiện thực đã tác động và có ảnh hưởng
to lớn đến đời sống chính trị thế giới, đã đóng góp quyết định
vào những thay đổi chính trị sâu sắc và những bước tiến bộ trọng
đại của loài người trong thế kỷ XX. Ngày nay, diện mạo và xu
hướng phát triển của thế giới tiếp tục cho thấy có một phần là

249
nhờ có chủ nghĩa xã hội hiện thực và hệ thống xã hội chủ nghĩa
thế giới. Đây cũng là những bằng chứng đầy sức thuyết phục về
tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã
hội mới và tiến bộ trong lịch sử loài người.

Bài tập 79
Mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực đã được xác định và thực
thi như thế nào ở Liên Xô và các nước Đông Âu? Nêu những
nhận định về vai trò lịch sử của các mô hình đó?
Gợi ý trả lời:
Sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành
công, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông
Âu trong thực tế được thực hiện với các mô hình sau:
- Mô hình gắn liền với “Chính sách cộng sản thời chiến”
(1918-1921).
+ Mô hình này chứa đựng những chính sách kinh tế phù
hợp với đặc trưng của thời chiến tranh với hàng loạt những biện
pháp có tính chất cưỡng chế. Chẳng hạn như: tiến hành thủ tiêu
quan hệ hàng hóa, tiền tệ, tiến hành trưng thu lương thực thừa,....
+ Chính sách này phù hợp với điều kiện lịch sử cấp bách
của nước Nga Xôviết trong hoàn cảnh “thù trong, giặc ngoài”
cùng với những khó khăn chồng chất mà nước Nga Sa hoàng để
lại. Việc thực thi chính sách này có một tác dụng vô cùng quan
trọng trong việc đập tan sự can thiệp vũ trang của thế lực đế
quốc bên ngoài và bọn phản loạn chống phá cách mạng từ bên
trong, bảo vệ được chính quyền Xôviết non trẻ.
- Mô hình gắn liền với “Chính sách kinh tế mới" (1921-
1926):
+ Chính sách này được thực hiện trong thời kỳ bắt đầu
250
chuyển sang xây dựng và khôi phục kinh tế trong thời bình để
khắc phục nguy cơ khủng hoảng kinh tế và chính trị nghiêm
trọng. Đặc trưng cơ bản của chính sách này là chuyển từ chính
sách kinh tế thời chiến sang phát triển kinh tế hàng hóa, coi trọng
phát triển lực lượng sản xuất, khẳng định kinh tế thị trường, lợi
dụng chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội,…
+ Việc thực thi chính sách kinh tế mới đã trở thành mấu
chốt cho việc cứu nguy sự khủng hoảng kinh tế của nước Nga,
làm sống động lại nền kinh tế nông thôn của nước Nga Xôviết,
phát triển sản xuất, tăng cường cơ sở kinh tế, cải thiện đời sống
vật chất, tinh thần của công nhân, nông dân và người lao động
nói chung. Chính sách này không những làm cho nhà nước
Xôviết trụ vững mà còn mở ra con đường phát triển về mọi mặt
cho xã hội mới.
- Mô hình Liên Xô:
+ Sau khi V.I.Lênin qua đời, do bối cảnh quốc tế và do yêu
cầu phải nhanh chóng đưa Liên Xô trở thành cường quốc công
nghiệp, nên từ cuối những năm 20 đầu những năm 30 của thế kỷ
XX, "Chính sách kinh tế mới" không còn được thực hiện mà
thay vào đó là một mô hình khác. Mô hình này có nét đặc trưng
nổi bật như: coi trọng phát triển công nghiệp nặng, xoá bỏ chế độ
sở hữu tư nhân, thực hiện công hữu đơn nhất về tư liệu sản xuất,
hoàn toàn loại trừ cơ chế thị trường, áp dụng cơ chế kế hoạch
hóa có tính pháp lệnh tập trung cao độ, dồn sức tiến hành công
nghiệp hóa, tập thể hóa bằng phương pháp hành chính, mệnh
lệnh và bao cấp. Nhà nước trực tiếp điều hành nền kinh tế theo
kế hoạch tập trung thống nhất, Đảng giữ vai trò lãnh đạo nhưng
thực chất lại trực tiếp điều hành nhà nước,…
+ Với mô hình này, Liên Xô đã thành công rực rỡ trong sự

