Dei Verbum - Hiến Chế Tín Lý Về Mặc Khải Của Thiên Chúa

You might also like

You are on page 1of 14

3/23/2019 Hiến Chế Tín Lý Về Mặc Khải Của Thiên Chúa (Thường Huấn Linh Mục Đàlạt, Bài 2)

BÀI HAI :

HIẾN CHẾ TÍN LÝ 
VỀ MẶC KHẢI CỦA THIÊN CHÚA
Lm. Gioan TC. Nguyễn Phước OFM.
 
Từ  ngày  14.9  đến  18.9.2005,  Hội  Đồng  Giáo  Hoàng  Cỗ  Vũ  Sự  Hiệp  Nhất  Kitô  Hữu  và  Hiệp  Hội  Kinh  Thánh  Công  Giáo
đã  tổ  chức  tại  Rôma  Hội  Nghị  Kinh  Thánh  Quốc  Tế  do  đã  diễn  ra,  để  đánh  dấu  40  năm  công  bố  Hiến  Chế  Tín  Lý  về  Mặc
Khải của Thiên Chúa Dei Verbum.
Hiến  Chế  Dei  Verbum,  xét  theo  thứ  tự  thời  gian,  là  một  trong  những  văn  kiện  cuối  cùng  của  Công  đồng  chung
Vaticanô II, được các nghị phụ biểu quyết chấp nhận ngày 18 tháng 11 năm 1965. Tuy nhiên, ngay từ lúc khai mạc Công
đồng vào năm 1962, Văn Kiện này, dài khoảng 20 trang, là một trong những văn kiện được chú ý đến nhiều nhất và gây
tranh cãi nhất. Những điểm đã được đưa ra tranh luận lúc đó có liên quan đến phong trào đại kết, đến sự trung thành của
Giáo Hội với Kinh Thánh, và đến chứng tá của Giáo Hội cho Kinh Thánh.
Được công bố ngày 18.11.1965, Hiến chế Mặc khải là “một trong những văn kiện quan trọng nhất của Công đồng về
giáo  lý  cũng  như  về  mục  vụ.  Về  giáo  lý,  Hiến  Chế  nhắc  nhở  chúng  ta  nội  dung  đức  tin  hết  sức  phong  phú  và  sống  động
của Giáo Hội về mặc khải của Thiên Chúa hoàn tất trong Đức Kitô. Về mục vụ, Hiến Chế đã khẳng định chỉ có Lời đến từ
Thiên  Chúa,  được  thông  truyền  và  diễn  tả  qua  chính  đời  sống  Giáo  Hội  cũng  như  qua  chứng  tá  của  mỗi  Kitô  hữu  mới  có
thể đem lại ánh sáng và niềm vui cho một thế giới đang khắc khoải tìm kiếm con đường về với Sự Thật và Sự Sống” (x.
Thư chung HĐGMVN 2005 số 1).
Bài trình bày này sẽ tóm tắt nội dung của Hiến chế và nêu lên một vài nhận định sau 40 năm thực thi Hiến chế.

I.           GIỚI THIỆU HIẾN CHẾ DEI VERBUM
Hiến chế gồm 6 chương :

     Chương 1 : Về chính việc mặc khải

     Chương 2 : Sự lưu truyền mặc khải

     Chương 3 : Linh hứng của Thiên Chúa và việc chú giải

     Chương 4 : Cựu Ước

     Chương 5 : Tân Ước

     Chương 6 : Kinh Thánh trong đời sống Giáo Hội

http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThuongHuan/ThuongHuan2005/Bai2.htm 1/14
3/23/2019 Hiến Chế Tín Lý Về Mặc Khải Của Thiên Chúa (Thường Huấn Linh Mục Đàlạt, Bài 2)

Bản văn được chia làm 2 phần lớn (do 2 tiểu ban soạn thảo) :
Phần I : Bàn về mặc khải tổng quát, gồm 2 chương :
Chương  I  :  Bàn  về  diễn  tiến  của  mặc  khải  qua  đó  Thiên  Chúa  đã  tự  biểu  lộ  cho  loài  người  và  phó  mình  cho  họ  đến
mức độ trọn vẹn trong Chúa Kitô.
Chương II : Trình bày tính cách liên tục trong việc Thiên Chúa tự biểu lộ và phó mình cách trọn vẹn trong Giáo Hội,
bằng tất cả những gì tạo thành đời sống Giáo Hội qua tiến trình lịch sử. Đó là việc lưu truyền mặc khải.
Phần II : Bàn về Kinh Thánh, một hình thức đặc biệt của mặc khải.
Chương  III  :  Trình  bày  những  khía  cạnh  tổng  quát  của  Kinh  Thánh  :  đó  là  một  tác  phẩm  của  Thiên  Chúa,  Đấng  hạ
mình đến với ta, nhưng cũng là một tác phẩm của con người.
Chương IV : Bàn về giá trị của Cựu Ước
Chương V : Bàn về Tân Ước
Chương VI : Trình bày ý nghĩa của Kinh Thánh đối với Giáo Hội qua mọi thời và mọi hoàn cảnh

1.             Mục đích
Dựa vào câu nói của thánh Gioan : Chúng tôi loan truyền cho anh em sự sống đời đời đã có nơi Chúa Cha và đã hiện
đến với chúng tôi (1 Ga 1,2­3) và noi gương Công đồng Trentô và Vaticanô I, Công đồng Vaticanô II nhắm trình bày giáo
lý chân thật về mặc khải.
Mục đích thứ hai của văn kiện được diễn tả như sau : “Để khi nghe công bố ơn cứu độ, toàn thể nhân loại tin theo,
để nhờ tin mà hy vọng và nhờ hy vọng mà yêu mến”.

2.             Chương I : Về chính việc mặc khải
Chương thứ nhất của Hiến chế trả lời : đó là sứ điệp kitô giáo về sự cứu độ. Đây không phải là một khảo luận khoa
học hay một phóng sự lịch sử, cũng không phải là một chân lý thuần lý, nhưng là lời loan báo Tin mừng : Thiên Chúa yêu
thương ta và cứu độ chúng ta nơi Đức Giêsu Kitô.
Công  đồng  Vaticanô  II  đã  trình  bày  “đạo”  cho  chúng  ta  trong  ngôn  ngữ  những  “tương  quan”  giữa  các  ngôi  vị.  Công
đồng đặt chúng ta không phải đối diện với một công thức phải học nhưng là đối diện với một Ai đó. Một Ai đó đang sống
và hành động. Một Ai đó mà sống và hành động chính là yêu thương, yêu thương đến độ thần hoá ta.
Như thế, mặc khải của Thiên Chúa là cái gì hơn hẳn một “nội dung” giáo lý ; mặc khải là một Gặp gỡ đang mời gọi ta
đón nhận ; là một Hành vi đòi hỏi ta đáp trả ; là một Lịch sử tình yêu lôi cuốn ta sống yêu thương.
Thiên  Chúa  đã  vui  lòng  mặc  khải  chính  bản  thân  mình  và  tỏ  cho  loài  người  biết  mầu  nhiệm  thánh  ý  Người  (Ep  1,9  ;
6,1). Nhờ vậy qua trung gian của Chúa Kitô, Ngôi lời nhập thể, loài người đến được với Chúa Cha, trong Chúa Thánh Thần.
Thiên Chúa nói với chúng ta đặc biệt trong Đức Kitô bằng hành động và lời nói. Các hành động bày tỏ, củng cố giáo
lý  và  những  điều  được  giải  thích  qua  lời  nói  ;  còn  lời  nói  thì  công  bố  các  việc  làm  và  khai  sáng  mầu  nhiệm  chứa  đựng
http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThuongHuan/ThuongHuan2005/Bai2.htm 2/14
3/23/2019 Hiến Chế Tín Lý Về Mặc Khải Của Thiên Chúa (Thường Huấn Linh Mục Đàlạt, Bài 2)

