Professional Documents
Culture Documents
Baisoannew
Baisoannew
PHÁP Y
NỘI DUNG BÀI HỌC
Đánh giá thời gian chết tại hiện trường vụ án có 2 mục đích :
- Cung cấp cho cơ quan điều tra có được ý tưởng ban đầu về thời gian của vụ việc
- Để xác minh chứng cứ ngoại phạm
Thời gian sẽ cung cấp thông tin chỉ trong trường hợp mà thời gian từ lúc xảy ra vụ tấn công đến
lúc nạn nhân tử vong quá ngắn. Chỉ vài vụ việc là thời gian chết có vai trò là bằng chứng duy
nhất tại tòa khi kết luận nghi can có phạm tội hay không
Thời gian chết phải chính xác nhất có thể, nhưng quan trọng hơn là nó phải đáng tin cậy. Việc
kết hợp các phương pháp đánh giá thời gian chết khác nhau trên một vụ việc thường cho kết quả
khác nhau.
Sau ngưng tuần hoàn không hồi phục, chuyển hóa của mô chưa ngừng ngay do quá trình tạo
năng lượng vẫn xảy ra (chủ yếu là chuyển hóa yếm khí)
Khái niệm phản ứng siêu sinh là : những phản ứng của các mô khi bị kích thích sau chết, đặc
trưng cho từng loại mô và phụ thuộc vào vị trí giải phẫu của một loại mô
Thời gian có phản ứng siêu sinh kéo dài hơn thời gian để mô có thể hồi phục sau hồi sức :
- Tình trạng lắng đọng máu tại vùng thấp của cơ thể nơi không bị tì đè.
- Kết quả của tình trạng ngưng tim không hồi phục
- Thay đổi sau chết sớm nhất
- Ngưng tim các rào cản về mặt cấu trúc, trương lực mô, áp suất của bề mặt bên dưới và
áp suất thủy tĩnh không còn các dịch của cơ thể (khoang trong mạch và khoang gian tế
bào) sẽ bị ảnh hưởng bởi trọng lực máu sẽ đi đến vùng thấp nhất trong hệ tuần hoàn
nơi không bị đè ép
Kirchhofrosen : những vùng màu hồng không đều trên mặt trong giai đoạn hấp hối do tình trạng
ứ máu khu trú.
Vết hoen có thể được nhìn thấy là do máu tích tụ trong các mao mạch. Giai đoạn sớm có thể nhìn
thấy dưới dạng những đám màu hồng nhỏ và nó đi xuống dần dần theo thời gian sau chết. Do
mất oxy nên màu hồng sẽ thay đồi dần sang màu hồng đậm hay xanh. Ở vùng có tình trạng ứ
máu nặng, có thể thấy xuất huyết dạng chấm ở dưới da do vỡ các mao mạch.
Các đặc điểm liên quan đến chẩn đoán và phân tích tội phạm không chỉ bao gồm vết hoen mà
còn màu sắc, sự phân bố, sự cố định hay chưa.
Tím rìa đỏ
nguyên nhân do lạnh
Vết hoen
trong treo cổ
3.Co cứng tử thi :
Co cứng tử thi (có vết hoen) ≠ co cứng đông lạnh (không có vết hoen)
Thời gian : không thể xác định chính xác thời gian
- Xuất hiện : 2 – 4 giờ sau chết ở nhiệt độ khoảng 200C sau giai đoạn mềm tử thi ban đầu
- Hình thành đầy đủ : 6 – 12 giờ sau chết
- Biến mất : 24 – 36 giờ do hủy protein dưới tác dụng của sự tự ly giải và vi khuẩn
- Hiện tượng tái co cứng tử thi có thể xuất hiện nếu trước đó không đạt được sự cứng tử thi
hoàn toàn, kéo dài 6 – 8 giờ sau chết hoặc 12 giờ nếu nhiệt độ xung quanh thấp
Sự tiến triển từng giai đoạn của co cứng tử thi được xác định bởi việc có thể di chuyển được các
khớp lúc cơ còn mềm và ghi nhận kháng lực qua sự cứng của nhiều khớp khác nhau
Quy luật Nysten : sự cứng tử thi không bắt đầu cùng lúc ở tât cả các cơ
- Hàm thân chi dưới chi trên (đúng với tư thế chết nằm ngửa)
- Tuy nhiên nếu phân hủy glycogen mạnh ở chi dưới trước khi chết thì co cứng bắt đầu ở
đây trước
Sự cứng cơ không bắt đầu cùng lúc với sự cứng các sợi. Nếu đến giai đoạn các sợi bắt đầu co
cứng thì giai đoạn cứng tử thi đã kết thúc với các khớp đã có thể duỗi ra
Mềm cơ thứ phát có thể thấy vào ngày thứ 2 sau chết ở nhiệt độ thường. Với nhiệt độ âm sự co
cứng có thể kéo dài đến 2 tuần hoặc lâu hơn.
Sự tiến triển, khoảng thời gian tồn tại và biến mất của sự cứng tử thi tùy thuộc vào lượng
glycogen trong cơ tại thời điểm chết, nhiệt độ môi trường,…Người hoạt động thể lực mạnh hoặc
có cơn co giật trước chết hoặc bị điện giật thì co cứng sẽ xuất hiện sớm
Tất cả yếu tố của sự cứng tử thi đều phụ thuộc vào thời gian
Vết hoen và co cứng tử thi chỉ giúp đánh giá sơ bộ về thời gian chết.
Khái niệm : là tình trạng nhiệt độ cơ thể giảm dần sau chết
Nguyên nhân :
Có nhiều vị trí thăm dò nhiệt độ khác nhau , nhưng thực tế nhiệt độ trung tâm cơ thể : trực tràng
và não là có giá trị
Công thức ước lượng thời gian chết dựa vào nhiệt độ :
Giá trị còn nhiều hạn chế trong thực tế do chủ yếu là đo lường sự thay đổi nồng độ các chất trong
dịch ngoại bào và kết quả thay đổi ở mỗi cá nhân rất khác biệt.
Quá trình phân hủy các chất theo thứ tự nhanh nhất : trong thủy tinh dịch > máu > dịch não tủy .
Nồng độ các chất trong tế bào = ngoại bào theo tứ tự nhanh nhất : trong máu > dịch não tủy >
thủy tinh dịch.
Thủy tinh dịch là loại dịch chính được sử dụng trong nghiên cứu vì 2 lý do :
- Giai đoạn sớm sau chết, những phương pháp khác nhau có thể được sử dụng
- Những thông tin thu được từ máu và dịch não tủy không thể dùng được sau ngày thứ hai.
Công thức của Sturner có độ tin cậy 95% và độ sai lệch là 9,5 giờ :
Để đánh giá thời gian chết cần phải biết lượng thức ăn còn lại trong dạ dày so với lượng thức ăn
trong bữa ăn cuối của nạn nhân và thời gian để thức ăn đi xuống. Vẫn có thể đánh giá được thời
điểm tử vong trong ngày mặc dù không biết được bữa ăn cuối cùng của nạn nhân là bữa nào.
Sự tự tiêu :
- Do tế bào vỡ phóng thích các men tự tiêu xảy ra sớm ở tụy, dạ dày và gan
- Thay đổi tự tiêu tại chỗ của tụy thường thấy khi tử thiết
- Mềm hóa dạ dày và thường có thủng, xảy ra trong giai đoạn muộn của hôn mê và
một thời gian ngắn trước hoặc sau chết.
Nguyên nhân có lẽ liên quan đến kích thích trung tâm điều nhiệt ở não.
Hiện tượng này thường thấy ở đáy vị, khi nằm ngửa sẽ trào ngược thực
quản gây rò rỉ dịch vào khoang ngực trái, không nền nhầm dịch này là
chảy máu
Thùy dưới phổi trái và thành ngực khi tiếp xúc dịch tiêu hóa sẽ chuyển
sang xám đậm, thậm chí đen và trở nên chắc và giống cao su do phản ứng
với các protein mô
Sự thối rửa :
Hình 4 : Xác hóa sáp “Soap Lady” tại bảo tàng lịch sử y học Mutter tại Philadelphia, Mỹ
Sự tự tiêu: xảy ra do các tế bào vỡ làm phóng thích các men bên trong cơ thể.
Sự thối rữa: xảy ra do hoạt động của vi khuẩn và các vi sinh vật khác.
Vật tày là vật không sắc, không nhọn, không sắc nhọn hay không có cạnh sắc.
Mức độ nghiêm trọng và hình thái của vết thương do vật tày tùy thuộc vào:
Nếu hung khí gây gãy hoặc biến dạng phần cơ thể bị tác động thì lực tác động vào cơ thể để gây
ra tổn thương sẽ ít hơn bởi vì một phần lực đã được sử dụng để gây gãy hay biến dạng.
Cũng như vậy, nếu cơ thể chuyển động cùng với cú đánh thì nó sẽ làm tăng thời gian tác động và
làm giảm mức độ nghiêm trọng của vết thương.
Với bất kì lực tác động nào, diện tích tiếp xúc càng lớn thì mức độ tổn thương càng ít. Diện tích
tiếp xúc phụ thuộc phụ thuộc vào bản chất hung khí và phần cơ thể bị tác động.
Ví dụ :
- Với những hung khí có bề mặt phẳng rộng, như tấm bảng, thì lực tác động sẽ được phân
bố đều ra cả bề mặt nên tổn thương ít hơn so với vết thương do một vật có bề mặt tác
động nhỏ, như là thanh kim loại, với cùng một lực tấn công.
- Nếu hung khí có mũi nhọn thì toàn bộ lực sẽ tập trung vào đầu này và gây ra tổn thương
nặng hơn.
- Nếu tác động vào những phần cơ thể có hình tròn như đầu nạn nhân thì chấn thương sẽ
nặng nề hơn so với tác động vào phần cơ thể có bề mặt phẳng như lưng do có bề mặt tiếp
xúc lớn nên phân tán được lực tác động.
Sây sát
Bầm tụ máu
Vết rách
Vết thương có gãy xương
Khái niệm sây sát là : thương tích trên bề mặt da do ma sát với một
vật tày có bề mặt thô ráp làm mất đi bề mặt lớp biểu mô da hoặc do
bị nén ép gây hủy hoại lớp bề mặt.
Đặc điểm :
- Sây sát trước chết thường có màu đỏ nâu và lành không để lại
sẹo.
- Sây sát sau chết có màu vàng và có dạng da giấy.
- Vết sây sát không phải lúc nào cũng có tại vị trí bị tác động.
- Vết thương có thể hơi sâu xuống lớp bì. Trong trường hợp đó thì sẽ có dấu lắng đọng
thanh dịch và máu trên bề mặt vết thương tạo thành mày màu đỏ nâu.
- Vết xước thường gặp là vết giống như vết cào, gặp ở những người đi bộ bị phương tiện
giao thông va chạm và ngã, chà sát trên mặt đường. Dây thòng lọng, dây thừng cũng gây
ra vết xước.
- Vạt da thừa ở đầu xa của vết xước sẽ chỉ ra hướng của vật tác động hoặc chiều chuyển
động của cơ thể trên bề mặt thô ráp.
Có 4 giai đoạn của sự lành một vết sây sát: Đóng mày Tái tạo biểu mô Sự tạo mô hạt dưới
thượng bì và tăng sản biểu mô Sự thoái triển của biểu mô và mô hạt.
- Vùng có các mạch máu bị tổn thương gây xuất huyết vào mô mềm do vật tày tác động.
- Bầm tụ máu không chỉ hiện diện ở ngoài da mà còn trong các tạng như tim, phổi, não, cơ.
- Vùng tụ máu lớn được gọi là các bướu máu.
- Phân biệt với vết hoen tử thi dựa vào đặc tính không biến mất khi bị đè ép, trong khi hoen
tử thi thì biến mất.
- Mức độ bầm tụ máu không chỉ phụ thuộc vào lực tác động mà còn phụ thuộc vào cấu trúc
của cơ quan, mạch máu trong mô bị tổn thương thường xuất hiện những vùng mô
mỏng, lỏng lẻo hoặc mô mỡ.
- Vết bầm có thể có hình của vật tác động.
- Theo nguyên tắc, vết bầm tụ máu không gây chết. Tuy nhiên nhiều vết bầm tụ máu với
chảy máu lượng lớn trong mô mềm có thể gây ra shock và dẫn đến tử vong. Điều này có
thể gặp trong các trường hợp đánh đập trẻ em.
