Professional Documents
Culture Documents
Chương 34 - Guyton
Chương 34 - Guyton
Cơ thể chúng ta liên tục tiếp xúc với vi khuẩn, virut, nấm và kí sinh trùng, hầu hết chúng đều
không gây bệnh và có sự khác nhau ở da, miệng, đường hô hấp, đường ruột, màng mắt (lining
membranes of the eyes), và cả đường tiết niệu. Nhiều tác nhân nhiễm khuẩn có thể gây ra các bất
thường nghiêm trọng về chức năng sinh lý hoặc thâm chí gây tử vong nếu chúng xâm nhập sâu
vào các mô. Chúng ta cũng có thể tiếp xúc một cách không liên tục với các vi khuẩn và virut có
khả năng lây nhiễm cao không nằm trong số các loại bình thường trên cơ thể, và các tác nhân
này có thể gây ra bệnh cấp tính chết người như viêm phổi, nhiễm liên cầu khuẩn và sốt thương
hàn.
Cơ thể chúng ta có một hệ thống đặc biệt để tiêu diệt các tác nhân gây nhiễm khuẩn và nhiễm
độc khác nhau. Hệ thống này bao gồm bạch cầu (WBCs) và các tế bào nguồn gốc bạch cầu. Các
tế bào này hoạt động cùng nhau theo hai cách để xử lý bệnh: (1) tiêu diệt thật sự các vi khuẩn và
virut xâm nhập bằng cách thực bào và (2) tạo ra các kháng thể và làm tăng nhạy cảm với các tế
bào lympho có thể tiêu diệt hoặc bất hoạt tác nhân xâm nhập. Chương này liên quan tới phương
pháp đầu tiên và chương 35 sẽ nói đến phương pháp thứ 2.
Số lượng tiểu cầu trong mỗi microlit máu bình thường khoảng 300,000.
Bạch cầu đa nhân trung tính và đại thực bào chống lại nhiễm khuẩn
Điều quan trọng nhất đối với bạch cầu hạt trung tính (bạch cầu đa nhân trung tính) và đại
thực bào là tấn công và tiêu diệt các vi khuẩn, virut, và các tác nhân gây hại khác. Bạch cầu hạt
trung tính là các tế bào trưởng thành có thể tấn công và tiêu diệt vi khuẩn ngay cả ở trong máu
tuần hoàn. Ngược lại, đại thực bào bắt đầu vòng đời dưới dạng bạch cầu mono, đó là dạng tế bào
non khi di chuyển trong máu và có ít khả năng tấn công các tác nhân nhiễm khuẩn ở giai đoạn
này. Tuy nhiên, khi vào mô, chúng bắt đầu phồng lên, kích thước tăng gấp 5 lần, khonagrr 60-80
micromet, một kích thước có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Các tế bào này được gọi là đại thực
bào, và chúng có năng lực mạnh mẽ chống lại các tác nhân gây bệnh trong các mô.
Bạch cầu đi vào mô bằng cách xuyên mạch. Bạch cầu hạt trung tính và bạch cầu mono có
thể chui qua các lỗ của mao mạch máu bằng cách xuyên mạch. Ngay cả khi một lỗ mao mạch
nhỏ hơn nhiều so với tế bào, một phần nhỏ của tế bào trược dần qua lỗ trong một khoảng thời
gian; phần trượt qua ngay lập tức co lại bằng kích thước của mỗ, như hình 34-2 và 34-3.
Bạch cầu di chuyển trong mô bằng chuyển động kiểu amip. Cả bạch cầu hạt trung tính và
đại thực bào có thể di chuyển trong mô bằng chuyển động kiểu amip, như đã miêu tả ở Chương
2. Vài tế bào di chuyển với tốc độ nhanh khoảng 40 µm/ph, một khoảng cách lớn so với chiều
dai cơ thể chúng mỗi phút.
