Professional Documents
Culture Documents
Dao Manh 06 12 C12
Dao Manh 06 12 C12
Hình 1.1 Sơ đồ tóm lược quá trình phát triển của mạng thông tin di động từ 1G đến 4G
1.2. Lịch sử phát triển của hệ thống thông tin di động:
1.2.1. Mạng di động 1G
Là mạng thông tin di động không dây cơ bản đầu tiên trên thế giới. Nó là hệ thống
giao tiếp thông tin qua kết nối tín hiệu analog được giới thiệu lần đầu tiên vào những năm
đầu thập niên 80s. Nó sử dụng các ăng-ten thu phát sóng gắn ngoài, kết nối theo tín hiệu
analog tới các trạm thu phát sóng và nhận tín hiệu xử lý thoại thông qua các module gắn
trong máy di động. Chính vì thế mà các thế hệ máy di động đầu tiên trên thế giới có kích
thước khá to và cồng kềnh do tích hợp cùng lúc 2 module thu tín hiện và phát tín hiệu
như trên. Tiêu biểu cho thế hệ mạng di động 1G là các thiết bị thu phát tin hiệu analog to
và khá kềnh càng.
Mặc dù là thế hệ mạng di động đầu tiên với tần số chỉ từ 150MHz nhưng mạng 1G
cũng phân ra khá nhiều chuẩn kết nối theo từng phân vùng riêng trên thế giới: NMT
(Nordic Mobile Telephone) là chuẩn dành cho các nước Bắc Âu và Nga; AMPS
(Advanced Mobile Phone System) tại Hoa Kỳ; TACS (Total Access Communications
System) tại Anh; JTAGS tại Nhật; C-Netz tại Tây Đức; Radiocom 2000 tại Pháp; RTMI
tại Ý.
1.2.2. Mạng di động 2G
Là thế hệ kết nối thông tin di động mang tính cải cách cũng như khác hoàn toàn so
với thế hệ đầu tiên. Nó sử dụng các tín hiệu kỹ thuật số thay cho tín hiệu analog của thế
hệ 1G và được áp dụng lần đầu tiên tại Phần Lan bởi Radiolinja (hiện là nhà cung cấp
mạng con của tập đoàn Elisa Oyj) trong năm 1991. Mạng 2G mang tới cho người sử dụng
di động 3 lợi ích tiến bộ trong suốt một thời gian dài: mã hoá dữ liệu theo dạng kỹ thuật
số, phạm vi kết nối rộng hơn 1G và đặc biệt là sự xuất hiện của tin nhắn dạng văn bản
đơn giản – SMS. Theo đó, các tin hiệu thoại khi được thu nhận sẽ đuợc mã hoá thành tín
hiệu kỹ thuật số dưới nhiều dạng mã hiệu (codecs), cho phép nhiều gói mã thoại được lưu
chuyển trên cùng một băng thông, tiết kiệm thời gian và chi phí. Song song đó, tín hiệu
kỹ thuật số truyền nhận trong thế hệ 2G tạo ra nguồn năng lượng sóng nhẹ hơn và sử
dụng các chip thu phát nhỏ hơn, tiết kiệm diện tích bên trong thiết bị hơn…
Mạng 2G chia làm 2 nhánh chính: nền TDMA (Time Division Multiple Access)
và nền CDMA cùng nhiều dạng kết nối mạng tuỳ theo yêu cầu sử dụng từ thiết bị cũng
như hạ tầng từng phân vùng quốc gia:
GSM (TDMA-based), khơi nguồn áp dụng tại Phần Lan và sau đó trở thành chuẩn
phổ biến trên toàn 6 Châu lục. Và hiện nay vẫn đang được sử dụng bởi hơn 80%
nhà cung cấp mạng di động toàn cầu.
CDMA2000 – tần số 450 MHZ cũng là nền tảng di động tương tự GSM nói trên
nhưng nó lại dựa trên nền CDMA và hiện cũng đang được cung cấp bởi 60 nhà
mạng GSM trên toàn thế giới.
IS-95 hay còn gọi là cdmaOne, (nền tảng CDMA) được sử dụng rộng rãi tại Hoa
Kỳ và một số nước Châu Á và chiếm gần 17% các mạng toàn cầu. Tuy nhiên, tính
đến thời điểm này thì có khoảng 12 nhà mạng đang chuyển dịch dần từ chuẩn
mạng này sang GSM (tương tự như HT Mobile tại Việt Nam vừa qua) tại: Mexico,
Ấn Độ, Úc và Hàn Quốc.
PDC (nền tảng TDMA) tại Japan
iDEN (nền tảng TDMA) sử dụng bởi Nextel tại Hoa Kỳ và Telus Mobility tại
Canada.
IS-136 hay còn gọi là D-AMPS, (nền tảng TDMA) là chuẩn kết nối phổ biến nhất
tính đến thời điểm này và đưọ7c cung cấp hầu hết tại cá c nước trên thế giới cũng
như Hoa Kỳ.
MS1 – BTS1 –BSC1 – MSC1/MGW1 –MSC2/MGW2 – BSC2 –BTS2 – MS2
Hình 1.3 Sơ đồ hệ thống mạng 2G
1.2.3. Mạng di động 3G
Là thế hệ truyền thông di động thứ ba, tiên tiến hơn hẳn các thế hệ trước đó. Nó
cho phép người dùng di động truyền tải cả dữ liệu thoại và dữ liệu ngoài thoại (tải dữ
liệu, gửi email, tin nhắn nhanh, hình ảnh, âm thanh, video clips...
