Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 2

Câu 1: WACC là gì và tại sao nó lại quan trọng trong ước tính chi phí vốn của công

ty?
- Chi phí vốn (cost of capital) là tỷ suất lợi nhuận mà nhà đầu tư (nhà cung cấp vốn)
yêu cầu để đổi lấy việc đầu tư vào một dự án hoặc doanh nghiệp khác có rủi ro
tương tự. Hay nó còn được gọi là chi phí cơ hội. Chi phí vống bao gồm chi phí nợ và
chi phí vốn.
- Chi phí vốn trung bình trọng số (WACC) là thước đo tổng hợp của chi phí vốn
chung của một công ty và bao gồm tất cả các chi phí khác nhau của một công ty
hoặc tỷ lệ hoàn vốn yêu cầu của từng thành phần vốn như cổ phiếu phổ thông, cổ
phiếu ưu đãi, nợ.
- WACC quan trọng vì:
+ Dùng cho hoạch định ngân sách vốn là thước đo cho quyết định đề đầu tư. Thông
thường, công ty/ nhà đầu tư sẻ chọn dự án mang lại lợi nhuận cao hơn và rủi ro thấp
hơn( khi so sách với các dự án khác). Nếu công ty phải quyết định một dự án độc lập,
công ty sẻ lựa chọn dự án mang lại lợi tức thỏa đáng. Tất nhiên, các dự án lựa chọn phải
có lợi nhuận cao hơn chi phí vốn đầu tư vào các dự án đó. Nó cũng giúp xác định khả
năng chấp nhận của các cơ hội đầu tư.
+ Giúp xác định khả năng chấp nhận cơ hội đầu tư. Vì WACC là lợi nhuận tối thiểu
theo yêu cầu của các nhà đầu tư, nên các nhà quản lý chỉ nên đầu tư vào các dự án tạo ra
lợi nhuận vượt WACC. WACC được đặt ra bởi các nhà đầu tư (hoặc thị trường), không
phải bởi các nhà quản lý. Do đó chúng ta không thể biết chính xác WACC mà chỉ có thể
ước tính.
+ Giúp cho các nhà quản lý có thể điều chỉnh giá cổ phiếu, giá thị trường của công ty
vì lợi ích của công ty

Anh/chị có đồng ý với cách tính WACC của Joanna Cohen không? Tại sao và tại
sao không?
Công thức: WACC = Cost of debt (after tax) + Cost of equity
= Kd(1-T) x D/(D+E) +Ke x E/(D+E)
Trong đó Kd : Chi phí nợ
Ke : Chi phí vốn
T : Thuế suất
D : Nợ vay
E : Vốn chủ sở hữu
D + E : Tổng vốn
Với giải thiết của Cohen:
T = 38% (Exhibit 2)
E = 3494,5 (Exhibit 3, năm 2001)
D = Current portion of long-term debt + Notes payable + Long-term debt
= 1296,6 (Exhibit 3, năm 2001)
- Chúng tôi đồng ý với việc suử dụng một chi phí vốn duy nhất. Lý do là, ước tính
WACC để định giá dòng tiền cho toàn bộ công ty, được cung cấp bời Kimi Ford. Bên
cạnh đó các mảng kinh doanh của Nike về cơ bản có cùng rủi ro, Do đó, chỉ cần một chi
phí vốn duy nhất cho việc phân tích.
- Cost of debt (after tax): chi phí nợ sau thuế
+ Cohen sử dụng tổng chi phí lãi vay (2001) chia cho số nợ trung bình của công ty (
với số dư nợ 31/5/2000 là 1444,6 triệu đola và năm 2001 là 1296,6 triệu đola).
WACC được sử dụng để phản ánh chiết khấu dòng tiền trong tương lai, do đó tất cả
các thành phần của chi phí phải phản ánh khả năng tăng vốn hiện thời hoặc khả năng
tăng vốn trong tương lai của công ty. Nhưng Cohen sử dụng dữ liệu quá khứ trong
việc ước tính chi phí nợ. Cohen chia chi phí lãi vay cho số dư trung bình để có được
4,3% chi phí nợ trước thuế. Việc này không phản ánh chi phí nợ hiện tại hoặc tương
lai của Nike.
+
- Cost of equity : chi phí vốn chủ sở hữu
+ Cohen sử dụng beta trung bình từ năm 1996 đến thàng 7 năm 2001, beta là thước
đo rủi ro hệ thống nên chúng ta cần lựa chọn hệ số beta đại diện nhất cho hệ số beta
trong tương lai. Như vậy hệ số beta gần nhất là lựa chọn tốt nhất trong tình huống
này
- Trọng số của các thành phần vốn : Cohen đã sai khi sử dụng giá trị sổ sách làm
cơ sở cho việc tính toán trọng số nợ và trọng số vốn chủ sở hữu, thay vào đó sử nên
sử dụng giá trị thị trường để tính toán. Việc sur dụng trọng số thị trường để ước tính
WACC sẻ khiến công ty tăng vốn bao nhiêu ngày hôm nay

You might also like