Professional Documents
Culture Documents
Tế Bào Gốc - Stem Cells
Tế Bào Gốc - Stem Cells
Mục tiêu:
1. Biết được các khái niệm về tế bào gốc
2. Phân loại được một số nhóm tế bào gốc
3. Biết được các nguồn tế bào gốc được thu nhận hiện nay
4. Biết được một số ứng dụng tế bào gốc trong y học
5. Hiểu được tầm quan trọng ứng dụng tế bào gốc trong y học và tiềm năng ứng dụng trong
tương lai
Đây là các tế bào được thu nhận từ khối tế bào bên trong của phôi đang làm tổ trong suốt giai
đoạn phôi nang. Chúng có khả năng biệt hóa thành hầu như tất cả các loại tế bào của cơ thể và
được xem như là các tế bào gốc vạn tiềm năng. Chúng cũng có khả năng tăng sinh với một trạng
thái chưa biệt hóa, nghĩa là có khả năng tự đổi mới. Ngoài các tế bào gốc được thu nhân có
nguồn gốc từ phôi nang còn có các dòng tế bào gốc khác cũng được thu nhận từ phôi, chúng
được gọi là các tế bào gốc mầm phôi hay tế bào mầm phôi thai (Embryonic Germ Cells – EGCs).
Đây là những tế bào được thu nhận từ mầm sinh dục của thai trong khoảng từ 5 đến 10 tuần tuổi
và đây là những tế bào mầm nguyên thủy sẽ phát triển thành trứng hoặc tinh trùng ở cơ thể
trưởng thành.
Mặc dù các TBG thường được sử dụng để sửa chữa các tế bào bị tổn thương trong cơ thể
trưởng thành nhưng có nhiều loại TBG được tìm thấy trong phôi giai đoạn sớm. Tương tự như
vậy, hiện tại có những bằng chứng mới cho thấy có nhiều lợi ích sau khi ghép TBG phôi người
có nguồn gốc từ tế bào thần kinh và tế bào mô cơ tim vào các mô hình động vật của bệnh
Parkinson và tổn thương cơ tim (Ben-Hur et al, 2004: Kofidis et al, 2006; Singh và Williams,
2008; Liu et al, 2008). Trong mô hình chuột thí nghhiệm, người ta sử dụng các mô có nguồn gốc
từ TBG phôi để điều trị các mô hình bệnh tiểu đường, bệnh parkinson (Frenck et al, 1998; Singh
và Williams, 2008; Serra et al, 2002), nhồi máu cơ tim (Rufer et al, 1999), chấn thương cột sống
(Reyes et al, 2001) và một số bệnh liên quan đến các rối loạn miễn dịch di truyền (Abdelkrim et
al, 2009).
Đã có nhiều thí nghiệm với TBG phôi chuột trong nhiều năm qua và đạt được nhiều kết quả
đáng khích lệ. Đối với việc biệt hóa TBG phôi thành hầu hết các loại tế bào quan tâm thì điều
này vẫn chưa thực sự khả thi, mặc dù trong một số quần thể tế bào (như tế bào tiền thân thần
kinh) có thể thường xuyên thu được từ việc nuôi cấy các TBG phôi, có thể nhân lên về số lượng
và biệt hóa thành các tế bào trưởng thành. Đối với các bệnh thoái hóa thần kinh, tốt hơn là ghép
tế bào thần kinh tiền thân hoặc tế bào thần kinh hoàn toàn trưởng thành. Ngược lại, gần đây có
một số nghiên cứu cho rằng ngay cả khi ở trạng thái chưa biệt hóa các TBG phôi người biểu hiện
mức thấp của kháng nguyên HLA lớp I sau đó tăng lên khi tế bào dần trưởng thành (Martin et al,
2005; Bajada et al, 2008). TBG phôi là những TBG đa tiềm năng có thể phát triển thành tất cả
các loại tế bào có nguồn gốc từ 3 lớp mầm phôi. Do đặc tính này, các TBG phôi có tiềm năng vô
cùng lớn cho liệu pháp ghép tế bào đặc hiệu cho từng người bệnh.
1.2. Tế bào gốc đa năng cảm ứng (Induced Pluripotent Stem Cells – iPS Cells)
Các tế bào iPS là kết quả của sự chuyển đổi từ một tế bào trưởng thành (tế bào sinh dưỡng)
thông qua quá trình tái lập trình thành tế bào gốc đa năng. Mặc dù có tính đa tiềm năng, nhưng
các tế bào này không được xem xét như các tế bào gốc phôi mặc dù chúng có tiềm năng giống
nhau. Việc tái lập trình ban đầu được thực hiện bằng việc chuyển nạp với retrovirus. Hiện tại có
nhiều nỗ lực trong quá trình thực hiện tái lập trình mà không cần dùng vector chuyển là
retrovirus do các nghi ngờ có hại từ phương pháp này mang lại.
1.3. Tế bào gốc trưởng thành (Adult Stem Cells – ASCs)
Quần thể tế bào gốc trưởng thành đã được tìm thấy trong nhiều loại mô của cơ thể trưởng
thành. Chúng được cho là rất quan trọng đối với cơ chế sửa chữa nội tại với nhiều loại mô và cơ
quan của cơ thể. Nói chung, đây là các tế bào gốc khá đặc biệt. Một trong những loại tế bào gốc
trưởng thành được sử dụng khá phổ biến hiện tại đó là tế bào gốc trung mô (Mesenchymal Stem
Cells). Đây là loại tế bào gốc trưởng thành có mặt ở nhiều loại mô khác nhau trong cơ thể mà
phổ biến nhất là trong chất nền của tủy xương hay trong mô mỡ. Trong thực tế, việc ghép tủy
xương có thể được xem là trường hợp ứng dụng liệu pháp tế bào sớm nhất. Trong nuôi cấy in
vitro các ASC có thể biệt hóa thành nhiều loại tế bào khác nhau. Do đó các tế bào gốc này cũng
được xem có tính đa năng nhưng không phải là đa tiềm năng hay vạn tiềm năng. Các tế bào này
cũng có khả năng tự đổi mới như ESCs, có thể biệt hóa thành nhiều loại tế bào khác nhau.
Như vậy, còn rất nhiều việc cần phải làm để hiểu rõ được đặc điểm của các loại tế bào gốc
khác nhau và các yếu tố liên quan trong quá trình biệt hóa thành một loại tế bào khác của các tế
bào gốc. Điều này cho thấy các phân tử hòa tan, các tương tác giữa tế bào – tế bào và tế bào với
môi trường ngoại bào (vi môi trường) nơi mà các tế bào gốc hoạt động tác động lên rất nhiều đến
các hoạt động của tế bào gốc, giúp chúng tăng sinh, biệt hóa hay duy trì trạng thái không biệt hóa
của mình trong thời gian dài để hoạt động trở lại sau đó.
Quần thể TBG trưởng thành đã được miêu tả rất chi tiết trong tủy xương ở chuột và người,
nơi chúng luôn biệt hóa để thay thế các tế bào máu ngoại vi bị mất đi. Từ các nghiên cứu về hệ
thống tạo máu đã xác định một quần thể TBG có khả năng tự đổi mới và tạo ra nhiều loại tế bào
của các dòng tế bào khác nhau mà ngày nay được biết đến như là các TBG tạo máu. Khả năng
của các TBG tạo máu bên trong tủy xương phát triển thành tất cả các thành phần tế bào của máu
đã được khai thác rộng rãi trong lâm sàng để ghép tủy xương và ghép tế bào gốc tạo máu. Một số
báo cáo gần đây cho thấy các TBG này có thể biệt hóa thành các tế bào khác với loại mô mà
TBG được thu nhận (chuyển biệt hóa). Ngoài các TBG tạo máu ra, hiện tại các loại TBG trưởng
thành có thể được tìm thấy trong nhiều loại mô khác nhau. Như trong hai loại mô cơ và mô thần
cũng là nguồn cung cấp TBG trưởng thành (Jackson et al, 1999; Galli et al, 2000; Ma et al,
2008), trong khi đó tủy xương được xem như là nhà máy sản xuất ra các tế bào tiền thân của mô
cơ (Ferrari et al, 1998). Ngoài ra, chất nền tủy xương có chứa các TBG trung mô (Liechty et al,
2000; Abdelkrim et al, 2009) cũng có thể phát triển thành tế bào bào thần kinh và thần kinh đệm
(Mezey et al, 2000; Woodbury et al, 2000; Ma et al, 2008) cũng như biệt hóa thành nhiều loại tế
bào khác, thậm chí là chúng có khả năng chuyển biệt hóa (khả năng biệt hóa thành các loại tế
bào khác với nguồn gốc lá mầm phôi). Thật vậy, khả năng phát triển thành nhiều dòng tế bào
khác nhau của các TBG trung mô và TBG tạo máu bên trong tủy xương là đối tượng được
nghiên cứu rất nhiều và thảo luận rất sôi nổi (Liechty et al, 2000; Weissman, 2000; Gardner,
2007; Gorden, 2008; Bajada et al, 2008).
