Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 115

Danh sách sự kiện hư cấu trong Tam Quốc diễn nghĩa – Wikipedia ....................................................................

1
Nhân vật hư cấu thời Tam Quốc – Wikipedia ....................................................................................................... 7
Lật tẩ y 99 tình tiết... bịa đặt trong Tam Quốc diễn nghĩa .................................................................................... 15
“Tam Quốc diễn nghĩa” đã hư cấu hình tượng Quan Vũ đến mức nào? ............................................................ 21
Sự thực của một số tình tiết hư cấu .................................................................................................................... 25
Tình tiết hư cấu ............................................................................................................................................... 27
Tình tiết hư cấu liên quan đến Lưu Bị ............................................................................................................. 30
Tình tiết hư cấu ................................................................................................................................................... 30
5 chi tiết xuyên tạc trong Tam Quốc diễn nghĩa khiến Chu Du bị hậu thế “dìm hàng” không thương tiếc .......... 32
Tam Quốc diễn nghĩa: Không phải Quan Vũ đây mới là người trảm mãnh tướng Hoa Hùng............................. 34
Những “bịa đặt chết người” trong “Tam Quốc diễn nghĩa” .................................................................................. 37
Kỳ 1: Nhào nặn, tô vẽ lịch sử .......................................................................................................................... 37
Kỳ 2? ............................................................................................................................................................... 41
Kỳ 3: Gia Cát Lượng “cướp” công Tôn Quyền, Lưu Bị, Chu Du...................................................................... 44
Kỳ 4: 6 sai lầm chiến lược của Khổng Minh .................................................................................................... 46
Kỳ 5: Người tình bí mật của Quan Công ......................................................................................................... 48
Kỳ 6: Hình tượng Tào Tháo ............................................................................................................................. 50
Chú giải về nhân vật hư cấu ............................................................................................................................... 64
Điêu Thuyền .................................................................................................................................................... 64
Ngô Quốc Thái ................................................................................................................................................ 64
Chúc Dung ...................................................................................................................................................... 65
Tam Quốc: lịch sử diễn nghĩa và diễn nghĩa lịch sử ........................................................................................... 65
Sự thật về các nhân vật Tam Quốc .................................................................................................................... 77
Những độc hại của Tam Quốc diễn nghĩa .......................................................................................................... 83
(Tiế p theo và hết) ............................................................................................................................................ 86
Vì những điều này, Tào Tháo mang tiếng oan ngàn năm, Quan Vũ, Khổng Minh cũng bị hiểu lầm ................... 88
Sự thật lịch sử về thời Tam Quốc ! ..................................................................................................................... 91
Sự thật bất ngờ về điển tích “kết nghĩa đào viên” trong Tam Quốc .................................................................. 101
Võ Thánh Quan Vũ chưa từng cầm Thanh Long đao huyền thoại?.................................................................. 108
Thực hư Quan Vũ lấy đầu Nhan Lương, qua năm ải chém sáu tướng Tào ..................................................... 109

Danh sách sự kiện hư cấu trong Tam Quốc diễn nghĩa – Wikipedia

https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh_s%C3%A1ch_s%E1%BB%B1_ki%E1%BB%87n_h%C6%B0_c
%E1%BA%A5u_trong_Tam_qu%E1%BB%91c_di%E1%BB%85n_ngh%C4%A9a

1 Lời thề vườn đào

Không có hội thề, sử sách chỉ nói ba người Lưu, Quan, Trương ngủ cùng giường, tình như anh
em [Tam quốc chí, Quan Vũ truyện] và Trương Phi nhận Quan Vũ làm anh [Tam quốc chí,
Trương Phi truyện]

2 Trương Phi muốn giết Đổng Trác nhưng Lưu Bị không cho

Tôn Kiên muốn giết Đổng Trác khi đánh Hàn Toại nhưng Trương Ôn không đồng ý [Trịnh Phúc
Điền]

3 Trương Phi say rượu đánh Đốc bưu

Lưu Bị đánh Đốc bưu [Lê Đông Phương]


4 Tào Tháo ám sát Đổng Trác thất bại, hiến Thất tinh đao

Tào Tháo chỉ rời bỏ Đổng Trác [Lê Đông Phương]

5 Trần Cung thả Tào Tháo

Viên công tào thả Tào Tháo sử không chỉ đích danh là Trần Cung mà chỉ nêu chung chung là
viên quan ở huyện Trung Mâu[5]

6 Tào Tháo phát hiệu triệu chư hầu

Kiều Mạo phát hiệu triệu chư hầu[6]

7 17 lộ chư hầu đánh Đổng Trác

11 chư hầu đánh Đổng Trác.[7]

8 Quan Vũ chém Hoa Hùng

Tôn Kiên giết Hoa Hùng[8]

9 Tam anh chiến Lã Bố

Lưu, Quan, Trương không tham gia liên minh đánh Đổng Trác[8]

10 Mã Siêu đâm chết Lý Mông và bắt sống Vương Phương khi mới 17 tuổi

Sử sách không đề cập, thay vào đó chỉ chép một sự kiện khác là Mã Siêu trực tiếp dẫn quân Tây
Lương đánh tan quân Quách Viên, Cao Cán trong trận sông Phần

11 Điêu Thuyền làm mỹ nhân liên hoàn kế

Điêu Thuyền là tên một nhân vật hư cấu, Vương Doãn xúi giục Lã Bố giết Đổng Trác vì trước đó
Lã Bố tư thông với tiện thiếp của Đổng Trác (không rõ tiện thiếp đó có phải tên là Điêu Thuyền
hay không)[9]

12 Lã Bố bị Đổng Trác ném kích ở Phụng Nghi Đình

Lã Bố tư thông với một a hoàn (không rõ tên) của Đổng Trác và bị Đổng Trác phi kích vì việc
khác[9]

13 Điển Vi một tay dựng cột cờ lớn trong trại Tào Tháo

Điển Vi giữ cột cờ khi còn phục vụ Trương Mạo[10]

14 Tào Tháo ví Viên Thuật như “xương khô trong mả”

khi uống rượu luận anh hùng với Lưu Bị ở Hứa Xương

Người ví Viên Thuật như “xương khô trong mả” là Khổng Dung. Khi Đào Khiêm muốn bàn giao
Từ châu cho Lưu Bị, Lưu Bị không dám nhận mà tiến cử Viên Thuật. Đào Khiêm liền hỏi ý kiến
Khổng Dung, Khổng Dung chê Thuật không thể đảm đương bằng nhận xét này.[11]

15 Quan Vũ ra ba điều ước

Quan Vũ hàng Tào không ra điều ước

16 Quan Vũ qua năm ải chém sáu tướng


Sử sách chỉ chép Quan Vũ về với Lưu Bị chứ không ghi chép cụ thể hành trình và diễn biến

17 Quan Vũ chém Sái Dương ở Cổ Thành

sau 3 hồi trống (trước trận Quan Độ) Lưu Bị giết Sái Dương sau trận Quan Độ

18 Tôn Sách chém Vu Cát và bị Vu Cát ám ảnh phát bệnh chết

Tôn Sách bị gia nhân của Hứa Cống ám sát.

19 Viên Thiệu mang 70 vạn quân ra trận Quan Độ, Tào Tháo có 7 vạn

Không rõ số quân, chỉ chắc chắn quân Viên Thiệu đông, mạnh hơn và dưới 70 vạn quân.

20 Trình Dục giả mạo thư của mẹ Từ Thứ

Mẹ Từ Thứ tự nguyện viết thư gọi con[12]

21 Từ Thứ ra đi đã vòng lại để tiến cử Gia Cát

Từ Thứ và Gia Cát cùng phục vụ Lưu Bị một thời gian[12]

22 Gia Cát Lượng bày kế cho Lưu Bị hỏa thiêu gò Bác Vọng

Lưu Bị tự đốt Bác Vọng trước khi có Gia Cát[13]

23 Gia Cát Lượng hỏa thiêu Tân Dã

Trận Tân Dã không có thật[14]

24 My phu nhân trao A Đẩu cho Triệu Vân và tử tiết

Cam phu nhân tự chạy thoát Triệu Vân cứu mẹ con Cam phu nhân ở Tràng Bản[15][16]

25 Trương Phi hét lớn khiến cho Hạ Hầu Kiệt chết ở cầu Trường Bản

Trương Phi chỉ án ngữ cầu và hò hét, quân Tào không ai dám lại đánh và cũng không ai chết
cả[17] sau đó đốt cầu

26 Gia Cát Lượng đối đáp với quần nho Đông Ngô

Gia Cát Lượng chỉ sang Đông Ngô để đề nghị liên minh

27 Ngô quốc thái nhắc Tôn Quyền gọi Chu Du theo lời dặn của Tôn Sách Tôn Sách chết mà sử
không chép là dặn dò gì, bản thân Ngô quốc thái chỉ là nhân vật hư cấu

28 Tào Tháo có 83 vạn quân trong trận Xích Bích Số quân Tào chỉ khoảng 22 vạn[18]

29 Gia Cát Lượng mượn bài phú Đài Đồng Tước của Tào Thực để khích Chu Du đánh trận Xích
Bích

Sau trận Xích Bích, Tào Tháo mới xây đài, Tào Thực mới làm bài phú

30 Chu Du lừa Tưởng Cán trong trận Xích Bích

Chu Du chối từ Tưởng Cán sau trận Xích Bích[19]

31 Gia Cát Lượng dùng thuyền cỏ mượn tên

thu hàng vạn mũi tên của Tào Tháo trong trận Xích Bích
Tôn Quyền dùng thuyền hứng mũi tên của Tào Tháo trong trận Nhu Tu năm 213

32 Hoàng Cái dùng kế khổ nhục, Hám Trạch khi dâng thư trá hàng phải đấu trí với Tào Tháo

Việc gửi thư trá hàng của Hoàng Cái lập tức được Tào Tháo tin theo, không cần phải bày kế khổ
nhục và cũng không cần Hám Trạch phải đấu trí với Tào Tháo[20]

33 Bàng Thống hiến kế liên hoàn trong trận Xích Bích

Bàng Thống không tham gia trận Xích Bích

34 Khổng Minh làm phép cầu gió đông

Khổng Minh không đóng vai trò “gọi gió” trong trận Xích Bích, đây chỉ là sự hư cấu của La Quán
Trung

35 Đường Hoa Dung, Quan Vũ tha Tào Tháo

Lưu Bị chặn đánh Tào Tháo ở Hoa Dung, quân ít không ngăn cản được nên Tào Tháo thoát.

36 Khổng Minh thừa cơ chiếm cả Giang Lăng, Tương Dương từ tay Tào Nhân

nẫng tay trên của Chu Du khiến Chu Du phát uất thổ máu

Tào Nhân vẫn giữ thành Tương Dương, thời Tam Quốc, Ngụy chưa từng mất nơi này, còn Chu
Du chiếm được Giang Lăng năm 209

37 Thái thú Trường Sa là Hàn Huyền bị Ngụy Diên giết chết vì định giết Hoàng Trung

Ngụy Diên thuyết phục được Hoàng Trung kích động các tướng sĩ không theo lệnh của Hàn
Huyền, khiến Hàn Huyền buộc phải đầu hàng[21]

38 Lưu Bị và Gia Cát Lượng ký giấy “mượn Kinh châu”

Lỗ Túc theo lệnh Tôn Quyền và Chu Du đi “đòi Kinh châu”;

Lưu Bị và Gia Cát Lượng phải thỉnh cầu Tôn Quyền để được bàn giao Giang Lăng, đánh đổi nửa
quận Giang Hạ của Lưu Kỳ mới mất mà có

39 Chu Du chết vì bị Khổng Minh chọc tức 3 lần, trước khi chết còn uất ức than rằng: Trời đã
sinh Du sao còn sinh Lượng

Chu Du ốm chết, không phải do Gia Cát Lượng chọc tức, và sử sách không đề cập đến chuyện
than thở gì.[22]

40 Mã Siêu cất quân báo thù cha Mã Siêu khởi binh chống Tào khi cha đang trong tay Tào. Mặt
khác, Tào Tháo là người chủ động khai chiến chứ không phải là Mã Siêu[23]

41 Bàng Thống bị Trương Nhiệm bắn chết ở gò Lạc Phượng, sau đó Gia Cát Lượng bắt Trương
Nhiệm Bàng Thống chết ở Lạc Thành, Lưu Bị tự chiếm Lạc Thành bắt Trương Nhiệm.[24]

42 Cuộc đọ sức giữa các hổ tướng: Trương Phi, Lã Bố, Điển Vi, Hứa Chử, Mã Siêu (Lã Bố với
Trương Phi, Điển Vi, Hứa Chử; Mã Siêu với Hứa Chử; Mã Siêu với Trương Phi; Trương Phi với
Hứa Chử) Tam Quốc chí chỉ ghi chép trường hợp Mã Siêu trực tiếp đối mặt với Hứa Chử trước
trận mà không đề cập đến cuộc chiến tay đôi của các tướng khác.
43 Tôn Quyền bắt giam gia quyến Gia Cát Cẩn – anh của Gia Cát Lượng, gây sức ép buộc Lưu
Bị trả 3 quận Trường Sa, Linh Lăng và Quế Dương Tôn Quyền tập kích phía nam Kinh châu,
chiếm 3 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa chứ không hề bắt giam gia đình Cẩn. Bản thân
Cẩn chưa hề sang Thục gặp Lượng gì cả.

44 Quan Vũ một đao tới hội với Lỗ Túc năm 215 Lưu Bị một thuyền tới gặp Chu Du trước trận
Xích Bích (208)

45 Quan Vũ đánh chiếm được Tương Dương lần thứ hai năm 219 Trong trận Tương Dương-
Phàn Thành năm 219, Quan Vũ không chiếm được Tương Dương (nhắc lại lần nữa là Tương
Dương do Tào Nguỵ cai quản và chưa hề mất lần nào cả).

46 Lã Mông bị Quan Vũ hiện hồn ám dẫn đến phát bệnh chết Lã Mông có bệnh từ trước và chết
sau khi chiếm Kinh châu. Đó chỉ là sự hư cấu của tác giả La Quán Trung.

47 Tào Thực làm “bài thơ bảy bước” Bài thơ do La Quán Trung sáng tác cho Tào Thực, Tào Phi
chưa từng định ép chết Tào Thực, chỉ là phong tước đi nơi khác mà thôi.

48 Cái chết của Cam Ninh trong trận Di Lăng Cam Ninh không phải do Sa Ma Kha bắn tên giết

49 Lưu Bị có 70 vạn quân trong trận Di Lăng Quân Thục chỉ có 4 vạn, ít hơn cả quân Ngô (5
vạn)[25][26]

50 Gia Cát Lượng mắng chết Vương Lãng ngoài mặt trận thời Tào Tuấn Hai người chỉ thư từ
thời Tào Phi, Vương Lãng không chết, đó là sự hư cấu.

51 Gia Cát Lượng cho người đón mẹ Khương Duy ở huyện Ký để buộc Khương Duy về hàng
Mẹ Khương Duy vẫn ở Nguỵ, viết thư gọi con về Khương Duy không chịu về[27]

51 Kế không thành của Gia Cát Lượng Mưu kế tương tự của tướng Tống trong chiến tranh Lưu
Tống-Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều[28] Thực ra, Gia Cát Lượng đúng là đã có lần ngồi trước
doanh trại quân Tào để chơi cờ, xung quanh chỉ có mấy tiểu đồng phục vụ, quân Ngụy sợ phục
binh nên không dám ra (không phải là Gia Cát Lượng ngồi trong thành gảy đàn khi quân Ngụy
của Tư Mã Ý tấn công)

52 Trương Bào là tướng tham chiến Bắc phạt Trương Bào chết yểu, không làm tướng Thục[29]

53 Khổng Minh 6 lần ra Kỳ Sơn Khổng Minh 5 lần đánh Ngụy, trong đó chỉ ra Kỳ Sơn lần thứ
nhất và lần thứ tư[30]

54 Khổng Minh tăng bếp lừa Tư Mã Ý Mẹo của Ngu Hủ lừa quân Khương trước đó 70 năm[31]

55 Hỏa thiêu hang Thượng Phương Sự kiện này không có thật

56 Khương Duy, Dương Nghi dùng tượng gỗ Khổng Minh (mới qua đời) để đánh đuổi Tư Mã
Ý Khương Duy và Dương Nghi hành quân nghiêm chỉnh, không vội phát tang Gia Cát, giả cách
quay lại đối đầu làm Tư Mã Ý phải rút lui[30]

57 Khương Duy bắn chết Quách Hoài. Quách Hoài chết già.

Tham khảo

Lê Đông Phương (2007), Kể chuyện Tam Quốc, Nhà xuất bản Đà Nẵng.
Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân (2006). Tướng soái cổ đại Trung Hoa, tập 1.
Nhà xuất bản Lao động.

Dịch Trung Thiên (2010), Phẩm Tam Quốc, Nhà xuất bản Công an nhân dân.

Trần Văn Đức (2008), Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện, Nhà xuất bản Văn học.

Thẩm Khởi Vĩ (2007), Kể chuyện Lưỡng Tấn Nam Bắc triều, Nhà xuất bản Đà Nẵng

Trần Thọ, Tam Quốc chí, Bùi Tùng Chi chú

Tam Quốc: lịch sử diễn nghĩa và diễn nghĩa lịch sử

Chú thích

1.^ Tam quốc chí, quyển 36, Quan Vũ truyện

2.^ Tam quốc chí, quyển 36, Trương Phi truyện

3.^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 698

4.^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 94

5.^ a ă Lê Đông Phương, Vương Tử Kim, sách đã dẫn, tr 350

6.^ Lê Đông Phương, Vương Tử Kim, sách đã dẫn, tr 371

7.^ Lê Đông Phương, Vương Tử Kim, sách đã dẫn, tr 352

8.^ a ă Vương Tử Kim, Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 353

9.^ a ă Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 51

10.^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 522

11.^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 96

12.^ a ă Trần Văn Đức, sách đã dẫn, tr 116

13.^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 111. Các sử gia căn cứ theo Truyện Lý Điển. Lý Điển tham
gia trận này trước trận Nghiệp Thành (204). Gia Cát Lượng đến theo Lưu Bị từ năm 207

14.^ Dịch Trung Thiên, sách đã dẫn, tập 1, tr 360

15.^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 392

16.^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 647

17.^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 619

18.^ Lê Đông Phương (2007), sách đã dẫn, tr 197

19.^ Dịch Trung Thiên, sách đã dẫn, tập 2, tr 395.

20.^ Lê Đông Phương (2007), sách đã dẫn, tr 213

21.^ Trần Văn Đức, sách đã dẫn, tr 160

22.^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 767

23.^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, Sđd, trang 672
24.^ Trần Văn Đức, sách đã dẫn, tr 254

25.^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 285

26.^ Trần Văn Đức, sách đã dẫn, tr 350

27.^ Tam quốc chí, quyển 44, Khương Duy truyện

28.^ Thẩm Khởi Vĩ, sách đã dẫn, tr 327

29.^ Lê Đông Phương, sách đã dẫn, tr 394

30.^ a ă Tam quốc chí, quyển 35, Gia Cát Lượng truyện

31.^ Trịnh Phúc Điền, Khả Vĩnh Quyết, Dương Hiệu Xuân, sách đã dẫn, tr 438

Lê Đông Phương (2007), Kể chuyện Tam Quốc. Nhà xuất bản Đà Nẵng.

Nhân vật hư cấu thời Tam Quốc – Wikipedia

Wikipedia. Nhân vật hư cấu thời Tam Quốc.


https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A2n_v%E1%BA%ADt_h%C6%B0_c%E1%BA%A5u_th
%E1%BB%9Di_Tam_Qu%E1%BB%91c

Dưới đây là danh sách các nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử Tam Quốc diễn nghĩa của nhà
văn La Quán Trung. Thời đại Tam Quốc theo La Quán Trung bắt đầu từ năm 183 với cuộc khởi
nghĩa Khăn Vàng cho đến khi Tư Mã Viêm thống nhất ba nước vào năm 280, mặc dù hình thế 3
nước chỉ hình thay vào năm 220 khi Tào Phi phế Hán Hiến Đế để lên ngôi vua, hay ít ra là cục
diện cơ bản hình thành sau trận Xích Bích.

Tiểu thuyết này là một thiên trường lịch sử với hàng loạt nhân vật xoay quanh các trận chiến hào
hùng, La Quán Trung đã dựa vào các ghi chép của sử sách mà chủ yếu là Tam Quốc chí của Trần
Thọ và được Bùi Tùng Chi chú giải cộng thêm với sự thu thập từ các truyền thuyết, các dã sử,
câu chuyện dân gian và hư cấu thành kết quả “bảy phần thực, ba phần hư”. Rất nhiều nhân vật
trong Tam Quốc diễn nghĩa đã được sử sách xác nhận, tuy nhiên vẫn còn nhiều nhân vật chưa thể
kiểm chứng bằng chính sử.

 Hồi 1:

1. Nam Hoa lão tiên (南华老仙), người truyền Thái Bình yếu thuật cho Trương Giác.[note 1]
2. Trình Viễn Chí, tướng Khăn vàng, bị Quan Vũ giết.
3. Đặng Mậu, tướng của Trình Viễn Chí, bị Trương Phi giết.

4. Cung Cảnh (龚景), Thái thú Thanh Châu, cầu viện Lưu Yên. Thái thú Thanh Châu đương
thời trong chính sử là Hoàng Uyển.

5. Trình Khoáng (程旷), một trong Thập thường thị, chép sai tên của Thường thị Trình
Hoàng (程璜).
 Hồi 2:

6. Cao Thăng (高昇), tướng giặc khăn vàng bị Trương Phi giết.
7. Nghiêm Chánh (嚴政), tướng giặc khăn vàng, người đã giết thủ lĩnh của mình là Trương
Bảo rồi đầu hàng quân Hán

8. Tôn Trọng (孫仲), tướng của giặc khăn vàng, bị Lưu Bị bắn hạ.

9. Lưu Khôi (刘恢), Thái thú Đại Châu, được ba anh em Lưu Quan Trương cứu viện. Trong
chính sử có tên Lưu Khôi là con trai thứ năm của Hán Cao Tổ.
10. Hàn Trung, tướng của giặc khăn vàng, bị ba anh em Lưu Quan Trương bắn chết.
 Hồi 3:

11. Triệu Manh (赵萌), Hữu Quân Giáo úy nhà Hán, chép sai nhân vật Tả Quân Giáo úy Triệu
Dung (赵融) trong chính sử.
12. Thôi Nghị, em trai Thôi Liệt.
 Hồi 5:

13. Bào Trung (鮑忠) hay Pháo Trung, em của Bào Tín (Pháo Tín) bị Hoa Hùng giết.

14. Du Thiệp (俞涉), tướng của Viên Thuật, bị Hoa Hùng giết.

15. Phan Phụng (潘鳳), tướng của Hàn Phức, bị Hoa Hùng giết.

16. Mục Thuận (穆順), tướng của Trương Dương bị Lã Bố hạ.

17. Phương Duyệt (方悅), tướng của Vương Khuông, bị Lã Bố hạ.

18. Vệ Hoằng (卫弘), người giúp đỡ Tào Tháo, nguyên mẫu lịch sử là Vệ Tư (卫兹).

19. Vũ An Quốc (武安國), tướng của Khổng Dung, bị Lã Bố chém gãy tay.
20. Triệu Xầm, tướng của Đổng Trác.
 Hồi 6:

21. Phạm Khang (范康), một trong bát tuấn, nguyên mẫu chính sử là Uyển Khang.
 Hồi 7:

22. Quan Thuần (關純), Biệt giá của Hàn Phức, nguyên mẫu chính sử là Mẫn Thuần (閔純).

23. Ngô quốc thái (吳國太), vợ lẽ của Tôn Kiên, em gái của Ngô phu nhân, vợ cả của Tôn
Kiên, mẹ của Tôn Lãng và Tôn phu nhân.

24. Kiều quốc lão (喬國老), bố của Nhị Kiều, giúp đỡ Lưu Bị gặp mặt Ngô quốc thái.
 Hồi 8:

25. Điêu Thuyền (貂蟬), giai nhân tuyệt sắc, con nuôi của Vương Doãn
 Hồi 10:

26. Lý Biệt (李別), cháu của Lý Thôi, người đã báo cáo lại cho Lý Thôi chuyện Phàn Trù tha
cho Hàn Toại, sau bị Hứa Chử chém. Nguyên mẫu trong lịch sử là Lý Lợi, cháu Lý Thôi.
 Hồi 11:

27. Tôn Bảo (宗寶), tướng của Khổng Dung, sử dụng một cây giáo, sau bị Quản Hợi dư đảng
giặc khăn vàng chém chết, theo đó khi Quản Hợi múa đao tế ngựa nhảy thẳng vào đánh
Khổng Dung thì Tôn Bảo, vác giáo nhảy ra địch, được vài hiệp bị Quản Hợi chém chết.
Nguyên mẫu chính sử có thể là Trịnh Ích (鄭益), con trai Trịnh Huyền.
28. Hỏa Đức Tinh Quân (火德星君), vị thần đến đốt nhà My Trúc.
 Hồi 13:

29. Thôi Dũng (崔勇), tướng của Quách Dĩ, bị Từ Hoảng giết chết sau một hiệp đấu.
 Hồi 14:
30. Lý Thiêm, cháu của Lý Thôi, bị Hứa Chử giết cùng với Lý Biệt.

31. Tuân Chính (荀正), phó tướng của Kỉ Linh, bị Quan Vũ giết.

32. Phạm Thành (范成), Lạc Dương lệnh dưới quyền Tào Tháo.
 Hồi 15:

33. Trần Hoành (陳橫), tướng của Lưu Do, sau bị Tưởng Khâm giết.

34. Dương Đại tướng (杨大将), Trưởng sử của Viên Thuật, nguyên mẫu là Dương Hoằng (杨
弘). Các bản Tam Quốc diễn nghĩa ngày nay đều sửa thành “Dương Hoằng”.
 Hồi 17:

35. Vương Hậu (王垕), nhân viên phụ trách lương thảo của Tào Tháo, bị Tào Tháo “mượn”
đầu để trấn an lòng quân.

36. Lôi Tự (雷叙), bộ tướng của Trương Tú.

37. Trương Tiên (张先), bộ tướng của Trương Tú, bị Hứa Chử giết.
 Hồi 19:

38. Lưu An (劉安), thợ săn


 Hồi 23:

39. Trần Khánh Đồng, nguyên tác là Tần Khánh Đồng (秦庆童), người hầu trong nhà của
Đổng Thừa, người đã vì bất mãn nên đã đi tố giác âm mưu của Đổng Thừa hành thích
Tào Tháo

40. Vân Anh (雲英), người nữ hầu của Đổng Thừa, đồng mưu với Trần Khánh Đồng
 Hồi 27:
41. Đỗ Viễn, dư đảng Khăn vàng, bị Liêu Hóa giết.

42. Hồ Hoa (胡華), cha Hồ Ban.


43. Khổng Tú, tướng trấn cửa Đông Linh của Tào Tháo, bị Quan Vũ hạ.
44. Hàn Phúc, thái thú Lạc Dương, bị Quan Vũ hạ.
45. Mạnh Thản, phó tướng của Hàn Phúc, bị Quan Vũ hạ.
46. Biện Hỉ, tướng phòng thủ Phí Thủy Quan, bị Quan Vũ giết.

47. Phổ Tĩnh, nguyên tác Phổ Tịnh (普净), nhà sư giúp đỡ Quan Vũ phá kế hoạch của Biện
Hỉ.

48. Vương Trực, nguyên tác ghi Vương Thực (王植), thái thú Huỳnh Dương, bị Quan Vũ giết.
49. Hồ Ban, bộ tướng của Vương Trực, con Hồ Hoa.
50. Tần Kỳ, bộ tướng của Hạ Hầu Đôn, bị Quan Vũ hạ.
 Hồi 28:
51. Bùi Nguyên Thiệu (裴元紹), dư đảng Khăn vàng, bị Triệu Vân giết.

52. Chu Thương (周倉), hộ vệ của Quan Vũ, có ghi chép trong Sơn Tây Thông chí (không
phải chính sử).

53. Quách Thường (郭常), người đã bảo vệ ngựa Xích Thố cho Quan Vũ khỏi bị trộm.

54. Quan Định (關定), cha của Quan Bình, người đã gửi gắm Quan Bình cho Quan Vũ.

55. Quan Ninh (關寧), anh trai của Quan Bình.


 Hồi 30:

56. Tân Minh (辛明), tướng của Viên Thiệu, người được lệnh đem năm vạn quân đi cứu Lê
Dương, đi ngay trong đêm.
 Hồi 32:

57. Uông Chiêu (汪昭), tướng của Viên Đàm, bị Từ Hoảng chém chết sau vài hiệp đấu.

58. Sầm Bích (岑璧), tướng của Viên Đàm, bị Lữ Khoáng chém chết sau vài hiệp đấu.
 Hồi 33:

59. Bành An (彭安), tướng của Viên Đàm, bị Từ Hoảng chém chết sau vài hiệp đấu.

60. Ô Hoàn Xúc (乌桓触), nguyên tác ghi chép, Thứ sử U Châu, nguyên bản trong chính sử là
Tiêu Xúc, các bản Tam Quốc diễn nghĩa ngày nay đều sửa thành “Tiêu Xúc”.
 Hồi 34:

61. Trương Vũ (張武), thủ lĩnh sơn tặc ở Giang Hạ, bị Triệu Vân đâm chết sau chưa đầu 3
hiệp đấu. Trương Vũ chính là người chủ đầu tiên của ngựa Đích Lô (sau bị Triệu Vân đoạt
và dâng cho Lưu Bị). Nguyên mẫu trong chính sử có thể là phản quân Trương Hổ (張虎)
ở Giang Hạ

62. Trần Tôn (陳孫), thủ lĩnh sơn tặc ở Giang Hạ, bị Trương Phi đâm chết khi định đoạt lại
ngựa Đích Lư.
 Hồi 41:

63. Hạ Hầu Ân (夏侯恩), đới đao hộ vệ của Tào Tháo, bị Triệu Vân giết

64. Thuần Vu Đạo (淳于導), bộ tướng của Tào Nhân, bị Triệu Vân giết

65. Yến Minh (晏明), bộ tướng của Tào Hồng, bị Triệu Vân giết

66. Trung Tấn (鐘縉), bộ tướng Hạ Hầu Đôn, bị Triệu Vân giết

67. Trung Thân (鐘紳), bộ tướng Hà Hậu Đôn, bị Triệu Vân giết
 Hồi 45:

68. Sái Huân (蔡塤), em trai của Sái Mạo, bị Cam Ninh bắn tên giết chết

69. Sái Hòa (蔡和), em Sái Mạo, trá hàng Đông Ngô

70. Sái Trung (蔡中), em Sái Mạo, trá hàng Đông Ngô
 Hồi 52:

71. Lưu Hiền (劉賢), con trai của Lưu Độ


72. Hình Đạo Vinh (邢道榮), đại tướng của Lưu Độ, một viên tướng được Lưu Hiền giới thiệu
là sức địch muôn người, sử dụng búa khai sơn. Sau bị Triệu Vân giết

73. Pháo Long (鮑隆), Quản quân Hiệu úy dưới trướng của Triệu Phạm, xuất thân là tay săn
bắn ở vùng núi Quế Dương, từng bắn giết được hai con hổ một lúc, cậy mình có sức
khoẻ, sau bị Triệu Vân giết

74. Trần Ứng (陳應), Quản quân Hiệu úy dưới trướng của Triệu Phạm, xuất thân là tay săn
bắn ở vùng núi Quế Dương, có tài lao đinh ba, sau bị Triệu Vân giết.
 Hồi 53:

75. Củng Chí (鞏志), quân sư của Kim Toàn, sau đầu hàng Lưu Bị

76. Dương Linh (楊齡), tướng của Hàn Huyền, bị Quan Vũ giết sau chưa đầy ba hiệp
77. Giả Hoa, tướng của Tôn Quyền

78. Qua Định (弋定), người cùng làng với Thái Sử Từ, và làm thủ hạ cho Thái Sử Từ
 Hồi 57:

79. Hoàng Khuê (黃奎), Thị lang (侍郎), mưu phản với Mã Đằng để giết Tào Tháo

80. Lý Xuân Hương (李春香), vợ của Hoàng Khuê

81. Miêu Trạch (苗澤), em vợ Hoàng Khuê, thông dâm với Lý Xuân Hương
 Hồi 58:

82. Chung Tấn (鐘進), em của Chung Do, bị Bàng Đức chém chết

83. Tào Vinh (曹永), bộ tướng của Tào Nhân, bị Bàng Đức chém chết
 Hồi 61:

84. Chu Thiện (周善), tướng của Tôn Quyền, cải trang sang Thục để dụ Tôn Thượng Hương
đem A Đẩu về Ngô, sau bị lộ và bị Trương Phi giết
 Hồi 62:

85. Tử Hư Thượng nhân (紫須上人), một dị nhân núi Cẩm Bình biết trước được số sinh, tử,
quý, tiện cho người ta
 Hồi 67:

86. Xương Kỳ (昌奇), phó tướng của Dương Nhiệm bị Hạ Hầu Uyên giết sau ba hiệp.

87. Dương Tùng (楊松), quân sư của Trương Lỗ, ghen ghét và gièm pha Mã Siêu

88. Dương Vệ (楊柏), tướng của Trương Lỗ, em của Dương Tùng
 Hồi 70:

89. Hạ Hầu Đức (夏侯德), cháu của Hạ Hầu Uyên, bị Nghiêm Nhan chém
 Hồi 71:

90. Mộ Dung Liệt (慕容烈), bộ tướng của Văn Sính, bị Triệu Vân giết

91. Tiêu Bính (焦炳), tướng của Ngụy, bị Triệu Vân giết
 Hồi 73:

92. Địch Nguyên (瞿元), bộ tướng của Tào Nhân, bị Quan Bình giết
93. Hạ Hầu Tồn (夏侯存), bộ tướng của Tào Nhân, bị Quan Vũ giết sau một hiệp đấu
 Hồi 80:

94. Tổ Bật (祖弼), quan giữ ấn tín của Hán Hiến Đế


 Hồi 82:
95. Lý Dị, bộ tướng của Tôn Hoàn, Tôn Hoàn cho rằng Lý Dị có sức khoẻ muôn người không
địch nổi, sử dụng một cây búa. Bị Quan Hưng giết
96. Tạ Tinh, bộ tướng của Tôn Hoàn, Tôn Hoàn cho rằng Tạ Tinh có sức khoẻ muôn người
không địch nổi bị Trương Bào giết

97. Đàm Hùng (譚雄), bộ tướng của Tôn Hoàn bị Quan Hưng bắt và giết

98. Thôi Vũ (崔禹), bộ tướng của Chu Nhiên, bị Trương Bào bắt sống sau một hiệp đấu
 Hồi 83:
99. Sử Tích, bộ tướng của Phan Chương, bị Hoàng Trung giết sau ba hiệp

100. Hạ Tuân (夏恂), bộ tướng của Hàn Đương, bị Trương Bào đâm chết.

101. Chu Bình (周平), em trai của Chu Thái, bị Quan Hưng đâm chết
 Hồi 84:

102. Thuần Vu Đan (淳于丹), bộ tướng của Lục Tốn


 Hồi 87:

103. Quan Sách (關索), con thứ ba của Quan Vũ

104. Ngạc Hoán (鄂煥), bộ tướng của Cao Định, Ngạc Hoán mình cao chín thước, mặt mũi
hung ác, dùng chiếc phương thiên kích, có sức khoẻ muôn người khôn địch. Ngạc Hoán
bị quân Thục gài mưu lợi dụng đã đâm chết cả Ung Dĩ và Chu Bao. Sau được quân Thục
phong cho làm nha tướng của Cao Định

105. Kim Hoàn Tam Kết (金環三結), tướng của Mạnh Hoạch bị Triệu Vân giết

106. Đổng Trà Na (董荼那), tướng của Mạnh Hoạch, sau bị Mạnh Hoạch xử tử

107. A Hội Nam (阿會喃), tướng của Mạnh Hoạch, sau bị Mạnh Hoạch xử tử

108. Mang Nha Trường (忙牙長), tướng của Mạnh Hoạch, người đã chiến thắng Vương Bình
trong một cuộc dụng độ, sau bị Mã Đại giết
 Hồi 89:

109. Đóa Tư (朵思大王), Động chúa động Thứu Long (禿龍洞)


110. Mạnh Ưu, em trai của Mạnh Hoạch, sau cùng anh đầu hàng quân Thục
111. Mạnh Tiết, anh trai ruột của Mạnh Hoạch, một ẩn sĩ, bất mãn với Mạch Hoạch nên xa lánh
thế sự.

112. Dương Phong (楊鋒), chúa động Ngân Dã, có 3 vạn quân mặc thiết giáp, giỏi nghề trèo
non vượt suối, tự giới thiệu năm con tinh thông võ nghệ, người nào cũng mình beo dáng
hổ, tướng giữ sức mạnh, còn có ba chục cô gái Man múa đao che mộc cực giỏi, xõa tóc,
đi chân không. Sau này Dương Phong bắt Mạnh Hoạch nộp cho Gia Cát Lượng
 Hồi 90:

113. Đái Lai Động chúa (帶來洞主), em của Chúc Dong


114. Chúc Dong phu nhân (祝融夫人), vợ Mạnh Hoạch

115. Mộc Lộc (木鹿大王), động chúa Bàn Xà động (八納洞)

116. Ngột Đột Cốt (兀突骨), vua nước Ô Qua (烏戈國)


117. Sĩ An, tướng của Ngột Đột Cốt
118. Hề Nê, tướng của Ngột Đột Cốt
 Hồi 91:

119. Trương Thao (張韜), người cận thần của quý phi Quách quý phi
 Hồi 92:

120. Hàn Đức (韓德), võ tướng của Tào, bị Triệu Vân giết

121. Hàn Anh (韓瑛), con cả của Hàn Đức, bị Triệu Vân giết

122. Hàn Giao (韓瑤), con thứ của Hàn Đức, bị Triệu Vân giết

123. Hàn Quỳnh (韓瓊), con Hàn Đức, bị Triệu Vân giết

124. Hàn Kỳ (韓琪), con Hàn Đức, bị Triệu Vân giết

125. Phan Toại (潘遂), bộ tướng của Hạ Hầu Mậu bị Triệu Vân đánh cho bỏ chạy

126. Đổng Hy (董禧), bộ tướng của Hạ Hầu Mậu, bị Quan Hưng giết.

127. Tiết Tắc (薛則), bộ tướng của Hạ Hầu Mậu, bị Trương Bào giết

128. Bùi Tự (薛則), quân của Thục, giả danh là bộ tướng tâm phúc của Hạ Hầu Mậu, chuyên đi
truyền tin, sau bị Khương Duy vạch trần

129. Thôi Lượng (崔諒), Thái thú quận An Định

130. Dương Lăng (楊陵), Thái thú quận Nam An, em trai của Dương Phụ
 Hồi 94:

131. Triệt Lý Cát (徹里吉), Vua Tây Khương

132. Nhã Đan (雅丹), Thừa tướng Văn của Tây Khương

133. Việt Cát (越吉), Nguyên soái võ của Tây Khương

134. Hàn Trinh (韓禎), tướng Thục phòng thủ ải Tây Bình
 Hồi 95:

135. Tô Ngung (蘇顒), bộ tướng của Quách Hoài bị Triệu Vân giết

136. Vạn Chính (萬政), bộ tướng của Quách Hoài, bị Triệu Vân bắn một phát tên ngã lăn xuống
khe núi. Sau đó Triệu Vân chỉ cảnh cáo và tha chết cho.

137. Trần Tạo (陳造), tướng nhà Ngụy của Tào Chân, bị Mã Đại chém chết
 Hồi 96:

138. Trương Phổ (張普), bộ tướng của Tào Hưu bị Từ Thịnh đánh cho bỏ chạy sau vài hiệp,
sau bị Chu Hoàn chém chết.

139. Tiết Kiều (薛喬), bộ tướng của Tào Hưu bị Toàn Tôn của Ngô đánh bại phải bỏ chạy
 Hồi 97:

140. Tạ Hùng (謝雄), tỳ tướng của Khổng Minh, bị Vương Song hạ sau chưa đầy ba hiệp

141. Cung Khởi (龔起), tướng Thục, tỳ tướng của Khổng Minh, bị Vương Song hạ nhanh
chóng
 Hồi 100:

142. Tần Lương (秦良), phó tướng của Tào Chân, bị Liêu Hóa giết sau một trận phục kích

143. Cẩu An (苟安), bộ tướng của Lý Nghiêm


 Hồi 102:

144. Sầm Uy (岑威), tướng của Ngụy, phụ trách dẫn quân dắt trâu ngựa gỗ vận lương của
quân Ngụy

145. Trịnh Văn (鄭文), tướng của Ngụy, trá hàng bị Khổng Minh phát hiện nên tương kế tựu kế
để đánh bại Tư Mã Ý sau đó chém Trịnh Văn
146. Tần Minh em ruột của Tần Lãng, bị Trịnh Văn chém chết.
 Hồi 103:

147. Trương Cầu (張球), bộ tướng của Mãn Sủng, lập công lớn trong việc đánh bại quân Ngô
do Gia Cát Cẩn chỉ huy
 Hồi 106:

148. Bùi Cảnh (裴景), Tả Đô đốc của quân Ngụy trong chiến dịch tấn công Công Tôn Uyên

149. Cứu Liên (仇連), Hữu Đô đốc của quân Ngụy trong chiến dịch tấn công Công Tôn Uyên
 Hồi 107:

150. Phan Cử (潘舉), bộ tướng của Tào Sảng, giữ cửa thành
 Hồi 109:

151. Vương Thao (王韜), chủ bộ của quân Tư Mã Chiêu, khi Tư Mã Chiêu bị vây, tham mưu
cho Tư Mã Chiêu bắt chước người xưa làm lễ cầu khấn nước, quả nhiên linh nghiệm
 Hồi 110:

152. Cát Ung (葛雍), tướng của Vô (Quán) Khâu Kiệm, bị Đặng Ngải chém sau chưa đầy một
hiệp

153. Tống Bạch (宋白), quan huyện của Thận Huyện, khi Vô Khâu Kiệm chạy đến đây, ông ta
mở cửa thành tiếp vào, mở tiệc khoan đãi. Khi Vô Khâu Kiệm say quá, Tống Bạch sai
người giết chết, rồi đem đầu đến nộp quân Ngụy

154. Trương Minh (張明), nha tướng của Vương Kinh (Ngụy)

155. Hoa Vĩnh (花永), nha tướng của Vương Kinh (Ngụy)

156. Lưu Đạt (劉達), nha tướng của Vương Kinh (Ngụy)

157. Chu Phương (朱芳), nha tướng của Vương Kinh (Ngụy)
 Hồi 111:

158. Bào Tố (鮑素), tướng Thục đóng quân tại hang núi Kỳ Sơn, bị Trần Thái đánh vỡ, chết
trận.
 Hồi 112:
159. Vương Chân (王真), bộ tướng của Tư Mã Vọng, bị tướng Thục là Phó Thiêm bắt sống
sau 10 hiệp đấu và bị quân Thục đâm chết

160. Lý Bằng (李鵬), bộ tướng của Tư Mã Vọng, bị tướng Thục là Phó Thiêm rút một cây quất
sắt bốn ngạnh vút một quất vào giữa mặt nên bậc nổ con ngươi ra ngoài, chết ngã xuống
ngựa.

161. Tăng Tuyên (曾宣), bộ tướng của Gia Cát Đản, sau đầu hàng quân Ngụy, Tăng Tuyên
phụ trách giữ cửa thành bèn dâng cửa bắc, mở toang cửa cho quân Ngụy kéo vào
 Hồi 113:

162. Trịnh Luân (鄭倫), phó tướng của Đặng Ngải, bị Liêu Hóa giết trong một trận phục kích

163. Đảng Quân (黨均), quân sư của Đặng Ngải, Đảng Quân xin đi vào Thục để ly gián nước
Thục. Đặng Ngải sai Đảng Quân mang vàng ngọc, châu báu vào Thành Đô, kết liên với
Hoàng Hạo, nói phao lên rằng Khương Duy có bụng oán thiên tử, không bao lâu tất về
hàng Ngụy. Hậu chủ lập tức sai người đi gấp đòi Khương Duy về triều
 Hồi 115:

164. Vương Quán (王灌), bộ tướng của Đặng Ngải, người bày kế cho Đặng Ngải

165. Đặng Đôn (鄧敦), quan Ngụy là Tiền tướng quân vì kiến nghị không hợp ý với Tư Mã
Chiêu nên bị chém
 Hồi 116:

166. Lưu Tốn (盧遜), tướng của Thục phòng thủ tại ải Nam Trịnh vì đắc thắng đuổi theo Chung
Hội nên đã bị Tuân Khải bắn tên giết chết
 Hồi 117:

167. Lý phu nhân (李氏), vợ của Mã Mặc tướng giữ thành Giang Du, khi Mã Mặc đầu hàng Lý
phu nhân đã tự thắt cổ chết để bày tỏ sự trung liệt với nhà Thục
 Hồi 118:

168. Thôi phu nhân (崔氏), vợ của Lưu Thầm (con Lưu Thiện), tự tử theo chồng để bày tỏ tấm
lòng trung liệt
 Hồi 119:
169. Trương Tiết (張節), Hoàng môn thị lang (黃門侍郎) của Ngụy, người phản đối Tư Mã Viêm
soán ngôi Ngụy nên đã bị Tư Mã Viên đánh chết

Lâ ̣t tẩ y 99 tình tiết... bịa đặt trong Tam Quốc diễn nghĩa

Lan Hương

Cùng với Thủy Hử, Tây Du Ký và Hồng Lâu mộng, 'Tam Quốc diễn nghĩa' của La Quán Trung
là một cuốn tiểu thuyết lịch sử xuất hiện cuối Nguyên đầu Minh, thế kỷ XV viết về 'Tam Quốc',
tức ba nước Ngụy, Thục, Ngô cùng tồn tại trong 'thế chân vạc' trong khoảng 60 năm – đã khiến
bao thế hệ độc giả say mê. Tuy nhiên...

Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc chỉ ra rằng, có lẽ để tạo nên sự hấp dẫn của bộ tiểu thuyết
nên La Quán Trung đã hư cấu và bịa đặt nhiều tình tiết hoặc “đem râu ông nọ cắm cằm bà kia”
khiến nhiều người hiểu sai về lịch sử, thậm chí gây nên những rắc rối, như việc hậu duệ của một
số nhân vật lịch sử còn đề nghị nhà nước Trung Quốc cần minh oan, bình phản cho cha ông
họ…Dưới đây là 99 tình tiết hư cấu, bịa đặt đó.

Chém ai, ai chém?

“Tam Quốc diễn nghĩa” có tích Quan Công chém Nhan Lương, Văn Sú tuy đúng là Quan Công
chém Nhan Lương, nhưng Văn Sú lại là do một tướng của Tào Tháo giết chứ không phải Quan
Công.

Cũng không phải Trương Phi đánh Đốc bưu, người đánh Đốc bưu là Lưu Bị.

Truyện nói ở Từ Châu, Quan Vũ chém Xa Trụ, Cổ Thành giết Thái Dương nhưng thực tế trong
lịch sử, đó là chiến tích của Lưu Bị.

Bạn đọc cũng mê mẩn đoạn “Qua 5 ải chém 6 tướng” nhưng thực tế, 5 cửa quan này cách nhau
rất xa và chả liên quan gì đến nhau, hoàn toàn là tình tiết được La Quán Trung... bịa ra.

Quan Vũ sau khi bỏ Tào Tháo đi, trực tiếp từ Hứa Xương về Nhữ Nam tìm Lưu Bị, không hề có
chuyện qua 5 cửa ải chém 6 tướng. Mà 6 tướng bị chém cũng không có thật. Trong “Tam Quốc
diễn nghĩa”, 6 tướng bị Quan Vũ chém là Khổng Tú, Mạnh Thản, Hàn Phúc, Biện Hỉ, Vương
Thực, Tần Kỳ; nhưng những cái tên này đều không có ghi trong sách sử.

Tên họ đều được hư cấu, xuất hiện trong “Tam Quốc diễn nghĩa” với “nhiệm vụ” duy nhất là
“nhận” lưỡi đao của Quan Vũ.

“Chém Hoa Hùng rượu còn nóng” cũng là tích hay nhưng thực ra Hoa Hùng bị chết bởi tay Tôn
Kiên. “Tam Quốc diễn nghĩa” cho Tôn Kiên bị Hoa Hùng đánh bại rồi Quan Vũ lên ngựa ra chém
Hoa Hùng, chạy về chén rượu uống dở vẫn còn nóng...là sự đề cao Quan Vũ nhưng... thật bất
công đối với Tôn Kiên.

Sự thật “Tam anh chiến Lã Bố”

Lã Bố thực ra là bị Tôn Kiên đánh lui, Công Tôn Toản không hề tham gia liên minh đánh Đổng
Trác nên Lưu, Quan, Trương cũng không tham gia, tức là không hề có chuyện “Hổ Lâu quan,
tam anh chiến Lã Bố” trong lịch sử.

Quan Vũ cũng bại trận, bị bắt chứ không hề có chuyện đàng hoàng ra điều kiện bắt Tào Tháo
cam kết 3 điều như La Quán Trung đã viết trong tích “Ba điều cam kết ở Thổ Sơn.

Tích “Tào Tháo hiến đao giết Đổng Trác” cũng vậy. Để ám sát Đổng Trác, Tào Tháo bàn với
Vương Doãn để mình mang đao Thất Tinh vào giết Trác, nào ngờ bị Trác phát hiện, Tháo nhanh
trí nói thác là có đao quý muốn dâng lên để qua mặt, sau đó vội vàng bỏ chạy để giữ mạng sống,
tình tiết này không có trong lịch sử.

Trong lịch sử có chuyện Lã Bố và Đổng Trác tranh nhau tỳ nữ Điêu Thuyền, nhưng không có
ghi chép về đó là mỹ nhân kế được vạch ra.

Bên cạnh đó, không có ghi chép gì đặc biệt việc Quan Vũ tự nguyện hàng nhưng trong “Tam
Quốc diễn nghĩa”, nguyên nhân quan trọng khiến Quan Vũ hàng Tào Tháo được bịa ra là để
“bảo vệ nhị tẩu”, không phù hợp với lịch sử.
Theo chính sử ghi chép, sau khi Lưu Bị tới Từ Châu, đóng quân ở thành Tiểu Bái chứ không ở
Hạ Bì. Khi quân Tào đánh Tiểu Bái, Lưu Bị bại trận bỏ chạy, phu nhân bị bắt ở đây, chứ không
phải theo Quan Vũ đầu hàng ở Hạ Bì. Cũng tức là, khi Quan Vũ đầu hàng không hề có “nhị tẩu”
ở bên.

Trong chính sử không hề ghi chép chuyện “Lưu, Quan, Trương kết nghĩa vườn đào” và xem
nhau như anh em. Thực tế thì Quan Vũ nhiều tuổi nhất, rồi mới đến Lưu Bị và Trương Phi.

Trong “Tam Quốc diễn nghĩa” quy “thần tiên” Vu Cát là thủ phạm gây nên cái chết của Tôn
Sách. Thực tế là Tôn Sách chết do bị thích khách ám sát, bị thương nặng rồi chết. Trong một lần
một mình đi săn, Sách bị nhóm thích khách Hứa Cống 3 người phục kích, Sách giết được Cống,
nhưng bị một mũi tên vào mặt, vết thương rất nặng, mặc dù được đám Hoàng Cái hết lòng cứu
chữa nhưng vẫn không thoát chết.

Còn Tôn Kiên chết ở Nghiễn Sơn do chủ quan khinh suất một mình cưỡi ngựa dẫn theo mấy tùy
tùng nên bị Hoàng Tổ phục kích lăn đá và bắn tên giết chết, không phải chết khi dẫn quân truy
đuổi Hoàng Tổ.

Mấy người “hỏi tội Đổng tặc”?

“Tam Quốc diễn nghĩa” nói, 18 lộ chư hầu hỏi tội Đổng Trác nhưng thực tế chỉ có 13 người là
Viên Thuật, Hàn Phức, Khổng Bưu, Lưu Đại, Vương Khuông, Viên Thiệu, Trương Mạc, Kiều
Mạo, Viên Di, Bão Tín, Trương Siêu, Tôn Kiên và Tào Tháo.

Còn Khổng Dung khi đó đang bận đối phó giặc Khăn Vàng không thể phân thân đi “thảo Đổng”;
Đào Khiêm khi đó cũng chỉ góp một ít vàng bạc chứ không tham gia chiến dịch; Mã Đằng khi ấy
chưa chiêu an, sao có thể tham gia hàng ngũ liên minh?

Công Tôn Toàn thì phải đối phó Ô Hoàn cũng không thể tham gia. Còn Trương Dương khi ấy
giống như Lưu Bị, chưa là một thế lực, Lưu Bị cũng chỉ tham gia trong đội quân của người khác.

Chu Du chẳng mưu trí lừa được Tưởng Cán. Thực tế Tưởng Cán du thuyết Chu Du không
thành, trở về ca ngợi Chu Du thông minh rộng lượng, không có chuyện trúng kế. Vả lại chuyện
này xảy ra mấy năm trước khi diễn ra trận Xích Bích, chỉ là được La Quán Trung ghép vào cho
thêm hấp dẫn.

Đặc biệt, sử ghi việc ghép thuyền liên hoàn là quyết sách của Tào Tháo, Bàng Thống không có
liên quan gì đến trận Xích Bích cả.

Còn về Từ Thứ, trong chính sử ghi chép rất ít. Ông chỉ là khách vô danh, không phải là nhân vật
thông minh quan trọng, thậm chí cũng không có chuyện Tào Tháo Nam chinh; Lưu Bị, Gia Cát
Lượng và Từ Thứ chạy về phía Nam, mẹ Từ Thứ bị bắt trong đám loạn quân, thế là Từ Thứ cáo
biệt Lưu Bị vào Tào doanh như trong “Tam Quốc diễn nghĩa”.

Ai “hỏa thiêu gò Bác Vọng”?

Thực ra, trận thắng quân Tào này hoàn toàn là chiến công của Lưu Bị, chả liên quan gì đến Gia
Cát Lượng bởi trận này xảy ra năm Kiến An thứ 7, trong khi năm Kiến An thứ 12 Gia Cát Lượng
mới “xuất sơn” theo Lưu Bị.
“Dốc Trường Bản Triệu Vân bảy lần vào bảy lần ra” cũng là một...tích bịa. Chuyện Triệu Vân
hộ tống già trẻ rút lui rất bình thường. Ông chỉ là một trong 5 hổ tướng thời Tam Quốc, công
trạng không có gì nổi bật.

Trương Phi thét làm Hạ Hầu Kiệt sợ vỡ mật mà chết ở cầu Trường Bản hoàn toàn là tình tiết
viết theo kiểu khoa trương, không có trong thực tế.

Không hề có chuyện “Khổng Minh thiệt chiến quần nho”. Đúng là có chuyện Gia Cát Lượng
gặp Tôn Quyền, còn các chuyện “Thiệt chiến quần nho”, “Quần anh hội”, “Khổ nhục kế”, “Liên
hoàn kế” đều là... hư cấu.

Chính sử ghi chép: Cam Phu nhân và My phu nhân đều an toàn không hề hấn gì ở Đương Dương,
cho nên không hề có chuyện Triệu Vân đạp tường lấp giếng như trong “Tam Quốc diễn nghĩa”.

Còn chuyện Tôn Phu nhân lấy Lưu Bị vốn chỉ là một trong hằng hà sa số vụ hôn nhân chính trị
trong lịch sử. Tôn Phu nhân đi Kinh Châu, không có chuyện Lưu Bị sang Đông Ngô đón dâu.

