Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 158

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI


KHOA NGÔN NGỮ HỌC

ĐỖ ANH VŨ

NGÔN NGỮ THƠ NGUYỄN BÍNH


(Dựa trên cứ liệu trƣớc 1945)

Chuyên ngành: NGÔN NGỮ VIỆT NAM


Mã số: 9 22 01 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:


GS.TS. MAI NGỌC CHỪ

HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả
nghiên cứu trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất
cứ một công trình nào.

Tác giả luận án

Đỗ Anh Vũ
MỤC LỤC
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án ............................................................. 2
2.1. Mục đích ................................................................................................................. 2
2.2. Nhiệm vụ ................................................................................................................. 2
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi tƣ liệu của luận án ................................................... 2
3.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................. 2
3.2. Phạm vi tƣ liệu ........................................................................................................ 2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án ............................................................................ 3
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án ......................................................................... 3
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án......................................................................... 4
6.1. Ý nghĩa lí luận ......................................................................................................... 4
6.2. Ý nghĩa thực tiễn ..................................................................................................... 4
CHƢƠNG 1 ........................................................................................................................... 5
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT ............................... 5
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về khái niệm “thơ” và ngôn ngữ thơ ...................... 5
1.1.1. Khái niệm “Thơ” ................................................................................................. 5
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ngôn ngữ thơ ..................................................................... 8
1.1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu về Nguyễn Bính ............................................. 14
1.2. Cơ sở lí thuyết ........................................................................................................... 16
1.2.2. Vần thơ (Thi vận) ............................................................................................... 17
1.2.5. Tín hiệu thẩm mỹ................................................................................................ 21
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC THƠ NGUYỄN BÍNH ...................................... 25
2.1. Đặc điểm vần thơ Nguyễn Bính................................................................................ 25
2.1.1. Mức độ hòa âm trong vần thơ thất ngôn của Nguyễn Bính ............................... 25
2.1.2. Phân bố vần khổ thơ thất ngôn của Nguyễn Bính ............................................. 29
2.1.3. Những bài thơ thất ngôn trƣờng thiên của Nguyễn Bính................................... 31
2.1.4. Mức độ hòa âm trong vần thơ lục bát của Nguyễn Bính ................................... 33
2.1.5. Phân bố vần trong thơ lục bát của Nguyễn Bính ............................................... 35
2.1.6. Những bài lục bát dùng vần chính tuyệt đối ...................................................... 36
2.2. Nhịp điệu trong thơ Nguyễn Bính ............................................................................ 38
2.2.1. Nhịp điệu trong thơ lục bát ................................................................................ 38
2.2.2. Nhịp điệu trong thơ thất ngôn ............................................................................ 41
2.3. Cấu trúc nhan đề tác phẩm ........................................................................................ 43
2.4. Nghệ thuật biểu hiện dấu câu .................................................................................... 46
2.4.1. Dấu ba chấm trong thơ Nguyễn Bính ................................................................ 46
2.5. Một số biện pháp tu từ cú pháp trong thơ Nguyễn Bính .......................................... 53
2.5.1. Biện pháp tu từ điệp ngữ.................................................................................... 53
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA THƠ NGUYỄN BÍNH ...................................... 71
3.1. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính ................ 71
3.1.1. Vai trò của không gian trong nhan đề tác phẩm ............................................... 71
3.1.2. Những không gian chung ................................................................................... 72
3.1.3. Những không gian nông thôn............................................................................. 76
3.1.4. Không gian thành thị ......................................................................................... 79
3.1.5. Không gian phiêu bạt ......................................................................................... 82
3.1.6. Những không gian gắn với địa danh .................................................................. 83
3.1.7. Những không gian tượng trưng – ước lệ ........................................................... 87
3.2. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính .................... 88
3.2.1. Thời gian của ngày ............................................................................................ 88
3.2.2 Thời gian của năm .............................................................................................. 97
3.2.3. Các biểu hiện khác của thời gian .................................................................... 101
3.3. Một số tín hiệu thẩm mỹ đặc sắc trong thơ Nguyễn Bính ...................................... 106
3.3.1. Tín hiệu thẩm mĩ “vườn” ................................................................................. 106
3.3.2. Tín hiệu thẩm mỹ “bướm” ............................................................................... 109
3.3.3. Tín hiệu thẩm mỹ “rượu” ................................................................................ 114
3.4. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ con ngƣời trong thơ Nguyễn Bính .................................. 119
3.5. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bính ................................ 123
3.5.1. Các yếu tố chỉ thực vật .................................................................................... 123
3.5.2. Các yếu tố chỉ động vật.................................................................................... 125
3.6. Từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính ................................................... 127
3.6.1.Tổng quan về từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính ........................ 127
3.6.2. Phân loại và miêu tả từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính ............ 131
3.6.3. Giá trị của việc sử dụng từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính ...... 138
3.7. Tiểu kết ................................................................................................................... 141
KẾT LUẬN........................................................................................................................ 142
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 146
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI LUẬN ÁN .................................................................................................................. 152
DANH MỤC CÁC BẢNG
1. Bảng 2.1: Số lƣợng các thể thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
2. Bảng 2.2: Phân loại thể thất ngôn trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
3. Bảng 2.3: : Số lƣợng các loại vần trong thể thất ngôn của thơ Nguyễn
Bính trƣớc 1945
4. Bảng 2.4: Bảng phân bố thanh điệu trong bài thơ Cô hái mơ
5. Bảng 2.5: Bảng phân bố thanh điệu trong bài thơ Gái xuân
6. Bảng 2.6: Tổng kết phân bố vần thơ thất ngôn Nguyễn Bính trƣớc 1945
7. Bảng 2.7: Tổng kết các loại vần trong thơ lục bát Nguyễn Bính trƣớc
1945
8. Bảng 2.8: Khảo sát các loại vần trong một số bài ca dao theo thể lục bát
9. Bảng 2.9: Tổng kết những nhịp ngắt phá cách trong thơ lục bát Nguyễn
Bính trƣớc 1945
10. Bảng 2.10: Tổng kết những nhịp ngắt mang tính phá cách trong thơ thất
ngôn Nguyễn Bính trƣớc 1945
11. Bảng 2.11: Bảng 2.10: Tổng kết những nhịp ngắt mang tính phá cách
trong thơ thất ngôn Nguyễn Bính trƣớc 1945
12. Bảng 2.12: Dung lƣợng nhan đề thi phẩm Nguyễn Bính trƣớc 1945
13. Bảng 2.13: Vị trí dấu ba chấm trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
14. Bảng 2.14: Các loại câu hỏi trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
15. Bảng 2.15: Các loại điệp ngữ trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
16. Bảng 2.16: Tần số sử dụng hƣ từ trong các câu thơ
17. Bảng 2.17: So sánh tƣơng quan chuyển loại thực từ - hƣ từ
18. Bảng 2.18: So sánh tình hình sử dụng hƣ từ trong thơ Nguyễn Bính và
Huy Cận trƣớc 1945
19. Bảng 3.1: Những không gian chung trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
20. Bảng 3.2: Các đơn vị không gian nông thôn mang tính chất văn hóa
truyền thống trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
21. Bảng 3.3: Những không gian nông thôn cụ thể trong thơ Nguyễn Bính
trƣớc 1945
22. Bảng 3.4: Không gian phiêu bạt trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
22. Bảng 3.5: Các địa danh cụ thể trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
24. Bảng 3.6: Địa danh điển tích trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
25. Bảng 3.7: Không gian ƣớc lệ trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
26. Bảng 3.8: Thời gian ban ngày trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
27. Bảng 3.9: Biểu hiện của thời gian buổi chiều trong thơ Nguyễn Bính
trƣớc 1945
28. Bảng 3.10: Biểu hiện của thời gian “đêm” trong thơ Nguyễn Bính trƣớc
1945
29. Bảng 3.11: Biểu tƣợng của thời gian ban đêm trong thơ Nguyễn Bính
trƣớc 1945
30. Bảng 3.12: Bốn mùa trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
31. Bảng 3.13: Bốn mùa trong thơ Nguyễn Bính căn cứ qua nhan đề tác
phẩm
32. Bảng 3.14: Các tín hiệu từ vựng đặc trƣng chỉ mùa thu trong thơ
Nguyễn Bính trƣớc 1945
33. Bảng 3.15: Thế giới nghệ thuật Nguyễn Bính qua ba tín hiếu thẩm mỹ
đặc sắc
34. Bảng 3.16: Các yếu tố ngôn ngữ chỉ ngƣời trong thơ Nguyễn Bính trƣớc
1945
35. Bảng 3.17: Các định danh chỉ nhân vật nữ trong thơ Xuân Diệu trƣớc
1945
36. Bảng 3.18: Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thực vật trong thơ Nguyễn Bính
trƣớc 1945
37. Bảng 3.19: Các yếu tố ngôn ngữ chỉ động vật trong thơ Nguyễn Bính
trƣớc 1945
38. Bảng 3.20: Các yếu tố ngôn ngữ chỉ động vật trong thơ Đoàn Văn Cừ
trƣớc 1945
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thi ca từ lâu đã trở thành đối tƣợng đƣợc quan tâm của giới nghiên cứu
ngôn ngữ học, trên thế giới cũng nhƣ Việt Nam. Trên phân ngành phong cách
học, các nhà Việt ngữ học luôn dành một khoảng đất cần thiết và tƣơng đối rộng
rãi để bàn về phần phong cách chức năng của văn bản nghệ thuật, trong đó
không thể không nói đến tầm quan trọng và những đặc điểm tiêu biểu của ngôn
ngữ văn học nói chung và ngôn ngữ thơ nói riêng. Cùng với những thành tựu của
lí luận ngôn ngữ, hƣớng nghiên cứu liên ngành ngôn ngữ học – văn học càng
đƣợc đẩy mạnh và thu đƣợc nhiều thành tựu. Nhìn lại nền thơ ca Việt Nam thế
kỷ XX, phong trào Thơ Mới (1932 - 1945) là một trong những thành tựu rực rỡ
trong tiến trình văn học sử nƣớc nhà với sự góp mặt của nhiều tên tuổi, mà
Nguyễn Bính chính là một trong những đại diện tiêu biểu nhất, đƣợc mệnh danh
là thi sĩ chân quê với số lƣợng các ấn phẩm xuất bản trƣớc 1945 nhiều nhất so
với tất cả những thi sĩ đƣơng thời. Thơ Nguyễn Bính đƣợc đông đảo tầng lớp
quần chúng nhân dân yêu mến, thuộc lòng và đƣợc truyền tụng một cách rộng rãi
trên khắp các vùng miền của đất nƣớc. Cùng với thời gian, thơ Nguyễn Bính vẫn
ngày càng khẳng định đƣợc giá trị bền vững của mình trong lòng độc giả, thậm
chí có phần vƣợt cả Xuân Diệu, ngƣời vẫn đƣợc xem là hoảng từ của thời kỳ
Thơ Mới.
Ý thức về vị trí của thi tài Nguyễn Bính trong nền thi ca Việt Nam hiện
đại, chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài Ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính (dựa trên
cứ liệu trước 1945) với mong muốn chỉ ra một cách hệ thống những đặc điểm
ngôn ngữ thi ca, thấy đƣợc những sáng tạo, đóng góp và cống hiến nghệ thuật
của ông, đồng thời cũng chỉ ra đƣợc một phong cách không thể trộn lẫn trong
mối tƣơng quan với những thi sĩ sáng tác theo khuynh hƣớng lãng mạn thời kỳ
trƣớc 1945. Công trình cũng sẽ góp phần trả lời cho câu hỏi: Tại sao thơ Nguyễn
Bính lại đƣợc nhiều ngƣời yêu thích, say mê và thuộc lòng đến nhƣ vậy.

1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ phong cách thơ Nguyễn Bính
từ góc độ ngôn ngữ học, thấy đƣợc một bức tranh toàn cảnh về ba bình diện: đặc
điểm ngữ âm, đặc điểm ngữ pháp cũng nhƣ đặc điểm từ vựng ngữ nghĩa của thơ
Nguyễn Bính. Các bình diện trên cũng đồng thời thể hiện những giá trị nội dung
tƣ tƣởng và giá trị nghệ thuật ở các tác phẩm của ông, cho chúng ta thấy những
đóng góp và những cống hiến, sáng tạo của Nguyễn Bính.
2.2. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là qua 272 bài thơ sáng tác trong giai
đoạn trƣớc 1945 của Nguyễn Bính, đi vào thống kê, miêu tả, phân tích các đặc
điểm ngôn ngữ học tiêu biểu thuộc cả ba bình diện ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng
ngữ nghĩa để thấy đƣợc bức tranh toàn cảnh về thế giới thơ Nguyễn Bính, thấy
đƣợc phong cách riêng của thi sĩ chân quê cùng những đóng góp nghệ thuật,
những sáng tạo cống hiến của ông.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi tƣ liệu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là đặc điểm ngôn ngữ thơ Nguyễn
Bính, bao gồm toàn bộ các đặc điểm ngữ âm, ngữ pháp và từ vựng ngữ nghĩa
trong toàn bộ các sáng tác ở dạng bài thơ (không tính thể loại truyện thơ) của
Nguyễn Bính, đƣợc viết trong thời kỳ trƣớc 1945.
3.2. Phạm vi tƣ liệu
Phạm vi nghiên cứu của luận án là những bài thơ viết trƣớc 1945 của
Nguyễn Bính, đƣợc xác lập qua việc căn cứ vào bộ sách Nguyễn Bính toàn tập
(NXB Văn học, Hà Nội, 2008). Các thi phẩm đƣợc sáng tác trƣớc 1945 nằm
trong 7 tập thơ trƣớc cách mạng cùng một số bài thơ lẻ khác nằm ngoài các tập
trên. Danh sách 7 tập thơ cùng số lƣợng cụ thể mỗi bài trong tập nhƣ sau:
Lỡ bƣớc sang ngang (Lê Cƣờng, Hà Nội, 1940): 34 bài
Tâm hồn tôi (Lê Cƣờng, Hà Nội, 1940): 39 bài
Hƣơng cố nhân (Asiatia, 1941): 31 bài

2
Một nghìn cửa sổ (1941): 43 bài
Mƣời hai bến nƣớc (Mộng Hàm, 1942): 14 bài
Ngƣời con gái ở lầu hoa (Hƣơng Sơn, 1942): 25 bài
Mây Tần ( Huơng Sơn, 1942): 28 bài
Cùng với 61 bài thơ lẻ đã in báo nằm ngoài các tập kể trên, sau khi trừ đi
những bài thơ dịch (5 bài), tổng số các thi phẩm mà Nguyễn Bính sáng tác trƣớc
1945 nằm ở con số 272 bài. Đây sẽ là đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu trọng
tâm của luận án, mong muốn chỉ ra đƣợc những đặc điểm về ngôn ngữ học, cụ
thể là: tu từ học, phong cách học, thi pháp học của thơ Nguyễn Bính từ nguồn cứ
liệu nói trên.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
Phƣơng pháp chủ đạo đƣợc chúng tôi là phƣơng pháp miêu tả ngôn ngữ
học. Luận án đi vào miêu tả các đặc điểm ngôn ngữ thơ Nguyễn Bính trên tất cả
các bình diện ngữ âm, ngữ pháp và từ vựng ngữ nghĩa. Việc miêu tả đƣợc tiến
hành chi tiết và kỹ lƣỡng, từ hình thức bên ngoài (định lƣợng hóa) cho đến các
giá trị đƣợc biểu đạt (định tính hóa) bởi nội dung tƣ tƣởng tác phẩm. Tuy vậy, ở
mỗi khu vực ngữ âm/ngữ pháp/từ vựng ngữ nghĩa, chúng tôi sẽ chỉ chọn và phân
tích những nội dung mang tính điển hình và đặc sắc nhất, phản ánh đƣợc những
đóng góp, sáng tạo cũng nhƣ nét riêng biệt về phong cách của Nguyễn Bính.
Các phƣơng pháp và thủ pháp liên ngành khác đƣợc chúng tôi sử dụng là
phân tích diễn ngôn, phân tích tu từ học, thống kê, so sánh và phân tích thể loại.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu về thơ Nguyễn Bính từ góc nhìn
ngôn ngữ học, bao quát cả hai mặt hình thức và ngữ nghĩa với các đặc điểm nổi
bật về ngữ âm, ngữ pháp và từ vựng ngữ nghĩa trong hệ thống thi phẩm sáng tác
trƣớc Cách mạng của thi sĩ chân quê. Những kết quả của luận án sẽ góp phần
khẳng định về một phong cách riêng không thể trộn lẫn của Nguyễn Bính, đồng
thời mở ra một hƣớng tiếp cận mới về ngôn ngữ tác giả, phong cách văn bản
nghệ thuật nói chung và phong cách nhà văn nói riêng.

3
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận
Luận án tiếp cận di sản thi ca của một tác gia tiêu biểu giai đoạn trƣớc
1945 từ góc nhìn phong cách học và ngôn ngữ văn chƣơng. Những vấn đề liên
ngành đƣợc đặt ra một cách thú vị bởi những giao thoa giữa ngôn ngữ học - văn
học – từ vựng học – thi pháp học – ngữ âm học – ngữ pháp học – phong cách
học. Khẳng định vai trò và sự nghiệp văn học của Nguyễn Bính trong giai đoạn
thơ ca lãng mạn 1930 – 1945, luận án cũng sẽ tiếp tục gợi mở cho những nghiên
cứu theo mô típ phong cách ngôn ngữ những tác gia tiêu biểu trong nền thơ Việt
Nam hiện đại.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có những đóng góp mới vào việc nghiên cứu ngôn ngữ văn học ở
Việt Nam, đặc biệt là ở góc độ ngôn ngữ thơ với lối tiếp cận ngôn ngữ học, gắn
với việc nghiên cứu cấu trúc của ngôn ngữ thơ, đặt trong mối tƣơng quan với các
phân ngành khác.
Luận án cũng đóng góp vào việc tìm kiếm và đổi mới cách dạy môn Văn
ở nhà trƣờng phổ thông cũng nhƣ đại học và sau đại học, trƣớc hết qua một
trƣờng hợp cụ thể Nguyễn Bính. Những kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có thể
đƣợc sử dụng trong việc giảng dạy và biên soạn các giáo trình về ngôn ngữ thơ
nói riêng và ngôn ngữ nghệ thuật nói chung.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục các bảng, Danh mục các
công trình đã công bố có liên quan đến đề tài luận án và Tài liệu tham khảo,
luận án gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và Cơ sở lí thuyết
Chƣơng 2: Đặc điểm hình thức thơ Nguyễn Bính
Chƣơng 3: Đặc điểm ngữ nghĩa thơ Nguyễn Bính

4
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về khái niệm “thơ” và ngôn ngữ
thơ
1.1.1. Khái niệm “Thơ”
Văn học nói chung, thơ nói riêng, là ngƣời bạn đồng hành từ bao đời nay
của nhân loại. Đã có vô vàn những quan điểm, định nghĩa về thơ đứng từ nhiều
góc độ khác nhau. Nhà thơ quan niệm khác, nhà phê bình văn học quan niệm
khác, nhà ngôn ngữ học quan niệm khác. Trƣớc khi đi đến một định nghĩa về thơ
để tiện cho làm việc, chúng ta cùng điểm lại những ý kiến, quan điểm nổi tiếng
về thơ.
Ở phƣơng Tây, từ thời cổ đại, Aristot trong cuốn Nghệ thuật thi ca đã
quan niệm thơ nhƣ là một sự mô phỏng, nhƣng phải là mô phỏng trong sáng tạo.
Ở phƣơng Đông, nhà thơ Bạch Cƣ Dị đời Đƣờng có lẽ là một trong những ngƣời
sớm nhất đƣa ra quan điểm riêng về thơ: “Cái gọi là thơ thì không gì cảm hóa
nhân tâm bằng tình cảm. Không thể bắt đầu bằng cái gì khác ngoài ngôn ngữ.
Không gì thân thiết bằng âm thanh. Không gì sâu sắc bằng nghĩa lý. Gốc của
thơ là tình cảm. Lá của thơ là ngôn ngữ. Hoa của thơ là âm thanh. Quả của thơ
là nghĩa lý”. [dẫn theo Nguyễn Thị Phƣơng Thùy,13-14, 47]. Ở Việt Nam, thời
hiện đại, mỗi nhà thơ gần nhƣ có một quan điểm riêng về thơ. Tố Hữu thì nói:
“Thơ là cảm hứng. Cảm hứng thì nên ghi lại”. Ông phát biểu thêm trong một số
lần khác: “Thơ biểu hiện tinh chất của cuộc sống”, “Thơ là cái nhụy của cuộc
sống”, “Thơ là tiếng nói tri âm”, “Thơ là chuyện đồng điệu”. Lƣu Trọng Lƣ thì
cho rằng: “Thơ là sự sống tập trung cao độ, là cốt lõi của cuộc sống”. Thanh
Tịnh thì nghĩ: “Thơ là tinh hoa, là thể chất cô đọng của trí tuệ và tình cảm”. Chế
Lan Viên thì phát biểu về thơ bằng chính thơ:
Thơ, thơ đong từng ngao như tát bể
Là cái cân nhỏ xíu lại cân đời

5
Đừng làm những câu thơ khuôn mình theo văn phạm
Như cây xanh thẳng quá chim không về
Nhà thơ Lê Đạt quan niệm: “Thơ, chính là một trong những lĩnh vực lao
động tạo ra các giá trị phi vật thể của một dân tộc. Một cái cảnh nên thơ, không
phải tự nó nên thơ, mà nó là do cái văn hóa mà các nhà thơ đã hình thành ra”.
Nhà thơ Trần Dần thì viết: “Thơ ca không nên là những tụng ca thời thượng, mà
phải đi sâu vào tâm trạng con người. Thơ cần phải liên tục đổi mới để đuổi kịp
sự phát triển của đời sống”.
Các nhà phê bình ở Việt Nam cũng có ý kiến riêng về thơ. Lê Hữu Trác từ
thời trung đại đã có quan điểm: “Thơ cốt ở ý, ý có sâu xa thơ mới hay. Không
phải bất cứ điều gì cũng phải nói ra bằng thơ. Như thế mới là thơ có giá trị”.
Phạm Quang Trung cũng chia sẻ tinh thần trên của Lê Hữu Trác: “Thơ là tình,
nhưng tình không tách rời ý. Nếu chỉ là tình, dẫu là tình tột bậc, cũng không thể
làm nên những vần thơ tuyệt bút”. Còn Mã Giang Lân thì quan niệm: “Thơ là
một thông báo thẩm mỹ trong đó kết hợp 4 yếu tố Ý – Hình – Tình – Nhạc.”
Các nhà ngôn ngữ học cũng có những quan điểm khá phong phú về thơ.
Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê chủ biên) thì viết: “Hình
thức nghệ thuật dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh và có nhịp điệu để thể hiện nội
dung một cách hàm súc”. Phan Ngọc trong bài “Thơ là gì?” thì cho rằng: “Thơ là
cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản bắt người tiếp nhận phải nhớ, phải cảm
xúc và phải suy nghĩ do chính hình thức tổ chức ngôn ngữ này”. Ông đƣa ra một
định nghĩa về thơ gồm 3 điểm:
1. Có giá trị phổ quát, tức là áp dụng cho mọi hiện tượng gọi là thơ trên
trái đất này, bất chấp ngôn ngữ, thời gian, tập quán, trường phái…
2. Mang tính hình thức giúp người ta nhận diện được ngay thơ, không cần
phải có kinh nghiệm và hiểu biết nghệ thuật.
3. Giúp người ta nắm được thực chất của thơ, để làm thơ, đọc thơ và
giảng thơ có kết quả.
Nguyễn Phan Cảnh trong công trình Ngôn ngữ thơ đƣa ra nhận xét: “ Rõ
ràng là, trong văn xuôi, lặp lại là điều tối kỵ và phương trình không được dùng

6
để xây dựng nên những thông báo. Ấy thế mà chính cái điều văn xuôi cấm kỵ ấy
lại là thủ pháp làm việc của thơ. Trong thơ, tính tương đồng giữa các đơn vị
ngôn ngữ lại dùng để xây dựng các thông báo”. Nhận xét này chính là cơ sở để
Nguyễn Phan Cảnh đề cao một nguyên lí trong tổ chức ngôn ngữ thơ: nguyên lí
song hành.
Hữu Đạt trong tác phẩm Ngôn ngữ thơ Việt Nam thì đƣa ra định nghĩa:
“Thơ là một thể loại của văn học được trình bày bằng hình thức ngắn gọn và súc
tích nhất với các tổ chức ngôn ngữ có vần điệu và các quy luật phối âm riêng
của từng ngôn ngữ nhằm phản ánh cuộc sống tập trung và khái quát nhất, dưới
dạng các hình tượng nghệ thuật”.
Các tác giả Lê Bá Hán – Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi trong công
trình Từ điển thuật ngữ văn học thì quan niệm: Thơ là hình thức sáng tác văn
học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng, những xúc cảm mạnh mẽ
bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu. Các tác giả còn
cho rằng, dựa vào phương thức phản ánh có thể chia ra thơ tự sự và thơ trữ tình.
Dựa vào thể luật có thể chia ra thơ cách luật và thơ tự do. Xét về mặt gieo vần
có thể chia ra thơ có vần và thơ không vần. Ngoài ra còn có thể phân loại thơ
theo thời đại (thơ Đường, thơ Tống, thơ Lý Trần..) hoặc theo nội dung (thơ tình
yêu, thơ triết lý, thơ chính trị…)
Vì luận án này đƣợc thực hiện dƣới góc nhìn của ngôn ngữ học nên chúng
tôi thiên về ủng hộ quan niệm định nghĩa thơ của tác giả Hữu Đạt trong công
trình Ngôn ngữ thơ Việt Nam. Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng thơ có thể chấp
nhận những hình thức khá linh hoạt chứ không nhất thiết lúc nào cũng phải ngắn
gọn và súc tích, chẳng hạn truyện thơ hay trƣờng ca chính là những minh chứng
điển hình. Do đó, chúng tôi đi đến một định nghĩa về thơ để tiện cho thao tác làm
việc nhƣ sau: “Thơ là một thể loại văn học, là một chỉnh thể văn bản ngôn từ có
sự tương xứng giữa nội dung và hình thức biểu hiện. Thơ mang đặc trưng của tư
duy hình tượng với sự tham gia của vần điệu và các quy luật hòa phối ngữ âm
trong từng ngôn ngữ, về nội dung có nhiệm vụ hướng con người đến Chân,

7
Thiện, Mỹ, đến những giá trị vững bền của đời sống; về hình thức cần đảm bảo
các nguyên tắc: thẩm mỹ, công phu, sáng tạo”.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ngôn ngữ thơ
Ngôn ngữ văn chƣơng nói chung, ngôn ngữ thơ nói riêng, có thể xem là
vấn đề đƣợc quan tâm của nhiều ngành khoa học, trong đó nổi bật là hai ngành
văn học và ngôn ngữ học. Ở Việt Nam, vấn đề nghiên cứu về ngôn ngữ thơ có
thể nói đã đƣợc đặt ra từ nửa đầu thế kỷ XX với công trình Thi nhân Việt Nam
của Hoài Thanh – Hoài Chân và đƣợc tiếp bƣớc trong những thập kỷ tiếp theo
với hàng loạt công trình, bài viết của nhiều tác giả uy tín nhƣ Phan Ngọc,
Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình Sử, Hà Minh Đức, Lê Trí Viễn, Nguyễn Phan
Cảnh, Hữu Đạt...Sau đây, chúng tôi sẽ lần lƣợt có những tổng kết sơ bộ về việc
nghiên cứu ngôn ngữ thơ qua hai góc nhìn văn học và ngôn ngữ học.
1.1.2.1. Tiếp cận ngôn ngữ thơ từ góc độ văn học
Có lẽ Hoài Thanh với lối phê bình ấn tƣợng là một trong những ngƣời tiên
phong tiếp cận ngôn ngữ thơ từ góc độ văn chƣơng. Qua 46 gƣơng mặt trong
tuyển tập Thi nhân Việt Nam, ông đã có nhiều lời nhận xét, phê bình tinh tế về
phong cách của từng ngƣời cũng nhƣ những đặc sắc riêng của từng câu thơ, khổ
thơ, bài thơ hoặc cả tập thơ. Nhiều nhận xét của ông về những gƣơng mặt ƣu tú
của thi ca Việt Nam cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị: “Chưa bao giờ người ta
thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như
Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp,
ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kỳ dị như Chế Lan Viên…và
thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” (Một thời đại trong thi ca). Lối
phê bình ấn tƣợng của Hoài Thanh tiếp tục nối dài trong nhiều thập kỷ sau đó,
cho đến sau 1975, khi đất nƣớc chấm dứt chiến tranh thì giới văn chƣơng mới có
nhiều điều kiện hơn để tìm kiếm, xây dựng những bộ lí thuyết khác nhằm đi vào
tìm hiểu thế giới thi ca. Nguyễn Đăng Mạnh (1980) là ngƣời đầu tiên đƣa ra bộ
công cụ gồm 4 thành tố để tiếp cận phong cách các tác giả, bao gồm cả tác giả
văn xuôi và tác giả thơ. Bốn thành tố mà Nguyễn Đăng Mạnh đƣa ra là: cách
nhìn độc đáo vào thế giới, kết cấu/cấu trúc tác phẩm, ngôn ngữ và giọng điệu.

8
Từ một hƣớng đi khác, hƣớng đi thi pháp học, vấn đề ngôn ngữ thơ cũng
đƣợc đặt ra, phân tích và lí giải, từ đó nhắm làm nổi bật phong cách của nhà văn
cũng nhƣ những đóng góp cống hiến về mặt hình thức nghệ thuật cũng nhƣ nội
dung tƣ tƣởng của tác phẩm. Ngƣời đƣợc coi là tiên phong và có nhiều đóng góp
ở những nghiên cứu từ góc độ thi pháp học là Trần Đình Sử. Những tác phẩm
quan trọng và nổi bật của ông có thể kể đến là: Thi pháp thơ Tố Hữu (1987,
1997, 2001), Thi pháp Truyện Kiều (2002, 2003, 2004, 2005), Thi pháp văn học
trung đại Việt Nam (1998, 2005), Những thế giới nghệ thuật thơ (1995, 1996,
2001). Trong các tác phẩm nổi bật chúng tôi vừa kể tới, vấn đề ngôn ngữ thơ
đƣợc đƣa ra phân tích, xem xét từ những điểm nhìn khác nhau nhƣ: thời gian
nghệ thuật, không gian nghệ thuật, hình thức thể loại, chất tự sự, một số biện
pháp tu từ. Trong phần cuối chuyên luận Thi pháp thơ Tố Hữu, Trần Đình Sử
dành một tiểu mục mang tên Chất thơ và phương thức thể hiện, trong đó cố gắng
làm nổi rõ một số đặc điểm mang dấu ấn ngôn ngữ tác giả nhƣ cách tạo mệnh đề
(hỏi, phủ định, cảm thán, khẳng định, khêu gợi..), tạo đối thoại/độc thoại, các
mảng từ ngữ, giọng điệu tác giả...
Một số tác phẩm quan trọng khác gắn với ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ tác
giả/tác phẩm cũng cần đƣợc kể tới là: Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong
Truyện Kiều (1985) của Phan Ngọc, Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện
đại (1974), Văn thơ Hồ Chí Minh (2000), Văn chương – tài năng và phong cách
(2001) của Hà Minh Đức...
1.2.2.2. Tiếp cận ngôn ngữ thơ từ góc độ ngôn ngữ học
Nhà ngôn ngữ học phƣơng Tây bàn nhiều đến thơ nhất trong thế kỷ XX
có lẽ là Roman Jakobson. Theo ông, “chức năng thi ca đem nguyên lí tƣơng
đƣơng của trục tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp”. Trong bài viết nổi tiếng Ngôn
ngữ học và thi học (Tạp chí Ngôn ngữ số 14/2001, Cao Xuân Hạo dịch),
Jakobson viêt: “Trước khi bắt tay vào nghiên cứu chức năng thi ca, ta phải xác
định xem vị trí của nó giữa các chức năng khác của ngôn ngữ như thế nào”. Ông
cho rằng những nhân tố hũu cơ khác nhau của việc giao tiếp ngôn ngữ có thể
đƣợc trình bày bởi lƣợc đồ:

9
Chu cảnh
Ngƣời gửi…Thông điệp…Ngƣời nhận
Tiếp xúc

Theo ông, mỗi nhân tố trong 6 nhân tố trên sinh ra một chức năng ngôn
ngữ khác nhau và chức năng thi ca chính là một trong 6 chức năng cơ bản của
việc giao tiếp ngôn ngữ. Thứ tự 6 chức năng mà Jakobson đƣa ra gồm: chức
năng thể hiện, chức năng thi ca, chức năng tiếp xúc, chức năng siêu ngôn ngữ,
chức năng biểu cảm, chức năng tác động.
Ông tiếp tục nhấn mạnh: “ Công việc nghiên cứu ngôn ngữ học về chức
năng thi ca phải vƣợt ra ngoài giới hạn của thơ, và mặt khác, việc phân tích thơ
về phƣơng diện ngôn ngữ học không thể tự bó hẹp trong chức năng thi ca.
Những đặc điểm của các thể loại thi ca khác nhau bao hàm sự tham gia, bên cạnh
chức năng thi ca là chức năng chủ đạo của những chức năng ngôn ngữ khác,
trong trật tự tôn ti có thể thay đổi tùy từng trƣờng hợp. Thơ sử thi, vốn tập trung
vào ngôi thứ ba, sử dụng rất nhiều đến chức năng thể hiện. Thơ trữ tình, vốn tập
trung vào ngôi thứ nhất, thì lại gắn bó mật thiết với chức năng biểu cảm. Thơ
hiệu triệu, vốn tập trung vào ngôi thứ hai, cho thấy rõ chức năng tác động, nó có
thể mang tính chất van xin hay động viên tùy ở chỗ ngôi thứ nhất hay ngôi thứ
hai có cƣơng vị cao hơn.
Ông cho rằng “việc sử dụng những phương tiện thi ca để phục vụ một ý
định xa lạ đối với thi ca không thể che lấp cái bản chất nguyên sơ của nó, cũng
như những yếu tố ngôn ngữ biểu cảm được sử dụng trong thi ca không hề mất
sắc thái biểu cảm của nó”. Bản chất nguyên sơ mà ông muốn nhấn mạnh ở đây
chính là nguyên lí mà chúng tôi đã nhắc đến ở phần đầu “đem nguyên lí tương
đương của trục tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp”.
Phần cuối cùng của bài viết là một nhận định quan trọng của Jakobson,
xứng đáng đƣợc coi là kim chỉ nam cho những ai nghiên cứu về thi ca: “Nói tóm
lại việc phân tích câu thơ hoàn toàn thuộc lĩnh vực thi học và thi học có thể được
định nghĩa là cái bộ phận của ngôn ngữ học nghiên cứu chức năng thi ca trong

10
mối quan hệ của nó với các chức năng khác của ngôn ngữ. Thi học hiểu theo
nghĩa rộng quan tâm đến chức năng thi ca không phải chỉ trong thơ ca, nơi mà
chức năng này chiếm ưu thế so với các chức năng khác của ngôn ngữ mà cả bên
ngoài thi ca, là nơi mà chức năng này hoặc một chức năng khác chiếm ưu thế
hơn so với chức năng thi ca”.
Trong một số bài viết đi vào phân tích một số bài thơ cụ thể nhƣ Sonnet
của Joachim Du Beliay, Chán chường và Những con mèo của Baudelair (đã
đƣợc tập hợp và đƣa vào tuyển tập Thi học và ngữ học do Trần Duy Châu dịch,
NXB Văn học – Trung tâm nghiên cứu quốc học 2008), Jakobson thể hiện sự
chú ý đồng đều tới tất cả các biểu hiện nghệ thuật của một tác phẩm thơ bao gồm
từ vựng, ngữ âm và ngữ pháp.
Một công trình khác bàn về ngôn ngữ thơ là tác phẩm Cấu trúc văn bản
nghệ thuật của Iu. M. Lotman. Tác phẩm gồm 9 chƣơng với các nội dung: nghệ
thuật với tư cách ngôn ngữ, vấn đề nghĩa trong văn bản nghệ thuật, khái niệm
văn bản, văn bản và hệ thống, những nguyên tắc kết cấu văn bản, các yếu tố và
các cấp độ biến thái của văn bản nghệ thuật, trục cú đoạn của cấu trúc, kết cấu
tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, văn bản và các cấu trúc ngoài văn bản.
Trong tác phẩm có một số phần bàn riêng về giá trị nghệ thuật của câu thơ
mà chúng tôi đánh giá rất cao nhƣ: nguyên lý của sự lặp lại, tính lặp lại ở cấp độ
ngữ âm học, những lặp lại về nhịp điệu, tính lặp lại được và ý tưởng, các nguyên
tắc phân đoạn dòng thơ, vấn đề cấp độ âm luật của cấu trúc thơ, những lặp lại
thuộc ngữ pháp trong văn bản thơ, các thuộc tính cấu trúc của câu thơ trên cấp
độ ngữ nghĩa – từ vựng, câu thơ như một tổng thể giai điệu, câu thơ như một
tổng thể ngữ nghĩa, các lặp lại siêu thơ, năng lượng của câu thơ, trình tự âm vị
học trong câu thơ, cú đoạn học các đơn vị từ vựng ngữ nghĩa, vấn đề không gian
nghệ thuật.
Ở Việt Nam, công trình nghiên cứu về ngôn ngữ thơ đầu tiên cần đƣợc kể
tới là tác phẩm Ngôn ngữ thơ (1987) của Nguyễn Phan Cảnh. Cuốn sách gồm 12
chƣơng: Ngôn ngữ giao tế và ngôn ngữ nghệ thuật, Nghệ thuật ngôn ngữ và các
loại hình nghệ thuật, Ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi, Các tín hiệu đơn,

11
Cách tổ chức kép các lượng ngữ nghĩa hay bản chất các phương thức chuyển
nghĩa có tính chất ẩn dụ, Lắp ghép hay bản chất các phương thức chuyển nghĩa
có tính chất hoán dụ, Nhạc thơ, Nét khu biệt và nét dư trong ngôn ngữ thơ, Thể
loại hay ngưỡng âm tiết, Lục bát, Dịch thơ/ Thơ dịch, Động học của thi pháp
hay sự giãn nở của ngôn ngữ thơ. Nguyễn Phan Cảnh đã lấy điểm xuất phát từ tƣ
tƣởng của Saussure, coi ngôn ngữ nói chung, ngôn ngữ thơ nói riêng, thực chất
là sự thể hiện hai thao tác cơ bản của hoạt động ngôn ngữ, đó là thao tác lựa
chọn và thao tác kết hợp. Tiếp đến, ông khẳng định về hai phƣơng thức quan
trọng bậc nhất khi đi vào tìm hiểu ngôn ngữ thơ, đó chính là phƣơng thức tạo
hình và phƣơng thức biểu hiện. Các phần tiếp theo của cuốn sách giải quyết các
vấn đề về tổ chức ngữ nghĩa trong thơ, những biểu hiện hình thức của thơ nhƣ
vần, nhạc tính cùng một số vấn đề về thể loại. Có thể xem đây là công trình
mang tính tiên phong, tạo ra một nền móng tốt cho các công trình khác tiếp nối ở
những thời kỳ sau.
Sau Ngôn ngữ thơ của Nguyễn Phan Cảnh 11 năm, giới Việt ngữ có thêm
công trình Ngôn ngữ thơ Việt Nam (1998) của Hữu Đạt. Tác giả đứng trên quan
điểm của phong cách học để phân tích những biểu hiện của ngôn ngữ thơ. Cuốn
sách gồm 42 tiểu mục, 6 phần và 11 chƣơng. Hữu Đạt cũng kế thừa quan điểm
của Nguyễn Phan Cảnh về phƣơng thức tạo hình và phƣơng thức biểu hiện trong
ngôn ngữ thơ, từ đó, ông nhấn mạnh hơn nữa vào tính hình tƣợng của tác phẩm
thi ca cũng nhƣ những biểu hiện quan trọng về hình thức nhƣ tính tƣơng xứng
trong ngôn ngữ thơ và tính nhạc. Ông dành một phần riêng để viết về nghệ thuật
chơi chữ trong thi ca và tỏ ra khá chú ý đến vấn đề phong cách tác giả, phong
cách thi ca của mỗi thời kỳ lịch sử và các vấn đề khác về thể loại.
Bên cạnh hai công trình có tính chất tổng quan khá toàn diện, chú ý đến
nhiều mặt của ngôn ngữ thơ, còn phải kể đến những chuyên luận đi sâu vào một
khu vực nào đó của tác phẩm thi ca dƣới góc nhìn ngôn ngữ học. Tác phẩm Vần
thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học (1991, 2005) của Mai Ngọc Chừ đi
sâu phân tích về vai trò, chức năng, tầm quan trọng của vần thơ, từ đó đi đến
phân loại vần thơ, xét về vị trí hoạt động của vần và các xu hƣớng phát triển của

12
vần. Tác phẩm Nhịp điệu ngôn ngữ thơ văn Việt Nam (2015) của Vũ Thị Sao Chi
đi sâu vào nhận diện nhịp điệu, đƣa ra các tiêu chí và cách thức tổ chức nhịp
điệu, khẳng định giá trị và tầm quan trọng của nhịp điệu trong văn chƣơng nói
chung, trong thi ca nói riêng. Tác phẩm Thi luật thơ lục bát trong Truyện Kiều
(2015) của Lý Toàn Thắng đi sâu vào vấn đề tổ chức ngữ âm của thơ, cụ thể là
vần (thi vận), thi tiết, thi điệu (nhịp điệu), thi âm (kết hợp thanh âm) trong
Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Một công trình khác ra mắt gần đây
hơn cả là chuyên luận thi học Âm tiết tiếng Việt và ngôn từ thi ca (2017) của hai
tác giả Nguyễn Quang Hồng – Phan Diễm Phƣơng. Đây cũng là một tác phẩm
tập trung miêu tả vào vấn đề tổ chức ngữ âm của thơ với một quan niệm khá
rộng rãi về các thể loại thi ca trong tiếng Việt (gồm ba loại lớn: ngôn từ thi ca
truyền miệng, ngôn từ thi ca thành văn và các thể loại khác, bao gồm cả giải trí,
ứng dụng, diễn ca quảng cáo…)
Cũng trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI, giới Việt ngữ học còn có
một số chuyên luận hoặc giáo trình khác, bàn chung về ngôn ngữ văn chƣơng,
trong đó có dành một phần quan trọng cho thơ. Có thể kể đến các tác phẩm nhƣ
Ngôn ngữ văn chương (2011) của Hoàng Kim Ngọc – Hoàng Trọng Phiến, Ngôn
ngữ với văn chương của Bùi Minh Toán. Giáo trình của Hoàng Kim Ngọc –
Hoàng Trọng Phiến dành trọn vẹn Chƣơng 2 (162 trang) để bàn về ngôn ngữ thơ,
trong đó nhấn mạnh vào ba thành phần của ngôn ngữ thơ với các biểu hiện mang
tính đặc trƣng riêng biệt, đó là ngữ âm thơ, từ vựng ngữ nghĩa thơ và ngữ pháp
thơ. Chuyên luận của Bùi Minh Toán nhấn mạnh về tính giao tiếp của ngôn ngữ
văn chƣơng và các vấn đề về tín hiệu thẩm mỹ trong thi ca.
Từ sau năm 2000 trở lại đây, còn phải kể tới một số luận án tiến sĩ, luận
văn cao học làm về ngôn ngữ thơ, vấn đề ngôn ngữ tác giả/tác phẩm. Có thể kể
tới ba luận án tiêu biểu (hai trong số đó đã đƣợc in thành sách): So sánh và ẩn dụ
trong ca dao trữ tình của người Việt (Hoàng Kim Ngọc, 2003), Đặc trưng ngôn
ngữ thơ lục bát hiện đại (Hồ Văn Hải, 2004 ), Nghiên cứu sự tự do hóa ngôn ngữ
thơ tiếng Việt hiện đại thế kỷ XX (Nguyễn Thị Phƣơng Thùy, 2008)…

13
Những luận văn thạc sĩ về ngôn ngữ thơ trong khoảng 10 năm trở lại đây
xuất hiện khá nhiều và thƣờng chia làm 3 chƣơng. Ngoài chƣơng mở đầu mang
tính chất lí luận, hai chƣơng sau một chƣơng đi vào miêu tả hình thức tác phẩm
(vần, nhịp, thể thơ), chƣơng còn lại đi vào miêu tả ngữ nghĩa (các lớp từ vựng,
các biện pháp tu từ). Có thể kể ra một số luận văn tiêu biểu nhƣ: Đặc điểm ngôn
ngữ thơ Giang Nam (Dƣơng Thị Hƣơng, Đại học Vinh, 2007), Đặc điểm ngôn
ngữ thơ Vũ Quần Phương trong Vết thời gian (Trần Thị Mai, Đại học Vinh,
2011), Đặc điểm ngôn ngữ thơ Huy Cận trong Lửa thiêng và Vũ trụ ca (Đại học
Vinh, 2009), Đặc điểm ngôn ngữ thơ Lưu Quang Vũ (Nguyễn Thị Thanh Bình,
Đại học Vinh, 2008), Đặc điểm ngôn ngữ thơ Tố Hữu trong tập Gió lộng (Trần
Đình Thạo, Đại học Vinh, 2011), Đặc điểm ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên qua Di
cảo thơ (Ngô Văn Huỳnh, Đại học Vinh, 2001). Một loạt các tác giả tên tuổi
khác trong nền thơ Việt Nam thế kỷ XX cũng đƣợc chọn làm đổi tƣợng để khảo
sát và nghiên cứu trong các luận văn thạc sĩ khác của Đại học Vinh nhƣ: Nguyễn
Đình Thi, Nguyễn Duy, Tản Đà, Thu Bồn, Hữu Thỉnh...
1.1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu về Nguyễn Bính
Những nghiên cứu, hay nói đúng hơn là những nhận định, đánh giá đầu
tiên về Nguyễn Bính có lẽ thuộc về Hoài Thanh – Hoài Chân trong tuyển tập Thi
nhân Việt Nam: “Và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu
trong lòng ta (…). Cái đẹp kín đáo của những vần thơ Nguyễn Bính tuy cảm
được một số đông công chúng mộc mạc khó lọt vào con mắt của các nhà thông
thái thời nay. Tình cờ đọc thơ Nguyễn Bính họ sẽ bảo: “Thơ như thế này có
gì?”. Họ có ngờ đâu đã bỏ rơi một điều mà người ta không thể hiểu được bằng lí
trí, một điều đáng quý vô ngần: hồn xưa của đất nước”.
Cùng thời với Hoài Thanh – Hoài Chân, Vũ Ngọc Phan trong cuốn Nhà
văn Việt Nam hiện đại cũng đã chỉ ra thứ “tình quê xác thực” đƣợc toát lên từ
những câu thơ mang dáng vẻ “thực thà”, “hai lần hai là bốn” của Nguyễn Bính.
Vũ Ngọc Phan cũng đã đánh giá rất cao những bài thơ viết về làng quê của
Nguyễn Bính.

14
Sau những nhận định đánh giá của Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, tình hình
nghiên cứu về Nguyễn Bính nói riêng cũng nhƣ các nhà thơ trong phong trào
Thơ Mới nói chung bị hạn chế ở miền Bắc trong nhiều thập kỷ, một phần vì lí do
chiến tranh, phần khác vì do quan niệm tƣ tƣởng của ta trong một thời gian dài
không muốn đề cập đến văn thơ lãng mạn. Nhƣng cũng ở miền Nam trong
những thập niên 60, thơ Nguyễn Bính và việc nghiên cứu thơ ông đƣợc chú ý
hơn. Thơ Nguyễn Bính đƣợc đƣa vào giáo trình của Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Có thể kể đến phần viết về Nguyễn Bính của Trần Tuấn Kiệt trong Thi ca Việt
Nam hiện đại (Sài Gòn, 1967), phần viết về Nguyễn Bính của Nguyễn Tấn Long
trong Việt Nam thi nhân tiền chiến (quyển Thƣợng) (NXB Sống mới, Sài Gòn,
1968), phần viết về Nguyễn Bính của Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử
giản ước tân biên (Quốc học tùng thƣ xuất bản, Huế, 1961). Nhìn chung, các tác
giả nói trên mới chỉ dừng lại ở những miêu tả bề mặt của nội dung thơ Nguyễn
Bính nhƣ: chất làng quê trong thơ Nguyễn Bính, hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong
thơ Nguyễn Bính, nỗi buồn trong thơ Nguyễn Bính. Sau 1975, ở miền Bắc,
những nghiên cứu về Nguyễn Bính xuất hiện nhiều hơn. Đỗ Lai Thuý với tập
Con mắt thơ (Phê bình phong cách Thơ mới, 1992) đã có một chƣơng khá thú vị
về Nguyễn Bính. Chu Văn Sơn với Ba đỉnh cao Thơ mới (2003) đã đánh giá
Nguyễn Bính nhƣ một nhân vật không thể không nhắc đến khi bàn về giai đoạn
văn học nửa đầu thế kỷ XX. Đoàn Đức Phƣơng lại có một công trình khác về
Nguyễn Bính mang tên Nguyễn Bính – hành trình sáng tạo thi ca (NXB Giáo
dục, 2005), thực chất là sự công bố luận án tiến sĩ văn học bảo vệ trƣớc đó không
lâu. Ở hải ngoại mấy năm gần đây, Thụy Khuê là ngƣời có những bài viết về
Nguyễn Bính đáng lƣu ý nhất, trong đó nổi lên hai bài Thi pháp Nguyễn Bính và
Nguyễn Bính mười hai bến nước.
Nghiên cứu thơ Nguyễn Bính từ cấp độ luận văn thạc sĩ đã có một số đề
tài đƣợc thực hiện nhƣng chủ yếu từ góc nhìn của chuyên ngành văn học, có thể
kể đến một số đề tài tiêu biểu nhƣ sau: Giá trị của một số tín hiệu thẩm mỹ tiêu
biểu trong thơ Nguyễn Bính (Bùi Tấn Văn, 2011), Một số phƣơng diện chủ yếu
trong phong cách thơ Nguyễn Bính trƣớc năm 1945 (Nguyễn Thị Kim Dung,

15
2016), Mặc cảm tha hƣơng trong thơ Nguyễn Bính trƣớc Cách mạng (Lê Thị
Thu Hiến, 2006), Hệ thống biểu tƣợng trong thơ Nguyễn Bính trƣớc Cách mạng
(Lê Thị Hằng, 2008).
Những luận văn thạc sĩ nghiên cứu về thơ Nguyễn Bính từ góc độ ngôn
ngữ học có ít hơn, có thể kể tới các đề tài: Từ đồng nghĩa trong thơ Nguyễn Bính
(Vũ Thị Hoà, Khoá luận tốt nghiệp, Khoa Ngôn ngữ học, ĐHKHXH&NV, HN,
2007), Những phương tiện nối kết trong văn bản nghệ thuật (dựa trên cứ liệu thơ
Nguyễn Bính ) (Đỗ Anh Vũ, Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ, Khoa Ngôn ngữ,
ĐHKHXH&NV, HN, 2008), Chất chân quê trong thơ Nguyễn Bính từ góc độ
ngôn ngữ (Trần Yến Ngọc, 2010)
Nhìn chung, các luận văn trên đều tiếp cận thơ Nguyễn Bính từ góc độ
ngôn ngữ tác giả và/hoặc ngôn ngữ tác phẩm, cố gắng làm rõ phong cách riêng
của Nguyễn Bính trong tƣơng quan với các nhà thơ lãng mạn cùng thời. Khung lí
thuyết đƣợc các tác giả vận dụng chủ yếu vẫn đi theo con đƣờng phong cách học
truyền thống với phƣơng pháp miêu tả làm chủ đạp. Tóm lại, chƣa có một công
trình nào nghiên cứu về sự nghiệp thơ Nguyễn Bính giai đoạn trƣớc 1945 từ góc
nhìn ngôn ngữ học một cách thực sự toàn diện và đầy đủ.
1.2. Cơ sở lí thuyết
Đứng trƣớc tình hình nghiên cứu về ngôn ngữ thơ nói chung, tác phẩm
của Nguyễn Bính nói riêng nhƣ đã trình bày phía trên, luận án của chúng tôi
quyết định tiếp cận thế giới thơ của Nguyễn Bính trên ba bình diện: ngữ âm, ngữ
pháp và từ vựng ngữ nghĩa. Ở mỗi phần, chúng tôi đều có sự kế thừa và vận
dụng một phần lý thuyết tƣơng ứng của những tác giả đi trƣớc trong giới Việt
ngữ học.
1.2.1. Ngôn ngữ thơ là gì?
Xuất phát từ một định nghĩa về thơ nhƣ chúng tôi đã trình bày trong phần
trƣớc, ngôn ngữ thơ, theo đó, cần đƣợc hiểu là ngôn ngữ của tác phẩm thi ca,
đƣợc dùng trong thi ca. Ngôn ngữ thơ vì thế, đƣợc xem là một thứ ngôn ngữ
nghệ thuật có độ trau chuốt từ hình thức đến nội dung. Về hình thức, phải đảm
bảo đƣợc các tính chất nhƣ vần, nhịp, hòa âm. Về nội dung, ngôn ngữ của thơ

16
phải thể hiện đƣợc tính chất đặc trƣng là tƣ duy bằng hình tƣợng, cũng nhƣ thể
hiện đƣợc nguyên lý đem trục tuyển lựa chiếu lên trục kết hợp theo tinh thần của
Jakobson. Sự kết hợp hài hòa nhuẫn nhuyễn giữa phần hình thức và phần nội
dung của ngôn ngữ thơ sẽ tạo ra những tác phẩm với nội dung tích cực, khẳng
định những giá trị Chân, Thiện, Mỹ trong cuộc sống con ngƣời. Tìm hiểu ngôn
ngữ thơ nói chung, ngôn ngữ thơ của một tác giả nói riêng, sẽ kéo theo một loạt
các khái niệm cơ bản mà chúng tôi sẽ lần lƣợt trình bày trong những phần tiếp
theo dƣới đây: vần thơ (thi vận), nhịp điệu (thi điệu), tín hiệu thẩm mỹ, các lợp
từ trong tiếng Việt.
1.2.2. Vần thơ (Thi vận)
Tán thành quan điểm về vần của Mai Ngọc Chừ trong công trình Vần thơ
Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học, chúng tôi sử dụng định nghĩa về vần của
ông: “Vần là sự hòa âm, sự cộng hƣởng nhau theo những quy luật ngữ âm nhất
định giữa hai từ hoặc hai âm tiết ở trong hay cuối dòng thơ và thực hiện những
chức năng nhất định nhƣ liên kết các dòng thơ, gợi tả, nhấn mạnh sự ngừng
nhịp”. Dựa trên tiêu chí mức độ hòa âm giữa hai từ hiệp vần, Mai Ngọc Chừ
phân chia vần thành 3 loại là: vần chính, vần thông và vần ép với những miêu tả
cụ thể nhƣ sau:
- Vần chính
Hai âm tiết đƣợc coi là hiệp vần với nhau theo kiểu vần chính nếu chúng
đáp ứng đƣợc ba yêu cầu sau:
- Đồng nhất ở đặc trƣng tuyền điệu (cùng bằng hoặc cùng trắc) của thanh
điệu
- Đồng nhất ở thành phần âm cuối
- Đồng nhất ở thành phần âm chính
Các cặp vần chính lại có thể phân chia tiếp thành 4 tiểu nhóm nhƣ sau
Kiều 1: Khác nhau hoàn toàn ở âm đầu, thanh điệu đồng nhất hoàn toàn
hoặc đồng nhất đặc trƣng tuyền điệu, các thành phần khác đồng nhất hoàn toàn:
can – ban, kiếp – hiệp, tha – là, ai – hai

