Download as doc, pdf, or txt
Download as doc, pdf, or txt
You are on page 1of 18

Câu 6: Trình bày và phân tích tính sáng tạo , tư tưởng HCM về cách mạng giải

phóng dân tộc.Liên hệ thực tiễn CM nước ta?


Tư tưởng HCM về CM giải phóng dân tộc : -CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi
phải theo con đường CMVS -CM giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng
của g/c CN lãnh đạo -CM giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn dân, trên cơ sở liên
minh công,nông -CM giải phóng dân tộc cần đc tiến hành chủ động, sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước CMVS chính quốc -CM giải phóng dân tộc phải đc
thực hiện bằng con đường bạo lực,kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực
lượng nhân dân

Tính sáng tạo trong tư tưởng HCM về cách mạng giải phóng dân tộc: -Đến với CN
Mac-Lenin xác định con đường cứu nước theo khuynh hướng chính trị vô sản, nhưng
con đường CM giải phóng dân tộc do HCM hoạch định ko tự khuôn mình trong
những nguyên lý có sẵn mà còn có sự kết hợp hài hòa vấn đề dân tộc với vấn đề giai
cấp, gắn độc lập dân tộc với phương hướng XHCN.Phương pháp tiến hành cách mạng
giải phóng dân tộc của HCM hết sức độc đáo và sáng tạo, thấm nhuần tính nhân văn.
-Xuất phát từ đk lịch sử cụ thể ở thuộc địa, nhất là so sánh lực lượng quá chênh lệch
về kinh tế và quân sự giữa các dân tộc bị áp bức và CNĐQ ,HCM đã xây dựng nền lý
luận về phương pháp khởi nghĩa toàn dân & chiến tranh nhân dân.Phát huy & sử dụng
sức mạnh toàn dân tộc để tiến hành khởi nghĩa vũ trang & chiến tranh CM là điểm
độc đáo trong phương pháp CM giải phóng dân tộc của HCM -"CM giải phóng dân
tộc được tiến hành chủ động , sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước CM vô
sản ở chính quốc" là 1 trong ~ sáng tạo lớn của HCM : +Đại hội lần VI Quốc tế cho
rằng : Chỉ có thể thực hiện toàn công cuộc GP các thuộc điạ khi g/c VS giành đc thắng
lợi ở các nuớc TB tiên tiến. +Cuộc CMT10 Nga (1917) cuả g/c VS Nga lãnh đạo đã
lật đổ g/c TS Nga lúc bấy giờ.Khi đã giành đc chính quyền và Nhà nước mới,g/c VS
Nga đã giúp đỡ cho các dân tộc thuộc địa của Nga làm CM và đã giành chiến thắng.
Như vậy,thực tiễn đó đã khẳng định rằng cuộc CMVS ở chính quốc thắng lợi thì các
cuộc CMGPDT của Nga cũng win. Tuy nhiên , hoàn cảnh of VN khác về cơ bản so
với Nga.Do đó, HCM đã bổ sung cho quan điểm của CN Mac -Lenin, Người kđ rằng :
Cuộc CMGPDT ở thuộc địa ko ~ phụ thuộc vào CMVS ở chính quốc mà còn có khả
năng win trước. —Lý do 1 : Cuộc CMGPDT ở thuộc địa có tính độc lập tương đối cao
so vơí CMVS ở chính quốc .Do đó, nó có sự chủ động và sáng tạo trong hoạt động
của mình. —Lý do 2 : HCM đã kđ khả năng GPDT ở thuộc địa.Người cho rằng , nhân
dân ở các nước thuộc địa chịu sự áp bức bóc lột nặng nề hơn soa với nhân dân ở các
nước chính quốc.Do đó, CM ở thuộc địa có động lực mạnh mẽ nổ ra trước cuộc CM ở
chính quốc —Lý do 3 : Sự áp bức bóc lột of CNTD tập trung ở thuộc điạ nhưng điểm
yếu of CNTD cũng là ở thuộc địa.Do đó, nếu CM ở thuộc địa nổ ra sẽ có khả nâng
giành win trước so với các nước chính quốc

