Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 119

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Nền kinh tế tri thức của một số


nước trên thế giới và bài học đối
với Việt Nam
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

MỤC LỤC
Mục lục
Danh mục chữ viết tắt
Lời mở đầu
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ NỀN KINH TẾ TRI THỨC ............................1
I. Quá trình hình thành nền kinh tế tri thức .......................................................1
1. Vai trò của tri thức đối với phát triển .............................................................1
2. Sự ra đời nền kinh tế tri thức trên thế giới..........................................................3
II. Khái niệm và đặc trưng của nền kinh tế tri thức ...........................................6
1. Khái niệm nền kinh tế tri thức............................................................................6
2. Những đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế tri thức. ............................................8
2.1. Tri thức khoa học công nghệ và lao động kỹ năng cao là lực lượng sản
xuất thứ nhất, là lợi thế phát triển. ................................................................8
2.2. Sản xuất công nghệ là loại hình sản xuất phát triển, tiêu biểu và tiên tiến
nhất. ............................................................................................................10
2.3. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy toàn cầu làm thị trường. ...................11
2.4. Tốc độ biến đổi cao....................................................................................12
2.5. Xã hội tri thức thúc đẩy dân chủ hoá...........................................................13
2.6. Sáng tạo là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự phát triển ............................13
III. Những điều kiện cơ bản hình thành nền kinh tế tri thức. ..........................14
1. Một nền kinh tế thị trường phát triển cao. ........................................................15
2. Hệ thống giáo dục-đào tạo phát triển, tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng......15
3. Cơ sở hạ tầng thông tin phát triển cao. ............................................................16
4. Một nhà nước pháp quyền dân chủ...................................................................17
IV. Xu hướng phát triển nền kinh tế tri thức trên thế giới trong thế kỷ XXI .18
CHƯƠNG II: NỀN KINH TẾ TRI THỨC CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ
GIỚI VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM.......................................................21
I. Sự ra đời và phát triển nền kinh tế tri thức của Mỹ......................................21
1. Quan niệm của Mỹ về nền kinh tế tri thức.......................................................21
2. Tình hình phát triển nền kinh tế tri thức ở Mỹ..................................................22
2
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

2.1. Quá trình ra đời và phát triển của nền kinh tế tri thức của Mỹ.....................22
2.1.1. Vai trò nổi bật của khu vực công nghệ thông tin .........................................23
2.1.2. Những đổi mới trong khu vực tài chính.......................................................24
2.1.3 Sự biến đổi của mô hình sản xuất và kinh doanh.........................................25
2.2. Một số đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế tri thức ở Mỹ.............................29
2.2.1. Các ngành công nghệ cao, dịch vụ trở thành động lực tăng trưởng chính....29
2.2.2. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế có xu hướng toàn cầu hoá mạnh ............29
2.2.3. Nền kinh tế tri thức được quản lý và vận hành theo một cơ chế năng động .29
2.2.4. Lạm phát & thất nghiệp ở mức thấp............................................................30
3. Vai trò của chính sách kinh tế vĩ mô................................................................31
3.1. Đảm bảo nguồn tài chính ............................................................................31
3.2. Đảm bảo nguồn nhân lực ............................................................................31
II. Nền KTTT của một số nước EU....................................................................32
1. Quan niệm của các nước EU về nền KTTT......................................................32
2. Đánh giá quá trình chuyển sang nền KTTT của các nước EU ..........................34
2.1. Cơ cấu ngành của nền kinh tế .....................................................................34
2.2. Chất lượng nguồn nhân lực .........................................................................35
2.3. Tiềm lực khoa học và công nghệ.................................................................36
2.4. Sự áp dụng công nghệ thông tin..................................................................38
2.5. Hội nhập kinh tế quốc tế .............................................................................39
3. Những nhân tố tạo nên thành công trong quá trình chuyển sang nền KTTT của
các nước EU ....................................................................................................40
3.1. Những thuận lợi chung................................................................................40
3.2. Bước tiến trong tiến trình liên kết của EU ...................................................41
3.3. Các chính sách thúc đẩy R&D của EU........................................................42
4. Nguồn gốc của những hạn chế hiện nay. ..........................................................43
4.1. Cơ sở hạ tầng thông tin còn một số bất cập .................................................43
4.2. Sự yếu kém cơ cấu của nền kinh tế..............................................................44
4.3. Sự phân đoạn của thị trường........................................................................44
5. Một số chính sách nhằm xây dựng thành công nền kinh tế tri thức ở các nước
EU ...................................................................................................................45
5.1. Thúc đẩy R&D............................................................................................45
3
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

5.2. Phát triển công nghệ thông tin.....................................................................45


5.3. Tăng cường liên kết toàn diện trong Liên Minh Châu Âu ...........................46
5.4. Tăng cường đầu tư vào con người...............................................................46
5.5. Bảo đảm sự phát triển bền vững..................................................................47
III. Nền kinh tế tri thức của Nhật Bản...............................................................47
1. Thực trạng nền kinh tế tri thức ở Nhật Bản ......................................................47
2. Một số nhân tố tác động đến việc hình thành nền kinh tế tri thức ở Nhật Bản ..50
2.1. Chậm đổi mới tư duy ..................................................................................50
2.2. Chưa đầu tư thích đáng vào công nghệ cao, trong đó có công nghệ IT ........51
2.2. Những tồn tại trong phát triển nguồn nhân lực ............................................52
2.3. Chậm tự do nền kinh tế ...............................................................................53
3. Một số chính sách nhằm tạo dựng nền kinh tế tri thức ở Nhật Bản...................55
3.1. Đổi mới tư duy và tiến hành cải cách kinh tế ..............................................55
3.2. Đẩy mạnh đầu tư vào nghiên cứu khoa học và công nghệ ...........................56
3.3. Phát triển nguồn nhân lực ...........................................................................57
IV. Nền KTTT ở Trung Quốc ............................................................................58
1. Quan niệm của Trung Quốc về nền kinh tế tri thức ..........................................58
2. Các vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng nền kinh tế tri thức ở Trung Quốc .....59
2.1. Tri thức hoá các ngành truyền thống ...........................................................59
2.2. Phát triển nhanh và bền vững......................................................................60
2.3. Giáo dục và nhân tài ...................................................................................61
2.4. Chính phủ đối với sự nghiệp phát triển kinh tế tri thức ...............................61
3. Một số chính sách nhằm xây dựng thành công nền kinh tế tri thức ..................61
3.1. Phát triển các ngành kỹ thuật cao ................................................................61
3.1.1. Hiện trạng các ngành kỹ thuật cao ở Trung Quốc........................................62
3.1.2. Chiến lược phát triển ngành nghề kỹ thuật cao........................................... 62
3.2. Phát triển công nghiệp kỹ thuật thông tin làm ngành công nghiệp chiến
lược.............................................................................................................65
3.2.1. Tình hình phát triển công nghiệp kỹ thuật thông tin ....................................65
3.2.2. Chiến lược phát triển...................................................................................66
V. Nền kinh tế tri thức của Malaixia..................................................................68

4
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

1. Cơ sở để Malaixia xây dựng chiến lược phát triển kinh tế tri thức ...................66
2. Chiến lược phát triển kinh tế tri thức và các bước triển khai. ...........................68
2.1. Chiến lược phát triển tổng thể. .......................................................................69
2.1.1 Tăng cường phát triển công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền
kinh tế tri thức.............................................................................................70
2.1.2 Phát triển siêu hành lang truyền thông đa phương tiện, quy hoạch công viên
kỹ thuật cao.................................................................................................70
2.1.3 Từng bước tin học hoá, mạng hoá và mô hình hoá ngành dịch vụ...............70
2.2. Các bước triển khai. .......................................................................................71
2.2.1. Chương trình xúc tiến nghiên cứu và triển khai tổng thể. ............................72
2.2.2. Chương trình công nghệ thông tin quốc gia. ...............................................74
2.2.3. Siêu hành lang truyền thông đa phương tiện ..............................................74
2.2.4. Năm mũi đột phá trong lĩnh vực điện tử......................................................74
3. Một số hạn chế trong việc thực thi chiến lược phát triển kinh tế tri thức. ..........75
V.Kinh nghiệm đối với Việt Nam.......................................................................76
1. Đổi mới tư duy kinh tế.....................................................................................77
2. Phát triển công nghệ thông tin..........................................................................78
3. Phát triển nguồn nhân lực ................................................................................79

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG THÀNH CÔNG NỀN KTTT Ở
VIỆT NAM..........................................................................................................81
I. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam .........................................81
II. Thời cơ và thách thức ...............................................................................82
1. Thời cơ........................................................................................................82
2. Thách thức ..................................................................................................84
III. Giải pháp...................................................................................................86
1. Tiếp tục đổi mới quản lý xã hội...................................................................88
2. Xây dựng kết cấu hạ tầng công nghệ – thông tin hiện đại...........................90
3. Đầu tư vào giáo dục - đào tạo để phát triển nguồn nhân lực .......................93
3.1. Định hướng phát triển giáo dục và đào tạo gắn với nhu cầu về tri thức. .....93
3.2. Những chính sách và biện pháp phát triển giáo dục và đào tạo...................93
4. Tăng cường hệ thống đổi mới quốc gia để sử dụng có hiệu quả tri thức

5
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

phục vụ phát triển......................................................................................98


Kết luận
Tài liệu tham khảo
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
1. KTTT: Kinh tế tri thức
2. CNTT : Công nghệ thông tin
3. KH – KT: Khoa học kỹ thuật
4. OECD: Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế
5. ITC: Công nghệ thông tin và truyền thông
6. FDI: đầu tư nước ngoài trực tiếp
7. EMU: Liên minh kinh tế và tiền tệ
8. MSC: Siêu hành lang truyền thông đa phương tiện
9. FMS : Flexible Manufacture System – hệ thống sản xuất linh hoạt
10.IPO: Chào giá niêm yết chứng khoán lần đầu
11.EDI: trao đổi dữ liệu điện tử
12.EFT: thanh toán chuyển khoản điện tử

6
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

LỜI MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI.

Trong mấy năm gần đây, trên thế giới, người ta bắt đầu nói nhiều về một hiện
tượng kinh tế mới, đó là nền kinh tế tri thức. Và cho đến nay, những cách hiểu về
nền kinh tế tri thức còn rất khác nhau ở từng quốc gia nhưng có một điểm chung mà
hầu hết các ý kiến đều nhất trí là nền kinh tế này là kết quả của một nền kinh tế thị
trường phát triển cao với một Nhà nước pháp quyền đích thực, của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ với trụ cột là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công
nghệ vật liệu mới và công nghệ hàng không vũ trụ.

Nền kinh tế tri thức đã và đang hình thành ở một số nước công nghiệp phát
triển nhất như Mỹ, các nước EU và Nhật Bản và góp phần không nhỏ vào những
biến động to lớn về kinh tế và xã hội ở những nước này. Để có thể tiếp cận hoặc tạo
lập được nền kinh tế tri thức, hầu hết các nước đều có những chính sách, chiến lược
và bước đi thích hợp tuỳ theo điều kiện cụ thể của mình, nhưng chung quy lại tất cả
đều tìm cách tạo ra được những tiền đề cơ bản cho nền kinh tế tri thức. Đó là một
Nhà nước pháp quyền trong một nền kinh tế thị trường phát triển cao, với một môi
trường thể chế thuận lợi cho sản xuất và kinh doanh và mọi ý tưởng sáng tạo; một
kết cấu hạ tầng thông tin và viễn thông phát triển tốt như là xương sống cơ bản của
một nền kinh tế tri thức và là cơ sở cho sự tăng cường trao đổi thông tin; một hệ
thống giáo dục và đào tạo tốt tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao...Đối với các
nước phát triển, do xuất phát điểm cao của mình nên họ tập trung đầu tư cao cho
nghiên cứu và phát triển (R&D), nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ưu tiên cho
những mục tiêu chiến lược, tạo môi trường để sản sinh ra những công nghệ mới.
Các nước đang phát triển dường như cũng nhận thấy đây là một vận hội mới để tiếp
cận nền kinh tế tri thức và đuổi kịp các cường quốc trên thế giới. Tuy nhiên, do xuất
phát điểm thấp của mình nên các nước đang phát triển đầu tư cho khoa học và công
7
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

nghệ theo hướng ưu tiên cho một số ngành công nghệ mũi nhọn như công nghệ
thông tin nhằm nhanh chóng rút ngắn khoảng cách về công nghệ so với các nước
công nghiệp phát triển.
Phát triển kinh tế tri thức đang là mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia
trên thế giới. Có thể coi kinh tế tri thức như một thành tựu quan trọng của loài
người, là xu thế tất yếu của qúa trình phát triển lực lượng sản xuất. Chỉ có phát triển
kinh tế tri thức dựa vào trí tuệ con người, thế giới mới có khả năng thoát khỏi sự phụ
thuộc vào tài nguyên, vốn đang có xu hướng cạn kiệt dần.
Việt Nam với tư cách là một nước đang phát triển, dĩ nhiên không thể đứng ngoài
“cuộc chơi“ đó. Kinh tế tri thức chính là cơ hội để chúng ta thực hiện chiến lược “đi
tắt đón đầu”, hội nhập nền kinh tế một cách khôn ngoan, khai thác được những lợi
thế để phát triển nền kinh tế.
Với sự phân tích trên, tác giả đã quyết định chọn đề tài “Bước chuyển sang
nền kinh tế tri thức của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm đối với Việt Nam”
làm đề tài khoá luận của mình.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU.
Qua đề tài, tác giả muốn hệ thống hoá lại một số cách hiểu khác nhau về nền
kinh tế tri thức, phân tích những nét đặc trưng cơ bản nhất của nền kinh tế tri thức,
phân tích thực trạng của các nền kinh tế tri thức ở một số nước công nghiệp phát
triển và đang phát triển chủ yếu như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Malaixia, hệ
thống lại các bước đi hay các chính sách chủ yếu để tiếp cận và xây dựng nền kinh
tế tri thức của một số nước trên thế giới hiện nay và từ đó rút ra bài học kinh nghiệm
và đề xuất các biện pháp nhằm xây dựng thành công nền kinh tế tri thức ở Việt
Nam.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Trong khuôn khổ luận văn, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu bước chuyển sang
nền kinh tế tri thức của các nước đặc trưng và tiêu biểu nhất như Mỹ, các nước EU,
Nhật Bản, Trung Quốc, Malaixia. Qua đó, tác giả rút ra bài học kinh nghiệm cho

8
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

Việt Nam và đề xuất các biện pháp thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh hiện tại của
Việt Nam nhằm từng bước xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.


Trong khuôn khổ luận văn, tác giả đã dùng các phương pháp nghiên cứu khác
nhau như tổng hợp, phân tích, thống kê, liệt kê, so sánh.
5. NHỮNG KẾT QUẢ DỰ KIẾN ĐẠT ĐƯỢC.
 Làm sáng tỏ mặt lý luận về nền kinh tế tri thức nói chung.
 Trình bày một cách chi tiết về tình trạng nền kinh tế tri thức của một số
nước tiêu biểu trên thế giới; hệ thống hoá bước đi và các chính sách cơ bản của các
nước trong quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức.
 Đánh giá về thực trạng nền kinh tế tri thức của Việt Nam hiện nay, trên
cơ sở đó đễ xuất các giải pháp nhằm xây dựng thành công nền kinh tế tri thức ở Việt
Nam.
6. BỐ CỤC CỦA KHOÁ LUẬN.
Chương I : Khái quát về nền kinh tế tri thức
Chương II : Nền kinh tế tri thức của một số nước trên thế giới và bài học đối
với Việt Nam
Chương III: Giải pháp để xây dựng thành công nền kinh tế tri thức ở Việt Nam

Trong quá trình thực hiện, mặc dù tác giả đã hết sức cố gắng và có sự chuẩn
bị kỹ nhưng do điều kiện nghiên cứu có hạn nên khoá luận khó tránh khỏi những
thiếu sót hoặc chưa được nghiên cứu đầy đủ như mong muốn. Do vậy, tác giả rất
mong nhận được sự chỉ dẫn, đóng góp ý kiến của các thầy giáo, cô giáo và các bạn
sinh viên để khoá luận được hoàn thiện hơn.

9
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

Chương I
KHÁI QUÁT VỀ NỀN KINH TẾ TRI THỨC
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH NỀN KINH TẾ TRI THỨC
1. Vai trò của tri thức đối với phát triển kinh tế.
Từ thập kỷ 80 đến nay, do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu,
công nghệ năng lượng... nền kinh tế thế giới đang biến đổi rất sâu sắc, mạnh mẽ về
cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. Đây không phải là một sự biến đổi
bình thường mà là một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại: nền kinh tế chuyển
từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, nền văn minh loài người chuyển từ văn
minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ và ý nghĩa mới của tri thức đã được đề cao.
Trước đây, ngay cả ở phương Đông và phương Tây, tri thức được quan niệm
là chỉ phục vụ cho chính nó. Sau đó ít lâu, tri thức được áp dụng vào các tổ chức lao
động rồi trở thành một nguồn lực có giá trị sử dụng và thành một loại hàng hoá công
cộng. Và hiện nay tri thức đang được áp dụng cho chính bản thân tri thức, tri thức đã
trở thành nhân tố sản xuất hàng đầu trong nền kinh tế, làm giảm vai trò của cả vốn
và lao động.
Tri thức, thông tin, công nghệ luôn luôn có vai trò thúc đẩy phát triển sản
xuất, vai trò ấy tăng dần cùng với quá trình phát triển. Lịch sử phát triển ngành dệt
là một ví dụ tốt về sự tăng trưởng có kèm theo thay đổi công nghệ và tăng trưởng
không kèm theo công nghệ. Trong giai đoạn 1500 – 1700, Đông Ấn Độ đã thu được
nhiều lợi nhuận và tăng trưởng bằng cách mở rộng quy mô sản xuất dệt sợi để xuất
10
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

khẩu sang châu Âu. Đây là tăng trưởng không kèm tiến bộ công nghệ. Nước Anh
ban đầu cũng đáp lại việc tăng nhu cầu hàng dệt bằng cách mở rộng sản xuất như
Ân Độ. Nhưng trong dài hạn, nước Anh đã xây dựng các công nghệ mới cần thiết
cho ngành dệt may, như lời của K. Marx thì nước Anh đã thay đổi phương thức sản
xuất. Và cuối cùng, nước Anh đã vượt xa Ấn Độ.
Trong nền kinh tế nông nghiệp, tri thức của con người quá ít, công nghệ hầu
như không đổi mới, tác động của tri thức, công nghệ chưa rõ rệt. Vì vậy, nền kinh tế
nông nghiệp kéo dài sáu bảy nghìn năm nhưng tiến bộ hết sức chậm chạm.
Những thành tựu khoa học thế kỷ XVII dẫn tới cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật lần thứ nhất (cuối thế kỷ XVIII) đã thúc đẩy sự chuyển biến từ kinh tế nông
nghiệp sang kinh tế công nghiệp. Kinh tế công nghiệp đã phát triển nhanh trong hơn
200 năm qua, của cải của loài người đã tăng lên hàng trăm lần. Khoa học và công
nghệ ngày càng đóng góp vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội và ngày
càng có điều kiện phát triển nhanh hơn.
Những thành tựu nổi bật của khoa học đầu thế kỷ XX với vai trò dẫn đầu của
thuyết tương đối và thuyết lượng tử là tiền đề cho cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại ra đời và phát triển từ giữa thế kỷ XX. Và trong một phần tư cuối
cùng của thế kỷ XX đã bước sang giai đoạn mới – giai đoạn bùng nổ thông tin, tri
thức, bùng nổ công nghệ, đặc biệt là các công nghệ cao như công nghệ thông tin
(siêu xa lộ thông tin, Internet, multimedia...), công nghệ sinh học (công nghệ gen,
công nghệ tế bào), công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng... đã làm tăng
nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế, dịch chuyển cơ cấu kinh tế, tạo sự nhảy vọt trong
lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất bước sang giai đoạn mới về chất, trong đó tri
thức, thông tin trở thành yếu tố sản xuất hàng đầu, khoa học và công nghệ trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp. Đây không chỉ là cách mạng trong khoa học công nghệ,
trong phát triển lực lượng sản xuất mà còn là cách mạng trong quan niệm, cách tiếp
cận, nó đòi hỏi con người phải đổi mới nhận thức, quan niệm để thích nghi và làm
chủ sự phát triển.
11
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

Chưa bao giờ vai trò của tri thức, của khoa học và công nghệ đối với sự phát
triển kinh tế xã hội trở nên rõ ràng và nổi bật như ngày nay. Trước kia, người ta
thường coi các yếu tố của sản xuất chỉ bao gồm lao động và vốn, còn tri thức, công
nghệ là yếu tố bên ngoài của sản xuất có ảnh hưởng tới sản xuất. Gần đây, các nhà
nghiên cứu kinh tế đều thừa nhận tri thức, công nghệ là yếu tố bên trong của hệ
thống kinh tế, là nhân tố trực tiếp của sản xuất. Đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố
then chốt cho sự tăng trưởng kinh tế dài hạn.
K.Marx đã coi “tri thức là nhân tố trực tiếp của chức năng sản xuất” và khẳng
định “tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” [19,607]. Ngày nay, luận điểm
ấy đã được chứng minh, khoa học không những tham gia trực tiếp vào quá trình sản
xuất bằng việc tạo ra công nghệ, tạo phương pháp tổ chức, quản lý sản xuất để nâng
cao năng suất, chất lượng, đổi mới sản phẩm mà còn có thể trực tiếp làm ra sản
phẩm như sản phẩm phần mềm trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Các sản phẩm
này được nghiên cứu tại phòng thí nghiệm rồi sản xuất đại trà, xưởng sản xuất cũng
là phòng nghiên cứu thí nghiệm. Khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp và quan trọng hàng đầu.
Tri thức là một yếu tố của sản xuất nhưng nó khác biệt về cơ bản với các yếu
tố vốn hay lao động ở chỗ người có kiến thức nếu trao kiến thức cho người khác thì
kiến thức đó không mất đi mà lại được sử dụng tốt hơn, càng trao cho nhiều người
thì khả năng sử dụng tri thức để tạo ra của cải, lợi ích càng nhiều.
2. Sự ra đời nền kinh tế tri thức trên thế giới.
Quá trình phát triển lực lượng sản xuất của loài người có thể chia ra làm ba
thời kỳ: thứ nhất là nền kinh tế nông nghiệp hay là nền kinh tế sức lao động với đặc
trưng chủ yếu là sản xuất bằng lao động thủ công, năng suất lao động rất thấp, đất
đai là tài nguyên chủ yếu; thứ hai là nền kinh tế công nghiệp, cũng được gọi là nền
kinh tế tài nguyên, dựa chủ yếu vào máy móc và tài nguyên thiên nhiên; thứ ba là
nền kinh tế tri thức, bắt đầu hình thành từ đầu thập kỷ 80, là nền kinh tế dựa chủ yếu

12
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

vào tri thức, tri thức và công nghệ thông tin trở thành yếu tố sản xuất quan trọng hơn
cả vốn và sức lao động.
Năm 1983, trước tình hình kinh tế Nhật Bản đuổi kịp và vượt Mỹ, Tổng thống
Mỹ Reagen đã lập ra Uỷ ban nghiên cứu sức cạnh tranh công nghiệp để tìm cách
nâng cao sức cạnh tranh của Mỹ. Qua khảo sát, Uỷ ban này phát hiện trong nền kinh
tế Mỹ đã xuất hiện một số nhân tố mới có ảnh hưởng vượt xa ảnh hưởng của cuộc
cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVIII đối với kinh tế nước Anh. Đó là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ làm về tin học, mới ra đời 5 – 10 năm, tuy dùng rất ít
nguyên vật liệu, lao động và tiền vốn nhưng có hiệu quả kinh tế rất cao, phát triển
nhanh, có tác động lôi kéo toàn bộ nền kinh tế. Loại doanh nghiệp tri thức này chưa
có ở Nhật Bản. Qua nghiên cứu, Uỷ ban đề ra chiến lược nâng sức cạnh tranh kinh
tế bằng cách điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chú trọng phát triển công nghệ cao, nhất là
công nghệ tin học, phát triển các doanh nghiệp tri thức và các ngành dịch vụ, tăng
cường đầu tư vào khoa học- kỹ thuật và giáo dục để nâng cao nguồn nhân lực. Uỷ
ban không chấp nhận các biện pháp nâng sức cạnh tranh kinh tế thường được sử
dụng như phá giá đồng tiền, tăng thuế nhập khẩu...
Trong nhiều năm qua, Mỹ đã áp dụng chiến lược này và thực tế cho thấy, sức
cạnh tranh kinh tế của Mỹ luôn đứng đầu thế giới, ngày càng bỏ xa Nhật Bản và các
nước công nghiệp phát triển khác. Đây là một cuộc cách mạng cơ cấu kinh tế, đánh
dấu việc Mỹ bắt đầu tiến sang thời kỳ kinh tế tri thức. Và trong thời gian qua, nền
kinh tế tri thức cũng đã được phổ biến dần ra toàn thế giới, từ các nước công nghiệp
phát triển cho tới các nước đang phát triển. Điều này thể hiện ở chỗ đa số các nước
đầu đã tăng vốn đầu tư cho công nghệ kỹ thuật cao và các yếu tố cơ bản của nền
kinh tế tri thức đang xuất hiện ngày càng nhiều và có những đóng góp lớn vào nền
kinh tế. Tuy nhiên, tình hình chuyển sang nền kinh tế tri thức của các nước này còn
chậm hơn so với Mỹ.
So với sự chuyển biến từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, sự
chuyển biến từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức có ý nghĩa hơn: trước hết đó
13
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

là sự chuyển đổi từ một nền sản xuất dựa vào tài nguyên, lao động là chính sang nền
sản xuất dựa vào tri thức là chính, thứ hai là sự thay đổi trên mọi lĩnh vực mà trước
hết là công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã thúc đẩy nhanh
hơn sự ra đời nền kinh tế tri thức. Các công nghệ cao, trước hết là công nghệ thông
tin là nguồn gốc của sự biến đổi lớn lao hiện nay. Máy hơi nước, động cơ điện mở
đầu cuộc cách mạng công nghiệp, thúc đẩy sự ra đời nền kinh tế công nghiệp, nội
dung chủ yếu là thay thế lao động chân tay bằng máy móc. Đó là cuộc cách mạng
sâu sắc nhưng diễn ra chậm chạm trong thời gian rất dài.

Còn trong nền kinh tế tri thức, các ngành công nghệ cao như công nghệ sinh
học, nổi bật là công nghệ gen, công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh đã cho phép con
người tạo được các loại thuốc chữa trị các bệnh hiểm nghèo, kéo dài tuổi thọ, tạo
các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao theo ý muốn; công nghệ
vật liệu, nổi bật là vật liệu composit có thể tạo ra những vật liệu theo ý muốn của
con người, có sức chịu lực, chịu nhiệt, chịu ăn mòn, lão hoá, phù hợp với mọi điều
kiện khác nhau; công nghệ năng lượng với những năng lượng mới đảm bảo an toàn
cao và sạch nhất; và đặc biệt là công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin là động
lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự ra đời và phát triển của kinh tế tri thức. Ngày nay,
thông tin trở thành nhu cầu thiết yếu của con người, là tài nguyên quan trọng nhất
của nền kinh tế. Người ta bắt đầu nói tới cách mạng thông tin, cách mạng tri thức. Ở
những nước phát triển như Mỹ, Tây Âu, kinh tế thông tin (những ngành kinh tế dựa
trên việc xử lý thông tin) chiếm khoảng 45% - 55% GDP. Công nghệ thông tin ngày
càng trở thành nhân tố hàng đầu trong việc làm biến đổi xã hội. Một bước nhảy vọt
trong công nghệ thông tin là sự ra đời của mạng máy tính, mạng máy tính phát triển
nhanh hình thành siêu xa lộ thông tin và Internet. Trong lịch sử nhân loại, chưa có
một lĩnh vực khoa học – công nghệ nào phát triển nhanh và tác động sâu rộng, mạnh
mẽ đến toàn xã hội như công nghệ thông tin. Nhờ có sự phát triển nhanh của xa lộ
thông tin mà có thương mại điện tử, chính phủ điện tử, thư viện điện tử, học tập, làm
việc từ xa, chữa bệnh từ xa... Những công nghệ ấy đang làm thay đổi mạnh mẽ, sâu
14
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

sắc xã hội loài người. Máy tính và mạng máy tính ngày nay có thể thay thế một phần
lao động trí óc của con người, nâng cao tri thức, phát triển khả năng tư duy, sáng
tạo, từ đó đẩy nhanh, mạnh sự đổi mới công nghệ, đổi mới tổ chức quản lý. Nếu như
cơ khí giúp con người trong các lao động chân tay thì máy tính lại giúp con người
trong lao động trí óc. Chính vì vậy, công nghệ thông tin là nhân tố quyết định đối
với việc chuyển nền kinh tế thế giới từ nền kinh tế hậu công nghiệp sang nền kinh tế
tri thức.

II. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA NỀN KINH TẾ TRI THỨC.
1. Khái niệm nền kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng
tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải và nâng
cao chất lượng cuộc sống.[5,17]
Trong nền kinh tế tri thức, chiếm hữu nhân tài và tri thức quan trọng hơn
nhiều so với chiếm hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ hay đất đai đang
bị cạn kiệt do kinh tế công nghiệp gây ra. Kinh tế tri thức thông qua nguồn tài
nguyên trí lực để khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách khoa học, hợp lý chứ
không ỷ lại vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, nền kinh tế của các nước dựa
vào chủ quyền đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển như các nước
Trung Đông nếu không đồng thời tăng cường đầu tư vào nguồn tài nguyên trí lực sẽ
rất dễ bị tấn công trong thời đại kinh tế tri thức.
Trong sản xuất, kinh tế tri thức lấy các ngành sản xuất kỹ thuật cao làm nền
tảng, các ngành sản xuất kỹ thuật cao lại lấy khoa học kỹ thuật cao làm chỗ dựa.
Trong nền kinh tế tri thức vẫn còn nông nghiệp và công nghiệp nhưng hai ngành này
chiếm tỷ lệ thấp, cũng giống như trong nền kinh tế công nghiệp vẫn còn nông
nghiệp nhưng chiếm tỷ lệ nhỏ. Trong nền kinh tế tri thức đa số là các ngành kinh tế

15
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

dựa vào tri thức, dựa vào thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ. Đó có thể
là những ngành mới như công nghệ thông tin (công nghệ phần cứng và công nghệ
phần mềm), công nghệ năng lượng mới và năng lượng tái sinh, công nghệ vật liệu
mới, công nghệ sinh học... và cũng có thể là những ngành truyền thống (nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) được cải tạo bằng khoa học, công nghệ cao. Ví dụ,
sản xuất ôtô là một ngành công nghiệp truyền thống nhưng nếu áp dụng khoa học
công nghệ cao sản xuất ra loại ôtô thông minh không cần người lái có độ an toàn
cao thì ngành sản xuất ôtô có thể coi là ngành kinh tế tri thức hay những trang trại
sản xuất nông nghiệp dựa vào công nghệ sinh học cho năng suất cao, tự động điều
khiển và hầu như không cần người lao động.

Bảng 1: So sánh khái quát các thời đại kinh tế


Kinh tế nông Kinh tế công Kinh tế tri thức
nghiệp nghiệp
Đầu vào quan Lao động, đất đai, Công nghệ, máy Tri thức, công nghệ
trọng của sản xuất vốn móc, thiết bị cao, thông tin
Các quá trình chủ Trồng trọt, chăn Chế tạo, gia công Điều khiển, kiểm
yếu nuôi soát, xử lý thông
tin
Đầu ra của sản xuất Lương thực Của cải, hàng hoá Sản phẩm đáp ứng
nhu cầu ngày càng
cao của cuộc sống
Cơ cấu kinh tế Nông nghiệp là chủ Công nghiệp và Các ngành kinh tế
yếu dịch vụ là chủ yếu tri thức thống trị
Công nghệ thúc Sử dụng súc vật, cơ Cơ giới hoá,điện Khoa học công
đẩy phát triển giới hoá đơn giản khí hoá, chuyên nghệ cao
môn hoá
Cơ cấu xã hội Nông dân Công nhân Công nhân tri thức

16
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

Tỷ lệ đóng góp của < 10% > 30% > 80%


KHCN cho tăng
trưởng kinh tế
Đầu tư cho giáo < 1% GDP 2% – 4% GDP > 6%GDP
dục
Tầm quan trọng Nhỏ Lớn Rất lớn
của giáo dục
Vai trò của truyền Nhỏ Lớn Rất lớn
thông
Nguồn: “ Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt nam”
Kỷ yếu hội thảo khoa học, 21 – 22/6/2000, trang 2

2. Những đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế tri thức.

2.1. Tri thức khoa học công nghệ và lao động kỹ năng cao là lực lượng sản xuất thứ
nhất, là lợi thế phát triển.
Đặc điểm lớn nhất làm cho nền kinh tế tri thức khác biệt với nền kinh tế công
nghiệp hay nền kinh tế nông nghiệp là tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất của
sản xuất, hơn cả lao động và tài nguyên thiên nhiên.
Trí tuệ con người, được thể hiện trong tri thức khoa học và công nghệ cùng
với kỹ năng lao động cao là lợi thế có ý nghĩa quyết định triển vọng phát triển của
mỗi quốc gia. Lịch sử phát triển hiện đại đã chứng tỏ rằng các lợi thế tự nhiên (lợi
thế về tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực rẻ do thiếu kỹ năng, gắn với lao động
giản đơn thuần tuý) ngày càng giảm bớt vai trò trong phát triển. Trong khi đó, trình
độ khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực tri thức ngày càng đóng vai trò quyết
định thắng lợi trong cuộc cạnh tranh phát triển.
Trong nền kinh tế tri thức, yếu tố sản xuất quý nhất, động lực quan trọng nhất
cho sự phát triển kinh tế là tri thức và lao động có trình độ và kỹ năng cao. Nền kinh

17
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

tế tri thức lấy tri thức làm cơ sở và đó là hình thái kinh tế được xây dựng trên nền
tảng khoa học công nghệ mới, tinh hoa tri thức của nhân loại. Trong các nền kinh tế
truyền thống thì sản xuất, phân phối, tiêu thụ sản phẩm lấy vật chất làm nội dung
chủ yếu. Yếu tố của sản xuất chủ yếu là tài nguyên, lao động và vốn. Ngược lại,
trong nền kinh tế tri thức thì tri thức sẽ trở thành nội dung chủ yếu của sản xuất,
phân phối và tiêu thụ. Chức năng chủ yếu của nền kinh tế tri thức là tạo ra tri thức,
phân phối tri thức và trở thành nguồn gốc, động lực cho sự phát triển kinh tế. Sự
cống hiến của tri thức và công nghệ đối với sự tăng trưởng kinh tế ngày càng lớn.
Nếu như thập kỷ 50, đóng góp của khoa học – công nghệ cho tăng trưởng kinh tế
chiếm khoảng 30% thì bước sang nền kinh tế tri thức sự đóng góp của khoa học
công nghệ là trên 80% [3,11]. Điều đó nói lên rằng đa số các sản phẩm của xã hội
đều do khoa học công nghệ đem lại. Rất nhiều ngành nghề trong nông nghiệp và
công nghiệp đang trở thành những ngành tri thức. Do đó, phần đông lao động ở các
nước công nghiệp có trình độ chuyên môn cao. Hiện nay ở Mỹ có khoảng 60% công
nhân là công nhân tri thức và 80% số nghề mới xuất hiện là do tri thức tạo ra
[12,20]. Trong khi cơ hội cho các nguồn lực khác như lao động thiếu kỹ năng ngày
càng bị thu hẹp và chúng sẽ bị mất đi khi sử dụng thì tri thức và thông tin có thể
được chia sẻ và trên thực tế lại được tăng lên khi sử dụng. Nếu như trước đây các
nền kinh tế cố gắng duy trì các ngành nghề kinh tế truyền thống thì nền kinh tế tri
thức hướng đến tạo ra các ngành nghề mới ứng dụng tri thức và công nghệ.
Như vậy, tri thức đang và sẽ dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và chủ
yếu trong hệ thống sản xuất xã hội. Xu thế này thể hiện khá rõ, hơn 50% GDP của
các nước thuộc OECD (tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) được sản sinh hàng
năm có nguồn gốc tri thức [9,25]. Những ngành có tốc độ phát triển cao nhất, có sức
bật và tiềm năng lớn nhất đều là những ngành thâm dụng tri thức như máy tính, thiết
bị viễn thông, hàng không. Các ngành dịch vụ dựa trên tri thức như giáo dục, dịch
vụ viễn thông , thông tin có tốc độ tăng trưởng cao.

