Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 31

PHƯƠNG PHÁP LẬP HƯỚNG THEO HUYỀN KHÔNG PHONG THỦY

(Phương pháp lập hướng theo phong thủy Huyền Không phần thứ nhất) Đối
với Huyền Không phi tinh, việc lựa chọn tọa sơn, lập hướng cho một căn
nhà (hay phần mộ) là một vấn đề khá phức tạp, đòi hỏi nhiều công phu và
mức độ xem xét khá tỉ mỉ. Trong nội dung bài viết này sẽ đáp ứng phần nào
những vấn đề về Phong thủy nhà ở mà mọi người thường quan tâm từ xưa
tới nay.
Tuy rằng trên nguyên tắc thì bất cứ tuyến vị nào đắc vượng tinh tới sơn hay
tới hướng đều có thể chọn dùng, nhưng Huyền Không còn đòi hỏi hướng
nhà phải thuần khí, chứ không được pha tạp với những khí khác. Muốn đạt
được điểm này thì nhà (hay mộ) cần phải được chính sơn, chính hướng,
đồng thời phải xa lánh những tuyến Đại không vong và Tiểu không vong.
Nếu trong trường hợp nhà không thể chọn được chính hướng, mà bắt buộc
phải kiêm hướng, thì độ kiêm cũng cần phải theo đúng pháp độ, chứ không
thể tùy tiện chọn lựa.
Sau đó còn phải phối hợp với sơn-thủy và địa hình chung quanh, cũng như
Thành môn ở 2 bên hướng như thế nào? Nếu mọi sự đều tốt đẹp thì đó mới
là cục diện toàn mỹ, còn nếu không thì tùy trường hợp nào khiếm khuyết mà
mức độ tốt đẹp sẽ giảm thiểu, cho nên tuy rằng căn nhà đó cũng có thể tạm
ở, nhưng nên chờ cơ hội mà tu chỉnh lại hay tìm những nơi khác tốt đẹp hơn.
Dưới đây chúng ta sẽ khảo sát từng điều kiện ở trên để có thể hiểu thấu đáo
hơn về phương pháp chọn hướng nhà.
· Chính Sơn, Chính Hướng
· Kiêm hướng
· Đại Không Vong
· Tiểu Không Vong
· Thành môn
· Phối hợp Phi tinh với địa hình
Vấn đề thuần khí
Huyền Không Phong Thủy rất coi trọng vấn đề này, xem nó như là yếu tố
đầu tiên quyết định họa phúc, sang hèn của một căn nhà. Muốn xét căn nhà
có được thuần khí hay không thì trước hết phải tìm hiểu về Tam Nguyên
Long.
(Thiên nguyên long, địa nguyên long và nhân nguyên long )
THIÊN NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương: CÀN-KHÔN-CẤN-TỐN
• 4 sơn âm: TÝ-NGỌ-MÃO-DẬU
NHÂN NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương: DẦN-THÂN-TỴ-HƠI
• 4 sơn âm: ẤT-TÂN-ĐINH-QUÝ
ĐỊA NGUYÊN LONG:
• 4 sơn dương : GIÁP-CANH-NHÂM-BÍNH
• 4 sơn âm: THÌN-TUẤT-SỬU-MÙI
Một căn nhà được xem là Thuần khí khi tuyến vị tọa-hướng của nó hoặc là
nằm chính giữa 1 sơn, hoặc là lệch sang bên phải hoặc bên trái tuyến vị đó
(còn gọi là Kiêm hướng) nhưng không quá 3 độ. Nếu lệch quá 3 độ thì sẽ lấy
khí của sơn bị kiêm nhiều quá, khiến cho khí của tọa-hướng không còn
thuần khiết nữa, mà đã bị pha tạp, mức độ tốt đẹp sẽ giảm thiểu, hoặc sẽ gặp
hung họa lớn, nếu như chẳng may nhà lại không được vượng khí tới hướng
hay tọa, chủ về chết người, tổn đinh hay bị tuyệt tự,hao tiền tốn của.
- Thí dụ 1: Căn nhà có hướng là 180 độ. Vì đây là tuyến vị chính giữa của
sơn NGỌ (bao gồm từ 172 độ 6 đến 187 độ 5), nên nhà này được xem là
Thuần khí.
- Thí dụ 2: Căn nhà có hướng là 185 độ. Vì tuyến vị này đã lệch 5 độ so với
tuyến chính giữa của cung NGỌ, nên sẽ không được coi là thuần khí nữa, và
khi lập tinh bàn phải dùng đến "Thế quái". Lúc đó nếu nhà đắc vượng khí thì
cũng khá tốt, nếu không đắc được vượng khí thì tai họa sẽ chồng chất do
việc khí không thuần gây ra.
Ngoài vấn đề tuyến vị của tọa-hướng không được kiêm quá nhiều, còn phải
để ý đến vị trí của cổng, cửa và ngõ vào nhà. Nếu tọa-hướng nhà thuộc
Thiên Nguyên Long thì cổng, cửa và ngõ vào nhà phải cùng nằm trong
những khu vực thuộc Thiên Nguyên. Nếu tọa-hướng nhà thuộc Nhân
Nguyên thì cổng, cửa cũng phải nằm trong những khu vực thuộc Nhân
Nguyên. Nếu tọa-hướng thuộc Địa Nguyên thì cổng, cửa cũng phải nằm
trong khu vực của Địa Nguyên. Có như thế mới bảo đảm được sự thuần khí.
- Thí dụ căn nhà tọa TÝ hướng NGỌ. Vì TÝ-NGỌ đều thuộc Thiên Nguyên
Long, nên khi làm cổng, cửa cũng cần phải đưa về những khu vực thuộc
Thiên nguyên Long. Nếu nhà gần ngã ba, ngã tư, hay có những lối rẽ vào
nhà thì những ngã ba, ngã tư hay những khúc rẽ này cũng cần nằm tại các
khu vực thuộc Thiên nguyên Long (nếu tính từ tâm nhà).
Một điểm quan trọng khác là tuy tọa-hướng và cổng, cửa của 1 căn nhà cần
phải cùng 1 Nguyên Long với nhau, nhưng phải trái ngược âm-dương mới
bảo đảm được phúc, lộc lâu dài (Phúc-Lộc vĩnh trinh).
- Thí dụ nhà tọa TÝ hướng NGỌ. Vì tọa-hướng của căn nhà này là thuộc âm
hướng của Thiên nguyên Long, nên cổng, cửa hoặc ngõ vào nhà này cũng
nên nằm tại những sơn thuộc Thiên nguyên Long như TÝ, NGỌ, MÃO,
DẬU hay CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN. Nhưng nếu chúng nằm tại các sơn
CÀN, KHÔN, CẤN, TỐN thì đó là cách phối hợp âm hướng với dương
khẩu, phúc lộc sẽ tốt đẹp và lâu dài hơn nếu cổng, cửa nằm tại các sơn TÝ,
NGỌ MÃO, DẬU (vì âm hướng phối với âm khẩu thì âm khí quá thịnh,
phúc khí không thể phát mạnh được).
Cho nên khi chọn phương hướng cho một căn nhà thì lần lượt theo các bước
sau:
1) Dùng la bàn để đo xem hướng nhà là bao nhiêu độ? Và nó thuộc tuyến vị
chính giữa của mỗi sơn hay kiêm, và kiêm nhiều hay ít?
2) Xác định tọa-hướng của căn nhà là thuộc Nguyên Long nào? Và là âm
hay dương?
3) Phối hợp với phương vị của cổng, cửa, ngõ vào nhà hay ngã ba, ngã tư
gần nhà, sao cho chúng vừa phải đồng Nguyên, vừa phải phối hợp được giữa
âm hướng với dương khẩu, hay giữa dương hướng với âm khẩu, cộng với
vượng tinh tới hướng thì phú quý sẽ có đủ.
Nếu bất đắc dĩ không thể đạt được cuộc âm-dương phối hợp giữa hướng và
khẩu thì ít nhất cũng cần đạt được sự đồng Nguyên giữa khẩu và hướng,
cộng với vượng khí chiếu tới hướng hay cửa cũng có thể hưng thịnh 1 thời. .
*****
(Phương pháp chọn hướng nhà theo Phong thủy Huyền Không phần thứ hai)
*** Chính sơn, chính hướng.
Chính vì vấn đề đòi hỏi nhà (hay mộ) phải thuần khí, nên không những giữa
tọa-hướng với cổng, cửa và ngõ vào nhà phải cùng 1 Nguyên Long, mà
tuyến vị của tọa-hướng cũng nên nằm tại tuyến vị chính giữa của mỗi sơn.
Nếu có kiêm (hay lệch) sang phải hoặc sang trái cũng không được quá 3 độ
so với tuyến vị chính giữa. Có như thế mới bảo đảm cho tọa-hướng của căn
nhà được thuần khí.
Một điều làm cho người mới biết về Phong thủy hoang mang không ít là có
nhiều trường phái lại cho là những tuyến vị chính giữa của mỗi sơn-hướng
đều là những tuyến xấu, có khí trường quá mạnh nên không thể lấy. Nếu
chọn những tuyến đó để tạo sơn, lập hướng thì sẽ dễ gặp tai họa!!! Do đó,
khi chọn tọa-hướng cho nhà (hay mộ) thì họ thường không bao giờ chọn
tuyến vị chính giữa, mà bao giờ cũng sẽ chọn tuyến vị kiêm 3 độ.
Quan điểm này không hiểu là do những hiểu biết sai lầm về Phong thủy, hay
do ảnh hưởng của xã hội phong kiến thời xưa. Vì dưới các thời đại phong
kiến Trung Hoa trước đây, chỉ có vua chúa, quan lại mới được xử dụng
những gì được coi là cao sang, tốt đẹp, còn dân thường thì phải né tránh,
không được “vi phạm” tới. Ngay cả phương hướng làm nhà cửa, cung điện...
thì cũng chỉ có vua hoặc quan lớn mới lấy theo tuyến vị chính giữa của sơn-
hướng. Chẳng hạn như những dinh thự, lâu đài của các vua chúa ngày xưa
thường cất theo trục tọa TÝ (BẮC) hướng chính NGỌ (NAM), hoặc tọa
NHÂM hướng BÍNH chứ không kiêm 3 độ bao giờ. Cho nên có thể là các
vua chúa và những đại sư Phong thủy đời xưa cũng đã thấy được cái quý của
vấn đề thuần khí và tuyến vị chính giữa của mỗi sơn-hướng. Chính vì vậy
mà chỉ có họ mới được lập mà thôi. Còn nhà dân thường thì bao giờ cũng
kiêm 3 độ, tuy vẫn được coi là thuần khí, nhưng ít nhiều cũng đã bị pha tạp
bởi khí khác, nên ít ra là về phong cách cũng sẽ không bằng tầng lớp qúy tộc
trong xã hội được.Mặt khác do trình độ có hạn, không am hiểu về Phong
thủy, không có người hướng dẫn, hoặc không tin vào Phong thủy. Từ đó làm
theo cảm tính, nên sự chính xác không cao, kết quả sẽ không được như
mong muốn.
Ngoài ra, nếu ai đã đọc tác phẩm “Tòng sư tùy bút” của Khương Diêu (đệ tử
của Tưởng đại Hồng, 1 danh sư Phong thủy cuối thời nhà Minh) thì cũng có