17
Kiểu 2: Khác nhau hoàn toàn ở âm đệm, thanh điệu đồng nhất hoàn toàn
hoặc đồng nhất đặc trƣng tuyền điệu, các thành phần khác đồng nhất hoàn toàn:
loan – lan, hoài – hài…
Kiểu 3: Khác nhau ở thanh điệu nhƣng vẫn nằm trong phạm vi đồng nhất
đặc trƣng tuyền điệu, các thành phần khác đồng nhất hoàn toàn: dài – dai, bồ -
bô…
Kiểu 4: Khác nhau vừa âm đầu vừa âm đệm, thanh điệu đồng nhất hoàn
toàn hoặc đồng nhất đặc trƣng tuyền điệu, các thành phần khác đồng nhất hoàn
toàn: quan – tan, oan – lan…
- Vần thông
Hai âm tiết đƣợc coi là hiệp vần với nhau theo kiểu vần thông nếu chúng
đáp ứng đƣợc ba yêu cầu sau:
- Thanh điệu đồng nhất hoàn toàn hoặc đồng nhất đặc trƣng tuyền điệu
- Âm cuối trong hai âm tiết hiệp vần hoặc đồng nhất hoàn toàn, hoặc đồng
nhất đặc trƣng vang, hoặc đồng nhất đặc trƣng vô thanh
- Âm chính trong cặp vần hoặc đồng nhất đặc trƣng âm sắc (cùng bổng,
cùng trầm vừa hoặc cùng trầm), hoặc đồng nhất đặc trƣng âm lƣợng (cùng âm
lƣợng lớn, cùng âm lƣợng trung bình hoặc cùng âm lƣợng nhỏ)
Các cặp vần thông lại có thể có các dạng nhƣ sau:
Kiểu 1: Chỉ khác nhau ở âm chính, các thành phần còn lại đồng nhất hoàn
toàn, ví dụ: quên – quen, chua – chƣa, hôn – hơn…
Kiểu 2: Khác nhau ở âm chính và một hoặc một số thành phần khác:
- Khác nhau ở âm chính và âm đầu: quên – hoen, mƣa - tua
- Khác nhau ở âm chính và âm cuối: quân – quang, cốc – cúp
- Khác nhau ở âm chính và âm đệm: toàn – tần, chuyến – chín
- Khác nhau ở âm chính và thanh điệu: mùa – mƣa, toan – tuần
- Khác nhau ở âm chính, âm đầu và âm đệm: tuyết – hét, tuần – hàn
Kiểu 3: Khác nhau ở tất cả các thành phần, chỉ đồng nhất những đặc trƣng
ngữ âm nhất định mà thôi. Ví dụ: quầng – lan, em – chuyền, tuất – lộc

18
Kiểu 4: Âm chính đồng nhất, thanh điệu đồng nhất hoàn toàn hoặc đồng
nhất đặc trƣng tuyền điệu, âm cuối giống nhau về đặc trƣng ngữ âm nhƣng
không đƣợc đồng nhất. Ví dụ: làng – làm.
- Vần ép
Hai âm tiết đƣợc coi là hiệp vần với nhau theo kiểu vần ép nếu đáp ứng
đƣợc các tiêu chuẩn sau:
- Thanh điệu và âm cuối đồng nhất hoàn toàn hoặc đồng nhất những đặc
trƣng ngữ âm nhất định
- Nguyên âm làm âm chính vừa không đồng nhất đặc trƣng âm sắc, vừa
không đồng nhất đặc trƣng âm lƣợng:
Xe đi xe đi mù trời không dứt
Xẻng cuốc bi đông chạm nhau lách cách
(Ghi chép ở đại đội – Bằng Việt)
Xin cảm ơn những ngày gian khổ
Những ngày rét khiến ta tìm ra lửa
(Xin cảm ơn những ngày gian khổ - Dƣơng Hƣơng Ly)
1.2.3. Nhịp điệu (Thi điệu)
Chúng tôi tán thành quan điểm của Vũ Thị Sao Chi trong công trình Nhịp
điệu ngôn ngữ thơ văn Việt Nam và sử dụng định nghĩa sau về nhịp điệu : “Nhịp
điệu là cách thức diễn ra lặp lại đều đặn theo chu kì của hiện tƣợng ngôn ngữ nào
đó trong tác phẩm văn chƣơng, gây ấn tƣợng về sự chuyển động nhịp nhàng, hài
hòa, cân đối. Nhịp là những khoảng, đoạn đều đặn, nối tiếp và lặp lại nhiều lần
theo chu kỳ nhất định, còn điệu chính là tính chất, đƣờng nét vận động của
nhịp”.
Để nhận diện về nhịp có thể thông qua bộ tiêu chí gồm 9 điểm:
ngừng/ngắt nhịp, trƣờng độ, cao độ, tốc độ, cƣờng độ, điểm nhấn, đƣờng nét,
hiệp vần (hòa âm) và phối hợp thanh điệu (hòa thanh).
Tuy thế, chúng tôi cũng cho rằng, để tránh rƣờm rà và cồng kềnh, có thể
gộp các tiêu chí 3 (cao độ), 7 (đƣờng nét) và 9 (phối hợp thanh điệu) lại trong
một tiêu chí, tạm gọi tên là “cao độ và đƣờng nét”. Sở dĩ có thể gộp ba tiêu chí

19
này lại, là vì theo chúng tôi, ba tiêu chí này đều dựa vào vai trò cốt yếu của thanh
điệu trong việc góp phần làm nên giá trị về nhịp điệu của tác phẩm văn chƣơng.
Sau cùng, chúng tôi cho rằng chỉ cần 7 tiêu chí là đủ để nhận diện nhịp điệu của
tác phẩm thi ca: ngừng/ngắt nhịp, trường độ, cao độ và đường nét, tốc độ, cường
độ, điểm nhấn và hiệp vần.
Ngoài bộ tiêu chí 7 yếu tố gắn với cái gọi là nhịp điệu âm của một tác
phẩm, thì bên cạnh đó, chúng ta cũng cần bàn tới nhịp điệu ý của mỗi tác phẩm.
Theo đó, nhịp điệu ý đƣợc hiểu là sự lặp lại có tính chất chu kỳ của các yếu tố
thuộc bình diện nội dung ý nghĩa của tác phẩm nghệ thuật nhƣ hình ảnh, sự kiện,
trạng thái, cảm xúc hay một motip nào đó. Đứng từ một góc nhìn khác, nhịp điệu
ý rất gần gũi với thủ pháp điệp (hoặc trùng điệp, đồng hƣớng) trong văn chƣơng.
Chẳng hạn trong bài thơ Tràng giang nổi tiếng của Huy Cận, cảm giác - ấn
tƣợng về không gian vũ trụ rộng lớn, rợn ngợp, mênh mông bộc lộ qua một loạt
hình ảnh - từ ngữ nhƣ: sóng gợn tràng giang, nước song song, sầu trăm ngả,
nắng xuống trời lên, sông dài trời rộng, bờ xanh tiếp bãi vàng, lớp lớp mây cao
đùn núi bạc. Tƣơng phản với vũ trụ rộng lớn là cái bé nhỏ, mong manh, cô đơn
côi cút của kiếp ngƣời, đƣợc thể hiện qua các hình ảnh: con thuyền, cành củi,
cồn nhỏ, bến cô liêu, chim nghiêng cánh nhỏ...
Trong một bài thơ tiền chiến khác có tên Sầu xuân (Hàn Mặc Tử), một
loạt các hình ảnh thiên nhiên xuất hiện đều gợi cảm giác trống vắng, buồn bã,
hao khuyết: đêm xuân lạnh, bóng xuân tàn, trời xuân vắng vẻ, sông xuân lặng
lẽ...
1.2.4. Trường từ vựng và trường nghĩa
Vấn đề trƣờng từ vựng và trƣờng nghĩa đã đƣợc một số nhà Ngữ
học ngƣời Đức bàn tới từ nửa đầu thế kỷ trƣớc nhƣ J. Trier và L. Weisgerber, nó
tiếp tục đƣợc kế thừa và phát triển ở Việt Nam với các quan điểm của Đỗ Hữu
Châu (1998) và Nguyễn Thiện Giáp (1985, 1996, 2015). Tƣ tƣởng về trƣờng từ
vựng ngữ nghĩa của Đỗ Hữu Châu có vài điểm nổi bật đáng lƣu ý, đó là việc
lƣỡng phân thành hai loại: trƣờng từ vựng ngữ nghĩa biểu vật và trƣờng từ vựng
ngữ nghĩa biểu niệm, vấn đề ngoại vi của trƣờng từ vựng và vấn đề tổ hợp tuyến

20
tính của trƣờng từ vựng. Còn Nguyễn Thiện Giáp thì đề xuất sự phân biệt rạch
ròi giữa trƣờng nghĩa và trƣờng từ vựng, trong đó trƣờng nghĩa là “tập hợp các
đơn vị từ vựng có chung một thành tố nghĩa có giá trị nhận diện một trƣờng
nghĩa”; còn trƣờng từ vựng là “tập hợp các từ ngữ có những đơn vị từ vựng cơ
sở cùng thuộc trƣờng nghĩa này”. Nhƣ vậy, theo quan điểm của Nguyễn Thiện
Giáp, khái niệm “trƣờng nghĩa” sẽ có nội hàm lớn hơn khái niệm “trƣờng từ
vựng”. Ở chƣơng 3 của luận án, chúng tôi tập trung khảo cứu miêu tả một số
trƣờng từ vựng nổi bật trong thơ Nguyễn Bính, đó là các trƣờng từ vựng về
không gian, thời gian, con ngƣời và thiên nhiên .
1.2.5. Tín hiệu thẩm mỹ
Một phần của chƣơng 3 đi vào miêu tả một số tín hiệu thẩm mỹ đặc sắc
trong thơ Nguyễn Bính. Nói đến tín hiệu thẩm mĩ là nói đến một vấn đề lí luận
mang tính liên ngành, có thể nói, đây là một thuật ngữ chung có thể dùng trong
nhều bộ môn nghệ thuật nhƣng có lẽ nổi lên và quen thuộc hơn cả là ngƣời ta
thƣờng nói đến tín hiệu thẩm mĩ nhƣ sự thể hiện của những tín hiệu ngôn ngữ
đƣợc đặt trong mối quan hệ với tác phẩm văn chƣơng. Với một tín hiệu ngôn
ngữ thông thƣờng, nhƣng khi đi vào tác phẩm thi ca và nhờ sự tài hoa của ngƣời
nghệ sĩ, nó lập tức đƣợc chuyển hoá thành tín hiệu nghệ thuật, tín hiệu thẩm mĩ –
ngôn ngữ hay cũng gọi là tín hiệu văn chƣơng. Chúng tôi theo quan niệm của các
tác giả Đỗ Ngọc Thƣ – Bình Thành [56] về tín hiệu thẩm mĩ nhƣ sau: “Tín hiệu
thẩm mĩ là tín hiệu thuộc hệ thống các phương tiện biểu hiện của các ngành
nghệ thuật bao gồm toàn bộ những yếu tố của hiện thực, của tâm trạng (những
chi tiết, những sự vật, hiện tượng, cảm xúc…thuộc đời sống hiện thực), những
yếu tố của chất liệu (các yếu tố của chất liệu ngôn ngữ với văn chương, các yếu
tố của chất liệu màu sắc với hội hoạ, các yếu tố của chất liệu âm thanh, nhịp
điệu với âm nhạc…) được lựa chọn và sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật vì
mục đích thẩm mĩ”. Tín hiệu thẩm mĩ sẽ đƣợc thể hiện ở cả bình diện trừu tƣợng
lẫn bình diện cụ thể. Nếu nhƣ ở bình diện trừu tƣợng là những hằng thể, nguyên
mẫu có tính cố định, bất biến thì ở bình diện cụ thể là sự thể hiện muôn màu
muôn vẻ của tín hiệu ấy, có khi đƣợc lồng cả vào đó những quan niệm về nghệ

21
thuật, nhân sinh quan và thế giới quan. Ngƣời ta gọi hệ lƣỡng phân trên là cấu
trúc của một tín hiệu thẩm mĩ. Ngoài ba tín hiệu thẩm mỹ vƣờn - bƣớm - rƣợu
đƣợc dành một tiểu mục riêng, các tín hiệu thẩm mĩ khác cũng đƣợc khảo sát và
phân tích, trải khắp trong các khu vực: không gian nghệ thuật, thời gian nghệ
thuật, các yếu tố ngôn ngữ chỉ thiên nhiên và các yếu tố ngôn ngữ chỉ con ngƣời.
1.2.6. Các lớp từ
Theo Nguyễn Thiện Giáp trong giáo trình Từ vựng học tiếng Việt, các
lớp từ trong hệ thống từ vựng tiếng Việt có thể phân chia dựa trên các tiêu chí về
nguồn gốc, phạm vi sử dụng, mức độ sử dụng và phong cách học. Lớp từ ngữ
điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính mà chúng tôi dành một tiểu mục riêng
để bàn đến trong chƣơng 3 có thể xếp vào nhóm từ ngữ cổ/ từ ngữ lịch sử nếu
dựa trên tiêu chí mức độ sử dụng, hoặc xếp vào nhóm từ vựng sách vở nếu dựa
trên tiêu chí phong cách học.
1.3. Đôi nét về thân thế sự nghiệp Nguyễn Bính
Nguyễn Bính đƣợc giới văn chƣơng Việt Nam biết đến và nhớ tới với tƣ
cách một nhà thơ nổi tiếng của phong trào Thơ Mới lãng mạn 1932 – 1945. Ông
có tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính, sinh vào cuối xuân đầu hạ năm Mậu Ngọ
1918 tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hoà), huyện
Vụ Bản, tỉnh Nam Định, trong một gia đình nhà nho nghèo. Nguyễn Bính không
hề học ở trƣờng, chỉ học ở nhà với cha và cậu, bắt đầu làm thơ từ năm 13 tuổi.
Năm 1932, Nguyễn Bính rời quê ra Hà Nội, trình làng bằng bài Mưa xuân
(1936) trên tờ Ngày nay và nổi tiếng từ bài Cô hái mơ (1937). Cũng trong năm
1937, ông nhận đƣợc giải khuyến khích về thơ của Tự lực văn đoàn, một giải
thƣởng văn chƣơng danh giá đƣơng thời. Tập thơ đầu tiên của Nguyễn Bính là
tập Lỡ bước sang ngang (Lê Cƣờng, Hà Nội, 1940), tiếp theo đó ba năm (1940 –
1942), ông cho ra mắt liên tiếp 6 tập thơ: Tâm hồn tôi (Lê Cƣờng, 1940), Hương
cố nhân (Asiatia, 1941), Một nghìn cửa sổ (1941), Mười hai bến nước (Mộng
Hàm, 1942), Người con gái ở lầu hoa (Hƣơng Sơn, 1942) và Mây Tần (1942).
Tính cho đến năm 1941, theo Hoài Thanh, Nguyễn Bính đã làm đƣợc gần 1000
bài thơ. 7 tập thơ vừa kể trên đã tạo cho Nguyễn Bính một vị trí vững vàng,

22
không thể nhoà lẫn trong những khuôn mặt thi ca sáng giá nhất của phong trào
Thơ Mới. Cũng vẫn trong thời kỳ trƣớc 1945, Nguyễn Bính còn đoạt Giải nhất
văn học Nam Xuyên ở Sài Gòn với truyện thơ Cây đàn tỳ bà (1944).
Trong Cách mạng tháng 8 và suốt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp,
Nguyễn Bính hoạt động ở Nam Bộ. Nhà thơ hăng hái tham gia mọi công tác và
đƣợc giao giữ những trách nhiệm trọng yếu: phụ trách Hội văn nghệ cứu quốc
tỉnh Rạch Giá, sau làm ở Ban văn nghệ thuộc Phòng Tuyên huấn Quân khu Tám.
Tháng 11 năm 1954, Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, công tác ở Hội nhà văn Việt
Nam, năm 1956 làm chủ bút tuần báo Trăm Hoa. Đầu năm 1964, sau một số sự
vụ rắc rối xảy ra ở báo Trăm Hoa, Nguyễn Bính chuyển công tác về Ty văn hoá
Nam Hà (cũ). Nguyễn Bính mất đột ngột vào sáng 29 Tết năm Ất Tỵ, năm đó
không có ngày 30 Tết (tức ngày 20 tháng 1 năm 1966), tại thôn Mạc Hạ, huyện
Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
Cũng giống nhƣ nhiều nhà thơ khác của văn học Việt Nam thế kỷ 20,
chặng đƣờng thi ca của Nguyễn Bính chia làm hai giai đoạn lớn: trƣớc 1945 và
sau 1945.
Trong giai đoạn trƣớc 1945, ngoài 7 tập thơ và một truyện thơ đã nói đến
ở phần trên, Nguyễn Bính còn có hai truyện thơ nữa là Cô gái Ba Tư (1943) và
Thạch xương bồ (1944), 2 tập kịch thơ Bóng giai nhân (viết chung với Yến Lan,
1942), Nguyễn Trãi (1943) và 3 tập truyện: Ngậm miệng (1940), Không nhan sắc
(1942) và Không đất cắm dùi (1944).
Sau 1945, Nguyễn Bính vẫn chủ yếu là sáng tác thơ nhƣng các tác phẩm
của ông dƣờng nhƣ không còn đặc sắc nhƣ thời kỳ trƣớc cách mạng nữa. Vì lẽ
đó, phạm vi tƣ liệu của chúng tôi trong luận văn này chỉ tập trung vào những tác
phẩm trƣớc cách mạng của Nguyễn Bính mà thôi. Các tác phẩm trong thời kỳ
sau 1945 của Nguyễn Bính gồm có: Tập thơ yêu nước (thơ, 1947), Sóng biển cỏ
(thơ, 1947), Ông lão mài gươm (thơ, 1947), Sang máu (truyện, 1947), Trăng kia
đã đứng ngang đầu (thơ, 1953), Những dòng tâm huyết (thơ, 1953), Mừng Đảng
ra đời (thơ, 1953), Trả ta về (thơ, 1955), Đồng Tháp Mười (thơ, 1955), Gửi
người vợ miền Nam (thơ, 1955), Cách làm thơ lục bát (lý luận sáng tác, 1955),

23
Nước giếng thơi (thơ, 1957), Trông bóng cờ bay (truyện thơ, 1957), Tiếng trống
đêm xuân (truyện thơ, 1958), Tình nghĩa đôi ta (thơ, 1960), Cô Son (kịch bản
chèo, 1961), Đêm sao sáng (thơ, 1962), Người lái đò sông Vị (kịch bản chèo,
1964).
Nhƣ vậy, trong cuộc đời 30 năm sáng tác (1936 – 1966), Nguyễn Bính đã
để lại một di sản khá đồ sộ gồm khoảng 33 tập tác phẩm trong đó có 19 tập thơ,
5 truyện thơ, 2 kịch thơ, 4 tập truyện, 2 kịch bản chèo và một tập lí luận sáng tác.
Trong những di sản Nguyễn Bính để lại thì những tác phẩm thơ vẫn là thể loại
chiếm số lƣợng đông đảo nhất và nhƣ đã nói, tinh hoa thơ Nguyễn Bính chủ yếu
nằm trong những sáng tác trƣớc cách mạng.
Cuộc đời Nguyễn Bính là điển hình cho một kiếp sống tài hoa và đậm
chất giang hồ lãng tử. Ông yêu nhiều, lấy vợ muộn và có lẽ cuộc sống gia đình
cũng không mấy hạnh phúc bởi cả cuộc đời Nguyễn Bính sống trong nghèo túng.
Nhƣng những vần thơ ông để lại cho đời thì mãi mãi thì mãi mãi là tài sản tinh
thần vô giá, in sâu vào trí nhớ, vào trái tim của bao thế hệ ngƣời Việt. Sau
Nguyễn Du của thời kỳ trung đại, Nguyễn Bính xứng đáng đƣợc coi là ông vua
lục bát của nửa đầu thế kỷ XX.
Năm 2000, Nguyễn Bính đƣợc truy tặng Giải thƣởng Hồ Chí Minh về văn
học nghệ thuật.
1.4. Tiểu kết
Trong chƣơng này, chúng tôi đã làm một miêu tả tổng quan về tình hình
nghiên cứu thơ nói chung, nghiên cứu Nguyễn Bính nói riêng, cũng nhƣ những
khái niệm cơ bản làm tiền đề lí thuyết cho việc khảo tả các đặc điểm thơ Nguyễn
Bính trong các chƣơng tiếp theo. Những nghiên cứu về Nguyễn Bính từ trƣớc
đến nay rõ ràng mới chỉ dừng lại từ góc độ văn học chứ thực sự chƣa có những
khảo sát kỹ lƣỡng từ góc nhìn ngôn ngữ. Bởi thế, dựa trên những cơ sở lí thuyết
đã trình bày, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát, miêu tả và phân tích cả bình diện
hình thức lẫn bình diện ngữ nghĩa đối với ngôn ngữ thơ của Nguyễn Bính, nhằm
đi đến một bức tranh toàn cảnh về thế giới thơ của Nguyễn Bính trƣớc 1945.

24
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC THƠ NGUYỄN BÍNH

2.1. Đặc điểm vần thơ Nguyễn Bính


Trong sự nghiệp thơ ca trƣớc 1945, với 272 bài thơ để lại, hai thể loại thơ
đƣợc Nguyễn Bính ƣa dùng hơn cả là lục bát và thất ngôn. 5 thể loại khác ít
đƣợc dùng hơn gồm: ngũ ngôn, tự do, bốn chữ, hát nói và song thất lục bát.
Số lƣợng các bài thơ tƣơng ứng với mỗi thể loại cụ thể nhƣ sau:
Bảng 2.1: Số lƣợng các thể thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945:
Lục Thất Ngũ Bốn Tự Hát Song thất Tổng
bát ngôn ngôn chữ do nói lục bát cộng
272
122 130 10 3 4 2 1
bài
Nhóm Thất ngôn lại có thể chia nhỏ thành 4 tiểu nhóm nhƣ sau:
Bảng 2.2: Phân loại thể thất ngôn trong thơ Nguyễn Bính trƣớc
1945:
Thất ngôn Thất ngôn Thất ngôn trƣờng
Thất ngôn bát cú
bốn câu nhiều khổ thiên
2bài 15 bài 105 bài 8 bài
Do hai thể loại thất ngôn và lục bát chiếm phần đại đa số trong các sáng
tác của Nguyễn Bính 252/272 (chiếm 93%) và cũng là hai thể loại hội tụ gần nhƣ
đẩy đủ các kiệt tác của Nguyễn Bính nên chúng tôi sẽ chỉ tập trung khảo sát,
miêu tả và phân tích đặc điểm vần thơ ở hai thể loại này. Những bài thơ thuộc
các thể loại khác chỉ nhắc đến khi cảm thấy thực sự cần thiết.

2.1.1. Mức độ hòa âm trong vần thơ thất ngôn của Nguyễn Bính
Trong bốn tiểu nhóm của thơ thất ngôn Nguyễn Bính nhƣ đã nói phía trên,
chúng tôi tách tiểu nhóm thất ngôn trƣờng thiên sang một bên để dành một phần
riêng bàn về chúng. Ở ba tiểu nhóm còn lại là thất ngôn bát cú, thất ngôn bốn câu
và thất ngôn nhiều khổ, chúng tôi thổng kê đƣợc có tất cả 1137 cặp/lần hiệp vần
trong đó vần chính gồm 652 cặp, vần thông gồm 485 cặp và không có vần ép. Có
thể tổng kết các loại vần trong thể thất ngôn cùng tỉ lệ của chúng theo bảng sau:

25
Bảng 2.3: Số lƣợng các loại vần trong thể thất ngôn của thơ Nguyễn
Bính trƣớc 1945:
Vần chính Vần thông Vần ép Tổng số
652 485 0 1137 cặp
57% 43% 0% 100%
Có thể nói, nhà thơ có ý thức rất cao về mặt dụng công trau chuốt cho
hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Theo lý thuyết về đặc điểm của vần thơ nhìn
từ mức độ hòa âm, nhà thơ càng tạo đƣợc nhiều sự hiệp vần theo kiểu vần chính
thì âm điệu, âm hƣởng của thi phẩm càng dễ đi vào lòng ngƣời, dễ nhớ dễ thuộc,
đồng thời cũng góp phần tạo ra một mỹ cảm về nhạc tính cho thi phẩm. Trong
các bài thơ thuộc nhóm thất ngôn của Nguyễn Bính, có tới 4 bài thơ đƣợc hiệp
vần chính một cách tuyệt đối. Trong đó có một bài thơ chữ Hán và 3 bài, Cô hái
mơ, Gái xuân và Đề thơ trên mảnh quạt vàng
Bài thơ chữ Hán có tựa đề Lời một người sư nữ nhớ nhà với nguyên văn
nhƣ sau: Bạch phát thời nhân sổ quá quan/Ngã quy cố tự bất thanh nhàn/Ni cô
tảo giá Bồng Lai quốc/Hòa thượng vân du Yên Tử san/Cố quận mẫu thân do
chức cẩm/Dương thời tiểu muội dĩ tài lan/Ký như tráng sĩ Yên Kinh khứ/Nhất
quá mê tân bất nhẫn hoàn
Theo đúng luật thơ Đƣờng ở bài thất ngôn bát cú, các chữ cuối cùng của
những câu 1, 2, 4, 6, 8 phải hiệp vần với nhau. Ở bài thơ của Nguyễn Bính, các
vị trí nói trên đã đƣợc hiệp vần một cách nghiêm chỉnh, hơn nữa lại đƣợc hiệp
theo lối vần chính, tạo nên sự chuẩn mực về mặt hình thức và thấm đẫm phong
vị cổ xƣa. Nhƣ vậy, các chữ quan, nhàn, san, lan, hoàn đã góp phần tạo ra một
tính liên kết chặt chẽ cũng nhƣ tạo một mỹ cảm mang tính cổ điển cho thi phẩm.
Dĩ nhiên bên cạnh đó, còn phải thấy đây là một bài thơ có ý tình mới mẻ, đƣợc
viết ra bởi một con ngƣời mang ý thức cá nhân rõ nét của thời kỳ hiện đại.
Với 3 bài thất ngôn còn lại đƣợc gieo vần chính một cách tuyệt đối, chúng
tôi muốn nhấn mạnh vào 2 bài Cô hái mơ và Gái xuân hơn cả. Bởi chúng tôi
cho rằng, chính giá trị của vần chính trong bài thơ này kết hợp cùng sự phân bố
thanh điệu đã làm cho hai thi phẩm đầy ắp nhạc tính, mang đến một độ rung cảm

26
mạnh mẽ để những ngƣời nhạc sĩ làm nên những ca khúc có sức sống mãnh liệt.
Trƣớc tiên xin đọc lại bài Cô hái mơ: Thơ thẩn đường chiều một khách thơ/Say
nhìn qua rặng núi xanh lơ/Khí trời lặng lẽ và trong trẻo/Thấp thoáng rừng mơ
cô hái mơ/Hỡi cô con gái hái mơ già/Cô chửa về ư đường thì xa/Mà ánh trời
hôm dần một tắt/Hay cô ở lại về cùng ta/Nhà ta ở dưới gốc cây dương/Cách
động Hương Sơn nửa dặm đường/Có suối nước trong tuôn róc rách/Có hoa bên
suối ngát đưa hương/Cô hái mơ ơi! Cô gái ơi/Chẳng trả lời nhau lấy một lời/Cứ
lặng rồi đi rồi khuất bóng/Rừng mơ hiu hắt lá mơ rơi
Bài thơ có 4 khổ với bốn lần hiệp vần chính. Khổ 1 tạo ra sự hiệp vần theo
kiểu vần chính giữa các đơn vị thơ – lơ – mơ. Khổ 2 tạo ra sự hiệp vần theo kiểu
vần chính giữa các đơn vị già – xa – ta. Khổ 3 tạo ra sự hiệp vần theo kiểu vần
chính giữa các đơn vị dương – đường – hương. Khổ 4 tạo ra sự hiếp vần theo
kiểu vần chính giữa các đơn vị ơi – lời – rơi. Các đơn vị nói trên ngoài giá trị về
mặt hòa âm tuyệt đối còn có giá trị ngữ âm trong việc tạo những âm hƣởng khác
nhau, phù hợp với tâm trạng cảm xúc của chủ thể trữ tình. Cụ thể, âm hƣởng bay
xa đƣợc tạo ra bởi các đơn vị mang vần /ơ/, /a/ vốn có độ mở lớn. Âm hƣởng
vang vọng đƣợc tạo bởi các đơn vị mang vần /ƣơng/ vốn có phụ âm /ng/ là phụ
âm mang tính chất mũi, tạo độ vang vọng. Cuối cùng, lúc bóng ngƣời con gái
dần xa khuất chính là lúc bán nguyên âm /i/ xuất hiện để kết thúc âm tiết trong
các đơn vị hiệp vần mang vần /ơi/. Độ mở của vần /ơi/ này thấp hơn cả so với
các đơn vị hiệp vần ở trên, nhƣ muốn diễn tả một bức tranh dần khép lại, một
bóng ngƣời dần mờ khuất không còn thấy rõ, chỉ có lá vàng hiu hắt rơi giữa rừng
thu…Nếu ta kết hợp với quan sát về phân bố thanh điệu, sẽ thấy bài thơ có nhiều
điểm đặc biệt. Có thể tổng kết qua bảng dƣới đây:
Bảng 2.4: Bảng phân bố thanh điệu trong bài thơ Cô hái mơ:
Không đứt Âm vực Âm vực
Bằng Trắc Đứt gẫy
gẫy cao thấp
64 48 9 103 73 39
57% 43% 9% 91% 65% 35%

27
Ta thấy, tỉ lệ thanh bằng áp đảo thanh trắc, thanh điệu không đứt gẫy áp
đảo thanh điệu có tính đứt gẫy, thanh điệu mang âm vực cao áp đảo thanh điệu
mang âm vực thấp. Tất cả những điều này cộng hƣởng cùng lối hiệp vần theo
kiểu vần chính đã làm nên một nhạc tính độc đáo cho bài thơ Cô hái mơ. Điều
này dẫn đến việc có tới ba bản nhạc phổ cho cùng một thi phẩm, trong đó có hai
bản nổi tiếng của Phạm Duy phổ năm 1942 và Hoàng Thanh Tâm phổ năm
1973. Bản thứ ba của tác giả Đỗ Xuân Thịnh.
Gái xuân tiếp tục là một bài thơ đặc biệt khác với kiểu hiệp vần theo lối
vần chính trong tất cả các khổ thơ: Em như cô gái hãy còn xuân/Trong trắng
thân chưa lấm bụi trần/Xuân đến hoa mơ hoa mận nở/Gái xuân giũ lụa trên
sông Vân/Lòng xuân lơ đãng má xuân hồng/Cô gái xuân mơ chuyện vợ
chồng/Đôi tám xuân đi trên mái tóc/Đêm xuân cô ngủ có buồn không?
Khổ 1 hiệp vần theo lối vần chính bởi các đơn vị xuân – trần – Vân. Khổ
2 hiệp vần theo lối vần chính bởi các đơn vị hồng – chồng – không. Các đơn vị
hiệp vần nói trên đều kết thúc bằng những phụ âm mang tính chất mũi, tạo độ
vang là /n/ và /ng/. Tỉ lệ phân bố thanh điệu theo các tiêu chí bằng/trắc, đứt
gẫy/không đứt gẫy/, âm vực cao/âm vực thấp cũng tƣơng tự nhƣ bài Cô hái mơ,
thậm chí các yếu tố mang nhạc tính cao đều áp đảo nếu so sánh về mặt tỉ lệ. Nói
một cách khác, nhạc tính của bài Gái xuân còn “đậm đà” hơn so với bài Cô hái

Bảng 2.5: Bảng phân bố thanh điệu trong bài thơ Gái xuân
Không đứt Âm vực Âm vực
Bằng Trắc Đứt gẫy
gẫy cao thấp
42 14 4 52 43 13
75% 25% 7% 93% 77% 23%
Tóm lại, cách hiệp vần theo lối vần chính trong bài Gái xuân kết
hợp cùng sự phân bố thanh điệu cũng đã làm nên một nhạc tính mạnh mẽ cho thi
phẩm. Bài hát Gái xuân do nhạc sĩ Từ Vũ phổ nhạc từ bài thơ Gái xuân của
Nguyễn Bính đã khẳng định đƣợc sức sống lâu bền của nó trong suốt hơn nửa
thế kỷ qua, là ca khúc không thể thiếu đƣợc mỗi dịp Tết đến xuân về.

28
Trong các khổ thơ thất ngôn của Nguyễn Bính, các đơn vị hiệp vần
chủ yếu đều là những tiếng mang thanh bằng. Tuy nhiên cũng có 3 trƣờng hợp
các đơn vị hiệp vần lại mang thanh trắc. Đây rõ ràng là những dụng ý nghệ thuật,
mang giá trị nhƣ những điểm nhấn đặc biệt khi ta đặt các khổ thơ này trong mối
tƣơng quan với các khổ còn lại của toàn bộ bài thơ: Nhưng vẫn vô tình như
chẳng biết/Người mà khách vẫn yêu tha thiết/Ngẩn ngơ hôn những cánh hoa
tươi/Và ngẩn ngơ nhìn tàn lá biếc (Vô tình),Trên ngọn xoan đào cao chót
vót/Một con chim khuyên đang nhảy nhót/Như đùa với đám lá xanh xanh/Làm
rơi những hạt sương còn sót…Lá kia đã có chim làm bạn/Hoa này có miệng ta
mơn trớn/Còn ta đâu hỡi người yêu đương/Trong ánh ban mai trời xán lạn
(Trong vƣờn cúc)
2.1.2. Phân bố vần khổ thơ thất ngôn của Nguyễn Bính
Không tính 02 bài thất ngôn bát cú, thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945 có
tất cả 610 khổ thất ngôn trên tổng số 120 bài thơ (105 bài thất ngôn nhiều khổ và
15 bài thất ngôn bốn câu). Các khổ thơ thất ngôn của Nguyễn Bính có ba hình
thức phân bố vần: AABA, BACA và BABA (các chữ cái giống nhau tƣơng ứng
với vị trí các âm tiết đƣợc hiệp vần nằm ở cuối mỗi câu thơ).
2.1.2.1. AABA
Đây là hình thức chủ đạo, chiếm số lƣợng lớn nhất trong các khổ thơ thất
ngôn của Nguyễn Bính. Có tới 441 khổ thơ phân bố vần theo mô hình này,
chiếm tỉ lệ 72% trong tổng số 610 khổ thơ: Chiều nay… thương nhớ nhất chiều
nay/Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy/Tôi uống cạn em và uống cả/Một trời
quan tái mấy cho say(Một trời quan tái)
Nhiều bài thơ nổi tiếng của Nguyễn Bính đều sử dụng mô hình gieo vần
này trong suốt bài thơ hoặc nhiều khổ của bài thơ nhƣ Hoa với rƣợu, Xuân về,
Mƣa xuân, Ghen, Nhạc xuân, Cô lái đò, Cô hái mơ, Gái xuân, Những bóng
ngƣời trên sân ga…
2.1.2.2. BACA
Hình thức gieo vần này chiếm số lƣợng lớn thứ hai trong các khổ thơ thất
ngôn của Nguyễn Bính. Nhóm này gồm 157 khổ, chiếm 26% trong tổng số 610

29
khổ thơ: Em là con gái trong khung cửi/Dệt lụa quanh năm với mẹ già/Lòng trẻ
còn như cây lụa trắng/Mẹ già chưa bán chợ đường xa(Mƣa xuân), Một bông cúc
nở trong vườn vắng/Gió lạnh ngàn phương lướt thướt về/Lá úa dần mòn rơi
rụng hết/Sương mờ giăng mắc lụa lê thê(Đôi nhạn)
2.1.2.3. BABA
Hình thức này tạo nên hai cặp hiệp vần trong cùng một khổ thơ. Loại này
chỉ có 12 trƣờng hợp, chiếm tỉ lệ 2% trong tổng số 610 khổ thơ: Anh ơi! Em nhớ
em không nói/Nhớ cứ đầy lên cứ rối lên/Từ đó về đây xa quá đỗi!/Đường đi
bằng ngựa hay bằng thuyền(Nhớ), Cánh cửa vườn hoang từ dạo ấy/Mấy dòng
tơ nhện trắng niêm phong/Ai đi qua đấy, về qua đấy/Hãy xóa giùm tôi lấy một
dòng(Vƣờn hoang)
Thực ra trong những bài tứ tuyệt của Nguyễn Bính còn có một hình thức
phân bố vần nữa là ABBA. Nhƣng trƣờng hợp này chỉ xảy ra đúng một lần trong
một bài tứ tuyệt có hai câu đầu bảy chữ và hai câu sau tám chữ. Có nhà nghiên
cứu còn hình thức phân bố này là “vần ôm nhau”, phân biệt với “vần liền” và
vần “gián cách”: Tâm hồn tôi là bình rượu nhỏ/Rót lần rót mãi xuống nàng
Oanh/Không xua tay nhưng nàng đã vô tình/Hắt ly rượu hồn tôi qua cửa
sổ(Tâm hồn tôi)
Tóm lại, hình thức AABA là hình thức đƣợc Nguyễn Bính ƣa chuộng
nhất. Hình thức này tạo ra độ phong phú và ổn định về vần, khiến cho ngƣời đọc
dễ nhớ, dễ thuộc, dễ tri nhận. Theo ý kiến chúng tôi, hình thức phân bố vần này
chính là hậu thân của bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt Đƣờng luật hoặc 4 câu đầu của
bài Thất ngôn bát cú Đƣờng luật. Đây là một biểu hiện về hình thức để chứng
minh rằng thơ Nguyễn Bính mang đậm phong vị cổ điển. Bản thân ông cũng vẫn
còn làm thơ chữ Hán thất ngôn bát cú Đƣờng luật, thơ thất ngôn bát cú quốc ngữ
và thể loại thất ngôn trƣờng thiên mà chúng tôi tiếp tục trình bày dƣới đây chính
là một dấu ấn đậm nét nữa của phong cách cổ điển ảnh hƣởng từ thơ Đƣờng. Có
thể tổng kết sự phân bố vần thơ thất ngôn Nguyễn Bính qua bảng dƣới đây:
Bảng 2.6: Tổng kết phân bố vần thơ thất ngôn Nguyễn Bính trƣớc
1945:

30
AABA BACA BABA Tổng số
441 khổ 157 khổ 12 khổ 610 khổ
72% 26% 2% 100%
2.1.3. Những bài thơ thất ngôn trƣờng thiên của Nguyễn Bính
Nguyễn Bính có tất cả 8 bài thất ngôn trƣờng thiên. Hình thức của thể loại
này là không chia khổ hoặc có chia khổ nhƣng mỗi khổ có rất nhiều câu thơ và
số lƣợng các câu thơ trong mỗi khổ không cố định. Song điều đặc biệt là ở
những bài thơ này, rất ít có sự thay đổi về khuôn vần. Có đến 6/8 bài thơ chỉ
dùng một vần từ đầu đến cuối bài thơ. Tình hình cụ thể nhƣ sau:
1. Bài Tạ Từ gồm 34 câu, chỉ sử dụng khuôn vần “an” - “ang”
2. Bài Đêm mƣa đất khách gồm 38 câu, sử dụng khuôn vần “a” và đây
cũng là bài thơ hiệp vần theo lối vần chính trong suốt cả bài thơ.
3. Bài Hành phƣơng Nam gồm 43 câu, 32 câu đầu dùng một khuôn vần
“ay” và 11 câu sau dùng một khuôn vần “ơi”
4. Bài Bài thơ vần Rẫy gồm 44 câu, sử dụng duy nhất một khuôn vần
“ây”
5. Bài Trời mƣa ở Huế gồm 60 câu, sử dụng duy nhất một khuôn vần
“ay”
6. Bài Oan nghiệt gồm 72 câu, 40 câu đầu dùng khuôn vần “ôi” – “ơi”,
20 câu tiếp theo dùng khuôn vần “a”, 12 câu cuối dùng khuôn vần “on”
7. Bài Xuân vẫn tha hƣơng gồm 96 câu, sử dụng một khuôn vần duy
nhất: “ƣơng”
8. Bài Xuân tha hƣơng gồm 100 câu, sử dụng duy nhất một khuôn vần
“ong” – “ung” – “ông”.
Về mặt nguồn gốc, chúng tôi cho rằng những bài thơ theo hình thức nói
trên xuất phát từ thể loại cổ phong của thơ Đƣờng. Thể cổ phong của thơ Đƣờng
chấp nhận những bài thơ có độ dài không giới hạn, thƣờng gọi là ngũ ngôn cổ
thể trƣờng thiên hoặc thất ngôn cổ thể trƣờng thiên. Những bài thơ tiêu biểu nhất
cho thể loại này có thể kể đến là Tỳ bà hành và Trƣờng hận ca của Bạch Cƣ
Dị. Tỳ bà hành gồm 88 câu thất ngôn và có sự thay đổi về vần qua mỗi khổ thơ.

31
Trƣờng hận ca gồm 120 câu thơ viết liền một mạch không chia khổ và cũng có
sự thay đổi về hiệp vần.
Lựa chọn thể trƣờng thiên nói trên qua 8 bài thơ, theo tôi Nguyễn Bính đã
chứng tỏ hai điều. Điều thứ nhất, hình thức của thơ ông gợi sự hoài niệm, nó gắn
liền với phong cách cổ điển của bao áng văn chƣơng lẫy lừng trong thi ca truyền
thống. Điều thứ hai, hình thức một vần là cơ hội để phô diễn tài năng và sáng tạo
của ngƣời nghệ sĩ. Một bài thơ dài tới 100 câu nhƣ Xuân tha hƣơng hay Xuân
vẫn tha hƣơng chỉ dùng một vần duy nhất mà thơ vẫn hay là điều không hề đơn
giản. Bên cạnh đó, việc dùng một vần tạo đƣợc một cảm giác triền miên dai dẳng
ào ạt về mặt cảm xúc và tâm trạng. Bài thơ nhƣ một con suối không ngừng chảy
vào lòng ngƣời. Hãy khoan nói tới nội dung, nhƣng chính cái cảm giác một vần
ấy đã rất thành công trong việc gợi một ám ảnh và khơi một ấn tƣợng đậm nét
đối với mỗi ngƣời đọc. So sánh với các nhà thơ cùng thời, không có ai viết
những bài thơ dài độc vận nhƣ Nguyễn Bính. Các bài thơ dài nhất của Huy Cận
trong tập Lửa thiêng và Xuân Diệu trong hai tập Thơ thơ và Gửi hƣong cho gió
đều không vƣợt quá 40 câu/dòng thơ. Chẳng hạn bài thơ dài nhất của Huy Cận
trong tập Lửa thiêng là bài Nhạc sầu với 37 câu. Bài thơ dài nhất của Xuân Diệu
trong tập Thơ thơ là bài Vội vàng với 39 câu.
Về mặt hòa âm, các đơn vị hiệp vần trong 8 bài thất ngôn trƣờng thiên nói
trên đều hiệp vần theo lối vần chính và vần thông, không có vần ép. Các vần
chính và vần thông bên cạnh giá trị hòa âm còn có những giá trị biểu cảm đáng
kể về mặt tâm trạng cảm xúc. Chẳng hạn bài Đêm mƣa đất khách dùng vần
chính “a” xuyên suốt bài thơ gợi cảm giác trải rộng về không gian, cái lạnh của
đêm mƣa dƣờng lan tỏa khắp nơi, nổi bật cái lạnh giá và cô đơn trong tâm hồn
con ngƣời: Một thân lận đận nơi trời xa/Nằm nghe mưa rơi trên mái nhà/Gió bắt
vào thu đầy tiếng lá/Đời tàn, mộng đẹp, tiếc xuân qua/Long tọng mưa nhỏ theo
từng giọt/Ắng lặng không nao một giọng gà/Chờ nửa vầng trăng, trăng chẳng
lại/Đêm dài đằng đẵng đêm bao la…
Bài Xuân tha hƣơng và Xuân vẫn tha hƣơng sử dụng các đơn vị hiệp
vần có âm cuối mang tính chất mũi, gợi sự vang vọng, tạo nhiều dƣ âm khắc

32
khoải. Bài thơ vần Rẫy lại là một dụng ý nghệ thuật khác của tác giả khi muốn
nhấn mạnh chữ Rẫy, vừa có ý nghĩa “nƣơng rẫy” nhƣ một đặc trƣng của Hà
Tiên, nơi lƣu giữ những kỷ niệm của Nguyễn Bính cùng Mộng Tuyết; vừa có ý
nghĩa “phụ rẫy”, “rẫy bỏ” thể hiện sự chua chát, tiếc nuối, đắng cay của nhà thơ
với nhiều câu chuyện đời: Nhớ ngày tôi vào chơi Hà Tiên/Chiều chiều cùng chị
về trong Rẫy/Đường mòn bóng nhạt soi tà tà/Biển khơi gió mặn thổi hây
hẩy/…Ai ngờ ông trời làm trò đùa/ Cả ba chân vạc đua nhau gẫy/Dần dà
nói đến chuyện nhân duyên/Chị có cô cháu tuổi mười bảy/Tóc dài chấm gót má
hồng tươi/Mi vòng cánh cung mắt đen láy/Chị ơi! Trôi nổi là thân tôi/Cánh
buồm bạt gió trôi hồ hải/ Than ôi! Không có tám mươi thành/ Để đổi cho tròn
viên Ngọc ấy!
2.1.4. Mức độ hòa âm trong vần thơ lục bát của Nguyễn Bính
Trong 122 bài thơ lục bát của Nguyễn Bính, bài ngắn nhất là bài Hoa cỏ
may chỉ gồm 2 câu, bài dài nhất là bài Lỡ bƣớc sang ngang gồm 110 câu. Nhƣ
vậy, số cặp hiệp vần tối thiểu trong một bài thơ lục bát của Nguyễn Bính là 01
cặp và số cặp hiệp vần tối đa trong một bài thơ lục bát của Nguyễn Bính là 109
cặp. Tổng kết 122 bài thơ lục bát, chúng tôi thu đƣợc 1899 cặp hiệp vần trong đó
hiệp vần theo kiểu vần chính có 1094 cặp, chiếm 58%, hiệp vần theo kiểu vần
thông có 805 cặp, chiếm 42%. Vần ép không xuất hiện. Phân bố và tỉ lệ các cặp
hiệp vần dựa trên tiêu chí hòa âm có thể tổng kết qua bảng dƣới đây:
Bảng 2.7: Tổng kết các loại vần trong thơ lục bát Nguyễn Bính trƣớc
1945

Vần chính Vần thông Vần ép Tổng số


1094 cặp 805 cặp 0 cặp 1899 cặp
58% 42% 0% 100%
Vần chính chiếm tỉ lệ lớn nhất trong những bài thơ lục bát của Nguyễn
Bính. Sự nổi trội của vần chính dẫn đến hệ quả tất yếu là những câu thơ lục bát
sẽ dễ nhớ, dễ thuộc, dễ đi vào lòng ngƣời. Chẳng hạn bài lục bát Lỡ bƣớc sang
ngang có 109 cặp hiệp vần thì có tới 67 cặp hiệp vần theo lối vần chính, chiếm tỉ

33
lệ 61%, còn lại 42 cặp hiệp theo lối vần thông, chiếm tỉ lệ 39%. Thế nhƣng, hầu
hết các cặp hiệp vần thông trong Lỡ bƣớc sang ngang nói riêng cũng nhƣ trong
thơ lục bát Nguyễn Bính nói chung đều xuất hiện với dạng lí tƣởng, chỉ có rất ít
các cặp vần thông hiệp vần theo nguyên tắc không đồng nhất hoàn toàn một
thành phần (âm vị) nào mà chỉ đồng nhất các đặc trƣng ngữ âm nhất định (trong
toàn bộ thơ lục bát của Nguyễn Bính chỉ có 4 lần nhƣ thế1). Ta hãy thử xem xét
một số cặp vần thông tiêu biểu trong Lỡ bƣớc sang ngang: …Là tan vỡ giấc
mộng vàng từ đây/Rƣợu hồng em uống cho say/Vui cùng chị một vài giây cuối
cùng/(Rồi đây sóng gió ngang sông…)/…Nhà hƣơng khói lạnh chị nhờ cậy
em/Đêm qua là trắng ba đêm/Chị thƣơng chị kiếp con chim lìa đàn/…Em đừng
khóc nữa em ơi/Dẫu sao thì sự đã rồi, nghe em.
Đặc điểm này của lục bát Nguyễn Bính có thể nói rất gần gũi với ca dao.
Phải chăng đây chính là một lí do quan trọng nữa về mặt hình thức khiến nhiều
ngƣời từ xƣa đến nay vẫn cho rằng, thơ Nguyễn Bính đậm phong vị cổ điển, đậm
chất ca dao, chất thôn quê. Quả thế, chúng tôi đã thử khảo sát ngẫu nhiên 97 bài
ca dao (có độ dài từ 2 đến 4 dòng lục bát) trong Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam
của Vũ Ngọc Phan (từ trang 95 đến trang 105, NXB Văn học, HN, 2004). Kết
quả cho thấy nhƣ sau:
Bảng 2.8: Khảo sát các loại vần trong một số bài ca dao theo thể lục
bát:
Vần chính Vần thông Vần ép Tổng số
79 24 1 104
76% 23% 1% 100%

Ta thử đọc một số câu/bài ca dao có lối hiệp vần theo kiểu vần chính: Vua
Ngô ba sáu tàn vàng/Thác xuống âm phủ chẳng mang được gì/Chúa Chổm đánh
chén tì tì/Thác xuống âm phủ kém gì vua Ngô hay: Tò vò mà nuôi con nhện/Đến
khi nó lớn nó quện nhau đi/Tò vò ngồi khóc tỉ ti/Nhện ơi nhện hỡi mày đi đằng
nào.Đọc tiếp một số câu/bài ca dao có lối hiệp vần theo kiểu vần thông: Đánh

34
giặc mà đánh tay không/Thà về xó bếp giương cung bắn mèo hay: Bông chi
thơm lạ thơm lùng/Thơm cây thơm rễ người trồng cũng thơm.
Tuy nhiên, có thể nói mức độ hòa âm trong ca dao có phần “non tay” hơn
Nguyễn Bính khi xuất hiện vần ép: Xin đừng thấy quế phụ hương/Quế già quế
rụi hương trầm thơm xa.
4 cặp hiệp vần (vần thông) với mức độ hòa âm thấp nhất trong thơ
Nguyễn Bính cụ thể nhƣ sau, xin đƣợc ghi ra để so sánh: Một lần sẩy bước ra
đi/Là không hẹn một lần về nữa đâu(Lỡ bƣớc sang ngang), Nhà tôi có một vườn
dâu/Có giàn đỗ ván có ao cấy cần (Nhà tôi), Nói ra sợ mất lòng em/Van em em
hãy giữ nguyên quê mùa/…Hôm qua em đi tỉnh về/Hương đồng gió nội bay đi ít
nhiều(Chân quê)
2.1.5. Phân bố vần trong thơ lục bát của Nguyễn Bính
Phân bố vần trong thơ lục bát Nguyễn Bính chủ yếu tuân theo quy tắc:
chữ thứ 6 của câu bát bắt vần với chữ thứ 6 của câu lục và chữ thứ 8 của câu bát
lại bắt vần với chữ thứ 6 của câu lục tiếp theo, cứ thế cho đến hết bài thơ, chẳng
hạn: Hôm nay xuống bến xuôi đò/Thƣơng nhau qua cửa tò vò nhìn nhau/Ai đi
đó ai về đâu/Cánh buồm nâu…cánh buồm nâu…cánh buồm
Tuy nhiên, Nguyễn Bính có sử dụng cách hiệp vần chữ thứ 4 của câu bát
vần với chữ thứ 6 của câu lục trong 11 trƣờng hợp, qua 7 bài thơ: Trên giời có
vảy tê tê/Đôi bên ước thề duyên sẽ tròn duyên(Cái quạt), Vớt lên thả xuống sao
đành/Anh gửi cho mình giữ lấy mình ơi (Thƣ lá vàng), Ai xui sông vắng đò
giang/Muốn lên thăm nàng biết lối nào lên (Nƣớc mấy lần xanh), Có cô em bé
chưa chồng/Bướm có bằng lòng tôi mối manh cho/…Hồng ơi! Bướm cưới hoa
hồng/Mười mấy ngày ròng pháo nổ liên chi (Đám cƣới bƣớm), Con Liên nét mặt
rầu rầu/Nó đi ngang cầu xách giỏ xuống sông(Con bé Liên), Đường đi ba bốn
ngày rày/Dừng lại quán này cho lái ăn cơm(Đƣờng rừng).
Bài thơ có lối gieo vần lƣng ở chữ thứ 4 câu bát một cách dày đặc nhất là
bài Ngƣu Lang Chức Nữ với 4 lần xuất hiện: Một năm gặp được mấy lần/Anh
khổ vô ngần Chức Nữ em ơi/…Dây oan thắt chặt lấy mình/Con sông bất bình
chảy mãi về xuôi/…Đêm nay là mấy mươi đêm/Chân cứng đá mềm Chức Nữ em

35
ơi/…Bao giờ cho hợp duyên nhau/Anh bắc nghìn cầu Chức Nữ em ơi(Ngƣu
Lang Chức Nữ)
Nhìn chung, tất cả những trƣờng hợp gieo vần lƣng ở chữ thứ 4 câu bát
đều mang những dụng ý nghệ thuật riêng, gửi gắm những thông điệp ý tứ riêng
chứ nhất định không phải sự ngẫu nhiên. Chẳng hạn ở bốn ví dụ đầu tiên, cách
gieo vần ở vị trí thứ 4 câu bát đẩy nhịp điệu câu thơ nhanh hơn, gấp gáp hơn,
dồn dập hơn, điều này phù hợp với nội dung câu thơ và tâm trạng cảm xúc của
chủ thể. Các động từ “gửi” trong “anh gửi cho mình” và “muốn” trong “muốn
lên thăm nàng” dƣờng nhƣ diễn ra nhanh hơn, khẩn trƣơng hơn nhờ vào sự xuất
hiện sớm của vần lƣng nằm ở vị trí thứ 4 câu bát. Còn ở các ví dụ tiếp theo, cặp
hiệp vần “rầu” – “cầu” có giá trị tạo dựng đƣợc hình ảnh con bé Liên đang đi
ngang cầu, cặp “rày” – “này” mô phỏng việc chiếc xe ngựa phải dừng ngay lại
để “cho lái ăn cơm”. Tuy nhiên, có nhiều giá trị nghệ thuật nhất của việc gieo
vần sớm vào chữ thứ 4 câu bát nằm ở các lần xuất hiện trong bài Ngƣu Lang
Chức Nữ. Bài thơ là nỗi lòng của chàng Ngƣu Lang thƣơng nhớ, mong mỏi,
trông đợi nàng Chức Nữ, là nỗi bi ai oán thán về một thiên hận tình nên những
vần lƣng xuất hiện nhƣ tƣợng hình cho những làn sóng cảm xúc trào dâng đến
nghẹn ngào, nhƣ có cả nƣớc mắt và nấc nghẹn trong những vần lƣng đó.
2.1.6. Những bài lục bát dùng vần chính tuyệt đối
Từ xƣa đến nay, nhiều nhà thơ đã chủ tâm muốn tạo một bài thơ lục bát
với vần chính tuyệt đối và phải lập kỷ lục về số lƣợng dòng lục bát trong bài thơ
đó – tất nhiên đó vẫn phải là một bài lục bát hay về nội dung, đẹp về các biểu
hiện nghệ thuật khác – nhƣng dƣờng nhƣ đó vẫn là một giấc mơ không dễ gì
chạm đƣợc. Đã có vô số các bài lục bát hay trong lịch sử lục bát của Việt Nam,
nhƣng không bài nào kéo dài đƣợc việc hiệp vần theo lối vần chính đến con số
10 dòng thơ, kể cả những đoạn lục bát hay nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của
Nguyễn Du. Nhƣng Nguyễn Bính dƣờng nhƣ đã là ngƣời xác lập đƣợc kỷ lục.
Bài lục bát vần chính tuyệt đối ngắn nhất của Nguyễn Bính gồm 4 câu: Nhà em
cách một quả đồi/Cách ba ngọn suối cách đôi cánh rừng/Nhà em xa cách quá
chừng/Em van anh đấy, anh đừng yêu em!(Xa cách)