Với 3G, di động đã có thể truyền tải dữ liệu trực tuyến, online, chat, xem tivi theo kênh
riêng...
Trong số các dịch vụ của 3G, điện thoại video thường được miêu tả như là lá cờ
đầu. Giá tần số cho công nghệ 3G rất đắt tại nhiều nước, nơi mà các cuộc bán đầu giá tần
số mang lại hàng tỷ Euro cho các chính phủ. Bởi vì chi phí cho bản quyền về các tần số
phải trang trải trong nhiều năm trước khi các thu nhập từ mạng 3G đem lại, nên một khối
lượng vốn đầu tư khổng lồ là cần thiết để xây dựng mạng 3G. Nhiều nhà cung cấp dịch
vụ viễn thông đã rơi vào khó khăn về tài chính và điều này đã làm chậm trễ việc triển
khai mạng 3G tại nhiều nước ngoại trừ Nhật Bản và Hàn Quốc, nơi yêu cầu về bản quyền
tần số được bỏ qua do phát triển hạ tâng cơ sở IT quốc gia được đặt lên làm vấn đề ưu
tiên nhất. Và cũng chính Nhật Bản là nước đầu tiên đưa 3G vào khai thác thương mại một
cách rộng rãi, tiên phong bởi nhà mạng NTT DoCoMo. Tính đến năm 2005, khoảng 40%
các thuê bao tại Nhật Bản là thuê bao 3G, và mạng 2G đang dần dần đi vào lãng quên
trong tiềm thức công nghệ tại Nhật Bản.
Công nghệ 3G cũng được nhắc đến như là một chuẩn IMT-2000 của Tổ chức Viễn
thông Thế giới (ITU). Ban đầu 3G được dự kiến là một chuẩn thống nhất trên thế giới,
nhưng trên thực tế, thế giới 3G đã bị chia thành 4 phần riêng biệt:
UMTS (W-CDMA): UMTS (Universal Mobile Telecommunication System), dựa
trên công nghệ truy cập vô tuyến W-CDMA, là giải pháp nói chung thích hợp với
các nhà khai thác dịch vụ di động (Mobile network operator) sử dung GSM, tập
trung chủ yếu ở châu Âu và một phần châu Á (trong đó có Việt Nam). UMTS
được tiêu chuẩn hóa bởi tổ chức 3GPP, cũng là tổ chức chịu trách nhiệm định
nghĩa chuẩn cho GSM, GPRS và EDGE.
FOMA, thực hiện bởi công ty viễn thông NTT DoCoMo Nhật Bản năm 2001,
được coi như là một dịch vụ thương mại 3G đầu tiên. Tuy là dựa trên công nghệ
W-CDMA, nhưng công nghệ này vẫn không tương thích với UMTS (mặc dù có
các bước tiếp hiện thời để thay đổi lại tình thế này).
CDMA 2000: Là thế hệ kế tiếp của các chuẩn 2G CDMA và IS-95. Các đề xuất
của CDMA2000 được đưa ra bàn thảo và áp dụng bên ngoài khuôn khổ GSM tại
Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc. CDMA2000 được quản lý bởi 3GPP2 – một tổ chức
độc lập với 3GPP. Và đã có nhiều công nghệ truyền thông khác nhau được sử
dụng trong CDMA2000 bao gồm 1xRTT, CDMA2000-1xEV-DO và 1xEV-DV.
CDMA 2000 cung cấp tốc độ dữ liêu từ 144 kbit/s tới trên 3 Mbit/s. Chuẩn này đã
được chấp nhận bởi ITU. Người ta cho rằng sự ra đời thành công nhất của mạng
CDMA-2000 là tại KDDI của Nhận Bản, dưới thương hiệu AU với hơn 20 triệu
thuê bao 3G. Kể từ năm 2003, KDDI đã nâng cấp từ mạng CDMA2000-1x lên
mạng CDMA2000-1xEV-DO với tốc độ dữ liệu tới 2.4 Mbit/s. Năm 2006, AU
nâng cấp mạng lên tốc độ 3.6 Mbit/s. SK Telecom của Hàn Quốc đã đưa ra dịch
vụ CDMA2000-1x đầu tiên năm 2000, và sau đó là mạng 1xEV-DO vào tháng 2
năm 2002.
TD-SCDMA: Chuẩn được ít được biết đến hơn là TD-SCDMA, được phát triển
riêng tại Trung Quốc bởi công ty Datang và Siemens. Wideband CDMA: Hỗ trợ
tốc độ giữa 384 kbit/s và 2 Mbit/s. Giao thức này được dùng trong một mạng diện
rộng WAN, tốc độ tối đa là 384 kbit/s. Khi nó dùng trong một mạng cục bộ LAN,
tốc độ tối đa chỉ là 1,8 Mbit/s. Chuẩn này cũng được công nhận bởi ITU.
