Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 18

LỜI MỞ ĐẨU

Trong quá trình tiến hoá và phát triển, con người luôn phải dựa vào các yếu tố tự nhiên có
sẵn. Con người với tư cách là một vật thể sống, một yếu tố của sinh quyển đã tác động trực
tiếp vào môi trường. Các hệ sinh thái tự nhiên hoặc dần chuyển thành hệ sinh thái nhân tạo,
hoặc bị tác động của con người đến mức mất cân bằng và suy thoái.

Những năm gần đây, thời tiết bất thường xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới trong đó có Việt
Nam. Những kết quả nghiên cứu được công bố vào tháng 9/2006 cho thấy, nhiệt độ Trái
Đất đã tăng lên với tốc độ chưa từng có trong vòng ít nhất 12.000 năm qua. Chính điều này
đã gây nên hiện tượng Trái Đất nóng lên trong vòng 30 năm trở lại đây. Một trong những
điều đáng quan tâm nhất là biến đổi khí hậu và các hoạt động của con người tác động ngày
càng lớn đến tài nguyên đất. Hạn hán, xói mòn và canh tác quá mức đã làm cho đất bị suy
thoái ở nhiều nơi trên Thế Giới và Việt Nam, dẫn đến một điều đáng báo động là sự hình
thành và lan rộng của quá trình sa mạc hoá.

Đây là vấn đề toàn cầu đang tác động đến 1/3 trái đất và đe dọa cuộc sống cảu 1,5 tỷ người
trên trái đất.

Vậy:

 Sa mạc hóa là gì?


 Nguyên nhân do đâu dẫn đến sa mạc hóa?
 Tình hình sa mạc hóa hiện nay như thế nào?
 Nó có tác động như thế nào?
 Làm thế nào để khắc phục hiện tượng sa mạc hóa?
NỘI DUNG

I. KHÁI NIỆM.
1. Khái niệm sa mạc hóa (Desertification).
Sa mạc hoá là một thuật ngữ được sử dụng lần đầu tiên vào khoảng năm 1994 bởi
Aubreville, một nhà thực vật học và sinh thái học người Pháp, để mô tả các quá trình
cũng như sự kiện làm thay đổi đất phì nhiêu thành sa mạc. Năm 1992, Hội nghị Liên Hợp
Quốc về Môi trường và Phát triển đã chấp nhận thuật ngữ này.
Theo Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP-1982), sa mạc hoá là quá
trình suy thoái đất đai về mặt sinh học, dần dần dẫn đến sự suy giảm sản xuất sinh học và
cuối cùng đất đai trở nên vô dụng giống như sa mạc.
Theo định nghĩa của FAO thì “ Sa mạc hoá là quá trình tự nhiên và xã hội phá vỡ cân
bằng sinh thái của đất, thảm thực vật, không khí và nước ở các vùng khô hạn và bán ẩm
ướt. Quá trình này xảy ra liên tục, qua nhiều giai đoạn, dẫn đến giảm sút hoặc huỷ hoại
hoàn toàn khả năng dinh dưỡng của đất trồng trọt, giảm thiểu các điều kiện sinh sống và
làm gia tăng cảnh hoang tàn”.
Theo GS.TSKH Lê Huy Bá: “Sa mạc hoá là một quá trình làm tăng thêm các điều kiện
môi trường giống sa mạc ở những vùng khô hạn và bán khô hạn, do ảnh hưởng của con
người và những thay đổi về khí hậu thời tiết, làm cho các vùng đất này biến thành sa
mạc”.
Sa mạc hóa là sự suy thoái đất đai ở những vùng khô hạn, bán khô hạn và vùng ẩm nửa
khô hạn, gây ra bởi sự thay đổi thời tiết, khí hậu và sự tác động của con người.
2. Biều hiện của sa mạc hóa.
Những biểu hiện của sa mạc hoá có thể là sự suy thoái chất lượng đất ở vùng đồi núi làm
tăng diện tích đất trống đồi núi trọc hoặc sự suy thoái đất dẫn đến quá trình đá ong hoá;
cũng có thể là sự suy thoái đất do nhiễm phèn, nhiễm mặn hoặc do mất rừng ở vùng bán
khô hạn hoặc thoái hoá đất do thiếu nước tưới hoặc thoái hóa do quá trình di động cát .
Hiện nay, sa mạc hoá thể hiện rõ nhất trên đất trống đồi trọc, không còn lớp phủ thực
vật, địa hình dốc, chia cắt, nơi có lượng mưa thấp (700 – 800 mm; 1500 mm/năm); lượng
bốc hơi tiềm năng đạt 1000 – 1800 mm/năm.
Chỉ tiêu quan trọng để xác định độ sa mạc hoá là tỷ lệ lượng mưa hàng năm, so với lượng
bốc thoát hơi tiềm năng trong thời gian nhất định, biến động từ 0,05 – 0,65 (Công ước
chống sa mạc hoá).
Suốt những năm 1968 – 1973, nạn sa mạc hoá đã diễn ra chủ yếu do sự chăn thả quá
mức. hằng năm, sa mạc hoá đã gây thiệt hại cho thế giới khoảng 30 – 40 tỉ USD, với tốc
độ ngày càng tăng nó trở thành tai hoạ cho nhiều quốc gia.
3. Các mức độ sa mạc hóa.
Sa mạc hoá là quá trình mà tiềm năng sản xuất (productive potential) của đất khô hay
đất bán khô giảm xuống trên 10%. Sự suy giảm này hầu hết là do hoạt động của con người.
có thể nhận biết 3 mức độ của quá trình sa mạc hoá sau đây:
 Năng suất sản xuất giảm 10% – 25%: sa mạc hoá bắt đầu.
 Năng suất sản xuất giảm 25% – 50%: sa mạc hoá trung bình.
 Năng suất sản xuất giảm >50%: sa mạc hoá nghiêm trọng, trong trường hợp này
có sự xuất hiện các rãnh hay ụ cát lớn.
4. Một số sa mạc lớn của thế giới.