36
Bài lục bát vần chính tuyệt đối dài nhất của Nguyễn Bính gồm 10 câu: Lữ
hành bắt gặp quán cơm/Bầy ong bắt gặp mùi thơm hoa rừng/Đèo cao cho suối
ngập ngừng/Nắng thoai thoải nắng chiều lưng lửng chiều/Trăng non như một
cánh diều/Trẻ con phất dối thả liều lên mây/Chim nào kêu mỏi ngàn cây/Ngẩn
ngơ đôi chiếc ngựa gầy dong xe/Đồi sim dan díu nương chè/Trắng phau khói nùi
xanh lè áo ai (Đƣờng rừng chiều)
Có thể nói, Đuờng rừng chiều là một bức tranh hoàng hôn rừng tuyệt
đẹp, tràn ngập âm thanh, màu sắc, hƣơng thơm, hình ảnh và nổi bật lên hình ảnh
con ngƣời nhƣ một tiêu điểm đƣợc nhấn mạnh, khiến cả bức tranh sống động,
đầy hồn vía, tạo đƣợc bất ngờ cho ngƣời đọc và chủ thể trữ tình – kẻ lữ hành –
đang sung sƣớng thụ hƣởng món quà mà thiên nhiên đang trao tặng đó. 9 cặp
đơn vị đều đƣợc hiệp vần chính một cách tuyệt đối: cơm – thơm, rừng – ngừng,
ngừng – lƣng, chiều – diều, diều – liều, mây – cây, cây –gầy, xe – chè, chè – lè.
Toàn bộ phần vần của các đơn vị đều trùng khít với nhau từ âm đệm (zero) cho
tới âm chính và âm cuối. Riêng đơn vị hiệp vần cuối cùng gây bất ngờ lớn:
“xanh lè”. Nhiều ngƣời đã cho rằng nếu thay “lè” bằng một từ khác, chẳng hạn
“nhòe”, ý thơ sẽ dễ cảm thụ hơn, từ “nhòe” lãng mạn và đúng không khí thi ca
hơn. Nhƣng theo tôi, nếu dùng chữ “nhòe”, sự tuyệt đối của vần chính bị phá vỡ
bởi âm đệm của hai đơn vị hiệp vần “chè” và “nhòe” không giống nhau. Nhƣ
vậy, rõ ràng đây là một dụng ý nghệ thuật của tác giả, bỏ đi một chút gợi cảm
chữ nghĩa để hƣớng tới một mỹ cảm mới về mặt ngữ âm và nhạc tính.
Chúng tôi còn muốn nhắc đến một trƣờng hợp sử dụng vần chính nữa
trong thơ Nguyễn Bính. Đó là bài thơ Qua nhà với phần nửa cuối bài thơ 10 câu
lục bát hoàn toàn sử dụng vần chính để liên kết. Tuy vần chính không dùng trọn
vẹn trong cả bài (tính chỉnh thể về mặt hòa âm của vần không bằng Đƣờng rừng
chiều) song đây cũng là một thi liệu quan trọng cần đƣợc ghi nhận. Đứng từ
những góc nhìn khác, Qua nhà theo tôi vẫn là một trong những bài thơ lục bát
hay nhất của Nguyễn Bính: Cái ngày cô chƣa có chồng/Đƣờng gần tôi cứ đi
vòng cho xa/Lối này lắm bƣởi nhiều hoa…/Đi vòng để đƣợc qua nhà…đấy
thôi/Một hôm thấy cô cƣời cƣời/Tôi yêu yêu quá nhƣng hơi mất lòng/Biết đâu

37
rồi chả nói chòng:/“Làng này khối đứa phải lòng mình đây”/Môt năm đến lắm là
ngày/Mùa chanh mùa cốm vào ngay mùa hồng/Từ ngày cô đi lấy chồng/Gớm!
Sao có một quãng đồng mà xa/Bờ rào cây bưởi không hoa/Qua bên nhà thấy
bên nhà vắng teo/Lợn không nuôi đặc ao bèo/Trầu không dây chẳng buồn leo
vào giàn/Giếng thơi mưa ngập nước tràn/Ba gian đầy cả ba gian nắng chiều…
2.2. Nhịp điệu trong thơ Nguyễn Bính
Với hai thể loại chủ đạo là lục bát và thất ngôn, nhịp điệu thơ Nguyễn
Bính bên cạnh cách ngắt nhịp truyền thống cũng đã có nhiều dụng công để tạo ra
nhiều lối ngắt nhịp mới, vừa linh hoạt uyển chuyển, vừa góp phần thể hiện các
sắc thái hoặc dụng ý ngữ nghĩa khác.
2.2.1. Nhịp điệu trong thơ lục bát
Nhƣ ta đã biết, nhịp điệu trong thơ lục bát truyền thống chủ yếu ƣa cách
ngắt nhịp chẵn: 2/2/2 và 2/2/2/2. Ví dụ: Trăm năm/trong cõi/người ta/Chữ
tài/chữ mệnh/khéo là/ghét nhau(Truyện Kiều – Nguyễn Du), Con cò /bay lả /
bay la/Bay từ/ cửa phủ/ bay ra/ cánh đồng (Ca dao)
Một số hình thức ngắt nhịp chẵn khác nhƣ những phái sinh của lối truyền
thống cũng thƣờng thấy nhƣ: 2/4, 4/2 với câu lục hoặc 4/4, 4/2/2, 2/4/2 với câu
bát, chẳng hạn:
Nhịp 2/4: Trải qua/một cuộc bể dâu
Nhịp 4/2: Hoa cười ngọc thốt/đoan trang
Nhịp 4/4: Mây thua nước tóc/tuyết nhường màu da
Nhịp 4/2/2: Hoa trôi man mác/biết là/về đâu
Nhịp 2/4/2: Tường đông/ong bướm đi về/mặc ai
Dĩ nhiên, lục bát của thời văn học trung đại mà điển hình là Truyện Kiều
của Nguyễn Du cũng ngoài sự thể hiện với nhịp chẵn làm chủ đạo cũng đã có
những biến hóa linh hoạt khác về nhịp, cụ thể là những thể nghiệm của nhịp lẻ,
góp phần tạo ra hình thức mới mẻ cho câu lục bát, cũng nhƣ tạo sự hô ứng trong
biểu đạt nội dung, tình cảm của câu thơ:
Nhịp 3/3: Người lên ngựa/kẻ chia bào
Người quốc sắc/kẻ thiên tài

38
Làn thu thủy/ nét xuân sơn
Người nách thước, kẻ tay dao
Nhịp 3/1/4: Nửa chừng xuân/thoắt/gãy cành thiên hương
Nhịp 3/1/3/1: Thoi vàng vó/rắc/tro tiền giấy/bay
Cho đến Nguyễn Bính thì nhịp điệu của câu lục bát đã biến ảo hơn rất
nhiều. Ngoài lối ngắt nhịp chẵn theo cách truyền thống, thi sĩ chân quê tạo ra vô
số cách ngắt nhịp lẻ sinh động, điều này tăng cƣờng đáng kể khả năng diễn cảm,
biểu cảm của câu thơ. Với câu lục, chúng tôi bắt gặp các nhịp ngắt nhƣ: 1/1/4,
1/5, 2/1/3, 3/1/2, 1/2/3, 2/1/1/1/1
Nhịp 1/1/4: Rồi…/rồi…/chị nói sao đây (Lỡ bƣớc sang ngang)
Uống…/vâng…/em uống cho say (Rƣợu xuân)
Ồ!/ Say!/ Thương nhớ vô cùng (Thƣ cho chị)
Nhịp 1/5: Chị/ từ dan díu với tình (Lỡ bƣớc sang ngang)
Không!/ Từ ân ái nhỡ nhàng (Ngƣời hàng xóm)
Ô, / nàng chẳng phải là em (Một con sông lạnh)
Nhịp 2/1/3: Ai đi,/ ừ, / biết bao giờ (Xuân về)
Mà toan…/thôi!/ Nói làm gì! (Xin chớ hải đƣờng)
Nhịp 3/1/2: Lụa may áo, /bán, / còn thừa (Nhà cô thôn nữ)
Nhịp 1/2/3: Hừ!/ Chiều nay…/ khổ lắm rồi! (Một chiều chết)
Nhịp 2/1/1/1: Là chim, /núi, /gió, / lá, / đèo (Nhớ Oanh)
Với câu bát chúng tôi cũng bắt gặp những nhịp ngắt lạ nhƣ: 3/3/2, 3/5,
5/3, 1/7, 2/1/5, 4/1/3, 1/1/1/1/1/1/1/1, 1/3/4.
Nhịp 3/3/2: Chị thương chị/kiếp con chim/lìa đàn (Lỡ bƣớc sang ngang),
Một vai nữa/ gánh muôn vàn/nhớ thương (Lỡ bƣớc sang ngang), Đến đây
là…/đến đây là…/là thôi (Rƣợu xuân), Cánh buồm nâu…/cánh buồm nâu…/cánh
buồm (Xuôi đò); Nhịp 3/5: Hoa xoan nở, / xác con ve hoàn hồn (Lỡ bƣớc sang
ngang), Trong hồn chị, / có một người đi qua (Lỡ bƣớc sang ngang); Nhịp 5/3:
Đừng mong ngóng chị nữa/ mà uổng công (Lỡ bƣớc sang ngang); Nhịp 1/7:
Gớm! / Sao có một quãng đồng mà xa! (Qua nhà);Nhịp 2/1/5: Nhớ nàng? /
Không! / Quyết là không nhớ nàng! (Ngƣời hàng xóm), Bên đình, / ô! / Miệng

39
hoa mơ lại về! (Xuân về), Nhịp 4/1/3: Vẫn tin tưởng chứ?/ Là: / Nàng yêu tôi
(Nhà tôi), Nhịp 1/1/1/1/1/1/1/1: Một/ hai / ba/ bốn/ năm/ chiều/ rồi…/thôi (Lòng
yêu đƣơng), Nhịp 1/3/4: Tôi, /cô gái xấu/ đọa đầy trần gian (Mƣời hai bến
nƣớc).
Có thể thấy, việc tạo ra các nhịp ngắt phong phú trong thơ lục bát Nguyễn
Bính có sự hỗ trợ đắc lực của các dấu câu, bao gồm: dấu ba chấm (…), dấu chấm
hỏi (?), dấu chấm than (!), dấu phẩy (,), dấu hai chấm (:). Trong số đó, dấu hai
chấm là một trong những dấu câu đƣợc sử dụng nhiều nhất với vị trí vô cùng linh
hoạt: đầu câu thơ, giữa câu thơ, cuối câu thơ, giữa các đoạn thơ. Dấu hai chấm
góp phần diễn tả các cảm xúc và trạng thái tình cảm nhƣ: ngập ngừng, bối rối,
phân vân, lƣỡng lự, xúc động hoặc đôi lúc mang giá trị tạo hình. Chúng tôi sẽ
bàn kỹ hơn về nghệ thuật sử dụng dấu ba chấm ở chƣơng 3 của luận án. Chúng
tôi tạm tổng kết những nhịp ngắt lạ trong thơ lục bát của Nguyễn Bính qua bảng
dƣới đây:
Bảng 2.9: Tổng kết những nhịp ngắt phá cách trong thơ lục bát
Nguyễn Bính trƣớc 1945:

Câu lục 1/1/ 1 2/ 3/1/ 1/2/ 2/1/1/


4 / 1/ 2 3 1
5 3
Số lƣợng 4 6 3 1 1 1
Câu bát 3/3/ 3 5/ 1/7 2/1/ 4/1/3 1/1/1/1/1/1 1/3/
2 / 3 5 /1/1/ 4
5
Số lƣợng 23 6 1 1 2 1 1 1
Ngoài những biểu hiện phá cách về nhịp nhƣ kể trên, Nguyễn Bính còn
tạo kết lửng trong một số bài thơ lục bát, nghĩa là khép lại bài thơ chỉ với một
câu 6 chữ, tạo nên âm điệu dang dở, quyến luyến, khiến tác phẩm gây đƣợc dƣ
âm dai dẳng. Có hai bài lục bát sử dụng cách kết này. Đó là các bài Lơ đãng và
Một con sông lạnh: Thế rồi từ ấy nhẫn nay/Mặc cho tơ nhện giăng đầy guồng

40
tơ/Em còn chắp nối giấc mơ…(Lơ đãng), Lạy giời đừng sáng đêm nay/Đò quên
cập bến tôi say suốt đời/Chiêu Quân lên ngựa mất rồi…(Một con sông lạnh)
Nhịp 4/4 với câu bát không phải là một cách ngắt nhịp mới, nhƣng khi nó
kết hợp với cách gieo vần ở vị trí thứ tƣ trong câu bát (bắt vần với vị trí thứ sáu
trong câu lục) thì theo chúng tôi, điều này cũng tạo ra đƣợc một hiệu ứng khác lạ
về nhịp cho bài thơ lục bát. Về điểm này, chúng tôi đã có sự trình bày trong mục
2.1.4 của chƣơng 2.
2.2.2. Nhịp điệu trong thơ thất ngôn
Thơ thất ngôn theo truyền thống thơ Việt từ thời trung đại, thƣờng đƣợc
ngắt theo hai nhịp 4/3 và 2/2/3. Nhiều công trình nghiên cứu đi trƣớc cũng đã
khẳng định điều này. [8, 15]. Có thể dẫn ra đây một vài bài thất ngôn kinh điển
của văn học trung đại Việt Nam để hình dung rõ hơn về hai nhịp ngắt truyền
thống nói trên: Bước tới đèo Ngang/ bóng xế tà//Cỏ cây chen lá/ đá chen
hoa//Lom khom dưới núi/ tiều vài chú//Lác đác bên sông chợ mấy nhà//Nhớ
nước/ đau lòng/ con cuốc cuốc//Thương nhà/ mỏi / miệng cái gia gia//Dừng
chân/ đứng lại/ trời non nước//Một mảnh tình riêng /ta với ta(Qua đèo Ngang –
Bà huyện Thanh Quan), Ao thu lạnh lẽo/ nước trong veo//Một chiếc thuyền câu/
bé tẻo teo//Sóng biếc/ theo làn/ hơi gợn tí//Lá vàng/ trước gió/ khẽ đưa
vèo//Tầng mây lơ lửng/ trời xanh ngắt//Ngõ trúc quanh co/ khách vắng teo//Tựa
gối ôm cần/ lâu chẳng được//Cá đâu đớp động/ dưới chân bèo(Câu cá mùa thu –
Nguyễn Khuyến)
Trong các bài thơ thất ngôn của Nguyễn Bính, nhịp điệu câu thơ đã có
nhiều biến đổi phong phú với sự hỗ trợ đắc lực của các dấu câu (dấu ba chấm,
dấu chấm hỏi, dấu chấm than, dấu phẩy). Nhịp điệu nổi trội nhất trong các câu
thơ thất ngôn của Nguyễn Bính là nhịp 2/5 (188 lần), tiếp đến là nhịp 5/2 (16
lần) và các biểu hiện khác về nhịp nhƣ: 3/1/3 (2 lần), 1/1/2/3 (3 lần), 2/4/1 (2
lần), 2/3/2 (1lần), 2/2/1/2 (1lần), 1/1/1/1/1/2 (1 lần), 1/1/5 (1 lần), 1/1/1/1/1/1/1
(1 lần), 1/3/3 (3 lần), 2/1/4 (1 lần). Minh họa cụ thể những nhịp ngắt lạ, mang
tính phá cách của thơ thất ngôn Nguyễn Bính, có sự hỗ trợ đắc lực của các dấu
câu nhƣ sau:

41
Nhịp 2/5: Người ấy…nhưng mà tôi chả nói (Vẩn vơ), Bữa ấy, mưa xuân
phơi phới bay (Mƣa xuân), Anh ơi! Từ độ ta xa cách (Lá thƣ về Bắc), Nghẹn
ngào…ngực thấy nóng ran lên (Nhớ thƣơng ai…),Nhịp 5/2: Chiều nay gió lạnh
đấy, nàng ơi (Vẩn vơ), Nhà thơ còn trẻ lắm! Anh ơi!(Lá thƣ về Bắc), Tôi muốn
yêu Oanh nhưng…thất vọng (Mơ chuyện thần tiên), Nhịp 3/1/3: Đã quyết
không…không…được một ngày (Vẩn vơ), Xa lắm rồi, Nhi! Muộn lắm rồi!(Hoa
với rƣợu); Nhịp 1/1/1/1/1/2: Ôi! Lụa! Ôi! Đờn! Ôi! Tóc tơ!(Một lần); Nhịp 4/1/2:
Tôi nhớ đến người – ôi! Diệu vợi (Diệu vợi); Nhịp 1/1/2/3: Không, không, tôi
biết. Nhưng nàng hỡi!(Cầu nguyện), Em, em! Em bé! Em tôi ạ!(Giả cách); Nhịp
1/1/5: Không, Nàng!...Nàng đẹp đấy mà thôi!(Bao nhiêu đau khổ của trần gian,
trời đã dành riêng để tặng nàng ); Nhịp 1//3/3: Ôi, chị một em, em một chị(Xuân
tha hƣơng),Vâng, em trẻ dại, em đâu dám (Xuân tha hƣơng); Nhịp 2/1/4: Tết
này, ồ, thế mà vui chán (Xuân tha hƣơng); Nhịp 1/1/1/1/1/1/1: Oanh, Yến, Đào,
Trâm, Bích, Ngọc, Hồi (Oan nghiệt)
Chúng tôi tổng kết các nhip ngắt mang tính phá cách trong câu thơ thất
ngôn của Nguyễn Bính qua bảng dƣới đây:
Bảng 2.10: Tổng kết những nhịp ngắt mang tính phá cách trong thơ
thất ngôn Nguyễn Bính trƣớc 1945.

Nhịp ngắt 2/5 5/2 3/1/3 1/1/2/ 2/4/ 2/3/ 2/2/1


3 1 2 /2
Số lƣợng 188 16 2 3 2 1 1

Nhịp ngắt 1/1/1/1/1/2 1/1/5 1/1/1/1/1/1/ 1/3/ 2/1/4


1 3
Số lƣợng 1 1 1 3 1

Ngoài những biểu hiện mới mẻ về nhịp nhƣ kể trên, Nguyễn Bính còn tạo
ra sự thay đổi phá cách về nhịp trong bài thơ thất ngôn bằng cách thay đổi số
tiếng (âm tiết) trong câu thơ thất ngôn, điều này cũng gây nên những hiệu ứng
đậm nét về nhịp điệu cũng nhƣ nhạc tính của toàn bài thơ. Chẳng hạn trong bài
Nhạc xuân, bài thơ đang là sự nối tiếp của những câu thơ 7 chữ, nhƣng khi sang

42
đến khổ cuối, câu thơ mở đầu của khổ này bỗng bị rút ngắn lại chỉ còn 3 âm tiết:
Đừng về Chiêm quốc nhé Huyền Trân/Ta viết thơ này gửi cố nhân/Năm mới,
tháng giêng, mồng một Tết/Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân/Huyền Trân
ơi!/Mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân rồi/Giờ đây chín vạn bông trời nở/Riêng có
tình ta khép lại thôi.
Câu thơ bị rút ngắn lại làm giọng điệu bỗng trở nên xúc động nghẹn ngào,
thi sĩ nhƣ muốn rút ngắn lại những khoảng cách của không gian và thời gian
trong niềm vô vọng. Sau 1945, bài thơ Đồng chí của Chính Hữu cũng dùng thủ
pháp rút gọn bất chợt số lƣợng âm tiết trong một dòng thơ để tăng thêm sắc thái
biểu cảm cho tác phẩm: Súng bên súng đầu sát bên đầu/Đêm rét chung chăn
thành đôi tri kỷ/Đồng chí!
Trong một số bài thất ngôn khác, xuất hiện những câu 6 chữ đan xen cùng
các câu 7 chữ, điều này theo chúng tôi, tạo ra những nét “duyên lạ” cho tác
phẩm: Ánh chiều vàng ánh chiều rơi/Chùa xưa rêu phủ tự muôn đời/Có cô sư nữ
người mong mỏng/Buông thong dây gầu xuống giếng thơi (Chiều quê), Ngày nào
má má môi môi/Ngày ấy hình như lâu lắm rồi/Tôi chẳng tô môi cho đỏ nữa/Vì xa
xôi quá, má anh tôi!(Lá mùa thu)
2.3. Cấu trúc nhan đề tác phẩm
Việc thống kê và phân tích 273 nhan đề các bài thơ của Nguyễn Bính đi
tới một kết quả nhƣ sau:
Bảng 2.11: Cấu trúc nhan đề các thi phẩm của Nguyễn Bính trƣớc 1945:
Nhan đề là Từ Nhan đề là Ngữ Câu
Danh Động Tính Cảm Danh Động Tính 30
từ từ từ từ từ từ từ
16 15 13 01 129 63 6
45 198
Nhìn vào bảng thống kê trên, có thể thấy, những nhan đề tác phẩm là Ngữ
chiếm số lƣợng lớn nhất gồm 198 nhan đề, tƣơng ứng với 73% số lƣợng tác
phẩm của Nguyễn Bính trƣớc Cách mạng. Trong số 198 nhan đề là một ngữ,
phần ngữ danh từ chiếm số lƣợng lớn nhất với 129 nhan đề (47%), động ngữ

43
chiếm số lƣợng lớn thứ hai với 63 nhan đề (23%), còn lại 6 nhan đề là các tính
ngữ. Câu hỏi đặt ra là tại sao các đơn vị Ngữ lại chiếm một số lƣợng áp đảo
trong các nhan đề tác phẩm của Nguyễn Bính, vƣợt trội gấp nhiều lần so với các
tác phẩm có nhan đề là Từ hoặc Câu. Theo suy nghĩ của chúng tôi, Câu có đặc
điểm là đơn vị làm nên một thông báo trọn vẹn, điều này sẽ dẫn tới việc những
tác phẩm có nhan đề là Câu sẽ mang tính định hƣớng cao nhất cho toàn bộ nội
dung văn bản, thậm chí có thể bao quát đƣợc tƣơng đối rõ nét về chủ đề, thi đề
của tác phẩm. Trong khi đó, những tác phẩm có nhan đề là Từ mới chỉ mang ý
nghĩa là một thông báo tối thiểu, nêu tên hoặc một đặc điểm của sự vật hiện
tƣợng, độc giả nếu muốn nắm bắt nội dung chủ đề, đề tài tác phẩm qua những
nhan đề này đôi khi sẽ gặp sự khó khăn. Chỉ riêng những tác phẩm có nhan đề là
Ngữ cho ta một lƣợng thông tin vừa đủ để gợi mở về tác phẩm, không rõ ràng
quá và cũng không mờ nhạt quá, vừa đủ chất kích thích cho độc giả mở một lối
đi thâm nhập vào nội dung bên trong. Thế nên cũng không phải ngẫu nhiên mà
những bài thơ đƣợc coi là thành công và nổi tiếng nhất của Nguyễn Bính đều
nằm ở nhóm Ngữ này. Về các nhan đề là ngữ danh từ có thể kể đến các bài nổi
tiếng nhƣ: Cô lái đò, Thời trước, Mưa xuân, Cô hái mơ, Cây bàng cuối thu, Đêm
cuối cùng, Hoa cỏ may, Những bóng người trên sân ga, Giấc mơ anh lái đò,
Quan trạng, Nhạc xuân, Truyện cổ tích...Những nhan đề là ngữ động từ có thể
kể đến các bài nhƣ: Lỡ bước sang ngang, Viếng hồn trinh nữ, Chờ nhau, Nhớ
người trong nắng, Qua nhà, Nuôi bướm, Mùa đông nhớ cố nhân... Ở khu vực
những nhan đề là Câu, cấu trúc tƣơng đối đơn giản, ngắn gọn và luôn luôn là
một câu đơn: Thôi nàng ở lại, Lòng nào dám tưởng, Hoa rụng bao lần, Nàng
thành thiếu phụ, Người đi, Xuân về, Mai tàn... Ở khu vực những nhan đề là Từ,
số lƣợng ba đơn vị từ loại cơ bản (danh từ, động từ, tính từ) tƣơng đối cân bằng
nhau, trong đó danh từ và động từ nổi trội hơn tính từ một chút. Các tác phẩm
tiêu biểu thuộc nhóm này có thể kể đến là: Thoi tơ, Oan nghiệt, Ghen, Tương tư,
Vu quy, Nhớ, Tạ từ, Xa cách...
Ngoài việc phân loại nhan đề tác phẩm thành nhóm Từ, nhóm Ngữ và
nhóm Câu, theo chúng tôi còn phải xét đến dung lƣợng dài ngắn (số âm tiết) của

44
mỗi nhan đề. Quả thế, bởi theo quan sát thông thƣờng của chúng tôi, nhan đề
càng ngắn gọn sẽ càng đƣợc ngƣời đọc ghi nhớ một cách dễ dàng hơn, cũng nhƣ
tạo đƣợc ấn tƣợng mạnh hơn những nhan đề dài. Dung lƣợng nhan đề các thi
phẩm của Nguyễn Bính đƣợc tổng kết qua bảng sau:
Bảng 2.12: Dung lƣợng nhan đề thi phẩm Nguyễn Bính trƣớc 1945
Số âm 1 2 3 4 5 6 7 8 >8
tiết
Số tác 14 121 30 56 5 8 3 1 1
phẩm
Có thể thấy, Nguyễn Bính ƣa sử dụng các nhan đề ngắn gọn, những nhan
đề từ 5 âm tiết trở lên chiếm số lƣợng rất ít, chỉ có 18 tác phẩm (6%) trong tổng
số 273 bài thơ của ông. Nhan đề tác phẩm có dung lƣợng dài nhất là 14 âm tiết,
là một bài thơ nằm trong tập Mƣời hai bến nƣớc với tên gọi: Bao nhiêu đau khổ
của trần gian, trời đã dành riêng để tặng nàng. Những nhan đề tác phẩm gồm 2
âm tiết chiếm số lƣợng lớn nhất, tƣơng đƣơng với 44% các tác phẩm trƣớc Cách
mạng của Nguyễn Bính. Có thể kể đến những bài tiêu biểu nhƣ: Thời trước, Mưa
xuân, Chân quê, Đàn tôi, Hai lòng, Qua nhà, Chờ nhau, Nuôi bướm, Nhà tôi,
Vũng nước, Xuân về...Đứng thứ hai sau nhóm nhan đề 2 âm tiết là những nhan
đề 4 âm tiết gồm 56 tác phẩm, chiếm tỷ lệ 20%, vƣợt hẳn số nhan đề 3 âm tiết
gồm 30 tác phẩm, chiếm tỷ lệ 11%. Lý giải điều này, chúng tôi cho rằng 4 âm
tiết mang nhịp chẵn, tạo ra âm hƣởng mềm mại và quen thuộc, hợp với ngƣời
Việt và có vẻ dễ đi vào lòng ngƣời hơn (ta có thể liên tƣởng đến việc kho tàng
thành ngữ tục ngữ của ngƣời Việt có một số lƣợng rất lớn các đơn vị 4 âm tiết,
thể thơ dân tộc lục bát cũng là một minh chứng nữa cho đặc điểm ƣa nhịp chẵn
của ngƣời Việt, bản thân Nguyễn Bính cũng là một thi sĩ viết lục bát tài hoa,
thậm chí đƣợc xếp vào trong số những thi sĩ lục bát hàng đầu của văn học Việt
Nam thế kỷ XX ). Có thể kể đến những bài 4 âm tiết tiêu biểu nhƣ: Lỡ bước sang
ngang, Viếng hồn trinh nữ, Nhớ người trong nắng. Thu rơi từng cánh, Giời mưa
ở Huế, Cây bàng cuối thu...

45
2.4. Nghệ thuật biểu hiện dấu câu
Theo sách Ngữ pháp tiếng Việt (Ủy ban KHXH Việt Nam, 1983), trong
các văn bản tiếng Việt có 10 loại dấu câu cơ bản gồm: dấu chấm, dấu hỏi, dấu
cảm, dấu lửng, dấu phẩy, dấu chấm phẩy, dấu hai chấm, dấu ngang, dấu ngoặc
đơn và dấu ngoặc kép.
Thi ca cũng là một loại văn bản của tiếng Việt, đƣơng nhiên về lí thuyết
có thể sử dụng tất cả các loại dấu câu nhƣ trên đã nêu. Tuy nhiên, chúng tôi chỉ
tập trung ở những trƣờng hợp dấu câu đƣợc sử dụng nhƣ một phƣơng tiện nghệ
thuật hữu hiệu, góp phần bộc lộ giá trị nội dung/nghệ thuật của tác phẩm. Vì lẽ
đó, trong phần này, chúng tôi tập trung đi vào hai loại dấu câu mà chúng tôi cho
là đặc sắc hơn cả trong thơ Nguyễn Bính, đó là dấu ba chấm (chính là dấu lửng
trong danh sách 10 loại dấu câu vừa dẫn) và dấu hỏi (quan hệ mật thiết với các
câu hỏi tu từ).
2.4.1. Dấu ba chấm trong thơ Nguyễn Bính
Trong 272 bài thơ của Nguyễn Bính, có tới 93 bài sử dụng dấu ba chấm,
chiếm 34% tổng số các tác phẩm. Trong 93 bài thơ ấy có tất cả 174 lần dấu ba
chấm đƣợc sử dụng trong các câu thơ khác nhau. Có 5 vị trí đƣợc nhà thơ lựa
chọn để đặt dấu ba chấm trong mỗi câu thơ là: đầu câu, cuối câu, giữa câu, giữa
và cuối câu, hai lần giữa câu. Bảng số liệu cụ thể tổng kết nhƣ sau:

Bảng 2.13: Vị trí dấu ba chấm trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
Vị Đầu Cuối Giữa Giữa- Giữa- Tổng số
trí câu câu câu Cuối Giữa
Tần 5 lần 107 lần 51 lần 4 lần 7 lần 174 lần
số

Một số ví dụ minh họa cụ thể về từng trƣờng hợp nhƣ sau:


a) Dấu ba chấm ở đầu câu:
...Rồi một ngày sương hai ngày sương
(Đôi nhạn)

46
...Thế là cả tấm tình yêu
Đã tan vỡ với bao nhiêu bất bình
(Định mệnh)
b) Dấu ba chấm ở cuối câu:
Lá rơi lả tả trên đầu như mưa...
(Dòng dƣ lệ)

Sao em lại khóc như ngày chị đi...


(Thƣ cho chị)
c) Dấu ba chấm ở giữa câu
Lòng người...chị Trúc nhớ hay quên
(Khăn hồng)
Đi vòng là để qua nhà...đấy thôi
(Qua nhà)
d) Dấu ba chấm ở giữa và cuối câu
Chị bây giờ...nói thế nào...?
(Lỡ bƣớc sang ngang)
Rưng rưng...tôi gục xuống bàn rưng rưng...
(Ngƣời hàng xóm)
e) Dấu ba chấm hai lần ở giữa câu
Rồi...rồi...chị nói sao đây?
(Lỡ bƣớc sang ngang)
Uống...vâng...em uống cho say
(Rƣợu xuân)
Theo sách Ngữ pháp tiếng Việt (Ủy ban KHXH, 1983), dấu ba chấm chỉ
có bốn tác dụng:
- Khi ngƣời viết không diễn đạt hết ý
- Khi lời nói bị đứt quãng, xúc động hay vì lí do khác
- Biểu thị chỗ ngắt đoạn dài giọng với ý châm biếm, hài hƣớc
- Để ghi lại một chỗ kéo dài của âm thanh

47
Nhƣng trong những câu thơ của Nguyễn Bính, dấu ba chấm đƣợc sử dụng
rất linh hoạt với nhiều giá trị ngữ nghĩa, biểu cảm, thậm chí góp phần xây dựng
những hình tƣợng nghệ thuật. Theo chúng tôi, dấu ba chấm trong thơ Nguyễn
Bính có những giá trị biểu hiện nhƣ sau:
Một là, thể hiện, bày tỏ một cảm xúc, tâm trạng, trạng thái nào đó. Có thể
là một sự ngập ngừng, bối rối: Đây tình duyên của đôi ta/Đến đây là...đến đây
là...là thôi! (Rƣợu xuân), Tôi là...tôi chẳng là chi cả/Tôi chết từ hồi mơ ước Tiên
(Mơ tiên). Có thể là một sự xúc động: Em áp trang thơ vào sát ngực/Nghẹn
ngào...ngực thấy nóng ran lên (Nhớ thƣơng ai), Trước khi nhắm mắt, tôi thừa
biết/Đời nó sau này hằn đắng cay...(Trối trăng). Có thể là một sự mong đợi: Chờ
mong như suốt đêm qua/Chàng ơi! Một tháng là ba mươi ngày...(Chờ mong),
Chàng đi đi mãi, đi đi mãi/Đến một chiều kia, đến một chiều...(Hà Nội ba mƣơi
sáu phố phƣờng). Có thể bộc lộ một sự bực bội, khó chịu: Hừ! Chiều nay...khổ
lắm rồi!/Người tôi ghét nhất là người tôi yêu (Một chiều chết). Có thể nhằm tạo
ra một khoảng lặng, gợi sự sâu lắng: Người cách sông rồi...tôi cách sông. Có thể
bộc lộ sự do dự hay đấu tranh tƣ tƣởng: Đã quyết không...không...được một
ngày, Người ấy...nhưng mà tôi chả nói (Vẩn vơ).
Hai là, dấu ba chấm bộc lộ ngụ ý một phần thông tin bị giấu đi. Sau đây là
một số ví dụ tiêu biểu:
- Con ơi! Mẹ khóc suốt đêm kia
Khóc suốt đêm qua nữa chỉ vì...
(Bƣớc đi bƣớc nữa)
Hai câu thơ trên mở đầu khổ thứ ba của bài thơ, nói về câu chuyện ngƣời
mẹ tâm sự với con gái lớn của mình, rằng nuôi các em để cho mẹ đi lấy chồng.
Dấu ba chấm ở cuối câu thơ, theo ý chúng tôi, ngụ ý một phần thông tin không
cần phải hiển lộ ở đây nữa, đó là phần thông tin với những nội dung ngƣời mẹ
nói với cô con gái lớn về những tình cảm và suy nghĩ của mình.
- Dì em khẽ ghé tai em dặn:
"Như thế...từ nay...cháu nhớ chưa?"
(Giọt nến hồng)

48
Dấu ba chấm trong câu thơ trên ngụ ý phần thông tin bị giấu đi, là những
điều dì căn dặn cháu gái trƣớc khi về nhà chồng.
- Có một chiều kia, anh chàng si
Đến đầu phố ấy bỗng ngừng đi
- Hai bên hàng phố hình như họ...
Đi mãi đi hoài có nghĩa chi?
(Hà Nội ba mƣơi sáu phố phƣờng)
Bài thơ nói về câu chuyện một chàng trai si tình, đem lòng yêu thầm một
cô gái ở phố phƣờng Hà Nội. Dấu ba chấm trong câu thơ trên, theo chúng tôi,
bộc lộ nội dung: những ngƣời dân hai bên hàng phố đang quan sát và tỏ ra thắc
mắc, lạ lùng về anh chàng này.
- Em nghe họ nói mong manh
Hình như họ biết chúng mình...với nhau
(Chờ nhau)
Dấu ba chấm trong câu thơ trên, là ngụ ý phần thông tin: chàng trai và cô
gái có quan hệ tình cảm với nhau trên mức bình thƣờng.
Ba là, dấu ba chấm thể hiện một sự nối tiếp của cảm xúc, hành động, suy
nghĩ, sự kiện hay trạng thái nào đó. Trong những trƣờng hợp thế này, dấu ba
chấm chủ yếu nằm ở vị trí cuối câu thơ:
- Nối tiếp của cảm xúc: Rưng rưng...tôi gục xuống bàn rưng rưng...
(Ngƣời hàng xóm)
- Nối tiếp của hành động: Lần lượt theo nhau suốt tối ngày... (Những bóng
ngƣời trên sân ga)
- Nối tiếp của trạng thái, sự kiện đƣợc miêu tả: Lá rơi lả tả trên đầu như
mưa... (Dòng dƣ lệ)
Bốn là, dấu ba chấm có thể biểu hiện một sự đứt quãng của lời nói khi con
ngƣời rơi vào trạng thái xúc động: "- Thưa u họ hát..." - Rồi em thấy/Nước mắt
tràn ra, em ngoảnh đi (Mƣa xuân)
Cuối cùng, dấu ba chấm có vai trò góp phần xây dựng hình tƣợng nghệ
thuật.

49
Trong câu thơ: Anh đi đó anh về đâu/Cánh buồm nâu...cánh buồm
nâu...cánh buồm... (Xuôi đò), việc xuất hiện dấu ba chấm ba lần ở giữa và cuối
dòng thơ góp thêm giá trị tạo hình cho cánh buồm, dần dần từ từ mất hút phía
khơi xa. Trong một câu thơ khác: Nghiến răng...nhắm mắt...cau mày...cực chưa
(Lỡ bƣớc sang ngang), dấu ba chấm lại có giá trị biểu hiện những đau đớn của
ngƣời phụ nữ, những chịu đựng của ngƣời con gái trong một đêm động phòng
không tình yêu, dấu ba chấm nhƣ muốn biểu thị cho những khoảng thời gian nối
tiếp nhau vô cùng nặng nề mà ngƣời con gái ấy phải cam chịu.
2.4.2. Dấu chấm hỏi trong thơ Nguyễn Bính
Trong 273 bài thơ viết trƣớc Cách mạng của Nguyễn Bính, có tới 137 bài
sử dụng các dấu chẩm hỏi. Nói cách khác, có 137 bài thơ sử dụng những câu hỏi
tu từ. Toàn bộ có tới 365 câu thơ sử dụng dấu chấm hỏi. Những câu hỏi có thể
chia thành 4 loại: loại câu hỏi nhằm tìm kiếm câu trả lời (có giá trị nghi vấn thực
sự), loại câu hỏi mang giá trị khẳng định, loại câu hỏi mang giá trị cảm thán và
loại câu hỏi mang giá trị cầu khiến.
Nhóm thứ nhất là những câu hỏi mang tính chất tìm kiếm thông tin. Nhóm
này lại có thể chia thành các bộ phận nhỏ hơn. Có những câu hỏi mà ngay phía
sau nó là câu trả lời, chẳng hạn: Chị bây giờ…nói thế nào?/Bướm tiên khi đã lọt
vào vườn hoang(Lỡ bƣớc sang ngang), Rồi…rồi…chị nói sao đây?/Em ơi nói
nhỏ câu này với em:/Thế rồi máu chảy về tim/Duyên làm lành chị, duyên tìm về
môi(Lỡ bƣớc sang ngang)
Có những câu hỏi muốn nhận thông tin nhƣng thực ra là sự tự vấn lòng
mình: Phải chăng ? Mình có nên ngờ,/Rằng người năm ấy bây giờ là đây
?(Dòng dƣ lệ), Chân bước khoan khoan lòng hỏi lòng/Có nên qua đấy nữa hay
không?/Không nên qua đấy? Nên qua đấy?/Không, nhớ làm sao! Qua, mất
công!(Hà Nội ba mƣơi sáu phố phƣờng), Hỏi rằng tôi đã quên chưa?/Tôi còn
nhớ lắm, và thưa! Rất buồn (Tôi còn nhớ lắm)
Có những câu hỏi muốn nhận thông tin nhƣng thực ra là lấy việc hỏi làm
cái cớ: Có cô lối xóm hàng năm/Trồng dâu tốt lá, chăn tằm ươm tơ/Năm nay đợi

50
đến bao giờ?/Dâu cô tới lứa, tằm cô chín vàng/Tơ cô óng chuốt mịn màng/Sang
xin một ít cho đàn có dây (Đàn tôi).
Có những câu hỏi mang tính chất thắc mắc, hoặc thể hiện sự chờ đợi hoặc
khát khao tình cảm: Hai thôn chung lại một làng/Cớ sao bên ấy chẳng sang bên
này?/…Bao giờ bến mới gặp đò?/Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp
nhau…Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông/Cau thôn Đoài nhớ giàu không thôn nào?
Có những chuỗi câu hỏi nằm trong sự tƣởng tƣợng, nằm trong một giả
định không bao giờ trở thành hiện thực: Tôi muốn yêu Oanh nhưng…thất
vọng/Với tôi Oanh đã quá vô tình!/Giá có phép tiên tôi nặn được/Một người xinh
đẹp y như Oanh/…Người yêu tôi hỏi lòng Oanh nói/Quay lại nhìn Oanh sẽ mỉm
cười/-“Cô hẳn biết tin tôi đấy nhỉ?/Tên là Oanh đấy, cô Oanh ơi!”/Oanh thấy
người yêu tôi giống Oanh/Ngạc nhiên thầm hỏi: “Phải chăng mình?/Người mình
hờ hững bây giờ cũng/Có một người yêu, một bạn tình?”(Mơ chuyện thần tiên)
Có những câu hỏi hƣớng đến ngƣời khác nhƣng lại là hỏi thầm trong ý
nghĩ, hỏi qua những dấu hiệu không phải bằng ngôn ngữ, chẳng hạn trong bài
Thi vị: Tôi không dám hỏi, nhưng đưa mắt/Ý hỏi: “Sao em chửa lấy chồng?”
Lại có những câu hỏi mang tính chất đánh lạc hƣớng, cũng nằm trong bài
thơ trên, nếu ta theo dõi mạch tuyến tính của tác phẩm: Rùng mình, Diễm sát lại
gần tôi/Nắm chặt tay tôi, khẽ mỉm cười:/Bánh đến bao giờ thì mới được?/Anh ơi,
em lấy một chồng thôi!
Nhóm những câu hỏi mang giá trị khẳng định có 3 đơn vị, là những câu
thơ có hình thức là câu hỏi nhƣng thực chất lại mang ý nghĩa khẳng định về một
sự việc tất yếu nào đó, không thể cƣỡng lại và cũng không thể thay đổi: Cũng là
thôi, cũng là đành/Sang ngang lỡ bước riêng mình chị sao?/Tuổi son nhạt thắm
phai đào/Đầy thuyền hận có biết bao nhiêu người?(Lỡ bƣớc sang ngang)
Hai câu hỏi liên tiếp nối nhau trong bốn dòng lục bát. Về hình thức là hỏi
nhƣng thực ra là những khẳng định ngầm: Việc sang ngang lỡ bƣớc đâu đến với
riêng mình chị, nó cũng là câu chuyện chung của bao số phận buồn thƣơng trên
xứ sở này. Và một ngày kia nhan sắc héo tàn, những ngƣời con gái ấy, những
ngƣời phụ nữ ấy chỉ còn biết ôm hận mà thôi.

51
Những câu hỏi mang giá trị cầu khiến gồm 8 đơn vị. Hình thức của phát
ngôn là hỏi nhƣng thực chất nhƣng lại ngầm chuyển đi một thông tin khác đối
với ngƣời nghe, đó là thực hiện một yêu cầu/đề nghị gì đó theo mong muốn của
ngƣời nói: Con mẹ có còn thương mẹ dại?/Thì con gái mẹ nhận lời đi! (Bƣớc
đi bƣớc nữa)
Câu hỏi trên là lời của ngƣời mẹ nói với con gái lớn trƣớc khi đi “bƣớc đi
bƣớc nữa”, nghĩa là lấy chồng lần thứ hai, muốn cậy nhờ cô gái: “Mẹ muốn bước
đi thêm bước nữa/Còn đàn em nhỏ cậy con nuôi”. Vì thế, câu thơ có hình thức là
câu hỏi mà chúng tôi vừa dẫn ở trên lại chuyển tải một thông điệp cầu khiến:
Con hãy nhận lời đề nghị của mẹ, giúp mẹ nuôi các em để mẹ đi lấy chồng. Ý vị
của câu thơ nói riêng và bài thơ nói chung vì thế càng tăng thêm sự chua chát,
xót xa.
Trong một trƣờng hợp khác, ở bài thơ Hôn nhau lần cuối, tả về cảnh chia
tay giữa hai ngƣời yêu nhau, chàng trai tạm biệt cô gái để đi xây dựng công danh
sự nghiệp, Nguyễn Bính viết: Cầm tay anh khẽ nói:/Khóc lóc mà làm chi?/Hôn
nhau một lần cuối,/Em về đi anh đi.
Ta hiểu rằng, nghĩa hàm ẩn của câu hỏi: “Khóc lóc mà làm chi?” chính là
một mong muốn của ngƣời nói: “Em đừng khóc nữa”. Vậy là câu thơ có hình
thức nghi vấn ấy thực chất là một câu cầu khiến.
Nhóm các câu hỏi chiếm số lƣợng lớn nhất là những câu hỏi mang giá trị
cảm thán gồm 309 câu, tƣơng đƣơng với 85% trong tổng số các câu hỏi tu từ thơ
Nguyễn Bính. Giá trị cảm thán trong các câu hỏi thể hiện muôn vàn những cung
bậc của tâm trạng, cảm xúc con ngƣời, nhƣng những sắc thái vui tƣơi lạc quan
rất ít ỏi mà chủ yếu là những cảm giác buồn thƣơng, xót xa, đợi chờ, mong
ngóng, nhớ thƣơng, đau đớn, tuyệt vọng. Có tới 11 bài thơ mà ở đó, những câu
hỏi tu từ xuất hiện với mật độ dày đặc nhƣ một hình thức thể hiện của điệp ngữ,
tạo nên một ấn tƣợng mạnh mẽ tới ngƣời đọc.
Chẳng hạn trong bài Nhạc xuân, ở 5 khổ thơ liên tiếp mỗi khổ 4 câu, câu
cuối cùng của mỗi khổ luôn luôn là một câu hỏi tu từ: Người ở bên kia sông cách
trở/Có về Chiêm quốc như Huyền Trân?…Phận gái ví theo lề ép uổng/Đã về

52
Chiêm quốc như Huyền Trân?/…Hay đã vội quên tình nghĩa cũ/Mà về Chiêm
quốc như Huyền Trân?/…Cung nữ như hoa vườn thượng uyển/Ai về Chiêm quốc
với Huyền Trân?/…Cung nữ môi tô rừng rực điệp/Ai về Chiêm quốc hộ Huyền
Trân?
Tần số của các loại câu hỏi đƣợc tổng kết qua bảng dƣới đây:
Bảng 2.14: Các loại câu hỏi trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
Loại câu Tìm kiếm Giá trị Giá trị Giá trị
hỏi thông tin khẳng định cảm thán cầu khiến
Tần số 45 3 309 8

2.5. Một số biện pháp tu từ cú pháp trong thơ Nguyễn Bính


Nhƣ ta đã biết, từ trƣớc tới nay, khi phân loại về các biện pháp tu từ trong
tiếng Việt, giới Việt ngữ thƣờng chia thành ba nhóm chính là: tu từ từ vựng ngữ
nghĩa, tu từ ngữ âm và tu từ cú pháp. Bởi chƣơng này tập trung bàn về các đặc
điểm ngữ pháp trong thơ Nguyễn Bính nên chúng tôi chỉ đi vào tu từ cú pháp
qua một vài biện pháp tiêu biểu. Hai biện pháp tu từ cú pháp đáng chú ý hơn cả
trong thơ Nguyễn Bính là phép điệp ngữ và phép đảo ngữ.
2.5.1. Biện pháp tu từ điệp ngữ
Biện pháp điệp ngữ trong thi ca đƣợc hiểu là sự lặp lại một số yếu tố ngôn
ngữ nào đó, có thể ở cấp độ từ, cấp độ ngữ, cụm C – V hoặc có khi là sự lặp lại
cả câu thơ. Phép điệp ngữ thƣờng tạo ra giá trị nhấn mạnh sâu đậm về nội dung
đang đƣợc nói tới, có thể là một khắc họa hình ảnh, một biểu hiện cảm xúc hoặc
diễn tả một trạng thái…
Trong thơ Nguyễn Bính, phép điệp xuất hiện một cách tràn ngập nhƣ một
đặc thù riêng của ngôn ngữ thơ thi sĩ chân quê. Trong 273 bài thơ của Nguyễn
Bính có tới 98 bài sử dụng phép điệp, chiếm tỉ lệ 36% trong tổng số các tác
phẩm. Số lần sử dụng phép điệp trong 98 bài là 139 lần, tức là cứ trung bình đọc
2 bài thơ của Nguyễn Bính ta lại thấy 1 lần phép điệp xuất hiện.
Biểu hiện của phép điệp trong thơ Nguyễn Bính khá đa dạng, có thể đƣa
về 6 loại nhƣ sau: Điệp sóng đôi, điệp từ, điệp ngữ, điệp cụm C – V, điệp cấu
trúc, điệp toàn bộ câu thơ.