MS1 – NodeB – (RAC) – RNC – SGSN – MGW – ROUTER ISP – SERVER…
UL DTFS-OFDM (SC-FDMA
Kĩ thuật truy cập
DL OFDMA
Dịch vụ của LTE: Qua việc kết nối của đường truyền tốc độ rất cao, băng thông
linh hoạt, hiệu suất sử dụng phổ cao và giảm thời gian trễ gói, LTE hứa hẹn sẽ cung cấp
nhiều dịch vụ đa dạng hơn. Đối với khách hàng, sẽ có thêm nhiều ứng dụng về dòng dữ
liệu lớn, tải về và chia sẻ video, nhạc và nội dung đa phương tiện. Tất cả các dịch vụ sẽ
cần lưu lượng lớn hơn để đáp ứng đủ chất lượng dịch vụ, đặc biệt là với mong đợi của
người dùng về đường truyền TV độ rõ nét cao. Đối với khách hàng là doanh nghiệp,
truyền các tập tin lớn với tốc độ cao, chất lượng video hội nghị tốt…LTE sẽ mang đặc
tính của “Web 2.0” ngày nay vào không gian di động lần đầu tiên. Dọc theo sự bảo đảm
về thương mại, nó sẽ băng qua những ứng dụng thời gian thực như game đa người chơi
và chia sẻ tập tin.
Bảng 3.3 Các thông số vật lí của LTE so sánh dịch vụ của 3G với 4G
Dịch vụ Môi trường 3G Môi trường 4G
Thoai (rich voice) Âm thanh thời gian thực VoIP, video hội nghị chất
lượng cao
Tin nhắn P2F (P2F SMS, MMS, các email ưu Các tin nhắn photo, IM,
messaging) tiên thấp email di động, tin nhắn
video
Lướt web (browsing) Truy cập đến các dịch vụ Duyệt siêu nhanh, tải các
online trực tuyến, Trình nội dung lên các mạng xã
duyệt WAP thông qua hội
GPRS và mạng 3G
Thông tin cước phí (paid Người dùng trả qua hoặc Tạp chí trực tuyến, dòng
information) trên mạng tính cước chuẩn. âm thanh chất lượng cao
Chính yếu là dựa trên thông
tin văn bản.
Video/TV theo yêu cầu Chạy và có thể tải video Các dịch vụ quảng bá
(video/TV on demand) tivi, Tivi theo đúng yêu
cầudòng video chất lượng
cao
Nhạc Tải đầy đủ các track và các Lưu trữ và tải nhạc chất
dịch vụ âm thanh lượng cao
Nội dung tin nhắn Tin nhắn đồng cấp sử Phân phối tỷ lệ rộng của các
dụng ba thành phần cũng video clip, dịch vụ karaoke,
như tương tác với các video cơ bản quảng cáo di
media khác động.
Mcomerce
M-comerce ( thương mại Thực hiện các giao dịch và Điện thoại cầm tay như thiết
qua điện thoại) thanh toán qua mạng di bị thanh toán, với các chi
động tiết thanh toán qua mạng tốc
độ cao để cho phép các giao
dịch thực hiện nhanh chóng
Mạng dữ liệu di động Truy cập đến các mạng nội Chuyển đổi file P2P, các
(mobile data netwoking) bộ và cơ sở dữ liệu cũng ứng dụng kinh doanh, ứng
như cách sử dụng của các dụng chia sẻ, thông tin
ứng dụng như CRM. M2M, di động
intranet/extranet
Dải tần hoạt động 700MHz, 850 2.5GHz, 2.6GHz, 700MHz, 850
MHz,1.5 GHz, 1.8 3.5GHz, 3.65 GHz, MHz,1.5 GHz, 1.8
GHz, 1.7/2.1 GHz 5.8 GHz, GHz, 1.7/2.1 GHz,
2.1GHz, 2.3GHz,
2.6GHz
Bảng 4.4 các thông số vật lí của LTE So sánh giữa HSPA, WiMAX và LTE
Các thông số Tốc độ dữ liệu lên Tốc độ dữ liệu lên Tốc độ dữ liệu lên
hướng đến 5.6 Mbps đối với 75Mbps/25 Mbps 100Mbps/50 Mbps
kênh 5MHz, bán đối với kênh đối với kênh 10MHz
kính cell là 680m. 10MHz với 2x2 với 2x2 MIMO, bán
MIMO, bán kính kính cell lên đến
cell lên đến 2- 5Km, lớn hơn 400
người dùng.
7Km, 100-200
người dùng.
Khả năng tương Không tương thích Kế thừa chuẩn
thích lùi lùi với 3GPP hoặc 3GPP, nhưng khác
3GPP2. kỹ thuật nên đòi hỏi
thiết bị mới ở RAN
nếu dải tần khác
nhau được sử dụng.
Về công nghệ, LTE và WiMax có một số khác biệt nhưng cũng có nhiều điểm
tương đồng. Cả hai công nghệ đều dựa trên nền tảng IP. Cả hai đều dùng kỹ thuật MIMO
để cải thiện chất lượng truyền/nhận tín hiệu, đường xuống từ trạm thu phát đến thiết bị
đầu cuối đều được tăng tốc bằng kỹ thuật OFDM hỗ trợ truyền tải dữ liệu đa phương tiện
và video. Đường lên từ thiết bị đầu cuối đến trạm thu phát có sự khác nhau giữa 2 công
nghệ. WiMax dùng OFDMA (Orthogonal Frequency Division Multiple Access – một
biến thể của OFDM), còn LTE dùng kỹ thuật SC-FDMA (Single Carrier - Frequency
Division Multiple Access). Về lý thuyết, SC-FDMA được thiết kế làm việc hiệu quả hơn
và các thiết bị đầu cuối tiêu thụ năng lượng thấp hơn OFDMA. LTE còn có ưu thế hơn
WiMax vì được thiết kế tương thích với cả phương thức TDD (Time Division Duplex) và
FDD (Frequency Division Duplex). Ngược lại, WiMax hiện chỉ tương thích với TDDs.