Hồ Bán Nguyệt – Sa mạc Gobi (Ảnh: Baidu – 2018)


Sa mạc Sahara (Ảnh: NASA – 2018)

Nam cực – Sa mạc lớn nhất thế giới (Ảnh: MichaelMoss – 2019)
II. NGUYÊN NHÂN CỦA SA MẠC HÓA.
1. Nguyên nhân tự nhiên.
 Các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm và lượng mưa tác động qua lại và không thể tách rời, tạo
nên những vùng khí hậu khô hanh, tạo nên tiền đề cho sự hình thành sa mạc hoá.
Sự khác nhau về nhiệt độ và áp suất quanh Trái Đất đã góp phần tạo ra sự tuần hoàn
không khí. Các hệ thống gió là nguyên nhân đầu tiên làm cho khí hậu giữa các vùng khác
nhau. Việc sưởi ấm khí quyển từ bên dưới không đồng đều và những vòng tuần hoàn
không khí có sự trao đổi không khí ở vĩ độ cao và vĩ độ thấp. Ở xích đạo, không khí nóng
hơn, do đó nhẹ hơn, lớp không khí này bốc lên cao ngưng tụ hơi nước, gây mưa xích
đạo; sau đó vòng về hai phía và giáng xuống vòng chí tuyến, do không khí mất nước,
khô nên thường tạo nên các hoang mạc ở vùng chí tuyến. Điều này đưa đến sự thay đổi
lớn ở các đới khô hạn như vùng Địa Trung Hải mưa chỉ điễn ra vào mùa thu đông, ở
vùng sa mạc và bán hoang mạc có mưa rất ít hoặc không mưa. Sự khô hạn còn phát sinh
do địa hình núi che chắn gió, như hiện tượng gió Lào qua dãy Trường Sơn gây khô nóng
cũng là nhân tố thúc đẩy quá trình sa mạc hoá ở một số nơi miền Trung nước ta.
Do Trái Đất tự quay quanh trục và do sự phân phối vật chất không đều (Trái Đất không
tròn), dẫn đấn độ nghiêng khác nhau, nhận được nguồn ánh sang Mặt Trời khác nhau.
Khi lượng bức xạ cao, không khí khô, thiếu hơi nước, bầu trời không mây và độ ẩm thấp
làm cho khí hậu khô hanh. Bề mặt đất hanh khô có khả năng bức xạ kém nên nhiệt độ
cũng tăng theo. Các nghiên cứu gần đây cho biết, sa mạc Sahara trước kia vốn rất ẩm,
nhưng vào khoảng 4.000 năm trước đã bắt đầu quá trình khô hạn khắc nghiệt và dần dần
biến thành sa mạc như hiện nay.
 Xói mòn do gió cũng làm mất tính năng sản xuất của đất, ảnh hưởng đến thực vật
bề mặt; là một trong những yếu tố chính gây ra sa mạc hoá, xảy ra khi đất bị khô, trống,
và tốc độ gió vượt quá tốc độ ngưỡng thì bắt đầu có sự di chuyển các hạt cát. Lyles
(1974) mô tả 3 phương thức di chuyển đất: trườn theo bề mặt, di chuyển đột ngột và di
chuyển lơ lửng. Các hạt đất nặng được di chuyển theo phương thức tròn, lăn và lở dọc
theo mặt đất; những hạt đất nhẹ thì di chuyển đột ngột bằng cách nhảy cóc từng đoạn
ngắn.
Xói mòn do gió (Ảnh: Lovepik – 2018)