trong đó. Điều đáng chú ý : trong việc mặc khải của Thiên Chúa, Công đồng nhắc tới trước hết là hành động, sau đó mới
là lời nói, bởi vì tình yêu trước hết là những hành vi.
Mặc  khải  không  phải  bày  tỏ  một  số  chân  lý  trừu  tượng,  chỉ  có  liên  hệ  đến  lý  trí.  Nhưng  mặc  khải  có  tính  cách  linh
động  và  cứu  rỗi  :  Thiên  Chúa  hiến  thân  mình  cho  con  người,  để  thông  ban  sự  sống,  mặc  khải  nhằm  đưa  tới  Ơn  Cứu  rỗi.
Bởi  thế  về  phía  con  người,  đức  tin  sẽ  không  phải  chỉ  là  một  hành  động  của  lý  trí,  nhưng  là  sự  hiến  thân  cho  Thiên  Chúa
của Giao ước.
Thiên Chúa tự mặc khải mình ra dưới 2 hình thức. (số 3)

a.               Tự nhiên :
Thiên Chúa ghi vào trong mọi vật (trong vũ trụ và trong lịch sử) nghĩa là bằng việc sáng tạo, một dấu chứng về mình
(Rm 1,19­20).

b.   Siêu nhiên :
Thiên Chúa tỏ mình ra cho :

     Tổ tông (St 3,15)

     Các tổ phụ như Abraham (St 12,2­3)

     Các tiên tri để loài người nhận biết Người là Thiên Chúa duy nhất, hằng sống và chân thật, là Cha quan phòng và

là thẩm phán chí công.

     Sau hết Người nói với ta qua trung gian Con của Người (Dt 1,1­2), Đức Giêsu Kitô, Đấng đã mặc khải những điều

kín nhiệm nơi Thiên Chúa (Ga 1,1­18). Sự chết và sự sống lại của Đức Kitô và việc sai phái Chúa Thánh Thần là
dấu chứng thần thiêng cho Thiên Chúa ở với chúng ta để giải thoát chúng ta khỏi bóng tối tội lỗi và chết rồi phục
sinh chúng ta để chúng ta được sống đời đời (số 4)
Nhiệm  cục  Kitô  giáo  và  là  giao  ước  mới  và  vĩnh  viễn  sẽ  không  bao  giờ  mai  một.  Chúng  ta  không  phải  chờ  đời  một
mặc khải công cộng nào khác nữa trước khi Chúa Giêsu Kitô hiện đến trong vinh quang (1Tm 6,14 ; Tt 2,13).
Để đón nhận mặc khải, con người cần đến đức tin và lý trí :
1) Vai trò của đức tin : Đối với Thiên Chúa mặc khải, con người phải bày tỏ “sự tùng phục của đức tin” (Rm 16,25).
Đức tin là một động tác của toàn diện con người (lý trí và ý chí). Động tác ấy được ơn Chúa khơi động và nâng đỡ
(MK 5).
2)  Vai  trò  của  lý  trí  :  Mặc  khải  siêu  nhiên  là  một  động  tác  của  tự  do  và  là  một  ân  huệ  của  Thiên  Chúa.  Nó  có  đối
tượng  là  chính  Thiên  Chúa  và  các  dự  tính  của  Người  và  có  mục  đích  là  cho  con  người  tham  dự  vào  đời  sống  của
Thiên Chúa. Vì thế nó siêu nhiên, nghĩa là siêu vượt những khả thể của bản tính tự nhiên. Tuy vậy, với ánh sáng tự

http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThuongHuan/ThuongHuan2005/Bai2.htm 3/14
3/23/2019 Hiến Chế Tín Lý Về Mặc Khải Của Thiên Chúa (Thường Huấn Linh Mục Đàlạt, Bài 2)

nhiên của lý trí, con người có thể từ các tạo vật, nhận biết một cách chắc chắn có Thiên Chúa chân thật. Mặc khải
giúp cho lý trí đạt tới kiến thức đó một cách dễ dàng hơn (MK 6).

3.             Chương II : Sự lưu truyền Mặc Khải
a.               Việc lưu truyền (MK 7)
1) Từ Chúa Kitô đến các Tông đồ
Vì ơn cứu rỗi của loài người, Thiên Chúa đã ân cần sắp đặt để cho mặc khải được bảo toàn nguyên vẹn và lưu truyền
cho mọi thế hệ.
Bởi thế Chúa Kitô, Đấng hoàn tất mặc khải (Chúa Giêsu là chủ sự và đối tượng của mặc khải) (2Cr 1,20 ; 3,16 ; 4,6)
sau khi đã thực hiện và công bố Tin Mừng đã truyền cho các Tông đồ giảng dạy (Mt 28,19­20). Các Tông đồ và các phụ tá
(người người viết sách Tin Mừng) đã thực hiện mệnh lệnh đó bằng việc rao giảng, bằng gương sống và bằng các thể chế.
2) Từ các Tông đồ tới Giáo Hội
Để Phúc Âm được giữ gìn toàn vẹn và sống động trong Giáo Hội, các Tông đồ đã để lại những người kế vị, tức là các
Giám mục và trao cho họ quyền giáo huấn.
3) Từ Giáo Hội đến với mọi người
Thánh  truyền  đó  cùng  với  Kinh  Thánh  (Cựu  Ước  và  Tân  Ước)  là  như  tấm  gương  nhờ  đó  mà  Giáo  Hội  chiêm  ngưỡng
Thiên Chúa cho đến khi được thấy Người diện đối diện (1Ga 3, 2).
Nhờ thánh truyền và Kinh Thánh và có được một sợi dây liên tục từ Chúa Kitô đến chúng ta.