Khi hai người thành hôn, Lưu Bị tuổi đã ngũ tuần, Tôn Phu nhân mới đôi mươi, cách nhau hơn
ba chục tuổi; một người là kẻ mưu đồ hoàng vị, người kia là kiều nữ bướng bỉnh. Hai người
không tin tưởng lẫn nhau, sao có chuyện yêu nhau thắm thiết? Do đó ít lâu sau khi Lưu Bị vào
Ích Châu, Tôn Quyền liền đưa thuyền sang đón em về, Tôn Phu nhân cũng lên thuyền về ngay
không chút do dự, còn suýt nữa thì mang theo A Đẩu, cục cưng của Lưu Bị.

Từ đó bà ra đi không trở lại, đoạn tuyệt quan hệ với Lưu Bị, không chút vấn vương, không có
chuyện nhảy sông tự vẫn. Còn Lưu Bị sau khi chiếm Ích Châu liền lấy Ngô Thị, em gái Ngô Ý,
chị dâu Lưu Chương đang ở góa, xem ra cũng chẳng chút vương vấn Tôn Phu nhân.

Chính vì thế, trong “Tam Quốc chí. Thục thư. Nhị chủ phi tử truyện” không hề nhắc đến tên Tôn
Phu nhân, Sử tịch cũng không ghi chép kết cục của Tôn Phu nhân, nhưng có thể khẳng định,
tuyệt đối không có chuyện bà tự vẫn vì tuẫn tình với Lưu Bị.

Thứ Tư, 20/7/2016 12:39 GMT+7

(PLO) -Trong “Tam Quốc diễn nghĩa” có viết “Đồng Tước xuân thâm tỏa Nhị kiều” là câu thơ
của Tào Thực, nhưng khi đó Tào Thực chưa xuất hiện. Cùng với chi tiết... bịa đặt này, kỳ này
mời bạn đọc theo dõi tiếp những hư cấu trong bộ sách nổi tiếng ấy...

Chu Du mưu trí lừa Tưởng Cán?

Thực tế, Tưởng Cán du thuyết Chu Du không thành, trở về ca ngợi Chu Du thông minh rộng
lượng, không có chuyện trúng kế. Vả lại chuyện này xảy ra mấy năm trước khi diễn ra trận Xích
Bích, chỉ là được La Quán Trung ghép vào cho thêm hấp dẫn.

Chi tiết “Bàng Thống liên hoàn sách” cũng vậy, sử ghi việc ghép thuyền liên hoàn là quyết sách
của Tào Tháo, Bàng Thống không có liên quan gì đến trận Xích Bích cả.

Hay như thuyền cỏ mượn tên cũng không hề có trong trận Xích Bích.

Đây là hành động của cha con Tôn Kiên, Tôn Quyền trong trận Nhu Tu vượt sông đánh Lưu
Biểu trước đó. Chuyện tương tự cũng xảy ra thời Đường, Trương Tuần trong khi dẹp loạn An
Lộc Sơn, vào ban đêm bện người cỏ thả xuống tường thành, kiếm được 10 vạn mũi tên của Lệnh
Hồ Triều.

“Mượn” được gió Đông?

“Khổng Minh mượn gió Đông” hoàn toàn là chuyện hư cấu. Thời điểm Đông chí phần nhiều đều
là gió Đông Nam, nên có thể nói Tào Tháo bại trận do thiên tai chứ không phải vì người làm.

Trên đường Hoa Dung Quan Vũ tha Tào Tháo cũng là tình tiết tác giả hư cấu để “dìm hàng” Tào
Tháo, nâng cao hình tượng trượng nghĩa của Quan Vũ. Sự thật, người chặn Tào Tháo ở Hoa
Dung là Lưu Bị, nhưng ông này... đến muộn nên Tào Tháo chạy mất!

Quân Tào đánh nhau với Mã Siêu ở Đồng Quan rất ác liệt, nhưng “Tam Quốc diễn nghĩa” viết Tào
Tháo phải cắt râu vứt chiến bào cũng là “dìm hàng” ông bởi thực tế trong trận Đồng Quan, Tào
Tháo là bên thắng trận.

Trong trận Trường Sa, Lưu Bị Nam chinh đánh 4 quận Kinh Nam, thái thú các quận đều đầu
hàng thuận theo thời thế, Hoàng Trung cũng theo Hàn Huyền đầu hàng, không hề xảy ra chiến
trận như trong sách.

Còn việc chinh chiến Hán Trung thì thực tế tổng chỉ huy chinh phục Hán Trung là Lưu Bị, Gia
Cát Lượng ở lại Thành Đô để bảo đảm hậu cần. Và Gia Cát Lượng giỏi cai trị nội chính, dụng
binh không phải là điểm mạnh nhất của ông.

Ai “khích” Chu Du?

Tam Quốc diễn nghĩa có tích Gia Cát Lượng “tam khí Chu Du” nhưng khi đó Chu Du không chú
ý đến Gia Cát Lượng, rất ít gặp nhau. Từ trận Xích Bích đến khi Chu Du chết bệnh chỉ có 2 năm,
Gia Cát Lượng lại đang làm công tác hậu cần ở Linh Lăng, cơ bản không hề gặp Chu Du. Còn
sau khi Chu Du chết bệnh thì người thay mặt Thục sang viếng là Bàng Thống chứ không phải
Gia Cát Lượng.

Theo “Tam Quốc diễn nghĩa”, Tôn Quyền muốn lấy lại Kinh Châu, Chu Du hiến kế “giả kết thân
gia bắt Lưu Bị làm con tin” nhưng bị Gia Cát Lượng đoán biết nên sắp xếp Triệu Vân phò tá sang
Đông Ngô gặp nhạc phụ Chu Du là Kiều Huyền nhờ ông này thuyết phục Ngô Quốc Thái. Kết
quả Ngô Quốc Thái gả Tôn Thượng Hương cho Lưu Bị; Tôn Quyền và Chu Du bị chế diễu “Vừa
mất phu nhân lại thiệt binh”.

Trên thực tế không có tình tiết này, đơn thuần đây chỉ là một cuộc hôn nhân chính trị. Chu Du
cũng không phải kẻ nhỏ nhen, hẹp hòi bởi thực tế, Lưu Bị đánh giá Chu Du là người rộng lượng
đàng hoàng; Trình Phổ “kết giao Công Cẩn, uống rượu nhạt cũng say”, Tô Đông Pha cũng đánh
giá cao nhân phẩm của Chu Du. Cuối cùng, Chu Du chết ở Ba Khâu do lao lực quá độ chứ không
bởi phẫn hận, đố tài.

Sự thật những mưu “xuất quỷ nhập thần”

Mưu đánh “thủy công” dìm bảy đạo quân tuy có nhưng khác xa sự thật lịch sử. Đó là thiên tai
chứ không phải do mưu “thủy công” của Quan Vũ đánh Bàng Đức ở Phàn Thành. Các sử tịch
đều ghi rất rõ: Khi đó mùa Thu, mưa lớn liên miên, nước sông Hán Thủy dâng cao lên 5 -6 trượng,
Quan Vũ mang thủy quân lợi dụng thời tiết để đánh.
Vu Cấm và Bàng Đức là người phương Bắc không quen thủy chiến nên bị nước lũ dìm ngập, Vu
Cấm đầu hàng, Bàng Đức bị giết.

“Gia Cát chết dọa Trọng Đạt sống khiếp chạy” đúng là có, nhưng không phải là kế của Khổng
Minh để lại, mà do Tư Mã Ý nhát gan. Căn cứ của tích này là sách “Hán Tấn xuân thu”, nhưng
La Quán Trung đã thêm thắt vào.

Theo sách này ghi chép, thì sau khi Gia Cát Lượng chết, quân Thục không phát tang, bí mật rút
lui, Tư Mã Ý phát hiện dẫn quân đuổi theo. Khi hai bên gặp nhau, Trưởng sử Dương Nghi lệnh
quân Thục trở cờ gõ trống, tiến về phía quân Ngụy.

Tư Mã Ý không dám đến gần, đành lui binh, quân Thục sau khi vào hang mới phát tang. Thế
nhưng trong “Tam Quốc diễn nghĩa” đã biến thành chuyện quân Thục đẩy chiếc xe 4 bánh trên
đặt tượng gỗ của Gia Cát Lượng, Tư Mã Ý nghi ngờ ông chưa chết nên truyền lui quân.

“Không thành kế” cũng là ...chuyện hư cấu, bởi khi Gia Cát Lượng dồn binh ở Dương Bình, Hán
Trung thì Tư Mã Ý vẫn là Đô đốc Kinh Châu, không có cơ hội đối đầu nhau. Khi Gia Cát Lượng
ở huyện Khang, Thiểm Tây ngày nay thì Tư Mã Ý ở Nam Dương, Hà Nam, cách xa nhau như thế
sao có vụ “không thành kế” được? Chuyện Khổng Minh suýt thiêu chết Tư Mã Ý và Ngụy Diên
ở khe núi Thượng Phương cũng đều là bịa đặt.

Và nhiều... bịa đặt khác

Ai cũng hãi chuyện cạo xương chữa thương nhưng lúc đó Hoa Đà đã qua đời từ 2 năm trước,
nên không có chuyện Hoa Đà cạo xương chữa thương cho Quan Vũ, nếu có thì cũng do các thầy
thuốc khác làm.

Kế mượn Kinh Châu thực ra là kế của Lỗ Túc để dùng Lưu chống Tào.

Còn chuyện Mã Đằng hỏi tội Đổng Trác thì Mã Đằng và Đổng Trác là người cùng phe, Đằng
không những không tham gia đánh Trác mà còn giúp Trác trấn thủ Trường An.

Mã Siêu dấy binh thực ra là phản loạn trái ý cha. Việc Mã Đằng chết không phải do bị Tào Tháo
giết do mưu chống Tào, Mã Siêu dấy binh báo thù mà là Mã Siêu dấy binh chống Tào trước nên
Mã Đằng bị giết.

Pháp Chính và Bàng Thống hoàn thành việc chiếm lấy Thục. Sau khi Lưu Bị vào Thục, lôi kéo
được Pháp Chính và Trương Tùng, hỏi dò về tình hình minh mã, lương thảo của Thục nên
Trương Tùng đã vẽ “Tây Thục địa hình đồ”.

Còn nhân vật Kiều Quốc lão là người khác, chứ không phải là Kiều Huyền, nhạc phụ Chu Du.

Xưa nay có nhiều nghi ngờ về nhân vật Điêu Thuyền, nhưng quả thực Vương Doãn có một thị
nữ khiến Lã Bố và Đổng Trác trở mặt với nhau.

Trong chính sử có 2 Lưu Đại: Lưu Đại tham gia liên minh đánh Đổng Trác và Lưu Đại là thủ hạ
của Tào Tháo, không phải là một người như trong “Tam Quốc diễn nghĩa”. Khi Tào Tháo hỏi Hàn
Toại bao nhiêu tuổi, Toại đáp 40 nhưng thực tế khi đó Hàn Toại đã ngoài 70 tuổi.
Cũng theo ghi chép trong Tam Quốc chí, Lỗ Túc truyện và Ngô thư thì không phải Quan Vũ đơn
đao phó hội chỗ Lỗ Túc mà là Lỗ Túc đến chỗ Quan Vũ. Người “anh hùng gan dạ” không phải
là Quan Vũ, mà là Lỗ Túc, “Tam Quốc diễn nghĩa” đã tráo đổi để tôn vinh Quan Vũ,

Trong lịch sử, không có chuyện Đào Khiêm ba lần nhượng Từ Châu.

Văn Sú trúng kế Tào Tháo mà bị giết chứ không phải bị Quan Vũ chém.

Chuyện Tả Từ trêu ghẹo Tào Tháo cũng không có thật trong sử.

Càng không có chuyện Triệu Nhan kéo dài tuổi thọ.

Lưu Bị lúc lâm chung thác cô (gửi gắm con) cho hai người là Khổng Minh và Lý Nghiêm chứ
không phải mình Khổng Minh.

Tích “Trương Cáp lần lượt bại trận bởi tay Triệu Vân, Mã Siêu” có lẽ do La Quán Trung ghét
Trương Cáp nên bịa ra. Thực tế quân Thục đều rất khiếp sợ Trương Cáp. Theo chính sử, Trương
Cáp không phải chết do bị phục kích mà là bị loạn tên bắn trúng gối khi đang đuổi theo Khổng
Minh.

Cũng không có chuyện Hoàng Trung già cả dùng mưu chiếm núi Thiên Đãng.

Còn Tào Tháo mai táng ở Cao Lăng, không có chuyện làm 72 mộ giả.

Trong chính sử, Mã Siêu tự viết thư cho Lưu Bị xin hàng, không có chuyện đại chiến với Trương
Phi và Lý Khôi khuyên hàng.

Gia Cát Lượng lục xuất Kỳ Sơn: chỉ có lần đầu và lần thứ 4 đến Kỳ Sơn, không có chuyện tới đây
6 lần. Còn trâu gỗ ngựa máy, thực ra trâu gỗ là xe 1 bánh; ngựa máy là xe kéo 4 bánh phổ biến
ngày nay. Cũng có thuyết nói trâu gỗ là xe 4 bánh, ngựa máy là loại thuyền đầu nhọn.

Thực tế Tào Chân chết bệnh ở Lạc Dương chứ không phải bị Khổng Minh viết thư mắng chết.

Cũng không có chuyện Gia Cát Lượng mắng chết Vương Lãng: Vương Lãng chết năm 228,
không theo quân chinh chiến...

(Mời xem tiếp trên Pháp luật 4 phương số 63, ngày 25/7/2016)

Lan Hương (theo báo chí TQ)

“Tam Quốc diễn nghĩa” đã hư cấu hình tượng Quan Vũ đến mức
nào?

Trần Quỳnh

Phải tới 600 năm sau thời đại của Khổng Tử, Trung Hoa mới xuất hiện vị “Võ thánh” nổi tiếng,
đó chính là Quan Vũ nhà Thục Hán, người được mệnh danh là “Tam giới phục ma đại đế”.

Trung Hoa có một thời kỳ “trọng văn, khinh võ” nên từ những đấng minh quân như vua Thuấn,
vua Nghiêu… cho tới những nhà văn hóa nổi tiếng như Khổng Tử, Mạnh Tử đều là văn sĩ.

Phải tới 600 năm sau thời đại của Khổng Tử, Trung Hoa mới xuất hiện vị “Võ thánh” nổi tiếng,
đó chính là Quan Vũ nhà Thục Hán, người được mệnh danh là “Tam giới phục ma đại đế”.
Quan Vũ, tự là Vân Trường, tên chữ là Trường Sinh, là một hảo hán nổi tiếng xuất thân từ đất
Hà Đông (nay thuộc Sơn Tây – Trung Quốc).

Qua các tư liệu lịch sử và các hình tượng nghệ thuật, hậu thế vẫn thường tưởng tượng ông là
người “mặt như hai quả táo nối nhau, mắt xếch, mày tằm.” Liệu đây có phải là dung mạo thực
sự của vị “Võ thánh” này? Một số nhà nghiên cứu khẳng định, tướng mạo này có nhiều khả năng
là lấy các hình tượng anh hùng trong truyện cổ tích để hậu thế dễ hình dung.

Tạp kịch thời xưa cũng thường xây dựng hình tượng Quan Vũ mặt đỏ, Bao Chửng mặt đen.
Nước da màu hồng này rất có thể là do Sơn Tây có nghề làm muối, người dân phải “ăn sóng nằm
gió” nên có nước da như vậy.

Cũng có thể do Quan Công là biểu tượng cho nghĩa khí và lòng trung thành, nên thường hình
dung là mặt màu đỏ hồng, còn Bao Chửng biểu tượng cho thiết diện vô tư, nên dùng mặt đen.

Mắt xếch được coi là nét đặc trưng của người Mông Cổ. Trong nghệ thuật sân khấu, ánh mắt của
Quan Vũ lúc khép hờ suy tư, còn phần lớn là đôi mắt trừng lớn để thể hiện khí khái anh hùng.

Thời xưa, các nhân vật được tái hiện trên sân khấu thường vẽ lông mày nối liên hình sóng. Tuy
nhiên, theo quan niệm thẩm mỹ thời sau, loại lông mày này thiếu sự uy nghiêm, nên đổi thành
mày tằm.

Như vậy, dung mạo mà hậu thế vẫn thường hình dung về Quan Vũ phần lớn đều do ảnh hưởng
từ các tạo hình nghệ thuật và thay đổi theo quan niệm thẩm mỹ của từng thời.

Hình tượng của nhân vật lịch sử Quan Vũ đã được hư cấu nhiều trong tiểu thuyết của La Quán
Trung.

Quan Vũ có cùng Lưu Bị và Trương Phi “kết nghĩa vườn đào”?

Sau khi bị đánh bật khỏi quận Trác, Lưu Bị về quê cũ tập hợp lực lượng, lại kết nghĩa với hai vị
đồng hương Quan Vũ và Trương Phi cùng mưu nghiệp lớn.

Khi đó, Lưu Bị cùng Vũ và Phi chiêu binh mãi mã, thống lĩnh tam quân, khởi binh làm chủ một
phương. Sau này, những anh hùng hậu thế vẫn thường ngưỡng mộ noi theo nghĩa khí “kết nghĩa
vườn đào” của ba vị anh hùng Tam Quốc.

Nhưng cho tới nay, Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi có thực sự kết nghĩa kim lang hay không,
vẫn là một ẩn số lịch sử gây nhiều tranh cãi.

“Tam Quốc chí” phần “Quan Vũ truyện” viết: “Chúa (Lưu Bị) thân thiết với hai người (Quan
Vũ, Trương Phi) như anh em, còn ngủ chung giường. Hai vị này cũng ngày đêm hầu hạ, không
quản khó nhọc.”

Phần “Trương Phi truyện” trong đó cũng viết: “Vũ hơn Phi mấy tuổi, nên Phi thường coi như
anh.”

Như vậy, theo Tam Quốc chí, thì tình cảm giữa ba người chỉ đơn thuần là “thân như anh em”,
chứ không đề cập tới chuyện kết nghĩa. Trương Phi cũng vì Quan Vũ nhiều tuổi nên kính nể như
anh, chứ không nói hai người là huynh đệ, càng không đề cập đến Lưu Bị.
Bí ẩn về thanh đao nổi tiếng

Nhắc tới Quan Vũ, hậu thế sẽ luôn liên tưởng tới một đấng anh hào mặt đỏ, râu dài, tay cầm
Thanh Long Yển Nguyệt đao, oai phong cưỡi trên ngựa Xích Thố.

Tuy nhiên, việc “Thanh Long Yển Nguyệt đao” có tồn tại thực sự hay không, cho tới nay cũng
chưa được giải mã. Miêu tả lại cảnh Quan Vũ chém đầu Nhan Lương, “Quan Vũ truyện” có viết:

“Vào năm Kiến An thứ 5, Tào công (Tào Tháo) chinh phạt phía đông. Tiên chúa (Lưu Bị) đến chỗ
Viên Thiệu xin hàng, Thiệu liền giao tranh với Tào. Tào công cùng Quan Vũ thân chinh ra trận.

Thiệu cử Đại tướng quân Nhan Lương tấn công Bạch Hà thành thuộc Đông Quận của quan Thái
Thú Lưu Diên. Tào công cho Trương Liêu, Quan Vũ chỉ huy mũi tiến công. Vũ trông thấy Nhan
Lương chỉ huy, phi ngựa tiến đến, một dao chém bay đầu Nhan Lương”

Như vậy, “Quan Vũ truyện” trước sau đều không nói tới việc Quan Vũ dùng binh khí gì. Trong
khi đó, loại binh khí “Yển Nguyệt đao” (thanh đao hình bán nguyệt) mãi cho tới thời Tống mới
xuất hiện.

Các nhà nghiên cứu Trung Quốc cũng chỉ ra rằng, vũ khí mà Quan Vũ sử dụng rất có khả năng
là một loại mâu, thương, kết hợp với đoản đao để chém đầu đối thủ.

Mặc dù là một tác phẩm sát với lịch sử, nhưng về một số yếu tố, đặc biệt là sự tồn tại của Thanh
Long Yển Nguyệt đao, rất có thể là sự hư cấu của La Quán Trung trong “Tam Quốc diễn nghĩa”.

Sự xuất hiện của Yển Nguyệt đao bên cạnh Quan Vũ cũng đặt ra nhiều nghi vấn bởi đến tận đời
Tống, tức là khoảng 700 năm sau thời Tam Quốc, loại binh khí này mới xuất hiện.

Sự xuất hiện của Yển Nguyệt đao bên cạnh Quan Vũ cũng đặt ra nhiều nghi vấn bởi đến tận đời
Tống, tức là khoảng 700 năm sau thời Tam Quốc, loại binh khí này mới xuất hiện.

Vì một câu nói mà mang họa sát thân

Trong “Tam Quốc diễn nghĩa” hồi 66, khi bàn tới chuyện trấn thủ Kinh Châu có viết: “Vân Trường
chưa kịp trả lời, Chu Thương ở dưới thềm quát lên rằng: Đất đai trong thiên hạ, người nào nhân
đức thì được ở, có phải của riêng Đông Ngô đâu?

Vân Trường sầm mặt đứng ngay dậy, giằng lấy thanh long đao của Chu Thương đang vác, đứng
ra giữa sân, đưa mắt cho Chu Thương và quát rằng: Đây là việc nhà nước, sao mi nói lôi thôi,
bước ngay!” Chi tiết này chứng tỏ Quan Vũ là một người thẳng thắn, bộc trực.

Sau này, Gia Cát Lượng muốn phía đông hòa Tôn Quyền, phía Bắc phạt Tào Tháo, nhưng Quan
Vũ phản đối. Khi Quan Vũ trấn thủ Kinh Châu, Tôn Quyền tiếp tục tung ra một quân bài hôn
nhân chính trị khác, khi sai sứ giả tới xin Vũ gả con gái cho con trai mình.

Thế nhưng, Quan Vũ thiếu tầm nhìn chính trị, bản thân lại xem thường Tôn Quyền nên hoàn
toàn không quan tâm đến chiến lược lớn mà Lưu Bị và Khổng Minh đề ra.

Thậm chí, Quan Vũ đã mắng chửi sứ giả của Tôn Quyền rằng – “Hổ nữ sao có thể gả cho khuyển
tử?” (ý nói dòng họ Tôn Quyền là “nòi chó”, không xứng đáng với con gái mình).
Nếu Quan Vũ khi đó chịu gả con gái cho con trai Tôn Quyền, rất có liên minh Tôn – Lưu đã hình
thành, cũng đã chinh phạt được Tào Tháo ở phía Bắc, thậm chí sau này còn có thể có được Đông
Ngô.

Tuy nhiên, câu nói trên không những làm hỏng nước cờ của Lưu Bị, Khổng Minh, mà còn mang
tới cái họa sát thân cho người anh hùng cả đời “đội trời đạp đất” này.

Về chuyện Quan Vũ thua trận, Trần Thọ có viết: “Quyền khi đó ở Giang Lăng, ép Vũ gả con gái
cho con trai mình. Vũ cự tuyệt, Quyền sau đó khởi binh chém đầu Vũ.”

Ở đây có nhắc tới chuyện “chém đầu”, là nhắc tới cái chết của Quan Vũ khi bị Tôn Quyền bắt
được lúc thất thủ Kinh Châu.

Trong “Thục thư” cũng có ghi chép: “Quyền giết được cha con Quan Vũ, muốn chiêu hàng Lưu,
Tào. Có người khuyên rằng không thể nuôi sói trong nhà, chưa diệt được Tào Tháo thì ắt còn
họa lớn.”

Như vậy, có khả năng sau khi Quan Vũ thất thủ, chạy khỏi Giang Lăng chưa đầy hai, ba trăm
dặm, bị Tôn Quyền bắt giết.

“Ngô thư” lại viết: “Tôn Quyền sai Phan Chương theo sát đường đi nước bước của Quan Vũ,
cho quân mai phục, Vũ tới thì lập tức chém đầu. Sau này Quyền đem thủ cấp của Vũ cho Tào
công, Vũ được truy phong hiệu “Trung nghĩa hầu”.

Cho tới ngày nay, vẫn có nhiều giả thiết xoay quanh cái chết của vị “Võ thánh” này.

Cái chết của Quan Vũ cho tới nay vẫn còn nhiều tranh cãi.

Nghi án Quan Vũ “thèm muốn” vợ Lữ Bố, tranh người đẹp cùng Tào Tháo

Trong tác phẩm của mình, Bùi Tùng Chi từng trích một đoạn “Thục ký”: “Tào Công cùng Quan
Vân Trường, bộ tướng của Lưu Bị bao vây Lã Bố ở Hạ Phì.

Quan Vân Trường nói với chúa công (Tào Tháo) rằng: Bố sai Tần Nghi Lộc đem dâng thư cầu
cứu, lại còn cầu xin chúa công hãy thu nhận thiếp của hắn làm tín vật. Chúa công đồng ý.

Về sau khi sắp phá được thế vây thành, Tần Nghi Lộc lại nhiều lần đến tiếp tục cầu xin, mong
được dâng người đẹp.”

Nhiều giả thiết cho rằng người vợ của Lữ Bố chính là Điêu Thuyền. Cũng theo “Thục ký”, Quan
Vũ nhiều lần đề nghị Tào Tháo ban cho vợ của Lữ Bố. Tào trước thì đồng ý, tuy nhiên sau khi
thấy dung nhan người đẹp, lại công khai giữ làm thiếp, thất hứa với Vũ.

Được hậu thế thờ phụng

Quan Vũ được tôn là vị Võ thánh giáng trần trợ uy, được cả Phật giáo và Đạo giáo phụng thờ.
Sau khi qua đời, đầu được táng tại Lạc Dương, Hà Nam (khu lăng mộ Quan Lâm), mình táng tại
núi Ngọc Tuyền, Đương Dương, Hồ Bắc.

Người đương thời cảm về đức nghĩa của Ngài, hàng năm thờ cúng rất chu đáo.
Trải qua các thời đại, ông từng được truy phong là “Trung Huệ Công”, sau là “Nghĩa Dũng Vũ
An Vương”, tới thời nhà Minh – Thanh, vị quan võ này tiếp tục được tôn làm “Đế quân”, thờ
phụng như một vị Võ thánh.

Cho tới hiện nay, thương nhân Trung Quốc nhiều người vẫn thờ phụng Quan Công, coi ông như
một biểu tượng của sự anh hùng và lòng tín nghĩa.

theo Trí Thức Trẻ

Sự thực của một số tình tiết hư cấu

Gần đây, các học giả Trung Quốc đề cập nhiều tình tiết mà nhà văn La Quán Trung đã hư cấu.
Một số tài liệu khác cũng đề cập tới sự so sánh giữa sự thực lịch sử và những tình tiết hư cấu của
tiểu thuyết. Một số tình tiết tiêu biểu là:

1. Những người hội minh với Viên Thiệu để đánh Đổng Trác: Sự thực không có tới 17 người
mà chỉ có 10 người là Viên Thiệu, Viên Thuật, Hàn Phức, Khổng Do, Lưu Đại, Trương Mạo,
Trương Siêu, Vương Khuông, Viên Di, Kiều Mạo. Những người khác được Tam Quốc diễn
nghĩa đề cập tới nhưng thực ra không tham dự là: Khổng Dung, Đào Khiêm, Mã Đằng,
Trương Dương, Công Tôn Toản. Còn người thứ 17 là Tôn Kiên cũng tự động khởi binh đánh
Đổng Trác chứ không hội quân với Viên Thiệu.

2. Tam anh chiến Lữ Bố: Ba anh em Lưu Bị không tham dự đánh Đổng Trác và do đó sự kiện
“Tam anh chiến Lữ Bố” ở Hổ Lao là không có thực.

3. Quan Vũ giết Hoa Hùng: truyện Tam Quốc diễn nghĩa kể Quan Vũ chém Hoa Hùng – bộ
tướng của Đổng Trác – trong nháy mắt, khi chén rượu mời của Tào Tháo trước khi ra trận
còn nóng. Nhưng theo sử sách thì Hoa Hùng bị Tôn Kiên – người khai nghiệp ở Giang Đông
– tử hình năm 191 tại Dương Nhân (陽人), sau khi đội quân của ông bị đánh bại.

4. Thuyền cỏ mượn tên: Trong trận Xích Bích nổi tiếng, có tình tiết Gia Cát Lượng đi cùng Lỗ
Túc và 30 thuyền cỏ trong sương mù, khiến Tào Tháo không dám xuất quân mà chỉ bắn tên
ra. Thế là hàng chục vạn mũi tên cắm vào thuyền cỏ quay ngang. Gia Cát Lượng thu tên về
nộp cho Chu Du. Sự thực không có việc dùng “thuyền cỏ mượn tên.”

5. Gia Cát Lượng khích Chu Du: Tam Quốc diễn nghĩa kể việc Khổng Minh gợi chuyện Tào
Tháo xây đài Đồng Tước vì muốn bắt 2 nàng Kiều là vợ Tôn Sách và Chu Du, còn sai Tào
Thực làm bài phú. Sự thực là sau trận Xích Bích, Tào Tháo mới xây đài và khi đó Tào Thực
mới làm bài phú.

6. “Sinh Du hà sinh Lượng?” Tam Quốc diễn nghĩa kể chuyện Gia Cát Lượng 3 lần chọc tức
Chu Du khiến Du tức phải than: “Trời sinh Du sao còn sinh Lượng?” rồi chết. Không có sách
sử nào ghi câu nói đó. Chu Du chết bệnh trong quân ngũ, không liên quan đến việc bị Gia
Cát Lượng chọc tức.

7. Cha con Gia Cát Chiêm tử trận: Do đề cao Gia Cát Lượng, La Quán Trung để con và cháu
ông là Gia Cát Chiêm, Gia Cát Thượng tử trận khi Đặng Ngải vào Tây Xuyên. Sự thực là cha
con Gia Cát Chiêm đã hàng Đặng Ngải.
Thêm nữa:

8. Sau trận Nhai Đình, Mã Tốc bị kết tội chết, nhưng không bị chém mà chết trong ngục do
bệnh.
Tình tiết hư cấu
TT Tình tiết trong Tam Quốc diễn nghĩa Tình tiết trong Tam Quốc chí
1 Tiệc vườn đào, anh hùng kết nghĩa [1] Không có hội thề, sử sách chỉ nói ba người ngủ cùng
giường, tình như anh em[2] và Trương Phi nhận Quan
Vũ làm anh[3]
2 Trương Phi cả giận, cầm dao vào trướng định Tôn Kiên muốn giết Đổng Trác khi đánh Hàn Toại
giết Đổng Trác. Huyền Đức, Quan Công vội nhưng Trương Ôn không đồng ý [5]
ngăn.
3 Trương Dực Đức giận đánh đốc bưu Lưu Bị đánh Đốc bưu[6]
4 Tháo giắt dao đến tướng phủ, chực đâm Trác. Tào Tháo chỉ rời bỏ Đổng Trác[8]
Không ngờ Trác trông vào trong cái gương,
thấy bóng Tào Tháo rút dao ra ở sau lưng.
Tháo tay đương cầm con dao, vội quỳ xuống
thưa:
– Tháo tôi có con dao quý xin dâng thừa
tướng.
5 Trần Cung thả Tào Tháo Viên công tào thả Tào Tháo sử không chỉ đích danh
là Trần Cung mà chỉ nêu chung chung là viên quan ở
huyện Trung Mâu[8]
6 Tào Tháo phát hiệu triệu chư hầu Kiều Mạo phát hiệu triệu chư hầu[9]
7 17 lộ chư hầu đánh Đổng Trác 11 chư hầu đánh Đổng Trác.[10]
8 Quan Vũ chém đầu Hoa Hùng khi rượu còn Tôn Kiên giết Hoa Hùng[11]
nóng
9 Tam anh chiến Lã Bố Lưu, Quan, Trương không tham gia liên minh đánh
Đổng Trác[11]
10 Mã Siêu đâm chết Lý Mông và bắt sống Vương Sử sách không đề cập, thay vào đó chỉ chép một sự
Phương khi mới 17 tuổi kiện khác là Mã Siêu trực tiếp dẫn quân Tây Lương
đánh tan quân Quách Viên, Cao Cán trong trận sông
Phần
11 Vương Doãn dùng Điêu Thuyền làm mỹ nhân Điêu Thuyền là tên một nhân vật hư cấu, Vương
liên hoàn kế Doãn xui Lã Bố giết Đổng Trác và trước đó Lã Bố tư
thông với tiện thiếp của Đổng Trác (không rõ tiện
thiếp đó có phải tên là Điêu Thuyền hay không).
Trong tạp khúc nhà Nguyên “Liên hoàn kế” có ghi
rằng Điêu Thuyền tên thật là Hồng Xương, con gái
Nhiệm Ngang, chuyên cai quản quan điêu thuyền
trong cung nên được gọi là Điêu Thuyền. Thực tế,
trong lịch sử chỉ có một thị nữ bị Vương Doãn lợi
dụng để khiêu khích mối quan hệ giữa Lã Bố và
Đổng Trác, hình tượng Điêu Thuyền được xây dựng
bằng việc cải biến câu chuyện trên.
12 Lã Bố yêu Điêu Thuyền nên bị Đổng Trác phi Lã Bố tư thông với một a hoàn không rõ tên của
kích ở Phụng Nghi Đình Đổng Trác và bị Đổng Trác phi kích vì việc khác[12]
13 Điển Vi khỏe mạnh, một tay dựng cột cờ lớn Điển Vi giữ cột cờ khi còn phục vụ Trương Mạo[13]
trong trại Tào Tháo
14 Viên Thuật bị Tào Tháo ví như “xương khô Người ví Viên Thuật như “xương khô trong mả” là
trong mả” khi uống rượu luận anh hùng với Khổng Dung. Khi Đào Khiêm muốn bàn giao Từ châu
Lưu Bị ở Hứa Xương cho Lưu Bị, Lưu Bị không dám nhận mà tiến cử Viên
Thuật. Đào Khiêm liền hỏi ý kiến Khổng Dung, Khổng
Dung chê Thuật không thể đảm đương bằng nhận
xét này.[14]
15 Quan Vũ ra ba điều ước Quan Vũ hàng Tào không ra điều ước
16 Quan Vũ qua năm ải chém sáu tướng Sử sách chỉ chép Quan Vũ về với Lưu Bị chứ không
ghi chép cụ thể hành trình và diễn biến
17 Quan Vũ chém Sái Dương ở Cổ thành sau 3 Lưu Bị giết Sái Dương sau trận Quan Độ
hồi trống (trước trận Quan Độ)
18 Tôn Sách chém Vu Cát và bị Vu Cát ám ảnh Tôn Sách bị gia nhân của Hứa Cống ám sát
phát bệnh chết
19 Viên Thiệu mang 70 vạn quân ra trận Quan Độ, Không rõ số quân, chỉ chắc chắn quân Viên Thiệu
Tào Tháo có 7 vạn đông và mạnh hơn
20 Trình Dục theo lệnh của Tào Tháo giả mạo thư Mẹ Từ Thứ tự nguyện viết thư gọi con[15]
của mẹ Từ Thứ
21 Từ Thứ ra đi đã vòng lại để tiến cử Gia Cát Từ Thứ và Gia Cát cùng phục vụ Lưu Bị một thời
gian[15]
22 Gia Cát Lượng bày kế cho Lưu Bị hỏa thiêu gò Lưu Bị tự đốt Bác Vọng trước khi có Gia Cát[16]
Bác Vọng
23 Gia Cát Lượng hỏa thiêu Tân Dã Trận Tân Dã không có thật[17]
24 My phu nhân trao A Đẩu cho Triệu Vân và tử Triệu Vân cứu mẹ con Cam phu nhân ở Tràng Bản.
tiết, Cam phu nhân tự chạy thoát. Triệu Vân Không có ghi nhận Triệu Vân giao chiến với quân
xông pha giữa vạn quân, chém tướng Tào. Tào.
25 Trương Phi hét chết Hạ Hầu Kiệt ở cầu Trường Trương Phi chỉ án ngữ cầu và sau đó đốt cầu, hò hét,
Bản quân Tào không ai dám lại đánh nhưng không ai
chết[20]
26 Gia Cát Lượng đối đáp với quần nho Đông Ngô Gia Cát Lượng chỉ sang Đông Ngô để đề nghị liên
minh
27 Ngô quốc thái nhắc Tôn Quyền gọi Chu Du Tôn Sách chết mà sử không chép là dặn dò gì, bản
theo lời dặn của Tôn Sách thân Ngô quốc thái chỉ là nhân vật hư cấu
28 Tào Tháo có 83 vạn quân trong trận Xích Bích Số quân Tào chỉ khoảng 22 vạn[21]
29 Gia Cát Lượng mượn bài phú Đài Đồng Tước Sau trận Xích Bích, Tào Tháo mới xây đài, Tào Thực
của Tào Thực để khích Chu Du đánh trận Xích mới làm bài phú
Bích
30 Chu Du lừa Tưởng Cán trong trận Xích Bích Chu Du chối từ Tưởng Cán sau trận Xích Bích[22]
31 Gia Cát Lượng dùng “thuyền cỏ mượn tên”, thu Tôn Quyền dùng thuyền hứng mũi tên của Tào Tháo
hàng vạn mũi tên của Tào Tháo trong trận Xích trong trận Nhu Tu năm 213
Bích
32 Hoàng Cái dùng kế khổ nhục, Hám Trạch khi Việc gửi thư trá hàng của Hoàng Cái lập tức được
dâng thư trá hàng phải đấu trí với Tào Tháo Tào Tháo tin theo, không cần phải bày kế khổ nhục
và cũng không cần Hám Trạch phải đấu trí với Tào
Tháo[23]
33 Bàng Thống hiến kế liên hoàn trong trận Xích Bàng Thống không tham gia trận Xích Bích
Bích
34 Khổng Minh cầu gió đông Khổng Minh không đóng vai trò “gọi gió” trong trận
Xích Bích
35 Đường Hoa Dung, Quan Vũ tha Tào Tháo Lưu Bị chặn đánh Tào Tháo ở Hoa Dung, quân ít
không ngăn cản được nên Tào Tháo thoát.
36 Khổng Minh thừa cơ chiếm cả Giang Lăng, Tào Nhân vẫn giữ thành Tương Dương (thời Tam
Tương Dương từ tay Tào Nhân, nẫng tay trên Quốc, Ngụy chưa từng mất nơi này), còn Chu Du
của Chu Du khiến Chu Du phát uất thổ máu chiếm được Giang Lăng năm 209
37 Thái thú Trường Sa là Hàn Huyền bị Ngụy Diên Ngụy Diên thuyết phục được Hoàng Trung kích động
giết chết vì định giết Hoàng Trung các tướng sĩ không theo lệnh của Hàn Huyền, khiến
Hàn Huyền buộc phải đầu hàng[24]
38 Lỗ Túc theo lệnh Tôn Quyền và Chu Du đi “đòi Lưu Bị và Gia Cát Lượng phải thỉnh cầu Tôn Quyền
Kinh châu”; Lưu Bị và Gia Cát Lượng trả ơn để được bàn giao Giang Lăng, đánh đổi nửa quận
xương máu của người Giang Đông bằng cách Giang Hạ của Lưu Kỳ mới mất mà có
chấp nhận ký giấy “mượn Kinh châu”
39 Chu Du chết vì bị Khổng Minh chọc tức 3 lần, Chu Du ốm chết, không phải do Gia Cát Lượng chọc
trước khi chết còn uất ức than rằng: Trời đã tức, và sử sách không đề cập đến chuyện than thở
sinh Du sao còn sinh Lượng gì.[25]
40 Mã Siêu cất quân báo thù cha Mã Siêu khởi binh chống Tào khi cha đang trong tay
Tào. Mặt khác, Tào Tháo là người chủ động khai
chiến chứ không phải là Mã Siêu[26]
41 Bàng Thống bị Trương Nhiệm bắn chết ở gò Bàng Thống chết ở Lạc Thành, Lưu Bị tự chiếm Lạc
Lạc Phượng, sau đó Gia Cát Lượng bắt Thành bắt Trương Nhiệm.[27]
Trương Nhiệm
42 Cuộc đọ sức giữa các hổ tướng: Lã Bố với Tam Quốc chí chỉ ghi chép trường hợp Mã Siêu trực
Trương Phi, Điển Vi, Hứa Chử; Mã Siêu với tiếp đối mặt với Hứa Chử trước trận mà không đề
Hứa Chử; Mã Siêu với Trương Phi; Trương Phi cập đến cuộc chiến tay đôi.
với Hứa Chử
43 Tôn Quyền bắt giam gia quyến Gia Cát Cẩn – Tôn Quyền tập kích phía nam Kinh châu, chiếm 3
anh của Gia Cát Lượng, gây sức ép buộc Lưu quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa
Bị trả 3 quận Trường Sa, Linh Lăng và Quế
Dương
44 Quan Vũ một đao tới hội với Lỗ Túc năm 215 Lưu Bị một thuyền tới gặp Chu Du trước trận Xích
Bích (208)
45 Quan Vũ đánh chiếm được Tương Dương lần Trong trận Tương Dương-Phàn Thành năm 219,
thứ hai năm 219 Quan Vũ không chiếm được Tương Dương
46 Lã Mông bị Quan Vũ hiện hồn ám dẫn đến phát Lã Mông có bệnh từ trước, sau khi chiếm Kinh Châu
bệnh chết thì chết cùng năm với Quan Vũ
47 Tào Thực làm “bài thơ bảy bước” Bài thơ do La Quán Trung sáng tác cho Tào Thực,
Tào Phi chưa từng định ép chết Tào Thực
48 Cam Ninh mất năm 222 trong trận Di Lăng bởi Cam Ninh mất năm 218 ở tuổi 43 vì bệnh.
tướng Phiên là Sa Ma Kha
49 Lưu Bị có 70 vạn quân trong trận Di Lăng Quân Thục chỉ có 4 vạn, ít hơn cả quân Ngô (5
vạn)[28][29]
50 Gia Cát Lượng mắng chết Vương Lãng ngoài Hai người chỉ thư từ thời Tào Phi, Vương Lãng
mặt trận thời Tào Tuấn không chết
51 Kế không thành của Gia Cát Lượng Mưu kế tương tự của tướng Tống trong chiến tranh
Lưu Tống-Bắc Ngụy thời Nam Bắc triều[30]
52 Trương Bào là tướng tham chiến Bắc phạt Trương Bào chết yểu, không làm tướng Thục[31]
53 Khổng Minh 6 lần ra Kỳ Sơn Khổng Minh 6 lần đánh Ngụy nhưng không trực tiếp
đi cả 6 lần, trong đó chỉ ra Kỳ Sơn một vài lần
54 Khổng Minh tăng bếp lừa Tư Mã Ý Mẹo của Ngu Hủ lừa quân Khương trước đó 70
năm[32]
55 Hỏa thiêu hang Thượng Phương Không có thật
56 Khương Duy, Dương Nghi dùng tượng gỗ Khương Duy và Dương Nghi hành quân nghiêm
Khổng Minh (mới qua đời) để đánh đuổi Tư Mã chỉnh, không vội phát tang Gia Cát, giả cách quay lại
Ý đối đầu làm Tư Mã Ý phải rút lui[33]
57 Khương Duy bắn chết Quách Hoài Quách Hoài chết già

BỔ SUNG
Khổng Minh nói: Không hề thấy có một gợi ý hay một mệnh lệnh nào
– Chúa công nên cho người mang quân lệnh của Lưu Bị để Quan Vũ tấn công Tương Dương và
cho Vân Trường, sai cất quân đến đánh Phàn Phàn Thành.
Thành trước đi...
Hán Trung vương mừng lắm, sai quân tiền bộ
tư mã là Phí Thi đem cao sắc sang Kinh Châu.
Ngô quốc thái khuyên Quyền hỏi Chu Du. Người khuyên Quyền gọi Chu Du về là Lỗ Túc.
Em gái của Tôn Quyền được gả cho Lưu Bị với Mẹ của cô gặp gỡ Lưu Bị, thấy Lưu Bị đức độ hơn
ý đồ lấy lại Kinh Châu. người nên mến phục và gả cô cho.
Tình tiết hư cấu liên quan đến Lưu Bị
Lưu Bị là một trong những nhân vật được La Quán Trung hư cấu khá nhiều trong Tam Quốc diễn
nghĩa. Dưới đây là bảng kê các tình tiết hư cấu có liên quan tới Lưu Bị, hoặc sự thật là hành động
nhưng được La Quán Trung gán cho người khác.
Tt Hư cấu trong Tam Quốc diễn nghĩa Sự kiện lịch sử
1 Trương Phi say rượu đánh Đốc bưu Lưu Bị đánh Đốc bưu[8]
Lưu, Quan, Trương không tham gia liên minh đánh
2 Tam anh chiến Lã Bố
Đổng Trác.
3 Gia Cát Lượng bày kế hỏa thiêu gò Bác Vọng Lưu Bị tự đốt Bác Vọng trước khi có Gia Cát
Lưu Bị chặn đánh Tào Tháo ở Hoa Dung, quân ít
4 Đường Hoa Dung, Quan Vũ tha Tào Tháo
không ngăn cản được nên Tào Tháo thoát
Lưu Bị sang Giang Tả lấy Tôn phu nhân, Kiều Quốc lão
5 Lưu Bị không có râu
khuyên ông lấy thuốc ô tu nhuộm râu đen cho trẻ lại
Bàng Thống chết ở gò Lạc Phượng, Gia Cát Lượng bắt Bàng Thống chết ở Lạc Thành, Lưu Bị tự chiếm thành
6
Trương Nhiệm bắt Trương Nhiệm.
Lưu Bị một thuyền tới gặp Chu Du trước trận Xích
7 Quan Vũ một đao tới hội với Lỗ Túc năm 215
Bích (208).
Lưu Bị chỉ mang có 4 vạn quân, ít hơn cả quân Ngô
8 Lưu Bị có 70 vạn quân trong trận Di Lăng
(5 vạn)

Tình tiết hư cấu

1 Lời thề vườn đào (Lưu, Quan, Trương kết nghĩa) – fake lòi. Một chi tiết điểm nhấn của TQDN
nhưng lại là chém gió

2 Trương Phi muốn giết Đổng Trác khi đánh Khăn Vàng nhưng Lưu Bị không cho – để đề cao
nhân nghĩa của LB chứ thực ra là Tôn Kiên muốn Đổng Trác khi đánh Hàn Toại nhưng Trương
Ôn không đồng ý

3 Tào Tháo ám sát Đổng Trác, sau khi thất bại thì hiến Thất tinh đao – thực tế Tào Tháo chỉ bỏ
Đổng Trác

4 Tào Tháo phát hiệu triệu chư hầu – thực tế là Kiều Mạo phát hiệu triệu chư hầu

5 17 lộ chư hầu đánh Đổng Trác – chỉ có 11 thôi

6 Quan Vũ chém đầu Hoa Hùng khi rượu còn nóng – lại một buff cho bộ 3, thực tế là Tôn Kiên
giết Hoa Hùng

7 Tam anh chiến Lã Bố – siêu chém, vì Lưu, Quan, Trương không tham gia liên minh đánh Đổng
Trác

8 Mã Siêu đâm chết Lý Mông và bắt sống Vương Phương khi mới 17 tuổi – sử sách không đề cập.

8 Vương Doãn dùng Điêu Thuyền làm mỹ nhân liên hoàn kế – thực ra Điêu Thuyền không có
thật th_89

9 Lã Bố yêu Điêu Thuyền nên bị Đổng Trác phi kích ở Phụng Nghi Đình – thực tế thì Lã Bố tư
thông với một a hoàn của Đổng Trác, và việc Đổng Trác đuổi đánh cũng vì cái khác

10 Quan Vũ ra ba điều ước – thực tế là không có 3 cái này


11 Tôn Sách chém Vu Cát và bị Vu Cát ám ảnh phát bệnh chết – thực raTôn Sách bị gia nhân của
Hứa Cống ám sát

12 Quan Vũ qua năm ải chém sáu tướng – lại một hồi gió to. Sử sách không hề đề cập vụ này.

13 Quan Vũ chém Sái Dương ở Cổ thành sau 3 hồi trống (trước trận Quan Độ) – vụ này không
có mà thực ra là Lưu Bị giết Sái Dương sau trận Quan Độ

14 Viên Thiệu mang 70 vạn quân ra trận Quan Độ, Tào Tháo có 7 vạn – không có chi tiết lực
lượng, biết là Viên Thiệu mạnh và đông hơn, nhưng không đến mức 1 vs 10 thế này

15 Gia Cát Lượng bày kế hỏa thiêu gò Bác Vọng – lại một buff về Ngọa long =), thực tế Lưu Bị tự
đốt Bác Vọng trước khi có Gia Cát

16 My phu nhân trao A Đẩu cho Triệu Vân và tử tiết, Cam phu nhân tự chạy thoát – Triệu Vân
cứu mẹ con Cam phu nhân ở Tràng Bản

17 Trương Phi hét chết Hạ Hầu Kiệt ở cầu Trường Bản – cái này lại càng là siêu chém. Trương
Phi chỉ án ngữ cầu và sau đó đốt cầu, hò có hét có nhưng chả chết được ai. Chết được thì quá bá
=)

18 Gia Cát Lượng đối đáp với quần nho Đông Ngô – không có vụ này, chỉ là đàm phán liên minh
thôi.

19 Ngô quốc thái nhắc Tôn Quyền gọi Chu Du theo lời dặn của Tôn Sách – Ngô quốc thái chỉ là
nhân vật hư cấu

20 Tào Tháo có 83 vạn quân trong trận Xích Bích- thực ra tầm hơn 20 vạn thôi.

21 Chu Du lừa Tưởng Cán trong trận Xích Bích – Chu Du chối từ Tưởng Cán sau trận Xích Bích

22 Thuyền cỏ mượn tên – vụ này fake nốt

23 Khổng Minh cầu gió đông – gió to vl =)

24 Đường Hoa Dung, Quan Vũ tha Tào Tháo – thực ra là Lưu Bị chặn đánh Tào Tháo ở Hoa
Dung, quân ít không ngăn cản được nên Tào Tháo thoát.

25 Chu Du chết vì bị Khổng Minh chọc tức 3 lần, trước khi chết còn uất ức than rằng: Trời đã
sinh Du sao còn sinh Lượng – do Chu Du ốm nên chết, không có cái này câu củ chuổi này.

26 Bàng Thống chết ở gò Lạc Phượng, Gia Cát Lượng bắt Trương Nhiệm -thực tế Bàng Thống
chết ở Lạc Thành, Lưu Bị tự chiếm thành bắt Trương Nhiệm

27 Cuộc đọ sức giữa các hổ tướng: Trương Phi, Lã Bố, Điển Vi, Hứa Chử, Mã Siêu (Lã Bố với
Trương Phi, Điển Vi, Hứa Chữ; Mã Siêu với Hứa Chử; Mã Siêu với Trương Phi; Trương Phi với
Hứa Chử) Trong Tam Quốc chí chỉ ghi chép trường hợp Mã Siêu trực tiếp đối mặt với Hứa Chử
trước trận mà không đề cập đến cuộc chiến tay đôi.

28 Lã Mông bị Quan Vũ hiện hồn ám dẫn đến phát bệnh chết – dọa ma nhau chứ Lã Mông có
bệnh từ trước và chết sau khi chiếm Kinh châu
29 Tào Thực làm “bài thơ bảy bước” – bài này LQT chế cho Tào Thực, Tào Phi chưa từng định
ép chết Tào Thực

30 Cam Ninh không phải do Sa Ma Kha bắn tên giết

31 Lưu Bị không hề có 70 vạn quân trong trận Di Lăng, thực tế chỉ tầm 4 vạn, ít hơn cả quân Ngô
(5 vạn)

32 Khổng Minh 6 lần ra Kỳ Sơn – thực tế 6 lần đánh Ngụy nhưng KM không trực tiếp đi cả 6 lần,
trong đó chỉ ra Kỳ Sơn 1 vài lần

33 Khổng Minh tăng bếp lừa Tư Mã Ý- đây là mẹo của Ngu Hủ lừa quân Khương trước đó 70
năm

34 Khương Duy vây khốn Tư Mã Chiêu trên núi Thiết Lung – Khương Duy đánh Ngụy chưa
từng đối trận với Tư Mã Chiêu

5 chi tiết xuyên tạc trong Tam Quốc diễn nghĩa khiến Chu Du bị hậu
thế “dìm hàng” không thương tiếc

Tác giả của Tam Quốc chí – Trần Thọ từng hết lời ca ngợi vị danh tướng hoàn mỹ của Đông Ngô
như sau: “Trong chính trị thì có tầm nhìn xa trông rộng, trung thành, tận tâm, trong quân sự lại
đảm lược hơn người, trí dũng song toàn, nhân cách tốt đẹp”. Rõ ràng, nếu xếp hạng các nhân vật
nổi trội nhất của thời kỳ này, Chu Du xứng đáng được xếp vào hàng nhất đại anh hùng. Thế
nhưng vì sao trong con mắt hậu thế, hình tượng của ông lại bị bóp méo tới mức khó tin như vậy?

Sự xuyên tạc của La Quán Trung hầu hết đều nhằm về mối quan hệ giữa Chu Du và Gia Cát
Lượng

Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là một tuyệt tác về cuộc giao tranh giữa Ngụy – Thục –
Ngô. Nó mô tả “gần như” đúng hết các chiến dịch quan trọng và những thời khắc lịch sử. Thế
nhưng, chính vì cái “gần như” này mà khiến cho rất nhiều độc giả đời sau có nhận định sai lầm
về không ít nhân vật nổi tiếng. Trong số đó, các đoạn mô tả về Chu Du chính là nơi tồn tại nhiều
mâu thuẫn nhất.

Chu Du bị Gia Cát Lượng chọc tức 3 lần, hộc máu rồi chết?

Chi tiết mà Chu Du phải thốt lên rằng: “Trời sinh Du sao còn sinh Lượng” là yếu tố xuyên tạc
mà La Quán Trung đã tạo dựng nên. Theo nhiều sử sách, Lưu Bị (với con mắt nhìn người rất tốt)
đánh giá Chu Du là người độ lượng quảng đại. Những người như thế đâu có dễ gì bị trêu tức
đến chết?

Chu Du vốn là người độ lượng quảng đại, sao có thể bị chọc tức mà chết?

Nhiều sử gia cũng chỉ ra rằng, từ sau chiến thắng ở Xích Bích cho đến lúc qua đời, Chu Du vốn
không hề gặp qua Khổng Minh. Bởi lúc ấy, quân Thục vẫn đang gấp rút chuẩn bị sau khi tam
phân thiên hạ, Gia Cát Lượng còn tất bật ở Linh Lăng làm công tác hậu cần. Mãi sau này, khi
Chu Du qua đời, Bàng Thống mới là người đến viếng chứ không phải Khổng Minh.
Kế sách “thuyền cỏ mượn tên”

Trong trận Xích Bích nổi tiếng, có tình tiết Gia Cát Lượng đi cùng Lỗ Túc và 30 thuyền cỏ trong
sương mù nhử quân Tào Tháo bắn tên ra. Thế là hàng chục vạn mũi tên cắm vào thuyền cỏ quay
ngang. Gia Cát Lượng thu tên về nộp cho Chu Du. Sự thực việc dùng “thuyền cỏ mượn tên” là
do chính Tôn Quyền thực hiện. Cuốn Tam Quốc chí Bình Thoại còn khẳng định kế sách này là do
Chu Du hiến.