Cát bay, cát nhảy (Ảnh:vov.vn)


Đối với Việt Nam, phần lớn diện tích là đồi núi, chiếm ¾ diện tích. Bên cạnh đó, đồi
núi lại có độ dốc lớn. nước ta lại nằm trong khu vực nhiệt đới có hai mùa rõ rệt, nên việc
xói mòn chủ yếu diễn ra trong các tháng mùa mưa khoảng từ 4 -5 tháng, chiếm 80%
lượng mưa năm. Đất bị thoái hóa nghiêm trong do xói mòn, rửa trôi.
 Sự di chuyển của các cồn cát (hiện tượng cát bay) do gió, sự di chuyển này góp phần
hình thành và mở rộng diện tích sa mạc hoá.
 Diễn biến khí hậu thất thường.
2. Nguyên nhân con người.
 Hiện tượng sa mạc hoá gần đây có liên quan mật thiết với sức ép dân số trong việc
khai thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên, tàn phá rừng và đất đai, đặc biệt vào
những thời gian hạn hán, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sa mạc hoá ở nhiều nơi.
- Lạm dụng đất đai trong ngành chăn nuôi gia súc, canh tác ruộng đất. Việc mở rộng
và tăng cường sử dụng đất trên những vùng đất khô cằn, canh tác nông nghiệp ngay cả
khi đất còn ẩm ướt (gồm cả chăn nuôi, trồng trọt và khai thác rừng) làm tăng sự thoát
hơi nước và tăng sự xói mòn do gió vào mùa khô. Trong những năm sau đó, xói mòn
do gió làm cho khả năng tích trữ nước tầng mặt giảm xuống. Mặc khác, sự chăn thả
tăng lên trong những năm đất còn ẩm ướt làm cho mặt đất rắn chắc lại và số lượng thú
nuôi tăng nhanh gây áp lực cho cây trồng lâu năm cũng làm cho nước ngầm tụt xuống
ngay cả mùa mưa cũng như mùa khô.
- Khai thác rừng bữa bãi
- Canh tác không hợp lý trên đất dốc.
- Quá trình khai giếng, trữ nước.
 Ở nước ta, hoạt động của con người qua nhiều thế hệ đã dẫn đến suy thoái đất
nghiêm trọng (du canh, du cư, độc canh, quảng canh). Tác động tổng hợp của các yếu
tố tự nhiên và con người đã dẫn đến sa mạc hóa ở Việt Nam. Ngoài ra còn do các nguyên
nhân sau:
Khai thác rừng bừa bãi (Ảnh: Global Witness – 2015)