TDD truyền dữ liệu lên và xuống thông qua 1 kênh tần số (dùng phương thức phân chia
thời gian), còn FDD cho phép truyền dữ liệu lên và xuống thông qua 2 kênh tần số riêng
biệt. Điều này có nghĩa LTE có nhiều phổ tần sử dụng hơn WiMax. Tuy nhiên, sự khác
biệt công nghệ không có ý nghĩa quyết định trong cuộc chiến giữa WiMax và LTE. Trên
thế giới, 4G dù chưa phải phổ biến song cũng đã có quốc gia và các hãng viễn thông triển
khai. Chẳng hạn như Ericsson. Tháng 1/2009, Ericsson và nhà mạng tại Thụy Điển đã
triển khai thương mại TeliaSonera mạng LTE/4G đầu tiên tại Thụy Điển. Tới tháng
1/2010 đã triển khai diện rộng mạng TeliaSonera trên toàn quốc ở Na Uy và Thụy Điển.
Ngoài ra, Ericsson đã ký hợp đồng triển khai LTE trong thời gian tới với các nhà mạng
AT&T (Mỹ), MetroPCS, Verizon Wireless (Mỹ), NTT Docomo (Nhật). Ericsson cũng đã
tiến hành các thử nghiệm LTE/4G với các mạng Telstra, SingTel, T-Mobile Hungary,
Zain Saudia Arabia. Với Việt Nam, ở thời điểm này, cơ quan quản lý nhà nước chưa đưa
ra quyết định sẽ đi lên 4G bằng Wimax hay LTE mà quan điểm sẽ tổ chức một hội thảo
giữa Bộ với các doanh nghiệp để tìm ra sự lựa chọn hợp lý nhất. Theo phân tích của các
chuyên gia, hiện tại Wimax có lợi thế đi trước LTE. Không chỉ trên thế giới mà ngay cả ở
Việt Nam, mạng Wimax đã được triển khai cung cấp thử nghiệm từ năm 2004 tới giờ.
Còn LTE, lại được cho rằng phải tới khoảng năm 2012-2013 mới trở nên phổ biến. Xong,
so với Wimax, LTE lại có một thế mạnh được cho là rất quan trọng. LTE nếu được triển
khai cho phép tận dụng dụng hạ tầng GSM có sẵn dù vẫn phải đầu tư thêm thiết bị. Còn
Wimax, nếu muốn triển khai thì phải xây dựng từ đầu một mạng mới. Với Việt Nam,
trong bối cảnh hiện nay, theo nhiều chuyên gia, vẫn chưa đến thời điểm chín muồi để
phát triển 4G cho dù đó là Wimax hay LTE. Ở thời điểm này, Việt Nam vẫn chưa có kế
hoạch triển khai 4G. Nếu có, phải ít nhất là năm 2012. Và với mốc thời gian này, biết
đâu, LTE lại thắng thế hơn Wimax? Nhưng dù có lựa chọn công nghệ gì đi chăng nữa,
điều quan trọng nhất mà người dùng Việt đặt kỳ vọng ở các nhà khai thác mạng, cung
cấp dịch vụ đó là làm sao đáp ứng được ba tiêu chuẩn. Một chuyên gia của Ericsson chia
sẻ.Thứ nhất, đó là tính thân thiện và đơn giản của dịch vụ công nghệ cung cấp. Đa số
người dùng trước đây chưa biết nhiều về Internet do đó tính thân thiện giúp họ sử dụng
lần đầu tiên mà không bị nhầm lẫn là điều rất quan trọng. Thứ hai đó chính là những nội
dung tiếng Việt mà họ có thể hưởng thụ từ dịch vụ.Và thứ ba, là giá cả hợp lý. Đặc biệt là
dịch vụ trả trước. Có thể nói, đa số người sử dụng không hiểu về sự liên quan giữa
Megabyte và giá cả nên chính sách giá phải dễ hiểu.
2.2. Cấu trúc của LTE
Cấu trúc cơ bản SAE của LTE:
Hình 2.1 So sánh về cấu trúc giữa UTMS và LTE
Hình trên cho ta thấy sự khác nhau về cấu trúc của UTMS và LTE. Song song với
truy nhập vô tuyến LTE, mạng gói lõi cũng đang cải tiến lên cấu trúc tầng SAE. Cấu trúc
mới này được thiết kế để tối ưu hiệu suất mạng, cải thiện hiệu quả chi phí và thuận tiện
thu hút phần lớn dịch vụ trên nền IP. Mạng truy nhập vô tuyến RAN (Radio Access
Network): mạng truy nhập vô tuyến của LTE được gọi là E-UTRAN và một trong những
đặc điểm chính của nó là tất cả các dịch vụ, bao gồm dịch vụ thời gian thực, sẽ được hỗ
trợ qua những kênh gói được chia sẻ. Phương pháp này sẽ tăng hiệu suất phổ, làm cho
dung lượng hệ thống trở nên cao hơn. Một kết quả quan trọng của việc sử dụng truy nhập
gói cho tất cả các dịch vụ là sự tích hợp cao hơn giữa những dịch vụ đa phương tiện và
giữa những dịch vụ cố định và không dây. Có nhiều loại chức năng khác nhau trong
mạng tế bào. Dựa vào chúng, mạng có thể được chia thành hai phần: mạng truy nhập vô
tuyến và mạng lõi. Những chức năng như điều chế, nén, chuyển giao thuộc về mạng truy
nhập. Còn những chức năng khác như tính cước hoặc quản lý di động là thành phần của
mạng lõi. Với LTE, mạng truy nhập là E-UTRAN và mạng lõi là EPC. Mục đích chính
của LTE là tối thiểu hóa số node. Vì vậy, người phát triển đã chọn một cấu trúc đơn node.