Kế này thực chất là do Chu Du hiến

Cuộc hôn nhân giữa Lưu Bị và Tôn Thượng Hương

Trong lịch sử, Tôn Quyền đúng là đã gả em gái mình cho Lưu Bị với tính chất hôn nhân chính
trị. Và có thể khẳng định, đây không phải mưu kế của Chu Du. Ghi chép về Tôn Thượng Hương
không nhiều nhưng có những dòng mô tả khá chắc chắn: “Thị tì hơn trăm người đều quen cầm
đao đứng hầu, Tiên chủ mỗi lần vào phòng đều thấy lạnh cả người”. Vì thế, quan hệ giữa Lưu
Bị và Tôn Thượng Hương cũng chẳng được mặn nồng tình ái như trong Tam Quốc diễn nghĩa đâu.

Quan hệ giữa Lưu Bị và Tôn Thượng Hương không hề mặn nồng tình ái

Đại kế “mượn gió đông”

Hỏa thiêu Xích Bích là trận đánh cực kỳ nổi tiếng. Nó không chỉ được khắc họa trong sử sách mà
còn trên phim ảnh, truyện tranh và cả game online nữa. Thế nhưng, thực chất thì đây lại là “địa
điểm” tiếp theo dành cho hư cấu của La Quán Trung. Có thể khẳng định rằng không có tình tiết
Gia Cát Lượng lập đàn cầu gió Đông như Tam Quốc diễn nghĩa đã viết.

Cũng chẳng có việc Khổng Minh lập đàn cầu gió Đông

Chiếm Kinh Châu

Khi còn sống, Chu Du quả thực từng giữ Giang Lăng, Di Lăng làm đường nhập Xuyên. Thế
nhưng không có chuyện Đông Ngô đánh Tây Thục hay Lưu Bị “mượn” đường. Chỉ sau khi ông
qua đời, Lỗ Túc mới là người đem Nam Quận cho Lưu Bị “mượn”. Từ đó về sau, Đông Ngô phái
Tôn Du phạt Thục rồi bị Lưu Bị cản đường. Rất có khả năng, Tam Quốc diễn nghĩa cố tình đảo lộn
hai nhân vật Tôn Du và Chu Du.

Chỉ sau khi Chu Du chết, Lỗ Túc mới là người chủ trương cho “mượn” Kinh Châu

Dễ thấy, ảnh hưởng của chính sử luôn thua xa so với các tiểu thuyết văn học. Tam Quốc diễn nghĩa
của La Quán Trung nhờ có lượng độc giả đông đảo mà đã làm sai đi hình tượng về danh tướng
Chu Du.

Mãi cho đến sau này, khi ngành game ngày càng phát triển, nhiều game thủ “fan cuồng” nhà
Ngô thường tái hiện lại cuộc so tài giữa Khổng Minh và Chu Du theo nhiều cách khác nhau. Điển
hình như việc sắp xếp để 2 vị tướng này “solo” đọ công lực chẳng hạn. Trong Tam Quốc Quần
Anh Truyện 3.0, khi nghe tin Gia Cát Lượng sắp xuất hiện, nhiều người chơi còn chia sẻ rằng họ
đã sẵn sàng đưa Chu Du đối đầu với vị quân sư nổi tiếng nhà Thục để đọ tài xem ai hơn.

Nhiều người chơi còn sẵn sàng sắp xếp cuộc chiến solo đọ công lực giữa Chu Du và Khổng Minh
để chiêm ngưỡng
Không biết đến bao giờ thì nỗi oan “trời không thấu, đất không hay” của Chu Du được giải. Dù
sao thì, vẫn có một điều đúng trong Tam Quốc diễn nghĩa là Chu Du toàn diện hơn hẳn Gia Cát
Lượng về phương diện đối nội. Tiếc là ông mất quá sớm, không thì những lần chạm trán tiếp
theo giữa 2 vị quân sư đại tài này có lẽ sẽ còn mang đến nhiều bất ngờ hơn nữa.

Bạn đọc có thể tìm hiểu về Tam Quốc Quần Anh Truyện tại ĐÂY.

Nguồn: Tổng hợp

Tam Quốc diễn nghĩa: Không phải Quan Vũ đây mới là người trảm
mãnh tướng Hoa Hùng

Chủ nhật, 19/05/2019 | 08:30

Theo Tam Quốc diễn nghĩa, trảm Hoa Hùng là thắng lợi đầu tay của Quan Vũ và cũng là uy
chấn càn khôn đệ nhất công. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng tình tiết này là hư
cấu. Thực tế Hoa Hùng do Tôn Kiên giết chết.

Hoa Hùng (?–190) là vị tướng dưới quyền Đổng Trác sống vào cuối đời Hán trong lịch sử Trung
Quốc và cũng là một nhân vật trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung.

Trong Tam Quốc diễn nghĩa, ông được La Quán Trung miêu tả là mình cao 9 thước, tướng mạo
oai phong, khi ông ra trận ở hồi 5 đã chém liên tiếp mấy tướng của liên quân chư hầu khiến Tôn
Kiên phải rút quân. Về sau nhờ có Quan Vũ chém chết Hoa Hùng thì 18 đạo chư hầu mới tiến
quân tiếp được.

Tuy nhiên các nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng tình tiết này là hư cấu. Thực tế Hoa Hùng do Tôn
Kiên giết chết, và Hoa Hùng cũng không có thành tích quân sự đáng kể, kể cả chiến công chém
2 tướng Du Thiệp, Phan Phụng cũng chỉ là hư cấu.

Ôn tửu trảm Hoa Hùng

Trong Tam Quốc diễn nghĩa, điển tích “ôn tửu trảm Hoa Hùng” được cho là thuật lại chiến công
đầu tay của Quan Vân Trường.

Theo tiểu thuyết, bối cảnh câu chuyện diễn ra khi 18 lộ chư hầu Quan Đông khởi binh thảo phạt
gian thần Đổng Trác. Quân Quan Đông bao vây thành Lạc Dương.

Tướng quốc Bình Nguyên là Lưu Bị dẫn các tướng Quan Vũ, Trương Phi... theo cùng Thái thú
Bắc Bình Công Tôn Toản.

Chư hầu cùng tiến cử Viên Thiệu làm minh chủ, Thái thú Trường Sa (một địa danh thuộc tỉnh
Hồ Nam, Trung Quốc ngày nay) Tôn Kiên làm tiên phong tới Dĩ Thủy Quan khiêu chiến.

Tướng của Đổng Trác là Kiêu kị hiệu úy Hoa Hùng tiếp chiến, đánh bại Tôn Kiên, chém đầu bộ
tướng của kiên là Tổ Mậu.

Hoa Hùng khiêu chiến quân Quan Đông, trảm liên tiếp 2 tướng.

Trong lúc liên quân chư hầu bất lợi, Viên Thiệu than: “Tiếc rằng hai tướng Nhan Lương, Văn Xú
chưa tới. Nếu có 1 người ở đây thôi, đâu cần phải sợ Hoa Hùng!”
Lời Thiệu chưa dứt, Quan Vũ đã bước ra nói: “Tiểu tướng xin đi lấy đầu Hoa Hùng!”

Thời điểm đó, Quan Vân Trường chỉ là một “mã cung thủ” vô danh tiểu tốt, cho nên Viên Thiệu
và Viên Thuật đều không bằng lòng, sợ mất mặt trước Hoa Hùng.

Trong các vị “lãnh đạo” có mặt, duy nhất Tào Tháo ủng hộ Quan Vũ xuất trận, và mời Quan
Công một chén rượu.

“Rượu đã rót ra, Quan mỗ sẽ trở lại ngay!” – Quan Công nói xong cầm đao lên ngựa.

Không lâu sau đã thấy Quan Vũ đem đầu Hoa Hùng về ném dưới đất.

Chén rượu của Tào Tháo vẫn còn ấm, vì vậy mới có tích Quan Công “ôn tửu trảm Hoa Hùng”.

Theo Tam Quốc diễn nghĩa, trảm Hoa Hùng là thắng lợi đầu tay của Quan Vũ, và cũng là uy chấn
càn khôn đệ nhất công.

Mặc dù “ôn tửu trảm Hoa Hùng” đã trở thành một điển tích vô cùng nổi tiếng đối với độc giả
Tam Quốc, song nhiều tư liệu lịch sử lại cho thấy “chiến công” của Quan Vân Trường hoàn toàn
phi thực tế.

3 anh em Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi không tham gia vào liên minh

Tháng giêng năm Sơ Bình thứ nhất (190), các quận Quan Đông khởi binh phạt Đổng Trác, tôn
Thái thú Bột Hải Viên Thiệu làm minh chủ. Khi ấy, Công Tôn Toản vẫn còn ở U Châu chứ không
tham gia hội sư.

Thêm vào đó, thời điểm này, Lưu Bị còn chưa về đầu quân cho Công Tôn Toản, cho thấy chi tiết
Bị cùng Toản tham gia liên minh là không chính xác. Theo các tài liệu lịch sử Trung Quốc, vào
thời gian trên, Lưu Bị đang dẫn quân đánh Đốc Bưu. Khi đại tướng quân Hà Tiến phái đô úy
Khưu Nghị tới Đan Dương mộ binh, Lưu Bị mới dẫn đội quân ít ỏi của mình theo người này.

Tại Hạ Bì đụng độ giặc Hoàng Cân (khăn vàng), quân Lưu đánh trận lập công, Lưu Bị được
phong chức phó quan ở Hạ Mật, sau làm Cao Đường úy, rồi Huyện lệnh Cao Đường. Về sau Cao
Đường bị giặc Hoàng Cân phá, Bị mới về đầu quân cho Trung lang tướng Công Tôn Toản và
được phong làm Biệt bộ tư mã.

Thời gian Lưu Bị làm Biệt bộ tư mã không được Tam quốc chí ghi lại, nhưng sách Tư trị thông giám
và Tục Hậu Hán thư đều viết, giai đoạn này vào khoảng tháng 10 năm Sơ Bình thứ hai (191), tức
gần 2 năm sau khi liên minh Quan Đông thành lập.

Căn cứ vào các mốc thời gian thực tế, khi các châu quận khởi binh đánh Đổng Trác năm 190, Lưu
Bị nhiều khả năng vẫn còn làm quan ở Hạ Mật, hoặc Cao Đường, chứ không thể có mặt tại tiền
tuyến Lạc Dương.

Lưu Bị không ở Lạc Dương, cho thấy Quan Vũ cũng không có khả năng xuất hiện tại Lạc Dương
để... trảm Hoa Hùng.

Theo một số nguồn sử liệu Trung Quốc, “Mãnh hổ Giang Đông” Tôn Kiên được cho là tác giả
của chiến công mà Quan Vũ “hưởng”.
Tôn Kiên vốn là Thái thú Trường Sa (địa danh ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc), tước Ô Trình Hầu.
Thời điểm chư hầu Quan Đông khởi binh, Tôn Kiên cũng từ Hồ Nam bắc tiến, hội sư với Viên
Thuật tại Lỗ Dương.

Sau một thời gian củng cố lực lượng, cuối năm 190, Tôn Kiên xuất phát đánh Đổng Trác. Ông sai
Trưởng sử Công Cừu Xứng đi đốc lương thảo. Trong lúc Tôn Kiên tập hợp chư tướng uống rượu
tiễn Công Cừu Xứng thì Đổng Trác biết tin Tôn Kiên sắp ra quân bèn sai thái thú Đông quận là
Hồ Chẩn mang quân đánh trước. Quân Hồ Chẩn đông đảo kéo đến trong lúc Tôn Kiên chưa kịp
bày trận ứng phó.

Ông hạ lệnh cho thủ hạ đi thu thập quân sĩ trở về hàng ngũ, còn mình vẫn ngồi uống rượu như
thường, khiến quân sĩ không hoảng hốt rối loạn. Khi quân sĩ trở về thành gần đông đủ, ông mới
đứng dậy chỉ huy rút lui vào trong. Hồ Chẩn thấy quân sĩ Tôn Kiên nghiêm chỉnh nên không
dám tấn công thành Lỗ Dương mà hạ lệnh rút lui.

Tôn Kiên với danh nghĩa là Thứ sử Dự châu, tập hợp binh mã các quận được 10 vạn quân kéo
đến Lương Đông và tiến đánh Lạc Dương. Đổng Trác sai bộ tướng Từ Vinh ra chống cự. Thái
thú Dĩnh Xuyên dưới quyền Tôn Kiên là Lý Mân giao chiến với Từ Vinh bại trận, bị bắt sống
cùng nhiều quân lính và bị Từ Vinh giết chết. Quân của Tôn Kiên cũng bị bại trận nặng, ông cùng
hơn 10 kỵ binh phá vây chạy ra.

Trên đường chạy bị quân Từ Vinh truy đuổi, Tôn Kiên cởi chiếc mũ đỏ trên đầu đưa cho bộ
tướng Tổ Mậu đội để đánh lạc hướng địch. Quân Từ Vinh cứ theo mũ đỏ mà đuổi, trong lúc Tôn
Kiên theo đường nhỏ khác chạy thoát thì Tổ Mậu cũng nghĩ ra kế tháo chiếc mũ đội lên cái cột
cháy dở trước ngôi mộ, còn mình nhảy vào bụi rậm nấp. Quân Từ Vinh đuổi đến nơi chỉ thấy cái
cột cháy bèn lui về.

Tam Quốc diễn nghĩa kể rằng người đánh bại Tôn Kiên trận này là Hoa Hùng, còn Tổ Mậu đội mũ
đỏ dụ địch cứu Tôn Kiên cũng nấp trong bụi, thấy Hoa Hùng đi tới định nhảy ra đâm nhưng
không được, bị Hoa Hùng giết chết.

Tôn Kiên bại trận nhưng không nản chí. Ông thu nhặt tàn quân, đánh chiếm thành Thái Cốc và
Dương Nhân ở phía nam Lạc Dương.

Đổng Trác thấy Tôn Kiên chiếm Dương Nhân, lại sai Hồ Chẩn và con nuôi là Lã Bố mang 5000
quân đi đánh. Hồ Chẩn và Lã Bố bất hòa, Hồ Chẩn nóng tính và muốn nhanh chóng lập công,
tuyên bố với quân sĩ phải lập tức quét sạch Tôn Kiên, khiến các tướng dưới quyền không đồng
tình.

Khi quân Hồ Chẩn còn cách vài chục dặm, quân sĩ đi xa mệt mỏi chuẩn bị nghỉ ngơi thì Lã Bố
muốn phá Hồ Chẩn không cho lập công, bèn bàn rằng quân Tôn Kiên lơi lỏng nên đánh ngay.
Hồ Chẩn nghe theo, bèn dẫn quân đi trong đêm, nhưng đến nơi thì Tôn Kiên đang phòng thủ
rất nghiêm ngặt, không thể đánh úp. Lúc đó quân Hồ Chẩn đói khát, trong đêm không kịp đào
hào phòng ngự, đang định cởi giáp ngủ thì Lã Bố lại phao tin nhảm rằng Tôn Kiên sắp kéo ra
đánh úp. Quân Hồ Chẩn không phân biệt được thật giả, chạy nháo nhác, bỏ cả mũ và giáp, người
ngựa rất hỗn loạn.
Tôn Kiên được tin báo quân địch hỗn loạn bèn mang quân ra đuổi đánh khiến Hồ Chẩn đại bại,
bộ tướng của Chẩn là Hoa Hùng bị chém chết.

Trên thực tế, Hoa Hùng không có thành tích quân sự đáng kể. Tam Quốc diễn nghĩa đã cường điệu
tài năng của viên tướng này. Chiến công chém 2 tướng Du Thiệp, Phan Phụng cũng chỉ là hư
cấu.

Có nhiều bình luận cho rằng, Tam Quốc diễn nghĩa đề cao hình ảnh Hoa Hùng, mục đích không
ngoài “tô điểm” cho sự lợi hại của Quan Vân Trường.

Tôn Kiên vốn là tác giả chiến công trảm Hoa Hùng, song tiểu thuyết hư cấu lại “tặng” công lao
của Kiên cho Quan Vũ, quả thực là một sự bất công đối với danh tướng Giang Đông.

Tôn Kiên (155-193), tự Văn Đài, là một vị tướng quân đội tài giỏi trong lịch sử Trung Hoa đã đặt
nền móng xây dựng nên nhà Đông Ngô vào thời Tam quốc. Đương thời ông là tướng nhà Hán
và tham gia cuộc chiến chống quyền thần Đổng Trác.

Tôn Kiên người Phú Xuân thuộc Ngô quận. Mẹ ông là Tôn Bạch Hà (120 – 156) chết từ hồi Tôn
Kiên mới 2 tuổi, cha ông là Tôn Huyền (116 – 190) vì vợ đã chết nên đã lấy Lưu Cầm Trang (136
– 211) làm người vợ kế để chăm sóc ông. Theo Tam quốc chí, ông là hậu duệ của danh tướng Tôn
Vũ thời Xuân Thu và nhiều đời làm quan, tuy nhiên có ý kiến nghi ngờ về “dòng dõi Tôn Vũ”
và cho rằng chỉ chắc chắn Tôn Kiên là dòng dõi thế tộc nhiều đời.

Tôn Kiên có 5 người con trai trong đó hai người nổi bật là con cả Tôn Sách và con thứ Tôn Quyền.
Ngoài ra ông còn có một người con gái là Tôn Thượng Hương.

Quốc Tiệp

Những “bịa đặt chết người” trong “Tam Quốc diễn nghĩa”

Dịch giả Trần Đình Hiến

Ngày 29 Tháng 12, 2007

Giadinh.net – Dịch giả Trần Đình Hiến sẽ có những mổ xẻ hết sức thú vị về những “bịa đặt
chết người” dưới góc độ lịch sử trong bộ tiểu thuyết nổi tiếng “Tam Quốc diễn nghĩa”.

Trở thành một dịch giả nổi tiếng về Văn học Trung Quốc (người dịch rất thành công các tác phẩm
của Mạc Ngôn; và mới đây là Totem Sói), Trần Đình Hiến đã có những tìm hiểu sâu rộng về lịch
sử, văn hóa Trung Hoa và trải qua nhiều năm trực tiếp sống, làm việc tại Trung Quốc.

Khi GĐ&XH đề nghị ông viết về những “bịa đặt chết người” về mặt lịch sử trong bộ tiểu thuyết
nổi tiếng “Tam Quốc diễn nghĩa” (thực ra, tiểu thuyết được quyền hư cấu, nhưng khi đọc “Tam
Quốc diễn nghĩa”, rất nhiều người đã tin những câu chuyện trong đó là sự thật lịch sử), ông đã
hứng khởi nhận lời.

Kỳ 1: Nhào nặn, tô vẽ lịch sử


“Uống rượu luận anh hùng”, “Ba lần đến lều tranh”: Bịa

Trung Quốc có 4 danh tác:


1. “Tam Quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung, xuất hiện cuối Nguyên đầu Minh, thế kỷ XV.

2. “Thủy hử” của Thi Nại Am, xuất hiện dưới triều Minh (thế kỷ XV – XVI).

3. “ Tây du ký” của Ngô Thừa Ân, xuất hiện dưới triều Minh (thế kỷ XV – XVI)

4. “ Hồng lâu mộng” xuất hiện vào đời Càn Long (1736 – 1796) triều Mãn Thanh.

Trong 4 tác phẩm trên, “Hồng lâu mộng” được dánh giá cao nhất về nghệ thuật, nhưng ảnh
hưởng sâu rộng trong xã hội Trung Quốc và nước ngoài, thì phải kể đến “Tam Quốc diễn nghĩa”.

“Tam Quốc diễn nghĩa” là bộ tiểu thuyết lịch sử viết về “Tam quốc”. “Tam quốc” nhằm chỉ ba
nước Ngụy, Thục, Ngô cùng tồn tại trong “thế chân vạc” trong khoảng 60 năm.

Năm 220 Tào Phi xưng Đế, năm 221 Lưu Bị xưng Đế, năm 222 Tôn Quyền xưng Đế. Đến năm
280, Tấn Vũ Đế thu phục ba nước, lập ra triều Tấn, chấm dứt “Tam quốc”. Nhưng nếu căn cứ
vào những sự kiện lịch sử thì lịch sử Tam quốc phải kể từ niên hiệu Sơ Bình năm thứ nhất đời
Hán Hiếu Đế (190) đến niên hiệu Thái Khang năm thứ nhất đời Tấn Vũ Đế (280), tổng cộng 90
năm. Nhà sử học Phạm Văn Lan trong Trung Quốc thông sử, gọi thời kỳ này là thời kỳ chia rẽ.

Tam quốc là thời kỳ lịch sử đầy những biến cố phi thường. Những nhân vật tạo nên các biến cố
đó như Tào Tháo, Lưu Bị, anh em Viên Thiệu, Viên Thuật, anh em Tôn Sách, Tôn Quyền v.v...
khi chính thức hình thành Tam quốc đều đã vắng mặt. Mà nếu thiếu họ thì không thành “Tam
quốc”. Không chỉ các nhân vật lịch sử vắng mặt, mà những câu chuyện khiến người ta si mê, như
“uống rượu luận anh hùng”, “ba lần đến lều tranh”... đều không có chỗ trong lịch sử “Tam quốc”.

Vì lẽ đó, chính sử cũng như dã sử, người ta đều phân định Tam quốc bắt đầu từ loạn Đổng Trác
hoặc sớm hơn, cho đến khi vương triều Tây Tấn được thành lập. Lại nữa, “thế chân vạc” Ngụy,
Thục, Ngô thực ra đã hình thành trước khi thật sự hình thành Tam quốc. Các thế lực quân phiệt
ở các địa phương lớn mạnh lên qua các cuộc đàn áp nông dân khởi nghĩa cuối đời Đông Hán.
Tiếp đó là cuộc hỗn chiến giữa các quân phiệt. Cuối cùng, còn lại ba thế lực lớn nhất là Tào Tháo,
Lưu Bị, Tôn Quyền tranh nhau ngôi bá chủ, và sau đó cả ba bị diệt, vương triều Tấn được thành
lập.

Tam quốc là thời kỳ động loạn. Đây là thời kỳ chinh chiến triền miên, khói lửa ngất trời, xác chết
đầy đồng, dân sống vất vưởng. Nhưng người ta có câu: “Trai thời loạn” – Đây cũng là thời kỳ
xuất hiện các anh hùng hào kiệt cùng với những giang hồ hảo hán, và cả những kẻ côn đồ. Đủ
các loại người. Hùng tài đại lược như Tào Tháo, cúc cung tận tụy như Gia Cát Lượng, tài hoa lỗi
lạc như Chu Du, kiên trì nhẫn nại như Lưu Bị, coi trọng tình nghĩa như Quan Công...

Sức hấp dẫn của tác phẩm “Tam Quốc diễn nghĩa” vượt lên các trứ tác lịch sử. Vì rằng tác phẩm
văn nghệ cần sự tưởng tượng và hư cấu.

Trên cơ sở lịch sử, lấy lịch sử làm đề tài để tưởng tượng và hư cấu, hư hư thực thực, nửa thật
nửa giả, rồi thì, do sức hấp dẫn ma mị của văn nghệ, giả biến thành thực, những hình tượng giả
do văn nghệ tạo nên, lại như hình tượng lịch sử đích thực. Trường hợp “Tam Quốc diễn nghĩa” là
như vậy.
Từ quan điểm khoa học về lịch sử mà xét, những người nói trên không chỉ là anh hùng thời đại,
mà còn là anh hùng dân tộc, vì rằng người nào cũng muốn chấm dứt chiến tranh, đất nước thống
nhất, thiên hạ thái bình. Có điều, người nào cũng muốn giành lấy nhiệm vụ lịch sử ấy, không
muốn nhường cho kẻ khác. Chính vì vậy mà nảy sinh mâu thuẫn, thậm chí xung đột, biến nhau
thành kẻ thù không đội trời chung, một mất một còn. Rồi thì thắng lợi cuối cùng lọt vào tay một
người, đúng như câu “Nhất tướng công thành, vạn cốt khô”.

Nhào nặn lịch sử, tạo sự hấp dẫn

Cho nên có thể nói rằng, chiến tranh giữa Ngụy, Thục, Ngô là không thể tránh khỏi, không còn
cách nào khác. Lịch sử cứ thế tiếp diễn theo hai vế tương phản. Một vế dùng chiến tranh để kết
thúc chiến tranh. Vế thứ hai là nhân dân chịu muôn vàn khổ cực để kết thúc chiến tranh. Vậy khi
tán dương những anh hùng lịch sử, không được quên nỗi khổ không thể đong đếm được mà
nhân dân phải gánh chịu.

Một đặc điểm của “Tam quốc” là thời gian ngắn. Ngụy, Thục, Ngô chỉ tồn tại được nửa thế kỷ,
nếu cộng cả “tiền Tam quốc” cũng chỉ được 90 năm. 90 năm so với lịch sử một dân tộc chỉ một
thoáng, như bóng câu qua cửa sổ. Mọi người chưa kịp suy ngẫm thì mọi chuyện đã trở thành
quá khứ, trở thành lịch sử. Lịch sử thường do người chiến thắng ghi chép, không tránh khỏi thiếu
công bằng. Dân gian chép sử thì năm người mười ý, “Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay”. Ý kiến của
các học giả cũng ít khi nhất trí. Thí dụ, Gia Cát Lượng ra khỏi lều tranh là do Lưu Bị ba lần đến
thỉnh cầu, hay là ông ta tự tiến cử? Trận Xích Bích là do công của Hoàng Cái hay là Tào Tháo tự
đốt chiến thuyền rồi rút lui? Vì sao có chuyện tam sao thất bản như vậy? Xin xem tiếp những
phần sau sẽ rõ.

Kịch tính trong lịch sử “Tam quốc” là đối tượng lọt vào mắt xanh của những nhà sáng tác văn
học nghệ thuật và luôn luôn là đề tài để đời sau bình phẩm. Ai biết Lưu Bị thì hiểu Lưu Bị hơn
Lưu Tú. Ai biết Tào Tháo thì hiểu Tào Tháo hơn Vương Mãng. Nhưng định hướng những suy
nghĩ và cách nhìn khác nhau về một mối là do ý đồ trong tác phẩm văn nghệ, mà ở đây là “Tam
Quốc diễn nghĩa”.

Ngoài những lí do trên, “Tam Quốc diễn nghĩa” còn một yếu tố quan trọng khác. Đó là do tư tưởng
“tôn quân”. La Quán Trung đã vừa hư cấu vừa nhào nặn lại các sự kiện và bộ mặt các nhân vật
lịch sử: Ai tôn phò nhà Hán thì dù bất tài cũng được tô vẽ thành anh hùng, tài năng quán thế,
nhân cách cao thượng; ai chống lại nhà Hán – mặc dù đó là một triều đại đã mọt ruỗng – thì dù
tài năng quán thế cũng trở nên bất tài, tư cách hèn hạ.

Tuy nhiên, sự vật bao giờ cũng có hai mặt của nó. Mặt thành công của “Tam Quốc diễn nghĩa” nói
trên, đi kèm với thất bại (trớ trêu thay, cũng có thể gọi là thành công) trong việc tiêu chí hóa mẫu
người anh hùng đã nhào nặn người Trung Quốc thành những con người không thực, nhân cách
méo mó, giả nhân giả nghĩa.

Theo dõi lịch sử Trung Hoa từ đời Tống trở đi thì rõ.

Trên đây là tổng quan về bộ tiểu thuyết trường thiên “Tam Quốc diễn nghĩa”, một tiểu thuyết
chương hồi, ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách của người Trung Quốc. Biết bao thế
hệ người Trung Quốc say mê “Tam Quốc diễn nghĩa”, người làm tướng tìm thấy ở đây mưu thần
chước quỷ, kẻ làm quan rút ra ở đây những xảo thuật trị dân, triều Mãn Thanh còn lệnh cho
hoàng gia phải thuộc lòng “Tam Quốc diễn nghĩa”. “Tam Quốc diễn nghĩa” trở thành sách gối đầu
giường từ dân đến quan ở Trung Quốc, chí ít trong khoảng 500 năm lịch sử.

“Tam quốc chí”, “Tam quốc chí chú”, “Tam Quốc diễn nghĩa”: Cuốn nào đáng tin?

Nhưng chính từ “Tam Quốc diễn nghĩa”, ta thấy rõ hơn văn hóa truyền thống Trung Quốc và các
anh hùng hảo hán tượng trưng cho lí tưởng thời đại trong “Tam Quốc diễn nghĩa” đã được nhào
nặn như thế nào?

Trước hết hãy làm rõ mối quan hệ giữa “Tam quốc chí”, “Tam quốc chí chú” với tiểu thuyết “Tam
Quốc diễn nghĩa”.

Tây Tấn diệt Ngụy, Thục, Ngô thống nhất Trung nguyên năm 280. Sau đó 5 năm, tức năm 285,
Trần Thọ biên soạn xong Tam quốc chí. Trần Thọ quê Tứ Xuyên, tính cách điềm đạm, trung thực
và đặc biệt rất thận trọng đối với công việc chép sử. Ông là một nhà sử học chân chính. Với thái
độ cực kỳ cẩn trọng, ông ghi chép những gì đã được xác minh là đúng với sự thực. Với những
vấn đề tồn nghi, ông không chép nếu thấy vô lý. Với những vấn đề còn phân vân hoặc thiếu sử
liệu chứng thực, ông vẫn chép nhưng có ý kiến bảo lưu để người đời sau bàn tiếp. Vì khoảng
cách mới 5 năm, chứng nhân lịch sử rất nhiều và vì người ta chưa kịp quên, nên hầu hết những
gì ông khẳng định đều chính xác. Nhưng cũng vì thời gian quá ngắn so với công việc sưu tầm
biên khảo, nên ông chưa kịp thu thập rất nhiều sự kiện và một số nhân vật lịch sử. Do đó mới có
bộ Tam quốc chí chú (chú giải Tam quốc chí) của Bùi Tùng Chi xuất hiện sau đó 130 năm (năm
413).

Bùi Tùng Chi quê gốc Sơn Đông, sống vào thời Lưu Tống – Nam Bắc triều. Về tính cách, ông
cũng cẩn thận như Trần Thọ. Vì có độ lùi 130 năm, đủ để ông thu thập hết những gì Trần Thọ bỏ
sót hoặc phân vân chưa quyết. Sử liệu trung thực và những lời bình xét xác đáng của hai ông
khiến hai bộ sách này trở thành chính sử có độ tin cậy cao, người đời sau mỗi khi tranh luận về
Tam quốc mà ý kiến bất đồng, đều lấy “Trần chí, Bùi chú” làm trọng tài phân xử.

Tiếp đó, sau 1.100 năm, tức vào cuối Nguyên đầu Minh (cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV) xuất
hiện tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung. Ông người Sơn Tây (có thuyết nói ông
quê Tiền Đường-Chiết Giang hoặc Lư Lăng-Giang Tây), nghe nói là học trò Thi Nại Am (tác giả
tiểu thuyết Thủy hử). La Quán Trung dựa vào sử liệu Tam quốc để sáng tác bộ tiểu thuyết trường
thiên Tam Quốc diễn nghĩa.

Xuất phát từ tư tưởng bảo hoàng, bằng sức tưởng tượng và hư cấu của một nhà văn tài năng trác
việt, La Quán Trung nhào nặn lại các sự kiện và nhân vật lịch sử cho phù hợp với lí tưởng tôn
quân của ông. Người nào trung thành với nhà Hán thì dù bất tài cũng được ông tô vẽ thành
chính nhân quân tử. Ai chống lại nhà Hán thì dù là bậc anh hùng hào kiệt, ông cũng gán cho cái
tên “gian thần quốc tặc”.
Kỳ 2?
Tính cách, thái độ, tài năng của những nhân vật lớn như Gia Cát Lượng, Chu Du, Tào Tháo, Lưu
Bị, Tôn Quyền... và những sự kiện lớn trong “Tam Quốc diễn nghĩa” thật – giả đến đâu, chúng
ta sẽ dần dần được sáng tỏ.

* Lưu Bị: ông tổ nghề đan lát.

* Quan Công: ông tổ nghề buôn (thần Tài).

* Trương Phi: ông tổ nghề mổ lợn.

Hãy bắt đầu từ nhân vật nổi tiếng Chu Du của Đông Ngô.

Gia Cát Lượng chưa bao giờ chọc tức Chu Du

Nhắc tới Chu Du, người ta liền nghĩ tới “tam khí Chu Du”, chết vì tính đố kỵ; Nhớ câu Chu Du
than thở: “Đã sinh Du sao còn sinh Lượng”. Nhưng đó là trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa,
nó hoàn toàn không giống Chu Du trong lịch sử.

Trong lịch sử, Gia Cát Lượng chưa bao giờ chọc tức Chu Du, và Chu Du cũng chưa bao giờ tức
thổ huyết mà chết. Vì sao? Vì Chu Du là một con người rất có bản lĩnh. Tam quốc chí đánh giá
rất cao về ông: “Cởi mở, khí phách hơn người”. Người cùng thời cũng rất trân trọng ông.

Lưu Bị nhận xét về Chu Du là “rất độ lượng”. Tưởng Cán – danh sĩ Hoài Hải, nói ông “là con
người thanh lịch”. Nhân đây xin minh oan cho Tưởng Cán. Tưởng Cán sang Giang Đông sau khi
trận Xích Bích đã xảy ra 2 năm, không làm gì có chuyện Tưởng Cán trộm thư của Sái Mạo gửi
Chu Du. Bộ mặt Tưởng Cán cũng không gớm ghiếc, mũi trắng lốp như trong hí kịch. Trái lại,
Tưởng Cán khá đẹp trai. Sách Giang biểu truyện chép: “Cán dung mạo đẹp, có tài hùng biện,
khắp Giang – Hoài không có đối thủ”.

Chu Du tuổi trẻ tài cao, nổi tiếng đẹp trai ở Giang Đông. Tam quốc chí chép ông “khôi ngô hùng
vĩ, dung mạo tuyệt đẹp” và còn nói thêm “người Giang Đông gọi ông là Chu Lang. Lang là chỉ
người đàn ông anh tuấn, kêu bằng Lang là để tán dương vẻ đẹp của người được gọi. Giang Đông
có hai người được gọi là Lang: Chu Du và Tôn Sách.

Đương nhiên, một con người được kêu bằng Lang không chỉ ở dung mạo đẹp, mà còn ở khí chất,
ở tâm hồn. Chu Du có đầy đủ khí chất cao thượng, tài hoa. Ông rất chú ý trau dồi nhân phẩm,
giỏi trận mạc, am hiểu nghệ thuật, nhất là âm nhạc. Ngay cả khi rượu đã 3 tuần, tức đã ngà ngà
say, ông vẫn có thể chỉ ra nốt nhạc đánh sai trong dàn nhạc cung đình. Vậy nên mới có chuyện
người đương thời lưu truyền câu “khúc hữu ngộ, Chu Lang cố” (khi nốt nhạc đánh sai, Chu Lang
liền ngó về phía đó). Một con người tài hoa như vậy, với âm nhạc mà còn thế, chắc chắn biết điều
binh khiển tướng, nắm vững nghệ thuật tiến hành chiến tranh.

Chu Du quả rất giỏi trận mạc. Trong trận Xích Bích, ông là Tổng chỉ huy liên quân Tôn – Lưu.
Về phong độ Chu Du, Tô Đông Pha đã miêu tả trong Xích Bích hoài cổ: “Nhớ Công Cẩn năm xưa,
khi Tiểu Kiều mới sánh duyên cùng, hào hoa phong nhã, quạt lông khăn lượt, nói cười đấy mà
kẻ cường địch tan thành tro bụi”.
Tướng chiến trường vẫn quạt lông, khăn lụa

Tam Quốc, Thuỷ Hử ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội Trung Quốc

Dân chúng quan tâm đến Tam Quốc diễn nghĩa không kém các nhà sử học.

Như trên đã nói, trong 4 tác phẩm văn học cổ điển, tuy người ta có câu: “Khi rảnh mà không
bình Hồng lâu mộng thì đọc thiên kinh vạn quyển vẫn bằng thừa”, nhưng dân chúng thì lại thích
Tam Quốc và Thủy Hử.

Trên thực tế không phải Hồng lâu mộng ánh hưởng sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mà là Tam
Quốc và Thủy Hử.

Một số nhân vật trong Tam quốc được suy tôn là tổ sư của nghề này nghề nọ, nhưng tuyệt nhiên
không một ai trong Hồng lâu mộng được tôn sùng như trong Tam Quốc.

Quạt lông là quạt làm bằng lông vũ, khăn lượt là khăn đội đầu bằng lụa xanh. Ung dung biết
mấy! Hào hoa biết mấy! Dưới triều đại phong kiến, giới quí tộc và quan lại thường đội mũ. Mũ
cao ngất ngưởng, áo rộng thùng thình. Nhưng đến cuối đời Đông Hán, khăn lượt quạt lông là
cái mốt của danh sĩ. Làm tướng mà khăn lượt quạt lông, thì tính cách nho nhã càng nổi bật.

Ta có thể hình dung một cảnh tượng như sau: Tào Tháo bày thủy trận trên Trường Giang, chiến
thuyền san sát, cờ xí rợp trời, người yếu bóng vía trông thấy mà hồn bay phách lạc. Vậy mà Chu
Du vẫn quạt lông khăn lượt, ung dung tự tại, tính toán không sót một kẽ hở, cuối cùng đại phá
quân Tào bằng chiến thuật lấy yếu đánh mạnh, để lại một chiến thắng lừng danh kim cổ, là niềm
cảm hứng bất tận cho thơ ca ngàn đời sau đó.

Tuy nhiên, chiến tranh không phải là nghệ thuật, không chỉ cười cợt mà cường địch tan thành
tro bụi. Khi chỉ huy trận Xích Bích, Chu Du lấy Tiểu Kiều đã 10 năm, chứ không phải mới thành
hôn như Tô Đông Pha viết trong Xích Bích hoài cổ.

Tô Đông Pha viết vậy để khắc họa càng đậm tính cách Chu Du, người hùng trong trận Xích Bích.
Tuy rằng không thể coi văn học là lịch sử, nhưng vẻ hào hoa phong nhã của Chu Du trong đời
thường đúng như Tô Đông Pha miêu tả.

Quan trường, tình trường, chiến trường đều mỹ mãn

Chu Du năm 24 tuổi đã được Tôn Sách phong chức Kiến Uy Trung Lang Tướng, cai quản toàn
bộ lực lượng quân sự Giang Đông. Cũng vào năm này, Chu Du lấy Tiểu Kiều, Tôn Sách lấy Đại
Kiều, hai hoa khôi Giang Đông, ái nữ của Kiều Công. Có thể thấy Chu Du là con người mà về
quan trường, tình trường, chiến trường đều mỹ mãn, không có lý do gì để ganh tị với người khác,
lại càng không thể nhỏ nhen, ghen ghét người tài đến mức tức hộc máu mà chết.

Đúng là Chu Du và Lưu Bị khi công khai, khi ngấm ngầm có sự tranh chấp quyết liệt. Ông đã
từng đề nghị Tôn Quyền giam lỏng Lưu Bị, chia rẽ Quan Công – Trương Phi. Nhưng đó là vì
quyền lợi chính trị của Đông Ngô mà ông là một thành viên quan trọng. Đây là nhiệm vụ chính
trị, không liên quan gì đến bản tính của ông.

Và còn chuyện này nữa. Khi ấy Chu Du ngại là ngại Lưu Bị, chứ không ngại Gia Cát Lượng. Đơn
giản là khi ấy Gia Cát Lượng mới ra khỏi lều tranh, chưa có tiếng tăm gì, chưa phải là đối thủ
của Chu Du. Chỉ vài nét phác họa như thế, đủ để ta thấy Chu Du mắc tiếng oan dậy đất với
những chuyện đối đầu với Gia Cát Lượng.

Ba bộ mặt của nhân vật và sự kiện lịch sử

Thực ra, rất nhiều sự kiện và nhân vật lịch sử đều có ba bộ mặt, ba hình tượng lịch sử.

Một là, bộ mặt ghi lại trong chính sử, gọi là hình tượng lịch sử, là bộ mặt do các nhà sử học chủ
trương. Cũng cần nói thêm rằng, hình tượng lịch sử có khi cũng không đúng với bộ mặt thật
trong lịch sử. Vì sao vậy? Vì rằng trong tay ta không còn những tài liệu nguyên thủy, cũng không
thể dựng người xưa ngồi dậy để hỏi han, mà dù có hỏi thì chưa chắc đẫ nói thực. Vậy là ta phải
dựa vào những gì ghi chép về lịch sử, chủ yếu là trong chính sử.

Nhưng chính sử đôi khi cũng có chỗ không tin cậy. Chính vì vậy mà nhà sử học nổi tiếng Lã Tư
Dật từng cảnh báo: “Một số ghi chép trong “Tam Quốc chí” và “Hậu Hán thư” chưa chắc đã đủ
độ tin cậy”. Thí dụ, nhà Thục – Hán không đặt chức quan chép sử, vậy nên những ghi chép về
Thục – Hán đều dựa vào chuyện kể, hoặc tin tức vỉa hè, khiến chúng ta chỉ còn hy vọng vào
những khảo chứng của các nhà sử học. Rồi thì, quan điểm của các nhà sử học cũng không thống
nhất. Tất cả những cái đó, khiến lịch sử càng xa thì tam sao thất bản càng lớn, “Tam Quốc diễn
nghĩa” đã chứng minh điều đó.

Hai là, hình tượng lịch sử của các nhân vật lịch sử trong tác phẩm văn nghệ (thơ ca, tiểu thuyết,
hí kịch...) ta gọi là hình tượng văn học do các văn nghệ sĩ dựng nên trong tác phẩm văn học, mà
Chu Du, Gia Cát Lượng, Lưu Bị, Tào Tháo, Tôn Quyền... trong Tam Quốc diễn nghĩa là những
trường hợp điển hình. Những nhân vật lịch sử này được La Quán Trung gán cho một bộ mặt
hoàn toàn khác trong chính sử và cả trong đời thường. Cụ thể như thế nào, xin dành cho khi nhắc
đến từng người trong bài này.

Ba là, hình tượng các nhân vật lịch sử do dân chúng dựng nên, ta gọi là hình tượng dân gian. Vì
rằng, trong con mắt mỗi chúng ta hầu như đều có một nhân vật lịch sử mà ta thích hoặc không
ưa. Hợp với mình thì thích, không hợp với mình thì không ưa. Hoặc ai tô vẽ gì cũng mặc, nhân
vật lịch sử có thế nào thì nói thế ấy, không thêm không bớt. Hình tượng dân gian này nhiều khi
khác xa hình tượng văn học.

Thí dụ: Trong “Tam Quốc diễn nghĩa”, Lưu Bị được giới thiệu là dòng dõi hoàng tộc, hậu duệ
của Trung Sơn Tĩnh vương, Hoàng đế đất Ba Thục, nhưng trong dân gian thì được coi là ông tổ
của nghề đan lát, vì ông này xuất thân từ nghề dệt chiếu, đan giày cỏ; Quan Công xuất thân từ
nghề buôn (ông này có cửa hiệu tạp hóa trước khi kết nghĩa vườn đào) nên dân gian thờ là Thần
Tài; Trương Phi là võ tướng, dũng mãnh là thế, nhưng lại được coi là ông tổ của nghề đồ tể, vì
Trương Phi xuất thân làm nghề mổ lợn.

Cũng vậy, trong Thủy Hử, Tống Công Minh (Tống Giang) được coi là ông tổ của nghề cướp
đường, Thời Thiên được coi là ông tổ của nghề trộm cắp. Và còn nhiều thí dụ khác nữa, ở đây
không kể hết.
Kỳ 3: Gia Cát Lượng “cướp” công Tôn Quyền, Lưu Bị, Chu Du
Có nhà nghiên cứu nói rằng: La Quán Trung cho Khổng Minh “cướp” công lớn của nhiều nhân
vật khác (lấy kế sách, công trạng của người khác gắn vào Khổng Minh)… Cũng ý kiến này cho
rằng, Gia Cát Lượng là người được La Quán Trung “tô son, vẽ phấn nhiều nhất” so với các nhân
vật khác. Những điều này đúng hay sai ?

“Không thành kế” của Khổng Minh: Dựng chuyện !

Ngay từ đời Tấn (sau Tam quốc) đã có người tôn sùng Gia Cát Lượng. Một người tên Quách
Xung còn đưa ra “5 chuyện của Gia Cát Lượng mà đời chưa biết”, trong đó có “không thành kế”.

Cả 5 chuyện do Quách Xung đưa ra đều bị Bùi Tùng Chi bác bỏ khi chú giải Tam quốc chí. Lí do
quan trọng để Bùi Tùng Chi bác bỏ là khi Gia Cát Lượng đóng quân ở Dương Bình thì Tư Mã Ý
đang làm đô đốc Kinh Châu, đóng quân tại thành Tiết Uyển, nghĩa là xa hàng ngàn dặm, hoàn
toàn không thể điều quân chớp nhoáng đi đánh Gia Cát Lượng. Mà như vậy, thì làm gì có “không
thành kế” ?

Nhưng câu chuyện do Quách Xung bịa ra quá hấp dẫn, nên Tam quốc diễn nghĩa gán cho Gia
Cát Lượng và đưa luôn vào truyện, các vở hí kịch về đề tài Tam Quốc cũng đua nhau diễn tích
này.

Ba chuyện thất–không–trảm là ba trích đoạn được công diễn liên tục, chưa khi nào vắng mặt trên
sân khấu. Thất là “thất thủ Nhai Đình”; không là “tòa thành bỏ trống”, tức “không thành kế”;
trảm là “giết Mã Tốc”.

Ba chuyện này cực hay, nhưng đó là hư cấu, không phải sự thực lịch sử và cũng không lôgic.

Thí dụ, ở chuyện “không thành kế”, Tam quốc diễn nghĩa cho rằng Tư Mã Ý không dám tấn công
là sợ có quân Thục mai phục. Vậy sao không cử một toán trinh sát xem thực hư thế nào? Có mai
phục hay chỉ là nghi binh?

Hơn nữa, Tư Mã Ý trông thấy rất rõ Gia Cát Lượng tươi cười một mình ngồi trên địch lâu gảy
đàn. Gần đến như thế, tại sao không sai một vài cung thủ bắn chết béng Gia Cát Lượng cho rồi
như binh pháp đã dạy: “Bắt giặc, bắt tướng trước”. Tư Mã ý thuộc làu binh pháp, chẳng lẽ không
biết điều này?

Mặt khác, theo lời Quách Xung, khi ấy Tư Mã Ý có 25 vạn quân, Gia Cát Lượng có 1,5 vạn. Theo
“Tam quốc diễn nghĩa”, khi ấy Tư Mã Ý có 15 vạn quân, Gia Cát Lượng chỉ có 2.500 quân. Với
quân số áp đảo như thế, Tư Mã Ý còn sợ gì mai phục? Muốn thăm dò địch tình, tránh bị mai
phục, chỉ cần bao vây 3 ngày là biết liền. Vậy sao lại rút quân? Chẳng có lí do nào khiến Tư Mã
Ý phải bỏ chạy cả. Vì vậy, khi chú giải Tam quốc chí, Bùi Tùng Chi kết luận câu chuyện Quách
Xung đưa ra là không có cơ sở.

Bùi Tùng Chi viết: “Nếu quả như lời Quách Xung nói, Tuyên Đế (Tư Mã Ý) có 25 vạn quân, lại
biết Gia Cát Lượng không có thực lực, nếu nghi có quân mai phục, tất tính cách tấn công, cớ sao
lại rút lui?”.
“Lửa thiêu Tân Dã” thực ra là kế của Lưu Bị

“Không thành kế” là phịa đã đành, “Lửa thiêu Tân dã” cũng bị biến tướng. Thực ra có chuyện
này, nhưng đó là mưu hoả công của Lưu Bị (Hậu Hán thư viết: Tiên chủ – Lưu Bị ém quân mai
phục, rồi đốt trại giả vờ bỏ chạy. Lũ Đôn đuổi theo đều bị đánh tan tác). Chuyện là thế chứ không
phải là mưu của Gia Cát Lượng.

Lửa thiêu Xích Bích thì có, nhưng đó là công của Hoàng Cái – bộ tướng của Chu Du, không phải
do Gia Cát Lượng bày mưu.

Đến như mượn gió đông lại càng nực cười. Tắm gội sạch sẽ, mặc đạo bào, xõa tóc đi chân không,
Gia Cát Lượng biến thành phù thủy (nhận xét của Lỗ Tấn). Chuyện “mượn gió đông” cũng phịa
nốt.

Gia Cát Lượng không phải phù thủy, mà là người thực. Trần Thọ trong Dâng biểu (Gia Cát
Lượng tập), miêu tả “Gia Cát Lượng mình cao 8 thước, mặt mũi khôi ngô”. 8 thước thời Hán
bằng 5 thước 5 tấc bây giờ, tức cao 1,84 mét.

Khi ra khỏi lều tranh, Gia Cát Lượng mới 26 tuổi. Tam quốc diễn nghĩa nói Gia Cát Lượng râu
dài chấm ngực. 26 tuổi làm sao râu đã dài chấm ngực, đạo bào chấm gót? Quạt lông khăn lượt
thì có thể, nhưng đó là mốt của các danh sĩ đời Hán mạt, không phải trang phục đặc thù của Gia
Cát Lượng.

Câu “Quạt lông khăn lượt (thư thái ung dung), nói cười đấy mà cường địch tan thành tro bụi” là
chỉ Chu Du, không phải chỉ Gia Cát Lượng. Nếu như có chuyện mượn gió đông thì là Chu Du
mượn, vì rằng dân Đông Ngô xưa nay vẫn bảo chính Chu Du mới là người “mượn gió đông”.

7 lần bắt Mạnh Hoạch: Thổi phồng

Thực ra, công lao lớn nhất của Gia Cát Lượng là tổ chức thành công liên minh Tôn – Lưu. Ông
đề xuất chính sách liên kết với Đông Ngô để chống Tào Tháo. Tào Tháo suy yếu thì thiên hạ chia
ba. Và ông đích thân triển khai chính sách đó.

Từ góc độ này mà xét, Gia Cát Lượng là một nhà chính trị và ngoại giao kiệt xuất. Sử ít đề cập
đến chuyện Gia Cát Lượng là một nhà quân sự, càng không phải là nhà quân sự lỗi lạc. Sử gia
Miêu Việt trong lời nói đầu “Tam quốc chí tuyển chú” viết: “Về chuyện chinh phục phương nam
của Gia Cát Lượng, e rằng có sự thổi phồng, thí dụ, bảy lần bắt bảy lần tha Mạnh Hoạch là không
phù hợp tâm lý. Hơn nữa, Tam quốc diễn nghĩa viết: Từ sau khi thuần phục Mạnh Hoạch, người
phương Nam từ đó không làm phản nữa, cũng không đúng với sự thực lịch sử”.

Theo nhiều tài liệu, Gia Cát Lượng cũng không liên tục giở độc chiêu như trong “Tam quốc diễn
nghĩa” hoặc dân gian đồn thổi. Thích giở độc chiêu là Quách Gia. Còn Gia Cát Lượng thì “cực
kỳ thận trọng” như các sử gia nhận xét hoặc ông tự nhận.

Có thể ví ông như Tiêu Hà. Ông không giống Trương Lương, Hàn Tín. Nhưng trong “Tam quốc
diễn nghĩa” thì gộp cả Tiêu Hà, Trương Lương và Hàn Tín vào một Gia Cát Lượng, không những
“ngồi trong màn trướng mà thắng ngoài ngàn dặm”, hơn nữa, Gia Cát Lượng còn như một nhà
tiên tri, biết tuốt. Bất kể ai, hễ trong tay có “Cẩm nang” của Gia Cát Lượng, cứ theo lời dặn trong
đó mà làm, thì đánh đâu thắng đó, chiếm đâu được đó. Các đại tướng của Lưu Bị như Quan Vũ,
Trương Phi, Triệu Vân chỉ là những con rối trong tay Gia Cát Lượng, không hiểu cũng phải chấp
hành, hiểu cũng phải chấp hành.

Thật ra “Cẩm nang” là có thật, nhưng đó là chuyện của Tào Tháo với Trương Liêu (Tam quốc
chí – Trương Liêu truyện) xảy ra vào năm thứ 20 đời Kiến An (năm 215). “Không thành kế” là
có. Tào Tháo, Văn Sính, Triệu Vân nghe nói từng sử dụng, nhưng cũng rất đáng ngờ, phải tiếp
tục khảo cứu. Tuy còn có tranh cãi, nhưng người ta rất ít nhắc đến Tào Tháo, vì nói chung dân
chúng không ưa Tào Tháo, dù ông mới là người đáng bàn nhất trong 3 nhân vật: Lưu Bị, Tôn
Quyền, Tào Tháo.

“Thuyền cỏ mượn tên” là kế của Tôn Quyền

Gần đây, các học giả Trung Quốc đã soạn sách “100 điều chưa biết về Gia Cát Lượng”, trong đó
có nêu nhiều tình tiết thực trong lịch sử mà nhà văn đã hư cấu. Một số tình tiết tiêu biểu là:

1. Quan Vũ giết Hoa Hùng: Truyện Tam quốc diễn nghĩa kể Quan Vũ chém Hoa Hùng trong
nháy mắt, khi chén rượu mời của Tào Tháo trước khi ra trận còn nóng. Nhưng thực tế theo sử
sách thì người giết Hoa Hùng, bộ tướng của đổng Trác là Tôn Kiên, người khai nghiệp ở Giang
đông.

2. Thuyền cỏ mượn tên: Trong trận Xích Bích nổi tiếng, có tình tiết Gia Cát Lượng đi cùng Lỗ
Túc và 30 thuyền cỏ trong sương mù, khiến Tào Tháo không dám xuất quân mà chỉ bắn tên ra.
Thế là hàng chục vạn mũi tên cắm vào thuyền cỏ quay ngang. Gia Cát Lượng thu tên về nộp cho
Chu Du. Sự thực việc dùng “thuyền cỏ mượn tên” là do chính Tôn Quyền thực hiện.

3. “Sinh Du hà sinh Lượng?”: Tam quốc diễn nghĩa kể chuyện Gia Cát Lượng 3 lần chọc tức Chu
Du khiến Du tức phải than: “Trời sinh Du sao còn sinh Lượng?” rồi chết. Sự thực là Chu Du chết
bệnh trong quân ngũ, không liên quan đến việc bị Gia Cát Lượng chọc tức.

4. Cha con Gia Cát Chiêm tử trận: Do đề cao Gia Cát Lượng, La Quán Trung để con và cháu ông
là Gia Cát Chiêm, Gia Cát Thượng, tử trận khi Đặng Ngải vào Tây Xuyên. Sự thực là cha con Gia
Cát Chiêm đã hàng Đặng Ngải.

Kỳ 4: 6 sai lầm chiến lược của Khổng Minh


Nguyễn Bùi

Không ai phủ nhận tài năng kiệt xuất của Gia Cát Khổng Minh về chính trị–ngoại giao, nhưng
việc dùng binh của ông có đến mức thần thánh như chúng ta vẫn nghĩ?

Chỉ cần đọc “Tam quốc diễn nghĩa” – cuốn sách ca ngợi Gia Cát Lượng hết lời – cũng có thể tìm
ra những sai lầm lớn của ông trong lĩnh vực quân sự suốt quãng đời giúp nhà Thục.

Sai lầm 1: Thất thủ Kinh Châu

Năm 219, Quan Vũ lúc bấy giờ trấn thủ Kinh Châu đem quân tấn công quân Tào Tháo và chém
Bàng Đức, nhưng lại mất cảnh giác với quân của Tôn Quyền mà không để ý rằng Tôn Quyền
đang có âm mưu lấy lại Kinh Châu. Kết quả Kinh Châu bị mất và Quan Vũ, Quan Bình (con
Quan Vũ) bị chết.
Đối với việc này, Quan Vũ chịu trách nhiệm trực tiếp, nhưng Gia Cát Lượng không chỉ đạo cặn
kẽ cho Quan Vũ nên gây sai lầm lớn. Ông chưa nhận thức đủ nhược điểm của Quan Vũ là người
nóng tính nên dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Tin tức Kinh Châu thất bại báo về, cả Lưu Bị và
Gia Cát Lượng hối hận nhưng không kịp.

