Duy 2

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 11

NGOÀI :CONDUCTORS, INSULATORS AND SEMICONDUCTORS

If we connect a battery across a light bulb as shown in figure 1.1, there is a movement of free electrons towards the positive
end. This movement of electrons, known as drift, constitutes an electric current flow. This relative mobility of electrons within a
material is known as electric conductivity. All materials can be classified into three groups according to how readily they

permit an electric current to flow. These are: conductors, insulators and semiconductors.

Conductors are substances containing electrons that are loosely connected to the nucleus and can

easily move through the material from one atom to another. In other word, materials with high electron

mobility (many free electrons) are called conductors. (In the first category are substances, which provide

an easy path for an electric current.) All metals (gold, silver, copper, aluminium…) are conductors,

however, some metals do not conduct well. Manganin, for example, is a poor conductor. Copper is a good

conductor, therefore it is widely used for cables. A non-metal which conducts well is carbon. Salt water is

an example of a liquid conductor.

Insulators are materials whose electrons are held firmly to their nucleus. In other word, materials with low electron mobility
(few or no free electrons) are called insulators. (A material which does not easily release electrons is called an insulator).
Rubber, nylon, porcelain and air are all insulators. There are no perfect insulators. All insulators will allow some flow of
electrons, however, this can usually be ignored because the flow they permit is so small.

Semiconductors are midway between conductors and insulators. Under certain conditions they

allow a current to flow easily but under others they behave as insulator. Germanium and silicon are

semiconductors. Mixtures of certain metallic oxides also act as semiconductors. These are known as

thermistors. The resistance of thermistors falls rapidly as their temperature rises. They are therefore used in temperature-
sensing device

CHẤT DẪN ĐIỆN, CÁCH ĐIỆN VÀ BÁN DẪN

Nếu chúng ta kết nối pin qua bóng đèn như trong hình 1.1, thì có một dòng các electron tự do chuyển động về phía cực
dương. Dòng chuyển động electron này, được coi như có hướng, tạo ra một dòng điện. Sự chuyển động tương đối của các
electron trong một vật liệu được gọi là tính dẫn điện. Tất cả các vật liệu có thể được phân thành ba nhóm theo mức độ dễ dàng
cho phép một dòng điện chạy qua. Đó là: chất dẫn điện , chất cách điện và chất bán dẫn.

Chất dẫn điện là những chất có chứa các electron được liên kết kém bền với hạt nhân và có thể dễ dàng di chuyển qua vật
liệu từ nguyên tử này sang nguyên tử khác. Nói cách khác, vật liệu có độ linh động electron cao (nhiều electron tự do) được gọi
là chất dẫn điện. (Trong loại đầu tiên là các chất dễ dàng cho một dòng điện chạy qua.) Tất cả các kim loại (vàng, bạc, đồng,
nhôm) đều là chất dẫn điện,tuy nhiên, một số kim loại không dẫn điện tốt. Ví dụ Manganin là một chất dẫn điện kém. Đồng là
chất dẫn điện tốt, do đó nó được sử dụng rộng rãi trong các laoij dây cáp. Một phi kim dẫn điện tốt là carbon. Nước muối là
một ví dụ về một chất dẫn điện dạng lỏng.

Chất cách điện là vật liệu có electron được giữ chắc vào hạt nhân. Nói cách khác, vật liệu với độ linh động electron thấp (ít
hoặc không có electron tự do) được gọi là chất cách điện. (Một vật liệu không dễ dàng giải phóng electron được gọi là chất cách
điện). Cao su, nylon, sứ và không khí đều là chất cách điện. Không có chất cách điện hoàn hảo. Tất cả các chất cách điện sẽ cho
phép một số dòng electron chạy qua, tuy nhiên, điều này thường có thể bị bỏ qua bởi vì dòng chảy chúng cho phép rất nhỏ

Chất bán dẫn nằm giữa chất dẫn điện và chất cách điện. Trong những điều kiện nhất định, chúng cho phép một dòng điện
chạy qua dễ dàng nhưng dưới những điều kiện khác chúng hoạt động như một chất cách điện. Germanium và silicon là chất bán
dẫn. Hỗn hợp của một số oxit kim loại nhất định cũng hoạt động như chất bán dẫn. Chúng được gọi là nhiệt điện trở. Điện trở
của nhiệt điện trở giảm nhanh khi nhiệt độ của chúng tăng lên. Do đó chúng được sử dụng trong các thiết bị cảm biến nhiệt độ.
UNIT1: CONDUCTORS, INSULATORS AND SEMICONDUCTORS

