Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 8

1.

Phân tích những nguyên tắc cơ bản của phương pháp


luận biện chứng duy vật

Các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật bao gồm
ba nguyên tắc: Nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc lịch sử cụ thể và nguyên tắc phát
triển trong nhận thức và thực tiễn.
1. Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn:
a. Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nội dung nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến. Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ giữa các mặt (thuộc tính) đối lập tồn
tại trong mọi sự vật, trong mọi lĩnh vực hiện thực.
Mối liên hệ mang tính khách quan và phổ biến. Nó chi phối tổng quát sự vận
động, phát triển của mọi sự vật, quá trình xãy ra trong thế giới; và là đối tượng
nghiên cứu của phép biện chứng.
Mối liên hệ phổ biến được nhận thức trong các phạm trù biện chứng như mối
liên hệ giữa: mặt đối lập- mặt đối lập; chất – lượng, cái cũ – cái mới; cái riêng- cái
chung; nguyên nhân- kết quả; nội dung – hình thức; bản chất- hiện tượng; tất
nhiên-ngẫu nhiên; khả năng – hiện thực.
Nội dung nguyên lý:
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ
ràng buộc lẫn nhau.
Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối
liên hệ phổ biến
Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách
tổng quát quá trình vận động, phát triển của mọi sự vật hiện tượng xảy ra
trong thế giới.
b. Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc toàn diện:
Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
Tìm hiểu, phát hiện càng nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính
chất, yếu tố, mặt,...) đang chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật càng tốt
Phân loại để xác định những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính
chất, yếu tố, mặt,...) nào là bên trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định...; còn những mối
lien hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,...) nào là bên ngoài,
không cơ bản, ngẫu nhiên, không ổn định...;
Dựa trên những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt,...) bên trong cơ bản, tất nhiên, ổn định... Để lý giải được những mối liên hệ,
quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,...) còn lại. Qua đó xây dựng
một hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc
điểm, tính chất, yếu tố, mặt,...); phát hiện ra quy luật (bản chất) của nó.
Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính
chất, yếu tố, mặt,...) chi phối sự vật.
Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện,
biện pháp thích hợp (mà trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật
chất) để biến đổi những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu
tố, mặt,...) để biến đổi những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất,
yếu tố, mặt,...) của bản thân sự vật, đặc biệt là những mối liên hệ, quan hệ (...) bên
trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng.... của nó.
Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính
chất, yếu tố, mặt,...) của bản thân sự vật; kịp thời sử dụng các công cụ, phương
tiện, biện pháp bổ sung để phát huy hay hạn chế hay hạn chế sự tác động của
chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo đúng quy luật và hợp lợi ích
của chúng ta.
c. Việc tuân thủ nguyên tắc toàn diện sẽ khắc phục được những hạn chế gì
trong hoạt động nhận thức và trong hoạt động thực tiễn.
Việc quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chúng ta khắc
phục được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện...
trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.
Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính
chất nào đó mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của
sự vật. thường xem xét dàn trải, liệt kê những tính quy định khác nhau của sự vật
hay hiện tượng mà không làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật
hay hiện
tượng đó.
Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên
hệ của sự vật nhưng không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mối liên hệ
cơ bản của sự vật mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc,
tùy tiện. Do đó hoàn toàn bất lực khi cần phải có quyết sách đúng đắn.
Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không
cơ bản, cái chủ yếu với cái thứ yếu... hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay
lợi ích của mình một cách tinh vi.
Trong đời sống xã hội, nguyên tắc toàn diện có vai trò cực kỳ quan trọng. Nó
đòi hỏi chúng ta không chỉ liên hệ nhận thức với nhận thức mà cần phải liên hệ
nhận thức với thực tiễn cuộc sống, phải chú ý đến lợi ích của các chủ thể (các cá
nhân hay các giai tầng) khác nhau trong xã hội và biết phân biệt đâu là lợi ích cơ
bản (sống còn) và lợi ích không cơ bản, phải biết phát huy hay hạn chế mọi tiềm
năng hay nguồn lực từ khắp các lĩnh vực hoạt động xã hội (kinh tế, chính trị, văn
hóa...) từ các thành phần kinh tế, từ các tổ chức chính trị - xã hội... để có thái độ,
biện pháp, đối sách hành động thích hợp mà không sa vào chủ nghĩa bình quân,
quan điểm dàn đều, tức không thấy được trọng tâm, trọng điểm, điều cốt lõi trong
cuộc sống vô cùng phức tạp.
2. Nguyên tắc phát triển:
a. Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nội dung nguyên lý về sự phát triển.