Bạch cầu được thu hút đến vùng mô viêm bằng hóa hướng động (Chemotaxis). Nhiều
hóa chất khác nhau trong mô làm cho cả bạch cầu hạt trung tính và đại thực bào di chuyển hướng
về nguồn hóa chất. Hiện tượng này, thể hiện ở hình 34-2, được gọi là hóa hướng động. Khi một
mô bắt đầu viêm, có ít nhất một chục sản phẩm khác nhau được tạo ra có thể gây ra hóa hướng
động hướng về vùng viêm. Chúng bao gồm (1) một số độc tố vi khuẩn hoặc virut, (2) các sản
phẩm thoái hóa của mô viêm, (3) vài sản phẩm phản ứng của “phức hợp bổ thể” (bàn luận ở
Chuong 35) được hoạt hóa trong mô viêm, và (4) vài sản phẩm phản ứng gây ra bởi cục máu
đông trong vùng viêm, cũng như các chất khác.
Như trong hình 34-2, hóa hướng động phụ thuộc gradient nồng độ của chất gây hóa hướng
động. Nồng độ lớn nhất ở gần nguồn, nơi trực tiếp hướng sự di chuyển của bạch cầu. Hóa hướng
động có hiệu quả xa hơn 100 micromet từ một mô viêm. Hơn nữa, do hầu như không vùng mô
nào xa hơn 50 micromet tính từ một mao mạch nên tín hiệu hóa hướng động có thể dễ dàng di
chuyển đám bạch cầu từ các mao mạch vào vùng viêm.
Sự thực bào
Chức năng quan trọng nhất của bạch cầu hạt trung tính và đại thực bào là thực bào, có nghĩa
là tế bào ăn tác nhân xâm phạm. Tế bào thực bào phải chọ lọc chất thực bào; nếu không, các tế
bào và cấu trúc bình thường của cơ thể có thể bị thực bào. Dù thực bào sẽ gây ra nhưng vẫn phụ
thuộc 3 quá trình chọn lọc.
Đầu tiên, hầu hết cấu trúc tự nhiên trong mô có bề mặt nhẵn, chống lại sự thực bào. Tuy
nhiên, nếu bề mặt mất nhẵn, khả năng thực bào sẽ tăng lên.
Thứ hai, hầu hết chất tự nhiên trong cơ thể có áo protein bảo vệ tránh bị thực bào. Ngược lại,
hầu hết mô chết và các hạt ngoại lai không có lớp áo bảo vệ, làm chúng trở thành đối tượng thực
bào.
Thứ ba, hệ thống miễn dịch của cơ thể (được miêu tả ở Chương 35) phát triển các kháng thể
chống lại tác nhân nhiễm khuẩn như vi khuẩn. Các kháng thể sau đó gắn vào màng vi khuẩn và
theo đó làm cho vi khuẩn đặc biệt dễ bị thực bào. Để làm điều này, phân tử kháng thể cũng kết
hợp với sản phẩm C3 của hệ thống bổ thể (complement cascade), đó là một phần bổ sung của hệ
miễn dịch được bàn luận ở chương sau. Phân tử C3 gắn với thụ thể trên màng tế bào thực bào,
dẫn đến khởi động sự thực bào. Trong quá trình này, một nguồn bệnh được chọn lọc cho thực
bào và phá hủy được gọi là sự opsonin hóa.
Sự thực bào của bạch cầu đa nhân trung tính. Bạch cầu hạt trung tính đi vào mô là các
bạch cầu đã trưởng thành có thể lập tức bắt đầu thực bào. Khi tiếp cận một vật lạ, bạch cầu hạt
trung tính đầu tiên gắn chính nó với vật lạ rồi phóng chân giả bao vây vật lạ. Chân giả gặp một
chân giả khác ở vị trí đối diện và hợp nhất với nhau. Hoạt động này tạo ra một túi kín chứa vật
lạ. Sau đó, túi này vào bên trong bào tương và tách khỏi màng ngoài tế bào để tạo thành một “túi
thực bào” trôi tự do (còn gọi là thể thực bào – phagosome) trong bào tương. Một bạch cầu hạt
thường có thể thực bào 3-20 vi khuẩn trước khi chúng trở thành dạng không hoạt động hoặc chết.