Liên hệ thực tiễn CM nước ta: - CMT8 trước hết là hình mẫu tiêu biểu của sự vận
dụng sáng tạo của CN Mac-LeNin vào điều kiện cụ thể của CM nước ta.Đảng và Bác
đã phát huy và khơi dậy được tinh thần yêu nước tìm ẩn trong mỗi con người Việt
Nam yêu nước, từ già cho đến trẻ. Trên nền của phương pháp tư duy sáng tạo Đảng và
Bác đã tập hợp được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc. Quan điểm "dĩ bất biến, ứng
vạn biến" là nền tảng của phương pháp tư duy sáng tạo mới. Nhờ đó chúng ta đã cô
lập được kẻ thù tập hợp được sức mạnh của toàn dân không phân biệt Đảng phái hay
tín ngưỡng.Từ đó giành thắng lợi từng phần đến thắng lợi hoàn toàn là đỉnh cao củ sự
sáng tạo trong cuộc CMT8. Mà điển hình đó là trong suốt chín năm ròng rả chiến đấu
với thực dân Pháp hung tàn đỉnh cao đó là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Hay là,
cuộc CMT8 ở VN giành win trước cuộc CM of nhân dân Nhật...Chính tính sáng tạo
đã làm nên sức mạnh của cách mạng tháng Tám. Như vậy, trong suốt quá trình lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, Ðảng ta luôn luôn quán triệt tinh thần sáng tạo của cách
mạng tháng Tám. Nhờ tinh thần chủ động sáng tạo, cách mạng Việt Nam đã vượt qua
nhiều thử thách, giành được nhiều thắng lợi trên con đường phát triển của mình. -Trên
thế giới : Nhân dân Trung Quốc tự mình đánh đuổi phát xít Nhật (1945) trước khi
cuộc CM của nhân dân Nhật nổ ra)
Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta đã sử dụng
nhiều con đường gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau. Xong tất cả các
phong trào của ông cha ta mặc dù đã diễn ra vô cùng anh dũng, nhưng đều bị thực dân
Pháp dìm trong biển máu.

Mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha ta, nhưng Bác Hồ kính yêu của
chúng ta không tán thành các con đường cứu nước của họ, người quyết tâm ra đi tìm
một con đường cứu nước mới. Hồ Chí Minh đến nhiều quốc gia và Châu lục trên thế
giới. Người đã tiếp xúc với bản tuyên ngôn độc lập của Mỹ, tìm hiểu thực tiễn cách
mạng Mỹ; Đọc bản tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của cách mạng Pháp, tìm
hiểu cách mạng tư sản Pháp. Hồ Chí Minh cho rằng: “ Cách mệnh Pháp cũng như
cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản. Cách mệnh không đến nơi, không triệt để,
tiếng nói là cộng hòa là dân chủ. Kỳ thực bện trong thì nó bóc nột công nông trong
nước, ở ngoài thì áp bức thuộc địa:. Bởi lẽ đó, người không đi theo con đường cách
mạng tư sản.

Hồ Chí Minh thấy được cách mạng tháng Mười Nga không chỉ là một cuộc cách
mạng tư sản, mà còn là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Vượt qua sự hạn chế
về tư tưởng của các sỹ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời,
Hồ Chí MInh đã đến với học thuyết chính trị vô sản.

Thứ nhất : “ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
là con đường cách mạng vô sản”, “ chỉ có chủ nghĩa xã hội , chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi
ách nô lệ”.

Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, rút kinh nghiệm của cáXuất phát từ thực tiễn Việt
Nam, rút kinh nghiệm của các cuộc cách mạng trước đó. Xuất phát từ thực tiễn thế
giới, nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản. Cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ, tuy đã
giành thắng lợi hơn 150 năm nay mà nhân dân lao động vẫn khổ và họ đang muốn làm
cách mạng tư sản chỉ thay thế chế độ bóc lột này bằng chế độ bóc lột khác tinh vi hơn
chứ không xóa bỏ được áp bức bóc lột, vì thế Người cho rằng đó là những cuộc cách
mạng không đến nơi, không triệt để. Do đó, cứu nước theo ngọn cờ của giai cấp tư sản
không phải là lối thoát cho dân tộc.

Người thấy được các cuộc cách mạng này không triệt để nên không lựa chọn.
Nghiên cứu cách mạng tháng Mười Nga, Người thấy đay là cuộc cách mạng triệt để
( cách mạng vô sản). Người đã nhận định cuộc cách mạng của chúng ta phải đi theo
cách mạng tháng Mười Nga.

Từ đầu những nam 20 thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: chủ nghĩa đế quốc là
một con đỉa 2 vòi, một vòi bám vào chính quốc, môt òi bám vào thuộc địa. Man cut be
được hai cái vòi của nó đi, ta phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc với cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa; phải xem cách mạng, đánh bại chủ nghĩa đế
quốc, mặt khác, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường
cách mạng vô sản. Đây là nhận định đúng đắn mang tính sáng tạo của Hồ Chí Minh
trong việc xác định con đường cách mạng ở Việt Nam, là yếu tố quan trọng trong việc
góp phàn quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam sau này.

