Professional Documents
Culture Documents
Khang Sinh
Khang Sinh
Khang Sinh
Mục tiêu
Phân loại và liệt kê được sự khác biệt giữa các nhóm kháng sinh
Vận dụng được các yếu tố dược động học, dược lực học và nguyên tắc sử dụng
kháng sinh để ứng dụng hợp lý an toàn trong điều trị.
I.ĐẠI CƯƠNG
1. Lịch sử ra đời kháng sinh
Từ hơn 2500 năm, người Trung Quốc đã biết dùng sữa đậu nành lên men để
điều trị bệnh Hậu bối (Anthrax) và một số bệnh nhiễm trùng ngoài da.
Đầu thế kỷ 20, Paul Erlich (Đức) đã đề ra thuyết: “Selective toxicity” nghĩa là
tìm những chất hóa học chỉ diệt được vi trùng mà không gây hại cho cơ thể bệnh nhân,
người ta gọi những chất này là “magic bullets”. Erlich đã tìm ra Arsphenamine điều trị
bệnh giang mai và mở đầu cho kỷ nguyên hóa trị liệu (chemotherapy).
Năm 1877 Pasteur ( Pháp ) có nhận xét rằng: Trực khuẩn bệnh than không thể
phát triển được khi có sự hiện diện của trực khuẩn Subtilis.
Năm 1928 khi nuôi cấy Staphylococus aureus, Flemming (Anh) đã chiết xuất
được chất kháng sinh đầu tiên là Penicillin từ nấm Penicillium Notatum Chrysogenum
và được xem như người mở đầu “thời đại kháng sinh”.
Năm 1935 Domagk (Đức) tìm ra chất hóa học có tính kháng sinh gọi là
Sulfamide để điều trị Streptococcus, Pneumococcus, Meningococcus và trực khuẩn
gram âm.
Với hàng loạt nghiên cứu của Floray và Chain trong gần 10 năm, đến năm
1941 Penicilin tinh khiết mới được sản xuất và chính thức đưa vào sử dụng.
Từ đó các kháng sinh mới lần lượt được xuất hiện: Streptomycin (1944).
Chloramphenicol (1947), Aurenomycin (1948), Neomycin (1949), Terramycin (1950),
Erythromycin (1952).
“ Thời đại kháng sinh “ mới được thực hiện bắt đầu từ năm 1941, 12 năm sau
phát minh của Fleming, khi Penicillin được đưa ra thị trường, loại thuốc kháng sinh
đầu tiên này phát triển rất mạnh: Từ mấy triệu đơn vị sản xuất mấy năm đầu, đến năm
1949, số lượng đưa ra thị trường lên đến 8000 tỷ đơn vị hàng tháng.
Đến năm 1972, 4000 - 5000 kháng sinh mới đã được ra đời, trong đó chỉ có
chừng 50 loại được ứng dụng vào lâm sàng, dưới dạng đơn độc, hoặc phối hợp, trong
gần 300 biệt dược có giá trị trên thị trường.
Cho đến nay tuy đã có nhiều nhóm kháng sinh được đưa vào sử dụng, có hàng
ngàn kháng sinh mới được sản xuất, nhưng các nhà nghiên cứu trên thế giới vẫn còn
chạy đua trong việc tìm tòi và tổng hợp các kháng sinh mới…….
2. Định nghĩa kháng sinh
Năm 1899 Wuillemin đã dùng từ “Antibiose “ để đặt tên cho kháng sinh.