251
nghiệp công nghiệp hóa, tập thể hóa với thời gian chưa đầy 20
năm, tạo cho Liên Xô có sức mạnh to lớn bảo vệ được Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa; đóng vai trò quan trọng trong việc tiêu diệt chủ
nghĩa phátxít; nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh; giúp
đỡ có hiệu quả các nước Đông Âu thiết lập chế độ xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội; đưa Liên Xô lên hàng siêu
cường.
Từ thực tế đó, Đảng Cộng sản Liên Xô, sau đó là các Đảng
Cộng sản cầm quyền ở các nước Đông Âu và những nơi khác
tiến hành tổng kết thực tiễn, khái quát thành lý luận và nguyên
tắc cơ bản - coi đó là những quy luật phổ biến của chủ nghĩa
Mác - Lênin về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ
nghĩa xã hội để tất cả các nước đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa đều phải thực hiện.
Từ những năm 50 đến những năm 80 của thế kỷ XX, hệ
thống lý luận và các nguyên tắc cơ bản đó được áp dụng một
cách phổ biến ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa và đã đạt được
những thành tựu vĩ đại, đưa loài người đi vào một thời đại mới -
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi thế giới.
Tuy nhiên, dần theo thời gian, cùng với sự phát triển của
kinh tế - xã hội thì những hạn chế của mô hình này cũng dần dần
bộc lộ ra mà chủ yếu là: quản lý quá chặt theo kiểu hành chính,
phủ nhận giá trị của kinh tế thị trường, không phát huy được sức
sáng tạo của quần chúng nhân dân. Chính vì thế, bắt đầu từ cuối
những năm 80 của thế kỷ XX, hạn chế của mô hình này và nhiều
nguyên nhân bên trong và bên ngoài đã dẫn tới tình trạng khủng
hoảng nghiêm trọng, toàn diện ở tất cả các nước xã hội chủ
nghĩa.

252
Bài tập 80
a. Làm rõ nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ
của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu.
b. Từ việc chỉ ra nguyên nhân, hãy rút ra một số nhận định
về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của nhân loại.
Gợi ý trả lời:
a. Nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu:
Bắt đầu từ cuối những năm 80 của thế kỷ XX, Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu bước vào thời kỳ khủng
hoảng. Để vượt qua khủng hoảng, các nước xã hội chủ nghĩa
phải tiến hành cải tổ, cải cách, đổi mới mô hình chủ nghĩa xã hội
cũ. Trong quá trình cải tổ, cải cách đó, nhiều Đảng Cộng sản lại
phạm phải những sai lầm nghiêm trọng mới, làm cho sự khủng
hoảng càng trở nên sâu sắc và trầm trọng hơn dẫn đến sự sụp đổ
hoàn toàn chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu vào
năm 1991. Tấn thảm kịch này có nguyên nhân sâu xa và nguyên
nhân chủ yếu, trực tiếp.
- Về nguyên nhân sâu xa: do chậm đổi mới đối với những
bất cập trong mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước những
biến đổi của hoàn cảnh lịch sử. Chủ nghĩa xã hội Xôviết ra đời
trong điều kiện lịch sử đặc biệt, mô hình tổ chức xã hội để thích
ứng với hoàn cảnh lịch sử đó khó tránh khỏi những khuyết tật.
Khi điều kiện lịch sử khác đi, mô hình đó không kịp thời được
thay đổi bổ sung để thích ứng thì những khuyết tật ấy tất yếu bộc
lộ ra và dẫn tới khủng hoảng toàn hệ thống. Nếu như mô hình tổ
chức xã hội dựa trên kế hoạch hoá tập trung đã phát huy được
sức mạnh cho cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại thì trong điều kiện