Thứ hai: Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp
công nhân lãnh đạo. NAQ đã sớm khẳng đinh: Muốn giải phogs dân tôc thành công “
trước hết phải có đảng cách mênh”, “ đảng có vững cách mệnh mới thành công” đến
với chủ nghĩa Mac-Lênin Hồ Chí Minh đã thẫy sự cần thiết, và tầm quan trọng của
một chính đảng cách mạng đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Bác đã khẳng định rằng : “ Đảng có vững mạnh mới thành công, cũng như người
cầm lái con thuyền có vững thì thuyền mới chạy… Đảng muốn vững mạnh thì phải có
chủ nghĩa làm nòng cốt. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Mac- Lênin”.

Thực tế đã chứng minh:


Từ khi ra đời đến nay Đảng Cộng Sản Việt Nam đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đầu năm 1930, Người sáng lập Đảng Cộng sản
Viêt nam- một chính đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa
Mac- Lênin “ làm cốt, có tổ chức chặt chẽ”. Hồ Chí Minh đã xây dựng một đảng tiên
phong , phù hợp với thực tiễn Việt Nam, gắn bó với nhân dân, với dân tộc, một lòng
một dạ phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân dân, được nhân dân, được dân tộc thừa nhận
là đội tiên phong của mình.

Ngay từ khi mới ra đời, Đảng do Hồ Chí Minh sáng lập đã quy tụ được lực lượng và
sức mạnh của toàn bộ giai cấp công nhân và cả dân tộc Việt Nam. Đó là một ưu điểm
của Đảng. Nhờ đó, ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất
đối với cách mạng Việt Nam và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm mọi thắng lợi của
cách mạng.

Thứ ba: Cách mạng giải phóng đân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân, trên cơ sở
liên minh công nông.
Trên nền tảng của chủ nghĩa Mac-Lênin, Hồ Chí Minh cũng khẳng định cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Nhưng khái niệm “ dân trong tư tưởng Hồ Chí
Minh có phạm vi rộng hơn so với chủ nghĩa Mac-Lênin, quốc tế cộng sản và các vị
yêu nước cách mạng tiền bối”. Người cho rằng: “ để có cơ thắng lợi, thì phải thực
hiện một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương, cuộc khởi nghĩa này phải có tính
chất là một cuộc khởi nghĩa quần chúng, chứ không phải là một cuộc nổi loạn. Cuộc
khởi nghĩa phải được chuẩn bị trong quần chúng…”, “ Cách mện là việc chung cả dân
chúng chư không phải việc của một hai người?
Trong cách mạng thang Tám 1945 cũng như hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
Mỹ, Hồ Chí Minh lấy nhân dân làm nguồn sức mạnh. Quan điểm “ lấy dân làm gốc”
xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người. Khi còn hoạt động ở nước ngoài,
Hồ Chí Minh nói: “ Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần
chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đua họ ra đấu tranh
giành độc lập”.

Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong khởi nghĩa vũ
trang. Người coi sức mạnh vĩ đại à năng lưccj sáng tạo vô tận của quần chúng nhân
dân là then chốt bảo đảm thắng lợi. Người khẳng định: “ Dân khí mạnh thì quan lính
nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi”. “ Phải dựa vào dân, dựa chắc vào dân
thì kẻ đich không thể nào tiêu diệt được”. “ chúng ta tin chắc vào tinh thần và lực
lượng của quần chúng của dân tộc”.

Trong lực lượng đó Hồ Chí Minh đã xác định: công – nông là “gốc” của cách mạng
là lực lượng dông đảo nhất,nên có sức mạnh lớn nhất.Họ bị áp bức bóc lột nặng nề
nhất,nên có tinh thần cách mạng cao nhất.Khẳng định vai trò động lực cách mạng
của công nhân và nông dân là một vấn đề hết sức mới mẻ so với nhận thức của những
nhà yêu nước trước đó.Đảng phải tập hợp đại bộ phận của giai cấp công nhân,tập hợp
đại bộ phận của nông dân và dựa vào dân cày nghèo,lãnh đạo nông dân làm cách
mạng ruộng đất.