Sự thực bào của đại thực bào. Đại thực bào là giai đoạn cuối của bạch cầu mono đi vào mô
từ máu. Khi được hoạt hóa bởi hệ miễn dịch, như miêu tả ở Chương 35, Chúng có khả năng thực
bào lớn hơn nhiều so với bạch cầu đa nhân trung tính, thường có thể thực bào nhiều tới 100 vi
khuẩn. Chúng cũng có khả năng nuốt những vật lớn hơn nhiều, kể cả hồng cầu hoặc đôi khi cả kí
sinh trùng sốt rét, trong khi bạch cầu hạt trung tính không thể thực bào các vật lớn hơn nhiều so
với vi khuẩn. Ngoài ra, sau khi tiêu hóa vật lạ, đại thực bào có thể đẩy sản phẩm thừa ra ngoài và
thường sống và hoạt động chức năng thêm nhiều tháng nữa.
Một khi bị thực bào, hầu hết vật lạ bị tiêu hóa bởi các enzym nội bào. Khi một vật lạ bị
thực bào, lysosome và các hạt khác trong bào tương bạch cầu hạt trung tính hoặc đại thực bào lập
tức bắt đầu tiếp xúc với túi thực bào, hòa màng, rồi trút các enzym tiêu hóa và tác nhân diệt
khuẩn vào túi. Do vậy, túi thực bào trở thành một túi tiêu hóa, và sự tiêu hóa vật bị thực bào lập
tức được bắt đầu.
Cả bạch cầu trung tính và đại thực bào đều chứa một lượng lớn lysosome đầy những enzym
tiêu protein đặc biệt là tiêu hóa vi khuẩn và các protein lạ. Lysosom của đại thực bào ( không
phải của bạch cầu hạt trung tính) cũng chứa lượng lớn lipase để tiêu hóa các màng lipid dày của
một số vi khuẩn như vi khuẩn lao.
Bạch cầu đa nhân trung tính và đại thực bào có thể giết vi khuẩn. Ngoài việc tiêu hóa vi
khuẩn ăn vào trong phagosome thì bạch cầu hạt trung tính và đại thực bào còn chứa các tác nhân
diệt khuẩn giết được hầu hết vi khuẩn kể cả khi enzym của lysosome không tiêu hóa được chúng.
Đặc điểm này đặc biệt quan trọng do một số vi khuẩn có các lớp áo bảo vệ hoặc các yếu tố khác
giúp chúng không bị phá hủy bởi enzym tiêu hóa. Phần lớn tác dụng diệt khuẩn là kết quả từ một
số tác nhân oxy hóa mạnh mẽ được hình thành bởi các enzym trong màng của phagosome hoặc
bởi một hạt đặc biệt gọi là peroxisome. Các tác nhân oxi hóa này bao gồm lượng lớn superoxide
(O2-), hydrogen peroxide (H2O2), và hydroxyl ions (OH-), chúng giết hầu hết vi khuẩn ngay cả
với lượng rất nhỏ. Hơn nữa, một trong số các enzym của lysosome, myeloperoxidase, xúc tác
phản ứng giữa H2O2 và ion Cl- để tạo ra hypochlorid là chất diệt khuẩn rất mạnh.
Một số vi khuẩn, đáng chú ý nhất là vi khuẩn lao, có các lớp áo chống lại sự tiêu hóa của
lysosome và đồng thời tiết các chất chống lại một phần các tác nhân diệt khuẩn của bạch cầu hạt
trung tính và đại thực bào. Các vi khuẩn này gây ra các bệnh mạn tính, ví dụ như bệnh lao.
Hình 34-3 minh họa cấu tạo chung của hạch bạch huyết, bạch mạch đi vào thông qua lớp vỏ
hạch bạch huyết bằng bạch mạch đến, rồi chảy qua các nút xoang tủy, và cuối cùng đi ra khỏi
rốn hạch vào bạch mạch đi rồi đổ vào mạch máu.