4. Tế bào gốc từ tế bào phôi chuyển gien: Tế bào trứng được loại bỏ nhân và sau đó được
chuyển nhân của một tế bào trưởng thành đã biệt hóa bất kỳ. Tế bào trứng được chuyển
nhân sẽ phân chia và phát triển như một trứng đã được thụ tinh. Các tế bào gốc phôi
chuyển gien là các tế bào toàn năng, giống hệt như tế bào gốc phôi được tạo ra do thụ
tinh. Đây là cách mà các nhà khoa học tạo ra tế bào phôi song tránh được sự trở ngại của
vấn đề đạo đức. kỹ thuật này tạo ra một bước đột phá trong việc tạo tế bào gốc phôi toàn
năng. Tuy nhiên, do trở ngại về kỹ thuật làm cho nghiên cứu này có nhiều hạn chế [35].
∗
( ) Trần Công Toại, Phan Kim Ngọc. Nghiên cứu ứng dụng tế bào vùng rìa giác mạc và bước đầu biệt
hóa tế bào gốc máu cuống rốn người. Đề tài nghiên cứu Sở Khoa học Công nghệ TP.HCM. 2007– 2009
Dựa trên các giai đoạn phát triển từ trứng thụ tinh cho đến giai đoạn phát triển thành các
thể hoàn chỉnh mà có thể thu nhận tế bào gốc.
Tùy thuộc vào nguồn thu nhận mà chúng ta có thể đạt được nguồn tế bào gốc phôi hoặc tế
bào gốc người trưởng thành và từ nguồn gốc tế bào này mà có thể nuôi cấy, biệt hóa tạo những
dòng tế bào và hoặc mô tương ứng.
Do thời lượng có hạn xin giới thiệu một loại tế bào gốc dễ thu nhận và hiện có nhiều tính
năng ưu việt đó là tế bào gốc máu cuống rốn người.
Từ thập niên 70 của thế kỷ trước, máu cuống rốn người bắt được được lưu ý vì mang một
số đặc tính tiềm năng, nguồn cung cấp tế bào gốc dồi dào với số lượng không nhỏ nếu biết tận
dụng. Vì vậy, máu cuống rốn dược xem như nguồn tế bào gốc dự trữ tối ưu.
Nguồn gốc tế bào máu cuống rốn
Sự hình thành tế bào máu xuất phát từ trung bì phôi thai. Những tế bào non sơ khai của
dòng hồng cầu và những tế bào tạo máu mang CD34+ được tìm thấy đầu tiên ở túi nõan hòang
sau 18,5 ngày thụ tinh. Những tế bào tiềm năng của hai dạng lympho và dạng tủy được tìm thấy
ở vùng động mạch chủ-tuyến sinh dục-trung thận vào ngày 24-34 sau thụ tinh. Màng nội mạch
có khả năng tạo máu nằm ở mặt lưng động mạch chủ cũng có nguồn gốc động mạch chủ-tuyến
sinh dục-trung thận. Có mối liên quan chặt chẽ giữa tạo máu và tạo mạch, vì chúng cùng được
tạo ra từ 1 loại tế bào gốc. Những tế bào gốc di chuyển khắp cơ thể theo dòng máu do đó những
tế bào tạo máu từ túi nõan hòang hay vùng động mạch chủ-tuyến sinh dục-trung thận đến gan.
Vào tuần thứ 7 của sự phát triển phôi, gan là cơ quan chính của sự tạo máu của thai, sau đó các tế
bào gốc từ gan sẽ di chuyển vào tủy xương thành cơ quan tạo máu vào tháng 4-5 của thai. Từ
tháng thứ 6, tủy xương là cơ quan đảm nhận tạo máu chính thức mặc dù sự tạo máu vẫn còn ở
gan và lách đến sau sanh 1 tuần.
Cấu trúc và sự phát triển của cuống rốn, máu cuống rốn
Cuống rốn tạo sự liên kết giữa mẹ và thai nhi. Cuống rốn cấu tạo gồm một tĩnh mạch rốn
và 2 động mạch rốn được bao quanh bởi lớp thạch mô nhầy Wharton và bên ngòai là màng ối. Ở
mặt cắt ngang cuống rốn, cho thấy 3 vùng phân biệt giữa tế bào đệm và chất nền gồm: lớp dưới
màng ối, lớp thạch Wharton lớp áo giữa và lớp ngoại mạc bao quanh các mạch máu.
Vùng mô nhầy Wharton dồi dào với các phân tử của chất nền đệm như collagen loại I,
III, VI, lamina, heparin sulfate proteoglycan. Mô nhầy được bao quanh bởi các tế bào đệm, là
những tế bào mảnh mai có hình dạng như sợi cơ. Những sợi cơ này gồm vimentin và actin
giống desmin. Vào giai đoạn đầu cuống rốn chỉ được cấu tạo vimentin và desmin. Cấu trúc và
thành phần của máu cuống rốn là mô đệm có tính đàn hồi cao giúp bảo vệ mạch máu khỏi áp
lực và dễ dàng cho sự trao đổi chất giữa máu cuống rốn và dịch ối.
Cuống rốn có nguồn gốc từ lớp trung bì ngòai phôi. Sau giai đoạn phôi nang, khối tế
bào bên trong sẽ tạo thành thượng bì phôi. Các tế bào thượng bì phôi sẽ đi qua đường nguyên
thủy tạo nên trung bì. Trung bì ngoài phôi sẽ tăng sau vài giai đoạn tạo phôi tạo thành trung bì lá
nuôi, trung bì ối và cuống phôi. Chính vì vậy lớp trung bì ngoài phôi cấu tạo nên màng đệm,
màng ối, túi noãn hoàng và cả cuống rốn.
Phân loại tế bào máu cuông rốn
Tế bào gốc tạo máu
Các marker bề mặt tế bào được sử dụng để xác định dạng tế bào và giai đoạn phát
triển. Kháng nguyên CD34 là glycoprotein biểu hiện dạng tế bào gốc tạo máu và tế bào
đầu dòng khác âm tính đối với kháng nguyên CD34. Trong máu cuống rốn trưởng thành,
tế bào CD34 chiếm 1% số tế bào có nhân tương tự như trong tủy xương. Tuy nhiên, đối
với tuổi thai nhỏ số lượng tế bào CD34 lên tới 11% sau đó số lượng tế bào giảm dần khi
tuổi thai tăng. Marker CD34 không thể phân biệt giữa tế bào gốc và tế bào đầu dòng, do
đó phải sử dụng kết hợp nhiều marker khác nhau. Tế bào gốc tạo máu trong máu cuống
rốn: tế bào hình thành dòng bạch cầu hạt và đại thực bào, tế bào đầu dòng hồng cầu, tế
bào đầu dòng tiểu cầu.
Tế bào trung mô
Có thể biệt hóa thành: xương, sụn, gân, mỡ, mô liên kết hỗ trợ cho tế bào gốc tạo
máu biệt hóa. Phân lập tế bào trung mô chính dựa vào những tế bào bám trên chai nuôi và
phát triển trong điều kiện đặc biệt hoặc sử dụng các marker tương ứng.
Tế bào gốc sinh dưỡng không giới hạn:
Gần đây Kogler và cộng sự đã xác định một số ít tế bào gốc mà tính CD45 và
HLA lớp II trong máu cuống rốn, tế bào này không biệt hóa trong điều kiện bình thường
nhưng trong những điều kiện đặc biệt nó tăng sinh rất mạnh có thể biệt hóa thành những
dòng tế bào của ngoại bì, trung bì và nội bì.