180
Thuäúc khaïng sinh
Năm 1944, khi kháng sinh đã thực sự ra đời thì Waksman đã định nghĩa:
“Kháng sinh là những chất hóa học xuất xứ từ những sinh thể, với một nồng độ pha
loãng, cũng đủ khả năng ngăn chặn hoặc hủy diệt vi trùng và những sinh thể khác”
Từ sự tiến bộ của việc nghiên cứu kháng sinh, năm 1957 định nghĩa này đã
đượcVelu và Turpin mở rộng như sau:
“Kháng sinh là những chất hóa học, xuất xứ từ những sinh thể, hoặc tổng hợp
bằng phương pháp nhân tạo, có hệ số trị liệu của kháng sinh rất cao, chỉ cần 1 liều rất
nhỏ và chuyên biệt, cũng đủ ngăn chặn một vài diễn tiến trong quá trình sống của một
số vi sinh vật đa bào” và “với liều lớn hơn cũng không gây hại đến sự sống của cơ thể
người sử dụng “( Burkholder )
Với các thầy thuốc lâm sàng , định nghĩa về kháng sinh đơn giản hơn: “ Kháng
sinh là chất tự nhiên (lấy từ vi sinh vật - thường là vi nấm) bán tổng hợp hoặc tổng hợp
có tác dụng chống vi khuẩn “
181
Thuäúc khaïng sinh
1.2. Cephalosporine
1.2.1.Cephalosporine thế hệ 1 :
- Cefalotine ( Keflin ) - Cefalexine ( Keforal )
- Cefaloridine ( Ceporine ) - Cefadroxil ( Oracefal )
- Cefazoline ( Cefacidal ) - Cefapirine ( Cefalojet )
- Cefadrine ( Eskacef ) - Cefatrizine ( Cefaperos )
- Cefaclor ( Alfatyl )
1.2.2.Cephalosporine thế hệ 2
- Cefamandole ( Kefandol ) - Cefoxitine ( Mefoxin )
- Cefuroxime( Curoxim, Zinnat )
1.2.3.Cephalosporine thế hệ 3
- Cefotaxime ( Claforan ) - Cefotetan ( Apacef )
- Cefoperazone ( Cefobis ) - Cefsulodine ( Pyocetal )
- Cefotiam (Pansporine ) - Ceftazidine ( Fortum )
- Ceftizoxime ( Cefizox) - Ceftriaxone ( Rocephine )
- Cefixine ( Oroken ) - Cefpodoxine ( Cefodox )
- Cefmenoxime ( Cemix ) - Latamoxef ( Moxalactam )
1.3. Những Beta - Lactamine Khác
1.3.1. Monobactame : Aztreonam ( Azactam )
1.3.2. Carbapenem : Imipeneme ( Tienam )
1.4. Loại ức chế beta- lactamase + beta lactamine
- Acid clavulanic + Amoxycilline = Augmentine
- Acid clavulanic + Ticarcilline = Timentin, Claventin
- Tazobactam + Piperacilline = Tazocilline
- Sulbactam + Ampicilline = Unacyne
2. Nhóm Aminoside ( Aminoglycoside )
2.1. Aminoside thiên nhiên :
- Streptomycine - Neomycine
- Gentamycine ( Gentaline ) - Framycetine (Soframycine )
- Kanamycine ( Kamycin ) - Aminosidine
- Paromomycine ( Humatin )
2.2. Aminoside bán tổng hợp :
- Amikacine ( Amiklin ) - Tobramycine ( Nebcine )
- Dibekacine ( Debekacyl ) - Sisomycine ( Sisolline )
- Neltimicine ( Netromicine ) - Spectimomycine ( Trobicine )
3. Nhóm Tetracycline
3.1. Tetracycline thế hệ 1
- Chlortetracycline ( Aureomycine ) - Oxytetracycline ( Terramycine )
- Tetracycline ( Tetracycline, Tetracyne )
182
Thuäúc khaïng sinh
183
Thuäúc khaïng sinh
184
Thuäúc khaïng sinh
2 . Nhóm Aminoside
- Không hấp thu qua đường uống nên chủ yếu dùng bằng đường tiêm. Hấp thu
nhanh và hoàn toàn sau tiêm.
- Kết hợp với protein huyết tương thấp. Thời gian bán hủy trong huyết tương
khoảng 2 giờ - 2 giờ 30 mà không phụ thuộc vào đường tiêm. Thời gian bán hủy dài
trong các trường hợp : Tuổi già, trẻ sơ sinh, suy thận, có tình trạng mất nước .
- Khả năng phân phối trong cơ thể kém, đặc biệt rất kém trong dịch não tủy.
Thuốc đạt nồng độ cao ở vỏ thận, trong nội dịch và ngoại dịch của tai nên thường gây
độc tính ở tai và thận.
- Thuốc dể qua nhau thai, gây tích lũy trong thai nên gây độc cho cả mẹ và con.
- Thải trừ qua đường tiểu với phần lớn ở dạng còn hoạt tính.
3. Nhóm Tetracycline
- Hấp thu tốt qua đường tiêu hóa, tỷ lệ hấp thu thuốc cũng thay đổi tùy loại. Các
yếu tố làm giảm hấp thu thuốc như : Ăn no ( trừ các tetracyclin thế hệ III ), sữa, các
thuốc kháng acid, hoặc các chế phẩm có sắt.