Có một lượng lớn đại thực bào lót trong các xoang lympho, và nếu một vài vật lạ xâm nhập
vào các xoang này bằng bạch mạch, chúng sẽ bị các đại thứ bào phá hủy và ngăn cản sự lan rộng
trong toàn cơ thể.
Đại thực bào phế nang trong phổi. Một con đường mà các sinh vật thường xuyên xâm nhậ
vào cơ thể là thông qua phổi. Một lượng lớn các đại thực bào mô có mặt như một thành phần
không thể thiếu của vách phế nang. Chúng có thể thực bào các vật lạ bị giữ lại trong phế nang.
Nếu các vật lạ tiêu hóa được, đại thực bào cũng có thể tiêu hóa chúng và tiết ra các sản phẩm tiêu
hóa và bạch mạch. Nếu vật lạ không tiêu hóa được, đại thực bào thường biến thành mộtĐ “tế bào
khổng lồ” bao quanh vật lạ cho đến khi vật lạ dần dần tan rã. Những bao như vậy thường được
hình thành xung quanh vi khuẩn lao, các hạt bụi silicat và cả các hạt than.
Đại thực bào trong các xoang gan (Kupffer Cells). Các sinh vật lạ cũng có thể xâm nhập
vào cơ thể qua đường tiêu hóa. Một lượng lớn vi khuẩn từ thức ăn luôn đi qua niêm mạc đường
tiêu hóa để vào hệ thống cửa. Trước khi đổ vào tuần hoàn chung, máu tĩnh mạch cửa đi qua các
xoang gan, nơi được lót bởi các đại thực bào mô được gọi là tế bào kuffer, như hình 34-4. Các tế
bào này hình thành như một hệ thống lọc hiệu quả gần như không để cho vi khuẩn từ đường tiêu
hóa qua được hệ thống cửa để vào tuần hoàn chung. Thật vậy, hình ảnh hoạt động thực bào của
tế bào kuffer đã chứng minh quá trình thực bào một vi khuẩn đơn lẻ trong thời gian dưới 0,01s.
Đại thực bào ở Lách và Tủy xương. Nếu một sinh vật lạ xâm nhập thành công vào tuần
hoàn chung, sẽ có các cơ chế bảo vệ khác của hệ thống đại thực bào mô, đặc biệt là đại thực bào
của lách và tủy xương. Ở cả hai mô này, đại thực bào được giữ lại bởi hệ thống võng của hai cơ
quan này và khi vật lạ tiếp xúc với đại thực bào, chúng sẽ bị thực bào.
Lách cũng như các hạch lympho, thay vì máu thì bạch huyết chảy qua các vùng mô của lách.
Hình 34-5 cho thấy một đoạn ngoại biên của lách. Lưu ý rằng một đoạn mạch nhỏ thâm nhập từ
vùng vỏ vào vùng tủy lách và kết thúc trong các mao mạch nhỏ. Các mao mạch có độ xốp cao,
cho phép máu toàn phần đi ra khỏi các mao mạch để vào các dây tủy đỏ. Máu sau đó dần bị ép
qua mạng lưới dây tủy và cuối cùng trở lại máu tuần hoàn qua vách nội mô của các xoang tĩnh
mạch. Các sợi tủy đỏ và các xoang tĩnh mạch được lót bởi một lượng lớn các đại thực bào. Đây
là đoạn đặc biệt của máu thông qua các dây tủy đỏ cung cấp một phương tiện đặc biệt để thực
bào các mảnh vỡ không mong muốn trong máu, đặc biệt là hồng già và hồng cầu bất thường.
Quá trình viêm: Vai trò của Bạch cầu hạt trung tính và Đại thực bào
Quá trình viêm
Khi mô bị tổn thương, dù nguyên nhân do vi khuẩn, chấn thương, chất hóa học, nhiệt độ, hay các
hiện tượng khác, mô tổn thương đều giải phóng ra nhiều chất và gây ra sự biến đổi thứ phát vùng
mô lành xung quanh. Tập hợp những sự thay đỏi của mô này được gọi là hiện tượng viêm.