If we connect a battery across a light bulb, there is a movement of free electrons towards the positive
end. This movement of electrons is an electric current flow. All materials can be classified into three
groups according to how readily they permit an electric current to flow. These are: conductors,
insulators and semiconductors. In the first category are substances, which provide an easy path for an
electric current. All metals are conductors, however some metals do not conduct well. Manganin, for
example, is a poor conductor. Copper is a good conductor, therefore it is widely used for cables. A non-
metal which conducts well is carbon. Salt water is an example of a liquid conductor. A material which
does not easily release electrons is called an insulator. Rubber, nylon, porcelain and air are all insulators.
There are no perfect insulators. All insulators will allow some flow of electrons, however this can usually
be ignored because the flow they permit is so small. Semiconductors are midway between conductors
and insulators. Under certain conditions they allow a current to flow easily but under others they
behave as insulator. Germanium and silicon are semiconductors. Mixtures of certain metallic oxides also
act as semiconductors. These are known as thermistors. The resistance of thermistors falls rapidly as
their temperature rises. They are therefore used in temperature-sensing devices.

CẤU TẠO, CÁCH ĐIỆN VÀ BÁN DẪN

Nếu chúng ta kết nối pin qua bóng đèn, một dòng các electron tự do chuyển động về phía cực dương.

Dòng chuyển động electron này, được coi như có hướng, tạo ra một dòng điện. Tất cả các vật liệu có thể
được phân thành ba nhóm theo mức độ dễ dàng cho phép một dòng điện chạy qua. Đó là: chất dẫn điện
, chất cách điện và chất bán dẫn.

Trong loại đầu tiên là các chất dễ dàng cho một dòng điện chạy qua.Tất cả các kim loại đều là chất dẫn
điện,tuy nhiên, một số kim loại không dẫn điện tốt. Ví dụ Manganin là một chất dẫn điện kém. Đồng là
chất dẫn điện tốt, do đó nó được sử dụng rộng rãi trong các laoij dây cáp. Một phi kim dẫn điện tốt là
carbon. Nước muối là một ví dụ về một chất dẫn điện dạng lỏng.

Một vật liệu không dễ dàng giải phóng electron được gọi là chất cách điện. Cao su, nylon, sứ và không
khí đều là chất cách điện. Không có chất cách điện hoàn hảo. Tất cả các chất cách điện sẽ cho phép một
số dòng electron chạy qua, tuy nhiên, điều này thường có thể bị bỏ qua bởi vì dòng chảy chúng cho phép
rất nhỏ

Chất bán dẫn nằm giữa chất dẫn điện và chất cách điện. Trong những điều kiện nhất định, chúng cho
phép một dòng điện chạy qua dễ dàng nhưng dưới những điều kiện khác chúng hoạt động như một chất
cách điện. Germanium và silicon là chất bán dẫn. Hỗn hợp của một số oxit kim loại nhất định cũng hoạt
động như chất bán dẫn. Chúng được gọi là nhiệt điện trở. Điện trở của nhiệt điện trở giảm nhanh khi
nhiệt độ của chúng tăng lên. Do đó chúng được sử dụng trong các thiết bị cảm biến nhiệt độ.
PHẦN TIẾP UNIT1: CONDUCTING MATERIALS

Strictly, conducting materials fall into three groups, which are conductors, semiconductors and
imperfect insulators (1).

Insulators have been covered in section 3.3, so the focus here is on conductors and semiconductors.
In general, metals and alloys are conductors of electricity. The conductivity in metals such as copper and
aluminum is due to electrons which are attracted to the positive terminal (2) when a voltage is applied.
The freedom with which the electrons can move determines the conductivity and resistivity
(3). The restraints (4) on electron movements are impurities, stresses and thermal lattice
vibrations (6), so to obtain the highest conductivity the metal must be very pure and in the annealed
state. With increasing temperature, the thermal vibrations increase and conductivity is reduced. (8)
Copper has the highest electrical and thermal conductivity of the common industrial metals.
It has good mechanical properties, is easy to solder, is readily available and has high scrap
value. It (9) is widely used in wire form, and Table 3.7 give information for the commonly used wire
sizes.
For many years aluminum has been used as a conductor in most branches of electrical engineering.
Aluminum is less dense and cheaper than copper, and its price is not subjected to the same wide
fluctuations as cooper. World production of aluminum has steadily increased over recent years to
overtake that (12) of copper, which (13) it (14) has replaced in many electrical applications
(15).

VẬT LIỆU DẪN

Đúng vậy, vật liệu dẫn rơi vào ba nhóm, đó là chất dẫn điện,chất bán dẫn và chất cách điện không hoàn
hảo (1). Chất cách điện đã được đề cập trong phần 3.3, Vì vậy, phần trọng tâm ở đây là về chất dẫn điện
và chất bán dẫn.