53
Điệp sóng đôi xuất hiện tới 14 lần trong các bài thơ của Nguyễn Bính, là
loại điệp dựa trên sự giống nhau, tƣơng đồng giữa hai đối tƣợng cùng đƣợc nói
tới trong một đoạn thơ hoặc cả bài thơ. Điệp sóng đôi có thể là một bộ phận của
một trƣờng đoạn, chẳng hạn: Người đi xây dựng cơ đồ/Chị về giồng cỏ nấm mồ
thanh xuân/Người đi khoác áo phong trần/Chị về may áo liệm dần nhớ
thương(Lỡ bƣớc sang ngang), Anh đi trong ngục thất tình/Em về trong ngục gia
đình trăm năm(Định mệnh)
Trong các ví dụ trên, hai cụm từ “ngƣời đi” và “chị về” đƣợc lặp lại hai
lần và xuất hiện trong mối tƣơng quan gắn bó lẫn nhau, nhằm nổi bật sự tƣơng
phản giữa hai cuộc đời, hai số phận nhân vật. Cũng tƣơng tự nhƣ vậy, hai chữ
“ngục” đƣợc lặp lại trong hai dòng thơ liên tiếp, gắn với hai số phận khác nhau.
Điệp sóng đôi có khi đƣợc sử dụng nhƣ một cấu trúc để xây dựng nên
toàn bộ tác phẩm thơ. Các bài nhƣ Hai lòng hay Oan uổng của Nguyễn Bính đều
thuộc loại này. Cứ một câu nói đến nhân vật nam lại chuyển sang một câu nói về
nhân vật nữ với những cấu trúc ngôn ngữ hoàn toàn giống nhau, đó là sự lặp lại
nhiều lần của: lòng em – lòng anh, lặp song song thành từng cặp giữa tình tôi –
tình cô, lòng tôi – lòng cô, hồn tôi – hồn cô: Lòng em như quán bán hàng/Dừng
chân cho khách qua đàng mà thôi/Lòng anh như mảng bè trôi/Chỉ về một bến
chỉ xuôi một chiều//Lòng anh như biển sóng cồn/Chứa muôn con nước ngàn con
sông dài/Lòng em như chiếc lá khoai/Đổ bao nhiêu nước ra ngoài bấy nhiêu(Hai
lòng) hay: Tình tôi là giọt thủy ngân/Dù nghiền chẳng nát, dù lăn vẫn tròn/Tình
cô là đóa hoa đơn/Bình minh nở để hoàng hôn mà tàn//Lòng tôi rối những tơ
đàn/Cao vời những ước đầy tràn những mơ/Lòng cô chẳng có dây tơ/Ước sao
đến thấp mà mơ đến nghèo//Hồn tôi cát bụi trong veo/Trăng thu trong vắt biển
chiều trong xanh/Hồn cô như bụi kinh thành/Đa đoan vó ngựa chung tình bến xe
(Oan uổng)
Điệp từ xuất hiện tới 57 lần trong tổng số toàn bộ những biểu hiện của
phép điệp, chia thành các loại: điệp hƣ từ/ cụm hƣ từ (14 lần), điệp danh từ (14
lần), điệp động từ (21 lần), điệp tính từ (8 lần). Trong đó, mức độ lặp lại cao nhất
của một đơn vị ngôn ngữ ở loại này là 6 lần và 7 lần. Ở những trƣờng hợp nhƣ

54
trên, tài năng ngôn ngữ của Nguyễn Bính đƣợc bộc lộ, mỗi lần lặp lại là một sự
mới mẻ, là một sắc thái hoặc ý nghĩa đƣợc cấp thêm, nhấn mạnh thêm: Có một
chiếc xe màu trắng đục/Hai con ngựa trắng xếp hàng đôi/Đem đi một chiếc quan
tài trắng/Và những vòng hoa trắng lạnh người/Theo bước những người khăn áo
trắng/Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi(Viếng hồn trinh nữ), Lòng tơ giăng
nửa dây đàn/Ái ân xẻ nửa cho làng ăn chơi/Môi son hé nửa nụ cười/Mắt xanh hé
nửa…ai người mắt xanh/Vườn hồng cài nửa then trinh/Tóc tơ nửa mối chung
tình nửa đêm (Lòng kỹ nữ)
Điệp ngữ xuất hiện 34 lần trong tổng số toàn bộ, chia thành 2 loại là điệp
ngữ danh từ (26 lần) và điệp ngữ động từ (8 lần): Mười năm gối hận bên
giường/Mười năm nước mắt bữa thường thay canh/Mười năm đưa đám một
mình/Đào sâu chôn chặt mối tình đầu tiên/Mười năm lòng lạnh như tiền/Tim đi
hết máu cái duyên không về (Lỡ bƣớc sang ngang), Gieo thoi, gieo thoi lại gieo
thoi (Nhớ), Kết hoa mười mấy bến đò/Kết hoa trắng cả đôi bờ sông trong(Đám
cƣới bƣớm).
Điệp C – V xuất hiện 6 lần trong các bài thơ của Nguyễn Bính: Một ngày
lá rụng báo tin thu/Lá rụng bay theo gió đổi mùa/Lá rụng, hoa buồn không nở
nữa/Hoa buồn không nở bướm đi tu (Bƣớm đi tu), Tôi ước ao, tôi ước ao/Đời
người ấy để tôi vào được không (Mƣời hai bến nƣớc)
Điệp cấu trúc là một hình thức khá đặc trƣng của thơ Nguyễn Bính và
cũng là một trong ba loại điệp (điệp ngữ danh từ, điệp động từ và điệp cấu trúc )
có số lần xuất hiện nhiều nhất (20 lần). Mô hình của loại điệp này là có một phần
từ ngữ lặp lại y nguyên, một phần khác linh hoạt biến hóa. Trong câu thơ, phần
lặp lại có thể nằm ở vị trí mở đầu hoặc vị trí kết thúc. Khi phần lặp lại nằm ở vị
trí mở đầu, cấu trúc thƣờng thấy là một cụm C – V, chẳng hạn: Tôi muốn môi cô
chỉ mỉm cười…/…Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai/…Tôi muốn mùi thơm của nước
hoa/…Tôi muốn những đêm đông giá lạnh/…Tôi muốn làn hơi cô thở nhẹ
(Ghen), Có lần tôi thấy hai cô bé…/…Có lần tôi thấy một người yêu/…Có lần tôi
thấy vợ chồng ai/…Có lần tôi thấy một bà già/…Có lần tôi thấy một người đi
(Những bóng ngƣời trên sân ga)

55
Phần lặp lại cũng có khi nằm ở vị trí kết thúc, khi đó phần lặp lại thƣờng
có cấu trúc là một ngữ: Có về Chiêm quốc như Huyền Trân?/…Đã về Chiêm
quốc như Huyền Trân?/…Mà về Chiêm quốc như Huyền Trân?/…Ai về Chiêm
quốc với Huyền Trân? (Nhạc xuân), Anh khổ vô ngần Chức Nữ em ơi/…Chân
cứng đá mềm Chức Nữ em ơi/…Anh bắc nghìn cầu Chức Nữ em ơi (Ngƣu Lang
Chức Nữ)
Điệp cấu trúc có khi biểu hiện một cách đặc biệt, kín đáo và tinh tế hơn,
thể hiện qua việc ở phần đầu bài thơ nói đến những sự việc/sự kiện/nhân vật gì
thì cuối bài thơ lại trở lại nói về sự việc/sự kiện/nhân vật đó. Ta hãy thử so sánh
hai khổ thơ trong bài Mưa xuân, một khổ nằm trong phần mở đầu và một khổ
nằm trong phần kết thúc của thi phẩm: Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/Hoa
xoan lớp lớp rụng vơi đầy/Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ/Mẹ bảo: “Thôn
Đoài hát tối nay”…Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay/Hoa xoan đã nát dưới chân
giày/Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ/Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”
Ở một số bài thơ khác, phần đầu và phần cuối tác phẩm cũng có những kết
cấu tƣơng ứng tƣơng tự: Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/Một người chín nhớ
mười mong một người...//Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông/Cau thôn Đoài nhớ
giàu không thôn nào(Tƣơng tƣ), Sáng giăng sáng cả vườn chè/Một gian nhà nhỏ
đi về có nhau/...Đêm qua mới thật là đêm/ Ai đem giăng sáng giãi lên vườn
chè(Thời trƣớc), Hội làng mở giữa mùa thu/Trời cao, gió cả, trăng như ban
ngày/...Tình tôi nở giữa mùa thu/Tình em lẳng lặng kín như buồng tằm(Đêm
cuối cùng)
Hình thức cuối cùng của phép điệp trong thơ Nguyễn Bính là lặp lại toàn
bộ câu thơ với 8 trƣờng hợp, có thể lặp lại một câu hoặc hai câu liền kề. Trong
các bài nhƣ Một nghìn cửa sổ, Một con sông lạnh, Khóc anh Nguyễn Nhược
Pháp, Hà Nội 36 phố phường…, có sự lặp lại trọn vẹn cả một câu thơ. Câu thơ
đƣợc lặp lại có vị trí cách đều nhau (bài Một nghìn cửa sổ) hoặc không cách đều
nhau (Một con sông lạnh, Khóc anh Nguyễn Nhược Pháp), hoặc nối tiếp nhau
(bài Nhạc xuân), hoặc nằm trong thế tƣơng ứng đầu – cuối tác phẩm (Hà Nội ba
mươi sáu phố phường). Sau đây là những câu thơ đƣợc lặp lại toàn bộ trong một

56
số bài thơ vừa dẫn: Một nghìn cái cửa sổ/Đều khép vào đêm qua/Một nghìn bàn
tay ngà/Đã thò ra cửa sổ//Một nghìn cái cửa sổ/Đều khép vào đêm nay/Lại
nghìn cái bàn tay/Ấy thò ra cửa sổ (Một nghìn cửa sổ). Rung rung ánh nến hoen
vàng/Hơi men lắng xuống tiếng đàn cao lên/…Rung rung ánh nến hoen
vàng/Đôi dây nức nở muôn ngàn nhớ thương (Một con sông lạnh), Ai đem bứt
hết lá vàng/Dệt làm khăn liệm đám tang muôn đời/Thương anh nói chẳng hết
lời/Giờ đây anh đã ra người ngàn xưa…Kéo dài số kiếp trăm năm/Cũng mang
tiếng một con tằm mà thôi/Thương anh chẳng nói hết lời/Giờ đây anh đã ra
người ngàn xưa! (Khóc anh Nguyễn Nhƣợc Pháp)
Ở hai bài thất ngôn trƣờng thiên Giời mưa ở Huế và Xuân tha hương,
không chỉ một câu thơ đƣợc lặp lại mà có đến hai câu thơ lặp lại nhiều lần trong
những vị trí đƣợc xác định, có giá trị quan trọng góp phần tạo ra một kết cấu chặt
chẽ và đặc biệt cho thi phẩm. Trong bài Giời mƣa ở Huế, hai câu thơ: Giời mưa
ở Huế sao buồn thế/Cứ kéo dài ra đến mấy ngày đƣợc lặp lại 4 lần, 3 lần mở đầu
các khổ thơ và lần cuối dùng để khép lại bài thơ nhƣ một dƣ âm. Còn ở bài Xuân
tha hương, hai câu thơ: Tết này chưa chắc em về được/Em gửi về đây một tấm
lòng đƣợc lặp lại tới 6 lần, đều nằm ở vị trí mở đầu các khổ thơ, góp phần tạo
nên một nhịp điệu liền mạch, một giọng điệu tha thiết kéo dài suốt 100 câu của
thi phẩm.
Có thể tổng kết về phép điệp trong thơ Nguyễn Bính trƣớc Cách mạng qua
bảng sau:
Bảng 2.15: Các loại điệp ngữ trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945:
Các loại điệp Số lƣợng
Danh từ 14
Động từ 21
Điệp từ
Hƣ từ 14
Tính từ 8
Ngữ danh từ 26
Điệp ngữ
Ngữ động từ 8
Điệp C- V 6
Điệp cấu trúc 20
Điệp câu thơ 8
Điệp sóng đôi 14
Tổng số 139

57
So sánh về tình hình sử dụng điệp ngữ của Nguyễn Bính với một thi sĩ
lãng mạn cùng thời là Huy Cận, ta thấy tình hình khác nhau nhiều. Trong tập
Lửa thiêng gồm 50 bài thơ, chỉ có 7 bài có sử dụng phép điệp ngữ, chiếm 14% so
với tổng số các thi phẩm trong tập. Số lần sử dụng phép điệp trong các bài thơ
cũng ít ỏi, chỉ 7 lần/7 bài thơ. Đó là các bài: Thân thể, Tràng giang, Dấu chân
trên đường, Nhớ hờ, Trò chuyện, Tình mất, Hồn xuân. Các hình thức của phép
điệp cũng đơn giản, không có sự xuất hiện của điệp sóng đôi, điệp câu thơ và
điệp hƣ từ. Chúng tôi cho rằng, sở dĩ thơ Nguyễn Bính có sự thể hiện phong phú
và đông đảo về phép điệp nhƣ vậy, chính một phần lớn ảnh hƣởng từ phong cách
của ca dao. Nói cách khác, chính phép điệp xuất hiên một cách dày đặc trong thơ
Nguyễn Bính góp phần tạo ra một âm hƣởng truyền thống, gần gũi, dễ nhớ dễ
thuộc, giống nhƣ ta đã từng gặp trong những bài ca dao vậy. Khảo sát ngẫu
nhiên 100 câu ca dao ở mục chủ đề tình yêu nam nữ trong cuốn Tục ngữ ca dao
dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan, chúng tôi thấy phép điệp cũng xuất hiện
một cách dày đặc với nhiều biểu hiện phong phú: điệp từ, điệp ngữ, điệp C- V,
điệp cấu trúc, điệp sóng đôi. Xin dẫn một số ví dụ tiêu biểu: Tình anh như nước
dâng cao/Tình em như dải lụa đào tẩm hương (Điệp sóng đôi), Đôi ta như lửa
mới nhen/Như trăng mới mọc như đèn mới khêu(Điệp cấu trúc), Đố ai quét sạch
lá rừng/Để anh khuyên gió gió đừng rung cây/Rung cây, rung cỗi, rung
cành/Rung sao cho chuyển lòng anh với nàng (Điệp từ), Ước gì anh hóa ra
hoa/Để em nâng lấy rồi mà cài khăn/Ước gì anh hóa ra chăn/Để cho em đắp, em
lăn, em nằm/Ước gì anh hóa ra gương/Để cho em cứ ngày thường em soi/Ước gì
anh hóa ra cơi/Để cho em đựng cau tươi trầu vàng (Điệp ngữ), Anh còn son em
cũng còn son/Ước gì ta được làm con một nhà (Điệp C- V)
2.5.2. Biện pháp tu từ đảo ngữ
Đảo ngữ đƣợc hiểu là việc thay đổi trật tự cú pháp một cách bất thƣờng
nhằm nhấn mạnh vào thành phần đƣợc đƣa lên phía trƣớc. Hình thức thƣờng
thấy của đảo ngữ là thay đổi trật tự chủ ngữ trƣớc vị ngữ sau bằng vị ngữ trƣớc
chủ ngữ sau, hoặc đƣa tính từ và động từ lên trƣớc danh từ. Những biểu hiện của
phép đảo ngữ trong thơ Nguyễn Bính cũng nằm trong các hình thức trên. So với

58
sự hoạt động của phép điệp, phép đảo trong thơ Nguyễn Bính không có số lƣợng
dày đặc bằng, song cũng tạo ra những ấn tƣợng đáng kể cho ngƣời đọc bằng việc
sử dụng liên tiếp các phép đảo trong cùng một câu thơ, đoạn thơ hoặc bài thơ. Có
24 lần phép đảo đƣợc sử dụng trong 16 bài thơ khác nhau của Nguyễn Bính,
trong đó gây ấn tƣợng đậm nét là phép đảo trong 3 bài: Lòng kỹ nữ, Đường rừng
chiều và Một trời quan tái. Ở ba bài thơ trên, phép đảo không chỉ xuất hiện một
lần mà xuất hiện nhiều lần, tạo nên những giá trị biểu cảm riêng có của thi phẩm:
Hoang liêu cả một lầu hồng/Đêm xao xuyến gió đêm dùng dằng mưa/Hững hờ
nàng khép song thưa/Đêm sao dài quá như thừa trống canh(Lòng kỹ nữ), Chim
nào kêu mỏi ngàn cây/Ngẩn ngơ đôi chiếc ngựa gầy dong xe/Đồi sim dan díu
nương chè/Trắng phau khói núi xanh lè áo ai(Đƣờng rừng chiều),Chênh vênh
quán rượu mờ sương khói/Váng vất thôn sâu quạnh tiếng gà (Một trời quan tái)
Ở bài Lòng kỹ nữ, phép đảo xuất hiện liên tiếp 4 lần trong 3 dòng thơ:
hoang liêu… lầu hồng, xao xuyến gió, dùng dằng mƣa, hững hờ nàng khép có
giá trị nhấn mạnh vào sự khắc họa tâm trạng cảm xúc cô đơn, lẻ loi, buồn bã, đợi
chờ của ngƣời kỹ nữ. Ngƣợc lại, phép đảo trong hai bài Đường rừng chiều và
Một trời quan tái lại chủ yếu mang giá trị tạo hình, nhấn mạnh vào các sự vật,
đối tƣợng đƣợc miêu tả: ngẩn ngơ…ngựa gầy, trắng phau khói núi, xanh lè áo
ai, chênh vênh quán rượu, mờ sương khói, váng vất thôn sâu, quạnh tiếng gà.
Trong các bài thơ khác, phép đảo ngữ góp phần đắc lực mang đến giá trị
biểu cảm, gợi cảm của câu thơ, có lúc nhấn mạnh vào giá trị tƣợng hình, có lúc
nhấn mạnh vào giá trị tƣợng thanh: Thui thủi một mình anh bắt bướm/Trống
chèo thưa thớt hội làng Ngang(Hết bƣớm vàng), Rào rào nghe rụng tiếng mưa
rơi (Mƣa), Thổn thức dăm thôn nối tiếng gà (Lầu lạnh), Lênh đênh tóc rối cỏ
bồng/Chiều ba mươi tết ai không nhớ nhà (Xuân về nhớ cố hƣơng)
2.6. Những đặc sắc trong sử dụng hƣ từ
Chúng tôi đi theo quan điểm phân loại hƣ từ của Bùi Minh Toán khi phân
chia hƣ từ trong tiếng Việt thành 3 nhóm cơ bản: phó từ, quan hệ từ và tình thái
từ (gồm trợ từ nhấn mạnh, tiểu từ tình thái và thán từ). Có thể thấy, thơ Nguyễn

59
Bính sử dụng tất cả những loại hƣ từ nói trên với nhiều biểu hiện phong phú,
sáng tạo.
Trong 272 bài thơ của Nguyễn Bính có tới 326 hƣ từ các loại đƣợc sử
dụng với tổng tần số lên tới 4298 lần.
Có tất cả 105 đơn vị phó từ và tổ hợp phó từ đã đƣợc sử dụng trong các
bài thơ của Nguyễn Bính. Tổng tần số của 105 đơn vị phụ từ này là 1944 lần,
trong đó có thể kể tới những đơn vị đƣợc xuất hiện với tần số cao nhất gồm:
không (161 lần), đã (216 lần), lại (165 lần), cho (108 lần), những (150 lần),
chẳng (109 lần), vẫn (73), mãi (72), chưa (62), nữa (50)...: Tôi với nàng đây
không biết nhau (Viếng hồn trinh nữ), Hay là nàng đã dệt thoi đôi (Mùa đông
nhớ cố nhân), Bồi hồi xem lại trang thơ cũ (Nhớ thƣơng ai), Uống đi em uống
cho say (Rƣợu xuân), Tôi muốn những đêm đông giá lạnh (Ghen).... Ngoài ra
còn có thể kể đến các tổ hợp phó từ hai âm tiết nhƣ: bỗng dưng, không cứ, đến
nỗi, mãi mãi, thỉnh thoảng...
Có tất cả 100 đơn vị quan hệ từ và tổ hợp quan hệ từ đƣợc sử dụng trong
các bài thơ của Nguyễn Bính. Tổng tần số Tổng tần số của 100 đơn vị phụ từ này
là 1455 lần, trong đó những đơn vị xuất hiện với tần số cao nhất là: như (161
lần), mà (169 lần), để (122 lần), với (105), từ (72 lần), cũng (70 lần), rồi (61 lần),
và (52), thì (51), nhưng (49), của (48)...: Ví chăng nhớ có như tơ nhỉ (Nhớ), Mà
đến hôm nay anh mới biết (Trƣờng huyện), Để đưa nàng đến nghĩa trang này
(Viếng hồn trinh nữ), Dệt lụa quanh năm với mẹ già (Mƣa xuân), Từ dạo mồng
tơi thôi trổ lá (Vƣờn hoang)...
Có tất cả 121 đơn vị tình thái từ và tổ hợp tình thái từ đƣợc sử dụng trong
các bài thơ của Nguyễn Bính. Tổng tần số của 121 đơn vị phụ từ này là 899 lần.
Trong đó, các đơn vị thuộc tiểu nhóm trợ từ nhấn mạnh đƣợc sử dụng nhiều nhất
là: cả (110 lần), chỉ (50 lần), nữa (36 lần); các đơn vị tiểu từ tình thái đƣợc sử
dụng nhiều nhất là: rồi (108 lần), quá (48 lần), thôi (44 lần), lắm (37 lần)...; các
đơn vị thuộc nhóm thán từ đƣợc sử dụng nhiều nhất là: ơi (107 lần), hỡi (28), ạ
(16), ôi (14)...: Không, không, chả có đêm nào cả (Ngƣời con gái ở lầu hoa),
Mình chỉ mơ toàn chuyện viển vông (Xuân tha hƣơng), Một vai nữa gánh muôn

60
vàn nhớ thương (Lỡ bƣớc sang ngang), Mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân rồi!
(Nhạc xuân), Nàng bèo bọt quá, em lăn lóc (Xuân tha hƣơng), Xa lắm rồi Nhi,
muộn lắm rồi! (Hoa với rƣợu), Cô hái mơ ơi, cô gái ơi (Cô hái mơ), Chị ạ! Làm
sao em cứ thấy (Chị đã ghen)...
Toàn bộ các thi phẩm trƣớc Cách mạng của Nguyễn Bính gồm 5332 câu
thơ. Với tổng tần số các đơn vị hƣ từ/ cụm hƣ từ đƣợc sử dụng là 4298, có thể
thấy, gần nhƣ cứ trung bình một câu thơ là có sự xuất hiện của một hƣ từ. Tuy
nhiên khi đi vào thống kê cụ thể, có thể thấy mức độ đậm nhạt trong từng câu
thơ vẫn có sự khác nhau. Bảng tổng kết sau sẽ cho chúng ta thấy tần số sử
dụng hƣ từ trong từng câu thơ cụ thể.
Bảng 2.16: Tần số sử dụng hƣ từ trong các câu thơ
Tần số sử dụng hƣ từ Số lƣợng Tỉ lệ
Câu thơ không có hƣ từ 613/5332 11%
Câu có 1 hƣ từ 1742/5332 33%
Câu có 2 hƣ từ 1657/5332 31%
Câu có 3 hƣ từ 1055/5332 20%
Câu có 4 hƣ từ 216/5332 4%
Câu có 5 hƣ từ 44/5332 0,8%
Câu có 6 hƣ từ 7/5332 0,13%
Câu có 7 hƣ từ 1/5332 0,01%
Những câu thơ không có hƣ từ chiếm tỉ lệ không nhiều lắm. Tuy nhiên, cá
biệt cũng có một vài bài thơ chỉ xuất hiện duy nhất một hƣ từ (rơi vào những bài
thơ ngắn, có độ dài từ 6 – 8 câu): Trưa hè một buổi nắng to/ Gió tây nổi, cánh
đồng ngô rào rào/ Con đường thấp, con đê cao/ Bọn người đi chợ rẽ vào đồng
ngô/ Tiếng cười chen tiếng nói to/ Dáng chừng trong bọn có cô chưa chồng
(Trƣa hè). Bài thơ trên chỉ có một hƣ từ duy nhất nằm ở câu cuối cùng: chưa.
Những câu thơ có một hƣ từ chiếm tỉ lệ nhiều hơn cả trong các bài thơ của
Nguyễn Bính. Những hƣ từ xuất hiện trong các câu thơ liền kề, có sự lặp lại, đôi
khi giữ vai trò quan trọng trong việc liên kết văn bản: Em lo gì trời gió/Em sợ gì
trời mưa/Em buồn gì mùa hạ/Em tiếc gì mùa thu (Thoi tơ)

61
Những câu thơ có mặt hai hƣ từ chiếm số lƣợng lớn thứ nhì, trong nhiều
trƣờng hợp góp phần xác lập, tạo ra hai vế của một câu thơ, làm câu thơ có âm
điệu nhịp nhàng, giàu nhạc tính: Bệnh dường như khỏi, dạ như say(Nhặt nắng),
Cho diều tôi xuống, cho tôi nhỡ nhàng (Nhỡ nhàng). Hai hƣ từ đi cùng trong một
câu thơ có thể truyền tải ý nghĩa nhấn mạnh hoặc bổ sung: Ngày xưa còn bé Nhi
còn đẹp (Hoa với rƣợu), Chỉ về một bến, chỉ xuôi một chiều (Hai lòng). Hai hƣ từ
có thể đứng liền kề nhau hoặc giãn cách trong một câu thơ: Đừng nên buồn bã
khóc than chi (Một ngƣời phóng đãng), Lâu lắm hình như tôi biếng cười (Lá
mùa thu), Từ đấy loài hoa mới biết cười (Hƣơng, cố nhân), Cũng xin giữ mãi
làm nàng Tây Thi (Tây Thi). Những câu thơ gồm ba hƣ từ cũng có sự thể hiện
khá linh hoạt. Có khi là sự lặp lại ba lần của một đơn vị hƣ từ: Ôi! Lụa! Ôi! Đờn!
Ôi! Tóc tơ!(Một lần), Ồ mai, ồ mốt, ồ mai mốt(Tạ Từ). Có khi là sự phối hợp
nhịp nhàng của các tiểu loại hƣ từ khác nhau (phó từ, quan hệ từ, tình thái từ):
Em đừng khóc nữa em ơi!(Lỡ bƣớc sang ngang), Đừng lo cô nhé, tôi giàu lắm
(Cho tôi ly nữa)
Những câu thơ có 4 và 5 hƣ từ chiếm tỉ lệ không nhiều lắm, nhƣng theo
chúng tôi, nó lại góp phần tạo ra một giọng điệu riêng của thi sĩ chân quê, làm
câu thơ đậm chất khẩu ngữ, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày: Dở dang cho đến
thế thì dở dang (Xây hồ), Chắc chả như khi chị lấy chồng (Khăn hồng), Bởi vì,
thôi nói làm chi nữa (Những trang nhật ký), Dẫu sao thì sự đã rồi nghe em (Lỡ
bƣớc sang ngang). Đặc biệt, những câu thơ gồm 6 và 7 hƣ từ có thể coi là những
câu thơ độc đáo nếu xét từ góc độ sử dụng hƣ từ trong văn bản thi ca: Thì ra chỉ
có thế mà thôi (Vâng), Chỉ có thế thôi nên đến để (Một ngƣời phóng đãng), Có
cũng nên mà không cũng nên (Vẩn vơ)
Trong thơ Nguyễn Bính có sự chuyển loại giữa thực từ - hƣ từ và hƣ từ -
hƣ từ. Có thể thấy, ở cả ba khu vực thực từ cơ bản là động từ, danh từ và tính từ
đều có sự chuyển loại sang hƣ từ ở thế tƣơng ứng. Trƣờng hợp động từ có thể
thấy qua những trƣờng hợp điển hình với các đơn vị: có, nổi, để. Trƣờng hợp
danh từ có thể thấy qua đơn vị: lần. Trƣờng hợp tính từ có thể thấy qua: mới, cả
Bảng 2.17: So sánh tƣơng quan chuyển loại thực từ - hƣ từ

62
Sử dụng với tƣ cách thực từ Sử dụng với tƣ cách hƣ từ
Có những hàng chim bay rất cao Lăn lóc có dƣ mƣời mầy tỉnh
(Buồn ngẩn ngơ) (Trời mƣa ở Huế)
Từng con bong bóng lanh chanh nổi Cũng không ngăn nổi một lần chị
(Mƣa) đi
(Lỡ bƣớc sang ngang)
Tên anh em để bên lòng Đi vòng để đƣợc qua nhà đấy thôi
(Ngƣu Lang – Chức Nữ) (Qua nhà)
Đã mấy lần xuân trôi chảy mãi Rót lần rót mãi xuống nàng Oanh
(Cô lái đò) (Tâm hồn tôi)
Một bài thơ mới để dâng Nhi Chị em mới lấy chồng năm ngoái
(Nuôi bƣớm) (Hoa với rƣợu)
Về sự chuyển loại hƣ từ - hƣ từ, có thể thấy qua các đơn vị điển hình nhƣ:
Nữa (vừa là phụ từ vừa là trợ từ nhấn mạnh – một tiểu loại của tình thái từ), Rồi
(vừa là quan hệ từ vừa là tiểu từ tình thái), Đi (vừa là phụ từ vừa là tiểu từ tình
thái), Thôi (vừa là tiểu từ tình thái vừa là phụ từ), Mà (vừa là quan hệ từ vừa là
tiểu từ tình thái), Những (vừa là phụ từ vừa là trợ từ nhấn mạnh). Sau đây là một
số ví dụ tiêu biểu:
- Em đừng khóc nữa em ơi (Lỡ bƣớc sang ngang) và Một vai nữa gánh
muôn vàn nhớ thương (Lỡ bƣớc sang ngang)
- Rồi đây sóng gió ngang sông (Lỡ bƣớc sang ngang) và Mùa xuân, mùa
xuân, mùa xuân rồi! (Nhạc xuân)
- Và đem đi cả một thuyền mơ (Vẩn vơ) và Uống đi! Em uống cho say
(Rƣợu xuân)
- Tội nghiệp cho chàng quá mất thôi! (Nhớ thƣơng ai) và Cớ sao tôi vẫn
chả thôi yêu (Vẩn vơ)
- Hay để mà thƣơng đến mãn đời (Những trang nhật ký) và Tại ai? Có tại
Hoàng Trân đâu mà! (Ngọc vô duyên)
- Những chiều quán trọ, những đêm say (Trời mƣa ở Huế) và Những một
mình em uống rượu hồng (Xuân tha hƣơng)

63
Tạm bỏ qua những trƣờng hợp lặp lại hai lần một đơn vị hƣ từ, chỉ tính từ
trƣờng hợp lặp lại ba lần trở lên, Nguyễn Bính đã có tới 34 lần sử dụng hƣ từ
nhƣ một phép điệp độc đáo, trong đó có những trƣờng hợp một đơn vị hƣ từ lặp
lại 5 lần, 7 lần và 8 lần. Có 19 trƣờng hợp điệp lại ba lần một đơn vị hƣ từ:
Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi/Thế nghĩa là yêu quá mất rồi/Và nghĩa là cô là
tất cả/Cô là tất cả của riêng tôi (Ghen). Có 10 trƣờng hợp điệp lại bốn lần một
đơn vị hƣ từ: Vợ tôi không đợi không chờ/Không nhan sắc mấy không thơ mộng
gì (Cƣới vợ). Có 3 trƣờng hợp điệp lại 5 lần một đơn vị hƣ từ: Lòng đâu nhớ đến
khách qua đường/Những buổi chiều hè nhạt bóng dương/Những buổi thu sang
vàng lá rụng/Những ngày đông đến trận mưa sương/Những độ xuân về, những
tiếng khuyên (Vô tình). Và đặc biệt hơn cả, có trƣờng hợp điệp lại 7 lần một đơn
vị hƣ từ và trƣờng hợp điệp 8 lần một đơn vị hƣ từ: Dù rằng một chữ cũng
thơ/Dù rằng một thoáng cũng thừa xót xa/Dù rằng cũng một cánh hoa/Dù rằng
một nửa cũng là trái tim/Dù không nói, dù lặng im/Dù sao anh cũng thương đêm
nhớ ngày (Dù rằng), Lòng nào bạn nỡ lặng im/Để tan ngọc bích để chìm ngọc
trai/Để gió cắt, để mưa mài/Để nhòe cánh thắm, để phai nhụy hồng/Để sa mạc
một tấm lòng/Để sinh phần, để lãnh cung cuộc đời (Ngọc vô duyên)
Câu thơ vắt dòng có thể nói là một hình thức khá táo bạo mới mẻ của thi
ca hiện đại, xuất hiện nhiều trong phong trào Thơ Mới. Nhiều thi sĩ lãng mạn
đều có sử dụng hình thức này, chẳng hạn Xuân Diệu: Hoa nghiêng xuống cỏ
trong khi cỏ/Nghiêng xuống làn rêu một tối đầy (Với bàn tay ấy).
Ở Nguyễn Bính, ông có rất nhiều câu thơ thể hiện thủ pháp vắt dòng,
nhƣng điều quan trọng là, điểm giao cắt ở vị trí vắt dòng ấy – âm tiết cuối cùng
của câu thơ đi trƣớc – lại là một hƣ từ. Điều này tạo ra một giọng điệu mới mẻ,
thú vị, đẩy câu thơ từ điệu ngâm (theo lối truyền thống) tiến dần sang cƣơng vực
của điệu nói (giàu chất khẩu ngữ): Thoi ạ, làm sao thoi lại cứ/Đi về giăng mắc
để trêu tôi (Nhớ), Tình cô kỹ nữ bên sông đã/Tàn lạnh theo thuyền thương khách
xuôi (Chị đã ghen), Lẳng lặng anh ngồi bên em để/Đếm ngón tay ngà thon búp
măng (Nếu một mai), Tôi uống cả em và uống cả/Một trời quan tái mấy cho say
(Một trời quan tái)

64
Nguyễn Bính rất linh hoạt khi sử dụng đồng thời cả hai biến thể ngữ âm
của một đơn vị hƣ từ, điều này tạo ra sự phong phú về giọng điệu, biểu hiện
đƣợc nhiều sắc thái hơn. Đó có thể là một màu sắc của phƣơng ngữ Bắc Bộ đƣợc
nhấn mạnh, đó lại có thể là một không khí cổ điển đƣợc tạo dựng. Ta hãy thử so
sánh:
- Tự và từ: Chị từ dan díu với tình (Lỡ bƣớc sang ngang) và Mới hay tự cổ
bao người đẹp (Viếng hồn trinh nữ)
- Không và khôn: Mẹ không muốn thế nhưng mà nghĩ (Bƣớc đi bƣớc nữa)
và Giếng cạn nên khôn thả lá vàng (Nhặt nắng)
- Nhỉ và Hỉ: Ngày mai có nghĩa gì đâu nhỉ (Hành phƣơng Nam) và Bao
giờ vui hỉ! Về ăn cưới! (Khăn hồng)
- Đang và Đƣơng: Mây trắng đang xây mộng viễn hành (Bảy chữ) và Bên
người lão bộc đương ngồi quay tơ (Dòng dƣ lệ)
- Thì và Thời: Ngày mai thì cưới, độ chừng ngày kia (Cƣới vợ) và Thời
thường nhắc: Chị mày giờ ra sao...? (Lỡ bƣớc sang ngang)
Trong việc đặt nhan đề các thi phẩm của mình, Nguyễn Bính có tới hai bài
thơ mà tên của nó thuần túy là những hƣ từ. Đó là các bài Vâng và Dù rằng. Đây
cũng là một điểm khá độc đáo, ít bắt gặp ở các thi sĩ đƣơng thời.
Để làm rõ hơn về đặc điểm sử dụng hƣ từ trong thơ Nguyễn Bính, chúng
tôi có sự tiến hành so sánh, thống kê đối chiếu với việc sử dụng hƣ từ trong thơ
Huy Cận qua tập Lửa thiêng (1940). Tập Lửa thiêng gồm 50 bài thơ với 957
dòng thơ. Có tất cả 120 đơn vị hƣ từ đƣợc sử dụng (Phụ từ: 54, Quan hệ từ: 31,
Tình thái từ: 32) với tổng tần số hƣ từ là 732 lần. Có thể quan sát tình hình sử
dụng hƣ từ của hai tác giả qua bảng tổng kết dƣới đây:
Bảng 2.18: So sánh việc sử dụng hƣ từ trong thơ Nguyễn Bính và
Huy Cận trƣớc 1945
Tổng Tổng
Tác Tình
đơn vị tần số Phó từ Quan hệ từ
giả thái từ
từ hƣ từ
Nguy 326 4298 105/1944 100/1455 121/89

65
ễn (32% - (31% - 9
Bính 45%) 34%) (37%-
21%)
54/332 31/276 32/124
Huy
120 732 (47% - (26% - (26% -
Cận
45%) 38%) 17%)
Có thể thấy, ở Nguyễn Bính, tổng đơn vị ở hai khu vực phó từ và quan hệ
từ là khá tƣơng đƣơng nhau, trong khi đó, số lƣợng đơn vị tình thái từ lại có phần
vƣợt trội hẳn lên. Ngƣợc lại, ở Huy Cận, số đơn vị phó từ đƣợc sử dụng lại
chiếm số lƣợng nhiều hơn cả: 56 đơn vị (47%), số lƣợng đơn vị quan hệ từ và
tình thái từ đƣợc sử dụng khá tƣơng đƣơng nhau. Tuy nhiên, xét về tổng tần số
sử dụng thì tỉ lệ tình thái từ trong thơ Huy Cận ít hơn hẳn so với thơ Nguyễn
Bính. Có thể lí giải điều này trong mối quan hệ gắn bó với phong cách nghệ
thuật của hai tác giả. Số lƣợng tình thái từ có phần vƣợt trội hơn trong thơ
Nguyễn Bính thể hiện đậm chất hội thoại, kể lể, tâm tình, cách diễn đạt có xu
hƣớng khẩu ngữ hóa. Trái lại, Huy Cận vẫn là nhà thơ mang đậm phong cách cổ
điển với chất trầm mặc phƣơng Đông, nhiều khi ƣa sự cô đọng, trang trọng,
nghiêm cẩn. Vì thế, việc sử dụng các tình thái từ không phải là điểm nổi trội
trong thơ Huy Cận. Đọc kỹ vào tập Lửa thiêng, có thể thấy nhiều bài thơ mang
đậm không khí của Đƣờng thi, rất ít bóng dáng của các hƣ từ, điển hình nhƣ các
bài: Tràng giang, Chiều xưa, Đẹp xưa: Sóng gợn tràng giang buồn điệp
điệp/Con thuyền xuôi mái nước song song/Thuyền về nước lại sầu trăm ngả/Củi
một cành khô lạc mấy giòng/Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu/Đâu tiếng làng xa vãn
chợ chiều/Nắng xuống, trời lên sâu chót vót/Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Cái gốc Bắc Bộ còn khiến cho thơ Nguyễn Bính xuất hiện những hƣ từ
mang đậm dấu ấn vùng miền, khác biệt hẳn so với Huy Cận vốn là ngƣời miền
Trung (Hà Tĩnh). Chẳng hạn về việc dùng các trợ từ nhấn mạnh, Huy Cận chỉ sử
dụng 4 đơn vị là chỉ, cả, nữa, hẳn: Tình rộng quá, đời không biên giới nữa (Tình
tự), Chớ buông thả hết cả lòng kiêu hãnh(Vỗ về). Còn Nguyễn Bính cũng sử
dụng bốn đơn vị trên và 13 đơn vị khác, thể hiện rõ lối nói khẩu ngữ đặc trƣng

66
của Bắc Bộ: những, có, đã đành, đời nào, mà lại, ai đời...Điều này chứng tỏ sự
khác biệt rất lớn về nguồn gốc xuất thân của hai thi sĩ bởi Huy Cận vốn là ngƣời
gốc miền Trung, sinh ra lớn lên tại Hà Tĩnh, sau lại vào Huế học: Nghe đâu
đường những sáu ngày thuyền (Một lần), Những một mình em uống rượu hồng
(Xuân tha hƣơng), Đã đành máu trở về tim (Lỡ bƣớc sang ngang).
Nếu nhƣ Huy Cận chỉ sử dụng 8 tổ hợp hai âm tiết và 2 tổ hợp ba âm tiết
ở nhóm đơn vị tiểu từ tình thái, thì Nguyễn Bính đã sử dụng tới 27 tổ hợp song
tiết và 17 tổ hợp ba âm tiết, tạo ra một sự phong phú đa giọng điệu, khiến những
câu thơ giàu chất khẩu ngữ hơn bao giờ hết, kết hợp cùng chất giãi bày, thổ lộ,
kể lể, tâm sự tâm tình. 27 tổ hợp song tiết ở nhóm tiểu từ tình thái đƣợc sử dụng
gồm: thế ru, được sao, làm gì, đâu mà, ừ thôi, thôi rồi, vậy thay, thôi mà, thôi
nhé, thì thôi, lắm mà, ồ nhỉ, đây mà, sao mà, nữa đâu, lắm rồi, mất rồi, mà chi, ờ
nhỉ, mất thôi, thế thôi, đấy thôi, há nỡ, thế nào, chết nhỉ, tội gì, đi thôi; trong đó
có những tổ hợp gợi âm hƣởng rất cổ kính, xa xăm nhƣ thế ru , há nỡ. Điều này
nhắc ta nhớ rằng Nguyễn Bính thuộc thế hệ thi sĩ cuối cùng đƣợc đào tạo Hán
học, khác với Huy Cận, Xuân Diệu là những ngƣời đƣợc đào tạo Tây học: Đời
người đã thong thả thế ru (Bài thơ vần Rẫy), Há nỡ theo anh, nỡ bỏ liều (Lòng
nào dám tƣởng). 17 tổ hợp ba âm tiết ở nhóm tiểu từ tình thái gồm: thế thì thôi,
gì đâu nhỉ, rồi hãy hay, đấy mà thôi, nữa hay thôi, thì mới được, chăng thì chớ,
quá mất thôi, thế này thôi, thế mà thôi, sao được nữa, đến thế đâu, mãi mà thôi,
mà làm chi, quá đi thôi, thế là thôi, gì nữa đâu: Tội nghiệp cho chàng quá mất
thôi! (Nhớ thƣơng ai), Nghĩa là ghen quá đấy mà thôi!(Ghen), Ngày mai có
nghĩa gì đâu nhỉ! (Hành phƣơng Nam)
Ở nhóm các thán từ, Huy Cận chỉ sử dụng 7 thán từ trong tập Lửa thiêng,
bao gồm: ôi, ơi, à, ồ, trời, than ôi, trời ơi; trong đó xuất hiện với tần số nhiều
hơn cả là ôi (20 lần) và ơi (12 lần). Những bộc lộ cảm xúc nói chung và nỗi buồn
nói riêng qua các thán từ trong thơ Huy Cận theo cảm nhận của chúng tôi là khá
kín đáo: Ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung! (Nhớ hờ), Trăng ôi! Ai chép nhạc
Nghê Thường?(Hồn xa), Hồn ơi! Có nhớ giấc trần gian (Ngủ chung). Trong số
đó còn bắt gặp một số lần thán từ gắn với những niềm vui, mang đến những cảm

67
xúc hoài niệm trong trẻo: Ôi! Thời thơ bé tuổi mười lăm(Học sinh), Em ơi!
Chiều đương họa điệu vàng tơ (Họa điệu).
Với Nguyễn Bính, ngoài các thán từ đơn tiết nhƣ: ơi (107 lần), ôi, à, ừ,
vâng, hỡi..., ông đã huy động một số lƣợng lớn các tổ hợp thán từ song tiết lên
tới con số 24 đơn vị và một tổ hợp ba âm tiết “giời hỡi giời” trong câu thơ Nuôi
được con sao, giời hỡi giời! (Oan nghiệt). Có thể kể đến các tổ hợp thán từ song
tiết điển hình nhƣ: chao ôi, than ôi, hỡi ôi, hỡi ơi, ôi thôi, ồ nhỉ, ô kìa...Riêng
việc nhắc đến “trời/ giời” đã có tới 5 cách thể hiện: trời, trời hỡi, hử giời, hỡi
giời, lạy giời. Theo chúng tôi, một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Bính là đã tạo
ra những đơn vị/ tổ hợp thán từ lâm thời. Có ít nhất 4 đơn vị nhƣ vậy: gớm, có ít,
đến khổ, khốn nạn: Gớm! Sao có một quãng đồng mà xa (Qua nhà), Ngót một
tháng nay rồi! Có ít! (Mong thƣ), Đến khổ! Khi người yêu ở xa (Mong thƣ),
Khốn nạn, tưởng yêu thì khó chứ (Xuân tha hƣơng)
Một số đơn vị song tiết mang đậm âm hƣởng dân quê Bắc Bộ, chỉ cần đọc
lên đã thấy nhƣ một đặc trƣng của chất thơ Nguyễn Bính: lạy giời, phải gió,
khốn thay: Lạy giời đừng sáng đêm nay(Một con sông lạnh), Phải gió anh này
khéo nhớ dai (Cô dâu), Khốn thay! Ai đúc nhà vàng cho tôi (Tôi còn nhớ lắm)
Có thể nói, đa số những đơn vị thán từ đƣợc sử dụng trong thơ Nguyễn
Bính đều gợi những nỗi bi ai, buồn bã, chán chƣờng, xót xa, thất vọng, trống
vắng. Và quan trọng là, Nguyễn Bính dƣờng nhƣ không hề ngần ngại để phô bày
những nỗi buồn mà ông còn sẵn sàng đầy nó lên đỉnh điểm bằng cách lặp đi lặp
lại những đơn vị thán từ: Chao ôi, Tết đến em không được/Trông thấy quê hương
thật não nùng(Xuân tha hƣơng), Chị ơi, tất cả đều vô nghĩa (Xuân vẫn tha
hƣơng), Hỡi ơi bướm trắng tơ vàng/Mau về mà chịu tang nàng đi thôi (Ngƣời
hàng xóm), Than ôi! Chiếc lá cuối cùng là đây (Cây bàng cuối thu), Đất khách
tình dâng nhòa mắt lệ/Ôi nhà! Ôi chị! Ôi quê hương!(Xuân vẫn tha hƣơng), Ôi!
Lụa! Ôi! Đàn! Ôi! Tóc tơ!/Nàng làm thiên hạ muốn tương tư (Một lần)
2.7. Tiểu kết

68
Trong chƣơng này, chúng tôi đi vào khaỏ sát và miêu tả một số đặc điểm
hình thức mà chúng tôi cho là quan trọng và nổi trội của Nguyễn Bính, từ đó có
thể thấy những cống hiến sáng tạo cũng nhƣ phong cách riêng của ông.
Về vần thơ, ở cả hai thể loại thất ngôn và lục bát, vần chính đều là lối hòa
âm chiếm ƣu thế. Vần thông chiếm số lƣợng thứ nhì và đặc biệt là không có vần
ép. Điều này vừa chứng tỏ một khả năng sử dụng ngôn ngữ rất tinh tế của thi sĩ,
vừa góp phần tạo cho thơ Nguyễn Bính có một lƣợng độc giả lớn bởi khả năng
dễ nhớ, dễ thuộc, dễ thấm, dễ tri nhận. Lẽ dĩ nhiên, bên cạnh biểu hiện của vần,
bài thơ còn phải cuốn hút về mặt nội dung và nghệ thuật. Việc hòa âm với vần
chính là chủ đạo trong thể thơ lục bát còn khiến thơ Nguyễn Bính gần với âm
hƣởng ca dao, thấm chất đồng quê thôn dã. Dĩ nhiên điều này còn cần đƣợc góp
sức bởi một loạt yếu tố khác nhƣ các đơn vị từ vựng mang tính thôn quê, cách
nói (cấu trúc ngữ pháp câu thơ, cách diễn đạt…) cách nghĩ của ngƣời nhà quê…
Lối phân bố vần ở thể thất ngôn cho ta thấy Nguyễn Bính có ảnh hƣởng
lớn từ hình thức của thi ca cổ điển, cụ thể là thơ Đƣờng luật. Bên cạnh đó, ông
cũng có những nỗ lực làm mới qua việc gieo vần bằng thanh trắc và một số cách
phân bố vần bên cạnh cách phân bố truyền thống. Hình thức thất ngôn trƣờng
thiên cũng ảnh hƣởng từ thơ Đƣờng, song đây lại là thể loại Nguyễn Bính phô
diễn đƣợc tài năng ngôn ngữ bậc thày của mình khi nhiều lần sử dụng độc vận
trong các bài thơ, dùng vần chính tuyệt đối trong cả hai thể loại thất ngôn chia
khổ và thất ngôn trƣờng thiên, tạo nên một âm hƣởng riêng biệt và một ấn tƣợng
khó phai nhòa đối với bất kỳ độc giả nào dù chỉ đọc qua một lần.
Ở thể lục bát, Nguyễn Bính cũng tỏ rõ sự tài hoa và công phu về ngôn
ngữ khi hai lần sử dụng vần chính tuyệt đối xuyên suốt 10 câu thơ. Đường rừng
chiều có thể nói là bài thơ đƣợc xác lập kỷ lục trong thơ ca Việt Nam hiện đại
với nghệ thuật dùng vần chính tuyệt đối cùng một độ dài ấn tƣợng. Bên cạnh đó,
ở thể lục bát, Nguyễn Bính cũng thể hiện đƣợc những nỗ lực sáng tạo trong việc
phân bố vần, dùng các vần sớm ở chữ thứ 4 câu bát nhằm gây nên những hiệu
ứng nghệ thuật. Vần trong thơ lục bát Nguyễn Bính có vai trò quan trọng, góp
phần làm nên một giọng điệu lục bát đặc trƣng của thi sĩ chân quê. Không phải

69
ngẫu nhiên mà Nguyễn Bính là nhà thơ trong phong trào Thơ Mới có nhiều bài
lục bát đƣợc các nhạc sĩ tên tuổi phổ nhạc và đại đa số đều trở thành những bản
nhạc nổi tiếng. Đó là 4 bài: Người hàng xóm (Anh Bằng phổ nhạc), Chân quê
(Trung Đức phổ nhạc), Lỡ bước sang ngang (Song Ngọc phổ nhạc), Thời trước
(Văn Phụng phổ nhạc).
Về nhịp điệu, bên cạnh những cách ngắt nhịp theo lối truyền thống,
Nguyễn Bính đã có khá nhiều dụng công trong việc tạo ra những cách ngắt nhịp
mới nhằm tăng sức biểu cảm cho câu thơ, góp phần thể hiện những giá trị biểu
hiện về mặt cảm xúc, tâm trạng của các nhân vật trữ tình trong thơ. Ông còn
dùng các thủ pháp nhƣ kết lửng trong một số bài thơ lục bát hoặc thay đổi số chữ
trong dòng thơ của những bài thất ngôn, tạo nên những hiệu ứng biểu cảm mới,
gây ấn tƣợng đậm nét với ngƣời đọc.
Các biểu hiện về đặc điểm ngữ pháp trong thơ Nguyễn Bính cũng cho
chúng ta thấy thơ ông có những nét đặc trƣng khó trộn lẫn, không hề giống các
nhà thơ cùng thời. Một dấu ba chấm tƣởng chừng câm lặng, vào tay Nguyễn
Bính đã trở thành một biểu hiện phong phú của những cảm giác, cảm xúc, trạng
thái, thậm chí tham gia vào xây dựng hình tƣợng nghệ thuật. Phép tu từ cú pháp
điệp ngữ đƣợc sử dụng một cách dày đặc trong thơ Nguyễn Bính, vừa mang tính
chất kế thừa thơ ca truyền thống, vừa có những yếu tố sáng tạo mới. Những diễn
đạt về hƣ từ mang đậm chất khẩu ngữ, gần gũi với lời ăn tiếng nói dân gian, đặc
biệt thể hiện màu sắc của ngƣời Việt Bắc Bộ đã làm nên một giọng điệu riêng
của thơ Nguyễn Bính. Bên cạnh đó, tên gọi những tác phẩm đa số đƣợc trình bày
ngắn gọn (từ 2 đến 4 âm tiết) khiến thơ ông dễ neo đƣợc ấn tƣợng vào trí nhớ
ngƣời đọc, đƣợc đông đảo quần chúng nhân dân tiếp nhận và yêu mến.

70
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA THƠ NGUYỄN BÍNH

Trong chƣơng này, chúng tôi đi vào phân tích một số trƣờng từ vựng ngữ
nghĩa đặc biệt trong thơ Nguyễn Bính, coi đây nhƣ những chìa khóa để mở ra
cánh cửa thơ Nguyễn Bính, thấy đƣợc nhiều nhất những đóng góp, sáng tạo cũng
nhƣ cả những hạn chế về mặt ngôn ngữ của ông. Chƣơng này chia làm 6 phần,
tƣơng ứng với 6 vấn đề từ vựng ngữ nghĩa trong thơ Nguyễn Bính: Các yếu tố
ngôn ngữ chỉ không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính, Các yếu tố ngôn
ngữ chỉ thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính, Một số tín hiệu thẩm mỹ
đặc sắc trong thơ Nguyễn Bính Các yếu tố ngôn ngữ chỉ con người trong thơ
Nguyễn Bính, Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bính, Từ
ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính.
3.1. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn
Bính
3.1.1. Vai trò của không gian trong nhan đề tác phẩm
Trong 272 thi phẩm của Nguyễn Bính, có tới 92 các nhan đề bài thơ thể
hiện tính chất không gian, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp, chiếm tỷ lệ 34% trong
tổng số các nhan đề.
Trong 92 bài kể trên, có tới 70 bài thể hiện tính chất trực tiếp khi ngay
trong nhan đề đã có những danh từ/đại từ định vị không gian, chẳng hạn: Quán
lạnh, Hà Nội ba mươi sáu phố phường, Lá thư về Bắc, Chuyến tàu đêm, Qua
nhà, Rừng, Những bóng người trên sân ga, Chùa vắng, Xóm cũ, Bến nước, Sao
chẳng về đây, Từ độ về đây... Ở 22 bài còn lại, tính chất không gian đƣợc thể
hiện một cách gián tiếp nhờ vào sự hiện diện của các danh từ, động từ hoặc tính
từ. Ở trƣờng hợp các danh từ, có thể kể đến những bài nhƣ: Hoa cỏ may, Cây
bàng cuối thu, Lá mùa thu, Trông sao...Ở trƣờng hợp động từ, có thể kể đến các
bài nhƣ: Em về, Người đi, Thôi nàng ở lại, Ngược xuôi, Phơi áo, Tiễn bạn, Lại
đi...Ở trƣờng hợp tính từ, có thể kể đến các bài nhƣ: Xa cách, Diệu vợi, Xa xôi...
Trong toàn thể các sáng tác của Nguyễn Bính trƣớc cách mạng có sự xuất
hiện của hơn 200 đơn vị ngôn ngữ chỉ các không gian khác nhau. Chúng tôi tạm

71
quy các đơn vị nói trên về một số nhóm cơ bản và tiếp tục trình bày cụ thể dƣới
đây.
3.1.2. Những không gian chung
Có 11 không gian chung xuất hiện trong các thi phẩm của Nguyễn Bính,
cụ thể nhƣ sau:
Bảng 3.1: Những không gian chung trong thơ Nguyễn Bính trƣớc
1945
STT Không gian Tần số STT Không gian Tần số
1 Sông 77 7 Hồ 16
2 Đƣờng 59 8 Biển 15
3 Nhà 51 9 Núi 14
4 Rừng 33 10 Đồi 11
5 Trời (Giời) 25 11 Đèo 2
6 Lầu 22 Tổng tần số 325

Từ bảng quan sát tần số trên, có thể rút ra một nhận xét sơ bộ nhƣ sau.
Những không gian mang tính chất gia đình, thân mật, là nơi cƣ ngụ thông thƣờng
của con ngƣời là Nhà và Lầu lại không phải là những không gian có tần số xuất
hiện cao nhất. Trái lại, hai không gian có tần số xuất hiện lớn nhất lại là Sông và
Đƣờng. Những không gian còn lại nhƣ Rừng, Hồ, Biển, Núi, Đồi, Đèo có tần số
xuất hiện ít hơn, nhƣng nếu ta làm một phép cộng lại 6 đơn vị không gian này thì
cũng thu đƣợc một số tổng khá lớn là 91. Những điều trên nói với chúng ta rằng,
Nguyễn Bính là nhà thơ có tính hƣớng ngoại và xê dịch rất cao. Điều này sẽ còn
đƣợc làm sáng tỏ hơn qua những phần sau qua những số liệu về không gian
mang tính địa danh, không gian thành thị và không gian giang hồ trong thơ
Nguyễn Bính.
Trở lại với 11 đơn vị định danh ở trên, chúng tôi nhận thấy, có khá nhiều
đơn vị mang hai dạng biểu hiện: dạng biểu hiện tả thực và dạng biểu hiện mang
tính ẩn dụ - biểu trƣng. Sau đây chúng tôi đi vào làm rõ một số đơn vị tiêu biểu:

72
3.1.2.1 Sông
Sông hiện lên với nghĩa tả thực trong các trƣờng hợp nhƣ: Tôi lạnh đầu
sông, giá ngọn nguồn/Nhớ nhà thì ít nhớ em luôn (Một trời quan tái), Sao chẳng
về đây múc nước sông/Tưới cho những luống có hoa hồng(Sao chẳng về đây)
Ngoài định danh Sông, nhà thơ còn dùng một định danh khác là Giang
trong những miêu tả theo nghĩa hiện thực: Chén sầu nghiêng giữa tràng
giang/Canh gà bên nớ giằng sang bên này…Chúng tôi người bến sông
xa(...)Một con sông lạnh vài dây tơ tằm(Một con sông lạnh)
Trong trƣờng hợp ẩn dụ - biểu trƣng, sông (giang) trong thơ Nguyễn Bính
có thể dùng để nói về chuyện tình duyên của ngƣời phụ nữ và những dự cảm về
muôn vàn bi kịch đang đợi chờ phía trƣớc: Rồi đây sóng gió ngang sông/Đầy
thuyền hận, chị lo không tới bờ...(...)Cách mấy mươi con sông sâu/Và trăm ngàn
vạn nhịp cầu chênh vênh/...Tuổi son sông nước đò giang chưa từng/...Trời giông
bão giữa tràng giang lật thuyền/...Coi như chị đã ngang sông đắm đò(Lỡ bƣớc
sang ngang)
Sông có thể biểu trƣng cho việc trút bỏ những tâm sự u uẩn trong lòng
ngƣời nghệ sĩ: Uống say cười vỡ ba gian gác/Ném cái chung tình xuống đáy
sông (Xuân tha hƣơng)
3.1.2.2. Đường
Đƣờng hiện lên với nghĩa tả thực qua các trƣờng hợp: Hôm nay xác pháo
đầy đường/Ngày mai khói pháo còn vương khắp làng(Lỡ bƣớc sang ngang),
Đem theo cát bụi đường xa lại/...Nằm tạm qua đêm quán dọc đường (Quán lạnh)
Đƣờng hiện lên với nghĩa ẩn dụ biểu trƣng: Mẹ già một nắng hai
sương/Chị đi một bước trăm đường xót xa/...Hồn trinh ôm chặt chân giường/Đã
cùng chị khóc đoạn đường thơ ngây(Lỡ bƣớc sang ngang)
3.1.2.3. Nhà
Tín hiệu không gian Nhà trong thơ Nguyễn Bính có khá nhiều hình thức
biểu hiện. Trƣớc tiên, nó có thể tồn tại với tƣ cách độc lập – một từ đơn tiết: Cậy
em em ở lại nhà/Vườn dâu em đốn mẹ già em thương (Lỡ bƣớc sang ngang)

73
Tiếp theo, Nhà có thể kết hợp với một số đơn vị khác để tạo thành những
từ ghép, những đơn vị này chỉ ra rõ loại nhà đƣợc miêu tả: Anh với em sẽ
sống/Trong một mái nhà tranh (Hôn nhau lần cuối), Cất lên theo kiểu nhà
sàn/Chung quanh quấn quýt đôi giàn ti gôn (Nhà ga), Tay buông xuôi xuống thế
gian: nhà mồ(Một chiều chết)
Nhà có thể kết hợp với một số đơn vị đi sau (danh từ, đại từ) để nói về
tính sở hữu: nhà tôi, nhà nàng, nhà em, nhà anh, nhà ấy, nhà ai. Đặc biệt, sự
song hành của các cặp nhà anh – nhà em, nhà nàng – nhà tôi đã làm nên một
phong vị dân gian rất đặc trƣng trong những vần thơ lục bát của Nguyễn Bính,
gợi nhớ về những cặp xƣng hô mình – ta thƣờng thấy trong ca dao ngƣời Việt:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh rờn(Ngƣời hàng
xóm), Nhà em có một giàn giầu/Nhà anh có một hàng cau liên phòng (Tƣơng
tƣ), Nhà ấy hình như có mặt trời(Hà Nội ba mƣơi sáu phố phƣờng), Cô gái nhà
ai ở xóm Đông(Nhặt nắng)
Cuối cùng, Nhà cũng có thể kết hợp với các động từ hoặc tính từ, làm
thành những ngữ động từ, ngữ tính từ trong một câu thơ, mở rộng hơn những
biên độ ngữ nghĩa và cảm xúc xoay quanh tín hiệu không gian này: Sáng giăng
chia nửa vườn chè/Một gian nhà nhỏ đi về có nhau(Thời trƣớc), Lối này lắm
bưởi nhiều hoa/Đi vòng để được qua nhà...đấy thôi/...Qua bên nhà thấy bên nhà
vắng teo (Qua nhà)
3.1.2.4. Trời (Giời)
Từ Trời (Giời) xuất hiện nhiều lần trong thơ Nguyễn Bính, nhƣng trong
bài nghiên cứu này, chúng tôi chỉ thu thập những lần Trời xuất hiện với tƣ cách
một tín hiệu không gian. Những đơn vị kiểu nhƣ: Cơ giời định rót cả mùa đông
(Mùa đông nhớ cố nhân) hay Gió mưa là bệnh của giời (Tƣơng tƣ) không đƣợc
chúng tôi đƣa vào bảng tổng kết tần số phía trên. Trời (giời) trong thơ Nguyễn
Bính đƣợc tri nhận với những biên độ khác nhau, có lúc chỉ là những miêu tả
thiên nhiên đơn thuần: Giời cao gió cả trăng như ban ngày (Đêm cuối cùng)
nhƣng xuất hiện nhiều hơn là những thể hiện tâm trạng của chủ thể trữ tình: Thu
sang nhuốm cả sầu thương một trời(Dòng dƣ lệ), Anh ở bên này trời oán hận

74
(Em về), Lẻ loi xuân một góc trời riêng anh(Rƣợu xuân), Tôi tìm đâu thấy mảnh
trời thần tiên(Tôi tìm đâu thấy mảnh trời thần tiên), Một trời quan tái mấy cho
say(Một trời quan tái), Để anh thấu rõ tình mong nhớ/Của đứa em anh ở cuối
trời (Lá thƣ về Bắc)
3.1.2.5. Lầu
Lầu trong thơ Nguyễn Bính là không gian gắn liền với những ngƣời đẹp,
cụ thể hơn nữa là những ngƣời con gái mà nhà thơ dành tình cảm cho họ, những
ngƣời con gái khiến trái tim thi sĩ rung động. Lầu, theo Từ điển tiếng Việt (Viện
Ngôn ngữ học, NXB Từ điển Bách khoa, 2010) định nghĩa là nhà có gác, có
tầng hoặc tầng trên của ngôi nhà. Nhƣng đứng từ góc độ văn chƣơng và thi
pháp, chúng ta có một hình dung về lầu không đơn giản nhƣ Từ điển tiếng Việt
định nghĩa. Theo thi pháp trung đại, lầu thuộc về không gian lên cao, con ngƣời
mỗi khi lựa chọn không gian lên cao là thƣờng muốn bày tỏ tâm trạng, phóng
chiếu cảm xúc hoặc hòa cái tiểu ngã của mình vào đại ngã của vũ trụ. Có thể dẫn
ra nhiều câu thơ nổi tiếng gắn với lầu: Dục cùng thiên lý mục/Cánh thướng nhất
tằng lâu (Muốn nhìn xa muôn dặm/Lên thêm một tầng lầu) (Đăng Quán Tƣớc
lâu – Vƣơng Chi Hoán), Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu/Xuân nhật ngưng trang
thướng thúy lâu(Thiếu phụ phòng khuê chửa biết sầu/Ngày xuân trang điểm dạo
lên lầu) (Khuê oán – Vƣơng Xƣơng Linh)
Chữ lầu trong thơ Nguyễn Bính vì thế ngoài việc tạo một không khí cổ
điển, nó còn mang một ý nghĩa khác là vẻ đẹp cao vời, ở ngoài tầm với, là một
tình yêu không dễ dàng đến với nhau, không thể đạt đƣợc. Cảm giác này xuyên
suốt một loạt các câu thơ có chứa hình ảnh lầu của Nguyễn Bính: Nằm đây mơ
dáng lầu cao kinh thành.../...Hồn đơn xin gửi lại miền lầu cao(Thƣơng nhớ kinh
thành), Cửa nàng là cửa lầu hoa/Nàng là tiên nữ tôi là thường nhân (Nàng
là tiên nữ), Nàng ở lầu hoa ở đệm bông/Có đêm nào nghĩ đến tôi không(Ngƣời
con gái ở lầu hoa), Từ buổi lầu hoa khép cánh sương/Hồn theo lá úa rụng ven
tường(Khép cánh sƣơng)
Ngoài định danh lầu hoa xuất hiện với tần số áp đảo, chữ lầu trong thơ
Nguyễn Bính còn xuất hiện trong các định danh lầu thơ, lầu trang, lầu hồng, lầu

75
ngọc:Tôi xin dựng một lầu thơ cho nàng(Tây Thi), Tháng mười nàng bỏ khăn
tang/Giờ đây cánh cửa lầu trang mở rồi(Lạy giời cấm cửa rừng mai), Lầu hồng
lưu lại chút tình phân ly (Một đêm ly biệt)
3.1.3. Những không gian nông thôn
Trong các nhà thơ thuộc phong trào Thơ Mới, Nguyễn Bính từ trƣớc đến
nay vẫn đƣợc mệnh danh là Thi sĩ chân quê. Trong Thi nhân Việt Nam, Hoài
Thanh gọi Nguyễn Bính là ngƣời lƣu giữ đƣợc hồn xƣa của đất nƣớc. Và thơ
Nguyễn Bính đã đánh thức ngƣời nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Phong vị thơ
Nguyễn Bính thật gần gũi với ca dao. Có đƣợc những điều trên là do nhiều
nguyên nhân, nhƣng theo chúng tôi, một trong những hạt nhân quan trọng làm
nên chất nhà quê trong thơ Nguyễn Bính chính là những tín hiệu ngôn ngữ chỉ
các vùng không gian ở nông thôn, xuất hiện trong thơ Nguyễn Bính nhƣ những
điểm nhấn quan trọng.
Nhƣ ta đã biết, nếu nhƣ đơn vị dân cƣ mang tính văn hóa truyền thống ở
nông thôn Bắc Bộ là làng thì đây cũng là không gian xuất hiện với tần số cao
nhất trong thơ Nguyễn Bính. Không chỉ có làng, thơ Nguyễn Bính còn có cả
thôn, xóm, ngõ. Các đơn vị làng, thôn, xóm ngoài việc đứng độc lập thì còn đƣợc
kết hợp với các tên riêng để chỉ những làng/thôn/xóm cụ thể.
Với làng, ngoài cách diễn đạt mang tính chất danh từ chung, kiểu nhƣ:
Hội làng mở giữa mùa thu (Đêm cuối cùng), Ngày mai khói pháo còn vương
khắp làng (Lỡ bƣớc sang ngang) thì còn các diễn đạt gắn với danh từ riêng nhƣ:
làng Ngang, làng Sậm, làng Thượng, làng Trung, làng Hạ...
Với thôn, ngoài cách diễn đạt mang tính chất danh từ chung, kiểu nhƣ:
Hai thôn chung lại một làng (Tƣơng tƣ), Cuối thôn gà lại gáy đầu thôn (Nhớ) thì
còn các diễn đạt gắn với danh từ riêng nhƣ: thôn Đoài, thôn Đông, thôn Trữ La,
thôn Vân...
Với xóm, ngoài cách diễn đạt mang tính chất danh từ chung, kiểu nhƣ: Có
cô lối xóm hàng năm (Đàn tôi), Tôi về xóm cũ một chiều (Xóm cũ) thì còn các
diễn đạt gắn với danh từ riêng nhƣ: xóm Tây, xóm Đông, xóm Trữ La, xóm Ngự
Viên, xóm Dừa, xóm Thổ...