Sai lầm 2: Thất bại bi thảm Hồ Đình, Tỷ Quy

Thất bại thứ hai là thất bại Hồ Đình vào năm 222. Mùa hạ năm 221, vừa lên ngôi Lưu Bị đã muốn
lấy lại Kinh Châu và năm đó, mượn danh nghĩa trả thù cho Quan Vũ nên tuyên bố tuyệt giao với
Đông Ngô, đem đại quân tiến đánh Tôn Quyền.

Lưu Bị đánh Đông Ngô là vi phạm sách lược “liên Ngô chống Tào” của Gia Cát Lượng. Gia Cát
Lượng biết rõ đánh Ngô hại nhiều hơn lợi, nhưng không can ngăn nổi Lưu Bị, nên dẫn đến thất
bại bi thảm Hồ Đình, Tỷ Quy.

Sai lầm 3: Không theo kế của Nguỵ Diên chiếm Trường An

Khi Khổng Minh ra Kì Sơn lần thứ nhất, Nguỵ Diên đã hiến một kế cực hay: đi theo hang Tý Ngọ
chỉ một trận là chiếm được toàn bộ Tây Trường An (Hạ Hầu Mậu trấn giữ vốn là tướng Ngụy
vô mưu). Nhưng Gia Cát Lượng nhất quyết không nghe. Nếu thực hiện theo kế Ngụy Diên, theo
nhiều nhà quân sự, có thể cục diện Tam Quốc sẽ thay đổi lớn theo hướng có lợi cho nhà Thục.

Nói về chuyện đối xử với Ngụy Diên, Gia Cát Lượng cũng chứng tỏ sự đố kỵ của mình. Các nhà
phân tích cho rằng: Ngụy Diên làm phản, chính vì Gia Cát Lượng gieo vào lòng ông tư tưởng
phản trắc mà thôi.

Vừa mới gặp Ngụy Diên, Gia Cát Lượng đã thét quân chém đầu vì lý do: thuộc hạ mà phản chủ
(trong khi đó, Gia Cát Lượng cũng thu nạp biết bao hàng tướng với lý do: từ bỏ chỗ tối về với
chỗ sáng).

Rồi sau đó Gia Cát Lượng liên tiếp trù dập Ngụy Diên. Ra quân thì chuyên cho Diên làm tiên
phong, nhưng dâng kế nào cũng không nghe. Như vậy thì làm sao Ngụy Diên – một tướng tài –
có thể đội trời chung với Gia Cát Lượng?!

Sai lầm 4: Làm mất Nhai Đình, là yết hầu của Hán Trung.

Hán Trung là địa bàn chiến lược của nước Thục. Gia Cát Lượng hiểu rất rõ tầm quan trọng của
Nhai Đình, nên khi cử Mã Tốc trấn giữ, đã bắt ông này phải viết bản quân lệnh, nếu để mất là
phải chém đầu.

Sự cẩn thận này không thừa, nhưng điều đó phỏng có ích gì khi Gia Cát Lượng nhìn người không
đúng. Trước khi chết, Lưu Bị từng dặn Khổng Minh rằng: “Mã Tốc là kẻ lẻo mép, không có thực
tài, quyết không được trọng dụng”. Vậy nhưng Gia Cát Lượng không nghe, vẫn trao yết hầu vào
tay kẻ chỉ biết cúc cung tận tuỵ với mình, mà không có thực tài.

Sai lầm 5: Tự làm suy yếu đất nước

Với tham vọng lớn thống nhất Trung Nguyên, Gia Cát Lượng 6 lần ra Kỳ Sơn đều thất bại, do
nguyên nhân lương thảo không đầy đủ, hoặc sức của địch quá mạnh, hoặc nội tình nước Thục
mâu thuẫn mà nửa chừng lui quân. Việc đánh nhau liên miên, không tích trữ được quân lương,
của cải, khiến đất nước suy kiệt nhanh chóng và lòng dân ai oán.

Sai lầm 6: Phò tá kẻ bất tài hoang dâm vô độ

Lưu Bị trước khi chết đã uỷ thác việc nước cho Gia Cát Lượng, nói rằng: “Tài năng của ông cao
hơn Tào Tháo gấp 10 lần, nhất định có thể làm cho nước nhà ổn định, hoàn thành sự nghiệp
thống nhất đất nước. Nếu như con tôi không làm được gì, mong ông giúp đỡ, còn như nó bất tài
thực sự, ông có thể thay nó”. Lưu Bị còn để lại di chúc bắt Lưu Thiện phải kính nể Gia Cát Lượng
như cha đẻ.

Lưu Thiện nối ngôi Thục đế mới 17 tuổi không có tài, Gia Cát Lượng phải lo lắng toàn cục, chỉnh
đốn nội bộ và chấn chỉnh lực lượng. Sau này Lưu Thiện hoang dâm vô độ, tin dùng nịnh thần,
mặc dù có thể lên thay Lưu Thiện nắm quốc gia, đưa Thục lớn mạnh như di huấn của Lưu Bị,
nhưng Gia Cát Lượng quyết giữ đạo nghĩa cổ hủ, làm bề tôi đến lúc chết. Kết quả Thục suy yếu
rồi sau bị diệt vong.

Chính vì thế mới có nhận định: Cơ đồ nhà Thục do một tay Khổng Minh dựng nên và cũng một
tay ông hất đổ đi.

Kỳ 5: Người tình bí mật của Quan Công


Dịch giả Trần Đình Hiến

“Tam quốc diễn nghĩa” không hề nhắc đến chuyện Quan Công có một người tình bí mật đẹp đến
độ “chim sa cá lặn”. Hơn nữa, đau đớn thay, người tình ấy lại bị Tào Tháo “nẫng tay trên”.

Đây có phải là lý do quan trọng khiến Quan Công quyết rời bỏ Tào Mạnh Đức, qua 5 ải chém 6
tướng Ngụy?!

Tại sao Quan Vũ là ông tổ nghề thợ cạo?

Quan Vũ, tự là Quan Vân Trường, dân thường kêu bằng Quan Công. Quan Công nổi tiếng bởi
rất coi trọng tình nghĩa. Khi sa vào tay Tào Tháo, Quan Công được Tào Tháo đối xử hết sức tử
tế, ba ngày một tiệc nhỏ, năm ngày một tiệc lớn, lên ngựa thưởng một nén vàng, xuống ngựa
thưởng một nén bạc.

Quan Công cũng biết vậy: “Tào Công đãi ta cực hậu”. Nhưng không vì thế mà Quan Công phản
bội Lưu Bị. Do vậy, Tào Tháo càng kính nể, nên khi nghe tin Lưu Bị ở chỗ Viên Thiệu, Quan
Công bỏ đi, Tào Tháo cũng không đem quân đuổi theo.

Quan Công được suy tôn là Thần Tài đã đành, nhưng điều khó lí giải: ông còn được tôn là tổ sư
của nghề thợ cạo. Thời Hán, người ta để tóc dài, do đó không có nghề thợ cạo. Có lẽ ông sử dụng
thanh long đao – rất giống người thợ cạo sau này, luôn có “con dao cạo” trên tay, nên người ta
mới “gán” cho ông là tổ sư của nghề này chăng?

Lần gian trá duy nhất trong đời Quan Vũ

Quan Vũ cũng có lần gian trá, và có lẽ là lần gian trá duy nhất trong đời. Đó là chuyện ông đánh
tráo cây long đao.
Chuyện kể như sau: Một gia đình có cây long đao của tổ tiên để lại. Nó quá nặng, 80 cân thời ấy
(bằng 40 kilôgam) không ai sử dụng nổi, để trong nhà thì vướng, gia đình đó đem thả xuống một
cái vực, thi thoảng mới lấy lên xem có han gỉ hay không.

Cây long đao cực tốt, ngâm dưới nước mà không hề hấn gì. Biết chuyện, Quan Vũ hỏi mượn,
múa thử thấy vừa tay, rất ưng ý bèn hỏi mua.

Nhưng vì là của gia bảo, gia đình kia không bán, chỉ cho mượn một thời gian rồi đòi lại. Quan
Vũ bèn nghĩ ra một kế: đánh tráo cây long đao. Ông ngầm sai người thân tín rèn một cây long
đao đúng như nguyên mẫu rồi đem trả. Gia đình kia nhận lại cây đao mà không biết là của giả.
Có chuyện như vậy, nhưng người đời không coi đó là gian trá, trái lại, còn tán thưởng vì họ chịu
ảnh hưởng câu y phục xứng kỳ đức, Quan Vũ xứng đáng được dùng cây long đao đó.

Không được liệt vào hàng mưu trí

Quan Vũ võ nghệ siêu quần, muôn người khôn địch. Sai lầm lớn nhất của ông là chủ quan khinh
địch, không nghe theo lời khuyên của Vương Phủ đến nỗi bị vây khốn ở Mạch Thành, cuối cùng
sa vào tay Lã Mông, hai cha con đều bị giết.

Màn Quan Công hiển thánh chẳng qua là vớt vát đôi chút uy tín, không đủ chứng minh ông là
con người trí dũng song toàn (vì thực ra Quan Vũ không được liệt vào hàng mưu trí). Vì vậy như
trên đã nói, trong dân gian người ta thờ ông là thờ Thần Tài, mong được ông phù hộ luôn buôn
may bán đắt trong kinh doanh, chứ không thờ ông như một vị Thánh. Mà nếu được một số người
coi là Thánh, thì là Thánh ở Trung Quốc, chứ không phải Thánh ở nước khác như có người lầm
tưởng. Nhiều người trong chúng ta hiểu sai ý nghĩa này.

Quan Vũ vừa chữa vết thương vừa đánh cờ.

Quan Vũ có thể được suy tôn làm… Thần ái tình

Nhưng có một chuyện mà ít người biết nếu không đọc Thục ký và Hoa dương quốc chí hoặc Tam
quốc chí – Quan Vũ truyện.

Đó là Quan Công từng yêu tha thiết một thiếu nữ, nhiều lần đề nghị Táo Tháo cho lấy làm vợ.

Thấy vậy, Tào Tháo đoán người con gái kia chắc thuộc loại người khác thường, bí mật sai người
đi triệu về thì nàng quả thật “chim sa cá lặn”, nổi máu tham Tào Tháo liền “chiếm làm của riêng”.

Khi Quan Vũ biết chuyện thì “ván đã đóng thuyền”, ông vô cùng đau khổ. Có thể nói, Quan
Công vì nghĩa khí mà không hàng Tào, nhưng còn một lí do quan trọng không kém, đó là vì bị
Tào Tháo cướp mất người yêu. Chỉ riêng chuyện này, Tào Tháo đã trở thành kẻ thù không đội
trời chung của Quan Vũ.

Trong Tam quốc, Quan Công là nhân vật duy nhất công khai bộc lộ tình yêu nam nữ. Ông khác
với các anh hùng hào kiệt, các chính nhân quân tử trong xã hội cổ truyền Trung Quốc ở điểm
này. Trong Tam quốc diễn nghĩa và trong Thủy hử, các anh hùng hào kiệt đều không có tình yêu
nam nữ mà chỉ có quan hệ vợ chồng theo tông pháp. Vì sao vậy? Điều này liên quan đến văn hóa
Trung Quốc, phần cuối bài viết này sẽ nói rõ. Lẽ ra, Quan Vũ phải được suy tôn là Thần Ái tình
mới đúng.
“Tam quốc diễn nghĩa” có vị thế như thế nào?

Đừng cho rằng hình tượng văn học hoặc hình tượng dân gian chỉ là hư cấu, không tác dụng gì.
Trên thực tế, nhiều người coi Tam quốc diễn nghĩa như sách giáo khoa của cuộc đời.

Nhà sử học Tôn Lê từng nói: “Các mưu sĩ coi đây là cái túi khôn, người làm tướng coi đây là một
bồ mưu lược”. Nhà lí luận văn học hiện đại Tiền Chung Thư có nói về người đời sau học tập
Không thành kế của Khổng Minh như sau: Không thành kế là điển hình về “không lừa dối mà
khiến người mắc lừa… không có quân mà thản nhiên cho người khác biết là không có quân mà
tin rằng có quân, cho người khác biết thực trạng mà không tin vào thực trạng ấy, tức là siêu lừa”.

Lời bình của cha con Mao Tôn Cương cũng chí lý: “Người cẩn thận không dám liều, nhưng chỉ
người cẩn thận mới dám liều… Tư Mã Ý tin rằng Khổng Minh vốn rất thận trọng, không dám
liều, nên mới bị lừa”.

Ngụy Hi bình luận càng thú vị: “Nếu gặp bọn cướp thời bây giờ cứ xông bừa, chắc là tóm được
Khổng Minh”. Có thể thấy, dù là hình tượng văn học hay hình tượng dân gian đều để lại những
gợi ý cho người đời. Sự hình thành và lưu truyền một hình tượng nào đó là có lí do của nó.
Nhiệm vụ của các nhà sử học là tìm ra cái lý ấy. Điều này quả không dễ.

Thực ra, lịch sử có ba hình tượng thì lịch sử cũng có ba cách đọc. Cách thứ nhất là đứng trên lập
trường cổ nhân mà đọc, cách mà Tiền Chung Thư gọi là “ý kiến của lịch sử”. Hai là đứng trên
lập trường hiện đại mà đọc, Tiền Chung Thư gọi là “ý kiến thời nay”. Ba là đứng trên lập trường
cá nhân mà đọc, gọi là “ý kiến cá nhân”. Bất kể ai nói về lịch sử đều phải đụng đến ba ý kiến này.

Nói cho cùng, những sự kiện và nhân vật lịch sử dù rạng rỡ đến mấy đều có thể còn lắm điều
bàn tán, thêu dệt thêm và dần rơi vào quên lãng, đúng như Tô Đông Pha đã viết: “Đại giang
đông khứ, lãng đào tận phong lưu nhân vật” (Trường giang chảy về đông, sóng nước cuốn trôi
hết anh hùng).

Kỳ 6: Hình tượng Tào Tháo


Hình tượng Tào Tháo trong dân gian sử không đẹp, người ta gọi là kẻ gian hùng, gian thần, thậm
chí gian tặc. Câu cửa miệng của người đời: “Gian hùng như Tào Tháo”, “Đa nghi như Tào Tháo”.
Chỉ mỗi Lỗ Tấn gọi ông là anh hùng.

Phần I: “Ta thà phụ người, chứ không để người phụ ta”

“Kẻ thoán nghịch”, “quốc tặc”...

Lỗ Tấn viết: “Tào Tháo là một con người rất có bản lĩnh, ít nhất cũng là anh hùng. Tôi không phải
đồng đảng của Tào Tháo, nhưng tôi khâm phục ông ta” (Lỗ Tấn – Mối quan hệ giữa phong độ
và văn chương Ngụy Tấn với thuốc và rượu).

Vậy ba nhận xét, ba hình tượng về Tào Tháo: anh hùng, gian hùng, gian tặc, hình tượng nào
chuẩn xác?

Muốn giải đáp được câu hỏi trên, phải làm rõ Tào Tháo là con người như thế nào? Chuyện này
không dễ.
Lỗ Tấn nói, đọc Tam quốc diễn nghĩa, xem kịch Tam quốc không phải là phương pháp đúng đắn
để nhìn nhận Tào Tháo. Phải dựa vào sử sách, nhưng sử sách cũng có nhiều chỗ không đáng tin,
vì rằng triều đại nào bền, ắt hẳn có nhiều người tốt, triều đại nào ngắn thì hầu như không có. Tào
Tháo lại sống đúng vào một giai đoạn rất ngắn, tất nhiên bị đời sau xuyên tạc là lẽ thường.

Bôi xấu mãi thì tạo nên thành kiến. Thành kiến truyền từ đời này sang đời khác thì biến thành
sự thực. Trường hợp Tào Tháo càng rắc rối. Vì rằng, hai bộ sách có ảnh hưởng nhất là Tam quốc
diễn nghĩa và Tư trị thông giám đều không ưa Tào Tháo.

Tam quốc diễn nghĩa thì khỏi nói, gọi Tháo là quốc tặc. Còn Tư trị thông giám thì khi biên soạn,
nhóm sử gia Tư Mã Quang đã lược bỏ rất nhiều điều tốt của ông ta.

Tô Đông Pha kể lại: “Khi nghe kể Tam quốc, người nghe thấy Lưu Bị thua thì chau mày, thậm
chí chảy nước mắt, thấy Tào Tháo thua thì vui mừng hớn hở”. Đó là thời Bắc Tống. Còn Nam
Tống gọi Tháo là giặc. Từ Nguyên, Minh, Thanh trở đi, Tào Tháo đồng nghĩa với câu chửi. Đến
đời Càn Long (giữa thế kỷ XVIII) dứt khoát gọi ông ta là kẻ thoán nghịch (cướp ngôi vua).

Nhát búa cuối cùng bổ vào đầu Tào Tháo

Trên sân khấu, Tào Tháo mặt xanh lét, đặc trưng sắc diện của kẻ gian hùng, ngược lại với sắc
mặt đỏ lựng, đặc trưng của người quân tử. Đây là nhát búa cuối cùng, Tào Tháo không bao giờ
mọc mũi sủi tăm được nữa.

Thực ra, bắt đầu từ triều Tấn, đã có ý kiến khác nhau về Tào Tháo.

Vương Thẩm trong Ngụy thư và Tư Mã Bưu trong Độc Hán thư đều khẳng định Tào Tháo là
chính nhân, thậm chí còn công khai bảo vệ ông.

Trong khi đó, Tôn Thịnh trong Dị đồng tạp ngữ và Ngô Nhân trong Tào Man truyện thì lên án
Tào Tháo về những hành vi gian trá của ông ta.

Sử gia Đông Tấn Tập Tào Xỉ, gọi luôn Tào Tháo là kẻ thoán nghịch. Từ Nam Bắc triều đến Tùy
Đường, kẻ nói tốt, người bảo xấu. Những chuyện này đều được ghi chép tường tận trong Tào
Tháo bình truyện của sử gia Trương Tác Diệu.

Có thể thấy, ý kiến thời đại có sự bất đồng, mà ý kiến lịch sử cũng có bất đồng về Tào Tháo.
Thêm vào đó, ý kiến cá nhân cũng không nhất trí, bộ mặt thật của Tào Tháo càng mơ hồ.

Tuy vậy, có thể khẳng định một điều: Tào Tháo bị chửi.

Vụ án giết 8 người của Tào Mạnh Đức

Trên đời không có yêu và ghét vô cớ. Tào Tháo bị chửi cũng có nguyên nhân của nó. Nguyên
nhân thì nhiều, trong đó nổi bật là tính gian trá mà người ta cho là thể hiện rất rõ trong con người
Tào Tháo.

Người đời ghét nhất câu của ông: “Thà phụ người, không để người phụ ta”. Nếu đúng là như
vậy, Tào Tháo quả thật xấu xa tồi tệ. Do vậy, phải xem chuyện này có thực hay không?

Câu nói trên của Tào Tháo không thấy chép trong Tam quốc chí, chỉ thấy Bùi Tùng Chi dẫn Ngụy
thư, Thế ngữ và Tạp ký của Tôn Thịnh.
Chuyện xảy ra như sau: Đổng Trác sau khi vào kinh, cắt đặt Tào Tháo làm Phiêu kỵ Hiệu úy,
Tào Tháo không nhận, bỏ chạy khỏi Lạc Dương, trốn về quê. Trên đường đi, Tháo giết cả nhà Lã
Bá Xa vốn là người quen.

Vì sao mà giết? Các sách nói trên đều chép khác nhau. Ngụy thư chép: “Bá Xa đi vắng, các con
Bá Xa và tân khách không cho Thái Tổ (tức Tào Tháo) ngủ nhờ, lại còn cướp ngựa và hành lý,
Thái Tổ sẵn đao trong tay, liền giết chết mấy người”.

Thế ngữ chép: “Thái Tổ nghĩ mình chống lệnh Đổng Trác, những người này có ý bắt mình, nên
đang đêm chém chết tám người rồi bỏ đi”.

Tạp ký của Tôn Thịnh thì ghi: “Thái Tổ nghe tiếng dao thớt, nghi họ định hại mình, liền đang
đêm giết sạch”.

Táng tận lương tâm hay lương tâm cắn rứt?

Chuyện giết cả nhà Lã Bá Xa thì không cần bàn cãi, đó là chuyện có thực. Nhưng vì sao mà giết
người? Theo Ngụy thư thì là phòng vệ, hoặc tự vệ quá mức. Theo Thế ngữ và Tạp ký của Tôn
Thịnh thì vì quá nghi ngờ mà ngộ sát.

Ngụy thư có ý bênh Tào Tháo nên không bàn. Nhưng Tạp ký của Tôn Thịnh kể rất cụ thể: Một
là nghe tiếng mài dao; hai là, sau khi giết người, Tào Tháo mới phát hiện người nhà Lã Bá Xa mài
dao để mổ lợn thết đãi mình, bèn xót xa mà nói rằng “Ta đành có lỗi với người, không để người
phụ ta.” “Đành” có nghĩa bất đắc dĩ, biết mình giết lầm, nói câu này để tự an ủi, nhưng trong
lòng thì xót xa, chứng tỏ Tào Tháo chưa đến nỗi táng tận lương tâm.

Nhưng Tam quốc diễn nghĩa đã thay đổi tận gốc câu nói trên: Từ đau xót biến mất, thay vào đó
là “Thà phụ người, không để người phụ ta”.

Thêm “thiên hạ nhân” (mọi người trong thiên hạ) so với câu trước chỉ mỗi “nhân” (người), ý
nghĩa rất khác nhau. Câu trước là chỉ riêng gia đình Lã Bá Xa, câu sau là chỉ tất cả mọi người.
Tuy vẫn là cái ác, nhưng mức độ và phạm vi khác nhau hoàn toàn.

Điểm thứ hai, câu “Thà phụ người, không để người phụ ta” là câu nói trong trường hợp đã biết
là giết lầm cả nhà Lã Bá Xa. Có nghĩa là, mình đã giết lầm, là có tội với người ta, nhưng xét hoàn
cảnh, chẳng còn cách nào khác. Mình đang cùng đường mạt lộ, đành phụ người, chứ không để
người phụ mình. Nói ra câu này còn có đôi chút lương tâm.

Nhưng nếu nói rằng “Ta thà phụ người trong thiên hạ, chứ không để mọi người trong thiên hạ
phụ ta”, đối xử nhất loạt đều như thế, thì đúng là kẻ gian hùng.

Trên thực tế, thiên hạ đều xử sự làm ra vẻ chính nhân quân tử, chỉ Tào Tháo dám nghĩ sao nói
vậy, dù có dối trá nhưng dám công khai nói ra điều dối trá đó...

Như bài trước đã nói, các nhà chính trị cổ, muốn lấy lòng dân chúng, thường nói ngược lại những
điều họ nghĩ. Vì vậy, nếu người khác ở địa vị của Tào Tháo, tất sẽ nói ngược lại: “Ta thà để thiên
hạ phụ ta, ta quyết không phụ thiên hạ”. Nhưng Tào Tháo không làm thế.
Thêm “mì chính” vào món lẩu Tào Tháo

Mao Tôn Cương bình luận: “Đây là chỗ hơn người của Tào Tháo, vì ông ta bụng nghĩ thế nào thì
nói ra thế ấy, không như bọn tiểu nhân nghĩ một đằng nói một nẻo”.

Trên thực tế, thiên hạ đều xử sự làm ra vẻ chính nhân quân tử, chỉ Tào Tháo dám nghĩ sao nói
vậy, dù có dối trá nhưng dám công khai nói ra điều dối trá đó. Từ điểm này mà xét, Tào Tháo
chí ít không thuộc hạng “ngụy quân tử” nhan nhản trong xã hội.

Mao Tôn Cương nói Tào Tháo hơn người là ở điểm này. Cha con Mao Tôn Cương vốn không ưa
Tào Tháo, mà phải nói như vậy cũng đáng để ta suy ngẫm.

Một trong những đặc điểm của Tào Tháo được người đời hay nêu lên là khi thì thành thực, khi
thì gian dối. Bùi Tùng Chi dẫn Tào Man truyện trong Tam quốc chí – Vũ Đế kỷ như sau: Năm
220, Tào Tháo quyết chiến với Viên Thiệu ở Quan Độ. Đang trong tình trạng hết sạch lương thực
thì gặp Hứa Du. Vừa ngồi yên chỗ, Hứa Du hỏi Tào Tháo còn bao nhiêu lương thực?

Không kịp chuẩn bị, Tào Tháo thuận miệng trả lời: Chí ít cầm cự được một năm. Hứa Du nói
thẳng: Không đúng. Nói lại đi. Tào Tháo nói: Còn được nửa năm. Hứa Du cười nhạt: Ông không
định đánh bại Viên Thiệu hay sao? Nói thật đi xem nào!

Tào Tháo là con người thông minh, biết Hứa Du nếu không nắm được thực trạng quân lương
của mình, thì cũng biết tỏng tâm trạng mình, nếu không nói thật đừng hòng được ông ta giúp.
Bèn vừa cười vừa nói: Vừa nãy ta nói đùa, chính xác là còn một tháng. Hứa Du thấy Tào Tháo
nói thật, bèn phân tích chiến cục và bày cho Tào Tháo đốt kho lương của Viên Thiệu ở Ô Sào. Chỉ
một trận ấy, Viên Thiệu xẹp hẳn, không bao giờ ngóc đầu nổi.

Trong Tam quốc chí – Vũ đế kỷ và Tào Man truyện chỉ chép có vậy. Nhưng đến Tam quốc diễn
nghĩa, La Quán Trung có ý nhấn mạnh tính chất gian manh của Tào Tháo, bèn thêm một số chi
tiết chẳng khác nào thêm cả nắm mì chính vào món “lẩu Tào Tháo”: Tào Tháo nói nửa năm, Hứa
Du không tin; Nói ba tháng, Hứa Du vẫn không tin; Nói một tháng, Hứa Du bèn giũ áo đứng
dậy đi ra khỏi trướng. Đến khi Hứa Du nói huỵch toẹt Tào Tháo đã hết lương, Tào Tháo mới
chịu thú nhận.

Như trên đã nói, tiểu thuyết có thể hư cấu, nhưng hư cấu đến mức biến Tào Thào thành kẻ trí trá
đến cùng, thì không đúng với tính cách Tào Tháo.

“Di lệnh” và những tâm tư thật lòng của Tào Công

Tam quốc chí đã chứng minh Tào Tháo nhiều khi rất thực thà, không hề giấu giếm ngay cả
chuyện riêng tư. Tào Tháo chỉ nói dối khi dùng binh (binh bất yếm trá). Có thể kể hai chuyện sau
đây để thấy con người thực của ông ta.

Năm 220 Tào Tháo ốm nặng. Năm đó ông ta 66 tuổi – cái tuổi đã gần đất xa trời. Ông ta viết “Di
lệnh” (“Di lệnh” này chép trong Tam quốc toàn văn, Ngụy Vũ đế). Một nhà chính trị quân sự kiệt
xuất như Tào Tháo, mà trong “Di lệnh” không hề có màu sắc chính trị, lời lẽ không đao to búa
lớn như các chính khách thường làm. Về công tội được mất của đời mình, Tào Tháo chi ghi mỗi
câu: “Ta cầm quân nói chung là được (Ngô tại quân trung chấp pháp thị dã), ít sai lầm lớn”.
Tiếp theo, Tào Tháo dặn dò những việc rất đời thường, tỉ như “đám tì thiếp, nàng hầu và đám
con hát suốt đời lao động vất vả, sau khi ta chết, cho họ ở lại đài Đồng Tước, không được ngược
đãi họ” (Ngô tì thiếp dữ kỹ nhân giai cần khổ, sử trước Đồng Tước trú, thiện đãi chi).

Sau đó, Tào còn dặn “phân phát hương quí cho họ, để tránh lãng phí”, dạy họ đan giày cỏ để
kiếm thêm ít tiền...

Trong Tam quốc toàn văn, Ngụy Tào truyện chỉ chép Tào Tháo chết một cách bình thản, nhưng Tam
quốc diễn nghĩa thì tả: “Tào Tháo dặn dò xong các việc, thở dài một tiếng, nước mắt tuôn như
mưa rồi tắt thở”. Chỉ một câu này đã hạ thấp tầm vóc Tào Tháo rất nhiều, gợi cho người đời sau
ra sức chê bai.

Lục Cơ (người Tấn) trong bài văn điếu Ngụy đế, chê Tháo “bịn rịn với ngoại vật, lưu luyến nơi
khuê phòng”, ý chỉ con người tầm thường.

Còn Tô Đông Pha thì nói trắng ra rằng, chỉ người nào “không sợ khi lâm nạn, tươi cười trước cái
chết” mới là anh hùng. Người như Tào Tháo hoảng sợ trước cái chết, lưu luyến thê thiếp, dặn dò
từ việc chia hương, đan giày, thì chỉ là kẻ tầm thường. Do vậy, trong bài Khổng Bắc Hải tán, Tô
Đông Pha hạ một câu: “Cả đời gian trá, khi chết mới lộ chân tướng”. Ý của Tô Đông Pha là, Tào
Tháo khi còn sống làm ra vẻ anh hùng hào kiệt, thực ra là kẻ gian hùng, khi cận kề cái chết mới
lộ rõ chân tướng.

Nhận định của Tô Đông Pha về Tào Tháo là quá quắt. Trung Quốc có câu “trước cái chết, khẳng
khái thì dễ, ung dung mới khó”. Tào Tháo chết bệnh chứ không phải chết vì nạn nước. Tuy không
vì nghĩa mà chết, nhưng chết bệnh cũng là chết. Vậy mà ông ta tỏ ra ung dung. Dặn dò hậu sự là
ung dung, không quên từng việc nhỏ là ung dung. Lời lẽ không đao to búa lớn, xử sự như người
dân thường là ung dung. Đó mới là bộ mặt thật của Tào Tháo. Vì rằng ông ta vốn là con người
chứ không phải thánh nhân. Ở vào thân thế và địa vị của ông ta mà dám bộc lộ tính cách của kẻ
“phàm phu tục tử” và không giấu giếm những điều khuất tất của bản thân. Đó là chỗ hơn người
của ông ta. Vì vậy, “Di lệnh” của Tào Tháo chân thực hơn bất cứ ai.

Tô Đông Pha nói Tào Tháo “khi chết mới lộ chân tướng”, nhưng cái “chân tướng” của Tào Tháo
không phải như ông ta hiểu. “Chân tướng” của Táo Tháo là tính người. Tào Tháo không phải
một cỗ máy giết người, hoặc một biểu tượng chính trị. Ông ta là một con người bằng xương bằng
thịt, có tư tưởng, có tình cảm. Nếu như do yêu cầu của đấu tranh chính trị, ông ta buộc phải che
giấu nội tâm (bình sinh gian ngụy), thì trước khi chết, ông ta không cần giấu giếm gì nữa (bộc lộ
chân tướng). Trung Quốc có câu “con chim sắp chết tiếng hót bi thương, con người sắp chết nói
lời chân thành”. Sự chân thành của Tào Tháo chứng tỏ ông ta lưu luyến với đời và có nhiều tình
cảm với người thân thuộc.

Nhưng tình cảm của Tào Tháo có thực như vậy không? Xin kể lại câu chuyện sau đây thì rõ.

Sự nhẫn nhịn của người tính nóng như lửa

Tào Tháo đánh đông dẹp bắc, cả đời trận mạc, ít khi được hưởng cảnh sum họp vợ chồng. Do đó
ông ta rất trân trọng nghĩa phu thê. Bùi Tùng Chi dẫn Tam quốc chí. Hậu phi truyện – Ngụy
lược, rằng: Trước khi nhắm mắt, Tào Tháo có nói câu: “Những chuyện ta đã làm trong đời chẳng
có gì phải hối hận, ta chẳng có lỗi với ai. Duy chỉ với mẹ đẻ Tử Tu thì khi gặp nhau dưới suối
vàng, ta không biết ăn nói làm sao?”.

Tử Tu chính là Tào Ngang, con trai lớn của Tào Tháo. Mẹ đẻ của Tào Ngang là Lưu phu nhân.
Lưu phu nhân chết sớm, nuôi dạy Tào Ngang khôn lớn là Đinh phu nhân – chính thất của Tào
Tháo.

Đinh phu nhân không có con, coi Tào Ngang như con đẻ. Về sau Tào Ngang chết trận, Đinh phu
nhân khóc hết nước mắt, ngày đêm chỉ trích Tào Tháo đã giết con. Tào Tháo bực quá, liền đuổi
Đinh phu nhân về nhà mẹ đẻ. Do đó mới có câu nói trên trước khi chết.

Thực ra, Tào Tháo đã cố hòa giải, nhưng Đinh phu nhân không chịu. Ông ta đích thân đi đón
Đinh phu nhân. Trông thấy ông ta, Đinh phu nhân vẫn ngồi lặng bên khung cửi, không chào hỏi
nửa câu. Tào Tháo bước đến sau lưng Đinh phu nhân, nói khẽ: “Ta đến đón phu nhân cùng về”.
Đinh phu nhân vẫn ngồi yên, không nói gì. Tào Tháo ra về, đến cổng còn ngoái lại mời lần nữa,
nhưng Đinh phu nhân vẫn cự tuyệt, đành phải chia tay.

Vốn tính nóng như lửa mà Tào Tháo chịu nhũn như vậy không phải chuyện đùa. Sau đó Tào
Tháo còn cho phép Đinh phu nhân tái giá, không nên ở vậy. Đinh phu nhân không nghe, mà hai
vị thân sinh Đinh phu nhân cũng không dám, mà dù có dám, cũng không ai dám lấy.

Hứa Du tự mua cái chết

Tào Tháo là con người đa tính cách. Một trong những tính cách của ông ta theo sử sách là: Trở
mặt. Đó là trong trong trường hợp đối với Hứa Du. Hứa Du có công lớn trong trận Quan Độ
hoặc trận đánh chiếm Nghiệp Thành như ta đã biết. Nhưng thực ra Hứa Du tự mua lấy cái chết.
Ông ta luôn hạ nhục Tào Tháo trước mặt mọi người, thậm chí gọi cả tên cúng cơm của Tào Tháo,
không kiêng nể gì: “Này, A Man! Không có tôi, ông làm sao lấy được Ký Châu?”

Lần khác Hứa Du lại hỏi bộ hạ của Tào Tháo sau khi Tào Tháo chiếm Nghiệp Thành: “Không có
ta Tào Tháo làm sao vào được cổng này?” Tào Tháo khi yếu thế còn cười cợt coi như không,
nhưng sau thì không chịu nổi nữa. Vậy là Tào Tháo giết Hứa Du. Xét cho cùng Hứa Du thì tự
tìm lấy cái chết. Hai truyện trên không chép trong Tam quốc chí, mà chép trong Hậu phi truyện
và Thôi Diễm truyện do Bùi Tùng Chi dẫn giải. Vậy là tuy cùng một sách, nhưng đã khắc họa
hai hình tượng về Tào Tháo.

Kêu oan cho Tào Tháo nhiều, nhưng cũng cần phải nói rằng, trong vô số ý kiến đổ tội cho Tháo,
cũng có những ý kiến đúng.

Muốn nhìn nhận nhân vật lịch sử này một cách khách quan nhất thì phải nhìn ông ta như một
người đa tính cách: Lúc thẳng thắn, hào hiệp, vị tha; khi dối trá, so bì, hẹp bụng. Điểm một số
chuyện dưới đây sẽ thấy rõ điều đó. Tài lắm thì tật cũng nhiều.

Phản bội thì tha, ân nhân thì giết

Hứa Du là ân nhân mà bị Tào Tháo giết. Còn kẻ công kích Tào Tháo quyết liệt thì lại được tha,
đó là trường hợp Trần Lâm. Trong trận Quan Độ, Trần Lâm thừa lệnh Viên Thiệu làm bài hịch
kể tội Tào Tháo, mắng nhiếc Tháo thậm tệ. Bùi Tùng Chi chép toàn văn bài hịch này trong Viên
Thiệu truyện.
Khi Viên Thiệu đại bại, Tào Tháo bắt được Trần Lâm, chỉ hỏi Trần Lâm mỗi câu: “Chửi một mình
ta cũng đủ, sao lại lôi tổ tông tam đại nhà ta ra mà chửi?”. Trần Lâm xin lỗi, nói rằng: “Mũi tên
đã trên dây cung, không bắn đi không được”. Tào Tháo tha cho Trần Lâm, lại cho Lâm giữ chức
Tư không tham mưu tế tửu. Chuyện này chép trong Tam quốc chí, Trần Lâm truyện, chính sử,
có thể tin.

Với kẻ phản bội, Tào Tháo cũng tha. Đó là trường hợp Ngụy Chủng.

Ngụy Chủng vốn là tay chân thân tín của Tào Tháo. Khi Trương Mạc bội phản, rất nhiều người
bỏ Tháo, theo Trương Mạc. Tào Tháo nói: “Chỉ Ngụy Chủng là không phản ta”. Dè đâu Ngụy
Chủng sau đó cũng bỏ Tháo, theo Trương Mạc. Tào Tháo bầm gan tím ruột, chửi: “Thằng Ngụy
Chủng kia! Mi có chạy đến cùng trời cuối đất, ta cũng không tha”. Nhưng khi bắt được Ngụy
Chủng, Tháo lại mềm lòng, nói: “Ngụy Chủng là người có tài, giết đi thì tiếc”. Liền phong làm
Thái thú Hà Nội.

Một nhân vật nữa là Tốt Trạm. Mẹ, em trai, vợ con Tốt Trạm đều bị Trương Mạc giam giữ. Tháo
bảo Trạm: “Lệnh đường ở chỗ Trương Mạc, ông nên về đó thì hơn”. Tốt Trạm sụp lạy, thề không
có bụng dạ nào khác, khiến Tháo cảm động rớt nước mắt. Ngờ đâu Tốt Trạm sau đó cũng bỏ
Tháo chạy theo Trương Mạc, không một lời từ biệt. Khi Tháo bắt được Tốt Trạm, ai cũng bảo
phen này Tốt Trạm tất chết. Không ngờ Tháo chỉ nói một câu: “Tận hiếu thì khó có thể tận trung!
Đây là người mà ta cần”, không những không trừng phạt, mà còn bổ nhiệm Tốt Trạm làm Lỗ
tướng quốc ở Khúc Phụ – quê hương Khổng Tử.

Hai chuyện trên đây đều chép trong chính sử Tam quốc chí, Vũ đế truyện, nên tin.

Với những kẻ phản bội bạn bè, Tào Tháo cũng rất coi trọng tình xưa nghĩa cũ. Trần Cung một
thời là bạn của Tào Tháo trong một hoàn cảnh đặc biệt. Tào Tháo được bổ nhiệm Cổn Châu Mục
là do công lao của Trần Cung.

Về sau, Trần Cung giúp Lã Bố chống lại Tào Tháo, khi bị bắt, Trần Cung dứt khoát không chịu
đầu hàng. Tháo gọi tên tục của Trần Cung mà hỏi: “Công Đài, ông chết thì đã đành, nhưng còn
mẹ già, ông tính sao?” Trần Cung thở dài nói: “ Tôi nghe, người nào lấy chữ hiếu để trị vì thiên
hạ thì không sát hại người thân của kẻ có tội. Mẹ tôi sống hay chết là ở minh công”. Tháo lại hỏi:
“Còn vợ con ông thì sao?” Trần Cung nói: “Tôi nghe, người thực thi nhân chính để trị vì thiên
hạ thì không tuyệt đường hương hỏa của kẻ khác. Vợ con tôi sống hay chết là ở minh công”. Nói
xong, Trần Cung không thèm ngoái lại, ưỡn ngực đi ra, vươn cổ chịu chém. Tào Tháo rỏ nước
mắt nhìn theo.

Sau khi Trần Cung chết, Tào Tháo đem mẹ Trần Cung về Hứa Đô phụng dưỡng, lại gả chồng
cho con gái Trần Cung, đối xử tốt hơn khi hai người còn là bạn. Chuyện này không chép trong
Tam quốc chí, mà chép trong Lã Bố truyện, Bùi Tùng Chi dẫn trong “Điển lược”.

Hẹp hòi, chấp nhặt, thù dai

Nhưng từ những chuyện khác, ta lại thấy Tào Tháo là con người bụng dạ hẹp hòi, hay chấp nhặt,
hơn nữa, thù dai và trả thù bằng được. Vì rằng, đối với Tào Tháo, không có ai là Tháo không
dám giết, và ít người thoát khỏi tay ông ta. Theo Tam quốc chí, Võ đế truyện, Bùi Tùng Chi chú
giải, trong Tào Man truyện thì khi ở Cổn Châu, Tào Tháo giết Biên Nhượng, một danh sĩ.

Biên Nhượng, người Trần Lưu, học rộng, có tài hùng biện, bài phú Chương hoa đài của ông ta rất
nổi tiếng. Đại tướng quân Hà Tiến từng cho người vời ông ta ra làm quan. Các danh sĩ đương
thời như Sái Ung, Khổng Dung, Vương Lãng đều tôn sùng ông ta.

Biên Nhượng cũng từng làm Thái thú Cửu Giang, sau từ quan về nhà. Biên Nhượng là danh sĩ,
tất nhiên coi thường Tào Tháo là con của con nuôi quan hoạn, rất có thể đã nói điều gì đó khiếm
nhã. Khi ấy Tào Tháo chưa phải là Thừa tướng, vậy mà dám giết Biên Nhượng. Bái tướng Viên
Trung và một người nữa ở đất Bái tên Hoàn Thiệu rất coi khinh Tào Tháo.

Sau khi Biên Nhượng bị giết, hai người bỏ chạy đến Giao Châu, gia quyến của hai người liền bị
Tào Tháo sát hại. Về sau Hoàn Thiệu ra đầu thú, quì lạy xin tha tội. Tháo giận dữ quát: “Lạy lục
có thoát chết không?” Tất nhiên là không. Kết cục là Hoàn Thiệu bị chặt đầu.

Thông minh tuyệt đỉnh, ngu xuẩn tệ hại

Những chuyện trên rất tai tiếng, nhiều người rời bỏ Tào Tháo, còn dư luận thì chê bai. Như trên
đã nói đến cái chết của Trần Cung. Do cái chết của Biên Nhượng mà Trần Cung bỏ Tào Tháo,
chạy sang với Lã Bố. Rút kinh nghiệm từ chuyện đó, vả lại khi đã là quan to rồi, tham vọng cũng
lớn theo, Tào Tháo học cách “ném đá giấu tay”, không giết người lộ liễu như trước. Nhưng trả
thù thì vẫn trả thù, ghen ghét thì vẫn ghen ghét, dù là bạn cũ cũng không tha. Như trường hợp
giết Lâu Khuê.

Lâu Khuê tự Tử Bá, ý chí quật cường từ nhỏ, văn võ song toàn, theo Tháo lập nhiều chiến công.
Tháo thường ví mình không bằng Lâu Khuê (Tử Bá chi kế, Cô bất cập dã). Nhưng Tháo vẫn giết.
Cái chết của Hứa Du, Khổng Dung đều có chép trong Tam quốc chí, Thôi Diễm truyện, Bùi Tùng
Chi chú giải. Đấy là chính sử, nên tin.

Đó là Tào Tháo. Ông ta là con người tính cách phức tạp nhất, nhiều bộ mặt nhất trong lịch sử.
Ông ta thông minh tuyệt đỉnh, song đôi khi cũng ngu xuẩn tệ hại; vừa thẳng thắn chân thành lại
vừa quanh co lèo lá; vừa khoan dung độ lượng, vừa bụng dạ hẹp hòi; phong cách đại gia đi đôi
với bộ mặt tiểu nhân; tính cách anh hùng đi đôi với thường tình nhi nữ; tính nết Diêm vương đi
đôi với tấm lòng Bồ Tát. Quả thực Tào Tháo có rất nhiều bộ mặt cùng trên một khuôn mặt mà
không hề mâu thuẫn. Đúng là một nhân vật kỳ lạ.

Trên thực tế, Tào Tháo rất có bản lĩnh và cũng rất chân thực. Chân thực ở chỗ, ông ta bộc lộ hết
các tính cách gian trá, giảo hoạt, tàn nhẫn, độc ác, không che đậy, không giấu giếm. Đó là chỗ
khác người của ông ta. Vậy từ góc độ này mà xét, Tào Tháo là anh hùng, thậm chí đại anh hùng.
Tuy nhiên, anh hùng này lại gian trá, nên cũng có thể gọi là gian hùng. Người đời nhận xét ông
ta là gian trá, gian hùng, đều ghép “gian” với “hùng”. Có người nhấn mạnh “gian”, có người lại
nhấn mạnh “hùng”, có người nhấn mạnh cả “gian” lẫn “hùng”. Vậy nên, người đời gộp cả hai,
gọi Tào Tháo là “gian hùng”.

Gian hùng, kiêu hùng hay gian tặc?

Nhưng gọi Tào Tháo là “gian hùng” đã chính xác chưa?


Như trên đã nói, sở dĩ gọi Tào Tháo là “gian hùng” với ý nghĩa vừa “gian” vừa “hùng”, bởi vì
có nhiều người, như Nghiêm Tùng chẳng hạn, lén lén lút lút, chưa khi nào tỏ ra đàng hoàng,
“gian” mà không “hùng”, chỉ có thể gọi là “gian tặc”; Như Đổng Trác ngang tàng ngỗ ngược, bất
chấp lẽ phải, “hùng” mà không “gian”, chỉ có thể gọi là “kiêu hùng”. “Kiêu” nghĩa gốc là con cú
vọ, suy ra có nghĩa là đầu lĩnh, hùng trưởng, đồng nghĩa với “đại ca”, “đầu nậu”, “ông Trùm”,
“Bố già” trong ngôn ngữ hiện đại.

Ngoài ra, “Kiêu” còn có một nghĩa khác. Lỗ Túc trong Tam quốc chí, Lỗ Túc truyện, nói “Lưu Bị
là kẻ kiêu hùng trong thiên hạ”. Hoàng Quyền trong Hậu Hán thư, Lưu Yên truyện, chép: “Lưu
Bị có kiêu danh” (có chí lớn). “Kiêu hùng” còn một nghĩa tương tự như “dũng mãnh”, “người
hùng”, nghĩa tốt, tuy không đồng nghĩa với “anh hùng”.

Vậy nên, người ta gọi Lưu Bị là “kiêu hùng” với nghĩa “dũng mãnh, kiên trì theo đuổi nghiệp
lớn”; gọi Đổng Trác là “kiêu hùng” với nghĩa “ngang ngược mà lại đầy dã tâm”; gọi Nghiêm
Tùng là “gian tặc” với nghĩa “kẻ cắp gian manh”; gọi “gian hùng” là “gian trá của người ôm chí
lớn”.

Vậy Tào Tháo có phải là “gian hùng”?

Đúng, Tào Tháo là “gian hùng”.

Tuy vậy ta không thể chỉ căn cứ vào ngữ nghĩa mà đã kết luận Tào Tháo là “gian hùng”. Cũng
vậy, không thể chỉ căn cứ vào ông ta bộc lộ hết tính cách gian trá, mà kết luận là ông ta không
gian trá. Và cũng không kể những trường hợp buộc phải dối trá như trong chiến trận chẳng hạn.
Muốn biết dối trá có thuộc một trong những bản chất của Tào Tháo, câu trả lời chính xác nhất
phải tìm trong thân thế và trong sự nghiệp của ông ta.

Muốn hiểu rõ nhất bản chất của Tào Tháo thì phải soi lại cuộc đời của ông ta. Quả thực, ngay từ
tấm bé, Tào Tháo đã có những biểu hiện khác thường.

3 điều không tốt của Tào A Man

Tào Tháo dối trá từ nhỏ. Có thể nói ở ông ta có ba điều không tốt: Xuất thân không tốt, gia giáo
không tốt, từ nhỏ đã có những biểu hiện không tốt.

Tào Tháo, tự Mạnh Đức, nhũ danh A Man, có một tên nữa là Cát Lợi, người huyện Tiều thuộc
nước Bái (nay là thành phố Hào Châu, tỉnh An Huy).

Trần Thọ trong Tam quốc chí chép: Tháo là hậu duệ của Tướng quốc Tào Tham đời Tây Hán.
Điều này không đúng. Đây là sai lầm hy hữu của Trần Thọ. Vì rằng, Tào Tháo vốn không phải
họ Tào. Đổi thành họ Tào là do cha ông tên Tùng làm con nuôi Tào Đằng, đổi thành Tào Tùng,
còn ông thì nghiễm nhiên trở thành Tào Tháo. Tào Đằng và Tào Tùng không họ hàng thân thích
gì. Ngay cả khi điều tra ra Tào Đằng là hậu duệ của Tào Tham, thì Tào Tháo cũng không dính
dáng gì đến Tào Tham.

Thực ra, bố mẹ đẻ Tào Tùng là ai, đến nay chưa có câu trả lời, ngay cả Trần Thọ cũng chỉ ghi:
“Không tìm được gốc gác”. Còn bản thân Tào Tháo khi soạn Gia truyện, ông ta tính ngược mãi
đến đời Chu Văn Vương, tự xưng “Tào thúc Trấn Đạc chi hậu” (hậu duệ của Tào Trấn Đạc), cũng
phịa nốt. Sở dĩ có chuyện bịa đặt này là vì cuối đời Đông Hán người ta rất coi trọng thành phần
con ông cháu cha. Tào Tháo tuy rất ghét cái lối khoe mẽ, nhưng do yêu cầu chính trị, buộc phải
tự bốc thơm, tự đề cao mình.

Trên thực tế, Tào Tháo sinh ra và lớn lên trong một gia đình hoạn quan. Tào Tùng (bản tiếng Việt
dịch là Tung), bố đẻ Tào Tháo, là con nuôi Tào Đằng, một hoạn quan rất có quyền lực lúc bấy
giờ, tước Phí Đình hầu, giữ chức Đại trưởng thu. Đại trưởng thu là chức quan to, tương đương
với quan đầu tỉnh, lương 2.000 thạch.

Cánh hẩu với... chó săn, chim mồi

Mặt nạ Tào Tháo luôn có màu xanh – màu gian thần.

Trong đám hoạn quan, Tào Đằng giao du rất rộng, làm rất nhiều chuyện bậy bạ và cả một số việc
tốt. Vì vậy, trong Hậu Hán thư có truyện của ông ta. Tào Tháo là con trai của con nuôi một hoạn
quan, trong con mắt người đương thời, là không vẻ vang gì. Nhưng để bù lại, Tào Tháo có thừa
tiền tiêu. Bố đẻ Tào Tháo là Tào Tùng về sau mua chức Thái úy (đứng đầu trong cả nước về quân
sự, trên danh nghĩa), bằng 10 vạn nén vàng. Con nhà giàu, Tào Tháo không bao giờ thiếu tiền
tiêu, mặc sức phá phách.

Tào Tháo cũng không được dạy dỗ đến nơi đến chốn. Bố Tào Tháo rất ít khi hỏi han về việc học
hành của con trai. Chuyện này thấy rõ trong thơ của Tào Tháo: “Ký vô tam tỉ giáo, bất văn quá
đình ngữ”.

“Tam tỉ” là chuyện mẹ Mạnh Tử ba lần dọn nhà để con trai có hoàn cảnh học tập tốt, không
nhiễm cái xấu.

“Quá đình” là chuyện con trai Khổng Tử mỗi lần đi qua sân đều bị Khổng Tử nhắc nhở việc học.
Lần thứ nhất nhắc học thơ, lần thứ hai nhắc học lễ. Những chuyện trên chưa lần nào xảy ra trong
nhà Tào Tháo. Bố Tào Tháo ít quan tâm đến việc học hành của con trai.

Bố mẹ không quản lý, nhà lại giàu, Tào Tháo sớm trở thành một thiếu niên hư hỏng. Bùi Tùng
Chi trong Tam quốc chí, Tào Man truyện, nói Tào Tháo suốt ngày bận bịu với chó săn chim mồi.
Ông chú thấy chướng mắt thường mách bố Tào Thào, vì vậy mới có chuyện bị Tháo chơi xỏ khiến
ông này mất uy tín, như trong Tam quốc diễn nghĩa đã kể. Chuyện này là có thực, rất nhiều sách
ghi chép.

Dùng kế “đểu” để cướp cô dâu trong ngày cưới

Chưa hết, bọn Viên Thiệu, Trương Mạc đều là bạn cánh hẩu của Tào Tháo, thường tụ tập làm đủ
chuyện bậy bạ.

Thế thuyết tân ngữ kể rằng, một bận Tháo và Viên Thiệu đi xem đám cưới, liền nảy ra ý định
đánh cướp cô dâu. Cả hai nấp trong vườn đợi trời tối hẳn mới hét toáng lên: “Trộm, trộm!”. Mọi
người đổ ra vườn. Tào Tháo nhân đó lẻn vào động phòng vác cô dâu chạy. Ra đến ngoài vườn,
Viên Thiệu không thuộc đường, rơi vào giữa bụi gai lớn, vùng vẫy mãi không thoát. Thấy vậy,
Tào Tháo nhanh trí hét to: “Trộm ở đây!” Viên Thiệu cuống lên, thế là vọt khỏi đám gai.

Thời trẻ, Tào Tháo điển hình cho loại công tử con nhà giàu chơi bời lêu lổng, không chí thú làm
ăn, không chịu vào một khuôn phép nào hết, thích gì làm nấy.
Tam quốc chí chép: “Tháo lanh lợi hoạt bát, nhiều mưu mẹo, sống phóng đãng, không chịu làm
ăn tử tế, nên bị nhiều người khinh rẻ. Danh sĩ Nam Dương Tôn Thế Lâm là người tự ví mình như
cây tùng cây bách, kiên quyết không giao du với Tháo (xem Thế thuyết tân ngữ. Phương chính).

Lưu manh cỡ bự

Vậy mà có một người lại rất mê Tào Tháo. Đó là Thái úy Kiều Huyền. Ông ta cho rắng Tháo là
nhân tài hiếm có trên đời, bình định thiên hạ không ai ngoài Tháo.

Kiều Huyền nói: “Thiên hạ sẽ rối loạn, phải người tài giỏi hơn đời mới dẹp yên. Người làm được
chuyện này, phải chăng chỉ có ông?”. Câu này chép trong Tam quốc chí, phần chính văn, nên tin.
Mà cũng đúng, Tào Tháo không phải loại lưu manh tầm tầm, mà là lưu manh có hạng.

Tôn Thịnh chép trong Dị đồng thuyết ngữ: “Tháo giỏi võ, không ai hại nổi ông ta, ông ta đọc
rộng, nắm vững binh pháp”. Trong lần hành thích hoạn quan Trương Nhượng, ông ta tỏ ra là
người có chí lớn, là người hùng, cùng với sự gian ngoan. Người ta gọi Tháo là gian hùng là hoàn
toàn chính xác.

Điều thú vị là Tào Tháo không chấp, không phản đối từ “gian hùng” mà người ta gán cho mình.
Từ này do Hứa Thiệu nói với Tào Tháo.

Hứa Thiệu tự Tử Tướng, người Bình Dư – Nhữ Nam (nay là Bình Dư, tỉnh Hà Nam) là một nhà
bình luận nổi tiếng đương thời. Cứ đến ngày mồng 1 đầu tháng, ông ta lại bình phẩm về người
nào đó.