Tế bào gốc giống tế bào gốc phôi trong máu cuống rốn
Theo báo cáo của McGuckin và cộng sự trong số những tế bào bám của máu
cuống rốn, có một số tế bào gốc phôi và các phản ứng miễn dịch cũng cho thấy giống tế
bào gốc phôi. Những tế bào này có thể biệt hóa thành tế bào thần kinh, gan, tụy, xương,
mỡ, mạch máu.
Tế bào đầu dòng đa tiềm năng từ máu cuống rốn
Có những đặc điểm khác với tế bào gốc tạo máu và tế bào trung mô. Sau khi cấy
3-4 tuần, những tế bào này tạo thành lớp đơn, hình dạng đồng nhất giống nguyên bào sợi.
Những tế bào này có khả năng biệt hóa thành tạo cốt bào, tế bào nội mô, gan và thần
kinh. Tế bào biệt hóa thành tế bào thần kinh có marker tyrosin hydroxylase,
acetylcholinesterase và glutamate decarboxylase.
Số lượng các loại tế bào đầu dòng trong 1ml máu cuống rốn
8000 tế bào hồng cầu đầu dòng
13000-24000 tế bào đầu dòng tủy
1000-10000 tế bào đa năng
Trong các loại tế bào gốc trưởng thành, tế bào gốc tạo máu được nghiên cứu ứng
dụng nhiều nhất. Tế bào gốc tạo máu đã được nghiên cứu từ những thập niên 60. Từ sự
phát triển này dẫn đến ghép tế bào máu cuống rốn đã được ứng dụng trong điều trị các
bệnh máu ác tính tại các nước trên thế giới cũng như tại Việt Nam.
Đặc điểm sinh học của tế bào gốc từ máu cuống rốn
Trong các nghiên cứu cho thấy thời gian sống và tăng sinh trung bình khoảng 3
tháng
So với tế bào gốc từ tủy xương, tế bào gốc từ máu cuống rốn có khả năng tăng
sinh mạnh hơn 8 lần, số lượng tế bào CD34 + hơn 4 lần, có chiều dài gen telomerase dài
hơn. Do tế bào gốc trong máu cuống rốn chưa trưởng thành nên phản ứng miễn dịch đối
với sự thải ghép giảm.
Máu cuống rốn có thể bảo quản lạnh trữ trong nhiều năm mà không mất khả năng
sống
Ứng dụng của tế bào MCR
Tế bào máu cuống rốn là nguồn tế bào đa tiềm năng trong sửa chữa và tái tạo mô
Máu cuống rốn đã được báo cáo là nguồn tế bào gốc tạo máu, tế bào nội mô đầu dòng, tế
bào trung mô và nhiều dòng tế bào khác. Những dòng tế bào đa tiềm năng này có khả năng biệt
hóa thành những tế bào của nhiều loại mô. Trên thế giới mỗi năm có hơn 100 triệu trẻ ra đời,
máu cuống rốn là nguồn tế bào lớn trong điều trị. Một điều thuận lợi rất lớn là tế bào máu cuống
rốn phát triển rất mạnh và chưa tiếp xúc với các yếu tồ miễn dịch.
Bốn lĩnh vực ứng dụng mạnh tế bào trung mô trong máu cuống rốn là: ghép tại chỗ, ghép
toàn thân, kết hợp điều trị tế bào gốc với liệu pháp gien và sử dụng trong công nghệ mô.
• Ghép tại chỗ: tiêm tại chỗ tế bào trung mô tự thân ở những bệnh nhân khiếm
khuyết xương lớn cho thấy lành chỗ khuyết xương. Các báo cáo khác được thực hiện với khiếm
khuyết sụn, bệnh động mạch vành và các vết thương da mạn tính. Tế bào được tiêm đã dung nạp
rất tốt và các kết quả đạt được khá ngoạn mục. Tuy nhiên, các kết quả này nên được củng cố
bằng các thử nghiệm lâm sàng với số lượng bệnh nhân thích hợp.
• Ghép toàn thân: đã có một số thử nghiệm sử dụng tế bào trung mô đồng loại ghép
trên trẻ em bị bệnh tạo xương bất toàn nhưng hiện tại kết quả vẫn chưa rõ ràng.
• Kết hợp tế bào gốc và liệu pháp gien: sự biến đổi gien của tế bào gốc là mục tiêu
hấp dẫn trong liệu pháp gien vì khả năng tăng sinh mạnh mẽ và thời gian sống dài hơn so với tế
bào sinh dưỡng. Tế bào trung mô có thể biểu hiện các protein ngoại sinh có thể duy trì khả năng
này nên ứng dụng điều trị theo phương pháp này khả thi.
• Công nghệ mô: cung cấp các giải pháp thay thế để có được các mô và cơ quan cần
cho việc ghép vì các cơ quan của người hiến rất hạn chế và bị thải ghép. Công nghệ mô cho phép
nhận được tế bào của chính bệnh nhân, nuôi chúng trên giá ghép để hình thành những mô đặc
biệt và những mô này có thể sửa chữa mô khiếm khuyết do bệnh hoặc do chấn thương. Tế bào
trung mô là loại tế bào tốt để sử dụng trong công nghệ mô vì chúng có thể được nuôi cấy in vitro
có khả năng tăng sinh và biệt hóa rất tốt. Một vài loại giá thể hiện tại đang được sử dụng từ vật
liệu sinh học hoặc có nguồn gốc polymer được phân lập từ chất nền ngoại bào, collagen loại I
hoặc fibronectin…. Đã có vài thử nghiệm được thực hiện trên động vật và ứng dụng trên người
sẽ được thực hiện trong một tương lai rất gần.
Ưu điểm của nguồn tế bào gốc máu cuống rốn
Tế bào gốc có thể được phân lập từ phôi, mô thai, dịch ối, máu cuống rốn và từ nguồn
mô trưởng thành. Tế bào gốc từ mô trưởng thành có ở nhiều cơ quan trong cơ thể như: mắt, não,
mô mỡ, mầm răng, gan, tụy, da, tủy xương, ống tiêu hóa.
Hiện nay, các nhà khoa học tập trung mối quan tâm sang tế bào gốc từ máu cuống rốn,
trong đó có tế bào gốc trung mô từ máu cuống rốn do các đặc điểm sau:
Không vi phạm y đức và tín ngưỡng tôn giáo về việc sử dụng nguồn tế bào
này, không gây ảnh hưởng đến mẹ và con trong quá trình thu nhận máu cuống
rốn.
Nguồn cung cấp máu cuống rốn là vô tận.
Máu cuống rốn dễ thu nhận, có thể lưu trữ lâu dài và sẵn sàng sử dụng nhanh
chóng khi cần.
Ít gây phản ứng thải ghép khi cấy ghép
Các tế bào từ cơ thể mới sinh thường ít mang các mầm bệnh
Máu cuống rốn là chất liệu tốt nhất để chuyển gen lành tính cho bệnh nhân
mắc các bệnh lí di truyền
Tiềm năng tăng sinh và biệt hóa của tế bào gốc máu cuống rốn cao hơn tủy
xương và máu ngoại vi
Các phương pháp thu nhận máu cuống rốn
Máu cuống rốn có thể thu thập trong tử cung trước khi xổ nhau hoặc ngoài tử cung sau
khi xổ nhau sau sanh thường hoặc sanh mổ. Thu thập trong tử cung thường được thực hiện bởi
bác sĩ sản khoa hoặc nữ hộ sinh. Cho đến nay chưa có báo cáo về những bất lợi trầm trọng trong
cả 2 phương pháp trên vì không ảnh hưởng đến sinh lý của quá trình xổ nhau tự nhiên. Một số
nghiên cứu đã thực hiện việc thu thập máu cuống rốn bằng cả 2 phương pháp trên và họ thấy
rằng không có sự khác biệt về thể tích máu thu được, số lượng tế bào CD34+ cũng như số lượng
tế bào có nhân. Tuy nhiên một nghiên cứu khác lại thấy rằng khi thu thập máu cuống rốn trong
tử cung sẽ thu được thể tích máu và số lượng tế bào nhiều hơn đối với sanh thường và mổ lấy
thai
Phương pháp tách tế bào có nhân từ máu cuống rốn
Ly tâm theo sự khác biệt tỉ trọng với Ficoll
Lúc đầu khi li tâm máu cuống rốn sử dụng li tâm theo nồng độ, người ta thấy rằng đã
làm mất đáng kể tế bào có nhân và tế bào đầu dòng trong máu cuống rốn. Sau đó người ta tìm ra
Ficoll và nhận thấy rằng thu được lượng tế bào có nhân nhiều hơn và tốn ít thời gian hơn. Ficoll
được cho vào ống li tâm sau đó cho máu lên trên, tiến hành quay li tâm. Hồng cầu và bạch cầu
hạt sẽ lắng ở đáy của ống li tâm, lớp tế bào có nhân thu được nằm giữa lớp Ficoll và huyết thanh.