- Phân phối vào các tổ chức và tế bào rất tốt, nhưng qua màng não kém trừ
tetracyclin thế hệ III ( do dể tan trong lipid nên dể thấm vào dịch não tuỷ ).
- Thuốc qua được nhau thai và đạt nồng độ cao trong sữa mẹ.
- Tỷ lệ gắn protein huyết tương và thời gian bán huỷ của các tetracycline thay
đổi tuỳ loại ( ngắn với các tetracycline thế hệ I, II và dài với tetracycline thế hệ III ).
Đặc biệt thuốc gắn mạnh vào xương, răng ở trẻ em trước khi sinh, trẻ sơ sinh, và trẻ
nhỏ.
- Thuốc được bài tiết qua đường tiểu và qua phân. Với các tetracycline thế hệ III
( Doxycyline, Minoxycline .. ) được bài tiết chủ yếu qua mật, còn các tetracycline thế
hệ I, II thì thải chủ yếu qua thận. Sự bài tiết này gia tăng khi khi thận bị suy .
4. Nhóm Polypeptide
- Thuốc không hấp thu qua đường tiêu hóa nên thường dùng ở dạng tiêm.
- Tỷ lệ gắn vào protein huyết tương thấp.
185
Thuäúc khaïng sinh
- Phân phối kém trong cơ thể, không phân phối vào được các mô, không qua
được màng não.
- Đào thải qua đường tiểu ( 80 % ) dưới dạng hoạt hóa
5. Nhóm Phenicol
- Thuốc được hấp thu rất tốt qua đường tiêu hóa (80 - 90 % với chloramphenicol,
khoảng 100% với Thiamphenicol) .
- Tỷ lệ gắn với protein huyết tương thấp ( khoảng 30 %.)
- Khả năng phân phối trong cơ thể là tuyệt hảo, ngay cả trong dịch não tủy, đặt
biệt tập trung cao ở vùng hạch mạc treo ruột.
- Thuốc qua tốt cả ở nhau thai và sữa mẹ. Thời gian bán hủy trong huyết tương
khoảng 2 - 3 giờ.
- Chuyển hóa ở gan thành những chất mất hoạt tính
- Thải trừ chủ yếu qua đường tiểu và một phần ( 2 - 3% ) qua mật.
Riêng Thiamphenicol không chuyển hóa ở gan nên được thải dưới dạng còn
hoạt tính: qua đường tiểu ( 70% liều dùng ), và qua mật ( khoảng 5 - 6 % ).
Chính sự khác biệt này về dược động học nên thiamphenicol thường được dùng
để điều trị nhiễm trùng đường tiểu và đường mật.
6. Nhóm Macrolide
- Các thuốc trong nhóm này, kể cả các Streptogramine hoặc Licosamide đều hấp
thu tốt qua đường tiêu hóa.
- Gắn khoảng 70 % vào protein huyết tương.
- Thời gian bán hủy thay đổi tùy loại ( dài với các loại Macrolide mới như
Azithromycin, Clarithromycine ..)
- Phân phối thuốc vào các tổ chức và tế bào rất tốt ngoại trừ vào dịch não tủy
( nồng độ thuốc hòan toàn không có ). Nồng độ thuốc cao ở phổi, tai mũi họng nên
thường dùng điều trị bệnh nhiễm trùng hô hấp, hoặc nhiễm trùng tai mũi họng.
- Thuốc qua được nhau thai và sữa mẹ.
- Chuyển hóa ở gan và thải trừ chủ yếu qua đường mật, một ít được thải trừ qua
thận ( 5 % ).
7. Nhóm Sulfamide
- Hấp thu tốt và hầu như hoàn toàn ( nồng độ đỉnh đạt sau 2 - 4 giờ )qua đường
tiêu hóa, trừ một số Sulfamide dùng điều trị bệnh đường tiêu hóa ( Sulfaganidin,
Sulfathiazol ....) thì không hấp thu.
- Phân phối tốt trong tổ chức , đặt biệt tốt trong dịch não tủy và tiền liệt tuyến.
- Thời gian bán hủy khoảng 10 giờ ( đối với các Sulfamide phối hợp )
- Thuốc được thải trừ qua đường tiểu dưới dạng hoạt hóa.