Có 2 phương pháp xác định tuổi của vết bầm là : sự thay đổi màu
sắc vết bầm (thường được dùng hơn) và dựa vào mô học.
Màu sắc của vết bầm là do sự thoái hóa của Hb : Ban đầu, có thể là
màu đỏ, xanh đậm, tím, tím hơi xanh hay màu đen Hb trong vết
bầm bị thoái giáng, chuyển sang màu xanh lá đến màu vàng đậm,
rồi vàng nhạt biến mất.
Tuy nhiên không thể xác định chính xác thời gian thay đổi màu sắc của vết bầm.
- Độ sâu : vết bầm nông thì dễ thấy màu vàng hơn ở vết thương sâu
- Sắc tố da : da sậm màu thì thường làm che dấu đi vết bầm.
- Vị trí : vết bầm ở mí mắt xuất hiện ngay lập tức, trong khi ở mô sâu thì phải sau vài ngày
Bầm tụ máu sau chết hiếm khi xảy ra và thường gặp ở da và vùng sát xương. Giải phẫu bệnh
không giúp chẩn đoán phân biệt 2 trường hợp trước chết và sau chết.
6.Mắt và mi mắt:
Việc lấy bỏ đi củng mạc và nhãn cầu ngay sau chết có thể gây chảy máu trong mí mắt làm không
thể phân biệt với các chấn thương trước chết.
Việc lấy thủy tinh dịch ngay sau chết có thể gây xuất huyết củng mạc tại vị trí đâm kim.
Chảy máu trong mi mắt có thể xảy ra sau chết ở các trường hợp có vỡ trần hốc mắt, tương tự cho
các trường hợp vỡ sọ mà để nạn nhân nằm sấp.
Trong trường hợp thối rữa, đặc biệt da đầu, sự tán huyết sẽ làm đổi màu lan tỏa trong mô mềm,
lúc này không thể phân biệt được vết bầm tụ máu trước chết hay vết hoen tử thi.
3.Hình thái :
- Hình thái của vết thương có thể không phản ảnh được hình dạng của vật tác động. Tuy
nhiên theo nguyên tắc thì những vật dài mảnh thì có xu hướng tạo ra những vết thương
dạng đường thẳng, trong khi những vật dạng mặt phẳng thì tạo vết thương có bờ không
đều, ráp hoặc có hình chữ Y.
- Da bị rách thường có bờ bị đụng dập, ráp, không đều, kèm sây sát và bầm tụ máu ở mép
vết thương.
- Các thành phần khác nhau của mô mềm thì chịu lực tác động khác nhau tạo nên sự phân
tách không hoàn toàn ở những mô dai chắc hơn, do đó khi nhìn vào đáy của vết rách sẽ
Giống vết thương do vật sắc, vết thương do vật tày có thể do chống đỡ, thường có dạng sây sát,
bầm tụ ở mặt sau của tay, rách thì ít gặp hơn và có thể có mảnh hung khí cắm vào và có thể có
gãy xương. Khi có gãy xương thì thường liên quan đến cẳng tay và thường là do chống đỡ.
Sự hiện diện của máu trong mô : xảy ra trước chết hoặc tối thiểu là xảy ra lúc tim còn đập. Tuy
nhiên vấn đề này không hoàn toàn chính xác.
- Phản ứng viêm của mô : xảy ra trước chết ít nhất vài giờ trước chết.
- Phương pháp khác : hóa mô, hóa sinh và men.Tuy nhiên không có phương pháp nào
được sử dụng thường quy.
- Tại Mỹ, người ta xác định một vết thương bằng cách đánh giá hoạt động của men giảm ở
trung tâm và tăng ở ngoại vi vết thương. Hoạt động của men có thể phát hiện đến 5 ngày
sau chết.
- Sử dụng DNA, C3, các catecholamine : histamin và serotonin đều tăng lên trước chết.
Vỡ xương gò má, cung gò má, xương hàm trên, xương hàm dưới thường gặp khi bị hành hung
hoặc tai nạn giao thông. Vỡ xương hàm trên chia làm 5 loại:
Vỡ các hố răng : do 1 lực tác động trực tiếp vào xương hàm trên chính diện hoặc một bên
làm vỡ một mảng của xương hàm trên thường mang theo một số răng.
Gãy Lefort I : gãy ngang xương hàm trên, phía trên đỉnh các răng, ngang qua vách mũi,
các xoang hàm, vỡ xương khẩu cái và xương bướm.
Gãy Lefort II (vỡ hình tháp) : gãy giống như Lefort I ở phía sau nhưng đường gãy ở phía
trước là đường gãy cong lên gần khớp hàm – gò má, đi qua bờ dưới hốc mắt, đi lên trần
hốc mắt xuyên qua thành hốc mắt trong và đi ngang qua xương mũi và vách mũi.
Gãy Lefort III : vỡ ngang và cao của xương hàm trên, đi ngang qua khớp trán mũi, đi
ngang qua thành trong hốc mắt và khớp trán gò má, đi ngang qua cung gò má và đi qua
xương bướm.
Gãy dọc : đường gãy chạy theo mặt phẳng dọc của xương hàm trên.
Gãy do co kéo.
Gãy do gập góc
Gãy do xoay
Gãy lún
Gập góc và lún
Gập góc, xoay và lún.
3.Gãy khung chậu :
Có 4 loại:
Ép trước sau
Ép một bên
Gãy do giằng xé
Gãy phức tạp
Khái niệm vết đâm là : vết thương do vật nhọn gây ra.
Đặc điểm :
- Phần lớn là liên quan đến án mạng.
- Độ sâu của vết thương lớn hơn chiều dài của vết thương.
- Cạnh của vết thương trên da thường sắc gọn, không có vết sây sát hay đụng dập.
- Mô tả vết thương do đâm không bao giờ dùng từ “rách”. Một vết rách là một vết xé toạc
da do một lực tày tác động.
- Hung khí thường là dao, ngoài ra lưỡi dao cũng có thể gây ra vết cắt. Thường là loại dao
bản mỏng (dao xếp, dao bếp) có một lưỡi. Các hung khí khác như là kéo, dụng cụ lấy đá,
tuốt nơ vít, mảnh kính vỡ, nĩa, bút máy, và bút chì cũng có thể được dùng để gây ra vết
đâm.
Lực cần thiết để gây thủng da tuỳ thuộc vào hình dáng và độ sắc của mũi dao. Dao càng sắc, mũi
càng nhọn giống mũi kim thì càng dễ dàng đâm thủng da. Một khi mũi dao đâm xuyên qua da thì
phần còn lại của lưỡi dao sẽ trượt vào trong cơ thể một cách dễ dàng. Ngay cả khi toàn bộ
lưỡi dao đã nằm trong cơ thể thì cũng không có nghĩa là vết đâm này do một lực tác động lớn
mới gây ra được.
Nếu hung khí có một cạnh sắc một cạnh tù khi đâm vào và kéo đi theo chiều bờ
sắc sẽ tạo ra 2 đầu nhọn.
Hình dáng vết đâm được xác định bằng hình dáng của dao và đặc tính của da :
Nếu vết đâm trên bề mặt da căng thì sẽ tạo ra vết thương dài và mảnh, ngược lại khi
da đang chùng thì vết thương sẽ ngắn và rộng hơn. Các đường Langer cũng ảnh
hưởng đến hình dáng vết thương.
- Đường Langer là sự sắp xếp của các sợi đàn hồi trong da, thường giống nhau ở
mọi cá thể.
- Nếu một vết đâm cắt ngang qua các đường này, có nghĩa là vuông góc với các sợi,
các sợi sẽ kéo hai bờ mép vết thương tạo thành vết thương hở.
- Các vết thương song song với đường Langer sẽ tạo nên vết thương dạng khe hẹp.
- Giữa hai hình thái vết thương trên sẽ tạo nên hình thái vết thương xiên.
Tuỳ thuộc vào hình thái của sợi đàn hồi, vết thương sẽ có hình thái mất cân xứng hoặc
hình bán nguyệt.
Khi dao được rút ra bị xoắn hoặc nạn nhân di chuyển có thể tạo nên vết thương
hình chữ Y hoặc L Vết thương ban đầu sẽ bị mở rộng ra do lưỡi dao cắt lần thứ
hai qua đó.
Khi dao xoay nhẹ hoặc nạn nhân chỉ di chuyển một ít, đầu nhọn của vết đâm sẽ có hình
chữ V hay hình chạc ba trên đó Hung khí có một cạnh sắc, vết thương sẽ có một đầu
tù và đầu kia có hình khía chữ V.
Hình ảnh chạc ba tại một đầu vết đâm do bờ sắc của dao gây ra có thể giống với các vết
rách trong da tại đầu tù của vết đâm do phần tù của bờ sắc làm rách da khi dao đâm vào.
Các vết rách này thường được phân biệt với vết cắt hình chạc ba nhờ chúng không sắc
gọn và thường nằm ở các lớp nông của da.
Bộ Sách Lâm Sàng Chuyên Khoa : Y học Pháp y 29
Nếu dao được đâm với một lực mạnh đủ để đẩy hết chiều dài của lưỡi dao vào cơ thể, thì
vết hằn da xung quanh vết đâm do cán dao gây ra :
- Dấu vết của phần cán này có thể đối xứng dao được đâm thẳng góc vào.
- Vết hằn của phần cán ở phía trên sẽ rõ hơn dao đâm theo góc hướng xuống.
- Vết hằn sẽ nằm ở phía dưới vết đâm dao đâm theo góc hướng lên.
- Vết hằn của phần cán nằm bên phải dao đâm xiên từ bên phải.
Vết đâm có hai đầu tù do dao đâm hết chiều dài của lưỡi đến tận phần cán. Trong hầu hết
các hung khí, giữa lưỡi thật của dao và phần cán dao có một đoạn ngắn, không sắc được
gọi là đoạn tù của bờ sắc. Thường thì phần này có cạnh tù ở cả phần sống và lưỡi dao.
Nếu đâm hết lưỡi dao thì một đầu tù của vết thương là do sống dao, một đầu tù là do
đoạn tù của bờ sắc.
Thanh nạy đá : vết đâm nhỏ, tròn, hoặc giống như một khe hở .
Dụng cụ xiên thịt : hai hoặc ba vết thương, tuỳ thuộc vào số lượng răng của cái xiên, các
vết thương này có khoảng cách đều nhau như là các răng của cái chĩa.
Kéo :
- Nếu đang khép, mũi kéo sẽ có xu hướng tách da hơn là cắt da, tạo nên vết đâm
thẳng với vết sây sát ở bờ vết thương. Nếu con vít giữ hai lưỡi kéo lồi ra, nó có
thể tạo ra vết rách có góc cạnh nằm ở phần giữa của một mép vết thương.
- Nếu hai lưỡi kéo đang mở thì sẽ tạo thành hai vết đâm.
Tuốt nơ vít :
- Nếu hung khí là tuốt nơ vít 3 khía sẽ tạo ra vết
đâm có hình chữ X và bờ có vết sây sát
- Nếu hung khí là loại tu vít dẹp thì sẽ tạo vết đâm
có dạng khe, hai đầu tù và vết sây sát ở bờ vết
thương.
Khó có thể xác định chắc chắn một vết đâm là do tu vít
gây ra hay là do một con dao lưỡi nhỏ, cùn và đâm sâu
đến phần cán dao.
Một số lưu ý :
Hầu hết các thông tin có thể kết luận đó là bề rộng lớn nhất của lưỡi dao, chiều dài gần
đúng của lưỡi dao và có một lưỡi sắc hay không? Nếu đâm ở góc xiên hay vuông góc với
đường Langer, điều đầu tiên là phải định hướng lại cạnh vết thương để thấy hình thái thật
sự của lưỡi dao.
Không bao giờ có thể xác định chính xác hung khí đã gây án ngoài trừ trường hợp mũi
dao bị gãy và còn găm lại trong cơ thể nạn nhân.
Nếu không tìm thấy vết máu trên lưỡi dao thì nên kiểm tra phần cán dao. Thậm chí mặc
dù không tìm thấy vết máu trên hung khí thì cũng nên phân tích những chất thu được trên
lưỡi dao hoặc kẽ dao.