Bên cạnh đó Hồ Chí Minh không coi nhẹ khả năng tham gia sựu nghiệp giải phóng
dân tộc của giai cấp và tầng lớp khác.Người coi tiểu tư sản,tư sản dân tộc và một bộ
phận giai cấp địa chủ là bạn đồng minh của cách mạng.Lôi kéo họ đi vào phe vô sản
giai cấp.Người chỉ rõ:Trí thức,tiểu thương,tiểu chủ cũng bị tư bản áp bức,song không
cực khổ bằng công nhân và nông dân, và coi đó là bầu bạn của cách mạng.Đối với
phú nông,trung nông,tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phải của cách
mạng thì phải lợi dụng,ít lâu mới làm họ đứng trung lập,bộ phận nào đã ra mặt phản
cách mạng thì phải đánh đổ bộ phận ấy
.
Ngoài lực lượng cách mạng ở trong nước Bác còn chú ý đến lực lượng của các nước
chính quốc,các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới.

Đối tượng cách mạng giải phóng dân tộc là chủ nghĩa thực dân phong kiến.Chủ
nghĩa thực dân được chia ra:

1.Thực dân phản động là đối tượng mà cách mạng cần đánh đổ.

2.Thực dân chính trực là những kỹ sư,bác sỹ doanh nhân các nhà quản lý,kinh
doanh… đến để chuyển giao công nghệ thì ta tiếp đón mở cửa cho các đối tượng này
đến trao đổi buôn bán.

3.Phong kiến tay sai phản động là lực lượng nhỏ nhưng là lực lượng cách mạng Việt
Nam cần phải đánh đổ.Phong kiến tay sai chưa rõ mặt phản cách mạng thì ta nên lôi
kéo và trung lập.Ngoài ra cách mạng ta còn cần phải đánh đổ đồng minh các nước chư
hầu của thực dân và phong kiến.

Đây là điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh,Ngườ xác định cách mạng muốn đi đến thắng
lợi thì yếu tố quan trọng là sự đoàn kết toàn dân, đoàn kết các dân tộc trên thế
giới.Dựa vào sức mạnh của toàn dân trên cơ sở liên minh công –nông
Thứ tư:Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động ,sáng tạo và có
khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.

Đây là mộ luận điểm mới và sáng tạo của Hồ Chí Minh.Trong phong trào cộng sản
quốc tế,các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác Lênin lúc bấy giờ đã từng tồn tại quan
điểm xem thắng lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào cách mạng vô
sản chính quốc-chỉ khi nào cách mạng chính quốc giành thắng lợi thì cách mạng thuộc
địa mới giành được thắng lợi.
Do nhận thức được thuộc địa là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc
,do đánh giá đúng đắn sức mạnh của chủ nghiã yêu nước và tinh thần dân tộc,Hồ Chí
Minh không chỉ nhìn thấy mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và cách mạng chính
quốc một cách tinh tế,mà còn nhìn thấy những nhân tố mới khác so với quan niệm của
chủ nghĩa Mác Lênin và quốc tế cộng sản.Ngay từ năm 1924,Người đã sớm cho rằng
cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính
quốc mà có thể dành thắng lợi trước.Đây là một cống hiến rất quan trong vào kho tàn
lý luận Mác Lênin , đã giành được những thắng lợi của cách mạng Việt Nam chứng
minh đó là hoàn toàn đúng đắn.

Quan niệm nên trên của Hồ Chí Minh không nằm ngoài lý luận của chủ nghĩa Mách
Lênin mà thể hiện sự vận dụng đúng đắn,sáng tạo của Hồ Chí Minh vào điều kiện
hoàn cảnh cụ thể.Cách mạng cần được tiến hành một cách triệt để,chủ động sáng tạo
và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng ở chính quốc.

Thứ năm:Là cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo
lực,kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang của nhân dân.

Theo Mac-Anghen: cách mạng vô sản ở chính quốc là cần thiết và được thực hiện
trước. Theo Lênin: cách mạng ở thuộc địa phụ thuộc vào cchs mạng vô sản ở chính
quốc. Còn theo Hồ Chí Minh: Cách mạng giải phóng dân tộc phải được tiến hành chủ
động và có khả năng giành thắng lợii trước cách mạng vô sản ở chính quốc.

Hồ Chí Minh vận dụng những nguyên lý mà C.Mác đưa ra: “ Sự giải phóng của giai
cấp công nhân chỉ có thể thực hiện được bởi giai cấp công nhân” để đưa đến khẳng
định: “ Công cuộc giải phóng công nông chỉ có thể thực hiện được bặng sự nỗ lực của
bản thân giai cấp công nông. Vì thế nên công cuộc giải phóng dân tộc thuộc địa phải
do chính các dân tộc đó thực hiện. Đánh giá đúng bản chất của chủ nghĩa đế quốc, Hồ
Chí Minh đã xác định: “ Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và
của dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành lấy
chính quyền và bảo về chính quyền”. Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả
đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: “ tùy tình hình cụ
thể mà quyết định những hình thức dấu tranh cách mạng thích hợp, sử dụng đúng và
khéo léo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành
thắng lợi cho cách mạng”. Tuy nhiên, việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt
buộc khi không còn khả năng hòa hoãn thì Hồ Chí Minh mới quyết định phát động
chiến tranh.