8. Nhóm Quinolone
- Hấp thu tốt và gần như hòan toàn qua đường tiêu hóa, hấp thu giảm trong
trường hợp dùng kèm thuốc băng niêm mạc dạ dày, với aluminium hay magnesium.
- Thuốc gắn mạnh vào protein huyết tương
186
Thuäúc khaïng sinh
- Khuếch tán kém vào tổ chức, trừ nhu mô thận (với loại quinolone cổ điển ),
còn với loại quinolone mới, khả năng phân phối vào các tổ chức của cơ thể rất tốt và
giữ bền được nồng độ hiệu quả trong thể dịch.
- Chuyển hóa qua microsome gan và thành những chất không còn tác dụng.
- Thuốc qua được nhau thai, ít qua sữa mẹ nhưng có thể gây thiếu máu huyết tán
ở trẻ đang bú mẹ.
- Thời gian bán hủy thay đổi từ 4 giờ (Ciprofloxine) đến 12 giờ (Pefloxaxine).
- Thải chủ yếu qua đường tiểu ( trừ Pefloxaxine thải qua đường mật )
9. Nhóm Nitrofurant
- Không hấp thu qua đường tiêu hóa ( trừ nitrofurantoin hấp thu tốt , nhất là ở
ruột non ), thức ăn làm tăng 30 - 50 % hấp thu thuốc, nên thường dùng vào bửa ăn
- Phân phối thuốc chủ yếu tập trung cao ở thận.
- Thuốc được chuyển hóa nhanh và thải qua đường tiểu với 30 - 50 % ở dạng
còn hoạt tính.
10. Nhóm Imidazole
- Hấp thu nhanh và hoàn toàn qua đường tiêu hóa.
- Ít gắn vào protein của huyết tương, thuốc được phân phối tốt vào nhiều tổ chức
của cơ thể.
- Chuyển hóa tại gan cho ra chất còn 65% tác dụng ( so với chất mẹ ) trên vi
khuẩn kỵ khí.
- Thuốc qua được sữa với hàm lượng cao.
- Thời gian bán hủy của thuốc khác nhau tùy độ tuổi, ví dụ : Ở trẻ sơ sinh là 20 -
30 giờ; nhưng ở ngươiì lớn thì chỉ 6 - 10 giờ. Thời gian này tăng khi thận suy.
- Thải chủ yếu qua đướng tiểu và suy thận không ảnh hưởng đến dược động học
của thuốc. Thải nguyên vẹn 14 % qua phân, 15% qua đường tiểu.
11. Nhóm glycopeptide
- Các thuốc trong nhóm này không hấp thu qua đường uống.
- Phân phối rộng vào các tổ chức của cơ thể nhưng vào dịch não tủy rất kém.
- Thời gian bán hủy thay đổi tùy loại : 4 - 8 giờ ( Vancomycine ), 45 - 70 giờ
Teicoplanin )
- Thuốc được thải chủ yếu qua đường tiểu.
12. Nhóm rifamycine
- Hấp thu tốt qua đường uống .
- Tỷ lệ gắn vào protein huyết tương cao ( 75 - 80% )
- Phân phối tốt qua tế bào và các tổ chức của cơ thể kể cả dịch não tủy.
- Thời gian bán hủy ( T1/2 ) khoảng 1,5 - 5 giờ và tăng khi có kèm bệnh gan
- Đào thải chủ yếu qua đường mật ( 95 - 97% với Rifamycine, 80% với
Rifapicine), còn thải được qua nước bọt, đờm, nước mắt nên các dịch này có màu đỏ.
13. Nhóm Acid Fucidic
- Hấp thu nhanh và tốt qua đường uống
- Phân phối tốt vào trong tế bào và tổ chức ( trừ dịch não tủy )
187
Thuäúc khaïng sinh
188
Thuäúc khaïng sinh
nước nên có thể đi qua các lỗ trên màng do vậy có tác dụng trên vi khuẩn Gr(-).
2. Tác dụng lên màng tế bào :
Ngoài chức năng che chở, bao bọc bào tương, màng tế bào còn giữ nhiệm vụ
thẩm thấu hấp thu và chọn lọc, nó giữ cho bào tương ưu trương và ổn định các thành
phần trong tế bào. Làm rối loạn chức năng của màng tế bào hậu qủa là làm thoát các
chất ra khỏi tế bào nhất là các chất điện giải ( Mg ++, K+, Ca++ ) và làm sai biến các
phản ứng sinh học trong tế bào vi khuẩn.