Nói chung, kim loại và hợp kim là chất dẫn điện. Khả năng dẫn điện trong kim loại như đồng và nhôm là
do các electron bị hút về cực dương (2) khi đặt điện áp vào. Khe hở mà các electron có thể di chuyển

xác định độ dẫn điện và điện trở suất (3). Những thứ cản trở(4) chuyển động của electron

là tạp chất, ngoại lực và dao động của lưới nhiệt (6), do đó để đạt được độ dẫn điện cao nhất

kim loại phải rất tinh khiết và ở trạng thái đang được tôi luyện. Khi nhiệt độ tăng, dao động nhiệt tăng

và độ dẫn điện giảm. (8) Đồng có độ dẫn điện và nhiệt cao nhất trong các kim loại công nghiệp phổ biến.

Nó có tính chất cơ học tốt, dễ hàn, có sẵn và có giá trị phế liệu cao. Nó (9) được sử dụng rộng rãi trong
các loại dây và Bảng 3.7 cung cấp thông tin về các kích thước dây thường dùng.

Trong nhiều năm, nhôm đã được sử dụng như một Chất dẫn điện trong hầu hết các ngành điện kỹ
thuật. Nhôm nhẹ hơn và rẻ hơn đồng, và giá thành của nó không

chịu các biến động nhiều như đồng. Sản lượng nhôm trên thế giới đã tăng đều đặn trong những năm
gần đây để vượt qua (12) đồng, (13) (14) và đã thay thế nó trong nhiều ứng dụng điện

(15)
UNIT2: CIRCUIT ELEMENTS
An electric current moves from a point of high potential energy to one of low potential. It can
only do so if there is a path for it to follow. This path is called an electric circuit. All circuits contain
four elements: a source, a load, a transmission system and a control.
The source provides the electromotive force. This establishes a difference in potential which
makes current flow possible. The source can be any device which supplies electrical energy. For
example, it may be a generator or a battery.
The load converts the electrical energy from the source into some other form of energy. For
instance, a lamp changes electrical energy into light and beat. The load can be any electrical
device.
The transmission system conducts the current round the circuit. Any conductor can be part of
the transmission system. Most systems consist of wires. It is often possible, however, for the
metal frame of a unit to be one section of its transmission system. For example, the metal chassis
of many electrical devices are used to conduct current. Similarly, the body of the car is part of its
electrical transmission system.
The control regulates the current flow in the circuit. It may control the current by limiting it, as
does a rheostat, or by interrupting it, as does a switch.

Study Figure 1. In this simple flashlight circuit, the source comprises three 4.5V cells in series. The
load is a 0.3W bulb. Part of the transmission system is the metal body of the flashlight, and the
control is a sliding switch.

Compare Figure 2. The function of this circuit is to operate a television camera on a space
satellite. Here the source is a battery of solar cells. A solar cell is an electric cell, which converts
sunlight into electrical energy. The load is the television camera. The transmission system is
connecting wires. The control is a relay actuated by transmissions from ground control. Although
the function of this circuit is much more complex than that of the flashlight, it also consists of the
four basic elements.

CÁC PHẦN TỬ TRONG MẠCH ĐIỆN

DỊCH:Một dòng điện di chuyển từ một điểm có điện thế cao đến điểm có điện thế thấp. Nó chỉ có thể làm như vậy nếu có một
con đường cho nó đi theo. Con đường này được gọi là một mạch điện. Tất cả các mạch chứa bốn phần tử: nguồn, tải, hệ thống
truyền tải và điều khiển.

Nguồn điện cung cấp lực điện động. Điều này tạo nên hiệu điện thế làm cho dòng điện có thể chạy qua. Nguồn có thể là bất kỳ
thiết bị nào cung cấp điện năng. Ví dụ, nó có thể là một máy phát điện hoặc pin.

Tải chuyển đổi năng lượng điện từ nguồn thành một số dạng năng lượng khác. Chẳng hạn, một chiếc đèn chuyển đổi điện năng
thành quang năng và nhiệt năng. Tải có thể là bất kỳ thiết bị điện nào.

Hệ thống truyền dẫn dẫn dòng điện chạy quanh mạch. Bất kỳ chất dẫn điện nào cũng có thể là một phần của hệ thống truyền
tải. Hầu hết các hệ thống đều chứa dây dẫn. Tuy nhiên, thường thì khung kim loại của một đơn vị là một phần của hệ thống
truyền dẫn của nó. Ví dụ, khung kim loại của nhiều thiết bị điện được sử dụng để dẫn dòng điện. Tương tự, thân xe là một phần
của hệ thống truyền tải điện của chính nó.

Phần điều khiển điều chỉnh dòng điện trong mạch. Nó có thể kiểm soát dòng điện bằng cách giới hạn nó, như một bộ biến trở,
hoặc bằng cách ngắt nó, như một công tắc.