Đất suy thoái do khai thác mỏ (Ảnh: vov.vn – 2019)


- Đất bị mặn hóa do tưới tiêu không đúng kĩ thuật.
- Đất bị thoái hóa do khai thác mỏ, làm trôi tầng đật mặt, lộ tầng đá gốc.
đất bị phền hóa do chặt rừng nuôi trồng thủy sản.
=> Các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sa mạc hoá:
 Khai thác quá mức chiếm 25,4%.
 Chăn thả, phá rừng bừa bãi chiếm 28,3%.
 Lấy củi quá mức chiếm 31,8%.
III. TÌNH HÌNH SA MẠC HÓA HIỆN NAY.
1. Sa mạc hóa trên thế giới.
Ngày 15/6/2004, Liên Hợp Quốc (LHQ) cảnh báo Thế Giới đang phải đối mặt với tình
trạng sa mạc hoá đang diễn ra với tốc độ đáng báo động , ảnh hưởng đến cuộc sống hàng
triệu người và vấn đề này dường như đang tăng với tốc độ gấp đôi kể từ những năm 1970.

Lượng mưa thế giới tính theo ngày vào tháng 1 (Ảnh: PZmaps – 2009)
Trong thông báo nhân kỉ niệm 10 năm ban hành Công ước chống sa mạc hoá, LHQ cảnh
báo 1/3 diện tích đất trồng trọt trên Thế Giới có nguy cơ bị sa mạc hoá. Từ giữa những
năm 1990 đến năm 2000, mỗi năm Trái Đất bị mất 3.436 km2 diện tích canh tác bởi tình
trạng sa mạc hoá. (Năm 1980 là 2100 km2/năm, năm 1970 là 1560 km2/năm).
Theo đánh giá của UNEP thì diện tích sa mạc hoá đã lên tới 39,4 triệu km2, chiếm 26,3%
diện tích đất tự nhiên của Thế Giới và hơn 1 tỷ người trên 100 quốc gia đang phải đối mặt
với tình trạng này.
Theo tính toán, đến năm 2025 sẽ có 2/3 diện tích canh tác ở Châu Phi, 1/3 diện tích canh
tác ở Châu Á và 1/5 diện tích canh tác ở Nam Mỹ không còn sử dụng được.
Liên Hợp Quốc đã đưa ra những báo động về quá trình sa mạc hoá như sau:
 Sa mạc hoá đang đe doạ toàn cầu chiếm khoảng 40% bề mặt trái đất, hơn 250 triệu
người bị tác động trực tiếp và 1 tỷ người trong hơn 100 nước bị rủi ro.
 Mọi khu vực trên Trái Đất đang phải đối mặt.
 Có khoảng 30% diện tích trên Trái Đất là khô hạn và bán khô hạn đang bị sa mạc
hoá đe doạ.
 Có 18% dân số thế giới đang sinh sống ở vùng có nguy cơ sa mạc hoá. Hiện nay,
hằng năm có khoảng 6 triệu ha đất bị sa mạc hoá và mất khả năng canh tác do những
hoạt động của con người.
Bảng 1. Phạm vi thoái hoá đất ở Sudan do các tác nhân khác nhau (triệu ha).
Vùng sinh thái Xói mòn Xói mòn Thoái hoá Thoái hoá Tổng số
do gió do nước hoá học lý học
Khô hạn quá 5,8 2,4 0 0 8,2
mức 20,0 6,9 3,0 0 29,9
Khô hạn 1,2 7,7 5,3 3,0 17,3
Bán khô hạn 0 0,7 3,8 0 4,5
Phụ ẩm khô hạn 0 0,5 3,7 0 4,2
Phụ ẩm ướt
Tổng 27,0 18,2 15,8 3,0 64,0
Nguồn: Ayoup, Ali Taha, 1998.
Ở Trung Quốc, diện tích đất bị sa mạc hoá ước tính khoảng 3.327 triệu km2, nằm ở những
khu vực tương đối kém phát triển. Có khoảng 430.000 km2 đất ở Cao nguyên Hoàng Thổ
bị ảnh hưởng do xói mòn nước, trong đó có 145.000 km2 bị xói mòn nghiêm trọng, mất
khoảng 5.000 tấn/km2/năm tầng đất mặt và nâng lòng sông Hoàng Hà lên cao khoảng 5 –
10 cm/năm.
Hồ Hongjiannao – Trung Quốc (Ảnh:sspp – 2009)