Viêm đặc trưng bởi (1) sự giãn rộng của mạch tại chỗ, gây tăng lưu lượng máu tại chỗ; (2) tăng
tính thấm của mao mạch, cho phép rò rỉ một lượng lớn dịch vào khoảng kẽ; (3) thường đông tụ
dịch ở khoảng kẽ do tăng số lượng fibrinogen và các protein rò rỉ từ mao mạch.; (4) thu hút một
lượng lớn bạch cầu hạt và bạch cầu mono vào mô; và (5) sự phồng lên của các tế bào mô. Nhiều
sản phẩm của các mô tổn thương gây ra các phản ứng này như histamine, bradykinin, serotonin,
prostaglandin, một số sản phẩm phản ứng của hệ thống bổ thể (miêu tả ở Chương 35), Các sản
phẩm phản ứng của hệ thống đông máu, và nhiều chất khác được gọi là lymphokine được tiết ra
bởi lympho T hoạt hóa (bộ phận của hệ thống miễn dịch, được bàn luận ở chương 35). Một vài
chất này hoạt hóa mạnh mẽ hệ thống đại thực bào, và trong một vài giờ, đại thực bào bắt đầu
thực bào các mô bị phá hủy. Tuy nhiên, giai đoạn này, đại thực bào cũng làm tổn thương thêm
các tế bào mô lành.
Tác dụng “khoanh vùng” của viêm. Một trong những kết quả đầu tiên của viêm là “khoanh
vùng” ổ tổn thương với các vùng còn lại. Các khoang mô và bạch mạch trong ổ viêm bị phong
tỏa bởi các cục fibrin nên sau một thời gian, không còn dịch chảy qua khoảng này. Quá trình
khoanh vùng này làm giảm sự lan truyền của vi khuẩn và các sản phẩm độc hại.
Cường độ của qua trình viêm thường tỷ lệ với mức độ tổn thương mô. Ví dụ, khi Tụ cầu xâm
nhập mô, tiết ra các chất độc gây chết tế bào cực mạnh. Kết quả là quá trình viêm phát triển
nhanh chóng, nhanh hơn nhiều so với tốc độ nhân lên và lan truyền của Tụ cầu. Do đó, nhiễm
khuẩn tụ cầu tại chỗ đặc trưng bởi tốc độ khoanh vùng nhanh chóng và ngăn ngừa sự lan rộng
vào cơ thể. Liên cầu thì ngược lại, không gây ra sự phá hủy mạnh mẽ mô tại chỗ. Do đó, quá
trình khoanh vùng phát triển chậm hơn nhiều giờ, trong khi nhiều liên cầu tăng sinh và di
chuyển. Kết quả là liên cầu thường có xư hướng lan rộng nhiều và lan ra toàn cơ thể và dễ gây
tử vong hơn tụ cầu, ngay cả khi tụ cầu có thể phá hủy các mô nhiều hơn.
Sự đáp ứng của Đại thực bào và Bạch cầu hạt trung tính trong viêm
Đại thực bào mô cung cấp hàng rào bảo vệ đầu tiên chống lại nhiễm khuẩn. Trong vài phút
sau khi viêm bắt đầu, đại thực bào sẵn sàng có mặt trong mô, dù là mô bào trong mô dưới da, đại
thực bào phế nang trong phổi, tế bào tiểu thần knh đệm trong não, hay các đại thực bào khác, đều
ngay lập tức bắt đầu hoạt động thực bào. Khi được hoạt hóa bởi các sản phẩm của viêm và nhiễm
khuẩn, tác dụng đầu tiên là các đại thực bào nhanh chóng phồng lên. Sau đó, nhiều đại thực bào
tách khỏi chỗ gắn và bắt đầu di động, tạo một hàng rào bảo vệ chống lại nhiễm khuẩn trong giờ
đầu tiên. Lượng đại thực bào được huy động đàu tiên không nhiều nhưng chúng rất cần thiết.