18
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

Trong nền kinh tế tri thức, tri thức không những có vai trò sáng tạo, truyền bá
mà còn có vai trò truyền thông, sử dụng, trở thành nguồn lực của sản xuất. Do vậy,
đầu tư phát triển tri thức là đầu tư chủ yếu nhất. Điều này không có nghĩa là nền
kinh tế không cần vốn, nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực nữa mà trái
lại, các yếu tố này về mặt giá trị còn được đầu tư với số lượng đáng kể hơn, thậm
chí đối với trang thiết, máy móc công nghệ cao còn cần đầu tư với một lượng vốn
rất lớn, song vốn vô hình (như thông tin, tri thức, công nghệ, kỹ năng lao động) còn
có giá trị cao hơn gấp bội, trở thành yếu tố quan trọng nhất, phần vốn cơ bản nhất.
Do vai trò to lớn như vậy của tri thức nên trong nền kinh tế tri thức quyền sở
hữu đối với tri thức trở nên quan trọng nhất. Trong nền kinh tế tri thức, việc chiếm
hữu tri thức và nhân tài quan trọng hơn nhiều so với chiếm hữu tài nguyên thiên
nhiên. Việc sử dụng tài sản tri thức phải được bảo vệ nghiêm khắc và hữu hiệu hơn
so với kinh tế truyền thống vì bảo vệ quyền sở hữu tài sản tri thức chính là yêu cầu
đầu tiên của việc bảo đảm động lực sáng tạo và bảo vệ khai thác nguồn tài nguyên
trí lực.

2.2. Sản xuất công nghệ là loại hình sản xuất phát triển, tiêu biểu và tiên tiến
nhất.
Trong nền kinh tế tri thức, hàm lượng tri thức trong các yếu tố sản xuất ngày
càng tăng. Các ngành kinh tế tri thức (những ngành dựa vào thành tựu của khoa học
- công nghệ) và cả những ngành truyền thống như nông nghiệp, công nghiệp, dịch
vụ được cải tạo bằng ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, ngày càng chiếm
tỷ trọng cao trong nền kinh tế quốc dân. Các doanh nghiệp không ngừng đổi mới
công nghệ, đổi mới sản phẩm. Công nghệ mới trở thành nhân tố hàng đầu trong việc
tạo ra năng suất, sự tăng trưởng và việc làm. Các doanh nghiệp đều sản xuất công
nghệ, đồng thời có nhiều doanh nghiệp chuyên sản xuất công nghệ, có thể gọi là
doanh nghiệp tri thức, trong đó khoa học và sản xuất được nhất thể hoá, không còn

19
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

phân biệt phòng thí nghiệm với công xưởng, những người làm việc trong đó là công
nhân tri thức, họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất.
Hiện nay, trên lĩnh vực công nghệ thông tin các doanh nghiệp tri thức phát
triển rất nhanh chóng, chỉ trong khoảng 5 - 10 năm từ chỗ tay không trở thành
những công ty với tài sản khổng lồ hàng chục tỷ USD như Netscape, Yahoo, Dell,
Cisco... vượt xa những doanh nghiệp truyền thống tên tuổi, có lịch sử lâu đời [13,7].
Trong các doanh nghiệp lớn nhất thế giới, doanh nghiệp công nghệ thông tin chiếm
đa số.
Vì sản xuất công nghệ có ý nghĩa quyết định như thế nên người ta chạy đua
vào đầu tư mạo hiểm, tức là đầu tư cho nghiên cứu triển khai nhằm tạo ra công nghệ
mới. Năm 1998 đầu tư mạo hiểm ở Mỹ cho phát triển Internet hơn 3,5 tỷ USD, (năm
1997 là 2,1 tỉ, năm 1996 là 1,2 tỉ) [13,8]. Và đó là nguồn gốc của sự giàu lên nhanh
chóng của các doanh nghiệp tri thức.
Sự hình thành và phát triển các khu công nghệ (những nơi sản xuất công
nghệ) là yếu tố quan trọng thúc đẩy nhanh sự ra đời của công nghệ mới. Đây là
những vườn ươm công nghệ, ở đây hội đủ các điều kiện thuận lợi để nhất thể hoá
quá trình nghiên cứu, thực nghiệm khoa học, triển khai công nghệ và sản xuất, nhờ
đó các ý tưởng khoa học nhanh chóng trở thành công nghệ và đưa ra sản xuất.
Những thập kỷ gần đây, trên thế giới các khu công nghệ phát triển rất nhanh,
đó là một cách để đi nhanh vào kinh tế tri thức. Khu công nghệ tiêu biểu nhất là
thung lũng Silicon. Đó là cái nôi công nghệ cao của thế giới, cái nôi của Internet.
Bắt đầu từ thập kỷ 50, Mỹ đã chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp đi vào các
công nghệ mới. Từ đó, các công ty công nghệ cao, nhất là về công nghệ thông tin
phát triển rất nhanh, rất nhiều công nghệ cao và Internet đã ra đời từ đó.
Do sản xuất dựa vào công nghệ cao, tiêu hao ít nguyên liệu, năng lượng, thải
ra ít phế thải, cho nên trong nền kinh tế tri thức có thể thực hiện được sản xuất sạch,
không gây ô nhiễm môi trường. Đó là điều kiện để phát triển bền vững.
2.3. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy toàn cầu làm thị trường.
20
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

Công nghệ thông tin, nhất là mạng internet làm cho không gian trở nên nhỏ
bé. Các nhân tố cơ bản của sản xuất kinh doanh như tri thức, công nghệ, thông tin,
vốn, quản lý sản phẩm, sức lao động... không bị bó buộc trong biên giới một quốc
gia mà xuyên quốc gia, giúp cho hoạt động kinh tế trong nền kinh tế tri thức mang
tính toàn cầu. Thị trường và sản phẩm trong nền kinh tế tri thức cũng mang tính toàn
cầu, một sản phẩm sản xuất ở bất cứ nơi nào sẽ có mặt nhanh chóng trên toàn thế
giới; rất ít sản phẩm do một nước làm ra, mà phần lớn là kết quả của sự tập hợp các
phần việc được thực hiện từ nhiều nơi trên thế giới. Các mối quan hệ và hợp tác
kinh tế, công nghệ giữa các doanh nghiệp ngày càng được tăng cường, đồng thời
cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt trên cả bình diện trong nước và quốc tế.
Vốn đầu tư cho nghiên cứu và phát triển sản phẩm cũng như xây dựng nhà
máy sản xuất trong nền kinh tế tri thức là hết sức lớn. Để có thể hoàn vốn đầu tư,
sản phẩm phải được sản xuất với số lượng tối đa. Không những thế, doanh nghiệp
trong kinh tế tri thức phải bằng mọi cách hoàn vốn trong thời gian ngắn nhất trước
khi sản phẩm thế hệ mới của công ty khác tung ra thị trường, đây là điều xảy ra rất
nhanh trong nền kinh tế tri thức. Vì vậy, thị trường của các doanh nghiệp trong nền
kinh tế tri thức phải là thị trường toàn cầu.
Trong nền kinh tế tri thức, các công ty phải luôn luôn đổi mới và phải kịp thời
chuyển hướng sản xuất kinh doanh theo sự đổi mới của công nghệ. Để có đủ tài lực
để phát triển công nghệ mới, tăng sức cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu, đã diễn ra
sự sáp nhập hoặc mua bán lẫn nhau giữa các công ty lớn. Ở Mỹ cũng như ở Tây Âu
và Nhật Bản đang diễn ra việc mua, sát nhập của rất nhiều công ty xuyên quốc gia
trở thành những tập đoàn tư bản lớn chi phối thị trường khu vực và thế giới. Mặt
khác, các công ty lớn trong kỷ nguyên thông tin hoạt động theo hình thức mạng lưới
thường chia ra nhiều công ty con được quyền tự chủ kinh doanh có khả năng, linh
hoạt thích nghi với sự đổi mới công nghệ và môi trường cạnh tranh trong và ngoài
nước.
2.4. Tốc độ biến đổi cao.
21
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

Đặc điểm quan trọng bật nhất của kinh tế tri thức là tốc độ biến đổi cực kỳ
cao. Nó thể hiện ở tốc độ sản sinh tri thức, tốc độ thay đổi giá cả, tốc độ ứng dụng
các phát minh khoa học vào thực tiễn và hệ quả đi liền là tốc độ biến đổi của đời
sống trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội ngày càng cao.
Tốc độ sản sinh tri thức ngày càng nhanh, thời gian cần thiết để tăng gấp đôi
lượng tri thức của nhân loại càng thu hẹp. Ngày nay, tốc độ sản sinh tri thức của loài
người đang tăng theo cấp số nhân. Theo một số tính toán, sau mỗi 15 năm, lượng tri
thức của loài người được nhân đôi và với cấp độ chất lượng khác hẳn. Và quãng thời
gian đó hiện nay đang rút ngắn hơn nhiều. Tri thức của loài người ở thế kỷ 19 cứ 50
năm thì tăng gấp đôi; vào giữa thế kỷ 20, cứ 10 năm tăng gấp đôi và đến những năm
1970 cứ 5 năm tăng gấp đôi và tới những năm 1980 cứ 3 năm tăng gấp đôi [12,29].
Tốc độ biến đổi giá cả của các sản phẩm càng mới càng nhanh. Sự phát triển
như vũ bão của công nghệ tin học và truyền thông rút ngắn ngày càng nhanh thời
gian chọn lọc, đánh giá, sử dụng và sáng tạo thông tin, khiến cho giá trị sử dụng tri
thức cũng bị rút ngắn lại nhanh chóng. Một tri thức hôm nay có giá trị hàng tỷ USD
ngày mai có thể là vô giá trị. Cùng với sự ra đời của các sản phẩm mới, giá cả sản
phẩm, đặc biệt là các sản phẩm công nghệ cao, đang trong xu hướng giảm đi. Các
sản phẩm càng hiện đại thì tốc độ biến đổi giá cả càng lớn. Nếu phải cần đến 60 năm
để cước vận tải biển và phí cảng biển giảm đi một nửa thì cũng trong thời gian ấy,
cước hàng không giản đi 6 lần và giá dịch vụ điện thoại giảm đi 82 lần. Đặc biệt
hơn, chỉ trong vòng 30 năm từ năm 1960 đến năm 1990, giá máy tính đã giảm đi
125 lần [12,30]. Chi phí cho phát triển tri thức rất lớn, nhưng sản phẩm càng về sau
càng giảm, ví dụ: chi phí cho việc nghiên cứu đĩa chương trình Window đầu tiên tốn
50 triệu USD, nhưng đĩa thứ hai và các đĩa tiếp theo chỉ tốn 3 USD [9,24]. Vì vậy,
việc tiếp cận và trao đổi tri thức ở phạm vi toàn cầu trong nền kinh tế tri thức càng
có ý nghĩa hơn, cạnh tranh trong kinh tế tri thức trước hết là canh tranh với thời
gian.

22
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

Cùng với quá trình định hình từng bước của nền kinh tế tri thức, một xu thế
khá rõ ràng là tốc độ áp dụng và phổ biến các thành tựu khoa học kỹ thuật và công
nghệ ngày càng cao. Nếu như dịch vụ điện thoại cần đến 74 năm để đạt được con số
50 triệu thuê bao thì mày tính cá nhân chỉ cần đến 16 năm và mạng thông tin toàn
cầu Internet chỉ cần có 4 năm [12,31].
2.5 Xã hội tri thức thúc đẩy sự dân chủ hoá.
Nếu chưa xét về chế độ chính trị, về quan hệ sản xuất thì có thể gọi xã hội
tương ứng với nền kinh tế tri thức là xã hội thông tin hay xã hội tri thức.
Thông tin đến với mọi người. Mọi người đều dễ dàng truy cập đến các thông
tin cần thiết. Do đó dân chủ hoá các hoạt động và tổ chức điều hành trong xã hội
được mở rộng. Trong xã hội tri thức, mỗi cá nhân đều có khả năng nhận biết hành vi
của Chính phủ và dễ dàng có được những thông tin kịp thời về các quyết định của
cơ quan Nhà nước, các tổ chức có liên quan và bằng cách này hay cách khác, có thể
gây áp lực đối với các quyết sách hữu quan của nhà nước. Do đó phải tạo không khí
dân chủ và cách làm việc dân chủ trong xã hội. Có dân chủ mới phát huy hết khả
năng sáng tạo của mọi người.
Cách tổ chức quản lý cũng sẽ thay đổi nhiều. Trong thời đại thông tin, mô
hình chỉ huy tập trung, có đẳng cấp là không phù hợp, mà phải theo mô hình phi
đẳng cấp, phi tập trung, mô hình mạng, trong đó tận dụng các quan hệ ngang vì
thông tin đến được một cách thuận lợi nhanh chóng tất cả mọi nơi, không cần qua
các nút xử lý trung gian. Đó là mô hình tổ chức dân chủ, nó linh hoạt trong điều
hành, dễ thích nghi với đổi mới, khơi dậy sự năng động, sáng tạo của mọi người.
2.6 Sáng tạo là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự phát triển.
Công nghệ đổi mới rất nhanh, vòng đời công nghệ rút ngắn, quá trình từ lúc
ra đời, phát triển rồi tiêu vong của lĩnh vực sản xuất, hay một công nghệ trở nên rất
ngắn. Có khi từ lúc ra đời đến lúc tiêu vong chỉ mấy năm, thậm chí mấy tháng. Các
doanh nghiệp muốn trụ được và phát triển thì phải luôn đổi mới công nghệ và sản
phẩm. Sáng tạo là linh hồn của sự đổi mới. Trước đây, người ta hay chọn những
23
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

công nghệ đã chín muồi, còn bây giờ thì phải tìm công nghệ mới nảy sinh, cái chín
muồi là cái sắp sửa tiêu vong.
Trong nền kinh tế tri thức có nhiều điều tưởng như nghịch lý. Thứ nhất, của
cải làm ra là dựa chủ yếu vào cái chưa biết, cái đã biết không còn giá trị nữa, tìm ra
cái chưa biết đó là tạo ra giá trị. Thứ hai, môi trường để tìm ra cái chưa biết là mạng
thông tin. Mạng thông tin, thực tế ảo... gợi ra các ý tưởng mới, những giải pháp mới
đáp ứng các nhu cầu mới. Thứ ba, khi phát hiện ra cái chưa biết thì cũng tức là loại
trừ cái đã biết. Cái cũ mất đi thay thế bằng cái mới, nền kinh tế xã hội luôn đổi mới,
cái mới ngày càng nhiều. Đó là đặc trưng của sự phát triển, sự tiến hoá của xã hội
sắp tới, phát triển từ cái mới chứ không phải từ số lượng lớn dần lên. Thứ tư, sản
phẩm giá trị sử dụng càng cao thì giá bán càng rẻ, thậm chí phần mềm cơ bản được
cho không (để rồi sau đó nâng cao hơn một ít thì bán rất đắt); sản phẩm càng nhiều
người sử dụng thì giá trị sử dụng càng cao. Hiện nay vàng bạc hiếm thì quý, song ở
thời đại thông tin cái được dùng nhiều nhất là cái có giá trị cao. Ví dụ máy fax, nếu
có ít thì không có tác dụng nhưng khi có đến hàng nghìn máy để liên lạc với nhau
thì lúc đó mới có giá trị. Mạng cũng vậy, có nhiều người vào cùng sử dụng thì lúc ấy
mới có giá trị.

III. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CƠ BẢN HÌNH THÀNH NỀN KINH TẾ TRI THỨC.
Trước hết phải khẳng định ngay rằng, kinh tế tri thức không phải là một bước
nhảy đột biến hay một sáng tạo của một lý thuyết nào đó, mà là hình thái phát triển
cao hơn – có tính tiến hoá - của nền kinh tế thị trường phát triển cao. Chính sự phát
triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá đến mức cao độ ở các nước công nghiệp phát
triển đã tạo tiền đề cho sự ra đời của nền kinh tế tri thức ở các nước đó và các nước
đang phát triển muốn tiến đến nền kinh tế tri thức thì cũng không có cách nào khác
là phải chuẩn bị và cố gắng tạo cho mình có được những tiền đề đó.
Kinh nghiệm thực tế từ các nước phát triển và đang phát triển tổng kết cho
thấy

24
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

có những tiền đề cơ bản mà bất cứ một quốc gia nào, dù nước đó đã và đang tiến
thẳng vào nền kinh tế tri thức hay đang tìm cách tiếp cận nền kinh tế tri thức cũng
cần phải có.
1. Một nền kinh tế thị trường phát triển cao.

Để tiến đến nền kinh tế tri thức thì điều kiện đầu tiên và quan trọng đối với
các quốc gia là phải có một nền kinh tế thị trường phát triển cao với các thị trường
tài chính hoạt động hữu hiệu trên cả bình diện quốc tế lẫn trong nước. Doanh nghiệp
trong kinh tế tri thức vừa cần vốn đầu tư khổng lồ vừa phải chạy đua với thời gian
và đương đầu với những rủi ro lớn, nên hơn bao giờ hết, hoạt động của họ trong
kinh tế tri thức phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung cấp vốn từ các thị trường tài chính.
Ngược lại, sự bình ổn của thị trường tài chính cũng gắn bó mật thiết với công việc
kinh doanh của doanh nghiệp. Bảo đảm sự hoạt động của một nền kinh tế với những
quan hệ phức tạp và nhạy cảm như vậy chỉ có thể thành công ở một quốc gia có nền
kinh tế thị trường vững mạnh.
2. Hệ thống giáo dục đào tạo phát triển, tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng
Động lực của nền kinh tế tri thức thể hiện ngay chính trong khái niệm của nó,
đó là tri thức. Khác với các mô hình kinh tế truyền thống dựa vào sức lao động và
tài nguyên, trong nền kinh tế tri thức, khả năng sáng tạo tri thức, trình độ tiếp cận và
vận dụng tri thức mang ý nghĩa quyết định thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự bùng
nổ tri thức mới, việc đẩy nhanh tiến bộ khoa học công nghệ và sự cạnh tranh ngày
càng tăng làm cho việc tiếp thu tri thức càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết.
Cho nên, để tiến tới nền kinh tế tri thức, trước hết và chủ yếu là chú trọng phát triển
một cách toàn diện nguồn nhân lực, khuyến khích và bồi dưỡng nhân tài.
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành nguồn duy nhất tạo ra lợi thế so
sánh dài hạn, nhưng tri thức chỉ được áp dụng thông qua kỹ năng cá nhân, nên giáo
dục đào tạo phải trở thành quốc sách hàng đầu của những nước đi vào nền kinh tế tri
thức. Nền kinh tế tri thức đòi hỏi một hệ thống giáo dục và đào tạo tiên tiến, khoa
học, tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng và một hệ thống đổi mới quốc gia năng
25
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

động trong đó, doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học và các tác nhân có
liên quan khác sẽ tương tác một cách có hiệu quả để tạo ra, phổ biến và sử dụng tri
thức, đổi mới công nghệ và sản phẩm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và cải
thiện vị trí quốc gia. Đào tạo nguồn nhân lực trong kỷ nguyên của nền kinh tế tri
thức phải hướng tới mục tiêu biến tri thức thành kỹ năng, tri thức phải thành trí lực
và suy rộng ra dân trí phải trở thành nhân lực. Có thể nói, lĩnh vực đầu tư quan trọng
nhất để thúc đẩy nền kinh tế tri thức phát triển chính là đầu tư vào vốn con người,
làm thế nào để có thể đào tạo, thu hút và sử dụng tốt nhân tài. Tri thức, nhất là tri
thức “nguồn”, không thể ra đời, tồn tại, phát triển và phổ cập nhanh ở những nước
có trình độ dân trí thấp và một hệ thống nghiên cứu khoa học thiếu tính hợp tác và
đổi mới.

3. Cơ sở hạ tầng thông tin phát triển cao.


Cơ sở hạ tầng thông tin, trong đó có công nghệ tin học và thông tin phát triển
cao là một trong những điều kiện căn bản nhất đảm bảo sự phát triển của kinh tế tri
thức. Đó không những là một ngành kinh tế then chốt, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
tri thức mà còn là điều kiện đảm bảo hiệu quả của việc tiếp cận, trao đổi, xử lý thông
tin, sáng tạo tri thức của các ngành kinh tế – xã hội khác. Công nghệ thông tin là
chìa khoá để đi vào nền kinh tế tri thức. Đầu tư phát triển các ngành công nghệ cao
mà trước hết là công nghệ thông tin là hướng đi mà hầu hết các nước đều triệt để đi
theo nhằm tạo dựng cơ sở khoa học cho nền kinh tế tri thức.
Cách mạng thông tin là tác nhân căn bản của kinh tế tri thức. Sự phổ cập
những thành quả do cách mạng thông tin mang lại khiến cho con người có nhiều
kênh khác nhau để thu nhận tri thức. Sự hội tụ của hoạt động máy tính và mạng máy
tính đã xoá bỏ những giới hạn về về lưu giữ và truyền đạt tri thức. Với sự phát triển
của công nghệ thông tin, con người giờ đây đã có thể gửi đi những khối lượng lớn
thông tin tới bất cứ đâu trên thế giới trong giây lát với chi phí không ngừng giảm.
Công nghệ thông tin đã tạo điều kiện dễ dàng cho việc thu nhận và hấp thụ tri thức,
cung cấp cho các nước đang phát triển những cơ hội để tiến hành nhanh quá trình
26
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

hội nhập kinh tế quốc tế. Trong sản xuất kinh doanh, sự phát triển công nghệ thông
tin sẽ dẫn đến cái mà chúng ta thường nghe nói là cuộc cách mạng giảm chi phí điều
hành. Chi phí liên lạc thấp cũng góp phần không nhỏ giúp các doanh nghiệp có
những phản ứng kịp thời cho mọi biên động trên phạm vi toàn cầu, thúc đẩy toàn
cầu hoá doanh nghiệp.
Như vậy, cơ sở hạ tầng thông tin đã chuyển lên một cấp mới, trở thành tầng
nền tảng của toàn bộ cơ sở hạ tầng để chuyển sang nền kinh tế tri thức. Cơ sở hạ
tầng thông tin là cơ sở kinh tế – kỹ thuật mới về chất chưa từng có trước đây và
ngày càng khẳng định vai trò của nó trong quá trình tiến vào nền kinh tế tri thức.

4. Một nhà nước pháp quyền dân chủ.


Kinh nghiệm thành công cũng như thất bại của hầu hết các nước, đặc biệt là
Mỹ, cho thấy, nền kinh tế tri thức đòi hỏi không chỉ có đầu tư mạnh cho phát triển
công nghệ hiện đại, mà còn phải tạo dựng được một nhà nước pháp quyền, một môi
trường chính trị và xã hội dân chủ cho phép mọi người dân có thể bày tỏ quan điển
và chính kiến cũng như các ý tưởng sáng tạo của mình, và những điều kiện thuận lợi
đối với kinh doanh, nơi mà doanh nghiệp có thể lường trước được mọi rủi ro trên cơ
sở một môi trường hiệu quả, an toàn và ổn định cho việc hình thành, sản xuất và tiêu
thụ tri thức. Đó trước hết phải là một môi trường chính trị dân chủ, kích thích kinh
tế hướng đầu tư vào tri thức và khai thác một cách có hiệu quả tri thức cho phát triển
kinh tế. Sáng tạo là bản chất của kinh tế tri thức, mà dân chủ lại là tiền đề cho sự
sáng tạo những tri thức mới. Do đó, không có dân chủ thì sẽ không có tri thức mới,
và tất yếu không thể có kinh tế tri thức. Vì vậy, mênh đề dân chủ – sáng tạo và kinh
tế tri thức là thống nhất và có mối quan hệ biện chứng. Điều này chỉ ra rằng, kinh tế
tri thức đông thời vừa sản sinh ra thể chế chính trị dân chủ, vừa yêu cầu thể chế
chính trị cần phải đổi mới theo hướng dân chủ thì kinh tế tri thức mới phát triển
được.
Để đảm bảo cho nền kinh tế tri thức hình thành và phát triển tốt cần phải quan
tâm đến một môi trường pháp lý rõ ràng, ổn định, không bị thay đổi một cách tuỳ
27
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

tiện, bảo đảm tự do hoàn toàn cho việc tiếp cận, trao đổi và xử lý thông tin, trong đó
giá trị của tri thức phải được bảo vệ bằng luật sở hữu trí tuệ. Mục tiêu của bảo vệ
quyền sở hữu trí tuệ chính là khuyến khích hoạt động sáng tạo, cổ vũ và kích thích
đầu tư vào sản xuất tri thức đồng thời thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và sử dụng
một
cách tiết kiệm, hiệu quả nhất các nguồn lực trí tuệ của xã hội.

IV. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ TRI THỨC TRÊN THẾ GIỚI
TRONG THẾ KỶ XXI

Kinh nghiệm nhiều nước cho thấy, kinh tế tri thức luôn đòi hỏi một năng lực
đổi mới tư duy nên để có thể tạo dựng và phát triển được nền kinh tế tri thức, mỗi
nước phải có nhận thức mới về nền kinh tế mới hiện nay, thấy rõ được tính kế thừa
và khác biệt của nó, nắm được các điều kiện phát triển và vận hành của nó, những
tác động mới do nó sinh ra, những lợi thế cũng như thách thức mà nó đặt ra. Có như
vậy, họ mới có được quyết tâm và những chính sách và biện pháp đúng để xây dựng
và phát triển nền kinh tế mới này.
Thực tế cho thấy, việc Mỹ và các nước EU đã vượt trội so với các nước châu
Á và các nước thuộc châu lục khác trong việc xây dựng nền kinh tế tri thức không
chỉ do họ có những điều kiện xuất phát về kinh tế và kỹ thuật cao hơn, mà trước hết
là do các nước này đã sớm nhận thức được vai trò quan trọng của nền kinh tế tri
thức, tính tất yếu và những điều kiện cần thiết cho sự ra đời và phát triển của nền
kinh tế này. Họ đã hiểu rằng công nghệ thông tin và rộng hơn là nền kinh tế tri thức
không những đòi hỏi những điều kiện ra đời và phát triển khác hẳn và một khi nó
xuất hiện nó cũng khiến cho các điều kiện cũ trở nên lỗi thời một cách nhanh chóng,
do đó họ sớm có những giải pháp đúng đắn để phát triển hoặc tạo điều kiện cho sự
ra đời của nền kinh tế tri thức. Mỹ là nước đang dẫn đầu xu thế chuyển từ nền kinh
tế hậu công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Nền kinh tế tri thức, đứng đầu là công
nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin đã xuất hiện sớm và khá thành công ở Mỹ.

28
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

Ngoài ra, những yếu tố của nền kinh tế tri thức cũng đã phát triển và đạt được mức
khá cao trong nhiều nước EU. Tuy nhiên, cho đến nay, tình hình chuyển sang nền
kinh tế tri thức ở khu vực này còn chậm hơn so với Mỹ, nhiều nước chưa thực hiện
những nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế mới. Và trong thế kỷ XXI, Mỹ cũng như
các nước EU tiếp tục tiến tới nền kinh tế tri thức với các tiền đề vững chắc được xây
dựng trong các thập niên qua
Trong khi đó, ở không ít các nước châu Á, châu Phi và Mỹ la tinh, người ta
còn hết sức mơ hồ về nền kinh tế tri thức. Cho nên, ở các nước này, sự đầu tư cho
việc phát triển khoa học công nghệ mà trước hết là công nghệ thông tin và cho việc
xây dựng nền kinh tế tri thức chưa được quan tâm thích đáng. Ở nhiều nước, người
ta vẫn bám lấy và coi trọng những tư duy và thể chế cũ, một thời được coi là nguyên
nhân tạo ra sự thành công kinh tế của họ, và hậu quả là nền kinh tế của các nước này
bị lạc hậu tương đối so với các nước Âu Mỹ trong việc phát triển khoa học kỹ thuật
và trong việc tiến đến nền kinh tế tri thức. Những cuộc điều tra gần đây cho thấy,
trong khi Mỹ và EU đang hăng hái lao vào hoạt động kinh doanh điện tử thì các
công ty châu Á dường như kém tích cực trong việc tham gia vào hoạt động này.
Một cuộc điều tra vào năm 2000 của công ty International Card cho thấy, hầu hết
các giám đốc điều hành của các công ty hàng đầu châu Á đều không cho rằng,
thương mại điện tử là có lợi cho họ. Tại Singapore, một cuộc điều tra của Chính phủ
cho thấy, 63% các công ty ở đó không thích kinh doanh trên mạng điện tử [13,18].
Tuy nhiên, mặc dù có chậm hơn và ở trình độ thấp hơn so với các nước châu
Âu và Mỹ thì những nét cơ bản của nền kinh tế ri thức cũng đang dần xuất hiện ở
nhiều nền kinh tế châu Á. Điều này biểu hiện ở chỗ trong thời gian gần đây, đa số
các nước trong khu vực này đều tăng vốn đầu tư cho công nghệ kỹ thuật cao và các
yếu tố cơ bản của nền kinh tế tri thức đang xuất hiện ngày càng nhiều và có những
đóng góp ngày càng rõ rệt vào nền kinh tế.
Đó là trên bình diện quốc gia, còn trên bình diện quốc tế, bình diện toàn cầu,
do những điều kiện, lợi ích và nhận thức khác nhau, nên các nước cũng tồn tại
29
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

những chính sách khác nhau về việc xây dựng các yếu tố của nền kinh tế tri thức.
Hiện nay, trong khi Mỹ tỏ ra rất hào hứng trong việc ủng hộ buôn bán tự do trên
mạng bằng cách kêu gọi bãi bỏ nhanh chóng những trở ngại đối với thương mại và
tài chính điện tử thì một số nước EU và Nhật Bản lại kịch liệt phản đối. Điều đó
chắc chắn sẽ tác động làm chậm lại quá trình ra đời của nền kinh tế tri thức toàn cầu.
Đúng như Peter Drucker, trong cuốn The Post Capitalism Society năm 1998
đã từng viết “ Cuộc cách mạng thông tin đang trên đường tiến tới. Đó không chỉ là
cuộc cách mạng về công nghệ, về máy móc, về kỹ thuật, về phần mềm mà trước hết
đó là một cuộc cách mạng về các quan niệm, về đổi mới tư duy...”. Như vậy, các
nước muốn tiến tới và phát triển nền kinh tế tri thức thì không những phải tăng
cường đầu tư cho việc phát triển công nghệ cao mà còn phải thay đổi thái độ đối với
những thể chế kinh tế hiện nay và đối với công nghệ mới. Trong thực tế, sự thay đổi
này đang diễn ra, song không đơn giản và dễ dàng. Cùng với việc thay đổi lối tư duy
phù hợp với nền kinh tế mới, hầu hết các nước đã và đang nỗ lực hoạch định những
chính sách nhằm tạo ra tiền đề để xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức trong
thế kỷ XXI.

30
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

Chương II
NỀN KINH TẾ TRI THỨC CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN
THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
I. SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KTTT CỦA MỸ.
1. Quan niệm của Mỹ về nền kinh tế tri thức.
Cách gọi khác cho nền kinh tế tri thức được sử dụng phổ biến hơn ở Mỹ là
“nền kinh tế Mới – New Economy” lần đầu tiên được nêu lên trong cuốn Làn sóng
thứ ba (xuất bản năm 1980 ) của tác giả A. Toffler. Tháng 2/1997, trong thông điệp
liên bang về tình hình đất nước, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã sử dụng khái niệm
kinh tế tri thức theo định nghĩa của OECD và trong cuộc hội thảo về công nghệ mới
và kinh tế mới tại thành phố Seatle tháng 5/1997, khái niệm kinh tế Mới cũng được
phó Tổng thống Al.Gore trình bày và nhấn mạnh kể từ những năm 1980, Mỹ đã tiến
vào nền kinh tế mới dựa trên cơ sở của cuộc cách mạng công nghệ thông tin và sự
toàn cầu hoá kinh tế thị trường. Năm 1999, Bộ Thương mại Mỹ đã công bố báo cáo
về nền kinh tế số – The Emerging Digital Economy, trong đó nhấn mạnh vai trò của
kỷ nguyên kỹ thuật số đối với nền kinh tế Mỹ.
Theo đó, quan niệm của Mỹ về nền kinh tế tri thức là nhấn mạnh khía cạnh
môi trường công nghệ của bước chuyển đổi trong nền kinh tế Mỹ. Nền kinh tế Mỹ
do đó đang trong quá trình thích ứng và chuyển dịch phù hợp với môi trường công
nghệ số hoá. Những khái niệm như thương mại điện tử ( E- commerce) hay chính
phủ điện tử ( E – Government ) đều phản ánh sự điều chỉnh trước làn sóng công
nghệ số. Chính những điều chỉnh này tạo ra tính “ Mới” của nền kinh tế Mỹ.

31
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

Như vậy, quan điểm này khẳng định vai trò của môi trường kỹ thuật số hoá
của nền kinh tế và nguồn tri thức được tạo ra là tri thức của thời đại công nghệ kỹ
thuật số, không phải tri thức của thời đại công nghệ cơ khí hoá hay cơ giới hoá.