76
Ngoài ra, Nguyễn Bính còn dùng các diễn đạt khác để chỉ các không gian
nông thôn nhƣ mái Đoài, tỉnh Bắc, phủ Lạng, phủ Từ, nhà Mường, xứ Thanh,
thôn xóm, xóm thôn, xóm làng, làng xóm...
Tần số xuất hiện của các đơn vị không gian mang tính chất văn hóa truyền
thống ở nông thôn có thể tổng kết lại trong bảng sau:
Bảng 3.2: Các đơn vị không gian nông thôn mang tính chất văn hóa
truyền thống trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
STT Không gian Tần số STT Không gian Tần số
1 Làng 34 3 Xóm 19
2 Thôn 27 4 Ngõ 10
Tổng tần số 90
Qua tổng kết tần số trên, có thể thấy, trong toàn bộ các sáng tác trƣớc
Cách mạng của Nguyễn Bính (270 bài), cứ trung bình 3 bài ta lại gặp một đơn vị
mang tính chất không gian hành chính/sinh hoạt ở nông thôn. Đó là chƣa kể đến
nhiều không gian đậm đặc chất quê mùa khác nữa mà chúng tôi tiếp tục trình bày
dƣớiđây:
Có 8 không gian cụ thể trong thơ Nguyễn Bính mang đậm phong vị nông
thôn, đó là: vườn, bến, hàng xóm/láng giềng/lối xóm, đồng, giếng, chùa, đê,
(giậu) mùng tơi. Tần số xuất hiện của từng loại thể hiện cụ thể qua bảng sau:
Bảng 3.3: Những không gian nông thôn cụ thể trong thơ Nguyễn Bính
trƣớc 1945
Tần
STT Không gian Tần số STT Không gian
số
1 Vƣờn 81 5 Giếng (thơi) 9
2 Bến 37 6 Chùa 6
Hàng xóm/láng
3 10 7 Đê 5
giềng/lối xóm
4 Đồng 13 8 (Giậu) mùng tơi 4
Tổng tần số 165

77
Có thể nói, nhiều nhà thơ cùng thời với Nguyễn Bính nhƣ Đoàn Văn Cừ,
Anh Thơ, Bàng Bá Lân cũng đều đƣa những không gian nông thôn vào tác phẩm
nhƣng điểm khác biệt cơ bản của Nguyễn Bính với các nhà thơ trên là mỗi
không gian trong thơ Nguyễn Bính thƣờng mang đầy tâm trạng, còn không gian
trong thơ những nhà thơ kia lại chỉ đơn thuần là tả cảnh. Ta hãy thử đọc mấy câu
thơ của Anh Thơ cũng có các tín hiệu không gian nhƣ đê, chùa, bến:Ngoài đê
thẳm không người đi vắng vẻ/Lũ chuồn chuồn giỡn nắng đuổi nhau bay(Trƣa
hè), Trong chùa, điện hương đèn nghi ngút sáng/Tiếng mõ, chuông hòa nhịp
trống bên đình (Rằm tháng bảy), Trên bến vắng đắm mình trong lạnh lẽo/Vài
quán hàng không khách đứng xo ro(Bến đò ngày mƣa)
Vẫn là những tín hiệu không gian trên (đê, chùa, bến) nhƣng trong thơ
Nguyễn Bính không bao giờ chỉ là đơn thuần tả cảnh: Hôm qua em đi tỉnh
về/Đợi em ở mãi con đê đầu làng(Chân quê), Sư già quét lá sau chùa/Để thiêu
xác lá trước giờ lên chuông(Chùa vắng), Dừng chân trên bến sông buồn/Nhà
nghệ sĩ tưởng đò còn chuyến sang(Lỡ bƣớc sang ngang).
Trong câu thứ nhất, đê không đơn thuần tả cảnh mà còn gắn với cả tâm
trạng chờ đợi với nhiều phấp phỏng, hồi hộp và dự cảm của chàng trai. Câu thứ
hai, chùa còn gắn với cả sự trống vắng của con ngƣời và những kiếp lá mong
manh. Câu thứ ba, bến gắn với tâm trạng u sầu phiền muộn của ngƣời chị bất
hạnh trong chuyện tình duyên.
Điểm khác biệt tiếp theo của Nguyễn Bính là, ông phát hiện đƣợc ra vẻ
đẹp tự nhiên của những không gian nông thôn ít ai ngờ tới, chẳng hạn giậu mồng
tơi và giếng thơi (lƣu ý: giếng thơi chứ không phải giếng đình). Có thể thấy, các
nhà thơ nông thôn khác nhƣ vừa kể ở trên cũng đƣa vào trong tác phẩm của mình
nhiều không gian nông thôn nhƣng không hề có giậu mồng tơi và giếng thơi
(khảo sát các tập Bức tranh quê của Anh Thơ, Thôn ca của Đoàn Văn Cừ và
Tiếng thông reo của Bàng Bá Lân đều không có giậu mồng tơi và giếng thơi). Và
giậu mồng tơi cùng giếng thơi khi đi vào thơ Nguyễn Bính cũng chất chứa đầy
tâm trạng, góp phần kiến tạo nên những câu thơ đặc sắc vào hàng bậc nhất của
thi sĩ chân quê này: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/Cách nhau cái giậu mồng tơi xanh

78
rờn…/Giá đừng có giậu mồng tơi/Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng(Ngƣời
hàng xóm), Giếng thơi mưa ngập nước tràn/Ba gian đầy cả ba gian nắng
chiều(Qua nhà).
Điểm khác biệt cuối cùng trong việc xử lí các tín hiệu không gian trong
thơ Nguyễn Bính là sự sáng tạo và biến hóa đa dạng phong phú trên cùng một
đơn vị chất liệu. Chúng tôi sẽ dành riêng một tiểu mục để bàn về tín hiệu “vƣờn”
trong thơ Nguyễn Bính. Còn ở phần này, chúng tôi đơn cử một ví dụ về “bến”
qua những sáng tạo đổi mới trong diễn đạt của ông.
Bến trong thơ Nguyễn Bính trƣớc tiên tồn tại với tƣ cách một từ đơn: Bao
giờ bến mới gặp đò(Tƣơng tƣ). Tiếp theo, bến kết hợp với một loạt các danh từ
để tạo chủng loại: bến sông, bến đò, bến gió, bến nước: Lòng cô lái ở bến sông
kia (Cô lái đò), Ngồi trên bến gió chờ nàng (Thƣ lá vàng), Dừng trên bến nước
mơ cô lái đò (Bến nƣớc), Đưa anh ra bến đò ngang (Áo anh). Bến tiếp tục kết
hợp với các đại từ chỉ địa điểm và danh từ chỉ ngƣời tạo thành các kết hợp: bến
người, bến anh: Hồn thơ tôi cứ về theo bến người (Bến ngƣời), Bờ sông thấp,
nước sông cao/Lá thuyền này đã trôi vào bến anh (Thƣ lá vàng). Bến cũng kết
hợp với những tính từ trong những cấu trúc tính ngữ, nhằm bổ nghĩa đầy đủ hơn
cho tính từ trung tâm, chẳng hạn: Giấc bướm ngại sang đò bến lạnh (Mùa đông
nhớ cố nhân), Sông Vân bến cũ nằm nghe chuông chùa (...) Bến vinh quang chửa
tới nơi (Con nhà Nho cũ). Sau cùng, bến kết hợp với động từ để tạo ra những kết
hợp mang tính lạ hóa, khẳng định sáng tạo ngôn từ mang dấu ấn riêng của tác
giả: bến yêu, bến mơ: Cố đẩy đò yêu đến bến yêu (Đôi nhạn), Bến mơ thuyền đậu
dưới thuyền mơ (Bến mơ).
3.1.4. Không gian thành thị
Nếu nhƣ nông thôn là không gian mang tính xuất phát, là hồn cốt của thơ
Nguyễn Bính, thì thành thị lại là một thái cực khác cùng tồn tại song song và
không ngừng mời gọi bƣớc chân của thi nhân. Con ngƣời nông thôn trong thơ
Nguyễn Bính, nhƣ ta biết, từng muốn chối bỏ sự xâm lăng của đô thị (bài Chân
quê) để giữ nguyên những bản sắc cổ truyền. Thế nhƣng, dƣờng nhƣ đó là một
điều vô cùng khó khăn. Và dù con ngƣời có bám chặt lấy nông thôn mà sống thì

79
điều kiện ấy cũng chƣa thể đủ để chống lại cuộc xâm lăng của văn minh đô thị,
nhất là khi tâm thế con ngƣời còn đang khá bơ vơ, bất định trƣớc thời cuộc bởi
chƣa nhìn thấy rõ một tiền đồ cho cả dân tộc. Vì thế, chúng tôi cho rằng, trong
thơ Nguyễn Bính, việc con ngƣời cất bƣớc ra thành thị là một quyết định dứt
khoát phải xảy ra để hiểu hơn thời cuộc mà mình đang sống, để tìm một lối thoát
nào đó, dù là trong tâm tƣởng, và để tìm những đối chứng cho tình yêu quê
hƣơng của mình. Thành thị và nông thôn vì thế trở thành hai bờ giăng mắc qua
lại, thƣờng trực trong thơ Nguyễn Bính. Khi ở nông thôn, không lâu sau, con
ngƣời muốn dứt áo ra đi (Lạy đôi mắt mẹ đừng buồn/Ngày mai con lại lên đường
ra đi, Sống là sống để mà đi/Con tàu bạn hữu chuyến xe nhân tình). Ngƣợc lại
khi ở thành thị, con ngƣời lại mơ về quê nhà: Chao ôi Tết đến em không
được/Trông thấy quê hương thật não nùng(Xuân tha hƣơng), Bao giờ em được
về quê cũ/Dâng chị bài thơ “Xuân cố hương”(Xuân vẫn tha hƣơng).
Thơ Nguyễn Bính dùng tới bốn loại định danh khác nhau để chỉ về không
gian đô thị. Thứ nhất là gọi thẳng tên những thành phố nơi ông đã đến và đi nhƣ:
Hà Nội, Huế, Sài Gòn, Nam Định: Hà Nội cơ hồ loạn tiếng ve (Nhớ ngƣời trong
nắng), Giời mưa ở Huế sao buồn thế (Giời mƣa ở Huế), Một buổi sớm mai đến
Sài Gòn (Lá thƣ về Bắc), Người Nam Định, kẻ Hưng Yên/Thương đi gọi, nhớ đi
tìm những ai (Chia tay). Thứ hai là dùng những từ đƣợc coi là có nghĩa tƣơng
đƣơng với thành thị, bao gồm: thành thị (5 lần), thị thành (3 lần), đô thị (1 lần),
kinh đô (3 lần), đế kinh (1 lần), kinh (3 lần), kinh kỳ (4 lần), kinh thành (19 lần).
Thứ ba là những từ chỉ không gian đặc trưng của thành thị, bao gồm: phố (14
lần), phố phường (4 lần), ga (15 lần). Thứ tƣ là những từ vốn không có nghĩa là
thành thị nhƣng lâm thời đƣợc nhà thơ sử dụng để tạo sự đối lập giữa thành thị
với nông thôn nhƣ: phồn hoa đối với thanh đạm, xứ người/quê người đối với xứ
mình/quê nhà/quê cũ/quê hương, ở đấy đối với ở đây: Nằm trong cô tịch nhớ
người phồn hoa (Quê tôi), Bơ vơ trong xứ người xa lạ (Lá thƣ về Bắc), Ở đây
cha khóc mà thương nhớ/Đất Huế dầm mưa mấy tháng tròn (Giời mƣa ở Huế),
Quê người đắng khói, quê người cay men (Anh về quê cũ).

80
Nhìn chung, không gian thành thị trong thơ Nguyễn Bính thƣờng gắn với
những tính chất âm tính. Có khi là sự không bền vững, dễ đổi thay, không đƣợc
coi là chính đáng (trong tƣơng quan với nông thôn): Bỏ lại vườn cam bỏ mái
gianh/Tôi đi dan díu với kinh thành (Hoa với rƣợu). Có khi là cảm giác tang tóc:
Kinh thành Hà Nội chít khăn xô (Viếng hồn trinh nữ). Có khi là cảm giác bất an:
Hà Nội cơ hồ loạn tiếng ve/Nắng dâng làm lút cả trưa hè (Nhớ ngƣời trong
nắng). Có khi là cảm giác buồn bã tàn tạ: Lá úa kinh thành rơi ngập đất/Lòng
vàng hỏi vẫn nhớ thương nhau (Một trời quan tái). Có khi là cảm giác về sự tha
hóa: Ở mãi kinh kỳ với bút nghiên/Đêm đêm quán trọ thức thi đèn/Xót xa một
buổi soi gương cũ/Thấy lệch bao nhiêu mặt chữ điền (Sao chẳng về đây). Có khi
là cảm giác xa vời, ngoài tầm với: Nằm đây mơ dáng lầu cao kinh thành (...)Tàu
đi ánh sáng kinh thành bừng lên (Đêm mƣa nhớ bạn).
Nhìn chung, thành thị trong thơ Nguyễn Bính là một không gian gây cảm
giác không phải của mình, không thuộc về mình. Khi con ngƣời ở nông thôn thì
hƣớng về thành thị nhƣ một háo hức, tò mò. Nhƣng khi có mặt ở thành thị rồi thì
chỉ toàn thấy những cảm giác bất ổn, không yên tâm, cô đơn và trống vắng. Cuộc
sống thành thị kéo con ngƣời ra khỏi nông thôn, thậm chí lôi con ngƣời ra khỏi
tổ ấm của họ và từ đó xuất hiện không gian nhà ga trong thơ Nguyễn Bính nhƣ
một biểu tƣợng của sự chia lìa tan tác: Những cuộc chia lìa khởi tự đây/Cây đàn
sum họp đứt từng dây (...) Có lần tôi thấy một bà già/Đưa tiễn con đi trấn ải
xa/Tàu chạy lâu rồi bà vẫn đứng/Lưng còng đổ bóng xuống sân ga/Có lần tôi
thấy một người đi/Chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì/Chân bước hững hờ theo bóng
lẻ/Một mình làm cả cuộc phân ly (Những bóng ngƣời trên sân ga). Một không
gian khác gắn liền với không gian nhà ga là không gian của những chuyến
tàu/những toa tàu. Tàu trong thơ Nguyễn Bính gắn với cảm giác u ám và bất
định, nhuốm màu thê lƣơng: Tàu biết bây giờ chạy đến đâu/Đêm sâu hoàn trả lại
đêm sâu/Bỏ đây một chiếc tàu kiêng đỗ/Chở một toa tim nặng oán sầu (Chuyến
tàu đêm). Không gian tàu trong thơ Nguyễn Bính gợi ta nhớ đến thuyền trong
thơ Vũ Hoàng Chƣơng với những cảm giác tƣơng tự về sự vô định, mất niềm tin
và phƣơng hƣớng: Nhổ neo rồi thuyền ơi xin mặc sóng/Xô về Đông hay dạt tới

81
phương Đoài/Giữa mặt biển vô cùng cao rộng/Lòng cô đơn cay đắng họa dần
vơi/Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa/Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh/Bể
vô tận xá gì phương hướng nữa/Thuyền ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh
(Phƣơng xa)
3.1.5. Không gian phiêu bạt
Một không gian cuối cùng chúng tôi muốn bàn đến trong thơ Nguyễn
Bính là không gian phiêu bạt. Phiêu bạt xuất hiện khi con ngƣời rời bỏ nông thôn
mà đi, vì thế, có thể xem phiêu bạt giống nhƣ một khoảng ở giữa nông thôn và
thành thị, hoặc giả bản thân con ngƣời khi đang ở thành thị cũng cảm giác về bản
thân nhƣ một sự phiêu bạt giang hồ. Những đơn vị không gian điển hình của loại
này có thể kể tới là: giang hồ/hồ hải/hải hồ/sông hồ/giang san, nước non/non
nước/sông núi/núi sông/non sông, quán trọ, quán rượu, quán cơm, quán, nhà
trọ, gác trọ, biên cương, biên thùy, ải ngoài, ải quan, quan hà, quan san. Tần số
xuất hiện của các đơn vị trên đƣợc tổng kết qua bảng dƣới đây:
Bảng 3.4: Không gian phiêu bạt trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
STT Không gian Tần số STT Không gian Tần số
1 Giang hồ 13 10 Nhà trọ 2
2 Hồ hải 1 11 Gác trọ 1
3 Hải hồ 1 12 Quán 7
4 Sông hồ 2 13 Biên cƣơng 3
5 Giang san 2 14 Biên thùy 1
Nƣớc non/non
nƣớc/sông
6 9 15 Ải 2
núi/núi sông/non
sông
7 Quán trọ 8 16 Ải quan 1
8 Quán rƣợu 2 17 Quan hà 2
9 Quán cơm 1 18 Quan san 1
Tổng tần số 59

82
Trong những định danh chỉ không gian phiêu bạt nói trên, chỉ có 6 đơn vị
là đƣợc miêu tả theo bút pháp hiện thực (quán trọ, quán rượu, quán cơm, nhà
trọ, gác trọ, quán), những đơn vị còn lại đều mang tính chất ƣớc lệ. Cảm quan
chung từ những đơn vị không gian trên mang lại là sự cô đơn trống vắng, nỗi
nhớ nhung (nhớ ngƣời thân, nhớ quê hƣơng), bản thân chủ thể trữ tình thì thƣờng
rơi vào cảnh khó khăn thiếu thốn (cả vật chất lẫn tinh thần). Thế nhƣng phiêu bạt
dƣờng nhƣ đã thành một định mệnh, con ngƣời vẫn lựa chọn ra đi để rồi lại tự
đón những khổ đau buồn bã vào mình: Đêm nay trăng rụng về bên ấy/Gác trọ
còn nguyên gió thất tình (Không đề), Em có biết rằng trong quán trọ/Đầu tôi lại
gối cánh tay tôi (Oan nghiệt), Ngồi xếp bằng tròn trong ải lạnh/Nửa đêm trừ tịch
bỗng dưng sầu(Tết biên thùy), Em đi non nước xa khơi quá/Mỗi độ xuân về bao
nhớ thương!/Mỗi độ xuân về em lại thấy/Buồn như chú lính ở biên cương (Xuân
vẫn tha hƣơng)
3.1.6. Những không gian gắn với địa danh
3.1.6.1. Những địa danh gắn với bút pháp tả thực
Theo thống kê của chúng tôi, trong các thi phẩm trƣớc Cách mạng của
Nguyễn Bính có tới 66 địa danh xuất hiện với tổng số tần số của các địa danh là
146 lần. Vậy là cứ trung bình đọc 1,8 bài thơ của Nguyễn Bính, ta lại thấy một
địa danh xuất hiện. Toàn bộ 66 địa danh nói trên hầu hết đều thuộc Việt Nam,
chỉ có một địa danh nằm ngoài lãnh thổ Việt là Cao Miên (1 lần) Các địa danh
chia thành một số loại chính nhƣ sau. Các địa danh có thể là tên các tỉnh thành
nhƣ: Hà Nội (21 lần), Thanh Hóa (2 lần), Ninh Bình (2 lần), Nam Định (2 lần),
Huế (5 lần), Hà Tiên (2 lần), Hƣng Yên (1 lần), Đồng Nai (1 lần). Các địa danh
có thể thuộc cấp độ dƣới tỉnh hoặc trên tỉnh, chẳng hạn: Bát Tràng (1 lần), Tam
Đảo (1 lần), Đồ Sơn (1 lần), Đập Đá (1 lần), Tràng Tiền (1 lần), phủ Từ (1 lần),
phủ Lạng (1 lần), Nam Kỳ (2 lần), Cầu Muối (1 lần), Đa Kao (1 lần), Hà Đông
(4 lần), Gôi (1 lần). Các địa danh có thể là tên sông, núi, đƣờng, hồ, chợ hoặc
những không gian có tính chất tƣơng đƣơng, chẳng hạn: sông Vân (1 lần), núi
Ngự (1 lần), bến Ngự (1 lần), sông Hƣơng (3 lần), sông Thƣơng (4 lần), sông
Nhuệ (2 lần), chợ Hoàng (1 lần), chợ Quán (1 lần), chùa Hƣơng (5 lần), bến Đục

83
(1 lần), hồ Ba Bể (1 lần). Một loạt các địa danh khác là các tên thôn, xóm, làng.
Những cái tên này mang đậm phong vị dân gian đồng bằng Bắc Bộ, góp phần
tạo nên ấn tƣợng về chất chân quê trong thơ Nguyễn Bính: xóm Đông (1 lần),
thôn Đoài (7 lần), thôn Đông (3 lần), làng Đặng (2 lần), làng Ngang (3 lần), làng
Thƣợng (3 lần), làng Hạ (1lần), làng Trung (1 lần), phƣờng Mơ (2 lần), xóm Tây
(1 lần), mái Đoài (1 lần), xóm Ngự viên (7 lần), xóm Dừa (1 lần), làng Sậm (1
lần), thôn Vân (9 lần). Tổng kết chi tiết về các địa danh và tần số xuất hiện có
thể theo dõi qua bảng sau:
Bảng 3.5: Các địa danh cụ thể trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
Tên địa danh Tần số Tên địa danh Tần số
Thanh Hóa 2 Tỉnh Bắc 1
Hà Nội 21 Làng Sậm 1
Xóm Đông 1 Hƣng Yên 1
Thôn Đoài 7 Kép 1
Thôn Đông 3 Xóm Tây 1
Làng Đặng 2 Mái Đoài 1
Động Hƣơng Sơn 1 Sông Hƣơng 3
Nam 5 Phủ Lạng 2
Gôi 1 Sông Hƣơng 4
Ninh Bình 2 Làng Ngang 3
Bắc 4 Kinh Bắc 1
Sài Gòn 1 Đoài 2
Chợ Quán 1 Chùa Hƣơng 5
Đa Kao 1 Đền Hùng 1
Cầu Muối 1 Hồ Ba Bể 1
Hà Đông 4 Bến Đục 1
Nhà Mƣờng 1 Ga Hàng Cỏ 2
Xóm Thổ 1 Đồ Sơn 1
Sông Nhuệ 2 Tam Đảo 1

84
Chợ Hoàng 1 Bến Ngự 1
Làng Thƣợng 3 Xóm Ngự viên 7
Phƣờng Mơ 2 Huế 5
Làng Trung 1 Tràng Tiền 1
Làng Hạ 1 Đập Đá 1
Đồng Nai 1 Xóm Dừa 1
Thôn Vân 9 Phƣơng Nam 2
Nam Kỳ 2 Phƣơng Bắc 1
Cao Miên 1 Hà Tiên 2
Lan Chi Viên 1 Núi Ngự 1
Nam Định Đƣờng Nam
2 1
Giao
Xứ Thanh 1 Sông Vân 1
Sông Mã 1 Bát Tràng 1
Phủ Từ 1 Tổng tần số 146

Với một số lƣợng địa danh phong phú, dày đặc trải khắp ba miền Bắc
Trung Nam, có thể thấy sự di chuyển, xê dịch của nhà thơ là rất lớn. Chẳng thế
mà trong thơ Nguyễn Bính xuất hiện tới 13 lần từ giang hồ (Tôi chờ gì nữa mà
chưa giang hồ, Tay áo giang hồ tôi sẽ nuôi, Tôi mới giang hồ một nửa thôi, Ai
mơ về bóng giang hồ đêm đêm, Đem thân đi với giang hồ...), chƣa kể các đơn
vị gần gũi khác nhƣ hải hồ, hồ hải, quan san, quan hà, sông hồ. Trong các thi sĩ
thuộc phong trào Thơ Mới, theo chúng tôi, chất giang hồ trong thơ Nguyễn
Bính đƣợc thể hiện đậm nét nhất. Tuy thế, có thể nhận thấy dù có sự xuất hiện
của rất nhiều địa danh, song vẫn có sự ƣu ái với một vài cái tên đặc biệt. Quan
sát ở bảng tổng kết, ta thấy Hà Nội chiếm tần số lớn nhất với 21 lần xuất hiện,
kế đến là thôn Vân – quê mẹ với 9 lần xuất hiện. Đối chiếu với tiểu sử tác giả,
chúng tôi nhận thấy Nguyễn Bính bắt đầu sự nghiệp thi ca của mình ở Hà Nội
(1932) và lƣu trú tại đây cho tới năm 1943 thì vào Nam Bộ. Một quãng thời
gian 12 năm ở Hà Nội cùng cái hồn cốt Bắc Bộ thấm đẫm khiến nhà thơ dành

85
nhiều tình cảm lƣu luyến nhớ nhung cho Hà thành cũng là điều dễ hiểu. Còn
đối với các địa danh thôn/xóm/làng, thôn Vân nổi lên nhƣ một nỗi nhớ thƣờng
trực trong lòng thi nhân. Điều ấy nói với chúng ta về mẫu tính trong thơ
Nguyễn Bính, về giọng điệu tha thiết ngọt ngào gần gũi quen thuộc nhƣ những
bài ca dao: Thôn Vân ơi hỡi thôn Vân/Phương nao kết dải mây Tần cho ta/Từ
nay khi nhớ quê nhà/Thấy mây Tần đó ngỡ là thôn Vân(Anh về quê cũ)
Những cụm từ: quê nhà, quê cũ, quê hương trở đi trở lại tới 14 lần trong
các bài thơ trƣớc Cách mạng của Nguyễn Bính, chƣa kể đến sự tồn tại của các
định danh quê người/đất khách nhƣ một thế đối ứng để càng làm nổi bật cái
tình sâu nặng với quê hƣơng xứ sở: Đêm ba mươi Tết quê người cũng/Tiếng
pháo giao thừa dậy tứ phương/Chị ạ! Em không người nước Sở/Nhớ nhà đâu
mượn địch Trương Lương/Đất khách tình dâng nhòa mắt lệ/Ôi nhà! Ôi chị! Ôi
quê hương!(Xuân vẫn tha hƣơng)
3.1.6.2. Những địa danh điển tích
Ngoài những địa danh tả thực nhƣ vừa trình bày, thơ Nguyễn Bính còn
có sự xuất hiện của 20 địa danh mang tính chất điển tích, là những từ ngữ từng
gặp nhiều trong văn chƣơng cổ điển. Loại địa danh này tăng thêm chất cổ
kính/cổ điển trong thơ Nguyễn Bính. Nó cũng bộc lộ với ta một điều về tiểu sử
tác giả: Nguyễn Bính không phải là trí thức Tây học nhƣ Xuân Diệu, Huy Cận
mà vẫn thuộc lớp Hán học, đƣợc truyền lại một tinh thần cổ học nhờ những
ngƣời trong gia đình (cha và cậu). Vậy nên ta có thể bắt gặp những điển tích
của phƣơng Tây trong thơ Xuân Diệu (Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine/Hai
chàng thi sĩ choáng hơi men) chứ ở thơ Nguyễn Bính thì tuyệt nhiên không có.
Các địa danh mang tính chất điển tích cùng tần số xuất hiện của chúng đƣợc
tổng kết qua bảng dƣới đây:
Bảng 3.6: Địa danh điển tích trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
Địa danh Tần số Địa danh Tần số
Sông Ngân/ Ngân hà/ Bến Sở
6 1
Trạch Ngân hà
Thần Nông 1 Sông Tần 1

86
Bến Tầm Dƣơng 2 Ô Giang 1
Đào Nguyên 1 Cõi Thục/ Ba Thục 2
Bến Trần 1 Sông Tƣơng 1
Sở 1 Hàm Đan 1
Tề 1 Ải Bắc 1
Cung Quảng 1 Tràng An 1
Sông Dịch 2 Xóm/bến/thôn Trữ La 4
Thiên Thai 1 Chiêm quốc 7
Tổng số địa danh 20 Tổng tần số 37

3.1.7. Những không gian tượng trưng – ước lệ


Trong những nghiên cứu trƣớc đây của chúng tôi về các tín hiệu ngôn ngữ
chỉ thời gian nghệ thuật [92] và từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính
[94], chúng tôi đã chỉ ra những cách diễn đạt ƣớc lệ là một trong những đặc thù
của phong cách Nguyễn Bính. Và giờ đây khi khảo sát các tín hiệu ngôn ngữ chỉ
không gian nghệ thuật, chúng tôi cũng bắt gặp những biểu hiện tƣơng tự. Những
từ ngữ ƣớc lệ là những từ ngữ mà ý nghĩa biểu trƣng của nó đã trở thành khuôn
mẫu và mặc nhiên đƣợc thừa nhận trong văn chƣơng truyền thống. Đứng về mặt
sáng tạo, việc sử dụng các từ ngữ ƣớc lệ là sự không tạo ra đóng góp cống hiến
mới. Tuy nhiên, về mặt phong cách học và thẩm mỹ, từ ngữ ƣớc lệ dùng ở mức
độ vừa phải giống nhƣ thêm chút gia vị quen thuộc cho món ăn, tạo ra sự gần gũi
và dễ cảm nhận. Sau đây là bảng tổng kết các đơn vị không gian mang tính ƣớc
lệ - tƣợng trƣng cùng tần số xuất hiện của chúng:
Bảng 3.7: Không gian ƣớc lệ trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
Không gian Tần số Không gian Tần số
Hoang đảo 1 Chiến trƣờng 1
Suối vàng 1 Ngục 2
Cấm địa 1 Xứ tiên 1
Sa trƣờng 1 Thiên đƣờng 1

87
Xứ mùa xuân 1 Góc bể chân mây 1
Cung trăng 1 Sa mạc 1
Xứ nhân gian 1 Buồng xuân 1
Chợ đời 1 Làng ân ái 1
Lũy/thành 1 Tổng tần số 18
Những cách diễn dạt ƣớc lệ - tƣợng trƣng của Nguyễn Bính tuy thế cũng
đã có đôi lần đƣa đến những sáng tạo độc đáo, bất ngờ, điển hình là hai định
danh không gian “nƣớc tình ái” và “nƣớc bƣớm”: Ví chăng có một nước Tình
Ái/Em làm hoàng hậu, anh làm vua (Ái khanh hành), Em ạ ngày xưa vua nước
bướm/Kén nhân tài mở Điệp lang khoa/Vua không lấy Trạng vua thề thế/Con
bướm vàng tuyền đậu Thám hoa(Truyện cổ tích).
3.2. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn
Bính
Trong quá trình khảo sát và thống kê tƣ liệu, chúng tôi nhận thấy việc
phân nhóm các phạm vi thời gian sẽ là cách tốt nhất để tiếp cận thế giới thơ
Nguyễn Bính từ góc nhìn thời gian nghệ thuật. Vì thế, chúng tôi chia hệ thống
thời gian nghệ thuật trong các thi phẩm trƣớc 1945 của Nguyễn Bính ra thành
các nhóm nhƣ sau: thời gian của ngày, thời gian của năm, các biểu tượng chỉ
thời gian và những biểu hiện khác. Trong 272 bài thơ của Nguyễn Bính, thực ra
chỉ có 135 bài là xác định đƣợc thông số thời gian nghệ thuật, nói một cách khác
là ở những bài đó, thời gian nghệ thuật là một nhân tố quan trọng giúp cho việc
tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật của thi phẩm. Còn ở 137 bài còn lại, vấn
đề thời gian nghệ thuật không phải là yếu tố quan trọng cần đƣợc đặt ra, nói cách
khác là thời gian nghệ thuật không phải là yếu tố có tầm quan trọng và ảnh
hƣởng lớn đến giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Nhƣ vậy, vấn đề tìm
hiều thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính thực chất chỉ xoay quanh 135
bài thơ.

3.2.1. Thời gian của ngày


Chúng tôi quan niệm NGÀY là một đơn vị mang tính cơ sở để chỉ thời
gian, đo đếm thời gian, xuất hiện một cách thƣờng trực, thông dụng trong tất cả

88
các tác phẩm văn học nghệ thuật. Thời gian của NGÀY có thể chia thành hai
khoảng chính là khi còn ánh sáng mặt trời (ban ngày) và khi hết ánh sáng mặt
trời (đêm tối). Thời gian BAN NGÀY sẽ có phạm vi trải rộng hơn thời gian
BAN ĐÊM, liên quan đến các định danh sau xuất hiện trong thơ Nguyễn Bính:
sáng (sớm, sớm mai, ban mai, bình minh), trƣa (ngọ), chiều (ánh chiều, ráng
chiều, ánh trời hôm, hoàng hôn). Phần thời gian còn lại liên quan đến hai định
danh chủ đạo là tối và đêm.
3.2.1.1.Thời gian ban ngày
Theo thống kê của chúng tôi trên tƣ liệu 272 bài thơ của Nguyễn Bính,
thời gian ban ngày với các khoảng sáng, trƣa, chiều xuất hiện trong 75 bài thơ,
chiếm 27% trong tổng số các tác phẩm. 75 bài thơ này lại có thể chia về 10 tiểu
nhóm nhƣ sau: ngày (sáng) sang đêm (tối), đêm (tối) sang ngày (sáng), sáng
ngày (nói chung), sáng đến trưa, trưa, trưa đến chiều, sáng đến chiều, chiều,
chiều đến tối, chiều đến đêm. Có thể quan sát tình hình phân bố thời gian ban
ngày trong các bài thơ của Nguyễn Bính qua bảng dƣới đây:
Bảng 3.8: Thời gian ban ngày trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
Khoảng thời gian Số lƣợng bài
Ngày (sáng) sang đêm (tối) 6
Đêm (tối) sang ngày (sáng) 2
Sáng ngày 11
Sáng đến trƣa 1
Trƣa 2
Trƣa đến chiều 2
Sáng đến chiều 5
Chiều 37
Chiều đến tối 4
Chiều đến đêm 5
Qua bảng trên, có thể thấy, bên cạnh việc thời gian ngƣng tụ lại ở một
khoảng gồm 50 bài thơ: sáng ngày (11 bài), trưa (2 bài), chiều (37 bài) chiếm
67% thì ở 25 bài thơ còn lại (chiếm 33%), thời gian có sự dịch chuyển, vận động

89
từ điểm này sang điểm khác. Sự vận động này có mức độ ngắn dài khác nhau,
tùy thuộc vào cấu tứ nội dung bài thơ, tâm trạng cảm xúc của tác giả cũng nhƣ
những dụng ý nghệ thuật của ngƣời sáng tạo. Chẳng hạn ở bài Hết bƣớm vàng
(tập Hƣơng, cố nhân) là bài thơ có sự chuyển dịch thời gian từ ngày sang đêm,
điều đó gắn với một ngụ ý biểu tƣợng cho một cuộc tình đƣợc mở ra và khép lại
trong một chu trình kín. Có thể theo dõi vắn tắt điều này qua việc tri nhận khổ
đầu và khổ cuối của thi phẩm: Anh trồng cả thảy hai vườn cải/Tháng chạp hoa
non nở cánh vàng/Lũ bướm láng giềng đang khát nhụy/Mách cùng gió sớm rủ rê
sang… Em đã sang ngang với một người/Anh còn trồng cải nữa hay thôi/Đêm
qua mơ thấy hai con bướm/Khép cánh tình chung ở giữa trời/
Trong những bài thơ thuộc nhóm Thời gian của ngày, những bài thơ mang
thời gian nghệ thuật buổi chiều chiếm một vị trí đặc biệt. Có tới 37 bài thơ mang
thời gian nghệ thuật trung tâm, thuần nhất là buổi chiều; 16 bài thơ khác có sự
góp mặt của buổi chiều trong những diễn trình vận động khác nhau của thời
gian. Nhƣ vậy nếu tính tất cả những bài thơ có buổi chiều góp mặt, ta đƣợc con
số 42 tác phẩm (chiếm 56% trong tổng số 75 tác phẩm thuộc nhóm Thời gian
ban ngày) Theo quan niệm và cảm nhận của chúng tôi, buổi chiều trong diễn
trình của một ngày (sáng, trƣa, chiều, tối) cũng giống nhƣ mùa thu trong diễn
trình của một năm (xuân, hạ, thu, đông). Buổi chiều có thể nói là điểm tàn của
một ngày, cái chết của một ngày, là khoảnh khắc dễ gợi nên trong lòng ngƣời
nhiều mối tâm trạng, xui khiến cho những tâm trạng đó phát triển về mức độ,
cƣờng độ và dƣờng nhƣ đối với tâm hồn thi sĩ thì điều này gọi thi ca đến. Từ xƣa
đến nay, buổi chiều với đầy những bùi ngùi của các nỗi niềm cảm xúc đã chẳng
làm nên bao kiệt tác của Đỗ Phủ, Lý Bạch, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Bà Huyện
Thanh Quan, Tản Đà…đó hay sao? Thực thế, không ít những bài thơ với thời
gian nghệ thuật chủ đạo là buổi chiều đã trở thành kiệt tác của Nguyễn Bính, là
những thi phẩm tạo đƣợc dấu ấn riêng về phong cách cũng nhƣ in vào trí nhớ của
nhiều thế hệ yêu văn chƣơng. Đó là Viếng hồn trinh nữ, Cô hái mơ, Qua nhà,
Những bóng người trên sân ga, Một trời quan tái… Và những câu thơ từ hay
đến rất hay nằm trong những bài thơ kể trên đều thấp thoáng có bóng dáng buổi

90
chiều: Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh/Tơ liễu theo nhau chảy xuống
hồ(Viếng hồn trinh nữ), Giếng thơi mưa ngập nước tràn/Ba gian đầy cả ba gian
nắng chiều(Qua nhà), Chiều nay…thương nhớ nhất chiều nay/Thoáng bóng em
trong cốc rượu đầy/Tôi uống cả em và uống cả/Một trời quan tái, mấy cho
say(Một trời quan tái)
Tổng kết số lần xuất hiện của từ chiều, chúng tôi thu đƣợc con số 105 lần
xuất hiện, trong đó có các biến thể nhƣ chiều, chiều ấy, chiều nay, chiều mai,
chiều qua, hoàng hôn. Tình hình cụ thể có thể xem qua bảng dƣới đây:

Bảng 3.9: Biểu hiện của thời gian buổi chiều trong thơ Nguyễn Bính
trƣớc 1945
Chiều Chiều Chiều Chiều Chiều Hoàng
(nay) ấy chiều mai qua hôn
90 1 5 1 2 6
Điều này cho thấy sự phong phú đa dạng trong biểu hiện thời gian của
Nguyễn Bính. Nó cũng thống nhất với sự chi tiết ti mỉ trong biểu hiện thời gian
của thơ Nguyễn Bính mà chúng tôi sẽ đề cập đến kỹ hơn trong phần sau.
3.2.1.2. Biểu tƣợng của thời gian ban ngày.
Hằng số nổi bật của thời gian ban ngày trong thơ Nguyễn Bính là nắng.
Theo thống kê của chúng tôi, có tới 40 lần từ “nắng” xuất hiện một cách chính
danh. Bên cạnh đó là các cách diễn đạt khác nhƣ ánh chiều (Chiều quê), ánh mặt
trời, ánh ban mai (Trong vƣờn cúc), ánh trời hôm (Cô hái mơ), ráng chiều
(Rừng). Ánh nắng xuất hiện với nhiều cấp độ ngữ nghĩa khác nhau. Có lúc chỉ
là những miêu tả ngoại cảnh đơn thuần: Nắng lên mất thú ngồi bên lửa (Tháng
ba), Biếc trong nắng sớm hồng trong vườn chiều(Anh về quê cũ), Trời vừa hửng
nắng bên đông (Con bé Liên). Nhƣng những miêu tả về nắng cũng không ít
những lần mang tới sự ngỡ ngàng về những kết hợp ngôn từ lạ lẫm, bất ngờ, độc
đáo của thi sĩ: Nắng thoai thoải nắng chiều lưng lửng chiều(Đƣờng rừng chiều),
Mưa nhè nhẹ, nắng thanh thanh (Xuân về nhớ cố hƣơng), Nắng đỏ loang trên
những ngọn đồi(Nắng đỏ). Tiếp đến, nắng có những lần đƣợc xuất hiện một cách

91
gián tiếp, nằm ở vế thứ hai của một cấu trúc so sánh: Lại thấy đời tươi tựa nắng
vàng (Tơ trắng), Mẹ em như bóng nắng về chiều (Lòng nào dám tƣởng), Những
ánh đèn phai tựa nắng tà(Chuyến tàu đêm),Em như cữ nắng bảy ngày chưa thôi
(Vũng nƣớc)
Tuy nhiên, những ánh nắng chất chứa tâm trạng là những ánh nắng gây
đƣợc ấn tƣợng mạnh nhất đối với ngƣời đọc, đó là những ánh nắng có sức ám
ảnh về mặt ngôn ngữ: Giếng thơi mưa ngập nước tràn/Ba gian đầy cả ba gian
nắng chiều (Qua nhà), Nắng vàng rơi mãi bên bờ giếng/Sao nắng vàng không
hẹn một lời(Nhặt nắng), Chiều lại buồn rồi em vẫn xa/Lá rừng thu đổ nắng sông
tà (Một trời quan tái)
Và không phải ngẫu nhiên những ánh nắng đầy chất chứa tâm trạng này
đều là những ánh nắng chiều, là những khoảnh khắc nắng muốn bùng lên trƣớc
khi tàn lụi. Những ánh nắng của buổi sáng hơn một lần cũng đƣợc đặt trong một
thế đối lập tƣơng phản để rồi hoặc nhuốm màu đau thƣơng, hoặc nhuốm sự trống
vắng, bơ vơ, hao khuyết: Sáng nay sau một cơn mưa lớn/Hà Nội bừng lên những
nắng vàng/Có những cô nàng trinh trắng lắm/Buồn rầu theo vết bánh xe
tang(Viếng hồn trinh nữ), Tôi đến thăm Nhi giữa nắng hồng/Với bài thơ mới sắp
làm xong/Nỡ nào Nhi lại đi xa vắng/Bình lạnh hoa tươi tôi nhớ nhung(Nuôi
bƣớm)
Điều này là một sự khác biệt lớn nêu ta thử so sánh nắng trong thơ
Nguyễn Bính với nắng trong thơ của một số nhà thơ lãng mạn khác cùng thời với
ông: Giữa vườn ánh ỏi tiếng chim vui/Thiếu nữ nhìn xuân chói mặt trời/Sao buổi
đầu xuân êm ái thế/Cánh hồng kết những nụ cười tươi (Xuân Diệu), Trong làn
nắng ửng khói mơ tan/Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/Sột soạt gió trêu tà áo
biếc/Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang(Hàn Mặc Tử), Nắng thơ dệt sáng trên tà
áo/Lá nhỏ mừng vui phất cửa ngoài (Huy Cận).
3.2.1.3. Thời gian ban đêm
Nếu nhƣ thời gian ban ngày với ba khoảng sáng, trưa chiều xuất hiện
trong 75 bài thơ thì thời gian ban đêm với hai khoảng tối và đêm xuất hiện trong
77 bài thơ. Nếu nhƣ ở nhóm thời gian ban ngày, buổi chiều là khoảng thời gian

92
thuần nhất có số lƣợng tác phẩm lớn nhất với 37 bài thơ thì ở nhóm thời gian ban
đêm, những bài thơ mang thời gian nghệ thuật đêm (thuần nhất) có số lƣợng lên
tới 60 thi phẩm. 17 trƣờng hợp khác là những bài thơ có các khoảng thời gian từ
ban ngày diễn tiến về đêm tối.
Trong thế giới thơ Nguyễn Bính, nếu so với thời gian ban ngày thì thời
gian ban đêm đƣợc lựa chọn và sử dụng nhƣ một khoảng thời gian mang nhiều
sắc thái âm tính và tiêu cƣc. Trong khắp 77 bài thơ có dính dáng đến thời gian
đêm tối thì chỉ có 3 bài thời gian đêm tối mang ý nghĩa dƣơng tính. Đó là các
bài: Thời trƣớc ( kỷ niệm và hạnh phúc), Thi vị (vui tƣơi, ấm cúng, trẻ trung),
Nửa đêm nghe tiếng còi tàu (niềm hy vọng). Ở hết thảy những bài còn lại, thời
gian đêm tối đều gắn với những tính chất u buồn. Chẳng hạn ở Lỡ bƣớc sang
ngang, thời gian đêm tối là nỗi ám ảnh xót xa, ở Quán lạnh, thời gian đêm tối
là nỗi thê lƣơng lạnh lẽo. Ở Bƣớc đi bƣớc nữa, thời gian đêm tối là nỗi day dứt
áy náy, ở Dòng dƣ lệ, thời gian đêm tối lại là nỗi đau đớn tiếc thƣơng. Có nhiều
sắc thái, cung bậc tâm trạng khác của con ngƣời gắn với thời gian đêm tối trong
thơ Nguyễn Bính có thể kể ra tiếp nhƣ nỗi cay đắng bẽ bàng trong bài Lòng kỹ
nữ, nỗi bi quan mịt mù vô vọng trong bài Chuyến tàu đêm, sự bế tắc tuyệt vọng
trong bài Đêm mƣa đất khách, nỗi dở dang buồn tủi trong bài Mƣa
xuân…Chúng ta cùng đọc vài câu thơ điển hình trong một số bài thơ có thời gian
nghệ thuật chủ đạo là đêm tối: Năm xưa đêm ấy giường này/Nghiến răng…nhắm
mắt…cau mày…cực chưa(Lỡ bƣớc sang ngang), Tàu biết bây giờ chạy đến
đâu/Đêm sâu hoàn trả lại đêm sâu/Bỏ đây một chiếc tàu kiêng đỗ/Chở một toa
tim nặng oán sầu(Chuyến tàu đêm), Nàng từ lạc bước đến đây/Lá bàng rụng đến
chuyến này là ba/Đêm rồi đêm lại đêm qua/Bao nhiêu đêm lại hóa ra đêm
tàn(Lòng kỹ nữ), Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh/Thoi ngà nằm nhớ ngón
tay em(Mƣa xuân)
Tổng kết tần số xuất hiện của đêm trong thi phẩm Nguyễn Bính, chúng tôi
thu đƣợc con số 164 lần với các biến thể: đêm, đêm nay, đêm mai, đêm kia, đêm
ấy, nửa đêm, đêm đêm. Tình hình cụ thể có thể thấy qua bảng sau:

93
Bảng 3.10: Biểu hiện của thời gian “đêm” trong thơ Nguyễn Bính
trƣớc 1945
Đêm Đêm qua Đêm kia Đêm ấy Nửa đêm Đêm
(nay) đêm
122 15 5 6 6 10
Sự áp đảo của thời gian ban đêm so với ban ngày phản ánh một cảm hứng
bi đát, bi quan trong thơ Nguyễn Bính. Thơ Nguyễn Bính nhìn từ lăng kính thời
gian cho ta thấy các câu chuyện chủ yếu nghiêng về tính chất bi kịch, thất vọng,
dở dang, tan vỡ, lúc nào cũng hao khuyết, thiếu vắng, trống trải, hiếm bao giờ
thấy sự tròn đầy viên mãn.
3.2.1.4. Biểu tượng của thời gian ban đêm
Nếu nhƣ thời gian ban ngày chỉ có một hằng số đáng đƣợc quan tâm là
nắng thì thời gian ban đêm có tới 6 hằng số có thể kể đến là: trăng, sao, nến,
đèn, than, lửa. Tần số xuất hiện của 6 đơn vị này nhƣ sau:
Bảng 3.11: Biểu tƣợng của thời gian ban đêm trong thơ Nguyễn
Bính trƣớc 1945
Trăng Sao Nến Đèn Than Lửa
37 lần 8 lần 4 lần 8 lần 1 lần 2 lần
Tất cả 6 đơn vị đều giống nhau ở chỗ mang lại ánh sáng, cấp ánh sáng cho
con ngƣời, trong đó trăng – sao là ánh sáng tự nhiên, còn nến – đèn – than – lửa
là ánh sáng nhân tạo. Dù là ánh sáng tự nhiên hay nhân tạo thì trong những
khoảnh khắc khác nhau, con ngƣời đều phải(hoặc muốn) nƣơng tựa vào ánh sáng
đó. Những ánh sáng đó trở thành một tiêu điểm/tâm điểm hoặc thậm chí là một
nhân vật cho mỗi thi phẩm. Lẽ dĩ nhiên, trăng vẫn là thứ ánh sáng đƣợc chuộng
nhất, xuất hiện nhiều lần hơn cả, những câu thơ hay nhất về ánh sáng cũng dồn
lại ở nơi trăng. Tuy nhiên, các hằng số ánh sáng khác cũng đã gửi lại cho ngƣời
đọc những câu thơ tài hoa: Rung rung ánh nến hoen vàng/Hơi men lắng xuống
tiếng đàn cao lên…Rung rung ánh nến hoen vàng/Đôi dây nức nở muôn ngàn
nhớ thương (Một con sông lạnh), Đốt ngọn đèn lên bóng rợn tường (Xuân