Con dao được tìm thấy còn nằm trong cơ thể nạn nhân. Để lấy ra, ngón cái và ngón trỏ
nên nắm lấy phần cán nằm ngay liền kề với phần da.
Không có máu trên tay thì không phù hợp với trường hợp tự tử bằng cách cắt cổ, nhưng
có thể xảy ra nếu đâm vào ngực hay bụng. Không tìm thấy hung khí tại hiện trường có
thể là án mạng bởi vì hung thủ thường không để lại hung khí ở hịên trường gây án. Hiếm
khi nạn nhân tự tử còn sống đủ lâu để lau sạch vũ khí và cất nó đi chỗ khác. Và cũng có
trường hợp kẻ giết người để lại hung khí gần xác chết để làm giả một vụ tự tử.
5.Kiểu chết:
Án mạng :
- Thường có nhiều vết đâm trên khắp cơ thể nạn nhân.
- Hầu hết các vết đâm này không đủ độ sâu để đe dọa tính mạng. Phần lớn những vết đâm
mà gây chết người sẽ liên quan đến vùng ngực hoặc bụng.
- Chết thường xảy ra khá nhanh vì mất máu.
- Chèn ép tim không là nguyên nhân chính gây chết. Hầu hết chết là do sự phối hợp các
nguyên nhân tràn máu màng phổi, mất máu và tràn máu màng ngoài tim.
- Đâm vào tim làm tổn thương nặng động mạch vành trái trước xuống gây chết rất nhanh.
- Đâm vào tâm nhĩ hoặc mạch máu lớn xuất phát từ tim và về tim thường nghiêm trọng
hơn so với đâm vào tâm thất vì cơ tâm thất co thắt nên làm chậm hoặc ngưng chảy máu.
- Vết đâm chí mạng thường là vào tim hoặc động mạch chủ. Tử vong do những vết thương
chỉ tổn thương phổi thường ít gặp hơn, nếu có thì nguyên nhân do mất máu nhiều với tràn
máu màng phổi lượng lớn, tràn khí màng phổi cũng có thể xảy ra.
- Việc thăm dò vết đâm không được khuyến cáo, trong lúc thăm dò, với một lực rất nhỏ
cũng sẽ gây ra nhiều sai lệch trên đường đi của vết thương.
7.Vết đâm-cắt :
Đây là vết đâm được chuyển thành một vết cắt. Ban đầu là một vết đâm, nhưng sau đó con dao
thay vì được rút ra ngay thì lại được kéo về phía hung thủ, cắt qua mô, kéo dài vết thương trên da
làm cho vết thương có chiều dài lớn hơn chiều sâu.
Thông thường không thể nói đựơc hướng của dao được rút ra qua các mô lúc khám nghiệm một
vết thương đơn thuần. Cách duy nhất để phân biệt là nếu có khía hay hình chạc ba ở một đầu của
vết thương thì lưỡi dao đã được kéo về đầu này.
Không thể nào đánh giá chính xác lực mà hung thủ đã dùng để đâm chết nạn nhân. Tuy nhiên,
sau khi so sánh và đáng giá mối tương quan của mỗi trường hợp trong bốn trường hợp sau đây
thì có thể xác định một lực cần để tạo ra vết đâm gây chết người:
- Tình trạng hung khí: đầu nhọn hay tù, lưỡi sắc hay cùn, lưỡi dày hay mỏng, có hai cạnh
sắc hay chỉ có một. Một con dao với mũi nhọn, có hai cạnh sắc với lưỡi sắc mỏng thì chỉ
cần một lực nhẹ có thể đâm xuyên qua mô và các cơ quan so với loại dao có một cạnh
săc, mũi tù, lưỡi cùn.
- Kháng lực của các mô hay tạng khác nhau: đâm xuyên qua da, sụn, và xương, là những
cấu trúc cứng thì lực phải mạnh hơn so với lực đâm qua các mô mềm như mô mỡ. Vì
vậy, mô, cơ quan bị đâm xuyên vào sẽ cho biết lực đâm của hung thủ.
- Chiều dài và độ sâu của vết thương. Một con dao dài 2 inch gây ra vết thương sâu 4 inch
thì phải dùng một lực khá mạnh.
Chảy máu từ những vết cắt hoặc vết đâm sau chết thường ít hơn tổn thương xảy ra trước chết.
Khi nạn nhân bị đâm nhiều nhát và gây chảy máu rất nhiều thì vết đâm cuối có thể không gây
chảy máu. Trong trường hợp đó, giám định viên sẽ gặp khó khăn trong việc xác định vết đâm
này xảy ra trước chết hay xảy ra sớm sau chết.
II.Vết cắt :
Khái niệm :
- Vết thương do cắt bị gây ra bởi vật có cạnh sắc, vết thương có chiều dài lớn hơn độ sâu.
- Chiều dài và chiều sâu của vết thương không cung cấp thông tin về hung khí
Vết cắt :
Bờ vết thương sắc gọn
Kông có sây sát hay bầm tụ máu xung quanh vết thương.
Không có cầu tổ chức ở đáy vết thương.
Vết rách :
Là thương tích xé rách da do những vật tù gây ra
Bờ sây sát thô ráp
Cầu tổ chức ở đáy vết thương.
Chú ý : hung khí có cạnh không đều, cùn hay cạnh có khía có thể tạo nên vết cắt có bờ
không đều, bầm dập hoặc có sây sát ở bờ vết thương bởi vì vết thương được tạo ra chủ
yếu do áp lực của hung khí hơn là do bờ cắt của nó. Dù vậy, đáy vết thương sẽ không có
cầu tổ chức.
Vết cắt do tự sát, một dấu hiệu thường thấy là thương tích ướm.
- Vết ướm : thường rất nông và chưa đi qua lớp da do người tự tử cố gắng cắt vào
da nhưng bởi vì đau hoặc là còn lưỡng lự nên thay vì cắt ngay một nhát sâu từ
đầu, họ lại cắt những vết cắt nông cho đến cuối cùng khi họ có đủ dũng khí để cắt
nhát quyết định. Trong những vụ án mạng thì thỉnh thoảng ta cũng gặp thương
tích ướm ở cổ. Điều này có thể là do sự kháng cự lại của nạn nhân với sự tấn công
của hung thủ hoặc là do kẻ sát nhân do dự khi cắt cổ họng nạn nhân.
- Vết cắt chết người trên cánh tay hầu như luôn là do tự sát. Trong mọi cố gắng để
tự sát thì cắt cổ tay là một cách tệ.
- Trong những trường hợp tự sát, nạn nhân thuận tay phải
sẽ cắt vào cổ tay hoặc cẳng tay trái và ngược lại. Những
vết thương này thông thường là ở mặt duỗi và cạnh bên
quay của cánh tay.
Vết thương do tự vệ : ở bàn tay do cố gắng nắm lấy lưỡi dao;
mặt sau cẳng tay (mặt duỗi) và phần trên cánh tay và bên bờ trụ
của cẳng tay. Hiếm khi vết thương do tự vệ có ở cẳng, bàn
chân.
- Vết chặt là vết thương được tạo ra từ một vật nặng, có cạnh sắc như rìu, dao rựa hoặc dao
chặt thịt.
Tính chất :
- Sự hiện diện của vết cắt ở bề mặt da kèm với gãy xương chỉ ra đây là vết chặt.
- Hung khí đã cắm vào xương để kéo nó ra hung thủ có thể phải xoay để rút nó ra và hành
động này đã gây ra gãy vỡ xương nằm ngay cạnh đó.
- Trong những vết thương tiếp tuyến với hộp sọ, hung khí có thể cắt nguyên một mảnh
xương tròn.
- Trong khi phần lớn các vết chặt đều có dạng một vết cắt ở bề mặt, một khi có sự kết hợp
của lực cắt và nghiền thì vết thương này vừa có đặc điểm của vết cắt và vết rách da.
- Dao chặt thịt vết thương sạch, hẹp và không có mảnh vỡ ở đường vào
- Rựa vết thương rộng hơn, bẩn hơn và có những mảnh vỡ nhỏ của xương ở ngõ vào và
gãy vỡ ở giường của vết cắt.
Vi thể : Dao chặt thịt gây ra là những đường vân mỏng, sắc và phân biệt. Rựa thì tạo ra
những đường vân to, thô nhưng khó phân biệt.
- Cánh quạt máy bay hay chân vịt tàu có thể gây ra những vết thương giống với vết chặt
trên cơ thể. Có chảy máu ra từ mô mềm thì có thể khá chắc chắn đó là vết thương xảy ra
trước chết. Nếu không có chảy máu thì không khẳng định được là xảy ra sau chết bởi vì
việc ngâm lâu trong nước có thể dẫn đến rửa sạch hết máu từ vết thương tạo cho vết
thương có hình thái của vết thương xảy ra sau chết.
1.Đặc điềm vết thương: chiều dài lớn hơn độ sâu, bờ vết thương thường sắc gọn, không có xây
xát bầm tụ máu xung quanh, không có cầu tổ chức ở đáy vết thương, 2 đầu nông, ở giữa sâu,
kèm gãy xương. Vết thương gây ra do:
A. Đâm
B. Cắt
C. Chém
D. Chặt
E. Đâm cắt
2.Trình bày đặc điểm quan trọng nhất của hung khí gây ra vết thương do đâm
A. Đầu nhọn
B. Cạnh sắc
C. Vừa nhọn vừa sắc
D. Nặng
E. Vừa nặng vừa sắc
3.Hung khí có một cạnh sắc, một cành tày, cuối cạnh sắc là đoạn tày. Nếu hung khí đâm thì có
thể gây ra hình thái vết thương gì
A. 2 đầu nhọn
B. 1 đầu nhọn 1 đầu tù
C. 2 đầu tù
D. A+B đúng
E. Tất cả đều đúng
4.Vết thương hình khe, 2 đầu nhọn, bờ mép sắc gọn, kèm bầm tụ máu xung quanh, chiều sâu vết
thương > chiều dài vết thương. Mô tả đặc điểm hung khí gây ra vết thương này là:
A. Cơ chế đâm
B. 2 cạnh sắc
C. 1 cạnh sắc
D. A+B đúng
E. A+B+C đúng
5.Vết thương đâm vào tim gây tử vong nhanh chóng thường nằm ở, chọn câu sai :
A. Tâm nhĩ
B. Tâm thất
C. Động mạch phổi
D. Động mạch vành
E. Động mạch chủ
6.Vết thương đâm vào tim gây tử vong nhanh chóng thường nằm ở :
A. Tâm nhĩ
B. Tâm thất
19.Vết thương hình dạng đường ray xe lửa, hung khí như thế nào ?
20.Chiều dài của hung khí X cm, chiều rộng Y cm, khi đâm vào ngực, bụng, sọ thì thay đổi thế
nào ?
21.Trong các hình thái vết thương cái nào có thể phân biệt được hung khí ?
Câu 2.Phân biệt hình thái vết thương gây ra do vật tày và vật sắc nhọn :
o Vế t đâm:
Vế t thương hình khe có hai đầ u nho ̣n (0,25đ).
Vế t thương hiǹ h khe mô ̣t đầ u tù, mô ̣t đầ u nho ̣n (0,25đ).
o Vế t chém: Vế t thương hình khe có 2 đầ u nho ̣n có đuôi tâ ̣n nông ra da (0,5đ).
o Vế t thương ca ̣nh tù do hung khí gây ra:
Xây sát da (0,25đ).
Bầ m tu ̣ máu (0,25đ).
Rách da (0,25đ).
Rách da kèm gãy xương (0,25đ).
Câu 4.Một hung khí có một đầu nhọn, một cạnh sắc, cuối cạnh sắc là cạnh tù, một cạnh tù,
bề mặt trơn láng. có cán. Khi CHÉM tạo ra vết thương có hình thái như thế nào?
Vế t thương có các đă ̣c điể m sau
- Hiǹ h khe
- Bờ mép sắ c go ̣n
- Hai đầ u vế t thương có đuôi tâ ̣n nông ra da
- Không có cầ u tổ chức ta ̣i đáy vế t thương
Câu 5.Mô tả hung khí tạo vết thương có hình thái: hình khe, 2 đầu tận nông ra da, bờ mép
vết thương nham nhở, đáy vết thương còn cầu tổ chức
Vết thương do bị chém bằng hung khí là vật sắc, cùn có bề mặt thô ráp.