Trạm gốc mới phức tạp hơn NodeB trong mạng truy nhập vô tuyến WCDMA/HSPA, và
vì vậy được gọi là eNodeB (Enhance Node B). Những eNodeB có tất cả những chức năng
cần thiết cho mạng truy nhập vô tuyến LTE, kể cả những chức năng liên quan đến quản
lý tài nguyên vô tuyến. Giao diện vô tuyến sử dụng trong E-UTRAN bây giờ chỉ còn là
S1 và X2. Trong đó S1 là giao diện vô tuyến kết nối giữa eNodeB và mạng lõi. S1 chia
làm hai loại là S1-U là giao diện giữa eNodeB và SAE –GW và S1-MME là giao diện
giữa eNodeB và MME. X2 là giao diện giữa các eNodeB với nhau.
Hình 2.2 Cấu trúc cơ bản của LTE
Mạng lõi: mạng lõi mới là sự mở rộng hoàn toàn của mạng lõi trong hệ thống 3G, và
nó chỉ bao phủ miền chuyển mạch gói. Vì vậy, nó có một cái tên mới: Evolved Packet
Core (EPC). Cùng một mục đích như E-UTRAN, số node trong EPC đã được giảm. EPC
chia luồng dữ liệu người dùng thành mặt phẳng người dùng và mặt phẳng điều khiển.
Một node cụ thể được định nghĩa cho mỗi mặt phẳng, cộng với Gateway chung kết nối
mạng LTE với internet và những hệ thống khác. EPC gồm có một vài thực thể chức năng:
MME (Mobility Management Entity): chịu trách nhiệm xử lý những chức năng
mặt bằng điều khiển, liên quan đến quản lý thuê bao và quản lý phiên.
Gateway dịch vụ (Serving Gateway): là vị trí kết nối của giao tiếp dữ liệu gói với
E-UTRAN. Nó còn hoạt động như một node định tuyến đến những kỹ thuật 3GPP
khác.
P-Gateway (Packet Data Network): là điểm đầu cuối cho những phiên hướng về
mạng dữ liệu gói bên ngoài. Nó cũng là Router đến mạng Internet. - PCRF
(Policyand Charging Rules Function): điều khiển việc tạo ra bảng giá và cấu hình
hệ thống con đa phương tiện IP IMS (the IP Multimedia Subsystem) cho mỗi
người dùng. - HSS (Home Subscriber Server): là nơi lưu trữ dữ liệu của thuê bao
cho tất cả dữ liệu của người dùng. Nó là cơ sở dữ liệu chủ trung tâm trong trung
tâm của nhà khai thác.
Các miền dịch vụ bao gồm IMS (IP Multimedia Sub-system) dựa trên các nhà khai
thác, IMS không dựa trên các nhà khai thác và các dịch vụ khác. IMS là một kiến trúc
mạng nhằm tạo sự thuận tiện cho việc phát triển và phân phối các dịch vụ đa phương tiện
đến người dùng, bất kể là họ đang kết nối thông qua mạng truy nhập nào. IMS hỗ trợ
nhiều phương thức truy nhập như GSM, UMTS, CDMA2000, truy nhập hữu tuyến băng
rộng như cáp xDSL, cáp quang, cáp truyền hình, cũng như truy nhập vô tuyến băng rộng
WLAN, WiMAX. IMS tạo điều kiện cho các hệ thống mạng khác nhau có thể tương
thích với nhau. IMS hứa hẹn mang lại nhiều lợi ích cho cả người dùng lẫn nhà cung cấp
dịch vụ. Nó đã và đang được tập trung nghiên cứu cũng như thu hút được sự quan tâm
lớn của giới công nghiệp. Tuy nhiên IMS cũng gặp phải những khó khăn nhất định và
cũng chưa thật sự đủ độ chín để thuyết phục các nhà cung cấp mạng đầu từ triển khai nó.
Kiến trúc IMS được cho là khá phức tạp với nhiều thực thể và vô
số các chức năng khác nhau. IMS dựa trên các nhà khai thác: là IMS đã được tích hợp
sẵn trong cấu trúc của hệ thống 3GPP.
IMS không dựa trên các nhà khai thác: là IMS không được định nghĩa trong các
chuẩn. Các nhà khai thác có thể tích hợp dịch vụ này trong mạng của họ. Các UE
kết nối đến nó qua vài giao thức được chấp thuận và dịch vụ video streaming là 1
ví dụ.
Các dịch khác không được cung cấp bởi 3GPP và cấu trúc phụ thuộc vào yêu cầu
của dịch vụ. Cấu hình điển hình sẽ được UE kết nối đến máy chủ qua mạng chẳng
hạn như kết nối đến trang chủ cho dịch vụ lướt web.