Nghiên cứu Hình 1. Trong mạch đèn pin đơn giản này, nguồn bao gồm ba viên pin 4,5V mắc nối tiếp. Tải là một bóng đèn 0,3W.
Một phần của hệ thống truyền tải là thân kim loại của đèn pin và phần điều khiển là một công tắc trượt

.So sánh Hình 2. Chức năng của mạch này là vận hành camera truyền hình trên vệ tinh không gian. Ở đây nguồn là một pin làm
từ các tế bào quang điện. Một tế bào quang điện là một tế bào điện, giúp chuyển đổi ánh sáng mặt trời thành năng lượng điện.
Tải là camera truyền hình. Hệ thống truyền dẫn được kết nối dây. Điều khiển là một rơle được kích hoạt bởi hệ thống điều
khiển truyền từ mặt đất. Mặc dù chức năng của mạch này phức tạp hơn nhiều so với đèn pin, nhưng nó cũng bao gồm bốn
thành phần cơ bản
TIẾP UNIT2: ELECTRIC CIRCUITS

An electric circuit is a path of an electric a continuous path composed of conductors, conducting devices
and a source of electromotive force that drives the current around the circuit (2). A circuit of this type
(3) is termed a closed circuit, and a circuit in which the current path is not continuous is

called an open circuit. A short circuit is a closed circuit in which a direct connection is made, with no
appreciable resistance, inductance, or capacitance between the terminals of the source of electromotive
force 4)

.Current flows in an electric circuit in accordance with several definite laws. The basic law of current flow
is Ohm's law, named after its discoverer (5), the German physicist George Ohm (6) (7)

According to Ohm's law, the amount of current flowing in a circuit made up of pure resistances is
directly proportional to the electromotive force impressed on the circuit and inversely proportional to
the total resistance of the circuit (9). The formula is usually expressed by the formula I = E/R, where I is
the current in amperes, E is the electromotive force in volts, and R is the resistance in ohms. Ohm's law
applies to all electric circuits for both direct current (DC current) and alternating current (AC), but

additional principles must be invoked for the analysis of complex circuits and for AC circuits also
involving inductances and capacitances

MẠCH ĐIỆN

Một mạch điện là một đường dẫn cho dòng điện. Điều đó (1) thường được hiểu là một đường dẫn liên
tục bao gồm các dây dẫn, thiết bị dẫn điện và một nguồn sức điện động dẫn dòng điện chạy

xung quanh mạch (2). Một mạch loại này (3) được gọi là một mạch kín, và một mạch mà trong

đó đường dẫn điện không liên tục gọi là mạch hở. Đoản mạch là một mạch kín trong đó có một sự kết
nối trực tiếp,với điện trở, điện cảm, hoặc điện dung không đáng kể giữa 2 cực của nguồn sức điện động

(4). Dòng điện chạy trong 1 mạch điện tuân theo một vài định luật xác định. Các định luật cơ bản của
dòng điện là định luật Ohm, được đặt theo tên của người phát hiện ra nó (5), nhà vật lý người Đức

George Ohm (6) (7)

Theo định luật Ohm,lượng dòng điện chạy trong một mạch được tạo thành từ điện trở thuần tỷ lệ
thuận với sức điện động cảm ứng trong mạch và tỷ lệ nghịch với tổng trở của mạch (9). Công thức

thường được biểu thị bằng công thức I = E / R, Trong đó I là dòng điện tính bằng ampe, E là suất điện
động tính bằng vôn và R là điện trở tính bằng ohms. Luật Ohm áp dụng cho tất cả các mạch điện bao
gồm cả dòng điện một chiều dòng điện) và dòng điện xoay chiều (AC), nhưng muốn giải một mạch điện
phức tạp phải cần có sự hổ trợ của các định luật khác và mạch điện xoay chiều còn liên quan đến điện
cảm và điện dung
UNIT3 : THE DC MOTOR
An electric motor is a machine for converting electrical energy into mechanical energy. Motors
can be designed to run on direct (dc) or alternating current (ac). The motor described in this text
is a dc motor. Its most important components are the rotor, the stator and the brushgear.
The rotor is the moving part. It contains an armature, which is a set of wire loops wound on a
steel core. When current is fed to the armature, these windings produce a magnetic field. The
armature and core are mounted on a shaft which runs on bearings. It provides a means of
transmitting power from the rotor.
The rotor also contains a commutator. This consists of a number of copper segments insulated
from one another. The armature windings are connected to these segments. Carbon brushes are
held in contact with the commutator by springs. These brushes allow current to pass to armature
windings. As the rotor tuns, the commutator acts as a switch making the current in the armature
alternate.
The stator does not move. It consists of magnetic and electrical conductors. The magnetic circuit
is made up of the frame and the poles. Wound round the poles are the field coils. These form the
stator's electrical circuit. When current is fed to them, magnetic field is set up in the stator.
18
The motor operates on the principle that when a current-carrying conductor is placed in a
magnetic field, a force is produced on the conductor. The interaction of the force produced by
the magnetic field of the rotor and the stator makes the rotor spin.

ĐỘNG CƠ MỘT CHIỀU


Một động cơ điện là một máy để chuyển đổi điện năng thành cơ năng. Động cơ có thể được thiết kế
để chạy trên dòng điện một chiều (dc) hoặc xoay chiều (ac). Động cơ được mô tả trong văn bản này là
một động cơ dc. Các thành phần quan trọng nhất của nó là rôto, stato và chổi than.