Máu có chất chống đông đặt trên Ficoll, quay li tâm, sự di chuyển khác nhau trong quá trình li
tâm, tạo nên các lớp tế bào chứa các loại tế bào khác nhau.
Gelatin
Máu cuống rốn và Gelatin 3% trộn với tỉ lệ 1:1 trong ống li tâm, hồng cầu lắng xuống
đáy. Khi hematocrit của dịch nổi trong ống li tâm đạt 5-7,5% (sử dụng COBE spectra biểu đồ
màu tế bào bạch cầu), hút 5-7 ml dịch nổi cho vào ống li tâm 50ml và cho vào thể tích gelatin
3% bằng thể tích máu cuống rốn. Chờ lắng xuống hút dich nổi, lập lại 4 lần. Dịch thu được cuối
cùng pha loãng tỉ lệ 1:1 với Hanks’ balanced salt solution chứa 10U heparin, 24U Dnase/ml và
kháng sinh sau đó li tâm thu cặn lắng tế bào. Tế bào thu được rửa lại 3 lần, tỉ lệ tế bào sống thu
được từ 94-100%.
Ly giải hồng cầu
Phương pháp này sử dụng dung dịch đệm có tính phá hủy màng hồng cầu nhằm thu
nhận những tế bào máu còn lại. Để chuẩn bị dung dịch ly giải hồng cầu, các hóa chất cần chuẩn
bị gồm ammonium chloride 89,9g, KHCO3 10g, EDTA 0,37g.
Hiện tại phương pháp này vẫn còn ít được áp dụng trong các công trình nghiên cứu về
tế bào do phương pháp này thu được cả hỗn hợp tế bào máu trừ hồng cầu, không thể thu nhận
từng loại tế bào máu mà ta mong muốn. Ưu điểm của dung dịch ly giải hồng cầu là giá thành hóa
chất rẻ so với các hóa chất dùng trong các phương pháp khác.
Hydroxyethyl starch (HES)
Sử dụng HES 6% gây hủy hồng cầu bằng cách trộn HES máu với tỉ lệ 1:5. Sau đó quay
li tâm 50 vòng trong 5 phút ở 10 0C. Huyết tương giàu tế bào lympho và ít hồng cầu được loại bỏ
sau đó tiếp tục li tâm 6000 vòng trong 15 phút ở 100C, hút bỏ dịch nổi. Thu thập tế bào có nhân
còn lại.
Đếm dòng chảy tế bào dưới kính hiển vi quang học
Máy đếm dòng chảy tế bào có thể nhận dạng các loại tế bào khác nhau qua tia tán xạ
hay ánh sáng huỳnh quang chúng phát ra khi chảy qua 1 chùm tia laser như vậy máy này cũng có
thể chọn ra các tế bào chuyên biệt trong 1 hỗn hợp.
1 Trần Văn Bé. Nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật xử lí và trữ tế bào gốc máu cuống rốn. Đề tài cấp
bộ, Bộ Y tế Việt Nam. 2000: 29-33, 34-41.
2 Trần Văn Bé. Nghiên cứu hoàn thiện kỹ thuật chiết tách tế bào gốc tạo máu từ máu cuống rốn
để điều trị bệnh lí về máu. Đề tài cấp sở, Sở khoa học công nghệ TPHồ Chí Minh. 2004: 11-14.
3 Nguyễn Trí Dũng. Sinh học phân tử tế bào. 2008; 1: 274-276.
4 Nguyễn Trí Dũng. Phôi thai học người. 2005: 5-7.
5 Ngô Quang Hưng, Nguyễn Hoàng Viễn Thanh. Nghiên cứu phân lập tế bào gốc máu cuống rốn
ứng dụng trong nuôi cấy biệt hóa. Luận văn tốt nghiệp bác sĩ y khoa. 2007.
6 Huỳnh Nghĩa. Nghiên cứu ứng dụng quy trình xử lí tế bào gốc máu cuống rốn. Luận án tiến sĩ
Y học. 2007.
7 Phan Kim Ngọc, Phạm Văn Phúc. Công nghệ sinh học người và động vật. Nhà xuất bản giáo
dục. 2006.
8 Nguyễn Thị Thùy, Thái Thi Mai Duyên. Khảo sát thể tích máu cuống rốn. Y học Việt Nam.
1998; 221: 1-6.
9 Phan Việt Xuân. Thu nhận và nuôi cấy tế bào máu cuống rốn trên màng ối người. Khóa luận
cử nhân khoa học-Chuyên ngành sinh học. 2007: 43-44.
10 Erices A, Conget P, Minguell JJ. Mesenchymal progenitor cells in human umbilical cord
blood. Br J Haematol. 2000; 109: 235-242.
11 J. A. Allay, J. E. Dennis, S. E. Haynesworth, M. K. Majumdar D. LacZ and interleukin-3
expression in vivo after retroviral transduction of
marrow-derived human osteogenic mesenchymal progenitors. Human Gene Therapy 1997; 8:
1417-1427.
12 B Assmus, V. Schachinger, C. Teupe, RLehmann M. Britten, N. Transplantation of
progenitor cells and regeneration enhancement in acute myocardial infarction. Circulation 2002;
106: 3009-3017.
13 E. V Badiavas, V. Falanga: T. Arch. Treatment of chronic wounds with bone marrow-derived
cells. Dermatol. 2003; 139: 510-516.
14 Strauer BE, Bremh M. Repair of infracted myocardium by autologous intracoronary
mononuclear bone marrow cell transplantation in human. Circulation. 2002; 106: 1913-1918.
15 Vacanti CA, Vacanti JP. Bone and cartilage reconstruction with tissue engineering
approaches. Otolaryngol Clin North Am. 1994; 27: 263-276.
16 Damien CJ, Parsons JR. Bone graft and bone graft substitutes: a review of current technology
and applications. J Appl Biomater. 1991; 2: 187-208.
17 Orlic D. Adult bone marrow stem cells regenerate myocardium in ischemic heart disease. Ann
N Y Acad Sci. 2003; 996.
18 MD Daniel V. Surbek, Eva Visca. Umbilical cord blood collection before placental delivery
during cesarean delivery increases cord blood volume and nucleated cell number available for
transplantation. Am J Obstet Gynecol. 2000; 183: 218-222.
19 D. R Diduch, L. C. Jordan, C. M. Mierisch & G. Balian. Marrow stromal cells embedded in
alginate for repair of osteochondral defects. Arthroscopy. 2000; 16: 571-577.
20 Robert A. Dracker. Cord blood stem cell: How to get them and what to do with them. Journal
of Hematotherapy. 1996; 5: 145-148.
21 Denhardt DT, Mistretta D, Chambers AF. Transcriptional regulation of osteopontin and the
metastatic phenotype: evidence for a Ras-activated enhancer in the human OPN promoter. Clin
Exp Metastasis. 2003; 20 77-84.
22 Gluckman E, Broxmeyer HA, Auerbach AD et al. Hematopoietic reconstitution in a patient
with Fanconi's anemia by means of umbilical-cord blood from an HLA-identical sibling. N Engl
J Med 1989; 321: 1174-1178.
23 Alejandro Erices, Paulette Conget, Josea, J. Minguell. Mesenchymal progenitor cells in
human umbilical cord blood. British Journal of Haematology , . 2000; 109: 235-242.
24 R.Ian Freshney. Culture human stemcell. 2007: 159-186.
25 Feng Gao, De-Quan Wu, Yan-Hua Hu, Guang-Xin Jin. In vitro cultivation of islet-like cell
clusters from human umbilical cord blood-derived mesenchymal stem cells. Translational
Research. 2008.
26 Atmani H, Chappard D, Basle MF. Proliferation and differentiation of osteoblasts and
adipocytes in rat bone marrow stromal cell cultures: effects of dexamethasone and calcitriol. J
Cell Biochem. 2003; 2:364e72.