32
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

Nền kinh tế Mới dựa trên tri thức xuất hiện và phát triển ở Mỹ là nền kinh tế
chuyển dịch vào môi trường của cuộc cách mạng số hoá.
Tuy nhiên, công nghệ mới chỉ là điều kiện cần. Vai trò của Chính phủ mới là
nhân tố đảm bảo cho sự chuyển dịch thành công nói trên. Báo cáo kinh tế của Tổng
thống Mỹ năm 2001 (Economic Report of the President 2001) đã định nghĩa: “ Nền
kinh tế Mới là nền kinh tế có hiệu suất vượt bậc, gồm năng suất tăng nhanh, thu nhập
tăng, thất nghiệp thấp và lạm phát vừa phải, là kết quả của sự kết hợp tương tác giữa
những thành tựu về công nghiệp, tập quán kinh doanh và chính sách kinh tế ”
[27,23]. Báo cáo này cũng trình bày khá toàn diện quan niệm của Chính phủ Mỹ về
nền kinh tế tri thức ở Mỹ:
 Đây là một nền kinh tế Mới vì nền kinh tế Mỹ đang trong quá trình chuyển
biến sâu rộng từ cơ cấu ngành kinh tế đến phương thức vận hành nền kinh tế vĩ mô,
phương thức quản lý doanh nghiệp và tổ chức lao động trong công ty.
 Nói “ dựa trên tri thức ” chính là đặc điểm bao trùm của nền kinh tế Mới
đang xuất hiện ở Mỹ. Nền kinh tế mới này không chỉ dựa trên các ngành công
nghiệp truyền thống mà còn chuyển mạnh sang các ngành mới dựa trên kỹ thuật số
và dịch vụ tri thức. Các ngành mới lại tác động và làm thay đổi phương thức hoạt
động của các ngành truyền thống.
Việc điểm qua những quan điểm chính cho thấy nền kinh tế Mỹ đã và đang
thay đổi thực sự, thay đổi chính là tiền đề cho sự tiến bộ. Những thay đổi diễn ra
trong nền kinh tế Mỹ không trái chiều nhau mà tiến triển theo cùng một chiều hướng,
đó là xu thế chuyển sang một nền kinh tế dựa chủ yếu vào các nguồn lực do sức
mạnh trí tuệ của con người tạo ra, những tài sản vô hình và không trọng lượng.
2. Tình hình phát triển nền kinh tế tri thức ở Mỹ.
2.1. Quá trình ra đời và phát triển của nền kinh tế tri thức của Mỹ.
Trả lời câu hỏi ở Mỹ liệu có một nền kinh tế tri thức hay không, nhiều học giả
Mỹ cho rằng, kể từ những năm 1980, Mỹ đã tiến vào nền kinh tế mới dựa trên cơ sở
của cuộc cách mạng công nghệ thông tin và sự toàn cầu hoá kinh tế thị trường. Có
33
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

thể nói, “kinh tế tri thức” hay “kinh tế mới” đứng đầu là các lĩnh vực công nghệ cao,
đặc biệt là công nghệ thông tin đã khá thành công ở Mỹ. Tháng 11/1991, Mỹ đã mở
cửa mạng Internet công chúng, nhanh chóng thúc đẩy cuộc cách mạng tin học và
điều chỉnh ngành nghề. Từ đó, nền kinh tế Mỹ đã tăng trưởng 117 tháng liên tục và
trở thành chu kỳ tăng trưởng dài nhất trong lịch sử phát triển kinh tế Mỹ [20,73]. Từ
năm 1994 đến 2001, tốc độ tăng trưởng đạt mức trung bình 4% năm và có sự phát
triển vượt trội so với các nước EU và Nhật Bản trong suốt những năm 1990, sản
phẩm thông tin và chi phí dịch vụ tăng lên nhanh chóng, dẫn đầu các lĩnh vực khác.
Theo thống kê năm 1997, ở Mỹ chi phí cho các sản phẩm “kinh tế cũ” như ôtô, thực
phẩm, đồ điện gia dụng... tăng bình quân 0,9%, nhưng chi phí cho các sản phẩm
“kinh tế mới” như điện thoại di động, máy tính, dịch vụ tài chính tiền tệ... lại tăng
bình quân 12,5%. Tỷ lệ thất nghiệp đã giảm từ 6% đầu những năm 1990 xuống còn
4% và tỷ lệ lạm phát cũng liên tục giảm và đạt ở mức thấp là 1,5% [12,41]. Ngoài ra,
tỷ trọng xuất nhập khẩu và tỷ lệ đóng góp của các sản phẩm công nghệ cao vào GDP
ngày càng lớn.
Có nhiều yếu tố làm nên sự thành công của nền kinh tế Mỹ nhưng động lực
chính cho sự tăng trưởng này là sự phát triển mạnh của các ngành công nghệ cao, đặc
biệt là sự bùng nổ phát triển công nghệ thông tin. Mặc dù hiện ngành này mới chỉ
chiếm 8% GDP nhưng lại đóng góp tới hơn 1/3 mức tăng trưởng kinh tế hàng năm
của Mỹ và nếu tính cả những ngành có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến tin học
thì tỷ lệ này lên đến 80% GDP [9,108]. Mỹ đạt được những thành tựu kinh tế như
vậy là nhờ vào tăng nhanh đầu tư mạo hiểm (venture capital investment) vào công
nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin, khả năng của các thị trường tài chính Mỹ, khả
năng của chính phủ và các tập đoàn trong việc giảm dần chi phí và nâng cao hiệu quả
trong hoạt động kinh doanh và đầu tư cũng như tính đổi mới cao của nền kinh tế.
Những chuyển biến trong nền kinh tế Mỹ thể hiện ở các điểm sau:
2.1.1. Vai trò nổi bật của khu vực công nghệ thông tin truyền thông.

34
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

Khu vực công nghệ thông tin truyền thông của Mỹ tăng trưởng mạnh trong
suốt thập kỷ 1990 và đạt tốc độ tăng trưởng trung bình 17%/năm vào nửa cuối thập
kỷ. Năm 1999, giá trị sản lượng của khu vực này đạt 729 tỷ USD. Điều quan trọng là
mặc dù chỉ chiếm dưới 10% GDP nhưng các ngành công nghệ thông tin đã đóng góp
trung bình 30% lượng tăng trưởng của kinh tế Mỹ [9,156].
Việc làm trong khu vực công nghệ thông tin cũng tăng mạnh hơn các khu vực
kinh tế khác. Sản lượng của khu vực công nghệ thông tin tăng nhanh đồng nghĩa với
sự tăng mạnh về số lượng việc làm của khu vực này. Năm 1998, khoảng 7,4 triệu
công nhân làm việc trong khu vực công nghệ thông tin, chiếm 6,1% lực lượng lao
động Mỹ. Trong giai đoạn 1994 – 1998, việc làm trong ngành công nghệ thông tin
tăng 29%, so với tốc độ tăng bình quân của các ngành khác là 22% [9,156].
Công nghệ thông tin kết hợp với công nghệ truyền thông đã tạo ra mạng
Internet. Khu vực kinh tế Internet cũng phát triển rất nhanh. Trong hai năm 1998 –
1999, khu vực Internet tăng trưởng 36%, tạo ra 650000 việc làm mới. Tỷ trọng tuyệt
đối của khu vực Internet trong nền kinh tế Mỹ còn tăng với tốc độ cao hơn, từ 323 tỷ
USD năm 1998 lên 524 tỷ USD năm 1999, tăng 62% [9,157]. Điều này cho thấy
ngày càng nhiều công ty chuyển sang lĩnh vực kinh doanh điện tử. Một công ty thuộc
nền kinh tế Internet có mức tăng trưởng lợi nhuận là 11%, cao hơn nhiều so với mức
4% của các công ty thuộc khu vực sản xuất vật chất.
Đầu tư vốn cho công nghệ thông tin chiếm 46% tổng số vốn đầu tư của khu
vực tư nhân. Năm 1998, thiết bị và phần mềm công nghệ thông tin chiếm 46% tổng
số vốn đầu tư của các công ty tư nhân [9,157]. Trong khi đó,tỷ lệ đầu tư cho các thiết
bị cơ bản khác như máy móc lại giảm. Nhân tố chủ yếu của việc tăng cường đầu tư
vốn công nghệ thông tin là do thiết bị và phần mềm công nghệ thông tin giảm.
2.1.2. Những đổi mới trong khu vực tài chính.
Làn sóng công nghệ mới và các ý tưởng sáng tạo không thể ra đời và thương
mại hoá nếu không có một môi trường tài chính thuận lợi, đúng hơn là không đi kèm
với những đổi mới trong khu vực tài chính. Một loạt các công cụ tài chính mới ra đời
35
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

và đổi mới để hỗ trợ cho làn sóng công nghệ mới. Đó là sự bùng nổ của nguồn vốn
rủi ro (risk capital) hay vốn mạo hiểm (venture capital) với sự xuất hiện của hàng
ngàn quỹ đầu tư mạo hiểm (ventural capital investment fund). Đó là hình thức gọi
vốn IPO (chào giá niêm yết chứng khoán lần đầu) trên thị trường vốn để hình thành
các doanh nghiệp mới.
Yếu tố dẫn đến sự tăng trưởng của Mỹ là một cuộc bùng nổ chưa từng có
nguồn “vốn rủi ro” – từ các quỹ vốn mạo hiểm và các cuộc chào giá niêm yết chứng
khoán lần đầu. Lần đầu tiên tồn tại một tập hợp các định chế tài chính phục vụ cho
việc kiếm tìm và tài trợ hoạt động đổi mới một cách có hệ thống và tồn tại một thị
trường mà những nhà doanh nghiệp với ý tưởng sáng tạo có thể huy động đủ nguồn
tài chính để cạnh tranh với các công ty khác. Đây chính là điều làm nên cái mới của
nền kinh tế Mới ở Mỹ.
Nếu công nghệ được coi là động cơ của kinh tế mới thì tài chính được ví như
nhiên liệu cho động cơ này. Hiện nay, nguồn vốn mạo hiểm đã tăng và có thể cạnh
tranh với nguồn quỹ R&D trong việc tài trợ cho hoạt động đổi mới. Tác động của
nguồn vốn mạo hiểm khá lớn trong nền kinh tế. Một nghiên cứu của Đại học tổng
hợp Harvard năm 1998 đã tính toán rằng, một USD vốn mạo hiểm có thể tạo ra số
lượng bằng sáng chế gấp 3 đến 5 lần một USD chi cho R&D của công ty [21,159].
Nguồn tài chính sẵn có và cơ hội làm giàu từ một ý tưởng mới đã đẩy nhanh
quá trình đổi mới. Đổi mới nhanh lại có tác dụng làm tăng năng suất, giảm lạm phát
và thúc đẩy đầu tư. Điều này lý giải tại sao Mỹ lại hưởng lợi nhiều hơn bất cứ quốc
gia công nghiệp nào từ cuộc cách mạng công nghệ ngày nay. Những nước như Đức
và Nhật Bản cũng tiếp cận với các công nghệ như Mỹ, song họ đã bị tụt hậu do
không có đủ khả năng chấp nhận rủi ro như các thị trường tài chính Mỹ.
Như vậy có thể thấy rằng môi trường tài chính đóng vai trò quyết định cho quá
trình đổi mới trong nền kinh tế. Sự sáng tạo và đổi mới là tiền đề của một nền kinh tế
mới dựa vào tri thức.
2.1.2. Sự biến đổi của mô hình sản xuất và kinh doanh.
36
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

 Hướng tới một mô hình mới


Sức ép từ môi trường cạnh tranh mới và làn sóng công nghệ mới đã biến đổi
mô hình quản lý và sản xuất truyền thống. Hệ thống sản xuất linh hoạt (Flexible
Manufacture System - FMS) đang được các doanh nghiệp Mỹ ứng dụng, dần thay
thế mô hình sản xuất hàng loạt. Mô hình quản lý sản xuất mới, tổng quát hơn là mô
hình kinh doanh mới đang dần thay thế mô hình quản lý khoa học do F.W.Taylor
khởi xướng từ đầu thế kỷ XX (Economic Reform Today, No.1 / 2000).
Mô hình kinh doanh phổ biến suốt nửa thế kỷ qua là mô hình quản lý khoa học
của F.W.Taylor, hay còn gọi là quy trình sản xuất hàng loạt. Những năm cuối thập
kỷ 1970, đầu thập kỷ 1980 đã chứng kiến sự xuất hiện mô hình kinh doanh mới.
Trên nhiều khía cạnh quan trọng, phương pháp mới này đã đảo ngược những quy tắc
của quản lý khoa học.
Mô hình quản lý hiện nay Mô hình quản lý mới
Thứ nhất, đó là xu hướng tổ chức sản “ Tư duy” và “ hành động” sản xuất
xuất có sự phân tách “tư duy” và “hành được tái hợp nhằm tận dụng trí thông
động”giữa kỹ sư quản lý với kỹ sư minh và năng lực của công nhân sản
chuyên môn hoá, giữa kỹ sư quản lý xuất để giải quyết các vấn đề tại xưởng
với các công nhân không có tay nghề sản xuất
Thứ hai, đó là xu hướng giới hạn trách Làm việc theo nhóm được chú trọng.
nhiệm công viẹc của công nhân sản Trong khi chuyên môn hoá và tính kinh
xuất và tăng cường chuyên môn hoá tế nhờ quy mô vẫn là yếu tố quan trọng
công việc càng nhiều càng tốt nhằm tối thì mô hình mới ra đời nhằm tận dụng
đa hoá tính kinh tế nhờ quy mô tiềm sức phối hợp tiềm năng có được từ các
năng. nhóm làm việc 10 – 20 người, đồng thời
chuyên môn hoá cũng được thực hiện
một cách hợp lý để không gây phương
hại đến làm viẹc nhóm.
Thứ ba, đó là điều mà kỹsư F.W.Taylor Nhấn mạnh đến tầm quan trọng của hoạt
tin rằng ở bất cứ thời điểm nào cũng động đổi mới liên tục – không chỉ đổi
tồn tại một giải pháp tổ chức công việc mới trong sản phẩm thông qua việc
và sản xuất tối ưu. thích ứng với sự thay đổi của nhu cầu
37
Dương Thị Vĩnh Hà - A8 K38C – Kinh tế Ngoại Thương

mà phải đổi mới trong cách thức sản


xuất, sử dụng công nghệ mới và các
phương pháp mới để tổ chức và khuyến
khích con người.
Nguồn: Tạp chí Economic Reform Today số 1/2000, “ The Business Model of
the New Economy”.

38
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Mỹ không phải là một trong những nước đầu tiên có nhiều công ty hoạt động
theo mô hình kinh doanh mới. Tuy nhiên, xã hội Mỹ, nền kinh tế Mỹ và nhiều doanh
nghiệp Mỹ lại hết sức linh hoạt. Do đó, đầu thập kỷ 1980 và đặc biệt là từ cuộc suy
thoái đầu những năm 1990, nhiều công ty Mỹ đã nhanh chóng thích ứng và tổ chức
lại sản xuất theo nhiều nguyên tắc của mô hình kinh doanh mới. Không chỉ các công
ty mới kiểu như các công ty hoạt động trên mạng Internet (dot.com) mới hoạt động
theo mô hình này mà những công ty theo mô hình cũ như hãng ôtô GM cũng đã
chuyển đổi sang mô hình mới. Mô hình kinh doanh mới là một triêt lý về cách thức
tổ chức con người dựa trên làm việc theo nhóm có ý thức, kết nối mạng lưới, khuyến
khích con người và giảm bớt lãng phí. Đây chính là mấu chốt của sức cạnh tranh Mỹ
trong suốt thập kỷ 1990, là một trong những tiền đề mang tính quyết định cho sự
hình thành nền kinh tế mới dựa trên tri thức ở Mỹ.
 Mô hình mới đòi hỏi các phương thức kinh doanh mới.
Với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin và mạng Internet, chi phí kinh doanh
giảm đáng kể, đặc biệt là chi phí giao dịch và phân phối. Điều này giúp doanh nghiệp
thoả mãn tối ưu nhu cầu ngày càng đa dạng và đổi mới của khách hàng, bao gồm cả
người tiêu dùng và các doanh nghiệp. Hoạt động giao dịch kinh doanh thông qua
mạng Internet (E – Commerce) thực sự bùng nổ và lan rộng. Mặc dù nhiều công ty
Mỹ đã sử dụng máy tính và ứng dụng chúng vào các hoạt động kinh doanh như trao
đổi dữ liệu điện tử (EDI) và thanh toán chuyển khoản điện tử (EFT) từ thập kỷ 1970,
nhưng phải đến thập kỷ 1990 việc ứng dụng mạng Internet vào kinh doanh mới được
xem là sự thay đổi mang tính cách mạng.
Bên cạnh đó, các sản phẩm sản xuất hàng loạt trở nên không hấp dẫn do sự
thay đổi đa dạng của thị hiếu và nhu cầu. Thực tế này đòi hỏi các doanh nghiệp Mỹ
phải tìm cách đơn chiếc hoá (customization) các sản phẩm của mình và đa dạng hoá
các hình thức dịch vụ. Nhờ đó, phương thức tổ chức và sản xuất của doanh nghiệp
mới dần hình thành đáp ứng yêu cầu của một nền kinh tế mới dựa vào tri thức.

39
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

 Mô hình mới cần chiến lược kinh doanh mới


Các công ty Mỹ ngày càng có xu hướng tận dụng nguồn lực bên ngoài
(outsourcing) để thực hiện các chức năng kinh doanh vì chiến lược này đem lại sự
lựa chọn có chi phí thấp cho các hoạt động sản xuất, tiếp thị, dịch vụ khách hàng,
giao hàng, lưu kho và các quy trình kinh doanh khác.
Khi phân công lao động trong quy trình giá trị gia tăng tiếp tục được thực hiện
trên quy mô toàn cầu, các công ty Mỹ có xu hướng chuộng hình thức liên doanh,
thuê ngoài và các cam kết theo hợp đồng hơn là hình thức đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Nguyên nhân chủ yếu khiến các công ty Mỹ đi thuê ngoài là do các khoản chi
phí điều phối dự án giảm và tỷ lệ chi phí lao động trong tổng chi phí hạ thấp.
Nhờ sử dụng Internet và công nghệ thông tin, các công ty Mỹ có thể giám sát
các hoạt động sản xuất của nhà thầu phụ và phối hợp chặt chẽ với họ để đáp ứng các
thông số kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng và thời gian giao hàng của sản phẩm với chi
phí thấp hơn nhiều so với trước đây. Điều này sẽ giảm thiểu yêu cầu quản lý sản xuất
tích cực trong hình thức đầu tư trực tiếp. Đồng thời, tỉ lệ chi phí lao động trong tổng
chi phí sản xuất hay trong chi phí tiếp thị lại giảm liên tục. Do vậy, những lợi thế từ
chi phí lao động nước ngoài thấp chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng lợi nhuận của
các công ty Mỹ.
Liên minh chiến lược (Strategic Alliance) cũng là một chiêu thức phù hợp cho
các công ty Mỹ ngày nay, đặc biệt là những công ty tiên phong trong lĩnh vực công
nghệ mới. Các công ty này một mặt đua tranh, một mặt bắt tay hợp tác với nhau
trong một số lĩnh vực công nghệ đột phá mà nếu đứng một mình thì không một công
ty nào có thể có đủ tài và lực để thành công.
Trong các ngành khác, hoạt động điều chỉnh chiến lược kinh doanh cũng được
đẩy mạnh. Bối cảnh cạnh tranh toàn cầu làm làn sóng mua lại và sát nhập dâng cao,
đặt biệt trong lĩnh vực viễn thông, dược phẩm, ôtô... Quá trình tái cơ cấu doanh
nghiệp này gây ra một số tác động về mặt xã hội nhưng nó chính là quá trình loại bỏ
40
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

cái cũ tạo điều kiện cho cái mới ra đời. Khả năng tự đổi mới của các doanh nghiệp
Mỹ đã góp phần quyết định vào sự xuất hiện của nền kinh tế mới dựa trên tri thức ở
Mỹ.
Như vậy, tính năng động và sự điều chỉnh của khu vực doanh nghiệp Mỹ đã
trở thành một tiền đề quan trọng cho quá trình chuyển dịch sang một nền kinh tế Mới
dựa trên tri thức ở Mỹ.
2.2. Một số đặc trưng chủ yếu của nền kinh tế tri thức ở Mỹ.
2.2.1. Các ngành công nghệ cao, dịch vụ trở thành động lực tăng trưởng chính.
Các ngành công nghệ cao và dịch vụ ở Mỹ đã làm ra tới 60% GDP, thu hút và
tạo ra một lực lượng lao động lớn. Năm 1999, ngành công nghệ thông tin sử dụng sử
dụng 48 triệu người, ngành ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng 43 triệu người,
chiếm 45% số người làm việc trong các doanh nghiệp lớn và dự kiến con số này sẽ
tăng tới 50% vào năm 2006 [4,89]. Không những nền kinh tế tri thức làm xuất hiện
nhiều nghề mới mà còn đòi hỏi người lao động phải không ngừng nâng cao trình độ
của mình, vì chính những lao động đã qua đào tạo này là nhân tố chủ yếu làm tăng
năng suất lao động và thúc đẩy đổi mới.
2.2.2. Nền kinh tế tri thức của Mỹ là nền kinh tế có xu hướng toàn cầu hoá mạnh.
Xu hướng toàn cầu hoá mạnh thể hiện ở việc tỷ lệ xuất nhập khẩu của Mỹ
trong GDP đã tăng đáng kể từ 5,5% năm 1950 lên 11% năm 1970 và 25% năm 1997
và các nhà sản xuất Mỹ ngày càng chuyên môn hoá cao vào những hàng hoá và dịch
vụ phức tạp hơn, có giá trị gia tăng cao hơn [21,44]. Đồng thời, ngay từ những năm
1970, không những FDI của Mỹ ra nước ngoài mà cả FDI nước ngoài vào Mỹ cũng
tăng nhiều khiến cho nền kinh tế Mỹ ngày càng có tính cạnh tranh, năng động và
luôn đổi mới. Mặc dù, theo dự tính sơ bộ của Công ty dữ liệu quốc tế (IDC) thì năm
2003, Mỹ chỉ còn chiếm 44% tổng kim ngạch thương mại điện tử toàn cầu, giảm so
với 61,7% năm 1999, song vẫn còn cao hơn nhiều so với các nước EU( con số tương
ứng là 31,2% và 18,7%) và Nhật Bản (con số tương ứng là 15,3% và 10,3%) [9,58]
2.2.3. Nền kinh tế tri thức được quản lý và vận hành theo một cơ chế năng động.
41
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Nền kinh tế Mỹ luôn cho ra đời rất nhiều những công ty tư nhân, tuy nhỏ
nhưng luôn đổi mới và linh hoạt và được coi là động lực chính cho nền kinh tế Mỹ
trong suốt thập kỷ qua. Trong thời kỳ 1993 – 1998, số lượng các công ty loại này đã
tăng hơn 40% và tạo ra 70% số việc làm mới cho nền kinh tế Mỹ trong thời kỳ này.
Ngoài ra, trong những năm 1990, tình hình việc làm ở Mỹ cũng xáo động mạnh bằng
việc các việc làm mới liên tục thay thế cho các việc làm cũ và chỉ số bán cổ phiếu
ban đầu, thể hiện một tiềm năng phát triển bền vững và lâu dài của một nền kinh tế,
cũng tăng mạnh so với các thập kỷ trước.
2.2.4. Lạm phát và thất nghiệp ở mức thấp.
Cả lạm phát và thất nghiệp ở Mỹ đều được duy trì ở mức thấp. Trong thập kỷ
1990, mức thất nghiệp trong nền kinh tế Mỹ giảm từ 6% năm 1992 xuống còn 4%
năm 2000 [4,154]. Điều đáng nghiên cứu là mức thất nghiệp thấp kỷ lục như vậy
song lạm phát không hề có dấu hiệu bùng phát như trong thời kỳ trước. Nguyên nhân
chủ yếu của hiện tượng này là mức tăng năng suất kỳ diệu của nền kinh tế Mỹ trong
thời gian qua. Một số quan điểm cho rằng thực tế này chỉ mang tính tạm thời, do giá
hàng nhập khẩu thấp và phù hợp với chiều hướng giảm lạm phát trên thế giới. Tuy
nhiên, cần thấy rằng sự thay đổi này trong quan hệ giữa thất nghiệp và lạm phát cơ
bản bắt nguồn từ sự chuyển dịch cơ cấu trong nền kinh tế Mỹ, kết quả của những
điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô.
Hiện nay đang diễn ra cuộc tranh luận về vai trò thực sự của công nghệ thông
tin đối với chiều hướng giảm tỷ lệ thất nghiệp không gây lạm phát trong nền kinh tế
Mỹ. Có quan điểm cho rằng năng suất tăng mang tính cơ cấu, kết quả của sự phổ
biến công nghệ thông tin trong nền kinh tế. Quan điểm khác cho rằng mức tăng năng
suất một khi đã tính tới những tác động chu kỳ và sự thay đổi phép tính năng suất, có
thể chỉ thấy trong ngành sản xuất máy vi tính. Nếu như vậy thì tất cả các ngành sử
dụng máy vi tính – gần như toàn bộ nền kinh tế Mỹ - đều không đạt được mức tăng
năng suất nào cả. Cuộc tranh luận này chưa có kết luận nhưng không thể phủ nhận
một điều là nền kinh tế Mỹ đã đạt được một sự ổn định kinh tế vĩ mô trong thời gian
42
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

qua và chính sự ổn định này là tiền đề không thể thiếu cho sự phát triển của một nền
kinh tế tri thức.

3. Vai trò của chính sách kinh tế vĩ mô.


Báo cáo kinh tế của Tổng thống Mỹ năm 2001 đánh giá chính sách vĩ mô là
một trong ba tiền đề cho nền kinh tế Mới dựa trên tri thức đang phát triển ở Mỹ. Sau
đây là sự phân tích vai trò đó trên hai khía cạnh nổi bật là đảm bảo nguồn tài chính
và đảm bảo nguồn nhân lực.
3.1. Đảm bảo nguồn tài chính.
Việc thực thi chính sách kỷ cương tài chính đã tái lập cân bằng ngân sách liên
bang, chính sách này kết hợp với chính sách tiền tệ đúng đắn đã tạo ra một môi
trường vốn ổn định, lãi suất thấp, khuyến khích đầu tư tư nhân. Thặng dư ngân sách
liên bang đạt mức kỷ lục, năm 1992 thâm hụt 290 tỷ USD đến năm 2000 thặng dư
167 tỷ USD.
Chính sách tài khoá chuyển hướng đầu tư cho khu vực tư nhân, đặc biệt là tạo
điều kiện đầu tư cho khu vực tài sản vô hình của nền kinh tế như giáo dục - đào tạo,
R&D và phần mềm và khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư. Sự chuyển hướng này
đã hỗ trợ việc duy trì kỷ cương tài chính và giải phóng nguồn lực cho khu vực tư
nhân phát triển, làm bùng nổ làn sóng đầu tư trong nền kinh tế.
Bảng 2: Nguồn tài chính tài trợ cho hoạt động R&D ở Mỹ
Nguồn tài chính Toàn bộ R&D Khoa học cơ bản Khoa học ứng Phát triển
dụng
Chính phủ 30 58 29 25
liên bang
Khu vực ngành 65 27 64 74
kinh tế
Khu vực phi lợi 5 15 7 1
nhuận
Nguồn: Martin Neil Bailey June 1996, page 273
43
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

3.2. Đảm bảo nguồn nhân lực.


Từ 1993 đến 2000, tốc độ tăng GDP thực đạt trung bình 4%/năm, gấp rưỡi
tốc độ trung bình của thời kỳ 1973 – 1993. Mức tăng trưởng này phản ánh một cơ
chế việc làm mạnh và năng suất lao động cao. Trong giai đoạn 1993 – 2000, nền
kinh tế Mỹ đã tạo ra 22 triệu việc làm mới và trong năm 2000, thất nghiệp chỉ còn
3,9% [4,168].
Nền giáo dục Mỹ đang ngày càng mở rộng và được đánh giá là nền giáo dục
có khả năng tiếp thu tốt, các tiêu chuẩn giáo dục cao và luôn được đổi mới, thích ứng
với những biến động và đòi hỏi của nền kinh tế. Chính sách phát triển nguồn nhân
lực được coi là mục tiêu chiến lược để chuẩn bị hành tranh cho nền kinh tế Mới ở
Mỹ. Chính phủ Mỹ đã tập trung xây dựng một hệ thống giáo dục và đào tạo mạnh,
xác định thời đại thông tin là thời đại giáo dục, trong đó giáo dục phải xuất phát từ
con người. Bên cạnh đó, chính sách nhập cư được điều chỉnh kịp thời để thu hút
nguồn lực chất xám toàn cầu. Từ trước đến nay, với ưu thế là điểm đến đầy hấp dẫn
của các làn sóng di cư, cộng với chính sách nhập cư tương đối thoáng, Mỹ trở thành
nước hưởng lợi nhiều nhất nguồn chất xám từ khắp nơi trên thế giới. Sự xuất hiện
của dòng người di cư này đã góp một phần đáng kể vào quá trình mở rộng quy mô
kinh tế và sự phát triển của nước Mỹ. Một ví dụ cho sự thành công của chính sách
nhập cư của Mỹ là thung lũng Silicon (bang Caliornia), cái nôi trí tuệ của nền kinh tế
Mới dựa trên tri thức ở Mỹ. Tại thung lũng Silicon, khoảng 45% số chuyên gia phần
mềm đang làm việc tại đây là từ Ấn Độ và Trung Quốc.

II. NỀN KINH TẾ TRI THỨC CỦA MỘT SỐ NƯỚC EU.


1. Quan niệm của các nước EU về nền kinh tế tri thức.
Từ đầu những năm 1980, ở cấp quốc gia và cấp EU đã có những tuyên bố
cảnh báo về nguy cơ tụt hậu của EU so với Mỹ trong những lĩnh vực chính của cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ ba. Bước chuyển sang nền kinh tế tri thức đã được
coi là quá trình khách quan, bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao và bền vững, xét trên cả
khía cạnh xã hội và môi trường. Bước chuyển này vừa là cơ hội vừa là thách thức đối
44
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

với các nước EU. Tại Hội nghị thượng đỉnh Lisbon tháng 3 năm 2000, các chính phủ
Liên minh châu Âu cho rằng, để đưa nền kinh tế EU trở nên năng động nhất và có
khả năng cạnh tranh cao nhất thế giới vào năm 2010, EU cần tiến tới nền kinh tế tri
thức. Tháng 5 năm 2000, Uỷ ban Châu Âu đã đề xuất kế hoạch hành động “Châu Âu
điện tử ”, kêu gọi các nước thành viên nhanh chóng xây dựng hệ thống mạng, tranh
thủ đến năm 2002 làm cho kỹ thuật số và mạng Internet của Châu Âu đứng vào hàng
đầu thế giới.
Hiện nay, những yếu tố của nền kinh tế tri thức cũng đã phát triển và đạt được
mức khá cao trong nhiều nước ở EU. Khi trình bày về những đặc trưng chủ yếu của
kinh tế tri thức, các công trình nghiên cứu của các học giả EU, các văn bản chính
thức của EU cũng như các nước thành viên EU đã đưa ra nhiều điểm tương đồng với
các đặc điểm của nền kinh tế tri thức được công nhận rộng rãi trên thế giới. Tuy
nhiên, do những bối cảnh đặc thù riêng của mình, quan niệm của các nước EU về đặc
trưng của nền kinh tế tri thức cũng có các sắc thái riêng, đó là:
 Các nước EU chú trọng đến khía cạnh xã hội - nhân văn trong bước chuyển
sang nền kinh tế tri thức. Bởi vì khoảng cách về trình độ công nghệ và cùng với toàn
cầu hoá có xu hướng làm tăng khoảng cách thu nhập và làm rạn nứt sự gắn kết xã
hội. Các nước EU chủ trương đưa ra các chiến lược để giải quyết vấn đề trên là thúc
đẩy thay đổi nhanh đồng thời đền bù cho những nạn nhân thông qua chính sách xã
hội và khu vực, làm tăng năng lực hấp thụ thay đổi đối với khu vực yếu kém.
 Các nước EU chú trọng đến sự học tập diễn ra ở mọi cấp độ – cá nhân,
doanh nghiệp, đại phương, quốc gia... và coi đó là nền tảng của bước chuyển sang
nền kinh tế tri thức. Cải cách giáo dục, đào tạo, tăng cường công tác truyền bá tri
thức do vậy được coi là một tiền đề quan trọng của nền kinh tế tri thức của các nước
EU.
 Nền kinh tế tri thức, theo các nước EU, phải dựa trên sự dân chủ hoá kinh tế
và chính trị. Bước chuyển sang nền kinh tế tri thức của các nước EU được quan niệm
là sự phát triển bền vững về cả khía cạnh xã hội cũng như môi trường.
45
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

 Các nước EU kết hợp viêc xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức với
tiến trình tăng cường liên kết toàn diện trong Liên minh châu Âu.

2. Đánh giá quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức của các nước EU.
2.1. Cơ cấu ngành của nền kinh tế.
Trong hầu hết các nền kinh tế của các nước EU đều có sự thay đổi cơ cấu
ngành của nền kinh tế theo hướng dịch vụ hoá và tăng vai trò của các ngành sử dụng
nhiều tri thức. Xét cơ cấu ngành kinh tế của các nền kinh tế EU thì tỷ trọng của khu
vực dịch vụ trong những năm gần đây tiếp tục tăng mạnh. Năm 1998, nông nghiệp
chiếm 4,7% nhân dụng của EU, công nghiệp là 29,5% và dịch vụ là 65,7% [20]
Sự gia tăng tỷ trọng của các ngành có hàm lượng khoa học – công nghệ cao
được thể hiện trong một số chỉ số chung của toàn bộ nền kinh tế cũng như trong các
cơ cấu nội bộ ngành. Theo OECD, trong thời gian từ 1990 - 1996, trong khi tốc độ
tăng giá trị gia tăng trung bình hàng năm của khu vực kinh doanh ở EU là 2,4% thì
riêng trong các ngành dựa trên tri thức, con số này là 3,1%. Vì vậy, tỷ trọng về giá trị
gia tăng của các ngành dựa trên tri thức trong khu vực kinh doanh đã tăng nhanh.,
năm 1996 là 48,8%. Nhưng nếu so với Mỹ và Nhật Bản thì tỷ lệ này vẫn còn thấp
bởi cũng trong năm này, các ngành dựa trên tri thức chiếm 55,3% giá trị gia tăng
trong khu vực kinh doanh ở Mỹ, còn Nhật Bản là 53% [20].
Trong thời gian qua, nhờ áp dụng công nghệ mới, năng suất lao động trong tất
cả các ngành công nghiệp đều tăng cao và ít có sự khác biệt giữa các ngành. Nhìn
vào tốc độ tăng giá trị gia tăng, ta thấy các nước EU vẫn thể hiện tính chuyên môn
hoá cao trong các ngành như thiết bị công nghiệp, vật tư vận tải, hàng công nghiệp
thực phẩm. Tuy nhiên, các ngành như khai mỏ, luyện kim, dệt may... tiếp tục tăng
trưởng chậm trở lại, trong khi đó, các ngành áp dụng nhiều công nghệ mới như thiết
bị viễn thông, chất dẻo, ôtô, chế tạo máy...đã có tốc độ phát triển nhanh. Sự giảm sút
46
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

tốc độ tăng trưởng của ngành tin học có vẻ kỳ lạ, tuy nhiên, điều đó được giải thích
bởi nhiều nhân tố, trước hết là sự giảm giá mạnh trong ngành này do sự đổi mới
nhanh công nghệ và sự chuyển dịch hoạt động của ngành này sang các ngành công
nghiệp khác và các ngành dịch vụ.