b.               Thánh Truyền (MK 8)
1) Nội dung
Truyền thống là những điều các Tông đồ đã lãnh nhận từ nơi Chúa và nay truyền lại để góp phần vào việc giúp dân
Thiên Chúa sống một đời thánh thiện và làm tăng trưởng đức tin. Thực vậy các Tông đồ khuyến cáo các tín hữu phải gìn
giữ các truyền thống đã học biết bằng lời chỉ giáo và bằng thư từ (2Tx 2,15) và phải chiến đấu để bảo vệ đức tin.
2) Sự tiến triển
Thánh truyền do các Tông đồ truyền lại tiếp tục tiến triển trong Giáo Hội dưới sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần : các
sự việc, các lời nói truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn, nhờ sự chiêm ngưỡng, học hỏi của các tín hữu, sự suy tư và lời
giảng dạy của các Giám mục.
MK 10 phân biệt nhiệm vụ bảo tồn thánh truyền là chung cho toàn Giáo Hội và nhiệm vụ truyền đạt một cách chính
thức là của giáo quyền.
3) Tầm quan trọng

http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThuongHuan/ThuongHuan2005/Bai2.htm 4/14
3/23/2019 Hiến Chế Tín Lý Về Mặc Khải Của Thiên Chúa (Thường Huấn Linh Mục Đàlạt, Bài 2)

Nhờ vậy Thiên Chúa không ngừng nói với loài người. Qua trung gian của Giáo Hội, Người tỏ cho biết toàn bộ chính lục
Kinh Thánh, và với sự trợ lực của Thánh Thần, Người soi sáng cho hiểu ý nghĩa thâm sâu của chúng.

c.               Tương quan giữa Kinh Thánh, Thánh Truyền và Giáo Hội
1) Thánh truyền và Kinh Thánh
Trước đây người ta thường tách biệt một cách giả tạo Thánh Truyền và Kinh Thánh và xem đó là “hai nguồn của mặc
khải”. Điều đó làm ta quên rằng Kinh Thánh (điều được ghi chép) phát xuất từ thánh truyền (điều truyền miệng) cấu tạo,
tức là lời rao giảng của các Tông đồ.
Công  đồng  muốn  nhấn  mạnh  rằng  :  Kinh  Thánh  và  Truyền  Thống  trong  Giáo  Hội  đều  phát  xuất  từ  một  nguồn  mặc
khải là Chúa Giêsu, qua sự chuyển đạt của các Tông đồ. Lời Thiên Chúa là nguồn duy nhất từ đó các dòng nước chảy đến
với  chúng  ta,  qua  hai  con  kênh  khác  nhau  là  Truyền  Thống  và  Kinh  Thánh.  Cả  hai  đều  cùng  những  dòng  nước  như  nhau,
mỗi bên đều đầy đủ như nhau, và những dòng nước bên này với những dòng nước bên kia vẫn không ngừng thông thương
với nhau.
Kinh Thánh giữ một vai trò ưu đãi là làm chỗ quy chiếu và làm thức ăn cho toàn thể đức tin. Truyền thống có vai trò
ưu đãi là bảo tồn và giải thích Kinh Thánh. Nhưng cả hai đều không phải là chính Nguồn.
2) Thánh Truyền, Kinh Thánh và Giáo Hội (MK 10)
Mặc  khải  là  gia  sản  của  toàn  thể  dân  Chúa.  Các  tín  hữu  cũng  như  các  chủ  chăn  phải  tỏ  ra  tích  cực  trong  việc  tuân
giữ, thực hành và tuyên xưng đức tin lưu truyền.
Như vậy, toàn thể dân Chúa có nhiệm vụ bảo tồn Lời Chúa. Giáo thuyết này là một bước tiến so với Vaticanô I.
Nhiệm vụ giải thích Lời Chúa được viết ra hay được lưu truyền, chỉ được ủy thác cho quyền giáo huấn sống động của
Giáo Hội và Giáo Hội thi hành quyền đó nhân danh Đức Giêsu Kitô.
Quyền giảng dạy của Giáo Hội không nằm trên Lời Chúa nhưng phục vụ Lời Chúa.
Bởi  thế  Thánh  Truyền,  Thánh  Kinh  và  Giáo  Vụ  liên  kết  và  phối  hợp  với  nhau  :  Kinh  Thánh  không  bao  gồm  hết  cả
Thánh  Truyền,  và  Thánh  Truyền  không  phải  là  phụ  trương  cho  Kinh  Thánh,  có  tính  cách  thêm  thắt  số  lượng  phải  biết  :
Thánh Truyền và Thánh Kinh đều mang lời duy nhất của Thiên Chúa, cả hai soi sáng cho nhau và cũng được phục vụ bởi
Huấn quyền. Huấn quyền này nối dài sứ vụ của các Tông đồ.

4.             chương III : Linh hứng của Thiên chúa và việc giải thích Kinh Thánh
a.               Linh hứng và sự thật của Kinh Thánh (MK 11)
Các điều do Thiên Chúa mặc khải mà Kinh Thánh chứa đựng và trình bày, đều đã được ghi lại dưới ơn Thánh khí hứng
khởi. Các sách Cựu Ước và Tân Ước toàn bộ cũng như mọi phần, Mẹ thánh Giáo Hội, do bởi đức tin khơi nguồn từ các Tông
đồ, nhìn nhận là Sách thánh thuộc qui điển. Bởi vì đã được chép ra do Thánh Thần linh hứng (Ga 20, 31 ; 2Tm 3,16 ; 2Pr
1,19­21 ; 3,15­16). Các sách ấy có Thiên Chúa làm tác giả và theo tư cách ấy, đã được trao tay cho Giáo Hội.
1) Bản chất của linh hứng
http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThuongHuan/ThuongHuan2005/Bai2.htm 5/14
3/23/2019 Hiến Chế Tín Lý Về Mặc Khải Của Thiên Chúa (Thường Huấn Linh Mục Đàlạt, Bài 2)

Linh hứng có nghĩa là :

     chính Thiên Chúa là tác giả của các sách thánh ;

     nhưng trong việc soạn tác các sách ấy, Thiên Chúa đã chọn người ta và đã dùng họ vào việc ấy “với những khả

năng và phương tiện nhân bản của họ” ;

       có  Thiên  Chúa  hoạt  động  trong  họ  và  qua  họ,  những  người  nay  như  những  tác  giả  chính  hiệu,  viết  ra  những  gì

Chúa muốn và chỉ viết những điều này thôi.
Đừng quan niệm Thiên Chúa “đọc chính tả” cho các tác giả thánh, như người ta đọc một bài văn cho thư ký. Ơn thần
hứng tác động từ bên trong. Tác giả nhân loại là dụng cụ của Thiên Chúa, nhưng vẫn là tác giả đích thực. Con người được
thần hứng vẫn làm chủ mọi khả năng hiểu biết và tự do của mình vì Thiên Chúa dùng đến con người mà vẫn tôn trọng các
khả năng của họ. Có thể nói, nhờ thần hứng mà các khả năng của họ hoạt động tăng gấp bội.
2) Sự thật Kinh Thánh
“Kinh  Thánh  dạy  ta  cách  chắc  chắn,  trung  thành  và  không  sai  lầm  sự  thật  mà  vì  phần  rỗi  chúng  ta,  Thiên  Chúa  đã
muốn cho ghi lại trong văn tự Kinh Thánh”. Phải lưu ý :

       Câu  này  không  có  ý  phân  biệt  “những  chân  lý  cứu  độ”  và  “những  chân  lý  không  cứu  độ”,  những  phần  đúng  và

những  phần  sai  trong  Kinh  Thánh.  Kinh  Thánh  nghĩa  là  Lời  Chúa,  là  chân  lý  trong  toàn  bộ,  nhưng  sự  thật  mà  ta
phải  tìm  trong  Kinh  Thánh  là  sự  thật  về  ơn  cứu  rỗi,  chứ  không  phải  bất  cứ  sự  chính  xác  nào  xét  về  mặt  phàm
tục. “Tính vô ngộ” của Kinh Thánh mà người ta thường nói tới có nghĩa là Kinh Thánh không thể sai lầm trên bình
diện “phần rỗi”. Vậy muốn phê phán sự thật hay sự sai lầm, Hiến chế dạy độc giả của Kinh Thánh phải đặt mình
trên bình diện thần học và tôn giáo, bình diện của mặc khải về kế hoạch cứu rỗi của Thiên Chúa.