Trong kháng chiến chống Pháp, Người đã bày tỏ quan điểm: “ chúng tôi mong đợi ở
Chính phủ và nhân dân Pháp một cử chỉ mang lại hòa bình. Nếu không, chúng tôi bắt
buộc phải chiến đấu đến cùng để giải phóng hoàn toàn đất nước. Hay trong kháng
chiến chống Mỹ, Hồ Chí Minh đã nhiều lần gửi thông điệp cho các nhà cầm quyền
Mỹ đề nghị đàm phán hòa bình để kết thúc chiến tranh. Tư tưởng bạo lực cách mạng
và tư tưởng nhân đạo thông nhất biện chững với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Người luôn tranh thủ mọi khả năng hòa bình để giải quyết xung đột, nhưng một khi
không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải dùng bạo lực cách mạng để bảo vệ dộc lập,
tự do của dân tộc.

Hồ Chí Minh nhận thấy sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản là dựa trên sự
bóc lột giai cấp vô sản ở chính quốc và nhan dân các dân tộc thuộc địa vì vậy cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc phải kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh
của các dân tộc thuộc địa thì mới tiêu diệt được hoàn toàn trong giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa sự tồn tại, phát triển của chủ nghĩa tư bản chủ yếu dựa vào việc bóc lột nhân
dân các nước thuộc địa vì vậy cuộc cách mạng vô sản ở chính quốc trước chẳng khác
nào đánh rắn đằng đuôi.

Theo Hồ Chí Minh, chính cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có sức bật thuân
lợi hơn vì những nguyên nhân:

+ Chính sách khai thác thuộc địa hết sức tàn bạo của Chủ nghĩa đế quốc làm mâu
thuẫn giữa nhân dân thuộc địa với Chủ nghĩa đế quốc ngày càng gay gắt vì vậy mà
tiềm năng cách mạng của các dân tộc bị áp bức là rất to lớn.

+ Tinh thần yêu nước và chủ nghĩa dân tộc chân chính của các dân tộc thuộc địa là
một sức mạnh tiềm ẩn của Cách mạng giải phóng dân tộc. Sức mạnh đó nếu được chủ
nghĩa Mac-Lênin giác ngộ và soi đường thì cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước
thuộc địa sẽ có một sức bật rất lớn và có khả nănng chủ dộng cao so với cách mạng vô
sản ở chính quốc.

+ Thuộc địa là khâu yếu của chủ nghĩa tư bản nên cách mạng giải phóng dân tộc ở
thuộc địa dễ dàng giành chính quyến hơn.
Như vậy đây là một luận điểm có ý nghĩa thực tiễn to lớn giúp cách mạng giải phóng
dân tộc ở Việt nam không thụ động, ỷ lại chờ sự giúp đõ từ bên ngoài mà luôn phát
huy tính độc lập tự chủ, tự lực, tự cường nhờ đó mà cách mạng Việt nam giành thắng
lợi vĩ đại. Góp phần định hướng cho phong trào giải phóng dân tộc ở các nước khác
trên thế giới trong thời kỳ đó.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nội dung lớn của tư tưởng Hồ Chí
Minh. Vì vậy trong xây dựng và bảo về đất nước hiện nay nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một yêu cầu quan
trọng.

Nhân dân ta có lích sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước.Trong đâu tranh
chống kẻ thù xâm lược cũng như trong lao động sản xuất nhân dân Việt Nam đã thể
hiện tinh thần chiến dấu ngoan cường, sự thông minh sáng tạo, ý thức độc lập tự chủ,
tự lực, tự cường. Trong truyền thông dân tộc ấy Hồ Chí Minh nhìn thấy nổi bật lên
sức mạnh của lòng yêu nước. Tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam có những
đặc điểm riêng biệt, đặc sắc, vì phải luôn luôn đối đầu với nhiều khó khăn của tự
nhiên và chiến tranh xâm lược, sự đô hộ của kẻ thù tử nhiều phương kéo đến. Lòng
yêu nước việt Nam đã trở thành sức manh, một thứ đạo lý, một lẽ sống của mỗi người
dân.