Hồ Hongjiannao chỉ còn khoảng 31km2 (Ảnh: GGmap – 2019)


2. Sa mạc hóa ở Việt Nam.
Theo báo cáo đưa ra tại cuộc họp về Công ước chống sa mạc hoá của Liên Hợp Quốc
(UNCCD) do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức tại Hà Nội ngày 4/5/2006,
Việt Nam có sa mạc hoá cục bộ, với khoảng 7,85 triệu ha trong tổng số 9,34 triệu ha dất
hoang hoá đã và đang chịu tác động mạnh ở duyên hải miền Trung, đầu nguồn sông Đà,
Tứ giác Long Xuyên và Tây Nguyên là những nơi sẽ được ưu tiên trong chương trình
hành động chống sa mạc hoá tại Việt Nam giai đoạn 2006 – 2010, định hướng đến năm
2020. Chương trình hành động này được đưa ra trong Báo cáo quốc gia thực hiện Công
ước chống sa mac hoá (UNCCD).
Các vùng trên chịu ảnh hưởng nặng nề bởi thoái hoá đất và mất rừng là vùng đầu nguồn
xung yếu, vùng thiếu nước và hạn hán nghiêm trọng vùng đất canh tác đang dần bị nhiễm
mặn, phèn. Do đó, cần tập trung thực hiện các dự án hỗ trợ địa phương và người dân trồng
rừng, chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và cây trồng, phục hồi rừng đầu nguồn giữ nước,
chắn cát, hạn chế tối đa ảnh hưởng của hạn hán.
Hiện trạng môi trường đất Việt Nam đang diễn ra: sự suy thoái chất lượng đất đang bị
xói mòn, lũ quét, rửa trôi, khô hạn, phèn hoá và sa mạc hoá… làm cho khoảng 50% diện
tích đất tự nhiên (khoảng 16 triệu ha) đang đứng trước nguy cơ bị sa mạc hoá. Việt Nam
đang có dấu hiệu khan hiếm nước và sa mạc hoá rất mạnh, đặc biệt là khu vực miền Trung
– điểm bắt đầu từ khu vực Nghệ An, Hà Tĩnh kéo dài cho đến Ninh Thuận, Bình Thuận…
Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do thiếu nước tưới, nhất là vào mùa khô hạn.
Hiện đang có khoảng 7,7 triệu ha đất nông nghiệp đang có dấu hiệu bị ảnh hưởng của hiện
tượng sa mạc hoá. Nạn chặt phá rừng diễn ra trong thời gian dài là một trong những nguyên
nhân chính. Việc suy giảm rất nhanh diện tích rừng suốt ven dải miền Trung đã làm mất
đi thảm thực vật tự nhiên để giữ nước, trong khi đất đai khu vực này là loại đất chủ yếu
phất triển trên đá axit, rất ít bazan, lại có độ dốc lớn nên mất khả năng giữ nước tự nhiên.
Sự biến đổi khí hậu toàn cầu dân tới nhiều thiên tai hạn hán, bão lũ gia tăng bất thường,
lượng nước mưa càng ngày càng ít đi, gây hạn hán ngày càng nghiêm trọng. Các hoạt
động nuôi tôm trên cát ở các vùng ven biển miền Trung – đã sử dụng một lượng nước
ngầm rất lớn – đang làm suy kiệt nguồn nước ngầm cũng đẩy nhanh hiện tượng sa mạc
hoá vùng đất này.
Theo thống kê trên bản đồ của FAO và UNESCO, Việt Nam có khoảng 462.000 ha cát
ven biển, 87.800 ha trong số này là các đụn cát, đồi cát lớn di động.
Gần 40 năm qua, quá trình hoang mạc hoá do cát di động rất nghiêm trọng. Mỗi năm,
cát di động ăn vào đất liền gần 20 ha đất canh tác. Chưa kể, ở các tỉnh duyên hải Nam
Trung Bộ, nắng nóng khô hạn đã làm lượng mưa trung bình hàng năm ở một số nơi chỉ
đạt khoảng 700mm (điển hình là Ninh Thuận, Bình Thuận).
Ở Quảng trị 20 – 30 ha đất ruộng vườn và cây ăn quả bị cát phủ dày thêm 2m mỗi năm.