Qua lời bình của ông ta, giá trị của người được bình tăng lên gấp trăm lần, nhập tịch luôn xã hội
thượng lưu. Tất nhiên Tào Tháo rất muốn ông ta bình luận về mình, nhưng một là bình luận về
Tháo rất khó, hai là có lẽ không muốn tiết lộ thiên cơ, nên Tháo đề nghị nhiều lần, ông ta không
chịu nói gì. Nhưng rồi không nói cũng không được, Hứa Thiệu bèn nói câu: “Ông ấy à, là năng
thần (bề tôi giỏi) thời bình, là gian hùng thời loạn”. Nghe nói vậy Tháo cười rất to.

Câu bình luận cực kỳ khôn ngoan. Vì rằng, nếu bảo Tháo là anh hùng thì được lòng Tháo, nhưng
danh tiếng của Hứa Thiệu sẽ mất hết, vì Tháo là gian hùng. Mà nói trắng phớ Tháo là gian hùng
thì sợ Tháo giết chết, vì Tháo bình sinh chẳng sợ ai, trái ý là giết.

Tào Tháo: Cười nhiều mà khóc cũng nhiều

Nhưng trong Tam quốc diễn nghĩa đã sửa chữ “đại tiếu” (cười rất to) thành “đại hỉ”. “Đại hỉ”
chỉ có một nghĩa là “hết sức vui mừng”, làm như Tào Tháo quyết chí làm gian hùng, bây giờ có
người nói toạc tim đen của mình ra thì sướng quá, chấp nhận luôn. Sửa như vậy tỏ ra rất nông
cạn về tâm lý người đời. Không ai ngay từ nhỏ đã rắp tâm làm gian hùng. Gian hùng là do hoàn
cảnh thúc đẩy, mà trở thành gian hùng hay không là do phẩm chất của mỗi người.

Hứa Thiệu biết rõ Tháo là con người như thế nào, nên ông ta để ngỏ cả hai cửa để Tháo quyết.
Cái khôn của Hứa Thiệu là ở đó, sự hiểu biết sâu sắc cuộc đời cũng ở đó.

Như trên đã nói, Tào Tháo là “gian hùng”, với nghĩa “gian ngoan” và “có hùng tâm tráng chí”.
Đó là nét nổi trội của ông ta. Gian ngoan mà không hề ti tiện, bẩn tướng. Đọc Tam quốc chí, Võ
đế bản kỷ sẽ phát hiện Tháo cười rất nhiều: “Cười, cười mà nói rằng...”, “cười lớn...” rải rác khắp
các trang sách. Nhưng cái cười của Tháo có nhiều kiểu: Cười ha hả, cười thoải mái, cười nhạt,
cười giễu, thậm chi có cả tiếng cười đầy sát khí.

Tào Tháo cũng khóc. Khóc chiến hữu chết trận. Khóc bạn chết, khóc người thân chết. Tháo khóc,
thậm chí gào khóc thê thảm. Nhưng Tháo không bao giờ khóc khi làm sai, khi thua trận, bị người
khác sỉ vả. Trái lại, ông ta cười. Đó là chỗ khác đời của ông ta.

Phải chăng ngay từ đầu Tào Tháo đã “gian hùng”? Ông ta muốn trở thành bề tôi giỏi (năng thần),
một lòng phụng sự nhà Hán, nhưng cái gì đã cản đường ông ta, đẩy ông ta vào con đường “gian
hùng”?

Quan lộ thuận lợi vì có ô dù

Như phần trên đã nói Hứa Thiệu bình luận về Tào Tháo: “Năng thần (bề tôi giỏi) thời bình, gian
thần thời loạn”. Câu này có hai cách lí giải: Một, thời bình là bề tôi giỏi, thời loạn là gian thần.
Hai, trị vì được thiên hạ thì là năng thần, làm loạn thiên hạ thì là gian thần. Vậy Tào Tháo chọn
năng thần hay chọn gian thần?

Quả thực Tào Tháo muốn làm năng thần. Điều này đã được chứng minh trên thực tế.

Hán Linh đế Hy Bình năm thứ ba (174 sau công nguyên), Tào Tháo 20 tuổi, đắc cử Hiếu liêm,
đảm nhiệm chức quan lang. Hiếu là hiếu với cha mẹ tổ tiên, liêm là liêm khiết với xã hội. Người
nào được bầu Hiếu liêm, là đã có tư cách để ra làm quan, y như bây giờ có bằng cấp là có tư cách
thi tuyển công chức.

Thời Hán, triều đình chọn một số thanh niên con nhà khá giả, tư cách đạo đức tốt, ngoại hình
đẹp làm Lang. Lang có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất là trẻ tuổi, nghĩa thứ hai là thị vệ. Làm Lang
trong cung đình, thực tế là thị vệ của nhà vua. Lang được gần gũi nhà vua, được rèn luyện, biết
nhiều chuyện, nên sau khi làm Lang thường được bổ nhiệm rất nhanh chức quan khác.

Đây là phương thức đào tạo bồi dưỡng quan chức thời Hán. Nhưng về sau thì không chính qui
như vậy nữa: Quan Lang không nhất thiết phải là con cái nhà quyền quí, cũng không nhất thiết
là thị vệ của vua, mà chỉ là một sự tập dượt cho quen việc, như “lớp kế cận”, “cán bộ dự bị” thời
bây giờ.

Theo qui định, sau khi mãn nhiệm quan lang, có thể được bổ nhiệm làm cán bộ cấp huyện hoặc
Huyện lệnh, Huyện thừa, hoặc Huyện úy. Có điều, đến cuối đời Đông Hán thì mọi việc tuyển
lựa đề bạt chỉ làm chiếu lệ.

Tào Thào có người nhà trong triều. Ông nội Tào Đằng được phong làm Phí Đình Hầu; Bố là Tào
Tùng, ở ngôi Tam Công. Vì vậy Tào Tháo chỉ làm Quan Lang ít lâu đã được bổ nhiệm Lạc Dương
Bắc Bộ úy.

Úy là chức quan võ nắm cả quân sự lẫn hình sự. Hán thư. Bách quan công khanh biểu chú thích
rõ: “Võ quan từ trên xuống dưới đều gọi úy”. Vậy nên huyện có Huyện úy, quận có Quận úy,
triều đình có Thái úy, Trung úy, Đình úy, Vệ úy. Lạc Dương Bắc Bộ úy là Huyện úy.
Quan chế thời Hán, dưới Huyện lệnh có thừa, úy. Thừa phụ trách dân sự, úy phụ trách trị an.
Có điều, Lạc Dương là kinh đô Đông Hán, là huyện lớn nhất, nên Huyện úy không chỉ một người,
mà là 4 người, phụ trách 4 khu vực đông tây nam bắc.

Tào Tháo là úy khu vực Bắc Lạc Dương (Lạc Dương Bắc bộ úy), cấp bậc Huyện phó, phụ trách
công an huyện, như Cục trưởng Công an huyện của Trung Quốc hiện nay.

Được bố của Tư Mã Ý tiến cử

Tiến cử Tào Tháo làm Lạc Dương Bắc Bộ úy là Tư Mã Phòng – bố Tư Mã Ý, khi đó là Thượng
thư Hữu Thừa, tương đương Phó Bí thư cung đình. Có điều, Thượng thư đời Đông Hán, danh
nghĩa là Ban Bí thư, thực tế là Tể tướng phủ.

Tư Mã Phòng giới thiệu, Tào Tháo lập tức được bổ nhiệm. Nghe nói khi ấy Tào Tháo không vui,
vì ông ta rất muốn chức Huyện lệnh. Nhưng Tuyển bộ Thượng thư (tương đương chức Trưởng
ban Tổ chức Chính phủ bây giờ) không quan tâm Tào Tháo có thích hay không, thành ra Tào
Tháo buộc phải đến nhiệm sở nhận chức vụ nói trên.

Đó là chức quan đầu tiên trong đời, ấn tượng rất sâu đối với Tào Tháo. Theo Tam quốc chí. Vũ
đế kỷ, Bùi Tùng Chi chú dẫn Tào Man truyện, thì sau này Tào Tháo được Hán Hiến đế phong
Ngụy vương, đã mời bằng được Tư Mã Phòng về Nghiệp Thành khoản đãi cực kỳ hậu hĩ. Rượu
được ba tuần, Tào Tháo hỏi: “Ông thấy cô gia hôm nay có thể nhận chức Huyện phó phụ trách
công an huyện được không?” Tư Mã Phòng nói: “Năm xưa, khi lão phu tiến cử thì Đại vương
rất hợp với chức ấy”. Tào Tháo bật cười ha hả.

Cái cười của Tào Tháo không hoàn toàn là tiểu nhân đắc chí, mà là cái cười mãn nguyện. Tháo
vốn không che giấu tình cảm, hễ đắc ý là biểu hiện trên nét mặt. Nhưng lần này, Tào Tháo đắc ý
không chỉ vì được phong vương, cũng không chỉ vì chuyện bổ nhiệm trái ý khi xưa, mà vì một
chuyện quan trọng khác có liên quan đến chức vụ này.

Đòn dằn mặt kinh hồn khởi nghiệp quan trường

Mọi người đều biết, Lạc Dương Bắc Bộ úy là chức quan không to, quyền không lớn, nhưng trách
nhiệm cực kỳ nặng nề, rắc rối cũng không ít. Vì rằng nơi đây là đại bản doanh của triều đình,
tầng lớp quyền quí nhan nhản. Bọn này không coi vương pháp ra gì, người đúng mực thì ít, kẻ
phá phách thì nhiều mà không ai làm gì nổi. Vậy mà vấn đề trị an của kinh thành vẫn phải bảo
đảm. Phải có một kẻ cao tay ấn, đủ mánh khóe trong khi thừa hành công vụ thì công việc mới
không đổ bể.

Tào Tháo vừa gian vừa hùng, rất xứng với chức vụ này. Câu trả lời của Tư Mã Phòng không có
ý chống chế, mà rất đúng với tính cách của Tào Tháo.

Mà quả vậy, Tào Tháo rất xứng với cương vị này. Vừa đáo nhậm, ông ta cho tu sửa nha môn như
mới, sai làm một lô gậy sơn năm màu, mỗi bên cổng treo mười cây với dòng chữ: “Kẻ nào phạm
pháp thì dù là cường hào cũng bị đánh đòn”.

Vài tháng sau, quả nhiên có kẻ tự tìm lấy cái chết. Đó là chú ruột của hoạn quan Kiển Thạc. Kiển
Thạc rất được Linh đế sủng ái. Lão chú ruột Kiển Thạc cậy có cháu uy quyền lệch đất, ngang
nhiên vi phạm lệnh cấm đi đêm của Tào Tháo. Không hề nể nang, Tào Tháo ra lệnh đánh chết
tươi lão ta. Từ đó, cho ăn quả liều cũng không kẻ nào dám trái lệnh, trật tự trị an của kinh thành
tiến bộ rõ rệt, tiếng tăm Tào Tháo nổi như cồn.

Mặt nạ Tào Tháo luôn có màu xanh – màu gian thần.

Cú ra đòn của Tào Tháo khiên thiên hạ choáng váng, không hiểu ông ta còn dám làm những gì
nữa. Ai cũng biết, một thanh niên mới bước vào hàng ngũ quan trường mà dám đắc tội bọn
quyền quí, chắc chắn sẽ không có kết cục tốt đẹp. Tào Tháo không phải không biết. Kiển Thạc uy
quyền khuynh đảo triều đình, Tào Tháo cũng biết. Lại nữa, ông nội Tào Tháo cũng là thái giám
(hoạn quan). Cháu của thái giám giết chú của thái giám khiến người ta không hiểu. Chuyện này
chép trong Tào Man truyện – cuốn truyện này không ưa Tào Tháo, nên tin là có thật.

Người ta có thể đoán Tào Tháo muốn nổi danh bằng một chuyện động trời. Rất có thể là như
vậy, qua một bằng chứng gián tiếp. Trong Nhượng huyện tự minh bản chí lệnh, Tào Tháo có
viết: “Cô đắc cử Hiếu liêm, tuổi trẻ, tự nghĩ mình không thuộc loại con ông cháu cha, dễ bị thiên
hạ coi thường” (Cô thủy cử hiếu liêm, niên thiếu, tự dĩ lai phi nham huyệt chi danh chi sĩ, khủng
vi hải nội chi sở kiến phàm ngu), do đó “chỉ muốn làm một viên quận thủ, giữ gìn chính giáo,
tạo lập đôi chút uy tín, để người đời biết đến mình” (dục vi nhát quận thú, hảo tác chính giáo, dĩ
kiến lập danh dự, sử thế sĩ minh tri chi).

Tự biến mình thành lính hầu vì tướng mạo xấu xí

Quả thật Tào Tháo lúc này rất trẻ, hai mươi tuổi, xuất thân không tốt, vì sinh trưởng trong một
gia đình hoạn quan; hành trạng không tốt, bị coi là phóng đãng; uy tín không có gì, người đời
coi là quái thai (thế nhân vị chi kỳ dã). Thậm chí tướng mạo có thể xấu xí (ta đọc Tam quốc chí,
những người tướng mạo đẹp như Chu Du, Gia Cát Lượng đều được miêu tả rất kỹ, còn Tào Tháo
thì không một chữ). Tam quốc chí coi Ngụy là chính thống, nếu Tào Tháo khôi ngô hùng vĩ, chắc
đã tán tụng hết lời. Như vậy e rằng dung mạo Tào Tháo không có gì đáng nói.

Nhưng các sách khác đều có miêu tả. Ngụy thị xuân thu chép: “Võ vương người nhỏ bé, nhưng
đầy sức sống” (Võ vương tư mạo đoản tiểu, nhi thần minh anh phát). Thế thuyết tân ngữ chép
Tào Tháo muốn tiếp kiến sứ giả Hung Nô, “nhưng nghĩ mình xấu xí, không đủ oai với đất nước
xa xôi” (tự dĩ hình lậu, bất túc hùng viễn quốc), bèn sai Thôi Diễm đóng thế, còn Tháo cầm gươm
giả làm lính hầu, đứng bên giường. Thôi Diễm là con người tài mạo song toàn, sách chép ông ta
“dáng người cao ráo, mi thanh mục tú, tiếng nói sang sảng, râu dài bốn thước, oai phong lẫm
liệt”. Vậy mà sứ giả Hung Nô lại bình phẩm: “Ngụy vương là con người nho nhã khác thường,
nhưng người cầm gươm đứng hầu mới là anh hùng”. Tháo nghe vậy, sợ lộ chuyện, liền giết sứ
giả. Qua đó có thể thấy Tào Tháo tuy dung mạo bình thường, nhưng khí phách hơn người và cái
tính nghi kỵ thì quả thực đáng gờm.

Trường hợp Tào Tháo cho ta một bài học: Đừng trông mặt mà bắt hình dong. Đương nhiên, Tào
Tháo khi mới bước vào chốn quan trường, chưa có dịp biểu lộ tính cách, vốn liếng chính trị chưa
có để trụ vững. Vì vậy muốn để thiên hạ biết đến mình, Tháo phải làm một việc động trời: Giết
chú ruột Kiển Thạc.

Điều phỏng đoán thứ hai, Tào Tháo muốn xây dựng pháp chế. Điều này cũng rất có lý. Lỗ Tấn
nói, đặc điểm rõ nhất về chính trị của Tào Tháo là “chuộng hình danh”, tức chủ trương pháp trị,
thậm chí sử dụng hình phạt tàn khốc để duy trì pháp luật. Quả thật Tào Tháo cực kỳ nghiêm
minh trong việc lập pháp và chấp pháp, không hề chùn tay trong việc giết kẻ phạm pháp. Điều
này do tình thế bắt buộc và cũng do tính cách của ông ta.

“Thiên hạ đệ nhất chí công”

Tào Tháo rất xuề xòa trong sinh hoạt. Ông ta ăn không cầu kỳ, mặc không cầu kỳ, thường xuyên
hành quân dã ngoại, với phụ nữ cũng gặp chăng hay chớ, không khó tính. Thậm chí có người
bảo ông ta là con người sống ẩu. Thực ra Tào Tháo lúc này không ẩu và rất ghét những kẻ sống
ẩu.

Ông từng viết thư cho Khổng Dung, nói: “Ta tuy không thể thực thi giáo hóa, thay đổi phong
tục, chưa vinh danh về nhân đức để tập hợp đồng liêu. Nhưng ta nuôi dưỡng quân lính, vì nước
quên thân, không nương tay với bọn tiểu nhân xa hoa phù phiếm, kết bè kéo cánh để mưu lợi
riêng (phù hoa giao hội chi đồ. Tam quốc chí, Vũ đế kỷ). Và những biện pháp để trừng trị chúng
thì có nhiều”. Có thể nói, giữa xã hội nhiễu nhương loạn lạc ấy, ai có ví von Tào Tháo là “Thiên
hạ đệ nhất chí công” chắc cũng không sợ quá lời nhiều lắm.

Qua đó, có thể thấy Tào Tháo căm ghét bọn mọt dân, bọn xa hoa phù phiếm, đã vậy thì ông ta
không thể là kẻ xa hoa phù phiếm. Ông ta mặc thường phục, cười nói tự nhiên, nghe hát nghe
nhạc, là một cách thư giãn khi mệt mỏi vì công việc, cũng là biểu hiện thế giới nội tâm của ông
ta, và cũng có thể là tung hỏa mù để kẻ thù của ông ta mất cảnh giác. Ông ta viết văn, hành sự
và dùng người không cẩu thả chút nào. Đánh chết tươi chú ruột Kiển Thạc, tính cách Tào Tháo
đã bộc lộ ý chí của ông ta khi mới bước vào quan trường.

Nhưng cũng có thể Tào Tháo giết chú Kiển Thạc chỉ là trường hợp ngẫu nhiên. Vì rằng, Tào Tháo
khi ấy ngựa non háu đá, chưa hiểu nông sâu, chưa biết thế nào là trời cao đất dày. Ông ta chỉ
nghĩ đã làm quan thì phải là quan tốt, phải trừng trị nghiêm khắc những kẻ phạm pháp để răn
đe thiên hạ mà không ngờ kẻ dính đòn lại là mộ con sói gộc – chú ruột Kiển Thạc. Nước đã đổ
đi khó mà bốc lại, đành giết gà để dọa khỉ. Mặc dù vậy, chuyện cũng không đơn giản. Vì vậy có
thể nói Tào Tháo đã trình diện quan trường bằng một độc chiêu.

Chú giải về nhân vật hư cấu

Điêu Thuyền
TQDN: Điêu Thuyền là một trong tứ đại mỹ nhân Trung Hoa. Nàng là con nuôi trong nhà Tư đồ
Vương Doãn, được Vương Doãn bày kế gả cho cả Đổng Trác và Lã Bố để tùy cơ ly gián họ nhằm
mục đích lật đổ Đổng Trác. Với vẻ đẹp thánh thiện, nhu mì hiền từ, một mặt nàng tỏ vẻ yêu quí
Đổng Trác, nhưng khi đến với Lã Bố thì lại ra sức quyến rũ, khi đến cao trào thì Lã Bố chịu không
nổi đả kích giết luôn Đổng Trác. Từ đó có câu: “Mười tám lộ chư hầu không giết nổi Đổng Trác.
Chỉ một mình Điêu Thuyền giết được. Lưu Bị, Quan Công, Trương Phi, không thắng nổi Lữ Bố.
Chỉ một mình Điêu Thuyền thắng được”.

Ngô Quốc Thái


Trong TQDN là vợ lẽ của Tôn Kiên, em gái của Ngô phu nhân, nhắc lại cho Tôn Quyền về di
ngôn của Tôn Sách.
Các nhà nghiên cứu khẳng định: không chỉ nhân vật Ngô quốc thái mà ngay cả đều là hư cấu.

Chúc Dung
TQDN: Chúc Dung là chị ruột của Đái Lai Động chúa, nàng cùng chồng tham gia vào chiến dịch
của người Nam Man chống lại sự tấn công của quân Thục Hán vào vùng Nam Trung. Chúc Dung
xông pha trận mạc, trực tiếp giao phong trước trận tiền. Đây là một mẫu người phụ nữ mạnh mẽ
có nhiều tài năng đã một mình giao chiến với các tướng Thục như Triệu Vân, Ngụy Diên, Trương
Ngực, Mã Trung.

Chính sử: không có trong sử sách Trung Quốc.

Tam Quốc: lịch sử diễn nghĩa và diễn nghĩa lịch sử

https://nghiencuulichsu.com/2018/06/11/tam-quoc-lich-su-dien-nghia-va-dien-nghia-lich-su/

Lê Thời Tân

This entry was posted on Tháng Sáu 11, 2018

Sử Kí chủ yếu là thể liệt truyện lấy người viết việc, Tư Trị Thông Giám theo thể bản mạt kí sự lấy
việc viết người. Tam Quốc chí Diễn Nghĩa (viết tắt TQCDN) kết hợp cả hai cách đó. Trên đại thể,
TQCDN lấy kí sự làm cơ bản. Vào trong từng hồi, đoạn cụ thể thì thường lại lấy người để kể việc.
Mao Tôn Cương viết trong Độc Tam Quốc chí pháp[1]: “Lối tự sự tài tình trong Tam Quốc chí phảng
phất Sử Ký của Tư Mã Long Môn nhưng chuyện Tam Quốc khó kể gấp mấy Sử Ký. Sử Ký được
chia ra các phần nói riêng về từng nước. Nhân vật cũng được tả riêng. Cho nên (Sử Kí) có những
bản kỷ, thế gia, liệt truyện riêng biệt. Tam Quốc chí thì không thế. Phải hợp các bản kỷ, thế gia,
liệt truyện lại, rồi viết thành một truyện chung. Chia từng phần thì văn ngắn mà dễ khéo. Hợp
lại một thì văn dài mà khó. Đọc Tam Quốc chí thú hơn đọc Liệt Quốc Chí.

Sách Tả Truyện, Quốc Ngữ văn chương hay thật đấy nhưng họ Tả dựa theo kinh mà dựng truyện.
Kinh đã chia cắt, mỗi phần tự thành văn, không liên thuộc nhau. Quốc Ngữ tách khỏi kinh mà tự
làm một bộ sách, có thể liên thuộc. Thế mà cuối cùng Chu Ngữ, Lỗ Ngữ, Tần Ngữ, Trịnh Ngữ,
Tề Ngữ, Sở Ngữ, Ngô Ngữ, Việt Ngữ tám nước chia ra tám thiên… cũng chẳng liên thuộc với
nhau. Đời sau người ta mới hợp Tả Truyện với Quốc Ngữ lại làm thành Liệt Quốc Chí. Vì nhiều
nước, nhiều sự việc phức tạp, cắt đoạn rời rạc… thành thử không quán xuyến đầu đuôi. Trái lại
TQCDN từ đầu đến cuối thấy mạch lạc liên tục, cho nên giá trị hơn hẳn Liệt Quốc Chí vậy.”[2]

Có người nói ở đây Mao đang nói về kết cấu của Tam Quốc. Thực ra một sự phân biệt theo lối
trừu tượng hai phạm trù nội dung và hình thức là không tồn tại trong phê bình xưa. Tất cả những
bình luận trên của nhà bình điểm trong thực tế là đang bàn đến phép tự sự của Tam Quốc. Chúng
ta cũng không ngại gọi đó là cách diễn nghĩa của nhà văn đối với lịch sử (演義, The yanyi of History
of the Three Kingdoms). Diễn nghĩa đó là không bằng lòng với kí, chí, thư, ngữ, thuyết, biên, truyền
kì, chí truyện, giảng sử, bình thoại…[3] mà khởi dựng một thể cách tự sự khác.

Ngày nay thay vì dùng cách nói trước tác lịch sử và viết tiểu thuyết, nhiều nhà nghiên cứu phê
bình văn học phổ biến cách nói tự sự lịch sử và tự sự văn học. Chúng tôi lạm nghĩ, cách nói đó
chắc không đến nỗi làm cho những người xưa nay chắc mẩm sử đã chép là (có) thực lấy làm khó
chịu.[4] Vả chăng, ai cấm được ta đọc Sử Ký của Tư Mã Thiên như đọc một cuốn tiểu thuyết.[5]
Phương Tây chấp nhận quan điểm của nhà sử học người Mỹ – Hayden White:[6] Soạn sử không
khác gì với các phương thức viết lách khác. Trong việc soạn sử điều quan trọng nhất không phải
là nội dung, mà là hình thức văn bản. Mà hình thức đó nói cho cùng là ngữ ngôn, vì vậy sử chính
là “một kết cấu ngôn ngữ dưới hình thức lời nói văn xuôi tự sự”.[7] Tiền đề tư tưởng mới đó có
lẽ đã giúp ta một lần nữa thức nhận lại hoặc nói đúng hơn – nhận thức theo một lối mới cái gọi
là “văn sử bất phân” của người Trung Quốc.

Sử gia Trung Hoa tôn thờ tinh thần khách quan trong chép sử. Họ cũng ca tụng việc biểu hiện
thái độ bao biếm (khen chê) một cách kín đáo, sự đích đáng trong dụng ngữ (chọn chữ, thích
danh) của nhà chép sử. Thế nhưng hai việc đó tuồng như khó mà giữ cho không mâu thuẫn với
nhau. Cách tỏ thái độ kín đáo, việc chọn chữ có sức nặng của búa rìu hoặc nói cái bút pháp Xuân
Thu[8] đó là gì nếu không phải là một thứ tu từ học lịch sử – hiểu theo nghĩa rộng? Các nhà Xuân
Thu làm sao phải vất vả như vậy khi đã đủ đại dũng thà chết không chép sai sử!? Ấy nhưng đây
là vấn đề nghiêm trọng – không nghiêm trọng sao được khi nó can hệ đến tính mệnh con người.
Thế nên chúng tôi không dám mạo muội lạm bàn. Vậy mà còn một vấn đề khác nếu không liên
quan tính mệnh riêng thì cũng liên quan đến vận mạng chung của khoa học và nghệ thuật – đấy
chính là câu chuyện tự sự trong sử và văn. Bắt chước Roland Bathes ta tự hỏi – có hay không
một độ không của chép sử?

Theo đòi Sử Ký, Trần Thọ cũng “chí” sử Tam Quốc thành bản kỉ, liệt truyện.[9] Là một sử quan
của Tấn triều – triều đại thừa kế nhà Ngụy, Tấn Bình Hầu Trần Thọ đã dành bản kỉ để chép
chuyện các Nguỵ đế, phân biệt với Lưu Bị, người cầm đầu của Thục chỉ là tiên chủ (Thục chủ nhị
thế A Đẩu được Trần Thọ gọi là hậu chủ). Chuyện Thục Quốc và Ngô Quốc chỉ được xem là
truyện chớ không chép lên hàng bản kỉ. Tính chính thống của nhà Nguỵ còn được biểu hiện
trong cách tác giả Tam Quốc chí dùng năm cai trị của nhà Nguỵ khi biên niên chuyện của các phe
khác.

Dựa nhiều vào Tam Quốc chí nhưng La Quán Trung cũng bày tỏ một cách diễn nghĩa lịch sử của
chính mình. Diễn nghĩa đó về sau có bị/được Mao Tôn Cương uốn nắn/phát huy ra sao khi tu
định bình điểm tác phẩm là một chuyện cần nghiên cứu kĩ lượng.[10] Dù sao ta không thể không
khâm phục Mao Tôn Cương khi ông ta đến lượt mình lại bày tỏ việc diễn nghĩa của mình đối với
Tam Quốc ngay trong những dòng đầu tiên của công trình Phép đọc Tam Quốc chí: “Đọc sách này
ta phải phân biệt ba hạng triều đại: chính thống, nhuận vận và tiếm quốc. Nhà Thục Hán là chính
thống. Nhà Ngụy, nhà Ngô là tiếm quốc. Nhà Tấn là nhuận vận.”[11] Trong thực tế lịch sử “nói
chung thái độ đối với cuộc chiến tranh của Tam Quốc để giành chính quyền đã thay đổi trong
những thời kì khác nhau của lịch sử Trung Quốc tuỳ theo địa vị của của triều đại cầm quyền.”[12]
Chẳng hạn “Tư Mã Quang sống vào thế kỉ XI, bênh vực tính chính thống của nhà Ngụy, còn Chu
Hy ra đời vào năm 1130 tức là sau khi kinh đô chuyển xuống phía Nam, trái lại đã bênh vực tính
chính thống của chính quyền Lưu Bị, người cai trị đất Thục. Mỗi một thời đại đều đưa ra cách
giải quyết của mình về cuộc tranh cãi này”.[13]

Tư Trị Thông Giám (Tư Mã Quang) cho Tào Ngụy nối tiếp nhà Hán là chính thống, Thục và Ngô
là tiếm quốc. Thông Giám Cương Mục (Chu Hy) cho Thục là chính thống, Ngụy và Ngô là tiếm
quốc. Tác giả bộ sử riêng về thời Hán-Tấn, bộ Hán Tấn Xuân Thu (Tập Tạc Xỉ) cũng xem Thục
Hán là chính thống. Tư tưởng sùng Lưu ức Tào có quan hệ với quan điểm chính thống mà lí học
Nam Tống cố gắng giải thích, đồng thời cũng có những liên hệ sâu xa với tâm lí dân gian phản
ánh mâu thuẫn Nam Bắc kéo dài từ thời Nam Tống cho đến Nguyên. Tâm lí đó thậm chí có thể
đã xuất hiện từ thời Bắc Tống, khi mà dân chúng mang nặng mối âu lo đối với sự xâm nhiễu đến
từ Liêu, Kim. Biểu hiện của tâm lí đó là ý nghĩ cho triều đình miền Nam là chính thống, mong
muốn thực hiện Bắc phạt.

Ở trường hợp La Quán Trung, có người luận đoán trong hoàn cảnh ngoại tộc Nguyên Mông
thống trị, tác giả Tam Quốc có thể đã mượn chuyện “phục hưng Hán thất” để ngụ tâm ý của dân
tộc. Do vậy Lưu Thục trong Tam Quốc được xem là chính thống. Tựu trung trong khi độc giả
đang cố tìm hiểu bản thân sự cắt nghĩa đối với lịch sử của tiểu thuyết thì những giải thích tiểu
thuyết bằng lịch sử như thế không phải là không đáng tham khảo. Tư tưởng chính thống có thể
nói, đã trở thành vấn đề cơ bản ở Tam Quốc. Hầu như tất cả những khía cạnh tư tưởng chủ đề[14]
mà người ta “đọc ra” ở TQCDN đều ít nhiều liên quan đến quan điểm cho rằng một trong những
nét chủ đề Tam Quốc là khẳng định tính chính thống của Thục Hán. Trước lúc đi đến được
những cắt nghĩa xác đáng tư tưởng chủ đề tác phẩm, thiết tưởng vẫn cần phải nhận diện lại câu
chuyện Tam Quốc từ góc độ đề tài nội dung. TQCDN là bộ tiểu thuyết trường thiên đầu tiên của
Trung Quốc, vì vậy nó vừa là tác phẩm mở đầu của loại hình tiểu thuyết chương hồi, mà cũng là
thuỷ tổ của thể loại tiểu thuyết diễn nghĩa lịch sử.[15] Sự xuất hiện của nó đánh dấu giai đoạn
lịch sử mới của tiểu thuyết Trung Quốc, cái giai đoạn mà giờ đây ta cũng không ngại dùng một
chữ quan trọng trong chính Tam Quốc – chữ “chân vạc” để mô tả cục diện hoặc nói hình thế
“tam phân” (tiểu thuyết trường thiên, tiểu thuyết chương hồi, tiểu thuyết lịch sử) đến hồi “nhất
thống” hình thành trong bản đồ văn xuôi tự sự Trung Quốc.

Về mặt đề tài mà nói TQCDN là bức họa hoành tráng toàn cảnh một thời đại lịch sử đầy ba động.
Cũng có thể xem tiểu thuyết này là một thiên sử thi bi hùng. Trong thời đại Minh-Thanh tiểu
thuyết này được xếp vào “Tứ đại kì thư”,[16] trong thời hiện đại nó là một trong sáu danh tác
tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. TQCDN có một ảnh hưởng lớn đối với quan niệm đạo đức cũng
như ý thức lịch sử của người Trung Quốc. Xét về mặt tác động xã hội, đến nay có lẽ chưa tác
phẩm văn chương nào có thể sánh được với TQCDN. Tiểu thuyết này đương nhiên cũng là một
danh tác của văn học thế giới, mức độ lưu truyền và số lượng bản dịch làm cho nó trở thành một
trong số những kiệt tác văn chương Trung Hoa có một tầm ảnh hưởng quốc tế sâu rộng nhất.

Thời đại lịch sử mà TQCDN phản ánh trong tác phẩm kéo dài non một thế kỉ, khởi từ Hán Linh
đế Trung Bình nguyên niên (công lịch 184) kết ở Tấn Võ đế Thái Khang nguyên niên (công lịch
280). Trong khoảng thời gian đó Trung Quốc từ trạng thái quốc gia một triều đại[17] phân liệt
thành ba nước với chính quyền độc lập rồi sau cùng thống nhất lại dưới một triều đại mới. Cái
gọi là “tam quốc” bao gồm Ngụy Quốc đại diện bởi tập đoàn thống trị Tào Tháo, cai trị vùng đất
tương ứng với miền Bắc Trung Quốc ngày nay; Ngô Quốc kiến lập bởi tập đoàn Tôn Quyền cai
trị miền đất nam Trường Giang tương ứng phần lãnh thổ miền Đông Nam Trung Quốc ngày
nay; Thục Quốc cai trị bởi tập đoàn Lưu Bị gồm khu vực Tây Bắc với trung tâm bồn địa Tứ Xuyên
ngày nay (xem thêm Bảng đối chiếu địa danh xưa và nay, Tam Quốc diễn nghĩa, tr.622-623, Phan
Kế Bính dịch, Bùi Kỉ-Lê Huy Tiêu hiệu đính, Nxb.Văn Học, 2004. Một số ấn phẩm TQCDN ở
Trung Quốc thường có kèm một bản đồ Tam Quốc).

TQCDN mở đầu bằng một bài từ, kết thúc bằng một bài thơ cổ phong. Có thể chia một trăm hai
mươi hồi thành ba phần. Ba mươi ba hồi đầu (hồi 1~33) thuật chuyện thời Hán mạt trong triều
hoạn quan lộng hành, ngoài nội giặc giã binh đao, hảo hán anh hùng bốn phương khởi sự. Phe
Tào Tháo dần dần lớn mạnh hùng cứ một phương. Quãng giữa (hồi 34~85) thuật chuyện Lưu Bị
với sự phò trợ của quân sư Khổng Minh cùng các nghĩa đệ Quan-Trương, hiền tướng Triệu
Vân… tự gánh trách nhiệm trung hưng Hán triều, từng bước dựng nên Thục Quốc, hình thành
cục thế thiên hạ chia ba. Ba mươi lăm hồi cuối (hồi 86~120) thuật chuyện ba nước sau bao năm
nghiệp lớn tranh thiên hạ đời cha anh bất toại đến đời em đời con vẫn bất thành, dần dần suy
vong. Cuối cùng cha con nhà họ Tư Mã cướp quyền nhà Nguỵ nhất thống giang sơn, dựng nên
triều Tấn.

Lịch sử Tam Quốc trước hết là lịch sử của đấu tranh quân sự. Sử Tam Quốc trước hết là chiến
tranh sử: từ thống nhất rơi vào phân liệt, cát cứ đi đến nhất thống tái hồi… mỗi một giai đoạn
bao gồm biết bao chiến trận lớn nhỏ. TQCDN thuật tả trên một trăm trận chiến, trong đó có
khoảng 40 trận nổi tiếng sử sách. Nhiều trận liên kết lại trong những chiến dịch lớn có tính chất
bước ngoặt đối với thế cục như chiến dịch Quan Độ, đại chiến Xích Bích, chiến dịch Di Lăng, sử
dụng hầu hết các lối đánh từ hoả công, thuỷ chiến, tâm lí chiến, gián điệp, đột kích, hãm thành,
kị binh, nghi binh, chiến xa… với biết bao mưu lược kế sách đủ cung cấp tài liệu cho một bộ binh
thư đại toàn. TQCDN là một kì quan trong số những tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh mà lịch
sử văn học thế giới ghi nhận. Hẵng bàn đại chiến Xích Bịch. Xích Bích đại chiến là chiến dịch lớn
nhất thời Tam Quốc và cũng là chiến dịch được mô tả kĩ nhất trong TQCDN. Kết quả trận chiến
là sự hình thành cục diện thiên hạ tam phân mà tự thuở chưa ra khỏi lều tranh Nam Dương
Khổng Minh đã gọi là thế chân vạc (hồi 38; TQDN, Nxb.Văn hoá Thông tin, 2006, bản dịch Mộng
Bình Sơn: “thế đỉnh túc”). Trần thuật về chiến dịch Xích Bích khởi từ 43 kết ở hồi 50, kéo dài 8
hồi truyện. Trong đó, trực tiếp thuật tả cảnh binh đao máu lửa chiến trận chỉ trong hai hồi cuối,
sáu hồi trước dành để thuật kể mưu lược kế sách đấu trí. Một chuỗi dài mưu kế nối tiếp thực
hiện thành công dần đưa quân Đông Ngô đến bước quyết định phải dùng hoả công. Chính vào
thời điểm đó thì đại đô đốc quân đội Đông Ngô Chu Du phát giác đang mùa gió thổi ngược
chiều. Chu Du hoảng đến đổ bệnh, mọi người không hiểu. Khổng Minh như tuồng đã dự tính
tất cả từ đầu, đến “thăm bệnh” đô đốc. Đơn thuốc của vị quân sư quân đội Thục có kê vị thuốc
“đông phong”.[18] Không biết Khổng Minh quả thật cầu được gió đông bằng pháp thuật hay
vốn vì “trên tinh thiên văn, dưới tường địa lí” sớm đã “dự báo thời tiết” mà bỡn Chu Du? Chỉ
biết sau cuộc lập đàn cầu đảo trời đã nổi gió đông và chiến thuyền Đông Ngô xuất trận. Thế
nhưng đến được thời điểm đó liên minh Ngô-Thục còn phải thực hiện hàng loạt mưu kế chiến
tranh gián điệp khác. Đầu tiên là việc dùng do thám của Ngụy quân Tưởng Cán thực hiện kế
phản gián khiến Tào thừa tướng tự giết mất hai tướng thuỷ quân. Kế đó là chuyện thuyền cỏ lấy
tên của Khổng Minh. Rồi đến khổ nhục kế của lão tướng Hoàng Cái trực tiếp chuẩn bị cho kế
hoạch hoả công. Sau cùng chính là liên hoàn kế khiến chiến thuyền của Tào kết thành bể lửa giữa
dòng Trường Giang.
Trong lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc có những cuốn vừa là tác phẩm mở đầu cho một một loại
hình thể loại vừa là tác phẩm đại biểu cho chính loại hình mà nó khai sinh. TQCDN chính là một
tác phẩm như thế. TQCDN mở màn cho dòng tiểu thuyết diễn nghĩa lịch sử, đồng thời nó cũng
đã trở thành điển phạm của loại hình tiểu thuyết diễn nghĩa lịch sử.

Vấn đề đầu tiên mà loại hình tiểu thuyết diễn nghĩa đối diện với là vấn đề xử lí mối quan hệ giữa
sự thực lịch sử và tính chân thực trong nghệ thuật. Học giả đời Thanh Chương Học Thành có ý
trách TQCDN tự sự mà không hoàn toàn căn cứ vào chính sử.[19] Ông cho rằng TQCDN “bảy
phần sự thực” “ba phần hư cấu” (Bính Thìn trát kí). Thực ra sự kết hợp hư thực trong tự sự
TQCDN là rất đáng được chú ý. Xử lí mối quan hệ hư thực của tác giả TQCDN bộc lộ một bản
lĩnh nghệ thuật thực sự. Về cơ bản khung cốt lịch sử mà tiểu thuyết này dựng lên là phù hợp với
diện mạo vốn có của thời đại Tam Quốc. Tình tiết cơ bản của toàn tiểu thuyết không đi chệch ra
khỏi lối đi của lịch sử Tam Quốc. Thời gian, địa điểm và kết cục của một số sự kiện lịch sử lớn
phản ánh trong TQCDN về cơ bản có thể đối chiếu được với ghi chép trong Tam Quốc chí của
Trần Thọ, Tư Trị Thông Giám của Tư Mã Quang, sách sử của Hồ Tam Tỉnh. Về mặt hư cấu,
TQCDN kế thừa Tam Quốc chí Bình Thoại, hấp thu nhiều truyền thuyết dân gian, mạnh bạo sáng
tạo nhiều tình tiết mới. Những hư cấu đó (cần phải được hiểu) không chân thực đối với ghi chép
lịch sử, nhưng là chân thực của nghệ thuật. Lỗ Tấn có dẫn một ví dụ rất ý vị về việc hư cấu trong
TQCDN: “Vương Ngư Dương là một thi nhân nổi tiếng mà cũng là một học giả. Ông ta có một
bài thơ nhan đề Lạc Phượng Pha điếu Thống Sĩ Nguyên, dốc Lạc Phượng này chỉ có trong TQCDN
chứ không có căn cứ gì khác. Thế mà Vương bị nó làm cho ngơ ngẩn đi” (Trung Quốc tiểu thuyết
đích lịch sử đích biến thiên). Những ví dụ kiểu đó còn nhiều. Việc đó cũng có nghĩa là tiểu thuyết
đã dùng phương thức “bảy thực ba hư” để diễn nghĩa lịch sử theo cách của nó. Cũng giống như
một bộ sử muốn dùng cách gọi là kí thực để cắt nghĩa lịch sử vậy.[20]

TQCDN sở dĩ hấp dẫn người đọc ấy là vì nó viết về một thời đại thiên hạ động loạn anh hùng
quần khởi.[21] TQCDN của La Quán Trung một khi đã lấy nguồn từ giảng sử và chính sử, lẽ tự
nhiên không thể không chịu câu thúc ít nhiều của sự thực lịch sử. Mà một sự thực lịch sử rung
động lòng người mạnh mẽ như lịch sử thời Tam Quốc cũng không phải là nhiều. Điều đó giúp
ta giải thích tại sao cùng viết về đề tài lịch sử mà Tuỳ Đường diễn nghĩa lại không thành kiệt tác
trong lúc cùng một tác giả mà TQCDN lại trở thành kì thư. Kể từ TQCDN, thể chương hồi diễn
tiến từ giảng sử đã trở thành hình thức lưu hành nhất cho tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Phần
hay nhất của bộ sách có lẽ là phần từ Tào Tháo uống rượu luận anh hùng (hồi 21) đến Cửa Sài
Tang Ngoạ Long tang viếng (hồi 57). Tào Tháo chiến phạt Viên Thiệu và Xích Bích đại chiến –
hai câu chuyện tiếng tăm nhất trong bộ sách đều nằm trong trường đoạn này. Trước trường đoạn
này, câu chuyện chưa dồn trọng tâm và chưa định hình nhóm nhân vật chính. Sau trường đoạn
này thì thế tam phân đã định, các nhân vật chính đều diễn qua màn kịch của mình, câu chuyện
diễn tiếp cái thế đã thành, nói chung không có biến chuyển gì mới hơn.

Anh hùng Tam Quốc tập trung lần đầu trong chiến dịch Hổ Lao Quan thảo phạt Đổng Trác.
Trong chiến dịch này Tào Tháo kiên quyết quả đoán nhất; anh dũng hơn người thì phải tính đến
anh em Lưu Quan Trương. Cũng chính trong cuộc gặp mặt này mà Tào Lưu quen biết nhau. Lúc
đó bộ ba Lưu Quan Trương chẳng qua chỉ là những kẻ tham dự cục thế chẳng có địa vị gì giữa
chư hầu các lộ. Những người như anh em họ Viên xuất thân thế tộc ở vào địa vị cầm đầu chư
hầu hoàn toàn không để ý tới những kẻ vô danh tiểu tốt đó. Chỉ có mỗi Tào Tháo là biết người
biết của. Từ thuở đó cho đến buổi uống rượu luận anh hùng cùng Lưu Bị, Tào Tháo về cơ bản đã
có căn cứ địa rộng lớn và lực lượng hùng hậu của mình.

Trong khi đó ba anh em họ Lưu vẫn ăn đậu ở nhờ, rồng nằm ao cạn. Sau khi rời khỏi trại Tào,
đặc biệt là từ lúc có Khổng Minh ra phò tá, tìm được đất đứng chân, Lưu Bị bắt đầu khởi nghiệp
tranh hùng với Tào Tháo. Thiên hạ đi vào thế chân vạc. Toàn bộ quá trình từ anh tài thiên hạ tụ
hội ở Hổ Lao Quan cho đến khi thiên hạ chia ba gờm đối nhau biểu hiện triết lí khởi nghiệp gian
nan, lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh. Cuộc gây dựng của Lưu Bị là dẫn chứng hùng hồn
nhất cho ý đó.

Ngay như Tào Tháo cũng là hiện thân của triết lí đó: Tào Tháo tay trắng khởi nghiệp, sau khi
một mình hành thích Đổng Trác không thành mới bắt đầu chiêu binh mãi mã.

Đến như Tôn Sách cũng vậy. Ban đầu là thuộc tướng của người khác, lấy được ngọc tỉ đổi thành
một nghìn quân cùng bốn trăm ngựa chạy về Giang Đông bắt đầu sự nghiệp. Chủ đề sáng nghiệp
gây dựng giang sơn từ hai bàn tay trắng đem lại cho bộ truyện một sức hấp dẫn ngay từ đầu.
Tương quan lực lượng về sau thay đổi hay không phần lớn nhờ vào dũng lực và mưu lược của
từng bên.

Chuyện cầu hiền của Lưu Bị từ lúc gặp Từ Thứ cho đến hồi tam cố thảo lư vời được Khổng Minh
nhấn mạnh nét chủ đề này. Chiến thắng của quân tướng trên chiến trường quyết định từ trên
bàn giấy của quân sư. Lúc đôi bên dàn trận chính là lúc mà một mưu lược sẽ đến hồi phá sản
hay sắp sửa thành công. Khi kế thừa kinh nghiệm viết về chiến tranh từ những bộ sử lớn như Sử
Ký, Tả Truyện, La Quán Trung đã đặt trọng tâm tự sự lên việc miêu tả quá trình của những âm
mưu, kế sách. Đó là điều khiến TQCDN vượt xa vô số những bộ giảng sử của bất cứ tác giả nào.
Sức hấp dẫn của bộ sách phần lớn cũng đến từ đó.

Chuyện thời Tam Quốc đến Đường đã thấy diễn trên sân khấu múa rối. Sự khác biệt giữa bình
thoại và diễn nghĩa thể hiện ở việc khắc họa nhân vật. Đó cũng chính là sự khác biệt giữa khuynh
hướng giải trí bình dân và sáng tác văn nhân bác học. Thử xét hai hình tượng Trương Phi và
Triệu Vân. Vị trí của Trương Phi là tam đệ của Chúa công, còn Triệu Vân thì lại là tả hữu của
Thừa tướng. Triệu Vân bách chiến bách thắng, gan dạ và mưu lược. Cho đến khi Lưu Bị bại trận
Di Lăng, trú quân gần Bát trận đồ mà tướng Ngô Lục Tốn vẫn không dám tiến quân ấy là vì còn
sợ Triệu Vân. Bình thoại cũng như kịch rối là những sinh hoạt văn nghệ thị dân, coi trọng mặt
hài hước gây cười mua vui. Lí Thương Ẩn viết câu “Hoặc hước Trương Phi hồ, hoặc tiếu Đặng
Ngải ngật” (Lúc nhạo râu xồm Trương Phi, khi cười Đặng Ngải nói lắp) chính là để tả không khí
sinh hoạt xem tuồng Tam Quốc thời Đường. Mãnh tướng lỗ mạng hấp tấp kiểu Trương Phi cung
cấp chất liệu khôi hài đáp ứng thị hiếu đó. Ngược lại, trong diễn nghĩa màu sắc sử thi người anh
hùng được tô đậm. Trí tuệ mưu lược Khổng Minh trên thực tế được thực hiện bởi chiến tướng
trí dũng song toàn Triệu Vân. Nhị đệ của Chúa công – Quan Vũ, oai dũng trùm đời, tính khí cô
ngạo dường như ngay tự đầu đã giữ khoảng cách với quân sư phe phẩy quạt lông này. Vả chăng
như ta thấy, trên thực tế, Khổng Minh cũng có phần e dè đối với Quan Vũ. Thành ra vào lúc có
“nhiệm vụ quốc gia đặc biệt quan trọng” như việc Lưu Bị cưới vợ Đông Ngô, Khổng Minh chỉ
có thể giao cho Triệu Vân.

TQCDN giữ mãi sức hấp dẫn, ngoài việc thành công trong phần trần thuật mưu lược của các phe
trước hồi lâm trận, còn diệu nghệ không kém trong phần kể tả cảnh chiến trường gươm đao.
Hình ảnh Triệu Vân chiếm địa vị quan trọng trong phần thứ hai này của tự sự tiểu thuyết. Như
đã nói Tam Quốc không những vô song trong việc biểu hiện phần chìm hoạt động đấu trí giữa
các phe, mà còn điêu luyện trong việc khắc họa bề nổi cảnh chiến trận binh đao giữa các bên. Sự
kết hợp của hai hoạt động đó nhiều lúc đạt đến trình độ nhuần nhuyễn thông qua việc trần thuật
phối hợp hành động giữa hai nhân vật Khổng Minh và Triệu Vân. Câu chuyện Lưu Bị làm rể
Đông Ngô – trò chơi chính trị ngoại giao nổi tiếng trong tiểu thuyết kể liền trong hai hồi 54, 55
là ví dụ tốt nhất. Chu Du bàn với Tôn Quyền vờ gả em gái cho Lưu Bị, đợi khi Lưu Bị sang rước
dâu sẽ bắt làm con tin để đòi lại Kinh Châu. Tương kế tựu kế, Khổng Minh khuyên Lưu Bị nhận
lời sang Ngô cưới em gái Ngô hầu. Không có cẩm nang diệu kế của Khổng Minh việc không
thành, nhưng không có Triệu Vân thân chinh bảo giá, chủ động thực hiện diệu kế cẩm nang thì
việc cũng không không xong. Vào những thời điểm đặc biệt của tình tiết câu chuyện, sự xuất
hiện của cả hai nhân vật này trong dòng trần thuật đem lại ý vị đặc trưng cho tự sự trong TQCDN.
Chẳng hạn tình tiết Khổng Minh sau khi cầu xong gió đông, biết trước Chu Du chắc chắn sẽ hại
mình nên đã sắp sẵn thuyền để rút về. Đón Khổng Minh trên thuyền đó không ai khác hơn là
tuỳ tướng Triệu Vân.

TQCDN dành 8 hồi liên tục để thuật chuyện đại chiến Xích Bích. Trường đoạn thuật chuyện chiến
trường hay nhất của tác phẩm. Tương quan lực lượng được nói rõ từ đầu. Tào Tháo đích thân
cầm quân 80 vạn tính chuyện tấn công tổng lực san bằng Đông Ngô. Tôn, Lưu mỗi bên thực lực
chỉ có mấy vạn. Do vậy, trường đoạn trần thuật chiến dịch này bên cạnh những thể hiện riêng
về đề tài mà ngày nay ta gọi là đấu tranh ngoại giao, chiến tranh gián điệp thì ngay từ đầu cũng
hé lộ chủ đề lấy ít địch nhiều, tiểu quốc chiến thắng đại quân nước lớn – một trong những chủ
đề lớn quán xuyến suốt toàn sách đặc biệt trong phần trần thuật chuyện nhà Thục. Đặc sắc của
trường đoạn trần thuật Xích Bích đại chiến nằm trong việc thể hiện quá trình chuyển hoá mâu
thuẫn giữa các phe. Mâu thuẫn đầu tiên là mâu thuẫn giữa việc có hay không quyết tâm kháng
Tào. Tào Tháo muốn mượn thế áp đảo, thần phục Đông Ngô. Lưu Bị muốn liên minh Đông Ngô
cùng cự Tào, đặng hình thành thế chân vạc. Mâu thuẫn tập trung ngay trong lòng Đông Ngô:
liên minh Lưu Bị thì cũng chưa cầm chắc được về quân sự mà hoà với Tào Tháo thực tế là đầu
hàng. Vả chăng trước mắt lại là cơ hội duy nhất liên minh với Lưu Bị để có thể quyết chiến. Hai
phái chủ chiến và chủ hoà làm rối bời triều chính Đông Ngô. Khổng Minh xuất hiện giải quyết
mâu thuẫn đó. Màn thứ nhất là trận “thiệt chiến” áp đảo các mưu sĩ chủ hoà của Đông Ngô. Biết
rõ Tôn không cam tâm hàng Tào nhưng sợ đánh thì binh lực không đủ. Khổng Minh từng bước
thuyết phục Tôn Quyền đi đến đồng ý liên minh cự Tào. Chu Du xuất hiện biến quyết tâm chống
Tào thành hành động, bắt đầu cuộc đấu trí với Tào Tháo ở bờ bắc trước khi thực sự giàn trận
thiêu rụi chiến thuyền Tào trên dòng Trường Giang.
Tự sự đại chiến Xích Bích hấp thu tinh hoa lối thuật tả các chiến dịch lớn của Tả Truyện. Trận
quyết chiến sống mái sau cùng trên chiến trường được trình bày như là kết quả của mỗi chuỗi
tiến triến liên hoàn của những mưu lược nhiều phía.

Diễn biến trần thuật toàn sách cho ta thấy đối địch Lưu–Tào quán xuyến toàn bộ hệ thống tình
tiết câu chuyện Tam Quốc. Đông Ngô thường giữ địa vị làm nền. Chỉ trong trường đoạn 8 hồi
đại chiến Xích Bích, Đông Ngô mới được đẩy lên mặt tiền của sân khấu truyện kể, trong đó nổi
bật lên hình tượng Chu Du. Thục Ngô ai là chủ lực trong liên minh đánh trận Xích Bích chính sử
chép không thống nhất. Ngụy chí cho là quân Thục, trong lúc Ngô chí nói (Ngô Thục) “hợp sức”.
Thục chí lại chép (Lưu Tôn hai nhà) “cùng tiến quân”. Nhiều nguồn sử liệu và truyền thuyết nhấn
mạnh vai trò của Chu Du. Tự sự TQCDN rõ ràng đứng trước nhiều chọn lựa.

Thế nhưng cuối cùng như ta đọc thấy, vượt lên trên thiện cảm cá nhân và lối tuyên truyền dễ
dãi, tác giả tiểu thuyết đã đáp ứng cấu tứ và bố cục chỉnh thể toàn sách. Vì nếu để Đông Ngô
luôn trong trạng thái làm nền, phụ trợ cho câu chuyện chính thì chủ đề thế lớn thiên hạ tam phân
chân vạc không bộc lộ sắc nét, chuyện tam quốc nhất thống giang sơn biến thành chuyện lưỡng
quốc tranh hùng. Cũng vì thế mà không có gì lạ khi Xích Bích đại chiến quy tụ hầu hết các nhân
vật chủ chốt của ba phe, trở thành cao trào của bộ tiểu thuyết. Xem kĩ toàn sách không có chỗ
nào diễn điều tương tự. Trần thuật trong trường đoạn đại chiến Xích Bích cũng không còn theo
cách phổ biến “thoại phân lưỡng đầu” (truyện kể từng chuyện một) nữa. Đại chiến Xích Bích quả
đòi hỏi một nhãn quan tự sự bao quát. Ta biết La Quán Trung ngoài tư cách là một tiểu thuyết
gia còn là một tác gia khúc nghệ. Con người kịch tác gia cũng giúp nhiều cho nhà văn điều khiển
tài tình màn diễn Xích Bích lịch sử (thử so sánh tự sự các cảnh quay trong phim truyền hình dài
tập của Đại lục với thực tế luân chuyển cảnh trần thuật trong tiểu thuyết đủ thấy vấn đề).