     Khi đã nhận rõ ý định cơ bản, chính xác của mặc khải, tức là sự thật về ơn cứu rỗi, ta phải có thái độ nào đối với

phạm vi này khác mà Kinh Thánh có thể đụng chạm đến ?
Xét  về  những  điều  thuộc  khoa  học  vạn  vật  :  các  tác  giả  Kinh  Thánh  nói  đến  trời  đất  như  kiểu  người  bình  dân,  như
đúng về giác quan thấy được, theo thời buổi của các ngài. Có những sự thiếu chính xác (Lv 11,6 xếp loại thỏ vào loại nhai
lại), đó là vì mức độ hiểu biết thô sơ của thời ấy.
Xét về lịch sử, mục đích của các tác giả thánh không phải là kể lại các biến cố dĩ vãng cho thật đúng theo năm tháng
ngày giờ (đó là lý tưởng của sử học vào cuối thế kỷ 19 ; khách quan của sử học lấy mẫu nơi sự khách quan của vật lý),
nhưng là diễn tả ý nghĩa của chúng, tức là tương quan của chúng với mầu nhiệm cứu rỗi.

b.               Việc giải thích Kinh Thánh
Tác  giả  thánh  là  tác  giả  đích  thực  và  Thiên  Chúa  cũng  là  tác  giả  theo  một  kiểu  khác.  Bởi  thế,  muốn  giải  thích  Kinh
Thánh cần phải theo hai nguyên tắc :

http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThuongHuan/ThuongHuan2005/Bai2.htm 6/14
3/23/2019 Hiến Chế Tín Lý Về Mặc Khải Của Thiên Chúa (Thường Huấn Linh Mục Đàlạt, Bài 2)

     Cẩn thận tìm hiểu điều các tác giả thánh muốn trình bày ;

     Tìm hiểu điều mà Thiên Chúa muốn diễn tả qua lời lẽ của họ

1) Tìm kiếm điều mà các tác giả thánh muốn trình bày
Muốn thế phải tìm hiểu :

       Hoàn cảnh lịch sử : các tác giả thánh nói với người đương thời trước khi nói với ta. Bởi thế cần phải biết ai nói,

tác giả sống vào thời nào, tác giả nói với ai, hoàn cảnh sống của dân Chúa lấy ấy thế nào, bối cảnh văn hóa thế
nào.

       Các thể văn : sự thật được trình bày và diễn tả nhiều cách khác nhau, trong các bản văn lịch sử, hoặc tiên tri,

hoặc  thi  phú,  hoặc  thể  văn  nào  khác.  Biết  bao  nhiêu  kiểu  người  ta  dùng  để  diễn  lại  quá  khứ  nhân  loại  hay  nòi
giống, dân tộc. Truyền kỳ và anh hùng ca khác với ký sự do một chứng nhân nhãn tiền, tuy cũng đều ghi lại các
ký ức có thực thời xưa. Trong khoảng cách giữa hai kiểu văn loại lịch sử này, còn có bao nhiêu kiểu văn nối giữa
: truyện tầm nguyên, truyện dạy đời, lịch sử luận đề. Trong Kinh Thánh cũng thế, phải biết tác giả viết thế nào
về lịch sử.
2) Tìm hiểu điều Thiên Chúa muốn cho biết
Công việc truy tầm có tính cách lịch sử và văn học, tuy cần thiết nhưng cũng chưa đủ : “vì Kinh Thánh được viết ra
bởi Chúa Thánh Thần, nên cũng phải được đọc và giải thích trong Chúa Thánh Thần”. Nhà chú giải cũng phải được hướng
dẫn bởi một Thánh Thần đã linh hứng các tác giả thánh. Muốn tìm hiểu ý của Thánh Thần “chúng ta phải ân cần lưu ý đến
nội dung và sự thống nhất toàn bộ Kinh Thánh, dựa trên truyền thống sống động của Giáo Hội, và trên sự tương hợp toàn
bộ đức tin”.

       Nội  dung  và  sự  thống  nhất  của  toàn  bộ  Kinh  Thánh  :  Tuy  có  nhiều  tác  giả  nhân  loại,  nhưng  chỉ  có  một  tác  giả

chính  yếu  là  Thiên  Chúa.  Điều  đó  có  nghĩa  là  Kinh  Thánh  làm  nên  một  toàn  bộ  duy  nhất,  mặc  khải  một  chương
trình duy nhất của Thiên Chúa, một chương trình được thực hiện dần dần trong thời gian. Toàn bộ Kinh Thánh, sự
duy  nhất  của  Thiên  Chúa,  đó  là  công  việc  giáo  dục  của  Thiên  Chúa  để  dẫn  loài  người  từng  bước  một  tới  con
đường  gặp  biết  Chúa  Kitô  và  sự  sống  trong  Người.  Bởi  thế  người  chú  giải  Kinh  Thánh  phải  ý  thức  tới  tính  cách
tiệm tiến của mặc khải.

       Truyền  thống  sống  động  :  Phải  nhớ  lại  những  điều  đã  nói  trong  chương  II  về  tương  quan  giữa  Kinh  Thánh  và

Truyền Thống. Lời Chúa được lưu truyền, trước tiên không phải nhờ sách thánh mà là nhờ “đoàn dân Thiên Chúa
chọn” sống và loan báo, tức là truyền thống sống động, rồi sau mới có sách thánh. Và khi sách thánh có rồi, thì
cũng  chính  đoàn  dân  mang  theo.  Tóm  lại,  sinh  hoạt  công  cộng  của  dân  Chúa  chọn  (lời  giảng  dạy,  nghi  lễ  phụng
vụ,  kinh  nguyện  trong  gia  đình…)  là  con  đường  thứ  nhất  nhờ  đó  Lời  Chúa  đến  cho  người  ta.  Bởi  thế,  đối  với  ta

http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThuongHuan/ThuongHuan2005/Bai2.htm 7/14
3/23/2019 Hiến Chế Tín Lý Về Mặc Khải Của Thiên Chúa (Thường Huấn Linh Mục Đàlạt, Bài 2)

hôm  nay,  không  thể  cắt  nghĩa  trọn  vẹn  Kinh  Thánh  nếu  không  quan  tâm  đến  truyền  thống  của  các  Tông  đồ,  lời
giảng của các thánh giáo phụ.