Vĩnh Tú – Vĩnh Linh – Quảng Trị (Ảnh DulichGo – 2017)


Bảng 2. Phân bố vùng đất đang bị sa mạc hoá ở Việt Nam

Loại đất Diện tích (ha) Vùng phân bố tập trung


Đất trồng bị thoái hoá nặng, bao 7 000 000 Toàn quốc
gồm cả đất bị đá ong hoá.
Đụn cát và bãi cát di động. 400 000 Các tỉnh ven biển Miền Trung
Đất khô hạn theo mùa hoặc vĩnh 300 000 Nam Trung Bộ (Bình Thuận,
viễn. Ninh Thuận và Nam Khánh
Hoà)
Đất bị xói mòn. 120 000 Tây Bắc, Tây Nguyên và một
số nơi khác.
Đất bị nhiễm mặn, nhiễm phèn. 30 000 Đồng bằng sông Cửu Long
(Tứ giác Long Xuyên)
(Nguồn: Lê Huy Bá – Môi trường tài nguyên đất Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam,
tháng 10/2009).
Theo tuyển tập kết quả Khoa học và Công nghệ của Viện Khoa học thuỷ lợi Miền Nam,
tổng số diện tích đất sa mạc ở Ninh Thuận là 41.021 ha, chiếm 12,21 đất tự nhiên toàn
tỉnh. Và cho đến hiện nay, hiện tượng sa mạc hoá tiếp tục có chiều hướng gia tăng.
Bảng 3. Tổng diện tích đất bị ảnh hưởng bởi hoang mạc hoá tại Ninh Thuận.

STT Dạng hoang mạc Diện tích (ha)


2001 2004
1 Hoang mạc cát 4.878 9.103
2 Hoang mạc đá 3.457 21.468
3 Hoang mạc muối 11.867 6.407
4 Hoang mạc đất cằn 20.124 4.043
Tổng cộng 40.326 (12,0%) 41.021 (12,21%)
(% so với diện tích đất tự nhiên)
Nguồn: Sở Nông nghiệp và PTNT, Trung tâm Dự báo KTTV Ninh Thuận, 2006.

Cồn cát ở Ninh Thuận (Ảnh:GoNinhThuan – 2018)