Mỗi ý được 0,5đ.
Câu 7. Vết thương dạng khe, 2 đầu nhọn, bờ sắc gọn : mô tả hung khí
Câu 8. VT dạng khe, 1 bờ nham nhở 1 bờ sắc gọn. Mặt vát da hướng vào trong là sắc gọn, hướng
ra ngoài là nha, nhỏ, 2 đầu tù : mô tả hung khí
Câu 9. Hung khí hình tròn, đầun họn thô ráp, đâm hướng xiên : vết thương như thế nào
Câu 10. Hung khí vật tày, nóng, bám bụi đâm xuyên da : vết thương như thế nào
Câu 12.
a) Hình thái vết thương: vết thương hình khe, bờ mép sắc gọn, không có bầm tụ máu xung
quanh, có chiều sâu lớn hơn chiều dài, có 3 đầu gồm 1 đầu tù và 2 đầu nhọn
Hãy mô tả hung khí gây ra vết thương này
b) Hình thái vết thương: vết thương hình khe, bờ mép sắc gọn, bầm tụ máu xung quanh, có
chiều sâu lớn hơn chiều dài, có 3 đầu nhọn
Hãy mô tả hung khí gây ra vết thương này
Cơ chế hình thành : đâm , lút cán ,
Đặc điểm hung khí :
- Đầu : nhọn
- Bản : rộng dẹt
- Bề mặt : trơn láng
- Cạnh : 2 cạnh sắc (rút ra không cùng hướng đâm) / 3 cạnh sắc
Chấn thương trực tiếp : do một vật tác động vào đầu hoặc ngược lại và gây nên tổn
thương tại ngay vị trí tác động. Bao gồm :
- Tổn thương mô mềm (visible - invisible scalp hemorrhage, subgaleal hemorrhage) :
sây sát, bầm tụ máu, rách da đầu
- Vỡ hộp sọ (skull fracture)
- Dập não
- Tụ máu ngoài màng cứng (epidural hemorrhage)
- Xuất huyết trong não.
Chấn thương gia tốc : do tăng tốc hoặc giảm tốc gây ra bởi chuyển động đột ngột của
đầu sau va chạm tạo nên chênh lệch áp lực nội sọ và các thành phần của não chịu lực
căng và xé. Bao gồm :
- Tụ máu dưới màng cứng (subdural hemorrhage)
- Tổn thương sợi trục lan tỏa.
- Xuất huyết khoang dưới nhện (subarachnoid hemorrhage)
Cơ chế :
- Khi đầu tác động vào một vật, sọ tại vùng bị tác động sẽ lõm cong vào trong, sọ các vùng
xung quanh sẽ uốn cong ra ngoài Vỡ sọ không xảy ra tại điểm tác động mà xảy ra tại
các điểm uốn cong ra ngoài.
- Các vết nứt sọ bắt đầu tại bề mặt ngoài của sọ. Sau khi sọ lõm vào trong sẽ có khuynh
hướng trở lại hình dáng ban đầu. Khi phần cong vào trong trở lại vị trí ban đầu, vết nứt sọ
sẽ lan từ vết nứt ban đầu đến vùng bị tác động và hướng ngược lại. Vết nứt có thể lan đến
điểm tác động hay không và có thể đi qua điểm tác động.
Sự hình thành vết nứt, mức độ biến dạng của hộp sọ và mức độ lan rộng của vết nứt tuỳ thuộc
vào các yếu tố sau:
- Số lượng tóc
- Độ dày da đầu
- Hình dáng và độ dày của hộp sọ
- Độ đàn hồi của xương tại điểm tác động
- Hình dáng, cân nặng và độ đặc của vật tác động hay do đầu tác động.
- Vận tốc của vật hay đầu khi tác động.
2 Vỡ lún sọ Vật có diện tích nhỏ và lực tác động lớn hay ngược lại.
Da đầu không phản ảnh tổn thương hộp sọ.
Hộp sọ vỡ ngay điểm tác động là chính.
Sọ vỡ lún và có thể thành nhiều mảnh.
Nếu năng lượng không đủ để gây vỡ sọ hoàn toàn thì sẽ gây vỡ
bản ngoài sọ. Vỡ bản ngoài sọ luôn luôn lớn hơn vỡ bản trong sọ.
Hầu hết trường hợp vỡ lún thì có kèm theo rách da đầu.
Ví dụ : búa đập vào đầu.
3 1 2
Kiểu gãy bản lề và gãy hình vòng nhẫn của nền sọ không phụ thuộc vào vị trí tác động.
3.Dập não:
4 Dập não cùng bên trung gian -Dập não chảy máu trong các cấu trúc sâu của não
-Điểm tác động nằm giữa tổn thương cùng bên và đối bên.
-Không nên nhầm lẫn với các tổn thương do trượt.
-Các tổn thương này chỉ gặp trong té ngã
-Ngoài ra còn gặp trong rung lắc trẻ nhỏ
- Khái niệm : là trường hợp tụ máu trong nhu mô não mà không liên
tục với bề mặt não
- Thường gặp trong tổn thương thùy trán và thùy thái dương do bị
tác động trực tiếp.
- Khác với đụng dập gây chảy máu, tụ máu trong não thì máu tụ
thường đồng nhất và có giới hạn rõ, trong dập não thì vừa có nhu
mô não dập vừa có máu tụ xen kẽ.
- Xuất huyết trong não là nó xuất hiện vài giờ hay vài ngày sau chấn
thương. Nhiều trường hợp khi chụp CT thì không thấy tụ máu
nhưng sau đó vài giờ hoặc vài ngày thì sẽ thấy xuất hiện máu tụ.
- Tụ máu trong não nguyên phát tại vùng hạch đáy não chiếm
khoảng 10% các trường hợp tử vong do chấn thương đầu.
- Tụ máu trong não thường do tác động tăng tốc hay giảm tốc.
- Thương kèm với tổn thương sợi trục lan tỏa và dập não do trượt.
- Trong 90% trường hợp chấn thương là do té ngã hoặc tai nạn giao thông.
Những thương tích này khá thường gặp trong vỡ hộp sọ.
Một số trường hợp đặc biệt :
- Vỡ sọ gây rách não mà da đầu vẫn còn nguyên vẹn.
- Không vỡ hộp sọ nhưng rách thể chai hoặc vách trong suốt của não do vật tày tác động
thường xảy ra ở những người trẻ có cấu trúc xương còn đàn hồi.
Rách não thường ít chảy máu, và điều này được cho rằng là do co thắt các động mạch não.
Cơ chế :
- Khi có sự kéo dãn quá mức của đầu, như trong tai nạn giao thông khi nạn nhân bị văng ra
phía trước, mặt đập vào kiếng chắn gió hay bộ phận che nắng của ô tô, trong khi phần
thân thì vẫn tiếp tục di chuyển về phía trước theo quán tính, thì có thể tổn thương thân
não. Tổn thương có thể từ xé rách và xuất huyết ở tháp, chỗ nối hành não và cầu não, đến
đứt thân não tại chỗ nối hành cầu não. Những chấn thương này thường kèm theo vỡ nền
sọ và gãy các đốt cổ. Xuất huyết dưới nhện thường xuất hiện trên thân não.
Màng cứng là một màng mô liên kết màu xám gắn chặt vào mặt trong của hộp sọ. Các động
mạch chạy dọc ở mặt trong của màng cứng tại nơi mà nó gắn kết với hộp sọ.
Khoang giữa màng cứng và hộp sọ gọi là khoang ngoài màng cứng, nó là khoang ảo. Còn
khoảng trống giữa màng cứng và não là khoang dưới màng cứng, là khoang thật.
Não còn được bao bọc bởi 2 màng mỏng trong suốt khác là màng nuôi và màng nhện. Khoang
dưới nhện là khoang nằm giữa màng nhện và màng nuôi. Khoang này và khoang dưới màng
cứng chứa dịch. Dịch trong xoang dưới nhện là dịch não tủy được tiết ra từ đám rối màng mạch
đi ra xoang dưới nhện qua lỗ Magendi của não thất IV.
●Tụ máu ngoài màng cứng ít gặp, hiếm gặp ở người già và trẻ em dưới 2 tuổi do lúc này màng
cứng dính chặt vào hộp sọ.
●Thường xảy ra trong chấn thương do té ngã hoặc tai nạn giao thông.
●Thường do tổn thương hộp sọ và mạch máu màng não tại vị trí tác động :
Tụ máu ngoài màng cứng hầu hết là kết quả của tổn thương xương thái dương và làm tổn
thương động mạch màng não giữa. Do đó phần lớn tụ máu đều ở vùng thái dương. Ít gặp
hơn là rách động mạch màng não trước và sau gây tụ máu ngoài màng cứng vùng trán –
thái dương hay thái dương – đỉnh.
Tụ máu ngoài màng cứng do tổn thương tĩnh mạch thường do rách các xoang tĩnh mạch
màng cứng, tĩnh mạch não giữa hoặc tĩnh mạch tủy.
Tụ máu ngoài màng cứng hiếm khi không kèm vỡ sọ, chỉ gặp trong trường hợp tụ máu ở
trẻ em do xương còn khá đàn hồi nên màng cứng có thể bị tách khỏi hộp sọ nhưng không
có vỡ sọ. Trong trường hợp này thì lượng máu chảy ra ít.
- Khi bị tác động, hộp sọ sẽ uốn cong vào trong làm căng và xé rách các mạch máu màng
não, nên 90-95% trường hợp có vớ nứt sọ tại vị trí có tụ máu ngoài màng cứng.
- Vùng màng cứng tách ra khỏi hộp sọ ngày càng rộng thêm do các động mạch đang chảy
máu và gây tích tụ máu ở đây.
- Hệ thống tĩnh mạch không đủ áp lực để gây tách rời màng cứng khỏi hộp sọ nên hiếm khi
tụ máu ngoài màng cứng do tổn thương tĩnh mạch.
Hình thái : tụ máu ngoài màng cứng có dạng hình đĩa, dày và thường chỉ thấy một bên.
Triệu chứng :
Chấn thương do tăng tốc hoặc giảm tốc gây ra bởi chuyển động đột ngột của đầu sau va chạm tạo
nên chênh lệch áp lực nội sọ và các thành phần của não chịu lực căng và xé.
Một lực tác động vào đầu có thể gây tăng tốc :
- Tăng tốc thẳng : lực tác động đi qua trung tâm của đầu làm cho đầu chuyển động tăng tốc
theo đường thẳng, và thường là do lực tác động ở phía trước hoặc sau của đầu.
- Tăng tốc xoay : lực không đi qua trung tâm của đầu cho nên đầu sẽ xoay quanh trục của
đầu, và thường là do lực tác động vào 2 bên đầu thì gây cả 2 loại tăng tốc.
- Kiểu phối hợp của cả 2 loại tăng tốc : gây nhiều tổn thương hơn là chỉ có một loại tăng
tốc thẳng do tác động xoay gây căng xé não.
Cơ chế :
- Do đứt các tĩnh mạch bắt cầu dẫn máu từ bề mặt não về các xoang tĩnh mạch màng cứng.
- Tổn thương xảy ra khi đầu bị đập vào một bề mặt làm cho não có chuyển động tăng tốc
nhanh làm xé rách các tĩnh mạch bắt cầu.
- Tốc độ càng nhanh, thời gian càng ngắn thì tụ máu dưới màng cứng càng dễ xảy ra hơn
so với tổn thương sợi trục lan tỏa.
- Trong tai nạn giao thông, nạn nhân thường đập vào một bề mặt hấp thu năng lượng nên
làm kéo dài thời gian tác động, do đó tổn thương sợi trục lan tỏa hay xảy ra hơn tụ máu
dưới màng cứng.
- Lực tác động gây ra tăng tốc hay giảm tốc cũng gây ra tổn thương nhu mô não gây tử
vong. Lực tác động này cũng có thể gây tổn thương sợi trục lan tỏa.
- Những tổn thương nặng nề này có thể hồi phục hoàn toàn hoặc có thể tử vong.
Đối tượng : thường xảy ra ở những người lớn tuổi hoặc nghiện rượu.
Nguyên nhân :
Phần lớn tụ máu dưới màng cứng có liên quan đến té ngã nhưng thường không có dập
não đối bên.