27 Jorg Handschel, Karin Berr. Induction of osteogenic markers in differentially treated cultures
of embryonic stem cells. Head & Face Medicine , :. 2008; 4.
28 E. M Horwitz, P. L. Gordon, W. K. K. Koo, M. D J. C. Marx. Isolated allogeneic
bone marrow-derived mesenchymal cells engraft and stimulate
growth in children with osteogenesis imperfecta. Implications for
cell therapy of bone Proc Nat Acad Sci U S A. 2002; 99: 8932-8937.
29 Binderman I, Fin N. Bone substitutesorganic, inorganic, and polymeric: Cell material
interactions. CRC Handbook of Bioactive Ceramics. 1990: 45-51.
30 Xin-Qin Kang, Wei-Jin Zang, Li-Jun Bao. Differentiating characterization of human
umbilical cord blood-derived mesenchymal stem cells in vitro. Cell Biology International 2006;
30: 569-575.
31 Langmans. Medical embryology. 2005: 101-103.
32 Lasky LC, Lane T, et al. Miller J. In utero or ex utero cord blood collection: which is better?
Transfusion. 2002; 42: 1261-1267.
33 Meng Liu, Zhong Chao Han. Mesenchymal stem cells: Biology and clinical potential in Type
1 Diabetes Review ArticleTherapy
Review ArticlReview ArticleReview Article. 2007.
34 Korbling M, Estrov Z. Adult stem cells for tissue repairda new therapeutic
concept? . N Engl J Med. 2003; 349: 570-582
35 Xiao M, Dooley DC. Assessment of cell viability and apoptosis in human umblical cord
blood following storage. J Hematother Stem cell Res. 2003; 12: 115-120.
36 F. Mancinelli, A. Tamburini, A. Spagnoli, C. Malerba, G. Suppo. Optimizing Umbilical Cord
Blood Collection: Impact of Obstetric Factors Versus Quality of Cord Blood Units
Transplantation Proceedings. 2006; 38: 1174-1176.
37 Daniel R. Marshak, Richard L. Gardner. Stem cell biology. 2001: 37-60.
38 Hector Mayani. Biology of human umblical cord blood-derived hematopoietic
stem/progenitor cell.
Stem cell. 1998; 16: 153-165.
39 Zongning Miao, Jun Jin, Lei Chen. Isolation of mesenchymal stem cells from human
placenta: Comparison with human bone marrow mesenchymal stem cells. Cell Biology
International (2006) 2006; 30: 681-687.
40 Ghen MJ, Roshan R, Roshan RO, Blyweiss DJ, Corso N, et al Khalili B. Potential clinical
applications using stem cells derived from human umbilical cord blood. Reprod Biomed Online.
2006; 13: 72.
41 Kubler NR, Wurzler KK, Reuther JF. Effect of different factors on the bone forming
properties of recombinant BMPs. Mund Kiefer Gesichtschir. 2000; 2: 9.
42 Lau A Oh IH, Eaves CJ. During ontogeny primitive (CD34(þ)CD38
(-)) hematopoietic cells show altered expression of a subset of genes
associated with early cytokine and differentiation responses of their
adult counterparts. Blood. 2000; 96: 4160-4168.
43 R. Quarto, M. Mastrogiacomo, R. Cancedda, V. S. M. Kutepov, Mukhachev, A. Lavroukov,
E. Kon & M. Marcacci. Repair of
large bone defects with the use of autologous bone marrow
stromal cells. New Engl J Med. 2001; 344: 385-386.
44 K. Quillen, E.M. Berkman. Methods of isolation and cryopreservation of stem cell from cord
blood. Journal of Hematotherapy. 1996; 5: 153-155.
45 Ian Freshney. R. Culture of animal cell. 2005: 123, 335-357.
46 Song S, Kamath S, Mosquera D, Zigova T, Sanberg P, Vesely DL et al. Expression of brain
natriuretic peptide by human bone marrow stromal cells. Exp Neurol. 2004.
47 GE Healthcare Bio - Science. Ficoll - Paque Plus. 2006.
48 Yang SE, Ha CW, Jung M. Mesenchymal stem progenitor cells developed in cultures from
UC blood. Cytotherapy. 2004; 6: 76-86.
49 Victoria Shalhoub, Fauzia Aslam, Ellen Breen, Andre van Wijnen. Multiple Levels of Steroid
Hormone-Dependent Control of Osteocalcin During Osteoblast Differentiation: Glucocorticoid
Regulation of Basal and Vitamin D Stimulated Gene Expression. Journal of Cellular
Biochemistry. 1998; 69: 154-168.
50 Stephen Sullivan, Chad A. Cowan. Human Embryonic Stem Cells. Willey. 2007: 249-272.
51 Yamata T, Okamoto Y, Kasamatsu H, Horie Y. Factor affecting the volume of umblical cord
blood collection. Acta Obster Gynecol Scand. 2000; 79: 830-833.
52 Anna Teti. Bone CellCulture: Osteoblasts, Osteoclastsand Osteocytes. Training course. 2004.
53 Chen TL, Shen WJ, Kraemer FB. Human BMP-7/OP-1 induces the growth and differentiation
of adipocytes and osteoblasts in bone arrow stromal cell cultures. J Cell Biochem. 2001; 2.
54 Carmella van de Ven. The potential of umbilical cord blood multipotent stem cell for
nonhematopoietic tissue and cell generation. Experimental hematology. 2007; 35 1753-1765.
55 Wolfgang Wagnera, Frederik Weina, Anja Seckingera. Comparative characteristics of
mesenchymal stem cells from human bone marrow, adipose tissue, and umbilical cord blood.
Experimental Hematology. 2005; 33: 1402-1416.
56 F.R. Witter, J. Ten Broeck, H.E. Fox. A new device for safer collection of postpartum cord
blood. International Journal of Gynecology & Obstetrics. 2001.; 70: 259-260.
57 Ai-Xia Zhang, Wei-Hua Yu, E Bao-Feng Ma. Proteomic identification of differently
expressed proteins responsible for osteoblast differentiation from human mesenchymal stem
cells. Mol Cell Biochem. 2007; 304: 167-179.
58 Yong Zhao, Honglan Wang, Theodore Mazzone. Identification of stem cells from human
umbilical cord blood with embryonic and hematopoietic characteristics. Experimental
cellresearch 2006; 312: 2454 # 2464.
59 E.A. de Wynter, N.G. Testa. Interest of cord blood stem cells. Biomed Pharmacother. 2001;
55: 195-200.
TẾ BÀO GỐC VÀ NHỮNG ỨNG DỤNG TRONG Y HỌC TÁI TẠO
Mục tiêu
1. Hiểu được khái niệm về tế bào gốc
2. Biết được một số ứng dụng của tế bào gốc trong y học tái tạo
3. Hiểu được tầm quan trọng tế bào gốc trong y học tái tạo
4. Dựa vào kiến thức đạt được có thể phát triển các ý tưởng nghiên cứu tế bào gốc trong y
học tái tạo
MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển kỹ thuật công nghệ của thế kỷ 21, việc sử dụng các phương pháp điều
trị dựa trên công nghệ mô để điều trị một số bệnh và/hoặc các loại tổn thương đã biến những
giấc mơ tưởng sẽ không bao giờ xảy ra có thể trở thành hiện thực trong một tương lai gần. Mặc
dù vậy, vẫn còn nhiều điều cần phải làm, vẫn còn nhiều thứ để nghiên cứu, tuy nhiên, rõ ràng là
có những tiến bộ rất lớn đã đạt trong hai thập kỷ qua.