Ví dụ : nhóm Polypeptid và các loại kháng nấm ( amphotericin B, nystatin )
Polypeptid chỉ tác dụng trên vi khuẩn Gr(-) vì rerceptor của nó là
phosphodilethanolamin chỉ có ở màng vi khuẩn Gr(-), ngược lại receptor của loại
kháng nấm là ergosterol chỉ có ở nấm chứ không có ở màng vi khuẩn
3. Tác dụng do ức chế tổng hợp acid nucleic và protein
Acid nucleic có nhiệm vụ quan trọng trong tế bào, có hai loại Acid nucleic là acid
ribonucleic (ARN) và acid desoxyribonucleic (ADN). Acid ribonucleic còn được chia
làm 3 loại : “ARN ribosom”; “ARN thông tin” và “ ARN vận chuyển”.
3.1. Ức chế tổng hợp acid desoxyribonucleic (ADN)
Các thuốc nhóm Rifamycine, Quinolone, Imidazole, Nitrofuran có tác dụng ức
chế mạnh sự tổng hợp của AND ở giai đoạn nhân đôi, đặt biệt các thuốc có tác dụng
kháng siêu vi như Vidarabin, Acyclovir.. do có cấu trúc tương tự AND sẽ kết hợp với
các enzym cần cho sự tổng hợp AND của siêu vi làm mất hoạt tính và siêu vi không
thể phát triển được
3.2. Ức chế tổng hợp ARN ( đối với một số siêu vi chỉ có ARN mà không có AND )ví
dụ các thuốc như : Rifamycine, Nobiocine, Actinomycine...do ức chế enzym ARN
polymerase, ảnh hưởng đến sự trùng hợp làm ức chế sự sao chép thông tin di truyền
3.3. Ức chế ARN ribosom ( ARNr )
Kháng sinh gắn vào các receptor chuyên biệt của ribosom làm ức chế quá trình
tổng hợp protide của vi khuẩn.
3.3.1.Gắn vào tiểu thể 30S:
Kháng sinh gắn với receptor chuyên biệt trên tiêu thể 30S gây biến dạng
ribosom dẫn đến đọc sai mã nên mang vào các acid amin không đúng do vậy tạo ra các
protein không hoạt tính, ví dụ : nhóm Aminoglycoside; hoặc ngăn chặn đưa acid amin
mới vào chuỗi peptid đang được thành lập, ví dụ : nhóm Tetracyclin
3.3.2. Gắn vào tiểu thể 50S:
Kháng sinh gắn vào receptor đặc hiệu trên tiêu thể 50S làm can thiệp vào quá
trình giải mã của ARN vận chuyển và ngăn chặn sự gắn của các acid amin vào chuỗi
peptid đang thành lập do vậy không tổng hợp được protein, ví dụ : Nhóm phenicol,
macrolide, acid Fucidic, lincomycin, clindamycin .
4.Ức chế tổng hợp glucid
Nitrofurantoin có tác dụng ức chế acetyl-coenzym A làm ảnh hưởng đến chu
trình chuyển hóa glucid của vi khuẩn
5. Ức chế tổng hợp lipid
Pyrazinamid, Isoniazid, cycloserin ..ức chế tổng hợp acid mycolic là một lipid ở
màng tế bào mycobacter . Các thuốc này có tác dụng điều trị bệnh lao và hansen
189
Thuäúc khaïng sinh
190
Thuäúc khaïng sinh
từ trước. Ví dụ chàm tiếp xúc hay gặp trên những bệnh nhân điều trị bằng bôi kháng
sinh tại chỗ, hoặc trên những người mà nghề nghiệp tiếp xúc với nhiều kháng sinh .
1.3 Sốt do kháng sinh
Đây là một chứng sốt xuất hiện trên một bệnh nhân đang được điều trị bằng
kháng sinh. Sự tăng nhiệt độ bất thường này làm ta lầm tưởng rằng bệnh nhiễm trùng
ban đầu tái diễn, hoặc một nhiễm trùng mới mắc, nhưng tình trạng chung thì không
phải là một người bị nhiễm trùng nặng. Nhiều khi có kèm theo tăng bạch cầu đa nhân
và tốc độ lắng máu.