Cấu trúc của LTE liên kết với các mạng khác:
Hình 2.3 Cấu trúc hệ thống cho mạng truy cập 3GPP
Hình 2.4 Cấu trúc hệ thống cho mạng truy cập 3GPP và không phải 3GPP
Hình 2.5 Cấu trúc hệ thống cho mạng truy cập 3GPP và liên mạng với CDMA 2000
Hệ thống 3GPP hiện tại (GSM và WCDMA/HSPA) và 3GPP2 (CDMA2000
1xRTT, EV-DO) được kết hợp vào hệ thống mới thông qua những giao diện chuẩn hóa,
miễn là tối ưu tính di động với LTE. Với hệ thống 3GPP, điều này có nghĩa là một giao
diện báo hiệu giữa SGSN (Serving GPRS Support Node) và mạng lõi mới, với hệ thống
3GPP2 cũng có một giao diện báo hiệu giữa CDMA RAN và mạng lõi mới.
Ví dụ tín hiệu điều khiển cho di động được xử lý bởi node Mobility Management Entity
(MME), tách rời với Gateway. Điều này thuận tiện cho việc tối ưu trong triển khai mạng
và hoàn toàn cho phép chia tỉ lệ dung lượng một cách linh động. Home Subscriber Server
(HSS) nối đến Packet Core qua một giao diện IP, và không phải SS7 như đã sử dụng
trong mạng GSM và WCDMA. Mạng báo hiệu cho điều khiển chính sách và tính cước
được dựa trên giao diện IP. Hệ thống GSM và WCDMA/HSPA hiện tại được tích hợp
vào hệ thống mới qua những giao diện được chuẩn hóa giữa SGSN và mạng lõi mới.
Người ta cố gắng kết hợp truy nhập CDMA cũng sẽ đưa đến tính di động liên tục giữa
LTE và CDMA, cho phép sự mềm dẻo trong việc chuyển lên LTE. LTE-SAE tiếp nhận
khái niệm QoS theo từng lớp. Điều này cung cấp một giải pháp đơn giản và đến bây giờ
vẫn hiệu quả cho những nhà khai thác có được sự phân biệt giữa những dịch vụ gói.
2.3 Các kênh sử dụng trong E-UTRAN
Kênh vật lý: các kênh vật lý sử dụng cho dữ liệu người dùng bao gồm:
PDSCH (Physical Downlink Shared Channel): phụ tải có ích (payload)
PUSCH (Physical Uplink Shared Channel): PUSCH được dùng để mang dữ liệu
người dùng. Các tài nguyên cho PUSCH được chỉ định trên một subframe cơ bản
bởi việc lập biểu đường lên. Các sóng mang được chỉ định là 12 khối tài nguyên
(RB) và có thể nhảy từ subframe này đến subframe khác. PUSCH có thể dùng các
kiểu điều chế QPSK, 16QAM, 64QAM.
PUCCH (Physical Uplink Control Channel): có chức năng lập biểu, ACK/NAK. -
PDCCH (Physical Downlink Control Channel): lập biểu, ACK/NAK.
PBCH (Physical Broadcast Channel): mang các thông tin đặc trưng của cell.
Kênh logic: được định nghĩa bởi thông tin nó mang bao gồm:
Kênh điều khiển quảng bá (BCCH): Được sử dụng để truyền thông tin điều khiển
hệ thống từ mạng đến tất cả máy di động trong cell. Trước khi truy nhập hệ thống,
đầu cuối di động phải đọc thông tin phát trên BCCH để biết được hệ thống được
lập cấu hình như thế nào, chẳng hạn băng thông hệ thống.
Kênh điều khiển tìm gọi (PCCH): được sử dụng để tìm gọi các đầu cuối di động vì
mạng không thể biết được vị trí của chúng ở cấp độ ô và vì thế cần phát các bản
tin tìm gọi trong nhiều ô (vùng định vị).
Kênh điều khiển riêng (DCCH): được sử dụng để truyền thông tin điều khiển
tới/từ một đầu cuối di động. Kênh này được sử dụng cho cấu hình riêng của các
đầu cuối di động chẳng hạn các bản tin chuyển giao khác nhau.
Kênh điều khiển đa phương (MCCH): được sử dụng để truyền thông tin cần thiết
để thu kênh MTCH.
Kênh lưu lượng riêng (DTCH): được sử dụng để truyền số liệu của người sử dụng
đến/từ một đầu cuối di động. Đây là kiểu logic được sử dụng để truyền tất cả số
liệu đường lên của người dùng và số liệu đường xuống của người dùng không phải
MBMS.
Kênh lưu lượng đa phương (MTCH): Được sử dụng để phát các dịch vụ MBMS.
Kênh truyền tải: bao gồm các kênh sau:
Kênh quảng bá (BCH): có khuôn dạng truyền tải cố định do chuẩn cung cấp.
Nó được sử dụng để phát thông tin trên kênh logic.
Kênh tìm gọi (PCH): được sử dụng để phát thông tin tìm gọi trên kênh
PCCH, PCH hỗ trợ thu không liên tục (DRX) để cho phép đầu cuối tiết kiệm
công suất ắc quy bằng cách ngủ và chỉ thức để thu PCH tại các thời điểm
quy định trước.
Kênh chia sẻ đường xuống (DL-SCH): là kênh truyền tải để phát số liệu
đường xuống trong LTE. Nó hỗ trợ các chức năng của LTE như thích ứng
tốc độ động và lập biểu phụ thuộc kênh trong miền thời gian và miền tần số.
Nó cũng hổ trợ DRX để giảm tiêu thụ công suất của đầu cuối di động mà
vẫn đảm bảo cảm giác luôn kết nối giống như cơ chế CPC trong HSPA. DL-
DCH TTI là 1ms.