94
vẫn tha hƣơng), Đêm tàn chẳng có chiêm bao/Đêm tàn có mấy chòm sao cũng
tàn (Một con sông lạnh)
Nhƣng nhƣ đã nói ở trên, những câu hay nhất vẫn là viết về trăng. Trăng
trong con mắt thi sĩ có thể là một chứng nhân cho hạnh phúc lứa đôi, từ thuở còn
hàn vi cho đến khi công thành danh toại: Sáng trăng chia nửa vườn chè/Một gian
nhà nhỏ đi về có nhau/...Đêm nay mới thật là đêm/Ai đem trăng sáng giãi lên
vườn chè (Thời trƣớc)
Trăng là biểu tƣợng của tình yêu và hạnh phúc. Mà tình yêu và hạnh phúc
trong thơ Nguyễn Bính thƣờng lúc nào cũng hao khuyết, dang dở: Đêm nay
trăng rụng về bên ấy/Gác trọ còn nguyên gió thất tình(Một mình), Vườn khuya
sương lạnh vô vàn/Lẻ loi một mảnh trăng tàn về đâu(Xin chớ hải đƣờng), Nhớ
người nhớ cả vầng trăng(Nghĩ làm gì nữa), Tôi về ngõ lạnh trăng lành
lạnh(Khép cánh sƣơng). Trong những ví dụ vừa dẫn, ngoài những nội dung,
thông điệp đƣợc truyền tải qua hình tƣợng trăng, các kết hợp ngôn ngữ cũng
chứng tỏ đƣợc năng lực sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ. Chẳng hạn “trăng lành lạnh”
chính là nghệ thuật chuyển đổi cảm giác từ thị giác sang xúc giác, “trăng rụng”
chính là một kết hợp lạ hóa mang tính ẩn dụ…Nhiều miêu tả khác về trăng của
Nguyễn Bính cũng mang đến một cái nhìn mới mẻ, cách tân: Trăng chiều rụng
xuống lòng sông/Có nhà sư nữ đi trong chuông chiều(Hai buổi chiều), Nhà có
trăng soi vàng nửa mái (Bài thơ vần Rẫy), Trăng nghiêng nửa mái gội mơ
mòng (Bắt gặp mùa thu).Cũng có lần, trăng hiện lên với sự đắng cay chua chát
của một ngƣời muốn rũ bỏ tình yêu và hạnh phúc: Tháng hẹn chờ rơi con lá
úa/Đêm tàn đợi khuyết cái trăng suông (Xuân vẫn tha hƣơng).
3.2.1.5. Những vấn đề khác về thời gian của ngày
Ngoài những điểm nhƣ chúng tôi vừa trình bày về thời gian của ngày,
chúng tôi còn nhận thấy có một đặc điểm rất đáng lƣu ý trong cách biểu hiện thời
gian của thi sĩ chân quê. Đó là thời gian của ngày trong thơ Nguyễn Bính bộc lộ
tính chi tiết rất cao.
Ngoài những đơn vị chúng tôi đã có dịp kể ở trên nhƣ bên cạnh chiều còn
có chiều nay, chiều qua, chiều mai; bên cạnh đêm còn có đêm nay, đêm qua, đêm

95
kia, đêm ấy, nửa đêm; thời gian trong thơ Nguyễn Bính còn đƣợc đo đếm với các
đơn vị nhỏ nhất nhƣ giờ, phút, giây: Nàng hãy vui đi dẫu một ngày/Dẫu phần ba
phút, góc tư giây(Cầu nguyện), Lạy Chúa con xin Chúa một giờ/Mười hai giờ
Ngọ của tình xưa(Chuông Ngọ), Lừng lững tàu đi mất nửa rồi/Sao không dừng
lại ở ga tôi/Lấy mươi lăm phút cho tôi gửi/Chút ít xuân xanh trả lại đời (Chuyến
tàu đêm), Giờ Sửu tháng Ngâu ngày nguyệt tận (Oan nghiệt)
Thời gian trong ngày còn đƣợc đo đếm bằng các định lƣợng cụ thể nhƣ
cách dùng số từ/mấy + ngày/buổi/hôm. Những cách nói nhƣ thế này của
Nguyễn Bính cho ta cái cảm giác rất gần gũi với lời ăn tiếng nói dân gian, có lẽ
đây cũng là một trong những biểu hiện để nhiều độc giả của bao đời nay cùng
công nhận chất chân quê, thôn quê thật đậm đặc trong thơ Nguyễn Bính: Đêm
qua là trắng ba đêm/…Chị tôi khóc suốt một ngày một đêm (Lỡ bƣớc sang
ngang), Cách một ngày ngựa với ba ngày đò(Thƣ cho chị), Cơ giời định rót cả
mùa đông/Suốt chín mươi đêm xuống một lòng(Mùa đông nhớ cố nhân), Thôn tôi
vào đám hai ngày chẵn(Cuối tháng ba), Tháng tháng mươi mười lăm buổi chợ
(Hoa với rƣợu), Bốn tháng hình như kém mấy ngày (Trời mƣa ở Huế), Nàng
thành thiếu phụ đã hai hôm/…Nàng thành thiếu phụ đã năm hôm (Nàng thành
thiếu phụ), Hết hôm nay nữa là vừa bốn hôm (Ngƣời hàng xóm).
Và đây là những cách diễn đạt khác nữa mang đậm màu sắc lời ăn tiếng
nói của ngƣời dân đồng bằng Bắc Bộ: Chờ em…chừng giập miếng giầu em sang
(Chờ nhau), Ngót một tháng nay rồi, có ít (Mong thƣ), Ông đồ gấp lịch: - Ngày
kia tiểu hàn!(Trở rét), Em như cữ nắng bảy ngày chưa thôi (Vũng nƣớc), Bốn
tháng hình như kém mấy ngày (Trời mƣa ở Huế). Cũng có khi các ngày tháng
trong năm đƣợc gọi ra bằng cái tên cụ thể: Viết cho chị lá thư này/Giữa đêm hăm
bốn rạng ngày hăm nhăm(Xây hồ bán nguyệt), Năm mới tháng giêng mùng một
Tết (Nhạc xuân), Nay là hai tám Tết rồi đây/Tháng thiếu cho nên hụt một ngày
(Tết của mẹ tôi), Trời đen như mực, tối ba mươi/Diễm lén sang nhà để gặp
tôi(Thi vị), Đêm ba mươi Tết trời mưa bụi/Sực nhớ quê nhà uống rượu suông
(Mùa đông nhớ cố nhân), Đêm ba mươi Tết quê người cũng/Tiếng pháo giao

96
thừa dậy tứ phương(Xuân vẫn tha hƣơng), Lênh đênh tóc rối cỏ bồng/Chiều ba
mươi Tết ai không nhớ nhà (Xuân về nhớ cố hƣơng).
Việc định danh thời gian một cách cụ thể và chi tiết trong thơ Nguyễn
Bính cho ta thấy một cảm quan riêng biệt của thi sĩ, một nỗi khắc khoải và ám
ảnh về thời gian. Chính mức độ chi tiết hóa về thời gian đã làm Nguyễn Bính
khác với văn học truyền thống cũng nhƣ cách thể hiện thời gian của những nhà
thơ cùng thời. Thời gian trong văn học truyền thống là thời gian mang tính chất
tuần hoàn và xoay vần của bốn mùa mƣa nắng, của ngày đêm, dù có gọi tên thời
gian theo cách nào thì nó cũng ít khi mang đến cảm giác trôi chảy một đi không
trở lại. Chẳng hạn: Thu ăn măng trúc đông ăn giá/Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
(Nguyễn Bỉnh Khiêm), Sen tàn cúc lại nở hoa/Sầu dài ngày ngắn đông đà sang
xuân (Nguyễn Du), Xuân du phương thảo địa/Hạ thưởng lục hà trì/Thu ẩm
Hoàng Hoa tửu/Đông ngâm bạch tuyết thi (Khuyết danh).
Trong nghiên cứu Thơ Mới từ trƣớc đến nay, Xuân Diệu thƣờng đƣợc coi
là nhà thơ của nỗi ám ảnh thời gian, nói về thời gian rất nhiều. Nhƣng Xuân Diệu
chỉ tập trung thể hiện cái tốc độ chóng mặt của thời gian, cái bi kịch thời gian
làm tàn phai mọi thứ chứ cũng chƣa đến độ cân đo đong đếm về thời gian nhƣ
Nguyễn Bính. Kiểu nhƣ: Gấp đi em anh rất sợ ngày mai/Đời trôi chảy lòng ta
không vĩnh viễn/Vừa xịch gối chăn mộng vàng tan biến/Dung nhan xê động sắc
đẹp tan tành(Giục giã), Cái bay không đợi cái trôi/Từ tôi phút ấy sang tôi phút
này (Đi thuyền).
Nguyễn Bính có thể nói đã kết hợp đƣợc ý thức mạnh mẽ về cái tôi cá
nhân cùng với chất thôn quê nhuần nhuyễn vốn có của mình để sáng tạo nên một
bức tranh riêng biệt về thời gian nghệ thuật.
3.2.2 Thời gian của năm
Ở phần này, chúng tôi khảo sát, thống kê về tần số xuất hiện của các mùa
trong năm trong thơ Nguyễn Bính cũng nhƣ có sự miêu tả cần thiết về các yếu tố
từ vựng liên quan đến từng mùa nhƣ những đặc trƣng mà nhà thơ đã tạo dựng
không khí cho các thi phẩm của mình.

97
Trong 272 bài thơ của Nguyễn Bính, có 91 bài xác định đƣợc thời gian
của mùa. Số lƣợng cụ thể của từng bài tƣơng ứng với bốn mùa xuân hạ thu
đông đƣợc tổng kết qua bảng sau:
Bảng 3.12: Bốn mùa trong thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945
Xuân Hạ Thu Đông Tổng số
35 bài 8 bài 31 bài 17 bài 91 bài
Trong quá trình phân loại các thi phẩm theo bốn mùa, chúng tôi đã phải
dựa vào sự xuất hiện của nhiều yếu tố từ vựng khác nhau đƣợc trải khắp trong
toàn bài, từ tên chính danh của mùa đến các yếu tố từ vựng chỉ những sự vật hiện
tƣợng đặc trƣng trong mùa đó.
Sở dĩ nói nhƣ thế bởi nếu chỉ căn cứ vào những yếu tố ngôn ngữ qua nhan
đề để xác định thời gian mùa cho mỗi thi phẩm, ta sẽ có một bức tranh hoàn toàn
khác. Cụ thể nhƣ sau:
Bảng 3.13: Bốn mùa trong thơ Nguyễn Bính căn cứ qua nhan đề tác
phẩm
Xuân Hạ Thu Đông
20 2 7 3
20 bài nhận diện đƣợc mùa xuân ngay từ nhan đề thi phẩm gồm có: Rượu
xuân, Mưa xuân, Xuân về 1, Nhạc xuân, Xuân , Vườn xuân, Thơ xuân, Xuân về
2, Mùa xuân xanh, Xuân tha hương, Gái xuân, Xuân vẫn tha hương, Xuân
thương nhớ, Xuân về nhớ cố hương, Hoa gạo, Cuối tháng 3, Tháng 3, Tết, Tết
của mẹ tôi, Tết biên thùy. 2 bài nhận diện đƣợc mùa hạ ngay từ nhan đề thi phẩm
gồm có: Trưa hè và Hạ. 7 bài có thể nhận diện đƣợc mùa thu ngay từ nhan đề
gồm: Cây bàng cuối thu,, Hoa cỏ may, Lá mùa thu, Trong vườn cúc, Thu rơi
từng cánh, Bắt gặp mùa thu và Thu. 3 bài có thể nhận diện đƣợc ngay mùa đông
ngay từ nhan đề gồm: Trở rét, Mùa đông nhớ cố nhân, Mùa đông gửi cố nhân.
Trong bốn tiểu nhóm gắn với các mùa nói trên, ở mỗi nhóm, có thể nói,
nhà thơ đã xây dựng một số tín hiệu từ vựng mang tính đặc thù cho từng mùa. Ở
mùa xuân, có thể thấy nổi lên tín hiệu từ vựng mưa xuân, rượu xuân và thiếu nữ.
Những câu thơ tả mƣa xuân của Nguyễn Bính luôn đầy ắp giá trị tạo hình, gợi tả

98
đúng những cơn mƣa phùn vào tháng giêng, tháng hai của đồng bằng Bắc Bộ:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/Hoa xoan đã nát dưới chân giày(Mƣa
xuân), Những hạt mưa chiều lấm tấm rơi(Vƣờn xuân), Mưa xuân rắc bụi quanh
làng mạc (Xuân vẫn tha hƣơng), Cửa sổ mưa bay lệ thiệp nhòa(Xuân thƣơng
nhớ), Ta đi khuất nẻo đường làng/Mặc cho mưa bụi ướt tràng áo xanh (Xuân về)
Rượu xuân trong thơ Nguyễn Bính cũng mang những nét đặc thù rất riêng.
Có những lúc đó là ly rƣợu hân hoan đón mùa xuân mới: Mẹ tôi uống hết một
cốc rượu/Mặt người đỏ tía vì hơi men(Tết của mẹ tôi), Có những ông già tóc bạc
phơ/Rượu đào nối chén bút đề thơ(Thơ xuân)
Nhƣng đại đa số những ly rƣợu xuân của Nguyễn Bính gắn với nỗi buồn
thƣơng xót xa. Nỗi buồn ấy thƣờng gắn với thân phận giang hồ trôi dạt, cảm thấy
cô đơn buồn tủi nhiều hơn khi xuân đến: Chị ơi Tết đến em mua rượu/Em uống
cho say đến não nùng/Uống say cười vỡ ba gian gác/Ném cái chung tình xuống
đáy sông(Xuân tha hƣơng), Vẫn ăn cái Tết ngoài thiên hạ/Son sắt say hoài rượu
viễn phương(Xuân vẫn tha hƣơng), Xuân đến khắp trời hoa rượu nở/Mà ta với
người buồn vậy thay/Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu(Hành phƣơng Nam), Rượu
chẳng say cho đèn cũng lụi/Ngày mai xuân nở khắp giang san (Tết biên thùy).
Đặc biệt, Tết và khoảnh khắc giao thừa (đêm ba mƣơi) trở đi trở lại trong
nhiều bài thơ, câu thơ của Nguyễn Bính nhƣ một sự khắc khoải, day dứt. Bởi lẽ
những khoảng thời gian đó đúng ra phải dành cho sự sum họp đoàn tụ thì đối với
Nguyễn Bính, thi sĩ luôn ở trong một sự lênh đênh trôi dạt tha phƣơng, hơn thế
nữa là lênh đênh trôi dạt trong cảnh nghèo khó, cô đơn, thiếu vắng tình ngƣời.
Thiếu nữ có lẽ là hình ảnh gợi nhiều cảm giác tƣơi vui hơn cả trong những
bài thơ xuân của Nguyễn Bính. Ngƣời thiếu nữ trong mùa xuân luôn rạo rực đầy
sức sống, gắn liền với tình yêu, tuổi trẻ và nhƣng mơ mộng lạc quan: Đã thấy
xuân về với gió đông/Với trên màu má gái chưa chồng/Bên hiên hàng xóm cô
hàng xómNgước mắt nhìn trời đôi mắt trong (Xuân về), Xuân đến hoa mơ hoa
mận nở/Gái xuân giũ lụa trên sông Vân/Lòng xuân lơ đãng má xuân hồng/Cô
gái xuân mơ chuyện vợ chồng (Gái xuân), Cỏ nằm trên mộ đợi thanh minh/Tôi
đợi người yêu đến tự tình/Khỏi lũy tre làng tôi nhận thấy/Bắt đầu là cái thắt lưng

99
xanh (Mùa xuân xanh), Lòng thấy giăng tơ một mối tình/Em ngừng tay lại giữa
thoi xinh (Mƣa xuân), Tơ trắng vương trên mái tóc nàng/Đưa nàng sang trọn
bến đò ngang/Yêu đương sống lại con người ấy/Lại thấy đời tươi tựa nắng vàng
(Tơ trắng)
Một tín hiệu nữa không thể thiếu trong thơ xuân Nguyễn Bính là hoa
gạo/tơ gạo – một trong những loài hoa đặc trƣng của mùa xuân: Tơ gạo phương
xa tản mạn về/Nắng vào đồng lúa chín vàng hoe(Tơ trắng), Những hoa gạo rụng
tươi như máu/Nhàu nát như người lính tử thương(Hoa gạo), Hoa gạo tàn đi cho
sắc đỏ/Nhập vào sắc đỏ của hoa xoan (Cuối tháng ba), Nóng lòng cây gạo lìa
hoa đỏ/Trở búp tơ xanh đón gió hè (Tháng ba). Điểm đặc biệt ở đây là nhà thơ
thƣờng có cảm xúc mạnh với hoa gạo vào trong những khoảnh khắc tàn úa, lìa
cành. Đặc điểm này theo chúng tôi là phù hợp và thống nhất với cảm hứng buồn
thƣơng nhƣ một thứ mỹ học xuyên suốt thơ Nguyễn Bính.
Nếu nhƣ hoa gạo là là loài hoa đặc trƣng trong những bài thơ xuân của
Nguyễn Bính thì ở khu vực những bài thơ mùa hạ, hoa sen lại là loài hoa đƣợc
ƣu ái nổi trội nhất: Cả một mùa sen đang độ nở/Bốn mùa trơ lại một thân tôi
(Nàng Tú Uyên), Xa trên mặt nước mông mênh/Buông thuyền, cô gái nghiêng
mình hái sen(Bên hồ), Những buổi học về không có nón/Đội đầu chung một lá
sen tơ/Lá sen vương vấn hương sen ngát/Ấp ủ đôi ta chút nhụy hờ(Trƣờng
huyện)
Ở khu vực những bài thơ mùa thu, các tín hiệu từ vựng xuất hiện nhiều
nhất là: lá, gió, ngựa, sương, mưa, đƣợc tổng kết qua bảng dƣới đây:
Bảng 3.14: Các tín hiệu từ vựng đặc trƣng chỉ mùa thu trong thơ
Nguyễn Bính trƣớc 1945
Lá Gió Ngựa Sƣơng Mƣa
47 lần 31 lần 8 lần 8 lần 10 lần
Nhƣ vậy, trong các tín hiệu từ vựng thuộc nhóm mùa thu, lá là yếu tố từ
vựng đƣợc dành nhiều ƣu ái hơn cả. Hầu hết trong tất cả những lần xuất hiện của
lá ở các bài thơ mùa thu, chiếc lá đƣợc miêu tả trong một hiện thân của nó là sự
lìa cành, rơi rụng: Lá vội rơi theo gió vội vàng/(Quán lạnh), Lá úa dần mòn rơi

100
rụng hết(Đôi nhạn), Gió đưa xác lá về đường/…Cúc bao lần nở, lá vàng bao
rơi?/…Lá rơi lả tả trên đầu như mưa(Dòng dƣ lệ), Sáng nay vô số lá vàng rơi
(Viếng hồn trinh nữ), Lá rụng hoa buồn không nở nữa (Bƣớm đi tu), Sư
già quét lá sau chùa(Chùa vắng). Và ngay cả khi lá còn ở trên cành thì cũng báo
hiệu một sự tàn úa, cô đơn cùng dự cảm chia lìa: Thu đi trên những cành
bàng/Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi(Cây bàng cuối thu).
Còn ở những bài thơ mùa đông, tín hiệu từ vựng nổi bật nhất là “may áo”,
“đan áo”: Mơ có vài năm đã vội tàn/Có nàng đan mãi áo len đan(Vẩn vơ), Năm
xưa chị chửa lấy chồng/Chị đan tấm áo len hồng cho tôi/Năm nay chị lấy chồng
rồi/Mỗi kỳ gió lạnh không người đan len(Gió lạnh), Cô Thơ gái đẹp nhất
làng/Nghe trời đổ gió may quàng áo bông(Trở rét), Mưa phùn gió bấc cố nhân
ơi/Áo rét nàng đan lỡ hẹn rồi(Mùa đông gửi cố nhân), Đến mùa gió bấc sang
năm/Bao nhiêu lụa, bấy nhiêu làm áo anh (Áo anh), Hẹn cho một hẹn anh
chờ/Em may áo nái bao giờ cho xong (Đợi áo)
Qua tín hiệu này có thể thấy, tâm hồn thi nhân luôn cháy bỏng một khát
khao đƣợc giao cảm, đƣợc chia sẻ. Cái lạnh giá của thời tiết chỉ là một phần, cái
lạnh giá trong tâm hồn mới là thứ cần đƣợc sƣởi ấm nhất bằng đôi bàn tay đan
áo, bằng tình cảm của một ngƣời phụ nữ, bất luận ngƣời nào, dù là chị, là em gái
hay một ngƣời tình xa xôi…
Tóm lại trong bốn mùa xuân hạ thu đông, có thể thấy mùa xuân là khoảng
thời gian đƣợc Nguyễn Bính dành nhiều ƣu ái nhất, nặng tình nhất. Các bài thơ
về mùa xuân không chỉ áp đảo về mặt số lƣợng mà nó còn là những bài thơ, câu
thơ hiếm hoi gợi chút không khí vui tƣơi, lạc quan, ấm áp trong thơ Nguyễn
Bính, khác hẳn không khí chung của đại đa số các thi phẩm thƣởng gợi không
khí buồn thƣơng.
3.2.3. Các biểu hiện khác của thời gian
3.2.3.1. Thời gian sự kiện
Ngoài việc định danh thời gian bằng các đơn vị nhƣ đã trình bày ở phía
trên, chúng tôi còn nhận thấy Nguyễn Bính có một cách định danh thời gian rất
đặc biệt theo cách gắn với một sự kiện qua các cấu trúc: hồi + X, kỳ + X, lúc +

101
X, khi + X và nhiều hơn cả là cấu trúc Từ + X:Chị từ lỡ bước sang ngang/…Chị
từ dan díu với tình(Lỡ bƣớc sang ngang), Từ buổi nhìn qua song cửa sổ (Nhặt
nắng),Từ dạo mồng tơi thôi trổ lá(Vƣờn hoang), Không! Từ ân ái nhỡ nhàng
(Ngƣời hàng xóm), Từ ngày cô đi lấy chồng(Qua nhà), Từ buổi lầu hoa khép
cánh sương (Khép cánh sƣơng), Từ độ về đây sống rất nghèo (Từ độ về đây).
Nhƣ vậy, cái ám ảnh về mặt thời gian đối với ngƣời nghệ sĩ trong những
trƣờng hợp này không phải là những cảm giác về mặt sáng/tối, ấm/lạnh hay
những tín hiệu thẩm mỹ có sức biểu cảm cao mà cái ám ảnh về mặt thời gian ở
đây chính là CÁI SỰ KIỆN đƣợc đánh dấu, mang tính thời điểm – bƣớc ngoặt và
trở thành một dấu mốc khó phai mờ trong thế giới tâm trạng – cảm xúc của chủ
thể trữ tình.
Nếu nhìn rộng ra toàn bộ các sáng tác của Nguyễn Bính trƣớc 1945, ta sẽ
thấy có rất nhiều bài thơ đƣợc tạo dựng với kết cấu – cấu trúc của một câu
chuyện với nhiều tình tiết, sự kiện, nhiều khoảng thời gian khác nhau trong ngày
đƣợc miêu tả, tái hiện. Và những câu chuyện chủ yếu đƣợc kể dựa theo trục thời
gian tuyến tính. Chúng tôi cho rằng cách kể chuyện theo trật tự tuyến tính thời
gian cũng là một đặc điểm quan trọng nữa khiến thơ Nguyễn Bính có sự gần gũi
với ca dao. Các bài thơ điển hình nhất theo mô hình cấu trúc câu chuyện gồm:
Lỡ bước sang ngang, Viếng hồn trinh nữ, Qua nhà, Mưa xuân, Hoa với rượu,
Thời trước, Nuôi bướm, Giấc mơ anh lái đò. Trong những bài thơ nhƣ kể trên,
nhiều khoảng thời gian khác nhau trong ngày đều xuất hiện, các hằng số biểu
hiện thời gian tƣơng phản nhau cũng có khả năng cùng xuất hiện. Chẳng hạn ở
bài Viếng hồn trinh nữ, có sự tồn tại của cả ba thời điểm trong ngày là sáng –
chiều – đêm: Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh/…Sáng nay vô số lá vàng
rơi/…Nàng đã qua đời để tối nay/Có chàng đi hứng gió heo may.
Hoa với rƣợu là bài thơ dài nhất của Nguyễn Bính viết trƣớc 1945, bài thơ
là một sự kết nối vừa liền mạch vừa đứt quãng của rất nhiều sự việc, sự kiện, đan
xen giữa hiện tại và quá khứ, sự thực và tƣởng tƣợng, mộng ảo. Đây cũng là bài
thơ có nhiều nhân vật nhất: tôi, Nhi, mẹ tôi, chị Nhi, chồng chị Nhi. Vì thế, có
thể xem đây là bài thơ vô cùng phong phú về biểu đạt thời gian nghệ thuật: Thấy

102
rét u tôi bọc lại mền…Một tối nhà Nhi có giỗ thầy…Bất đồ ngủ đến sáng ngày
mai…Ba bốn năm rồi năm sáu năm…Ngày xưa còn bé Nhi còn đẹp…Huống nữa
giờ Nhi đã đến thì…Một buổi chiều nào lạnh gió mưa…Trăng vàng đầy ngõ gió
mênh mông…Chiều chiều hai đứa sang thăm chị…Chiều nay tôi chắp tay tôi lạy.
Motip bài thơ gắn với câu chuyện cho ta sƣ biểu hiện về thời gian hồi
tƣởng. Ngƣời kể chuyện đứng từ điểm nhìn của hiện tại để nói về quá khứ: Bữa
ấy mưa xuân phơi phới bay(Mƣa xuân), Sáng trăng chia nửa vườn chè/Một gian
nhà nhỏ đi về có nhau(Thời trƣớc), Cái ngày cô chưa lấy chồng/Đường gần tôi
cứ đi vòng cho xa(Qua nhà), Từ ngày cô chửa thành hôn/Từ ngày anh khóa hãy
còn hàn vi(Quan Trạng)
Ở nhóm những bài thơ kể trên, những yếu tố mới mẻ trong việc biểu hiện
thời gian cũng đã đôi chỗ xuất hiện khi nhà thơ phá vỡ trật tự tuyến tính muôn
thuở, đem cái xảy ra sau nói trƣớc và cái xảy ra trƣớc nói sau. Điển hình là trong
ba khổ thơ đầu bài Viếng hồn trinh nữ, khoảng thời gian buổi chiều xuất hiện
trƣớc thời gian buổi sáng: Chiều về chầm chậm trong hiu quạnh/Tơ liễu theo
nhau chảy xuống hồ…/Sáng nay vô số lá vàng rơi/Người gái trinh kia đã chết
rồi…
3.2.3.2. Thời gian giả định
Thời gian giả định là khoảng thời gian không xảy ra hoặc chƣa xảy ra
trong hiện thực nhƣng vẫn đƣợc tác giả đặt ra một cách giả định, nhằm nhấn
mạnh một nét cảm xúc tâm trạng nào đó. Trong 272 bài thơ của Nguyễn Bính
trƣớc 1945, có 15 bài thể hiện kiểu thời gian giả định nói trên, gắn với những sắc
thái tình cảm khác nhau ở mỗi trƣờng hợp. Có khi thời gian giả định gắn với một
sự hy vọng: Bao giờ…vui hỉ! Về ăn cưới/Chắc chả như khi chị lấy chồng(Khăn
hồng), Rồi một, hai, ba năm/Danh thành anh trở lại (Hôn nhau lần cuối). Có
khi thời gian giả định gắn với một sự dự đoán: Liệu tôi không sống đến ngày
mai/…Trước khi nhắm mắt tôi thừa biết/Đời nó sau này hẳn đắng cay(Trối
trăng), Chiều mai em có nhớ anh thì/Đừng nên buồn bã khóc than chi(Một ngƣời
phóng đãng). Có khi thời gian giả định gắn với một kế hoạch hay một dự định:
Em trồng được một cây lê/Hẹn bốn năm nữa thì về nhặt hoa/…Sáng mai có lẽ

103
em xuôi/Nếu không đãng trí và trời không mưa(Thƣ cho chị), Sang năm ra ở
riêng rồi/Vợ tôi dệt lụa, tôi ngồi làm thơ(Nhà cô thôn nữ). Có khi thời gian giả
định gắn với tâm trạng u buồn thất vọng hoặc mơ hồ vô định: Có lẽ ngày mai đò
ngược sớm/Thôi nàng ở lại để…quên tôi(Thôi nàng ở lại), Sáng mai xuôi ngược
về đâu nhỉ?/Nào biết về đâu kẻ ngược xuôi!(Ngƣợc xuôi). Thời gian giả định
cũng có khi gắn với tâm trạng đợi chờ, kêu gọi, khuyến khích: Sao chẳng về đây
bắt bướm vàng/Nhốt vào tay áo đợi xuân sang/Thả ra cho bướm xem hoa nở(Sao
chẳng về đây)
Các khoảng thời gian giả định trong thơ Nguyễn Bính hầu hết đều thuộc
về tƣơng lai nhƣng cũng có những trƣờng hợp đặc biệt, thời gian giả định lại
thuộc về quá khứ: Chắc hẳn những đêm như đêm qua/Nàng còn xây mộng giữa
chăn hoa/…Chắc hẳn những đêm như đêm kia/Nửa đêm lành lạnh gió thu
về(Viếng hồn trinh nữ).
Trong một trƣờng hợp khác, thời gian giả định bao phủ toàn bộ bài thơ
bởi cấu trúc nghệ thuật đặc biệt của thi phẩm. Bút pháp ngoa ngôn cƣờng điệu đã
dẫn tới mọi hành động, thời gian, không gian trong tác phẩm đều mang tính giả
định: Cô nhân tình bé của tôi ơi/Tôi muốn môi cô chỉ mỉm cười/Những lúc có tôi
và mắt chỉ/Nhìn tôi những lúc tôi xa xôi/Tôi muốn cô đừng nghĩ đến ai/Đừng
hôn dù thấy đóa hoa tươi/Đừng ôm gối chiếc đêm nay ngủ/Đừng tắm chiều nay
biển lắm người…Tôi muốn những đêm đông giá lạnh/Chiêm bao đừng lẩn khuất
bên cô/Bằng không, tôi muốn cô đừng gặp/Một trẻ trai nào trong giấc mơ
(Ghen)
Có một sự gần gũi giữa thời gian giả định và thời gian thuộc tƣơng lai gần
trong những bài thơ của Nguyễn Bính. Chúng giống nhau ở chỗ cùng hƣớng về
những điều chƣa xảy ra trong hiện thực nhƣng có thể xảy ra trong tƣơng lai.
Chúng khác nhau ở chỗ đối với thời gian tƣơng lai gần, sự kiện đó chắc chắn
diễn ra theo một logic khách quan còn đối với thời gian giả định, sự kiện đó hoàn
toàn phụ thuộc vào cảm xúc, đánh giá chủ quan của ngƣời nói. Ta thử so sánh
hai loại hình thời gian này bằng hai ví dụ:
Thời gian giả định:

104
Sáng mai xuôi ngược về đâu nhỉ
Nào biết về đâu kẻ ngược xuôi
(Ngƣợc xuôi)
Thời gian tƣơng lai gần:
Cao tay nâng chén rượu hồng
Mừng em em sắp lấy chồng xuân nay
(Rƣợu xuân)
Ở câu thơ thuộc thời gian giả định trong bài Ngược xuôi, sự kiện trong
khoảng thời gian này đƣợc phân tích theo hƣớng: chắc chắn có sự di chuyển
nƣng chƣa rõ cụ thể sẽ nhƣ thế nào. Còn ở câu thơ thuộc thời gian tƣơng lai gần
trong bài Rƣợu xuân, sự kiện “em lấy chồng” tuy chƣa diễn ra trong thời điểm
hiện tại nhƣng chắc chắn nó sẽ diễn ra trong “xuân nay”, đấy là điều không thể
thay đổi.
3.2.3.3. Thời gian ước lệ
Ngoài những cách thể hiện về thời gian nhƣ trên đã trình bày, Nguyễn
Bính cũng sử dụng các biểu thức mang nặng tính ƣớc lệ (25 biểu thức khi nói về
thời gian. Các biểu thức này có thể là những từ ngữ mang tính ƣớc lệ cao nhƣ:
trăm năm, nghìn thu, ngàn thu, muôn vạn kiếp, có thể là những ẩn dụ đã trở
thành quen thuộc nhƣ: thời xuân, buổi xế chiều, mùa xuân trong lòng, chưa xế
sang chiều, xuân hãy còn dài, chết cả mùa xuân, xuân xanh, tuổi xuân, những
ngày xuân qua, có thể là những cụm từ bốn âm tiết mang dáng dấp của những
thành ngữ nhƣ: sầu sớm thương chiều, thâu ngày thâu đêm, mưa chiều nắng
sớm, ngày nắng đêm sương, sương chiều gió sớm, thương đêm nhớ ngày, nay
sớm mai chiều. Sau đây là một số ví dụ ở mỗi loại. Nhóm 1: Nhưng hồn nàng
tựa con thuyền bé/Đã đắm nghìn thu ở suối vàng(Viếng hồn trinh nữ), Trăm
năm đầu bạc duyên còn thắm/Tôi có ngờ đâu đến thế đâu(Trối trăng), Đuổi cả
mối sầu muôn vạn kiếp/Bẽ bàng tất cả những màu tươi(Bao nhiêu đau khổ của
trần gian, trời đã dành riêng để tặng nàng). Nhóm 2: Mà nay lại khóc thêm lần
nữa/Nước mắt còn đâu buổi xế chiều(Viếng hồn trinh nữ), Uống đi…! Em uống
cho say!/Để trong mơ sống những ngày xuân qua(Rƣợu xuân), Chết dần tầng

105
nấc rồi mai mốt/Chết cả mùa xuân, chết cả đời? (Sao chẳng về đây). Nhóm
3: Mưa chiều nắng sớm người ta bảo/Cả đến ông trời cũng đổi thay(Trời mƣa ở
Huế), Sương chiều gió sớm bao đơn chiếc/Bướm lại ong qua mấy ngậm
ngùi(Oan nghiệt), Thiếp đi từ độ hoa sen nở/Ngày nắng đêm sương cúc lại tàn
(Tạ từ)
Những diễn đạt mang tính ƣớc lệ nhìn chung sẽ dễ tạo ra sự mòn sáo và
không còn mấy phù hợp với thi ca hiện đại. Nhƣng với một số lƣợng vừa phải
nhƣ những gì Nguyễn Bính đã trình bày, chúng tôi lại cho rằng đây là một thứ
“gia vị” góp phần mang lại cho thơ Nguyễn Bính phong cách cổ điển, gần gũi
với lời ăn tiếng nói của đông đảo quần chúng nhân dân, đƣợc độc giả của mọi
lứa tuổi, trình độ dễ dàng tri nhận, nắm bắt, thấu hiều.

3.3. Một số tín hiệu thẩm mỹ đặc sắc trong thơ Nguyễn Bính
Trong quá trình khảo sát và thống kê tƣ liệu, chúng tôi nhận thấy các sáng
tác của Nguyễn Bính giai đoạn trƣớc 1945 có thể quy về 3 chủ đề chính: những
bài thơ về nông thôn và mối quan hệ nông thôn – thành thị, những bài thơ tình
yêu và những bài thơ giang hồ phiêu lãng. Trong 3 khu vực sáng tác này, ở
những bài thơ về nông thôn và mối quan hệ nông thôn thành thị nổi lên tín hiệu
“vƣờn” – tín hiệu đƣợc trở đi trở lại một cách dày đặc trong các tác phẩm. Ở khu
vực những bài thơ tình nổi lên tín hiệu thẩm mĩ “bƣớm” còn ở khu vực những
bài thơ giang hồ phiêu lãng nổi lên tín hiệu thẩm mĩ “rƣợu”. Chúng tôi xem 3 tín
hiệu này nhƣ những từ hạt nhân trong thơ Nguyễn Bính trƣớc Cách mạng, 3 tín
hiệu này sẽ có vai trò nhƣ những từ chìa khoá (key words) để đi vào giải mã thế
giới nghệ thuật thơ Nguyễn Bính, đồng thời cũng cho ta thấy vẻ đẹp tài hoa của
một bậc thày về nghệ thuật ngôn từ.
3.3.1. Tín hiệu thẩm mĩ “vườn”
Trong 272 bài thơ trƣớc Cách mạng của Nguyễn Bính đã đƣợc chúng tôi
khảo sát và thống kê, tín hiệu “vƣờn” xuất hiện tất cả 81 lần trong 35 bài thơ, tức
là cứ đọc trung bình khoảng 3,3 bài thơ của Nguyễn Bính, ta lại một lần bắt gặp
tín hiệu “vƣờn”. 81 lần xuất hiện khác nhau của “vƣờn” có thể đƣợc tổng kết và
đƣa về 4 loại cơ bản nhƣ sau:

106
Nhóm 1 là những trƣờng hợp loại đi trƣớc chủng đi sau, bao gồm: vườn
hoa, vườn cải, vườn chè, vườn dâu, vườn cam, vườn đào, vườn cúc, vườn lê,
vườn hồng, vườn mía, vườn mai, vườn cây. Trong nhóm này, vƣờn dâu có tần số
cao nhất, xuất hiện trong 4 bài thơ: Cậy em em ở lại nhà/Vườn dâu em đốn mẹ
già em thương (Lỡ bƣớc sang ngang), Nhà tôi có một vườn dâu/Có giàn đỗ ván
có ao cấy cần (Nhầm), Đem thân về ở vườn dâu cũ/Buồn cũng như khi chị lấy
chồng (Khăn hồng), Sao em đơn chiếc thế này?/Sao em lại khóc như ngày chị
đi…?/Ở đây còn có vui gì!/Vườn dâu xa vắng lối về chị xa (Thƣ cho chị). Tiếp
đến là “vƣờn cam” và “vƣờn hồng” xuất hiện trong hai bài thơ: Bỏ lại vườn cam
bỏ mái gianh/Tôi đi dan díu với kinh thành (Hoa với rƣợu), Mưa cứ dằng dai thì
đến sáng/Vườn cam lại rụng ít hoa cam (Mƣa), Thuyền thơ cập bến thơ rồi/Rước
con bướm trắng sang chơi vườn hồng(Đám cƣới bƣớm), Vườn hồng cài nửa then
trinh/Tóc tơ nửa mối chung tình nửa đêm(Lòng kỹ nữ).
Các trƣờng hợp còn lại mỗi loại xuất hiện trong một bài thơ, có khi xuất
hiện một lần trong bài, có khi xuất hiện nhiều lần trong bài: Đời em là một vườn
hoa nở/Bướm hẹn về rồi bướm nói điêu(Bƣớm nói điêu), Hôm nay vườn cải hoa
tàn hết/Em hỡi từ nay hết bướm vàng(Hết bƣớm vàng), Sáng trăng chia nửa
vườn chè/Một gian nhà nhỏ đi về có nhau(Thời trƣớc), Tôi say mơ thấy trăm
vườn cúc/Một sớm mùa thu nở cánh vàng(Cho tôi ly nữa).
Nhóm 2 là những trƣờng hợp “vƣờn” kết hợp với một tính từ đi sau bổ
nghĩa cho danh từ đi trƣớc, bao gồm: vườn xác xơ, vườn hoang, vườn cũ, vườn
vắng, vườn khuya:Ở nhà em nhớ mẹ thương/Ba gian trống một mảnh vườn xác
xơ (Lỡ bƣớc sang ngang), Một thửa vườn hoang bên cạnh am/Xương rồng, bãi
cỏ lẫn rau sam/Vườn này ngày nhỏ anh còn nhớ/Đã nhảy qua tường trảy trộm
cam(Vƣờn xƣa), Xa rồi vườn cũ hoa cam rụng/Gặp lại nhau chi muộn mất rồi
(Hoa với rƣợu), Một bông cúc nở trong vườn vắng(Đôi nhạn), Vườn khuya
sương lạnh vô vàn/Lẻ loi, một mảnh trăng tàn về đâu?(Xin chớ hải đƣờng)
Nhóm 3 là những trƣờng hợp “vƣờn” đi với một danh từ, cụm danh từ
hoặc đại từ ở phía sau, bao gồm: vườn trần, vườn xuân, vườn Thượng uyển, vườn
ai, vườn nhà, vườn đất, vườn ngự, vườn Ngự uyển, vườn tiên, vườn Thanh, vườn

107
tôi, vườn này, vườn Nam, vườn chiều:Rượu ái tình kia thành thuốc độc/Vườn
trần theo bướm phấn hương bay(Hoa với rƣợu), Vườn xuân trắng xoá hoa cam
rụng/Tôi với em Nhi kết vợ chồng(Hoa với rƣợu), Có phải ngày xưa vườn Ngự
uyển/Là đây hoa cỏ giống vườn tiên (Xóm Ngự viên), Thiếp về Ải Bắc giăng đơn
chiếc/Chàng ở vườn Nam gió bạt ngàn(Tạ từ), Trọ bao nhiêu quán bên
đường/Nhưng không lần nữa qua vườn Thanh xưa (Dòng dƣ lệ)
Nhóm 4 là những trƣờng hợp “vƣờn” hoạt động một cách tƣơng đối độc
lập. Có thể ghi nhận các mô hình ở khu vực này nhƣ: động từ + vƣờn (ra vườn,
có vườn), tính từ + vƣờn (ngập vườn, đầy vườn), giới từ + vƣờn (trong vườn),
danh từ + vƣờn (cây vườn) hoặc các trƣờng hợp “vƣờn” hoạt động tự do khác:
Nhà Nhi thuê có vườn không nhỉ?/Vườn có giồng cam có nở hoa (Hoa với
rƣợu),Vườn đầy hoa trắng như em ấy/Bỗng một bà tiên hiển hiện ra (Truyện cổ
tích), Em sang bắt bướm vườn anh mãi/Quên cả làng Ngang động trống chèo
(Hết bƣớm vàng)
Có thể nói, vƣờn trong thơ Nguyễn Bính nhƣ một thực thể có tính đại diện
nhất của không gian nông thôn, không gian làng quê. Nhà thơ xuất thân từ nông
thôn, ra đi cũng từ nông thôn, vƣờn vì thế vừa là hiện tại, vừa là quá khứ, vừa là
điểm ra đi, vừa là chốn khát khao trở về. Tất cả những ký ức của thi nhân đều
không tách rời khỏi vƣờn. Vƣờn gắn với tất cả những ngƣời yêu thƣơng trong
cuộc đời tác giả: ngƣời mẹ, ngƣời chị, ngƣời bạn gái thuở thiếu thời, những
ngƣời yêu đã đi qua trong cuộc đời. Và khi phải đặt mình trong mối quan hệ
giằng xé, hút đẩy giữa nông thôn – thành thị thì vƣờn luôn là không gian đầy ám
ảnh, đầy day dứt nhƣ một tiếng vọng luôn réo gọi con ngƣời. Thế nhƣng, vấn đề
đƣợc đặt ra ở đây là tại sao biểu tƣợng “vƣờn” lại đƣợc ƣu ái nhƣ vậy và tác giả
liệu muốn gửi gắm điều gì sâu xa dƣới biểu tƣợng “vƣờn” ấy.
Nhƣ ta đã biết, thơ Nguyễn Bính là một đại diện của tiếng nói nông thôn
mà vườn - ruộng là những không gian sản xuất điển hình đặc trƣng của nông
thôn, nơi gắn bó sâu sắc với đời sống con ngƣời. Nhƣng tại sao lại là vườn mà
không phải là ruộng? Đứng ở góc độ thuần ngôn ngữ và mẫn cảm thi ca, dễ thấy
từ vườn mang thanh huyền (thuộc nhóm thanh bằng) dễ gợi thi hứng và dễ xử lí

108
về mặt ngữ âm (hài thanh, gieo vần) hơn từ ruộng mang thanh nặng (thuộc nhóm
thanh trắc). Nhƣng cái chính vẫn là nguyên nhân tƣ duy – văn hoá sâu xa nằm ở
bên trong.
Ai cũng biết ẩn sâu trong cõi tâm linh của ngƣời Việt, hiện lên hình ảnh
một dân tộc mang căn tính nông dân. Trƣớc khi làm ruộng, tộc ngƣời này đã
từng làm rẫy, làm nƣơng. Khi họ tiến xuống chinh phục đồng bằng để làm lúa
nƣớc, ruộng trở thành không gian sản xuất chính, thì nƣơng rẫy lùi lại phía sau,
mang chức năng hoài niệm tín ngƣỡng và đƣợc bảo lƣu trong biến thể của nó là
vườn. Ruộng vƣờn đi đôi với nông tang. Dễ thấy trong các biến thể vƣờn của thơ
Nguyễn Bính thì vườn dâu có số lần xuất hiện cao nhất. Nhiều nhân vật nữ trong
các bài thơ cũng hiện lên là những cô gái lao động chuyên nghề trồng dâu nuôi
tằm (Đàn tôi, Thời trước, Nhầm, Áo anh). Nhƣ vậy, theo nguyên tắc của đời
sống tâm linh, cái gì cổ sơ hơn thì thiêng liêng hơn. Mảnh vườn, nương dâu,
Chức Nữ đƣơng nhiên sẽ gần kề cội nguồn hơn thửa ruộng, Ngưu Lang. Với
biểu tƣợng của nông thôn là vườn, thi nhân chẳng những đã quay về với nguồn
cội nhƣ một nhu cầu giải thoát và bù đắp mà còn lồng đƣợc dân gian vào dân
tộc, tạo ra hình ảnh một chân quê, tinh hoa chân truyền của nền văn minh thôn
dã. Tóm lại, vƣờn là một biểu tƣợng mà ẩn chứa sau nó không chỉ một tình yêu
da diết với làng quê mà còn có cả một tình cảm dân tộc kín đáo trong cảnh nƣớc
nhà đang bị nô lệ. Cũng từ biểu tƣợng vƣờn, kéo theo một loạt các vấn đề mang
tính trọng điểm trong thơ Nguyễn Bính, chẳng hạn mối giăng mắc giữa hai bờ
nông thôn và thành thị, nông thôn Việt Nam có giữ đƣợc bản sắc của mình trƣớc
cuộc xâm lăng của văn minh đô thị hay không? Đó là những câu hỏi nhức nhối
mà Nguyễn Bính đã đặt ra cho chúng ta cách đây hơn 70 năm mà cho đến lúc
này vẫn còn nguyên giá trị.
3.3.2. Tín hiệu thẩm mỹ “bướm”
Trong 272 bài thơ trƣớc Cách mạng của Nguyễn Bính đã đƣợc chúng tôi
khảo sát và thống kê, tín hiệu “bƣớm” xuất hiện tất cả 75 lần trong 37 bài thơ,
tức là cứ đọc trung bình 3,6 bài thơ của Nguyễn Bính, ta lại bắt gặp một lần tín
hiệu “bƣớm” xuất hiện.