Hồ Chí Minh xác định con đường cứu nước đúng đắn để giải phóng dân tộc đã phát
huy lòng yêu nước truyền thống và nâng thành lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa. Tinh
thần, ý chí độc lập, tự chủ, tự cường và lòng yêu nước phát huy được sức mạnh to lớn,
tạo nên truyên thống đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân. Hồ Chí Minh đã làm nổi bật
sức mạnh của con người Việt Nam, đó là sức mạnh thể lực và trí tuệ, sức manh của bề
dày lịch sử và dũng cảm, của lòng tin chân chính không gì lay chuyển. Sức manh ấy
bền vững và được nhân lên nhiều lần dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.

Thời đại của của chúng ta mở đầu bằng Cách mạng thang mười Nga 1917. Cuộc
cách mạng này đã mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở
đầu thời đại mới trong lịch sử. Theo Hồ Chí minh sức mạnh thời đại là sức mạnh cảu
giai cấp vô sản thế giới, của nhân dân lao động thế giới. Trong qua trình nhận thức và
vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mac-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí
Minh nhận thấy phải dựa vào sức mạnh của dân tộc là chủ yếu, đồng thời phải khai
thác sức mạnh của thời đại. Những nội dung, nguyên tắc về kết hợp sức manh dân tộc
với sức mạnh thời đại là một bộ phận quan trong trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thời đại ngày nay, đăc biệt là giai đoạn hiện nay đang diễn ra một cuộc đấu tranh
gay gắt trên mặt trận tư tưởng cũng như về hoạt động thực tienx mà chúng ta cần nhận
thức đúng đắn để tiến hành những hoạt đông quốc tế phù hợp phục vụ sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Do vậy phải giáo dục cho nhân dân có được niềm tin về lý tưởng xã hội chủ gnhiax
trong điều kiện thế giới có nhiều biến đổi. Cần phải xử lý nghiêm minh, công bằng đối
với những hành vi vi phạm pháp luật làm suy thoái tư tưởng, băng hoại đạo đức xã
hội. Hội nhập quốc tế mà không được chệch hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mục
tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh
và góp phần xứng đáng vào cách mạng thế giới.

Không ngừng bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống cảu dân tộc, làm cho
bản sắc văn hóa được giữ vững và phát triển. Giữ vững tinh thần độc lạp tự chủ trong
tiếp thu sức mạnh bên ngoài, kết hợp sực mạnh trong nước. Việc giáo dục tinh thần
yêu nước, lòng tự hào dân tộc chính đang, ý thức bảo vệ văn hóa dân tộc, tiếp thu có
chọn lọc văn hóa nước ngoài là những yêu cầu cấp thiết được đặt ra đối với việc “ mở
cửa”. Công tác đối ngoại được xác định có vai trò quan trọng đối với việc kết hợp sực
mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.

Tư tưởng về kết hợp sức manh dân tộc với sức manh thời đại là một nội dung lơn
của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó được vận dụng và phát triển trong thực tiễn
cách mạng Việt nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nội dung của tư tưởng này rất phong
phú, sâu sắc về thời đại, về sự kết hợp cách sức mạnh này trong thực tiễn đấu tranh.
Tư tưởng của Người còn thấm đượm chủ nghĩa nhân văn sâu sắc, tính cách mạng triệt
để nên ảnh hưởng to lớn đến cuộc đấu tranh lâu dài cho nhân dân các nước vì sự
nghiệp “ giải phóng dân tộc, giải phóng xã hôi, giải phóng con người”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơ bản được hình thành trong dầu thế kỷ XX và được tiếp
tục được phát triển khá sinh động trong những thập kỷ sau trên cơ sở tiếp thu, vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lênin và sự trải nghiệm thực tế trong những năm tháng
Người đi tìm đường cứu nước.

Chặng đường lịch sử hơn 70 năm qua kể từ ngày ra đời đên nay, đảng công sản Việt
Nam luôn trung thành với những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênnin và
những quan điểm tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc đề ra
chính sách dân tộc đúng đắn cho cách mạng VIệt Nam. CHính sách đó vừa phù hợp
với hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế phát triển tiến
bộ của nhân loại, nên nó đã được cộng đồng 54 dân tộc việt Nam đón nhận với niềm
phấn khởi và đầy tin tưởng, cũng bởi lẽ đó mà cách mạng Việt nam có được sức mạnh
to lơn để hoàn thành thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bỏa vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa ngày nay.

Như vây, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Lênin về
cách mạng thuộc địa thành một hệ thống quan điểm mới mẻ, sáng tạo, bao gồm cả
đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dân
tộc ở thuộc địa. Đến với chủ nghĩa Mac-Lênin, xác đinh cứu nước theo khuynh hướng
chính trị vô sản, nhưng con đường cách mạng giải phong dân tộc là do Hồ Chi Minh
hoach định, chứ không phải tồn tại từ trước.