Sự vận động và sự phát triển
Vận động là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất; vận động
được hiểu như sự thay đổi nói chung. “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức
được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật
chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ
sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Phát triển là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, do mâu thuẫn trong bản thân sự
vật gây ra. Phát triển là một khuynh hướng vận động tổng hợp của hệ thống sự vật,
trong đó, sự vận động có thay đổi những quy định về chất (thay đổi kết cấu – tổ
chức) của hệ thống sự vật theo khuynh hướng tiến bộ giữ vai trò chủ đạo; còn sự
vận động có thay đổi những quy định về chất của sự vật theo xu hướng thoái bộ và
sự vận động chỉ có thay đổi những quy định về lượng của sự vật theo xu hướng ổn
định giữ vai trò phụ đạo, cần thiết cho xu hướng chủ đạo trên.
“Hai quan điểm cơ bản...về sự phát triển (sự tiến hóa): sự phát triển coi như là
giảm đi và tăng lên, như lập lại; và sự phát triển coi như sự thống nhất của các mặt
đối lập. Quan điểm thứ nhất thì chết cứng, nghèo nàn, khô khan. Quan điểm thứ
hai là sinh động. Chỉ có quan điểm thứ 2 mới cho ta chìa khóa của “sự vận động”,
của tất thảy mọi cái “đang tồn tại”; chỉ có nó mới cho ta chìa khóa của những
“bước nhảy vọt”, của “sự gián đoạn của tính tiệm tiến”, của “sự chuyển hóa thành
mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới”.
Phát triển như sự chuyển hóa: giữa các mặt đối lập; giữa chất và lượng; giữa cái
cũ và cái mới; giữa cái riêng và cái chung; giữa nguyên nhân và kết quả; giữa nội
dung và hình thức; giữa bản chất và hiện tượng; giữa tất nhiên và ngẫu nhiên; giữa
khả năng và hiện thực.
Phát triển là quá trình tự thân của thế giới vật chất, mang tính khách quan, phổ
biến và đa dạng: phát triển trong giới tự nhiên vô sinh; phát triển trong giới tự
nhiên hữu sinh; phát triển trong xã hội; phát triển trong tư duy, tinh thần.
Nội dung nguyên lý
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều không ngừng vận động và phát triển.
Phát triển mang tính khách quan – phổ biến, là khuynh hướng vận động tổng
hợp tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn của một hệ thống vật chất, do việc giải quyết mâu thuẫn, thực hiện bước
nhảy về chất gây ra và hướng theo xu thế phủ định của phủ định.
b. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Quan điểm phát triển hoàn toàn đối lập với quan điểm siêu hình, đầu óc bảo thủ
định kiến, cung cách suy nghĩ xơ cứng giáo điều; nó xa lạ với sự tuyệt đối hóa một
giai đoạn nào đó trong quá trình vận động của đối tượng nhận thức cũng như cả
bản than quá trình nhận thức đối tượng, nó cũng xa lạ với đầu óc trọng cổ, chủ
nghĩa lý lịch, chũ nghĩa thực tại, chủ nghĩa vị lai,...
Quán triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc phát triển sẽ giúp chủ thể khắc phục
được quan điểm (tư duy) siêu hình, bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động thực
tiễn và nhận thức của chính mình.
3. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể:
Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc lịch sử - cụ thể
Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại
và phát triển cụ thể của những sự vật cụ thể trong những điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể. Nghĩa là:
Phải biết sự vật đã ra đời và đã tồn tại như thế nào, trong những điều kiện, hoàn
cảnh nào, bị chi phối bởi những quy luật nào;
Hiện giờ sự vật đang tồn tại như thế nào trong những điều kiện, hoàn cảnh ra
sao, do những quy luật nào chi phối;
Trên cơ sở đó, phải nắm bắt được sự vật có thể sẽ phải tồn tại như thế nào (trên
những nét cơ bản) trong tương lai.
*Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải xây dựng được những đối sách cụ thể,
áp dụng cho những sự vật cụ thể, đang tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh,
quan hệ cụ thể mà không nên áp dụng những khuôn mẫu chung chung cho bất cứ
sự vật nào, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ nào.
* Nguyên tắc lịch sử - cụ thể được V.I. Lênin cô đọng trong nhận định:
“Xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất
hiện trong lịch sử như thế nào, những hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn
phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xem xét
hiện nay nó đã trở thành thế nào”. Điều này có nghĩa là nguyên tắc lịch sử - cụ thể
đỏi hỏi phải phân tích sự vật cụ thể trong những tình hình cụ thể để thấy được:
Sự vật đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những chất, lượng nào; thể hiện qua
những độ nào; đang (đã hay sẽ) thực hiện những bước nhảy nào để tạo nên những
chất, lượng mới nào?...