2.2. Chất lượng nguồn nhân lực.


Chất lượng của lực lượng lao động ở EU đã được nâng cao trong các thập kỷ
qua. Tỷ lệ của những người có trình độ đại học trên tổng số lực lượng lao động trong
thời kỳ qua đã tăng nhanh. Năm 1999 có 23 triệu người EU có trình độ từ đại học trở
lên và làm việc trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Con số này tăng nhanh trong
những năm gần đây, như ở Đức là 12,3% năm 1996 tăng tới 14,4% năm 1999, ở
Pháp con số tương ứng là 14,6% và 15%, ở Anh là 13% và 14,8%, ở Italia là 6,8%
và 8,1% [8,52].
Chất lượng giáo dục của các nước EU ngày nay đã đạt tới trình độ khá cao.
Trong hệ thống giáo dục châu Âu, các doanh nghiệp thường kết hợp chặt chẽ với
ngành giáo dục để đạt hiệu quả tốt nhất. Các nước này đã đặt mục tiêu, trong vòng
10 năm tới, sẽ đuổi kịp nền kinh tế Internet Mỹ, xây dựng châu Âu thành khu vực
kinh tế có sức cạnh tranh mạnh nhất thế giới với mục tiêu năm 2002 sẽ kết nối mạng
với vận tốc cao cho tất cả các trường đại học, thư viện và viện nghiên cứu.
Là một nước có trình độ phát triển cao về giáo dục và đào tạo, Đức có nền
kinh tế với các ngành dựa trên tri thức chiếm tỷ trọng cao, trên 50%. Trong những
năm 1990, các ngành kinh tế Đức đã chi khoảng 15 tỷ USD hàng năm cho đào tạo
nghề và nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động. Đức đã xây dựng được mối liên
hệ chặt chẽ giữa trường học, doanh nghiệp, hội thương mại, chính phủ liên bang và
bang về đào tạo nhân lực. Nhờ vậy, lực lượng lao động của Đức có khả năng thích
ứng nhanh chóng với môi trường làm việc. Ngoài ra, để đưa công nghệ thông tin đến
với mọi người, năm 2000, Đức đã đề ra chương trình “ Internet cho mọi người”, và
47
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

năm 2001, tất cả các trường học và thư viện đều được trang bị máy tính có khả năng
truy nhập Internet.
Phần Lan là nước Bắc Âu đã có chuyển hướng rất nhanh trong đào tạo nguồn
nhân lực, cho nên hiện nước này chỉ xếp thứ hai sau Mỹ về tốc độ phát triển kinh tế
tri thức. Phần Lan đã huy động mọi nguồn lực đẩy nhanh công nghệ thông tin. Tất cả
các trường học đều được nối mạng Internet. Học sinh Phần lan được tiếp cận với
công nghệ thông tin từ nhỏ và việc thực hiện vi tính là một phần trong chương trình
đào tạo quốc gia. Hiện nay, Phần Lan là nước sử dụng Internet bình quân trên đầu
cao nhất thé giới. Lực lượng lao động cũng được tri thức hoá với tốc độ cao nhất thế
giới.
Theo Eurostat, các ngành công nghệ cao chiếm 38% tổng lao động trong
ngành công nghiệp chế tạo của EU năm 1999 (46% ở Đức, 38% ở Pháp, 43% ở Anh,
32% ở Italia). Trong thời kỳ 1995 – 2000, lao động công nghiệp chế tạo tăng trung
bình hàng năm 0,3%, trong khi đó các ngành công nghệ cao ( hoá chất, máy móc,
thiết bị, máy vi tính, thiết bị viễn thông, thiết bị y tế, dụng cụ chính xác và quang
học...) là 0,9%. Con số này đặc biệt cao ở Ireland (là 8,7%), Phần Lan(là 5,8%), Tây
Ban Nha (là 4,3%). Các dịch vụ có hàm lượng tri thức cao (vận tải chất lỏng và chất
khí, bưu điện và viễn thông, trung gian tài chính, bất động sản, giáo dục...) chiếm
48% lao dộng trong các ngành dịch vụ của EU năm 1999 (47% ở Đác, 50% ở Pháp,
54% ở Anh, 42% ở Italia). Trong thời kỳ 1995 – 2000, lao động trong các ngành dịch
vụ tăng trung bình hàng năm 1,8%, trong khi đó ở các ngành dịch vụ có hàm lượng
tri thức cao tăng 2,9% [29,42].
2.3. Tiềm lực khoa học và công nghệ.
Đầu tư cho khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao luôn có vai trò
quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Một dấu hiệu
cho thấy các nước EU đang theo bước Mỹ tăng cường đầu tư vào công nghệ mới
trong quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức. Năm 1999, các công ty châu Âu đã
đầu tư khoảng 200 tỷ USD vào phát triển công nghệ tin học, tăng khoảng 11% so với
48
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

năm 1998 và vốn đầu tư vào công nghệ tin học đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của
các nước EU tăng thêm 0,5%. Tuy vậy, cũng giống như nền kinh tế nói chung, các
yếu tố cấu thành nên nền kinh tế tri thức cũng không giống nhau giữa các nước EU.
Trong năm 1999, đầu tư vào khoa học và kỹ thuật đạt mức cao nhất là Thuỵ Điển
(chiếm 10,6% GDP), thứ hai là Pháp (chiếm 10,2% GDP), thứ ba là Đan Mạch
(chiếm 9,6% GDP) [12,102]. Hầu hết các nước trong khu vực đều có chi phí cho
R&D và giáo dục cao hơn chi phí cho quốc phòng. Trong các nước EU, Thuỵ Điển
là nước tiên phong trong việc thúc đẩy công nghệ thông tin như một cấu thành cơ
bản của nền kinh tế tri thức. Do tỷ lệ nối mạng Internet cao nên việc buôn bán quan
mạng đã trở thành tập quán khá phổ biến của người tiêu dùng nước này. Năm 2000,
26% người dân Thuỵ Điển đã thường xuyên mua hàng qua mạng, so với mức trung
bình của châu Âu là 15% và năm 2001, 40% dân Thuỵ Điển sử dụng các dịch vụ tài
chính qua mạng [12, 51].
Theo các chuyên gia, mặc dù EU vẫn là một trong những cái nôi chủ yếu của
khoa học và công nghệ thế giới, song họ vẫn lạc hậu tương đối so với Mỹ trong một
số lĩnh vực như công nghệ thực phẩm gen, công nghệ vũ trụ, khoa học đời sống,
công nghệ thông tin và nhất là công nghệ mạng Internet. Điều đó khiến cho không ít
sản phẩm của họ mất đi lợi thế cạnh tranh. Có thể nói, cho đến nay, tình hình phát
triển nền kinh tế tri thức của các nước EU còn chậm hơn so với Mỹ và một trong
những nguyên nhân là khả năng đổi mới của các nước EU chậm hơn so với Mỹ, thể
hiện bằng việc đầu tư cho R&D trong đó có công nghệ thông tin thấp. Hiện EU đứng
sau Mỹ và Nhật Bản về tỷ trọng chi cho R&D so với GDP. Năm 1999, chi của khu
vực kinh doanh cho R&D ở EU chỉ đạt 1,8% GDP, thấp hơn nhiều so với Mỹ là
2,7% GDP, Nhật Bản là 3,1% GDP (năm 1998: EU là 1,2% GDP so với Mỹ là
2,04% GDP, Nhật Bản là 2,18% GDP ). Về giá trị tuyệt đối, cũng trong năm 1999,
EU đầu tư 141 tỷ USD cho R&D, trong khi đó Mỹ là 202 tỷ USD và Nhật Bản là
102 tỷ USD. Còn đầu tư cho công nghệ thông tin của các doanh nghiệp EU năm
1999 chỉ đạt 2,4% GDP, thấp hơn so với 4,5% GDP của Mỹ [30, 27].
49
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Về kết quả nghiên cứu, số bằng sáng chế công nghệ cao của các nước EU là
14,9 trên một triệu dân năm 1998, tuy cao hơn Nhật bản là 9,4 nhưng thấp hơn Mỹ là
19,7. Trong thời kỳ 1992 – 1999, số bằng sáng chế trong lĩnh vực công nghệ thông
tin chỉ tăng trung bình hàng năm là 11%, thấp hơn nhiều so với Mỹ là 14% cũng như
so với mức trung bình của OECD là 12,5% [31,32].
Tiềm năng về công nghệ của EU kém Mỹ trên nhiều lĩnh vực mũi nhọn. Chỉ
tính riêng số lượng các bằng phát minh đang ký ở châu Âu cũng thấy sự vượt trội
của Mỹ, nhất là trên các lĩnh vực như: linh kiện điện, điện tử, nghe nhìn, viễn thông,
tin học, dược phẩm, sinh học. Các công dân Mỹ chiếm tới 43,5% tổng số các bằng
phát minh đăng ký ở châu Âu năm 1997, trong khi của EU chỉ là 34,6%.
Bảng 3: Quốc tịch của các bằng phát minh đăng ký ở châu Âu năm 1997
(% trong tổng số )
Mỹ Nhật EU Đức Pháp Anh
Linh kiện điện, điện tử 41,0 25,5 28,0 11,6 4,2 3,0
Nghe nhìn, viễn thông 33,6 30,1 30,3 6,1 5,5 6,9
Tin học 67,9 10,2 16,5 4,3 4,1 4,0
Công cụ 46,1 10,3 36,3 13,0 6,5 6,8
Dược phẩm 61,6 4,8 24,5 4,7 6,5 5,7
Sinh học 59,6 5,5 27,1 4,7 5,2 8,7
Vật liệu 36,0 19,7 35,5 13,1 6,2 6,5
Quy trình công nghiệp 36,2 16,6 40,6 20,5 5,6 4,4
Môi trường 24,4 7,6 58,2 21,7 11,2 6,9
Vận tải 21,6 18,4 49,0 22,0 12,5 3,8
Xây dựng 36,0 5,0 39,0 14,9 7,8 7,0
Nguồn: OST Rapport 2000 ( 196)
2.4. Sự áp dụng công nghệ thông tin.
Mức trang bị máy tính cá nhân, nối mạng Internet của các hộ gia đình ở EU
thời gian quan đã tăng nhanh. Nếu năm 1990 chỉ có 9,1% hộ gia đình Pháp có máy
50
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

tính các nhân thì năm 1998 đã tăng tới 19%. Tại Phần Lan, con số này là 8% năm
1990 và tăng tới 38% năm 1998. Nếu tính toàn châu Âu thì 24% số hộ gia đình châu
Âu sử dụng máy tính cá nhân song con số này vẫn thấp hơn nhiều so với Mỹ là 46%
[25,197].
Theo Uỷ ban châu Âu, năm 1999 đã có 14,9% dân số EU sử dụng Internet,
con số này cũng thấp hơn nhiều so với Mỹ là 39,8% song cao hơn Nhật Bản là
14,5%. Cũng trong năm 1999, trong khi ở Mỹ có 110,8 triệu dân sử dụng Internet thì
ở Nhật Bản là 18,2 triệu, ở Đức là 15,8 triệu, ở Anh là 13,9 triệu, ở Pháp là 5,7 triệu
[32, 46].
Doanh số thương mại điện tử ( E – commerce ) ở EU cũng đã tăng nhanh
trong những năm gần đây. Doanh thu thông qua bán hàng cho người tiêu dùng (B2C)
ở Pháp đã tăng từ 0,04 tỷ FF năm 1997 lên 1,3 tỷ FF năm 1999. Giá trị giao dịch
giữa các doanh nghiệp (B2B) cũng đã tăng nhanh, từ 0,2 tỷ USD năm 1998 lên 0,9
tỷ USD năm 2000 [25,198].
Bảng 4: Đánh giá sự phát triển khối lượng giao dịch thương mại điện tử
giữa các doanh nghiệp (B2B) trên thế giới, 1999 – 2004 ( tỷ USD )
1999 2004
Toàn thế giới 145 7290
Mỹ 91 2840
Châu Âu 31 2340
Nhật Bản 11 861
Nguồn: World Trade, 4/2001
2.5. Hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong thập kỷ 1990, hầu hết các nước EU đã có những điều chỉnh chính sách
kinh tế đối ngoại theo hướng tự do hoá, đồng thời có những tác động thúc đẩy nhất
định đối với tiến trình liên kết kinh tế trong EU. Nét mới trong giai đoạn này là sự
bùng nổ đầu tư của tư bản EU ra nước ngoài. Chênh lệch giữa luồng FDI ra và luồng

51
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

FDI vào là 28,7 tỷ USD hàng năm trong thời kỳ 1988–1993 đã tăng lên đến hơn 204
tỷ USD vào năm 1999 [33,23].
Bảng 5: Luồng FDI vào và ra ở các nước EU
(Tỷ USD)
Luồng vào (1) Luồng ra (2) (1) - (2)
1988–1993(trung bình/năm) 78,5 107,2 28,7
1994 76,9 120,7 43,8
1995 114,4 159,0 46,7
1996 108,6 182,3 73,7
1997 128,8 223,7 94,9
1998 248,7 425,5 176,8
1999 305,1 509,8 204,7
Nguồn: UNCTAD, World Invesrment Report, Newyord and Geneva,oct.2000
Sự hợp tác quốc tế của EU về khoa học và công nghệ cũng triển khai mạnh
trong thời gian qua. Số bằng sáng chế của EU có sự hợp tác với nước ngoài chiếm
3% tổng số bằng sáng chế trong các năm 1990 đã tăng lên 5% trong năm 1995.
Trong số các công trình khoa học được công bố của EU trong các năm 1990 – 1997
thì số các công trình có đồng tác giả nước ngoài chiếm tới 18% [34,24].
Nhìn chung, xét về các tiêu chí trên, các nước EU vẫn còn khá chậm trễ và
thua kém Mỹ. Tuy nhiên, sự tiến triển theo hướng chuyển sang nền kinh tế tri thức ở
các nước EU trong thời gian gần đây khá rõ. Đây là những tiền đề quan trọng cho
các nước EU trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức trong thời gian
tới.
3. Những nhân tố tạo nên thành công trong quá trình chuyển sang nền kinh tế tri
thức của các nước EU.
Những tiến bộ đạt được trong quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức của
các nước EU cho đến nay dựa trên nhiều điều kiện thuận lợi, trước hết là các mặt
sau:

52
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

3.1. Những thuận lợi chung.


Nền kinh tế tri thức được coi là giai đoạn phát triển nối tiếp của nền kinh tế
công nghiệp. EU là một trong ba khu vực phát triển nhất, đi đầu của thế giới trong
nền kinh tế công nghiệp hiện đại, do vậy có nhiều điều kiện thuận lợi trong bước
chuyển sang nền kinh tế tri thức. Ngoài ra, còn có những điều kiện không nhất thiết
gắn với nền văn minh công nghiệp mà gắn với đặc điểm văn hóa truyền thống của
EU:
 Châu Âu là cái nôi của nền văn minh nhân loại, là nơi khởi xướng phong
trào khai sáng (tin tưởng và cổ vũ cho tiến bộ khoa học và công nghệ) và cuộc cách
mạng về nhân quyền. Cơ sở truyền thống văn hoá này rất thuận lợi cho bước chuyển
sang nền kinh tế tri thức.
 Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, EU đã xây dựng cho mình một
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, bao gồm bộ máy sản xuất công nghiệp hùng mạnh,
với nhiều ngành đứng đầu thế giới; hệ thống các ngành dịch vụ phát triển, cơ sở hạ
tầng vận tải và viễn thông hiện đại; một nền nông nghiệp năng suất cao, cung ứng dư
thừa nông sản.
 EU là một khu vực tiên tiến trên thế giới về R&D, đi đầu trên một số lĩnh
vực mũi nhọn với lực lượng lao động phong phú, đạt trình độ cao. Các nước EU có
trình độ quản lý cao, xét ở cấp quản lý nhà nước cũng như quản lý doanh nghiệp.
 Từ cuối những năm 1970 đến đầu những năm 1980, quá trình cải cách kinh
tế – xã hội đã diễn ra ở hầu khắp các nước châu Âu. Xu hướng chung cho cuộ cải
cách này là tư nhân hoá, giải điều tiết, thúc đẩy vai trò của thị trường và sáng kiến cá
nhân, đề cao trách nhiệm của công dân, tăng cường mở cửa và hội nhập quốc tế.
Những cải cách này đã cải thiện đáng kể môi trường đầu tư của các nước EU.
 Về quan hệ kinh tế quốc tế, EU là cường quốc thương mại quốc tế, đồng
thời, các công ty xuyên quốc gia cũng có vị trí quan trọng trong nền kinh tế thế giới.
EU còn là một cường quốc tài chính trên thế giới.
3.2. Những bước tiến trong tiến trình liên kết EU.
53
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Tiến trình liên kết châu Âu tiến triển là một tiền đề thuận lợi cho bước chuyển
sang nền kinh tế tri thức. Trước hết, nó tạo ra một môi trường thể chế bảo đảm cho
tính ổn định chính trị – xã hội, một điều kiện tiên quyết cho sức sáng tạo công nghệ.
Thứ hai, sự hợp tác kinh tế cũng như nghiên cứu triển khai trong EU thúc đẩy nghiên
cứu và triển khai công nghệ mới. Thứ ba, EU bảo đảm hơn cho nền kinh tế dân tộc
ngăn chặn những tác động tiêu cực của xu hướng toàn cầu hoá kinh tế. Một loạt các
chính sách được thực hiện ở cấp EU cũng đã có tác động quan trọng đến quá trình
xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức ở khu vực này.
Sau 7 năm chuẩn bị, ngày 1/1/1993, một thị trường nội đại duy nhất của châu
Âu đã chính thức ra đời. Cốt lõi của quá trình xây dựng thị trường chung hay thị
trường nội địa châu Âu là xoá bỏ các hàng rào biên giới quốc gia cho sự lưu thông tự
do của hàng hoá, con người, dịch vụ và tư bản. Một thị trường nội địa thực sự sẽ làm
lợi cho các nước EU khoảng 200 tỷ Euro một năm do việc xoá bỏ các chi phí mà
hàng rào biên giới gây ra, đồng thời khuyến khích sự cạnh tranh trong khu vực.
Với việc ký Hiệp ước Maastricht (7/2/1992) về Liên minh châu Âu, Liên minh
kinh tế và tiền tệ (EMU) của EU chính thức được ghi nhận và ra đời. Từ 1/1/1999,
đồng tiền chung châu Âu (đồng Euro) đã ra đời và dưới sự kiểm soát của ngân hàng
trung ương châu Âu (ECB). Tham gia vào khu vực đồng Euro sẽ đem lại cho các
nước thành viên nhiều lợi thế. Xét về tác động đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
đó là sự bảo đảm một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định hơn, một điều kiện tiền đề
cho sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế bởi ngân hàng trung ương châu Âu có năng
lực lớn hơn so với từng nước EU riêng lẻ trong việc kiềm chế lạm phát, do vậy giá cả
trong khu vực đồng Euro sẽ ổn định hơn. Sự ổn định của khu vực đồng Euro sẽ tạo
nên sức thu hút tư bản nước ngoài vào khu vực này, cạnh tranh và hợp lý hoá sản
xuất được tăng cường trong khu vực sẽ nâng cao hiệu quả sản xuất. Theo các chuyên
gia của EU, EMU sẽ tiết kiện được mỗi năm từ 0,3% - 0,5% GDP trong toàn thể
châu Âu do loại bỏ chi phí cho các hoạt động giao dịch chuyển đổi tiền tệ giữa các
nước thành viên.
54
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Quyết định cải cách PAC đã được đưa ra ngày 21/5/1992 cùng với một số điều
chỉnh sau đó, bao gồm hai nhóm biện pháp chính là những biện pháp cải cách tổ
chức thị trường và những biện pháp hỗ trợ, đã có tác động thúc đẩy hiện đại hoá
nông nghiệp trong các nước EU.
Ngoài ra, EU còn có các quyết định tự do hoá trong một số ngành như viễn
thông, vận tải, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính sách thúc đẩy
liên kết kinh tế liên vùng.
3.3. Các chính sách thúc đẩy R&D của các nước EU.
Do nhận thức được khoảng cách công nghệ ngày càng gia tăng giữa các nước
EU và Mỹ, nhất là trong các công nghệ tương lai, và coi đó là một nhân tố quan
trọng hàng đầu ảnh hưởng đến sức cạnh tranh công nghiệp và công nghệ nên từ
những năm 1980, EU đã tăng cường đầu tư cho R&D. Chính sách này về nghiên cứu
và công nghệ của EU đã được thể hiện ngay từ Hiệp ước về thị trường thống nhất
Châu Âu (có hiệu lực từ năm 1987) và Hiệp ước về Liên minh châu Âu (có hiệu lực
từ năm 1993), trong đó đã nêu mục tiêu tăng cường cơ sở công nghệ và kinh tế của
công nghiệp EU, đặc biệt ưu tiên hàng đầu được đặt vào nghiên cứu và phát triển
công nghệ. Để đạt được mục tiêu đó, các phương hướng cụ thể là:
 Nghiên cứu cơ bản và hiệu chỉnh các công nghệ gốc có khả năng áp dụng
trong các ngành khác nhau. Nói cách khác, tập trung các hoạt động nghiên
cứu và phát triển công nghệ vào một số chủ đề và công nghệ có tác động
liên ngành.
 Tăng cường phối hợp các nỗ lực nghiên cứu ở các mức độ khác nhau (EU,
quốc gia, vùng, các công trình nghiên cứu phối hợp giữa các nhà khoa học)
 Hợp tác giữa các giới nghiên cứu và doanh nghiệp nhằm gắn nghiên cứu
với những nhu cầu thực tế và tạo thuận lợi cho việc ứng dụng mạng tính
thương mại đối với những ý tưởng mới.
 Chuyển giao công nghệ và khai thác các kết quả nghiên cứu, khuyến khích,
thúc đẩy xã hội hoá việc sử dụng công nghệ mới.
55
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Hỗ trợ hoạt động R&D của các nước EU được thực hiện dưới nhiều hình thức,
nhất là qua các “chương trình khung về nghiên cứu và phát triển công nghệ” (gọi là
các FP - Frame Program), lập các trung tâm nghiên cứu phối hợp, các chương trình
nghiên cứu đặc biệt của Uỷ ban châu Âu.
Từ năm 1990 đến nay, EU đã và đang thực hiện 3 chương trình khung về
nghiên cứu và phát triển công nghệ: FP-3 (1990 – 1994), FP- 4 (1994 – 1998), FP-5
(1998 – 2002). Chương trình khung FP3 và FP4 tập trung vào nghiên cứu và phát
triển công nghệ thông tin, truyền thông (chiếm 31,9%), công nghệ công nghiệp và
vật liệu (chiếm 16%), năng lượng phi hạt nhân (chiếm 9,4%), công nghệ sinh học
(chiếm 8,3%)... Chương trình khung PF5 tập trung vào các lĩnh vực như xã hội thông
tin, tăng trưởng mang tính cạnh tranh và bền vững, năng lượng, môi trường, quản lý
nguồn nhân lực [12, 210].
4. Nguồn gốc của những hạn chế hiện nay.
Như đã nêu ở trên, các nước EU hiện nay vẫn còn thua kém Mỹ trên nhiều tiêu
chí của nền kinh tế tri thức. Sự thua kém này bắt nguồn từ một số nguyên nhân sau:
4.1. Cơ sở hạ tầng thông tin còn một số bất cập.
EU đã phát triển nhiều dịch vụ thông tin mới gắn với Internet, tuy nhiên khung
chính sách vẫn còn khá khác biệt giữa các nước EU, dẫn đến sự khác nhau về cơ hội
cạnh tranh, ảnh hưởng xấu đến hiệu quả và sự tăng trưởng thị trường. Giá truy cập
Internet tuy trong thời gian qua đã giảm xuống song vẫn còn khá cao. Giữa năm
1999, giá truy cập trong 20 giờ trung bình ở Mỹ khoảng 34 USD, trong khi đó ở
Pháp là 58 USD, ở Anh là 55 USD, ở Italia là 52 USD [17,214]. Sự phát triển của
thương mại điện tử không chỉ phụ thuộc vào giá Internet mà còn phụ thuộc nhiều
vào niềm tin của người tiêu dùng. Niềm tin này được tạo dựng trên cơ sở những tiêu
chuẩn chung được áp dụng, sự bảo vệ bí mật thông tin, các biện pháp giải quyết
tranh chấp... Người dân EU hiện nay ít tin tưởng vào thương mại điện tử như ở Mỹ
do các cơ sở này chưa vững chắc ở tầm EU mà hầu như mới dừng lại ở các sáng kiến
mang tính quốc gia.
56
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

4.2. Sự phân đoạn của thị trường.


Mặc dù các nước EU đã xây dựng thị trường thống nhất Châu Âu, Liên minh
kinh tế – tiền tệ châu Âu và đồng tiền chung Euro, nhưng vẫn có sự khác biệt về giá
cả trên thị trường (kể cả thị trường tài chính), cũng như về các thể chế, các quy tắc,
sự điều tiết (nhất là trong các lĩnh vực như giáo dục, khoa học, quan hệ lao động...).
Nhiều nước vẫn do dự trong việc loại bỏ những ngành không còn sức cạnh tranh, do
dự trong cải cách cơ cấu. Tất cả những điều trên ngăn cản tác động của kinh tế quy
mô, sự di chuyển của các nhân tố sản xuất, việc cấu trúc lại các ngành, sự đổi mới và
truyền bá công nghệ, tức là làm giảm tính cạnh tranh, giảm khả năng điều tiết của
EU nhằm đáp ứng bối cảnh kinh tế đang thay đổi nhanh chóng.
4.3. Sự yếu kém cơ cấu của nền kinh tế.
Tỷ lệ thất nghiệp ở EU đã tăng từ 2,4% trong thời kỳ 1970- 1975 lên 10%
trong thời kỳ 1990 – 1995. Trong những năm gần đây, tình trạng thất nghiệp trong
các nước EU có chiều hướng cải thiện (11,3% năm 1996, 10,45% năm 1997, 9,6%
năm 1998 và 9,4% năm 1999) song tỷ lệ này vẫn cao hơn nhiều so với Mỹ và Nhật
Bản (năm 1999 tỷ lệ thất nghiệp của hai nước này đều dưới 5%), cũng như mức
trung bình của các nước G7 là 6,2%. Trong các nước EU, tình trạng thất nghiệp cơ
cấu vẫn là một nét cơ bản. Số người thất nghiệp dài hạn chiếm tới một nửa số người
thất nghiệp. Các nhà kinh tế hiện nay đang nói đến một sự tách rời giữa tăng trưởng
và việc làm trong các nước EU [22].
5. Một số chính sách nhằm xây dựng thành công nền kinh tế tri thức ở các nước
EU.
Do nhận thức được những cơ hội và thách thức như đã nêu ở trên, các nước
EU hiện nay đang tích cực chuẩn bị điều kiện cần thiết để xây dựng và phát triển nền
kinh tế tri thức thông qua các chính sách ở tầm EU cũng như ở tầm quốc gia. Tại Hội
nghị thượng đỉnh EU ở Lisbon tháng 3 năm 2000, Hội đồng châu Âu đã quyết định
thực hiện những nỗ lực lớn trong những năm tới để chuyển nền kinh tế tri thức thành
57
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

cơ hội nâng cao tính năng động của nền kinh tế. Mục tiêu chiến lược đến năm 2010
là xây dựng châu Âu trở thành nền kinh tế dựa trên tri thức năng động, có tính cạnh
tranh cao trên thế giới và có khả năng tăng trưởng kinh tế bền vững. EU đã ban hành
một loạt các văn kiện và các nhà nước thành viên EU cũng đã có những điều chỉnh
trong chính sách nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế tri thức trong
thời gian tới. Các chính sách xây dựng nền kinh tế tri thức của các nước EU trong
thời gian tới bao gồm các nội dung sau:
5.1. Thúc đẩy R&D.
Nhận thức sự yếu kém tương đối về công nghệ của mình đối với Mỹ, các nước
EU nhấn mạnh vai trò của khoa học và công nghệ. Theo một báo cáo năm 2000 của
Uỷ ban châu Âu, hơn bao giờ hết, khoa học là một động lực cơ bản của các tiến bộ
kinh tế và xã hội, là nhân tố then chốt của tính cạnh tranh, việc làm và chất lượng
sống. Khoa học và công nghệ cũng là yếu tố trung tâm của quá trình làm chính sách,
do vậy nghiên cứu cần đóng vai trò mạnh hơn, trung tâm hơn trong các hoạt động
của nền kinh tế và xã hội EU [33, 110].

5.2. Phát triển công nghệ thông tin.


Phát triển nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin là một hướng ưu tiên
của EU. Uỷ ban châu Âu tháng 6 năm 2000 đã đề ra kế hoạch hành động châu Âu
điện tử (E – Europe Action Plan) nhằm mục tiêu tạo ra một châu Âu điện tử với ba
hướng hành động chính: Internet rẻ hơn, nhanh hơn, an toàn hơn; đầu tư vào con
người và kỹ năng; kích thích việc sử dụng Internet thông qua thúc đẩy thư điện tử.
Có ba phương pháp chính để thực hiện các mục tiêu một châu Âu điện tử là: thúc
đẩy tạo lập một môi trường pháp lý thích hợp; hỗ trợ những dịch vụ và cơ sở hạ tầng
mới trên toàn EU, nâng cấp cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông, đưa
công nghệ tin học vào trường học; áp dụng phương pháp phối hợp chuẩn hoá để bảo
đảm các hành động trên được tiến hành có hiệu quả.
5.3. Tăng cường liên kết toàn diện trong Liên minh châu Âu.

58
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Các nước EU kết hợp bước chuyển sang nền kinh tế tri thức với tiến trình tăng
cường liên kết toàn diện trong Liên minh châu Âu. Do vậy, sự điều chỉnh thể chế là
cần thiết. Một liên minh kinh tế và chính sách chặt chẽ sẽ tăng cường tiềm lực kinh
tế, tiềm năng đổi mới của EU, thúc đẩy quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế
tri thức.
Về hợp tác trong nghiên cứu, Uỷ ban Châu Âu khẳng định cần thúc đẩy các nỗ
lực nghiên cứu công và tư ở EU, sự phối hợp các nỗ lực nghiên cứu của các quốc gia
thành viên, giữa cấp quốc gia và cấp EU. Để thực hiện được điều đó, EU đang có kế
hoạch thúc đẩy việc hình thành Vùng nghiên cứu Châu Âu (Europe research Zone).
Hiện tại, có nhiều vấn đề đang có ảnh hưởng lớn đến sự điều chỉnh và khai
thác những cơ hội mới về công nghệ và kinh tế ở EU, do vậy, EU đang có nỗ lực
thống nhất hoá các tiêu chuẩn EU, tiến tới xây dựng một hệ thống phát minh sáng
chế châu Âu, thiết lập một môi trường chắc chắn và tin tưởng cho sự phát triển và áp
dụng công nghệ thông tin. Quy định số 2000/31/EC ngày 8/6/2000 của Nghị viện
châu Âu về một số khía cạnh pháp lý về các dịch vụ xã hội và thông tin, nhất là
thương mại điện tử trên thị trường EU (tiêu chuẩn kỹ thuật viễn thông, nghị định thư
về bảo mật, luật về chữ ký điện tử) sẽ tạo ra một bước tiến quan trọng đối với sự phát
triển của thương mại điên tử ở EU.
5.4. Tăng cường đầu tư vào con người.
Các nước EU chú trọng đến sự học hỏi diễn ra ở mọi cấp độ và coi đó là nền
tảng của bước chuyển sang nền kinh tế tri thức. Theo một báo cáo của chương trình
nghiên cứu kinh tế xã hội (TSER) do Uỷ ban châu Âu lập ra, “nền kinh tế học hỏi ”
là một nền kinh tế, trong đó khả năng học hỏi là một yếu tố đem lại sự thành công về
kinh tế cho các cá nhân, các doanh nghiệp, các khu vực và các nước. Cũng theo báo
cáo trên, có thể thấy rằng nền kinh tế học hỏi không nhất thiết phải là nền kinh tế
công nghệ cao. Học hỏi là một quá trình diễn ra trong tất cả các bộ phận của nền
kinh tế, kể cả những ngành được coi là công nghệ thấp và những ngành truyền thống
[3,20]. Cải cách giáo dục, đào tạo, tăng cường công tác truyền bá tri thức do vậy
59
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

được coi là một tiền đề quan trọng cho việc xây dựng và phát triển nền kinh tế tri
thức ở các nước EU.
5.5. Bảo đảm sự phát triển bền vững.
Bên cạnh các khía cạnh xã hội như đã nêu ở trên, qua trình chuyển sang nền
kinh tế tri thức ở các nước EU cần nhấn mạnh đến chính sách bảo vệ môi trường.
Theo một số dánh giá hiện nay, từ nay đến năm 2010, các nước EU sẽ rút ngắn
khoảng cách với Mỹ trong lĩnh vực nghiên cứu và ứng dụng công nghệ thông tin. Thị
trường châu Âu về công nghệ thông tin và viễn thông tiếp tục tăng trưởng cao hơn
mức trung bình của thế giới. Năm 2001 thị trường công nghệ thông tin và viễn thông
châu Âu tăng 9,5% trong khi ở Mỹ là 8%, ở Nhật Bản là 6%. Nếu năm 2000 có 60
triệu người sử dụng website ở EU thì năm 2002 có tới 160 triệu người. Tuy nhiên, sự
tiến bộ chung theo hướng phát triển nền kinh tế tri thức ở EU phụ thuộc nhiều vào
việc giải quyết tốt các trở ngại đã nêu ở trên, trong đó trước hết cần điều hoà tốt quan
hệ giữa tính xã hội và tính cạnh tranh, giải quyết tố những bất đồng giữa các nước
thành viên nhằm thúc đẩy liên kết kinh tế và chính sách toàn diện và chặt chẽ hơn.