Bạch cầu hạt trung tính xâm nhập vùng viêm tạo hàng rào bảo vệ thứ hai. Trong giờ đầu
tiên hoặc sau khi viêm bắt đầu, một lượng lớn bạch cầu hạt trung tính bắt đầu tràn vào vùng viêm
từ máu. Sự xâm nhập này là do các cytokin của viêm (vd: yếu tố hoại tử u và interkeukin-1) và
các sản phẩm hóa sinh khác được sản xuất bởi mô viêm sau gây phản ứng:
1. Chúng làm tăng sự xuất hiện của phân tử dính, như selectin và phân tử kết dính gian
bào-1 (ICAM-1) trên bề mặt tế bào nội mô mao mạch và tiểu tĩnh mạch. Các phân tử
kết dính này phản ứng với phân tử integrin trên bạch cầu hạt trung tính để gắn lên
vách mao mạch và tiểu tĩnh mạch trong vùng viêm. Tác dụng này được gọi là sự bám
mạch và được thể hiện ở hình 34-2 và chi tiết hơn ở hình 34-6.
2. Chúng cũng làm cho sự kết dính giữa tế bào nội mô mao mạch và các tiểu tĩnh mạch
nới lỏng ra, cho phép mở rộng đủ để bạch cầu hạt trung tính bò trực tiếp từ máu vào
khoảng mô bằng cách xuyên mạch.
3. Chúng gây ra hóa hướng động bạch cầu hạt trung tính về phía mô tổn thương, như đã
nói ở phần trước.
Tăng cấp tính số lượng bạch cầu hạt trung tính trong máu – “Neutrophilia”. Cũng trong
một vài giờ đầu sau sự tấn công cấp tính, viêm nặng, số lượng bạch cầu hạt trung tính trong máu
đôi khi tăng từ 4-5 lần (từ 4000-5000 tăng thành 15,000-25,000 bạch cầu mỗi microlit). Điều này
được gọi là neutrophilia, có nghĩa là tăng số lượng bạch cầu hạt trung tính trong máu.
Neutrophilia gây ra do các sản phẩm viêm đi vào máu, được vẩn chuyển đến tủy xương, và tác
động lên bạch cầu hạt trung tính dự trữ ở tủy xương di chuyển ra máu tuần hoàn. Điều này làm
cho nhiều bạch cầu hạt trung tính đi đến mô viêm.
Sự xâm nhập của đại thực bào vào mô viêm tạo hàng rào bảo vệ thứ ba. Cúng với bạch cầu
hạt trung tính, bạch cầu mono từ máu vào mô viêm và trở thành đại thực bào. Tuy nhiên, số
lượng bạch cầu mono trong máu tuần hoàn lại thấp. Trong tủy xương cũng dự trữ ít bạch cầu
mono hơn so với bạch cầu hạt trung tính. Do đó, sự tập trung đại thục bào trong mô viêm chậm
hơn nhiều so với bạch cầu hạt trung tính, cần mất vài ngày mới có tác dụng. Hơn nữa, ngay cả
sau khi xâm nhập mô viêm, bạch cầu mono còn chưa phải tế bào trưởng thành, cần 8h hoặc hơn
để phồng lên phát triển kích thước to hơn và phát triển một lượng cực kì nhiều lysosome; chỉ sau
khi đấy chúng mới đạt được đầu đủ khả năng của đại thực bào mô để có thể thực bào. Sau vài
ngày đến vài tuần, đại thực bào cuối cùng sẽ tiến tới chiếm ưu thế về tế bào thực bafotrong mô
viêm do tủy xương tăng sản xuất các bạch cầu mono mới, sẽ được bàn đến sau.
Như đã chỉ ra, đại thực bào có thể thực bào nhiều vi khuẩn hơn (khoảng gấp 5 lần) và các phần
tử lớn hơn, bao gồm cả bạch cầu hạt trung tính. Đại thực bào cũng đóng vai trò quan trọng trong
việc khởi động sản xuất kháng thể, sẽ được bàn luận ở Chương 35.