       Sự tương hợp giữa đức tin (analogia fidei) Mọi lời khẳng quyết của mặc khải phải được hiểu trong ánh sáng của

toàn bộ đức tin – đức tin khách quan duy nhất – của Giáo Hội.

     Phán quyết của Giáo Hội “Mọi điều liên hệ đến việc giải thích Kinh Thánh cuối cùng đều phải tùy thuộc vào phán

quyết của Giáo Hội, vì Giáo Hội được Thiên Chúa giao cho sứ mạng và chức vụ gìn giữ và giải thích Lời Chúa” (Mc
16,16 ; Mt 28,18­20)

c.               Sự hạ mình của Thiên Chúa
“Trong  Kinh  Thánh,  sự  hạ  mình  kỳ  diệu  của  Đấng  Khôn  ngoan  muôn  đời  được  tỏ  lộ”  :  Thiên  Chúa  chấp  nhận  “những
yếu đuối” của ngôn ngữ loài người, cũng như Ngôi Lời đã chấp nhận sự yếu đuối của xác phàm.

5.             Chương IV : Cựu Ước (MK 14­16)
a.               Lịch sử cứu độ (MK 14)
Cựu Ước được hiểu theo hai nghĩa :

     Kế hoạch của Thiên Chúa trong thời kỳ trước khi Chúa Kitô đến ;

     Quyển sách ghi chép lại thời kỳ ấy.

1) Cựu Ước là lịch sử của dân Do Thái
Thiên Chúa đã mặc khải bằng những biến cố trong lịch sử của dân Do Thái. Lời đã có trước sách : “Thiên Chúa chí ái,
khi cần trù liệu và chuẩn bị việc cứu độ toàn thể nhân loại theo một kế hoạch lạ lùng, Người đã tuyển chọn một dân tộc
để ủy thác những lời ước hẹn”.
Lịch sử Cựu Ước gồm nhiều giai đoạn :

     Các tổ phụ : giao ước mới được ký kết với một người là Abraham (St 15,18) ;

     Môsê : giao ước được ký kết với toàn dân Israel (Xh 24,8) ;

     Tiên tri : sau Môsê, Thiên Chúa còn dùng nhiều tiên tri để làm sáng tỏ hơn ý định của Người.

Ý  định  của  Thiên  Chúa  là  “cứu  độ  toàn  thể  nhân  loại”.  Việc  lựa  chọn  dân  Israel  nhằm  tới  ý  định  phổ  độ  ấy.  Bởi  thế
Israel  sau  khi  đã  “nghiệm  thấy  đâu  là  đường  lối  Thiên  Chúa”,  có  sứ  vụ  làm  chứng  cho  Thiên  Chúa  giữa  các  dân  tộc  (Tv
22,28­29 ; Is 2,1­4 ; Gr 3,17)
2) Bộ sách
http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThuongHuan/ThuongHuan2005/Bai2.htm 8/14
3/23/2019 Hiến Chế Tín Lý Về Mặc Khải Của Thiên Chúa (Thường Huấn Linh Mục Đàlạt, Bài 2)

Cựu Ước là “Lời chân thật của Thiên Chúa”. Các sách ấy được Thiên Chúa linh hứng và có giá trị vĩnh cửu.

b.                Tầm quan trọng của Cựu Ước đối với các Kitô hữu (MK 25)
1) Tương quan giữa Cựu Ước và Tân Ước
Nhiệm  cuộc  cứu  rỗi  theo  Cựu  Ước  có  mục  đích  chuẩn  bị,  loan  báo  qua  các  sấm  ngôn  (1Pr  1,10)  và  biểu  thị  qua  các
hình ảnh (1Cr 10,11) Đức Kitô cứu thế và vương quốc của Người. Chính Chúa Giêsu chỉ rõ cho ta thấy ý nghĩa ấy của Cựu
Ước (Lc 24,44 ; Ga 5,39).
2) Bản tính của các sách Cựu Ước
Các sách có “trình bày cho mọi người biết Thiên Chúa là ai và con người là ai, đồng thời cách Thiên Chúa đối xử công
bằng và nhân hậu với mọi người”.
Các  sách  ấy  phản  ảnh  khoa  sư  phạm  của  Thiên  Chúa.  Thiên  Chúa  giáo  dục  loài  người  một  cách  tiệm  tiến,  tùy  theo
hoàn  cảnh  của  họ.  Ví  dụ  :  niềm  hy  vọng  vào  đời  sống  vĩnh  cửu  chỉ  xuất  hiện  hai  thế  kỷ  trước  Chúa  Kitô.  Bởi  thế  nhiều
đoạn trong Cựu Ước đề cao thứ hạnh phúc ở trần gian. Luật “mắt đền mắt, răng đền răng” không trái với điều “ngươi phải
yêu thương thù địch”, luật đền bù giới hạn sự báo thù và chuẩn bị cho luật yêu thương. Bởi thế Cựu Ước còn mang nhiều
điều “khiếm khuyết và tạm bợ” mà con người phải trải qua để tiến tới Chúa Kitô.
3) Thái độ của các Kitô hữu
Các Kitô hữu phải thành kính đón nhận các sách này. Chúng hàm chứa :

 Một cảm thức sống động và những lời giảng dạy cao siêu về Thiên Chúa ;
    

 Một lối sống khôn ngoan cho cuộc sống nhân sinh ;
    

 Những kho tàng kinh nguyện tuyệt diệu (các Thánh vịnh) ;
   

 Mầu nhiệm cứu rỗi chúng ta.
   

c.               Tính cách duy nhất của hai giao ước (MK 16)
Mỗi  giao  ước  được  tàng  ẩn  trong  giao  ước  kia  và  được  sáng  tỏ  nhờ  giao  ước  kia.  “Thiên  Chúa,  Đấng  linh  hứng  và  là
tác giả các sách Cựu Ước cũng như Tân Ước đã khôn ngoan sắp xếp cho Tân Ước được tiềm ẩn trong Cựu Ước, và Cựu Ước
trở  nên  sáng  tỏ  trong  Tân  Ước.  Thật  vậy,  dù  Đức  Kitô  thiết  lập  giao  ước  trong  máu  Người,  nhưng  các  sách  Cựu  Ước  vẫn
được sử dụng trọn vẹn trong sứ điệp Phúc Âm, đạt được và bày tỏ đầy đủ ý nghĩa trong Tân Ước. Ngược lại, Tân Ước cũng
được sáng tỏ và giải thích nhờ Cựu Ước”.