Rôto là bộ phận chuyển động. Nó chứa một phần ứng, là một tập hợp các vòng dây quấn trên lõi
thép. Khi dòng điện được đưa đến phần ứng, các cuộn dây này tạo ra từ trường. Phần ứng và lõi được
gắn trên trục chạy trên ổ trục. Nó cung cấp một phương tiện truyền tải điện từ rôto. Roto cũng chứa
một cổ góp. Nó bao gồm một số phân khúc đồng được cách ly với nhau. Các cuộn dây phần ứng được
kết nối với các phân đoạn này. Các chổi than được giữ tiếp xúc với cổ góp bằng lò xo. Những chổi này
cho phép dòng điện đi qua cuộn dây phần ứng. Khi rôto điều chỉnh, cổ góp hoạt động như một công tắc
làm cho dòng điện trong phần ứng đảo chiều.

Stator không di chuyển. Nó bao gồm các dây dẫn từ và điện. Các mạch từ được tạo thành từ khung và
các cực. Cuộn dây quanh các cực là các cuộn dây trường. Chúng tạo thành mạch điện của stator. Khi
dòng điện được cung cấp cho chúng, từ trường được tạo thành trong stato.

Động cơ hoạt động theo nguyên tắc khi một dây dẫn mang dòng điện được đặt trong từ trường, một
lực được tạo ra trên dây dẫn. Sự tương tác của lực tạo ra bởi từ trường của rôto và stato làm cho rôto
quay.
TIẾP UNIT 3:TRANSFORMERS
A transformer is an electrical device consisting of one coil of wires placed in close proximity to
one or more other coils, used to couple (1) two or more alternating-current circuits together by
employing (2) the induction between the coils (3). The coil connected to the power is called the
primary coil, and the other coils are known as secondaries. A transformer in which the secondary
24
voltage is higher than the primary is called a step-up transformer; if the secondary voltage is less
than the primary, the device (4) is known as a step-down transformer. The product (5) of current
times voltage is constant (6) in each set of coils, so that in a step-up transformer, the voltage
increase (7) in the secondary is accompanied (8) by a corresponding decrease in the current
(9)(10). Large devices are used in electric power systems, and small units (11) in electronic
devices. Industrial and residential power transformers (12) that operate at the line frequency (60
Hz in the U.S), may be single phase or three-phase, and are designed to handle high voltages and
currents. Efficient power transmission requires a step-up transformer at the power-generating
station to raise voltages, with a corresponding decrease in current. Line power losses are
proportional to the square of the current times the resistance of the power line (13), so that very
high voltages and low currents are used for long-distance transmission lines to reduce losses. At
the receiving end (14), step-down transformers reduce the voltage, and increase the current to
the residential or industrial voltage levels, usually 115 to 600 V.

MÁY BIẾN ÁP

Máy biến áp là một thiết bị điện bao gồm một cuộn dây được đặt gần với

một hoặc nhiều cuộn dây khác, được sử dụng để ghép (1) hai hoặc nhiều mạch điện xoay chiều với nhau
bằng cách vận dụng (2)hiện tượng cảm ứng giữa các cuộn dây (3). Cuộn dây kết nối với nguồn được gọi

cuộn sơ cấp và các cuộn dây khác được gọi là cuộn thứ cấp. Một máy biến áp trong đó điện áp thứ cấp

cao hơn sơ cấp được gọi là máy biến áp tăng áp; nếu điện áp thứ cấp nhỏ hơn so với sơ cấp, thiết bị (4)
được gọi là máy biến áp hạ áp. Tích(5) của dòng điện và điện áp là hằng số (6) trong mỗi bộ dây, do đó,
trong một máy biến áp tăng áp, khi điện áp thứ cấp tăng (7) (8) kèm theo sự giảm tương ứng của dòng
điện (9) (10). Các thiết bị lớn được sử dụng trong các hệ thống điện và các thiết bịnhỏ (11) trong thiệt
bịđiện tử. Máy biến áp điện công nghiệp và dân dụng (12) hoạt động ở tần số dòng (60

Hz ở Hoa Kỳ), có thể là một pha hoặc ba pha, và được thiết kế để xử lý điện áp và

dòng điện cao. Truyền tải điện hiệu quả cần một máy biến áp tăng áp tại trạm máy phát điện