Trên lâm sàng có khoảng 72% tụ máu dưới màng cứng là do té ngã hoặc do mưu sát,
24% do tai nạn giao thông. Điều này ngược lại với tổn thương sợi trục lan tỏa với 89% là
do tai nạn giao thông, chỉ có 10% là liên quan té ngã hay án mạng.
Không như trong tụ máu ngoài màng cứng, tụ máu dưới màng cứng thường không có kèm vỡ sọ
hay bất kì tổn thương khác có thể nhìn thấy được của não
Tụ máu dưới màng cứng có thể : cấp (trong vòng 72h), bán cấp (3 ngày – 3 tuần) hay mạn tính
(trên 3 tuần).
Triệu chứng khởi đầu rất nhanh, tuy nhiên ở những người già thì triệu chứng có thể xuất
hiện muộn. Nó có thể là triệu chứng tái phát do xuất huyết tái diễn.
Ở người trưởng thành, tụ máu dưới màng cứng cấp có thể gây tử vong nếu lượng máu tụ
vượt quá 50ml. Với những trường hợp chảy máu chậm thì não có thể chịu đựng được
lượng máu lớn hơn mà không biểu hiện triệu chứng.
Ở trẻ nhỏ thì chỉ cần một lượng máu nhỏ cũng gây nguy hiểm tính mạng.
Một chảy máu mới có thể xuất hiện trên nền tụ máu dưới màng cứng cũ :
Nó có thể do tự nhiên hoặc do một chấn thương mới. Nó xuất phát từ những xoang mạch
ở lớp màng mới hình thành trong quá trình tổ chức khối máu tụ cũ. Sự tiến triển nhanh
của một tụ máu gây khối choáng chỗ có thể kèm phù não sẽ gây chèn ép thân não và gây
chảy máu thứ phát (xuất huyết Duret). Nó có thể tiến triển trong vòng 30 phút sau chấn
thương.
Do khối máu tụ đè lên cả các mào và rãnh não nên các cuộn não vẫn giữ được đường
viền bình thường của chúng. Tuy nhiên khối máu tụ gây khối choáng chỗ ở một bên bán
cầu sẽ làm cho các cuộn não đối bên bị ép phẳng do bán cầu đối bên bị đẩy lệch, ép lên
màng cứng và hộp sọ. Nếu chảy máu tái phát bên trong khối máu tụ dưới màng cứng đã
được tổ chức hóa, thì các cuộn não ở đây cũng sẽ bị ép phẳng do màng tổ chức sợi sẽ đè
vào các cuộn não.
Nếu nạn nhân không chết ngay thì khối máu tụ sẽ dần dần được bao bọc lại bởi các tế bào của
màng cứng nên vỏ bọc này sẽ dính với màng cứng mà không dính vào màng nhện. Khi đó nó sẽ
đè lên các mào của cuộn não bên dưới làm chúng trở nên phẳng ra. Tuy nhiên không có tình
trạng đẩy lệch bán cầu não đối bên như trong tụ máu dưới màng cứng cấp.
- Khoảng 24h sau khi hình thành khối máu tụ, một lớp màng sợi xuất phát từ màng cứng sẽ
được bắt đầu hình thành bên dưới khối máu tụ.
- Các nguyên bào sợi họat động bắt đầu tại vị trí nối với màng cứng vào thời điểm 36h, và
một lớp nguyên bào sợi sẽ được thấy rõ vào ngày thứ 4-5.
- Các mao mạch bắt đầu xâm nhập vào khối máu tụ vào ngày thứ 5 đến ngày thứ 10.
Các đại thực bào hemosiderin cũng hiện diện và hồng cầu bị thoái hoá hoà tan trong
huyết tương.
- Ngày thứ 8 thì một lớp màng có bề dày 12-14 tế bào xuất hiện.
- Những mao mạch mới hình thành là nguyên nhân gây chảy máu tái phát. Mặt tiếp xúc với
màng nhện của khối máu được lót bởi lớp tế bào sợi được hình thành vào ngày thứ 14 là
thời điểm mà lớp màng tiếp xúc với màng cứng đạt độ dày bằng 1/3 – ½ độ dày màng
cứng.
- Sau 3-4 tuần thì khối máu tụ được bao bọc hoàn toàn bởi lớp màng sợi.
- Sau 4-5 tuần thì phần màng gần màng nhện đã dày bằng một nữa màng cứng, còn lớp tiếp
xúc với màng cứng đã dày bằng màng cứng. Cục máu đông bị hóa lỏng hoàn toàn và các
đại thực bào hemosiderin hiện diện trong lớp màng.
- Sau 1-3 tháng màng này bị hyalin hóa với nhiều mao mạch bên trong cục máu đông và
dần đi đến việc hấp thu hoàn toàn, chỉ để lại một lớp màng màu vàng dính chặt vào màng
cứng.
Có những người không biểu hiện triệu chứng sau nhiều ngày đến nhiều tháng sau chấn thương
do tụ máu dưới màng cứng mạn tính :
- Thay vì được tổ chức hóa và hấp thu từ từ như trong tụ máu dưới màng cứng cấp, khối
máu tụ mạn này có xu hướng lớn dần lên cho đến khi có triệu chứng rõ rệt.
- Những đối tượng thường bị tụ máu mạn thường là trẻ em dưới 6 tháng tuổi hay lớn hơn
do có khoang hộp sọ có thể chịu được sự tích tụ lượng máu lớn. Ở trẻ nhỏ thì do các khớp
sọ chưa liền hoàn toàn, ở những người lớn hơn thì do teo não làm cho khoang sọ lớn hơn.
Ở trẻ em, tụ máu dưới màng cứng gây tăng thể tích hộp sọ. Còn ở người lớn thì tụ máu
dưới màng cứng có xu hướng xuất hiện ở những người nghiện rượu.
- Do thời gian từ lúc chấn thương cho đến lúc có triệu chứng khá dài nên phần lớn các
trường hợp không thể ghi nhận tiền căn chấn thương.
- Tụ máu dưới màng cứng mạn tính thường ít gặp trong pháp y.
Căn nguyên của tụ máu dưới màng cứng mạn được cho rằng là do sự chảy máu tái phát của
những xoang mạch mỏng trong lớp màng mới hình thành để bao bọc khối máu tụ.
- Tuy nhiên Lee và cộng sự lại cho rằng tụ máu mạn này là do các nang nước dưới màng
cứng. Chúng là những túi chứa dịch não tủy của khoang ngoài màng cứng.
- Chấn thương có thể gây thoát dịch não tủy qua khoang dưới nhện tạo ra những nang này.
Khái niệm :
- Tổn thương sợi trục lan tỏa là thuật ngữ lâm sàng mô tả hiện tượng tổn thương lan tỏa các
sợi trục thần kinh có kèm mất sự thức tỉnh hay hôn mê kéo dài hơn 6h.
- Nguyên nhân của tình trạng hôn mê kéo dài mà không kèm khối choáng chỗ nội sọ hiện
diện ở gần ½ các trường hợp có chấn thương đầu nặng.
Phân loại :
Thể nhẹ :
- Hôn mê kéo dài 6-24h.
- Tổn thương chủ yếu về phần chức năng với số ít sợi trục bị tổn thương, thoái hóa.
Thể trung bình
- Hôn mê kéo dài trên 24h
- Không có triệu chứng nổi bật của rối loạn chức năng thân não
Thể nặng :
- Hôn mê trên 24h
- Kèm theo dấu hiệu tổn thương thân não.
- Tổn thương chủ yếu là đứt các sợi trục và gây ngưng mọi chức năng của sợi trục
dẫn truyền thường gây mất chức năng hoặc tử vong.
- Cơ chế là đứt các các sợi trục trong chất trắng ở bán cầu đại não, thể chai và phần
trên thân não.
- Xuất huyết khu trú có thể thấy trên đại thể ở thể chai và một phần tư sau bên của
phần bụng thân não.
Mô học :
Sợi trục
Thân nơron
- Có thể thay đổi từ nhẹ đến nặng, thậm chí gây tử vong.
- Tùy thuộc vào : lực tác động, thời gian tác động và hướng chuyển động.
- Chuyển động theo mặt phẳng ngang mới gây tổn thương nặng. Còn những chuyển động
theo chiều dọc thì chỉ gây tổn thương nhẹ đến trung bình.
- Tác động nhẹ thì chỉ đủ gây những rối lọan về chức năng sinh lý mà không ảnh hưởng về
mặt giải phẫu hồi phục hoàn toàn hoặc thoái hóa các sợi trục.
- Tác động càng lớn, nó sẽ dẫn đến tổn thương sinh lý không hồi phục sự thoái hóa các
sợi trục; bên cạnh đó là tổn thương về cấu trúc của sợi trục có thể gây chấm dứt tất cả
hoạt động.
- Các thí nghiệm cho thấy không chỉ lực tác động gây tăng tốc mà còn thời gian xảy ra gia
tốc này cũng góp phần tạo ra DAI. Một tác động tăng tốc trong thời gian rất ngắn thì tạo
ra tụ máu dưới màng cứng, nếu thời gian dài hơn thì sẽ gây ra DAI.
Chấn động :
- Định nghĩa : là một chấn thương gây ra những thay đổi về tinh thần có thể có hoặc không
có mất ý thức.
- Những chấn động nhẹ, có thể gây ra tình trạng lú lẫn hoặc mất định hướng nhưng không
gây hôn mê.
- Quên ngược chiều có thể có. Nếu có thì nó sẽ tiến triển trong 5-10 phút sau chấn thương,
có một số ít hồi phục nhưng phần lớn vẫn còn lại di chứng.
Bộ Sách Lâm Sàng Chuyên Khoa : Y học Pháp y 57
- Trong chấn động não, mất ý thức xuất hiện ngay lập tức, và có thể tỉnh lại sau vài phút
nhưng vẫn còn lú lẫn, quên ngược chiều họăc quên thuận chiều kéo dài đến vài giờ
(thường dưới 6h) sau chấn thương.
- Chấn động mà được nhắc đến trên lâm sàng được cho rằng là một biểu hiện của tổn
thương não lan tỏa, với không có hoặc không rõ tổn thương thực thể không hồi phục
được của não.
- Bằng phương pháp dấu ấn miễn dịch với tiền chất của protein B-amyloid đã phát hiện ra
nhiều vị trí tổn thương sợi trục.
- Định nghĩa : nạn nhân đã có một chấn thương nhỏ ở đầu, sau đó bị tiếp một chấn thương
đầu khác trước khi triệu chứng của lần tác động đầu biến mất. N
- Nạn nhân này thường có triệu chứng lơ mơ, họ có thể hoàn thành hành động đang diễn ra
ngay tại thời điểm xảy ra cú đánh thứ 2, nhưng sau đó nhanh chóng rơi vào hôn
mê.Thường thấy kiểu chấn thương này ở những vận động viên, tỉ lệ tử vong gần 50%.
Nhiều trường hợp tử vong do vật tày tác động vào đầu mà không ghi nhận một tổn thương về
giải phẫu của não. Những trường hợp này rơi vào 2 kiểu là : DAI và chấn động não.
Những trường hợp này ghi nhận ở những nạn nhân đang say rượu, bị đánh vào đầu khá nhiều,
sau đó đổ sập xuống và tử vong. Giải phẫu tử thi ghi nhận có nhiều tổn thương mô mềm vùng
mặt nhưng không có bất kì xuất huyết nội sọ nào cũng như không có nứt vỡ hộp sọ ngoại trừ gãy
xương mũi. Mở vùng cổ cũng không có tổn thương đáng kể, lượng rượu trong máu cao nhưng
chưa đến liều gây chết.
Nguyên nhân dẫn đến tử vong của các trường hợp trên là suy hô hấp do chấn động não cùng với
say rượu. Chấn động não tự bản thân nó cũng gây suy hô hấp, nhưng hiếm và ít nguy hiểm tính
mạng hơn là kết hợp với tình trạng say rượu.
Rượu làm gia tăng khả năng gây suy hô hấp của chấn động não.
Xuất huyết dưới nhện là di chứng sau chấn thương thường gặp nhất.
Vị trí :
Khu trú hay lan tỏa, ít hay nhiều. Trong những trường hợp tử vong nhanh thường có xuất
huyết dưới nhện nhiều ổ.
Hầu hết, máu lan tự nhiên bao phủ hết cả 2 bán cầu não, và một phần nhỏ đọng lại ở mặt
bụng não.