109
Nếu nhƣ “vƣờn” là thực thể có tính chất “tĩnh” thì “bƣớm” là thực thể có
tính chất “động” nhƣ một sự song hành tất yếu cùng “vƣờn”. Nhà thơ dùng 3
cách khác nhau để gọi tên cho “bƣớm” là: bướm, bươm bướm, điệp. Về định
danh theo màu sắc có hai loại bƣớm cơ bản là bướm vàng (10 lần xuất hiện) và
bướm trắng (cũng 10 lần xuất hiện).
Về định danh theo tính chất, có các loại bƣớm nhƣ: bướm xưa, bướm yêu,
bướm lười, bướm xuân xanh, bướm già, bướm láng giềng, bướm giang hồ, bướm
tiên, bướm non, bướm dại.
Tiếp theo là những lần “bƣớm” xuất hiện sau động từ với tƣ cách là đối
thể chịu tác động hoặc cùng hoạt động, bao gồm: nuôi bướm, bắt bướm, nhập
vào bướm, yêu dấu bướm, rước bướm, đón rước bướm, rắc bướm lên hoa, vườn
trần theo bướm, thấy bướm, mơ đuổi bướm, chim nhắc bướm, bùa mê bướm.
Bƣớm cũng một lần xuất hiện sau động từ tồn tại: Có hai chị bướm đi chơi chợ
(Bƣớm đi chợ)
Trong những kết hợp danh từ + bƣớm, chúng tôi thấy có sự góp mặt của
giấc bướm, lời bướm và chuyện bướm ong.Trong đó, chuyện bướm ong không
phải là cách dùng mới song giấc bƣớm và lời bƣớm đích thực là những sáng tạo
của Nguyễn Bính: Giấc bướm ngại sang đò bến lạnh (Mùa đông nhớ cố nhân),
Gió chuyền lời bướm xuống nhân gian(Bao nhiêu đau khổ của trần gian, trời đã
dành riêng dể tặng nàng).
Cuối cùng là những trƣờng hợp bƣớm xuất hiện với tƣ cách của chủ thể
hành động. Cánh bƣớm ở đây thêm một lần nữa đƣợc hiện lên với các sắc màu
vô cùng sinh động, thể hiện sự nhân cách hoá cao độ của nhà thơ trong việc tri
nhận bƣớm với những hành động và cảm xúc của con ngƣời: lũ bướm tưởng
hoa, bướm lại sang, bướm khép cánh, bướm hãy vào đây, bướm quả quyết yêu
hoa, bướm vẽ vòng, bướm hẹn về, bướm nói điêu, bướm lại ong qua, bướm cánh
nghiêng nghiêng, bướm vờn hoa, bướm rũ trăm năm, bướm tha phương, bướm
cưới hoa hồng, bướm có bằng lòng, bướm dậy thì, bướm đi tu, bướm chê hoa
vàng, bướm chẳng chung tình, bướm dạy nàng thêu, bướm lại đưa tin, bướm ra
công vẽ bùa, bướm ủ hoa…

110
Ngoài ra, nhà thơ còn có những tƣởng tƣợng kỳ ảo về thế giới của loài
bƣớm để dựng nên một nước bướm, cũng còn gọi là một xứ bướm: Bao nhiêu xứ
bướm qua lầu/Nàng toan gieo quả kim cầu cho ai? (Lạy giời cấm cửa rừng mai)
Nước bướm của Nguyễn Bính dựng lên có Vua, có quan Thám hoa, có
việc tổ chức khoa thi nên có những danh xƣng nhƣ: Điệp lang khoa, vua nước
bướm:Em ạ ngày xưa vua nước bướm/Kén nhân tài mở Điệp lang khoa/Vua
không lấy Trạng vua thề thế/Con bướm vàng tuyền đậu thám hoa(Truyện cổ
tích)
Cánh bƣớm vốn là một sự vật rất tự nhiên, đời thƣờng, dễ dàng bắt gặp ở
nông thôn Việt Nam và đƣợc tri nhận nhƣ một nét đặc thù của làng quê, thậm chí
của mỗi tuổi thơ chăn trâu bắt bƣớm: Những ngày trốn học/Đuổi bướm cầu
ao/Mẹ bắt được/Chưa đánh roi nào đã khóc (Quê hƣơng – Giang Nam)
Thế nhƣng, khi cánh bƣớm đi vào thơ Nguyễn Bính, nó đã đƣợc thổi thêm
biết bao hồn vía để diễn tả vô vàn các sắc thái, cung bậc, tâm trạng, những đan
xen giữa thực và mộng ảo, những hạnh phúc đợi chờ và mong nhớ nuối tiếc xót
xa. Cánh bƣớm đã diễn tả muôn vàn khát khao của tâm hồn thi nhân, đƣợc phát
triển và mở rộng biên độ ngữ nghĩa từ nghĩa đen cho đến những ý nghĩa ẩn dụ.
Đầu tiên, cánh bƣớm trong thơ Nguyễn Bính hiện lên nhƣ một vẻ đẹp của
tự nhiên, của làng quê: Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng/Ngào ngạt hương bay
bướm vẽ vòng(Xuân về), Mặt hồ vua đúc khối tiền sen/Bươm bướm đông như
đám rước đèn(Cuối tháng ba), Qua dậu tầm xuân thấy bướm nhiều/Bướm vàng
vàng quá bướm yêu yêu/Em sang bắt bướm vườn anh mãi/Quên cả làng Ngang
động trống chèo(Hết bƣớm vàng). Con bƣớm gắn với những kỷ niệm ấu thơ của
tác giả: Lá sen vương vấn hương sen ngát/Ấp ủ đôi ta chút nhụy hờ/Lũ bướm
tưởng hoa cài mái tóc/Theo về tận cửa mới tan mơ (Trƣờng huyện)
Con bƣớm có thể là nhịp cầu, là phƣơng tiện để nhà thơ gửi gắm những
tình cảm của mình dành cho một ngƣời: Đường sang xứ ấy nhiều hoa lắm/Nhi
bắt cho tôi chiếc bướm vàng Nuôi bƣớm), Bướm ơi! bướm hãy vào đây/Cho tôi
hỏi nhỏ câu này chút thôi (Ngƣời hàng xóm)

111
Đến những biểu hiện về mặt ẩn dụ, con bƣớm trƣớc hết là biểu tƣợng cho
ngƣời con gái: Chị bây giờ nói thế nào/Bướm tiên khi đã lọt vào vườn hoang (Lỡ
bƣớc sang ngang), Cành dâu cao lá dâu cao/Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt
em/Anh đi đèn sách mười niên/Biết rằng bóng bướm có lên kinh thành( Bóng
bƣớm).
Theo một logic hình tƣợng và mẫn cảm ngôn ngữ của tiếng Việt, có thể
thấy việc dùng hình ảnh bƣớm để biểu thị cho ngƣời phụ nữ là điều hết sức bình
thƣờng. Thế nhƣng, cái mới của Nguyễn Bính là dùng bƣớm để biểu thị cho
chính ngƣời đàn ông mà trƣớc hết là biểu thị cho chính mình: Bao giờ bến mới
gặp đò/Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau (Tƣơng tƣ), Thuở trước loài hoa
chửa biết cười/Vô tình con bướm trắng sang chơi/“Khác nào tôi đã sang chơi
đấy”/Rước bướm dừng chân. Hoa hé môi (Hƣơng cố nhân), Ai đem rắc bướm
lên hoa/Rắc bèo xuống giếng rắc ta vào nàng (Rắc bƣớm lên hoa)
Tiếp đến, bƣớm biểu thị cho đàn ông nói chung. Và trong mối quan hệ
bƣớm – hoa, hoa thƣờng chịu một kết cục chẳng ra gì hoặc hoa bị đánh giá là bội
bạc: Đời em là một vườn hoa nở/Bướm hẹn về rồi bướm nói điêu(Bƣớm nói
điêu), Ai dạy nàng yêu? Có phải là…/Nào ngờ hư đến thế là hoa/Hoa đi đón
rước bao nhiêu bướm/Từ bướm xuân xanh đến bướm già(Hƣơng cố nhân)
Khi con bƣớm đã không còn phân biệt về mặt biểu tƣợng là nam hay nữ
thì lúc đó, có một sự hoà hợp để con bƣớm trở thành biểu tƣợng cho tình yêu lứa
đôi. Tình yêu ấy có thể là một sự đơn phƣơng: Có ai điên dại như tôi nhỉ/Nuôi
bướm làm con để nhớ người(Nuôi bƣớm). Tình yêu ấy có thể là một ƣớc mơ,
khát khao hạnh phúc đã trôi qua tầm tay, không bao giờ có đƣợc: Đêm qua mơ
thấy hai con bướm/Khép cánh tình chung ở giữa trời(Hết bƣớm vàng). Tình yêu
ấy cũng có thể là một sự nuối tiếc và ân hận: Hồn trinh còn ở trần gian/Nhập
vào bướm trắng mà sang bên này(Ngƣời hàng xóm). Sau cùng, con bƣớm là
biểu tƣợng của những gì tàn phai, không lấy lại đƣợc: Rượu ái tình kia thành
thuốc độc/Vườn trần theo bướm phấn hương bay(Hoa với rƣợu), Lâu nay có một
người du khách/Gió bụi mang về xóm Ngự viên/Giậu đổ dây leo suồng sã
quá/Hoa tàn con bướm cánh nghiêng nghiêng (Xóm Ngự viên)

112
Trong một cảm quan truyền thống, Nguyễn Bính cũng dùng bƣớm cho
những ẩn dụ quen thuộc chỉ về chuyện quan hệ nam nữ nhƣ “chuyện bƣớm ong”,
hay “bƣớm lại ong qua”: Cố nhân chẳng biết làm sao ấy/Rặt những tin đồn
chuyện bướm ong(Xuân tha hƣơng), Bướm lại ong qua mấy ngậm ngùi (Oan
nghiệt)
Nhìn chung, cánh bƣớm trong thơ Nguyễn Bính luôn đƣợc đặt trong mối
quan hệ với tình yêu, trở thành biểu tƣợng của tình yêu và thể hiện một nhân
sinh quan về tình yêu. Trong hầu hết các lần xuất hiện, cánh bƣớm trong các thi
phẩm của Nguyễn Bính đều mang tính bi kịch. Nếu không phải là những thân
phận tàn tạ (Bướm tiên khi đã lọt vào vườn hoang, Hoa tàn con bướm cánh
nghiêng nghiêng) thì cũng là những tình yêu dở dang, thiếu vắng, không trọn
vẹn. Trong một hồi tƣởng về tình yêu thuở học trò, ta có một chuyện bướm
xưa(bài Trường huyện), trong nỗi nhớ quắt quay, ta có hành động nuôi bướm
làm con để nhớ người(bài Nuôi bướm), trong giấc mơ về một tình yêu, thi nhân
mơ thấy hai con bướm, khép cánh tình chung ở giữa trời, trong bi kịch của một
chuyện tình, nhà thơ lại nguyện cầu: Hồn trinh còn ở trần gian/Nhập vào bướm
trắng mà sang bên này. Ngay chính bản thân mình, Nguyễn Bính cũng tự cho là
một cánh bướm giang hồ (bài Tương tư). Và những cánh bƣớm cũng là sự gian
dối (bướm nói điêu), sự đổi thay (Vườn trần theo bướm phấn hương bay). Tóm
lại, trong thơ Nguyễn Bính, cánh bƣớm đồng nghĩa với sự mong manh, không
vĩnh viễn.
Không chỉ đối với Việt Nam mà trong tâm thức của các quốc gia thuộc
văn hoá phƣơng Đông, cánh bƣớm cũng là biểu tƣợng cho sự mong manh, sự
nhẹ dạ và sự không chung thủy. Kinh Bhagavad Gitâ của Ấn Độ viết: “Giống
nhƣ những con bƣớm vội vã lao vào cái chết trong ngọn lửa sáng chói, loài
ngƣời cũng chạy lao tới sự tiêu vong”. Trong văn hoá Nhật Bản, cánh bƣớm là
những vong linh phiêu lãng, chúng báo hiệu có ngƣời đến thăm hoặc có ngƣời
thân thuộc chết. Trong triết học Trung Hoa, hẳn chúng ta khôngthể quên chuyện
Trang Tử nằm mơ hoá bƣớm, lúc tỉnh dậy không biết mình là bƣớm hay bƣớm là
mình. Còn đối với Việt Nam, cánh bƣớm dễ liên tƣởng tới ngƣời phụ nữ với

113
xuân sắc chỉ có một thời: Bướm vàng đậu trái mù u/Lấy chồng càng sớm lời ru
càng buồn (Ca dao)
Tóm lại, giống nhƣ nhiều thi nhân khác của thời kỳ Thơ mới, Nguyễn
Bính tìm đến tình yêu nhƣ một cứu cánh nhƣng ngay từ đầu đã biết trƣớc đƣợc
về tƣơng lai của nó. Điều này khác với các nhà Thơ Mới khác, ngập sâu vào tình
yêu rồi mới biết tình yêu cũng không thể cứu vớt đƣợc mình: Trăng sáng trăng
xa trăng lạnh quá/Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ (Xuân Diệu), Giật mình ta
thấy bồ hôi lạnh/Mộng đẹp bên chăn đã biến rồi (Lƣu Trọng Lƣ), Trời hỡi làm
sao cho khỏi đói/Gió trăng có sẵn làm sao ăn/Làm sao giết được người trong
mộng/Để trả thù duyên kiếp phũ phàng (Hàn Mặc Tử)
Nằm chung trong bi kịch mất niềm tin của tầng lớp tri thức tiểu tƣ sản
đƣơng thời và tìm đến tình yêu nhƣ một ốc đảo để trú mình, chỉ Nguyễn Bính
ngay từ đầu sớm nhận ra rằng, bản chất của tình yêu là mong manh, không vĩnh
viễn, cái đẹp nhất thì đã trôi qua và không sao lấy lại đƣợc, còn lại chỉ là những
dối trá, lọc lừa, ảo mộng, cái chết và cô đơn.
3.3.3. Tín hiệu thẩm mỹ “rượu”
Con ngƣời thi ca của Nguyễn Bính vốn có hai sự gắn bó, đó là làng quê và
tình yêu đôi lứa. Nhƣng với tình yêu, ngay từ sớm thi nhân đã nhận ra bản chất
mong manh. Làng quê thì đầy biến động trƣớc sự chuyển mình của thời cuộc,
luôn đứng trƣớc nguy cơ bị mất đi bản sắc văn hoá. Con ngƣời vì thế xuất hiện
sự lựa chọn thứ ba là Ra Đi nhƣ để tìm thêm những đối chứng với quê hƣơng và
tình yêu. Và trong sự Ra Đi ấy, Rượu đƣợc tìm đến nhƣ mốt sự tất yếu. Sự tất
yếu ấy nằm trong hai quan niệm: Rƣợu là tinh hoa của trời đất và uống rƣợu có
thể giúp quên sầu. Thấm đẫm một văn hoá Đông phƣơng trong mình, Nguyễn
Bính hẳn đã từng đọc Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vƣơng Hàn, Lý Hạ để in dấu trong hồn
những áng tửu thi: Cổ lai thánh hiền giai tịch mịch/Duy hữu ẩm giả lưu kỳ
danh(Anh hùng nằm dưói cỏ xanh/Những người uống rượu lưu danh muôn
đời)(Lý Bạch), Khuyến quân chung nhật minh đính tuý/Tửu bất đáo Lưu Linh
phần thượng thổ(Xin anh say tít đất trời/Rượu đâu tới được mộ người Lưu

114
Linh)(Lý Hạ), Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi/Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi/Tuý
ngoạ sa trường quân mạc tiếu/Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi (Vƣơng Hàn).
Và nhƣ thế, rƣợu đã trở thành tín hiệu thẩm mỹ quan trọng thứ ba trong
những sáng tác trƣớc Cách mạng của Nguyễn Bính. Trong 272 bài thơ đƣợc
khảo sát, thống kê, có đến 51 lần tín hiệu “rƣợu” xuất hiện trên tổng số 25 bài
thơ. Nhƣ vậy, cứ đọc trung bình 5,2 bài thơ của Nguyễn Bính, tín hiệu rƣợu lại
xuất hiện. Rƣợu có thể nói nhƣ một cái gì gắn bó với thi nhân từ thuở ấu thơ và
càng về sau, trên bƣớc đƣờng giang hồ gió bụi, khi đã cách xa vƣờn và bƣớm,
rƣợu càng là nơi để con ngƣời trút những nỗi niềm tâm sự, những nỗi sầu cô
đơn, những nỗi nhớ nhung quay quắt về một bóng hình.
Nếu coi “rƣợu” là một hằng thể trong cấu trúc của tín hiệu thẩm mỹ thì
“say” chính là biến thể tiêu biểu nhất của hằng thể ấy. Tƣơng ứng với 51 lần xuất
hiện từ “rƣợu” trong các thi phẩm trƣớc Cách mạng của Nguyễn Bính, chúng tôi
thống kê đƣợc có tới 45 lần từ “say” xuất hiện. Có thể nói, “say” biểu thị một
“nhân sinh quan” về rƣợu của Nguyễn Bính. Không phải vô cớ mà con ngƣời
tìm đến rƣợu nên trong tất cả những lần phải dùng rƣợu nhƣ một phƣơng tiện, thi
sĩ dƣờng nhƣ đều muốn đạt tới điểm tận cùng trong một sự nâng ly: Cho tôi ly
nữa thêm ly nữa/Uống thật say rồi nhớ cố nhân (Cho tôi ly nữa), Thà cứ về đây
ngồi giữa chợ/Uống say rồi gọi thế nhân ơi (Hành phƣơng Nam), Hôm qua còn
sót hơn đồng bạc/Hai đứa bàn nhau uống rượu say (Giời mƣa ở Huế), Em sẽ
uống say hơn mọi bận/Để hồn về mãi xứ Hà Đông(Xuân tha hƣơng).
Cái say của Nguyễn Bính có thể nói là cái say đi từ vô tình đến hữu tình,
từ vô thức đến hữu thức. Sở dĩ có thể nói nhƣ thế vì tất cả những cơn say trên
bƣớc đƣờng giang hồ sau này, dƣờng nhƣ đã đƣợc bắt đầu từ chén rƣợu uống
cùng cô bạn gái thuở ấu thơ: Một tối nhà Nhi có giỗ thày/Chị Nhi cho uống rượu
cay cay/Chừng đâu chén nhỏ làm hai đứa/Mặt đỏ lên rồi chếnh choáng say(Hoa
với rƣợu).
Trong những cơn say hữu thức sau này, thi nhân đã có lần mơ về rƣợu
nhƣ một niềm hạnh phúc, mong sống lại những tháng ngày đã đi qua. Thế nên
trong nửa sau của bài Hoa với rƣợu, ngƣời đã tƣởng tƣợng ra cái cảnh uống rƣọu

115
cùng cố nhân, tội nghiệp hơn nữa là phải tƣởng tƣợng ra cả cái say – cơn say
trong niềm hạnh phúc: Ngồi bên lò rượu đêm hôm đó/Nhi rót đưa tôi chén rượu
đầu/Nhắc lại thời xưa mà thẹn lại/Ngậm ngùi hai đứa uống chung nhau…/Rượu
cất kỳ ngon men ủ khéo/Say người thiên hạ lại say nhau/Chiều chiều hai đứa
sang thăm chị/Chồng hái hoa cho vợ dắt đầu.
Rõ ràng hai chữ say trong đoạn thơ vừa trích khác hẳn với tất cả những
chữ say còn lại trong các bài thơ rƣợu của Nguyễn Bính. Nhƣng rồi thoát khỏi
giấc mơ, trở về với thực tại, thi nhân nhận ra rằng chén rƣợu bay giờ chỉ là: Hoa
hết thơm rồi rượu hết cay.Trong những lần nào uống rƣợu mà không thể đạt đến
cõi say, chắc chắn lần đó đang có một bi kịch xảy đển trong tâm hồn con ngƣời:
Rượu chẳng say cho đèn cũng lụi(Tết biên thuỳ), Đời chưa thành đạt say gì rượu
ngon(Nửa đêm)
Trong những lần nhắc đến “rƣợu” và “say”, hình ảnh “rƣợu hồng” đã lặp
đi lặp lại trong thơ Nguyễn Bính nhƣ một ám ảnh. Phải chăng, “rƣợu hồng” nhƣ
sự phản ánh thầm kín về một ƣớc mơ hạnh phúc, ƣớc mơ của lứa đôi mà con
ngƣời chƣa bao giờ đạt đƣợc. Và trong tất cả những lần nhắc đến rƣợu hồng, đều
thấp thoáng bóng hình của một ngƣời con gái. Chúng tôi thống kê có tới 6 lần
“rƣợu hồng” xuất hiện, chiếm tỉ lệ tới 12% những lần nhắc đến rƣợu trong thơ
Nguyễn Bính: Ngƣời ta pháo đỏ rượu hồng/Mà trên hồn chị một vòng hoa
tang…/Rượu hồng em uống cho say/Vui cùng chị một vài giây cuối cùng(Lỡ
bƣớc sang ngang), Rượu hồng đẫm những màu ân ái…/Rượu hồng pha lệ pha
chua chát (Bao nhiêu đau khổ của trần gian, trời đã dành riêng để tặng nàng),Tết
này ồ thế mà vui chán/Những một mình em uống rượu hồng (Xuân tha hƣơng),
Cao tay nâng chén rượu hồng/Mừng em: em sắp lấy chồng xuân nay (Rƣợu
xuân)
Trong những nhà Thơ Mới, lẽ dĩ nhiên Nguyễn Bính không phải ngƣời
duy nhất có thơ về rƣợu. Trần Huyền Trân, Lƣu Trọng Lƣ, Nguyễn Vĩ và đặc
biệt Vũ Hoàng Chƣơng có cả một tập Thơ say: Cụ hâm rượu nữa đi thôi/Be này
chừng sắp cạn rồi còn đâu/Rồi lên ta uống với nhau/Rót đau lòng ấy vào đau
lòng này (Uống rƣợu với Tản Đà - Trần Huyền Trân), Chén lại chén kề môi thủ

116
thỉ/Chén càng vơi tuý luý càng đầy(Giang hồ - Lƣu Trọng Lƣ), Say đi em! Say đi
em!/Say cho lơi lả ánh đèn/Cho cung bực ngả nghiêng, điên rồ xác thịt/Rượu,
rượu nữa, và quên, quên hết!/Ta quá say rồi/Sắc ngã màu trôi (Say đi em – Vũ
Hoàng Chƣơng), Cho nên tôi buồn không biết mấy/Đời còn nhố nhăng ta chịu
vậy/Ngồi buồn lấy rượu uống say sưa/Bậc chí thành say mấy cũng vừa(Gửi
Trƣơng Tửu - Nguyễn Vĩ)
Thế nhƣng, chỉ có ở Nguyễn Bính, chén rƣợu mới hiện lên với phong vị
giang hồ đậm nét nhất: Giang hồ sót lại mình tôi/Quê người đắng khói quê người
cay men(Anh về quê cũ), Son sắt say hoài rượu viễn phương (Xuân vãn tha
hƣơng), Một đêm lữ thứ em say rượu cần(Thƣ cho chị)
Tất cả những cơn say trong thơ Nguyễn Bính hầu nhƣ đều diễn ra trên
bƣớc đƣờng giang hồ của nhà thơ. Lúc thì say trong cuộc hành phƣơng Nam, lúc
thì say trên bƣớc đƣờng dừng chân ở Huế, lúc thì say trong một mùa xuân tha
hƣơng, lúc thì say chén quan hà bên một trời quan tái, lúc thì say với cái Tết ở
biên thuỳ…Một điểm nổi lên trong những vần thơ say của Nguyễn Bính là nhà
thơ thƣờng “trình bày” một điệu thở than, yếu đuối. Hơn một lần rƣợu trong thơ
Nguyễn Bính gắn với lệ, với nƣớc mắt: Rượu hồng pha lệ pha chua chát (Bao
nhiêu đau khổ của trần gian, trời đã dành riêng để tặng nàng), Chân trời rượu
uống môi chàng ướt/Cửa sổ mưa bay lệ thiếp nhoà (Bốn mùa thƣơng nhớ), Em
không khóc nữa không than nữa/Đây một bài thơ hận cuối cùng/Không than
chắc hẳn hồn tươi lại/Không khóc tha hồ đôi mắt trong/Chị ơi em cưới mùa
xuân nhé/Đốt pháo cho thơm với rượu hồng (Xuân tha hƣơng), Nhiều lần còn lại
là sự ủ ê chán chƣờng: Nhưng mộng mà thôi mộng mất thôi/Hoa thừa rượu ế ấy
tình tôi(Hoa với rƣợu), Chén rượu tha hương.Giời! đắng lắm/Trăm hờn nghìn
giận suốt mùa đông(Xuân tha hƣơng).
Nhƣ thế, trong những vần thơ viết về rƣợu, Nguyễn Bính có sự gặp gỡ
nhiều nhất với Vũ Hoàng Chƣơng ở chỗ thể hiện một thái độ chán chƣờng và bất
bình với thực tại. Nhƣng Vũ Hoàng Chƣơng mạnh mẽ hơn vì còn có một chất
“cuồng”, Nguyễn Bính yếu đuối hơn, không còn giữ đƣợc chất giang hồ ngạo

117
nghễ khí phách của Tản Đà xƣa kia: Tài cao phận thấp chí khí uất/Giang hồ mê
chơi quên quê hương(Thăm mả cũ bên đƣờng - Tản Đà)
Một điểm thú vị khác trong những vần thơ rƣợu của Nguyễn Bính là nhà
thơ đã nhiều lần tả rƣợu rất thành công qua một lăng kính khác. Trong những
nhà Thơ mới đƣơng thời cùng có những vần thơ về rƣợu và say, có thể thấy đây
là chỗ nổi bật của Nguyễn Bính. Chẳng hạn, Nguyễn Bính từng một lần tả rƣợu
qua mƣa và để lại một câu tuyệt bút: Sầu nghiêng mái lá mưa tong tả/Chén ứa
men lành lạnh ngón tay(Giời mƣa ở Huế). Lần khác, nhà thơ tả rƣợu và cơn say
qua tiếng cƣời: Uống say cười vỡ ba gian gác/Quẳng cái chung tình xuống đáy
sông (Xuân tha hƣơng). Một bài thơ đặc biệt của Nguyễn Bính là bài Một con
sông lạnh. Thi phẩm gây ấn tƣợng cho ngƣời đọc ở chỗ viết về một cơn say hoà
trong âm thanh của tiếng đàn mà không hề phải dùng đến một chữ “rƣợu” nào:
Rung rung ánh nến hoen vàng/Hơi men lắng xuống, tiếng đàn cao lên/Ô, nàng
chẳng phải là em/Tôi nghe vó ngựa hoà Phiên rộn ràng/Đừng em, - quên đấy –
thôi nàng/Đất Hồ xa quá nàng sang sao đành/Trời ơi, Hán đế vô tình/Tôi xin đốt
cả kinh thành ấy đi.
Vƣờn, bƣớm và rƣợu rõ ràng không phải là những đặc quyền thuộc về
riêng thế giới thơ Nguyễn Bính, nhƣng bằng sự tài hoa ngôn từ của ngƣời nghệ
sĩ và đƣợc nung nóng bởi một dòng cảm xúc tuôn trào, vƣờn - bƣớm - rƣợu đã
trở thành một bộ ba để giải mã những thi phẩm của Nguyễn Bính trƣớc Cách
mạng. Vƣờn - bƣớm - rƣợu đã không chỉ còn là nó mà chúng đã đƣợc thổi vào
đấy những mạch ngần của tƣ duy, của văn hoá, của một thế giới quan và nhân
sinh quan. Nằm chung trong một tâm thế của những thi nhân tiền chiến rơi vào
bi kịch mất niềm tin, Nguyễn Bính đã gửi gắm một tình cảm chan chứa với đất
nƣớc qua tín hiệu thẩm mỹ “vƣờn”, thể hiện một cái nhìn bi quan và yếm thế về
tình yêu qua tín hiệu “bƣớm” và thể hiện một sự yếu đuối - bế tắc qua tín hiệu
thẩm mỹ rƣợu. Chúng ta có thể đi đến một bức tranh chung nhƣ sau về hệ thống
các tác phẩm trƣớc Cách mạng của Nguyễn Bính thông qua lăng kính 3 tín hiệu
thẩm mỹ vƣờn - bƣớm - rƣợu:

118
Bảng 3.15: Thế giới nghệ thuật Nguyễn Bính qua ba tín hiếu thẩm mỹ
đặc sắc
Chủ đề Thôn quê Tình yêu Giang hồ
Nội dung Yêu làng trong Cái nhìn mong Cô đơn, yếu
tâm thế lƣỡng manh và yếm đuối và thở
trị thế than
Tín hiệu thẩm Vƣờn Bƣớm Rƣợu
mỹ
Bi kịch mất niềm tin
Tóm lại, vƣờn - bƣớm - rƣợu là 3 tín hiệu thẩm mỹ đặc sắc trong những
thi phẩm trƣớc Cách mạng của nhà thơ tiền chiến Nguyễn Bính. Qua đây, ta
không chỉ thấy đƣợc sự tài hoa của ông đứng từ phƣơng diện ngôn từ mà còn
thấy đƣợc những đặc điểm – xu thế chung của nền văn học dân tộc trong một
bức tranh toàn cảnh nửa đầu thế kỷ XX.
3.4. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ con ngƣời trong thơ Nguyễn Bính
Trong 272 thi phẩm của Nguyễn Bính có một số lƣợng lớn các yếu tố
ngôn ngữ chỉ con ngƣời/nhân vật mà theo chúng tôi có một giá trị không nhỏ
trong việc tạo dựng một bức tranh toàn cảnh về thế giới thơ của thi sĩ chân quê.
Các nhân vật đƣợc chúng tôi chia thành hai tuyến chính là nam và nữ, ở đó, ta sẽ
thấy hiện lên không khí vừa cổ điển, vừa hiện đại, vừa quê mùa rất đặc trƣng của
Nguyễn Bính.
Ở tuyến nhân vật nam giới, các yếu tố ngôn ngữ chiếm tần số cao nhất là:
tôi (486 lần), anh (164 lần), em (trong tƣơng quan với chị: 113 lần), chàng (43
lần). Bên cạnh đó còn có các đơn vị khác với tần số ít hơn, nhƣng góp phần quan
trọng để gợi nên không khí vừa cổ kính, vừa quê mùa trong thơ Nguyễn Bính.
Đó là các đơn vị: quan Trạng/Trạng Nguyên (14 lần), Thám hoa (2 lần), anh
khóa (1 lần), anh lái đò (1 lần), lão bộc (2 lần), tráng sĩ (2 lần), cha/bố (23 lần),
chồng (17 lần)
Ở tuyến các nhân vật nữ giới, chiếm tần số cao nhất là các đơn vị: nàng
(186 lần), em (169 lần), chị (151 lần), cô/ cô gái/ cô trinh nữ/cô nữ/ cô mình/ cô

119
tình nhân/ cô con gái (64 lần). Tiếp đó là vô số các đơn vị chỉ nhân vật nữ với
những tần số thấp hơn nhƣng góp phần làm nên một bức tranh nhiều màu sắc,
sống động trong thơ Nguyễn Bính: cô thợ nhuộm (1 lần), cô lái đò (8 lần), cô hái
mơ (6 lần), cô lối xóm (4 lần), cô hàng xóm (4 lần), cô bán rƣợu (1 lần), thiếu nữ
(1 lần), thôn nữ (1 lần), thục nữ (2 lần), mỹ nhân (3 lần), giai nhân (5 lần), thiếu
phụ (3 lần), thiếp (8 lần), mỹ nữ (1 lần), công chúa (6 lần), cung nữ (4 lần).
Ngoài ra phải kể đến các nhân vật nữ đƣợc xuất hiện qua tên riêng với tổng tần
số 77 lần, gồm các tên: Oanh (24 lần), Thơ (2 lần), Nhi (29 lần), Diễm (3 lần),
Mai Thơ (1 lần), chị Trúc (3 lần) Yến (1 lần), Tú Uyên (6 lần), Dung (3 lần),
Uyển (1 lần), Uyên (1 lần), Nhâm (3 lần).
Ngoài 2 tuyến nhân vật chính là nam và nữ, còn có các đơn vị ngôn ngữ
chỉ nhân vật mang tính song giới: thày mẹ (8 lần), mẹ cha (3 lần), thày u (1 lần).
Hệ thống các yếu tố ngôn ngữ chỉ ngƣời/ nhân vật đƣợc sơ kết qua bảng
dƣới đây:
Bảng 3.16: Các yếu tố ngôn ngữ chỉ ngƣời trong thơ Nguyễn Bính
trƣớc 1945
Nhân vật nam Tần số Nhân vật nữ Tần số
Tôi 486 Nàng 186
Anh 164 Em 169
Em 113 Chị 151
Chàng 43 Cô 64
Trạng Nguyên 14 Cô thợ nhuộm 1
Thám hoa 2 Cô lái đò 8
Anh khóa 1 Cô hái mơ 6
Anh lái đò 1 Cô lối xóm 4
Lão bộc 2 Cô hàng xóm 4
Tráng sĩ 2 Cô bán rƣợu 1
Cha/ Bố 23 Thiếu nữ 1
Chồng 17 Thôn nữ 1

120
Anh (trong tƣơng Thục nữ
11 2
quan em trai)
Mỹ nhân 3
Giai nhân 5
Thiếu phụ 3
Thiếp 8
Mỹ nữ 1
Công chúa 6
Cung nữ 4
Vợ 17
Mẹ/ u 50
Qua bảng trên, có thể thấy khá nhiều điều thú vị về hệ thống các đơn vị
chỉ ngƣời/ nhân vật trong thơ Nguyễn Bính. Nếu nhƣ các định danh chỉ các nhân
vật nam giới chỉ có 12 đơn vị thì số định danh chỉ nữ giới áp đảo gần nhƣ gấp
đôi với 23 định danh. Trong mối tƣơng quan giữa cha/ bố (23) và mẹ/u (50) cũng
có sự chênh lệch rất lớn. Điều đó chứng tỏ một thiên hƣớng về “tính nữ” trong
thơ Nguyễn Bính. Đối chiều với tiểu sử nhà thơ, ta biết đƣợc thi sĩ mồ côi mẹ từ
lúc 3 tháng tuổi, nên khát khao tình mẹ, khát khao sự yêu thƣơng của một “tính
nữ” luôn là điều cháy bỏng. Dễ hiểu vì sao từ ngôi mẹ đã có sự chuyển vị sang
chị để từ đó, Nguyễn Bính có tới 7 bài thơ gắn với hình ảnh ngƣời chị, mà chị
Trúc đã trở thành một biểu tƣợng tinh thần trong thơ Nguyễn Bính, gắn với
những vỗ về, an ủi, sẻ chia, làm dịu đi khát khao một bóng hình ngƣời nữ mà
không phải là tình trai gái. Bên cạnh đó, các định danh chỉ nhân vật nữ vô cùng
phong phú cũng ít nhiều phản ánh chất đa tình đa cảm trong con ngƣời thi sĩ.
Những cô gái quê hiện lên gắn với nhiều công việc của nông thôn nhƣ: lái đò,
nhuộm vải, trồng dâu nuôi tằm, chạy chợ, bán rƣợu, hái mơ, may áo…đã góp
phần tạo ra một đặc trƣng đậm chất nông thôn Bắc Bộ không thể trộn lẫn trong
thơ Nguyễn Bính. Sự xuất hiện của cặp xƣng hô anh – em trong những bài thơ
tình nhƣ một điều tất yếu, nằm trong xu thế chung, không khí chung của thơ lãng
mạn đƣơng thời. Nhƣng điểm đặc biệt ở Nguyễn Bính là định danh “nàng” (186

121
lần) lại có tần số vƣợt trội hơn hẳn định danh “em” (169 lần). Điều này tạo nên
một phong vị cổ điển riêng trong thơ Nguyễn Bính. Chất cổ điển càng trở nên
đậm nét khi vây quanh định danh “nàng” là một loạt các định danh khác cùng
“gam” nhƣ: mỹ nhân, giai nhân, thiếu phụ, thiếp, mỹ nữ, công chúa, cung nữ.
So sánh với thơ Xuân Diệu trƣớc Cách mạng, ta sẽ thấy tình hình khác
hẳn nhau. Trong 96 bài thơ thuộc hai tập Thơ thơ và Gửi hƣơng cho gió, định
danh “em” chiếm tần số cao nhất với 123 lần, trong khi đó định danh “nàng” chỉ
8 lần xuất hiện. Ngƣợc lại, Xuân Diệu lại có một định danh mà ta không bắt gặp
ở thơ Nguyễn Bính, đó là “ngƣời yêu” với tần số 4 lần. “Thiếu nữ” trong thơ
Xuân Diệu cũng xuất hiện nhiều hơn Nguyễn Bính với tần số 6 lần. Bảng tổng
kết các định danh chỉ nhân vật nữ trong thơ Xuân Diệu trƣớc Cách mạng nhƣ
sau:
Bảng 3.17: Các định danh chỉ nhân vật nữ trong thơ Xuân Diệu
trƣớc 1945
Tên gọi Tần số
Thiếu nữ 6 lần
Cô 3 lần
Em 123 lần
Ngƣời yêu 4 lần
Nàng 8 lần
Cung nữ 3 lần
Nƣơng tử 1 lần
Tiên nữ 1 lần
Thôn nữ 1 lần
Thục nữ 1 lần
Công chúa 1 lần
Giai nhân 1 lần
Cũng qua việc khảo sát các định danh xƣng gọi, chỉ ngƣời trong thơ
Nguyễn Bính, ta thấy đƣợc sự linh hoạt mềm dẻo sáng tạo của nhà thơ khi thiết
lập các cặp từ chỉ ngƣời nam – ngƣời nữ trong mối quan hệ luyến ái. Có tới 10

122
cặp định danh theo nội dung này, cụ thể nhƣ sau: anh – em, chàng – nàng, tôi –
nàng, tôi – cô, tôi – vợ, chàng – em, nàng – chồng, chồng – tôi (vợ), vợ - chồng,
mợ - tôi. Mỗi cặp trên xin đƣợc dẫn một ví dụ tiêu biểu: Chiều qua lạnh quá, anh
buồn quá/Anh đến phòng em lặng như tờ (Một ngƣời phóng đãng), Nàng đã qua
đời để tối nay/Có chàng đi hứng gió heo may (Viếng hồn trinh nữ), Nàng đến
thăm tôi một buổi chiều/Những mong chắp nối lại thương yêu (Thôi nàng ở lại),
Tôi muốn mùi thơm của nước hoa/Mà cô thường xức đừng bay xa (Ghen), Tôi về
dạm vợ là xong/Vợ người làng, vợ xóm Đông, quê mùa (Cƣới vợ), Tội nghiệp
cho chàng quá mất thôi!/Bao nhiêu đêm khóc bởi em rồi! (Nhớ thƣơng ai…),
Nàng cùng chồng mới nàng về/Rồi cùng chồng mới nàng đi theo chồng (Cƣới
vợ), Vì tằm tôi phải chạy dâu/Vì chồng, tôi phải dầu hao bấc gầy (Thời trƣớc),
Ta sẽ là vợ chồng/Sẽ yêu nhau mãi mãi (Hôn nhau lần cuối), Sum họp đôi ta
chốc bấy lâu/Tình tôi với mợ tưởng cùng nhau (Trối trăng)
3.5. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bính
Trong những phần trƣớc, chúng tôi cũng đã bàn tới khá nhiều yếu tố thuộc
về thiên nhiên trong thơ Nguyễn Bính, chẳng hạn các tín hiệu thẩm mỹ vƣờn,
bƣớm, các biểu tƣợng thể hiện thời gian ban ngày, ban đêm, các biểu tƣợng gắn
với thời gian của năm, một số biểu tƣợng thuộc không gian nghệ thuật. Ở phần
này, chúng tôi tập trung khảo sát các yếu tố ngôn ngữ chỉ thiên nhiên khác, góp
phần tạo nên những nét riêng biệt trong thơ Nguyễn Bính, làm nên phong cách
không trộn lẫn của ông. Các yếu tố chỉ thiên nhiên đƣợc chia thành hai khu vực
là các yếu tố chỉ thực vật và các yếu tố chỉ động vật
3.5.1. Các yếu tố chỉ thực vật
Có tất cả 32 yếu tố chỉ thực vật đƣợc tổng kết trong phần này và hiển thị
qua bảng dƣới đây:
Bảng 3.18: Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thực vật trong thơ Nguyễn Bính
trƣớc 1945
Tên gọi Tần số Tên gọi Tần số
Hoa gạo/ Tơ gạo 4 Đay 1
Đồng lúa/hƣơng lúa 2 Dâu 2

123
Đồng 2 Mùng tơi 4
Cà 1 Hoa xoan 4
Tre/lũy tre/lá tre 7 Hoa bƣởi/bƣởi 3
Vải 2 Hoa cam/cam 7
Liễu 1 Cải/ hoa cải 2
Cau/ hoa cau 4 Đỗ ván 4
Trầu không 3 Hƣơng nhu 1
Hoa sen 1 Cần 1
Hoa mai/mai 5 Hoa hồng 3
Hoa nhài 2 Hoa mơ 2
Hoa đào 4 Bãi sậy 1
Hoa lan 1 Hoa súng 1
Chuối 1 Hoa cúc 2
Xƣơng rồng 1 Rau sam 1
Tổng tần số 78
Qua bảng tổng kết trên, có thể nhận thấy, tuy không có yếu tố thực vật nào
xuất hiện với tần số quá lớn, nhƣng tựu trung lại, vẫn cho ta một bức tranh thật
phong phú, sống động về hình ảnh nông thôn Việt Nam. Có tới 15 loại hoa khác
nhau đã đi vào thơ Nguyễn Bính, trong đó những loài hoa xuất hiện với tần số
cao nhất là: hoa cam, hoa xoan, hoa gạo, hoa cau. Trong số này, những câu thơ
về hoa xoan của Nguyễn Bính thành công một cách kỳ lạ, dƣờng nhƣ đã vƣợt
thoát khỏi tác phẩm để tự hình thành cho mình một đời sống riêng. Nhiều ngƣời
không thuộc hết bài Mƣa xuân nhƣng những câu thơ về hoa xoan lại không bao
giờ quên: Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy (…)
Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay/ Hoa xoan đã nát dưới chân giày. So sánh với một
nhà thơ cũng đậm chất nông thôn, cùng thời với Nguyễn Bính là Đoàn Văn Cừ,
chúng ta hẳn sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng, trong tất cả 12 bài thơ sáng tác
trƣớc Cách mạng (Chợ tết, Nắng xuân, Bình minh, Hè, Thu, Đường về quê mẹ,
Những nỗi lo sợ phập phồng, Cháy nhà, Đám chết nghèo, Đám cưới mùa xuân,
Đám hội, Trăng hè), không hề có một loài hoa nào đi vào thơ của thi sĩ họ Đoàn

124
dù thơ ông rất chuộng màu sắc. Khảo sát thêm 19 bài thơ viết sau Cách mạng
trong tập Thôn ca của Đoàn Văn Cừ, chúng tôi cũng chỉ bắt gặp 3 loài hoa, mỗi
loại xuất hiện đúng một lần là: hoa đào, hoa mận và hoa hồng.
Trở lại với bảng các yếu tố chỉ thực vật trong thơ Nguyễn Bính, tre và
cam là hai loại xuất hiện với tần số cao nhất (7 lần), trong đó, tre từ xƣa tới nay
vẫn đƣợc coi là một loại cây đặc thù của nông thôn Bắc Bộ, thậm chí có khả
năng trở thành biểu tƣợng cho ngƣời Việt Nam. Thế nên việc tre là loại thực vật
chiếm tần số ở hàng cao nhất trong thơ Nguyễn Bính cũng là điều có thể hiểu
đƣợc: Có hai cô bé học trò/ Xem con kiến gió đi đò lá tre (Bên sông), Hôm nay
nắng đã về đây/Hôm nay nắng đã về cây tre vàng/Lá tre rơi xuống đường làng/
Lá tre rơi xuống vai nàng đi qua (Đƣờng làng). Bên cạnh đó, phải kể đến “mùng
tơi” cũng xuất hiện nhƣ một “đặc sản” trong thơ Nguyễn Bính, không hề gặp
trong thơ của những nhà thơ đậm chất nông thôn cùng thời nhƣ Đoàn Văn Cừ,
Anh Thơ, Bàng Bá Lân. Cũng giống nhƣ hoa xoan, chất điển hình của “mùng
tơi” trong thơ Nguyễn Bính mạnh đến nỗi có thể thoát ly tác phẩm để trở thành
một biểu tƣợng về hàng xóm láng giềng, những ngƣời cùng “chung giậu mồng
tơi”: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi/ Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn (…) Giá
đừng có giậu mùng tơi/ Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng (Ngƣời hàng
xóm), Từ dạo mùng tơi thôi trổ lá/ Thì cô hàng xóm cũng thôi sang (Vƣờn
hoang)
3.5.2. Các yếu tố chỉ động vật
Có 8 yếu tố chỉ động vật đi vào trong thơ Nguyễn Bính trƣớc Cách mạng,
đƣợc tổng kết qua bảng dƣới đây:
Bảng 3.19: Các yếu tố ngôn ngữ chỉ động vật trong thơ Nguyễn Bính
trƣớc 1945
Tên gọi Tần số
Tằm 6 lần
Ngựa 11 lần
Chim 5 lần
Tu hú 2 lần

125
Cuốc 1 lần
Trâu 1 lần
Ong 1 lần
Gà 4 lần
Lợn 3 lần
Tổng tần số 34 lần
So với thực vật, chủng loại của các yếu tố động vật không phong phú
bằng, tuy thế, cũng góp một phần đắc lực để tạo dựng nên không khí nông thôn,
chất quê mùa trong thơ Nguyễn Bính, nhất là qua những đơn vị nhƣ: tằm (gắn
với nghề trồng dâu nuôi tằm), gà và lợn. Bên cạnh đó, có thể thấy một điều đặc
biệt là, ngựa tuy không phải con vật đăc trƣng của nông thôn nhƣng lại chiếm tần
số cao nhất trong bảng các yếu tố chỉ động vật trong thơ Nguyễn Bính. Lí giải
điều này, chúng tôi cho rằng, rất có thể việc nhà thơ sinh năm 1918 (tuổi Mậu
Ngọ) cầm tinh con ngựa đã khiến cho loài vật này đƣợc ƣu ái hơn, trở thành một
mẫn cảm đặc biệt hơn trong thơ ông. Ngựa đi vào hết những vui buồn trong thơ
Nguyễn Bính, và bản thân ông cũng có lần tự nhận mình là ngựa: Một chiếc xe
tang màu trắng đục/ Hai con ngựa trắng xếp hàng đôi (Viếng hồn trinh nữ), Áo
bào nguyệt bạch ngựa kim ô (Một trời quan tái), Em vốn đường dài thân ngựa lẻ/
Chị thì sông cái chiếc đò nan (Xuân lại tha hƣơng). So sánh với các yếu tố chỉ
động vật trong thơ Đoàn Văn Cừ, ta lại thấy điều thú vị khi chỉ có 12 bài thơ
trƣớc Cách mạng mà xuất hiện tới 14 loại động vật khác nhau với tổng tần số lên
tới 24 lần. Bảng tổng kết cụ thể nhƣ sau:
Bảng 3.20: Các yếu tố ngôn ngữ chỉ động vật trong thơ Đoàn Văn
Cừ trƣớc 1945
Tên gọi Tần số
Lợn 2
Bò (vàng) 2
Trâu 2
Gà 4

126
Chim sẻ 1
Bồ câu 1
Chim cu 1
Chích chòe 1
Nhạn 1
Cò 2
Chó 2
Mèo 1
Đom đóm 1
Chim 3
Nhƣ vậy, trong hệ lƣơng phân động/ thực vật, nếu nhƣ Nguyễn Bính có
cảm quan mạnh hơn ở các loài thực vật, đặc biệt là những loài hoa; thì về phía
động vật lại có sự thể hiện ít hơn. Ngƣợc lại, với Đoàn Văn Cừ, cảm quan về hệ
thực vật, đặc biệt là những loài hoa rất mờ nhạt, nhƣng lại tạo ra những ấn tƣợng
đậm nét ở mảng động vật, đặc biệt những loài chim xuất hiện rất nhiều trong thơ
thi sĩ họ Đoàn. Có tới 6 loài chim đƣợc nhắc đến bao gồm: sẻ, bồ câu, cu, chích
chòe, nhạn, cò. Bên cạnh đó, định danh “chim” (nói chung) cũng xuất hiện tới 3
lần.
3.6. Từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính
3.6.1.Tổng quan về từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính
Với nguồn tƣ liệu gồm 272 bài thơ viết trƣớc Cách mạng của Nguyễn
Bính, chúng tôi đã thu thập đƣợc 112 đơn vị điển tích điển cố, rải rác trong 50
bài thơ. Vậy là có tới 18% thi phẩm của Nguyễn Bính có sử dụng các điển tích
điển cố. Nói cách khác, cứ trung bình đọc 2 bài thơ của Nguyễn Bính sẽ thấy
một điển tích điển cố xuất hiện. So sánh với hai nhà thơ cùng thời khác là Huy
Cận và Xuân Diệu, ta sẽ thấy mức độ sử dụng điển tích điển cố của Nguyễn Bính
là rất lớn.
Với trƣờng hợp Huy Cận, tập thơ duy nhất xuất bản trƣớc cách mạng
mang tên Lửa thiêng (1940) gồm 50 bài thơ thì chỉ có 6 điển tích điển cố xuất
hiện, rải rác trong 3 bài thơ. Còn với Xuân Diệu, hai tập thơ trƣớc Cách mạng

127
của ông là Thơ thơ (46 bài) và Gửi hƣơng cho gió (51 bài) tổng cộng có 97 bài
thơ với 20 lần điển tích điển cố xuất hiện, rải rác trong khoảng 10 bài thơ
Nhƣ vậy, có thể thấy, mức độ sử dụng điển tích điển cố ở thơ Nguyễn
Bính là khá đậm đặc, trội hơn hẳn so với những nhà thơ cùng thời. Nếu nhƣ với
các nhà thơ cùng thời, điển tích điển cố chỉ là phƣơng tiện, sử dụng điểm xuyết
làm thi phẩm có thêm không khí cổ điển, thì đối với Nguyễn Bính, điển tích điển
cố nhiều lần đã trở thành cảm hứng cho sự sáng tạo. Cụ thể, Nguyễn Bính có tới
4 bài thơ mƣợn cảm hứng từ điển tích. Nói cách khác, toàn bộ những thi phẩm
đó đƣợc nhuốm trong bầu không khí của điển tích điển cố. Đó là các bài: Nhạc
xuân, Tây Thi, Ngƣu Lang Chức Nữ và Mỵ Nƣơng.
Ở bài Nhạc xuân, Nguyễn Bính đã mƣợn cảm hứng từ điển tích công
chúa Huyền Trân bị gả về Chiêm quốc để bày tỏ tình cảm của mình với một
ngƣời con gái mà thi sĩ gọi là “cố nhân”. Bài thơ đƣợc viết theo thể thất ngôn
gồm 8 khổ thơ trong đó từ Huyền Trân đƣợc lặp đi lặp lại trong tất cả các khổ,
kết hợp cùng phép lặp cấu trúc của câu thơ cuối. Cụ thể các câu thơ có từ Huyền
Trân xuất hiện nhƣ sau: Người ở bên kia sông cách trở/Có về Chiêm quốc như
Huyền Trân?/…/Phận gái ví theo lề ép uổng/Đã về Chiêm quốc như Huyền
Trân?/…/Hay đã vội quên tình nghĩa cũ/Mà về Chiêm quốc như Huyền
Trân?/…Cung nữ như hoa vườn Thượng uyển/Ai về Chiêm quốc với Huyền
Trân?…/Cung nữ môi tô rừng rực điệp/Ai về Chiêm quốc hộ Huyền Trân?…/Đã
có yêu nhau là đến thế/Đừng về Chiêm quốc nhé Huyền Trân/Đừng về Chiêm
quốc nhé Huyền Trân/Ta viết thơ này gửi cố nhân/Năm mới tháng Giêng mồng
một Tết/Còn nguyên vẹn cả một mùa xuân/Huyền Trân ơi!/Mùa xuân mùa xuân
mùa xuân rồi/Giờ đây chín vạn bông trời nở/Riêng có tình ta khép lại thôi!
Mƣợn điển tích Huyền Trân, nhà thơ đã bày tỏ đƣợc tâm tình da diết,
quyến luyến, khắc khoải, níu kéo và đầy tuyệt vọng khi đứng trƣớc viễn cảnh
không còn đƣợc gặp ngƣời mình yêu nữa. Có thể nói, Nhạc xuân là bài thơ
chiếm vị trí quan trọng trong sự nghiệp sáng tác trƣớc Cách mạng của Nguyễn
Bính, là một trong những bài thơ hay nhất của tập Hƣơng, cố nhân. (Hai bài thơ
mƣợn cảm hứng từ điển tích là Tây Thi và Ngƣu Lang Chức Nữ cũng đều nằm

128
trong tập này). Chính ở thi phẩm này, những câu thơ cuối cùng là những câu thơ
tiên tri, dự báo trƣớc về cái chết của Nguyễn Bính sẽ diễn ra vào ngày mùng một
Tết năm Bính Ngọ 1966: Năm mới tháng giêng mồng một Tết/Còn nguyên vẹn
cả một mùa xuân/Huyền Trân ơi!/Mùa xuân, mùa xuân, mùa xuân rồi/Giờ đây
chín vạn bông trời nở/Riêng có tình ta khép lại thôi!.
Ở bài thơ Tây Thi, Nguyễn Bính lại mƣợn điển tích Tây Thi để giãi bày
hai dòng suy tƣ cảm xúc của mình. Ở cảm xúc thứ nhất, ông thể hiện sự xót
thƣơng ai oán cho một ngƣời đẹp vốn trong trắng vô tội, bỗng dƣng phải trở
thành một phƣơng tiện để thực hiện nhiệm vụ chính trị, rồi sau đó nhiệm vụ
thành công mà nàng bị quên lãng, phụ bạc, thậm chí rất có thể nàng đã phải tìm
đến một cái chết đầy đau xót tức tƣởi nơi xứ ngƣời. Ngay từ những dòng lục bát
đầu tiên, hình ảnh Tây Thi đã xuất hiện: Câu Tiễn ngự trên ngai vàng/Có bao
giờ nhớ đến nàng Tây Thi/Tứ bề rủ kín màn che/Nàng sang bên ấy có về nữa
đâu/Non sông từ ấy thêm sầu/Bao nhiêu hoa nở quay đầu về Ngô
Ở dòng cảm xúc thứ hai, thi sĩ mƣợn Tây Thi để giãi bày lòng mình với
một ngƣời đẹp tên là Mai Thơ. Chàng ví nàng với Tây Thi và thể hiện tình cảm
chân thành tha thiết của mình với nàng: Mai Thơ rằng phụ Mai Thơ/Chính
chuyên bướm có bao giờ phụ hoa/Bao giờ rời được nhau ra/Bởi tôi là sắt nàng
là nam châm/Đến cùng sông cạn cát lầm/Cũng xin giữ mãi nàng làm Tây
Thi/Lòng tôi không có đường xe/Lòng tôi không có lối về nước Ngô/Nàng đừng
mơ đến Cô Tô/Tôi xin dựng một lầu thơ cho nàng.
Hai câu kết của tác phẩm, hình ảnh Tây Thi xuất hiện trở lại với một câu
hỏi tu từ không lời giải đáp, là niềm đau đáu khôn nguôi của thi sĩ về một kiếp
hồng nhan bạc phận: Trăm năm là một ngai vàng/Bao nhiêu năm nữa có nàng
Tây Thi?
Ở bài Ngƣu Lang Chức Nữ, Nguyễn Bính lại mƣợn điển tích tình yêu bị
ngăn trở giữa Ngƣu Lang và Chức Nữ để nói về những ngăn cách khó vƣợt qua
trong chuyện tình cảm của mình. Bài thơ gồm 46 câu lục bát với 4 lần xuất hiện
từ Chức Nữ, 1 lần xuất hiện từ Ngƣu Lang và 2 lần xuất hiện sông Ngân (Ngân
hà).

129
Ở bài Mỵ Nƣơng, Nguyễn Bính mƣợn rất nhiều điển tích, nhắc đến tên
rất nhiều ngƣời đẹp nhƣ một thủ pháp đòn bẩy để thể hiện tình cảm của mình với
ngƣời con gái mang tên Mỵ Nƣơng. Hình tƣợng Mỵ Nƣơng trong bài thơ này
bỗng mang tính chất kỳ ảo, có thể nàng là Mỵ Nƣơng trong truyền thuyết Sơn
Tinh Thủy Tinh, lại cũng có thể là một hình bóng yêu kiều nào đó: Tôi nhớ Tây
Thi/Trong lòng Ngô Vương/Hay Dương Quý Phi/Trong đỉnh trầm hương?/Hay
là tôi nhớ/Cô bé Hằng Nga/Nằm trong cung Quảng/Vợ chàng Ngưu Lang/Bên
bờ Ngân hà?/Không, không tôi nhớ/Một người rất xa/Một người con gái/Nhan
sắc như… là…/Toan ví mà thôi/Vì bao nhan sắc/Xây dựng trên đời/Sánh sao
nàng được/Nàng hơn Tây Thi/Hơn Dương Quý Phi/Hằng Nga, Chức Nữ/Có ăn
thua gì…
Vậy là ở bốn bài thơ hoàn toàn mƣợn cảm hứng từ các điển tích, Nguyễn
Bính đã sử dụng hầu hết các thể thơ tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của ông,
trong đó có hai thể thơ đƣợc đánh giá là sở trƣờng của Nguyễn Bính là lục bát
và thất ngôn. Ở 46 bài thơ còn lại, các điển tích điển cố đƣợc phân bố không đều
nhau. Có bài thơ chỉ có một điển tích, nhƣ bài Viếng hồn trinh nữ: Mới hay tự
cổ bao người đẹp/Chẳng hẹn trần gian đến bạc đầu.Hai câu thơ trên nằm ờ vị trí
kết thúc trong bài thơ Viếng hồn trinh nữ đƣợc mƣợn từ ý của hai câu thơ cổ
nổi tiếng, tƣơng truyền là của Diễm Tuyết (đời Thanh, Trung Quốc): Mỹ nhân tự
cổ như danh tướng/Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.
Lại cũng có bài thơ mật độ điển tích dày đặc nhƣ bài Bài thơ vần Rẫy với
gần chục điển tích liên tiếp xuất hiện: Khương Duy mật to như trứng gà/Mã Siêu
mặt đẹp như con gái/Mê gái cửa thành giết bố nuôi/Vì nước qua thuyền dành
Chúa dại/Xót anh, may áo tang ba ngày/Nhớ nghĩa, cùng đường thả giặc
chạy/Vận trời thế đất đang chông chênh/Chia ba chân vạc cho vững chãi/Ai ngờ
ông trời làm trò đùa/Cả ba chân vạc đua nhau gẫy.
Chúng tôi sẽ lần lƣợt phân tích các biểu hiện của hệ thống từ ngữ điển tích
điển cố thơ Nguyễn Bính trong các phần tiếp theo sau đây.

130
3.6.2. Phân loại và miêu tả từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn
Bính
3.6.2.1. Phân loại tổng thể
Trong 112 đơn vị từ ngữ điển tích điển cố có 86 điển tích điển cố có
nguồn gốc là những tích truyện xƣa, liên quan đến các nhân vật trong lịch sử
hoặc văn chƣơng, liên quan đến các địa danh hoặc sự vật sự việc sự kiện. Còn lại
26 đơn vị có nguồn gốc là những câu chữ trong các tác phẩm của thời trƣớc,
hoặc đƣợc tác giả dùng nguyên văn, hoặc đƣợc tác giả mƣợn ý hay thay đổi đôi
chút về diễn đạt. Ở trƣờng hợp dùng nguyên văn, có thể dẫn ra những bài thơ
nhƣ Xuân tha hƣơng, Tết biên thùy, Bài thơ vần Rẫy là những tác phẩm có
dùng nguyên văn một số câu thơ Đƣờng: Thiên hạ “Chi nghinh Nam Bắc
điểu”/Tình đời “Diệp tống vãng lai phong”(Xuân tha hƣơng), “Xuân nhật
ngưng trang thướng thúy lâu”(Tết biên thùy), “Hoa lưu động khẩu ưng trường
tại” (Bài thơ vần Rẫy).Cũng có khi Nguyễn Bính dùng nguyên văn một câu thơ
Việt: “Bảy nổi ba chìm với nước non”(Oan nghiệt), “Trời cao sông rộng một
màu bao la” (Con nhà Nho cũ)
Ngoài ra, còn có thể kể đến các trƣờng hợp mƣợn ý, nhƣ một thể hiện gần
gũi của phong cách sử dụng điển tích. Có thể kể tới các bài: Định mệnh, Không
hẹn ngày về, Nàng Ba, v.v…
Câu thơ sau trong bài Định mệnh mƣợn ý từ những câu tả con cuốc trong
Qua đèo ngang của Bà huyện Thanh Quan (Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc)
và Cuốc kêu cảm hứng của Nguyễn Khuyến (Năm canh máu chảy đêm hè
vắng/Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ): Hồn con cuốc đã rạc xa cõi bèo (Định
mệnh)
Hay các câu thơ sau đây trong bài Không hẹn ngày về và Nàng Ba mƣợn ý
từ các câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: Hôn hoàng nay lại hoàng hôn
mai ngày(Không hẹn ngày về), Xa mờ núi biếc non phơi bóng vàng (Nàng
Ba). Nguyên thủy của những câu thơ trên là các câu thơ sau đây trong Truyện
Kiều: Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng và Thành xây khói biếc non phơi
bóng vàng

131
Ở trƣờng hợp thay đổi về cách diễn đạt, có thể kể đến các trƣờng hợp điển
hình nhƣ trong các bài Thương nhớ kinh thành, Một đêm li biệt: Câu thơ “Chả
cho nến khóc hộ người nữa đâu” trong bài Thương nhớ kinh thành thực chất là
một cách diễn đạt khác đi câu thơ cổ trong bài Tặng biệt của Đỗ Mục đời
Đƣờng: Lạp chúc hữu tâm hoàn cách biệt/ Thế nhân thùy lệ đáo thiên minh
Hay câu thơ sau trong bài Một đêm li biệt: Lệ Giang châu thấm cho đầy
áo xanh, là một cách diễn đạt khác câu thơ trong bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cƣ
Dị qua bản dịch Phan Huy Ích: Lệ ai chan chứa hơn người/Giang Châu Tư Mã
đượm mùi áo xanh.
3.6.2.2. Phân loại về mặt nguồn gốc
Trong 112 từ ngữ điển tích điển cố thu thập đƣợc, có 89 từ ngữ điển tích
điển cố có nguồn gốc Trung Quốc và 23 điển tích điển cố có nguồn gốc Việt
Nam
Trong 89 điển tích điển cố có nguồn gốc Trung Quốc, nhiều tích truyện
liên quan đến các nhân vật trong lịch sử và văn học đƣợc nhắc đến nhƣ: Tây Thi,
Chức Nữ, Hằng Nga, Chiêu Quân, Lý Bạch, Mạnh Thƣờng Quân, Ngũ Tử Tƣ,
Kinh Kha, Hàn Tín…những địa danh đƣợc nhắc đến nhƣ: Sạn Đạo, nƣớc Ngô,
Cô Tô, Đào Nguyên, bến Tầm Dƣơng, bến Sở sông Tần, các sự việc sự kiện
đƣợc nhắc đến nhƣ: khúc Hậu Đình Hoa, khúc Tỳ bà, chƣa chín nồi kê…
Trong 23 điển tích có nguồn gốc Việt Nam cũng có đủ các loại từ tên
ngƣời, tên địa danh cũng nhƣ các câu thơ ý thơ của các tác giả Việt Nam. Các
tích truyện gắn với tên các nhân vật có nguồn gốc Việt Nam đƣợc nhắc đến nhƣ:
Mai Sinh, Hạnh Nguyên, Kim Kiều, Huyền Trân, Mỵ Nƣơng, Mỵ Châu, Nguyễn
Hiền, Tô Thị, Dã Tràng. Địa danh Việt Nam đƣợc nhắc đến nhƣ Hồ Ba Bể.
So sánh với các tác giả cùng thời, có thể thấy tính dân tộc trong việc sử
dụng điển tích điển cố của Nguyễn Bính là khá đậm nét. Trong khi những nhà
thơ khác nhƣ Huy Cận, Xuân Diệu khi sử dụng điển tích thì chủ yếu dùng những
điển tích có nguồn gốc Trung Quốc, thậm chí Xuân Diệu còn dùng điển tích xuất
phát từ phƣơng Tây trong bài Tình trai: Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine/Hai
chàng thi sĩ choáng hơi men.