Kênh đa phương (MCH): được sử dụng để hỗ trợ MBMS. Nó được đặc
trưng bởi khuôn dạng truyền tải bán tĩnh và lập biểu bán tĩnh. Trong trường
hợp phát đa ô sử dụng MBSFN, lập biểu và lập cấu hình khuôn dạng truyền
tải được điều phối giữa các ô tham gia phát MBSFN.
2.4 Giao thức của LTE (LTE Protocols)
Ở LTE chức năng của RLC đã được chuyển vào eNodeB, cũng như chức năng của
PDCP với mã hóa và chèn tiêu đề. Vì vậy, các giao thức liên quan của lớp vô tuyến được
chia trước đây ở UTRAN là giữa NodeB và RNC bây giờ chuyển thành giữa UE và
eNodeB.
Hình 2.6 Giao thức của E-UTRAN
Giao thức của E-UTRAN phát triển thêm của UTRAN bằng cách thêm L1 và
MAC mới.
Hình 2.7 Phân phối chức năng của các lớp MAC, RLC, PDCP
Chức năng của MAC (Medium Access Control) bao gồm:
Lập biểu - Điều khiển ưu tiên (Priority handling)
Ghép nhiều kênh logic khác nhau trên một kênh truyền đơn RLC, cũng như trong
WCDMA có chức năng sau:
o Truyền lại trong trường hợp giao nhận ở các lớp thấp (MAC và L1) bị
hỏng, tương tự trong trường hợp ở chế độ ACK của RLC ở UTRAN o Phân
đoạn để phù hợp cho các giao thức đơn vị dữ liệu
o Cung cấp các kênh vật lý cho các lớp cao hơn
Chức năng của PDCP bao gồm:
Mã hóa (ciphering)
Chèn tiêu đề
Trong suốt năm 2006, PDCP vẫn được giả sử trong mạng lõi, nhưng quyết định
hiện tại là đưa PDCP vào eNodeB bao gồm mã hóa. Điều này làm cho chức năng vô
tuyến của LTE tương tự như của HPSA cải tiến. Trong giao diện điều khiển, chức năng
của giao thức RRC thì cũng giống như bên UTRAN. Giao thức RRC cấu hình các thông
số kết nối, điều khiển báo cáo đo lường thiết bị đầu cuối, các lệnh chuyển giao…Mã
ASN1 được sử dụng cho RRC của LTE, nó dãn cách sự khác biệt giữa các phiên bản ở
đường tương thích lùi. Giao thức RRC sẽ bao gồm ít trạng thái hơn EUTRAN. Chỉ có
trạng thái “tích cực” hay “rỗi” được dự đoán bởi vì đặc tính linh động của sự phân bố
nguồn tài nguyên. Các trạng thái của RRC trong LTE là:
RRC-rỗi: thiết bị sẽ quan sát bản tin paging và sử dụng cell cho di động. Không có
RRC nào lưu trữ trong bất kỳ eNodeB cá nhân nào. UE chỉ có duy nhất một ID
nhận dạng nó ở trong vùng di chuyển.
RRC-kết nối: biết vị trí của UE ở cell nào và dữ liệu được phát và nhận. Kết nối
RRC tồn tại đến một eNodeB. Điều khiển chuyển giao bởi mạng được sử dụng
cho di động
2.5 Một số đặc tính của kênh truyền
Ta tìm hiểu một số đặc tính của kênh truyền ảnh hưởng đến việc truyền tín hiệu,
các đặc tính này bao gồm trải trễ, fading, dịch tần Doppler, ảnh hưởng của dịch tần
Doppler đối với tín hiệu OFDM, nhiễu MAI, và cách khắc phục nhiễu MAI.
2.5.1 Trải trễ đa đường
Tín hiệu nhận được nơi thu gồm tín hiệu thu trực tiếp và các thành phần phản xạ.
Tín hiệu phản xạ đến sau tín hiệu thu trực tiếp vì nó phải truyền qua một khoảng dài hơn,
và như vậy nó sẽ làm năng lượng thu được trải rộng theo thời gian. Khoảng trải trễ (delay
spread) được định nghĩa là khoảng chênh lệch thời gian giữa tín hiệu thu trực tiếp và tín
hiệu phản xạ thu được cuối cùng. Trong thông tin vô tuyến, trải trễ có thể gây nên nhiễu
xuyên ký tự nếu như hệ thống không có cách khắc phục. Đối với LTE, sử dụng kỹ thuật
OFDM đã tránh được nhiễu xuyên ký tự ISI.
2.5.2 Các loại fading
Fading là sự biến đổi cường độ tín hiệu sóng mang cao tần tại anten thu do có sự thay đổi
không đồng đều về chỉ số khúc xạ của khí quyển, các phản xạ của đất và nước trên đường
truyền sóng vô tuyến đi qua.
2.5.2.1 Rayleigh fading
Fadinh Rayleigh là loại Fading sinh ra do hiện tượng đa đường (Multipath Signal)
và xác suất mức tín hiệu thu bị suy giảm so với mức tín hiệu phát đi tuân theo phân bố
Rayleigh.
2.5.2.2 Fading chọn lọc tần số và fading phẳng
Băng thông kết hợp: là một phép đo thống kê của dải tần số mà kênh xem
như là phẳng.
Nếu trải trễ thời gian đa đường là D (s) thì băng thông kết hợp Wc (Hz) xấp
xỉ bằng:
Wc≈2/1πD
Trong fading phẳng, băng thông kết hợp của kênh lớn hơn băng thông của
tín hiệu. Vì vây, sẽ làm thay đổi đều tín hiệu sóng mang trong một dải tần
số.