thể thấy vấn đề né tránh tuyến vị chính giữa và chọn “kiêm 3 độ” là sai lầm
như sau:
“Ngày nọ, tôi (tức Khương Diêu) theo Phu tử (tức Tưởng Đại Hồng) ra
ngoài Xương an Môn, thấy nhà nọ hạ táng. Các thổ công đều nói “Tưởng
tiên sinh tới rồi!”. Chủ nhân hỏi: “Tưởng tiên sinh là ai?” Thổ công đều
nói:”Tiên sinh là bậc địa tiên”. Một số địa sư (tức thầy Phong thủy) đứng ở
đấy che miệng cười khẩy, nói với chủ nhân rằng: “Ông ta là Tưởng Đại
Hồng, thường nói thiên cơ bất khả tiết lộ đó”. Rồi bọn họ quay qua nói với
thầy tôi:”Cuộc đất tốt như vầy là chốn hưng thịnh của Trời, không cần ông
nhọc sức tiết lộ thiên cơ”. Chủ nhân cũng khoe cuộc đất của mình long huyệt
sơn thủy đều đẹp. Thầy tôi chẳng nói gì. Thổ công là người quen biết với tôi
mới mách cho biết rằng:”Cuộc đất này sơn SỬU, hướng MÙI kiêm CẤN-
KHÔN. Ba năm trước đây Tưởng tiên sinh có điểm huyệt giúp cho 1 người,
cũng dùng sơn SỬU, hướng MÙI (tức lấy tuyến chính giữa của SỬU-MÙI,
chứ không kiêm 1 độ nào cả), nay nhà ấy ngày càng hưng thịnh. Ở đây có 1
địa sư sao chép lại cách điểm huyệt của Tưởng tiên sinh, muốn bắt chước chỉ
dùng đơn hướng. Nhưng chủ nhân và các địa sư khác đều không dám tin
theo, mấy ông ấy ùn ùn kiêm 3 độ”. Thầy về, tôi kể lại thì thầy nói:”Chủ
nhân ắt phải chết. Phạm vào Ngũ Hoàng, Lực sĩ mà không mất người được
ư?” (vì năm đó 2 sao Ngũ Hoàng, Lực sĩ đều tới phương tọa của ngôi mộ).
Sau khi táng chưa tới 5 ngày, chủ nhân bị ngã mà chết”.
***Kiêm hướng
Những nhà có tuyến vị của tọa-hướng nằm lệch từ 1 độ đến 7 độ 5 so với
tuyến vị chính giữa (bất kể là lệch sang bên phải hoặc bên trái) của 1 sơn thì
đều được xem là Kiêm hướng. Nhưng như đã nói ở phần trên, những nhà có
tuyến vị lệch từ 1 đến 3 độ thì vẫn được coi là thuộc “chính sơn, chính
hướng”, khí vẫn còn thuần nhất nên không có gì thay đổi. Còn những nhà có
tuyến vị lệch từ 3 đến 6 độ thì do độ kiêm khá lớn, khí của sơn bên cạnh đã
pha tạp với khí của chính tọa, chính hướng, cho nên khi lập tinh bàn mới
phải dùng đến Thế Quái .
Đây là trường hợp chỉ nên tạm dùng trong 1 thời vận nào đó, đến khi qua
vận khác mà nếu thấy chính hướng đắc vượng khí thì cần xây dựng lại nhà
cửa (hay phần mộ) theo hướng đó, chứ không thể để nhà cửa kiêm hướng
nhiều trong 1 thời hạn lâu dài, sẽ có tai họa do vấn đề khí không thuần khiết
mà ra, khiến cho người trong nhà phẩm chất hư hèn, lại dễ mắc những tai
họa về hình ngục. Câu “Chính sơn, chính hướng lưu chi thượng, quá yêu ngộ
hình trượng” trong “Thiên bảo Kinh” của Dương Quân Tùng, có nghĩa là
sơn-hướng cần phải kiêm ít, chứ không thể kiêm nhiều, nếu kiên nhiều (quá
yêu) tất sẽ bị tai họa về hình ngục, lao tù (ngộ hình trượng). Cho nên người
học Huyền Không Phong thủy phải rất cẩn thận trong vấn đề kiêm hướng.
Ngoài ra, trong trường hợp kiêm hướng thì cũng còn phải tùy theo âm-
dương mà kiêm đúng pháp độ thì mới có thể tạo phúc, chứ không thể kiêm 1
cách tùy tiện. Nói tùy theo âm-dương tức là phải coi xem tọa-hướng của 1
căn nhà là nằm trong những sơn dương hay âm? Nếu chúng nằm trong
những sơn dương thì khi kiêm hướng cũng phải cần dùng những độ số
dương như 1, 3, 5, 7. Nếu chúng nằm trong những sơn âm thì cần dùng
những độ số âm như 2, 4, 6. Đó mới là kiêm đúng pháp độ. Còn kiêm không
đúng pháp độ tức là tọa-hướng thuộc sơn dương mà lại dùng độ số âm, hay
tọa-hướng thuộc sơn âm mà lại dùng độ số dương.
Nếu kiêm đúng pháp độ thì trong trường hợp đắc vượng khí tới hướng cũng
có thể phát khá lớn, trong trường hợp thất vận hoặc gặp khí suy tử chiếu tới
cũng không đến nỗi mắc tai họa nặng lắm. Nếu kiêm không đúng pháp độ
thì dù đắc vượng khí tới hướng mà có đắc tài đắc lộc cũng có những tai họa
bất ngờ. Gặp lúc thất vận thì hung họa càng khủng khiếp, không thể đo
lường được.
Một điều cần để ý là khi 1 căn nhà hay 1 ngôi mộ kiêm hướng thì chính tọa
chính hướng của nó được gọi là “Chủ Sơn, Chủ Hướng”, còn tọa-hướng
được kiêm gọi là “Chi Thần”. Rồi phải xem cổng, cửa, lai, khứ thủy... phải
cùng 1 Nguyên Long với “Chủ Sơn, Chủ Hướng”, chứ không thể cùng
Nguyên Long với “Chi Thần” được. . . *****
Phương Pháp lựa chọn Hướng nhà theo Phong thủy Huyền Không Phần 3)
***Đại Không Vong
Tuyến Đại không vong là những đường ranh giới giữa 8 hướng trên la bàn.
Biết rằng 1 vòng tròn trên la bàn bao gồm 360 độ, nếu chia ra 8 hướng thì
mỗi hướng sẽ chiếm đúng 45 độ. Những tuyến độ nằm giữa 2 hướng là
những tuyến Đại không vong. Ví dụ như hướng BẮC bắt đầu từ 337 độ 5
đến 22 độ 5, kế đó là hướng ĐÔNG BẮC bắt đầu từ 22 độ 5 đến 67 độ 5.
Những tuyến vị 337 độ 5, hoặc 22 độ 5, hoặc 67 độ 5 là những tuyến Đại
không vong.
Như vậy, có 8 tuyến Đại không vong trên la bàn như sau:
- Tuyến 22 độ 5 (giữa BẮC và ĐÔNG BẮC).
- Tuyến 67 độ 5 (giữa ĐÔNG BẮC và ĐÔNG).
- Tuyến 112 độ 5 (giữa ĐÔNG và ĐÔNG NAM).
- Tuyến 157 độ 5 (giữa ĐÔNG NAM và NAM).
- Tuyến 202 độ 5 (giữa NAM và TÂY NAM).
- Tuyến 247 độ 5 (giữa TÂY NAM và TÂY).
- Tuyến 292 độ 5 (giữa TÂY và TÂY BẮC).
- Tuyến 337 độ 5 (giữa TÂY BẮC và BẮC).
Ngoài 8 tuyến vị kể trên (được coi là 8 tuyến Đại không vong chính), còn có
những tuyến nằm gần sát và 2 bên những tuyến đó trong khoảng 1 độ 5 cũng
đều được coi là những tuyến Đại không vong cả.
- Thí dụ 1: một căn nhà có hướng 21 độ. Vì tuyến này chỉ cách tuyến Đại
không vong chính (giữa 2 hướng BẮC và ĐÔNG BẮC, tức tuyến 22 độ 5)
có 1 độ 5, cho nên hướng nhà này phạm Đại không vong.
- Thí dụ 2: một căn nhà có hướng 23 độ 5. Vì tuyến này cũng chỉ cách tuyến
Đại không vong chính có 1 độ, nên nó cũng là tuyến Đại không vong.
- Thí dụ 3: một căn nhà có hướng là 20 độ 5. Vì tuyến này cách tuyến Đại
không vong chính 2 độ, nên nó không được coi là tuyến Đại không vong
nữa.
Đối với Phong thủy Huyền Không, tất cả mọi tuyến Đại không vong đều là
những tuyến vị cực xấu. Nếu cất nhà, xây mộ theo những hướng đó thì về
nhân sự có thể bị chết người, cô quả hay bị tuyệt tự. Về tài lộc có thể bị phá
sản, lao tù vì tiền bạc... Về bản chất con người sống trong những nhà đó
cũng chủ thô tục, bần tiện, thiếu liêm sỉ hoặc hung ác, lại hay thấy ma quỷ...
Tuyến Đại không vong sở dĩ cực xấu là vì tọa-hướng của căn nhà đã kiêm
quá nhiều (từ 6 đến 7 độ 5) nên khí của căn nhà đã hoàn toàn bị pha tạp, biến
chất. Nó vừa kiêm khí của sơn khác (trong 24 sơn), vừa kiêm khí của hướng
khác (trong 8 hướng).
- Thí dụ nhà hướng 22 độ, tọa ĐINH hướng QUÝ kiêm MÙI-SỬU 7 độ, nên
tọa và hướng vừa kiêm đều 2 sơn (tọa là ĐINH kiêm MÙI; hướng là QUÝ
kiêm SỬU). Nhưng vì ĐINH thuộc hướng NAM, còn MÙI thuộc hướng
TÂY NAM, nên tọa của nhà này vừa thuộc hướng NAM, vừa kiêm thêm
hướng TÂY NAM nữa. Tương tự, ở hướng là QUÝ kiêm SỬU, nhưng QUÝ
thuộc hướng BẮC, còn SỬU thuộc hướng ĐÔNG BẮC, nên hướng nhà này
vừa thuộc hướng BẮC, vừa kiêm ĐÔNG BẮC.
Những nhà thuộc tuyến Đại không vong đều bị coi là “LẠC QUẺ” hay
“XUẤT QUÁI” (tức ra ngoài phạm vi 1 hướng) bởi vì tạp khí hỗn loạn,
không có một chính khí đủ mạnh để làm chủ khí, như nhà không chủ. Những
căn nhà này dể có nhiều tai họa nghiêm trọng như bị tà khí chi phối, bị ma
quỷ quấy phá, cũng như con người trở nên hẹp hòi, thô lậu, bần tiện, gian trá
hơn. Chính vì vậy mà “Trạch vận Tân án” mới nói những nhà có hướng
thuộc tuyến Đại không vong thì ”tiến thoái đều khó, trở thành tiện cục (cách
bần tiện), khiến vợ, chồng lục đục, anh em bất hòa, văn nhân thì mắc bệnh
thần kinh, nhiều sự bất hạnh liên tiếp xảy ra” .
(Phương Pháp lựa chọn hướng nhà theo phong thủy Huyền không Phần 4)
***Tiểu Không Vong
Tuyến Tiểu không vong: nếu tuyến Đại không vong là những tuyến nằm
ngay lằn ranh của 2 hướng, thì tuyến Tiểu không vong là những tuyến nằm
ngay lằn ranh của 2 sơn. Như chúng ta đã biết, trên la bàn gồm 360 độ được
chia ra 8 hướng, mỗi hướng chiếm 45 độ. Trong mỗi hướng lại được chia ra
làm 3 sơn, nên mỗi sơn chiếm 15 độ. Cho nên tổng cộng có 24 sơn trên la