253
hoà bình xây dựng chủ nghĩa xã hội, kéo dãn việc thực hiện mô
hình này tỏ ra không còn phù hợp. Cơ chế kế hoạch hoá tập
trung làm mất đi tính chủ động sáng tạo của người lao động,
chậm trễ trong việc tiếp thu những thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ để nâng cao năng suất lao động (yếu
tố cuối cùng quyết định thắng lợi của một chế độ mới). Trong khi
đó, các nước tư bản chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường lại
nhanh hơn các nước xã hội chủ nghĩa trong việc tiếp nhận thành
tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ vào những năm
80 của thế kỷ XX.
- Về nguyên nhân chủ yếu, trực tiếp: do những sai lầm
trong đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức của công cuộc cải tổ.
Chủ trương đưa ra lúc đầu là tăng tốc về kinh tế để chấm dứt
khủng hoảng nhưng vấn đề tăng tốc như thế nào thì lại không có
câu trả lời đúng đắn. Sai lầm nối tiếp sai lầm khi sự bế tắc trong
cải tổ về kinh tế khiến công cuộc cải tổ chuyển trọng tâm sang
lĩnh vực chính trị trên cơ sở của cái gọi là "tư duy chính trị mới".
Thực chất đó là sự lùi dần từng bước trong việc từ bỏ lập trường
giai cấp, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và sự nghiệp xã hội
chủ nghĩa. Những điều đó cùng với sự thổi phồng những hạn chế
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các
nước Đông Âu từ bên bên ngoài nhanh chóng tạo ra làn sóng phê
phán, công kích, phủ nhận thành tựu vĩ đại của chủ nghĩa xã hội,
bôi đen quá khứ hào hùng của cha ông và từ bỏ chủ nghĩa xã hội,
gây hoang mang, xáo trộn đến cực độ trong tư tưởng xã hội, tạo
điều kiện thuận lợi cho đường lối hữu khuynh, cơ hội, xét lại,
phản bội hoành hành... Trách nhiệm lớn nhất của thất bại này
thuộc về Đảng Cộng sản Liên Xô với các hệ thống cơ quan lãnh
đạo cao nhất.
Những sai lầm trong đường lối, chính sách cải tổ kể trên đã
254
tạo ra cơ hội cho các thế lực thù địch tác động, chống phá đẩy
nhanh quá trình cải tổ đi đến sự thất bại hoàn toàn.
b. Một số nhận định về con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội
của nhân loại:
- Sự thất bại của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Đông Âu và Liên Xô là một tổn thất vô cùng nghiêm trọng đối
với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và sự nghiệp cách
mạng thế giới đang đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội. Nó khiến
cho phong trào cách mạng bị đẩy lùi, nhân dân lao động lo âu,
tăng thêm cuồng vọng cho các thế lực phản động chống phá cách
mạng. Phong trào xã hội chủ nghĩa lâm vào thời kỳ thoái trào.
- Cần lưu ý rằng “khủng hoảng” và “sụp đổ” là hai hiện
tượng có quan hệ sâu xa với nhau, nhưng về cơ bản là khác
nhau. Khủng hoảng không tất yếu dẫn dến sụp đổ. Bởi vì, vào
những năm 80 của thế kỷ XX, hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa
đều rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, nhưng không phải tất cả
đều sụp đổ. Bên cạnh chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu bị đẩy lùi thì vẫn còn những nước khác với đường lối
cải cách, đổi mới đúng đắn đã đứng vững, vượt qua khủng hoảng
trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, đưa sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước mình tiếp tục bước vào thời kỳ phát triển
mới.
- Việc phân tích và chỉ ra nguyên nhân khủng hoảng và sụp
đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu đã để
lại một bài học sâu sắc rằng: xa rời những nguyên tắc cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội và con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội sẽ tất yếu lâm vào khủng hoảng chế độ và
những bi kịch lịch sử.
- Sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực

255
ở Liên Xô và Đông Âu không phải là “sự sụp đổ của chủ nghĩa
xã hội” mà đó chỉ là sự khủng hoảng và sụp đổ của một mô hình
cụ thể của chủ nghĩa xã hội trong tiến trình vận động và phát
triển lịch sử của nó. Giống như không thể có sự đồng nhất giữa
một hình thức cụ thể của quá trình phát triển với bản thân quá
trình ấy. Cũng giống như một quá trình phát triển cụ thể nào, chủ
nghĩa xã hội tuy đã giành được những thành tựu hết sức đáng
khâm phục nhưng quá trình phát triển của nó tất yếu cũng phải
trải qua con đường phát triển đầy quanh co, khúc khuỷu và thậm
chí cả những thất bại tạm thời. Tính tất yếu này sẽ càng được
nhận thức rõ ràng hơn khi chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng
ưu việt của nó thật sự là một chế độ xã hội khác biệt về chất so
với các chế độ khác trong quá trình vận động và phát triển của
lịch sử loài người.
- Từ đó, xét đến cùng, nguyên nhân của sự thất bại của chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu chính là bắt nguồn
từ việc khó khăn trong việc tìm kiếm những mô hình, những
hình thức, những phương pháp thử nghiệm xây dựng một xã hội
mới chưa từng có trong tiền lệ lịch sử. Như V.I.Lênin đã từng
nói: nếu thiết tưởng lịch sử sẽ thuận buồm xuôi gió, phát triển
tiến lên một cách dễ dàng, không có lúc xuất hiện sự thụt lùi to
lớn, thì đó là không biện chứng, không khoa học, không đúng
đắn về mặt lý luận. Do vậy, phong trào xã hội chủ nghĩa thế giới
có một số thất bại, thậm chí là thất bại cực kì nghiêm trọng thì
cũng không nên ngạc nhiên, bi quan dao động, thất vọng mà nên
bình tĩnh để phân tích tỷ mỉ, rút ra bài học để tiếp tục tiến lên.

Bài tập 81
Dựa vào cơ sở nào để khẳng định “chủ nghĩa xã hội là

256
tương lai của xã hội loài người”?
Gợi ý trả lời:
“Chủ nghĩa xã hội là tương lai của xã hội loài người”, sự
khẳng định trên được căn cứ từ các cơ sở lý luận và thực tiễn sau
đây:
- Một là, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa
Mác - Lênin đã cho thấy, sự thay thế của các chế độ xã hội từ
thấp đến cao là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Nguyên nhân
của sự thay thế đó bắt nguồn từ sự phát triển không ngừng của
lực lượng sản xuất. Quy luật vận động, phát triển tất yếu của sự
vật là tương lai sẽ luôn thuộc về cái mới, cái tiến bộ. Quy luật đó
đã chỉ ra tính tất yếu sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa với tư cách là một hình thái ưu việt, tiến bộ và
phát triển. Tất nhiên, đó không bao giờ là một quá trình vận động
thẳng tắp, ngược lại, thường phải vượt qua những khúc quanh
co, phải đi vòng vèo, có cao trào, có thoái trào, thậm chí phải
làm lại trong quá trình phát triển.
- Hai là, với mục tiêu là giải phóng giai cấp, giải phóng con
người để hướng đến một thế giới tốt đẹp, văn minh, tiến bộ, nhân
văn, hạnh phúc, chủ nghĩa xã hội đã thật sự hòa nhịp, đồng điệu
với niềm mong nước, lýí tưởng, khát vọng, ước mơ của toàn
nhân loại từ xưa đến nay. Ngay trong thời đại này nay, mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội cũng tiếp tục chính là những mục tiêu lớn
của thời đại (hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội) mà nhân loại đang hướng tới. Chính vì vậy, lí tưởng và niềm
tin chủ nghĩa xã hội đã, đang và sẽ tiếp tục được thấm vào sâu
trong quảng đại quần chúng nhân dân không những ở các nước
xã hội chủ nghĩa mà còn là nhân dân trên toàn thế giới. Từ đó,
chủ nghĩa xã hội tất yếu trở thành ngọn cờ dẫn nhân dân thế giới