IV. TÁC ĐỘNG CỦA SA MẠC HÓA.


1. Tác động của sa mạc hoá đến môi trường – sinh thái tự nhiên:
- Làm suy giảm tính đàn hồi tự nhiên của đất đai, khả năng phục hồi độ phì nhiêu do
những rối loạn của khí hậu.
- Làm giảm tính năng sản xuất của đất.
- Làm hư hại thảm phủ thực vật, những thực vật ăn được có thể thay thế bằng thực vật
không ăn được.
- Chất lượng dòng chảy giảm sút, làm gia tăng nguy cơ lụt lội.
- Đặc biệt, sa mạc hoá có tác động rất lớn đến sinh thái học.
 Do điều kiện khí hậu ở sa mạc rất khắc nghiệt cho nên nơi đây khá nghèo nàn
về chủng loại động, thực vật nói cách khác đa dạng sinh học ở mức thấp.
 Sự đa dạng về loài của động – thực vật có liên quan rất mật thiết với nhau và
lien quan trực tiếp tới lượng mưa. Dưới gốc độ sinh thái học, lượng mưa là yếu tố rất quan
trọng vì nó quyết định đến năng xuất cây trồng và sự phong phú, đa dạng của sinh vật.
Nhiều tài liệu về năng suất của cây trồng cho thấy ở sa mạc lượng sinh khối trung bình
thường ở mức 0,02 – 0,7 kg chất khô/m2 so với 45 kg/m2 ở vùng nhiệt đới và 30 kg/m2
ở vùng ôn đới.
 Ở vùng bị sa mạc hoá chỉ có những thực vật có tính thích nghi cao mới có
khả năng tồn tại điển hình như xương rồng, các cây bụi, cây có gai,… nhưng năng xuất
sinh khối của chúng rất thấp.
 Sự nghèo nàn của thực vật làm cho động vật không có điều kiện để phát triển.
Một số loài động vật đặc trưng như chuột, một số loài bò sát, đà điểu,…có cuộc sống gắn
liền với lượng sinh khối thực vật là các trảng cỏ, cây than bụi,…thì có khả năng tồn tại
nhưng tình trạng sinh học vẫn rất nghèo nàn. Các loài động vật ở sa mạc cần có những
khả năng thích nghi cao để có thể tồn tại trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt.
 Ngoài ra, ở những vùng bị sa mạc hoá dữ dội thì tiểu khí hậu thay đổi theo
chiều hướng khắc nghiệt hơn trạng thái ban đầu, hạn hán liên tiếp xảy ra...tác động xấu
đến chức ngăn giá đỡ của đất, tạo ra một sự du nhập giống loài mới có khả năng thích
nghi cao với điều kiện khí hậu mới.
2. Tác động của sa mạc hoá đến xã hội và đời sống con người:
- Sa mạc hoá kéo theo sự thiếu hụt trầm trọng lương thực, thực phẩm.
Thực tế tốc độ sản xuất lương thực, thực phẩm cao là nhờ vào công nghệ sinh học và
những cải tiến kỹ thuật canh tác, tuy nhiên sự phân chia không điều dẫn đến một số nơi
lạm dụng và khai thác đất thiếu khoa học. Dân số Thế giới ngày càng tăng, đòi hỏi con
người phải tấn công vào tự nhiên, bắt tự nhiên phải phục tùng một cách vô tội vạ. Vì vậy,
diện tích đất bị sa mạc hoá ngày một tăng lên. Dân số gia tăng, sa mạc hoá tăng lên, đất
canh tác giảm xuống. Đó là hậu quả về mặt xã hội của nạn sa mạc hoá.
- Gia tăng các vấn đề về sức khoẻ do gió mang cát bụi nhiều như các bệnh về đường
hô hấp, dị ứng và ảnh hưởng xấu đến tinh thần.
- Làm mất nơi sinh sống dẫn đến di cư tìm nơi ở mới.
Theo một báo cáo mới đây của Liên Hợp Quốc, thì hàng chục triệu người có thể bị mất
chỗ ở do quá trình sa mạc hóa. Đặc biệt là khu vực Tiểu sa mạc Sahara Châu Phi và Trung
Á đang phải chịu hậu quả lớn nhất của tình trạng sa mạc hóa, với nguy cơ 50 triệu người
ở các khu vực này mất nơi sinh sống truyền thống vào năm 2020. Châu Phi có thể chỉ nuôi
được 25% dân số vào năm 2025 nếu tốc độ sa mạc hóa ở Lục địa Đen tiếp tục như hiện
nay.
Biến đổi khí Khô hạn
hậu Mưa thay đổi

-Thiếu ăn và đói.
-Bệnh do nước.
Hoạt động SA MẠC HOÁ -Thay đổi dãy sinh thái
nhân sinh
của bệnh truyền nhiễm.
-Bệnh hô hấp cấp tính,
mãn tính và tổn hại hoả
hoạn.
-Giảm sản xuất nông
nghiệp.
-Gia tăng thiếu nước.
-Tăng di cư
-Tăng cháy rừng, đồng cỏ
-Mất đa dạn sinh học.
-Tăng sự cô lập địa lý.
-Tăng đói nghèo