Rốt cuộc bảy thực ba hư cũng chỉ là một cách nói mà thôi. Nhìn kĩ, có người cho rằng phần hư
cấu có khi quá nửa. Hãy xem trường hợp hình tượng Khổng Minh chẳng hạn. Những chuyện
như “mượn gió đông”, “cửa Sài Tang khóc Chu Du”, “bánh bao tế sông”, “sáu lần ra Kì Sơn”,
“bảy lần bắt Mạnh Hoạch” vượt xa ra khỏi khu vực có kí tải trong sử sách. Hoặc như chuyện
Quan Vũ “kết nghĩa vườn đào”, “gặp Trương Phi ở Cổ Thành”, “đường Hoa Dung tha Tào
Tháo”… đều không có căn cứ lịch sử nào cả.

Đó là chưa nói tới việc tác giả tráo ghép người việc. Ví dụ, chú giải Tam Quốc chí của Bùi Tùng
Linh ghi chuyện Tôn Quyền sai làm thuyền cỏ “mượn” tên Tào Tháo. Tiểu thuyết đã chuyển
chuyện đó sang cho Khổng Minh. Cũng như “chém Hoa Hùng” vốn công Tôn Kiên, trong tiểu
thuyết là thành chuyện của Quan Vũ. “Nổi giận đánh Đốc Bưu” vốn chuyện Lưu Bị, trong tiểu
thuyết thành chuyện của Trương Phi. Vượt lên trên cái gọi là sự thực ngẫu nhiên và tản mạn, cái
sự thực hiểu theo nghĩa “đã từng xảy ra” “có thực” “được ghi chép”, hư cấu nghệ thuật giúp
TQCDN vươn lên tầm chân lí phổ biến. Tiểu thuyết đã diễn nghĩa lịch sử theo cách của nó.
“Không thành kế”, “thất thủ Nhai Đình”, “chém Mã Tốc” đều là những sự kiện đã từng tìm được
chứng cứ lịch sử. Thế nhưng, “không thành kế” vốn không liên can gì đến Khổng Minh, cũng
không dính dáng gì đến việc Mã Tốc thua trận để mất Nhai Đình khiến Khổng Minh đành gạt lệ
thực hành quân lệnh chém đầu Mã Tốc. Tiểu thuyết đã xâu chuỗi các sự kiện này làm cho chúng
trở nên tập trung hơn, hợp lí hơn biểu hiện một trình tự câu chuyện được tái nhận thức trở lại.
Ngược lại, cũng có những tình tiết được cho là hư cấu hoàn toàn, ví dụ chuyện Lưu-Quan-
Trương làm giặc cướp ở Thái Hành Sơn được kể trong Tam Quốc chí Bình Thoại lại không được
TQCDN chấp nhận. Tất cả những điều đó đều là biểu hiện của cái ta gọi là một lối diễn nghĩa
lịch sử của/bằng một trường thiên tiểu thuyết. Rốt cuộc như ta đã đọc thấy – lịch sử đã được tạo
dựng nên như là một câu chuyện mà nếu không bao giờ kể ra thì đã không còn tồn tại và được
nhớ-hiểu. Lịch sử để là lịch sử thì phải được kể ra/kể nên/kể thành. Kể trong trường hợp Tam
Quốc – ấy chính là diễn nghĩa, là kết cấu sử sự và sử nhân vào trong một văn bản tự sự ngôn từ
nhất định. Để rồi văn bản đó lại tiếp tục trở thành đối tượng diễn nghĩa bất tận của biết bao nhà
phê bình nghiên cứu văn học. Hơn thế kỉ trôi qua, cuộc đong đo “bảy thực ba hư” ở Tam Quốc
chí Diễn Nghĩa vẫn còn cứ ám ảnh bao kẻ đã chót đưa mình vào trong thế cũng là “tam phân” –
nhà văn-nhà phê bình-sử gia. Xem ra cuộc diễn nghĩa Tam Quốc còn lâu mới đến buổi hạ hồi…

Hà Nội, 5/08

Chú thích:

[1] Xin lưu ý: Trong thiên có tính cách “lời nói đầu” bộ Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa mà Mao cùng
thân phụ tu nhuận từ Tam Quốc chí Thông Tục Diễn Nghĩa (La Quán Trung) này, mấy chữ “Tam
Quốc chí” là từ gọi tắt bộ tiểu thuyết chứ không phải là chỉ bộ sử Tam Quốc chí (Trần Thọ). Nhân
dân Văn học Xuất bản xã khi quyết định chọn Mao bản làm bản gốc để chỉnh lí xuất bản bộ tiẻu
thuyết không hiểu sao lại lược đi chữ “chí” trong đầu đề. Tình trạng tồn tại song song hai nhan
đề “Tam Quốc chí diễn nghĩa” và “Tam Quốc diễn nghĩa” trong thực tế dịch thuật tại Việt Nam
dường như cũng phản ánh điều đó.

[2] Dẫn theo bản dịch Tử Vi Lang, Tam Quốc chí Diễn Nghĩa, Nxb.VHTT, 2006. tr.21~22. Chúng tôi
chỉ hơi thay đổi chút ít trong chính tả đánh máy. Tên gọi Tam Quốc chí trong bình điểm của Mao
Tôn Cương chỉ Tam Quốc của La Quán Trung, không nhầm với bộ sử của Trần Thọ.

[3] Đây đều là những “thể tài” cụ thể từng xuất hiện qua các thời đại trong truyền thống văn
xuôi tự sự Trung Quốc. Chúng tôi cho rằng mỗi một chủng loại tự sự đó đều là một cách quan
hệ của văn xuôi Trung Hoa đối với với hiện thực đời sống lịch sử. Chúng là những ứng xử cụ
thể trong từng thời đại của tự sự bằng lời (viết ghi hay khẩu thuật) trong một truyền thống văn
hoá lâu đời, sớm nhất thống văn tự.

[4] Câu đầu cửa miệng của họ là “Trong sử có chép/nói…” Thiển nghĩ bia đá có khi mòn mà chắc
gì bia miệng còn được trơ trơ!

[5] Có ý kiến phát biểu rằng sự khác biệt giữa một tác phẩm lịch sử với một tác phẩm tiểu thuyết
lắm khi không phải là sự khác biệt giữa sự thực và tưởng tượng mà là sự khác biệt về mức độ hư
cấu. Như ta biết trong tiếng Anh fiction vừa có nghĩa tiểu thuyết vừa có nghĩa hư cấu (tiểu thuyết
được hiểu là một thứ fictional narrative). Đương nhiên chúng tôi vẫn giữa quan điểm đối lập
giữa sử học và văn học (phần sáng tác văn chương) như là đối lập giữa khoa học và nghệ thuật.

[6] Hayden White (1928 – ), nhà sử học người Mỹ. Lí luận tự sự học lịch sử của ông rất có ảnh
hưởng ở phương Tây. Phân biệt sử gia với nhà sử học có lẽ là thừa, nhưng trong trường hợp H.
White chúng tôi vẫn muốn gọi ông là nhà sử học hơn là sử gia.
[7] Dẫn từ H.White, Hậu hiện đại Lịch sử Tự sự học, Trần Vĩnh Quốc-Trương Vạn Quyên dịch,
Trung Quốc xã hội khoa học xuất bản xã xuất bản, bản in năm 2003, tr.1~2.

[8] Sử gia Trung Hoa tôn sùng bộ sử biên niên Xuân Thu (được cho là do Khổng Tử soạn) và bộ
đoạn đại sử Sử Kí (Tư Mã Thiên). Khổng Tử chắc không nghĩ có ngày Xuân Thu được tôn thành
Kinh, mà Tư Mã Thiên thì soạn Sử Kí độc lập với sử quán bản triều (ông không soạn theo yêu
cầu của hoàng đế, ông không là quan viên chép sử ăn lương). Vả chăng Thái Sử Công cũng không
soạn để kịp xuất bản ngay. Đó là công trình “tàng chi danh sơn – cất trong núi thẳm” cho mai
rày. Cổ nhân những bực đó đều là “cùng nhi hậu công” (Âu Dương Tu). Người cùng văn chương
mới hay. Lại có kẻ sinh thời không làm danh sĩ, chết đi không để lại một dòng nào về bản thân
trong lịch sử, chỉ thấp thoáng ẩn mình sau trước tác để đời. Lẩy lời Âu Dương Tu, không ngại
cho La Quán Trung cũng là hạng ẩn mình chép chuyện trăm năm – “tàng nhi hậu công” vậy.

[9] Tam Quốc chí của Trần Thọ toàn sách 65 quyển, trong đó sử nhà Nguỵ chép dài 30 quyển, Ngô
12 quyển, Thục cũng chỉ nhiều hơn Ngô 2 quyển (sau đó chú giải của Bồ Tùng Chi đã làm bộ sử
dày lên gấp bội). Đến TQCDN, tình hình đã khác. Trong 120 cặp đối ngẫu làm hồi mục, có đến
quá nửa phân câu trực tiếp liên quan đến chuyện nhà Thục, chiếm tỉ lệ 60%.

[10] Mao dường như không bị trách móc nhiều như trường hợp người cùng thời – Kim Thánh
Thán đã làm đối với Thủy Hử Truyện.

[11] Dẫn theo bản dịch Tử Vi Lang, TQCDN, Nxb.VHTT, 2006. Bài trên nguyên văn nhan đề Độc
Tam Quốc chí pháp. Đây có thể xem là một kiểu Cùng bạn đọc hoặc Lời giới thiệu trong sách in
ngày nay mà Mao làm khi xuất bản bộ Tam Quốc do mình tu định và bình điểm. Mao thật là
thông minh trong việc định đặt các khái niệm chính thống, nhuận vận và tiếm quốc. Đồng ý hay
không với quan điểm của Mao thì người ta vẫn đọc Tam Quốc theo kiểu người thì thán phục
“Tài thật! Tiên sư anh Tào Tháo!” kẻ lại ứa nước mắt trước nhân từ của Lưu Bị; lại có vị như Tư
Mã Ý mới khen tài mà Khổng Minh chỉ cho là phù thuỷ. Người thờ Quan Công kẻ mến Triệu
Vân. Tiểu thuyết vĩ đại làm sao chỉ có duy nhất một “độc pháp” (phép đọc) mà thôi ?

[12] B.L.Riftin, Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc (Phan Ngọc dịch từ
nguyên bản tiếng Nga), Nxb.Thuận Hoá – Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, tr.40.

[13] Sách vừa dẫn.

[14] Cho đến nay, Tam Quốc từng được hiểu là ủng Lưu phản Tào, ca ngợi hiền tài trung dũng,
phản đối cát cứ trông đợi nhất thống, âu ca minh quân hiền thần… Lại có thuyết cho rằng Tam
Quốc ca tụng loạn thế anh hùng, bên cạnh thuyết nói Tam Quốc thể hiện bi kịch lịch sử, hoặc
biểu hiện tư tưởng định mệnh, triết lí phân hợp hợp phân… Nghiên cứu chủ đề tiểu thuyết này
quả thực cũng đã trở thành một cuộc đại diễn nghĩa của các nhà phê bình.

[15] Sơ bộ liệt kê một số bộ diễn nghĩa: Đông Chu liệt quốc chí, Lưỡng Hán diễn nghĩa, Lưỡng Tấn
diễn nghĩa, Nam Bắc sử diễn nghĩa, Tuỳ Đường diễn nghĩa, Thuyết Đường, Tống Sử diễn nghĩa, Minh
Sử diễn nghĩa, Thanh Sử diễn nghĩa… Sử Trung Hoa cho đến tận cận hiện đại cũng đã có (tiểu
thuyết) diễn nghĩa – Dân Quốc diễn nghĩa. Thậm chí tập hợp các bộ sử biên niên – Nhị thập tứ sử
cũng được diễn nghĩa: Nhị thập tứ sử thông tục diễn nghĩa. Cá nhân chúng tôi khi phiên âm đầu
đề của những sách trên không tránh được lúng túng trong cách viết – viết sao cho một người đọc
kĩ tính hiểu rằng trong tên sách có tên sách kiểu như Diễn nghĩa bộ Tống Sử (hoặc có thể nói
“Diễn nghĩa ghi chép lịch sử đời Tống”? Hay nói khúc mắc hơn – “Diễn nghĩa lịch sử triều Tống
– một lịch sử được chép lại trong bộ Tống Sử”) hay viết đơn giản kiểu Tam Quốc chí diễn nghĩa
(diễn nghĩa đời Tam Quốc)? Mặt khác, trong số tên các bộ diễn nghĩa trên cũng có trường hợp
dường như chỉ là diễn nghĩa, nói đúng hơn là không phải một lịch sử đã được ghi chép, biên
soạn vào trong một cuốn sách sử cụ thể mà là diễn nghĩa thẳng bản thân lịch sử (?) ví như Diễn
nghĩa lịch sử Trung Hoa Dân Quốc, Diễn nghĩa lịch sử hai triều Đông Tây Hán… Vấn đề tựu trung là,
dù sao thì cũng phải ý thức được rằng chúng ta (xưa cũng như nay, mù chữ phải nghe kể thuật,
diễn ca hay tinh thông viết lách, biên khảo) tiếp xúc được ra sao đối với cái mà ta gọi là lịch
sử/history – cái lịch sử bản lai chân diện mục/nhất khứ bất phục phản? Đối diện với vấn đề đó
chính là lúc ta tự hỏi sử học chân thực ra sao mà văn chương tiểu thuyết (diễn nghĩa của Trung
Hoa và historical novel của phương Tây) hư cấu kiểu gì. Khi tất cả là ở trong một vũ trụ của tự
sự ngôn từ (narrative) thì đâu là sự thực trăm phần trăm còn đâu là tưởng tượng từ đầu đến
chân?

[16] Andrew H.Plaks có ý thức đối thoại với với quan điểm phổ biến cho rằng những bộ tiểu
thuyết ưu tú như Tam Quốc, Thuỷ Hử là những tác phẩm của truyền thống sáng tác bình dân
đặt trên nền móng của văn học truyền miệng. Ông ngược lại cho đó là các sáng tác của những
văn nhân đặc biệt – những tài tử. Ông đặc biệt chú ý cách gọi Kì Thư, xem đó như là một thể loại
tự sự quan trọng của văn học thời đại Minh Thanh. Một thể loại rõ ràng sử dụng tư liệu văn học
bình dân và có cuốn đã viết bằng bạch thoại nhưng vẫn giữ liên hệ máu thịt với cái truyền thống
khởi từ kinh sử truyện. Ông thậm chí đã phiên âm cụm từ tứ đại kì thư trong các chuyên luận về
tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc viết bằng tiếng Anh bên cạnh dịch nghĩa. Xin xem chẳng hạn,
công trình The Four Masterworks of the Ming Novel: Shu ta ch’i shu (Tứ đại kì thư trong tiểu thuyết
đời Minh), công bố 1987 của Plaks. Về xuất xứ của định danh “tứ đại kì thư” xin xem Lê Thời
Tân, “Tứ đại kì thư” của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc: tên gọi-văn bản-tác giả, Tạp chí Nghiên
cứu Văn học, số 2/2011.

[17] Đôi khi cũng cần đặt những từ quen dùng như quốc gia, quốc, triều đại, đế chế, sĩ đại phu,
khởi nghĩa… vào trong chính hệ thống thuật ngữ của sử học Trung Hoa khi đọc văn triết sử của
họ. So sánh đối chiếu cho ta thấy những khác biệt có khi rất nhỏ, chẳng hạn cách gọi tên triều đại
của Việt Nam và Trung Hoa lại chứa đựng rất nhiều những ý vị văn hoá.

[18] Hết mưu này đến kế kia tiếp nối thực thi đưa đến cục thế bước ngoặt hoặc phá sản hoàn
toàn hoặc đưa được đối phương vào cái bẫy hoả công dày công thiết kế – cục thế mà Khổng Minh
nói riêng với Chu Du “muôn việc đã đủ, chỉ thiếu gió đông” (hồi 49, Nxb.Văn hoá Thông tin,
2006, bản dịch Tử Vi Lang. Nguyên văn: Vạn sự câu bị, chỉ khiếm đông phong). Đây chính là là
hai câu trong cái “đơn thuốc” của Khổng Minh viết khi thăm bệnh Chu Du. Hai câu đó về sau
đã thành ngạn ngữ trong tiếng Hán.

[19] Chương Học Thành (1738 – 1801) nhà sử học, nhà tư tưởng thời Thanh, tác giả của bộ Văn
Sử thông nghĩa.

[20] Có thể xem TQCDN như là món cocktail của tự sự Trung Quốc. Cất công xác định tỷ lệ “thực
hư”, công thức pha trộn các nguồn tài liệu là cần thiết. Nhưng thưởng thức nó sau khi đã pha
xong còn quan trọng hơn. Phân tích chủ đề tiểu thuyết này yêu cầu nhà phê bình đừng mãi chôn
chân giữa đầm lầy khảo cứu.

[21] Đây hoặc nói như lí luận văn học ngay nay chính là giá trị của đề tài. Mao Tôn Cương viết
trong Độc Tam Quốc chí pháp (Phép đọc Tam Quốc chí): “Những sách cổ sử có rất nhiều, mà người
ta chỉ thích đọc Tam Quốc chí hơn cả, là vì xưa nay chưa có đời nào nhân tài lại tụ tập đông đảo
như đời Tam Quốc. Xem người tài địch với người vô tài thì không lạ. Xem người tài chọi với
người tài mới lạ. Coi chuyện tài chọi tài, mà thấy nhiều tay tài giỏi phải chịu thua một tay, ấy
mới càng kì.” (dẫn theo bản dịch Tử Vi Lang, TQCDN, Nxb.VHTT, 2006. tr.17). Rải rác trong lời
bình Tam Quốc, thấy nổi lên quan điểm ca tụng cái gọi là cái diệu của hoá công, đấng tạo vật
trong việc thiên diễn nên bản thân câu chuyện – “Hữu thử thiên nhiên diệu sự, tấu thành thiên
nhiên diệu văn” (Mao bình hồi 48) hoặc “Tạo vật giả khả vị thiện vu tác văn hĩ!” (Độc Tam Quốc
chí Pháp).

Tài liệu tham khảo

1.La Quán Trung, Tam Quốc chí diễn nghĩa (2 tập), lời bình Mao Tôn Cương, dịch thuật Tử Vi
Lang, Nxb.Văn hoá Thông tin, 2006.

2.Hillis Mille, Reading Narrative, 1998 by the University of Oklahoma Press.

3.Naratologies, Edited by David Herman, The Ohio State University, 1999.

4.海登·怀特《后现代历史叙事学》陈永国,张万娟译中国社会科学出版社Hayden White, Hậu hiện


đại Lịch sử tự sự học, Trần Vĩnh Quốc–Trương Vạn Quyên dịch, Trung Quốc xã hội khoa học xuất
bản xã xuất bản, bản in năm 2003.

5.Sử Ký của Tư Mã Thiên, Giản Chi&Nguyễn Hiến Lê giới thiệu, trích dịch và chú thích, Lá Bối
in lần thứ nhất 1970, Saigon-Vietnam.

6.陳壽《三國志》 臺北 鼎文書局1982 Trần Thọ, Tam Quốc chí, Đỉnh Văn thư cục xuất bản (Đài Bắc),
1982.

7.Thi Nại Am soạn, La Quán Trung toản tu, Thuỷ Hử Toàn Truyện, Hoa Hạ xuất bản xã, 1998.

8.B.L.Riftin, Sử thi lịch sử và truyền thống văn học dân gian Trung Quốc (Phan Ngọc dịch từ nguyên
bản tiếng Nga), Nxb.Thuận Hoá – Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây

9.朱一玄 编《三国演义资料汇编》南开大学出版社2004 Chu Nhất Huyền, Tam Quốc diễn nghĩa Tư


liệu hội biên, Bách hoa văn nghệ xuất bản xã, bản in 1983.

10.浦安迪《中國敘事學》北京大學出版社1996 Andrew H.Plaks, Trung Quốc Tự sự học, Bắc Kinh đại


học xuất bản xã, bản in 1996.

11.La Quán Trung, Tam Quốc chí diễn nghĩa (hai tập), lời bình Mao Tôn Cương, dịch thuật Mộng
Bình Sơn, Nxb.Văn hoá Thông tin, 2006.

12.章學誠《文史通義》臺北 臺灣中華書局1981 Chương Học Thành, Văn Sử Thông Nghĩa, Trung
Hoa thư cục (Đài Bắc), 1981.
13.Lỗ Tấn, Lịch sử tiểu thuyết Trung Quốc, Lương Duy Tâm dịch, Lương Duy Thứ hiệu đính,
Nxb.ĐHQG Hà Nội.

14.鲁迅《中国小说史略》人民文学出版社2006 Lỗ Tấn, Trung Quốc Tiểu thuyết Sử lược, Nhân dân


Văn học xuất bản xã, bản in năm 2002.

15.罗贯中《三国演义》人民文学出版社2004年版La Quán Trung, Tam Quốc diễn nghĩa (thượng hạ


quyển), Nhân dân Văn học xuất bản xã, bản in 2004.

Sự thật về các nhân vật Tam Quốc

2 tháng 3, 2012

Bản thân thời đại Tam quốc là có thật, song do nhà Tấn (họ Tư Mã) tồn tại quá ngắn, tư liệu lịch
sử còn lại bị thất tung trong loạn lạc. La quán Trung lại viết Tam Quốc diễn nghĩa dưới sức ép của
chủ nghĩa quân thần ngu trung, dẫn đến một số bịa đặt. Mục đích là hạ thấp những kẻ mà vua
chúa cho là loạn thần tặc tử, dám cướp ngôi vua như Tào Tháo, còn dòng dõi hoàng thất như
Lưu Bị dù bất tài nhưng vẫn được khen ngợi, thậm chí là tô vẽ quá lên so với sự thât.

Những điều khác biệt với lịch sử do La hư cấu lên rất là nhiều, và vì thế nó gây ra những cuộc
tranh luận bất phân thắng bại, đại loại như: Quan Vũ khỏe hay yếu, Triệu Vân khôn hay ngu?

Những điều hư cấu của La trong Tam Quốc diễn nghĩa khác biệt những sự thật lịch sử dưới đây
được rút ra trong Tam quốc chí, Hậu Hán thư, Ngụy thư ... những sách chính sử được viết ra trước
La hàng mấy trăm năm, có giá trị chân thực không cần bàn cãi.

À quên, Tam Quốc chí, Hậu Hán thư, Ngụy thư ... không phải do người viết viết ra nên chính bản
thân cũng không biết những điều dưới đây có đúng không nữa? Biết đâu Trần Thọ hay Ban Cố
chẳng hạn cũng phịa ra? Thôi thì mua vui cũng được vài trống canh vậy

CÁC SỰ KIỆN CHÍNH:

Về Điêu Thuyền và câu chuyện Phụng Nghi Đình

– Phụng Nghi Đình xuất thân trong những vở kịch dân gian Trung Quốc, được lưu truyền qua
những người kể chuyện dạo trên đường phố, do đó, bị thêm thắt rất nhiều theo thời gian

– Điêu Thuyền không có thật

– Đổng Trác không phóng kích đâm Lã Bố ở đình Phụng Nghi

– Lã Bố và Đổng Trác chỉ cùng thích 1 con hầu gái. Vương Doãn mới khích Bố để Bố giết Trác.
Lã Bố, trên thực tế, là người nhỏ nhen, hám lợi, bất nghĩa. Ta vẫn thường thấy Viên Thuật là
người nhỏ nhen hám lợi nhưng thật ra chưa nhỏ nhen hám lợi bằng Lã Bố.

– Kịch dân gian Trung Quốc còn thêm thắt thêm chuyện Quan Vũ cưới Điêu Thuyền, Quan Vũ
giết Điêu Thuyền, Tào Tháo bắt Điêu Thuyền … đều không có thật.
Về chuyện “Lưu dệt chiếu động phòng cưới vợ mới”

–Ngô quốc thái (vợ Tôn Kiên) chết rất lâu trước khi Tôn Thượng Hương được gả cho Lưu Bị, do
đó không có chuyện “Ngô quốc thái đế chùa xem rể hiền”.

–Tôn Thượng Hương chỉ là con bài chính trị, không hề có vai trò gì. Chuyến trở về Kinh Châu
quân Ngô không hề đuổi theo.

–Tôn Thượng Hương chủ động trốn về Ngô theo sứ giả của Ngô và đem A Đẩu theo chỉ để làm
con tin để về nhà an toàn. Do đó Triệu Vân đòi lại A Đẩu cũng chỉ là cuộc trao đổi (tha cho bà
về, đổi lại phải trả lại A Đầu) chứ Vân không hề xông vào thuyền bà.

–Tôn Thượng Hương không hề tự sát khi nghe Lưu Bị chết (còn vui mừng là đằng khác).

Ngoài ra theo trang Wikipedia đây là 4 tình tiết chính mà các học giả TQ đã bắt được, vì theo lịch
sử TQ thì các tình tiết dưới đây là

1. Quan Vũ giết Hoa Hùng: truyện Tam Quốc diễn nghĩa kể Quan Vũ chém Hùng trong nháy mắt,
khi chén rượu mời của Tào Tháo trước khi ra trận còn nóng. Nhưng thực tế theo sử sách thì người
giết Hoa Hùng, bộ tướng của Đổng Trác là Tôn Kiên, người khai nghiệp ở Giang Đông.

2.Thuyền cỏ mượn tên: Trong trận Xích Bích nổi tiếng, có tình tiết Gia Cát Lượng đi cùng Lỗ Túc
và 30 thuyền cỏ trong sương mù, khiến Tào Tháo không dám xuất quân mà chỉ bắn tên ra. Thế
là hàng chục vạn mũi tên cắm vào thuyền cỏ quay ngang. Gia Cát Lượng thu tên về nộp cho Chu
Du. Sự thực việc dùng “thuyền cỏ mượn tên” là do chính Tôn Quyền thực hiện.

3. “Sinh Du hà sinh Lượng?” Tam Quốc diễn nghĩa kể chuyện Gia Cát Lượng 3 lần chọc tức Chu
Du khiến Du tức phải than: “Trời sinh Du sao còn sinh Lượng?” rồi chết. Sự thực là Chu Du chết
bệnh trong quân ngũ, không liên quan đến việc bị Gia Cát Lượng chọc tức.

4. Cha con Gia Cát Chiêm tử trận: Do đề cao Gia Cát Lượng, La Quán Trung để con và cháu ông
là Gia Cát Chiêm, Gia Cát Thượng tử trận khi Đặng Ngải vào Tây Xuyên. Sự thực là cha con Gia
Cát Chiêm đã hàng Đặng Ngải

VỀ CÁC NHÂN VẬT CHÍNH:

Lưu Bị

– Là một người rất giỏi võ, có sức khoẻ, có tài chỉ huy, có mưu mẹo thao lược, có tài an dân trị
quốc, có cả tài ăn nói chiêu dụ dân chúng. Nói chung là văn võ toàn tài chứ không như trong
truyện mô tả.

– Kết nghĩa vườn đào không có thật.

– Quân khởi nghĩa của Lưu dệt chiếu chống khăn vàng chỉ đóng vai trò rất nhỏ: một đạo dân
binh (như dân quân xã ngày nay không hơn không kém) quanh quẩn ở Trác quận.

– Quân khởi nghĩa không hề giết Trình Viễn Chí, đối đầu với Trương Bảo Trương Lương, cứu
Hoàng Phủ Tung và Chu Tuấn (là những đạo quân chủ lực của trung ương)

– Trương Bảo không hề trúng tên của Lưu Bị. Bị không hề dùng máu dê máu chó đồ tanh hôi
phá ma thuật của Trương Bảo, không hề cứu Đổng Trác.
– Trương Phi không hề đánh viên quan đốc bưu (thanh tra) .Lưu Bị đánh, và khi làm việc đó ông
ta không say rượu.

– Hiến Đế không hề nhận Lưu Bị là hoàng thúc.

– Không hề dùng mưu của Từ Thứ để chống lại Tào Nhân và Lí Điển bảo vệ Tân Dã. Tất cả là
mưu của chính Lưu Bị.

– Cũng không hề dùng mưu của Gia Cát Lượng để chống lại Hạ Hầu Đôn ở trận gò Bác Vọng.
Tất cả vẫn là mưu của chính Lưu Bị.

– Mi phu nhân (em gái Mi Chúc) không phải là vợ của Lưu Bị.

– Trận Di Lăng quân Thục chỉ có khoảng 8 vạn quân, chứ không phải có đến 70 vạn.

– Ngoài A Đẩu còn có đến 3 con trai và vài con gái nữa, tất cả bị Tào Thuần bắt ở trận cầu Trường
Bản. Tội này chính là ở Triệu Vân (chỉ vì chạy đi tìm A Đẩu)

Quan Vũ

– Kết nghĩa vườn đào không có thật.

– Không giết Hoa Hùng, Văn Sú (thực sự có giết được Nhan Lương)

– Không ra 3 điều kiện cho Tào Tháo khi hàng Tào Tháo.

– Không hề quá ngũ quan trảm lục tướng. 6 tướng này đều không có thật. Tào Tháo vì cảm kích
cái nghĩa không quên chủ cũ của Vũ nên đồng ý tha ông trở về với Lưu Bị.

– Không hề phục kích và tha Tào Tháo ở đường Hoa Dung

– Không hề được Hoa Đà cạo xương chữa thuốc. Chuyện cạo xương chữa thuốc thực sự có diễn
ra nhưng bởi một thầy thuốc bình thường vô danh.

– Không hề muốn vào Xuyên đòi đấu với Mã Siêu.

– Trận lụt Phàn Thành không phải là mẹo của Vũ mà là do thiên tai, Vũ lợi dụng để đánh Vu
Cấm. Nếu không có thiên tai xui xẻo đó chưa biết chừng Cấm, Đức, Nhân, Hoảng đã thịt Vũ chứ
chẳng cần quân Ngô.

– Là một viên tướng võ biền, chỉ khoẻ chứ không có mưu mẹo gì, trên thực tế Trương phi rất
khôn ngoan, hơn Quan Vũ rất nhiều.

– Trong 3 người đó thì Quan Vũ là giỏi nhất, hoặc ít nhất là có uy thế lớn nhất trong các đại tướng
nước Thục (chắc kế đến chỉ có Mã Siêu là có cái uy thế này). Trận Phàn Thành mặc dù sử chép là
mưa to ngập nước nhưng việc bắt Vu Cấm, chém Bàng Đức khiến Tào Tháo hoảng sợ và toàn bộ
Hoa Nam đều chấn động là có thật.

Trương Phi

– Trương Phi không hề đánh viên quan đốc bưu (thanh tra). Lưu Bị đánh, và khi làm việc đó ông
ta không say rượu.

– Không hề quát trên cầu Trường Bản làm chết Hạ Hầu Kiệt. Hạ Hầu Kiệt là nhân vật không có
thật.
– Là một viên tướng khoẻ nhưng đa mưu chứ không phải chỉ võ biền. Là người giỏi nhìn người,
chính ông cất nhắc Ngụy Diên khi nhận ra tài của Diên.

– Chỉ có nhà Ngụy có Ngũ hổ tướng, chứ nhà Thục không hề có danh vị này.

– Trương Phi cũng giỏi dùng binh, có sách nói Phi còn giỏi thi họa, trong TQDN Trương Phi cũng
là người trọng danh sĩ, hơn hẳn Quan Vũ.

Triệu Vân

– Không hề theo Viên Thiệu.

– Trong lần bỏ Công Tôn Toản cùng Lưu Bị đi cứu Đào Khiêm, Vân theo Bị luôn, không trở về
với Toản nữa. Chứ không phải mãi sau này Vân mới làm cướp núi rồi theo Bị.

– Thực sự có 1 mình 1 ngựa xông xáo trong trận Tương Dương Trường Bản. Nhưng không hề
đánh với Trương Cáp. Các tướng Vân giết trong trận này đều không có thật (trừ Hạ Hầu Ân và
thanh gươm Vân cướp được là có thật) Và cũng chính vì lo cứu A Đẩu mà 3 con trai và các con
gái của Lưu Bị bị Tào Thuần bắt.

– Chuyện Vân chết vì cái kim của vợ là do kịch dân gian đồn đại, không có thật.

– Truyện Vân một mình đẩy lui quân Tào không có thật.

– Vân không giết Chu Nhiên ở Di Lăng.

– Truyện Vân giết 5 tướng trong lần chinh phạt Trung nguyên lần 1 không có thật, nhưng bị Hạ
Hầu Mậu vây là có thật.

– Các con cháu của Vũ, Vân như Quan Hưng, Triệu Thống, Triệu Quảng đều tham gia cửu phạt
Trung Nguyên với Khương Duy (truyện không nhắc tới) tuy không giữ các vai trò quan trọng.

– Triệu Vân là tướng uy dũng và cũng có trí tuệ, tuy nhiên không được cầm đại quân bao giờ,
thường chỉ làm tiên phong.

– Được biết đến như một chiến binh vĩ đại, Triệu Vân hội tụ đủ các bản chất của những anh hùng
trong thời đại ông. Mặc dù Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung chỉ đặc biệt miêu tả Triệu
Vân võ công cao cường, thực ra ông còn đáng được ngưỡng mộ bởi tài thao lược khôn khéo, lòng
trung thành tận tụy và tính cách thẳng thắn, sự dũng cảm phi thường

Mã Siêu

– Không tham gia trận đánh Lý Thôi của Mã Đằng. Không giết Vương Phương, bắt Lý Mông.

– Mã Đằng bị Tào Tháo bắt chứ chưa giết, dùng làm cớ buộc Tây Lương quy hàng. Nhưng Siêu
không hàng mà khởi binh, do đó Đằng bị Tháo giết béng.

– Không đánh Trường An của Chung Do. Chung Do là quan văn chứ không phải võ tướng.

– Không hề đánh tay đôi với Vu Cấm, Tào Hồng, Trương Cáp, Lí Thông. Quân Tây Lương thật
ra cũng không quá gây kinh hoàng cho quân Tào đến nỗi Tào Tháo phải cởi áo cắt râu.

– Hứa Chử không hề cởi trần đánh tay đôi với Mã Siêu.
– Viên tướng mạnh nhất trong quân Tây Lương thật ra là Bàng Đức, không phải Mã Siêu. Trong
trận Đồng Quan, tiên phong Tây Lương luôn là Bàng Đức.

– Mã Siêu không cắt tay trái Hàn Toại

– Dương Phụ ca ngợi Mã Siêu mạnh như Anh Bố, chứ không phải như Lã Bố, và Tào Tháo không
hề ca ngợi Mã Siêu.

– Trận Lịch Thành, Mã Siêu không hề đấu tay đôi với Dương Phụ.

– Mã Siêu không hề đánh tay đôi với Trương Phi ở cửa Hà Manh, cũng như không hề giúp
Trương Lỗ chống Lưu Bị. Siêu Đại chủ động theo Bị, không rõ lí do vì sao Bàng Đức không theo,
có lẽ vì anh ruột Đức làm quan ở đó và Đức không muốn gặp anh mình nên cáo ốm.

– Siêu không hề giữ ải bảo vệ mé Tây của Thục đề phòng quân Khương. Quân Khương, vua là
Kha Nhĩ Tăng, thực ra là đồng minh của Thục

Gia Cát Lượng

– Lưu Thiện không hề gọi Gia Cát Lượng trở về lần nào trong suốt 6 lần ra Kì Sơn. Đó là do
Lượng tự về.

– Quân Khương, vua là Kha Nhĩ Tăng, thực ra là đồng minh của Thục. Do đó không hề có chuyện
“Gia Cát Lượng nhân tuyết phá quân Khương” Dĩ An và Hề Nê là nhân vật không có thật.

– Lưu Bị thực sự có phó thác con côi cho Gia Cát Lượng, nhưng là bí mật, chứ không tuyên bố
công khai như trong truyện. Và Bị không hề nói “Tài của thừa tướng … làm chủ Thành Đô đi”

– Rất nhiều chi tiết về Gia Cát Lượng trong truyện không hề đề cập trong chính sử. Có thể nói,
La Quán Trung “phịa” nhiều về nhân vật này nhất.

Toàn bộ đoạn Tam Phân Sách mà Gia Cát Lượng trình bày với Lưu Bị ở lều cỏ đều là sự thật lịch
sử được La Quán Trung “cóp” từ sử sách đem qua nên tạm thời có thể cho là thật. Trước Gia Cát
thì có Cam Ninh, Lỗ Túc cũng đề cập đến việc chia 3, nhưng mà chỉ có Gia Cát là cụ thể nhất và
thực hiện được sách lược của mình nên ghi công cho ông cũng không sai.

Bàng Thống

– Làm tri huyện Lỗi Dương rất tệ, ông ta không có tài an dân trị quốc, chỉ có tài quân sự.

– Không phải tướng mạo xấu xí thôi đâu mà nói đúng hơn “không có tướng mạo của người tài”.
Lưu Bị, Tôn Quyền, Tào Tháo đều là những người biết xem tướng đều không nhận ra tài của
Thống. Xem ra khoa tướng số của Trung Hoa chính xác 99% gặp Thống thì trật.

– Không hề khuyên Lưu Bị giết Lưu Chương, cũng như hạ lệnh cho Ngụy Diên múa kiếm đâm
Chương (làm thế tức là tự sát, người như Thống đương nhiên biết điều đó)

– Không chết vì bị Trương Nhiệm phục kích, trên lưng con Đích Lư. Chết vì bị trúng tên trong
khi đang chỉ huy quân Kinh Châu công phá Lạc Thành.

– Bàng Thống có thực tài. Trong TQDN có đoạn “Gia Cát Lượng thiệt chiến quần nho” ở Giang
Đông, nhưng thật ra, chính Bàng Thống mới là người “thiệt chiến quần nho” khi ông sang Giang
Đông. Trong chiến dịch đánh Tây Xuyên, Lưu Bị và Bàng Thống đã hạ Lạc Thành, bắt Trương
Nhiệm chứ không cần đến Gia Cát (mặc dù Bàng Thống trúng tên chết).

Lã Bố

– Không phải là con nuôi của Đinh Nguyên. Là tướng của Đinh Nguyên, nhưng giết Nguyên để
nhận vàng bạc của Đổng Trác.

– Đinh Nguyên là thái thú Tịnh Châu, không phải Kinh Châu.

– Lã Bố, trên thực tế, là người nhỏ nhen, hám lợi, bất nghĩa. Ta vẫn thường thấy Viên Thuật là
người nhỏ nhen hám lợi nhưng thật ra chưa nhỏ nhen hám lợi bằng Lã Bố.

– Chuyện “tam anh chiến Lã Bố” không có thật.

– Giết Đổng Trác chỉ vì một con hầu gái chứ không phải vì một mĩ nhân “nghiêng nước khuynh
thành” gì cho cam.

– Có 1 vợ chính thức họ Nghiêm (chứ không phải họ Tào), do đó Tào Báo không phải bố vợ Lã
Bố

Tào Tháo:

– Thảm sát nhân dân 5 quận Từ Châu rất dã man.

– Thực ra không có bà con gì với anh em Hạ Hầu Đôn, dù họ Tào trước kia cũng từng là họ Hạ
Hầu.

– Không hề xử chém Tả Từ.

– Có đến 25 con trai, trrong truyện chỉ đề cập đến Ngang, Phi, Thực, Chương, Hùng.

– Không mắc mưu Chu Du chém Sái Mạo Trương Doãn. 2 người này chết khi quân Ngô đánh
trận Xích Bích.

– Không phải bị mắc mưu Bàng Thống mà xích thuyền lại, ông ta buộc phải làm thế vì binh sĩ bị
bệnh quá nhiều.

– Biết đêm hôm trận Xích Bích có gió đông-nam, biết cả chuyện rất có thể địch dùng hỏa công,
nhưng binh sĩ bị bệnh hết nửa nên đành bất lực .

– Tào Tháo không những giỏi dùng người mà còn là 1 nhà chiến lược tài ba, có lẽ ở phương Đông
cổ kim không nhiều người được như ông. Một mình Tào Tháo dẹp yên quần hùng bốn phương
(Viên, Lã...), đánh dân du mục Khương phương Bắc, tỏa văn minh đến các xứ Cao Ly, Nhật Bản,
khiến cái xã tắc nát toét của nhà Hán thành thái bình, cái công ấy quá lớn.

Cái công của Tào Tháo không chỉ dừng ở đấy. Binh pháp Tôn Tử xưa nay đã được nhiều nhà chú
giải, nhưng bản của Tào Tháo chú được công nhận là đầy đủ và hoàn chỉnh nhất, các bản sau
này chủ yếu thêm bớt những cái nhỏ nhặt, phần chính vẫn là lời của Tào Tháo, đến độ người đời
sau nhiều lần dẫn lời ông mà không biết. Nếu gọi là binh pháp Tôn-Tào e cũng không quá đáng.
Những độc hại của Tam Quốc diễn nghĩa

http://honvietquochoc.com.vn/bai-viet/4742-nhung-doc-hai-cua-tam-quoc-dien-nghia.aspx

PHẠM TÚ CHÂU (Trích thuật từ bài “Chứng bệnh về tư tưởng chủ đề của Tam Quốc diễn
nghĩa”, của GS Dịch Trung Thiên, khoa Văn trường Đại học Hạ Môn)

Ai cũng biết thời Tam quốc, thiên hạ chia ba, nước nào cũng muốn độc chiếm ngôi chúa tể và
nước nào cũng có đúng sai, đó là “bản tính của lịch sử”, nhưng đến Tam Quốc diễn nghĩa thì biến
thành “tôn Lưu, biếm Tào”. Mấu chốt là vì sao bộ truyện lại có khuynh hướng ấy?

Ý kiến chung cho rằng do “chịu ảnh hưởng của tư tưởng chính thống”, song nếu chỉ tranh giành
“chính thống” thì vị tất cứ phải “tôn Lưu, biếm Tào”. Trần Thọ viết Tam quốc chí, cho Tào Ngụy
là chính thống song không hạ thấp Lưu Bị. Cũng như vậy, Tôn Quyền không phải chính thống,
La Quán Trung cũng không gọi ông ta là “giặc Tôn”. Quan trọng hơn nữa, chính thống hay
không, chẳng liên quan gì đến bạn đọc thông thường; dân càng không quan tâm ai làm vua, chỉ
quan tâm vua có tốt hay không. Vua tốt thì nhân từ và sáng suốt. Vua nhân từ thì dân dễ sống,
vua sáng suốt thì quan dễ làm, tóm lại là quan thanh liêm chính trực, dân an cư lạc nghiệp, thiên
hạ thái bình. Nếu vua, quan không nhờ vả được, dân phải trông cậy vào hiệp khách “giữa đường
thấy sự bất bằng chẳng tha”. Thế là hình thành ba giấc mộng trong xã hội truyền thống: Mộ̣ng
vua thánh, mộng quan thanh liêm và mộng hiệp khách.

Ba giấc mộng này được La Quán Trung thực hiện giùm: trong truyện, Lưu Bị là vua thánh, Gia
Cát Lượng là quan thanh liêm, hiệp khách là Quan Vũ, Trương Phi, bởi thế, sử (Tam Quốc chí,
Tiên chúa truyện) chép người đả Đốc bưu là Lưu Bị được đổi thành Trương Phi, nhân đó Lưu Bị
cuống lên quát Trương Phi ngừng tay. Sửa đổi này nhất cử lưỡng đắc: chứng tỏ Lưu Bị nhân từ,
Trương Phi nghĩa hiệp. Khéo hơn nữa là truyện còn có điển hình phản diện Tào Tháo. Tào Tháo
giết người nên là bạo chúa, Tào Tháo soán ngôi nhà Hán nên là gian thần, Tào Tháo nói: “Ta thà
phụ người chứ không để người phụ ta”, đương nhiên là tiểu nhân! Tốt rồi, một bên là vua thánh,
quan thanh liêm, hiệp khách, một bên là bạo chúa, gian thần, tiểu nhân, vậy còn gì phải nói nữa,
tất nhiên là tôn Lưu, biếm Tào thôi. Có được “định tính đạo đức” như vậy, thủ thuật “biến tính”
mà Tam Quốc diễn nghĩa thực hiện mới thuận lý thuận tình, mọi người hể hả.

Mấu chốt vấn đề là ở đấy: cuộc tranh giành quyền lực giữa Tào và Lưu biến thành cuộc đua tranh
giữa hai đường lối, đua tranh về đạo đức, đua tranh về giá trị hạt nhân. Đằng sau chiêu bài
“chính thống” là “lá cờ đạo đức” giương cao. Bởi thế, hồi 1 không phải Đổng Trác vào Kinh mà
là “kết nghĩa vườn đào”. Tác giả đã cân nhắc rất kỹ vì có “kết nghĩa vườn đào” mới thể hiện
được chủ đề trung nghĩa. Tuy nhiên đó cũng chính là chỗ thất bại của truyện.

Trung nghĩa: Quan Vũ

Quan Vũ là nhân vật Tam quốc được đời sau tôn sùng nhất, đời Nguyên đã thành thần, sau đó
thành thánh (Quan thánh đế), được người hâm mộ nhiều hơn cả Gia Cát Lượng. Hiển nhiên
không phải vì võ nghệ cao cường, so ra Quan Vũ không giỏi võ bằng Lã Bố. Trong truyện, Quan
Vũ được xây dựng thành nhân vật “trung nghĩa song toàn”. Một mình một ngựa vượt ngàn dặm
là trung, tha Tào Tháo ở Hoa Dung đạo là nghĩa. Quan Vũ là điển hình trung nghĩa, là lá cờ trung
nghĩa, là mẫu mực trung nghĩa.

Thật ra, Quan Vũ cũng có lấn cấn, đó là bị bắt rồi đầu hàng. Ở thời Tam quốc, chuyện đó cũng
bình thường, nhưng sang đời Tống, quan niệm có thay đổi: “Chết đói là chuyện nhỏ, thất tiết là
việc lớn”. Thế là mượn Trương Liêu cứu nguy bằng biện pháp lấy trung nghĩa đối kháng với
trung nghĩa. Hồi 24, khi Quan Vũ toan tử chiến ở Hạ Phì, Trương Liêu phân tích, nếu chết, Quan
Vũ sẽ mắc ba tội: phụ lời sống thác có nhau với Lưu Bị, phụ lời phó thác bảo vệ hai phu nhân
của Lưu Bị, phụ nghĩa lớn là khuông phò nhà Hán. Bị chụp ba cái mũ ấy, Quan Vũ toan chết vì
trung nghĩa lại hóa ra “bất trung bất nghĩa”. Thế là Quan Vũ quyết định “cứu nước theo đường
cong”, đầu hàng có điều kiện dưới tiền đề “hàng Hán không hàng Tào”, sau đó trở về với Lưu
Bị khi đã lập công giết giặc. Tào Tháo thì sao? Ông ta chẳng những không ngăn cản mà còn đích
thân tiễn đưa, tặng lộ phí, tặng chiến bào, thông báo các quan ải không được ngăn cản Quan Vũ.
Lý do? Đó là “kính nể lòng trung nghĩa của Quan tướng quân”.

Tào Tháo đối xử như thế có thể thật lòng mến Quan Vũ, cũng có thể vì muốn để lại một món nợ
tình cảm, nhưng kết quả đối với Quan Vũ đều như nhau: “Tận trung với Bị, thất nghĩa với Tào”.
Bản thân Quan Vũ cũng chịu sức ép về tư tưởng, lo ngại qua năm cửa ải chém sáu tướng sẽ bị
Tào Tháo cho là “bất trung, bất nghĩa”. Trung nghĩa phải được báo đáp bằng trung nghĩa, vì thế
mới có vụ “Hoa Dung đạo”. La Quán Trung cũng tự biết có lấn cấn nên sắp xếp cho Gia Cát
Lượng xí xóa bằng “Lượng đêm xem tượng Càn, thấy giặc Tháo chưa đến lúc chết”.

Chủ đề trung nghĩa của Tam Quốc diễn nghĩa sớm đổi màu, “hàng Hán không hàng Tào” là
chuyện nực cười, nhưng hầu như chẳng có ai muốn mổ xẻ, trái lại chỉ tìm cách giải thích cho
xuôi. Trước hết khẳng định, nếu đầu hàng có điều kiện vẫn là “trung”; sau khi đầu hàng lại trở
về thì càng quý, là “đại trung”; thứ đến khẳng định, nếu đối phương tiếp nhận điều kiện thì là
“nghĩa”; nếu giữ lời hứa thì càng quí, là “đại nghĩa” và như vậy cần báo đáp.

Thế là Tào Tháo luôn bị mắng nhiếc là “tiểu nhân bất nghĩa” thì ở hồi này xử sự đạt mức “nghĩa
trùm trời xanh” nên xứng đáng được Quan Vũ tha cho ở đường Hoa Dung.

“Cứu nước theo đường cong”, đầu hàng có điều kiện mà vẫn là trung nghĩa, thế là người ta có
cửa sau để ra, có đường lùi để thoát. Nhưng không có trung nghĩa thì Tam Quốc diễn nghĩa không
có linh hồn, còn lại chỉ là mưu mẹo quyền biến.

Mưu mẹo quyền biến: Gia Cát Lượng

Gia Cát Lượng trong sử là một nhân vật chính phái. Ông hết lòng vì thiên hạ, lo nước lo dân, cúc
cung tận tụy, lòng trung ngời ngời, chính trực liêm khiết, giữ mình vì việc công, khiêm tốn thận
trọng, lấy thân làm mẫu, thực sự cầu thị, tuân thủ luật pháp. Một người như thế quả thật đáng
để chúng ta kính trọng. Nhưng trong Tam Quốc diễn nghĩa, những phẩm chất như thế lại đi đôi
với quyền mưu (mưu mẹo ứng biến). Trong sử (Tam Quốc chí, Gia Cát Lượng truyện), Gia Cát
Lượng cả đời giữ mình cẩn thận, “mưu mẹo ứng biến không phải là sở trường của ông”, cho nên
Lưu Bị đánh trận không mang theo ông. Khi đánh Hán Trung, mang theo Pháp Chính, đánh Ích
Châu mang theo Bàng Thống. Bàng Thống là người khá vô sỉ, Lưu Chương nghĩ tình anh em,
mời Lưu Bị vào Ích Châu giúp mình chống Tào, Bàng Thống khuyên Lưu Bị chiếm luôn lấy Ích
Châu. Lưu Bị lưỡng lự thì Bàng Thống nói: “Khi nào thành công sẽ phong cho Lưu Chương một
nước to khác thì có việc gì mà chẳng tín nghĩa?” (Hồi 60).

La Quán Trung còn gán nhiều sự việc khác cho Bàng Thống (như hiến kế liên hoàn) và còn theo
mẫu Bàng Thống “chỉnh dung” cho Gia Cát Lượng. Thí dụ điển hình nhất là “tam khí Chu Du”.
Đương nhiên đây là việc không có và không thể có trong sử. Nhưng không hề gì, có thể hư cấu.
Vấn đề là bịa thì cũng phải bịa cho hay. Có hay không? Nếu nói hấp dẫn thì quả thật rất hay,
nhưng nếu nói về phẩm cách thì quả thật chẳng hay. Đúng như học giả Hồ Thích từng nhận xét,
trong Tam Quốc diễn nghĩa, “Chu Du phong lưu nho nhã bị viết thành kẻ tiểu nhân đố kỵ, nham
hiểm”, còn Gia Cát Lượng bị viết thành “kẻ tiểu nhân xảo quyệt, gian trá” (Tựa Tam Quốc diễn
nghĩa). Về Chu Du, thôi thì cho qua, nhưng về Gia Cát Lượng thì thành vấn đề lớn, bởi Tam Quốc
diễn nghĩa giương cao lá cờ đạo đức. Là nhân vật nam số một, Gia Cát Lượng làm sao có thể là
tiểu nhân được? Nếu Du, Lượng đều là tiểu nhân thì cuộc đấu giữa họ chẳng hóa ra “chó cắn
chó, mõm đầy lông” hay sao?

Nhưng Gia Cát Lượng “tam khí Chu Du” có phải là tiểu nhân không ? Đúng là tiểu nhân, hơn
nữa là tiểu nhân đắc chí. Hãy nghe ông ta sai quân lính hô câu gì? Hô “Chu lang mẹo giỏi yên
thiên hạ, đã mất phu nhân lại thiệt quân”. Đấy không phải cuộc đọ trí mà là cố ý sỉ nhục người.
Anh hùng chân chính đều thương tiếc người tài, tiêu diệt đối phương bằng âm mưu quỷ kế thì
bản thân chẳng đáng gọi là anh hùng. Chỉ cần so sánh với việc Tào Tháo đối xử với Quan Vũ là
đủ thấy cao thấp chênh nhau đến mức nào.

Đó không phải là Gia Cát Lượng được người đời sùng bái, chỉ có thể là “hàng nhái” do “hủ nho”
tạo ra theo mẫu Bàng Thống. Cho nên khi “hàng nhái” rỏ nước mắt cá sấu thì Bàng Thống xuất
hiện, cả hai cười ha hả, “dắt tay nhau lên thuyền nói chuyện”(Hồi 57).

Bại bút của Tam Quốc diễn nghĩa là biến “thánh nhân” thành “tiểu nhân” do tác giả muốn “quyền
mưu hóa” Gia Cát Lượng. Quyền mưu kết hợp với ngụy thiện thì hại người càng lắm, vậy mà
Gia Cát Lượng trong Tam Quốc diễn nghĩa đúng là nhân vật như thế.

Hãy xem Gia Cát Lượng trong “tam cố thảo lư”. Ba lần đến lều cỏ là chuyện có thật, song quá
trình cụ thể ra sao, sử không chép. Tam Quốc diễn nghĩa hư cấu việc này rất hấp dẫn, nhưng nếu
ai tinh ý ắt thấy những cuộc “kỳ ngộ” của Lưu Bị ở Long Trung, từ nông dân biết hát, chú tiểu
đồng đến ẩn sĩ và cha vợ đều do Gia Cát Lượng dưới bút tác giả sắp đặt, chẳng qua để biến thị
trường bên mua thành thị trường bên bán, khiến Lưu Bị phải mua với giá cực cao. Hơn nữa, Gia
Cát Lượng “thường tự ví mình với Quản Trọng, Nhạc Nghị”(*), từng chê bốn người bạn nếu có
“làm quan, chỉ làm đến thứ sử, quận thủ là cùng” (Hồi 37), vậy mà khi nghe Từ Thứ nói đã tiến
cử mình lại “ra vẻ giận, nói: Thế ra ngươi coi ta như là vật dùng để cúng tế, có phải không ?”(Hồi
36). Gia Cát Lượng chân chính lẽ nào lại giả dối như thế? Thật ra, giả dối không phải của một
mình La Quán Trung mà là giả dối tập thể của cả lứa nhà nho thời trước. Họ muốn làm quan
nhưng vẫn muốn lấy mẽ, mơ tưởng cao ngạo ngồi nhà để vua đến mời, mời đến ba lần; sau khi
“xuống núi”, nói gì vua cũng nghe, ân sủng không ngớt, vinh gia hiển tổ. Đó là “giấc mộng kê
vàng” của rất nhiều người.
Những chỗ quyền mưu đi đôi với ngụy thiện như thế có không ít trong Tam Quốc diễn nghĩa, ví
như Lưu Bị quăng A Đẩu, Lưu Bị đưa dân cả thành đi theo (Hồi 41) v.v...

Tóm lại, dù là một trong bốn kỳ thư nổi tiếng thế giới, Tam Quốc diễn nghĩa để lại cho chúng ta
một lá cờ đáng ngờ: trung nghĩa và hai viên thuốc có chất độc: ngụy thiện, quyền mưu. Những
viên thuốc như thế, dù được bọc đường, chúng ta không thể uống mãi; lá cờ như thế, dù được
thêu hoa văn rồng phượng, chúng ta cũng không thể tiếp tục giương cao.