Hội chứng giả nhiễm trùng nầy có thể gây ra nhiều khó khăn trong chẩn đoán
nếu không có kèm theo những dấu hiệu không dung nạp khác.
Về nguyên tắc nên dừng ngay kháng sinh đang điều trị, nhiệt độ sẽ trở lại bình
thường nếu sốt do kháng sinh, nếu quá trình nhiễm trùng tái diễn, sốt vẫn tiếp tục
chứng tỏ liệu pháp kháng sinh là vô hiệu. Tuy vậy trong thực tế, nguyên tắc xử lý này
không phải là dễ áp dụng.
2. Tai biến do độc tính
2.1. Tai biến ở gan
Những tai biến do độc tính kháng sinh gây ra ở gan phần lớn là do những kháng
sinh chống lao (Rifampicin, Pyrazinamide, INH..) ngoài ra Tetracycline,
Novobicocine, Macrolide cũng có thể gây ra khi dùng liều cao hoặc dài ngày.
Chúng biểu hiện bằng những rối loạn chức năng gan, những rối loạn nhiễm mỡ
gan, hoặc những biểu hiện lâm sàng viêm gan mà dấu hiệu chính là vàng da.
2.2 Tai biến ở thân
Vấn đề độc tính của kháng sinh đối với thận rất phức tạp.
Một số kháng sinh trực tiếp độc với thận.
Một số gây độc toàn thân nếu có suy thận, do tích lũy trong cơ thể.
Một số khác chỉ độc với thận trong những trường hợp đặc biệt, ví dụ trong
trường hợp sốc nhiễm độc nhiễm trùng, cũng cần nhớ rằng một số kháng sinh vốn
được coi là không độc với thận có thể trở nên độc trong một số trường hợp, ví dụ
trường hợp của các cycline có thể gây độc ở ống thận khi thuốc đã biến chất. Những
dấu hiệu hư tổn thận rất thay đổi: proteine niệu và trụ niệu, nghiệm pháp Addis dương
tính, đái ra hồng cầu vi thể hoặc đại thể, nhất là trong những tai biến dị ứng.
2.3. Tai biến về máu
2.3.1 Tổn thương ở tủy xương : Do độc tính của kháng sinh, gây ra nhược sản tủy có
khả năng phục hồi, hoặc bất sản tủy tiên lượng rất nặng thường dẫn đến tử vong.
Chloramphenicol và Sulfamide chậm là nguyên nhân chính, các thuốc kháng lao
Isoniazide, Streptomycine chỉ gây ra những tai biến nhẹ.
Bất sản tủy do Chloramphenicol không có liên quan chặt chẽ với liều dùng,
hình như những liều nhỏ liên tiếp để chữa những bệnh lành tính và tái phát nhiều lần là
nguyên nhân chính. Vì vậy chỉ nên dùng Chloramphenicol khi có chỉ định chính xác:
Sốt thương hàn, bệnh do Brucella, một số nhiễm trùng huyết, viêm màng não mủ.
2.3.2 Tiêu huyết do kháng sinh: Thường xuất hiện ở những người có hư tổn trước ở
hồng cầu hoặc do cơ chế miễn dịch.
2.3.3 Những tai biến ở trung tâm tạo huyết: Thường kèïm theo những biểu hiện ngoại
191
Thuäúc khaïng sinh
biên của rối loạn đông máu do giảm Prothrombine huyết vì thiếu vitamine K gây nên
bởi tình trạng rối loạn khuẩn ở ruột hoặc vì tác dụng trực tiếp của thuốc trên
Prothrombine (INH - PAS) mà cơ chế chưa được biết rõ.
2.4. Tai biến thần kinh - Giác quan
Do độc tính của thần kinh ảnh hưởng tới một số cơ quan cảm giác, thần kinh
trung ương, và tế bào thần kinh.
2.4.1 Tổn thương giác quan
Các Aminoside, đứng đầu là Streptomycine, là nguyên nhân chính gây ra những
tai biến ốc tai và tiền đình. Những tai biến này thường xuất hiện trong những liệu trình
kéo dài, nhưng sự nhạy cảm cá nhân thay đổi tùy theo cơ địa. Hư tổn ốc tai tiền đình
hầu như khó tránh khỏi khi tổng liều Streptomycine vượt quá 50 gram, đối với
Kanamycin không vượt quá 45 gram. Suy thận và suy gan gây tích lũy Streptomycine
và làm cho tai biến ốc tai tiền đình dễ xảy ra.