Trong fading chọn lọc tần số, băng thông kết hợp của kênh nhỏ hơn băng
thông của tín hiệu. Vì vậy, sẽ làm thay đổi tín hiệu sóng mang với mức thay
đổi phụ thuộc tần số.
2.5.3 Dịch tần Doppler
Hệ thống truyền vô tuyến chịu sự tác động của dịch tần Doppler. Dịch tần
Doppler là hiện tượng mà tần số thu được không bằng tần số của nguồn phát do sự
chuyển động tương đối giữa nguồn phát và nguồn thu. Cụ thể là: khi nguồn phát và
nguồn thu chuyển động hướng vào nhau thì tần số thu được sẽ lớn hơn tần số phát
đi, khi nguồn phát và nguồn thu chuyển động ra xa nhau thì tần số thu được sẽ
giảm đi. Khoảng tần số dịch chuyển trong hiện tượng Doppler tính theo công thức
sau:
v
Δf=± foc
Trong OFDMA, việc chỉ định số sóng mang con cho người dùng không dựa vào
từng sóng mang con riêng lẻ mà dựa vào các khối tài nguyên (Resource Block). Mỗi khối
tài nguyên bao gồm 12 sóng mang con cho khoảng thời gian 1 slot và khoảng cách giữa
các sóng mang con là 15KHz dẫn đến kết quả băng thông tối thiểu của nó là 180 KHz.
Đơn vị nhỏ nhất của tài nguyên là thành phần tài nguyên (RE), nó bao gồm một sóng
mang con đối với khoảng thời gian của một ký tự OFDM. Một RB bao gồm 84 RE (tức 7
x12) trong trường hợp chiều dài CP thông thường và 72 RE (6x12) trong trường hợp
chiều dài CP mở rộng.
Hình 2.20 Chỉ định tài nguyên của OFDMA trong LTE
Băng thông kênh 1.4 3 5 10 15 20
truyền
Số tài nguyên 6 15 25 50 75 10
Hình 2.21 Cấu trúc của một khối tài nguyên
Tín hiệu tham khảo (RS): LTE sử dụng các tín hiệu tham khảo đặc biệt để dễ dàng
ước lượng dịch sóng mang, ước lượng kênh truyền, đồng bộ thời gian…Các tín hiệu tham
khảo được bố trí như hình sau:
Hình 2.22 Cấu trúc bố trí tín hiệu tham khảo
Các tín hiệu tham khảo này được phát ở ký tự OFDM thứ nhất và thứ năm của mỗi
slot và ở sóng mang thứ sáu của mỗi subframe. Tín hiệu tham khảo cũng được sử dụng để
ước lượng tổn hao đường truyền sử dụng công suất thu tín hiệu tham khảo (RSRP).
Nhược điểm của OFDM là gì? Ta xét các hình sau:
Hình 2.23 Đặc tính đường bao của tín hiệu OFDM
Hình 2.24 PAPR cho các tín hiệu khác nhau
Từ các hình trên ta thấy, dạng sóng OFDM thể hiện sự thăng giáng đường bao rất
lớn dẫn đến PAPR cao. Tín hiệu với PAPR cao đòi hỏi các bộ khuếch đại công suất có
tính tuyến tính cao để tránh làm méo dạng tín hiệu. Để đạt được mức độ tuyến tính này,
bộ khuếch đại phải làm việc ở chế độ công tác với độ lùi (so với điểm bão hòa cao). Điều
này dẫn đến hiệu suất sử dụng công suất (tỷ số công suất phát với công suất tiêu thụ một
chiều) thấp vì thế đặc biệt ảnh hưởng đối với các thiết bị cầm tay. Để khắc phục nhược
điểm này, 3GPP đã nghiên cứu sử dụng phương pháp đa truy nhập đường lên sử dụng
DTFS-OFDM với tên gọi là SCFDMA và áp dụng cho LTE.
2.6.2 Kỹ thuật SC-FDMA
Các tín hiệu SC-FDMA có tín hiệu PAPR tốt hơn OFDMA. Đây là một trong
những lý do chính để chọn SC-FDMA cho LTE. PAPR giúp mang lại hiệu quả cao trong
việc thiết kế các bộ khuếch đại công suất UE, và việc xử lý tín hiệu của SCFDMA vẫn có
một số điểm tương đồng với OFDMA, do đó, tham số hướng DL và UL có thể cân đối
với nhau. Giống như trong OFDMA, các máy phát trong hệ thống SC-FDMA cũng sử
dụng các tần số trực giao khác nhau để phát đi các ký hiệu thông tin. Tuy nhiên các ký
hiệu này phát đi lần lượt chứ không phải song song như trong OFDMA. Vì thế, cách sắp
xếp này làm giảm đáng kể sự thăng giáng của đường bao tín hiệu của dạng sóng phát. Vì
thế các tín hiệu SC-FDMA có PAPR thấp hơn các tín hiệu OFDMA. Tuy nhiên trong các
hệ thống thông tin di động bị ảnh hưởng của truyền dẫn đa đường, SC-FDMA được thu
tại các BTS bị nhiễu giữa các ký tự khá lớn. BTS sử dụng bộ cân bằng thích ứng miền tần
số để loại bỏ nhiễu này.
Đo lường công
Phát
suất thu được
Phát Thu
Đo lường công
Phát
suất thu được
Đo lường SINR
Phát
thu được