6.             Chương V : Tân Ước
a.               Thời viên mãn đến (MK 17)

http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThuongHuan/ThuongHuan2005/Bai2.htm 9/14
3/23/2019 Hiến Chế Tín Lý Về Mặc Khải Của Thiên Chúa (Thường Huấn Linh Mục Đàlạt, Bài 2)

Lời của Thiên Chúa biểu lộ một cách tuyệt diệu quyền năng của Người trong các sách Tân Ước.
Trước  hết  Tân  Ước  là  chính  Chúa  Giêsu  và  công  trình  của  Người.  Khi  thời  viên  mãn  đến,  Ngôi  Lời,  đầy  ân  sủng  và
chân lý, đã làm người và ở giữa chúng ta. Bằng hành động và ngôn ngữ Người đã mặc khải Chúa Cha và bản thân mình.
Chính Người thiết lập Nước Thiên Chúa trên trần gian.
Mầu  nhiệm  này  (tức  là  Chúa  Kitô  và  công  trình  của  Người)  chưa  bao  giờ  được  tỏ  ra  cho  các  thế  hệ  khác,  nay  được
mặc khải trong Thánh Thần (Ep 3,4­6) cho các Tông đồ và các tiên tri để họ rao giảng Phúc Âm, cổ võ niềm tin vào Đức
Giêsu và qui tụ Giáo Hội.
Các văn bản Tân Ước là chứng tá vĩnh viễn và thần linh về các sự việc ấy.

b.               Các Sách Phúc Âm
Trong tất cả các sách thánh, kể cả các sách Tân Ước, thì các sách Phúc Âm đáng giữ địa vị ưu đẳng, vì là chứng tá
chính yếu về đời sống và đạo lý của Ngôi Lời nhập thể.
1) Nguồn gốc Tông đồ (MK 18)
Các sách Phúc Âm bắt nguồn từ các Tông đồ. Theo lệnh Chúa Kitô các Tông đồ đã rao giảng. Sau đó các Ngài và các
cộng  sự  viên  của  các  ngài  được  Chúa  Thánh  Thần  linh  hứng  để  ghi  chép  lại  lời  giảng  ấy  dưới  hình  thức  “theo  thánh
Matthêu, Maccô, Luca và Gioan”.
Như vậy tuy có bốn quyển sách (4 hình thức) nhưng chỉ có một Tin Mừng : giá trị của Tin Mừng ấy dựa trên chứng tá
của các Tông đồ là những người mắt thấy tai nghe, lại được lãnh ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần.
2) Lịch sử tính của các sách Phúc Âm (MK 19)
a/ Lịch sử tính của Phúc Âm mang chiều kích tôn giáo
“Mẹ thánh Giáo Hội luôn luôn quả quyết lịch sử tính của bốn Phúc Âm…”
Số  12  đã  trình  bày  là  có  nhiều  văn  loại  lịch  sử  khác  nhau.  Phải  nghiên  cứu  văn  loại  của  từng  đoạn  để  xác  định  các
tác giả muốn nói gì.
Các  sách  Phúc  Âm  cũng  là  một  loại  văn  lịch  sử.  Chúng  truyền  đạt  cho  ta  “những  điều  chân  thật  và  trung  thực”  về
Chúa Giêsu.
Nhưng  lịch  sử  ở  đây  không  phải  là  một  bản  phúc  trình  về  các  biến  cố  đã  qua  theo  quan  niệm  thực  nghiệm  hiện  đại,
nhưng là một chứng tá, một lời rao giảng về những sự kiện liên hệ đến ơn cứu độ. Chứng tá ấy được công bố bởi các Tông
đồ, “sau khi đã được hiểu biết cách đầy đủ hơn… nhờ các biến cố vinh hiển của Chúa Kitô và ánh sáng của thần chân lý”.
Vậy các sách Phúc Âm không phải là lịch sử có tính cách giai thoại, nhưng là lịch sử có tính cách tôn giáo.
b/ Phương cách soạn thảo các sách Phúc Âm
Trong  kho  tàng  phong  phú  được  truyền  lại  bằng  miệng  hay  bằng  sách  vở,  các  tác  giả  đã  chọn  những  chất  liệu  thích
hợp hơn cả cho mục đích của các ngài, tóm tắt lại các sự việc khác hoặc giải thích thêm tùy theo hoàn cảnh của các giáo
đoàn. Công việc ấy được thực hiện một cách chân thành và phù hợp với sự thực.
http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThuongHuan/ThuongHuan2005/Bai2.htm 10/14
3/23/2019 Hiến Chế Tín Lý Về Mặc Khải Của Thiên Chúa (Thường Huấn Linh Mục Đàlạt, Bài 2)

Công đồng nói rõ là các tác giả đã thích ứng trong cách diễn đạt với tình trạng của Giáo Hội và “đã giữ hình thức của
bài giảng thuyết”, nghĩa là các ngài đã viết ra với mục đích phục vụ việc rao giảng Tin Mừng. Như vậy chúng ta tìm thấy
trong các sách Phúc Âm bài tường thuật về các biến cố.
Như  vậy  khi  viết  Phúc  Âm,  các  tác  giả  hoặc  đã  ghi  lại  những  kỷ  niệm  riêng  tư  (Mt,  Ga)  hoặc  đã  dựa  trên  chứng  tá
của những người “đã chứng kiến từ buổi đầu và trở nên tôi tớ của Lời Chúa” (Lc, Mc). Do đó đức tin của chúng ta hôm nay
có một giá trị khách quan (Lc 1,1­4).

c.               Những di cảo khác của các Tông đồ (MK 20)
Ngoài  các  sách  Phúc  Âm,  Công  đồng  nhắc  vắn  tắt  các  thư  của  thánh  Phaolô  và  các  sách  được  linh  hứng  khác  trong
Tân Ước. Những di cảo này có nội dung :

     Thần học : “Bổ chứng những gì đã được nói về Chúa Kitô, trình bày giáo lý đích thực của Người ngày một rõ ràng

hơn”. Công đồng chấp nhận có sự tiến triển nội tại của Tân Ước, đặc biệt trong Kitô học và Giáo Hội học.

     Giảng thuyết : “Rao truyền sức mạnh cứu độ của công trình thần linh của Chúa Kitô”.

     Lịch sử : “Kể lại những bước đầu và sự bành trướng kỳ diệu của Giáo Hội” (Cv)

     Tiên tri : “Tiên báo sự kết thúc vinh hiển của Giáo Hội” (Kh)

7.             Chương VI : Kinh Thánh trong Đời sống Giáo Hội
a.               Ý nghĩa của đầu đề
Trong bản thảo đầu tiên, chương VI mang đầu đề “Kinh Thánh trong Giáo Hội” (De Sacra Scriptura in Ecclesia). Đầu
đề  này  quá  tổng  quát.  Trong  bản  thảo  II,  đầu  đề  là  “Việc  sống  Kinh  Thánh  trong  Giáo  Hội”.  Đầu  đề  này  lại  quá  tầm
thường.  Đầu  đề  hiện  thời  “Kinh  Thánh  trong  đời  sống  Giáo  Hội”  tiêu  biểu  quan  điểm  hiện  thời  của  Giáo  Hội  đối  với  Kinh
Thánh  :  Kinh  Thánh  phải  là  yếu  tố  căn  bản  trong  đời  sống  Giáo  Hội  và  Công  đồng  muốn  khích  lệ  làm  sao  để  cho  Kinh
Thánh dần dần phải trở thành như thế.

b.               Phân tích các ý tưởng của bản văn
1) Thái độ của Giáo Hội đối với Kinh Thánh (21)
Trước hết Công đồng muốn nói lên thái độ cụ thể của Giáo Hội đối với Kinh Thánh :

       Tuân  phục  :  Giáo  Hội  tuân  phục  Kinh  Thánh  vì  đó  là  Lời  Chúa  và  xem  Kinh  Thánh  cùng  với  thánh  truyền  là  “qui

luật tối cao của đức tin”. Bởi thế Kinh Thánh là nguồn mạch mọi lời giảng dạy và của đời sống thiêng liêng.