để tăng điện áp, với sự giảm tương ứng của dòng điện. Tổn thất điện đường dây tỷ lệ với bình phương
của dòng điện nhân với điện trở của đường dây (13), do đó điện áp rất cao và dòng điện thấp được sử
dụng cho các đường dây truyền tải dài để giảm tổn thất. Tại phiá cuối đường dây (14), máy biến áp hạ
áp làm giảm điện áp và tăng dòng điện tới

các cấp điện áp dân dụng hoặc công nghiệp, thường là 115 đến 600 V.
UNIT4:THE CATHODE RAY TUBE
The cathode ray tube (crt) is used in oscilloscopes, radar receivers and television sets. The type
described here is the one used in oscilloscopes. By means of a crt, an oscilloscope not only shows
the size of a signal, but also how the signal varies with time. In other words, this device shows
the waveform of the signal.
The crt operates as follows. First, electrons are emitted from a heated cathode. Then these
electrons are accelerated to give them velocity. Next, they are formed into a beam which can be
deflected vertically and horizontally. Finally, they are made to strike screen coated on its inner
surface with phosphor.
The crt comprises an electron gun and a deflection system enclosed in a glass tube with a
phosphor-coated screen. The electron gun forms the electrons into a beam. It contains a cathode,
which is heated to produce a stream of electrons. On the same axis as the cathode is a cylinder
known as the grid. The intensity of the beam can be varied. A system of three anodes follows.
These accelerate the beam and also operate as a lens to focus the beam on the server as a small
dot. Varying the potential on the central anode, a2 allows the focus to be adjusted.
On leaving the electron gun, the beam passes through two sets of plates which are at right angles
to each other. The first set of plates is the Y plates. As these are nearer the anodes, they have a
greater effect on the beam. Therefore, the signal is applied to this set. They control the vertical
deflection of the beam. The second set is the X plates. On an oscilloscope the output from a
timebase oscillator is applied across these plates as a means of moving the beam horizontally at
regular intervals. Hence the horizontal axis of an oscilloscope is the time axis. By means of the
deflection system, the beam can be made to traverse the screen both horizontally and vertically.
27
The final element is the phosphor-coated screen. When the electron beam strikes the screen, the
phosphor coating fluoresces. Various colours of light are produced depending on the phosphor
used

ỐNG PHÓNG TIA ĐIỆN TỬ ÂM CỰC


Ống tia catốt (crt) được sử dụng trong máy hiện sóng, máy thu radar và máy thu hình. Loại được mô tả ở đây là loại
được sử dụng trong máy hiện sóng. Bằng phương tiện là crt, máy hiện sóng không chỉ hiển thị biên độ của tín hiệu mà còn cách
tín hiệu thay đổi theo thời gian. Nói cách khác, thiết bị này hiển thị dạng sóng của tín hiệu.

Các crt hoạt động như sau. Đầu tiên, các electron được phát ra từ cực âm bị đốt nóng. Sau đó, các electron này được gia
tốc để cung cấp cho chúng vận tốc. Tiếp theo, chúng được tạo thành một chùm có thể bị lệch theo chiều dọc và chiều ngang.
Cuối cùng, chúng được chế tạo để dập (làm phẳng) màn hình được phủ trên bề mặt bên trong của nó bằng phốt pho. Crt bao
gồm một súng điện tử và một hệ thống làm lệch được đặt trong một ống thủy tinh có màn hình phủ phốt pho.

Súng điện tử tạo cho các electron thành một chùm tia. Nó chứa một cực âm, được nung nóng để tạo ra một dòng
electron. Trên cùng một trục với cực âm là một xi lanh được gọi là lưới. Cường độ của chùm tia có thể thay đổi. Một hệ thống
gồm ba cực dương theo sau. Chúng tăng tốc chùm tia và cũng hoạt động như một thấu kính để tập trung chùm tia vào máy chủ
dưới dạng một chấm nhỏ. Thay đổi điện thế trên cực dương trung tâm, a2 cho phép điều chỉnh tiêu cự.

Khi rời súng điện tử, chùm tia đi qua hai bộ đĩa nằm vuông góc với nhau. Bộ đĩa đầu tiên là tấm Y. Vì chúng gần cực
dương hơn, nên chúng có ảnh hưởng lớn hơn đến chùm tia. Do đó, tín hiệu được áp dụng cho bộ này. Chúng kiểm soát độ lệch
dọc của chùm tia. Bộ thứ hai là các tấm X. Trên máy hiện sóng, đầu ra từ bộ tạo dao động thời gian được áp dụng trên các tấm
này như một phương tiện để di chuyển chùm tia theo các khoảng đều đặn. Do đó trục hoành của máy hiện sóng là trục thời
gian. Bằng hệ thống làm lệch, chùm tia có thể được thực hiện để đi qua màn hình theo cả chiều ngang và chiều dọc. Phần tử
cuối cùng là màn hình phủ phốt-pho. Khi tia điện tử chiếu vào màn hình, lớp phủ photphor phát huỳnh quang. Màu sắc khác
nhau của ánh sáng được tạo ra tùy thuộc vào phốt pho được sử dụng.
TIẾP UNIT 4:POWER SYSTEM
All countries now have a power system which (1) transports electrical energy from generators to
consumers. In some countries several separate systems (2) may exist, but it (3) is preferable to
interconnect small systems and to operate the combination (4) as one, so that economy of
operation and security of supply to consumers are maximized (5). This integrated (6) system
(often known as the "grid' (7)) has become dominant in most areas and (10) it (8) is usually
considered as a major factor in the well-being and level of economic activity in a country. (9)
All systems are based on alternating current (11), usually at a frequency of either 50 Hz or 60 Hz.
50 Hz is used in Europe, India, Africa and Australia, and 60 Hz is used in North and South America
and parts of Japan. Systems are traditionally designed and (12) operated in the following
groupings:
- the source of energy-generation
- transmission
- supply to individual customers-distribution
Generation
Generators are required to convert fuels (such as coal, gas, oil and nuclear) and other energy
sources (such as water, wind and solar radiation) into electrical power. Nearly all generators are
rotating machines (13), which are controlled to provide a steady output at a given voltage. The
total power output of all operating generators connected to the same integrated system must
be equal to the sum of the consumer demand and the losses in the system (14).