Sự vật đang (đã hay sẽ) bị tác động bởi những mâu thuẫn nào; những mâu thuẫn
đó đang nằm ở giai đoạn nào, có vai trò như thế nào đến sự vận động, phát triển
của sự vật?...
Sự vật đang (đã hay sẽ) trải qua những lần phủ định biện chứng nào; cái cũ nào
đang (đã hay sẽ) phải mất đi, cái mới nào đang (đã hay sẽ) xuất hiện?..
Trong mối quan hệ với những sự vật khác, những điều gì được coi là những cái
riêng hay cái đơn nhất, điều gì là cái chung hay cái đặc thù / cái phổ biến; chúng
quy định nhau, chuyển hóa lẫn nhau như thế nào?
Bản chất của sự vật là gì, nó được thể hiện qua những hiện tượng nào; hiện
tượng nào chỉ là giả tượng, hiện tượng nào là điển hình ...
Nội dung của sự vật là gì, nó đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những hình
thức nào; hình thức nào phù hợp với nội dung của sự vật, hình thức nào không phù
hợp với nội dung, cái gì làm cho nội dung của sự vật biến đổi?..
Trong bản thân sự vật, hiện thực là gì; hiện thực đó đang (đã hay sẽ) nảy sinh ra
những khả năng nào; mỗi khả năng đó, trong những điều kiện cụ thể nào có độ tất
yếu hiện thực hóa ra sao?...
* Nguyên tắc lịch sử - cụ thể đòi hỏi chúng ta phải bao được các sự kiện xảy ra
trong nghiên cứu khoa học hay các biến cố xảy ra trong các tiến trình lịch sử nhân
loại.
Tuy nhiên, nó không cho phép chúng ta kết hợp các sự kiện khoa học như
những cái ngẫu nhiên thuần túy của tự nhiên hay mô tả các biến cố lịch sử như
những cái vụn vặt đơn lẻ của xã hội, mà nó đòi hỏi chúng ta phải tái hiện chúng,
mô tả chúng trên cơ sở vạch ra được cái tất yếu logic, cái chung (quy luật, bản
chất) của chúng, chỉ ra được những trật tự nhân quả quy định chúng.
Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được bức tranh khoa học về thế
giới, để qua đó chúng ta nhận thức được tính muôn vẻ của tự nhiên, tính phong phú
của lịch sử trong sự thống nhất.
* Nguyên tắc lịch sử - cụ thể đã được các lãnh tụ của giai cấp vô sản vận dụng:
Xuất phát từ tình hình cụ thể của chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn tiền độc quyền,
tự do cạnh tranh mà C. Mác cho rằng, cách mạng xã hội chủ nghĩa chỉ có thể thắng
lợi ở tất cả các nước tư bản chủ nghĩa tiên tiến.
Sang thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang giai đoạn độc quyền, đế quốc
chủ nghĩa. Khi vận dụng nguyên tắc này vào xem xét tình hình thế giới lúc này có
những thay đổi lớn mà V.I. Lênin đã đi đến kết luận đúng đắn là: cách mạng xã hội
chủ nghĩa chỉ có thể thắng lợi ở vài nước, ở khâu yếu nhất của chủ nghĩa tư bản.
Ý nghĩa của việc xác lập phương pháp luận biện chứng duy vật
đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn: Với bản chất khoa học cách mạng và phê
phán, phép biện chứng duy vật, như Mác và
Engen đã khẳng định: "không chịu khuất phục trước một cái gì cả”. Trên một ý
nghĩa nào đó, phép biện chứng duy vật không chỉ đối lập với phép biện chứng duy
tâm , mà nó còn là phương tiện chủ yếu để khắc phục, ngăn ngừa các khuynh
hướng tư duy dẫn đến nhận thức sai lầm các quy luật khách quan chi phối sự biến
đổi của đời sống xã hội. phát triển kinh tế - xã hội, và bản thân họ cũng trở nên bảo
thủ, lạc hậu và trì trệ bởi phương pháp hành động cũ kỹ. Hậu quả đó sẽ trở lên
nghiêm trọng hơn khi bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa đan kết chặt chẽ với bệnh chủ
quan duy ý chí.
