Professional Documents
Culture Documents
Sa Mạc Hóa - Nguyễn Tấn Thành MTK9
Sa Mạc Hóa - Nguyễn Tấn Thành MTK9
Trong quá trình tiến hoá và phát triển, con người luôn phải dựa vào các yếu tố tự nhiên có
sẵn. Con người với tư cách là một vật thể sống, một yếu tố của sinh quyển đã tác động trực
tiếp vào môi trường. Các hệ sinh thái tự nhiên hoặc dần chuyển thành hệ sinh thái nhân tạo,
hoặc bị tác động của con người đến mức mất cân bằng và suy thoái.
Những năm gần đây, thời tiết bất thường xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới trong đó có Việt
Nam. Những kết quả nghiên cứu được công bố vào tháng 9/2006 cho thấy, nhiệt độ Trái
Đất đã tăng lên với tốc độ chưa từng có trong vòng ít nhất 12.000 năm qua. Chính điều này
đã gây nên hiện tượng Trái Đất nóng lên trong vòng 30 năm trở lại đây. Một trong những
điều đáng quan tâm nhất là biến đổi khí hậu và các hoạt động của con người tác động ngày
càng lớn đến tài nguyên đất. Hạn hán, xói mòn và canh tác quá mức đã làm cho đất bị suy
thoái ở nhiều nơi trên Thế Giới và Việt Nam, dẫn đến một điều đáng báo động là sự hình
thành và lan rộng của quá trình sa mạc hoá.
Đây là vấn đề toàn cầu đang tác động đến 1/3 trái đất và đe dọa cuộc sống cảu 1,5 tỷ người
trên trái đất.
Vậy:
I. KHÁI NIỆM.
1. Khái niệm sa mạc hóa (Desertification).
Sa mạc hoá là một thuật ngữ được sử dụng lần đầu tiên vào khoảng năm 1994 bởi
Aubreville, một nhà thực vật học và sinh thái học người Pháp, để mô tả các quá trình
cũng như sự kiện làm thay đổi đất phì nhiêu thành sa mạc. Năm 1992, Hội nghị Liên Hợp
Quốc về Môi trường và Phát triển đã chấp nhận thuật ngữ này.
Theo Chương trình Môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEP-1982), sa mạc hoá là quá
trình suy thoái đất đai về mặt sinh học, dần dần dẫn đến sự suy giảm sản xuất sinh học và
cuối cùng đất đai trở nên vô dụng giống như sa mạc.
Theo định nghĩa của FAO thì “ Sa mạc hoá là quá trình tự nhiên và xã hội phá vỡ cân
bằng sinh thái của đất, thảm thực vật, không khí và nước ở các vùng khô hạn và bán ẩm
ướt. Quá trình này xảy ra liên tục, qua nhiều giai đoạn, dẫn đến giảm sút hoặc huỷ hoại
hoàn toàn khả năng dinh dưỡng của đất trồng trọt, giảm thiểu các điều kiện sinh sống và
làm gia tăng cảnh hoang tàn”.
Theo GS.TSKH Lê Huy Bá: “Sa mạc hoá là một quá trình làm tăng thêm các điều kiện
môi trường giống sa mạc ở những vùng khô hạn và bán khô hạn, do ảnh hưởng của con
người và những thay đổi về khí hậu thời tiết, làm cho các vùng đất này biến thành sa
mạc”.
Sa mạc hóa là sự suy thoái đất đai ở những vùng khô hạn, bán khô hạn và vùng ẩm nửa
khô hạn, gây ra bởi sự thay đổi thời tiết, khí hậu và sự tác động của con người.
2. Biều hiện của sa mạc hóa.
Những biểu hiện của sa mạc hoá có thể là sự suy thoái chất lượng đất ở vùng đồi núi làm
tăng diện tích đất trống đồi núi trọc hoặc sự suy thoái đất dẫn đến quá trình đá ong hoá;
cũng có thể là sự suy thoái đất do nhiễm phèn, nhiễm mặn hoặc do mất rừng ở vùng bán
khô hạn hoặc thoái hoá đất do thiếu nước tưới hoặc thoái hóa do quá trình di động cát .
Hiện nay, sa mạc hoá thể hiện rõ nhất trên đất trống đồi trọc, không còn lớp phủ thực
vật, địa hình dốc, chia cắt, nơi có lượng mưa thấp (700 – 800 mm; 1500 mm/năm); lượng
bốc hơi tiềm năng đạt 1000 – 1800 mm/năm.