HỆ THỐNG ĐIỆN

Tất cả các quốc gia hiện có một hệ thống điện (1) dung để vận chuyển điện năng từ các máy phát điện
đến người tiêu dùng. Ở một số quốc gia, một số hệ thống riêng biệt (2) có thể tồn tại, nhưng nó (3) thích
hợp hơn với việc liên kết các hệ thống nhỏ và vận hành tổ hợp (4) làm một, vì vậy việc phát triển nền
kinh tế và cung cấp an ninh cho người tiêu dùng được tối đa hóa (5). Hệ thống tích hợp (6) này

(thường được gọi là "lưới" (7)) đã trở nên chiếm ưu thế ở hầu hết các khu vực và (10) nó (8) thường là

được coi là một nhân tố chính trong sự phát triển và mức độ hoạt động kinh tế trong một quốc gia. (9)

Tất cả các hệ thống đều vận hành trên dòng điện xoay chiều (11), thường ở tần số 50 Hz hoặc 60 Hz.

50 Hz được sử dụng ở Châu Âu, Ấn Độ, Châu Phi và Úc và 60 Hz được sử dụng ở Bắc và Nam Mỹ

và một số khu vực của Nhật Bản. Các hệ thống được thiết kế theo kiểu truyền thống và (12) hoạt động
theo các nhóm sau: - nguồn tạo ra năng lượng

- truyền tải

- phân phối cho các hộ tiêu thụ riêng lẽ

Sự Phát Điện : Nhiêm vụ của Máy phát điện là chuyển đổi các nhiên liệu (như than, khí đốt, dầu và hạt
nhân) và cá nguồn năng lượng khác (như nước, gió và bức xạ mặt trời) thành điện năng. Hầu như tất cả
các máy phát điện đều là máy điện xoay chều (13), được điều khiển để cung cấp đầu ra ổn định ở một
điện áp nhất định. Tổng sản lượng điện của tất cả các máy phát đang làm việc được kết nối với cùng một
hệ thống tích hợp phải bằng tổng nhu cầu của người tiêu dùng và tổn thất trong hệ thống (14).
NGOÀI:Working of Synchronous Motor
As the name suggests, synchronous motors are capable of running at constant speed irrespective of the load acting on them.
They are machines with high efficiency and are mainly used in high-precision applications. The constant speed characteristic is
achieved by interaction between a constant and rotating magnetic field. Rotor of synchronous motor produces constant
magnetic field and stator produces revolving magnetic field. The field coil of stator is excited by a three-phase AC supply. This
will produce a revolving magnetic field which rotates at synchronous speed. Rotor is excited by a DC power supply so it acts like
a permanent magnet. Alternatively, rotor can also be made of permanent magnet. Interaction of rotor and RMF is interesting.
Assume you are giving an initial rotation to the rotor with same direction of RMF, you can see that opposite poles of RMF and
rotor will attract each other and they will get locked magnetically. This means that rotor will rotate at the same speed of RMF
or rotor will rotate at synchronous speed. Synchronous speed can easily be derived as follows. This means that if one has got
control over frequency of the electricity, speed of synchronous motor can be very accurately controlled. But if the rotor has got
no initial rotation, situation is quite different, North Pole of the rotor will obviously get attracted by South Pole of RMF and will
start to move in the same direction. But since the rotor has got some inertia, this starting speed will be very low. By this time
South Pole of RMF will be replaced by a North Pole. So it will give repulsive force as a net effect. Rotor won't be able to start or
synchronous motors are not inherently self-starting. To make synchronous motor self-start, a squirrel cage arrangement is
cleverly fitted through pole tips. At the starting, rotor field coils are not energized. So with revolving magnetic field, electricity is
induced in squirrel cage bars and rotor starts rotating just like an induction motor. When the rotor has achieved its maximum
speed, rotor field coils are energized. So as discussed, earlier poles of rotor get locked with poles of RMF and will start rotating
at synchronous speed. When rotor rotates at synchronous speed, relative motion between squirrel cage and RMF is zero. This
means zero current and force on squirrel cage bars, thus it will not affect synchronized operation of the motor. Synchronous
motors will produce constant speed irrespective of motor load only if the load is within the capability of motor. If external
torque load is more than torque produced by the motor, it will slip out of synchronism and will come to rest. Low supply
voltage and excitation voltage are other reasons of going out of synchronism. It is interesting to note that synchronous motor
has got the same constructional features of an alternator. Synchronous motors also help in improving overall power factor of
the system. That's all about working of synchronous motors. Thank you.