     Tôn kính : Giáo Hội tôn kính Kinh Thánh “như chính thân thể Chúa”.

http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThuongHuan/ThuongHuan2005/Bai2.htm 11/14
3/23/2019 Hiến Chế Tín Lý Về Mặc Khải Của Thiên Chúa (Thường Huấn Linh Mục Đàlạt, Bài 2)

Việc  so  sánh  Kinh  Thánh  với  Bí  tích  Thánh  Thể  đã  gặp  nhiều  chống  đối  vì  một  số  nghị  phụ  nghĩ  rằng  những  khuynh
hướng tân thời muốn đặt nhẹ sự hiện diện của Chúa trong Thánh Thể và hình như được bản văn này khuyến khích. Nhưng
bản văn vẫn được dùng tới vì sự so sánh này có tính cách cổ truyền. Các thánh giáo phụ ngày xưa và về sau Sách Gương
Chúa Giêsu (quyển IV, Ch. II) đã nối kết Kinh Thánh với phép Thánh Thể và xem Kinh Thánh như một thứ bí tích (x. F.X.
Durwell,  Đức  Kitô  Cứu  Thế,  tr.  49­68).  Các  thánh  giáo  phụ  đã  xem  Kinh  Thánh  như  việc  nhập  thể  lần  nhất  của  Ngôi  Lời
dưới tác động của Thánh Thần. Trong lòng Đức Maria, Ngôi Lời đã mặc lấy thân xác loài người. Nhưng trước đó, cũng dưới
tác động của Thánh Thần, nơi các tác giả thánh, tư tưởng độc đáo của Thiên Chúa tức là Ngôi Lời đã trở thành tư tưởng
của loài người.
Các  thánh  giáo  phụ  không  những  đã  so  sánh  Kinh  Thánh  với  việc  nhập  thể,  mà  còn  so  sánh  với  Bí  tích  Thánh  Thể.
Thánh  Ignatiô  thành  Antiôkia  nói  :  “Tôi  đến  ẩn  mình  ở  trong  Phúc  Âm  như  trong  thân  thể  Đức  Kitô”.  Thánh  Giêrôm  nói  :
Riêng  tôi,  tôi  nghĩ  rằng  thân  thể  Đức  Giêsu  cũng  chính  là  Phúc  Âm  của  Ngài…  bánh  của  Đức  Kitô  và  thịt  của  Ngài  cũng
chính là lời sách thánh và giáo lý bởi trời”.
Cảm kích vì sự giống nhau ở giữa hai bí tích hiện diện của Kinh Thánh, Giáo Hội ở những thế kỷ đầu vẫn cất giữ Bánh
thánh  và  Sách  thánh  ở  cùng  một  nơi,  đặt  trên  hai  bàn  kề  nhau  và  mời  tín  hữu  đến  ngồi  vào  cả  hai  bàn  để  được  nuôi
dưỡng nhờ Chúa Cứu thế và nhờ ơn cứu độ của Ngài (Durwell, Sđd, tr. 55).
Thánh Phanxicô Assisi trong thế kỷ 13 muốn rằng các linh mục rao giảng Lời Chúa phải có thái độ cung kính như khi
cho  giáo  dân  chịu  lễ  ;  và  giáo  dân  khi  nghe  Lời  Chúa  phải  có  thái  độ  cung  kính  như  khi  rước  lễ,  vì  nghe  Lời  Chúa  là  tiếp
nhận một sự hiện diện của Chúa.
Công  đồng  cũng  xem  Kinh  Thánh  như  một  thứ  bí  tích.  Cũng  như  trong  Thánh  Thể,  trong  Kinh  Thánh  có  một  sự  hiện
diện sống động và đầy quyền năng của Chúa. Số 21 có câu : “Trong các sách thánh, Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng
trìu mến, đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ… Lời Chúa có một sức mạnh và quyền năng có thể nâng đỡ và tăng
cường Giáo Hội…” (Xem thêm MK 21.26 ; PV 51 ; LM 18).
Công đồng thường trình bày Kinh Thánh và Thánh Thể như hai bàn tiệc mà Thiên Chúa dọn ra cho con cái Người. Một
chi tiết đáng lưu ý : tại Công đồng, trong những phiên họp long trọng, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI rước quyển Phúc Âm và
đặt lên trên một cái ngai, chứ không phải một giá sách. Ý nghĩa : chủ tọa của phiên họp chính là Đức Kitô hiện diện trong
Phúc Âm. Và khi rước, Đức Giáo Hoàng cầm quyển Phúc Âm không phải là ngang ngực nhưng nâng cao ngang trán. Cử chỉ
ấy thực ra cũng phát xuất từ thời các giáo phụ.
2) Mở rộng lối vào Kinh Thánh cho dân Chúa (22)
Vì  sứ  điệp  của  Giáo  Hội  phát  xuất  từ  Lời  Chúa  được  ghi  chép  lại  trong  Kinh  Thánh  và  Kinh  Thánh  cũng  là  sức  mạnh
cho các linh hồn, nên Công đồng đặt vấn đề phải mở rộng lối vào Kinh Thánh cho các tín hữu. Vấn đề cụ thể ở đây là vấn
đề dịch thuật. Một bản dịch phải mang 2 đặc tính :

     Thích hợp : nghĩa là ngôn ngữ phải rõ ràng, hợp với thời đại ;

     Đúng đắn : tư tưởng trung thành với nguyên bản, chứ không phải chỉ với bản Vulgata !

http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThuongHuan/ThuongHuan2005/Bai2.htm 12/14
3/23/2019 Hiến Chế Tín Lý Về Mặc Khải Của Thiên Chúa (Thường Huấn Linh Mục Đàlạt, Bài 2)

Công đồng gợi ý nên có một bản dịch “được thực hiện chung với cả những anh em ly khai”. Gợi ý ấy đã đưa tới một
kết quả : T.O.B tại Pháp.
  3) Công việc Tông đồ của các nhà chú giải (23)
Để đào sâu Kinh Thánh, Công đồng nêu ra một số công việc cần phải xúc tiến :

     Tìm hiểu thêm các thánh giáo phụ Đông phương cũng như Tây phương và các phụng vụ thánh.