Y học tái tạo là một lĩnh vực đang nổi và phát triển nhanh chóng với các nghiên cứu và
hướng ứng dụng dùng để tái tạo, duy trì và cải thiện chức năng cơ thể (Polak et al, 2008). Daar
và Greenwood (2007) chỉ ra mục đích chính của y học tái tạo là nhằm "sửa chữa, thay thế hoặc
tái tạo các tế bào, mô hoặc bộ phận cơ thể để phục hồi lại chức năng bị mất đi, giúp hỗ trợ cơ thể
hình thành mô chức năng mới để thay thế mô bị mất hoặc bị lỗi. Cuối cùng, y học tái tạo sẽ tạo
ra các phương pháp điều trị mới cho các trường hợp bệnh lý hoặc các tổn thương mà không thể
xử lý bằng các kỹ thuật hay phương pháp điều trị hiện tại. Liệu pháp tế bào và công nghệ mô là
một phần của y học tái tạo, với mục đích là cung cấp các phương pháp điều trị an toàn, hiệu quả
và phù hợp với cơ thể người bệnh. Cơ thể con người có một hệ thống tái tạo và sửa chữa nội tại
thông qua các tế bào gốc, các loại TBG này có thể được tìm thấy ở hầu hết các loại mô trong cơ
thể. Quá trình này được phát triển thông qua sự tiến hóa và cũng rất là hợp lý khi cho rằng sự
phục hồi chức năng của các tế bào, mô hay cơ quan được thực hiện thông qua các tế bào gốc này.
Vì vậy, các tế bào gốc mang một tương lai đầy triển vọng cho y học tái tạo trong tương lai
(NRC, 2002).
1. CÁC LOẠI TẾ BÀO GỐC ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG Y HỌC TÁI TẠO
Trong những năm đầu 1900, các nhà nghiên cứu châu Âu nhận ra rằng có các loại tế bào
máu khác nhau - tế bào bạch cầu, hồng cầu và tiểu cầu - tất cả các loại tế bào máu này đều đến từ
một tế bào đặc biệt gọi là "tế bào gốc". Tế bào gốc đã được nghiên cứu đầu tiên bởi Becker và
cộng sự (1963), người đã tiêm tế bào tủy xương vào những con chuột bị chiếu xạ và nhận thấy
rằng các cụm tế bào phát triển trong lách của những con chuột nhận có nguồn gốc từ tế bào tủy
xương đã tiêm. Họ kết luận rằng các cụm này này xuất phát từ một tế bào tủy duy nhất. Sau đó,
họ đã tìm thấy bằng chứng cho thấy các tế bào này có khả năng tự đổi mới không giới hạn - một
điểm đặc trưng rất riêng của tế bào gốc. Do đó, các tế bào gốc theo định nghĩa có hai thuộc tính
cần thiết, đó là khả năng tự đổi mới và khả năng biệt hóa thành các dòng tế bào khác nhau. Trong
các điều kiện cụ thể hoặc các kích thích phù hợp, các tế bào gốc có thể tăng sinh và biệt hóa
thành nhiều loại tế bào khác nhau trong cơ thể sinh vật. Việc xác định dòng tế bào gốc được giải
thích bởi một số ý tưởng khác nhau, một trong số này tập trung vào các loại vi môi trường nơi
chứa các tế bào gốc hoặc các ổ tế bào gốc (stem cell niche). Một ổ tế bào gốc bao gồm các phân
tử tín hiệu, thông tin liên lạc nội bào và sự tương tác giữa các tế bào gốc và môi trường ngoại
bào bao xung quanh chúng. Vi môi trường ba chiều này được cho là ảnh hưởng hoặc kiểm soát
gien và xác định “tính gốc” của các tế bào gốc, tức là khả năng tự làm mới hoặc biệt hóa thành
nhiều dòng tế bào khác nhau. Một lý thuyết thú vị đưa ra là các tế bào gốc có thể là các tế bào
biệt hóa cuối cùng với khả năng biểu hiện các dạng tế bào khác nhau phụ thuộc vào vi môi
trường nơi tế bào gốc cư ngụ. Tế bào gốc trưởng thành được cấy vào một “niche” hoàn toàn khác
có khả năng biệt hóa thành các loại tế bào tương tự như tìm thấy trong niche mới. Tiềm năng của
các tế bào gốc và tính mềm dẻo là đặc tính vô giá cho y học tái tạo (Singh và Williams, 2008).
Đối tượng thừa hưởng thành quả của y học tái tạo bao gồm dân số ngày càng già đi, người bị
chấn thương thể thao và các tai nạn chiến tranh ... Các tiến bộ công nghệ đạt được trong thập kỷ
qua với các phương pháp chuyển gien và kỹ thuật hình ảnh cũng như sự gia tăng kiến thức gần
đây của chúng ta về sinh học tế bào, đã mở ra những chân trời mới trong lĩnh vực y học tái tạo.
Như đã đề cập ở trên, kể từ khi các báo cáo đầu tiên vào cuối những năm 1990 đã có một
sự đột phá về các hoạt động nghiên cứu về tế bào gốc và dẫn đến sự tăng tốc về các hoạt động
nghiên cứu.
2. ỨNG DỤNG TẾ BÀO GỐC TRONG ĐIỀU TRỊ MỘT SỐ BỆNH PHỔ BIẾN
2.1. Liệu pháp tế bào gốc trong điều trị các rối loạn thần kinh
Hệ thống thần kinh trung ương trưởng thành (Central Nervous System-CNS) có khả năng
sửa chữa giới hạn, do đó có nhiều phương pháp sử dụng công nghệ mô để tái tạo các tế bào thần
kinh bị tổn thương. Tế bào gốc sẽ cung cấp một nguồn vô tận của các tế bào thần kinh và thần
kinh đệm cho các liệu pháp nhằm thay thế cho các tế bào hoặc cơ chế bảo vệ tế bào thần kinh
trong các rối loạn làm ảnh hưởng đến não và tủy sống. Ứng dụng rõ ràng nhất và thông dụng
nhất của tế bào gốc để điều trị cho các rối loạn hệ thống thần kinh là thông qua liệu pháp thay thế
tế bào. Khả năng sử dụng tế bào gốc như là một nguồn gốc cung cấp cho các tế bào thần kinh
dung để ghép thay thế và tái tạo lại cho các tế bào trong trường hợp bệnh Parkinson, teo cơ xơ
cứng bên (Amyotrophic Lateral Sclerosis-ALS ), bệnh Huntington hoặc bệnh Alzheimer là một
điều thật thú vị (Baizabal et al, 2003; Singh và Williams, 2008; Ma và et al, 2008; Sheyn và et al,
2010). Vawda và cộng sự (2007) xem xét các nguồn cung cấp tế bào tiềm năng dùng để thay thế,
bao gồm tế bào gốc phôi, tế bào gốc thần kinh của thai nhi và trẻ sơ sinh và một loạt các tế bào
gốc trung mô. Họ cũng xem xét những nghiên cứu đã được công bố để chứng minh cho phương
pháp điều trị bằng tế bào gốc để đánh giá cho liệu pháp này và phân tích về những khó khăn mà
cần phải được khắc phục để đạt được lợi ích của liệu pháp này. Nhìn chung, họ kết luận rằng trẻ
em bị chấn thương não hoặc rối loạn di truyền di truyền ảnh hưởng đến não là những bệnh nhân
phù hợp để sử dụng liệu pháp tế bào gốc. Bệnh thoái hóa thần kinh có điểm đặc trưng bởi sự mất
đi dần và không thể đảo ngược trở lại các quá trình hoạt động sinh lý bình thường của tế bào thần
kinh trong nhiều năm, cuối cùng dẫn đến mắc bệnh và tử vong với tỉ lệ đáng kể (Steiner et al,
2006). Hai loại rối loạn thoái hóa thần kinh liên quan đến tuổi phổ biến nhất là Parkinson và
bệnh Alzheimer.
3. CÁC KHÍA CẠNH NGHIÊN CỨU TIẾP THEO TRONG LƯƠNG LAI
Nếu thực sự các tế bào gốc có thể được sử dụng như một phương pháp điều trị hoặc một
liệu pháp hỗ trợ trong y học tái tạo, thì cần phải có các phương tiện để mang các nghiên cứu từ
bàn giấy để chuyển thành các nghiên cứu phục vụ cho các ứng dụng lâm sàng. Có một số khía
cạnh đặc biệt cần quan tâm khi tiến hành ứng dụng các nghiên cứu về tế bào gốc trong y học:
• Các nguồn cung ứng và phân lập tế bào gốc lấy từ đâu, từ nguồn nội sinh hay ngoại sinh?
• Tế bào gốc sử dụng là tế bào gốc chưa biệt hóa, tế bào tiền thân hay tế bào sinh dưỡng đã biệt
hóa hoàn toàn?. Việc theo dõi các biến đổi về mặt hình thái các tế bào gốc khi biệt hóa chúng
như thế nào?
• Phương pháp gia tăng số lượng tế bào gốc từ nguồn thu nhận ban đầu.