bàn, và vì vậy cũng có 24 tuyến Tiểu không vong chính như sau:
- Hướng BẮC: gồm những tuyến: 352 độ 5, 7 độ 5, và 22 độ 5.
- Hướng ĐÔNG BẮC: những tuyến: 37 độ 5, 52 độ 5, và 67 đô 5.
- Hướng ĐÔNG: gồm những tuyến: 82 đô 5, 97 độ 5, và 112 độ 5.
- Hướng ĐÔNG NAM: những tuyến: 127 độ 5, 142 độ 5, và 157 độ 5.
- Hướng NAM: gồm những tuyến: 172 độ 5, 187 độ 5, và 202 độ 5.
- Hướng TÂY NAM: những tuyến: 217 độ 5, 232 độ 5, và 247 độ 5.
- Hướng TÂY: gồm những tuyến: 262 độ 5, 277 độ 5, và 292 độ 5.
- Hướng TÂY BẮC: những tuyến: 307 độ 5, 322 độ 5, và 337 độ 5.
Tuy nhiên, nếu để ý kỹ thì ta thấy tất cả những tuyến Tiểu không vong cuối
cùng của mỗi hướng như 22 độ 5 của hướng BẮC, 67 độ 5 của hướng
ĐÔNG BẮC, 112 độ 5 của hướng ĐÔNG... cũng chính là những tuyến Đại
không vong.
Cho nên trên thực tế, những nhà có hướng phạm phải những tuyến Đại
không vong bao giờ cũng kèm thêm vấn đề phạm cả tuyến Tiểu không vong
nữa. Chính vì vậy mà mức độ phát sinh tai họa của chúng mới càng thêm
mãnh liệt.
Ngoài 24 tuyến Tiểu không vong chính ở trên, còn cần phải để ý đến những
tuyến nằm gần khu vực đường ranh giới giữa 2 sơn, nhưng cũng chia thành
những trường hợp khác biệt như sau:
1) Những tuyến nằm ở phần giữa 2 sơn, nhưng 1 sơn thuộc Địa nguyên
Long, 1 Sơn thuộc Thiên nguyên Long (xin xem lại bài “24 sơn-hướng và
Tam nguyên Long): thì tất cả những tuyến nằm gần tuyến Tiểu không vong
chính trong khoảng cách là 1 độ rưỡi - dù là bên trái hay bên phải của nó –
cũng đều bị coi là những tuyến Tiểu không vong.
Thí dụ: Hai sơn NHÂM và TÝ của hướng BẮC được phân chia bởi tuyến vị
352 độ 5. Đó là tuyến Tiểu không vong chính. Nhưng vì NHÂM thuộc Địa
nguyên Long, còn TÝ thuộc Thiên nguyên long, cho nên tất cả những tuyến
nằm cách tuyến vị 352 độ 5 trong phạm vị 1 độ 5 – dù là bên phải hay bên
trái của nó – như các tuyến 351 độ, 352 độ, 353 độ, 354 độ cũng đều là
những tuyến Tiểu không vong cả. Nhưng các tuyến như 350 độ 5, hoặc 354
độ 5 thì lại không còn được coi là những tuyến Tiểu không vong nữa, vì đã
cách tuyến Tiểu không vong chính hơn 1 độ 5 rồi.
Một điều cần nói thêm là vì giữa Địa nguyên long với Thiên nguyên long
trong cùng 1 hướng bao giờ cũng có vấn đề trái nghịch âm-dương, nếu
Thiên nguyên long là sơn âm thì Địa nguyên long sẽ là sơn dương, và ngược
lại, cho nên những tuyến Tiểu không vong nằm giữa 2 sơn (hướng) này còn
bị gọi là những tuyến “sai lạc âm-dương” hoặc “âm-dương sai thố”.
2) Những tuyến nằm ở phần giữa 2 sơn, nhưng 1 sơn thuộc Thiên nguyên
Long, 1 sơn thuôc Nhân nguyên Long: thì chỉ có tuyến vị chính giữa 2 sơn
mới bị coi là tuyến Tiểu không vong mà thôi. Tuy nhiên trên thực tế thì
những tuyến Tiểu không vong này đều vô hại. Lý do là vì trong cùng 1
hướng thì sơn thuộc Thiên nguyên Long bao giờ cũng cùng âm-dương với
sơn thuộc Nhân nguyên Long. Mà vì đã nằm trong cùng 1 hướng, lại cùng 1
khí âm hoặc dương, nên dù có nằm chồng lên đường phân giới giữa 2 sơn
cũng vẫn không sợ khí bị pha tạp hay hỗn loạn.
Cho nên nguyên tắc chính của Huyền không vẫn là vấn đề thuần khí. Khí đã
thuần thì có thể kiêm nhiều, khí không thuần thì dù 1 độ cũng không kiêm,
còn những tuyến vị Đại-Tiểu không vong chỉ là những mức độ ấn định sự
kiêm hướng sai lạc quẻ (Đại không vong) hoặc âm-dương (Tiểu không
vong) đã tới mức độ tối đa, cực kỳ hung hiểm rồi vậy.
Thí dụ: Hai sơn TÝ và QUÝ thuộc hướng BẮC được phân chia bởi tuyến vị
7 độ 5, nên trên lý thuyết thì đó là tuyến Tiểu không vong chính. Nhưng vì
TÝ là âm sơn, thuộc Thiên nguyên Long; còn QUÝ cũng là âm sơn, thuộc
Nhân nguyên Long. Giữa chúng không có sự khác biệt về âm-dương (vì
cùng là âm sơn) hay tính chất (cùng thuộc hướng BẮC). Cho nên ngay cả
những nhà có tuyến vị là 7 độ 5 (tức trùng với tuyến Tiểu không vong) cũng
không sao cả.
3) Những tuyến nằm giữa 2 sơn, nhưng 1 sơn là Nhân nguyên long, 1 sơn là
Địa nguyên Long: đây chính là trường hợp của những tuyến Đại không vong
đã nói ở phần trên.
Như vậy nếu xét kỹ thì thật ra trên la bàn chỉ có 8 tuyến Đại không vong và
8 tuyến Tiểu không vong chính mà thôi. Bên cạnh chúng còn có thêm 1 số
tuyến nằm trong khoảng cách 1 độ 5 ở 2 bên cũng đều được xem là những
tuyến vị Đại-Tiểu không vong cả. Còn ngoài ra, những tuyến vị nằm giữa 2
sơn thuộc Thiên nguyên Long và Nhân nguyên Long trên thực tế không phải
là Không vong. Còn những tuyến nằm giữa 2 sơn thuộc Nhân nguyên Long
và Địa nguyên Long là trường hợp Đại không vong rồi vậy.
Xét về mức độ tác hại thì những hướng Tiểu không vong cũng gây ra nhiều
tai họa cho những ai sống trong căn nhà đó, như gia đình đổ vỡ, ly dị, tài lộc
hao tán, dễ bị thưa kiện, hình ngục, người sống trong nhà cũng thường bất
chính, hay vi phạm luật lệ, phạm pháp hoặc trộm cắp, hung dữ, lại dễ thấy
ma quỷ... Cho nên sách “Trạch vận tân án” mới viết những nhà phạm tuyến
Tiểu không vong (tức âm-dương sai thố) thì thường là “tiến, thoái lưỡng
nan, không tạo dựng nổi uy quyền, danh tiếng. Lại chuốc kiện tụng, thị phi,
trở thành bại cục (cách thất bại), hao tổn công sức”.
Ngoài những tuyến Đại-Tiểu không vong ở trên thì trong 1 số sách vở còn
đề cập đến những đường phân giới của 64 quẻ tiên thiên, và cũng xem
những tuyến đó là Đại không vong. Rồi gộp hết tất cả những tuyến đó, cộng
với những tuyến Đại-Tiểu không vong chính và gọi chúng là những tuyến
“BẤT KHẢ LẬP” (tức những tuyến vị không thể chọn để lập hướng nhà
hay mộ).
Tuy nhiên, nếu xét kỹ thì thấy những đường phân giới của 64 quẻ Tiên thiên
thật ra cũng trùng với những tuyến vị “Phân châm” hoặc “Phân kim” trên
Tưởng bàn (tức 1 loại la bàn do Tưởng đại Hồng làm ra), mà trong đó, cách
tính để chia tuyến vị của 64 quẻ Tiên Thiên như sau: lấy 64 quẻ chia cho 8
hướng, thì mỗi hướng có 8 quẻ. Mỗi hướng tổng cộng có 45 độ, chia cho 8
quẻ thì mỗi quẻ chiếm 5 độ, còn dư 5 độ. Để phân chia cho đồng đều, Tưởng
đại Hồng xếp 5 quẻ tiên thiên vào phần giữa của mỗi hướng (tỗng cộng là 40
độ). Còn khu vực tiếp giáp giữa mỗi hướng thì để chừa ra mỗi bên là 2 độ 5
(tổng cộng là 5 độ). Khu vực này được coi là khu vực “xuất quái” (ra khỏi
quẻ hay hướng).
Như vậy, tổng cộng độ số của 8 quẻ (40 độ) và khoảng trống ở gần ranh giới
giữa 2 hướng (5 độ) là 45 độ, tức đã bao hàm hết 1 hướng. Nếu tính như vậy
thì tất cả mọi tuyến vị chính giữa của 24 sơn đều nằm trên đường phân giới
của 64 quẻ Dịch.
Đó là lý do tại sao có 1 số trường phái Phong thủy (nhất là Tam hợp phái)
thường cho rằng tuyến vị chính giữa của 24 sơn là những tuyến “Đại không
vong”, cho nên khi lập hướng nhà hay mộ thì họ thường tránh những tuyến
vị đó, mà kiêm sang bên phải hoặc trái 3 độ, chứ không dám lấy đơn hướng.
Đây là 1 sai lầm, chẳng những vì họ đã không biết tới vấn đề hướng nhà
phải thuần khí, mà còn có thể kiêm không đúng độ số, vì không phải tọa-
hướng nào cũng có thể kiêm 3 độ, mà còn tùy thuộc vào những sơn mà
chúng tọa lạc là âm hay dương.
Hơn nữa, hướng kiêm 3 độ cũng là lằn ranh giới giữa chính hướng và kiêm
hướng, nên nếu kiêm không cẩn thận, hướng đó có thể đã ra ngoài chính
hướng và thuộc về kiên hướng, nên có thể đang từ tốt biến thành xấu...
Ngoài ra, vì các sách vở cổ xưa hoặc đã thất bản, hoặc cố tình không nói tới
lý do tại sao lại đem 64 quẻ Tiên thiên vào trong la bàn. Nhưng theo thiển ý
của người viết thì có lẽ chỉ là dùng để phụ đoán thêm tính chất của từng
hướng nhà mà thôi (như trường hợp Nhị thập bát tú...), chứ không phải mục
đích là để chọn phương hướng.
Chính vì vậy mà tuy Tưởng đại Hồng vẫn đưa 64 quẻ Tiên thiên vào trong la
bàn do ông chế tạo, nhưng khi chọn hướng thì vẫn lấy đơn hướng (tức là đè
lên đường phân giới của quẻ Dịch). Điều này chứng tỏ đường phân giới của
64 quẻ Tiên thiên thật ra không có giá trị gì về phương diên lập hướng cả.
Đối với những nhà phạm tuyến Đại-Tiểu không vong tuy rằng rất xấu,
nhưng nếu biết cách hóa giải thì cũng có thể biến xấu thành tốt mà xử dụng