(Tiế p theo và hết)


http://honvietquochoc.com.vn/bai-viet/4775-nhng-c-hai-cua-tam-quc-din-nghia-tip-theo-v-
ht.aspx

Hồi 41 Tam Quốc diễn nghĩa với đề Lưu Huyền Đức đưa dân qua sông cho thấy rõ bộ mặt ngụy
thiện của Lưu Bị. Đã có nhiều người phân tích, ở đây tạm trích một ý kiến.

Trong con mắt mọi người, Lưu Bị chẳng phải là ông vua nhân từ số một trong thiên hạ, yêu dân
như con, thà hy sinh mình chứ không chịu để cho dân phải khổ hay sao? Sự việc thể hiện rõ nhất
đức độ này của Lưu Bị không gì hơn cuộc chiến ở gò Trường Bản. Khi ấy, Tào Tháo tiến về miền
Nam, Lưu Bị dẫn mười vạn dân đi theo đang bị Tào Tháo đuổi kíp. Theo Tam quốc diễn nghĩa
(TQDN), Lưu Bị không muốn bỏ dân, cho dù quân đội của mình bị tiêu diệt, thế lực của mình bị
tiêu hao cũng không chịu để dân bị thương vong. Nhưng chính ở cuộc chiến này đã làm nổi bật
sự nham hiểm và quyền mưu của ông ta, đó là dùng dân để đặt cược. Dụng ý không bỏ dân gồm
mấy nguyên nhân sau đây:

Một là, để mình được thoát. Lúc ấy kỵ binh của Tào Tháo một ngày đi hơn ba trăm dặm, Lưu Bị
dù không đưa dân đi theo cũng bị quân Tào đuổi kịp, nhưng nếu mang theo dân (dân lúc ấy đi
sau ông ta), dân sẽ ngăn quân Tào, quân Tào muốn giết họ ắt mất nhiều thời gian, Lưu Bị ắt thừa
cơ chạy thoát; nếu không giết cũng phải cử người phủ dụ họ, đưa họ trở về Tân Dã.

Hai là, để Tào Tháo bị chửi. Trong đám loạn quân, dân khó tránh có người thương vong, Lưu
Bị có thể mượn cớ đó để thảo phạt Tào Tháo.

Ba là, để bảo tồn lực lượng. Lưu Bị nếu chạy thoát, lại dẫn theo được mấy vạn dân thì sau đó
được tăng thêm quân và lực lượng sản xuất. Phải thừa nhận, trong việc này, kỹ xảo diễn xuất
của Lưu Bị quá giỏi, lừa được bao nhiêu người. Sau khi bình định được Ba Thục, một mưu sĩ nói
với ông ta: “Bên ta thi hành chính sách chỉ cần ngược với Tào Tháo là có thể được lòng cả thiên
hạ”. Như thế đủ thấy, dân chúng chỉ là công cụ của Lưu Bị, ông ta không hề yêu dân thật lòng.

Trước đó, TQDN cũng cho thấy Lưu Bị là quân tử giả hiệu. Khi thủ hạ của Đào Khiêm là Trương
Khải giết chết cả nhà Tào Tháo, Tào Tháo căm giận đánh Đào Khiêm, đi đến đâu chém giết đến
đấy, tuy có quá đáng song cũng vì trả thù cho bố. Lưu Bị muốn cứu Đào Khiêm, viết thư khuyên
Tào Tháo rút quân, lo việc triều đình trước, sau hãy trả thù riêng (Hồi 11). Mấy chục năm sau,
Quan Vũ để mất Kinh Châu và bị giết chết, Lưu Bị quên những lời chính mình khuyên Tào Tháo
trước đây, cất quân cả nước đánh Tôn Quyền trả thù cho em kết nghĩa. Nói đến cái chết của Quan
Vũ, không thể không nói đến Tôn Quyền có lòng tốt cho Lưu Bị “mượn Kinh Châu”. Lưu Bị hứa
khi nào lấy được Ba Thục thì trả Kinh Châu, nhưng khi lấy được Ba Thục, Lưu Bị lại nói lấy được
Hán Trung rồi sẽ trả. Lấy được Hán Trung rồi thì sao? Vẫn cứ ỳ ra, không chịu trả. Đó là chiến
thuật của kẻ vô lại. Quân tử lại ưng dùng chiến thuật vô lại, như thế chẳng phải là ngụy quân tử
hay sao? Tôn Quyền dùng văn không xong, buộc phải dùng võ là điều tất nhiên!

Lưu Bị căm thù kẻ giết em kết nghĩa chẳng kém gì Tào Tháo căm thù kẻ giết cha ruột của mình.
Cuộc kết nghĩa vì mục đích cao cả giữa Lưu, Quan, Trương từng làm cảm động biết bao thế hệ
độc giả. Thời xã hội truyền thống, ai mà chẳng muốn trong cuộc đời mình có được mấy anh em
thân thiết, nương tựa nhau như môi với răng, nhất là trong những lúc khó khăn, hoạn nạn?
Huống hồ cuộc sinh tồn của “thảo dân” rất gian nan, sinh mệnh của họ khó được bảo đảm, hoàn
cảnh lại chênh vênh, lực lượng lại mỏng yếu. Nếu không “kết nghĩa kim lan” thì ai quan tâm đến
sống chết của mình?

Nhưng vấn đề chính là ở chỗ ấy. Bây giờ, nếu các thành viên một xã hội chỉ dựa vào biện pháp
ấy để sinh tồn, để phát triển thì có còn là xã hội tốt đẹp hay không? Hiển nhiên, để quốc gia tiến
bộ, dân được hạnh phúc, chúng ta phải vứt bỏ “kết nghĩa vườn đào”, xây dựng quốc gia pháp
trị thông qua “công ước toàn dân”. Gắn bó bằng “khế ước xã hội” như thế cũng là một loại “kết
nghĩa”, chỉ có điều không kết nghĩa ở “vườn đào”. Cho dù ở xã hội truyền thống, ảnh hưởng và
tác dụng của “kết nghĩa vườn đào” cũng có hai mặt chính, phản. Anh em kết nghĩa làm việc tốt
thì ảnh hưởng là chính diện, anh em kết nghĩa làm việc xấu thì tác dụng là phản diện.

Có thể có người sẽ bảo tôi: “Trung Thiên, anh không thể chỉ vì một cuộc kết nghĩa vườn đào mà
phủ định toàn bộ TQDN. Phẫu thuật chỉnh dung (như phim truyền hình Tam quốc gói gọn trong
có mười giây) chẳng được hay sao?”. Nghe ra rất có lý, tiếc rằng “kết nghĩa vườn Đào” không
phải là cái mụn mọc trên mặt. Là một tác phẩm văn học nổi tiếng, TQDN có chủ đề rõ ràng, có
kết cấu chặt chẽ. Dùng “kết nghĩa vườn đào” để mở đầu cả bộ truyện là tác giả đã nghĩ lung lắm.
Nếu bỏ đi, chẳng những rất nhiều câu chuyện đằng sau không thể viết mà quan trọng hơn là
không có cách gì thể hiện chủ đềtrung nghĩa của bộ truyện. Trung nghĩa là điều chúng ta thích,
chúng ta ham. Trong thời gian rất dài, xã hội Trung Quốc đều là xã hội nông nghiệp, trọng nông
ức thương, như thế ắt không thể sản sinh tinh thần khế ước. Không có tinh thần khế ước sẽ không
có truyền thống pháp trị. Nếu không có khế ước và pháp trị để nương tựa thì chỉ có thể dựa vào
đạo đức, hoặc nói chỉ có thể lấy lòng tin thay cho khế ước, lấy đạo đức thay cho pháp trị. Như
thế, trước hết phải coi trọng “trung”, thứ đến phải coi trọng “nghĩa”. Trung để quy phạm bản
thân, nghĩa để quy phạm người khác. Tôi trung thành, anh trượng nghĩa, dưới trên, tả hữu đều
cân nhắc, thế là trật tự được duy trì, quan hệ được giữ vững, thiên hạ được thái bình. Còn như
mâu thuẫn nội tại của chúng, chúng ta có thể làm như không thấy, hoặc cố ý hay vô tình né tránh.
Chúng ta có tinh thần A.Q mà!

Đáng tiếc là sự việc không đơn giản như chúng ta tưởng tượng. Ví như Trương Liêu biết sớm
muộn gì Quan Vũ cũng bỏ đi, báo hay không báo cho Tào Tháo biết đây? Không báo là bất trung
với Tào Tháo, báo là bất nghĩa với Quan Vũ, cuối cùng Trương Liêu chọn trung trước, nghĩa sau.
Thật ra đó cũng là yêu cầu của đạo đức luân lý truyền thống: Trung ở trên nghĩa, bởi vậy khi
vừa lên làm Trại chủ Lương Sơn, Tống Giang đã đổi Tụ nghĩa sảnh thành Trung nghĩa đường.

Khốn nỗi ở thời Tam quốc, tướng lĩnh đầu hàng nhan nhản, “trung” là cả một vấn đề. Mâu thuẫn
của vấn đề̃ được TQDN ra sức dàn xếp nhưng chúng cứ như A Đẩu, vực đến mấy cũng cứ đổ.
Ngoài ra, trước tình hình nhiều đạo diễn vẫn muốn cải biên TQDN thành phim, khi được Nam
Đô tuần san phỏng vấn, Dịch Trung Thiên nói:

“Bất kể dùng phương thức gì, điện ảnh, phim truyền hình hay kịch, cũng bất kể người ta nhìn
nhận thế nào, tôi đều phản đối cải biên TQDN. Không thể cải biên TQDN! Cải biên Tây du ký,
Hồng lâu mộng, Thủy hử truyện đều được, tôi không phản đối, tôi chỉ phản đối cải biên TQDN.
Bài “Chứng bệnh về tư tưởng chủ đề của TQDN” đăng trên Nam phương cuối tuần của tôi đã định
nghĩa TQDN là một lá cờ đáng ngờ và hai viên thuốc có độc, vì thế có thể viết lại lịch sử về giai
đoạn Tam quốc, nhưng không thể cải biên TQDN.

Cho nên các đạo diễn tuy đề xuất “chỉnh dung chứ không biến tính” (tính là tư tưởng chủ đề),
song họ cũng biết là không thể được, bởi vì tư tưởng của TQDN quả thật quá tệ, nếu tái hiện
đúng như thế là không được. Bởi vậy họ cũng muốn điều chỉnh, nhưng điều chỉnh không xong
vì đó là thứ đã ăn sâu tận xương rồi. Cho nên khi được đạo diễn Dương Hiểu Dân mời góp ý về
kịch bản Tam quốc, tôi đã giao hẹn với anh ấy bốn điều: một là không ủng hộ, hai là không phản
đối, ba là không tham gia, bốn là không bình luận. Tôi không phản đối chỉ là không công khai
phản đối. Anh cứ việc tiến hành, trong quá trình anh làm phim, tôi không công khai phản đối.
Bạn bè với nhau, đối xử như thế là thỏa đáng rồi.

Thủy hử truyện cũng có vấn đề khá nghiêm trọng là kỳ thị phụ nữ, nhưng có thể điều chỉnh, chỉ
khó nhất là mấy hồi về Phan Kim Liên. Dương Hùng và Phan Xảo Vân dễ hơn một chút, có thể
tránh né, còn Phan Kim Liên thì không tránh né được. TQDN cũng như vậy, cho nên tôi cảm
thấy nếu muốn làm phim thì nên trở về với Tam Quốc chí, trở về với Trần Thọ chứ không phải La
Quán Trung. Đây không phải là vấn đề lịch sử hay văn học. Văn học cũng phải xem là văn học
thế nào. Văn học rõ ràng có độc mà vẫn muốn cải biên hay sao? Thích đọc TQDN là vướng vào
ma túy rồi. Tư tưởng mà bộ truyện truyền bá cản trở Trung Quốc tiến bộ. Có được ý thức hiện
đại ắt sẽ phản cảm với quan niệm đạo đức và quan niệm giá trị ở TQDN. Và bạn đọc nào có ý
thức hiện đại mà đọc TQDN cũng phản cảm như thế”.

Vì những điều này, Tào Tháo mang tiếng oan ngàn năm, Quan Vũ,
Khổng Minh cũng bị hiểu lầm

Khoa học & Đời sống 10:35 16/11/2018

(Techz.vn) 4 chi tiết hư cấu trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa dưới đây chính là nguyên
nhân khiến những nhân vật nổi tiếng thời Tam Quốc bị hậu thế hiểu nhầm.

Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là một trong tứ đại danh tác nổi tiếng của văn học Trung
Quốc. Cũng bởi sở hữu giá trị nghệ thuật cao, nhiều nhân vật được xây dựng trong tác phẩm
văn học này trở thành những hình tượng kinh điển như Gia Cát Lượng, Tào Tháo, Quan Vũ…

Có ý kiến đánh giá cho rằng, Tam Quốc diễn nghĩa không đơn thuần là một cuốn sách tái hiện lịch
sử một cách cứng nhắc mà còn được tác giả La Quán Trung gửi gắm không ít những sáng tạo
nghệ thuật mang màu sắc cá nhân. Tuy nhiên, điều này cũng là nguyên nhân khiến cho nhiều
độc giả khi đọc Tam Quốc diễn nghĩa thường dễ bị nhầm lẫn chi tiết hư cấu trong tiểu thuyết với
các sự kiện lịch sử ngoài đời thật.
Ví dụ tiêu biểu có thể kể tới chính là 4 lời đồn nổi tiếng xuất hiện trong Tam Quốc diễn nghĩa
nhưng lại không hề có thật dưới đây. Trong số đó, lời đồn đại hư cấu cuối cùng thậm chí còn
khiến Tào Tháo phải mang tiếng xấu oan ức ngàn năm.

Điển tích “đơn đao phó hội” của Quan Vũ

Quan Vũ một mình cầm đao tới Đông Ngô dự tiệc)

Trong tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, hình tượng nhân vật Quan Vũ được xây dựng với hai
phẩm chất nổi bật là vũ dũng và trung nghĩa. Nhân vật này trong lúc nhận nhiệm vụ trấn thủ
Kinh Châu còn có điển cố nổi tiếng mang tên “đơn đao phó hội”. Điển cố này được La Quán
Trung xây dựng dựa trên sự kiện Quan Vũ đại diện cho Thục Hán một mình tới hội đàm với Lỗ
Túc phe Tôn Ngô về vấn đề Kinh Châu.

Theo chi tiết hư cấu thì Quan Vũ không hề bị đuối lý trước Lỗ Túc mà ngược lại, ông dùng mưu
trí cùng sự uy vũ của mình để thoát khỏi uy hiếp của quân Đông Ngô, bắt Lỗ Túc làm con tin,
xem tướng địch như trẻ con.

Tuy nhiên trên thực tế, “đơn đao phó hội” dù có thực trong lịch sử, nhưng vai trò chủ chốt không
chỉ thuộc về một mình Quan Vũ. Lỗ Túc ngoài đời thật cũng không nhu nhược như Tam Quốc
diễn nghĩa miêu tả.

Trong lịch sử, Lưu Bị vì mượn Kinh Châu mãi không trả nên Tôn Quyền phái Lã Mông tới tập
kích 3 quận của khu vực này. Tuy nhiên, Lưu Bị vốn không coi Kinh Châu là đất đi mượn, vì vậy
đích thân thống lĩnh đại quân giao tranh với Tôn Quyền.

Dưới thế cục hai bên giằng co, để duy trì mối liên minh Thục–Ngô, Lỗ Túc đề nghị mỗi bên cử
ra một người để hội đàm. Người được Thục Hán phái ra chính là Quan Vũ, còn sứ giả đến từ
phe Tôn Ngô là Lỗ Túc. Sau một hồi thương thảo, hai bên vẫn còn bất đồng quan điểm. Buổi hội
đàm vì vậy mà kết thúc trong bối cảnh chẳng lấy làm vui vẻ.

Tuy nhiên lúc đó Tào Tháo tiến đánh Hán Trung, Lưu Bị không thể không rút quân. Hai bên vì
lý do này mà đình chiến và tiếp tục liên minh.

Gia Cát Lượng lập đàn “mượn gió đông

Gia Cát Lượng là một nhân vật được “thần hóa” trong Tam Quốc diễn nghĩa. Một trong số những
chi tiết chứng minh cho điều này là sự kiện Gia Cát Lượng lập Thất Tinh Đàn để “mượn gió
đông”.

Nhân tình thế này, Chu Du cũng mượn thế gió đông để hỏa thiêu quân đội của Tào Ngụy, nhờ
đó mà giành được thắng lợi trong trận Xích Bích.

Đánh giá từ góc độ khoa học, chi tiết này hoàn toàn bị coi là tình tiết hư cấu. Thế nhưng La Quán
Trung xây dựng tình tiết ấy trong Tam Quốc diễn nghĩa lại có phần hợp lý.

Bởi có ý kiến cho rằng, trong đêm Chu Du hỏa thiêu Xích Bích, trận địa nơi này quả thực đã có
gió đông-nam. Thế nhưng, đây không phải là ngọn gió mà Gia Cát Lượng có thể “mượn lực trời”
để tạo thành.
Nguồn gốc thực sự của kế sách này đến từ đặc điểm tự nhiên đặc thù của khu vực hồ Động Đình.
Nơi đây vốn có gió địa hình, trong một số hoàn cảnh khí hậu đặc thù sẽ có gió đông-nam thổi
mỗi khi trời quang. Chu Du vốn là người bản xứ nên mới chú ý tới điều này. Trong khi đó, Tào
Tháo lại là người phương Bắc nên không thể lường trước được diệu kế “mượn gió đông”.

Xét trên một góc độ khác, người cổ đại khi xưa chưa có nhiều kiến thức khoa học về mặt khí hậu.
Vì vậy, việc gió đông nổi lên khiến doanh trại quân Tào bị hỏa thiêu được giải thích bằng lý do
“ý trời đã định”. Từ đó, La Quán Trung mượn chi tiết trên để hư cấu nên tình tiết Gia Cát Lượng
lập đàn mượn gió đông.

Tào Tháo từng ám sát Đổng Trác?

Trong lịch sử, Tào Tháo không ám sát Đổng Trác mà ngay từ đầu ông đã từ chối phong tước của
Đổng tặc ban cho mình, thay tên đổi họ, bí mật trốn khỏi thành Lạc Dương. (Tranh minh họa).

Phân đoạn Tào Tháo hành thích Đổng Trác là một trong số ít những “điểm sáng” của nhân vật
này trong Tam Quốc diễn nghĩa.

Tuy nhiên trên thực tế, chi tiết này cũng hoàn toàn là hư cấu. Thậm chí nếu đánh giá từ góc độ
logic, độc giả hoàn toàn có thể phát hiện ra sự kỳ lạ của tình tiết ấy.

Tiểu thuyết miêu tả, Tào Tháo tiến vào phòng ngủ của Đổng Trác trong tình huống không thông
báo trước. Điều này cho thấy Đổng Trác rất tín nhiệm Tào Tháo, hoặc ít nhất ngoài mặt là như
vậy.

Thế nhưng khi Đại Tư đồ Vương Doãn bí mật mở tiệc chiêu đãi đại thần, những người dự tiệc
bữa tiệc dù nói xấu Đổng Trác mà vẫn cho Tào Tháo tham gia. Lẽ nào họ không sợ Tào Tháo sẽ
truyền lại những lời ấy tới tai Đổng tặc hay sao?

Trong lịch sử, thực tế là Tào Tháo không hành thích Đổng Trác. Bấy giờ, Đổng Trác vốn có ý
muốn lôi kéo ông, Tào Tháo vì không chịu bèn trốn khỏi thành Lạc Dương.

Phía sau câu nói để đời của nhân vật “gian hùng” khét tiếng

Mặc dù La Quán Trung khi xây dựng hình tượng Tào Tháo đã cho ông một “điểm sáng” nổi bật
thông qua chi tiết hành thích Đổng Trác, tuy nhiên không lâu sau đó, chính tác giả đã khiến nhân
vật này phải chịu một tiếng oan ngàn đời.

Đó là chi tiết Tào Tháo cùng Trần Cung giết nhầm cả nhà Lã Bá Sa – người có mối giao tình thân
thiết với cha ông và cũng đã có ơn cưu mang trong lúc ông bị truy nã.

Theo “Ngụy thư” ghi lại, Tào Tháo trên đường bỏ chạy quả thực có đi qua nhà Lã Bá Sa. Thế
nhưng lúc ấy trong nhà họ Lã chỉ có con trai và khách khứa. Nhóm người này khi ấy nổi lòng
tham muốn chiếm đoạt ngựa và đồ đạc của Tào Tháo. Thế nhưng họ không ngờ Tào Tháo lại có
kiếm thuật cao cường nên đã bỏ mạng dưới tay ông.

Chi tiết này khi được đưa vào Tam Quốc diễn nghĩa bị La Quán Trung thay đổi không ít, cũng trở
thành một mối oan ức ngàn năm khó rửa đối với Tào Mạnh Đức. Sự kiện hư cấu này cũng chính
là nguồn gốc phát sinh câu nói nổi tiếng của nhân vật Tào Tháo trong tiểu thuyết: “Ta thà phụ
thiên hạ chứ không để thiên hạ phụ ta”.
Ngoài những chi tiết hư cấu trên đây, Tam Quốc diễn nghĩa vẫn còn không ít những tình tiết khác
do bản thân tác giả sáng tạo.

Vì vậy, tác phẩm này có thể được xem là một sáng tác văn học giàu tính nghệ thuật, tuy nhiên
không thể đánh đồng với các tài liệu chính sử để tránh gây ra hiểu lầm.

Sự thật lịch sử về thời Tam Quốc !

http://thegioibantin.com/su-that-lich-su-ve-thoi-tam-quoc.html

Bản thân thời đại Tam quốc là có thật, song do nhà Tấn (họ Tư Mã) tồn tại quá ngắn, tư liệu lịch
sử còn lại bị thất tung trong loạn lạc. La quán Trung lại viết Tam quốc dưới sức ép của chủ nghĩa
quân thần ngu trung, dẫn đến một số bịa đặt. mục đích là hạ thấp những kẻ mà vua chúa cho là
loạn thần tặc tử, dám cướp ngôi vua như Tào Tháo, còn dòng dõi hoàng thất như Lưu Bị dù bất
tài nhưng vẫn được khen ngợi, thậm chí là tô vẽ quá lên so với sự thât.

Những điều khác biệt với lịch sử do La hư cấu lên rất là nhiều, và vì thế nó gây ra những cuộc
tranh luận bất phân thắng bại, đại loại như: Quan Vũ khỏe hay yếu, Triệu Vân khôn hay ngu?

Những điều hư cấu của La trong “Tam Quốc diễn nghĩa” khác biệt những sự thật lịch sử dưới đây
được rút ra trong tam quốc chí, Hậu Hán thư, Ngụy thư … những sách chính sử được viết ra trước
La hàng mấy trăm năm, có giá trị chân thực không cần bàn cãi.

Hi vọng nó giúp đỡ anh em một phần nào đó khi trả lời những câu hỏi đầy mâu thuẫn mà chỉ vì
La hư cấu thành ra anh em muốn tìm hiểu sâu mà không biết đâu là chân tướng.

À quên, tam quốc chí, Hậu Hán thư, Ngụy thư … không phải do người viết viết ra nên chính bản
thân cũng không biết những điều dưới đây có đúng không nữa? Biết đâu Trần Thọ hay Ban Cố
chẳng hạn cũng phịa ra? Thôi thì mua vui cũng được vài trống canh vậy

CÁC SỰ KIỆN CHÍNH:

Về Điêu Thuyền và câu chuyện Phụng Nghi Đình:

– Phụng Nghi Đình xuất thân trong những vở kịch dân gian Trung Quốc, được lưu truyền qua
những người kể chuyện dạo trên đường phố, do đó, bị thêm thắt rất nhiều theo thời gian

– Điêu Thuyền không có thật

– Đổng trác không phóng kích đâm Lã Bố ở đình Phụng Nghi

– Lã Bố và Đổng Trác chỉ cùng thích 1 con hầu gái. Vương Doãn mới khích Bố để Bố giết Trác.
Lã Bố, trên thực tế, là người nhỏ nhen, hám lợi, bất nghĩa. Ta vẫn thường thấy Viên Thuật là
người nhỏ nhen hám lợi nhưng thật ra chưa nhỏ nhen hám lợi bằng Lã Bố.

– Kịch dân gian Trung Quốc còn thêm thắt thêm chuyện Quan Vũ cưới Điêu Thuyền, Quan Vũ
giết Điêu Thuyền, Tào Tháo bắt Điêu Thuyền … đều không có thật.

Về chuyện “Lưu dệt chiếu động phòng cưới vợ mới”

–Ngô quốc thái (vợ Tôn Kiên) chết rất lâu trước khi Tôn Thượng Hương được gả cho Lưu Bị, do
đó không có chuyện “Ngô quốc thái đế chùa xem rể hiền”.
–Tôn Thượng Hương chỉ là con bài chính trị, không hề có vai trò gì. Chuyến trở về Kinh Châu
quân Ngô không hề đuổi theo.

–Tôn Thượng Hương chủ động trốn về Ngô theo sứ giả của Ngô và đem A Đẩu theo chỉ để làm
con tin để về nhà an toàn. Do đó Triệu Vân đòi lại A Đẩu cũng chỉ là cuộc trao đổi (tha cho bà
về, đổi lại phải trả lại A Đầu) chứ Vân không hề xông vào thuyền bà.

–Tôn Thượng Hương không hề tự sát khi nghe Lưu Bị chết (còn vui mừng là đằng khác).

Ngoài ra theo trang Wikipedia đây là 4 tình tiết chính mà các học giả TQ đã bắt được, vì theo lịch
sử TQ thì các tình tiết dưới đay là

1. Quan Vũ giết Hoa Hùng: truyện Tam Quốc diễn nghĩa kể Quan Vũ chém Hùng trong nháy mắt,
khi chén rượu mời của Tào Tháo trước khi ra trận còn nóng. Nhưng thực tế theo sử sách thì người
giết Hoa Hùng, bộ tướng của Đổng Trác là Tôn Kiên, người khai nghiệp ở Giang Đông.

2.Thuyền cỏ mượn tên: Trong trận Xích Bích nổi tiếng, có tình tiết Gia Cát Lượng đi cùng Lỗ Túc
và 30 thuyền cỏ trong sương mù, khiến Tào Tháo không dám xuất quân mà chỉ bắn tên ra. Thế
là hàng chục vạn mũi tên cắm vào thuyền cỏ quay ngang. Gia Cát Lượng thu tên về nộp cho Chu
Du. Sự thực việc dùng “thuyền cỏ mượn tên” là do chính Tôn Quyền thực hiện.

3. “Sinh Du hà sinh Lượng?” Tam Quốc diễn nghĩa kể chuyện Gia Cát Lượng 3 lần chọc tức Chu
Du khiến Du tức phải than: “Trời sinh Du sao còn sinh Lượng?” rồi chết. Sự thực là Chu Du chết
bệnh trong quân ngũ, không liên quan đến việc bị Gia Cát Lượng chọc tức.

4. Cha con Gia Cát Chiêm tử trận: Do đề cao Gia Cát Lượng, La Quán Trung để con và cháu ông
là Gia Cát Chiêm, Gia Cát Thượng tử trận khi Đặng Ngải vào Tây Xuyên. Sự thực là cha con Gia
Cát Chiêm đã hàng Đặng Ngải

VỀ CÁC NHÂN VẬT CHÍNH:

Lưu Bị

– Là một người rất giỏi võ, có sức khoẻ, có tài chỉ huy, có mưu mẹo thao lược, có tài an dân trị
quốc, có cả tài ăn nói chiêu dụ dân chúng. Nói chung là văn võ toàn tài chứ không như trong
truyện mô tả.

– Kết nghĩa vườn đào không có thật.

– Quân khởi nghĩa của Lưu dệt chiếu chống khăn vàng chỉ đóng vai trò rất nhỏ: một đạo dân
binh (như dân quân xã ngày nay không hơn không kém) quanh quẩn ở Trác quận.

– Quân khởi nghĩa không hề giết Trình Viễn Chí, đối đầu với Trương Bảo Trương Lương, cứu
Hoàng Phủ Tung và Chu Tuấn (là những đạo quân chủ lực của trung ương)

– Trương Bảo không hề trúng tên của Lưu Bị. Bị không hề dùng máu dê máu chó đồ tanh hôi
phá ma thuật của Trương Bảo, không hề cứu Đổng Trác.

– Trương Phi không hề đánh viên quan đốc bưu (thanh tra) .Lưu Bị đánh, và khi làm việc đó ông
ta không say rượu.

– Hiến Đế không hề nhận Lưu Bị là hoàng thúc.


– Không hề dùng mưu của Từ Thứ để chống lại Tào Nhân và Lí Điển bảo vệ Tân Dã. Tất cả là
mưu của chính Lưu Bị.

– Cũng không hề dùng mưu của Gia Cát Lượng để chống lại Hạ Hầu Đôn ở trận gò Bác Vọng.
Tất cả vẫn là mưu của chính Lưu Bị.

– Mi phu nhân (em gái Mi Chúc) không phải là vợ của Lưu Bị.

– Trận Di Lăng quân Thục chỉ có khoảng 8 vạn quân, chứ không phải có đến 70 vạn.

– Ngoài A Đẩu còn có đến 3 con trai và vài con gái nữa, tất cả bị Tào Thuần bắt ở trận cầu Trường
Bản. Tội này chính là ở Triệu Vân (chỉ vì chạy đi tìm A Đẩu)

Quan Vũ

– Kết nghĩa vườn đào không có thật.

– Không giết Hoa Hùng, Văn Sú (thực sự có giết được Nhan Lương)

– Không ra 3 điều kiện cho Tào Tháo khi hàng Tào Tháo.

– Không hề quá ngũ quan trảm lục tướng. 6 tướng này đều không có thật. Tào Tháo vì cảm kích
cái nghĩa không quên chủ cũ của Vũ nên đồng ý tha ông trở về với Lưu Bị.

– Không hề phục kích và tha Tào Tháo ở đường Hoa Dung

– Không hề được Hoa Đà cạo xương chữa thuốc. Chuyện cạo xương chữa thuốc thực sự có diễn
ra nhưng bởi một thầy thuốc bình thường vô danh.

– Không hề muốn vào Xuyên đòi đấu với Mã Siêu.

– Trận lụt Phàn Thành không phải là mẹo của Vũ mà là do thiên tai, Vũ lợi dụng để đánh Vu
Cấm. Nếu không có thiên tai xui xẻo đó chưa biết chừng Cấm, Đức, Nhân, Hoảng đã thịt Vũ chứ
chẳng cần quân Ngô.

– Là một viên tướng võ biền, chỉ khoẻ chứ không có mưu mẹo gì, trên thực tế Trương phi rất
khôn ngoan, hơn Quan Vũ rất nhiều.

– Trong 3 người đó thì Quan Vũ là giỏi nhất, hoặc ít nhất là có uy thế lớn nhất trong các đại tướng
nước Thục (chắc kế đến chỉ có Mã Siêu là có cái uy thế này). Trận Phàn Thành mặc dù sử chép là
mưa to ngập nước nhưng việc bắt Vu Cấm, chém Bàng Đức khiến Tào Tháo hoảng sợ và toàn bộ
Hoa Nam đều chấn động là có thật.

Trương Phi

– Trương Phi không hề đánh viên quan đốc bưu (thanh tra). Lưu Bị đánh, và khi làm việc đó ông
ta không say rượu.

– Không hề quát trên cầu Trường Bản làm chết Hạ Hầu Kiệt. Hạ Hầu Kiệt là nhân vật không có
thật.

– Là một viên tướng khoẻ nhưng đa mưu chứ không phải chỉ võ biền. Là người giỏi nhìn người,
chính ông cất nhắc Ngụy Diên khi nhận ra tài của Diên.

– Chỉ có nhà Ngụy có Ngũ hổ tướng, chứ nhà Thục không hề có danh vị này.
– Trương Phi cũng giỏi dùng binh, có sách nói Phi còn giỏi thi họa, trong TQDN Trương Phi cũng
là người trọng danh sĩ, hơn hẳn Quan Vũ.

Triệu Vân

– Không hề theo Viên Thiệu.

– Trong lần bỏ Công Tôn Toản cùng Lưu Bị đi cứu Đào Khiêm, Vân theo Bị luôn, không trở về
với Toản nữa. Chứ không phải mãi sau này Vân mới làm cướp núi rồi theo Bị.

– Thực sự có 1 mình 1 ngựa xông xáo trong trận Tương Dương Trường Bản. Nhưng không hề
đánh với Trương Cáp. Các tướng Vân giết trong trận này đều không có thật (trừ Hạ Hầu Ân và
thanh gươm Vân cướp được là có thật) Và cũng chính vì lo cứu A Đẩu mà 3 con trai và các con
gái của Lưu Bị bị Tào Thuần bắt.

– Chuyện Vân chết vì cái kim của vợ là do kịch dân gian đồn đại, không có thật.

– Truyện Vân một mình đẩy lui quân Tào không có thật.

– Vân không giết Chu Nhiên ở Di Lăng.

– Truyện Vân giết 5 tướng trong lần chinh phạt Trung nguyên lần 1 không có thật, nhưng bị Hạ
Hầu Mậu vây là có thật.

– Các con cháu của Vũ, Vân như Quan Hưng, Triệu Thống, Triệu Quảng đều tham gia cửu phạt
Trung Nguyên với Khương Duy (truyện không nhắc tới) tuy không giữ các vai trò quan trọng.

– Triệu Vân là tướng uy dũng và cũng có trí tuệ, tuy nhiên không được cầm đại quân bao giờ,
thường chỉ làm tiên phong.

– Được biết đến như một chiến binh vĩ đại, Triệu Vân hội tụ đủ các bản chất của những anh hùng
trong thời đại ông. Mặc dù Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung chỉ đặc biệt miêu tả Triệu
Vân võ công cao cường, thực ra ông còn đáng được ngưỡng mộ bởi tài thao lược khôn khéo, lòng
trung thành tận tụy và tính cách thẳng thắn, sự dũng cảm phi thường

Mã Siêu

– Không tham gia trận đánh Lý Thôi của Mã Đằng. Không giết Vương Phương, bắt Lý Mông.

– Mã Đằng bị Tào Tháo bắt chứ chưa giết, dùng làm cớ buộc Tây Lương quy hàng. Nhưng Siêu
không hàng mà khởi binh, do đó Đằng bị Tháo giết béng.

– Không đánh Trường An của Chung Do. Chung Do là quan văn chứ không phải võ tướng.

– Không hề đánh tay đôi với Vu Cấm, Tào Hồng, Trương Cáp, Lí Thông. Quân Tây Lương thật
ra cũng không quá gây kinh hoàng cho quân Tào đến nỗi Tào Tháo phải cởi áo cắt râu.

– Hứa Chử không hề cởi trần đánh tay đôi với Mã Siêu.

– Viên tướng mạnh nhất trong quân Tây Lương thật ra là Bàng Đức, không phải Mã Siêu. Trong
trận Đồng Quan tiên phong Tây Lương luôn là Bàng Đức.

– Mã Siêu không cắt tay trái Hàn Toại


– Dương Phụ ca ngợi Mã Siêu mạnh như Anh Bố,chứ không phải như Lã Bố, và Tào Tháo không
hề cơ ngợi Mã Siêu.

– Trận Lịch Thành Mã Siêu không hề đấu tay đôi với Dương Phụ.

– Mã Siêu không hề đánh tay đôi với Trương Phi ở cửa Hà Manh, cũng như không hề giúp
Trương Lỗ chống Lưu Bị. Siêu Đại chủ động theo Bị, không rõ lí do vì sao Bàng Đức không theo,
có lẽ vì anh ruột Đức làm quan ở đó và Đức không muốn gặp anh mình nên cáo ốm.

– Siêu không hề giữ ải bảo vệ mé Tây của Thục đề phòng quân Khương. Quân Khương, vua là
Kha Nhĩ Tăng, thực ra là đồng minh của Thục

Gia Cát Lượng

– Lưu Thiện không hề gọi Gia Cát Lượng trở về lần nào trong suốt 6 lần ra Kì Sơn. Đó là do
Lượng tự về.

– Quân Khương, vua là Kha Nhĩ Tăng, thực ra là đồng minh của Thục. Do đó không hề có chuyện
“Gia Cát Lượng nhân tuyết phá quân Khương”. Dĩ An và Hề Nê là nhân vật không có thật.

– Lưu Bị thực sự có phó thác con côi cho Gia Cát Lượng, nhưng là bí mật, chứ không tuyên bố
công khai như trong truyện. Và Bị không hề nói “Tài của thừa tướng … làm chủ Thành Đô đi”.

– Rất nhiều chi tiết về Gia Cát Lượng trong truyện không hề đề cập trong chính sử. Có thể nói,
La Quán Trung “phịa” nhiều về nhân vật này nhất.

Toàn bộ đoạn Tam Phân Sách mà Gia Cát Lượng trình bày với Lưu Bị ở lều cỏ đều là sự thật lịch
sử được La Quán Trung “cóp” từ sử sách đem qua nên tạm thời có thể cho là thật. Trước Gia Cát
thì có Cam Ninh, Lỗ Túc cũng đề cập đến việc chia 3, nhưng mà chỉ có Gia Cát là cụ thể nhất và
thực hiện được sách lược của mình nên ghi công cho ông cũng không sai.

Bàng Thống

– Làm tri huyện Lỗi Dương rất tệ, ông ta không có tài an dân trị quốc, chỉ có tài quân sự.

– Không phải tướng mạo xấu xí thôi đâu mà nói đúng hơn “không có tướng mạo của người tài”
Lưu Bị Tôn Quyền Tào Tháo đều là những người biết xem tướng đều không nhận ra tài của
Thống. Xem ra khoa tướng số của Trung Hoa chính xác 99% gặp Thống thì trật.

– Không hề khuyên Lưu Bị giết Lưu Chương, cũng như hạ lệnh cho Ngụy Diên múa kiếm đâm
Chương (làm thế tức là tự sát, người như Thống đương nhiên biết điều đó)

– Không chết vì bị Trương Nhiệm phục kích, trên lưng con Đích Lư. Chết vì bị trúng tên lạc trong
khi đang chỉ huy quân Kinh Châu công phá Lạc Thành.

– Bàng Thống có thực tài. Trong TQDN có đoạn “Gia Cát Lượng thiệt chiến quần nho” ở Giang
Đông, nhưng thật ra, chính Bàng Thống mới là người “thiệt chiến quần nho” khi ông sang Giang
Đông. Trong chiến dịch đánh Tây Xuyên, Lưu Bị và Bàng Thống đã hạ Lạc Thành, bắt Trương
Nhiệm chứ không cần đến Gia Cát (mặc dù Bàng Thống trúng tên chết).
Lã Bố

– Không phải là con nuôi của Đinh Nguyên. Là tướng của Đinh Nguyên, nhưng giết Nguyên để
nhận vàng bạc của Đổng Trác.

– Đinh Nguyên là thái thú Tịnh Châu, không phải Kinh Châu.

– Lã Bố, trên thực tế, là người nhỏ nhen, hám lợi, bất nghĩa. Ta vẫn thường thấy Viên Thuật là
người nhỏ nhen hám lợi nhưng thật ra chưa nhỏ nhen hám lợi bằng Lã Bố.

– Chuyện “tam anh chiến Lã Bố” không có thật.

– Giết Đổng Trác chỉ vì một con hầu gái chứ không phải vì một mĩ nhân “nghiêng nước khuynh
thành” gì cho cam.

– Có 1 vợ chính thức họ Nghiêm (chứ không phải họ Tào) do đó Tào Báo không phải bố vợ Lã
Bố

Tào Tháo:

– Thảm sát nhân dân 5 quận Từ Châu rất dã man.

– Thực ra không có bà con gì với anh em Hạ Hầu Đôn, dù họ Tào trước kia cũng từng là họ Hạ
Hầu.

– Không hề xử chém Tả Từ.

– Có đến 25 con trai, trrong truyện chỉ đề cập đến Ngang, Phi, Thực, Chương, Hùng.

– Không mắc mưu Chu Du chém Sái Mạo Trương Doãn. 2 người này chết khi quân ngô đánh
trận Xích Bích.

– Không phải bị mắc mưu Bàng Thống mà xích thuyền lại, ông ta buộc phải làm thế vì binh sĩ bị
bệnh quá nhiều.

– Biết đêm hôm trận Xích Bích có gió đông nam, biết cả chuyện rất có thể địch dùng hỏa công,
nhưng binh sĩ bị bệnh hết nửa nên đành bất lực .

– Tào Tháo ko những giỏi dùng người mà còn là 1 nhà chiến lược tài ba, có lẽ ở phương Đông cổ
kim ko nhiều người được như ông. Một mình Tào Tháo dẹp yên quần hùng bốn phương (Viên,
Lã…), đánh dân du mục Khương phương Bắc, tỏa văn minh đến các xứ Cao Ly, Nhật Bản, khiến
cái xã tắc nát toét của nhà Hán thành thái bình, cái công ấy quá lớn.

Cái công của Tào Tháo ko chỉ dừng ở đấy. Binh pháp Tôn Tử xưa nay đã được nhiều nhà chú
giải, nhưng bản của Tào Tháo chú được công nhận là đầy đủ và hoàn chỉnh nhất, các bản sau
này chủ yếu thêm bớt những cái nhỏ nhặt, phần chính vẫn là lời của Tào Tháo, đến độ người đời
sau nhiều lần dẫn lời ông mà ko biết. Nếu gọi là binh pháp Tôn-Tào e cũng ko quá đáng.

NHỮNG NHÂN VẬT KHÁC:

Cam Ninh

– Chết vì bệnh chứ không phải bị Sa Man Kha giết chết.


Chu Du

– Tưởng Cán không hề đến thăm Du.

– Chu Du không hề muốn giết Gia Cát Lượng. Cuộc chiến mưu trí giữa Chu Du và Gia Cát Lượng
hoàn toàn do La bịa ra. Chu Du không hề hẹp hòi. Câu “Trời đã sinh Du sao còn sinh Lượng”
nổi tiếng không có thật.

Chu Thương

– Đây là nhân vật chỉ có trong quyển “Tam quốc chí bình thoại” xuất hiện đầu thời Nguyên.

Đào Khiêm

– Trên thực tế rất độc ác, cai trị tàn bạo chứ không có nhân từ như trong truyện.

– Là phe đồng minh với Đổng Trác chứ không phải tham gia chư hầu đánh Trác.

– Không hề nhường Từ Châu cho Lưu Bị. Lưu Bị do nhân dân Từ Châu đưa lên.

– Đích thân chủ mưu sắp đặt để giết Tào Tung cha Tào Tháo cướp của

Đổng Trác

– Không hề được Lưu Quan Trương cứu khỏi giặc Khăn Vàng.

Điển Vi

– Không hề dùng búa, đao hay giáo mà dùng đôi kích

Hạ Hầu Đôn

– Không hề đuổi theo và đấu võ với Quan Vũ

– Không hề bị Tào Tính bắn đui mắt, không hề nuốt con ngươi, không hề bị chột mắt.

Hàn Huyền

–Không hề bị Ngụy Diên giết,mà tự đầu hàng và dâng nộp thành trì.

–Không hề tàn bạo và ác độc như truyện mô tả mà còn là một quan văn cai trị tốt.

Hoa Đà

– Không chết ở trong tù và trao sách cho Ngô áp ngục. Đà cũng có rất đông học trò.

– Khi bị Tào Tháo gọi đến chữa bệnh, Đà than đau yếu thoái thác không đến chữa, Tháo phát
giác ra và giết Đà, không giam ngục. Chứ không phải đòi bửa đầu Tháo ra rồi bị Tháo tống ngục.

Hoa Hùng

– Không giết Tổ Mậu. Tổ Mậu bị Từ Vinh giết.

– Không bị Quan Vũ giết. Bị quân của Tôn Kiên giết chết (chết nhục trong đám loạn quân)

Hoàng Cái

– Không hề dùng khổ nhục kế trá hàng Tào Tháo.

Hoàng Trung

– Chết trước khi chiến dịch đánh Ngô của Lưu Bị diễn ra
– Không đấu với Quan Vũ cũng như Quan Vũ không tha Hoàng Trung

Kỷ Linh

– Không hề dùng đao ba mũi như truyện mô tả.

– Không hề đấu tay đôi với Quan Vũ (thực sự có đấu tay đôi với Trương Phi và bị Phi giết)

Lã Mông

– Không hề giả ốm lừa Quan Vũ mà là ốm thật

– Không hề bị vong hồn Quan Vũ vật chết mà thật ra bị bệnh rồi mất

Lục Tốn

– Công lao mưu mẹo đánh Kinh Châu thật ra hoàn toàn là của Lục Tốn

– Không hề được Hám Trạch đem cả nhà ra đảm bảo về tài năng, chính Tôn Quyền biết tài Tốn
mà cử Tốn ra Hạ Khẩu và cử làm đô đốc phá Thục

Lưu Tôn

– Không là con ruột Thái phu nhân (điều này khiến ta có thể nghi ngờ chuyện họ Thái thao túng
chính trị Kinh Châu khi Lưu Biểu mất có thể không chính xác, biết đâu chính Lưu Biểu chủ ý
muốn đầu hàng Tào Tháo?)

Ngụy Diên

– Không giết Hàn Huyền cứu Hoàng Trung

– Không giết Vương Song

– Là một viên tướng văn võ song toàn, đa mưu túc trí chứ không phải chỉ biết võ nghệ

– Không phản bội sau khi Gia Cát Lượng chết

Mùa thu năm ấy, (Gia Cát) Lượng bệnh nặng, bí mật ra lệnh cho Trường Sử là Dương Nghi, Tư
Mã là Phí Vỹ, Hộ Quân là Khương Duy cùng nhau kéo quân về, lại ra lệnh cho (Ngụy) Diên đem
quân đoạn hậu, Khương Duy thay thế. Nếu Diên không nghe lệnh thì quân cứ kéo đi, mặc kệ
Diên. Lượng chết, nhưng không cho phát tang. Dương Nghi ra lệnh cho Phí Vỹ truyền lệnh của
Lượng. Diên nói: “Thừa tướng tuy mất, nhưng còn có ta đây. Các ngươi cứ đem di hài thừa tướng
về mai táng, còn ta ở đây lãnh quân đánh giặc, chứ không lẽ vì một người chết mà bỏ chuyện
thiên hạ sao? Vả lại Ngụy Diên ta là người gì mà lại ở dưới Dương Nghi, lại còn bảo đoạn hậu
cho y?” Diên nhân đó mới bảo Phí Vỹ ở lại cùng mình, cùng nhau răn bảo chư tướng. Phí Vỹ nói
dối rằng: “Để tôi quay lại bảo Dương Trường Sử nhường chức cho ông, chắc là ông ấy không
dám từ đâu.” Vỹ ra cửa rồi đi luôn. Diên cho người đuổi theo mà không kịp. Diên cho người đi
dò xét thì Dương Nghi cùng các tướng đã kéo quân rút cả rồi. Diên giận lắm, kéo quân chặn
đường đốt hết sạn đạo. Diên và Nghi cùng dâng biểu cáo người kia làm phản, trong một ngày
hai tờ biểu đến Thành Đô cùng một lúc. Hậu Chủ bèn hỏi Thị Trung là Đổng Doãn, Lưu Phủ
Trường Sử là Tương Uyển thì Uyển và Doãn đều đứng ra bảo lãnh cho Nghi và nghi ngờ Diên
có lòng khác.
Lúc bấy giờ Nghi đã mở thông đường núi, nhân đêm kéo quân về, ra sau lưng quân Diên. Diên
liền kéo quân đến, đóng tại cửa Nam Cốc, ra lệnh tấn công quân của Dương Nghi. Nghi ra lệnh
cho Hà Bình đi trước chặn Ngụy Diên. Bình quát Diên rằng: “Thừa tướng mới mất, xác còn chưa
lạnh, chúng mày sao dám làm vậy?” Binh sĩ của Ngụy Diên đều biết là lỗi tại Diên, không thèm
nghe lệnh, quân bỏ đi. Diên một mình dẫn theo vài chục người bỏ chạy đến Hán Trung. Dương
Nghi lệnh Mã Đại đuổi theo chém đầu đem về. Nghi đạp đầu Diên nói: “Thằng đầy tớ kia, để
xem mày có lại tác ác được không?”, rồi lệnh tru di 3 họ nhà Ngụy Diên. Lúc ấy Tương Uyển dẫn
quân túc vệ đến, đi ra khỏi thành chưa hơn mười dặm thì nghe tin Ngụy Diên chết, liền quay về.

Chuyện Ngụy Diên với Dương Nghi ai làm phản thì không biết. Chỉ biết sự kiên là như vậy. Bản
thân Trần Thọ cũng cho rằng đây là cuộc đấu đá giữa 2 nhân vật này, trong đó Dương Nghi do
được ủng hộ của đa số nên thắng. Vậy bạn nói xem: Ngụy Diên có phản hay không?

Pháp Chính

– Là quân sư chính trong chiến dịch Lưu Bị lấy Hán Trung, không phải là Gia Cát Lượng

Quan Bình

– Là con đẻ chứ không phải con nuôi Quan Vũ

Quan Hưng

– Là quan văn chứ không phải là võ tướng

– Không đấu tay đôi với Trương Bào, không làm tiên phong đánh Ngô và ra Kỳ Sơn, không giết
Phan Chương, không đoạt long đao, không được vong linh Quan Vũ cứu.

Tả Từ

–Không hề “quăng chén đùa Tào Tháo”, không hề làm trò ma thuật, không hề hại Tào Tháo mắc
bệnh, không hề bị Tào Tháo xử chém.

Sái Mạo

– Thực ra là 1 quan văn chứ không phải là 1 võ tướng và cũng không thạo về thủy chiến

– Vì thế, chuyện Mạo được phong làm đô đốc thủy quân và bị Tào Tháo giết do mưu của Chu
Du là chuyện bịa

Tôn Kiên

– Trong chiến dịch đánh Đổng Trác, Kiên tham gia như một phe dưới lệnh Viên Thuật, chứ không
phải chư hầu một trấn.

– Đưa ngay ngọc tỉ cho Viên Thuật khi tìm được ở Lạc Dương chứ không giữ.

– Không hề bị Lưu Biểu chặn đánh đòi ngọc tỉ (có đâu mà đòi) ngược lại chính Viên Thuật lệnh
cho Kiên đánh Biểu trước.

Tôn Quyền

– Chính Quyền quyết định đánh Tào ở trận Xích Bích, chứ không phải vì bị Gia Cát Lượng thuyết
phục.

– Chính Quyền cử Lục Tốn ra thay Lã Mông bị bệnh và làm đô đốc phá Thục.
– Là 1 vị vua rất giỏi và có tài thao lược, lại biết dùng người, đãi sĩ. Thời Đông Ngô dưới trướng
Tôn Quyền, nhân dân no ấm. Đến khi Quyền mất, không có người tài nối ngôi nên mới mất vào
tay nhà Tấn (họ Tư Mã) năm 280.

Tôn Sách

– Không đưa ngọc tỉ cho Viên Thuật (có đâu mà đưa?)

– Không hề bắt Vu Cát bỏ ngục.

– Không chết vì bị hồn Vu Cát theo ám hại.

Tôn Thiều

– Không hề cãi lời Từ Thịnh, cũng như không hề bị lôi ra chém.

Trần Cung

– Không hề cứu Tào Tháo ra khỏi nhà tù.

Tư Mã Ý

– Không hề bị Gia Cát Lượng đốt suýt chết trong hang Thượng Phương

Từ Hoảng

– Không bị Mạnh Đạt giết.

Văn Sú

– Không phải bị Quan Vũ giết mà bị quân Tào mai phục giết chết (chết nhục trong đám loạn
quân)

Văn Ương

– Không hề một mình một ngựa đẩy lui trăm tướng Tào trên cầu Lạc Gia.

Vu Cát

– Không hề bị Tôn Sách giết.

– Không hề ám hại Tôn Sách đến chết.

Lỗ Túc

Kế chân vạc thì người đầu tiên đề xuất là Lỗ Túc (đề xuất với Tôn Quyền, với thế lực của Tào
Tháo như vậy thì việc giữ vững giang nam của Tôn Quyền là khó có thể lâu dài được. Tuy nhiên
ko phải Gia Cát Lượng ăn cắp mà là ý tưởng lớn gặp nhau.

TÁC PHẨM, TÁC GIẢ:

Tam Quốc diễn nghĩa ngày nay không chỉ là con đẻ của La Quán Trung mà còn có sự góp công rất
lớn của Mao Tôn Cương. Người ghép 240 hồi thành 120 hồi.

Các câu thơ cuối mỗi hồi và lời bình đều của ông cả.

Và việc ghép 240 hồi thành 120 hồi thì đương nhiên là có thay đổi.

Có sự nhầm lẫn từ trước đến nay giữa Tam Quốc chí và Tam Quốc diễn nghĩa, sự thật là:

– Tam Quốc chí do Trần Thọ, sử thần nhà Thục và Tấn viết.
– Tam Quốc diễn nghĩa mới do La Quán Trung viết.

– Tam Quốc chí Chú là do Bùi Tùng Chi đời Lục Triều dùng các sử liệu khác để chú thích thêm
vào những chỗ Tam Quốc chí viết quá vắn tắt hoặc không phù hợp với sử liệu khác. Quyển này
độ tin cậy của nó chỉ kém TQC của 1 chút.

Sự thật bất ngờ về điển tích “kết nghĩa đào viên” trong Tam Quốc

Trần Quỳnh | 17/09/2016

Điển tích “kết nghĩa vườn đào” nổi tiếng lịch sử dưới thời Tam Quốc này rất có thể chỉ là một
sản phẩm của trí tưởng tượng.

Tiểu thuyết nổi tiếng “Tam Quốc diễn nghĩa” của tác giả La Quán Trung từng có đoạn: Lưu Bị,
Quan Vũ và Trương Phi ba người tâm đầu ý hợp, quen biết không lâu đã kết bái huynh đệ tại
vườn đào Trương gia.

Cũng kể từ đó, ba người huynh đệ khác họ ấy đồng tâm hiệp lực, lập nên Thục quốc – một trong
ba ba thế lực tạo thành “thế chân vạc” thời Tam Quốc.

Đây chính là điển tích “kết nghĩa đào viên” nổi tiếng Trung Hoa và được lưu truyền rộng rãi cho
tới ngày hôm nay. Sau này, không ít hào kiệt hậu thế vẫn thường ngưỡng mộ noi theo nghĩa khí
“kết nghĩa vườn đào” của ba vị anh hùng Tam Quốc.

Vậy nhưng, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử ngày nay đã khẳng định, kỳ thực Lưu Bị, Quan Vũ và
Trương Phi vẫn chưa hề kết bái. Chuyện đào viên năm xưa chỉ là một chi tiết hư cấu của tiểu
thuyết “Tam Quốc diễn nghĩa”.

“Kết nghĩa đào viên” không được chính sử lưu lại

Khảo cứu từ nhiều nguồn tư liệu lịch sử chính thống, trong đó chủ yếu là “Tam Quốc chí” và
“Tư trì thông giám”, các nhà sử học đều thấy việc “kết nghĩa đào viên” của bộ ba Lưu – Quan –
Trương không được ghi chép lại.

“Hoa Dương quốc chí” mục “Lưu tiên chủ truyện” có viết: “Chúa (Lưu Bị) cùng hai (Quan Vũ,
Trương Phi) ngủ chung giường, ăn cùng mâm, tình như anh em.”

Phần “Quan Vũ truyện” của “Tam Quốc chí” cũng từng ghi lại câu nói của Vân Trường: “Tôi
chịu ân trọng của Lưu tướng quân, thề sẽ cùng sống cùng chết.”