2.4.2 Những rối loạn tâm thần và co giật
Thường thấy với những thuốc chống lao (Cycloserine, Ethionamide,
Isoniazide). Những người nghiện rượu, thiếu dinh dưỡng, tiền sử bị bệnh thần kinh,
tâm thần, là những nguyên nhân thuận lợi, nên cần phải nắm vững, trước khi điều trị .
Những rối loạn trên sẽ mất đi sau khi ngừng thuốc.
2.4.3 Viêm da thần kinh cảm giác vận động
Thường gặp nhất với Isoniazide và Ethinonamide vì chúng tác động lên chuyển
hóa của vitamine B6. Những dấu hiệu thần kinh này xuất hiện lặng lẽ, đôi khi phối hợp
với tổn thương dạng Pellagra ở da, những rối loạn vận động kiểu các đầu chi. Tác dụng
dự phòng của vitamine B6 không thường xuyên và một khi viêm da thần kinh xuất
hiện, điều trị của nó không chắc chắn hiệu quả nếu không ngừng kháng sinh. Phục hồi
chậm và thường để lại di chứng.
3. Tai biến do mất cân bằng sinh vật học
Về lâm sàng, những tai biến này thường xảy ra ở mọi vị trí của đường tiêu hóa:
3.1. Ở miệng và họng
Cảm giác nóng, khô lưỡi, khát nước, lưỡi đỏ láng bóng, mất các gai, đôi khi
viêm miệng.
3.2. Ở thực quản và dạ dày
Đau vùng thượng vị, buồn nôn, và nôn, viêm dạ dày đặc biệt hay gặp với
Aureomycine và Erythromycine vì kích thích đối với niệm mạc dạ dày.
3.3. Niêm mạc hậu môn và trực tràng
Nhẵn bóng, đỏ ngứa. Những tai biến nầy do nấm Candida albicans phát triển.
3.4. Những tai biến đường ruột
Chiếm khoảng 25-30% trên các tai biến kháng sinh. Thường gặp nhất là ỉa chảy
đơn thuần xuất hiện sau khi điều trị kháng sinh từ 1 đến 4 ngày, biểu hiện bằng đại tiện
phân lỏng, nhiều lần, không thối, màu xanh da cam. Những rối loạn nầy hết nhanh sau
khi ngừng kháng sinh.
Những thay đổi vi khuẩn học ở ruột trong quá trình sử dụng liệu pháp kháng
sinh đã được Buttiaux và Goiffen nghiên cứu kỹ:
192
Thuäúc khaïng sinh
3.4.1. Trong giai đoạn đầu, trực khuẩn Coli và tất cả các nhóm vi khuẩn ưa Iode, nghĩa
là vi khuẩn chủ yếu ở manh tràng và kết tràng phải như Clostridia, Leptotrix,
Lactotrix, Lactobacillus, Acidophillus biến mất.
3.4.2. Trong giai đoạn thứ 2, các vi khuẩn không gây bệnh khác xuất hiện rất nhiều:
Enterobacteriae kháng thuốc, Proteus, các cầu khuẩn, Paracoli aerogène, nấm mốc.
3.4.3. Trong giai đoạn thứ 3, một chủng vi khuẩn chiếm ưu thế xuất hiện, trở nên gây
bệnh và rất độc. Người ta thường gặp trong cầu khuẩn gây bệnh, nhất là tụ cầu vàng,
đôi khi Candida albicans hoặc Proteus. Sự tăng cường hoạt tính của một số vi khuẩn
gây bệnh được giải thích theo hai cách: một mặt do không còn cạnh tranh sinh tồn vì vi
khuẩn chí đã bị thủ tiêu, mặt khác do sự kháng lại kháng sinh.
Bảng 1 : Một số kháng sinh uống vào bữa ăn hoặc sau bữa ăn
193
Thuäúc khaïng sinh
Bảng 3 : Một số kháng sinh có thể uống trước hoặc sau bữa ăn.
6. Chỉ được phối hợp kháng sinh khi thật cần thiết .
7. Biết sử dụng kháng sinh dự phòng hợp lý.
194
Thuäúc khaïng sinh
195
Thuäúc khaïng sinh
2. Tương kỵ thuốc :
Là phản ứng lý hóa xãy ra khi trộn lẫn 2 hay nhiều loại thuốc với nhau làm cho
thuốc mất tác dụng ngay khi còn ở ngoài cơ thể.