Tủy xương tăng sản xuất bạch cầu hạt và bạch cầu môn là hàng rào bảo vệ thứ tư. Hàng rào
bảo vệ thứ tư là sự tăng sản xuất của bạch cầu hạt và bạch cầu mono bởi tủy xương. Hoạt động
này là kết quả từ sự kích thích các tế bào tổ tiên dòng bạch cầu hạt và dòng mono trong tủy
xương. Tuy nhiên, mất 3-4 ngày trước khi bạch cầu hạt và bạch cầu mono mới được hình thành
đạt đến giai đoạn rời khỏi tủy xương. Nếu kích thích từ mô viêm tiếp tục, tủy xương có thể tiếp
tục sản xuất một lượng cực lớn các bạch cầu này trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm, đôi khi
gấp 20-50 lần bình thường.
Quá trình điều hòa ngược các đáp ứng của đại thực bào và bạch cầu đa nhân
trung tính
Mặc dù có nhiều hơn hai chục yếu tố tham gia điều hòa đại thực bào đáp ứng viêm, có 5 yếu
được tin là đóng vai trò chính trong viêm. Chúng được thể hiện trong Hình 34-7, bao gồm (1)
yếu tố hoại tử u (TNF), (2) interleukin-1 (IL-1), (3) yếu tố kích thích cụm bạch cầu hạt-bạch cầu
mono (GM-CSF), (4) yếu tố kích thích cụm bạch cầu hạt (G-CSF), và (5) yếu tố kích thích cụm
bạch cầu mono (M-CSF). Các yếu tố này được hình thành bởi các đại thực bào hoạt hóa trong
mô viêm và một lượng nhỏ hơn bởi các tế bào khác của mô viêm.
Nguyên nhân chủ yếu làm cho tủy xương tăng sản xuất bạch cầu hạt và bạch cầu mono là ba yếu
tố kích thích cụm, một trong số đó là GM-CSF kích thích sản xuất cả bạch cầu hạt và bạch cầu
mono; hai yếu tố còn lại, G-CSF và M-CSF tương ứng kích thích sản xuất bạch cầu hạt và bạch
cầu mono. Sự phôi hợp của TNF, IL-1 và các ếu tố kích thích cụm tạo ra một cơ chế điều hòa
ngược mạnh mẽ bắt đầu với mô viêm và quá trình hình thành của lượng lớn các bạch cầu bảo vệ
giúp loại bỏ các nguyên nhân gây viêm.
Sự tạo mủ
Khi bạch cầu hạt trung tính và đại thực bào nuốt phần lớn vi khuẩn và mô hoại tử, về cơ bản thì
tất cả bạch cầu hạt trung tính và phần lớn đại thực bào cuối cùng sẽ chết. Sau vài ngày, một hốc
thường được đào trong mô viêm. Hốc này chứa các phần khác nhau của mô hoại tử, bạch cầu hạt
trung tính chết, đại thực bào chết và dịch mô. Hỗn hợp này thường được gọi là mủ.
Sau khi nhiễm khuẩn được ngăn chặn, các tế bào chết và mô họa tử trong mủ dần được tiêu trong
vài ngày, và sản phẩm cuối cùng được hấp thu vào các mô xung quanh và bạch huyết đến khi
hầu hết các dấu hiệu tổn thương mô mất hết.
Bạch cầu ưa acid (eosinophils)
Bạch cầu ái toan (ưa acid) thường chiếm 2% của bạch cầu trong máu. Bạch cầu ái toan thực bào
yếu, và chúng thể hiện sự hóa hướng động, nhưng khi so sánh với bạch cầu hạt trung tính thì
điều này không có ý nghĩa đáng kể trong việc bảo vệ chống lại các lạo nhiễm khuẩn thông
thường.