Chỉ tiêu quan trọng để xác định độ sa mạc hoá là tỷ lệ lượng mưa hàng năm, so với lượng
bốc thoát hơi tiềm năng trong thời gian nhất định, biến động từ 0,05 – 0,65 (Công ước
chống sa mạc hoá).
Suốt những năm 1968 – 1973, nạn sa mạc hoá đã diễn ra chủ yếu do sự chăn thả quá
mức. hằng năm, sa mạc hoá đã gây thiệt hại cho thế giới khoảng 30 – 40 tỉ USD, với tốc
độ ngày càng tăng nó trở thành tai hoạ cho nhiều quốc gia.
3. Các mức độ sa mạc hóa.
Sa mạc hoá là quá trình mà tiềm năng sản xuất (productive potential) của đất khô hay
đất bán khô giảm xuống trên 10%. Sự suy giảm này hầu hết là do hoạt động của con người.
có thể nhận biết 3 mức độ của quá trình sa mạc hoá sau đây:
Năng suất sản xuất giảm 10% – 25%: sa mạc hoá bắt đầu.
Năng suất sản xuất giảm 25% – 50%: sa mạc hoá trung bình.
Năng suất sản xuất giảm >50%: sa mạc hoá nghiêm trọng, trong trường hợp này
có sự xuất hiện các rãnh hay ụ cát lớn.
4. Một số sa mạc lớn của thế giới.
Nam cực – Sa mạc lớn nhất thế giới (Ảnh: MichaelMoss – 2019)
II. NGUYÊN NHÂN CỦA SA MẠC HÓA.
1. Nguyên nhân tự nhiên.
Các yếu tố nhiệt độ, độ ẩm và lượng mưa tác động qua lại và không thể tách rời, tạo
nên những vùng khí hậu khô hanh, tạo nên tiền đề cho sự hình thành sa mạc hoá.
Sự khác nhau về nhiệt độ và áp suất quanh Trái Đất đã góp phần tạo ra sự tuần hoàn
không khí. Các hệ thống gió là nguyên nhân đầu tiên làm cho khí hậu giữa các vùng khác
nhau. Việc sưởi ấm khí quyển từ bên dưới không đồng đều và những vòng tuần hoàn
không khí có sự trao đổi không khí ở vĩ độ cao và vĩ độ thấp. Ở xích đạo, không khí nóng
hơn, do đó nhẹ hơn, lớp không khí này bốc lên cao ngưng tụ hơi nước, gây mưa xích
đạo; sau đó vòng về hai phía và giáng xuống vòng chí tuyến, do không khí mất nước,
khô nên thường tạo nên các hoang mạc ở vùng chí tuyến. Điều này đưa đến sự thay đổi
lớn ở các đới khô hạn như vùng Địa Trung Hải mưa chỉ điễn ra vào mùa thu đông, ở
vùng sa mạc và bán hoang mạc có mưa rất ít hoặc không mưa. Sự khô hạn còn phát sinh
do địa hình núi che chắn gió, như hiện tượng gió Lào qua dãy Trường Sơn gây khô nóng
cũng là nhân tố thúc đẩy quá trình sa mạc hoá ở một số nơi miền Trung nước ta.
Do Trái Đất tự quay quanh trục và do sự phân phối vật chất không đều (Trái Đất không
tròn), dẫn đấn độ nghiêng khác nhau, nhận được nguồn ánh sang Mặt Trời khác nhau.
Khi lượng bức xạ cao, không khí khô, thiếu hơi nước, bầu trời không mây và độ ẩm thấp
làm cho khí hậu khô hanh. Bề mặt đất hanh khô có khả năng bức xạ kém nên nhiệt độ
cũng tăng theo. Các nghiên cứu gần đây cho biết, sa mạc Sahara trước kia vốn rất ẩm,
nhưng vào khoảng 4.000 năm trước đã bắt đầu quá trình khô hạn khắc nghiệt và dần dần
biến thành sa mạc như hiện nay.