Một lượng lớn máu tập trung ở phần đáy não thì thường là do bệnh lý hơn là chấn
thương, như vỡ các túi phình gây tử vong
Không có sự tương xứng giữa lượng máu xuất huyết khoang dưới nhện với mức độ tổn thương
não; hay mức độ nghiêm trọng của vết thương bề ngoài với tổn thương bên trong khoang dưới
nhện, não. Thậm chí có vết rách não lớn, nhưng hhông có xuất huyết do sự co mạch kéo dài, có
thể đến gần 1h sau chấn thương.
Xuất huyết dưới nhện có thể gây não úng thủy thứ phát do dịch não tủy không được hấp thu
tương ứng với lượng được sản xuất ra. Bởi vì xuất huyết dưới nhện làm mất chức năng hấp thu
của các nhung mao ở màng nhện.
Xuất huyết dưới nhện có thể thứ phát sau chết do sự phân hủy các tế bào máu, mất tính toàn vẹn
của mạch máu và rò rỉ máu vào khoang dưới nhện. Họăc có thể do trong quá trình lấy não ra lúc
giải phẫu tử thi làm đứt các mạch máu não, rách màng nhện gây chảy máu sau chết. Mặc dù xuất
huyết dưới nhện trong những trường hợp này nhỏ nhưng nếu não không được lấy ngay ra thì một
thời gian sau sẽ tạo nên đám xuất huyết lớn.
Vị trí :
- Khu trú ngay cạnh vị trí bị chấn thương hay lan tỏa ở một hay cả 2 bên bán cầu.
- Sự phồng một bên bán cầu não thường cùng bên với tụ máu dưới màng cứng.
- Sự phồng não thứ phát có thể gây hiệu ứng khối choáng chỗ nghiêm trọng hơn là khối
máu tụ.
Cơ chế :
- Do tăng thể tích máu nội mạch theo sau sự dãn mạch hay tăng lượng nước tuyệt đội
chứa trong mô não hoặc là kết hợp cả 2.
- Phù não = sự tăng thể tích nước chứa trong mô não, thường bị hiểu sai là cùng nghĩa
phồng não.
- Phồng não do tăng thể tích máu nội mạch kéo dài đủ lâu sẽ dẫn đến phù não do tăng tính
thấm thành mạch.
Mức độ :
- Mức độ phồng não không phản ánh mức độ nghiêm trọng của tổn thương.
- Phồng não do sung huyết có thể xuất hiện trong vòng 20 phút sau chấn thương.
- Sự phồng não nhanh chóng trong giai đọan đầu gợi ý một tình trạng sung huyết não.
- Tổn thương nặng thì một phồng não lan tỏa với mức độ nặng thường xuất hiện ngay lập
tức mà không có sự hồi tỉnh của nạn nhân. Tuy nhiên đa phần thì phồng não không xảy ra
ngay lập tức mà phải vài phút đến vài giờ sau chấn thương.
- Phồng não muộn thường là lan tỏa và liên quan những chấn thương não ít nghiêm trọng.
Điển hình là bệnh nhân bị dập não, hồi tỉnh lại nhưng vẫn trong trạng thái sững sờ, sau đó
rơi vào hôn mê vài phút đến vài giờ sau đó. Cho đến hiện nay thì người ta vẫn cho rằng
trẻ em dễ bị phồng não lan tỏa hơn so với người lớn, nhưng đa phần lại lành tính, trong
khi người lớn nếu có phồng não lan tỏa thì thường tiên lượng xấu.
Nếu khối choáng chỗ nội sọ tăng thể tích nhanh hoặc não phù nhanh thì sẽ gây ra 3 loại thoát vị :
thoát vị hạnh nhân tiểu não, thoát vị qua lều và thoát vị qua liềm.
Thoát vị não có thể 2 bên đối xứng trong trường hợp phồng não, hoặc không đối xứng nếu là do
khối choáng chỗ.
1.Những vết thương do chấn thương sọ não trực tiếp thường gặp là (chọn câu sai)
A. Tổn thương phần mềm
B. Vỡ hộp sọ
C. Tụ máu ngoài màng cứng
D. Vết thương rách, thủng não
E. Xuất huyết trong não
2.Vỡ sợ có mấy loại hình thái?
A. 3
B. 4
C. 5
D. 6
E. 7
3.Kiểu vỡ nên sọ mà đường gãy chạy từ nền sọ trước bên phải xuyên qua hố yên đến nền sọ sau
bên trái.Đây là kiểu vỡ bản lề số mấy
A. I
B. II
C. III
D. IV
4.Kiểu vỡ bản lề III nằm ở ?
A. Nền sọ trước
B. Nền sọ giữa
C. Từ nền sọ trước sang nền sọ sau
D. Nền sọ sau
5.Dập não đối bên thường thấy ở vị trí (chọn câu sai)
A. Thái dương
B. Trán
C. Rãnh ổ mắt
D. Chẩm
6.Loại tồn thương nào pháp y không kết luận được
A. Dập não
B. Tổn thương mạch máu lan tỏa
C. Tổn thương sợi trục lan tỏa
D. Chấn động não
7.Dập não có mấy loại hình thái
A. 3
B. 4
(1) Dập não cùng bên tổn thương do phần xương không bị uốn cong dội lại tạo một lực căng gây
tổn thương não.
(2) Dập não đối bên tổn thương xảy ra ở vùng não đối xứng với điểm mà lực tác động do não bị
dội vào xương sọ sau khi bị tác động. Tổn thương đối bên thường là do té ngã.
(3) Dập não kèm vỡ sọ: trong trường hợp này không có sự liên quan trực tiếp với điểm tác động.
Điểm bị vỡ có thể xa với điểm tác động.
(4) Dập não cùng bên trung gian: đó là dập não chảy máu trong các cấu trúc sâu của não như chất
trắng, hạch đáy não, thế chai, thân não. Trong trường hợp này điểm tác động nằm giữa tổn
thương cùng bên và đối bên. Trường hợp này không nên nhầm lẫn với các tổn thương do trượt.
(6) Dập não do thoát vị: xảy ra do phần giữa thùy thái dương đè vào lều não hoặc do hạnh nhân
tiểu não thoát vị qua lỗ chẩm. Tổn thương này không phụ thuộc vào vị trí và hướng tác động.
Câu 4. Trình bày sự khác nhau về hình thái tổn thương gây ra do đánh và té ngã
I.Tổng quan :
Cường độ dòng điện (A) là yếu tố quan trọng nhất trong tử vong do điện giật do.
Khi tiếp xúc điện, co cơ gây ra các vận động vô thức : Lưng và cổ ưỡn ra sau; Tay xoay trong,
khuỷu cong, bàn tay nắm; Hông và gối thẳng, bàn chân duỗi; Nếu một người đang cầm vật gì đó
thì sẽ cầm chặt nó.
Yếu tố chính để quyết định cường độ dòng điện đi vào cơ thể là điện trở () :
Khi dòng điện đi vào cơ thể nó sẽ đi từ điểm tiếp xúc tới điểm tiếp đất theo đường ngắn
nhất, thường gặp nhất là từ tay đến chân hoặc từ tay đến tay.
Thời gian để dòng điện gây chết là tùy thuộc vào cường độ dòng điện.
VD : Cường độ dòng điện rất thấp thì phải tiếp xúc trong một thời gian lâu mới gây tử
vong do ngạt. Điện dùng trong sinh hoạt gia đình, cơ chế chết thường là rung thất, thời
gian tiếp xúc cần để gây rung thất từ vài phần mười giây đến vài giây và tùy thuộc vào
cường độ.
Điện thế 120V và điện trở của da là 1000, thì cường độ dòng điện đi vào cơ thể là
120mA. Trong trường hợp này, tiếp xúc trong 5s là đủ để gây rung thất.
Nếu điểm tiếp xúc là da ẩm và mỏng thì điện trở của da có thể chỉ còn 100, khi đó
dòng điện đi vào cơ thể là 1200mA, rung thất xảy ra chỉ trong 0,1s. Với dòng điện có
điện thế cao luôn luôn gây ngưng tim.
Dòng điện có điện thế thấp sẽ gây rung thất và không gây mất ý thức tức thì.
Dòng điện có điện thế cao có thể có tổn thương do nhiệt không hồi phục.
Trong khi tim có thể đập trở lại sau ngưng tim
Hô hấp vẫn không hồi phục do liệt trung tâm hô hấp. Điều này có lẽ do trung tâm
hô hấp ở thân não bị phá hủy do nhiệt độ cao.
Các ảnh hưởng tăng thân nhiệt của dòng điện cao thế như gây bỏng độ 3 tại vị trí
tiếp xúc và nhiệt độ của não có thể lên 630C.
1.Bỏng điện:
Tất cả các trường hợp dòng điện có điện thế cao và khoảng ½ các trường hợp dòng điện có điện
thế thấp trên cơ thể nạn nhân có vết bỏng điện.
Trong trường hợp điện thế thấp có thể thấy những dấu vết này tại điểm vào hoặc điểm ra hoặc cả
hai hoặc không thấy. Nếu diện tiếp xúc rộng và điện trở thấp thì chúng ta sẽ không thấy được
bỏng.
Trong những trường hợp tử vong nghi ngờ do điện mà không thấy vết bỏng điện thì chẩn đoán
cần dựa vào :
- Hoàn cảnh chết
- Giám định các dụng cụ gây rò rỉ điện
- Vi thể
Theo Knight:
- Dòng điện đi qua da sẽ làm nóng dịch mô và tạo thành hơi tách các lớp của thượng
bì hay vùng nối thượng bì-hạ bì và tạo nên vết phồng giộp.
- Vết phồng này có thể vỡ ra nếu dòng điện tiếp tục đi qua hay nếu vùng bị tương đối lớn.
- Khi dòng điện ngưng lại, vết phồng này nguội lạnh và xẹp xuống. Vết phồng giộp bị xẹp
thường có hình vòng , tạo nên một vòng màu trắng hay màu xám ở xung quanh và vùng
trung tâm lõm xuống.
1 2
- Có một khoảng khí giữa da và vật dòng điện đi qua tạo thành tia lửa điện.
- Nếu không khí khô, dòng điện 1000V phát tia lửa điện vài mm, dòng điện 1000 kV
phóng tia lửa điện khoảng 35cm.
- Tia lửa điện có nhiệt độ rất cao (khoảng 4000V) như đầu bugi làm cho lớp sừng của da
bị nóng chảy một vùng nhỏ.
- Khi nguội, lớp sừng này hòa vào trong một nốt màu hơi nâu, cứng thường nổi lên phía
trên bề mặt xung quanh, được gọi là “tổn thương tia lửa điện”.
3)Trong nhiều trường hợp bị bỏng điện có 2 kiểu này thường kết hợp với nhau do sự di chuyển
của tay hay của cơ thể khi bị chạm điện hay thỉnh thoảng do hình dáng của vật dẫn điện không
đều. Khi thời gian dẫn điện kéo dài, điện thế cao hay vật dẫn điện lớn, bỏng điện có thể nặng với
những vùng lớn da bị phồng dộp, lớp sừng bị than hóa hay là có hình ảnh phối hợp của nóng
chảy da, lột biểu bì và ứ máu.
5.Kiểu chết:
- Tai nạn: thường gặp
- Tự tử: thỉnh thoảng.
- Án mạng: hiếm gặp.
Tia sét được hình thành khi mặt dưới đám mây tích điện. Mặt dưới đám mây tích điện âm nên tia
sét được phóng ra tích điện âm. Tuy nhiên 5% trong số đó tích điện dương, thường là ở vùng núi.
Tia sét có thể gây tổn thương hoặc tử vong bằng cách truyền điện trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc
dẫn truyền :
- Do dẫn truyền là khi tia sét đánh vào một vật bằng kim loại, sau đó dòng điện được dẫn
truyền đến nạn nhân đang tiếp xúc với vật đó.
- Do gián tiếp là khi tia sét đánh vào một vật làm bắn ra các tia lửa điện, những tia lửa điện
này phóng vào nạn nhân đang đứng gần đó mà không tiếp xúc với vật.
Cơ chế chết do sét : ngưng hô hấp tuần hoàn (tổn thương trung tâm hô hấp) hay do bỏng nhiệt.