được, chứ cũng không phải nhất quyết vì chúng thuộc những tuyến "bất khả
lập" nên hoàn toàn không xử dụng được. Vấn đề này sẽ được nói trong 1 dịp
khác.
Ngoài ra, đối với trường hợp những nhà có tọa-hướng thuộc Thiên nguyên
Long kiêm Nhân nguyên Long, hoặc Nhân nguyên Long kiêm Thiên nguyên
Long tuy có thể kiêm nhiều mà không sợ phạm Không vong, nhưng vẫn phải
kiêm đúng pháp độ, tùy theo tọa-hướng thuộc sơn dương hay âm. Nếu thuộc
sơn dương thì có thể kiêm tới 7 độ, nếu là sơn âm thì chỉ có thể kiêm tới 6
độ mà thôi. *****
Phương Pháp lựa chọn Hướng Nhà theo Huyền Không Phong thủy(Phần 5)
***Thành môn
Trong việc chọn tọa-hướng cho nhà ở (hay phần mộ), ngoài những vấn đề đã
được nêu ra thì còn cần để ý tới khu vực 2 bên phía trước như thế nào để có
thể dùng bí quyết của "Thành môn".
Thành môn, tức cổng thành, là nơi ra, vào thành cũng là chỗ dẫn nước ra,
vào ở phía dưới. Cho nên Thành môn chính là cửa ngõ để vào huyệt, hoặc
nơi thủy đến, thủy đi, thủy hội tụ ở 2 bên phía trước. Đối với nhà cửa thì nếu
khu vực đó có ngõ rẽ vào nhà hay ngã ba, ngã tư, ao, hồ, biển, hoặc chỗ 2
dòng sông tụ hội... thì những nhà đó được xem như có Thành môn.
Thành môn cũng được chia ra làm 3 loại như sau:
1) Thành môn chính: nằm ở những khu vực mà khi kết hợp với khu vực ở
đầu hướng sẽ hợp thành những số Tiên thiên như 1-6, 2-7, 3-8, 4-9.
Thí dụ: Căn nhà hướng NAM, có ngõ vào nhà nằm ở khu vực phía ĐÔNG
NAM. Vì ĐÔNG NAM thuộc quẻ TỐN mang số 4, còn NAM thuộc quẻ LY
mang số 9, hợp thành số Tiên thiên 4-9, nên ngõ vào nhà đó được coi là
Thành môn chính.
2) Thành môn phụ: chỉ là những vị trí nằm bên cạnh đầu hướng, nhưng
không có sự tương hợp thành những số Tiên thiên như ở trên.
Thí dụ: Nhà hướng NAM, nhưng có ngõ vào nhà ở khu vực TÂY NAM. Vì
NAM là số 9, TÂY NAM là số 2, giữa 2 khu vực này không có sự tương
hợp thành số Tiên thiên, nên đây là Thành môn phụ.
3) Thành môn ngầm: ngoài Thành môn chính (được gọi là “Chính mã”) và
Thành môn phụ (được gọi là “tá mã”), còn có Thành môn ngầm, nhưng cũng
được chia thành 2 loại như sau:
a) Khi an vận bàn mà vận tinh Ngũ Hoàng tới 1 trong 2 phía bên cạnh đầu
hướng. Nếu nơi đó có thủy hay cửa khẩu, ngõ ra vào... thì cũng được coi là
Thành môn.
Thí dụ: nhà tọa TÝ hướng NGỌ (180 độ), nhập trạch trong vận 8, nên khi an
vận bàn thì vận tinh Ngũ Hoàng sẽ đến phía TÂY NAM. Nếu nơi này có ngã
tư, ngõ vào nhà, ao, hồ... thì được xem là Thành môn ngầm. Sở dĩ như thế là
vì trong mỗi vận, khu vực có vận tinh Ngũ Hoàng bao giờ cũng là khu vực
của Linh Thần (xin xem lại bài “Chính Thần và Linh Thần”), nên khi khu
vực này có cổng, ngõ hay thủy khẩu thì được xem như Linh thần đắc thủy,
chủ đại vượng cho nhà cửa trong vận đó. Vì vậy nó mới được xem như 1
loại Thành môn mà thôi.
-Khi các vận, sơn hay hướng tinh tới 2 phía bên cạnh đầu hướng, mà chúng
lại kết hợp với địa bàn tại nơi đó thành các số Tiên thiên. Nếu khu vực đó có
cổng, ngã ba, ao, hồ, núi cao... thì cũng được xem như có Thành môn.
Thí dụ: nhà tọa CANH, hướng GIÁP (tức hướng ĐÔNG, 75 độ), nhập trạch
trong vận 8. Nếu an Vận bàn thì vận tinh số 6 tới hướng. Bây giờ nếu muốn
an Hướng bàn thì lấy số 6 nhập trung cung xoay nghịch (vì hướng GIÁP
tương ứng với sơn TUẤT của số 6, là sơn âm nên xoay nghịch – xin xem lại
bài PHƯƠNG PHÁP LẬP TINH BÀN) thì số 3 đến ĐÔNG BẮC. Vì
ĐÔNG BẮC nằm bên cạnh khu vực đầu hướng của căn nhà, mà địa bàn của
nó là số 8, nên khi gặp hướng tinh số 3 tới sẽ tạo thành cặp số Tiên thiên 3-8.
Nếu nơi này có thủy hay cổng, ngõ vào nhà thì được xem là có Thành môn.
Đối với Huyền không Học, việc xác định Thành môn là 1 yếu tố quan trọng
trong việc lựa chọn phương vị tọa hướng cho ngôi nhà hay phần mộ. Bởi vì
như Thẩm trúc Nhưng nói:”Thành môn là nơi then chốt để khí tiến vào
huyệt”, hoặc như Bạch hạc Minh xem nó “giống như yết hầu của con
người”. Cho nên Thành môn chính là nơi nắm giữ vận khí của chân long địa
huyệt hay nhà cửa. Nếu nó tốt thì dù nhà cửa hay phần mộ có gặp hướng
xấu, hay bị hung khí xung sát cũng vẫn bình yên, hoặc có thể hóa hung
thành cát mà làm cho nhà đó vẫn vượng phát.
Riêng đối với những căn nhà đã lập phương hướng đúng phép mà lại còn
đắc Thành môn thì chẳng khác nào áo gấm thêm hoa, tài lộc và nhân đinh sẽ
hưng thịnh 1 thời. Cho nên sách mới có câu:”Bí quyết Thành môn là cực tốt
(tối vi lương), cất nhà, lập mộ thì đại cát”.
Tuy nhiên, cách dùng Thành môn không phải cứ hễ thấy ở 2 bên đầu hướng
có cổng, ngã ba, ngã tư hay sông nước là có thể xử dụng, mà còn phải theo
những nguyên tắc căn bản sau đây:
- Tọa-hướng nhà phải đồng Nguyên long với khu vực có cổng, cửa hoặc
sông nước ở 2 bên đầu hướng. Điều này đã nói rõ trong bài “Phương pháp
chọn hướng nhà (1)”, phần bàn về vấn đề thuần khí (chỉ có sự khác biệt là
với vấn đề thuần khí thì có thể lấy được cả những cổng, ngõ, nơi có thủy...
tại bất cứ khu vực nào, miễn là được đồng nguyên với hướng; còn Thành
môn thì chỉ lấy được ở 2 phía bên cạnh hướng mà thôi).
* Thí dụ: nhà tọa TÝ hướng NGỌ (180 độ), nhập trạch trong vận 8. Vì nhà
này hướng NGỌ (tức hướng NAM), nên khi chọn Thành môn thì chỉ có thể
lấy ở khu vực 2 bên của đầu hướng, tức là 2 phía ĐÔNG NAM và TÂY
NAM. Do đó, nếu ở sơn TỐN thuộc phía ĐÔNG NAM, hoặc sơn KHÔN
thuộc phía TÂY NAM có cổng, ngõ hay thủy khẩu thì nhà đó có Thành
môn. Còn những khu vực THÌN, TỴ của ĐÔNG NAM, cũng như MÙI,
THÂN của TÂY NAM tuy cũng nằm ở 2 bên hướng, nhưng do không đồng
nguyên với tọa-hướng nên không thể lấy làm Thành môn.
- Khu vực của Thành môn cũng phải đắc vượng khí của Phi tinh, có như thế
mới hóa giải được khí xấu nơi đầu hướng, hoặc làm cho khí nơi đầu hướng
càng thêm tốt đẹp. Nhưng muốn biết vượng khí có tới Thành môn hay
không, thì không phải căn cứ vào Hướng tinh tại đó để xác quyết, mà phải
xem Thành môn nằm tại sơn nào (trong 24 sơn)? Sơn đó trùng với sơn nào
của vận tinh tới khu vực đó? Rồi mới đem vận tinh đó nhập trung cung, xoay
chuyển theo chiều thuận (hay nghịch) tùy theo sơn của vận tinh đó là dương
hay âm. Nếu số đến khu vực của Thành môn cũng tương đồng với đương
vận thì tức là có vượng khí đến Thành môn.
* Thí dụ: cũng lấy nhà tọa TÝ hướng NGỌ ở trên. Nếu an vận bàn của vận 8
thì vận tinh số 5 đến TÂY NAM, vận tinh số 7 đến ĐÔNG NAM. Vì phía
TÂY NAM chỉ có sơn KHÔN có thể chọn làm Thành môn, mà KHÔN
thuộc dương nên lấy 5 nhập trung cung xoay thuận thì 2 đến KHÔN, là tử
khí trong vận 8 nên không thể dùng (tuy nhiên, vì vận tinh 5 tới phía TÂY
NAM tạo thành cách “Thành môn ngầm”, nên lại là 1 cách khác). Kế đó,
quay sang vận tinh số 7 ở ĐÔNG NAM. Vì chỉ có sơn TỐN mới có thể chọn
làm Thành môn, mà TỐN trùng với sơn DẬU của số 7, là sơn âm nên lấy 7
nhập trung cung xoay nghịch thì 8 đến TỐN, là vượng khí của vận 8, nên
nơi này có thể dùng làm Thành môn. Vì vậy, nếu phương TỐN của nhà này
mà có cổng, ngõ vào nhà, thủy khẩu... thì tài lộc sẽ đại vượng.
Về mức độ tác dụng của các loại Thành môn thì Thẩm trúc Nhưng thường
cho rằng Thành môn chính có tác dụng mạnh hơn Thành môn phụ, nhưng
ông không nói gì tới hiệu lực của Thành môn ngầm. Tuy nhiên nếu nhìn thì
cũng có thể thấy là tác dụng của Thành môn ngầm phải yếu hơn Thành môn
phụ. Nhưng vì không phụ thuộc vào việc bảo vệ nguyên khí cho tọa-hướng,
nên Thành môn ngần không bị giới hạn trong phạm vi 1 sơn, mà có thể bao
hàm hết cả 1 hướng.
Thí dụ: nhà tọa TÝ hướng NGỌ trong vận 8, khu vực phía TÂY NAM có
vận tinh số 5 đắc Thành môn ngầm. Thành môn này có thể chiếm hết 3 sơn
MÙI-KHÔN-THÂN của hướng TÂY NAM, chứ không bị giới hạn trong 1
sơn như những Thành môn chính hay phụ, nhưng tác dụng của nó cũng yếu
hơn 2 loại Thành môn kia.
Ngoài ra, về thời gian ảnh hưởng của Thành môn đối với 1 căn nhà hay 1 địa
huyệt thì tùy theo từng loại Thành môn mà sẽ rất lâu dài hay chỉ ngắn ngủi
trong 1 vận. Điều này sẽ được nói trong 1 dịp khác.