Để khắc phục tình trạng này, đòi hỏi phải nắm vững phép biện chứng duy vật, phải
thấy được mối quan hệ qua lại và sự thống nhất biện chứng giữa kinh nghiệm và lý
luận. Phải bám sát thực tiễn, khái quát thực tiễn, khái quát lý luận, xây dựng được
chiến lược phát triển đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ lịch sử. Vê bệnh giáo
điều Bệnh giáo điều là trạng thái sai lầm trong quá trình tư duy của chủ thể ( tính
máy móc, rập khuôn, cứng nhắc, thiếu sáng tạo), mang lại hiệu quả xấu cho hoạt
động lý luận và hoạt động thực tiễn. Thực chất của bệnh giáo điều là sự tuyệt đối
hoá tri thức lý luận, tri thức khoa học, coi tri thức đã là chân lý tuyệt đối và vận
dụng một cách máy móc những tri thức đó vào hoạt động nhận thức cũng như hoạt
động cải tạo hiện thực mà không tính đến tính lịch sử - cụ thể của những hoạt động
đó.
Xét từ khía cạnh trình độ nhận thức thì bệnh giáo điều có nguồn gốc từ sự yếu kém
về tư duy lý luận, nhất là lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, do đó, dẫn đến
hạn chế khả năng áp dụng tri thức một cách linh hoạt, sáng tạo vào cuộc sống và
không hiểu được tính biện chứng của quá trình nhận thức cũng như biện chứng của
lịch sử xã hội. Trong thực tiễn, đôi khi bệnh giáo điều biểu hiện ở việc áp dụng cái
chung vào cái riêng một cách đơn giản, lấy cái phổ biến áp đặt cho cái riêng, cái
đặc thù, hoặc áp. dụng một lý thuyết, một mô hình chưa được kiểm nghiệm thực sự
bởi thực tiễn. Sai lấm đó chính là ở chỗ, như Lênin nói: "Nêu chỉ biết bắt chước,
không có tinh thần phê phán mà đem rập khuôn kinh nghiệm đó một cách mù
quáng vào những điều kiện khác, như thế là sai lầm nghiêm trọng".
Ở nước ta, ngay sau khi tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Chủ tịch
Hồ
Chí Minh đã căn dặn: "Không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình, trong khi
học tập kinh nghiệm của các nước anh em là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ
nghĩa giáo điều”. Lời căn dặn đó đến nay vẫn giữ nguyên giá trị trong việc học tập
kinh nghiệm phát triển kinh tế và quản lý kinh tế của các nước phát triển trên thế
giới.
Trước đây chúng ta đã nhận thức giáo điều mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô,
bởi coi đó là kiểu mẫu duy nhất mà không tính đến điều kiện đặc thù của Việt
Nam. Rất tiếc, khi phát hiện ra sai lầm, chúng ta đã chậm khắc phục, sửa chữa, nên
căn bệnh này vẫn còn tác động tiêu cực đến sự phát triển của đất nước . Để căn bản
khắc phục căn bệnh này theo tinh thần của phép biện chứng duy vật, chúng ta phải
triệt để phân tích mọi vấn đề trong tính lịch sử - cụ thể của nó. Từ đó mà tìm ra
những giải pháp phù hợp , tránh rập khuôn, máy móc, tránh tuyệt đối hoá các tri
thức đã có.
Những căn bệnh trên đây thường gắn bó chặt chẽ với nhau. Chúng là một trong
những nguyên nhân đưa nước ta vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng về kinh
tế, xã hội những năm 80. Với tinh thần cách mạng khoa học, Đảng và Nhà nước ta
đã tiến hành công cuộc đổi
mới toàn diện, trong đó đổi mới tư duy lý luận được xem là cơ sở. Từ đó đến nay,
chúng ta đã có những bước tiên quan trọng trong việc khắc phục các khuynh hướng
tư duy sai lẩm, vận dụng một cách khoa học tư duy biện chứng duy vật trong việc
giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Tuy nhiên, vốn là những bệnh đã tồn tại khá lâu dài và những cơ sở nảy sinh ra
chúng chưa hoàn toàn mất đi, nên chúng chưa hoàn toàn bị loại trừ. Ở mức độ nào
đó, những căn bệnh này vẫn còn ảnh hưởng tiêu cực đến công cuộc đổi mới của
chúng ta.
Việc ngăn ngừa, khắc phục các căn bệnh nói trên về thực chất phải là quá trình xoá
bỏ những nguồn gốc đã sinh ra chúng. Điều đó có nghĩa là phải xoá bỏ tình trạng
yếu kém về tư duy lý luận, phát triển tư duy lý luận lên trình độ cao. Muốn vậy,
trước hết phải nắm vững phương pháp luận biện chứng duy vật và thông qua đó,
không ngừng nâng cao trình độ lý luận, năng lực vận dụng lý luận vào thực tiễn.