Hình thái :
Trên người nạn nhân có thể tìm thấy quần áo bị xé rách, tóc cháy khô, vết bỏng da do dây
kéo và những vật bằng kim loại khác bị nung nóng bởi tia sét và vết bỏng tại vị trí vào và
ra của tia sét. Bỏng da không nghiêm trọng nhưng lúc nào cũng hiện diện. Về mặt mô học
thì tổn thương giống như bỏng điện. Nếu nạn nhân ngồi trong một phương tiện giao
thông bằng kim loại, như xe hơi hoặc tàu hỏa, thì thương tích cực kì nhỏ.
1.Yếu tố nào quan trọng nhất của dòng điện tạo ra vết bỏng điện
A. Cường độ dòng điện
B. Điện thế
C. Điện trở
D. Tất cả đều đúng
2.Cơ chết do điện nào có dấu hiệu ngạt :
A. Dòng điện qua não
B. Dòng điện qua cơ thể không qua tim
C. Dòng điện qua tim
D. Điện thế cao gây chết cháy
E. A+B đúng
3.Một nạn nhân, 30 tuổi, được phát hiện chết trong bồn tắm. Phát hiện máy sấy tóc trong bồn tắm
đang trong tình trạng mở. Phát hiện của pháp y: nấm bọt trào ra từ miệng, co cứng tử thi sớm, vết
bỏng điện. Nguyên nhân chết của nạn nhân là:
A. Chết do điện
B. Đột tử
C. Chết do nhiệt
D. Chết đuối
E. Cận ngạt nước
4.Nguyên nhân gây vết bỏng do điện:
A. Điện năng của dòng điện có thể biến đổi thành nhiệt ở mức độ gây bỏng ở điểm có
điện trở cao
B. Điện năng của dòng diện có thể biến đổi thành nhiệt ở mức độ gây bỏng ở điểm có điện
thế cao
C. Điện năng của dòng diện có thể biến đổi thành nhiệt ở mức độ gây bỏng ở điểm có cường
độ cao
D. Tất cả đều sai
5.Đặc điểm của vết bỏng điện (chọn câu sai):
A. Một vùng phồng có viền xung quanh màu hồng, trung tâm lõm mãu trắng khô
B. Có màu hơi vàng hoặc đen
C. Thỉnh thoảng có bụi kim loại trên vết thương
D. Khoang trống trong thượng bì, bào tương có hốc, nhân kéo dài
E. Có thể phân biệt được vết bỏng điện trước chết và sau chết.
1.Quá khứ :
Ngạt thường được hiểu là tình trạng thiếu oxy, nhưng theo tiếng Hy Lạp cổ có nghĩa là không
có mạch. Ý tưởng này xuất phát từ ý tưởng không khí cần cho sự sống, không khí di chuyển
trong mạch máu và dừng lại khi vô mạch xảy ra. Như vậy, bằng trực giác, người Hy Lạp cổ đã
hiểu hô hấp và tuần hoàn liên kết chặt chẽ như thế nào và như vậy, nếu một trong 2 chức năng bị
ngưng thì mối liên kết này không còn.
2.Hiện tại:
Hô hấp bao gồm không chỉ trao đổi khí đơn thuần, mà còn là sự vận chuyển khí và chuyển hóa
khí, do đó có rất nhiều con đường trong đó quá trình phức tạp này có thể bị gián đoạn. Nếu cuối
cùng sự can thiệp này dẫn đến chết thì được gọi là ngạt. Nhiệm vụ của y pháp là làm sáng tỏ
khi nào là chết tự nhiên, khi nào không liên quan đến ngạt.
Ngạt bên ngoài bao gồm tất cả các dạng tắc nghẽn cơ học quá trình hô hấp bao gồm tắc nghẽn
hay hạn chế lỗ hô hấp và đường hô hấp cũng như tắc nghẽn hay hạn chế sự chuyển động hô hấp.
Ngạt bên trong được xem như gián đoạn vận chuyển oxy và phá vỡ nó tại mức độ tế bào. Tuy
nhiên, sự khác biệt chính giữa ngạt do thiếu oxy và ngạt không có oxy là sự phóng thích CO2.
Trong ngạt không có oxy, CO2 được giữ trong cơ thể, trong khi đó, ngạt do thiếu oxy thì không
khí hít vào mang một lượng oxy không đủ và CO2 không được giữ lại.
Ngạt cục bộ (local suffocation) (thiếu oxy cục bộ: ischemic lack of oxygen)
Thiếu oxy toàn thể được xem như không có oxy, hoặc ở bên ngoài (như do thiếu oxy trong
không khí hít vào, thể tích không khí xung quanh bị hạn chế [hiện diện của khí trơ, lên trên cao]),
hoặc bên trong (phù phổi, các dẫn chất của cyanid, ngộ độc với methamoglobin máu hay ngộ
độc CO) và những bệnh như nhược cơ gravis.
- 1/ Thì khó thở: khó thở thì thở ra với nhịp thở tăng, tím tái, nhịp tim tăng. Thì này kéo dài
60-80 giây.
- 2/ Thì co giật: mất ý thức, ức chế vận động hô hấp, sung huyết mặt, nhịp tim chậm (kích
thích phế vị), cao huyết áp, co giật. Kéo dài 2 phút.
- 3/ Ngưng hô hấp trước chết: không có hoạt động hô hấp, liệt các trung tâm hô hấp và vận
mạch, nhịp tim nhanh, cao huyết áp. Kéo dài 60-120 giây.
- 4/ Thở nhanh sâu do phản xạ hô hấp nguyên thủy.
- 5/ Cuối cùng, mất vận động: mất các phản xạ, dãn đồng tử. Kéo dài 1-4 phút.
Thì một với nhịp thở tăng thường không gặp trong ngạt do thiếu oxy.
5.Mức độ dễ bị tổn thương của các tế bào do thiếu oxy: khả năng hồi phục
Hồi sức thành công phụ thuộc vào thời gian sống và khả năng hồi phục của các tạng. Yếu tố giới
hạn là mức độ dễ bị tổn thương của các tế bào đối với tình trạng thiếu oxy và thiếu máu; có sự
khác nhau giữa các vùng trong hệ thống thần kinh trung ương.
- Trong trường hợp thiếu máu toàn bộ, việc ngưng chức năng tế bào thần kinh bắt đầu ở vỏ
não sau 8-15 giây, nhưng chỉ sau 25-35 giây trong hạch thân não. Phá hủy cấu trúc
không hồi phục các tế bào vùng vỏ não sau khoảng 3 phút, trong hạch đáy não sau 6-7
phút và trong trung tâm phế vị khoảng 9-10 phút.
- Ngược lại, tế bào cơ tim có khả năng chịu đựng tình trạng thiếu oxy cao hơn nhiều, điều
này giải thích cho trường hợp chết do treo cổ với tình trạng thiếu máu não hoàn toàn
nhưng tim vẫn có thể đập 10-20 phút sau.
a. Thời gian dung nạp hô hấp hồi phục: là thời gian oxy được dự trữ được sử dụng hết,
khoảng 5-8 giây đối với các tế bào thần kinh. Điều này cho phép kết luận nạn nhân mất ý
thức rất nhanh.
b. Thời gian sống: khoảng thời gian trước khi chức năng tế bào ngưng hoàn toàn, khoảng
30 giây đối với đối với các vùng thần kinh nhạy cảm nhất.
c. Thời gian để hồi sức thành công: khoảng thời gian trước khi sự phá hủy cấu trúc trở nên
không hồi phục và hồi sức không còn thành công, khoảng 6-10 phút đối với não với nhiệt
độ cơ thể bình thường.
a. Tím tái
Thiếu oxy làm cho hemoglobin có màu rất đậm và nhìn qua da sẽ có màu xanh. Các vị trí có
thể quan sát rõ tím tái là da và niêm mạc vùng mặt và móng tay. Tuy nhiên, nếu người chết nằm
sấp thì khó xác định.
Có bốn cơ chế bệnh sinh ảnh hưởng nhiều đến hiện tượng này:
Ứ máu ở các tĩnh mạch bị ép trong khi các động mạch không bị gián đoạn.
Thiếu oxy gây phá hủy tế bào nội mô.
Tăng huyết áp trong giai đoạn co giật.
Ảnh hưởng tại chỗ do hút hay ép vào những vùng đã xác định.
Tuy nhiên, chấm xuất huyết có thể xảy ra sau chết như chết ở tư thế đầu thấp, do đó, cần phải thu
thập nhiều thông tin về hoàn cảnh tử vong và khám hiện trường. Ngoài ra, chấm xuất huyết có
thể xảy ra trong các trường hợp chết khác như suy tim…
e. Xuất phân, nước tiểu và tinh dịch (Xuất phân và nước tiểu ít gặp).
Dương vật có thể cương và có thể xuất tinh.
c. Phù phổi: khi khoang ngực được mở, thường thấy phổi sung huyết. Có thể thấy những
bóng khí nhỏ, đặc biệt ở ngoại vi của nhu mô phổi. Thỉnh thoảng có thể thấy các bóng khí
xếp thành chuỗi dọc theo vách giải phẫu (khí thủng mô kẽ). Phổi sung huyết và thường
có màu tím hơn là màu đỏ tươi. Ít gặp phù phổi xuất huyết trên diện cắt. Phù phổi cho
thấy tình trạng ngạt kéo dài.
d. Xuất huyết các tạng : một dạng nổi bật và đặc trưng khác của ngạt là chảy máu dưới niêm
mạc của khoang phổi, đặc biệt dưới lá tạng. các sang thương này được gọi là chấm
Tardieu. Xuất huyết thường xảy ra ở thượng tâm mạc (đặc biệt ở thành sau của tim), ở
lớp áo ngoài của động mạch chủ và động mạch phổi.
e. Loãng máu
f. Sung huyết tạng
g. Ứ máu tim phải
- Các kiểu được biết rõ nhất là sự biến màu đỏ gạch của các tế bào thần kinh trong vỏ não,
các tế bào Purkinje có hốc, nhạt màu và phù não.
- Trong ngạt toàn thể, các dấu hiệu mô học trong phổi thường bao gồm vỡ một phần các
vách phế nang, chảy máu và tích tụ dịch phù trong phế nang. Điều này xảy ra do cố thở
trước khi chết. Trong ngạt kéo dài có thể thấy các tế bào khổng lồ nhiều nhân trong phế
nang, nhưng không đặc hiệu.
- Ở gan, các tế bào gan thoái hóa hốc là dấu hiệu thường gặp nhất. Trong bào tương có các
thể vùi giống đám mây hay bong bóng nhỏ. Các dấu hiệu này thường thấy trong các
trường hợp ngạt kéo dài. Do thoái hóa hốc có thể thấy trong nhiều tình trạng khác ảnh
hương đến tuần hoàn và chuyển hóa của gan,nên các dấu hiệu này không chắc chắn.
- Các dấu hiệu khác như tạo hốc trong biểu mô ống thận, tăng tiết hormon tuyến giáp.
Treo cổ là dạng thường gặp nhất do hay được chọn để tự tử. Bị treo cổ ít gặp hơn và tai nạn là ít
gặp nhất.
●Xuất phân, nước tiểu và tinh dịch. Đây là hậu quả của tăng hoạt động phản xạ trong giai đoạn
co giật là các cơ thắt dãn.
●Vết hoen tử thi tập trung ở vùng thấp của cơ thể, thường ở ngọn chi. Vết hoen sẽ thay đổi nếu
tử thi bị dịch chuyển trước khi hoen cố định. Tuy nhiên, các chấm xuất huyết tại vị trí hoen ban
đầu sẽ hiện rõ hơn do việc thay đổi vị trí làm vết hoen ban đầu mờ đi giúp cho việc xác định tư
thế ban đầu.
Dấu hiệu khám trong thay đổi rất nhiều tùy thuộc vào vị trí và độ cứng của dây treo và kiểu treo.
●Dấu treo bên trong được tìm thấy trong mô mềm dưới da đó là mô mỡ bị ép và khô, chảy máu
trong vùng bị ép là rất hiếm.