III. NỀN KINH TẾ TRI THỨC CỦA NHẬT BẢN.


1. Thực trạng nền kinh tế tri thức ở Nhật Bản
Có thể nói rằng, theo tất cả các tiêu chuẩn mà các nhà khoa học đưa ra thì nền
kinh tế tri thức chưa xuất hiện ở Nhật Bản, mà trong thực tế, Nhật Bản đang bắt đầu
xây dựng những cơ sở hạ tầng hay những yếu tố cấu thành cơ bản cho nền kinh tế tri
thức. Theo như ông Idei Nobuyuki, chủ tịch tập đoàn SONY kiêm chủ tịch hội đồng
chiến lược công nghệ thông tin, một cơ quan tư vấn cho cựu Thủ tướng Yoshiro
Mori, đã nói “Nhật Bản hiện đang trong giữa những thay đổi mạnh mẽ trong cơ cấu
công nghiệp của mình và bước đầu chuyển từ một xã hội dựa vào chế tạo (a
manufacturing–based society) sang một xã hội dựa vào tri thức (a knowledge Based
society)”.
Hiện nay, nếu xét về trình độ khoa học và công nghệ nói chung thì Nhật Bản
chỉ xếp thứ hai, sau Mỹ. Tổng ngân sách R&D năm 1999 của Nhật Bản là 16000 tỷ
60
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Yên, đứng thứ hai sau Mỹ là 29000 tỷ Yên và vượt xa Đức đứng thứ ba là 6000 tỷ
Yên. Còn về số nhà nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, Nhật Bản có
58 nhà khoa học trên 10000 dân, vượt xa Mỹ với 38 người. Có thể nói, với hai chỉ
tiêu này nên Nhật Bản là một trong những cường quốc về khoa học và công nghệ.
Ngoài ra, số hãng kinh doanh hàng hoá và dịch vụ trên mạng đang tăng nhanh
chóng trong thời gian qua ở Nhật Bản, từ 7500 hãng năm 1997 lên tới 12000 hãng
năm 1998 và 20000 hãng năm 1999. Tính chung, các ngành công nghiệp dựa trên tri
thức như thông tin, tài chính, bảo hiểm và dịch vụ đã đóng góp tới 53% GDP ở Nhật
Bản.
Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ hơn các chỉ tiêu khác thì ta thấy một tình hình khác
về thực trạng kinh tế tri thức ở Nhật Bản. Theo International Institute for
management development của Thuỵ Sỹ, về cơ sở hạ tầng cơ bản (bao gồm chi tiêu
cho R&D, đầu tư vào viễn thông và số bằng phát minh có hiệu lực) thì Nhật Bản chỉ
xếp thứ 19 ( tháng 4 năm 2001) trong số các nền kinh tế công nghiệp và mới nổi,
trong khi Mỹ vẫn duy trì vị trí số 1 từ năm 1997 . Tính đến cuối năm 2001 mới có
khoảng 55,93 triệu người, chiếm 44% dân số được tiếp cận với Internet qua các thiết
bị máy tính, điện thoại di động hoặc các thiết bị khác khiến cho Nhật Bản chỉ xếp thứ
16 trong số các nước truy cập Internet (năm 2000 Nhật Bản xếp thứ 14). Trong khi
đó, Thuỵ Điển đứng đầu với 64,7% dân số tiếp cận với Internet, tiếp đó là Iceland
với 60,8%, Đan Mạch với 60,4%, Mỹ với 59,8%, Anh với 55,3%, Đức với 36,4%.
Trong khi 98% các trường tiểu học, gần 100% các trường trung học và 77% số lớp
học ở Mỹ được nối mạng Internet năm 2000 thì các con số tương ứng này ở Nhật
Bản là 56%,71% và 5%. Không những thế, nếu hầu hết Internet ở Mỹ đều được nối
qua các đường truyền tốc độ cao thì ở Nhật Bản đến cuối năm 2001 vẫn còn đến hơn
50% được nối qua hệ thống điện thoại quay số tốc độ chậm và chỉ có 14,9% sử dụng
mạng tốc độ cao [12,225].
Hiện nay, mặc dù việc buôn bán các sản phẩm liên quan đến công nghệ thông
tin trên toàn cầu đã tăng mạnh song thị phần của Nhật Bản đã giảm sút trong thời kỳ
61
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

1996 – 2000. Trong thời gian trên, doanh số bán ra các sản phẩm công nghệ thông
tin của Mỹ tăng trung bình 6,2%/ năm, 15 nước EU tăng 5,6%, Trung Quốc tăng
19,3%, Hàn Quốc tăng 9,3% và Đài Loan tăng 9% thì Nhật Bản lại giảm trung bình
0,4%. Trong thực tế, hiện nay Nhật Bản không thể cạnh tranh được với Mỹ và EU,
đặc biệt là trong việc kinh doanh các thiết bị viễn thông.
Xét về mặt xử lý thông tin, các công ty Mỹ luôn đi trước các công ty Nhật
Bản, nhất là trong các chương trình phần mềm. Có thể nói, mặc dù hiệu quả của các
công ty Nhật bản trong các ngành chế tạo vẫn cao song trong các ngành phi chế tạo,
thì các công ty Nhật Bản lại chậm ít nhất là 5 năm so với các công ty của Mỹ. Ngay
cả chính phủ Nhật Bản, trong Chiến lược công nghệ thông tin cơ bản cũng đã thừa
nhận sự lạc hậu tương đối của Nhật Bản trong việc phát triển công nghệ thông tin.
Nhật Bản hiện nay đang tụt hậu xa so với các quốc gia khác trong việc tiến hành
cách mạng công nghệ thông tin. Việc sử dụng Internet của Nhật Bản đang ở mức
thấp nhất trong số các nước công nghiệp lớn và hoàn toàn không hơn gì các quốc gia
ở châu Á - Thái Bình Dương khác. Nhật Bản thậm chí còn tụt hậu so với các nước
khác về việc sử dụng công nghệ thông tin trong kinh doanh và quản lý công cộng.
Trong một môi trường đang thay đổi nhanh chóng thì sự chậm trễ của Nhật Bản
trong cách mạng công nghệ thông tin có thể sẽ gây ra những chênh lệch lớn về lợi
thế cạnh tranh trong tương lai. Nhật Bản cần nhận thức rõ ràng rằng trong khi Nhật
Bản vượt trình độ quốc tế về cơ sở hạ tầng trong các lĩnh vực điện thoại và thông tin
thì họ lại đang tụt hậu xa so với các nước công nghiệp khác trong việc sử dụng
Internet, điều đó đã cản trở sự phát triển của công nghệ thông tin và khiến cho Nhật
Bản chậm trễ hơn so với Mỹ trong việc phục hồi nền kinh tế thông tin.
Sự chậm trễ trên không chỉ khiến cho Nhật Bản khó thoát ra khỏi tình trạng
kinh tế khó khăn mà còn làm giảm sức cạnh tranh toàn cầu của Nhật Bản. Theo “The
World Competitiveness Yearbook” do The International Institute for Management (
Thuỵ Sĩ ) công bố, sức cạnh tranh toàn cầu của Nhật Bản đã giảm từ thứ 2 năm 1993
xuống thứ 17 năm 2000. Còn theo Global Competitiveness Report 2000 của trường
62
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

đại học Harvard ( Mỹ ) thì sức cạnh tranh quốc tế của Nhật Bản hiện đứng thứ 14 và
chẳng bao lâu sẽ bị Hồng Kông và Đài Loan vượt qua. Theo bảng xếp hạng về sức
cạnh tranh của 31 nền kinh tế OECD và châu Á được công bố vào cuối năm 2000 do
Trung tâm nghiên cứu Tokyo xây dựng trên cơ sở đánh giá 8 tiêu chí của nền kinh tế
tri thức ( thương mại và tài chính quốc tế, quản trị công ty, giáo dục, tài chính trong
nước, hiệu năng của chính phủ, khoa học và công nghệ, hạ tầng cơ sở xã hội, công
nghệ thông tin ) thì Nhật Bản không chiếm được vị trí thứ nhất trong bất kỳ tiêu chí
nào. Trong khi đó, về mặt giáo dục Nhật Bản lại đứng ở vị trí cuối cùng, về khoa học
và công nghệ vẫn đứng thứ hai sau Mỹ. Mặc dù là nơi sinh ra những công ty điện tử
đứng đầu thế giới nhưng Nhật Bản lại xếp ở vị trí thứ 14 xét về sức cạnh tranh công
nghệ thông tin, trong khi Mỹ chiếm vị trí thứ nhất, Singapore thứ 6, Hồng Kông thứ
11, Đài Loan thứ 13 [12, 229]

2. Một số nhân tố tác động đến việc hình thành nền kinh tế tri thức ở Nhật Bản.
2.1. Chậm đổi mới tư duy.
Mặc dù vai trò quan trọng của tri thức và công nghệ thông tin trong hoạt động
kinh tế đã thể hiện rất rõ ở nhiều nước từ một vài thập kỷ trước, song các nhà lãnh
đạo Nhật Bản còn khá mơ hồ về vấn đề xã hội thông tin và tri thức, họ chưa nắm rõ ý
nghĩa của cuộc cách mạng công nghệ thông tin và vai trò quan trọng của nó đối với
sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản. Họ không hiểu rằng nền kinh tế mới đòi hỏi
cơ chế vận hành khác hẳn so với nền kinh tế cũ, việc chuyển sang nền kinh tế mới,
do đó cần phải có những thay đổi căn bản về tư duy.

Tiêu biểu cho các chính sách của Nhật Bản có thể kể đến kế hoạch hành động
“ Ideal Socio-economy and Policies for Economic Rebirth” do Hội đồng kinh tế, tư
vấn cho Thủ tướng, soạn và công bố vào năm 2000. Các kế hoạch này vẫn được xây
dựng dựa trên lối suy nghĩ cũ về công nghệ và quá trình xử lý thông tin. Họ không
hiểu rằng, do sự phát triển rộng khắp của máy tính cá nhân và mạng Internet nên quá
trình xử lý thông tin đã chuyển từ việc sử dụng tập trung các máy chủ thành quá trình

63
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

xử lý phi tập trung dưới hình thức thống nhất thông qua mạng Internet bao phủ rộng
khắp toàn cầu bằng một mạng thông tin cực rẻ và tiêu chuẩn hoá và dễ tiếp cận được
với mọi người. Cũng do vậy nên ngày nay đã xuất hiện một loại hình kinh doanh
chưa hề có trước đây là đấu giá qua mạng, cho phép cả những người tiêu dùng bình
thường cũng có thể tham gia vào việc đấu thầu các hàng hóa và dịch vụ và các doanh
nghiệp có thể tìm kiếm được các nhà cung cấp phụ tùng trên khắp thế giới mà không
cần phải đầu tư thêm. Các chuyên gia kinh tế cho rằng, kế hoạch trên của Nhật Bản
đã tụt hậu so với thời đại và là một bằng chứng cho thấy Nhật Bản về cơ bản vẫn còn
nằm trong kỷ nguyên BI – Before Information (trước Kỷ nguyên Thông tin). Do vẫn
giữ những suy nghĩ và quan niệm cũ nên trong thực tế nhiều năm qua, Nhật Bản vẫn
duy trì cơ chế quản lý cũ mà đã đem lại thành công một thời và cố tìm cách làm cho
chúng thích nghi với nền kinh tế mới, thời đại mới mà không có những giải pháp và
cải cách thích ứng kịp thời và triệt để.

2.4. Chưa đầu tư thích đáng vào công nghệ cao, trong đó có công nghệ thông
tin.
Đầu tư cho công nghệ thông tin của Nhật Bản còn hạn chế so với các nước
phát triển khác trên thế giới. Trong khi Mỹ và Thuỵ Điển dẫn đầu thế giới về tỷ lệ
GDP đầu tư cho công nghệ thông tin, đạt 4,5% vào năm 1999 và một số nước châu
Âu như Anh và Đức đạt 3% thì Nhật Bản chỉ dành có 2% GDP cho lĩnh vực này.
Ngoài ra, chi phí cho công nghệ thông tin của các công ty Nhật Bản cũng chỉ bằng
1/2 của các công ty Mỹ. Sự chậm trễ của Nhật Bản trong việc nghiên cứu các sáng
chế công nghệ mới là do 80% hoạt động R&D được tập trung tại các phòng thí
nghiệm tư nhân và thiên về tiếp thu, ứng dụng và cải tiến chứ không phải là nghiên
cứu cơ bản, là phát minh và sáng tạo.

2.5. Những tồn tại trong phát triển nguồn nhân lực.
Việc phát triển nguồn nhân lực Nhật Bản cho đến nay cũng chứa đựng nhiều
vấn đề và chưa đáp ứng được những đòi hỏi của nền kinh tế tri thức, nhất là cuộc
64
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

cách mạng công nghệ thông tin. Trước hết, hệ thống giáo dục và đào tạo của Nhật
Bản với những đặc điểm chủ yếu như nhấn mạnh đến sự đồng nhất, đề cao tính tập
thể và xem nhẹ tinh thần và lối suy nghĩ độc lập, sáng tạo cá nhân của người học.
Trong thực tế, hệ thống đó đã có tác dụng tốt suốt nhiều thập kỷ sau chiến tranh thế
giới thứ hai bằng cách nhanh chóng tạo ra được đội ngũ đông đảo nhân lực có trình
độ phù hợp với việc tiếp thu, cải tiến công nghệ nhập khẩu với một chế độ quản lý
lao động đòi hỏi tính kỷ luật cao. Tuy vậy, hệ thống giáo dục này đã sớm tỏ ra lỗi
thời trước cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mới, nhất là cuộc cách mạng công
nghệ thông tin, đòi hỏi phải có những người lao động không chỉ biết làm việc theo
lịch trình có sẵn mà phải có đầu óc sáng tạo, biết suy nghĩ độc lập, luôn luôn đổi mới
và có tinh thần học hỏi. Điều đó có nghĩa là hiện nay hệ thống giáo dục này chưa
cung cấp đủ cho Nhật Bản nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng
công nghệ mới. Các chuyên gia cho rằng, việc chậm cải cách đã khiến cho hệ thống
giáo dục và đào tạo Nhật Bản trở thành vật cản của quá trình tiến đến nền kinh tế tri
thức. Những vấn đề nhân lực của Nhật Bản, nhất là nhân lực có chất lượng cao, sẽ
càng trở nên nghiêm trọng hơn khi mà dân số Nhật Bản giảm gia tăng và số người
già sẽ nhanh chóng đạt tới 1/3 dân số vào cuối thập kỷ này.
Trong một số năm qua, tuy Nhật Bản đã tiến hành nhập khẩu lao động nước
ngoài để bù đắp cho sự thiếu hụt nhân lực trong nước nhưng chính sách này vẫn
chưa phát huy hiệu quả. Năm 2000, số người nước ngoài ở Nhật Bản là 1 686 000
song mới chiếm 1,33% dân số, thấp xa so với 19% ở Thuỵ Sỹ, 9% ở Đức và 4% ở
Anh. Chính sách nhập cư của Nhật Bản đã thay đổi nhưng vẫn còn chắp vá, chưa
thực chất và hiệu quả, chủ yếu mới chỉ dừng lại ở mức lấp khoảng trống, và chỉ là sự
phản ứng trước sức ép đòi mở cửa thị trường lao động từ nước ngoài hơn là từ đòi
hỏi của bản thân nhu cầu nội tại của nền kinh tế Nhật Bản. Điều đó cũng có nghĩa là
những chính sách này chưa có tác dụng bao nhiêu đối với việc giải quyết tình hình
thiếu nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao. Trong thực tế, Nhật Bản chưa nhận
thức hết được ý nghĩa của việc chấp nhận những công dân nước ngoài nhằm bổ sung
65
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

cho sự giảm sút dân số Nhật Bản trong tương lai. Theo một điều tra vào tháng 11
năm 2000, mặc dù 70% người Nhật được hỏi cho là Nhật Bản sẽ bị thiếu lao động
nghiêm trọng ở mọi ngành, nhưng chỉ có 17% cho rằng Nhật Bản cần tích cực nhận
người nước ngoài, trong khi 53,2% cho rằng người nước ngoài chỉ được nhận như là
giải pháp cuối cùng.
2.6. Chậm tự do nền kinh tế.
Sự chậm trễ tương đối của Nhật Bản trong quá trình tiến tới xây dựng một nền
kinh tế tri thức là còn do Nhật Bản vẫn còn giữ mô hình kinh tế cũ trong thời đại
mới. Vào những năm 1970 và suốt những năm 1980, trong khi chính phủ Mỹ đã kiên
quyết tiến hành những cải cách kinh tế, tự do hoá hơn nữa nền kinh tế, cải tiến quản
lý doanh nghiệp, tháo bỏ các thể chế và các quy chế tài chính và quản lý lao động lỗi
thời, tạo môi trường thuận lợi để các công ty Mỹ phát huy hết tính năng động và
nâng cao sức cạnh tranh của mình thì Nhật Bản vẫn còn quá say sưa với những thành
tựu kinh tế của mình trong thập kỷ qua mà quên mất phải tập trung đầu tư cho lĩnh
vực công nghệ cao như công nghệ sinh học, hàng không vũ trụ và công nghệ thông
tin. Trong hơn 10 năm qua, mặc dù những điều kiện hoạt động của nền kinh tế Nhật
Bản đã thay đổi đáng kể song những chính sách kinh tế của Nhật Bản hầu như không
thay đổi so với 10 – 20 năm trước đây. Các chính sách này vẫn tập trung vào các vấn
đề ngắn hạn mà coi nhẹ những vấn đề quan trọng, cơ bản và lâu dài như cải cách cơ
cấu và cơ chế kinh tế.
Có sự khác nhau lớn giữa Nhật Bản và các nước châu Âu về hệ thống kinh tế.
Hệ thống kinh tế này bao gồm cả hệ thống điều chỉnh kinh tế, trong đó có hệ thống
tài chính. Ở Nhật Bản, hệ thống điều chỉnh kinh tế và xã hội mang tính chỉ huy và
kiểm soát cao đã tồn tại suốt nhiều thập kỷ qua, Nhà nước và cơ quan quản lý luôn
được ở vị trí ưu tiên nên việc quản lý thường là một quá trình theo chiều dọc từ trên
xuống. Kiểu quản lý như vậy không phù hợp với với nền kinh tế tri thức. So với các
nước công nghiệp phát triển khác, nền kinh tế Nhật Bản, trước hết là các doanh

66
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

nghiệp tư nhân, vẫn chịu sự quản lý khá chặt chẽ của chính phủ theo các kế hoạch và
mục tiêu được vạch ra.
Về hệ thống tài chính ở Nhật Bản, do thị trường chứng khoán, nhất là thị
trường OTC chưa phát triển và hình thức tài trợ chính vẫn là tài trợ gián tiếp, thông
quan các khoản vay ngân hàng nên các doanh nghiệp tiêu biểu cho các lĩnh vực công
nghệ cao khó huy động vốn. Điều mà Nhật Bản cần làm là chuyển từ tài trợ gián tiếp
thông qua các ngân hàng sang tài trợ trực tiếp thông qua các thị trường chứng khoán,
nhất là thị trường OTC.
Tuy là một nền kinh tế thị trường, dựa nhiều vào xuất khẩu và đầu tư ra nước
ngoài để phát triển suốt nhiều thập kỷ qua và cho đến gần đây, hàng rào mậu dịch
của Nhật Bản đã hạ xuống mức thấp nhất trong số các nước OECD, nhưng trong
thực tế, nền kinh tế Nhật Bản vẫn bị coi là khép kín. Có thể nói, nền kinh tế Nhật
Bản chưa chịu chơi một sân chơi chung như của các nền kinh tế khác, chưa được
quốc tế hoá đầy đủ.
Để cho phép nền kinh tế tri thức, trước hết là công nghệ thông tin và viễn
thông có thể phát triển mạnh được ở Nhật Bản thì Nhật Bản phải có sự điều chỉnh
thích ứng về hệ thống kinh tế. Nhìn vào lịch sử kinh tế, có nhiều nước đã từng đứng
đầu thế giới về công nghệ, song đã không điều chỉnh thành công hệ thống kinh tế của
mình trước những chuyển biến mới nên đã bị tụt hậu dần so với các nước khác. Một
ví dụ tiêu biểu là nước Anh, nước đứng đầu trong cuộc cách mạng công nghiệp, song
đã bị những nước mới công nghiệp hoá vượt qua. Chính thái độ cố duy trì các htể
chế và các ngành công nghiệp hiện có đã trở thành cản trở cho sự xuất hiện của các
công ty mới và các hình thức hoạt động kinh tế mới. Đây chính là điều đang xảy ra ở
Nhật Bản. Chính Thủ tướng Nhật Bản cũng đã thừa nhận trong diễn văn “Nhật Bản
và Asean ở Đông Á” tại viện nghiên cứu Đông Nam Á (Singapore) ngày 14/1/2002:
“Lý do nền kinh tế Nhật Bản trì trệ trong một khoảng thời gian dài như thế vào
những năm 1990 là rõ ràng. Thành công trước đó của Nhật Bản đã làm cho chúng tôi
tự mãn. Mặc dù đã có những thay đổi quan trọng đang diễn ra trong nền kinh tế toàn
67
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

cầu, nhưng Nhật Bản lại không hưởng ứng kịp thời bằng việc tiến hành cải cách cơ
cấu kinh tế và chính trị của mình. Công nghệ thông tin và truyền thông đã tạo ra một
thị trường toàn cầu thống nhất và duy nhất. Sự cạnh tranh trở nên khốc liệt hơn rất
nhiều. Để thành công được trong điều kiện như thế, mỗi quốc gia cần một thị trường
tự do và có hiệu quả cũng như một thị trường tài chính mạnh mẽ và lành mạnh”.
3. Một số chính sách nhằm tạo dựng nền KTTT ở Nhật Bản.
3.1. Đổi mới tư duy và tiến hành cải cách kinh tế.
Để đưa nước Nhật tiến tới và phát triển nền kinh tế tri thức, nhiều giải pháp đã
được đưa ra như cần xây dựng một cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại và toàn diện, một
mạng lưới thông tin tốc độ cao, tăng tỷ lệ người sử dụng Internet... Những điều kiện
đó rất quan trọng và cần phải đáp ứng tích cực đối với bất cứ nước nào muốn chuyển
sang nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, phần đông các nhà nghiên cứu Nhật Bản và
nước ngoài đều cho rằng, điều quan trọng nhất và trước tiên cần làm ngay đối với
Nhật Bản là:
 Cần thay đổi lối suy nghĩ cơ bản:
Nước Nhật phải tạo được sự nhất trí chung của toàn quốc gia đối với việc xây
dựng và phát triển nền kinh tế tri thức, trước hết là ngành công nghệ cao, đặc biệt là
công nghệ thông tin. Bước đầu tiên là phải hiểu được thực chất của cách mạng công
nghệ thông tin và vai trò to lớn của nó trong quá trình tiến đến nền kinh tế tri thức.
Muốn tiến nhanh tới nền kinh tế tri thức thì cần phải hiểu được thực chất, tính tất yếu
của nền kinh tế mới, các khái niệm và cơ chế vận hành của nó cũng như sự khác biệt
giữa nền kinh tế tri thức với nền kinh tế cũ. Nếu không có được sự đổi mới tư duy
như vậy thì sẽ không thể có bất cứ sự thay đổi nào khác tiếp theo.
 Cải cách hệ thống kinh tế Nhật Bản:
Nếu chỉ đổi mới tư duy không thì chưa đủ mà cần phải cải cách ngay về hệ
thống kinh tế Nhật Bản. Như đã nói ở trên, sở dĩ Nhật Bản chậm trễ hơn các nước
khác, nhất là Mỹ và một số nước Bắc Âu khác về khoa học công nghệ và công nghệ
thông tin là do chậm cải tổ cơ cấu kinh tế và thể chế. Do vậy, để xây dựng và phát
triển nền kinh tế tri thức mà trước hết là công nghệ thông tin thì Chính phủ Nhật Bản
68
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

cần kiên quyết đẩy mạnh quá trình điều chỉnh nền kinh tế. Mục đích của quá trình
này là giảm đến mức tối thiểu sự can thiệp của nhà nước, đưa nền kinh tế trở lại hoạt
động linh hoạt theo đúng những nguyên tắc của nền kinh tế thị trường, nâng cao tính
quốc tế của nền kinh tế Nhật Bản. Quá trình này được triển khai theo các hướng sau:
- Thu hẹp phạm vi điều chỉnh của nhà nước, chức năng chủ yếu của nhà
nước là tạo môi trường thuận lợi cho tư nhân phát triển; đồng thời cần tiến hành cải
cách hành chính, xây dựng một bộ máy nhà nước gọn nhẹ.
- Tự do hoá tài chính bằng cách xây dựng các thị trường tài chính trực
tiếp, nâng cao tính minh bạch của thị trường tài chính gián tiếp, mở cửa các thị
trường tài chính cho sự tham gia của các công ty nước ngoài để tăng thêm tính cạnh
tranh, tạo điều kiện thuận lợi để các công ty vừa và nhỏ, các nhà kinh doanh thuộc
lĩnh vực kinh doanh mới, công nghệ cao tiếp cận dễ dàng hơn với các nguồn vốn.
- Loại bỏ dần tính độc quyền của các công ty lớn và kiểu cũ bằng cách
chia nhỏ các công ty độc quyền, mở rộng thị trường cho sự tham gia của các loại
hình công ty, cả trong và ngoài nước, tiến tới sự cạnh tranh bình đẳng và minh bạch.
3.2. Đẩy mạnh đầu tư vào nghiên cứu khoa học và công nghệ.
Thủ tướng J.Koizumi ngay khi lên nắm quyền cũng đã có chủ trương muốn
biến Nhật Bản thành một quốc gia hướng vào khoa học và công nghệ và coi đây là
một phần trong chiến lược và kế hoạch cải cách của mình. Để xây dựng một ngành
khoa học và công nghệ phát triển thì Nhật Bản cần phải chú trọng đến R&D và phải
đầu tư nhiều hơn nữa cho các lĩnh vực này để nâng cao sức cạnh tranh quốc tế. Đồng
thời với việc tiếp tục nâng cao năng lực tiếp thu, ứng dụng và cải tiến công nghệ thì
Nhật Bản cần phải đầu tư và khuyến khích các hoạt động nghiên cứu cơ bản và sáng
tạo, sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ sở nghiên cứu đào tạo với các doanh nghiệp và
các tổ chức có liên quan khác để nâng cao tính đổi mới và sáng tạo của bộ máy
nghiên cứu và ứng dụng khoa học.
Ngoài các lĩnh vực khoa học và công nghệ như sinh học, vật liệu mới, hàng
không vũ trụ thì việc thúc đẩy cách mạng công nghệ thông tin cũng cần phải được
69
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

quan tâm thích đáng và coi đây là sự đảm bảo cho việc phát triển nền kinh tế tri thức
Nhật Bản trong thế kỷ XXI. Chính vì thế, trong tháng 1 năm 2001, chính phủ Nhật
Bản đã thông qua chiến lược E – Japan ( Nhật Bản điện tử ) và coi đây là một chiến
lược công nghệ thông tin quốc gia. Nguyên tắc cơ bản của chiến lược này là khuyến
khích khu vực tư nhân làm tất cả những gì có thể. Mục tiêu của chiến lược này là
biến nước Nhật thành một nước có công nghệ thông tin tiên tiến nhất trên thế giới
trong vòng 5 năm ( 2001 – 2005 ). Nội dung cơ bản của chiến lược này là:
 Tập trung đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng mạng tốc độ cao và thực
hiện các chính sách và quy chế ngăn chặn thực tế phi cạnh tranh của các hãng viễn
thông lớn nhằm thúc đẩy cạnh tranh công bằng trong khu vực thông tin.
 Tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại điện tử phát triển năng động
bằng cách xem lại những quy chế và luật lệ hiện có đang cản trở sự tăng trưởng của
Internet và thương mại điện tử, xây dựng khuôn khổ pháp lý và quy chế thị trường
minh bạch để đảm bảo an toàn cho những cá nhân và doanh nghiệp tham gia thương
mại điện tử.
 Thực hiện một chính phủ điện tử thực sự và có hiệu quả.
3.3. Phát triển nguồn nhân lực.
Điểm quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của Nhật Bản là
cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo. Hướng cải cách giáo dục và đào tạo chủ yếu là
loại bỏ tính đồng nhất và thống nhất thái quá đặc trưng cho nền kinh tế trước đây.
Các phương pháp dạy và học sẽ được cải tiến theo hướng chuyển mạnh sang phương
pháp “lấy học sinh làm trung tâm”, phát huy tính chủ động và suy nghĩ sáng tạo của
người học. Đồng thời cần đổi mới chương trình học theo hướng linh hoạt và liên
thông giữa các bậc học và cấp học, đa dạng hóa các loại hình đào tạo để tạo điều kiện
cho mọi người đều có thể theo học vào bất cứ lúc nào, tiến tới xây dựng “ một xã hội
học tập suốt đời ”.
Về vấn đề đưa công nghệ thông tin vào trường học, chiến lược công nghệ
thông tin của Nhật Bản đã đề ra mục tiêu chủ yếu là nâng cao khả năng thành thạo
70
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

thông tin của người dân đồng thời tăng cường về cả chất lượng và số lượng số thạc sĩ
và tiến sĩ được đào tạo trong lĩnh vực công nghệ thông tin để đảm bảo cung cấp đủ
các chuyên gia công nghệ. Chiến lược này dự kiến đến năm 2005, số người Nhật có
bằng thạc sĩ và tiến sĩ về công nghệ thông tin sẽ cao hơn của Mỹ.
Đồng thời, chính phủ Nhật Bản cũng đang đưa ra mục tiêu là mọi công dân
Nhật đều có thể sử dụng thành thạo tiếng Anh vào công việc chuyên môn của mình.
Về lâu dài, tiếng Anh sẽ là ngôn ngữ chính thức thứ hai sau tiếng Nhật.
Giống các công ty của Mỹ và châu Âu, Nhật Bản cũng đang có những biện
pháp thu hút các công ty, các nguồn nhân lực công nghệ cao từ nước ngoài nhằm
nhanh chóng lấp đầy khoảng cách giữa cung và cầu về nguồn nhân lực chất lượng
cao. Vào cuối những năm 1990, nhiều công ty của Nhật do thiếu các lập trình viên
nên đã phải dựa nhiều vào các kỹ sư châu Á từ Ấn Độ, Trung Quốc và Hàn Quốc,
vốn là những nhà cung cấp các kỹ sư công nghệ thông tin có năng lực với chi phí
tương đối rẻ. Hiện nay có khoảng 30 công ty phần mềm Ấn Độ, 100 công ty phần
mềm Hàn Quốc và 500 công ty phần mềm Trung Quốc đang hoạt động ở Nhật Bản
nhằm chia nhau thị trường phát triển phần mềm Nhật Bản trị giá khoảng 6000 tỷ
Yên. Nhờ các nguồn cung cấp nhân lực công nghệ thông tin từ nước ngoài như vậy
nên các công ty Nhật Bản đã có thể tiết kiệm được từ 30% - 50% chi phí phát triển
phần mềm.
Với những bước chuyển hướng và chính sách như vậy thì Nhật Bản sẽ nhanh
chóng thoát ra khỏi tình trạng hiện nay và tiến nhanh vào nền kinh tế tri thức trong
tương lai không xa.

IV. NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở TRUNG QUỐC


1. Quan niệm của Trung Quốc về nền kinh tế tri thức.
Giới nghiên cứu Trung Quốc nhìn chung cho rằng nền kinh tế tri thức đã bắt
đầu hình thành, trước hết ở các nước phát triển, với những biểu hiện chủ yếu sau
đây:

71
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

 Các ngành tập trung tri thức phát triển nhanh. Trong những năm 1990,
tốc độ tăng trưởng của các ngành tập trung tri thức như điện tử, hoá dầu, đóng tàu
của các thành viên OECD lần lượt là 46%, 83% và 133%.
 Kết cấu ngành nghề liên tục nâng cấp, tỷ trọng người làm trong các
ngành truyền thống giảm. Ở Mỹ, số người làm trong ngành chế tạo năm 1970 chiếm
30% tổng số nhưng đến năm 1995 giảm xuống còn 15,8%.
 Các ngành kỹ thuật cao từng bước đóng vai trò chủ đạo trong công
nghiệp chế tạo. Ví dụ, năm 1997 các ngành kỹ thuật cao đóng góp tới 27% trong sự
tăng trưởng kinh tế Mỹ.
 Ứng dụng rộng rãi kỹ thuật cao đã làm cho năng suất lao động tăng rõ
rệt. Từ năm 1980 đến năm 1998, năng suất lao động của ngành chế tạo máy tính Mỹ
tăng rất nhanh, gấp hai lần ngành khác; năng suất lao động của ngành thông tin bình
quân hàng năm cao hơn 70% mức tăng chung của các ngành. Từ năm 1990 đến nay,
sáng tạo của tri thức và tiến bộ kỹ thuật ở Mỹ đã đóng góp khoảng 80% cho tăng
năng suất lao động.
 Đầu tư cho R&D tăng nhanh. Năm 1997, đầu tư cho nghiên cứu triển
khai của 300 công ty lớn nhất thế giới tăng 17% so với năm 1996, chủ yếu là tập
trung vào các lĩnh vực kỹ thuật cao.
 Sự nghiệp giáo dục phát triển nhanh, chất lượng nguồn nhân lực nâng
cao rõ rệt.
 Các công ty chú trọng tăng cường quản lý tri thức.
2. Các vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng nền kinh tế tri thức ở Trung Quốc.
Trước sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, xã hội loài người
bước vào thời đại kinh tế tri thức rất nhanh, phương thức sản xuất, phương thức tư
duy, phương thức sinh hoạt cho đến các phương thức hoạt động khác của con người
đều sẽ thay đổi sâu sắc. Từ đây, nhiều nhà nghiên cứu Trung Quốc cho rằng. sức
mạnh tổng hợp quốc gia quy đến cùng là sức mạnh về tri thức. Có thể nói, ai dẫn
đầu sáng tạo tri thức người đó sẽ dành ưu thế. Do vậy, tri thức vừa là cơ hội vừa là
72
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

thách thức lớn đối với Trung Quốc. Qua 20 năm cải cách và mở cửa, sức mạnh tổng
hợp của Trung Quốc đã tăng mạnh. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng trình độ sức sản
xuất của Trung Quốc vẫn còn thấp với kết cấu kinh tế nhiều tầng. Số người có trình
độ đại học ở Trung Quốc chỉ chiếm 2,8%, đầu tư vào nghiên cứu và triển khai cũng
như chi phí cho giáo dục vẫn ở mức thấp. Do vậy, nhìn chung Trung Quốc vẫn trong
quá trình công nghiệp hoá, là nước đang phát triển và còn một khoảng cách với nền
kinh tế tri thức.
Trước thách thức lớn của nền kinh tế tri thức thế kỷ XXI, Trung Quốc cho
rằng cần nhận rõ, suy nghĩ và nghiên cứu một cách bình tĩnh và sâu sắc những vấn
đề liên quan dến nền kinh tế tri thức để giành lấy thời cơ, ứng phó với các thách thức
và vươn lên trong thế kỷ XXI. Sau đây là một số vấn đề đối với việc xây dựng và
phát triển nền kinh tế tri thức ở Trung Quốc.
2.1. Tri thức hoá các ngành truyền thống.
Kinh tế tri thức phát triển, nguồn trí lực được phân bố hiệu quả trên phạm vi
toàn xã hội, tất yếu sẽ nâng cấp, tối ưu hoá các ngành nghề. Trình độ sức sản xuất
của Trung Quốc còn thấp, kết cấu ngành nghề truyền thống nhìn chung vẫn lạc hậu.
Điều chỉnh kết cấu ngành nghề luôn là nhiệm vụ quan trọng trong phát triển kinh tế.
Trước sự phát triển của kinh tế tri thức, kết cấu ngành nghề truyền thống của Trung
Quốc luôn đứng trước thử thách lớn. Phát triển tri thức không chỉ là phát triển kỹ
thuật cao, mà còn phải chú trọng cải tạo các ngành truyền thống bằng kỹ thuật cao.
Điều này có nghĩa là các ngành truyền thống sẽ không bị diệt vong mà là phát triển
mới trên cơ sở hạ tầng kỹ thuật cao hơn. Làm thế nào nâng cao trình độ kỹ thuật của
các ngành truyền thống, thực hiện nâng cấp, tối ưu hoá kết cấu ngành nghề truyền
thống là nhiệm vụ hàng đầu cần giải quyết.
2.2. Phát triển nhanh và bền vững.
Phát triển kinh tế tri thức sẽ làm cho khả năng duy trì tốc độ phát triển cao trở
thành hiện thực, những vấn đề cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, ô nhiễm môi
trường sinh thái... trực tiếp uy hiếp sự tồn tại và phát triển của loài người đều có thể
73
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

giải quyết được. Vì kinh tế tri thức sẽ làm cho sự phát triển kinh tế chủ yếu dựa vào
nguồn tài nguyên thiên nhiên chuyển sang chủ yếu dựa vào nguồn trí lực, từ chỗ tiêu
hao vật chất chuyển sang ngày càng tiêu hao nhiều tri thức; từ chỗ phải trả giá bằng
hy sinh môi trường sống chuyển sang thực hiện bảo vệ môi trường tự nhiên, điều hoà
quan hệ giữa con người với tự nhiên. Do vậy trong thế kỷ XXI, làm sao phát triển
các ngành kỹ thuật cao để duy trì phát triển nhanh, bền vững là vấn đề quan trọng
cần giải quyết và đòi hỏi phải có chính sách và thể chế phù hợp.