Sự kết hợp của các cặp sơn - hướng tinh hoặc đường lối đi trong hay ngoài
nhà tạo thành các cặp hướng tinh cũng nói lên nhiều ý nghĩa trong bố cục
của căn nhà.

Những cách 1-6, 2-7, 1-4, 6-7 đều đáng kể và phải được đặc biệt chú tâm
tới, nhất là nếu chúng lại có ngoại hình hay cấu trúc bên trong ứng hợp,
mức độ tốt, xấu sẽ từ đó biểu hiện hoặc gia tăng khốc liệt. các cặp 1-6, 1-4
không bao giờ bị luận là suy tử, chỉ trừ khi bị ngoại hình bên ngoài làm hỏng
mà thôi, còn thường thì chúng đều rất tốt đẹp. Cặp 2-7 chỉ tốt nếu chúng là
vượng khí, hoặc đi với những khí sinh, vượng là Thổ như 5, 8. Còn nếu
không thì cần phải đề phòng. Cặp 6-7 là Giao kiếm Sát thì chỉ trừ lúc 1 trong
2 sao là khí sinh, vượng thì không sao, còn nếu không thì sẽ có vấn đề tranh
chấp hay bị trộm cướp hoặc án mạng.

Cũng có thể dùng 1-6, 2-7 để luận Ngũ hành sinh, khắc của cung này, nhưng
như đã nói là vẫn phải để ý đến ngoại hình và thiết kế, cũng như động tĩnh
của khu vực này trước, sau đó mới tính đến vấn đề Ngũ hành sinh khắc, và
vì vậy sẽ có muôn ngàn trường hợp khác nhau, tuy rằng trạch vận căn nhà
thì giống nhau. Lấy thí dụ như khu vực này của 1 căn nhà mà có hồ tắm thì
1-6 đắc thế, khu vực này có kim-thuỷ vượng, chủ sinh ra người tài hoa, văn
chương cái thế, học hành giỏi dang. 2-6, nếu như khu vực này lại có núi thì
lúc đó Sơn tinh 2 vượng, nhưng là tử khí nên là cách trong nhà phát sinh
quả phụ, người đàn ông trong nhà nếu có giỏi dang cũng yểu chết, khó
thành danh. Nếu chỗ đó có bếp cũng chủ nhân đinh suy bại, gặp năm niên
tinh 7 tới hoá hợp thành Hoả tiên thiên 2-7 là Hoả vượng khắc Kim 6, sợ
rằng người cha, người chủ gia đình có tai hoạ lớn. Cho nên Huyền Không là
biến hoá, muôn hình vạn trạng, chứ không có 1 công thức nhất định tính độ
vượng, suy của ngũ hành hoặc phi tinh.

Cặp 3-8/ 8-3 cũng vậy, tuỳ theo địa hình, cấu trúc mà tính chúng là tốt hay
xấu trong vận 8. Nhưng thông thường thì chúng là tốt, nhất là nếu nơi đầu
hướng có 8, bên mé phải hoặc trái lại có 3.

- 1-6: Hợp hoá thành thuỷ tiên thiên, nếu có nước thì đắc lôi quan thuỷ, lợi
cho tài vận và công danh.

- 2-7: Hoà tiên thiên: Chủ bệnh tật nặng và lâu dài, rất có thể bị đau tim và
cao máu.

- 7-9: Hoả hậu thiên : Bực bội, thần kinh căng thẳng.

- 4-9: Kim tiên thiên: Nếu ở cung càn thì công danh thuận lợi. học hành thi
cử đỗ đạt.

- 3-8: Mộc tiên thiên: Đại lợi cho công danh và tài lộc.

- 9-2: Lưỡng âm hoả: Có chuyện xích mích, cãi cọ.

- 6-7: Thương kiến sát: Chủ về tai nạn thương tật hoặc trộm cướp.

- 2-7: Đấu ngưu sát: Chủ về tranh chấp dẫn đến đánh nhau.

- 3-7: Xuyên tâm sát: Chủ về cãi cọ, bất hoà,...

- Các cung có các sao toàn âm (-) : 2;4;5;7;9. Vdụ: 9-4-7 hoặc 5-9-2; ...Nếu
có thuỷ ở đó là nguy hại cho ngườii đàn ông trong nhà, nên đoán nếu người
chồng không bỏ nhà đi xa thì ắt phải chết sớm .
- Tam ban quái ở trung cung (258; 369; 147): Gia đình hòa thuận, con cái
ngoan hiền, có chí,...

- Hỏa khí quá mạnh: Như nhà tọa dậu hướng mão vận 7: Đầu hướng có 2-
7(hỏa tiên thiên) lại thêm vận tinh 5 rồi vào trung cung gặp 9-7 (hỏa hậu
thiên) cộng với hướng tinh 5 cũng đếu là hỏa . Rồi đến phương tọa gặp 7-9
cũng hỏa hậu thiên thêm hướng tinh 3 là thế mộc sinh hỏa. Mà hỏa thịnh
thì khắc kim nên đương nhiên ngực, phổ, cổ họng bị đau. Còn một yếu tố
nữa là nhà có hỏa khí mạnh thì con người bực bội nên trong nhà hay có cải
cọ , to tiếng

Quan hệ sinh khắc trong Ngũ hành


Âm Dương Ngũ Hành luận

Trong lý thuyết triết học Phương Đông, khái niệm Âm Dương và Ngũ hành là hai khái niệm cơ
bản nhất để hình thành nên học thuyết. Nếu như Ngũ hành là khái niệm biểu hiện khả năng biến
đổi, tương tác chế hóa của sự vật hiện tượng thì khái niệm Âm Dương biểu hiện tính trạng đối
lập và thống nhất của sự vật

Vạn vật được sinh ra do âm dương giao hòa, vạn vật cũng biến dịch đắp đổi nhau như sáng tối,
thịnh suy, cứng mềm, nóng lạnh, động tịnh, tốt xấu, sướng khổ, sống chết … Sự đắp đổi nhau
theo nguyên tắc trong âm có dương và trong dương có âm. Không thể có một vật độc dương
hoặc độc âm. Vật được gọi là dương vì dương thịnh âm suy và Vật được gọi là âm vì âm thịnh
dương suy.

I- Âm dương luận.

1/ “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật”.
- Đạo là gì, là Thiên lý, là nguyên lý vận động của tự nhiên.
- Nhất là gì, là Thái cực là thể duy nhất của Đạo.
- Nhị là gì, là nhất âm nhất dương.
- Tam là gì, là sự giao hòa âm dương theo nguyên lý vận động của Đạo, nhờ sự giao hòa âm
dương mà vạn vật sinh ra.

2/Âm Dương biến dịch.


- Âm dương biến dịch theo đâu, âm dương biến dịch theo lý biến dịch của Thiên lý (của trời đất)
nghĩa là Dịch Lý.
- Lý biến dịch của Thiên lý theo nguyên lý nào, theo nguyên lý phản phục như sáng tối, mưa
nắng, nóng lạnh…
- Vạn vật được sinh ra do âm dương giao hòa, vạn vật cũng biến dịch đắp đổi nhau như sáng tối,
thịnh suy, cứng mềm, nóng lạnh, động tịnh, tốt xấu, sướng khổ, sống chết…Sự đắp đổi nhau
theo nguyên tắc trong âm có dương và trong dương có âm. Không thể có một vật độc dương
hoặc độc âm. Vật được gọi là dương vì dương thịnh âm suy và Vật được gọi là âm vì âm thịnh
dương suy.
- Vì vậy “ Vạn vật phụ âm nhi bão dương, xung khí dĩ vi hòa”

II- Ngũ hành luận.

1/ Ngũ hành tương Sinh


Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ

2/ Ngũ hành tương Khắc


Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa

3/ Ngũ hành tương Lưỡng (giống nhau)


Kim gặp Kim, Thủy gặp Thủy, Mộc gặp Mộc, Hỏa gặp Hỏa, Thổ gặp Thổ.