196
Thuäúc khaïng sinh
procain.
197
Thuäúc khaïng sinh
từng loại kháng sinh, chủng vi khuẩn gây bệnh, dược động học của các kháng sinh trên
cơ thể người bệnh.
2. Phối hợp đưa đến tác dụng đối kháng
2.1 Phối hợp kháng sinh kìm khuẩn với Penicillin
Người ta đã biết rõ Tetracyclin và Cloramphenicol có thể ngăn ngừa hay làm
giảm các tác dụng của Penicillin trên một số chủng vi khuẩn in vitro (J.J.Rahal, 1978).
D.J.Krogetad vfà R.C.Moellering, 1980 khi kiểm tra trên phế cầu thấy
Tetracyclin và Chloramphenicol do làm ngừng phát triển tế bào làm cản trở Penicillin
biểu hiện tác dụng diệt khuẩn.
2.2 Phối hợp kháng sinh kìm khuẩn với Aminoglycoside
Trên vivo đã thu nhận được nhiều kết quả về tác dụng đối kháng của
aminoglycoside (Streptomycin, Gentamycin, v.v...) với các thuốc kìm khuẩn như
Tetracyclin và Chloramphenicol (J.J.Rahal, 1978).
Cơ chế của tác dụng đối với kháng này còn chưa rõ ràng, nhưng có giả thiết cho
rằng Chloramphenicol ức chế vận chuyển tích cực cần cho sự thấm vào trong tế bào vi
khuẩn của các aminoside (L.E.Eryan và cộng sự, 1975), hay là Tetracyclin và
Chloramphenicol tác dụng lên chức năng ribosom của tế bào diệt khuẩn và ngăn cản
các aminoside thực hiện tác dụng diệt khuẩn. (J.J.Rahal, 1978)
Năm 1976 S.H.Zinner và cộng sự đã chứng minh tác dụng đối kháng khi phối
hợp Lincomycin, Klindamycin với Gentamycin trong các thử nghiệm in vitro với
E.coli và Klebsiella Pneumoniae.
2.3 Phối hợp các thuốc kìm khuẩn ức chế phần 50S của Ribosom
Người ta xác định (in vitro và trên cơ thể vi bào) rằng khi phối hợp các thuốc
kìm khuẩn ức chế phần 50S của ribosom (Erythromycin, Oleandomycin Lincomycin,
Chloramphenicol) có thể gây ra tác dụng đối lập do liên kết cạnh tranh (D.J.Krogetad
và cộng sự, 1980).
3. Phối hợp đưa đến tác dụng hợp đồng
3.1 Hợp đồng do 1 kháng sinh làm tăng tính thấm qua vách tế bào vi khuẩn của
một kháng sinh khác
Biểu hiện bằng tăng tốc độ diệt khuẩn và đặc trưng cho hai loại phối hợp:
Hợp đồng phối hợp các -lactamin với các aminoside, một ví dụ cổ điển xuất
hiện đầu tiên và còn giá trị đến ngày nay, đó là kết hợp Benzyl Penicillin với
Streptomycin để điều trị Enterococcus.
Hợp đồng phối hợp Vacomycin và Aminozid: Cơ chế cũng như khi phối hợp
Penicillin với Aminoside. Vancomycin và Ristomycin làm tăng tính thấm vào bên
trong tế bào của Aminoside. Tác dụng hợp đồng thu nhận được với Staphylococcus và
Enterococcus. Trong lâm sàng ít dùng phối hợp này vì độc với cầu thận.
3.2 Hợp đồng do ức chế enzym phân hủy một trong số kháng sinh phối hợp
Loại này có hai con đường để ngăn chặn sự mất hoạt tính kháng sinh gây ra do
các enzym của vi khuẩn:
3.2.1 Hiệp đồng gây ra do cơ chế cạnh tranh và khả năng hồi phục: có nhiều cách
khác nhau.
198
Thuäúc khaïng sinh
199
Thuäúc khaïng sinh
200
Thuäúc khaïng sinh
- Capreomycin và Streptomycin tuy thuộc hai nhóm kháng sinh khác nhau
nhưng có những tính chất giống nhau nên có kháng chéo.
***
201