257
tiến lên phía trước trong thời đại ngày nay và mãi về sau.
- Ba là, chủ nghĩa tư bản có vai trò to lớn đối với lịch sử
phát triển của xã hội loài người nhưng lịch sử không thể dừng lại
ở phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nguyên nhân là do chủ
nghĩa tư bản không thể giải quyết được mâu thuẫn cơ bản, cố
hữu của nó, đó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính
chất xã hội hóa với quan hệ sản xuất tư nhân tư bản chủ nghĩa.
Dù đã có những điều chỉnh để tồn tại nhưng với bản chất bóc lột,
phản dân chủ, vô nhân đạo của mình, chủ nghĩa tư bản không thể
giải quyết được những khuyết tật đã trở thành phổ biến ở các
nước tư bản, như: chăm sóc y tế không đầy đủ, giáo dục trung
học chất lượng kém, vấn đề phân biệt chủng tộc, nghèo đói, ngày
càng sâu sắc, tội ác bạo lực tràn lan, cảm giác trống về tinh thần,
chiến tranh và tạo nên bao tai họa về văn hoá, xã hội, môi sinh
trên thế giới… Những khuyết tật ấy chỉ có thể được giải quyết
được trong khuôn khổ của một chế độ tiến bộ và ưu việt hơn.
- Bốn là, trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản đã xuất
hiện những yếu tố của xã hội mới, những yếu tố của nền văn
minh hậu công nghiệp, kinh tế tri thức nảy sinh và phát triển;
tính chất xã hội của sở hữu ngày càng gia tăng; sự điều tiết của
nhà nước đối với thị trường ngày càng hữu hiệu; tính nhân dân
và xã hội của nhà nước tăng lên; những vấn đề phúc lợi xã hội và
môi trường… ngày càng được giải quyết tốt hơn. Những đặc
điểm trên đây cũng có thể xem đó là những xã hội quá độ, vì nó
chứa đựng trong nó cả các yếu tố của chủ nghĩa tư bản và xã hội
tương lai.
- Năm là, từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa xã hội hiện thực
với những thành tựu to lớn không thể phủ nhận đã chứng minh
được tính ưu việt, tiến bộ của mình với tư cách là một chế độ xã