2.3. Giáo dục và nhân tài.


Phát triển kinh tế tri thức, quy đến cùng là vấn đề giáo dục và nhân tài. Giáo
dục là cơ sở của kinh tế tri thức. Nhân tài là then chốt của sáng tạo tri thức. Bồi
dưỡng nhân tài là xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng nhất của nền kinh tế tri thức.
Hiện nay, nhìn chung trình độ giáo dục của Trung Quốc còn rất thấp, tố chất của
nguồn nhân lực chưa cao, rất khó khăn trong việc tham gia cạnh tranh toàn cầu
trong điều kiện kinh tế tri thức. Quy mô dân số quá lớn là gánh nặng cho sự phát
triển đất nước, là khó khăn lớn nhất để thực hiện hiện đại hoá. Phải nỗ lực phát triển
giáo dục, phải đặt giáo dục vào vị trí chiến lược trong ưu tiên phát triển kinh tế quốc
dân, chỉ có giáo dục mới nâng cao tố chất con người, giáo dục không phát triển
nhanh sẽ không đương đầu nổi với những thách thức của nền kinh tế tri thức.
2.4. Chính phủ đối với sự nghiệp phát triển kinh tế tri thức.
Trong thời đại kinh tế tri thức, chức năng điều tiết vĩ mô của chính phủ sẽ có
yêu cầu mới cao hơn. Chính phủ phải phát huy tác dụng quan trọng trong việc thúc
đẩy phát triển kinh tế tri thức, tích cực sáng tạo các điều kiện mới trên mọi phương
diện. Vai trò của chính phủ là cần quy hoạch phát triển kinh tế tri thức trung và dài
hạn, đảm bảo đầu tư nhà nước vào các hạng mục nghiên cứu cơ bản trọng yếu; phát
triển cơ sở hạ tầng thông tin, xây dựng cơ chế đầu tư mạo hiểm, thúc đẩy các nguồn
lực hướng vào các lĩnh vực sáng tạo; giúp đỡ, ưu đãi đối với các xí nghiệp kỹ thuật

74
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

cao; có các chính sách khuyến khích các tài năng sáng tạo; cần nghiên cứu và tạo ra
một môi trường, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tri thức.
3. Một số chính sách nhằm xây dựng thành công nền kinh tế tri thức ở Trung
Quốc.
3.1. Phát triển các ngành kỹ thuật cao.
Thời đại kinh tế tri thức xuất hiện là kết quả của sự phát triển của các ngành
kỹ thuật cao. Kỹ thuật cao hoá ngành nghề là tiêu chí quan trọng của sự ra đời nền
kinh tế tri thức. Trung tâm tăng trưởng kinh tế trong thời đại kinh tế tri thức thuộc về
các ngành kỹ thuật cao. Trong điều kiện một nước đang phát triển như Trung Quốc,
phát triển các ngành kỹ thuật cao như thế nào là một thách thức lớn.
3.1.1. Hiện trạng các ngành kỹ thuật cao ở Trung Quốc.
So với các nước phát triển, trình độ chung về khoa học kỹ thuật của Trung
Quốc còn thua kém xa, sức cạnh tranh quốc tế về khoa học kỹ thuật của Trung Quốc
lạc hậu hơn sức cạnh tranh về kinh tế. Năm 1996, GDP của Trung Quốc đứng hàng
thứ 7 trên thế giới, nhưng sức cạnh tranh về khoa học kỹ thuật đứng hàng thứ 28.
Mặc dù năm 1997 Trung Quốc vươn lên vị trí thứ 20, năm 1998 lên vị trí thứ 13 về
sức cạnh tranh về khoa học kỹ thuật, nhưng điều này không thể nói rằng sức cạnh
tranh của Trung Quốc đã thực sự cao. Năm 1998, sức cạnh tranh về bản quyền tri
thức của Trung Quốc đứng thứ 38 so với vị trí 29 năm 1997. Đóng góp của các phát
minh, sáng chế của Trung Quốc càn thấp, chưa đày 0,1% tổng số của thế giới, thậm
chí rất nhiều kỹ thuật, kể cả kỹ thuật cao vẫn nằm trong tình trạng tiếp thu là chính
[thời báo kinh tế 30/11/2000].
Hiệu suất chuyển hoá thành quả khoa học kỹ thuật của Trung Quốc thấp, tỷ lệ
đóng góp của tiến bộ khoa học kỹ thuật vào tăng trưởng kinh tế cũng thấp. Hiệu quả
chuyển hoá thành quả khoa học kỹ thuật ở các nước phát triển đã đạt khoảng 50%,
còn ở Trung Quốc mới chỉ đạt từ 6% đến 8%.
Mức độ ngành nghề hoá kỹ thuật cao ở Trung Quốc tương đối thấp, kỹ thuật
tại các khu công nghiệp khoa học kỹ thuật không cao, năng lực quản lý bất cập.
75
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Nhiều khu công nghiệp khoa học kỹ thuật ở Trung Quốc chưa được đưa vào các
trường đại học, viện nghiên cứu để phát triển nguồn kỹ thuật chủ yếu, còn thiếu rất
nhiều hàng mục kỹ thuật cao được ngành nghề hóa, chưa có cơ chế đầu tư mạo hiểm
làm cho năng lực ngành nghề hoá các hạng mục kỹ thuật cao rất yếu.
3.1.2 Chiến lược phát triển ngành nghề kỹ thuật cao.
Để ứng phó với thời đại kinh tế tri thức, khắc phục những yếu kém trên, con
đường duy nhất là phải tiến lên xây dựng hệ thống sáng tạo quốc gia, đột phá sáng
tạo kỹ thuật, sáng tạo tri thức, lựa chọn chiến lược phát triển các ngành kỹ thuật cao
thích hợp với mô hình phát triển của Trung Quốc.
 Nhanh chóng xây dựng hệ thống đầu tư rủi ro.
Thiếu vốn là một nhân tố quan trọng kìm hãm sự phát triển của ngành kỹ thuật
cao ở Trung Quốc. Vì vậy, để thúc đẩy sự phát triển của các ngành kỹ thuật cao,
ngoài việc chính phủ tiếp tục tăng cường hỗ trợ tài chính, ngân hàng tăng cường các
khoảng vay cho ngành kỹ thuật cao thì còn phải xây dựng một hệ thống đầu tư rủi ro.
Có thể áp dụng những chính sách như tổ chức xây dựng ngân hàng phát triển kỹ
thuật cao đa tầng, thành lập những công ty đầu tư rủi ro lĩnh vực kỹ thuật cao, xây
dựng quỹ rủi ro, thực hiện chính sách ưu đãi về thuế và áp dụng chính sách ưu đãi về
thuế cho các hoạt động đầu tư rủi ro trong lĩnh vực kỹ thuật.
 Tổ chức xây dựng những tập đoàn doanh nghiệp lớn.
Ngành kỹ thuật cao nên đi theo hướng tập đoàn hoá. Chính phủ cần từng bước
đưa ngành kỹ thuật cao phát triển theo hướng tập đoàn hoá để tham gia cạnh tranh
trên thị trường trong và ngoài nước, vừa tích cực chiếm lĩnh thị trường trong nước
vừa nỗ lực khai thác thị trường quốc tế. Biện pháp để tổ chức các tập đoàn doanh
nghiệp kỹ thuật cao ở Trung Quốc là tổ hợp doanh nghiệp với doanh nghiệp, có thể
là liên hiệp giữa những doanh nghiệp kỹ thuật cao đầu có thực lực tương đối mạnh
và hiệu quả tốt hoặc liên hợp giữa những doanh nghiệp mạnh với những doanh
nghiệp yếu hình thành nên những tập đoàn doanh nghiệp có sự phối hợp kỹ thuật cao
và thấp; thống nhất giữa sản xuất – học tập – nghiên cứu để hình thành nên một hệ
76
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

thống nghiên cứu khoa học có hiệu quả; thống nhất giữa khoa học – sản xuất và
thương mại, có thể nhanh chóng đưa các thành quả khoa học, kỹ thuật vào sản xuất.
 Tăng cường sự hỗ trợ và lãnh đạo của nhà nước.
Việc chính phủ hỗ trợ và lãnh đạo ngành kỹ thuật cao là một biện pháp hữu
hiệu để thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của ngành này. Trước hết, chính phủ cần
hoạch định chính sách và kế hoạch, ban hành pháp luật và chế độ, thúc đẩy sự phát
triển có định hướng của ngành kỹ thuật cao. Cùng với sự phát triển của khoa học -
kỹ thuật và sự thay đổi về điều kiện sản xuất, Trung Quốc cần liên tục điều chỉnh
trọng điểm chính sách để bắt kịp với sự phát triển của khoa học – kỹ thuật trên toàn
thế giới. Thứ hai, chính phủ cần tổ chức và điều hoà các hoạt động sản xuất – học tập
– nghiên cứu, tập trung các lực lượng để nghiên cứu, phát triển và ngnàh nghề hoá
các ngành kỹ thuật cao. Những dự án kỹ thuật cao có mức đầu tư lớn, rủi ro cao,
từng cá nhân doanh nghiệp rất khó lựa chọn, do vậy chính phủ cần đứng ra tổ chức
liên kết các doanh nghiệp, trường đại học và viện nghiên cứu để cùng thực hiện. Thứ
ba, nên có nhiều chính sách về thuế và tín dụng, có nhiều chính sách ưu đãi với nhân
tài đất nước và đầu tư cho cơ sở hạ tầng, có những chính sách khuyến khích và hỗ trợ
sự phát triển của các ngành kỹ thuật cao.
 Đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá.
Hiện nay, ngành sản xuất kỹ thuật cao của Trung Quốc vẫn chưa tham gia vào
thị trường quốc tế. Thực hiện sự bắt nhịp và hoà nhập giữa thị trường trong nước và
thị trường quốc tế cũng như quốc tế hoá ngành sản xuất kỹ thuật cao là nhiệm vụ hết
sức khó khăn. Để trực tiếp tham gia vào cạnh tranh quốc tế, các doanh nghiệp kỹ
thuật cao của Trung Quốc cần từng bước tìm hiểu quy luật của thị trường quốc tế,
nắm vững các quy tắc và thông lệ về mậu dịch quốc tế, nâng cao khả năng thao tác
thị trường của doanh nghiệp. Chính phủ cần làm cho thể chế quản lý hoà nhập với thị
trường quốc tế, giúp các doanh nghiệp kỹ thuật cao trên cơ sở đứng vững tại thị
trường trong nước sẽ có cơ hội tham gia trực tiếp vào cạnh tranh trên thị trường khoa
học – kỹ thuật quốc tế, tạo sự liên kết giữa hai thị trường trong nước và quốc tế, tạo
77
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

môi trường chính sách cho sự phát triển và tham gia cạnh tranh quốc tế của ngành kỹ
thuật cao.
 Thúc đẩy sự phát triển ngành nghề toàn diện.
Hiện nay, sự phát triển của các ngành sản xuất kỹ thuật cao của Trung Quốc
rất mất cân đối. Sản xuất kỹ thuật cao chủ yếu tập trung ở ngành công nghiệp chế tạo
thiết bị điện tử và thiết bị thông tin. Vì vậy, các ngành bộ liên quan cần ban hành
chính sách, một mặt duy trì tốc độ phát triển nhanh chóng của ngành chế tạo thiết bị
điện tử và thông tin, mặt khác phải tăng cường hỗ trợ công tác nghiên cứu, phát triển
kỹ thuật cao trong các ngành chế tạo máy bay, thiết bị máy tính..., xây dựng những
doanh nghiệp và những tập đoàn doanh nghiệp kỹ thuật cao có sức cạnh tranh, thúc
đẩy sự phát triển toàn diện của các ngành sản xuất kỹ thuật cao của Trung Quốc.
3.2. Phát triển công nghiệp kỹ thuật thông tin làm ngành công nghiệp chiến
lược.
3.2.1. Tình hình phát triển công nghiệp kỹ thuật thông tin.
Trên thực tiễn bước vào những năm 1990, Trung Quốc đã phát triển mạnh
ngành công nghiệp kỹ thuật thông tin. Giá trị gia tăng của ngành này ở mức
30%/năm. Việc ứng dụng kỹ thuật thông tin và sản phẩm của nó phát triển mạnh mẽ.
Từ tháng 7 năm 1998 đến tháng 7 năm 2000, số lượng máy tính nối mạng của Trung
Quốc đã tăng từ 542 000 máy lên 650 000 máy. Đến cuối năm 2000, số người sử
dụng mạng trong cả nước là 25 triệu người và năm 2001 đã lên tới 50 triệu người.
Viêc ứng dụng rộng rãi kỹ thuật thông tin và sản phẩm của nó đã thúc đẩy sự phát
triển của ngành công nghệ thông tin. Năm 2000, ngành công nghệ chế tạo sản phẩm
kỹ thuật thông tin tăng ở mức 33%/năm, doanh thu của ngành này là 450 tỷ NDT,
giá trị xuất khẩu đạt 100 tỷ NDT. Hiện nay, số mạng thương mại điện tử của Trung
Quốc đã vượt con số 1000, kim ngạch thương mại điện tử đạt 800 triệu NDT vào
năm 2000 [3].
Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của ngành công nghệ thông tin, việc sản xuất
thiết bị thông tin được quan tâm thích đáng. Thị phần của Trung Quốc trên thị trường
78
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

máy tính ngày càng tăng, sản lượng máy tính của Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản
và Hàn Quốc, đứng thứ hai trên thế giới sau Đài Loan. Số người sử dụng điện thoại
di động là 70 triệu người năm 2000, đứng thứ hai trên thế giới. Sản xuất máy điện
thoại di dộng của Trung Quốc phát triển rất nhanh, hiện đứng thứ ba ở châu Á sau
Hàn Quốc và Nhật Bản.
Tăng trưởng công nghiệp kỹ thuật thông tin ở Trung Quốc đã đạt kết quả cao
song nhìn chung vẫn còn nhiều khó khăn và bất cập. Nguyên nhân chủ yếu là do
thiếu khả năng điều tiết vĩ mô, thiếu độ quy hoạch thống nhất và hài hoà, đầu tư kinh
phí cho việc nghiên cứu kỹ thuật thông tin còn thấp và phân phối chưa hợp lý, thành
quả nghiên cứu kỹ thuật thông tin còn chưa nhiều, một số thành quả đã đạt đến hoặc
tiếp cận với trình độ tiên tiến của thế giới, song mức độ chuyển hoá vào sản xuất còn
thấp, chưa đến 50%, hệ thông chính sách còn chưa hoàn thiện, sự phát triển của
ngành công nghiệp kỹ thuật thông tin còn chưa quy củ.
3.2.2. Chiến lược phát triển.
Bước vào thế kỷ XXI, cả thế giới sẽ bước vào thời đại thông tin, ai chiếm
được đỉnh cao kỹ thuật thông tin và ngành nghề hoá kỹ thuật thông tin, người đó sẽ
giành được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thế giới thế kỷ XXI. Vì thế, các nước và
các khu vực trên thế giới đều hoạch định và thực thi chiến lược phát triển ngành
nghề hoá kỹ thuật thông tin thế kỷ XXI, tích cực phát triển kỹ thuật thông tin và
ngành công nghiệp kỹ thuật thông tin. Điều nay vừa là cơ hội vừa là thách thức đối
với Trung Quốc. Trung Quốc cần phải hoạch định và thực thi chiến lược khoa học,
nắm bắt cơ hội, đón nhận thách thức, tích cực phát triển kỹ thuật thông tin, thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Trọng điểm chiến lược phát triển ngành công nghệ kỹ thuật thông tin của
Trung Quốc 10 năm đầu thế kỷ XXI:
 Ngành công nghiệp phần mềm.
Ngành công nghiệp phần mềm là hạt nhân của ngành công nghiệp thông tin.
Sự phát triển của nó có quan hệ trực tiếp đến tiến trình thông tin hoá của Trung
79
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Quốc, nó sẽ thúc đẩy sự thay đổi trong phương thức tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ cho
việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế, đẩy nhanh chu kỳ quay vòng vốn và nâng cao hiệu
quả kinh tế. Chính vì ngành công nghiệp phầm mềm có vị trí và tác dụng quan trọng
như vậy nên cần phải coi nó là trọng điểm chiến lược. Hiện nay, ở Trung Quốc, hàng
loạt các doanh nghiệp phần mềm đang phát triển nhanh chóng và sự phát triển mạnh
mẽ của ngành công nghiệp phần mềm của Trung Quốc đã cho thấy Trung Quốc cần
phải và có khả năng phát triển ngành công nghiệp phần mềm.
 Sản xuất máy tính và các linh kiện máy tính.
Ngành công nghiệp máy tính và phần mềm là ngnàh cơ sở vật chất quan trọng
để thực hiện thông tin hoá nền kinh tế quốc dân. Điều này thể hiện: thứ nhất, việc
xây dựng mạng dịch vụ thông tin máy tính và hệ thống dịch vụ thông tin trong cả
nước cần đến máy tính và sản phẩm phần mềm; thứ hai, việc cải tạo các ngành công
nghiệp truyền thống cần đến các loại hệ thống máy tính điều khiển công nghiệp. Vì
vậy, việc phát triển ngành công nghiệp máy tính đóng một vai trò hết sức quan trọng
đối với nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, hiện nay, sự phát triển của ngành công
nghiệp máy tính của Trung Quốc vẫn còn lạc hậu so với trình độ tiên tiến của thế
giới. Trung Quốc cần coi ngành công nghiệp chế tạo máy tính và các sản phẩm đi
kèm của nó là trọng điểm chiến lược, nhanh chóng nâng cao trình độ và sức cạnh
tranh của ngành.
 Ngành công nghiệp thiết bị thông tin.
Ngành công nghiệp thiết bị thông tin là ngành công nghiệp cơ bản quan trọng
để phát triển ngành công nghiệp thông tin ở Trung Quốc. Về tình hình phát triển,
trong thời gian tới, ngành thông tin sẽ duy trì được tốc độ cao, điều này sẽ tạo ra nhu
cầu cực lớn đối với sản phẩm thiết bị thông tin. Do vậy, phát triển ngành công
nghiệp thiết bị viễn thông có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của
ngành công nghiệp thông tin cũng như đối với sự phát triển của nền kinh tế Trung
Quốc. Tuy nhiên, tình hình phát triển hiện nay của ngành công nghiệp thiết bị thông
tin vẫn còn tương đối lạc hậu so với trình độ tiên tiến của thế giới. Có thể nói, sự
80
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

phát triển của ngành này vẫn còn là một khâu yếu trong sự phát triển của ngành công
nghệ kỹ thuật thông tin của Trung Quốc, nó hạn chế quá trình ngành nghề hoá kỹ
thuật thông tin cũng như hạn chế sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, về
lý thuyết hay trên thực tiễn, Trung Quốc cũng nên chọn ngành này là trọng điểm
trong chiến lược phát triển ngành công nghệ thông tin.
Để thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kỹ thuật thông tin và ngành công
nghiệp thông tin đến năm 2010, Trung Quốc cần phải áp dụng những biện pháp sau:
(1) Nhận thức và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa thông tin hoá và công
nghiệp hoá, vận dụng kỹ thuật thông tin để nâng cao trình độ công nghiệp hoá, lấy
thông tin hoá để thúc đẩy công nghiệp hoá;
(2) Xây dựng và kiện toàn cơ chế nghiên cứu khoa học mới bao gồm
nghiên cứu, sáng tạo, tiếp thu, phổ biến, kết hợp với nhau trong đổi mới đồng thời
xây dựng cơ chế liên hệ giữa tổ chức nghiên cứu khoa học và doanh nghiệp, thúc đẩy
quá trình chuyển hoá thành quả nghiên cứu khoa học vào sản xuất;
(3) Hỗ trợ phát triển kỹ thuật thông tin và ngành công nghiệp kỹ thuật
thông tin;
(4) Làm tốt công tác xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia, chú trọng
đến việc xây dựng xa lộ thông tin, tích cực phát triển mạng thông tin tốc độ cao, đẩy
nhanh việc xây dựng mạng ứng dụng cho mọi lĩnh vực;
(5) Đẩy nhanh việc khai thác và sử dụng nguồn thông tin, cung cấp đầy đủ
hàng hoá cho nền kinh tế mạng, bảo đảm sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế
mạng;
(6) Xây dựng và kiện toàn hệ thống pháp quy và hỗ trợ sự phát triển của
ngành công nghiệp kỹ thuật thông tin,
(7) Bồi dưỡng, thu hút và sử dụng tốt đội ngũ nhân tài, bồi dưỡng có trọng
điểm một đội ngũ các nhà quản lý tri thức giỏi, có kinh nghiệm , nắm vững kỹ thuật
thông tin và nghiệp vụ.
V. NỀN KINH TẾ TRI THỨC CỦA MALAIXIA.
81
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Giống như hầu hết cácn quốc gia đang phát triển khác, Malaixia đã nhận thức
sâu sắc được nhu cầu phải bắt kịp những công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông
tin và truyền thông (ITC) trong một thế giới mà mà kinh tế tri thức đang trở thành
một phạm trù tương đối phổ biến. Điều này được thể hiện ngay trong bài phát biểu
của Thủ tướng M. Mohamad tại phiên khai mạc kỳ họp hội đồng thương mại
Malaixia tổ chức ở Kuala Lumpur ngày 28/2/1991: “Trong thời đại thông tin mà
chúng ta đang sống, xã hội Malaixia phải là một xã hội giàu thông tin. Không một
đất nước giàu có và phát triển nào mà lại nghèo về thông tin và ngược lại, không một
nước nào giàu thông tin mà lại nghèo và kém phát triển”. Chính vì vậy, chương trình
phát triển ICT của Malaixia được coi là chìa khoá mở lối cho con đường đưa quốc
gia này trở thành một nước công nghiệp phát triển vào năm 2020. Do vậy, việc triển
khai một chính sách ICT tích cực là bước đi cần thiết để Malaixia dần tiếp cận với
khuôn mẫu của nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, Malaixia cũng không theo đuổi dự án
ICT bằng bất kỳ cách nào vì ICT tuy được nhìn nhận là một công nghệ hỗ trợ đắc lực
nhưng không giải quyết được mọi rối ren xã hội và nhu cầu kinh tế. ICT chỉ có thể
nâng cao những khả năng đã có, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, qua
đó sẽ giảm bớt sự phụ thuộc của Malaixia vào nền kinh tế sản xuất hàng hóa truyền
thống.
Nói cách khác, Malaixia bước vào nền kinh tế tri thức với một phương châm
rõ ràng rằng sự theo đuổi đó phải cùng tồn tại với một nền kinh tế sản xuất hiện vẫn
đang chiếm ưu thế và chức năng cuối cùng của cả hai nền kinh tế này là duy trì bền
vững và cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân Malaixia. Để đạt được mục
tiêu đó, Malaixia đã dự thảo và hình thành nhiều chương trình có liên quan đến cả
hai nền kinh tế và chúng đang được triển khai tích cực và bước chuyển sang nền kinh
tế tri thức của Malaixia đã được đặt trong khuôn khổ của kế hoạch phát triển tổng thể
quốc gia.
1. Cơ sở để Malaixia xây dựng chiến lược phát triển kinh tế tri thức.

82
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Năm 1990 đánh dấu sự kết thúc của Malaixia trong việc thực hiện Kế hoạch
triển vọng lần thứ nhất (OPP1) 1971 – 1990 và chính sách kinh tế mới NEP.
Malaixia đã đạt được nhiều thanh tựu nổi bật trong việc chuyển hoá kinh tế – xã hội.
Trong suốt 20 năm, tăng trưởng GDP của Malaixia luôn được duy trì ở mức khá cao
(6,9%/năm), nâng tổng sản phẩm trong nước năm 1990 lên 115 tỷ Ringgit [34,368].
Tuy nhiên, để có thể trở thành một nước công nghiệp mới thì Malaixia cần loại bỏ
những mất cân đối kinh tế – xã hội đang còn tồn tại giữa các nhóm dân tộc, thực hiện
xoá đói, giảm nghèo... nhằm tạo nền móng vững chắc cho quốc gia.
Kế hoạch triển vọng lần hai ( OPP2 ) 1991 – 2000 cùng chính sách phát triển
mới NDP của Malaixia ra đời trên cơ sở kế thừa cả những việc đã và chưa làm được
của OPP1, có nhiệm vụ tiếp tục đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nhằm điều
chỉnh những mất cân đối về kinh tế và xã hội. Do vậy, bên cạnh mục tiêu kinh tế,
Malaixia còn mong muốn xây dựng một xã hội thịnh vượng, công bằng và ổn định,
các giá trị truyền thống về văn hoá, xã hội được bảo tồn. Vì vậy, trong khi vẫn tiếp
tục duy trì những nhân tố tích cực và chiến lược cơ bản cảu NEP, chính sách phát
triển kinh tế mới trong giai đoạn 1991 – 2000 của Malaixia được hướng vào tập
trung giải quyết những vấn đề cơ bản sau: tạo lập sự phát triển cân đối giữa mục tiêu
kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; bảo đảm sự phát triển cân đối giữa các khu
vực kinh tế trọng yếu, qua đó tăng cường khả năng hỗ trợ lẫn nhau giữa chúng nhằm
tối ưu hoá tăng trưởng; giảm thiểu tối đa sự chênh lệch trong phát triển kinh tế giữa
khu vực thành thị và nông thôn; đưa khoa học công nghệ trở thành một bộ phận cấu
thành của kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội đồng thời chú ý thoả đáng đến việc
bảo vệ môi trường nhằm duy trì sự phát triển bền vững và lâu dài.
Trong kế hoạch 2001 – 2010 nhằm đưa Malaixia trở thành một nước công
nghiệp phát triển vào năm 2020, theo Thủ tướng M.Mohamad, để có thể đạt được
mục tiêu tăng trưởng kinh tế trung bình 7,5%/năm và nâng gấp đôi thu nhập đầu
người lên trên 6000 USD vào năm 2010 thì Malaixia cần phải dựa trên cơ sở công
nghệ và quy trình sản xuất tiên tiến được hỗ trợ bởi sự tăng trưởng đầu tư trong và
83
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

ngoài nước. Trong giai đoạn này, dự đoán tiêu dùng cá nhân của Malaixia sẽ tăng ở
mức trung bình 7,4%/năm, đầu tư cá nhân cũng đạt mức tăng 12,7%/năm [35]. Để
đạt được mục tiêu trên thì điều kiện tiên quyết là Malaixia phải cải thiện được năng
suất, duy trì được sức cạnh tranh và khả năng phục hồi kinh tế dựa trên tri thức, kinh
tế tri thức phải là chỗ dựa để cải thiện khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Malaixia.
2. Chiến lược phát triển kinh tế tri thức và các bước triển khai.
2.1. Chiến lược phát triển tổng thể.
2.1.1. Tăng cường phát triển công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền
kinh tế tri thức.
Cơ sở hạ tầng quan trọng của kinh tế tri thức là sự chia sẻ tri thức và tự do lưu
thông trên mạng vi tính. Bởi vậy, chương trình công nghệ thông tin quốc gia của
Malaixia được công bố vào năm 1996 có mục tiêu trọng tâm là phát triển khoa học
nhân văn, tin học cơ bản và tin học ứng dụng, biến các nhân tố này trở thành động
lực mới để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chương trình còn có mục tiêu phổ cập kiến
thức cơ bản về tin học đến mọi người dân vào năm 2020. Trong khuôn khổ chương
trình này, mức đầu tư cho tin học sẽ tăng 20% mỗi năm so với thời kỳ 1996- 2000.
Và trên thực tế những năm gần đây, ngành công nghiệp máy tính cá nhân của
Malaixia đã có bước phát triển mạnh mẽ. Ngoài ra,Chính phủ Malaixia cũng quyết
định mở rộng ngành bưu điện, nâng cấp toàn bộ hệ thống cáp quang.
Bên cạnh đó, nhằm nâng cấp cơ sở hạ tầng của ngành kinh tế tri thức, Chính
phủ nước này đã quyết định xây dựng mạng Malaixia (Malaixia Network) với mục
tiêu đến 2010, Malaixia sẽ có 12 thành phố tri thức với các hành lang đa hệ siêu cấp
được nối mạng trực tiếp với xa lộ thông tin toàn cầu. Hiện nay, một Chính phủ điện
tử có chức năng cung cấp các dịch vụ hành chính công trong siêu hành lang truyền
thông đa phương tiện (MSC) đã được xây dựng xong, toàn bộ công việc quản lý
hành chính được vi tính hoá và Chính phủ điện tử này đã kết nối các đơn vị hành
chính trong nước với Chính phủ trung ương thành một hệ thống duy nhất, nhưng
trong đó, các đơn vị hành chính vẫn là một đơn vị độc lập.
84
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

2.1.2. Phát triển siêu hành lang truyền thông đa phương tiện, quy hoạch công viên
kỹ thuật cao.
Với mục tiêu biến Malaixia trở thành nước đi đầu trong khu vực và trên thế
giới trong lĩnh vực phát triển công nghệ thông tin và viễn thông cùng với những ứng
dụng của nó, có thể coi việc lồng ghép khu công viên kỹ thuật cao trong siêu hành
lang truyền thông đa phương tiện là một sáng tạo của Malaixia trong việc tạo ra một
ngành công nghiệp thông tin liên lạc tầm cỡ thế giới và là “đầu kéo” chính đưa nước
này gia nhập nền kinh tế tri thức toàn cầu trong tương lai.
Siêu hành lang truyền thông đa phương tiện và khu công viên kỹ thuật cao sẽ
là nơi tập hợp các xí nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu thành một thể thống
nhất, là khâu quan trọng để biến kỹ thuật cao thành một ngành kinh tế thực thụ.
Trong MSC, trọng tâm phát triển sẽ bao gồm: công nghiệp chế tạo, công nghiệp bao
bì cao cấp, công nghiệp thiết kế và sản phẩm phần mềm vi tính, thông tin tri
thức...Trung tâm của MSC là “thành phố tin học”, ở đây có trường đại học tin học,
trường đào tạo kỹ năng, học viện quốc tế, trung tâm thương mại, khu vui chơi giải
trí, văn phòng giao dịch, khu nhà ở...Toàn bộ thành phố là một khu công viên khoa
học – kỹ thuật tổng hợp. Theo kế hoạch đã được định hướng của chính phủ Malaixia,
đến trước năm 2020 sẽ biến khu công viên khoa học – kỹ thuật này trở thành trung
tâm sản xuất phần mềm thế giới với dân số là 24 vạn người cùng với sự hiện diện
của hơn 500 công ty phần mềm vi tính.
2.1.3. Từng bước tin học hoá, mạng hoá và mô hình hoá ngành dịch vụ.
Do nhận thức được tầm quan trọng của ngành dịch vụ trong nền kinh tế tri
thức, đặc biệt là dịch vụ cung cấp kiến thức công nghệ và thông tin và để thích ứng
với bối cảnh của kỷ nguyên hậu công nghiệp , nhiều ngành dịch vụ của Malaixia đã
tích cực áp dụng tin học hoá, mạng hoá, mô hình hoá.
 Điện tử hoá tiền tệ : trong nền kinh tế hiện đại, sử dụng máy tính hoặc
thẻ điện tử để luân chuyển vốn là phương thức hỗ trợ rất hữu hiệu để giảm giá thành.
Vì vậy, năm 199, Malaixia đã thành lập công ty điện tử hoá hệ thống tiền tệ và đến
85
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

tháng 3 năm 1999 đã hoàn thành việc xây dựng hệ thống hỗ trợ an toàn giao dịch
ngân hàng, tạo thành một hệ thống liên mạng với thế giới. Để tiếp tục thúc đẩy tiến
trình điện tử hoá tiền tệ, tháng 8 năm 2000, chính phủ Maliaxia đã cho phép phát
hành thẻ smart card, chỉ cần hệ thống an toàn của ngân hàng cho phép là người chủ
loại thẻ này có thể tiếp cận được với nguồn vốn của mình. Ngoài ra, loại thẻ này còn
được dùng thay cho chứng minh thư, bằng lái xe, hộ chiếu...
 Phát triển thương mại điện tử : Hiện nay Chính phủ Malaixia đã thành
lập Uỷ ban dịch vụ thương mại điện tử đồng thời khuyến khích và có chế độ ưu đãi
đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi sử dụng dịch vụ này. Năm 1999, doanh thu
qua mạng thương mại điện tử của Malaixia đạt 460 triệu USD và ước tính đạt
khoảng 1 tỷ USD vào cuối năm 2003.
 Mạng hoá các dịch vụ ngân hàng: Tháng 10 năm 1995, Mỹ đã gây sốc
cho giới kinh doanh tiền tệ khi lần đầu tiên cho ra đời mạng an ninh ngân hàng, đánh
dấu sự xuất hiện của kỹ thuật mạng trong hoạt động ngân hàng. Sau đó, vào tháng 5
năm 1997, Malaixia cũng đã thành lập Phòng bảo đảm an ninh ngân hàng đầu tiên
của mình. Các phòng này giúp cho các nhà đầu tư ngồi một chỗ để điều khiển các
giao dịch ngân hàng và hoạt động đầu tư của mình.
Bảng 6: Chiến lược phát triển kinh tế tri thức của Malaixia so với một số nước và
khu vực.
Chiến lược quốc gia Các chính sách ưu tiên Biện pháp thúc đẩy
Malaixia - Các chính sách ITC là - Chính phủ có vai trò lớn
Xã hội giàu thông tin một phần của một chương trong việc thực hiện các
trình thông tin rộng hơn. mục tiêu.
- Kết cấu hạ tầng Siêu
hành lang truyền thông đa
phương tiện.

Nhật Bản - Phát triển kết cấu hạ tầng - Tập trung cải tổ cơ cấu

86
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Thông tin hoá xã hội; kết và áp dụng cạnh tranh. trong những năm 1990.
cấu hạ tầng liên lạc thông - Chặn đứng sự suy giảm - Cuối những năm 1990,
tin kinh tế, giảm tập trung ở sự tập trung vào phát
thành thị và tái đầu tư cho triển kết cấu hạ tầng đã
công nghệ thông tin đại chuyển sang
phương.
- Khuyến khích các doanh
nghiệp vừa và nhỏ sử
dụng Internet.

Mỹ - Hỗ trợ cho việc phát - Chuyển đổi từ một chiến


Siêu xa lộ thông tin triển Internet thế hệ sau. lược các mạng quốc gia
- Phát triển các dịch vụ và diện rộng được gắn kết
các ứng dụng công nghệ qua lại, sang tập trung vào
tin học. Internet.
- Sự phát triển chủ yếu
được thúc đẩy bởi thị
trường với sự hỗ trợ của
Chính phủ, dặc biệt là về
R&D.

87
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

EU - Thiết lập mạng Intranet - Cách tiếp cận then chốt


Xã hội thông tin có khả năng vận hành hai là tạo sự cạnh tranh trong
chiều và phát triển kết cấu các thị trường công nghệ
hạ tầng xuyên châu Âu. thông tin.
- Kiểm tra hệ quả ý nghĩa - Thúc đẩy R&D xuyên
xã hội của IT. quốc gia là rất quan trọng.
- Tập trung vào các dự án
thử nghiệm và thúc đẩy
các chương trình nghiên
cứu, cộng tác, xuyên quốc
gia.