Như vậy, nắm vững phép biện chứng duy vật sẽ giúp cho chủ thể vừa ngăn ngừa,
khắc phục những khuynh hướng tư duy sai lầm, vừa nâng cao năng lực tư duy, tạo
khả năng giải quyết đúng đắn những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
2. Vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật để
nâng cao năng lực tư duy cho sinh viên\
Thứ nhất: Trang bị tri thức đầy đủ về phương pháp luận biện chứng duy
vật. Cần tập trung nắm vững phương pháp luận được rút ra từ lý luận phép biện
chứng duy vật: quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ thể, quan điểm phát
triển, quan điểm thực tiễn; phương pháp luận được rút ra từ các cặp phạm trù, các
quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật… Trong quá trình giảng dạy cần so
sánh, phân tích lý luận, nêu vấn đề giải quyết, sau đó kết luận. Chẳng hạn: Vì sao
sự phát triển diễn ra theo đường “xoáy ốc” mà không theo đường thẳng hoặc theo
vòng tròn khép kín? Cần đưa ra những cứ liệu cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy
để chứng minh.
Thứ hai: Luyện tập các phương pháp biện chứng thông qua thực tiễn cách
mạng, trong cuộc sống đầy biến đổi không ngừng….
Ví dụ: Đảng ta đã vận dụng nguyên tắc khách quan trong thực tiễn lãnh đạo
cách mạng Việt Nam như thế nào?
Có thể chỉ ra sự vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật như thế nào
qua câu nói của Hồ Chí Minh: “… Nhận xét cán bộ không nên chỉ xét ngoài mặt,
chỉ xét một lúc, một việc, mà phải xét kỹ cả toàn bộ công việc của cán bộ”; “Có
kinh nghiệm mà không có lý luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”; hay tìm
những câu thơ, tục ngữ, ca dao, danh ngôn phản ánh tư tưởng triết học duy vật biện
chứng.
Cho một ví dụ trong thực tiễn để làm rõ sự vận động, phát triển của sự vật
chịu tác động đồng thời cả ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật…
Thứ ba: Định hướng có ý thức tự vận dụng phương pháp luận biện chứng
trong quá trình học tập, trong cuộc sống bản thân. Muốn nâng cao năng lực tư duy
sinh viên cần nắm vững, áp dụng triệt để phương pháp luận biện chứng duy vật
trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Ví dụ: Vận dụng quan điểm toàn
diện để phân tích một hiện tượng hóa học, vật lý…; Vận dụng quan điểm toàn
diện, quan điểm lịch sử - cụ thể trong quá trình học tập của bản thân. Trong quy
luật phủ định của phủ định có thể định hướng vận dụng tính kế thừa của phủ định
biện chứng trong cuộc sống, học tập; Hoặc bản thân cần kế thừa như thế nào về
truyền thống văn hóa dân tộc? Dựa vào phương pháp luận của cặp phạm trù
nguyên nhân và kết quả để rèn luyện đạo đức bản thân. Phải nhận thức được bất cứ
kết quả nào cũng có nguyên nhân của nó, từ đó có ý thức làm việc thiện, tránh việc
ác. Luyện tập biết vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật vào trong thực
tiễn, cuộc sống thông qua những vấn đề: Hãy vận dụng phương pháp luận rút ra từ
mối liên hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả vào lĩnh vực giáo dục và đào
tạo.
Thứ tư: Thường xuyên kiểm tra, đánh giá phương pháp biện chứng. Có thể
kiểm tra bài tập về nhà thông qua thảo luận nhóm, kiểm tra kiến thức bằng câu hỏi
ngắn, bài tập trắc nghiệm, hay giải thích một hiện tượng nào đó trong cuộc sống.
Ví dụ: Giải thích có hiện tượng học giỏi mà thi rớt đại học trên cơ sở lý luận phép
biện chứng duy vật? Hoặc, hãy dựa vào quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử –
cụ thể để phân tích nguyên nhân thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Tóm lại, để nâng cao năng lực tư duy của sinh viên thông qua rèn luyện
phương pháp biện chứng duy vật, cần xác định trọng tâm, nắm vững nội dung và
phương pháp dạy học, gắn kết chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, thường xuyên
kiểm tra dưới nhiều hình thức, định hướng vận dụng trong cuộc sống bản thân. Rèn
luyện phương pháp biện chứng duy vật cho sinh viên, sẽ góp phần quan trọng vào
việc xây dựng năng lực nhận thức biện chứng, nâng cao năng lực tư duy biện
chứng và giải quyết tốt các vấn đề cuộc sống, học tập, làm việc một cách khoa học
sau này.

You might also like