4/ Âm dương Ngũ hành tức là Ngũ hành Âm và Ngũ hành Dương (mỗi hành đều có âm và
dương)
a/ Ngũ hành Dương gặp Ngũ hành Dương và Âm gặp Âm gọi là Thiên, nghĩa là thiên lệch hay
còn gọi toàn Dương, toàn Âm – sự vật biểu hiện hủy diệt .
b/ Ngũ hành Âm gặp Ngũ hành Dương hay ngược lại gọi Chính, nghĩa là Âm Dương tương phối
“nhất âm nhất dương chi vị đạo” – vạn vật biểu hiện hòa bình và sinh sôi nẩy nở.

III/ Chế hóa Ngũ hành

Để chế hóa được Ngũ hành thì dựa vào Ngũ hành Bất cập hay Ngũ hành Thái quá. Xin lược
chép lại trong sách của cụ Hải Thượng Lãn Ông (Thánh y nước Việt):

1/Ngũ hành Thái quá.


a. Mộc – Khuếch tán khí ôn hòa quá sớm làm cho vạn vận sớm phát dục.
b. Hỏa – Khuếch tán khí cường liệt, làm cho vạn vật đốt cháy chẳng yên.
c. Thổ – Có khí nồng hậu rắn chắc trở lại làm cho vạn vật không thể thành hình.
d. Kim – Có khí cứng cỏi làm cho vạn vật ngay thẳng.
e. Thủy – Có khí đầy tràn, làm cho vạn vật phiêu lưu không thể về chỗ thái quá là làm mất sức
bình thường.

2/ Ngũ hành Bất cập.


a. Mộc – Không có khí ôn hòa, làm cho vạn vật rũ rượi không phấn chấn.
b. Hỏa – Ít khí ấm áp làm cho vạn vật ảm đạm không sáng.
c. Thổ – Không có khí sinh hóa, làm cho vạn vật yếu đuối không có sức.
d. Kim – Không có khí cứng cỏi, làm cho vật mềm giãn không có sức đàn hồi.
e. Thủy – Không có khí phong tàng làm cho vạn vật khô queo.

3/ Ngũ hành Bình khí.


a. Mộc – Nó phân bố ra khí ôn hòa, làm cho vạn vật tươi tốt.
b. Hỏa – Sáng chói mà có cái khí thịnh trưởng, làm cho vạn vật dồi dào.
c. Thổ – Đầy đủ khí sinh hóa vạn vật, làm cho vạn vật được đầy đủ hình thể.
d. Kim – Phát ra khí yên tĩnh hòa bình, làm cho vạn vật kết quả.
e. Thủy – Có khí tĩnh mịch hòa thuận, làm cho vạn vật bế tàng.

4/ Sinh khắc nghi kỵ


Sinh:
a. Thổ sinh kim, thổ nhiều thì kim bị vùi – kim nhiều thì thổ yếu.
b. Hỏa sinh thổ, hỏa nhiều thì thổ tiêu rụi – thổ nhiều thì hỏa tối.
c. Mộc sinh hỏa, mộc nhiều thì hỏa không cháy – hỏa nhiều thì mộc cháy.
d. Thủy sinh mộc, thủy nhiều thì mộc trôi – mộc nhiều thì thủy cạn.
e. Kim sinh thủy, kim nhiều thì thủy tràn – thủy nhiều kim chìm.

Khắc:
a. Kim khắc mộc, mộc nhiều kim cùn – kim nhiều mộc gãy.
b. Mộc khắc thổ, thổ nhiều mộc gãy – mộc nhiều thổ nghiêng đổ.
c. Thổ khắc thủy, thủy nhiều thổ trôi – thổ nhiều thì thủy ứ.
d. Thủy khắc hỏa, hỏa nhiều thủy cháy – thủy nhiều hỏa diệt.
e. Hỏa khắc kim, kim nhiều hỏa ngưng – hỏa nhiều kim tiêu.

IV- Thiên lý hay nguyên lý vận động của tự nhiên

1/ Lý giao hòa và mâu thuẫn


Vạn vật sinh ra do âm dương giao hòa. Trong mỗi sự vật, cặp âm dương này lại phát sinh mâu
thuẫn. Trong sự giao hòa có sự mâu thuẫn và mâu thuẫn đem đến sự giao hòa, không riêng một
vật nào mà vạn vật, toàn thể giới tự nhiên đều có liên hệ giao hòa với nhau. Mâu thuẫn dễ nhận
ra nhất là mâu thuẫn trong quan hệ giữa người với người và mâu thuẫn trong nội tâm mỗi người.
Chính vì vậy phải giải quyết được hai thái cực ngược nhau, mới tránh được tiêu diệt nhau, và
luôn điều chỉnh cho hòa nhau mới hòa bình.

2/ Lý phản phục tuần hoàn.


Âm dương hoà đồng biến dịch sinh hóa nên sự vật cũng sinh hóa theo lẽ phản phục tuần hoàn.
Trái đất quay xung quanh mặt trời, sinh ra bốn mùa tám tiết là biểu hiện sinh động của luật phản
phục tuần hoàn. Đời người vinh nhục, được thua, còn mất, sinh tử cũng là biến dịch theo luật
phản phục tuần hoàn của trời đất.

V- Âm Dương Ngũ hành của Can Chi và phương vị.

1/ Âm dương ngũ hành của 10 Can


Giáp Ất mộc, Bính Đinh hỏa, Mậu Kỷ thổ, Canh Tân kim, Nhâm Quý thủy
- Giáp Ất Mộc Đông phương, phân lưỡng nghi: Giáp dương, Ất âm.
- Bính Đinh Hỏa Nam phương, phân lưỡng nghi: Bính Dương, Đinh âm.
- Mậu Kỷ thổ Trung ương, phân lưỡng nghi: Mậu dương, Kỷ âm.
- Canh Tân kim Tây phương, phân lưỡng nghi: Canh dương, Tân âm.
- Nhâm Quý thủy Bắc phương, phân lưỡng nghi: Nhâm dương, Quý âm.

Bốn mùa:

- Mùa xuân sinh khí bắt đầu động lên, cây cỏ đâm chồi nẩy lộc, ngôi vị Đông phương, ngày là
Giáp Ất.
- Mùa hạ sinh khí tiếp thu hỏa khí vạn vật sịnh trưởng biến hóa nhờ hỏa, ngôi vị Nam phương,
ngày là Bính Đinh.
- Mùa thu vạn vật đổi thay hình dạng, vẻ buồn bã âm thầm lặng lẽ, ngôi vị Tây phương, ngày là
Canh Tân.
- Mùa đông vạn vật ẩn náu, có vẻ như khiêm nhường như nước chảy nhũn nhặn, như là mai
phục, thực là đứng đầu ngũ hành, ngôi vị Bắc phương, ngày là Nhâm Quý.
- Thổ ở trung ương, nơi xuất tinh khí ra để nuôi dưỡng vạn vật và thu khí về làm cho vạn vật vẻ
như bị tiêu diệt. Ngôi vị ở trong, ý như thông suốt mọi việc. Ngày là Mậu Kỷ.

2/ Âm dương ngũ hành của 12 chi


Dần Mão mộc, Tỵ Ngọ hỏa, Thân Dậu kim, Hợi Tý thủy, Thìn Tuất Sửu Mùi thổ.
- Dần Mão mộc Đông phương, phân lưỡng nghi: Dần dương, Mão âm.
- Tỵ Ngọ hỏa Nam phương, phân lưởng nghi: Tỵ âm, Ngọ dương.
- Thân Dậu kim Tây phương, phân lưỡng nghi: Thân dương, Dậu âm.
- Hợi Tý thủy Bắc phương, phân lưỡng nghi: Hợi âm, Tý dương.
- Thìn Tuất Sửu Mùi thổ cuối 4 mùa, phân lưỡng nghi: Thìn (đông) Tuất (tây) dương, Sửu (bắc)
Mùi (nam)âm.

Bạch hổ thông nghĩa nói:


- Thiếu dương hiện ra ở Dần, thịnh tại Mão, suy ở Thìn.
- Thái dương hiện ra ở Tỵ, thịnh tại Ngọ, suy ở Mùi.
- Thiếu âm hiện ra ở Thân, thịnh tại Dậu, suy ở Tuất.
- Thái âm hiện ra ở Hợi, thịnh tại Tý, suy ở Sửu.

3/ Can chi sinh khắc: Bảo – Nghĩa – Chế – Chuyên – Phạt nhật.

“Độn Giáp kinh” nói rằng: Ngày Bảo là can sinh chi – Ngày Nghĩa là chi sinh can. Ngày Chế là
can khắc chi, ngày này lợi hành quân. Ngày Phạt chi khắc can, ngày này kỵ đánh dẹp, chinh
phạt, xuất quân, cướp đất. Ngày Chuyên can chi ngũ hành tương đồng, ngày này kỵ xuất quân.”

“Tào Chấn Khuê nói rằng: Can sinh chi đó là được thiên thời. Chi sinh can được địa lợi đấy. Can
khắc chi được nhân hòa, ta có thể chế kẻ khác được. Vì thế can là trời, là ta; chi là đất là kẻ
khác. Ngày Phạt, kẻ kia khắc ta. Can là tôn (quí), là ta chi là kẻ kia, ấy là ti phạt vào tôn, kẻ khác
khắc ta đó là nghịch vậy. Nay can chi đồng loại, kẻ khác với ta cùng đức, thế hai bên tương địch,
bất phân thắng phụ (bại) vì vậy kỵ xuất quân.”

4/ Ngũ hành 4 mùa và tàng ẩn trong con người.

“Muôn vật đều có thủy có chung. Mỗi một năm có ba ngươn Thượng-ngươn, Trung-ngươn và
Hạ-ngươn rồi trở lại Thượng-ngươn nữa. Mỗi tháng có 3 tuần. Thượng-tuần, Trung-tuần và Hạ-
tuần. Mỗi tuần có 10 ngày. Mỗi ngày chia làm 12 giờ, Khởi đầu giờ Tý đến giờ Hợi là cùng, rồi
khởi đầu lại Tý nữa. Ấy là luật tuần hoàn của vũ-trụ.”

“Mùa Xuân thuộc Mộc. Mộc là cây dùng làm biểu hiện cho tất cả sự vật sinh-tồn của hóa công.
Những sinh vật, động vật, sở dĩ có sự sống nối liền nhau không ngừng là nhờ đức của hành
Mộc. Cho nên cổ-nhân mới đặt Mộc là đức nguyên và để khí đầu cho mỗi mùa trong vạn vật của
trời đất, làm cho đức lớn của trời đất được thêm nẩy nở ; do đó đức Khổng sau này cũng lấy đây
làm ngũ-thường (Thiên địa chi đại đức viết sanh), cho nên đức lớn của con người là lòng Nhân.”