Nguồn: Nền kinh tế tri thức: Nhận thức và hành động – Kinh nghiệm của các nước
phát triển và đang phát triển. NXB Thống Kê, Hà Nội, 2000, trang 145
2.2. Các bước triển khai.
2.2.1. Chương trình xúc tiến nghiên cứu và triển khai tổng thể.
Với mục tiêu giải quyết những hạn chế của nền kinh tế hiện nay về thiếu lao
động có kỹ năng, năng suất lao động thấp, Malaixia đã đặt kké hoạch đưa ngành
công nghiệp chế tạo trở thành ngành đóng vai trò chính trên thị trường thế giới và
làm cho ngành này có cường độ lao động cao hơn. Kế hoạch này còn nhằm thúc đẩy
khoa học công nghệ, nhấn mạnh đến việc phát triển nguồn nhân lực và đa dạng hoá
các ngành công nghiệp chế tạo cũng như các dự án công nghệ. Do vậy, các khoảng
đầu tư mới của Chính phủ sẽ được sử dụng để áp dụng kỹ thuật người máy và tự
động hoá một cách rộng rãi.
2.2.2. Chương trình công nghệ thông tin quốc gia.
Chương trình công nghệ thông tin quốc gia đặt ra mục tiêu biến đổi Malaixia
một cách toàn diện trong thời đại thông tin. Trên cơ sở phát triển đồng đều ba yếu tố
cơ bản là con người, cấu trúc thông tin (phần cứng, phần mềm) cùng với những ứng
dụng của nó để dẫn đến sự thăng tiến về chất trong hoạt động kinh tế xã hội. Nếu
88
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

chương trình được thực hiện thành công, khi đó với sự kết hợp đồng bộ của ba khu
vực Nhà nước, tư nhân và phi Chính phủ, ITC sẽ trở thành một công cụ chiến lược
để phát triển.
2.2.3. Siêu hành lang truyền thông đa phương tiện (MSC).
Năm 1996, Thủ tướng Malaixia đã chính thức công bố chương trình phát triển
công nghệ thông tin quốc gia, trong đó Siêu hành lang truyền thông đa phương tiện
là điểm nhấn cốt lõi. Nhiệm vụ chính của MSC là phải xây dựng được môi trường
cần thiết cho kỷ nguyên mới và nuôi dưỡng một nền công nghiệp tri thức trong mối
liên kết với khu vực chế tạo thông qua việc thu hút các công ty đa quốc gia và các
công ty trong nước có đẳng cấp thế giới.
2.2.4. Năm mũi đột phá trong lĩnh vực điện tử.
Trên cơ sở nền tảng cơ bản hiện có của mình về công nghệ thông tin và viễn
thông, Malaixia đang từng bước thâm nhập vào thế giới điện tử hay thế giới ITC. Và
để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình này, Chương trình công nghệ thông tin quốc
gia đã đề xuất triển khai 5 lĩnh vực đột phá là:
 Chủ quyền điện tử: Tập trung vào các mối quan tâm mang tính quốc gia
trong bối cảnh một thế giới không biên giới của ITC.
 Học tập qua mạng điện tử: Tập trung vào việc học tập suốt đời thông qua
tương tác mạng.
 Cộng đồng điện tử: Tập trung vào việc củng cố các mối quan hệ cộng đồng
thông qua nối mạng điện tử.
 Kinh tế điện tử: Tập trung vào vấn đề thích nghi kinh tế của Malaixia trong
bối cảnh nền kinh tế tri thức toàn cầu đang hình thành.
 Dịch vụ công cộng điện tử: Tập trung vào việc nâng cao hiệu quả phân
phối dịch vụ tới cộng đồng thông qua các phương tiện điện tử.
3. Một số hạn chế trong việc thực thi chiến lược phát triển kinh tế tri thức.
Thứ nhất, khả năng sáng tạo nói chung của Malaixia chưa đủ mạnh, đội ngũ
làm khoa học, công nghệ còn thiếu. Trong khi thời đại thông tin ngày nay đã biến tri
89
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

thức không chỉ là nền tảng của quyền lực mà còn là sự thịnh vượng, khả năng sáng
tạo chính là năng lực sản xuất, là cơ sở để phát triển kinh tế bền vững, thiếu ý tưởng
sáng tạo, nền kinh tế tri thức sẽ khó phát triển. Vậy mà hiện tại, Malaixia chỉ mới có
khoảng 12 450 nhàkhoa học và chuyên viên nghiên cứu, chiếm khoảng 0,7% dân số
cả nước (tức là chỉ có 7 nhà khoa học /10 000 dân), tỷ lệ này kém xa so với các nước
công nghiệp hoá mới (NICS) là 15 nhà khoa học / 10 000 dân.
Thứ hai, tuy Malaixia khá thành công trong chiến lược đi tắt, đuổi kịp trong
một số lĩnh vực như công nghệ truyền thông nhưng nền tảng khoa học cơ bản lại
tương đối yếu và thiếu. Đây là nhược điểm lớn mà Malaixia khó có thể giải quyết
bằng chính sách đầu tư và du nhập công nghệ, nó chỉ có thể được tạo dựng thông qua
một hệ thống giáo dục và đào tạo bài bản.
Thứ ba, phát triển kinh tế mạng là một khâu rất quan trọng của nền kinh tế tri
thức. Tuy nhiên, kinh tế mạng chưa trở thành điểm nóng trong nền kinh tế Malaixia.
Đến nay, mới chỉ có 7% các công ty đưa hàng hoá của mình lên mạng để kinh doanh,
phần đông các công ty vẫn chưa tích cực tham gia vào mạng kinh doanh điện tử.
Khái niệm kinh tế mạng vẫn chưa được thừa nhận một cách rộng rãi, ý thức tham gia
vào kinh tế mạng chưa cao.
Thứ tư, ở Malaixia vấn đề chênh lệch trình độ phát triển giữa thành thị và nông
thôn vẫn chưa được giải quyết. Cho đến nay, công nghệ thông tin và viễn thông càng
làm tăng khoảng cách giữa các vùng. Ở Malaixia, người sử dụng công nghệ thông tin
chủ yếu ở khu vực thành phố. Hơn nữa, chính sách công nghệ thông tin của Malaixia
chưa quan tâm nhiều đến các khía cạnh xã hội mà chỉ quan tâm đến khía cạnh kinh tế
và thương mại.
VI. KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM.
Loài người đang chứng kiến sự ra đời của một xu hướng phát triển mới – phát
triển kinh tế tri thức. Trên thực tế, kinh tế tri thức đang tự khẳng định mình ở những
khía cạnh cơ bản và đã trở thành mục tiêu phấn đấu của hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Việt Nam là một nước đang phát triển những cũng không thể đứng ngoài xu thế
90
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

này, không thể không đáp ứng một cách chủ động để hướng tới việc từng bước xây
dựng nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là chúng ta sẽ tiến tới nền kinh tế
tri thức theo cách nào và tính chất tác động của xu hướng kinh tế tri thức đối với Việt
Nam như thế nào.
Hiện nay, nền kinh tế tri thức đã và đang được xây dựng và phát triển theo
nhiều hướng khác nhau ở các nước phát triển. Bên cạnh đó, các nước đang phát triển
cũng đang gấp rút xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc tạo dựng một nền kinh
tế tri thức trên đất nước mình. Tuy nhiên, nước Mỹ được đánh giá có vai trò đầu tàu
và dẫn đầu làn sóng kinh tế tri thức trên thế giới, vượt trội hơn so với các trung tâm
kinh tế lớn khác là EU và Nhật Bản. Các nước EU và Nhật Bản cũng đang học hỏi
và điều chỉnh theo Mỹ. Ngay cả Trung Quốc, một nền kinh tế đang phát triển, cũng
có nhiều công trình nghiên cứu về nền kinh tế tri thức ở Mỹ, về xu thế kinh tế tri
thức đang diễn ra trên toàn cầu. Trong bối cảnh đó, Việt Nam không thể không đổi
mới tư duy kinh tế và rút ra bài học kinh nghiệm từ các nước đi trước để có bước đi
thích hợp với điều kiện kinh tế hiện tại.
1. Đổi mới tư duy kinh tế.
Trong điều kiện hiện nay, Việt Nam nên có cách hiểu bao trùm về khái niệm
kinh tế tri thức. Điều này cũng phù hợp với kinh nghiệm quốc tế do ngày càng có
nhiều nước và tổ chức quốc tế chấp nhận một cách hiểu như vậy. Nếu Việt Nam, một
nước nông nghiệp, lại chọn cách tiếp cận hẹp, tức là coi kinh tế tri thức là nền kinh tế
công nghệ cao, nền kinh tế thông tin, rồi sau đó cố gắng thực hiện nó thì có nguy cơ
tái diễn lại các sai lầm của chiến lược công nghiệp nặng trong quá khứ. Mà thực ra,
chỉ riêng việc đặt vấn đề như vậy cũng đã thể hiện rõ tính bất khả thi của nó. Đối với
Việt Nam, quá trình hướng tới nền kinh tế tri thức có thể được hiểu một cách đơn
giản là một quá trình thay đổi môi trường kinh tế, văn hoá, xã hội để tăng cường và
khuyến khích khả năng hấp thụ và sử dụng các luồng tri thức toàn cầu cũng như xây
dựng, phổ biến các năng lực tri thức nội sinh vì sự phát triển.

91
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Đối với Việt Nam, để xây dựng nền kinh tế tri thức, nhiệm vụ không thể tránh
khỏi vẫn là tiếp tục thực hiện và đẩy mạnh thêm quá trình hoàn thiện các thể chế của
một nền kinh tế thị trường mở cửa, chấp nhận cạnh tranh quốc tế. Điều đó có nghĩa
là chúng ta phải vừa đẩy mạnh cải cách trong nước, vừa phải tích cực tiến hành hội
nhập quốc tế, chủ động tham gia toàn cầu hoá.
Như kinh nghiệm của một số nước đã chỉ ra, công việc khó khăn nhất trong
quá trình tiến tới nền kinh tế tri thức là sự thay đổi về văn hoá. Nhiệm vụ trực tiếp và
quan trọng bậc nhất đối với nước ta hiện nay là phải xây dựng một môi trường văn
hoá chấp nhận đổi mới, rủi ro và yêu thích kinh doanh. Các doanh nghiệp, trong đó
có doanh nghiệp tư nhân phải được thừa nhận như những người đóng góp chủ yếu
cho sự thịnh vượng của xã hội.
Kinh tế tri thức đặt ra các thách thức và nhiệm vụ đối với Nhà nước, khu vực
doanh nghiệp cũng như mỗi người dân. Trong đó, khu vực doanh nghiệp, nhất là các
doanh nghiệp tư nhân có vai trò lớn nhất trong việc hiện thực hoá kinh tế tri thức.
Nhà nước không nên và không thể điều phối quá trình này theo cách tập trung hoá.
2. Phát triển công nghệ thông tin.
Mặc dù công nghệ thông tin có ý nghĩa then chốt đối với nền kinh tế tri thức
theo nghĩa đó là một công cụ tạo khả năng cho sự sinh sản, trao đổi và hấp thụ tri
thức, song công nghệ thông tin không phải là tri thức mà nó chỉ là công cụ để chuyên
chở tri thức và qua đó tăng cường khả năng đóng góp của tri thức vào sự phát triển.
Hiện nay, nhiều phân tích đã chỉ ra bản thân ngành công nghệ thông tin bao gồm
máy tính, phần mềm chưa trở thành và có lẽ ít có khả năng trở thành một ngành kinh
tế chủ lực trong dài hạn bởi vì công nghệ thông tin luôn gắn liền với nội dung mà nó
mang theo. Ví dụ, phần mềm máy tính kế toán chỉ có giá trị nếu như nó chứa đựng
những tri thức chuẩn xác về kinh tế và kế toán. Thêm vào đó, Việt Nam có gần 70%
dân số là nông dân và đại bộ phận sử dụng những công cụ sản xuất cũ, nên công cụ
sản xuất mới và tri thức mới (tin học, sinh học, vật liêu mới) cũng phải tập trung vào
đó để đổi mới công nghệ. Do vậy, một chính sách tập trung ưu tiên phát triển khoa
92
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

học công nghệ mới một cách chung chung là thiếu tính khả thi đối với Việt Nam.
Với điều kiện hiện nay, chúng ta vừa cần phát triển các ngành công nghệ mới vừa
cần tập trung tri thức mới như tin học, sinh học và vật liệu mới vào việc đổi mới
công nghệ của các ngành truyền thống.
Hơn nữa, mọi phát triển và đóng góp của công nghệ thông tin đều không thể
thoát ra khỏi khuôn khổ kinh tế thị trường. Vì vậy, cần tránh quan niệm chủ quan,
duy ý chí dẫn tới tập trung đầu tư một cách phi hiệu quả vào công nghệ thông tin. Ở
mức độ tối thiểu, cần chuyển từ chủ trương phát triển công nghệ thông tin sang chủ
trương rộng hơn là phát triển thương mại điện tử bởi vì thương mại điện tử hiểu theo
nghĩa rộng bao gồm cả kết cấu công nghệ thông tin và các hoạt động kinh doanh dựa
trên kết cấu đó.
3. Phát triển nguồn nhân lực.
Việc tạo ra một lực lượng lao động có trình độ và tay nghề cao là rất quan
trọng và cần thiết cho quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức của Việt
Nam. Trong tương lai, trước xu hướng phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật
và công nghệ thông tin đòi hỏi trình độ của lực lượng lao động phải không ngừng
được nâng cao. Những việc làm cơ bắp và sức lực sẽ ngày càng giảm, thay vào đó là
việc làm trí óc, có hàm lượng tri thức và đòi hỏi kỹ năng ngày càng phổ biến. Trước
tình hình đó, Việt Nam cần coi việc phát triển hệ thống giáo dục theo hướng thích
nghi với những điều kiện của một xã hội tri thức là một trong những ưu tiên hàng
đầu của chính sách phát triển trong thời gian tới. Chính phủ cần có những chính sách
khuyến khích các tổ chức và cá nhân đầu tư vào lĩnh vực giáo dục. Hệ thống giáo
dục hàng năm đào tạo ra hàng chục nghìn sinh viên, nhưng trong số này nhiều người
mới chỉ được đào tạo các kiến thức và kỹ năng hết sức cơ bản. Để khắc phục tình
trạng trên, chúng ta cần bắt đầu tiến hành cơ cấu lại hệ thống giáo dục theo định
hướng thị trường, đáp ứng kịp thời các đòi hỏi mới của thị trường, tránh tình trạng
sinh viên sau khi ra trường không tìm được việc làm do không đáp ứng được các tiêu
chuẩn của công việc.
93
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Một vài học giả nước ngoài đã ví von rằng Việt Nam tiếp cận với nền kinh tế
tri thức giống như cậu học sinh cấp một muốn thi thẳng vào đại học. Sự so sánh trên
bắt nguồn từ lý do nước ta có xuất phát điểm rất thấp so với các nước trong khu vực
và trên thế giới. Tuy không có khả năng sớm tiến thẳng vào nền kinh tế tri thức
nhưng chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng xu thế phát triển dựa trên tri thức để thúc
đẩy nền kinh tế Việt Nam tiến lên. Để làm được điều đó, chúng ta phải nỗ lực tranh
thủ và tiếp thu các thành tựu của xu hướng mới đang diễn ra trên thế giới bằng cách
đẩy mạnh quan hệ với bên ngoài thông qua mậu dịch quốc tế, đầu tư trực tiếp nước
ngoài, mua giấy phép công nghệ nước ngoài, trao đổi chuyên gia; phổ biến nhanh
chóng các thành tựu đó vào càng nhiều khía cạnh kinh tế và xã hội càng tốt, đồng
thời tập trung tạo ra những tiền đề sẵn sàng đảm bảo nắm bắt thành công những cơ
hội sẽ xuất hiện trong tương lai.

94
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Chương III
GIẢI PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG THÀNH CÔNG NỀN KINH
TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM.
I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM.
Đại hội Đảng lần thứ VIII đã quyết định phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá để đến năm 2020, nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Trong
thời gian tới, kinh tế thế giới sẽ có những biến động to lớn không lường trước được,
theo chiều hướng chuyển mạnh sang nền kinh tế tri thức, tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao, khoảng cách giữa các nước giàu nghèo có thể còn gia tăng. Đó là một thách thức
lớn đối với các nước đang phát triển nói chung và với Việt Nam nói riêng. Nếu
không biết tận dụng cơ hội nâng cao năng lực nội sinh, đổi mới cách nghĩ, cách làm,
bắt kịp tri thức mới của thời đại, đi thẳng vào nền kinh tế dựa vào tri thức và công
nghệ cao thì sẽ bị tụt hậu xa.
Tuy nhiên, theo quan điểm của Đảng và Nhà nước thì chúng ta không thể rập
khuôn theo mô hình công nghiệp hoá mà các nước đi trước đã tiến hành. Cũng không
nên hiểu công nghiệp hoá chủ yếu là xây dựng công nghiệp mà phải hiểu đây là sự
chuyển nền kinh tế từ tình trạng lạc hậu, năng suất, chất lượng và hiệu quả thấp, dựa
vào phương pháp sản xuất nông nghiệp, lao động thủ công là chính sang nền kinh tế
có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, theo phương pháp sản xuất công nghiệp,
dựa vào tiến bộ khoa học và công nghệ mới nhất. Như vậy, nền kinh tế tri thức là cơ

95
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

hội quý giá để Việt Nam đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nước ta không
thể chần chừ, bỏ lỡ cơ hội lớn này mà phải đi thẳng vào nền kinh tế tri thức để rút
ngắn khoảng cách với các nước. Vì vậy, công nghiệp hoá ở nước ta phải đồng thời
thực hiện hai nhiệm vụ lớn lao, đó là chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế
công nghiệp và từ kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Hai nhiệm vụ ấy
phải được thực hiện đồng thời, lồng ghép vào nhau, hỗ trợ nhau và bổ sung cho
nhau. Điều đó có nghĩa là phải nắm bắt các tri thức và công nghệ mới nhất của thời
đại để hiện đai hoá nông nghiệp, nông thôn đồng thời phát triển nhanh các ngành
công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức, khoa học và công nghệ, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành kinh tế tri thức. Chúng ta không thể chờ
công nghiệp hoá hoàn thành cơ bản rồi mới chuyển sang nền kinh tế tri thức như các
nước đi trước đã trải qua. Đây là lợi thế của các nước đi sau. Chiến lược phát triển
của chúng ta là chiến lược dựa vào tri thức và thông tin, chiến lược đi tắt đón đầu với
mũi nhọn là công nghệ thông tin.

II. THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC.


1. Thời cơ.
Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, quá trình hình thành kinh tế
tri thức vừa đem lại những cơ hội, đồng thời vừa đặt ra những thách thức không nhỏ.
Thời cơ lớn nhất là thông qua phát triển kinh tế tri thức, chúng ta có điều kiện đi tắt,
đón đầu được công nghệ và tri thức hiện đại, áp dụng ngay vào quá trình phát triển
kinh tế - xã hội. Các công nghệ, tri thức khoa học hiện đại mang đặc điểm là tác
động nhanh chóng, xuyên suốt các lĩnh vực của đời sống xã hội, cho nên có thể tận
dụng các kênh thông tin và mạng Internet để tiếp cận, nắm bắt.
Hơn nữa Việt Nam có một lợi thế là nguồn nhân lực trẻ rất dồi dào, có khả
năng nâng cao trình độ học vấn nhanh. Đây là yếu tố rất quan trọng trong việc xây
dựng nền kinh tế tri thức. Con người Việt Nam vốn đã được rèn luyện, không hề chịu
khuất phục trước bất cứ một thử thách gian nan nào để tồn tại và phát triển. Chỉ có
điều, từ bản lĩnh quật cường chống ngoại xâm chuyển thành bản lĩnh tiến công vào

96
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

nghèo nàn và lạc hậu, từ trí tuệ vận dụng trong chiến tranh “lấy yếu chống mạnh, lấy
ít địch nhiều” chuyển thành trí tuệ chiếm lĩnh khoa học và công nghệ, trí tuệ của
quản lý sản xuất kinh doanh, chiếm lĩnh thương trường và thị trường và thị trường
trong hội nhập kinh tế và cạnh tranh thương mại trong bối cảnh toàn cầu hoá và với
sự phát triển ảnh hưởng mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức đòi hỏi con người Việt
Nam phải dám nhìn lại mình, thấy được những yếu điểm của mình để khắc phục và
rèn luyện.
Báo cáo của Uỷ ban liên hiệp về khoa học - công nghệ vì sự phát triển (1998)
đã khuyến cáo : các nước đang phát triển từ những xuất phát điểm khác nhau đều cần
xây dựng một kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia để phục vụ các mục tiêu phát triển,
hướng tới một xã hội tri thức đổi mới. Chính vì vậy, chiến lược phát triển của nước
ta, không thể nào khác, phải là chiến lược dựa vào tri thức và thông tin, chiến lược đi
tắt đón đầu với những nền kinh tế mũi nhọn. Trước hết là công nghệ tin học và viễn
thông, công nghệ sinh học, công nghệ siêu vật liệu, công nghệ nanô
(nanotechnology). Điều quan trọng là những ngành kinh tế mũi nhọn ấy không đứng
tách biệt và vượt trội, chỉ là mấy ngành tự chúng mang lại hiệu quả cao và lợi ích
nhiều, mà còn phải hơn thế, những ngành mũi nhọn đó phải là động lực thúc đẩy và
thâm nhập vào mọi lĩnh vực hoạt động trên quy mô lan rộng cả nước, mang lại sự
chuyển biến toàn diện, sâu sắc và mạnh mẽ của cả nền kinh tế, tác động trực tiếp và
lâu bền đến sự phát triển xã hội.
Ở đây có một vấn đề lớn đặt ra: Nông thôn Việt Nam với gần 70% cư dân làm
nông nghiệp vẫn đang chiếm một tỷ trọng rất lớn về giá trị sản phẩm và về lao động
trong nền kinh tế, đang hết sức cam go trong vấn đề chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thì vấn đề kinh tế
tri thức được nêu lên có phải là suy nghĩ viển vông không ? Nếu nhìn nhận thật tỉnh
táo và với một tư duy đổi mới và mạnh dạn thì không phải vậy.
Chúng ta không nên quan niệm việc hướng tới nền kinh tế tri thức đi liền với
loại bỏ kinh tế cũ truyền thống. Ngược lại, trong sản xuất và kinh doanh nông
nghiệp, việc sử dụng công nghệ cao được đặc biệt chú trọng, dần dần tiến đến đạt
yêu cầu 70% sản phẩm có hàm lượng tri thức cao thì phải chăng, đó cũng là phương
97
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

hướng tiến tới nền kinh tế tri thức trong hoàn cảnh của nước ta. Ngày nay công nghệ
tin học viễn thông đã được ứng dụng rộng rãi để thiết lập các cơ sở dữ liệu và các
kho thông tin phong phú trong mọi lĩnh vực, mọi cơ quan chỉ đạo và quản lý sản
xuất, mọi doanh nghiệp. Chúng cũng đang được sử dụng tích cực để trợ giúp con
người trong nhiều hoạt động trí tuệ, đặc biệt trong việc tìm kiếm và phát hiện tri thức
để góp vào những quyết định trong kinh doanh, sản xuất. Từ chỗ cung cấp những
thông tin và tri thức kịp thời mà làm tăng khả năng của con người cũng như các tổ
chức trong việc phản ứng nhanh, linh hoạt, thích nghi một cách nhanh chóng và có
thể tự thay đổi trước những biến động khôn lường của môi trường. Điều này có ý
nghĩa lớn đối với nền kinh tế nông nghiệp nước ta.
Hơn nữa, nếu bản chất của nền kinh tế tri thức thể hiện ở chỗ của cải vật chất
có được chủ yếu từ sự nắm bắt những gì chưa biết không phải từ những gì đã biết,
môi trường lý tưởng để nuôi dưỡng cái gì chưa biết chính là sự phát triển nhanh của
việc ứng dụng công nghệ tin học, thì việc có ý thức chủ động đưa dần công nghệ tin
học, viễn thông vào sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn là biểu hiện sự
nhìn xa, trông rộng cần thiết chứ không phải là suy nghĩ viển vông.
2. Thách thức:
Nền kinh tế tri thức không xuất phát từ nhu cầu của các nước nông nghiệp
đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá, những nước
đang phát triển như nước ta. Nhưng trong điều kiện toàn cầu hoá về kinh tế, quá trình
chuyển biến có ý nghĩa toàn cầu từ một nền kinh tế và xã hội công nghiệp sang nền
kinh tế tri thức đang lôi cuốn tất cả mọi quốc gia, trong đó có nước ta, bằng cách này
hay cách khác, tham gia vào dòng chảy của sự chuyển biến đó. Vì chưa có điều kiện
để tham gia một cách thật chủ động nên những thiệt thòi và rủi ro là không thể tránh
khỏi. Nhưng mặt khác, dòng chảy của sự chuyển biến lần này chứa đựng trong nó
những thành tựu to lớn của khoa học và công nghệ, của trí tuệ loài người về kinh tế
xã hội mà chúng có thể khai, tiếp thu, sử dụng để đẩy nhanh sự phát triển, bứt lên
khỏi xuất phát điểm quá thấp hiện nay, đạt tới những mục tiêu mong muốn.
Ở nước ta có một thực trạng là đến nay 92,7% lao động nông nghiệp chưa
được đào tạo nghề, trong đó phụ nữ chiếm đa số và cũng mỗi năm, người lao động
98
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

nông nghiệp có tới từ 5 đến 6 tháng nông nhàn, tức là thất nghiệp và bán thất nghiệp.
Theo báo cáo phát triển con người năm 1999 của UNDP, GDP ngang giá sức mua
đầu người của Việt Nam đứng thứ 133 trong tổng số 174 nước, thuộc nhóm 50 nước
nghèo nhất thế giới. Trong vòng 20 năm tới, dù có đạt tốc độ tăng trưởng cao liên tục
thì Việt Nam cũng chỉ đạt mức GDP đầu người bằng mức của Thái Lan và 2/5 mức
của Malaisia trong thời điểm hiện tại. Như vậy, nền kinh tế Việt Nam đang ở một vị
trí xuất phát rất thấp và còn một khoảng cách xa để bắt kịp các nền kinh tế tiên tiến
trong khu vực và thế giới. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, tỉ trọng nông
nghiệp của nước ta năm 1986 chiếm 41% GDP và thu hút khoảng 74% lao động,
năm 1998 còn chiếm xấp xỉ 25% GDP và thu hút khoảng 70% lao động. Đó là một tỷ
trọng quá cao và tốc độ chuyển giảm quá thấp. Điều này cho thấy tốc độ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ở nước ta diễn ra quá chậm so với tiến hành của những nước đã phải
trải qua thời kỳ công nghiệp hoá như nước ta. Ví như Hàn Quốc vào đầu thập niên
60, tức là vào thời điểm bắt đầu công nghiệp hoá, tỷ trọng nông nghiệp chiếm
khoảng 40% GDP và trên 50% lao động thì giữa thập niên 80 giảm xuống còn
khoảng 10 – 15% GDP và từ 10- 20% trong lao động xã hội, đến năm 1998 thì chỉ
còn 4,8% trong GDP và 9% trong lao động xã hội. Như vậy trong 30 năm, Hàn Quốc
đã giảm tỷ trọng nông nghiệp trong nền kinh tế của họ đạt tới cái chuẩn để trở thành
một nước công nghiệp. Hoặc như Malaixia, trong vòng 20 năm, từ năm 1976 đến
năm 1997, tỷ trọng giá trị sản phẩm nông nghiệp từ 26,8% giảm xuống còn 12,1%.
Cũng trong thời gian ấy, Indônêxia từ 29,7% giảm xuống còn 16%, Philippin từ
29,3% giảm xuống còn 18,7%. Còn ta, từ 48,6% giảm xuống còn 26,2%, tức là tỷ
trọng giá trị sản phẩm nông nghiệp trong GDP của nước ta vẫn ở mức cao nhất và
tốc độ giảm chậm nhất.
Những con số đó nói lên điều tất yếu trước mắt là Việt Nam phải bằng cách
này hay cách khác tìm ra con đường để bứt lên. Nếu không bứt lên thì nguy cơ bị gạt
ra khỏi xu thế của sự phát triển hoặc bị nhấn chìm trong quá trình toàn cầu hoá
không phải là không thể xảy ra. Bứt lên bằng cách nào nếu không muốn nói đó chính
là sự nhanh nhạy nắm bắt những thành tựu tiên tiến nhất của khoa học và công nghệ
để cố gắng vận dụng vào thực tiễn của ta, tạo ra những buớc đột phá trong quá trình
99
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, nâng cao
chất lượng, hiệu qủa của nền kinh tế, tạo sự cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh
tế khu vực và thế giới. Quá trình ấy cũng chính là quá trình tiếp cận với nền kinh tế
tri thức, chuẩn bị những điều kiện để đón nhận và tham gia vào một thực tế vô cùng
sinh động và hấp dẫn của thế kỉ XXI, đồng thời cũng là sự thách đố nghiệt ngã đối
với con người Việt Nam trước thềm thiên niên kỷ mới.

Khi nói đến việc chủ động hội nhập vào nền kinh tế tri thức toàn cầu hoá, điều
trước hết là phải cập nhật được với những quan niệm mới, ý tưởng mới về quản lý
sản xuất kinh doanh, quản lý xã hội, tổ chức các hoạt độngcủa con người đang vận
hành guồng máy kinh tế xã hội đó. Để cập nhật được những cái mới đó, thì việc hết
sức cần thiết lại là nhận thức cho rõ và khắc phục bằng được những nhược điểm cố
hữu của “con người tiểu nông”, sản phẩm của nền kinh tế cổ truyền lạc hậu vẫn tiềm
tàng dai dẳng đang là trở ngại cho sự phát triển.

Người Việt Nam hiện nay mắc phải nhược điểm trọng danh hơn thực, một ví
dụ hiển hiện là tệ mua bán, làm giả điểm, bằng cấp, xin học hàm, chạy học vị. Ngày
nay người ta học để lấy bằng nhiều hơn là học để biết, để có tri thức phục vụ Tổ
quốc; chỉ biết con đường tiến thân duy nhất cho riêng mình qua con đường thi cử, chỉ
thích làm thầy, mặc dù là thầy dốt, mà không chịu làm thợ, dù là thợ giỏi. Cho nên
có hiện tượng lạm phát bằng cấp, học vị nhưng lại thiếu trầm trọng những nhà quản
lý, nhà doanh nghiệp có năng lực, biết điều hành và tổ chức hoạt động sản xuất kinh
doanh, quản lý các hoạt động xã hội. Hiện tượng thừa thầy thiếu thợ có lẽ là một
minh chứng khá tiêu biểu cho tâm lý nói trên, số thạc sĩ, tiến sĩ, thực tập sinh được
đào tạo trong những năm gần đây nhiều gấp đôi công nhân có tay nghề.

Tóm lại có thể nhìn nhận một cách khách quan những nhược điểm cố hữu
trong quan niệm của người Việt Nam là: chậm đổi mới, không có thói quen tính toán
hiệu quả, thiếu đầu óc thực tế, lại ham chuộng hình thức, chạy theo hư danh viễn
vông, kém khả năng và kinh nghiêm hợp tác, góp sức cùng nhau thực hiện một mục
tiêu, một kế hoạch lớn, cho nên ít xây dựng được ê-kíp mạnh về một lĩnh vực nào đó,
thường chỉ có nhiều cá nhân giỏi làm việc riêng lẻ mà không hợp lại thành tập thể

100
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

hùng mạnh xuất sắc. Tất cả những nhược điểm trên đều sẽ trở thành những lực cản
không cho phép ta tiến nhanh.

Chỉ ra những đặc điểm cả con người tiểu nông đối diện với thách thức mới
không hề làm ảnh hưởng đến tính tự tôn dân tộc, ngược lại, chính vì để cho niềm tự
hào Việt Nam không bị mai một trước một thế giới đang biến động dữ dội, phải dám
có tinh thần tự chỉ trích, tự phê bình để có thể thích nghi được với thách thức mới đó.
Không vượt qua chính mình, không thể đến được với nền kinh tế tri thức. Có lẽ vì
chưa vượt qua được chính mình cho nên trên nhiều lĩnh vực, nền kinh tế nước ta vẫn
giẫm chân mãi ở tình trạng ngheo thông tin và tri thức, chưa có sự bứt phá để vươn
lên so với khu vực và thế giới .

III. GIẢI PHÁP ĐỂ XÂY DỰNG THÀNH CÔNG NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở
VIỆT NAM.
Trong thời điểm hiện nay, Việt Nam không thể rập khuôn bất cứ một mẫu hình
của quốc gia nào trong quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức. Những bản sắc
riêng biệt của môi trường kinh tế – văn hoá - xã hội của Việt nam quy định những
đặc điểm riêng biệt của Kinh tế tri thức ở Việt Nam. Để có thể hoạch định chiến
lược, xác định các công việc cụ thể, Việt nam cần phải có những nghiên cứu sâu sắc
về các điểm mạnh và yếu của đất nước trong bối cảnh nền kinh tế tri thức, trong bối
cảnh các lợi thế so sánh không còn xuất phát từ các nguồn lực vật thể mà còn xuất
phát chủ yếu từ tri thức, từ kỹ năng của con người.
Tuy nhiên, bước chuyển sang nền kinh tế tri thức của các nước trên thế giới
đều thực hiện các công việc sau:

 Mỗi nước cần có một kế hoạch, một chiến lược tổng thể về phát triển
nền kinh tế tri thức. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, Nhà nước luôn có một vai trò tối
quan trọng để khởi xướng và thúc đẩy những mầm móng của nền kinh tế tri thức.
Trong thời gian tới, Việt Nam cần nhanh chóng phải có một chiến lược hoặc một tầm
nhìn tổng quan cho quá trình biến môi trường kinh tế – xã hội của đất nước trở nên
thân thiện hơn với sự đổi mới, sáng tạo và hấp thu tri thức trong và ngoài nước.
101
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Chiến lược phát triển kinh tế tri thức không phải là chiến lược về công nghệ cao hay
một chiến lược về công nghệ thông tin và liên lạc viễn thông. Nếu không có một môi
trường kinh tế xã hội phù hợp thì những khoản đầu tư, mua sắm khổng lồ dành cho
công nghệ cao ở một nước đang phát triển như Việt Nam ở mức tối đa cũng chỉ có
thể hình thành một vài ốc đảo công nghệ cao chứ không thể phát triển kinh tế – xã
hội một cách toàn diện. Thay vào đó, mục tiêu phát triển hướng tới kinh tế tri thức là
tăng cường việc sử dụng hữu hiệu mọi tri thức trong nền kinh tế – xã hội. Điều này
đòi hỏi phải có sự tương tác tốt hơn giữa các chính sách, thể chế, công nghệ , người
dân và Chính phủ. Chiến lược này sẽ mang tri thức tới mọi người, từ những người
nông dân cho đến các nhà khoa học, từ doanh nghiệp cho đến Chính phủ để có được
sự phát triển bền vững.
 Về dài hạn, cần phải phát triển các kết cấu hạ tầng tối cần thiết về công
nghệ thông tin và nguồn nhân lực của kinh tế tri thức. Nhà nước cần can thiệp cải
cách mạng mẽ hơn hai lĩnh vực then chốt của kinh tế tri thức, đó là giáo dục và
nghiên cứu khoa học. Thất bại trong lĩnh vực này sẽ dẫn đến sự phát triển chậm
trong tất cả các lĩnh vực khác. tuy nhiên, mọi sự can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực
này đều phải dựa trên định hướng thị trường và có sự tham gia của người dân và khu
vực tư nhân.
 Hầu hết các chiến lược hướng về kinh tế tri thức của các nước đều cho
thấy sự nhấn mạnh vào “tinh thần kinh doanh”. Tuy nhiên, các biện pháp và chính
sách thiết yếu để xây dựng kinh tế tri thức này hiện chưa được quan tâm thích đáng
tại Việt Nam. Để từng bước xây dựng kinh tế tri thức, chúng ta không thể không xây
dựng một văn hoá “tinh thần kinh doanh” rộng khắp.

Sau đây, tác giả xin đề xuất một số giải pháp dựa trên sự nghiên cứu bước
chuyển sang nền kinh tế tri thức của các quốc gia trên thế giới, các chính sách và
biện pháp tiến hanh của các nước đi trước nhằm từng bước xây dựng và phát triển
nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
1. Tiếp tục đổi mới quản lý xã hội.
102
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Tăng cường sử dụng tri thức phục vụ phát triển đòi hỏi phải có một cơ chế
quản lý xã hội phù hợp nhằm tạo ra môi trường khích thích kinh tế hướng đầu tư vào
tri thức và khai thác một cách có hiệu quả tri thức cho phát triển kinh tế - xã hội.
Điều này đòi hỏi Việt Nam trước hết cần phải kết thúc nhanh sự chuyển từ nền kinh
tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
quá trình chuyển đổi cần chú trọng đổi mới và hình thành các thể chế cần thiết cho
việc vận hành có hiệu quả cơ chế kinh tế thị trường và có khả năng thích ứng nhanh
nhạy với những thay đổi của toàn cầu nhằm phát huy lợi thế so sánh, hình thành và
phát triển lợi thế cạnh tranh, đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững.
Đổi mới quản lý xã hội phải bao hàm những nội dung chủ yếu sau:
 Xác định lại một cách rõ ràng hơn vai trò của Nhà nước trong nền kinh
tế thị trường theo hướng vừa mở rộng tối đa cho thị trường phát huy tác dụng trong
huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực cho phát triển vừa đảm bảo sự
điều tiết hữu hiệu của Nhà nước.
Trước hết, cần hoàn thiện khung pháp lý và thể chế cho huy động mọi nguồn
lực phục vụ phát triển. Môi trường kinh doanh phải mang tính cạnh tranh lành mạnh
và trở thành động lực cho sự phát triển trên cơ sở tạo cơ hội bình đẳng cho mọi thành
phần kinh tế, trong đó khu vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển của đất nước.
Thứ hai, cần điều chỉnh vai trò kinh tế của Nhà nước, trực tiếp là vai trò của
khu vực doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Vai trò của kinh tế Nhà
nước thông qua doanh nghiệp nhà nước cần được tập trung một cách thích đáng vào
những lĩnh vực lựa chọn cảu nền kinh tế như kết cấu hạ tầng. Quản lý vốn của Nhà
nước tại các doanh nghiệp Nhà nước cần phải tăng cường một cách chặt chẽ hơn.
Thứ ba, cần cải thiện dịch vụ công về cả số lượng và chất lượng. Trước hết,
phải đổi mới một cách sâu sắc hệ thống giáo dục đào tạo và y tế thông qua việc mở
rộng sự tham gia đầu tư của mọi thành phần kinh tế, trong đó có khu vực tư nhân,

103
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

tăng cường đầu tư và quản lý vốn đầu tư của Nhà nước trên mọi lĩnh vực, nâng cao
chất lượng dịch vụ và hiện đai hoá hệ thống giáo dục đào tạo và y tế.
Thứ tư, cần đổi mới bộ máy hành chính Nhà nước theo hướng tinh giản nhưng
nâng cao hiệu quả của bộ máy Nhà nước, đảm boả cơ chế thị trường hoạt động hiệu
quả, hạn chế tình trạng quan liêu, cửa quyền và tham nhũng.
 Khuyến khích phát triển và phát huy vai trò của các tổ chức xã hội như
công đoàn, các tổ chức nghề nghiệp, các tổ chức xã hôi phi lợi nhuận nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho mọi người dân tham gia ngày càng tích cực và trực tiếp vào quản
lý xã hội.
 Tiếp tục đẩy mạnh mở cửa nền kinh tế và mở cửa xã hội, hội nhập với
khu vực và thế giới trên tinh thần chủ động, tiếp thu tinh hoa của thế giới và phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc. Ngoài ra, cần đẩy mạnh trao đổi thương mại với thế giới
trong bối cảnh tự do hoá thương mại toàn cầu, thu hút tối đa FDI và mở cửa vững
chắc cho đầu tư nước ngoài phù hợp với khả năng kiểm soát và điều tiết tài chính của
Nhà nước. Song song với việc tiếp tục mở rộng hợp tác song phương, cần chủ động
chuẩn bị và tham gia tích cực vào các cơ chế hợp tác đa phương để không những bảo
vệ mà còn nâng cao lợi ích quốc gia trong cuộc tranh đua phát triển ngày càng gay
gắt hơn.
 Củng cố và phát huy thông tin đại chúng như là sự phản ánh nhu cầu và
nguyện vọng của xã hội, là một kênh thể hiện quyền lực của nhân dân trong một nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời là kênh truyền tải thông tin
và tri thức cho người dân vì sự phát triển.
2. Xây dựng kết cấu hạ tầng công nghệ – thông tin hiện đại.
Cơ sở hạ tầng thông tin – viễn thông quốc gia là một yếu tố cực kỳ quan trọng
tạo tiền đề để thu hẹp khoảng cách tri thức và phát triển giữa các quốc gia và trong
một nước.
 Hiện trạng cơ sở hạ tầng thông tin – viễn thông Việt Nam.