Xói mòn do gió cũng làm mất tính năng sản xuất của đất, ảnh hưởng đến thực vật
bề mặt; là một trong những yếu tố chính gây ra sa mạc hoá, xảy ra khi đất bị khô, trống,
và tốc độ gió vượt quá tốc độ ngưỡng thì bắt đầu có sự di chuyển các hạt cát. Lyles
(1974) mô tả 3 phương thức di chuyển đất: trườn theo bề mặt, di chuyển đột ngột và di
chuyển lơ lửng. Các hạt đất nặng được di chuyển theo phương thức tròn, lăn và lở dọc
theo mặt đất; những hạt đất nhẹ thì di chuyển đột ngột bằng cách nhảy cóc từng đoạn
ngắn.
Xói mòn do gió (Ảnh: Lovepik – 2018)
Lượng mưa thế giới tính theo ngày vào tháng 1 (Ảnh: PZmaps – 2009)
Trong thông báo nhân kỉ niệm 10 năm ban hành Công ước chống sa mạc hoá, LHQ cảnh
báo 1/3 diện tích đất trồng trọt trên Thế Giới có nguy cơ bị sa mạc hoá. Từ giữa những
năm 1990 đến năm 2000, mỗi năm Trái Đất bị mất 3.436 km2 diện tích canh tác bởi tình
trạng sa mạc hoá. (Năm 1980 là 2100 km2/năm, năm 1970 là 1560 km2/năm).
Theo đánh giá của UNEP thì diện tích sa mạc hoá đã lên tới 39,4 triệu km2, chiếm 26,3%
diện tích đất tự nhiên của Thế Giới và hơn 1 tỷ người trên 100 quốc gia đang phải đối mặt
với tình trạng này.
Theo tính toán, đến năm 2025 sẽ có 2/3 diện tích canh tác ở Châu Phi, 1/3 diện tích canh
tác ở Châu Á và 1/5 diện tích canh tác ở Nam Mỹ không còn sử dụng được.
Liên Hợp Quốc đã đưa ra những báo động về quá trình sa mạc hoá như sau:
Sa mạc hoá đang đe doạ toàn cầu chiếm khoảng 40% bề mặt trái đất, hơn 250 triệu
người bị tác động trực tiếp và 1 tỷ người trong hơn 100 nước bị rủi ro.
Mọi khu vực trên Trái Đất đang phải đối mặt.
Có khoảng 30% diện tích trên Trái Đất là khô hạn và bán khô hạn đang bị sa mạc
hoá đe doạ.
Có 18% dân số thế giới đang sinh sống ở vùng có nguy cơ sa mạc hoá. Hiện nay,
hằng năm có khoảng 6 triệu ha đất bị sa mạc hoá và mất khả năng canh tác do những
hoạt động của con người.
Bảng 1. Phạm vi thoái hoá đất ở Sudan do các tác nhân khác nhau (triệu ha).
Vùng sinh thái Xói mòn Xói mòn Thoái hoá Thoái hoá Tổng số
do gió do nước hoá học lý học
Khô hạn quá 5,8 2,4 0 0 8,2
mức 20,0 6,9 3,0 0 29,9
Khô hạn 1,2 7,7 5,3 3,0 17,3
Bán khô hạn 0 0,7 3,8 0 4,5
Phụ ẩm khô hạn 0 0,5 3,7 0 4,2
Phụ ẩm ướt
Tổng 27,0 18,2 15,8 3,0 64,0
Nguồn: Ayoup, Ali Taha, 1998.
Ở Trung Quốc, diện tích đất bị sa mạc hoá ước tính khoảng 3.327 triệu km2, nằm ở những
khu vực tương đối kém phát triển. Có khoảng 430.000 km2 đất ở Cao nguyên Hoàng Thổ
bị ảnh hưởng do xói mòn nước, trong đó có 145.000 km2 bị xói mòn nghiêm trọng, mất
khoảng 5.000 tấn/km2/năm tầng đất mặt và nâng lòng sông Hoàng Hà lên cao khoảng 5 –
10 cm/năm.
Hồ Hongjiannao – Trung Quốc (Ảnh:sspp – 2009)
-Thiếu ăn và đói.
-Bệnh do nước.
Hoạt động SA MẠC HOÁ -Thay đổi dãy sinh thái
nhân sinh
của bệnh truyền nhiễm.
-Bệnh hô hấp cấp tính,
mãn tính và tổn hại hoả
hoạn.
-Giảm sản xuất nông
nghiệp.
-Gia tăng thiếu nước.
-Tăng di cư
-Tăng cháy rừng, đồng cỏ
-Mất đa dạn sinh học.
-Tăng sự cô lập địa lý.
-Tăng đói nghèo