“Mùa Hạ Hỏa vượng, bởi Mộc sanh Hỏa mà Hỏa là lửa. Lửa đây là lử Thiên, lửa trời soi tỏ vũ-
trụ. Lửa người là sức mạnh của tâm linh bồng bột, hay làm cho con người thường đi quá trớn,
nên cổ-nhân mới lấy chữ Lễ để buộc ràng do Lễ tiếp theo Lễ-nhân.”

“Hoả là mặt trời soi khắp nơi để bồi dưỡng muôn loài và duy-trì cuộc sinh-tồn của vũ-trụ, không
có lửa đầm ấm thì cỏ cây muôn loài không phát triển được.”

“Mùa Thu Kim vượng. Kim tượng-trưng cho nguồn lợi ích vô biên của tạo-hóa; mùa Thu cũng là
bắt đầu có Bát-quái và quẻ Càn. Càn là Kim mà Kim tức là vàng bạc kim khí. Bởi cớ ấy đức hành
Kim là Lợi, vì đó mà con người muốn kìm hãm vào lòng ích kỷ dục-lợi cầu-danh thì phải biến
trong chữ Nghĩa mà Nghĩa nối liền theo Lễ-Nhân.”

“Mùa Đông thuộc Thủy, Kim sanh Thủy mà Thủy là nước ; nước giữa tạo-vật là nước thiêng-
liêng, còn nước trong lòng người là dòng nước ý-thức ; ngọn nước thiêng-liêng, dòng nước ý-
thức, lý-trí, nên đức của nước là Trinh. Vậy con người cần phải liêm-khiết trong sạch. Mỗi một
năm thì con người thêm một tuổi, đầy đủ kinh nghiệm biết rộng, hiểu xa, nhờ đó mà đức của
nước là Trí, nên kêu là đức Trí.”

“Nhưng Trí mà xảo-quyệt tàn ác ích-kỷ hại nhân là bẩm sinh con người vào hành Thổ. Vì Thổ là
vật-chất (hậu-thiên) nên có sinh, có tử. Bởi vì Trí (đúng là Thổ đứng giữa bốn hành, có lẽ nhầm)
đứng giữa bốn hành và bốn hướng.”

“Nếu muốn cho bốn đức tính Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí được hoàn hảo và đầy đủ con người cần thêm
một đức tính cuối cùng là Tín.”

“Có Tín có nghĩa mới đẹp lòng thiên hạ và có Trí mới toàn thiện và phụ vào Nhân mới toàn-mỹ.”

“Cho nên tạo-hóa sinh ra mỗi một hành hợp với hai hành và khắc hai hành. Có xung có khắc,
cộng hai sinh hai khắc cùng với một chủ vị ở giữa là năm (ngũ hành).”

“Thủy hợi với Kim và Mộc nhưng khắc với Thổ và Hỏa. Nước chui xuống đất đó là khắc nhập.
Nước làm tắt lửa đó là khắc xuất.”

“Đến lượt Kim thì hợp với Thổ và thủy nhưng lại khắc với Mộc và Hỏa.”

“Kim khí chém đứt cây, cưa đứt gỗ đó là khắc nhập. Kim khi bị lửa đốt cháy chảy ra đó là khắc
xuất.”

“Luật khắc cũng như luật sinh có khắc xuất thì cũng có khắc nhập.”

“Nước với lửa là hai thể đối lập, nhưng nước và lửa tuân theo một định luật. Tuy bề ngoài khắc
nhau nhưng bề trong vẫn tiếp ứng nhau. Lửa và nước nếu không giao hợp với nhau là quẻ Vị-tế,
tức là nước ở dưới lửa ở trên thì không khắc. Bằng cho Ký-tế nước ở trên lửa ở dưới thì nước
sẽ làm lửa tắt thế là khắc nhau. Người ta muốn cho nước với lửa không khắc thì mượn trung
gian hành Thổ mà ngăn cách nhau nghĩa là : Nói về hữu vi thì phải lấy nồi đất đựng nước mà
nấu thì nước sôi lửa không tắt.”

VI/ Nguyên lý An vòng Tràng sinh theo Cổ nhân.

1. Tràng sinh an tại tứ sinh (không phân âm dương): Dần, Thân, Tỵ, Hợi.
- Mộc Tràng sinh ở Hợi, Vượng ở Mão, Mộ tại Mùi.
- Hỏa Tràng sinh ở Dần, Vượng ở Ngọ, Mộ ở Tuất.
- Kim Tràng sinh ở Tỵ, Vượng ở Dậu, Mộ ở Sửu.
- Thủy Tràng sinh ở Thân, Vượng ở Tý, Mộ ở Thìn.
- Thổ Tràng sinh ở Thân, Vượng ở Tý, Mộ ở Thìn.

2. Thiên Can Sinh Vượng Tử – Nguyên lý Dương tử Âm sinh và ngược lại Âm tử thì Dương
sinh.
Thập Thiên can phân âm dương:
Can dương: Giáp Bính Mậu Canh Nhâm.
Can dương: Ất Đinh Kỷ Tân Quý.

a) Can dương Giáp Bính Mậu Canh Nhâm chuyển thuận chiều.
- Giáp Mộc Sinh tại Hợi, Vượng ở Mão, Tử ở Ngọ.
- Bính Hỏa Sinh tại Dần, Vượng ở Ngọ, Tử ở Dậu.
- Mậu Thổ Sinh tại Dần, Vượng ở Ngọ, Tử ở Dậu.
- Canh Kim Sinh tại Ty, Vượng ở Dậu, Tử ở Tý.
- Nhâm Thủy Sinh tại Thân, Vượng ở Tý, Tử ở Mão.

b) Can âm Ất Đinh Kỷ Tân Quý chuyển nghịch chiều.


- Ất Mộc sinh tại Ngọ, Vượng ở Dần, Tử tại Hợi.
- Đinh Hỏa sinh tại Dậu, Vượng ở Tỵ, Tử ở Dần.
- Kỷ Thổ sinh tại Dậu, Vượng ở Tỵ, Tử ở Dần.
- Tân Kim sinh tại Tý, Vượng ở Thân, Tử ở Tỵ.
- Quí Thủy sinh tại Mão, Vượng ở Hợi, Tử ở Thân.

c) Thuyết này luận về Thổ không phân âm dương.


Thổ tràng sinh tại Ngọ, Vượng ở tứ quý, Khắc ở Dần mão, bị tiết khí ở Thân Dậu, Tài ở Hợi Tý.
Vì Thổ là mẹ vạn vật nên Thổ không có Tử, nếu Thổ tử thì tất cả đều chết, lý này thuận với tự
nhiên.

VII/ Ngũ hành Hóa, Lục Hợp và Tam Hợp – Lục xung và Lục Hại.

1/ Ngũ Hành Hợp Hóa


Giáp với Kỷ hợp hóa Thổ, Ất với Canh hợp hóa Kim, Bính với Tân hợp hóa Thủy, Đinh với Nhâm
hợp hóa Mộc, Mậu với Quý hợp hóa Hỏa.
Thứ tự 10 Can phối ghép số Hà Đồ thì:
1 là Giáp, 6 là Kỷ nên Giáp hợp Kỷ
2 là Ất, 7 là Canh nên Ất hợp Canh.
3 là Bính, 8 là Tân nên Bính hợp Tân.
4 là Đinh, 9 là Nhâm nên Đinh hợp Nhâm.
5 là Mậu, 10 là Quý nên Mậu hợp Quý.

Con số lấy 6 vị làm hợp.

2/ Lục Hợp Ngũ Hành


Theo Hiệp Kỷ Biện Phương Thư nói: Ngũ tinh gia lại lấy Dần hợp Hợi thuộc Mộc, Mão hợp Tuất
thuộc Hỏa, Thìn hợp Dậu thuộc Kim, Tí hợp Sửu vì ở dưới nên thuộc Thổ, Ngọ hợp Mùi lại ở bên
trên nên Ngọ là Thái Dương còn Mùi thuộc Thái Âm.

3/Tam Hợp Ngũ Hành.


Thân Tí Thìn hợp Thủy cục, Hợi Mão Mùi hợp Mộc cục, Dần Ngọ Tuất hợp Hỏa cục, Tỵ Dậu Sửu
hợp Kim cục gốc từ Sinh Vượng Mộ vòng Tràng sanh mà ra.

4/ Ngũ Hành Lục Xung (sát)


Can và Chi thứ tự 7 vị xung nhau. Từ Giáp đến Canh là 7, từ Tí đến Ngọ cũng là 7 nên lấy 7 vị
làm xung. Quẻ Càn và Quẻ Khôn hào 7 là cực khí âm dương, số cùng của Trời Đất.

5/ Lục Hại.
Lục Hại sinh ra từ Lục Hợp nghĩa là không hòa thuận.
Tý hợp với Sửu mà Mùi lại xung Sửu, nên Tý Mùi Hại nhau.
Sửu hợp với Tí mà Ngọ lại xung Tí, nên Sửu Ngọ hại nhau.

Dần hợp với Hợi mà Tỵ lại xung Hợi, nên Dần Tỵ Hại nhau.
Mão hợp Tuất mà Thìn lại xung Tuất, nên Mão Thìn hại nhau.

Thìn hợp với Dậu mà Mão lại xung Dậu, nên Mão Thìn hại nhau
Tỵ hợp với Thân mà Dần lại xung Thân, nên Tỵ Dần hại nhau.

Ngọ hợp với Mùi mà Sửu lại xung Mùi, nên Ngọ Sửu hại nhau.
Mùi hợp với Ngọ mà Tí lại xung Ngọ, nên Mùi Tí hại nhau.

Thân hợp với Tỵ mà Hợi lại xung Tỵ, nên Thân Hợi hại nhau.
Dậu hợp với Thìn mà Tuất lại xung Thìn, nên Dậu Tuất hại nhau.

Tuất hợp với Mão mà Dậu lại xung Mão, nên Tuất Dậu hại nhau.
Hợi hợp với Dần mà Thân lại xung Dần, nên Thân Dần hại nhau.

VIII/ Ngũ Hành biến tướng (Dịch Mã)

Dần Ngọ Tuất Dịch-mã ở Thân


Thân Tý Thìn Dịch-mã ở Dần
Tị Dậu Sửu Dịch-mã ở Hợi
Hợi Mão Mùi Dịch-mã ở Tị

Hiệp Kỷ Biện Phương nói: Dịch-mã là số cùng, mà cùng thì phải biến:

1/ Số của Dần Ngọ Tuất Hỏa cục, gặp Thân hóa tướng biến, vì Hỏa sinh ở Mộc mà Mộc lại tuyệt
ở Thân, Thân lại là nơi Thủy sinh nên Hỏa biến tướng.

2/ Số của Thân Tý Thìn Thủy cục, gặp Dần hóa tướng biến, vì Thủy sinh ở Kim mà Kim lại tuyệt
ở Dần, Dần lại là nơi Hỏa sinh, nên Thủy biến tướng.