Hai dẫn chứng trên đã cho thấy tình nghĩa khăng khít, gắn bó của ba nhân vật Lưu, Quan,
Trương. Tuy nhiên, mối quan hệ ấy cũng chỉ dừng ở mức “thân như anh em”, chưa chắc đã là
“huynh đệ kết nghĩa”.

Đặc biệt, cách Quan Vũ gọi Lưu Bị là “Lưu tướng quân” một cách đầy khách sáo còn góp phần
khẳng định thêm giả thuyết về việc ba người chưa từng kết nghĩa đào viên.

Sự thật bất ngờ về điển tích kết nghĩa đào viên trong Tam Quốc – Ảnh 1.

Kết nghĩa vườn đào phải chăng chỉ là một sản phẩm của trí tưởng tượng được La Quán Trung
đưa vào tiểu thuyết? (Tranh minh họa).
Cũng trong “Tam Quốc chí”, phần “Lưu Diệp truyện” có viết, sau khi Quan Vũ thất thủ Kinh
Châu, bị Đông Ngô giết, Ngụy Văn Đế Tào Phi mới hỏi quần thần rằng liệu Lưu Bị có xuất quân
trả thù hay không, bấy giờ có Lưu Diệp bước ra tâu:

“Quan Vũ cùng Bị nghĩa là quần thần, ân như phụ tử. Quan Vũ bị giết hại, nếu Lưu Bị không
xuất quân báo thù cho hắn thì cả ơn nghĩa đều không thể coi là tròn trước vẹn sau với Quan Vũ.”

Từ hai dẫn chứng này, nhiều nhà sử học Trung Quốc đã khẳng định mối quan hệ giữa Lưu Bị và
Quan Vũ là “nghĩa quân thần” chứ không phải “tình huynh đệ”.

Phần “Trương Phi truyện” trong đó cũng viết: “Vũ hơn Phi mấy tuổi, nên Phi thường coi như
anh.”

Như vậy, theo “Tam Quốc chí”, thì tình cảm giữa ba người chỉ đơn thuần là “thân như anh em”,
chứ không đề cập tới chuyện kết nghĩa. Trương Phi cũng vì Quan Vũ nhiều tuổi nên kính nể như
anh, chứ không nói hai người là huynh đệ, càng không đề cập đến Lưu Bị.

Sự thật bất ngờ về điển tích kết nghĩa đào viên trong Tam Quốc – Ảnh 2.

Không được nhắc đến trong các tư liệu lịch sử chính thống, nhiều nhà sử học tin rằng Lưu Bị,
Quan Vũ và Trương Phi thực chất chưa từng kết nghĩa huynh đệ. (Tranh minh họa).

Những tư liệu chính sử đã chỉ ra hai mâu thuẫn nổi bật xoay quanh việc “kết nghĩa đào viên”
của Lưu – Quan – Trương.

Thứ nhất, mối quan hệ giữa ba nhân vật này dù có thân thiết, nhưng chỉ dừng ở mức “thân như
huynh đệ”, “tình như phụ tử”, chứ chưa chính thức kết bái.

Thứ hai, không có tư liệu chính sử chứng minh ba người này từng kết nghĩa vườn đào.

“Kết nghĩa vườn đào” hay “uống máu ăn thề”?

Tuy vậy, ngay cả khi chưa từng kết bái huynh đệ, mối quan hệ của họ lại ràng buộc khăng khít
bởi nhau bởi lời thề “cùng sống cùng chết”. Về chi tiết này, tác giả Trần Thọ từng ghi lại trong
“Tam Quốc chí”:

Khi Quan Vũ lưu lại quân doanh Tào Tháo để ý thấy ông không có ý ở lại lâu dài với mình, bèn
sai Trương Liêu đến thăm dò ông. Quan Vũ thẳng thắn nói với Trương Liêu:

“Tào Công đối với tôi rất tốt, trong lòng tôi biết rõ. Nhưng tôi chịu ơn trời cao đất dày của Lưu
tướng quân, từng thề là cùng sống cùng chết, không thể phản bội được. Tôi không thể lưu lại nơi
này, chỉ có điều phải đợi lập được công, báo đáp Tào Công thì tôi mới đi.”

Sự thật bất ngờ về điển tích kết nghĩa đào viên trong Tam Quốc – Ảnh 3.

Rất có thể Lưu, Quan, Trương chưa kết bái huynh đệ, nhưng lại thề nguyện “cùng sống cùng
chết”, cùng nhau vào sinh ra tử. (Tranh minh họa).

Từ đó có thể thấy, thời bấy giờ không thịnh hành việc kết nghĩa, nhưng thề nguyện lại rất phổ
biến. Hình thức này được tiến hành bằng cách giết ngựa, giết trâu, dùng máu lập lời thề, thường
được nhắc tới bằng cụm từ “uống máu ăn thề”.
Những căn cứ lịch sử nêu trên đã cho thấy chi tiết “kết nghĩa” vườn đào của Lưu Bị, Quan Vũ,
Trương Phi còn tồn tại nhiều mâu thuẫn và sơ hở.

Hơn nữa, “Tam Quốc diễn nghĩa” vẫn bị đánh giá là một cuốn tiểu thuyết “bảy phần thực, ba phần
hư”, tác giả La Quán Trung cũng không phải người thời Tam Quốc.

Bởi vậy, rất có thể cuộc “kết nghĩa đào viên” nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc của bộ ba Lưu –
Quan – Trương chỉ là một sản phẩm tưởng tượng do La Quán Trung lấy cảm hứng từ mối quan
hệ “tình như huynh đệ” được Trần Thọ nhắc tới trong “Tam Quốc chí” mà thôi.

Nhân vật QUAN công trong tam quốc diễn nghĩa (Bài 1) –

Thái Quốc Mưu

19 Tháng Ba, 2016

Quan Công (關公), một nhân vật thật, được hư cấu trong bộ tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa.

Đa số, người Việt chúng ta chỉ biết và thần tượng hóa nhân vật nầy qua ngòi bút phù phép của
La Quán Trung. Nên, có nhiều chuyện hoàn toàn bịa đặt mà người đọc Tam Quốc Diễn Nghĩa
tin, và tưởng đó là sự thật.

Thực tế, chẳng mấy ai biết sự thật về Quan Công.

Quan Công sanh tại Giải Lương, quận Hà Đông. Có thuyết nói ông sinh tại Bồ Châu, lại có thuyết
nói ông quê ở Vận Thành, tỉnh Sơn Tây, miền bắc của Trung Quốc. Trong chính sử không xác
định cũng không loại trừ các giả thiết đó.

Quan Công là con của Quan Nghị (關毅), tự Đạo Viễn (道遠), Quan Nghị là con của Quan Thẩm

(關審), tự Vấn Chi (問之). Trong Tam Quốc chí của nhà sử học Trần Thọ (không phải tiểu thuyết
Tam Quốc Diễn Nghĩa, của La Quán Trung, nhưng do không phân định được, một số người vẫn
gọi Tam Quốc Diễn Nghĩa với tên Tam Quốc chí) lâu nay được các nhà sử học ở nước Trung Hoa
công nhận là chính sử, không có đề cập đến cha cùng ông nội của Quan Công nên người viết
chẳng biết họ học hành có đỗ đạt hoặc có đứng trong hàng ngũ quan lại hay không.

Theo Tam Quốc Diễn Nghĩa, năm sinh của Quan Công là 162 sau Tây lịch, nhưng không được
các tài liệu chính thống xác nhận. Ông mất tháng 12 năm Kiến An thứ 24.

Theo chính sử, tên thật của Quan Công (關公) là Quan Vũ (關羽), hiệu là Vân Trường (雲長), tự

Trường Sinh (長生), sinh khoảng năm 162 (?) chết khoảng 23/1/220 đến 21/2/220 theo Tây lịch.

Quan Công còn một cái tên khác rất ít người biết, là Quan Long Phùng.

Cả cuộc đời, Quan công chưa hề được phong tước Công. Một tước đứng đầu trong năm tước
Công – Hầu – Bá – Tử – Nam. Người đời gọi Quan Vũ là Quan công, vì chữ công (公) trong tước

Công và chữ công (公) có nghĩa là “ông” cùng là một chữ. Hai chữ Quan công có nghĩa là “ông
Quan” tức là “ông (họ) Quan”, như một số người gọi kẻ viết bài nầy là “ông Thái”. Vì thế, chữ
công sau chữ Quan không thể viết hoa.
Do sự nhập nhằng của chữ công (公), và dù bộ tiểu thuyết được viết vào cuối triều Nguyên và
đầu triều Minh, bởi người viết vốn dòng quý tộc, có cảm tình với trào Hậu Hán rồi Thục Hán là
La Quán Trung (羅貫中), tự Bản, hiệu là “Hồ Hải Tản Nhân”. Sinh và sống trong khoảng thời
gian từ năm 1300 đến năm 1400. Nhưng có giả thuyết ông sinh năm 1328 và mất năm 1398.

Ngoài ra, khi Tam Quốc Diễn Nghĩa ra đời, giới độc giả bình dân cùng thời La Quán Trung kiến
thức kém, lại nghe theo lời của những kẻ cố ý lộng giả thành chân, từ chỗ Quan công “ông (họ)
Quan”, biến thành ông “Quan Công = họ Quan mang tước Công, gọi tắt là Quan Công”. Đây là
một trong những hình thức “SAI dùng lâu thành ĐÚNG”.

Quan công vốn hàn vi, phải bán đậu phụ mưu sinh (tào hủ nước đường, nghĩa là ngày ngày gánh
hai thùng gỗ, một đầu có bếp than để hâm nóng tàu hủ, đầu kia để chén bát và nước rửa). Tuy
nhiên, vẫn được học cả văn lẫn võ. Nhưng, không nghe nói ai là thầy dạy võ, và ai là người dạy
chữ nghĩa cho ông ta. Do đó, nhiều học giả ngày nay nghĩ La Quán Trung, thần tượng hóa nhân
vật Quan Vân Trường, để đưa tới ý đồ: “đây là một nhân vật văn võ song toàn”.

Về tính tình Quan Công được La Quán Trung “ca” là người trung liệt, tiết tháo, vũ dũng, hào
hiệp, ghét kẻ ác, thường bênh vực người yếu. Nhưng,…

Theo nhận xét riêng của người viết bài nầy, Quan công chỉ là một tướng võ biền, hữu dõng vô
mưu, tính khí kiêu căng, ngạo mạn, kém văn hóa, thủ đoạn vặt, anh hùng rơm, thất tín, hẹp hòi,
ích kỷ, bất tuân quân lệnh, và hay lộng ngôn,… Chúng tôi sẽ chứng minh sau.

Nhờ thiên phú Quan công có được thể lực sung mãn, cường tráng, có sức mạnh (song chưa phải
là vô địch), bản chất ngang tàn hay giúp kẻ yếu hèn, chống phường hung bạo. Vì vậy, mới gây
án giết người, phải lẫn trốn, tha phương cầu thực.

Trên đường trốn tránh tầm nã về tội sát nhân, Quan công lưu lạc nhiều nơi, cuối cùng gặp Trương
Phi và Lưu Bị ở Quận Trác. Ba người hợp ý, uống máu ăn thể kết nghĩa anh em ở trong một khu
vườn đào (đào viên). Từ đó dựng thành câu chuyện “đào viên kết nghĩa”.

Trong thời Lưu Bị, Quan công được xem là một trong năm vị tướng tài của Thục Hán, được cho
là đứng đầu trong ngũ hổ tướng: Quan công, Trương Phi, Triệu Vân, Hoàng Trung, Mã Siêu.
Trong thực tế tài cán của năm người đều ngang ngửa nhau. Mỗi người có một cái giỏi riêng. Tuy
nhiên, xét cặn kẽ, Quan công còn thua xa Triệu Vân (Triệu Tử Long) về võ công, nhân cách, đức
độ, tài thao lược, kiến thức… Triệu Vân mới là nhân vật trí dũng song toàn.

Qua mô tả của cây viết La Quán Trung trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, Quan công mình cao 9
thước (= 2.00m) râu năm chòm dài thuột, mặt đỏ như gấc, mắt phượng, mày tằm,… tay cầm
Thanh long Yển nguyệt đao, nặng 82 cân (= 49kg), cỡi ngựa xích thố.

Do ái mộ nhân vật Quan công một cách mù quáng, tác giả La Quán Trung đặt vào tay Quan
Công cây đại đao nặng 49kg, để nảy sinh hình ảnh giả tưởng buồn cười. Khi ra trận vì đao quá
nặng nên Quan công phải khệ nệ ôm cây đao lảo đảo bước từng bước chậm chạp thì làm thế nào
vung cây đao 49kg khi chống giặc?
Điểm sai thứ hai là, từ thời Tam Quốc (三國) 190-280, trở về trước, chỉ có 5 loại đao: thiết đao,
cương đao, nhu cương đao, thanh cương đao, bảo đao. Quan công cũng chưa từng sử dụng một
trong năm loại bảo đao nầy. Nói chi đến Thanh long Yển nguyệt đao, chưa hề xuất hiện vào thời
Tam Quốc.

Sau thời Tam Quốc bảy, tám trăm năm, đến đời Tống (960-1279) Thanh long Yển nguyệt đao mới
xuất hiện lần đầu.

Nhà Tống (宋朝) được xem là một trong các quốc gia đầu tiên trên thế giới phát hành ra tiền giấy,
là nhà nước Trung Quốc đầu tiên đã thành lập nên lực lượng hải quân thường trực lâu dài. Triều
đại này đã chứng kiến việc lần đầu tiên sử dụng thuốc súng, cũng như nhận thức về cách sử
dụng la bàn. Và, từ đó phương thức sản xuất vũ khí tân tiến hơn, nhờ vậy mới có khả năng chế
tạo Thanh Long Yển Nguyệt Đao. Trong sách “Vũ Kinh tổng yếu” thời Tống có tranh vẽ mô tả loại
đao này.

Các sử gia hiện nay cho rằng triều Tống hưng thịnh bằng hoặc hơn triều đại Nhà Đường.

Ngoài ra, trong các thư tịch lịch sử Trung Quốc, thời Tam Quốc không có nhân vật nào sử dụng
vũ khí có tên gọi Thanh long Yển nguyệt đao.

Để chứng minh Quan Vũ chưa từng dùng Thanh long Yển nguyệt đao, và có thể ông ta chỉ dùng
một trong các loại xà mâu, một loại vũ khí cùng loại với thương, cán dài, nhưng lưỡi xoắn, trong
Tam Quốc Diễn Nghĩa, tác giả La Quán Trung mô tả: “… Quan Vũ thúc ngựa đâm (Nhan) Lương
giữa vạn quân”. Đoạn văn trên cho thấy Quan công chỉ có thể dùng mâu hoặc thương mới đâm
Nhan Lương. Trong khi Thanh long Yển nguyệt đao chỉ có thể chém, chặt chứ không thể đâm.

NHỮNG CÁI YẾU CỦA QUAN CÔNG:

* Mưu lược kém cõi:

– Sách Thục ký chép: Một lần Lưu Bị cùng đi săn với Tào Tháo, Quan Vũ lén khuyên Lưu Bị nên
nhân lúc mọi người hỗn loạn mà giết Tào Tháo, nhưng Lưu Bị không nghe vì tình thế không cho
phép manh động. Điều nầy cho thấy cái nhìn chiến lược của Quan công còn thua xa Lưu Bị.

– Tháng 9 năm 198, Tào Tháo và Lưu Bị hợp sức mang quân đến đánh Từ Châu để trừ Lã Bố.
Quan Vũ theo dự trận này. Quân Tào vây thành đến tháng 10 năm đó, Lã Bố khốn cùng phải
chạy lên lầu Bạch Môn. Trong khi đó, Quan công đã để lộ…

* Bản chất thấp hèn, chấp nhận làm điều hạ tiện:

Sách Thục ký chép rằng: “Trong bước đường cùng, Lã Bố mang vợ mình đến chỗ Quan Vũ để
lấy lòng ông, hy vọng ông nói giúp với Tào Tháo. Quan Vũ hỏi Tào Tháo rằng mình nhận người
đàn bà này được không, Tào Tháo nói rằng được! Nhưng sau đó Quan Vũ hỏi thêm mấy lần nữa
khiến Tào Tháo cảm thấy hứng thú bèn sai Quan công mang vợ Lã Bố tới. Khi Quan Vũ mang
vợ Lã Bố đến cho Tào Tháo, Tào ưng ý và giữ lại chỗ mình.”

Đoạn văn trên đây cho thấy hành vi của Quan công kém cỏi dưới mức bình thường, nếu Quan
công là kẻ chính nhân quân tử, chắc chắn ông ta sẽ:

– Không nhận vợ người làm của hối lộ cho mình.


– Không hạ mình làm chuyện “dắt gái” dâng cho người khác.

– Việc Quan công hỏi Tào Tháo năm lần, bảy lần chẳng khác nào khuyến khích Tào Tháo hãy
dung nạp vợ của người khác đã dâng cho mình, nhưng rồi đem vợ của người ta đi dâng cho chủ
mới với ý đồ mưu cầu lợi lộc cá nhân!

Thử hỏi, hành vi của Quan công có xứng đáng là hành động của người có đầy đủ tiết, liệt, trung,
hiếu không?

* Phản chúa, phản bạn, vong thề:

– Đầu năm 200, Tào Tháo chia quân đi chuẩn bị đánh Từ Châu. Lưu Bị biết mình thế yếu bèn sai
người đi cầu cứu Viên Thiệu nhưng Thiệu chần chừ không ra quân. Tào Tháo gấp rút tiến đánh
Từ Châu. Vài ngàn quân của Lưu Bị không chống nổi, bị thua tan tác. Lưu Bị bỏ chạy sang Hà
Bắc theo Viên Thiệu, Trương Phi trốn về Nhữ Nam, gia quyến Lưu Bị đều bị bắt; Quan Vũ không
có đường chạy, buộc phải đầu hàng Tào Tháo, theo về Hứa Xương.

Làm tướng thua trận, bỏ chủ mà người chủ đó đã từng uống máu ăn thề sinh tử có nhau, nhưng
đến khi cùng đường, lại hàng giặc, vong thề, bội ước, tham sống, sợ chết chẳng khác gì kẻ thất
phu hạ tiện… Trong bước khốn cùng Quan công đã thể hiện bản chất thấp hèn của kẻ tham sanh
quý tử, bất chấp khí tiết anh hùng, sự trung thành của kẻ bề tôi. Ngoài ra đã bội ước vong thề
với bằng hữu…

* Háo thắng, bỏ đại nghĩa, ham hố, tranh giành địa vị:

– Khi Mã Siêu (về sau là một trong ngũ hổ tướng của Lưu Bị) mới quy hàng Thục Hán, Quan
công đang trấn nhậm Kinh Châu, hay tin, liền vội viết thư cho Khổng Minh, sai người ngày đêm
cấp tốc về trao cho Khổng Minh, đòi về tranh tài cao thấp với Mã Siêu để phân thắng bại. Vốn là
kẻ đa mưu túc trí, Khổng Minh biết ngày ý đồ của Quan công, bèn viết thư phúc đáp trong đó
phải vỗ về Quan công và ca ngợi: “Mã Siêu tuy có giỏi, nhưng làm sao qua được ông là kẻ “tài
nghệ tuyệt luân”. Quan công hả dạ, mặt mày hớn hở, liền vừa vuốt râu vừa cười thỏa mãn, thốt
lên: “Khổng Minh thật hiểu ý ta!”

“Khổng Minh thật hiểu ý ta”, đó là lời Quan công khen người, nhưng Quan công nào biết, lời
“khen” ấy có khác nào ông ta tự mắng vào mặt mình!

* Và là kẻ lộng ngôn:

Năm 215, khi Quan công đang phòng thủ để ngăn trở Tào Ngụy cướp thành. Tào Tháo nghĩ nên
kết hợp với Tôn Quyền, nên sai người hẹn với Tôn Quyền đồng tấn công Kinh Châu để hóa giải
hận thù giữa hai nước Ngụy với Ngô.

Trong khi ấy, Lưu Bị nhận thấy binh lực Thục Hán yếu kém, bèn nghĩ cách nhượng bộ Tôn
Quyền, đề nghị trao cho ĐôngNgô ba quận Quế Dương, Linh Lăng và Trường Sa. Ngược lại,
phía Tôn Quyền giao Nam Quận lại cho Thục Hán. Do đó, Tôn Quyền với Thục Hán chánh thức
giảng hòa và cả hai bên đều đồng ý phân lại ranh giới của Kinh Châu. Phía Đông Ngô, tướng
Trình Phổ giao quận Giang Lăng cho Quan công. Xong, Trình Phổ đến Giang Hạ nhận chức Thái
thú.
Nhân sự trao đổi ấy, Tôn Quyến muốn bắt tay chặt chẽ với Lưu Bị, đồng thời muốn có giao hảo
tốt với Quan công để kéo dài tình hòa ước. Và nhất lả để liên minh chống nước Ngụy.

Trước đó 6 năm (tức năm 209, Lưu Bị cưới em gái của Tôn Quyền là Tôn Thượng Hương về làm
phu nhân, nhưng cả Tôn Quyền cùng Lưu Bị đều xem cuộc hôn nhân đó nhằm phục vụ lợi ích
đất nước, vì vậy, cuộc hôn nhân đỗ vỡ. Năm 213, Tôn phu nhân trở về Đông Ngô.

Trước khi quyết định bỏ Thục hợp cùng Tào, Tôn Quyền phái sứ giả đến cầu hôn con gái Quan
công cho con trai mình, để xem thử ý của Quan công như thế nào. Không ngờ vốn kẻ võ biền,
không biết và không đặt quyền lợi Thục Hán lên trên. Quan công chẳng những không chấp nhận
mà còn mạt sát Tôn Quyền trước mặt sứ giả nhà Ngô: “Hổ nữ sao có thể gả cho khuyển tử”.
Chính sự lộng ngôn nầy về sau đã đưa Quan công vào cõi chết.

“Hổ nữ sao có thể gả cho khuyển tử”. Quan công tự cho ông ta là giống nòi hổ, còn dòng giống
của Tôn Quyền chỉ là loài chó. Nhưng, thực tế ai hổ, ai chó đây?

Trong khi Quan công chỉ là anh chàng ngày ngày gánh tào hủ mềm (còn gọi là đậu phụ) ăn với
nước đường đi bán để mưu sinh, thì Tôn Quyền cùng Tôn Sách (孫策) 175 – 200, là con của Tôn
Kiên một viên tướng thời Hán mạt.

Tôn Kiên, (孫堅) 155-191, tên tự là Văn Đài (文臺), làm Thái Thú trường Sa, hạ tướng của Viên
Thuật. Khi dẫn quân đi đánh Ích Châu, Lưu Biểu sai bộ hạ là Hoàng Tổ bắn chết ở Hiện Sơn
(ngoại thành, thành phố Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc ngày nay), ông là người đặt nền móng xây
dựng nước Đông Ngô thời Tam Quốc. Khi ấy Tôn Sách 16 tuổi còn Tôn Quyền mới lên 10.

Sau khi Tôn Kiên chết, Tôn Sách, (孫策) 175 – 200 đem thi hài phụ thân ông về Khúc A (曲阿,

ngày nay thuộc Giang Tô) để chôn cất trước khi tiến về Đan Dương (丹楊, ngày nay là Tuyên

Thành, An Huy, tại đó cậu của ông là Ngô Cảnh (吳景) đang làm thái thú.

Khi ở với người Cậu, Tôn Sách lập ra một đội quân nhỏ vài trăm người. Lực lượng nhỏ này là
quá yếu ớt để ông có thể thiết lập quyền lực riêng của chính mình. Ông trốn người cậu về đầu
Viên Thuật.

Trong khi dưới trướng của Viên Thuật, Tôn Sách bị Viên Thuật gạt nhiếu lần (phần chữ nghiêng
dưới đây trích nguyên văn từ Tự Điển Bách Khoa Toàn Thư) Trích:

“Viên Thuật rất có ấn tượng về Tôn Sách và thường than vãn rằng ông không có người con trai
nào được như Tôn Sách. Ông này cũng trao lại các đơn vị quân đội trước đây thuộc quyền Tôn
Kiên cho Tôn Sách.

Ban đầu, Viên Thuật hứa sẽ cho Tôn Sách làm thái thú Cửu Giang nếu ông đánh được quận này.
Tuy nhiên khi Tôn Sách hạ thành, Viên Thuật lại giao chức Thái thú cho Trần Kỷ (陳紀).
Võ Thánh Quan Vũ chưa từng cầm Thanh Long đao huyền thoại?

Đăng Nguyễn

Thứ Hai, ngày 18/03/2019

(Dân Việt) Thanh Long Yển Nguyệt đao là vũ khí gắn liền với hình tượng nhân vật Quan Vũ
trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, nhưng loại vũ khí này liệu có thật
trong lịch sử?

Thanh Long Yển Nguyệt đao là một trong những loại binh khí nổi tiếng nhất được mô tả trong
Tam quốc diễn nghĩa, thuộc về Võ Thánh Quan Vũ của nhà Thục Hán. Hình ảnh Quan Vũ mặt
đỏ, râu dài, tay cầm Thanh Long Yển Nguyệt đao càng khắc sâu trong tâm trí người yêu Tam
quốc kể từ khi tiểu thuyết này được chuyển thể lên màn ảnh.

Trong Tam quốc diễn nghĩa, Quan Vũ đã dùng Thanh Long Yển Nguyệt đao lập vô số công
trạng, chém bay đầu tướng địch, gây chấn động Trung Hoa. Dần dần, cứ nhắc đến Thanhg Long
Yển Nguyệt đao là người ta nhớ đến Quan Vũ, nên loại binh khí này còn được gọi là Quan đao.

Thanh Long Yến Nguyệt đao của Quan Vũ có thật hay không?

Tam quốc diễn nghĩa mô tả Thanh Long Yển Nguyệt đao là loại binh khí có mũi nhọn, cán dài,
lưỡi có hình tựa bán nguyệt, trên đao có khắc hình con rồng.

Yển Nguyệt có nghĩa là cong tựa như mặt trăng. Người ta hay gọi là “Thanh Long đao” do màu
xanh của sắc đao mỗi khi Quan Vũ chém quân địch.

Thanh đao này tương truyền nặng tới 82 cân (mức đo lường trong Tam quốc diễn nghĩa, vào
khoảng 18-48kg ngày nay). Lưỡi đao sáng loáng đến nỗii có thể soi trăng để uống rượu.

Theo truyền thuyết, quan đao được Quan Vũ phát minh, yêu cầu thợ rèn chế ra loại binh khí với
hình dạng và kích thước đúng như ý muốn. Nhờ có tầm vóc và sức mạnh hơn người, Quan Vũ
mới có thể mang loại vũ khí oai phong đến vậy.

Trên thực tế, Tam quốc diễn nghĩa của tác giả La Quán Trung từ lâu đã được mô tả là dùng
phương pháp bảy thực ba hư (bảy phần thực ba phần hư cấu), để khiến câu chuyện trở nên sinh
động trong mắt người đọc.

vo thanh quan vu chua tung cam thanh long dao huyen thoai? hinh anh 3

Quan Vũ nổi tiếng là dũng tướng tả xung hữu đột trên chiến trường.

Tam Quốc diễn nghĩa mô tả Quan Vũ sử dụng Thanh Long Yển Nguyệt đao còn mang ý nghĩa
tuyên truyền, tô đậm hình tượng anh dũng của nhân vật này.

Các nhà nghiên cứu Trung Quốc sau này đều cho rằng, binh khí mà Quan Vân Trường sử dụng
trong lịch sử thời Tam quốc không phải là Thanh Long Yển Nguyệt đao, mà là những loại vũ khí
thông thường để đâm, chém.

Các tài liệu lịch sử Trung Quốc chép về thời Tam quốc cũng không nhắc đến nhân vật nào từng
sử dụng vũ khí có tên gọi “Thanh Long Yến Nguyệt đao”.
Tam Quốc Chí của tác giả Trần Thọ nhắc đến Quan Vũ trong đoạn: “Thúc ngựa đâm Nhan Lương
giữa vạn quân”. Điều này phần nào khẳng định rằng Quan Vũ dùng vũ khí tựa như thương để
đâm kẻ địch và dùng đoản đao để chém đầu.

Yến Nguyệt đao trong lịch sử

Theo tác giả Roger Pelissier, mãi đến thời Tống, Yển Nguyệt đao mới xuất hiện, dựa trên dòng
mô tả trong sách “Võ kinh tổng yếu”. Đây là cuốn sách với nội dung chính là các hướng dẫn
quân sự. Trái ngược với những gì mô tả trong Tam quốc diễn nghĩa, Yển Nguyệt đao chỉ được
dùng trong huấn luyện hoặc biểu diễn.

vo thanh quan vu chua tung cam thanh long dao huyen thoai? hinh anh 4

Quan Vũ cầm Thanh Long Yển Nguyệt đao trong phim truyền hình Trung Quốc.

Yển Nguyệt đao thời nhà Tống bao gồm lưỡi đao nặng với một cán dài ở phía sau và đôi khi
cũng có một khía tại bệ đỡ lưỡi đao giúp có thể móc, đoạt vũ khí của đối phương.. Lưỡi đao được
gắn trên đỉnh một thanh gỗ hoặc thanh kim loại dài khoảng 1,5-1,8 mét.

Đến thời nhà Thanh, Yển Nguyệt đao hay Quan đao cũng không được dùng trong chiến đấu, mà
chỉ nhằm kiểm tra sức mạnh của người lính. Mỗi thanh đao còn được chế tạo với trọng lượng
khác nhau để thử khả năng của người tham gia huấn luyện. Quan đao nặng nhất thời nhà Thanh
hiện được đặt trong một bảo tàng ở Sơn Hải Quan, với trọng lượng lên tới 83kg.

Theo sử sách Trung Quốc, từ thời nhà Minh, quân đội Trung Quốc đã có truyền thống kiểm tra
thể lực của binh sĩ bằng cách nâng các tảng đá với trọng lượng khác nhau. Tác giả La Quán Trung
sống ở thời Minh có thể mượn hình tượng này để mô tả sức nặng bất thường của Thanh Long
Yển Nguyệt đao của Quan Vũ.

Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu cho rằng, vào thời đại Tam Quốc, công nghệ chế tạo binh khí
chưa đủ độ khó để làm ra loại đại đao lưỡi lớn như Thanh Long đao.

Đao được sử dụng thời Tam Quốc đa số có lưỡi đao hẹp, độ dài khoảng 1m, độ dày khá lớn và
có 1 lưỡi, gọi chung là Tam quốc hoàn thủ đao.

Ở thời Tam quốc, trường đao có cán dài vẫn chưa phải là một vũ khí phổ thông. Các tướng lĩnh
thời Tam quốc, bao gồm cả Quan Vũ, được cho là ưa thích sử dụng trường mâu để đâm đối
phương trên lưng ngựa.

Thực hư Quan Vũ lấy đầu Nhan Lương, qua năm ải chém sáu tướng
Tào

Đăng Nguyễn

Thứ Sáu, ngày 15/03/2019

(Dân Việt) Quan Vũ trong Tam quốc diễn nghĩa được phác họa là nhân vật có sức mạnh hơn
vạn người, từng vượt 5 ải chém 6 tướng của Tào Tháo, nhưng thực sự sức mạnh của Quan Vũ
ra sao?
Trong Tam Quốc Diễn Nghĩa, tác giả La Quán Trung coi nhà Hán là chính thống nên ủng hộ lực
lượng do Lưu Bị, một tôn thất nhà Hán, đứng đầu. Quan Vũ nhờ đó được mô tả là nhân vật
chính diện, vũ dũng hào hiệp, có khí phách anh hùng. Tình huynh đệ giữa ông với Lưu Bị và
Trương Phi được La Quán Trung ca ngợi hết mực.

Tam quốc diễn nghĩa mô tả Quan Vũ cao hơn 2 mét, mặt đỏ như gấc, mắt phượng mày tằm, râu
dài hai thước, oai phong lẫm liệt. Những miêu tả này của La Quán Trung về sau được sử dụng
trong các bộ phim truyền hình về Tam quốc, nhưng chưa bao giờ được các sử gia xác nhận trên
thực tế.

Năng lực chiến đấu của Quan Vũ cũng có những khác biệt so với những gì mô tả trong Tam quốc
diễn nghĩa.

Dưới trướng của Lưu Bị, Quan Vũ lập nên vô số công lao mà điển hình là những màn đấu võ,
trảm tướng đầy khí phách. Đặc biệt nhất phải kể đến tích vượt 5 ải trảm 6 tướng của Tào Tháo
khi đưa 2 người vợ của Lưu Bị trở về.

Những nhà nghiên cứu Tam Quốc diễn nghĩa tóm lược rằng, Quan Công lập nhiều công trạng,
trước sau chém được 17 viên tướng ngoài mặt trận. Một trong những sự tích nổi bật nhất là màn
đột kích chém chết Nhan Lương.

Tam quốc diễn nghĩa hồi 25 có đoạn tả: “Quan Công nhảy lên ngựa, cầm Thanh Long Đao phi
xuống núi, xông thẳng vào thế trận của địch. Quan Công xông thẳng vào Nhan Lương. Nhan
Lương thấy Quan Công lao tới, đang định cất tiếng hỏi thì ngựa Xích Thố đã tới trước mắt. Nhan
Lương không kịp trở tay, bị Vân Trường vung đao đâm ngã xuống ngựa, cắt lấy thủ cấp treo lên
cương ngựa. Quan Công thu đao rút về, như vào chỗ không người”.

Trong hồi 27 của tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, tác giả La Quán Trung mô tả sự tích Quan Vũ
sau khi treo ấn từ quan, cáo biệt Tào Tháo, mang hai phu nhân đi về Hà Bắc để gặp Lưu Bị. Quan
Vũ được mô tả là lần lượt phải trải qua đủ 5 ải. Vì không xin Tào Tháo nên Quan Vũ qua mỗi ải
đều bị ngăn cản, bất đắc dĩ phải chém 6 tướng của Tào Tháo, bao gồm Khổng Tú, Mạnh Thản,
Hàn Phúc, Biện Hỉ, Vương Thực và Tần Kỳ. Chiến tích này được ghi nhớ như bằng chứng về sức
mạnh vô song trong cuộc đời đầy thăng trầm của Quan Vũ.

Sức mạnh thực sự của Quan Vũ

Sau thời Tam quốc không lâu, Trần Thọ – một vị quan nhà Tây Tấn, đã dựa vào các sử liệu thu
thập được, để phác họa lại lịch sử Trung Quốc thời Tam quốc, soạn nên cuốn sách gọi là Tam
quốc chí. Trong cuốn sách này, Trần Thọ có ghi lại sự kiện Quan Vũ chém Nhan Lương. “Quan
Vũ thấy Nhan Lương, bèn thúc ngựa đâm Lương giữa vạn quân, chém đầu Lương. Tào Công
(Tào Tháo) lập tức phong Quan Vũ làm Hán Thọ Đình Hầu”. Điều đáng nói là nhân vật Nhan
Lương khi đó không phải là một tướng giỏi đánh trận, mà chỉ là tướng chỉ huy, bày binh bố trận.

Dựa trên ghi chép của Trần Thọ trong Tam quốc chí có thể thấy, Quan Vũ tìm ra Nhan Lương
trong cuộc hỗn chiến và quyết định xông thẳng đến chém tướng địch, dù việc này không hề dễ
dàng. Tác giả Trần Thọ không nêu rõ trận đánh thành Bạch Mã, nhưng việc Quan Vũ tìm đến
tận nơi Nhan Lương chỉ huy quân, thể hiện phần nào khí phách và sức mạnh hơn người của
Quan Vân Trường.

Điểm vượt trội của Quan Vũ là chỉ dựa vào năng lực chiến đấu bản thân, không cần người trợ
giúp cũng có thể tìm đến nơi Nhan Lương ẩn náu mà chém chết tướng địch. Việc Quan Vũ đơn
thương độc mã đột phá vòng vây chém Nhan Lương có thể coi là kỳ tích, gần như không có khả
năng tái hiện trong lịch sử

Về việc Quan Vũ “vượt 5 ải, chém 6 tướng”, các sử gia Trung Quốc sau này chỉ ra rằng đây chỉ
là sự tích mang tính ước lệ, thể hiện tiết khí trung nghĩa khẳng khái quả cảm không ngại đi ngàn
dặm tìm về với Lưu Bị. Trên thực tế, 5 ải này ở cách nhau rất xa và cũng không liên quan đến
việc Quan Vũ tìm đường về với người anh kết nghĩa Lưu Bị. Sau khi bỏ Tào Tháo, Quan Vũ cưỡi
ngựa từ Hứa Xương về Nhữ Nam tìm Lưu Bị khá thuận lợi, chỉ mất khoảng 3-4 ngày đường.

Mỹ nhân tuyệt sắc khiến Tào Tháo bất hòa với Quan Vũ

Đăng Nguyễn

Thứ Bảy, ngày 04/03/2017

(Dân Việt) Tào Tháo nổi tiếng là kẻ háo sắc đến mức lấn át lý trí, sẵn sàng cướp mỹ nhân mà
Quan Vũ từng ba lần cầu xin dù trước đó, ông từng tỏ lòng kính phục danh tướng phe Lưu Bị.

Bên cạnh Gia Cát Lượng, Tào Tháo, tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của tác giả La Quán Trung
cũng đề cập đến những nhân vật kiệt xuất khác thời Tam quốc như Quan Vũ, Tôn Quyền, ngũ
hổ tướng Thục Hán… Loạt bài này sẽ làm rõ những tình tiết hư cấu trong tiểu thuyết cũng như
khai thác yếu tố mà Tam quốc diễn nghĩa không đề cập đến.

Theo trang mạng Qulishi (Trung Quốc), dân gian có câu “Anh hùng nan quá mỹ nhân quan”
(anh hùng khó qua ải mỹ nhân).

Đàn ông háo sắc vốn là chuyện thường, huống hồ là chuyện anh hùng kết mỹ nhân từ thời cổ
xưa. Tuy nhiên, một nhà chính trị, quân sự kiệt xuất như Tào Tháo lại háo sắc đến mức lấn át lý
trí, gây ra nhiều tai họa.

Tào Tháo thê thiếp đếm không xuể

Các học giả Trung Quốc cho đến nay vẫn chưa thể thống kê chính xác việc Tào Tháo lấy tất cả
bao nhiêu người đẹp làm vợ. Theo sử sách, Tào Tháo có tới 15 người vợ với lai lịch rõ ràng. Các
bà vợ này có thành phần phức tạp, xuất thân đến từ những nơi khác nhau.

Chính thất Đinh phu nhân tính cách cao ngạo, Biện phu nhân xuất thân kỹ nữ, còn nhiều nhất là
vợ người khác cướp được qua chiến trận. Tào Tháo có tổng cộng 25 người con với nhiều bà vợ,
trong đó các con trai Tào Phi, Tào Thực và Tào Xung là nổi bật nhất.

Những câu chuyện dân gian về việc Tào Tháo háo sắc lan truyền khắp nơi. Sử sách Trung Quốc
cũng ghi lại một số trường hợp Tào Tháo vì háo sắc mà đánh mất lý trí. Tào Tháo háo sắc bất kể
thời gian, địa điểm, đối tượng, chỉ cần thấy ưng mắt là muốn chiếm đoạt. Theo sử sách, Tháo
nghe nói Tiểu Kiều vợ Chu Du phe Đông ngô rất đẹp bèn công khai bày tỏ muốn cướp đoạt.
Điều này khiến Chu Du rất tức giận và kiên quyết chống Tào đến cùng.

Biện phu nhân là người được Tào Tháo sùng ái nhất.

Bên cạnh đó, chuyện ba cha con Tào Tháo cùng yêu một người phụ nữ đã trở thành một giai
thoại trong dân gian. Trong cuộc chiến ở Quan Độ, Viên Thiệu đại bại, để lại vô số chiến lợi
phẩm. Nhưng thứ mà Tào Tháo muốn có nhất lại chính là nàng Chân Mật, vợ bé của Viên Thiệu.
Không ngờ “cha nào con nấy”, con trai Tháo là Tào Phi cũng theo đuổi mỹ nhân này. Khi chiến
trận chưa kết thúc, Tào Phi đơn phương đã dẫn quân xông đến cướp lấy Chân Mật.

Biết chuyện, Tào Tháo nổi trận lôi đình: “Lão đây vất vả đánh trận rốt cuộc thằng ranh lại đắc
lợi”. Nhưng cuối cùng Tào Tháo chấp nhận nhường mỹ nhân cho con trai. Về phe Tào, người
đẹp này lại đem đến rắc rối. Chân Mật tuy lấy Tào Phi nhưng lại đem lòng yêu người em chồng
là Tào Thực. Cuối cùng, Tào Phi là người kế tục khi cha qua đời. Nhưng con trai Tào Tháo cũng
không thể thay cha thống nhất thiên hạ.

Tranh giành mỹ nhân với Quan Vũ

Câu chuyện đáng chú ý nhất mà sử sách lưu lại là việc Tào Tháo ngang nhiên tranh giành mỹ
nhân với danh tướng Quan Vũ. Dù Quan Vân Trường là người mà Tào Tháo hết sức ngưỡng mộ
nhưng bản tính háo sắc vẫn luôn trên hết.

Trong tiểu thuyết “Tam Quốc diễn nghĩa”, La Quán Trung xây dựng nên ba nhân vật xuất sắc
nhất và gọi là “tam tuyệt”. Tào Tháo tuyệt gian, Quan Vũ tuyệt nghĩa, Gia Cát Lượng tuyệt trí.

Sử sách chép lại, có một mỹ nhân bị chồng ruồng bỏ nhưng lại khiến cho hai “tam tuyệt” phải
tranh giành. Người phụ nữ này tên Đỗ Thị. Bà có chồng là Tần Nghi Lộc, tướng phục vụ dưới
trướng “Tam quốc chiến thần” Lữ Bố.

Hai “tam tuyệt” này không ai khác chính là Tào Tháo và Quan Vũ. Sử sách ít đề cập đến câu
chuyện về Tần Nghi Lộc và Đỗ Thị. Hai người theo Lữ Bố nhiều năm và có với nhau một con
trai.

Mọi chuyện thay đổi khi Lữ Bố chiếm Từ Châu, vốn do Lưu Bị kiểm soát. Lữ Bố không phải là
người nghĩ xa, không tận diệt Lưu Bị, để Bị liên kết với Tào Tháo. Cho đến khi đối mặt với nguy
cấp, Lữ Bố mới phái Tần Nghi Lộc đến cầu viện Viên Thuật. Tần Nghi Lộc bị Viên Thuật lôi kéo,
ở lại lấy con gái hoàng tộc nhà Hán. Đỗ Thị mong mỏi ngóng tin chồng trong vô vọng rồi cũng
chấp nhận sống với Lữ Bố.

Năm 199, Lữ Bố bị liên quân Lưu Bị-Tào Tháo vây đánh, phải cố thủ trong thành Hạ Bì. Lúc đó,
Quan Vũ, phục vụ dưới trướng Lưu Bị muốn xin Tào Tháo cho mình được lấy Đỗ Thị. Tào Tháo
nói đó là chuyện nhỏ, để sau hẵng hay.

Mấy hôm sau, lần thứ hai Quan Vũ nhắc lại chuyện này, Tào Tháo chỉ ngáp ngắn ngáp dài cho
qua chuyện. Lần thứ ba Quan Vũ đề cập đến việc này khiến Tào Tháo chú ý, nghi ngờ rằng Đỗ
Thị là một tuyệt sắc giai nhân mà Quan Vũ muốn có bằng được. Kể từ đó, Tào Tháo đã lên kế
hoạch đích thân xem mặt Đỗ Thị.
Khi quân Tào đánh thành Hạ Bì, Tào Tháo ra lệnh cho một đội quân thân tín đánh trước, nhằm
vào nơi Đỗ Thị ở. Tận mắt chứng kiến nhan sắc của Đỗ Thị, Tào Tháo ngang nhiên chiếm lấy,
đưa về làm thê thiếp mà bỏ ngoài tai lời thỉnh cầu của Quan Vũ.

Biết tin, Quan Vũ vô cùng tức giận nhưng cũng đành phải chấp nhận. Một số học giả Trung Quốc
cho rằng, mối quan hệ Quan Vũ, Tào Tháo trở nên căng thẳng kể từ đó.

Sách Thục ký còn chép lại rằng: Sau sự việc này, có lần Lưu Bị cùng đi săn với Tào Tháo, Quan
Vũ lén khuyên Lưu Bị nhân lúc mọi người hỗn loạn mà giết Tào Tháo. Lưu Bị dĩ nhiên không
nghe theo vì tình thế không cho phép manh động.

Sau này, Quan Vũ cùng đường, buộc phải đầu hàng Tào Tháo. Phục vụ cho Tào Tháo một thời
gian, Quan Vũ lập nhiều chiến công như để trả ơn tha mạng rồi quay về với Lưu Bị.

Quan Vũ cũng là người duy nhất thời Tam quốc dám phụ lòng Tào Tháo mà vẫn còn toàn mạng
trở về.

Số phận của mỹ nhân từng khiến Tào Tháo và Quan Vũ tranh giành sau này cũng khá yên bình.
Đỗ Thị mang theo con trai Tần Lãng rời khỏi thành Hạ Bì binh đao loạn lạc, chuyển đến phủ đệ
của Tào Tháo. Ở đó, bà được sống an lành cho đến cuối đời, trong thời Tam quốc khốc liệt.

La Quán Trung đã 'dìm hàng' Lưu Bị đến mức nào trong Tam quốc
diễn nghĩa

06/03/2019

Trong Tiểu thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, La Quán Trung mô tả Lưu Bị là người nhân nghĩa
nhưng nhu nhược, chẳng có tài cái gì đặc biệt nhưng trên thực tế, Lưu Bị của chính sử, lại là
một nhân vật hoàn toàn khác. Thậm chí có thể nói ông sở hữu những phẩm chất xuất sắc của
một bậc đế vương!

Lưu Bị (161-223) hay còn gọi là Hán Chiêu Liệt Đế, là thủ lĩnh số một – hoàng đế khai quốc nước
Thục Hán thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.

Tay trắng làm nên đại nghiệp

Lưu Bị là một trong những nhân vật chính của tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa. Trong tác phẩm
này, La Quán Trung xây dựng Lưu Bị là nhân vật chính diện, có lòng nhân từ bác ái nhưng có
phần nhu nhược, không có tài năng đặc biệt, nhờ may mắn có các cận thần tài giỏi mà ông mới
dựng được cơ nghiệp.

Trên thực tế, ghi chép của bộ chính sử Tam quốc chí cho thấy Lưu Bị là một vị tướng có tài cầm
quân, ứng phó linh hoạt, nhất là khả năng nhìn thấu nội tâm, thu phục nhân tài và khiến họ một
lòng trung thành với mình. Đương thời, ngay cả đệ nhất “tập đoàn Ngụy” Tào Tháo cũng đánh
giá Lưu Bị rất cao, coi ông là đối thủ số 1 phân tranh thiên hạ.

Không giống như Tào Tháo và Tôn Quyền xuất thân từ tầng lớp quý tộc và có cơ sở nhất định
(tài sản, uy danh gia tộc) để “làm vốn” trên đường gây dựng phát triển sự nghiệp, Lưu Bị tuy
danh nghĩa dòng dõi nhà Hán nhưng ông xuất thân bần hàn, thuở nhỏ phải đan giày cỏ kiếm
sống. Vì thế, quá trình phát triển thế lực của Lưu Bị trong thời loạn cũng vất vả, gian truân hơn.
Tuy vậy, ông vẫn kiên định, không nản lòng, tỏ ra có chí khí lớn, để rồi tay trắng làm nên cơ
nghiệp.

Vì La Quán Trung chủ ý hư cấu, đôi khi “dìm hàng” Lưu Bị vì vậy nhiều sách lược xuất sắc cùng
chiến tích quân sự của Lưu Bị thường được gắn cho nhân vật khác. Do ảnh hưởng từ bộ tiểu
thuyết Tam Quốc diễn nghĩa, nhiều người cho rằng thành quả của Lưu Bị đều là nhờ công tướng
sỹ dưới quyền. Tuy nhiên, theo bộ chính sử Tam Quốc chí, thì hoàn toàn ngược lại. Lưu Bị không
những nhiều lần tự cầm quân ra trận mà còn thắng nhiều trận lẫy lừng.

Tự mình cầm quân, thắng nhiều trận lớn

Khi mới tạo lập sự nghiệp, Lưu Bị ở dưới quyền Hiệu úy Trâu Tĩnh, ông tác chiến với quân Khăn
Vàng mấy trận đều thắng lợi, và được phong làm Huyện úy An Hỉ (thuộc nước Trung Sơn).
Không lâu sau đó, Lưu Bị từng cầm quân đánh tan dư đảng Khăn vàng, giải vây cho Thái thú
Khổng Dung.

Năm 193, Tào Tháo mang đại quân đánh Từ Châu để báo thù cho cha Tào Tung. Lưu Bị cùng
Quan Vũ, Trương Phi, Triệu Vân có hơn 1000 quân cùng các lính ô hợp người Ô Hoàn ở U châu,
thu dụng thêm vài ngàn dân đói nhập ngũ và vài ngàn quân của Đào Khiêm, tổng cộng chưa
đầy 1 vạn binh. Dù vậy, Lưu Bị vẫn cùng tướng của Tào Khiêm là Tào Báo cố thủ thành công ở
Viêm Thành.

Năm 199, Viên Thuật thế cùng, muốn chạy lên Hà Bắc theo Viên Thiệu. Lưu Bị cùng Quan Vũ và
Trương Phi mang 1.000 quân, chiêu nạp thêm vài ngàn nạn dân, đã đánh bại mấy vạn quân Viên
Thuật ở đường lớn Từ châu.

Năm 200, Tào Tháo đại thắng Viên Thiệu ở Quan Độ. Được đà, Tào Tháo sai Sái Dương đi đánh
Nhữ Nam. Lưu Bị mang quân ra địch, đánh tan quân Tào của Sái Dương.

Năm 204, Lưu Biểu theo đề nghị của Lưu Bị, sai ông mang quân từ Tân Dã tiến đánh Tào Tháo,
ông đánh huyện Diệp không nổi phải rút lui. Hạ Hầu Đôn mang quân truy kích, Lưu Bị đặt phục
binh ở gò Bác Vọng, đánh bại 2 tướng giỏi của Tào Tháo là Hạ Hầu Đôn và Vu Cấm, bắt sống bộ
tướng của Hạ Hầu Đôn là Hạ Hầu Lan.

Mùa hè năm 214, Lưu Bị đem quân đánh chiếm đất Thục Lưu Bị tự cầm một cánh quân (cánh
còn lại do Quân sư Bàng Thống chỉ huy), đánh bại và bắt sống Trương Nhiệm, sau đó xử trảm
đại tướng của Lưu Chương.

Đỉnh cao trong các trận đánh mà Lưu Bị đích thân cầm quân ra trận chính là trận chiến Hán
Trung với Tào Tháo. Năm 218, Lưu Bị cùng mưu sĩ Pháp Chính khởi 10 vạn quân tới Hán Trung.
Lưu Bị đóng quân hạ trại tại núi Định Quân, cho quân mai phục ở phía sau đỉnh núi này, đánh
thắng và giết chết tướng giỏi của Tào là Hạ Hầu Uyên.

Tào Tháo được tin Hạ Hầu Uyên tử trận, đích thân mang đại quân từ Trường An đến quyết
chiến. Lưu Bị thấy Tào Tháo mất nguồn lương tại chỗ, phải vận nhiều lương từ xa đến, bèn phái
binh đi cướp lương thảo rồi sau đó giữ chặt thế phòng thủ, nhất quyến không giao chiến.
Qua hơn 1 tháng khiêu chiến bất thành, quân Tào bắt đầu mệt mỏi và nản chí. Tới lúc ấy, Lưu Bị
sai người lọt vào hàng ngũ quân Tào làm nội ứng, phao tin đồn khiến quân Tào rối loạn. Tào
Tháo liệu thế không thể thắng được Lưu Bị, đành lui quân. Toàn bộ Hán Trung đã thuộc về Lưu
Bị sau trận này.

Nhưng bị La Quán Trung “dìm hàng” thậm tệ

Đấy là những chi tiết lịch sử có thật cho thấy tài năng quân sự không-tầm-thường của Lưu Bị,
người được tác giả pho sử Tam Quốc Chí – Trần Thọ đánh giá ““Tiên Chủ là người cương nghị
khoan hoà nhân hậu, hiểu lòng người kính kẻ sĩ, có phong độ của Hán Cao Tổ, có khí chất của
bậc anh hùng. Đến lúc trao việc nước thác con côi cho Gia Cát Lượng, mà lòng không ngờ vực,
tin rằng vua tôi đều chí công, là điều chưa từng thấy xưa nay vậy”.

La Quán Trung đã 'dìm hàng' Lưu Bị đến mức nào trong Tam quốc diễn nghĩa – 4

Nhiều mưu lược, quyết sách xuất sắc của Lưu Bị được La Quán Trung “ghi công” cho Gia Cát
Lượng

Đáng nói, do đề cao Gia Cát Lượng và Thần thách hóa quá mức Quan Vũ, La Quán Trung cũng
nhiều lần phủ nhận cái tầm của Lưu Bị và gán nhiều thành tích của ông cho 2 nhân vật kể trên.
Đầu tiên là việc La Quán Trung viết Quan Vũ giết chết Sái Dương trong trận chiến ở Nhữ Nam
cuối năm 200 trong khi Lưu Bị mới là người chém viên tướng này của Tào.

Ngay cả việc Lưu Bị một mình một thuyền tới gặp Chu Du trước trận Xích Bích để gắn kết liên
minh Tôn – Lưu năm 208 cũng “được” La Quán Trung chế thành tích “Quan Vũ đơn đao phó
hội” gặp Lỗ Túc năm 215. Ngay cả kế Hỏa thiêu gò Bác Vọng đánh lui quân Tào vốn một tay do
Lưu Bị thực hiện từ trước khi Gia Cát Lượng về dưới trướng mình cũng “được” Tác giả họ La
biến thành diệu kế của Khổng Minh.

Thất bại của Lưu Bị ở trận Di Lăng năm 222, do nóng vộ báo thù cho Quan Vũ mà mắc nhiều sai
lầm dẫn tới dính phải kế hỏa công của Lúc Tốn, dưới ngòi bút của La Quán Trung cũng bị phóng
đại quá mức. Trong Tam Quôc diễn nghĩa, La Quán Trung viết Lưu Bị dẫn tới 70 vạn đại quân
đánh Ngô trong khi trên thực tế Bị chỉ mang 4 vạn quân, tức ít hơi cả lực lượng đối thủ (5 vạn).

Tóm lại, Lưu Bị là người dạn dày kinh nghiệm trận mạc, đích thân cầm quân hàng chục trận và
giành không ít thắng lợi. Ông không chỉ là nhân nghĩa, đức độ mà còn là người sáng suốt, biết
thấu tim gan người khác, rất giỏi dụng nhân. Về điểm này, Lưu Bị tỏ ra còn hơn cả Tào Tháo
(nhiều tướng của Tào Tháo đã làm phản sau khi ông qua đời, trong đó nổi bật nhất là Tư Mã Ý).

Sự ủy thác Lưu Thiện cho Gia Cát Lượng cho thấy ông đã chọn đúng người phụ chính cho con
nhỏ. Trước lúc lâm chung ông cũng nhìn ra giới hạn năng lực của Mã Tốc và khuyên Gia Cát
Lượng không nên quá trọng dụng vì Tốc là người hay nói quá sự thật. Thực tế sau này chứng
minh nhìn nhận của ông về con người đều chính xác.

Thanh Xuân

You might also like