Nguyên lý làm việc của động cơ đồng bộ.


Như tên gọi của nó động cơ đồng bộ có khả năng chạy với tốc độ không đổi mà không bị ảnh hưởng bởi tải của chúng. Chúng là
những cái máy với hiệu suất cao và chủ yếu được sử dụng trong các ứng dụng có độ chính xác cao. Đặc tính tốc độ không đổi
đạt được bằng sự tương tác giữa từ trường quay và từ trường không đổi. Rotor của động cơ đồng bộ tạo ra một từ trường
không đổi và stator tạo ra một từ trường quay. Các cuộn dây stator được cung cấp bởi nguồn điện xoay chiều 3 pha AC. Điều
này sẽ tạo ra một từ trường quay, nó quay với tốc độ đồng bộ. Rotor được kích từ bằng một nguồn điện một chiều DC nên
rotor hoạt động như một nam châm vĩnh cửu. Ngoài ra, rotor có thể được làm bằng nam châm vĩnh cửu. Sự tương tác giữa
rotor và từ trường quay rất thú vị. Giả sử rotor quay vòng đầu tiên cùng chiều với chiều quay của từ trường quay, bạn có thể
thấy rằng các cực khác cực tính của từ trường quay và rotor sẽ bị hút lẫn nhau và chúng sẽ bị khóa bởi từ tính. Điều này có
nghĩa là rotor sẽ quay cùng tốc độ với tốc độ của từ trường quay. Hay rotor quay với tốc độ đồng bộ. Điều này có nghĩa là nếu
ta có thể kiểm soát được tần số điện, tốc độ của động cơ đồng bộ có thể được kiểm soát rất chính xác. Nhưng nếu rotor không
có sự chuyển động quay ban đầu, thì tình hình ngày càng khác. Cực bắc của rotor sẽ bị hút bởi cực nam của từ trường quay và
sẽ bắt đầu chuyển động cùng chiều quay của Từ trường quay. Nhưng khi rotor có quán tính, tốc độ khởi động sẽ rất thấp. Vào
lúc này, cực nam của từ trường quay sẽ được thay thế bởi cực bắc của nó và chúng sẽ đẩy nhau. Rôto sẽ không thể khởi động
hoặc động cơ đồng bộ vốn không tự khởi động. Để làm cho động cơ đồng bộ tự khởi động, một lồng sóc được ngắn mạch 2 đầu
bằng vòng ngắn mạch được gắn vào rotor. Lúc khởi động thì các cuộn dây của rotor không được cấp năng lượng. vì vậy với sự
tác động của từ trường quay, sẽ có dòng điện cảm ứng trong các thanh dẫn của lồng sóc, lúc này trở thành trường hợp
dòng điện đặt trong từ trường nên sẽ có lực điện từ tác động vào rotor và rotor bắt đầu quay giống như trường hợp của động
cơ cảm ứng rotor lồng sóc. Khi rotor đạt được tốc độ lớn nhất, các cuộn dây rotor được cấp năng lượng. Do đó, như đã đề
cập ở trên, các cực của rotor sẽ bị khóa với các cực của từ trường quay và sẽ quay với tốc độ đồng bộ. khi rotor chuyển động ở
tốc độ đồng bộ, chuyển động tương đối giữa lồng sóc và từ trường quay là bằng 0. Điều này có nghĩa là không có dòng điện và
lực trên các thanh dẫn của lồng sóc. Do đó nó không ảnh hưởng đến hoạt động của động cơ đồng bộ. Động cơ đồng bộ sẽ chạy
với tốc độ không đổi nếu tải của động cơ nằm trong công suất của động cơ. Nếu momen tải lớn hơn momen do động cơ sinh ra,
nó sẽ không còn tính đồng bộ và sẽ dừng. Điện áp cấp và điện áp kích từ thấp cũng sẽ dấn đến động cơ sẽ không còn tính đồng
bộ nữa. Thật thú vị khi Động cơ đồng bộ có cấu tạo gần giống với máy phát điện. Động cơ đồng bộ cũng giúp cải thiện hệ số
công suất tổng thể của hệ thống. Đó là tất cả về nguyên lý hoạt động của động cơ đồng bộ. Cảm ơn!

You might also like