• Kiểm soát các con đường biệt hóa của tế bào gốc.
• Các phương pháp để đánh giá sự ổn định về mặt di truyền.
• Kiểm soát về mặt thời gian trong các quá trình nuôi cấy.
• Sẽ thực hiện việc ghép tế bào tự thân, đồng loại hay từ nguồn dị loại?
• Có phải có sự khác biệt liên quan đến tuổi tác, giới tính người bệnh hay tình trạng bệnh lý của
người bệnh ?
Tất cả điều này cần phải được thực hiện với sự kiểm soát chất lượng theo các quy định
hiện hành. Có thể dẫn đến sự ra đời của một cơ sở sản xuất tế bào gốc tự động. Điều này có
nghĩa là chúng ta nghiên cứu tế bào gốc bằng các nghiên cứu thực nghiệm chứ không phải thực
hiện trên bàn giấy nữa. Nếu chúng ta muốn biến ước mơ về tất cả sự hiểu biết của chúng ta về tế
bào gốc để áp dụng vào điều trị cho các bệnh nhân thì đó là những câu hỏi cơ bản cần chúng ta
phải trả lời để có thể thực hành và ứng dụng tế bào gốc tốt trong sự kết hợp với công nghệ.
4. KẾT LUẬN
Công nghệ mô bao gồm việc thay thế, sửa chữa và tái tạo một phần hay toàn bộ một mô
hay cơ quan của cơ thể đem lại hy vọng trong tương lai sẽ phát triển thêm các liệu pháp và
phương pháp điều trị mới hiệu quả cho người bệnh. Điều này sẽ đặc biệt quan trọng đối với các
bệnh nhân hay các loại bệnh mà hiện tại chưa có phương pháp điều trị hiệu quả. Một vấn đề quan
trọng là nguồn tế bào và cùng với sự đa dạng của các loại tế bào gốc có sẵn có khả năng trả lời
cho các câu hỏi này. Tuy nhiên, đối với từng loại tế bào gốc, có những vấn đề cần được giải
quyết. Ngoài ra, vượt ra ngoài khoa học cơ bản cũng sẽ cần phải được nghiên cứu nhằm tìm hiểu
làm thế nào để tối ưu hóa việc xử lý các tế bào gốc. Chỉ với sự kết hợp của nghiên cứu về cơ bản
và thực nghiệm tế bào gốc mới có thể đem lại các ứng dụng trong tương lai và phương pháp điều
trị mới cho bệnh nhân.
1. Abdelkrim, H., Juan, D.B., Jane, W., Mohamed, A., Bernat, S. (2009). The immune
boundaries for stem cell based therapies: problems and prospective solutions. J. Cell.
Mol. Med., 13, 1464–1475.
2. Alvarez-Dolado, M., Pardal, R., Garcia-Verdugo, J.M., et al. (2003). Fusion of bone
marrow- derived cells with Purkinje neurons, cardiomyocytes and hepatocytes. Nature,
425, 968–973.
3. Aoudjhane, M., Labopin, M., Gorin, N.C., et al. (2005). Comparative outcome of reduced
intensity and myeloablative conditioning regimen in HLA identical sibling allogeneic
haematopoietic stem cell transplantation for patients older than 50 years of age with acute
myeloblastic leukaemia: A retrospective survey from the Acute Leukemia Working Party
(ALWP) of the European group for Blood and Marrow Transplantation (EBMT).
Leukemia, 19, 2304 –2312.
4. Assady, S., Maor, G., Amit, M., Itskovitz-Eldor, J., Skorecki, K.L., Tzukerman, M.
(2005). Insulin production by human embryonic stem cells. Diabetes, 50, 1691–1697.
5. Baizabal, J.M., Magaril, M.F., Jesu, S.O., Covarrubias, L. (2003). Neural Stem Cells in
Development and Regenerative Medicine. Archives of Medical Research, 34, 572–588.
6. Bajada, S., Mazakova, I., Richardson, J.B., Ashammakhi, N. (2008). Updates on stem
cells and their applications in regenerative medicine. J. Tissue Eng. Regen. Med., 2, 169–
183.
7. Benchaouir, R., Meregalli, M., Farini, A., D’Antona, G. (2007).Restoration of human
dystrophin following transplantation of exon-skipping-engineered DMD patient stem
cells into dystrophic mice. CellStem Cell, 1(6), 646–657.
8. Ben-Hur, T., Idelson, M., Khaner, H., Pera, M., et al. (2004). Transplantation of human
embryonic stem cell derived neural progenitors improves behavioural deficit in
Parkinsonian rats. Stem Cells, 22, 1246–1255.
9. Blyszczuk, P., Asbrand, C., Rozzo, A., Kania, G., et al. (2004). Embryonic stem cells
differentiate into insulin-producing cells without selection of nestin-expressing cells. Int.
J. Dev. Biol., 48, 1095–1104.
10. Cohen, Y, Nagler, A. (2004). Umbilical cord blood transplantation—how, when and for
whom? Blood Rev., 18, 167–179.
11. De Clercq, E. (2005). Potential clinical applications of the CXCR4 antagonist bicyclam
AMD3100. Mini Rev. Med. Chem., 5, 805– 824.
12. De Mos, M., Jahr, H., Weinans, H., Verhaar, J., Van Osch, G. (2006). A possible role for
tendon cell differentiation in the development of tendinosis. In: Transactions of the 52nd
Annual Meeting of the Orthopedic Research Society; Chicago, IL. den Brok, M.H.,
Nierkens, S., Figdor,
13. C.G., et al. (2005). Dendritic cells: Tools and targets for antitumor vaccination. Expert
Rev. Vaccines., 4, 699 –710.
14. Deschaseaux, F., Pontikoglou, C., Luc, S. (2010). Bone regeneration: the stem/progenitor
cells point of view. J. Cell. Mol. Med., 14, 103-115.
15. Fabien, L.G., Rudnicki, M.A. (2007). Skeletal muscle satellite cells and adult
myogenesis. Current Opinion in Cell Biology, 19, 628–633.
16. Ferrari, G., Cusella-De, A.G., Coletta, M., Paolucci, E., Stornaiuolo, A., Cossu, G.,
Mavilio, F. (1998). Muscle regeneration by bone marrow-derived myogenic progenitors.
Science, 279, 1528–1530.
17. Frenck, R.W.Jr., Blackburn, E.H., Shannon, K.M. (1998). The rate of telomere sequence
loss
18. in human leukocytes varies with age. Proc. Natl. Acad. Sci. USA., 95, 5607-5610.
19. Fujita, H., Shimizu, K., Nagamori, E. (2009). Application of a cell sheet-polymer film
complex with temperature sensitivity for increased mechanical strength and cell
alignment capability. Biotechnol. Bioeng., 103(2), 370–377.
20. Galli, R., Borello, U., Gritti, A., Minasi, M.G., Bjornson, C., Coletta, M., et al. (2000).
Skeletal
21. myogenic potential of human and mouse neural stem cells. Nat. Neurosci., 3, 986-91.
22. Gardner, R.L. (2007). Stem cells and regenerative medicine: principles, prospects and
problems. C. R. Biol., 330(6-7), 465-473.
23. Gordon, M.Y. (2008). Stem cells for regenerative medicine Biological attributes and
clinical application. Experimental Hematology, 36, 726–732
24. Hess, D., Li, L., Martin, M., et al. (2003). Bone marrow-derived stem cells initiate
pancreatic regeneration. Nat. Biotechnol, 21, 763–770.
25. Hope, K.J., Jin, L., Dick, J.E. (2004). Acute myeloid leukemia originates from a
hierarchy of leukemic stem cell classes that differ inself-renewal capacity. Nat. Immun.,
5, 738–743.
26. Hori, Y., Rulifson, I.C., Tsai, B.C., et al. (2002). Growth inhibitors promote
differentiation of insulin-producing tissue from embryonic stem cells. Proc, Natl, Acad,
Sci, USA., 99,16105–16110.
27. Ianus, A., Holz, G.G., Theise, N.D., et al. (2003). In vivo derivation of glucose competent
pancreatic endocrine cells from bone marrow without evidence of cell fusion. J. Clin.
Invest. 111, 843–850.
28. Jackson, K.A., Mi, T., Goodell, M.A. (1999). Hematopoietic potential of stem cells
isolated from murine skeletal muscle. Proc. Natl. Acad. Sci. USA., 96, 14482–14486.