258
hội mới. Cả lý luận và thực tiễn ngày càng cho thấy được bản
chất của sự thất bại của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu. Đó chỉ là sự thất bại của một mô hình
không khoa học, quy phạm những nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Nó tuyệt đối không phải là sự sụp đổ của một
học thuyết, một chế độ và càng không phải là sự thất bại của một
phong trào hiện thực. Các nước kiên trì con đường xã hội chủ
nghĩa hiện nay với những thành tựu to lớn ban đầu nhờ chính
sách đúng đắn của cuộc cải cách, đổi mới tiếp tục là cơ sở thực
tiễn đầy sức thuyết phục trong việc minh chứng về tính tất yếu
thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
- Sáu là, nhiều nước trước đây vốn là các nước xã hội chủ
nghĩa, thông qua công cuộc cải tổ, cải cách, đã phản bội lại chủ
nghĩa xã hội và đưa đất nước đi theo con đường của chủ nghĩa tư
bản hay chủ nghĩa xã hội dân chủ, hiện nay đang rơi vào khó
khăn về con đường phát triển của đất nước mình khi nhiều định
hướng giá trị của xã hội bị đảo lộn, xung đột dân tộc, tôn giáo,
phe phái gia tăng, đời sống của những người lao động ngày càng
khó khăn, sự phân hoá giàu nghèo trong xã hội ngày càng gia
tăng, vị thế của các nước đó trên trường quốc tế giảm sút,…. Bên
cạnh đó, một số quốc gia sau khi giành được độc lập đã đưa đất
nước đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, nhưng đất nước vẫn
đang rơi vào tình trạng nghèo đói, khó khăn, chiến tranh, xung
đột, v.v.. Những khó khăn, bế tắc của những nước này cũng góp
phần cho thấy nhân loại đang có nhu cầu vượt qua chủ nghĩa tư
bản trong việc tìm kiếm một mô hình xã hội mới tiến bộ hơn.
- Bảy là, đã xuất hiện những nhân tố mới của xu hướng đi
lên chủ nghĩa xã hội ở một số quốc gia trong thế giới đương đại.
Ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở khu vực Mỹ Latinh, từ
những năm 1990 đã xuất hiện xu thế thiên tả và ngày càng phát
259
triển mạnh lên thành một trào lưu vào đầu thế kỷ XXI. Từ 1998
đến nay, thông qua bầu cử dân chủ, các chính phủ cánh tả, tiến
bộ đã lên cầm quyền ở 11 nước trong khu vực Mỹ Latinh. Sự
xuất hiện của “chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh” còn điểm này, điểm
khác phải tiếp tục nghiên cứu và theo dõi, nhưng rõ ràng những
biểu hiện đó đã và đang thể hiện sự tác động sâu xa và sức sống
mãnh liệt của chủ nghĩa xã hội hiện thực đối với các dân tộc này,
thể hiện bước tiến mới của chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Đó là
một thực tế lịch sử góp phần quan trọng trong việc minh chứng
cho sức sống và khả năng phát triển của chủ nghĩa xã hội, củng
cố niềm tin vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Tất cả các yếu tố trên đây đều phản ánh một thực tế là: mặc
dù còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng “cuộc đấu tranh của
nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát
triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng
sẽ có bước tiến mới; theo tiến hoá của lịch sử, loài người nhất
định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”1.

1
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.24.
260
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. C.Mác và Ph. Ăngghen: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản,


Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Chương trình môn học Những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin (kèm theo Quyết
định số 52/2008/QĐ-BGDĐT ngày 18 tháng 9 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Triết học Mác - Lênin,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Kinh tế chính trị Mác -
Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa
học, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
8. Mortimer J.Adler: Đọc sách như một nghệ thuật (Hải Nhi
dịch), Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2010.
9. Phan Trọng Ngọ: Dạy học và phương pháp dạy học trong
nhà trường, Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội, 2005.
10. Tony Buzan: Lập bản đồ tư duy (Nguyễn Thế Anh dịch),
Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội, 2010.
12. Nguyễn Cảnh Toàn (Chủ biên): Quá trình dạy - tự học,
Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1997.
12. Thái Duy Tuyên: Phương pháp dạy học truyền thống và

261
đổi mới, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2008.
MỤC LỤC
Trang
Lời Nhà xuất bản
Phần một. PHƯƠNG PHÁP HỌC TẬP MÔN HỌC
NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA
MÁC - LÊNIN
Phần hai. CÂU HỎI - BÀI TẬP
Chương mở đầu
NHẬP MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC - LÊNIN
Phần thứ nhất. THẾ GIỚI QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP
LUẬN TRIẾT HỌC CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
Chương I. Chủ nghĩa duy vật biện chứng
Chương II. Phép biện chứng duy vật
Chương III. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Phần thứ hai. HỌC THUYẾT KINH TẾ CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC -LÊNIN VỀ PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT
TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
Chương IV. Học thuyết giá trị
Chương V. Học thuyết giá trị thặng dư
Chương VI. Học thuyết về chủ nghĩa tư bản độc quyền
và chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
Phần thứ ba. LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
Chương VII. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và
cách mạng xã hội chủ nghĩa
Chương VIII. Những vấn đề chính trị - xã hội có tính
quy luật trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa
Chương IX. Chủ nghĩa xã hội hiện thực và triển vọng
TÀI LIỆU THAM KHẢO

262

You might also like