       “Các  nhà  chú  giải  công  giáo  và  những  người  khác  chuyên  về  thần  học  thánh  hãy  cộng  tác  với  nhau”  (collatis

sedulo viribus) và làm việc dưới sự hướng dẫn của huấn quyền.
Đáng lưu ý là Công đồng kêu gọi sự hợp tác chẳng những là giữa các nhà thần học công giáo mà còn với các anh em
Kitô hữu ly khai. Công việc ấy phải có mục đích mục vụ : lấy Lời Chúa nuôi dưỡng các tín hữu (23,3 câu đầu).
4) Kinh Thánh và thần học (24)
Kinh  Thánh,  cùng  với  thánh  truyền,  phải  trở  thành  “nền  tảng”  và  “linh  hồn”  của  khoa  thần  học  cũng  như  mọi  công
việc mục vụ (dạy giáo lý, mọi hình thức rao giảng).
Dựa theo tiêu chuẩn đó, Công đồng đã cải tổ lại việc dạy thần học trong các chủng viện (Sắc lệnh đào tạo linh mục,
16). Có thể nói trước Công đồng môn tín lý là quan trọng hơn cả. Bây giờ môn Kinh Thánh phải đứng hàng đầu, môn tín lý
đi sau, và trước hết nó phải là môn thần học Kinh Thánh. Sắc lệnh viết : “Phải đặc biệt chuyên lo dạy Kinh Thánh cho các
chủng  sinh,  vì  Kinh  Thánh  phải  như  linh  hồn  của  toàn  thể  khoa  thần  học…  Môn  tín  lý  thần  học  phải  được  phân  phối  theo
thứ tự này : trước hết trình bày chính các chủ đề Kinh Thánh”. Môn lịch sử cứu độ được Công đồng đặt vào chỗ danh dự :
“Những bộ môn thần học khác phải được canh tân nhờ tiếp xúc linh động hơn với mầu nhiệm Chúa Kitô và lịch sử cứu rỗi”
(ĐT 16). Công đồng muốn cho khoa thần học không phải là một sự suy tư trừu tượng nằm trong các ý niệm, nhưng là một
sự suy tư phải trở thành sự chiêm ngưỡng, một sự tiếp xúc sống động với Lời Chúa.
5) Việc đọc Kinh Thánh (25)
Để  cho  tất  cả  những  niềm  hy  vọng  đó  được  thực  hiện,  Hiến  chế  Mặc  khải  trong  số  cuối  cùng  mời  gọi  các  linh  mục,
các phó tế, và những giáo lý viên “phải gắn bó với Kinh Thánh nhờ việc chăm đọc và ân cần học hỏi”. Bản dịch Việt ngữ
chưa lột hết ý tưởng của Công đồng. Theo bản văn, việc đọc Kinh Thánh phải mang 3 sắc thái :

     Trước hết việc đọc Kinh Thánh phải có tính cách thiêng liêng, nghĩa là một sự suy gẫm đi đôi với lời cầu nguyện.

Số  25  nói  ở  sau  :  “Mọi  người  cũng  nên  nhớ  rằng  kinh  nguyện  phải  đi  đôi  với  việc  đọc  Kinh  Thánh  để  có  sự  đối
thoại giữa Thiên Chúa với con người…” ;

     Việc đọc Kinh Thánh phải mang tính cách chăm chỉ, kiên trì, liên tục ;

     Một sự nghiên cứu, học hỏi sâu sắc.

http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThuongHuan/ThuongHuan2005/Bai2.htm 13/14
3/23/2019 Hiến Chế Tín Lý Về Mặc Khải Của Thiên Chúa (Thường Huấn Linh Mục Đàlạt, Bài 2)

Công đồng muốn nói rằng không ai trong các giáo sĩ “trở thành kẻ huênh hoang rao giảng Lời Chúa ngoài môi miệng,
bởi không nghe lời Thiên Chúa trong lòng”.
Công đồng còn mời gọi cả các tín hữu phải đọc Kinh Thánh. Năm 1962­1963, điều này chưa hiển nhiên như thế. Dưới
ảnh  hưởng  của  những  cuộc  tranh  luận  chống  Tin  lành  trong  quá  khứ,  người  ta  vẫn  còn  giữ  thái  độ  nghi  kỵ  đối  với  Kinh
Thánh. Năm 1963 lược đồ chỉ dám khuyên các giáo hữu đọc Kinh Thánh trong khung cảnh của Phụng vụ. Bản văn hiện thời
khuyến  khích  các  giáo  hữu  hãy  tiếp  xúc  với  Kinh  Thánh  không  những  qua  Phụng  vụ  nhưng  còn  nhờ  sự  tiếp  xúc  trực  tiếp
với  Kinh  Thánh  trong  nguyên  bản  hoặc  nhờ  “bất  cứ  phương  thế  nào  mà  ngày  nay  đã  được  các  chủ  chăn  trong  Giáo  Hội
chấp thuận và phổ biến”. Công đồng nhắc lại câu nói nổi tiếng của thánh Giêrôm : “Không biết Kinh Thánh là không biết
Chúa Kitô”.
Sau hết Công đồng khuyến cáo các Giám mục, các chủ chăn trong Giáo Hội :

     hãy dạy cho các tín hữu biết sử dụng đúng đắn các sách thánh ;

       hãy  phổ  biến  những  bản  dịch  trung  tín  có  những  cắt  nghĩa  kèm  theo  làm  sao  cho  những  người  ngoài  Kitô  giáo

cũng có thể hiểu được.
Chương VI được kết thúc bằng một nguyện vọng của các nghị phụ (số 26) : Ước gì nhờ việc đọc và học hỏi, Lời Chúa được tỏa
rộng khắp nơi và làm phát sinh hoa quả sự sống, cũng như nhờ Bí tích Thánh Thể, con cái Giáo Hội được tăng trưởng về số lượng và về
phẩm chất.
Điểm đáng chú ý trong câu kết luận : sự sống trong Giáo Hội chẳng những từ việc năng lãnh nhận Mầu nhiệm Thánh
Thể nhưng còn từ việc sùng kính Lời Chúa. Một lần nữa Kinh Thánh được so sánh với phép Thánh Thể và được xem là một
nguồn mạch của sự sống thiêng liêng như Bí tích Thánh Thể vậy.

II.          VÀI NHẬN ĐỊNH
Trong bài diễn văn đọc trong dịp tiếp kiến các tham dự viên Hội Nghị Quốc Tế về Kinh Thánh sáng thứ Sáu 16.9.2005
tại Castel Gandolfo, Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI dâng lời cảm tạ Thiên Chúa, bởi vì nhờ ảnh hưởng của Hiến Chế về Mạc
Khải “Dei Verbum”, mà tầm quan trọng căn bản của Lời Chúa được đánh giá ngày càng sâu xa hơn. Điều này dẫn đến việc
canh tân đời sống của Giáo Hội, nhất là trong lãnh vực rao giảng, dạy giáo lý, thần học, tu đức, và cả trong tiến trình đại
kết. Giáo Hội cần phải canh tân luôn mãi, cần trẻ trung hoá chính mình. Và Lời Chúa là phương tiện ưu tiên cho công cuộc
canh tân Giáo Hội, vì Lời Chúa không bao giờ bị già đi hay bị hết hạn.

Mục Lục | Trở Về Trang Nhà

http://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/ThuongHuan/ThuongHuan2005/Bai2.htm 14/14

You might also like