Hồ Chí Minh không tự rập khuôn mình trong nhưng nguyên lý có sẵn, không rập
khuôn lý luận đấu tranh giai cấp vào điều kiên lịch sử ở thuộc địa, mà có sự kết hợp
hài hòa vấn đề dân tộc với vân đề giai cấp. Gắn độc lập dân tộc với phương hướng xã
hội chủ nghĩa.
Lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh bao gồm một hệ thống
những quan điểm sáng tạo, độc đáo. Lý luận đó phải trải qua những thử thách hết sức
gay gắt. Song, thực tiễn đã chứng minh những lý luận cách mạng giải phóng dân tộc
của Hồ Chí Minh là đúng đắn.

Phương pháp tiến hành cách mạng giải phóng dan tộc của Hồ Chí Minh hết sức độc
đáo và sáng tạo, thấm nhuần tính nhân văn. Hồ Chí Minh đã xây dựng nên lý luân
khởi nghĩa toàn dân, và chiên tranh nhân dân. Sử dụng quan điểm toàn diện để phan
tích so sánh lực lượng giữa ta và địch.

Những sáng tạo cảu Hồ Chí Minh đã soi đường cho thắng lợi cách mạng Việt nam,
giành lại độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân xây dựng nhà nước của dân,
do dân, và vì dân. Chúng ta phải biết khơi dậy sức mạnh cảu chủ nghĩa yêu nước và
tinh thần dân tộc. Nguồn đông lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước: nhận
thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân : chăm lo xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyêt tốt mọi quan hệ giữa các dân tộc anh em và
trong cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Câu 3: Tại sao nói chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của các nước đang đấu tranh
giành độc lập? Bằng sự kiện lịch sử hãy chứng minh để làm rõ nội dung này?

Trả lời:

Năm 1924 Nguyễn Ái Quốc viết: ở các nước thuộc địa, “chủ nghĩa dân tộc là một
động lực lớn của đất nước”. Khái niệm chủ nghĩa dân tộc mà Nguyễn Ái quốc dùng ở
đây, như Mác nói “không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”. Chủ nghĩa dân
tộc bản xứ mà Nguyễn Ái Quốc nói ở đây chính là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần
dân tộc chân chính của nhân dân Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch
sử, vốn là một động lực tinh thần vô giá trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm,
bảo vệ độc lập dân tộc; nó khác về bản chất so với chủ nghĩa dân tộc sôvanh, vị kỷ
của giai cấp tư sản đã bị lịch sử lên án. Theo phân tích của Nguyễn Ái Quốc, do kinh
tế còn lạc hậu, chưa phát triển, nên sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để,
cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không diễn ra giống như ở phương Tây.

Trong báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ gửi Quốc tế cộng sản, Nguyễn ái Quốc
đã nói:

“Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây” bởi vì xã hội Đông
Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc, “xét về mặt cấu trúc kinh tế, không giống như các xã
hội phương Tây thời Trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó
không quyết liệt như ở đây…” “Những địa chủ hạng trung và hạng nhỏ và những kẻ
mà ở đó được coi là đại địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người
trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ…”.

“…Nếu nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn…,
nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ
bóc lột họ là máy móc; người thì chẳng có công đoàn, kẻ thì chẳng có tơrớt… Sự
xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó, không thể chối cãi được”.
Trái lại, giữa họ vẫn có một sự tương đồng lớn: dù là địa chủ hay nông dân, họ đều là
người nô lệ mất nước. Chính vì thế mà có cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, có
phong trào Đông Du và có việc Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917, v.v…

Từ sự phân tích đó, Nguyễn Ái Quốc khẳng định: đối với các dân tộc thuộc địa ở
phương Đông,”chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đãt nước”. Theo người, trong
cách mạng giải phóng dân tộc, “người ta sẽ không làm gì được cho người An Nam
nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”.
Qua đó có thể thấy: xuất phát từ vị trí của người dân thuộc địa mất nước, từ truyền
thống dân tộc Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa
dân tộc với nghĩa là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một
động lực lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để ngọn cờ
dân tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên
lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế.

Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc vừa mang tính khoa học đúng đắn
vừa có tính chất cách mạng, nhân văn sâu sắc; thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
dân tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong sáng,
độc lập cho dân tộc mình đồng thời độc lập cho tất cả các dân tộc. Điều đó hoàn toàn
phù hợp với nhận định của Ăngghen: “Những tư tưởng dân tộc chân chính trong
phong trào công nhân bao giờ cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh dành tất cả tình thương yêu cho dân tộc Việt Nam. Khi trở
thành lãnh tụ của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Người không màng danh lợi cá
nhân, suốt đời chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, cho sự trường tồn của dân tộc và
sự phát triển của đất nước. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao quát toàn bộ cách
mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, đem lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc
cho nhân dân. Tư tưởng đó được kết tinh thành một tuyên ngôn bắt hủ không chỉ đối
với nhân dân Việt Nam mà còn đối với toàn thể loài người tiến bộ: “Không có gì quý
hơn độc lập tự do.

Để thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch: ra con đường
đúng đắn cho cách mạng Việt Nam là "Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội".
Giải phóng dân tộc là mục tiêu số một khi đất nước còn nô lệ. Vì vậy, ham muốn tột
bậc của Người là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn
tự do”. Độc lập, tự do trở thành bản chất cao quý trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí
Minh, trở thành ngọn cờ chiến đấu và mục tiêu suốt đời hy sinh, cống hiến của Người.
Bởi đó là điều kiện tiên quyết đem lại hạnh phúc và tiến bộ cho nhân dân Việt Nam.
vì sao HCM khẳng định: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản

LÃNG MẠNDùng lý luận và thực tiễn làm rõ TTHCM về CMGPDT muốn thắng lợi phải

đi theo con đường CMVS và cuộc CM đó phải do ĐCS lãnh đạo.


* Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường CMVS

- Bài học từ sự thất bại của các con đường cứu nước trước khi NAQ ra đi tìm đường
cứu nước

Tất cả các phong trào cứu nước của ông cha, mặc dù diễn ra với tinh thần vô cùng anh
dũng, nhưng rốt cuộc đều bị TD Pháp dìm trong biển máu. Đó là tình trạng khủng
hoảng về đường lối cứu nước ở nước ta những năm đầu thế kỷ XX. Mặc dù rất khâm
phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng HCM không tán thành với các con đường
cứu nước của họ, mà quyết tâm ra đi tìm 1 con đường mới.

- Cách mạng tư sản là không triệt để

Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Người đã tìm hiểu các cuộc CM lớn trên
TG như CMTS Anh, Pháp, Mỹ…và nhận thấy rằng: Cách mệnh Pháp cũng như cách
mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh chưa đến nơi. Tiếng là cộng hòa và
dc, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Dó đó
Người không đi theo con đường CM tư sản

- Con đường giải phóng dân tộc

+ HCM viết: “ Chỉ có gpgcvs thì mới gp được dt, cả hai cuộc gp này chỉ có thể là sự
nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới”

+ Vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà CM có xu hướng tư
sản đương thời, HCM đã đến với học thuyết CM của CN M- L và lựa chọn khuynh
hướng chính trị vô sản. Người khẳng định: “ Muốn cứu nước và gpdt không có con
đường nào khác con đường CMVS”

* Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do ĐCS lãnh đạo

- CM trước hết phải có Đảng

+ Theo HCM muốn làm CM trước hết phải làm cho dân giác ngộ, phải giảng giải lý
luận và CN cho dân hiểu. Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải
có đảng cách mệnh

+ CM muốn thành công phải liên lạc với phong trào CMTG, do đó phải có Đảng.
Trong tác phẩm Đường cách mệnh Người viết: “ Trước hết phải có đảng cách mệnh
để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngài thì liên lạc với các dt bị áp bức và gc
vô sản mọi nơi.

+ Theo HCM làm CM là một việc rất khó khăn và vô cùng nặng nề. Do đó muốn
thành công lại phải biết cách thì mới chóng.

- ĐCSVN là người lãnh đạo duy nhất

+ Phát triển sáng tạo học thuyết M-L về ĐCS, HCM cho rằng ĐCSVN là đảng của gc
vô sản đồng thời là đảng của dt VN

+ HCM đã nêu lên một luận điểm sáng tạo bổ sung thêm cho kho tang lý luận của CN
M-L về ĐCS, định hướng cho việc xd một ĐCSVN thành một đảng có sự gắn bó chặt
chẽ với gccn, với nhd lao động và cả dt trong mọi thời kỳ của CMVN

+ Ngay từ khi mới ra đời Đảng do HCM sáng lập đã quy tụ được lực lượng và sức
mạnh của toàn bộ gccn và cả dt VN. Nhờ đó ngay từ khi mới ra đời Đ đã nắm ngọn cờ
lãnh đạo duy nhất đối với CMVN và trở thành nhân tố hàng đầu đảm bảo cho mọi
thắng lợi của CM

You might also like