104
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Mạng viễn thông: Nhờ chính sách khuyến khích đổi mới và hiện đại hoá công
nghệ trong ngành viễn thông ngay từ đầu những năm 1990, Việt Nam đã nhanh
chóng xây dựng được một mạng viễn thông tương đối hiện đại, gồm các hệ thống
truyền dẫn đường trục quan trọng dọc theo đất nước, mạng điện thoại cơ bản đã được
số hoá.
Internet được chính thức hoạt động từ tháng 11 năm 1997, tuy nhiên, Internet
ở Việt Nam phát triển chậm hơn so với mặt bằng khu vực vì giá cược truy cập còn
cao, thiếu cơ sở pháp lý cho những giao dịch trên mạng, tốc độ đường truyền còn
chậm và dịch vụ này nhìn chung còn khá mới mẻ với quảng đại quần chúng.
Bảng 7: So sánh giá cước viễn thông của Việt Nam và các nước
Loại hình viễn thông Đơn vị tính Thái Lan Trung Quốc Việt Nam
Điện thoại di động USD/tháng 33,04 35,67 47,69
Điện thoại quốc tế USD/Phút 0,857 0,875 1,870
Đường Internet 64K USD/tháng 879 1,248 1,446
Nguồn: Báo tuổi trẻ, thứ tư, ngày 21/8/2002, trang 3
Khai thác dịch vụ: chưa khai thác và sử dụng hết các loại hình dịch vụ rất
phong phú của các hệ thống chuyển mạch số hiện có và chưa phổ cập rộng rãi tới
khách hàng. Dịch vụ truyền số liệu với tốc độ thấp nhưng không có khả năng nâng
cấp cho các dịch vụ băng rộng. Dịch vụ thông tin còn hạn chế.
Về chính sách, hiện nay đã có nhiều cải tiến nhưng nhìn chung các dịch vụ
thông tin còn hạn chế trong khu vực Nhà nước. Nhà nước nắm độc quyền phát triển
và khai thác mạng thông tin liên lạc, nắm quyền sở hữu hoàn toàn các mạng thông
tin liên lạc, nắm quyền kiểm soát các gateway, nắm quyền định giá cước thống nhất.
Do vậy, giá cước dịch vụ nói chung còn khá cao so với các nước trong khu vực, làm
hạn chế lượng người và thời gian sử dụng. Cho đến nay thì chưa có những chính
sách và thiếu khung pháp lý và chính sách cho sự tham gia cảu các thành phần kinh
tế vào việc phát triển cơ sở hạ tầng thông tin viễn thông.
 Định hướng phát triển công nghệ thông tin và viễn thông đến năm 2010.
105
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Tạo lập môi trường toàn xã hội cần đến thông tin – tri thức và sử dụng công
nghệ thông tin, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tiếp cận và sử
dụng thông tin như một tài nguyên quan trọng nhất để nâng cao tri thức và cải thiện
chất lượng sống.
Ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ phát triển kinh tế, đặc biệt là việc tin
học hoá nhanh và có hiệu quả các dịch vụ tài chính – ngân hàng, xây dựng và phát
triển thương mại điện tử.
Hiện đại hoá, liên kết các mạng trong nước trên cơ sở công nghệ viễn thông
tiên tiến. Xây dựng và phát triển ngành công nghiệp công nghệ phần mềm tin học
như một ngành kinh tế kỹ thuật mũi nhọn, có tính chiến lược và định hướng xuất
khẩu.
Tạo ra và cung cấp các dịch vụ viễn thông, đặc biệt là các dịch vụ Internet, có
chất lượng và giá cả cạnh tranh thông qua việc tạo điều kiện để các thành phần kinh
tế khác nhau từng bước được tham gia cung cấp các dịch vụ viễn thông và thông tin.
 Phát triển cơ sở hạ tầng thông tin – viễn thông quốc gia.
Về phát tiển hạ tầng truyền thông và Internet, xây dựng và phát triển mạng
viễn thông công cộng tiên tiến, hiện đại có dung lượng, tốc độ, tính hiệu quả, độ an
toàn và chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội đất nước.
Thực hiện cáp quang hóa trên cơ sở công nghệ SDH, tiếp tục xây dựng mới và
mở rộng các tuyến cáp quang liên tỉnh, phấn đấu dến năm 2005 đạt 100% các tuyến
truyền dẫn liên tỉnh bằng cáp quang.
Mở rộng diện phục vụ, phát triển viễn thông nông thôn cho các vùng sâu, vùng
xa, không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ. Tiếp tục mở rộng phạm vi phủ sóng
cho hệ thống thông tin di động tới các huyện, thị trên toàn quốc. Phát triển mạnh các
dịch vụ đa phương tiện, dịch vụ băng rộng ở một số tỉnh thành phố lớn.
Tăng cường các biện pháp nhằm phổ biến rộng rãi dịch vụ Internet trong toàn
dân. Điều chỉnh giá tính cước Internet theo hướng đảm bảo cạnh tranh và ở mức

106
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

trung bình trong khu vực. Ban hành các chính sách và quy chế chính thức về kinh
doanh và sử dụng dịch vụ Internet.
Về xây dựng các cơ sở dữ liệu và hệ thống thông tin điện tử quốc gia, trong
giai đoạn từ nay đến 2010, tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia mang tính
chiến lược nhằm phục vụ các nhu cầu quản lý Nhà nước và các nhu cầu về thông tin
của nhân dân. Ngoài những cơ sở dữ liệu quốc gia, cần đẩy mạnh xây dựng các cơ sở
dữ liệu ngành, doanh nghiệp và các hệ thống thông tin khác. Đồng thời xây dựng các
thư viện quốc gia, các trung tâm thông tin – tư liệu của Trung ương và thành phố lớn
thành các điểm truy cập tới các siêu lộ thông tin quốc gia và toàn cầu. Từng bước áp
dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của Chính phủ théo mô hình Chính phủ điện
tử.
Về xây dựng và hoàn thiện chính sách và thể chế, mở rộng từng bước cho cạnh
tranh trong việc cung cấp các dịch vụ viễn thông và tiến tới xoá bỏ hạn chế đối với
các dịch vụ đường dài và quốc tế.
Ban hành các chính sách và cơ chế để tạo thuận lợi cho việc trao đổi thông tin,
đặc biệt là các dịch vụ thông tin trên mạng; có các chính sách hỗ trợ để phổ cập các
dịch vụ viễn thông đến đông đảo công chúng, hỗ trợ về cước phí cho các trường học,
tổ chức nghiên cứu phát triển.
Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn, quy chế quản lý; ban hành các tiêu chuẩn về
mạng và thiêt bị để thuận lợi cho việc kết nối; ban hành các quy chế để có thể dễ
dàng tiếp cận các dịch vụ thông tin, các nguồn cung cấp thông tin của Nhà nước và
phát triển thương mại điện tử.
Tóm lại, công nghệ thông tin là chìa khoá để đi vào nền kinh tế tri thức. Muốn
rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, rút ngắn khoảng cách với các nước
phát triển, chúng ta cần phải khắc phục khoảng cách về công nghệ thông tin. Đến
năm 2010, trình độ công nghệ thông tin nước ta phải đạt đến mức tiên tiến trong khu
vực mà hiện nay đang còn tụt hậu khá xa. Điều này đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực rất

107
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

lớn và với tiềm năng trí tuệ của dân tộc và có những chính sách và cơ chế phù hợp,
nhất định chúng ta sẽ đạt đạt được mục tiêu.
3. Đầu tư vào giáo dục - đào tạo để phát triển nguồn nhân lực.
3.1. Định hướng phát triển giáo dục và đào tạo gắn với nhu cầu về tri thức.
Giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu nhằm phát triển nguồn
nhân lực phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và phát triển xã hội nói chung. Giáo dục và đào tạo vừa phải đáp ứng yêu cầu
trước mắt của nền kinh tế dựa trên tài nguyên là chủ yếu, vừa phải chuẩn bị và hướng
tới nền kinh tế tri thức. Điều đó có nghĩa là Việt Nam phải phổ cập giáo dục cơ bản,
tăng cường dạy nghề và đồng thời phải chuẩn bị ngay điều kiện cho việc hình thành
một nền giáo dục suốt đời, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân được tiếp tục học tập suốt
đời để bắt kịp với hững thay đổi nhanh chóng trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội
nhập.
Để đáp ứng được nhiệm vụ nêu trên, phải tiến hành đổi mới giáo dục và đào
tạo với trọng tâm là nâng cao chất lượng của người học để đáp ứng những yêu cầu
phát triển mới, bao gồm trang bị những tri thức mới, hiện đại, khả năng vận dụng
những tri thức đó vào thực tiễn, khả năng sáng tạo trong công việc, năng động và
dám đương đầu với rủi ro.
3.2. Những chính sách và biện pháp phát triển giáo dục và đào tạo.

Thứ nhất, đẩy mạnh huy động mọi nguồn lực cho phát triển giáo dục đào tạo.
 Thực hiện đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triển, Nhà nước
cần ưu tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, bảo đảm tỷ lệ ngân sách
Nhà nước chi cho giáo dục tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục.
Muốn phát triển nền giáo dục Việt Nam hiện đại, tiên tiến thì ngân sách chi cho giáo
dục phải đạt mức cao hơn. Ở nhiều nước châu Á, ngân sách chi cho giáo dục cao hơn
ngân sách chi cho quốc phòng như Singapore, do vậy, nền giáo dục của họ nhanh
chóng tiếp cận với các công nghệ giáo dục hiện đại trên thế giới và chất lượng giáo
dục được nâng lên.
108
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

 Xây dựng và thực thi các chính sách khuyến khích nhằm huy động các
nguồn tài chính ngoài ngân sách Nhà nước phục vụ cho phát triển giáo dục, đặc biệt
khuyến khích các doanh nghiệp tham gia đào tạo nghề. Ở Việt Nam, mức chi cho
giáo dục còn thấp, Nhà nước cần có những chính sách đầu tư cho giáo dục bằng cách
tạo ra môi trường pháp lý để thu hút vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài. Cần tranh thủ
sự hợp tác hỗ trợ song phương và đa phương, đẩy mạnh việc vay vốn từ các ngân
hàng, từ nguồn vốn ODA, đồng thời có chủ trương phát hành các cổ phiếu, đầu tư
vốn 100% vốn nước ngoài nhằm thu hút vốn đầu tư cho giáo dục. Bằng cách đó, áp
lực về ngân sách chi cho giáo dục đào tạo có thể giảm. Tuy nhiên, có nguồn vốn đầu
tư cho giáo dục đào tạo là quan trọng nhưng việc phân bổ, sử dụng nó sao có hiệu
quả lại càng quan trọng hơn. ở đây cần xét đến các mục tiêu ưu tiên, các đối tượng và
các vùng được ưu tiên được nêu ra trong chiến lược phát triển giáo dục đào tạo dài
hạn và điều chỉnh cơ cấu phân bố ngân sách hợp lý.
Thứ hai, nâng cao chất lượng giáo dục. Chất lượng giáo dục là khâu quan
trọng của hệ thống giáo dục. So với các nước trong khu vực, Việt Nam chưa có
trường đại học đạt tiêu chuẩn đào tạo chất lượng cao. Trong điều kiện của nước ta
hiện nay thì nên tập trung đầu tư cho một số trường trọng điểm ở những thành phố
lớn và những khu vực phát triển kinh tế. Công nghệ giáo dục, đào tạo hiện nay luôn
đổi mới, cần ứng dụng các công nghệ hiện đại đó vào quá trình đào tạo, thay đổi lối
dạy truyền thống theo kiểu nhồi nhét kiến thức bằng việc phát huy tính sáng tạo và
chủ động của người học, sử dụng máy tính trong đào tạo một cách phổ cập để khai
thác tri thức bên ngoài.

Thứ ba, điều chỉnh cơ cấu đào tạo cho phù hợp với quá trình phát triển kinh tế
– xã hội trong thời gian tới. Để tránh lãnh phí nguồn lực qua đào tạo, Bộ giáo dục
đào tạo cần bám sát yêu cầu của thị trường lao động và mục tiêu phát triển để giao
chỉ tiêu đào tạo cho từng trường. Điều chỉnh cơ cấu đào tạo là công việc phải làm
thường xuyên, chứ không phải khi nhìn thấy hậu quả của sự mất cân đối cơ cấu đào
tạo, thấy phản ứng tiêu cực của thị trường lao động mới điều chỉnh. Trong thời kỳ
109
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì lực lượng lao động khoa học công nghệ cần phải
được đào tạo gấp. Trong nhiều năm ở Việt Nam, các thí sinh chủ yếu thi vào các
ngành kinh tế, do đó các trường đại học kỹ thuật và khoa học tự nhiên gặp nhiều khó
khăn trong công tác đào tạo, hậu quả là lực lượng lao động khoa học công nghệ thiếu
và yếu về chất lượng.

Thứ tư, tạo điều kiện bình đẳng tiếp cận giáo dục đào tạo đối với các vùng khó
khăn và người nghèo. Vấn đề công bằng trước các cơ hội giáo dục phải được đặt ra.
Sự chênh lệch về mức độ phát triển giữa nông thôn và thành thị dẫn tới yêu cầu cần
đầu tư mức cao hơn cho giáo dục ở nông thôn. Ở Việt Nam cũng như nước ngoài,
nhiều nhà khoa học nổi tiếng và có đóng góp to lớn đối cho nền khoa học và công
nghệ thế giới lại xuất thân từ nông thôn hay không được hưởng cơ hội giáo dục
chính quy mà kiến thức có được phải qua con đường tự học. Cho nên, quyền bình
đẳng trước các cơ hội được giáo dục không thể bị xem nhẹ. Vấn đề đặt ra là Nhà
nước cần phải có các chính sách hỗ trợ học sinh nghèo học giỏi.
Thứ năm, đa dạng hóa hình thức giáo dục. Trong những năm qua, Việt nam đã
mở rộng hình thức giáo dục bằng cách cho phép thành lập các trường dân lập ở các
cấp học từ phổ thông đến đại học. Ở nước ngoài, trường tư thục là chủ yếu, Nhà
nước chỉ tập trung hỗ trợ cho một số trường công nhưng cơ sở vật chất giữa trường
công và trường tư đạt tiêu chuẩn hiện đại như nhau, chất lượng giáo dục giữa trường
công và trường tư không chênh lệch lớn. Thậm chí, một số trường tư được đánh giá
cao về chất lượng đào tạo và có uy tín trong nước và quốc tế. Còn ở Việt Nam, sự
chênh lệch giữa trường công và trường tư là khá lớn, rất ít các trường dân lập có đầy
đủ cơ sở vật chất và thiết bị giảng dạy, chất lượng đào tạo của trường dân lập còn
thua kém so với các trường công lập. Cho phép mở các trường dân lập là một chủ
trương đúng đắn, mở nhiều trường dân lập sẽ tạo cơ hội cho nhiều người được tiếp
cận với nền giáo dục và nâng cao tri thức, thắt chặt quy mô đào tạo giáo dục là một
giải pháp không hợp lý trong nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, mở đến mức nào, bao
nhiêu trường và chất lượng ra sao thì cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng. Ở Việt nam hiện
110
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

nay, các trường dân lập đều không có mặt bằng, phải đi thuê phòng học, mất đi môi
trường sư phạm cần thiết, thiết bị giáo dục lạc hậu, phòng học chật chội, không đủ
điều kiện dạy và học và chắc chắn chất lượng giáo dục bị ảnh hưởng.
Đã đến lúc phải đặt ra các tiêu chuẩn nghiêm ngặt cho việc thành lập các
trường dân lập, từ phổ thông cho tới cao đẳng, đại học. Các tiêu chuẩn cần chú ý tới
là cơ sở vật chất, nhất là cơ sở hạ tầng, cảnh quan sư phạm, đội ngũ giáo viên,
chương trình và chất lượng đào tạo nhằm hình thành nên một hệ thống trường học
các cấp có chất lượng và hiệu quả, nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt
nam trong 10 năm tới.

Thứ sáu, đổi mới giáo dục đại học theo hướng nâng cao chất lượng đào tạo và
gắn kết giữa giảng dạy, nghiên cứu và sản xuất, đáp ứng nhu cầu xã hội.
 Nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học và cao đẳng. Tiến
hành đáng giá phân loại các trường đại học, xây dựng một số trường đại học trọng
điểm chất lượng cao, có uy tín trong khu vực; nâng cấp và từng bước tiêu chuẩn hoá
đội ngũ giảng viên trong các trường đại học; cải cách mạnh mẽ việc tuyển sinh đại
học và cao đẳng; tăng cường các điều kiện học tập trong các trường đại học và cao
đẳng, trước hết là ở các trường trọng điểm về cung cấp đầy đủ tài liệu, thiết bị, nâng
cấp thư viện, phòng thí nghiệm, có cơ sở thực hành; nhanh chóng áp dụng công nghệ
thông tin để cải tiến cách dạy, cách học, xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin trong
trường học để mở rộng trao đổi thông tin.
 Kết hợp hai chức năng đào tạo và nghiên cứu khoa học, tăng cường cơ
sở vật chất thiết bị nghiên cứu khoa học, thông tin khoa học và công nghệ cho các
trường đại học, cao đẳng; tăng cường đầu tư kinh phí nghiên cứu khoa học cho các
trường đại học; ban hành quy chế thúc đẩy hoạt động nghiên cứu như cân đối giữa
thời gian nghiên cứu và giảng dạy.
 Gắn kết đào tạo, nghiên cứu với sản xuất kinh doanh, khuyến khích liên
kết giữa trường và doanh nghiệp trong hỗ trợ đào tạo và ứng dụng kết quả nghiên

111
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

cứu; cho phép thành lập doanh nghiệp trong trường và mở trường trong doanh
nghiệp lớn nhằm thúc đẩy việc đào tạo và áp dụng kết quả nghiên cứu trong sản xuất.

Thứ bảy, tăng cường giáo dục trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
 Mở rộng mạng lưới các trường trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đặc
biệt là các trường gắn với địa bàn dân cư, đào tạo theo các ngành nghề thích hợp với
lao động ở địa phương. Đa dạng hoá các loại hình trường đào tạo nghề, gồm cả dài
hạn và phát triển mạnh đào tạo nghề ngắn hạn, đặt biệt ở nông thôn để thực hiện đưa
tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất và chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông
nghiệp sang các ngành nghề khác. Tiến hành xây dựng một số trường trung học
chuyên nghiệp trọng điểm trong một số ngành và ở một số địa phương..
 Gắn kết quá trình đào tạo ở nhà trường với đào tạo tại các doanh nghiệp,
cải tiến quá trình giảng dạy, thực hiện đào tạo học vấn và kỹ năng cơ bản tại trường
và kỹ năng chuyên nghiệp tại cơ sở sản xuất kinh doanh. Tăng cường các môn học
cần thiết trong nền kinh tế mới như tin học và ngoại ngữ.
 Đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy, tăng cường số lượng và chất lượng
đội ngũ giáo viên trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.
Thứ tám, có chính sách sử dụng người lao động đã qua đào tạo. Sự méo mó về
thi trường lao động như hiện nay đang có sự ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng và
hiệu quả giáo dục. Ở nước ngoài, các đơn vị tuyển dụng lao động không hề có sự
phân biệt trường, các ứng cử viên nếu đủ điều kiện sẽ được nhận vào làm việc. Tuy
nhiên, những sinh viên học tại các trường danh tiếng sẽ được ưu tiên hơn, nhưng
điều đó không quyết định tất cả. Còn tại Việt Nam, trong ý nghĩ của hầu hết mọi
người thì trường dân lập có chất lượng kém hơn trường công lập, người tốt nghiệp từ
một trường đại học dân lập chắc chắn kém ưu thế hơn so với một người tố nghiệp từ
một trường công lập. Ngoài ra, việc xét tuyển vào một số cơ quan Nhà nước tuy có
thi cử công khai song thực chất việc xét tuyển chỉ là hình thức và nội bộ. Điều này đã
tác động tiêu cực đến chất lượng giáo dục trong mấy năm qua. Giáo dục đào tạo là
một cơ chế để phát hiện và chọn lọc tài năng, nhưng chính sách sử dụng lao động
112
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

hiện nay đang làm triệt tiêu các động cơ học tập. Chính vì vậy, trong thời gian tới,
Việt Nam cần có những điều chỉnh cần thiết về việc sử dụng người lao động qua đào
tạo như: tạo sự công bằng trong tuyển dụng, không để tình trạng “con ông cháu cha”,
không phân biệt người được đào tạo từ trường công hay trường dân lập, có chính
sách ưu tiên và trọng dụng người có tài.
4. Tăng cường hệ thống đổi mới quốc gia để sử dụng có hiệu quả tri thức phục vụ
phát triển.
 Vai trò của Nhà nước.
Đổi mới môi trường kinh tế – xã hội, tạo lập khuôn khổ pháp lý nhằm thúc đẩy
mối liên kết giữa các tổ chức, cá nhân để thực hiện đổi mới.
Xác định lại chức năng quản lý vĩ mô mà không thu hẹp vai trò của Nhà nước.
Nhà nước tạo môi trường pháp lý, thể chế hữu hiệu cho việc lưu thông tri thức và
công nghệ; kích thích, thúc đẩy đổi mới thông qua các chính sách vĩ mô.
Tạo động lực kích thích đổi mới thông qua cạnh tranh. Phát triển kinh tế thị
trường, xây dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế khác
nhau, từng bước hạn chế độc quyền, khuyến khích xuất khẩu nhằm tạo áp lực đối với
các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm đáp ứng yêu cầu của
thị trường.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ và sở hữu
công nghiệp để khuyến khích đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ vào Việt
Nam và khuyến khích chuyển giao công nghệ từ các kết quả nghiên cứu và phát triển
trong nước cho các doanh nghiệp.
Phát triển thị trường cho các doanh nghiệp hoạt động khoa học & công nghệ,
thể chế hoá quyền tự do di chuyển nhân lực, nhất là nhân lực khoa học và công nghệ
giữa các khu vực, các loại hình tổ chức kể cả trong và ngoài nước.
 Đẩy mạnh liên kết giữa các viện nghiên cứu, trường đại học và doanh
nghiệp.

113
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, đổi mới
phương thức phân bổ tài chính cho R&D theo hướng dành ưu tiên kinh phí cho
nghiên cứu mang tính công ích như môi trường, sức khoẻ, nghiên cứu cơ bản, an
ninh, quốc phòng... và những lĩnh vực nghiên cứu công nghệ nền tảng thuộc các
hướng ưu tiên trọng điểm quốc gia (công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công
nghệ tự động hoá, công nghệ vật liệu tiên tiến).
Đổi mới cơ chế tài chính của nhà nước từ phương thức cấp phát sang phương
thức đấu thầu, tuyển chọn, hình thành các loại quỹ cho khoa học và công nghệ để
nâng cao hiệu quả sử dụng kinh phí và chất lượng nghiê cứu.
Thúc đẩy liên kết giữa giảng dạy, nghiên cứu và sản xuất kinh doanh để đưa
nhanh kết quả nghiên cứu vào sản xuất kinh doanh. Đẩy nhanh việc xây dựng một số
trường đại học, viện nghiên cứu, phòng thí nghiệm trọng điểm chất lượng cao.
Tóm lại, tăng cường sử dụng tri thức một cách có hiệu quả là con đường phát
triển nhanh và bền vững, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước theo hướng tiến tới nền kinh tế tri thức. Việc rút ngắn khoảng cách tri
thức của nước ta so với các nước phát triển trong khu vực và thế giới, một mặt đòi
hỏi chúng ta phải chủ động hội nhập một cách có hiệu quả để khai thác những cơ hội
mà mà toàn cầu hoá và cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đem lại, mặt khác phải
nhanh chóng tạo ra lập những điều kiện, tiền đề cần thiết nhằm xây dựng năng lực tri
thức để có đủ khả năng đón bắt những cơ hội và vượt qua những thách thức.

KẾT LUẬN
Có thể nói, thành quả của kinh tế tri thức là rất lớn lao, nó đánh dấu một cột
mốc mới đầy khích lệ trong nỗ lực tạo lập nền tảng vật chất và tinh thần ngày càng

114
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

tăng cho con người. Thế nên, việc nắm bắt đúng xu thế phát triển của nền kinh tế tri
thức, đồng thời đưa ra những đối sách thích hợp trong chiến lược kinh tế có ý nghĩa
vô cùng quan trọng đối với những triển vọng phát triển của mỗi quốc gia hiện nay.

Trong số các nước OECD, Mỹ là nước có những bước khởi đầu thành công
nhất trong việc tiến đến nền kinh tế tri thức. Các ngành công nghệ cao đã trở thành
động lực tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ và thu hút một lực lượng lao động lớn. Nền
kinh tế tri thức ở Mỹ là một nền kinh tế có xu hướng toàn cầu mạnh mẽ và được
quản lý và vận hành theo một cơ chế hết sức linh hoạt. Bên cạnh đó, những yếu tố
của nền kinh tế tri thức cũng đã phát triển và đạt mức khá cao trong nhiều nước EU,
những ngành dựa trên tri thức hiện nay đã chiếm tới trên 50% GDP và trở thành
những ngành quan trọng nhất. Tuy nhiên, theo các chuyên gia thì mặc dù EU vẫn là
một trong những cái nôi chủ yếu của khoa học và công nghệ trên thế giới song họ
vẫn thua kém Mỹ trong một số lĩnh vực như công nghệ thực phẩm gen, công nghệ vũ
trụ, công nghệ thông tin và nhất là Internet. Có thể nói, cho đến nay, tình hình
chuyển sang nền kinh tế tri thức ở EU chậm hơn so với Mỹ.

Những nét cơ bản của nền kinh tế tri thức cũng đang dần xuất hiện, mặc dù
chậm hơn và ở trình độ thấp hơn so với các nước EU và Mỹ, ở một số nước châu Á.
Trong thời gian qua, Nhật Bản đã đạt được những kết quả đáng kể trong việc tiến
đến nền kinh tế tri thức, thể hiện ở chỗ Nhật Bản vẫn liên tục đạt được những thành
tựu khoa học và công nghệ to lớn. Tuy nhiên, kinh tế tri thức ở Nhật Bản hiện vẫn
chưa thể hiện một cách rõ nét và ở nhiều phương diện vẫn còn thua xa so với Mỹ và
các nước EU. Mặc dù là nơi sinh ra những công ty điện tử đứng đầu thế giới nhưng
Nhật Bản lại xếp vị trí thứ 14 xét về sức cạnh tranh công nghệ thông tin trong khi
Mỹ vẫn chiếm vị trí số 1.

Ngoài ra, một số nước đang phát triển ở châu Á đã và đang ráo riết chuẩn bị
cơ sở hạ tầng cho phát triển kinh tế tri thức, trong đó công nghệ thông tin được ưu
tiên hàng đầu. Vài năm gần đây, một số người cho rằng, kinh tế tri thức không chỉ là
một nhận thức mà đã và đang trở thành một thực tế trong đời sống kinh tế của các
nước trên thế giới nói chung cũng như của các nước đang phát triển nói riêng. Do

115
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

xuất phát điểm thấp và mới chỉ bắt đầu nên cho đến nay, Trung Quốc vẫn còn kém
xa các nước phát triển về các công trình cơ sở và kỹ thuật then chốt của kinh tế tri
thức. Tuy nhiên, bằng nhiều nỗ lực, Trung Quốc cũng đã xây dựng được một số yếu
tố cơ bản của nền kinh tế tri thức, tiêu biểu là ngành viễn thông.

Theo đánh giá của Uỷ ban kinh tế APEC, Malaixia hiện vẫn đang ở giai đoạn
bắt đầu xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng để tham gia vào một quá trình mang tính
toàn cầu và dựa trên nền tảng tri thức và cũng giống như các nước châu Á khác, sự
phát triển của công nghệ thông tin và các công nghệ cao khác đã được coi là những
ưu tiên hàng đầu của Malaixia trong một vài năm gần đây.
Cũng giống như hầu hết các nước khác trên thế giới, Việt Nam không thể
đứng ngoài xu thế “kinh tế tri thức”. Kinh tế tri thức chiếm vị trí ngày càng lớn trong
quá trình phát triển của thế giới, đó là thách thức cũng như cơ hội lớn đối với chúng
ta. Vì thế, mặc dầu vẫn còn là một nước đang phát triển, Việt Nam không thể không
tính đến việc tìm lối đi thẳng vào nền kinh tế tri thức theo cách của mình, trong hoàn
cảnh và đặc điểm của mình, theo chiến lược và những bước đi phù hợp với trình độ
hiện có.
Có thể nói, kinh tế tri thức là một vấn đề hay song lại là một vấn đề mới, khó
và còn nhiều biến động. Như đã trình bày ở trên, do hiện nay vẫn còn có những quan
điểm khác nhau, thậm chí trái ngược nhau nên tác giả có gặp một số khó khăn trong
quá trình nghiên cứu và đánh giá, chưa thực hiện được đầy đủ mục đích nghiên cứu.
Vì vậy, tác giả mong sẽ nhận được những chỉ dẫn cũng như ý kiến của các thầy giáo,
cô giáo và các bạn sinh viên để khoá luận được hoàn chỉnh hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

116
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

1. Nguyễn Đức Bình - Lê Hữu Nghĩa – Trần Hữu Tiến, Góp phần nhận thức thế
giới đương đại, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2003.
2. Trần Vinh Dự, Kinh tế dựa vào tri thức, Chứng khoán Việt nam, số 11, tháng
11/2001, p21 –24.
3. Lê Tân Đức, Thuyết tăng trưởng ngành kỹ thuật thông tin và Thực tiễn ở Trung
Quốc, Tạp chí Trung Quốc, 2001.
4. Lê Thu Hằng, Phát triển nguồn nhân lực tại Mỹ trong thập kỷ 90 – những khía
cạnh trong chính sách giáo dục - đào tạo, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 8 – 10
(44), 2001. 11
5. Đặng Hữu, Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Kỷ yếu
Hội thảo, Ban khoa giáo Trung ương, Hà Nội.
6. Đặng Hữu, Kinh tế tri thức, Tạp chí Công tác khoa giáo, tháng 7/2000, p3.19
7. Đinh Trọng Thắng, Những cách hiểu khác nhau về Kinh tế tri thức và sự lựa
chọn của Việt Nam, Nghiên cứu Kinh tế, số 283, tháng 12/2001, p36 – 45, 2001.
8. Nguyễn Xuân Tề, Tiếp cận kinh tế tri thức qua kinh nghiệm một số nước, Tạp
chí cộng sản, số 16, tháng 8/2001, p52 –5.
9. Đinh Trọng Thắng, Nền kinh tế tri thức – kinh nghiệm của các nước phát triển và
đang phát triển, Nhà xuất bản Thống kê, 2000.
10. Trần Đình Thiên, Kinh tế tri thức và vấn đề lựa chọn mô hình phát triển ở Việt
Nam, Tạp chí cộng sản, số 22, tháng 11/2000, p 29 – 34.
11. Nguyễn Ngọc Trân, Một số vấn đề kinh tế toàn cầu hiện nay, Nhà xuất bản thế
giới, 2003.
12. Lưu Ngọc Trịnh, Bước chuyển sang nền kinh tế tri thức ở một số nước trên thế
giới hiện nay, Nhà xuất bản giáo dục, 2002.
13. Lưu Ngọc Trịnh, Trước thềm thế kỷ XXI – nhìn lại mô hình phát triển kinh tế
Nhật Bản, NXB Thống Kê, 2001.
14. Tần Ngôn Trước, Thời đại kinh tế tri thức, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
2001.
117
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

15. Ngô Quý Tùng, Kinh tế tri thức – xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI, Nhà xuất
bản Đại học quốc gia Hà Nội, 2001.
16. Trần Văn Tùng, Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục Việt Nam, Nhà
xuất bản thế giới, 2001.
17. Lê Văn Sang, Kinh tế tri thức – giai đoạn phát triển mới của xã hội loài người,
Những vấn đề kinh tế thế giới, số 3, p 3 – 10, 2000.
18. Vũ Quang Việt, Đón đầu Kinh tế tri thức bằng CNTT, thời báo kinh tế, p36-37.
19. Toàn tập Marx – Engels, Tập 1.
20. Tư liệu chuyên đề, Những vấn đề về Kinh tế tri thức – tập I, Số 5 năm 2000,
Viện thông tin khoa học.
21. Tư liệu chuyên đề, Những vấn đề về Kinh tế tri thức – tập II, số 6 năm 2000,
Viện thông tin khoa học.
22. Chuyên đề bổ trợ: Khoa học công nghệ – Kinh tế tri thức và công nghiệp hoá ở
nước ta, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2001.
23. Tổng luận Khoa học, Kỹ thuật, Kinh tế, Nền kinh tế học hỏi và chính sách đổi
mới, Bộ Khoa học - công nghệ và môi trường, 1999.
24. Ban khoa giáo TW, Kỷ yếu Hội thảo: Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối
với Việt Nam, 21 –22/6/2000.
25. TTXVN, Triển vọng kinh tế Châu Âu, Kinh tế quốc tế, số 38 / 2000.
26. Economic Report of the President 2001.
27. OECD, First Report on the OECD Growth Project, 2000.
28. Eurostat, Half of EU Manufacturing Enterprises are Innovative, Community
Innovation Survey, 1999.
29. T. Anderson, Seizing the Opportunities of a New Economy, Challenges for the
European Union, OECD, 2000.
30. Eurostat, SINE – Statistical Indicators for the the New Economy, Version
2000.2. 2000.

118
D­¬ng ThÞ VÜnh Hµ - A8 K38C – Kinh tÕ Ngo¹i Th­¬ng

31. Commision of the European Communities, European Trend Chart on


Innovation, 2000.
32. UNCTAD, World Investment Report, New Yord and Geneva, 2000.
33. OECD, Science, Technology and Innovation in the New Economy, 2000.
34. Kinh tế Đông Á - Nền tảng của sự thành công, NXB Thế giới, Hà Nội.
35. TTXVN, Tin Kinh Tế, ngày 6/4/2001 và 14/5/2001
36. Tạp chí Business Week.
37. Tạp chí Fortune.
38. Tạp chí Newsweek.
39. Tạp chí Asia Week.

119

You might also like