3/ Số của Tị Dậu Sửu Kim cục, gặp Hợi hóa tướng biến, vì Kim sinh ở Hỏa Thổ mà Hỏa Thổ
tuyệt ở Hợi, Hợi lại là nơi Mộc sinh để sinh Hỏa, ấy là Kim biến mà không cùng.

4/ Số của Hợi Mão Mùi Mộc cục, gặp Tị hóa tướng biến, vì Mộc sinh ở Thủy, mà Thủy tuyệt ở Tị,
Tị lại là nơi Kim sinh, nên Mộc biến tướng.

Ý nghĩa của Dịch-mã là tuyệt sứ mà phùng sinh.

BỐN MÙA NGŨ HÀNH VƯỢNG TƯỚNG

Mùa Xuân (72 ngày) hành : Mộc vượng; Hỏa tướng; Thủy hưu; Kim tù; Thổ tử.
Mùa Hạ (72 ngày) hành : Hỏa vượng; Thổ tướng; Mộc hưu, Thủy tù; Kim tử.
Mùa Thu (72 ngày) hành : Kim vượng; Thủy tướng; Thổ hưu; Hỏa tù; Mộc tử.
Mùa Đông (72 ngày)hành : Thủy vượng; Mộc tướng; Kim hưu, Thổ tù; Hỏa tử.
Tứ quý (18 ngày cuối tháng thìn, tuất, sửu, mùi cộng lại 72 ngày) : Thổ vượng; Kim tướng; Hoả
hưu; Mộc tù; Thủy tử.

Hành đương lệnh là vượng, ví dụ là Ta đương vượng chính ngôi (ngã); Cha mẹ sinh ra Ta thì
Hưu; Con của Ta sinh ra là Tướng; Kẻ khắc Ta phải bị Tù (nhốt lại), ấy là nhờ con Ta là Tướng
đi bắt mà nhốt lại; và tất nhiên người bị Ta khắc sẽ Tử.

Xét về hành, mùa Xuân hành Mộc nghĩa là Mộc vượng. Hay còn gọi mùa xuân hành Mộc, không
có nghĩa chỉ riêng có hành Mộc mà có đủ thêm 4 hành kia. Nếu coi một mùa là một thể thống
nhất, thì có đủ ngũ hành không thể chia cắt, tùy theo mùa đương lệnh mà hành chính danh chính
vị.

Cũng lý ấy suy ra,ví dụ người nạp âm mệnh Mộc thì Mộc chính danh chính vị làm chủ, nghĩa là
Mộc vượng; Hỏa tướng; Thủy hưu; Kim tù; Thổ tử trong mệnh ấy.
(Theo Pháp Vân – Phòng sách tư liệu

Ngũ hành gồm có KIM (cứng rắn, cố kết), THỦY (lưu động, không
ngừng), MỘC (sinh trưởng), HỎA (nhiệt năng), THỔ (mặt đất).
Theo triết học cổ Trung Hoa, tất cả vạn vật đều phát sinh từ năm nguyên tố cơ bản và luôn luôn
trải qua năm trạng thái được gọi là: Mộc, Hỏa, Thổ, Kim và Thủy (tiếng Trung: 木, 火, 土, 金, 水).
Năm trạng thái này, gọi là Ngũ hành (五行), không phải là vật chất như cách hiểu đơn giản theo
nghĩa đen trong tên gọi của chúng mà đúng hơn là cách quy ước của người Trung Hoa cổ đại để
xem xét mối tương tác và quan hệ của vạn vật.

Học thuyết Ngũ hành diễn giải sự sinh hoá của vạn vật qua hai nguyên lý cơ bản (生 – Sinh) còn
gọi là Tương sinh và (克 – Khắc) hay Tương khắc trong mối tương tác và quan hệ của chúng.

Tương sinh, tương khắc, tương thừa, tương vũ kết hợp thành hệ chế hoá, biểu thị mọi sự biến
hóa phức tạp của sự vật.

Luật tương sinh: Tương sinh có nghĩa là giúp đỡ nhau để phát triển. Đem ngũ hành liên hệ với
nhau thì thấy 5 hành có quan hệ xúc tiến lẫn nhau, nương tựa lẫn nhau. Trong luật tương sinh
của ngũ hành còn bao hàm ý nữa là hành nào cũng có quan hệ trên hai phương diện: Cái sinh ra
nó và cái nó sinh ra, ứng dụng vào y học còn gọi là mẫu và tử.

Luật tương khắc: Tương khắc có nghĩa là áp chế lẫn nhau. Sự tương khắc có tác dụng duy trì sự
cân bằng, nhưng nếu tương khắc thái quá thì làm cho sự biến hóa trở thành bất thường. Trong
tương khắc, mỗi hành cũng lại có hai mối quan hệ: Cái khắc nó và cái nó khắc. Từ quy luật
tương khắc, bàn rộng thêm ta có tương thừa (nghĩa là khắc quá đỗi) và tương vũ (nghĩa là khắc
không nổi mà bị phản phục lại).

Trong mối quan hệ Sinh thì Mộc sinh Hỏa; Hỏa sinh Thổ; Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh
Mộc.

Trong mối quan hệ Khắc thì Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim
khắc Mộc.

Một số học giả trên cơ sở sinh và khắc lại bổ sung thêm chế hóa, thừa thắng và hạ nhục,bổ – tả
thực chất là sự suy diễn ra từ hai nguyên lý cơ bản nói trên.

* TÀI TINH: ngũ hành bị mình khắc

Chính Tài: ngũ hành bị mình khắc, nhưng mang tính chất âm dương khác với mình.

Thiên Tài: ngũ hành bị mình khắc, nhưng có tính chất âm dương cùng với mình.

* ẤN TINH: ngũ hành sinh ra mình

Ấn Thụ: ngũ hành, nhưng mang tính chất âm dương khác với mình.

Thiên Ấn: ngũ hành sinh ra mình, nhưng có tính chất âm dương cùng với mình.

* TỶ KIẾP: ngũ hành cùng với mình


Tỷ Kiên: có cùng ngũ hành và tính chất âm dương với mình.

Kiếp Tài: có cùng ngũ hành với mình nhưng khác về tính chất âm dương.

* THỰC THƯƠNG: ngũ hành mình sinh ra

Thực Thần, ngũ hành do mình sinh ra có tính chất âm dương tương tự với mình.

Thương Quan, ngũ hành do mình sinh ra có tính chất âm dương khác với mình.

* QUAN SÁT: ngũ hành khắc mình

Chính Quan: ngũ hành khắc mình, mang tính chất âm dương khác với mình.

Thiên Quan: ngũ hành khắc mình, có tính chất âm dương tương tự với mình.

1.

KIM sinh từ THỔ, THỔ nhiều KIM lấp – cần MỘC khắc bớt THỔ, khiến KIM dễ hiển hiện.

THỔ sinh từ HỎA, HỎA nhiều THỔ cháy – cần THỦY chế ngự bớt HỎA, khiến THỔ được tư
nhuận.

HỎA sinh từ MỘC, MỘC nhiều HỎA lụi – cần KIM khắc bớt MỘC, khiến HỎA được cháy sáng.

MỘC sinh từ THỦY, THỦY nhiều MỘC trôi – cần THỔ chế ngự THỦY, khiến MỘC được sinh
trưởng.

THỦY sinh từ KIM, KIM nhiều THỦY đục – cần HỎA khắc chế KIM, khiến THỦY được trong
sạch.

Ngũ hành quá vượng khiến cho “sinh biến thành khắc”, cần dùng Tài Tinh để bổ cứu.

2.

KIM sinh ra THỦY, THỦY nhiều KIM chìm

THỦY sinh ra MỘC, MỘC thịnh THỦY suy

MỘC sinh ra HỎA, HỎA nhiều MỘC cháy

HỎA sinh ra THỔ, THỔ nhiều HỎA lụi

THỔ sinh ra KIM, KIM nhiều THỔ rỗng.

Ngũ hành quá vượng khiến cho “cái được mình sinh ra quay lại khắc mình” kiểu “con
vượng, mẹ suy”, cần Tỷ – Kiếp trợ giúp, dùng Ấn Tinh để khắc chế con, sinh cho mẹ.

3.
KIM khắc được MỘC, MỘC cứng KIM mòn – dùng KIM đốn MỘC

MỘC khắc được THỔ, THỔ dày MỘC gãy – dùng MỘC tiêu bớt THỔ

THỔ khắc được THỦY, THỦY nhiều THỔ lở – dùng THỔ ngăn chặn THỦY

THỦY khắc được HỎA, HỎA mạnh THỦY bay – dùng THỦY dập bớt HỎA

HỎA khắc được KIM, KIM nhiều HỎA tắt – dùng HỎA nung chảy KIM.

Ngũ hành quá vượng khiến cho “cái bị ta khắc quay lại khắc ta, tiêu hao ta”, nguyên lý bổ
cứu là dùng Tỷ Kiếp trợ giúp.

4.

KIM suy gặp HỎA, sẽ bị nung chảy – dùng THỔ tiết khí của HỎA, tương sinh cho KIM

HỎA suy gặp THỦY, sẽ bị dập tắt – dùng MỘC tiết khí của THỦY, tương sinh cho HỎA

THỦY suy gặp THỔ, sẽ bị ứ trệ – dùng KIM tiết khí của THỔ, tương sinh cho THỦY

THỔ suy gặp MỘC, sẽ bị sạt lở – dùng HỎA tiết khí của MỘC, tương sinh cho THỔ

MỘC suy gặp KIM, sẽ bị đốn chặt – dùng THỦY tiết khí của KIM, tương sinh cho MỘC.

Ngũ hành suy mà bị chính khắc, cần Ấn Tinh trợ giúp, tiêu hao khí của Quan Sát.

5.

KIM mạnh gặp THỦY, sẽ bị cùn mòn

THỦY mạnh gặp MỘC, sẽ bị hao tổn

MỘC mạnh gặp HỎA, sẽ bớt độ cứng

HỎA mạnh gặp THỔ, sẽ bớt độ mạnh

THỔ mạnh gặp KIM, sẽ bị ức chế.

Ngũ hành quá mạnh (được thế, đắc địa) cần dùng Thực Thương để tiết bới khí.

6.

KIM vượng gặp HỎA, sẽ thành đồ dùng

HỎA vượng gặp THỦY, sẽ được ứng cứu

THỦY vượng gặp THỔ, sẽ thành ao hồ


THỔ vượng gặp MỘC, mới được tơi xốp

MỘC vượng gặp KIM, mới thành rường cột.

Ngũ hành quá vượng (được thời) cần dùng Quan Sát để chế ngự.

Hiện tượng tương sinh, tương khắc không tồn tại độc lập với nhau. Trong tương khắc luôn có
mầm mống của tương sinh, trong tương sinh luôn có mầm mống của tương khắc. Do đó vạn vật
luôn luôn tồn tại và phát triển.

hành quá vượng (được thời) cần dùng Quan Sát để chế ngự.

You might also like