Hình 1. Tác động của sa mạc hoá


- Sa mạc hóa làm cho diện tích đất đai bị thu hẹp.
Theo thống kê từ giữa những năm 1990 đến năm 2000, mỗi năm Trái Đất bị mất gần
4.000 km2 diện tích đất canh tác bởi tình trạng sa mạc hoá. Do đó, diện tích trồng nông
nghiệp giảm dẫn đến tình trạng thiếu đói xảy ra thường xuyên ảnh hưởng nghiêm trọng
đến các hoạt động kinh tế chính trị, xóa đói giảm nghèo.
Ở Việt Nam sa mạc hóa tác động đến 9,3 triệu ha đất và 22 triệu người.
V. BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG SA MẠC HÓA.
1. Công ước chống sa mạc hoá.
Năm 1977, Hội nghị của Liên Hợp Quốc về sa mạc hoá (UNCOD) đã thông qua Kế
hoạch hành động chống sa mạc hoá (PACD). Mặc dù đã có những nỗ lực đáng kể về việc
chống sa mạc hoá, nhưng theo đánh giá của Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc
vào năm 1991 thì vấn đề suy thoái đất ở những vùng khô cằn và khô cằn cận ẩm ướt trên
toàn thế giới đã trở lên rất căn thẳng. Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Môi trường và Phát
triển (UNCED) được tổ chức tại Rio de Janeiro năm 1992 đã đề ra một phương pháp tiếp
cận mới mang tính tổng hợp đối với vấn đề này, trong đó tập trung vào các hành động
nhằm khuyến khích phát triển bền vững tại cộng đồng. Trước đòi hỏi cấp bách đó, tháng
6 năm 1994 Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thành lập Uỷ ban đàm phán liên Chính phủ
để soạn thảo Công ước chống sa mạc hoá. Công ước được thong qua tại Paris vào ngày
17/6/1994, được kí ngày 14 – 15/10/1994 và có hiệu lực từ ngày 26/12/1996.
Mục tiêu của Công ước là chống sa mạc hoá và giảm thiểu những tác động của hạn hán
ở các nước chịu những trận hạn hán hoặc sa mạc hoá nghiêm trọng, đặc biệt là ở Châu Phi
thong qua hành động có hiệu quả ở các cấp, được hổ trợ bởi hợp tác quốc tế và quan hệ
đối tác, trong khuôn khổ tiếp cận tổng hợp nhất quán với Chương trình nghị sự 21, với
mục tiêu phát triển bền vững ở những vùng chịu tác động.
2. Các biện pháp khắc phục và đề phòng nạn sa mạc hoá.
- Thành lập các vành đai xanh quanh các sa mạc:
Đây là một biện pháp rất có giá trị đã được áp dụng rộng rãi để ngăn cản sự mở rộng
ngày càng tăng của sa mạc. Ngoài ra, nó còn có tác dụng bảo vệ đất đai chống lại quá trình
rửa trôi, giữ vững độ phì cho đất.
- Kiểm soát bề mặt che phủ:
Bảo vệ bề mặt đất khỏi sự tác động trực tiếp của các yếu tố khí hậu bất lợi, giảm thiểu
sự rửa trôi và xói mòn đất.
- Những kỷ thuật hiện đại:
Các số liệu thu thập từ vệ tinh có thể dùng để theo dõi các cơn bão vào mùa mưa, nghiên
cứu các quy luật chung và nếu có thể thì dự đoán việc đổi chỗ của chúng.
- Trồng các cây họ Đậu để cải tọa đất.
Các cây họ Đậu có khả năng rút đạm khí từ không khí rồi châm xuống đất nên thường
được trồng để cải tạo địa đất.
- Sử dụng bếp năng lượng mặt trời để giảm thiểu việc chặt cây lấy gỗ đốt.

You might also like