29. Jarvinen, T.A., Järvinen, T.L., Kääriäinen, M., et al. (2007). Muscle injuries: optimising
recovery. Best Pract. Res. Clin. Rheumatol., 21(2), 317–331.
30. Jukes, J.M., van Blitterswijk, C.A., Boer, J. (2010). Skeletal tissue engineering using
embryonic stem cells. J. Tissue. Eng. Regen. Med., 4, 165–180.
31. Knoepfler, P.S. (2009). Deconstructing StemCell Tumorigenicity: A Roadmap to Safe
Regenerative Medicine. Stem Cells, 27, 1050–1056.
32. Kofidis, T., Lebl, D.R., Swignenburg, R.J., Greeve, J.M., et al. (2006).
Allopurinol/uricase and
33. ibuprofen enhance engraftment of cardiomyocyte-enriched human embryonic stem cells
and improve cardiac function following myocardial injury. Eur. J. Cardio-thoracic
Surgery, 29, 50–55.
34. Krause, D.S., Theise, N.D., Collector, M.I., et al. (2001). Multi-organ, multi-lineage
engraftment by a single bone marrow-derived stem cell. Cell, 105, 369–377.
35. Lee, E.H., Hui, J.H.P. (2006). The potential of stem cells in orthopaedic surgery. J. Bone
Jt. Surg., 88(7), 841–853.
36. Leon-Quinto, T., Jones, J., Skoudy, A., Burcin, M., Soria, B. (2004). In vitro directed
differentiation of mouse embryonic stem cells into insulin-producing cells. Diabetologia,
47, 1442–1451.
37. Liechty, K.W., MacKenzie, T.C., Shaaban,A.F., Radu, A., et al. (2000). Human
mesenchymal stem cells engraft and demonstrate site-specific differentiation after in
utero transplantation in sheep. Nat. Med., 6, 1282–1286.
38. Liu, Y.H., Ravi, K., Wu, S.M. (2008). Cardiovascular stem cells in regenerative
medicine: ready for prime time? Drug Discovery Today: Therapeutic Strategies, 5(4),
201.
39. Lumelsky, N., Blondel, O., Laeng, P., et al (2001). Differentiation of embryonic stem
cells to insulin-secreting structures similar to pancreatic islets. Science, 292, 1389–1394.
40. Ma, M., Sha, C., Zhou, Z., Zhou, Q., Li, Q. (2008). Generation of patient-specific
pluripotent stem cells and directed differentiation ofembryonic stem cells for regenerative
medicine. Journal of Nanjing Medical University, 22(3), 135-142.
41. Mezey, E., Chandross, K.J., Harta, G., Maki, R.A., McKercher, S.R. (2000). Turning
blood into brain: cells bearing neuronal antigens generated in vivo from bone marrow.
Science, 290, 1779–1782.
42. Mfopou, J.K., De Groote, V., Xu, X., Heimberg,H., Bouwens, L. (2007). Sonic hedgehog
and other soluble factors from differentiating embryoid bodies inhibit pancreas
development. Stem Cells, 25, 1156–1165.
43. Olguin, H.C., Olwin, B.B. (2004). Pax-7 up-regulation inhibits myogenesis and cell cycle
progression in satellite cells: A potential mechanism for self-renewal. Dev. Biol., 275,
375– 388.
44. Perillo, A., Bonanno, G., Pierelli, L., et al. (2004). Stem cells in gynecology and
obstetrics. Panminerva Med., 46, 49 –59.
45. Petersen, B.E., Bowen, W.C., Patrene, K.D., et al. (1999). Bone marrow as a potential
source of hepatic oval cells. Science, 284, 1168–1170.
46. Phatak, P., Cookson, J.C., Dai, F., Smith, V., et al. (2007). Telomere uncapping by the
Gquadruplex ligand RHPS4 inhibits clonogenic tumour cell growth in vitro and in vivo
consistent with a cancer stem cell targeting mechanism. British Journal of Cancer, 96,
1223–1233.
47. Rajagopal, J., Anderson, W.J., Kume, S., Martinez, O.I., Melton, D.A. (2003). Insulin
staining of ES cell progeny from insulin uptake. Science, 299: 363.
48. Reyes, M., Lund, T., Lenvik, T., Aguiar, D., Koodie, L., Verfaillie, C.M. (2001).
Purification and ex vivo expansion of postnatal human marrow mesodermal progenitor
cells. Blood, 98, 2615-2625.
49. Rowlands, A.S., Hudson, J.E., Cooper-White, J.J. (2007). From scrawny to brawny: the
quest for neomusculogenesis; smart surfaces and scaffolds for muscle tissue engineering.
Expert Rev. Med. Devices., 4 (5), 709–728.
50. Rufer, N., Brummendorf, T.H., Kolvraa, S., et al. (1999). Telomere fluorescence
measurements in granulocytes and T lymphocyte subsets point to a high turnover of
hematopoietic stem cells and memory T cells in early childhood. J. Exp. Med., 190, 157-
167.
51. Segev, H., Fishman, B., Ziskind, A. et al. (2004). Differentiation of human embryonic
stem cells into insulin-producing clusters. Stem Cells, 22, 265– 274.
52. Sengupta, A., Banerjee, D., Chandra, S., Banerji, S.K., Ghosh, R., Roy, R., et al. (2007).
Deregulation and cross talk among Sonic hedgehog, Wnt, Hox and Notch signaling in
chronic myeloid leukemia progression. Leukemia, 21, 949–955.
53. Serra, V., von Zglinicki, T. (2002). Human fibroblasts in vitro senesce with a donor-
specific telomere length. FEBS Lett., 516, 71-74.
54. Sheyn, D., Mizrahi, O., Benjamin, S., Gazit, Z., Palled, G., Gazit, D. (2010). Genetically
modified cells in regenerative medicine and tissue engineering. Adv. Drug Deliv. Rev.,
doi:10.1016/j.addr.2010.01.002.
55. Shihuan, K., Kazuki, K., Fabien Le, G., Michael,A.R. (2007). Asymmetric self-renewal
and commitment of satellite stem cells in muscle. Cell, 129, 999–1010.
56. Shiroi, A., Yoshikawa, M., Yokota, H., Fukui, H., Ishizaka, S., et al. (2002).
Identification of insulin-producing cells derived from embryonic stem cells by zinc-
chelating dithizone. Stem Cells, 20, 284–292.
57. Singh, P., Williams, D.J. (2008). Cell therapies: realizing the potential of this new
dimension to medical therapeutics. J. Tissue Eng. Regen. Med., 2, 307–319.
58. Soria, B, Roche, E., Berna, G., Leon-Quinto,T., Reig, J.A., Martin, F. (2000). Insulin-
secreting cells derived from embryonic stem cells normalize glycemia in streptozotocin-
induced diabetic mice. Diabetes, 49, 157–162.
59. Steiner, A.F., Karl, N., Pilapil, C., Noth, U., Evans, C.H., Murray, M.M. (2006).
Multilineage mesenchymal differentiation potential of cellsmigrating out of the anterior
cruciate ligament. In: Transactions of the 52nd AnnualMeeting of the Orthopaedic
Research Society; Chicago, IL. Paper #1133.
60. Stephane C. Boutet, Marie-He´le`ne Disatnik, Lauren S. Chan, Kevin Iori, and Thomas
A. Rando (2007). Regulation of Pax3 by proteasomal degradation of monoubiquitinated
protein in skeletal muscle progenitors. Cell, 130, 349–362.
61. Terada, N., Hamazaki, T., Oka, M., et al. (2002). Bone marrow cells adopt the phenotype
of other cells by spontaneous cell fusion. Nature, 416, 542–545.
62. Weissman, I.L. (2000). Stem cells: Units of development, units of regeneration, and units
in evolution. Cell, 100, 157–168.
63. Woodbury, D., Schwarz, E.J., Prockop, D.J., Black, I.B. (2000). Adult rat and human
bone marrow stromal cells differentiate into neurons. J. Neurosci. Res., 61, 364–370.
64. Zammit, P.S., Golding, J.P., Nagata, Y., Hudon, V., Partridge, T.A., Beauchamp, J.R.
(2004). Muscle satellite cells adopt divergent fates: A mechanism for self-renewal? J.
Cell Biol., 166, 347–357.