132
Còn Nguyễn Bính, ông đã dùng đến 23 điển tích có nguồn gốc bản địa
trong đó có những điển tích xuất phát từ lịch sử (Huyền Trân, Nguyễn Hiền),
điển tích xuất phát từ các câu chuyện cổ tích, truyền thuyết (Dã Tràng, Tô Thị,
Sơn Tinh Thủy Tinh, Mỵ Châu Trọng Thủy), điển tích xuất phát từ các tác phẩm
nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam (Truyện Kiều, Nhị Độ Mai). Nhiều câu
thơ, ý thơ của những tên tuổi lẫy lừng trong văn chƣơng Việt Nam cũng đƣợc
Nguyễn Bính sử dụng để làm nên những điển tích điển cố nhƣ Nguyễn Du,
Nguyễn Khuyến, Đặng Dung, Hồ Xuân Hƣơng và thậm chí Nguyễn Bính còn
mƣợn ý của ca dao trong một số trƣờng hợp.
3.6.2.3. Phân loại và miêu tả theo nội dung
Toàn bộ 112 đơn vị từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính có thể
chia ra thành 3 nhóm chính: nhóm liên quan đến nhân danh, nhóm liên quan đến
địa danh và nhóm các sự vật sự kiện.
Nhóm liên quan đến nhân danh
Nhóm liên quan đến nhân danh gồm 84 đơn vị, gắn với tên của 48 nhân
vật. 48 nhân vật này lại có thể chia thành 4 nhóm: nhóm các nhân vật là nữ,
nhóm các nhân vật là nam, nhóm cặp nhân vật nữ - nam, nhóm cặp nhân vật
nam – nam.
Ở nhóm nhân vật nữ có 14 cái tên đƣợc gợi nhắc đến nhƣ sau: Huyền
Trân (8 lần), Tây Thi (8 lần), Chức Nữ (6 lần), Hằng Nga (4 lần), Chiêu Quân (3
lần), Tô Thị (2 lần), Dƣơng Quý Phi (2 lần), còn lại 4 nhân vật sau nhắc đến 1
lần: Nhị Kiều, cung nữ họ Vƣơng, Lâm Đại Ngọc, Mỵ Châu.
Ở nhóm nhân vật nam có 25 cái tên đƣợc nhắc đến nhƣ sau: Nguyễn
Tịch (3 lần); Mạnh Thƣờng Quân, Ngũ Tử Tƣ, Kinh Kha (4 lần), Lý Bạch,
Tƣơng Nhƣ, Đào Uyên Minh, Khƣơng Duy, Hàn Tín: 2 lần; Nguyệt lão, Phan
An, chàng Lƣu, Tống Trân, Nguyễn Hiền, Nhiếp Chính, Chúa Chổm, chàng trẻ
đất Hàm Đan, Dã Tràng, Vỹ Sinh, Mã Siêu, Lã Bố, Triệu Vân, Trƣơng Phi,
Quan Vũ, Hạng Vũ.
Ở nhóm cặp nhân vật nam – nữ có các điển tích của: Tƣơng Nhƣ – Trác
Thị (2 lần), Kim Trọng – Thúy Kiều (1 lần), Mai Sinh – Hạnh Nguyên (1 lần)

133
Ở nhóm cặp nhân vật nam – nam có điển tích duy nhất của: Bá Nha –
Chung Tử (1 lần)
Việc thể hiện điển tích điển cố liên quan đến các nhân vật kể trên tƣơng
đối đa dạng sinh động chứ không cứng nhắc đơn điệu. Cụ thể, nhà thơ không chỉ
dùng một cách đơn giản trực tiếp là gọi tên chính danh của nhân vật đó mà có
nhiều cách gián tiếp để gọi tên nhân vật, gợi nhớ lại tích truyện của nhân vật ấy.
Chẳng hạn với nhân vật Tây Thi, bên cạnh 5 lần gọi tên chính danh nhân vật, thi
sĩ còn gợi nhớ về tích truyện của nàng qua địa danh Trữ La, hiện lên với ba dạng
thức: xóm Trữ La, bến Trữ La, thôn Trữ La: Con đường sang xóm Trữ La/Cách
một ngày ngựa với ba ngày đò(Thƣ cho chị), Để nhớ một hôm vàng những
nắng/Đưa nàng trở lại Trữ La thôn (Mùa đông gửi cố nhân),Hồn này lãng đãng
trôi trong nắng/Cho được trôi về bến Trữ La(Nhớ ngƣời trong nắng)
Nhắc đến Bao Tự, nhà thơ không chỉ gọi chính danh nàng mà còn gợi
nhắc nàng qua các tích truyện có một không hai gắn liền với tên tuổi nàng: Xé
bao nhiêu lụa rồi/Em không cười nửa miệng/Đốt bao nhiêu lửa rồi/Em không lên
một tiếng/Lòng anh như lụa đây/Tình anh như lửa đấy/Bao Tự ngày xưa
em/Nàng dễ chiều biết mấy(Dối lòng). Nguyễn Bính 2 lần nhắc đến Lý Bạch mà
không cần phải gọi tên ông: Tôi say mơ thấy vì Tiên trích/Vua gọi mà không
chạy xuống thuyền(Cho tôi ly nữa), Mẫu đơn nở đỏ nhà vua nhớ/Câu chuyện
“hô lai bất thượng thuyền”(Xóm Ngự viên)
Kinh Kha là nhân vật nam đƣợc nhắc đến nhiều lần nhất (4 lần) và chỉ
một lần duy nhất dùng đến chính danh bởi dũng sĩ họ Kinh nổi tiếng với câu
chuyện đƣợc tặng đôi tay mỹ nữ và lời thề đi qua sông Dịch: Có tài kẻ chuốc
người mua/Chặt tay mỹ nữ ném rùa vàng thoi(Con nhà Nho cũ), Cờ chưa tàn,
pháo chưa hoàn/Còn sông Dịch đó còn sang tốt đầu(Con nhà Nho cũ), Sông
lạnh thấy đâu người gọi gió/Trăng tà tìm mãi kẻ mài gươm (Xuân vẫn tha
hƣơng), Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén/Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay
(Hành phƣơng Nam)
Tóm lại, có thể thấy Nguyễn Bính có sự am hiểu rất tƣờng tận về các điển
tích điển cố, trong nhiều trƣờng hợp, ông không cần phải nhắc chính danh tên

134
nhân vật trong tích truyện xƣa mà chỉ cần lẩy lại một vài đặc điểm mang tính
chất điển hình, tức thì toàn bộ hình tƣợng cũng nhƣ điển tích đã hiện ra rõ nét.
Chỉ cần một địa danh Ô Giang là đủ nhớ đến điển tích Hạng Vũ: Phải đâu Ba
Thục hay bờ Ô Giang (Nam Kỳ cũng gió cùng mƣa), chỉ cần một hành động
“chôn hoa” là đủ nhớ đến điển tích bất hủ Lâm Đại Ngọc: Chẳng thèm chôn
khóc hoa lê (Xây hồ bán nguyệt), một chi tiết “ông chài thác oan” đủ để nghĩ
ngay đến Ngũ Tử Tƣ: Qua sông đâu có như người trước/Đến nỗi ông chài phải
thác oan (Tạ Từ), một chi tiết “mắt xanh” quá đủ là điển hình cho nhân vật
Nguyễn Tịch: Mắt xanh may được chàng thương tiếc (Tạ từ), một chi tiết “lông
ngỗng” khiến ngƣời đọc không thể quên đƣợc Mỵ Châu: Chao ôi lông ngỗng mà
bay hết (Một lần)
Xét về tƣơng quan nam - nữ trong hệ thống các nhân vật thuộc từ ngữ
điển tích điển cố thơ Nguyễn Bính, có thể thấy tuy các nhân vật nam nổi trội hẳn
về số lƣợng: 25 nam/14 nữ nhƣng mật độ sử dụng, tần số xuất hiện của nữ lại
chiếm ƣu thế hơn hẳn. Ở nhóm nhân vật nam, Kinh Kha là ngƣời đứng đầu bảng
với 4 lần xuất hiện và cũng là ngƣời duy nhất có tần số xuất hiện là 4. Trong khi
đó bên nhóm nữ, ngoài Hằng Nga với 4 lần xuất hiện, các tần số cao nhất thuộc
về Huyền Trân (8 lần), Tây Thi (8 lần) và Chức Nữ (6 lần). Chúng tôi cho rằng
qua hệ thống các nhân vật kể trên gắn với những điển tích điển cố đƣợc thiết lập
trong thơ Nguyễn Bính, có thể thấy đƣợc phần nào quan điểm sống, lí tƣởng,
tình cảm, chí hƣớng của nhà thơ. Chúng tôi cho rằng, Nguyễn Bính là một tâm
hồn đa tình, đa cảm, luôn khát khao say đắm thiết tha đến mê mị với các giai
nhân. Bên cạnh đó, ông cũng thích những gì mạnh mẽ, dứt khoát, thích những
tráng chí ra đi vì nghĩa lớn, thích giang hồ gió bụi, nhƣng sau hết Nguyễn Bính
chắc chắn là ngƣời duy tình chứ không phải duy lí, ông đề cao chữ tình, chữ
nghĩa, sống nặng tình và thậm chí là lụy tình chứ ít khi để lí trí lên ngôi. Điều
này không chỉ đƣợc rút ra qua việc nghiên cứu hệ thống từ ngữ điển tích điển cố
trong thơ ông mà chúng còn đƣợc khẳng định qua nhiều góc nhìn khác nữa trong
những nghiên cứu của chúng tôi về Nguyễn Bính.

135
Nhóm liên quan đến địa danh
Có tất cả 19 địa danh đƣợc nhắc đến trong hệ thống từ ngữ điển tích điển
cố của Nguyễn Bính. Hầu hết các địa danh đều gắn với một nhân vật nào đó đi
kèm, chẳng hạn đất Lâm Cùng gắn với câu chuyện Tƣơng Nhƣ – Trác Thị, đất
Hồ gắn với nàng Chiêu Quân, Trữ La gắn với Tây Thi, sông Dịch gắn với Kinh
Kha, sông Ngân gắn với Ngƣu Lang Chức Nữ…Nói cách khác, đa số các địa
danh trong số này đều biểu hiện những điển tích điển cố đã đƣợc kể đến ở mục
nhóm từ ngữ điển tích điển cố liên quan đến nhân danh. Tuy nhiên có một số địa
danh đặc biệt, tính chất của nó không nhất thiết phải gắn với một nhân vật cụ thể
nào. Nói cách khác, nó có một giá trị tự thân để làm thành một biểu tƣợng, đó là
các đơn vị: đường Sạn Đạo, Hồ Ba Bể, Bát Tràng, mây Tần, sông Tương.
Câu thơ có điển tích đƣờng Sạn Đạo nằm trong bài Mùa đông gửi cố
nhân: Buồn đến lòng tôi rồi hạ trại/Đốt đường Sạn Đạo ở luôn đây.
Trƣớc hết cần cắt nghĩa “sạn đạo”. Sạn đạo là con đƣờng xây bằng cầu
treo hoặc ván gỗ xếp hai bên sƣờn núi đá, dùng để đi qua các khu vực núi non
hiểm trở. Điển tích Sạn Đạo liên quan đến câu chuyện Trƣơng Lƣơng chỉ đạo
đốt đƣờng sạn đạo để quân sĩ của Lƣu Bang một lòng một dạ với chủ nhân,
không còn nghĩ về ngày trở về nữa. Trong câu thơ của Nguyễn Bính, điển tích
trên đƣợc dùng với ý nghĩa: nỗi buồn sẽ ở lại mãi trong lòng ngƣời, không có
đƣờng ra nữa. Nhƣ vậy, với điển tích này, chúng ta chỉ cần tri nhận thuần túy về
địa danh chứ không nhất thiết phải nhớ đến Trƣơng Lƣơng, Sạn Đạo không trở
thành biểu tƣợng cho Trƣơng Lƣơng. Điều này khác với mối quan hệ của các
trƣờng hợp nhƣ Trữ La thôn và Tây Thi, sông Dịch và Kinh Kha.
Các địa danh Hồ Ba Bể, Bát Tràng là những cái tên quen thuộc với ngƣời
Việt. Các địa danh này nằm trong các câu thơ thuộc hai bài Chị đã ghen và Xây
hồ bán nguyệt: Sóng hồ Ba Bể dâng cao quá/Con trạch Ngân hà vỡ tứ tung (Chị
đã ghen), Em đi kiếm gạch Bát Tràng/Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân
(Xây hồ bán nguyệt)
Địa danh Hồ Ba Bể gắn với điển tích một câu chuyện cổ của Việt Nam.
Ngƣời đàn bà ăn mày thực chất là một con giao long bị dân làng ruồng bỏ đã

136
nhấn chím cả ngôi làng trong một trận đại hồng thủy, chỉ riêng hai mẹ con bà
góa đã giúp đỡ ngƣời ăn mày thì đƣợc cứu. Dùng điển tích này, Nguyễn Bính
muốn diễn tả cơn ghen của ngƣời phụ nữ. Địa danh Bát Tràng thì đã quá rõ ràng,
đó đƣợc xem là làng nghề bậc nhất về các sản phẩm gạch, gốm. Câu thơ của
Nguyễn Bính cũng mƣợn ý từ câu ca dao có từ lâu đời: Bao giờ anh lấy được
nàng/Để anh mua gạch Bát Tràng về xây.Địa danh Mây Tần có ý nghĩa chỉ nỗi
nhớ quê hƣơng, nó xuất phát từ câu thơ của Hàn Dũ đời Đƣờng: Vân hoành Tần
lĩnh gia hà tại/(Mây che ngang núi Tần biết rằng quê nhà ở đâu).Mây Tần đã
xuất hiện đến ba lần trong thơ Nguyễn Bính: Thôn Vân ơi hỡi thôn Vân/Phương
nao kết giải mây Tần cho ta/Từ nay khi nhớ quê nhà/Thấy mây Tần đó ngỡ là
thôn Vân (Anh về quê cũ),Mây Tần lạc nẻo cố hương mất rồi(Nửa đêm nghe
tiếng còi tàu)
Địa danh cuối cùng, sông Tƣơng gắn với bài thơ cổ khuyết danh, gợi ý
nghĩa về nỗi nhớ giữa hai ngƣời với nhau: Quân tại Tương giang đầu/Thiếp tại
Tương giang vĩ/Tương tư bất tương kiến/Đồng ẩm Tương giang thủy.Câu thơ có
điển tích sông Tƣơng của Nguyễn Bính nằm trong bài thơ Xuân vẫn tha hương:
Đầu sông ai nhớ cuối sông Tương
Nhóm liên quan đến sự vật sự việc
Nhóm này có 3 đơn vị điển tích điển cố: khúc tỳ bà, khúc Hậu đình hoa và
chưa chín nồi kê:Một lứa bên trời chung lận đận/Thương nhau cha soạn khúc tỳ
bà (Oan nghiệt),Đổi thay tình nghĩa như cơm bữa/Khúc “Hậu đình hoa” hát tự
nhiên(Xóm Ngự viên), Chẳng thèm chôn khóc hoa lê/Đã làm chưa chín nồi kê
cũng làm(Xây hồ bán nguyệt)
Điển tích khúc tỳ bà nhắc về câu chuyện Tƣ Mã Giang Châu Bạch Cƣ Dị
và ngƣời kỹ nữ cô đơn trên bến Tầm Dƣơng. Hình tƣợng khúc tỳ bà trở thanh
điển tích trong thơ Nguyễn Bính mang ý nghĩa về sự đồng cảm chia sẻ của
những tâm hồn đồng điệu, gặp nhau trong những hoàn cảnh lỡ bƣớc long đong.
Khúc Hậu đình hoa vốn là tên một tập thơ rồi đƣợc phổ thành những khúc
hát, là sáng tác của Trần hậu chủ, một ông vua thời Nam Bắc triều (420 - 587).
Ông vua này mải mê tửu sắc đàn ca mà mất nƣớc nên ngƣời đời sau cho rằng

137
Hậu đình hoa là khúc ca không nên hát lại. Dùng điển tích này, Nguyễn Bính
muốn bày tỏ ý nuối tiếc quá khứ, tiếc một thời đã qua
Chƣa chín nồi kê là điển tích xuất phát từ một câu chuyện có tên Hoàng
lƣơng (giấc kê vàng) đƣợc chép trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh (1640 -
1715). Truyện kể về một thƣ sinh họ Lữ ngủ một giấc mà nằm mộng thấy cả một
kiếp ngƣời của mình, khi tỉnh giấc nồi kê vẫn chƣa chín. Điển tích này từ đó
mang ý nghĩa chỉ về đời ngƣời vụt qua nhƣ một giấc mộng, những thăng trầm
hay phú quý vinh hoa chỉ là thoáng chốc. Nguyễn Bính sử dụng điển tích này với
ý phản ngữ, có chút cƣờng điệu trong diễn đạt với ý dù đời ngƣời có nhƣ một
giấc kê vàng thì cũng vẫn phải làm điều mình đang mong muốn ƣớc ao.
3.6.3. Giá trị của việc sử dụng từ ngữ điển tích điển cố trong thơ
Nguyễn Bính
Việc sử dụng từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính nhƣ những
gì chúng tôi vừa trình bày đã thể hiện những nét riêng biệt độc đáo trong thơ
Nguyễn Bính, góp phần làm nên phong cách của ông đồng thời cũng bộc lộ
nhiều điều về chính nhân thân của ông.
Việc dùng nhiều các điển tích có nguồn gốc Trung Quốc trƣớc hết chứng
tỏ sự uyên bác, dày dặn trong tri thức của ngƣời cầm bút và cũng đồng thời nói
với ta rằng, Nguyễn Bính chính là nhà thơ của thời kỳ hiện đại nhƣng lại cũng
thuộc lớp nhà Nho cuối cùng của giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, đƣợc học nhiều
chữ Hán, tích truyện Hán và nuôi dƣỡng trong hồn một bầu không khí văn hóa
cổ truyền không bao giờ xóa nhòa đƣợc. Nguyễn Bính, về mặt xuất thân sẽ rất
khác với những lớp ngƣời nhƣ Xuân Diệu – đại diện cho một lớp tri thức Tây
học mới. Dễ hiểu vì sao trong thơ Xuân Diệu có những điển tích xuất phát từ
phƣơng Tây trong khi thơ Nguyễn Bính tuyệt nhiên không hề có.
Bên cạnh việc dùng những điển tích có nguồn gốc Trung Quốc, Nguyễn
Bính cũng dành một số lƣợng không nhỏ các điển tích của Việt Nam, trong đó có
việc sử dụng nhiều câu thơ, ý thơ của các thi tài lẫy lừng nhƣ Nguyễn Du,
Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hƣơng, Đặng Dung cũng nhƣ sử dụng cả ý tứ của ca
dao. Điều này cho thấy một tình cảm dân tộc đậm nét, tự hào về truyền thống thi

138
ca, về lớp tiền bối đã đi trƣớc. Độc giả khi đọc những điển tích điển cố mang
những dấu ấn trên sẽ có cảm giác ấm lòng, gần gũi, quen thuộc nhƣ gặp lại
ngƣời thân. Âu đó cũng là một cánh cửa khiến thơ Nguyễn Bính đƣợc nhiều tầng
lớp độc giả đón nhận và chia sẻ một cách hết sức dễ dàng.
Việc sử dụng điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính dĩ nhiên góp phần
tạo ra một phong vị cổ điển, cổ kính trong thơ ông, pha trộn giữa chất cổ điển
mang đậm hồn dân tộc và chất cổ điển kinh viện gắn với nền văn liệu sử liệu của
Trung Hoa. Nếu nhƣ những điển tích mang nguồn gốc Việt Nam có thể giúp thơ
Nguyễn Bính gần hơn với độc giả thì những điển tích có nguồn gốc Trung Hoa
lại yêu cầu độc giả phải có một trình độ nhất định, một phông văn hóa nhất định
mới có thể hiểu và cảm thụ một cách dễ dàng. Đây có lẽ lại là một lí do khác nữa
góp phần khiến thơ Nguyễn Bính có nhiều tầng lớp độc giả ở các trình độ khác
nhau.
Trong nhiều trƣờng hợp, việc sử dụng điển tích điển cố rõ ràng đƣợc trình
bày nhƣ một thủ pháp nghệ thuật đặc biệt trong thơ Nguyễn Bính, góp phần làm
nổi bật chủ đề của bài thơ, nhúng bài thơ vào một không khí xƣa cũ, thậm chí tạo
nên một sự đa thanh trong giọng điệu, vừa cổ kính lại vừa hiện đại, vừa trầm
mặc suy tƣ vừa lãng tử giang hồ. Các bài điển hình nhất thể hiện sự thành công
nổi bật của nghệ thuật sử dụng điển tích điển cố là các bài: Hành phƣơng Nam,
Tạ từ, Xuân vẫn tha hƣơng. Các câu thơ chứa điển tích điển cố trong những
bài thơ trên xuất hiện với mật độ dày đặc và nối nhau liên tiếp, tạo ra một nhịp
thơ rất đặc biệt, xen lẫn chất bi với chất hùng: Hỡi ơi Nhiếp Chính mà băm
mặt/Giữa chợ ai người khóc nhận thây/Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén/Ai
kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay/Mơ gì Ấp Tiết thiêu văn tự/Giày cỏ gươm cùn, ta đi
đây(Hành phƣơng Nam), Chị ạ em không người nước Sở/Nhớ nhà đâu mượn
địch Trương Lương/…Cửa quan chưa mở đầu Viên bạc/Tri kỷ không ai mắt Tịch
cuồng/…Đã coi đồng bạc to hơn núi/Lại học đòi theo thói Mạnh Thường/…Sông
lạnh thấy đâu người gọi gió/Trăng tà tìm mãi kẻ mài gươm(Xuân vẫn tha hƣơng)
Việc dùng điển tích điển cố một cách tinh tế khéo léo của Nguyễn Bính có
lần còn bày tỏ đƣợc tình cảm dân tộc trong bối cảnh mất độc lập. Xét trong

139
phong trào Thơ Mới, không phải ai cũng thể hiện đƣợc ngụ ý này một cách có
chủ đích. Nói thế nghĩa là, cái buồn vu vơ lay lắt, lúc bàng bạc lúc mênh mang là
thứ có thể tìm thấy dễ dàng trong Thơ Mới mà các nhà nghiên cứu từng gọi nó là
nỗi buồn thời đại. Nhƣng để xây dựng đƣợc một hình tƣợng nghệ thuật rõ ràng,
kín đáo bày tỏ lòng yêu nƣớc thì thi ca thời kỳ Thơ Mới cũng chỉ đếm trên đầu
ngón tay. Nếu nhƣ Thế Lữ thành công với hình tƣợng con hổ trong Nhớ rừng,
Chế Lan Viên thành công với nỗi nhớ tiếc tháp Chàm và giống dân Hời thì tôi
cho rằng Nguyễn Bính đã thành công với thi phẩm Xóm Ngự viên trong sự góp
mặt đắc lực của điển tích “khúc Hậu đình hoa”. Nhƣ đã có dịp nói ở phần trên,
khúc Hậu đình hoa đƣợc coi là khúc nhạc mất nƣớc, nó gắn liền với sự sụp đổ
của một triều đại. Hát khúc ca đó là nhớ về hồn nƣớc của một thời đã xa. Không
phải ngẫu nhiên mà bài thơ Xóm Ngự Viên lại chọn không gian là kinh đô cuối
cùng của triều Nguyễn, là thủ phủ cuối cùng của nhà nƣớc phong kiến Việt nam.
Đặt điển tích khúc Hậu đình hoa vào mạch liên kết chung của toàn bài thơ, ta sẽ
dễ dàng đọc ra cái ngầm ý của ngƣời cầm bút. Và chìa khóa quan trọng của bài
thơ, nỗi niềm thời thế đƣợc ẩn giấu đã bật ra rõ nhất qua hai câu kết của thi
phẩm: Hôm nay có một người du khách/Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên.
Tóm lại, việc sử dụng từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính
trƣớc 1945 là một đặc điểm thú vị. Nó không chỉ góp phần làm nên một diện
mạo, một phong cách thơ Nguyễn Bính mà nó còn bảy tỏ với ta nhiều điều về
nhân sinh quan, thế giới quan, con đƣờng xuất thân thi ca của tác giả. Việc sử
dụng từ ngữ điển tích điển cố vừa bộc lộ kiến văn dày dặn uyên bác, vừa bộc lộ
khả năng thể hiện một cách đa dạng và sinh động các điển tích, để tránh rơi vào
sự lặp lại nhàm chán và khuôn sáo. Những câu thơ có sự góp mặt của điển tích
điển cố trong các sáng tác của Nguyễn Bính luôn tạo đƣợc một giọng điệu âm
hƣởng riêng, vừa cổ kính vừa hiện đại, gây đƣợc những hiệu ứng mỹ cảm và rất
ấn tƣợng đối với ngƣời đọc. Sau cùng, điển tích điển cố còn đƣợc vận dụng nhƣ
một phƣơng tiện đắc lực nhằm kín đáo bày tỏ đƣợc nỗi niềm thời thế, tình cảm
sâu nặng với dân tộc trong hoàn cảnh còn mất độc lập tự chủ, âm thầm đợi chờ
và hy vọng khôn nguôi về một ngày mai tƣơi sáng cho tƣơng lai của dân tộc.

140
3.7. Tiểu kết
Nhƣ vậy, chƣơng 3 đã đi vào khảo sát và miêu tả 6 khu vực ngữ nghĩa mà
chúng tôi cho rằng quan trọng và nổi trội: thời gian nghệ thuật, không gian nghệ
thuật, một số tín hiệu thẩm mỹ, các yếu tố ngôn ngữ chỉ con ngƣời, các yếu tố
ngôn ngữ chỉ thiên nhiên và từ ngữ điển tích điển cố.Có thể nói, phong cách
Nguyễn Bính qua những khảo tả nói trên hiện ra đậm nét và riêng biệt, không thể
trộn lẫn với các thi sĩ cùng thời. Ở khu vực không gian, ngoài chất nông thôn,
quê mùa in đậm dấu ấn đồng bằng Bắc Bộ là chất giang hồ phiêu lãng của một
con ngƣời ƣa xê dịch. Ở khu vực thời gian, buổi chiều áp đảo buổi sáng, ban
đêm áp đảo ban ngày đã thể hiện phần nào thế giới quan của Nguyễn Bính với
nhiều buồn thƣơng, dở dang tan vỡ. Ngoài những cách thể hiện mang tính ƣớc
lệ, Nguyễn Bính cũng có nhiều đổi mới, sáng tạo trong những biểu hiện về thời
gian nhƣ thời gian sự kiện, thời gian giả định, thời gian phi tuyến tính…Bên
cạnh đó, sự chi tiết hóa, tỉ mỉ các đơn vị và những biểu hiện của thời gian thực
sự mang lại một bức tranh sống động nhiều màu sắc. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ
con ngƣời và thiên nhiên góp phần cho ta thấy một chất chân quê hiện lên đầy
đủ, toàn diện, vừa đƣơng đại lại vừa cổ kính xa xăm; trong đó thiên hƣớng về
“tính nữ” có thể xem là một điều rất đặc biệt trong các thi phẩm của Nguyễn
Bính. Những biểu hiện của các tín hiệu thẩm mỹ nổi bật và cách sử dụng từ ngữ
điển tích điển cố cho ta thấy sự linh hoạt, sáng tạo, trau chuốt, công phu với
nhiều tìm tòi đổi mới về hình thức cũng nhƣ những giá trị nội dung tƣ tƣởng mà
nhà thơ đã gửi gắm.
Dù những hạn chế của lịch sử, thời đại đã không khỏi khiến Nguyễn Bính
ít nhiều rơi vào sự bế tắc, yếm thế, bi quan nhƣng thơ ông vẫn kín đáo bày tỏ
đƣợc tình cảm dân tộc, tinh thần của một nhân sĩ yêu nƣớc, nặng lòng với quê
hƣơng, luôn ngóng chờ một ngày mai tƣơi sáng hơn, luôn trông mong một thay
đổi sẽ đến với cuộc đời của chính mình cũng nhƣ tất cả mọi ngƣời.

141
KẾT LUẬN

Nguyễn Bính là một tác giả lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam nói
chung, phong trào Thơ Mới lãng mạn 1932 – 1945 nói riêng. Nếu nhƣ có những
tác giả đƣợc giới phê bình nghiên cứu xếp vào hàng “nhà thơ của một thời”, thì
Nguyễn Bính, ngƣợc lại, đƣợc coi là “nhà thơ của mọi thời”. Nói theo cách của
Hoài Thanh, thơ Nguyễn Bính đã gọi về trong mỗi chúng ta “hồn xƣa của đất
nƣớc”. Cái hồn cốt quê mùa mà chân thật ấy khiến mỗi ngƣời đọc đều bắt gặp
mình ở trong ông, và lòng ta ngân rung lên, đồng cảm với bao nỗi niềm trong thơ
ông. Một bức tranh toàn cảnh về thơ Nguyễn Bính trƣớc Cách mạng qua góc
nhìn ngôn ngữ học đƣợc chúng tôi cố gắng phác họa qua cả hai bình diện hình
thức và ngữ nghĩa với một số đặc điểm nổi bật về cả ngữ âm, ngữ pháp và từ
vựng đã đƣợc trình bày qua hai chƣơng chính của luận án. Và sau đây là những
tóm gọn then chốt về những giá trị nội dung cũng nhƣ nghệ thuật mà thơ Nguyễn
Bính đã mang tới cho ngƣời đọc khiến tác phẩm của ông neo mãi cùng hậu thế:
1. Về mặt vần thơ, vần chính luôn là lối hòa âm chiếm ƣu thế, vần thông
chiếm số lƣợng thứ nhì và hầu hết đều xuất hiện ở dạng lý tƣởng, đặc biệt không
bao giờ có vần ép. Ở khu vực các bài thất ngôn, tỷ lệ vần chính là 57% (652 cặp)
và vần thông là 43% (485 cặp). Ở khu vực các bài lục bát, tỷ lệ vần chính là 58%
(1094 cặp) và vần thông là 42% (805 cặp). Đây là cơ sở quan trọng để thơ
Nguyễn Bính trở nên dễ nhớ, dễ thuộc, đi vào lòng đông đảo quần chúng nhân
dân, nhanh chóng đƣợc chuyển thành những bài hát ru, hát ngâm, đồng thời nhạc
tính của tác phẩm cũng trở nên dồi dào, tạo điều kiện thuận lợi để các nhạc sĩ
phổ nhạc. Nguyễn Bính là thi sĩ lãng mạn có số lƣợng bài thơ đƣợc phổ nhạc
nhiều nhất (11 bài thơ với 14 bản phổ). Phân bố vần trong thơ thất ngôn với mô
hình AABA chiếm số lƣợng chủ đạo (72% với 441 khổ thơ) gợi về phong vị cổ
điển của bài thất ngôn bát cú Đƣờng luật. Phân bố vần trong thơ lục bát, ngoài
cách hiệp vần truyền thống bằng chữ thứ 6 của câu bát với chữ thứ 6 của câu lục,
Nguyễn Bính còn có nhiều linh hoạt khi hiệp vần chữ thứ 4 của câu bát với chữ
thứ 6 của câu lục, nhằm thể hiện những dụng ý nghệ thuật riêng trong mỗi

142
trƣờng hợp khác nhau. Thi sĩ chân quê cũng thể hiện đƣợc những nét tài hoa về
vần qua những bài thất ngôn trƣờng thiên độc vận và những bài lục bát gieo vần
chính tuyệt đối, tạo nên ấn tƣợng sâu đậm cho ngƣời đọc. Về nhịp điệu, Nguyễn
Bính có nhiều sáng tạo, cách tân khi sử dụng những nhịp ngắt mới trong cả thơ
thất ngôn cũng nhƣ lục bát, mang đến nhiều cảm xúc mới mẻ cho ngƣời đọc. Ở
thể lục bát là sự hiện diện của hàng loạt nhịp lẻ nhƣ 1/1/4, 1/5, 2/1/3, 3/3/2,
3/5…thay thế cho cách thể hiện nhịp chẵn đều đặn vốn từng gặp nhiều trong lục
bát truyền thống, của ca dao hay một số tác phẩm truyện thơ thời trung đại. Ở thể
thất ngôn, các hình thức mới của ngắt nhịp, đặc biệt là nhịp 2/5 và 5/2 đã đƣợc
sử dụng một cách biến hóa và linh hoạt, thay thế cho hai hình thức ngắt nhịp 4/3
và 2/2/3 vốn đã quá quen thuộc trong thơ Đƣờng luật truyền thống. Những cách
kết lửng bằng câu lục trong bài lục bát hoặc việc thay thế số lƣợng âm tiết trong
dòng thơ thất ngôn cũng góp phần mang tới những cảm giác mới mẻ về nhịp
điệu trong mỗi thi phẩm.
2. Những biểu hiện ở phần ngữ pháp của thơ cũng mang đến cho ngƣời
đọc nhiều điểm thú vị. Bên cạnh việc sử dụng những câu hỏi tu từ để tạo ra
những truyền cảm riêng có về nghệ thuật, việc sử dụng dấu ba chấm một cách
linh hoạt trong mỗi dòng thơ là sáng tạo độc đáo của Nguyễn Bính, đặc biệt hơn
nữa khi dấu ba chấm có khả năng tham gia vào việc xây dựng hình tƣợng thơ.
Phép tu từ cú pháp điệp ngữ đƣợc sử dụng một cách dày đặc trong thơ Nguyễn
Bính, gợi nhớ về sự tƣơng đồng phong cách của ca dao, khiến thơ Nguyễn Bính
tăng thêm chất gần gũi và dân dã. Việc sử dụng các hƣ từ với một tần số cực cao
mang đến cho thơ Nguyễn Bính gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân,
mang đậm chất khẩu ngữ, chất quê mùa, những cách nói mang đúng dấu ấn nông
thôn Bắc Bộ nhƣ: biết đâu, đời nào, ai đời, chẳng lẽ, những tưởng, mà lại, đã
đành… đã làm nên một giọng điệu riêng của Nguyễn Bính.
3. Hệ thống từ vựng ngữ nghĩa mới thực sự là khu vực tạo ra chất nông
thôn, quê mùa đậm đặc nhất trong thơ Nguyễn Bính. Cũng qua đây, ta thấy đƣợc
nhiều cá tính sáng tạo độc đáo của nhà thơ qua những biểu hiện về không gian
nghệ thuật, thời gian nghệ thuật.

143
Ở khu vực không gian nghệ thuật, các tín hiệu ngôn ngữ chỉ không gian
nông thôn xuất hiện một cách đậm đặc nhƣ làng, thôn, xóm, ngõ, vườn, bến,
đồng, bến, chùa, đê…đã thể hiện chất quê mùa rất riêng của Nguyễn Bính, gợi
lên đúng không khí của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Và quan trọng hơn, những tín
hiệu đó đƣợc thổi vào đầy những cung bậc tâm trạng của chủ thể trữ tình chứ
không đơn thuần là tả cảnh. Nguyễn Bính còn sử dụng những chất liệu mà các
nhà thơ nông thôn cùng thời không hề có nhƣ: giếng thơi, giậu mùng tơi…, tạo
nên những dấu ấn đặc biệt với nhiều câu thơ lay động lòng ngƣời. Bên cạnh chất
thôn quê đƣợc gợi lên từ những không gian nông thôn, 18 tín hiệu không gian
lãng du phiêu bạt cùng 66 địa danh cụ thể đã thể hiện chất giang hồ đậm nét
trong thơ Nguyễn Bính.
So với các thi sĩ lãng mạn cùng thời, chỉ có Nguyễn Bính mới tạo nên một
bức tranh thời gian tới độ chi tiết tỉ mỉ bậc nhất bởi sự hiện diện đầy đủ các đơn
vị: khắc, giây, phút, giờ, sáng, chiều, trưa, tối, ngày, tháng, năm, xuân, hạ, thu,
đông, rồi một loạt các “khái niệm mùa” thật đặc biệt khác nhƣ: mùa vải, mùa
cốm, mùa hồng, mùa hoa, mùa sen, mùa gió bấc, mùa mơ, mùa xanh, mùa mai
trắng, mùa nắng…Không chỉ thế, trong cùng một khoảng thời gian là chiều hoặc
đêm lại có nhiều cách diễn đạt, điều này vừa thể hiện sự linh hoạt sáng tạo, vừa
nhất quán trong tinh thần khắc họa thời gian một cách cụ thể và chi tiết. Trong
thơ Nguyễn Bính, có thể thấy buổi chiều áp đảo buổi sáng, ban đêm áp đảo ban
ngày, điều này góp phần phản ánh một cảm hứng bi quan, buồn thƣơng bao phủ
hầu hết các sáng tác của thi sĩ chân quê. Các câu chuyện trong thơ Nguyễn Bính
có xu hƣớng nghiêng về tính bi kịch, dở dang và tan vỡ.
Trong khu vực thời gian của năm, thi sĩ đặc biệt tỏ ra “nặng lòng” hơn cả
với mùa xuân. Sự tƣơng hợp giữa mùa xuân và tín hiệu thẩm mỹ “bƣớm” gián
tiếp phản ánh với chúng ta nhiều điều về thế giới tâm hồn nhà thơ. Các cấu trúc
thời gian sự kiện với những biểu hiện phi tuyến tính, thời gian giả định, thời gian
ƣớc lệ cũng là những nét đặc sắc khác trong biểu hiện thời gian nghệ thuật.
Những gửi gắm qua tín hiệu thẩm mỹ “vƣờn” cùng những nỗi niềm giăng
mắc giữa nông thôn – thành thị khiến thơ Nguyễn Bính kín đáo thổ lộ một tấm

144
tình chứa chan với quê hƣơng đất nƣớc. Bên cạnh tín hiệu thẩm mỹ chỉ không
gian “vƣờn”, hai tín hiệu thẩm mỹ đặc sắc khác là “bƣớm” và “rƣợu” cho ta hiểu
một cách đầy đủ hơn về nhân sinh quan, thế giới quan của nhà thơ cũng nhƣ
phản ánh tâm trạng chung của cả một tầng lớp trí thức tiểu tƣ sản nửa đầu thế kỷ
XX.
Hệ thống các từ ngữ điển tích điển cố chiếm một vị trí quan trọng trong
các sáng tác trƣớc 1945 làm hiện lên một Nguyễn Bính cổ kính, trầm lắng với
chất thơ của Đƣờng thi, in bóng nhiều kiệt tác trong nền thơ cổ điển của ngƣời
Việt. Hệ thống các từ ngữ điển tích điển cố cũng phản ánh con đƣờng xuất thân
thi ca của tác giả (học chữ Hán từ nhỏ), thể hiện một kiến văn dày dặn, uyên bác,
đồng thời việc vận dụng điển tích điển cố cũng bày tỏ đƣợc nỗi niềm thời thế
tình cảm sâu nặng với dân tộc trong hoàn cảnh còn mất độc lập tự chủ, âm thầm
đợi chờ và hy vọng khôn nguôi về một ngày mai tƣơi sáng hơn.
4. Khu vực các yếu tố ngôn ngữ chỉ con ngƣời cũng nói với ta nhiều điểm
thú vị về cuộc đời, tính cách cũng nhƣ phong cách thơ Nguyễn Bính. Mồ côi mẹ
khí mới 3 tháng tuổi, hình ảnh ngƣời chị đã chiếm một vị trí quan trọng trong sự
nghiệp thơ của ông, nhƣ một khát khao đƣợc an ủi, sẻ chia để bù đắp đi những
thiếu hụt của tình mẫu tử. Có lẽ từ cảm hứng này mà một thiên hƣớng về “tính
nữ” đã phát triển một cách đặc biệt trong thơ Nguyễn Bính, thể hiện qua việc tần
số các từ ngữ chỉ phụ nữ nhiều hơn hẳn các từ ngữ chỉ nam giới (cả trong thơ
tình cũng nhƣ khu vực điển tích điển cố), các từ chỉ mẹ nhiều hơn chỉ bố, đặc
biệt là một loạt các đơn vị tên riêng nữ giới đã đi vào nhiều bài thơ tình của
Nguyễn Bính, nhƣ những bóng hồng không thể phai mờ trong cuộc đời nhà thơ.
Cái tôi phóng túng, đa tình, lãng tử của ông vì thế càng bộc lộ rõ nét. Những từ
ngữ chỉ con ngƣời trong thơ Nguyễn Bính cũng góp phần tạo dựng một không
khí nông thôn Bắc Bộ, đậm chất quê mùa, cổ kính với những anh khóa, cô bán
rượu, cô hái mơ, thiếu nữ trồng dâu nuôi tằm, cô lái đò, cô thợ nhuộm….Tất cả
khắc sâu trong ấn tƣợng mỗi ngƣời đọc và làm nên một chất thơ riêng của thi sĩ
chân quê.

145
sTÀI LIỆU THAM KHẢO

A. TIẾNG VIỆT

1. Aristote (1964), Nghệ thuật thi ca, NXB Văn hoc, HN.
2. Lại Nguyên Ân (1993), Cuộc cải cách thơ của phong trào Thơ Mới và
tiến trình thơ tiếng Việt, Tạp chí Văn học, số 1.
3. Diệp Quang Ban (2003), Giao tiếp văn bản. Mạch lạc liên kết đoạn
văn. NXB KHXH, HN.
4. Nguyễn Bính - Về tác gia và tác phẩm (2003), Hà Minh Đức – Đoàn
Đức Phƣơng tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo dục, HN.
5. Phan Kế Bính (1930), Việt Hán văn khảo, NXB Trung Bắc Tân văn.
6. Võ Bình (1975), Bàn thêm một số vấn đề về thơ, Tạp chí Ngôn ngữ, số
3.
7. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, NXB Đại học và Trung học
Chuyên nghiệp, HN.
8. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng – Từ ghép – Đoản
ngữ), NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN.
9. Đỗ Hữu Châu (1998). Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng. NXB Giáo dục,
HN.
10. Đỗ Hữu Châu (1986). Các bình diện của từ và từ tiếng Việt. NXB
Khoa học Xã hội, HN.
11. Đỗ Hữu Châu (2001), Đại cương ngôn ngữ học (tập 1 và 2), NXB
Giáo dục, HN.
12. Vũ Thị Sao Chi (2015). Nhịp điệu ngôn ngữ thơ văn Việt Nam, NXB
Khoa học Xã hội, HN.
13. Huỳnh Ngọc Chiến (2001), Lý Hạ quỷ tài quỷ thi, NXB Trẻ, TP Hồ
Chí Minh.
14. Mai Ngọc Chừ (2005) Vần thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học
(Tái bản). NXB Văn hóa – Thông tin, HN.

146
15. Mai Ngọc Chừ (2009), Văn hóa và ngôn ngữ phương Đông, NXB
Phƣơng Đông, HN.
16. Cao Hữu Công - Mai Tổ Lân (2000), Nghệ thuật ngôn ngữ thơ
Đường, NXB Văn học, HN.
17. Hoàng Cao Cƣơng (2007), Cơ sở nối kết lời tiếng Việt, T/C Ngôn ngữ
số 8+9.
18. Phan Huy Dũng (1999), Kết cấu thơ trữ tình nhìn từ góc độ loại hình,
Luận án tiến sĩ ngữ văn, Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
19. Phan Huy Dũng (2001), Nhận diện nhịp điệu thơ trữ tình, Tạp chí
Ngôn ngữ, số 16.
20. Hữu Đạt (2000), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, NXB KHXH, HN.
21. Hữu Đạt (1999), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, NXB KHXH,
HN, 1999.
22. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu thơ trữ tình, NXB Văn học,
HN.
23. Hà Minh Đức – Bùi Văn Nguyên (1968), Thơ ca Việt Nam: Hình thức
và thể loại, NXB KHXH, HN.
24. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vẫn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,
NXB KHXH, HN.
25. Bùi Giáng trong cõi người ta (2008), NXB Lao động, Trung tâm
Ngôn ngữ văn hoá Đông Tây, HN.
26. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Từ vựng học tiếng Việt (tái bản), NXB
Giáo dục, HN.
27. Hồ Thế Hà (2004), Thế giới nghệ thuật thơ Chế Lan Viên, NXB Văn
học, HN.
28. Nguyễn Thị Thanh Hà (2002), Hiện tượng láy với việc tạo tính nhạc
trong thơ ca, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4.
29. Nguyễn Thị Thanh Hà (2002), Giá trị nghệ thuật và các phương thức
sử dụng hiện tượng láy trong thơ ca Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện
Ngôn ngữ học.

147
30. Hồ Văn Hải (2004), Khảo sát một số đặc trưng ngôn ngữ thơ lục bát
hiện đại (trên tác phẩm của một số nhà thơ), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn,
ĐHKHXH&NV, ĐHQG HN.
31. Dƣơng Quảng Hàm (2002), Việt Nam văn học sử yếu (tái bản), NXB
Hội nhà văn, HN.
32. Hoàng Văn Hành (1991). Từ ngữ tiếng Việt trên đường hiểu biết và
khám phá. NXB Khoa học Xã hội, HN.
33. Lƣu Hiệp (2007), Văn tâm điêu long. NXB Lao động, Trung tâm văn
hoá ngôn ngữ Đông Tây, HN.
34. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, HN.
35. Nguyễn Quang Hồng – Phan Diễm Phƣơng (2017), Âm tiết tiếng Việt
và ngôn từ thi ca. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
36. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, NXB Văn hóa
Thông tin, HN.
37. Bùi Công Hùng (2001), Sự cách tân thơ văn Việt Nam hiện đại, NXB
Văn hóa Thông tin, HN.
38. Jakobson (2008), Thi học và ngữ học – Lí luận văn học phương Tây
hiện đại, Trần Duy Châu biên khảo, NXB Văn học – Trung tâm nghiên cứu
Quốc học.
39. Jean Chevalier – Alain Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn
hoá thế giới, NXB Đà Nẵng - Trƣờng viết văn Nguyễn Du.
40. Đinh Trọng Lạc (1993), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, NXB
Giáo dục, HN.
41. Đinh Trọng Lạc (1996), 99 biện pháp tu từ tiếng Việt, NXB Giáo
dục, HN.
42. Đinh Trọng Lạc – Nguyễn Thái Hòa (1998), Phong cách học tiếng
Việt, NXB Giáo dục, HN.
43. Nguyễn Lai (1991), Ngôn ngữ và sáng tạo văn học, NXB Khoa
học Xã hội.
44. Mã Giang Lân (2000), Tìm hiểu thơ. NXB Văn hóa Thông tin, HN.

148
45. Mã Giang Lân (2000), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, NXB
Giáo dục, HN.
46. Nguyễn Thế Lịch (2001), Ngữ pháp của thơ, Tạp chí Ngôn ngữ.
47. Thanh Lãng (1967), Bản lược đồ văn học Việt Nam, NXB Trình Bày,
SG.
48. Nguyễn Hiến Lê (2005) Hương sắc trong vườn văn (Tái bản). NXB
Văn hoá Thông tin, HN.
49. Nguyễn Hiến Lê (1964), Đại cương văn học sử Trung Quốc (3
quyển), NXB Nguyễn Hiến Lê, Sài Gòn.
50. Hồ Lê (1976). Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại. NXB Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
51. Nguyễn Văn Ngọc (1967), Tục ngữ phong dao. NXB Mặc Lâm.
52. Hoàng Kim Ngọc – Hoàng Trọng Phiến (2011), Ngôn ngữ văn
chương, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
53. Phan Ngọc (1991), Thơ là gì?, Tạp chí Văn học, số 1.
54. Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện
Kiều, NXB Khoa học Xã hội, HN.
55. Phan Ngọc (2002), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, NXB
Trẻ, TP, HCM.
56. Tôn Nữ Mỹ Nhật (2006). Cấu trúc và cấu trúc chức năng của diễn
ngôn, Tạp chí Ngôn ngữ, số 8.
57. Đái Xuân Ninh (1978). Hoạt động của từ tiếng Việt. NXB Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
58. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, NXB Khoa học Xã hội, HN.
59. Hoàng Phê (2002) (chủ biên), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học,
HN.
60. Hoàng Phê (2003), Logic ngôn ngữ học, Hà Nội – Đà Nẵng.
61. Nguyễn Anh Quế (1988), Hư từ trong tiếng Việt hiện đại, NXB Khoa
học Xã hội, HN.

149
62. Robert Lado (2003). Ngôn ngữ học qua các nền văn hóa (Hoàng Văn
Vân dịch). NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
63. Trịnh Thanh Sơn (2001), Bàn về ngôn ngữ thơ, Tạp chí Ngôn ngữ, số
6.
64. Trần Đình Sử (1995), Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Giáo dục, HN.
65. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, NXB Giáo dục, HN.
66. Nguyễn Thanh Tâm (2015), Loại hình Thơ mới Việt Nam (1932 -
1945), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
67. Trần Khánh Thành (2001), Thi pháp thơ Huy Cận, NXB Văn học,
HN.
68. Hoài Thanh – Hoài Chân (2002). Thi nhân Việt Nam (Tái bản), NXB
Văn học, HN.
69. Nguyễn Thị Việt Thanh (1999), Hệ thống liên kết lời nói tiếng Việt,
NXB Giáo dục, HN.
70. Nguyễn Bá Thành (2015), Toàn cảnh thơ Việt Nam 1945- 975, NXB
Đại học Quốc gia HN.
71. Trần Khánh Thành (2016) (chủ biên), Nguyễn Thanh Tâm, Vũ Thị
Lan Anh, Khuynh hướng tượng trưng và siêu thực trong thơ Việt Nam hiện đại,
NXB Đại học Quốc gia HN.
72. Nguyễn Kim Thản – Nguyễn Trọng Báu – Nguyễn Văn Tu (2002).
Tiếng Việt trên đường phát triển. NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
73. Lý Toàn Thắng (2005), Thử đo đếm thơ, Tạp chí Thơ, số 1
74. Lý Toàn Thắng (2011), Đường vào Thi học: Khái niệm và phương
pháp, Tạp chí Thơ, số 6.
75. Lý Toàn Thắng (2011), Đường vào Thi học: Các hệ thống thi luật,
Tạp chí Thơ, số 7.
76. Lý Toàn Thắng (2015), Thi luật thơ lục bát trong Truyền Kiều, NXB
Giáo dục, HN.
77. Nguyễn Văn Tu (1968). Từ vựng học tiếng Việt hiện đại. NXB Giáo
dục, Hà Nội.

150
78. Cù Đình Tú (2001). Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt,
NXB Giáo dục, HN.
79. Hoàng Tuệ (1996). Ngôn ngữ và đời sống xã hội văn hóa, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
80. Trần Ngọc Thêm (1985), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt. NXB
KHXH, HN.
81. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, NXB Giáo dục, HN, 2008.
82. Đỗ Lai Thuý (1992), Con mắt thơ, NXB Lao Động, HN.
83. Nguyễn Thị Phƣơng Thùy (2008). Nghiên cứu sự tự do hóa ngôn ngữ
thơ tiếng Việt hiện đại thế kỷ XX (trên tư liệu các tập thơ của một số tác giả).
Luận án tiến sĩ ngôn ngữ học, Khoa Ngôn ngữ học, Trƣờng Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
84. Phạm Văn Tình (2002), Phép tỉnh lược và ngữ trực thuộc trong văn
bản tiếng Việt, NXB KHXH, HN, 2002.
85. Bùi Minh Toán (2016), Ngôn ngữ với văn chương. NXB Đại học Sƣ
phạm, HN.
86. Nguyễn Đức Tồn (2010), Đặc trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và
tư duy, NXB Từ điển bách khoa, HN.
87. Nghiêm Thần Tùng (1999). Khái quát về tính phỏng hình, Tạp chí
Ngôn ngữ, số 2.
88. Văn Nghệ, 2006 – 2008.
89. Văn nghệ trẻ, 2006 – 2008.
90. Vũ Thanh Việt. Thơ tình Nguyễn Bính (biên khảo), NXB Văn hoá
thông tin, HN, 2000.
TIẾNG ANH
91. Anderson J. B., Language, Memory and Thought, Hillsdaile, N.Y,
1976.
92. Chomsky N., Language and Mind, N.Y, 1968.
93. Douglas and Mary, Natural Symbols, Pantheon, New York, 1970.

151
94. Lakoff G. and Mark Johnson, Metaphor we live by, University of
Chicago Press, 1980.
95. Wellek T., A History of Mordern criticism, Yale University Press,
New York, 1965.
INTERNET
96. Thụy Khuê, Thi pháp Nguyễn Bính. Dactrung.com
97. Thụy Khuê, Nguyễn Bính mười hai bến nước. Dactrung.com
98. Thuy Khuê, Nguyễn Bính, đời và thơ bạc mệnh www1.rfi.fr

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ


LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Một số tín hiệu thẩm mỹ đặc sắc trong thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ
liệu trƣớc 1945), Tạp chí Ngôn ngữ, số 2/2009
2. Đặc điểm vần thơ thất ngôn Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trƣớc 1945),
Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 7/2013
3. Đặc điểm vần thơ lục bát Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trƣớc 1945),
Tạp chí Từ điển học và Bách khoa thƣ, số 2/2015.
4. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ thời gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính
(dựa trên cứ liệu trƣớc 1945), Tạp chí Ngôn ngữ, số 5/2016
5. Từ ngữ điển tích điển cố trong thơ Nguyễn Bính (dựa trên cứ liệu trƣớc
1945), Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và Giáo dục ngôn ngữ trong nhà
trƣờng, Kỷ yếu Hội thảo khoa học 2016, tập 1, tr 541 – 553, NXB Dân Trí.
6. Các yếu tố ngôn ngữ chỉ không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bính
(dựa trên cứ liệu trƣớc 1945), Tạp chí Ngôn ngữ, số 7/2017
7. Nhịp điệu trong thơ Nguyễn Bính (trên cứ liệu thơ trƣớc 1945), Ngôn
ngữ và đời sống, số 12/2017
8. Thơ Nguyễn Bính trƣớc 1945 dƣới góc nhìn phân tâm học. Kỷ yếu
Trăm năm Nguyễn Bính, truyền thống và hiện đại, Viện Văn học – Đại học Văn
Lang, NXB Hội nhà văn, tháng 7/2018.

152

You might also like