Tuy nhiên, bạch cầu ái toan thường được sản xuất số lượng lớn trong cơ thể người với các nhiễm
khuẩn do kí sinh trùng, và chúng di chuyển đến các mô bệnh do kí sinh trùng. Dù hầu hết kí sinh
trùng rất lớn để có thể thực bào bởi bạch cầu ái toan hoặc các tế bào thực bào khác, nhưng bạch
cầu ái toan tự gắn mình vào kí sinh trùng bằng các phân tử bề mặt đặc biệt và tiết các chất để tiêu
diệt nhiều kí sinh trùng. Ví dụ, một trong những bệnh nhiễm kí sinh trùng phổ biến nhất là bệnh
sán máng, một kí sinh trùng lây nhiễm được tìm thấy trong nhiều như một phần ba dân số của
các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi và Nam Mĩ, kí sinh trùng có thể xâm nhập vào
nhiều nơi trong cơ thể. Bạch cầu ái toan gắn mình lên dạng chưa trưởng thành của sán và tiêu
diệt chúng. Bạch cầu ái toan làm việc này theo nhiều cách: (1) tiết ra enzym thủy phân từ các hạt
của chúng, được biến đổi từ lysosom; (2) gần như chắc chắn cũng tiết radạng phản ứng mạnh của
oxy có tác dụng dây chết đặc biệt là kí sinh trùng; (3) tiết ra từ các hạt một polipeptid giết mạnh
ấu trùng được gọi là major basic protein.
Trong một ít khu vực trên thế giới, bệnh kí sinh trùng khác làm tăng bạch cầu ái toan là bệnh
giun. Bệnh này là kết quả từ sự xâm nhập vào cơ vân bởi trichinella (“giun thịt lợn”) sau khi
một người ăn thịt lợn nhiễm giun chưa được nấu chín.
Bạch cầu ái toan cũng có xu hướng đặc biệt tập trung nhiều trong các mô có phản ứng dị ứng,
như trong các mô quanh phế quản ở người bị hen phế quản và trong da sau khi có phản ứng dị
ứng da. Hiện tượng này được gây ra ít nhất là do thực tế có nhiều dưỡng bào và bạch cầu ái kiềm
tham gia phản ứng dị ứng, sẽ được bàn luận ở đoạn sau. Dưỡng bào và bạch cầu ái kiềm tiết ra
một yếu tố hóa hướng động bạch cầu ái toan làm cho bạch cầu ái toan di chuyển về phía mô
viêm dị ứng. Bạch cầu ái toan được tin là làm giải độc các chất tiết gây viêm do dưỡng bào và
bạch cầu ái kiềm tiết ra và gần như chắc chắn chúng cũng thực bào và tiêu hủy phức hợp kháng
nguyên-kháng thể, do vậy ngăn chặn sự lan rộng quá mức của quá trình viêm tại chỗ.
Leukemia
Sự sản xuất không giới hạn của bạch cầu có thể gây ra bởi đột biến quá sản của một tế bào dòng
tủy hoặc một tế bào dòng lympho. Quá trình đó gây ra leukemia, bệnh thường đặc trưng bởi sự
tăng mạng số lượng bạch cầu bất thường trong máu tuần hoàn.
Hai loại Leukemia thông thường: leukemia thể lympho gây ra bởi sự quá sản của bạch cầu
lympho, thường bắt đầu trong một hạch lympho hoặc một mô lympho khác rồi lan ra các vùng
khác của cơ thể. Loại thứ hai là leukemia thể tủy, bắt đầu bởi sự quá sản của tủy bào non trong
tủy xương rồi lan ra khắp cơ thể đến mức bạch cầu được sản xuất nhiều ở ngoài tủy đặc biệt là
các mô trong hạch lympho, lách và gan.
Trong leukemia thể tủy, quá trình ung thư có thể sản sinh các tế bào được biệt hóa một phần,
chúng có thể được gọi là leukemia bạch cầu hạt trung tính, leukemia bạch cầu ái toan, leukemia
bạch cầu ái kiềm, hoặc leukemia nạch cầu mono. Tuy nhiên, thông thường các tế bào leukemia
thường dị dạng và không biệt hóa và không giống các bạch cầu bình thường. Thong thường,
càng nhiều tế bào không biệt hóa, leukemia càng cấp tính, thường dẫn đến tử vong trong vài
tháng nếu không điều trị. Với nhiều tế bào đã biệt hóa, quá trình có thể trở thành mạn tính,
thường mất chức năng cung cấp sự bảo vệ chống lại nhiễm khuẩn.