●Chảy máu trong mô mềm và cơ vùng cổ. Thường gặp là những thay đổi của sự phân bố máu
trong vùng trước thanh quản, đặc biệt trong lớp sâu nhất của cơ vùng cổ phía trước cột sống,
cũng như cạnh các mạch máu. Chảy máu trong phần thấp của cơ ức đòn chũm tại vị trí bám vào
xương đòn rất thường gặp. Trong những trường hợp treo hoàn toàn và dằn xé mạnh như rơi hay
nhảy khỏi ghế…các cơ vùng cổ bị xé rách một phần hay hoàn toàn.
●Vỡ ngang nội mạc động mạch cảnh và chảy máu quanh mạch, thường gặp trong trường hợp
treo cổ có dằn xé như nhảy khỏi dụng cụ treo…
●Chảy máu trong phần mềm của thanh quản như trong niêm mạc thanh quản, dây thanh, cơ
trong thanh quản. Chảy máu trong phần mềm của cột sống cổ. Chảy máu trong chỗ nối các cung
đốt sống cổ, xung quanh hạch cạnh sống cũng như trong đĩa gian đốt sống.
●Chảy máu trong những lớp ngoài của các đĩa gian đốt sống
của cột sống lưng (chảy máu Simon), thường gặp ở những
người trẻ khi bị treo hoàn toàn. Biểu hiện của chảy máu này là
những dải màu đỏ tím đậm giữa các thân đốt sống. Chảy máu
này không đi sâu vào bên trong thân đốt sống và cũng không
đặc trưng cho treo cổ.
4.Các xét nghiệm:
Cho đến nay không có một xét nghiệm sinh hóa nào có giá trị
cho việc chẩn đoán chết do treo cổ.
Tóm lại: chấm xuất huyết và vệt nước dãi là dấu hiệu quan trọng nhất, mặc dù các dấu hiệu
phải quan tâm như điều tra hiện trường, giám định dụng cụ treo.
Nguyên nhân tử vong thường là phối hợp của thiếu máu do động mạch cảnh bị ép và tắc nghẽn
đường thở do chèn ép thanh quản và khí quản.
Siết cổ bằng một hoặc hai tay hoặc kẹp cổ giữa cánh tay và cẳng tay.
Không thể tự tử bằng cách siết cổ bằng tay do khi mất ý thức thì tay tự động được nới ra.
Cơ chế :
- Điển hình trong siết cổ bằng tay là các mạch máu tắc nghẽn không hoàn toàn, đặc biệt là
các mạch máu vùng cổ, do đó các dấu hiệu sung huyết thường rất nhiều. Trong hầu hết
trường hợp nạn nhân sẽ chống cự lại, do đó cổ không bị ép liên tục, điều này làm cho sự
sung huyết càng nhiều hơn.
- Vật tày tác động mạnh vào vùng thanh quản có thể gây tử vong do phù khu trú và gãy
xương.
- Nếu tác động lên vùng thể cảnh có thể gây phản xạ vận mạch – phế vị dẫn đến ngưng
tim.
Sự nhạy cảm đặc biệt của hạ hầu và thanh quản đối với kích thích cũng có thể gây đột tử như
trong trường hợp chìm đột ngột trong nước lạnh hay thức ăn trào vào thanh quản.
Hình thái :
- Điển hình nhưng không phải tất cả, cổ có các vết hằn đầu ngón tay hay của móng tay và
những dấu vết do nạn nhân chống cự lại.
- Nếu cổ bị khóa chặt bằng tay, có thể không thấy các tổn thương bên ngoài
- Thường có xuất huyết đáng kể trong mô mềm vùng cổ, trong lưỡi và đáy lưỡi.
- Có thể có vỡ xương móng và xương thanh quản kèm với tình trạng xuất huyết xung
quanh và bên trong thanh quản.
Vi thể : thường thấy phù phổi cấp và xuất huyết phế nang lan tỏa.
1.Trong khám nghiệm trường hợp chết do treo cổ thường quan tâm đến dấu hiệu nào ? (chọn câu
sai)
Tử thiết là một khâu quan trọng nhưng chỉ là một phần trong quá trình điều tra và cần các phân
tích về mặt sinh hóa và mô học, quan sát vi thể, thử diatom, các thông tin trước chết và khi phát
hiện tử thi.
Định nghĩa :
Ngạt nước là chết do chìm trong một dịch nào đó.
Cận ngạt nước là trường hợp nạn nhân chết sau khi được vớt lên, cấp cứu và sống được
24 giờ.
II.Sinh lý bệnh :
Pha một xảy ra ngay khi nạn nhân chìm trong nước và nín thở tiếp tục cho đến khi nạn nhân
buột phải thở (thời điểm này được xác định bởi sự kết hợp nồng độ CO2 cao và oxy thấp) nạn
nhân hít nước vào vô thức tạo nên tình trạng cần oxy nghiêm trọng dưới nước (nạn nhân có thể
ói và hít phải chất chứa trong dạ dày) tiếp tục hít trong vài phút cho đến khi ngưng hô hấp.
Thiếu oxy não tiến triển dẫn đến tình trạng phá hủy não không hồi phục và nạn nhân tử vong.
Khoảng thời gian không có oxy não không hồi phục tùy thuộc vào nhiều yếu tố bao gồm :
- Tuổi
- Sức khỏe trước đó
- Khả năng nhịn thở
- Nhiệt độ nước
Nói chung ý thức sẽ mất khoảng 3 phút sau khi chìm trong nước.
Loại nước hít vào (nước ngọt hay nước mặn) có lẽ có ảnh hưởng rất ít đến việc nạn nhân sống
hay không, yếu tố xác định là sự thay đổi chất surfactant của phổi.
Nước ngọt làm thay đổi chất này, trong khi nước mặn làm hòa loãng và làm trôi mất chất này :
Nước ngọt vào phổi gây phá hủy chất surfactant và làm xẹp phế nang dẫn đến tình trạng
tạo shunt trong phổi qua mô phổi bị xẹp gây nên tình trạng thiếu tưới máu phổi và thiếu
oxy máu sau đó. Nước ngọt được hít vào có thể đi vào máu.
Hít nước mặn làm nước chuyển từ máu vào phế nang, cơ chế này tự nó gây nên thiếu oxy
máu và phá hủy nội mô phế nang và mao mạch.
Hít nước cũng có thể gây phản xạ giao cảm làm tăng trở kháng đường thở ngoại biên với tình
trạng co mạch phổi, gây tăng áp động mạch phổi, giảm compliance phổi và giảm tỷ lệ thông khí-
đổ đầy.
Sự phá hủy chất surfactant thậm chí tiếp tục xảy ra sau khi đã được cứu sống.
Nước ngọt là nước nhược trương khi nước vào phế nang, nó được hấp thu nhanh vào bên
trong mạch máu phổi làm tăng thể tích tuần hoàn lên 35% gây :
Pha loãng máu làm giảm natri máu, làm giảm dẫn truyền thần kinh trong tim, não và cơ.
Vỡ hồng cầu do quá trình sinh lý thụ động ( thẩm thấu), làm tăng kali máu, gây loạn nhịp
tim.
Ngạt đóng vai trò nhỏ trong cơ chế gây tử vong.
Nước mặn là nước ưu trương khi vào phế nang, nó sẽ rút nước từ các mạch máu trong phổi
vào phế nang gây ra :
Tăng thể nước trong phế nang làm cản trở trao đổi khí dẫn đến ngạt
Cô đặc máu dẫn đến tăng natri máu. Tuy nhiên cơ thể điều chỉnh bằng các cơ chế hormon
và huyết động nên rối loạn điện giải và huyết động ít hơn ngạt nước ngọt.
Ngạt có lẽ đóng vai trò chính. Ngạt nước mặn thường cần nhiều thời gian hơn ngạt nước ngọt
(có thể gấp 5 lần).
Trong một số trường hợp, thiếu oxy não gây tử vong không phải là thứ phát do nước gây tắc
nghẽn đường thở. Chết sau khi chìm trong nước có thể xảy ra rất nhanh và thời gian trôi qua
không đủ để ngạt nước xảy ra: những người này được mô tả là chết đuối khô.
a. Phản xạ ngưng tim đột ngột giống phản xạ co mạch giao cảm
Liên quan đến :
- Kích thích thần kinh X
- Kích thích các đầu mút thần kinh trong da do chìm đột ngột trong nước lạnh gây
kích thích quá mức.
- Kích thích này có thể xảy ra do rượu.
- Kích thích quá mức các đầu mút thần kinh trong niêm mạc của màng nhĩ, hầu,
họng do tiếp xúc đột ngột với nước lạnh.
- Một lượng nước nhỏ vào khí quản tự nó cũng có thể gây phản xạ ngưng tim trước
khi nó đủ để gây tắc nghẽn đường thở.
b. Đóng nắp thanh môn - co thắt thanh quản gây tắc đường thở dẫn đến tử vong.
Có rất ít bằng chứng hỗ trợ cho cơ chế này, do tắc nghẽn đường thở trên đủ để gây tử
vong cần một thời gian dài để thanh quản đóng không cho nước vào.
Những ca này tử thiết và xét nghiệm sinh hóa không tìm thấy bằng cớ của ngạt nước.
4.Thể tích nước vào phổi bao nhiêu thì có khả năng gây tử vong?
- Thể tích nước lớn hơn 11ml/kg làm thay đổi thể tích máu.
- Thể tích lớn hơn 22ml/kg làm thay đổi điện giải đáng kể.
- Thể tích trên 44ml/kg gây rung thất.
20-22 ml/kg là đủ để gây ngạt nước
Dấu da ngỗng (cutis anserina hay gooseflesh): đây là dấu hiệu thường gặp khi cơ thể
chìm vào trong nước. Đây là hiện tượng thụ động do co các cơ dựng lông khi cơ thể tiếp
xúc với nhiệt độ lạnh, nhưng không đặc trưng.
- Sự hiện diện dịch bọt trong đường thở không phải là dấu hiệu đặc hiệu của ngạt nước.
Dịch này bao gồm protein xuất tiết, chất surfactant và nước, thường có màu trắng nhưng
thỉnh thoảng có màu hồng giống hình ảnh phù trong suy tim trái. Nói chung, trong ngạt
nước, thể tích dịch bọt này nhiều hơn trong phù phổi do các nguyên nhân khác. Trọng
lượng phổi tăng, tuy nhiên không tăng trong trường hợp ngạt khô.
Dịch bọt
- Phổi :
Có thể phồng căng, chiếm đầy khoang phổi với các dấu ấn lõm xương sườn và
chứa đầy nước, còn được gọi là nước phế thủng. Nếu không có dấu hiệu này cũng
không loại trừ ngạt nước.
Bề mặt phổi thường nhợt nhạt và kêu lép bép khi sờ.
Hai phổi căng phồng làm phổi lấn vào đường giữa xương ức và có thể gặp nhau
tại đây. Sau khi lấy phổi ra lồng ngực, phổi không xẹp do ứ đầy nước trong đường
thở dưới. Có thể thấy các bóng nước dưới màng phổi do tắc nghẽn khí quản.
●Phổi:
- Phổi phải được cắt nhiều lát bao gồm ít nhất một lát ở trung tâm, một lát ở ngoại biên của
mỗi thùy phổi. Ngoài nhuộm HE, cần nhuộm sợi đàn hồi và sợi lưới. Các phương pháp
đặc biệt có lợi khi phổi bị thối rữa.
- Các dấu hiệu quan trọng nhất là sung huyết mô kẽ, phù, đại thực bào phế nang, xuất
huyết phế nang và vỡ thành phế nang – thủy phế thủng. Trên kính hiển vi quang học mô
phổi có các đám phù phổi cấp với hình ảnh các phế nang dãn, vách phế nang mỏng và
Mạch máu
Mô kẽ
Một dấu hiệu mô học quan trọng của phổi là dãn cấp các phế nang với vách phế nang căng, dài
và mỏng và ép các mao mạch phế nang. Đây là dấu hiệu quan trọng nhất trong ngạt nước.
Khi cơ thể bị phân hủy nặng cần phải đánh giá cấu trúc sợi lưới và sợi đàn hồi của các phế nang.
Dịch trong mô kẽ
Có thể chia thành 4 độ phù phổi cấp dựa vào mức độ căng dãn của vách phế nang, các thay đổi
của sợi lưới và sự ép các mao mạch phế nang:
Sung huyết và phù là các dấu hiệu không đặc trưng để chỉ điểm chết do ngạt nước với các trường
hợp phổi bị thối rữa và không bị thối rữa. Số lượng đại thực bào phế nang có thể được sử dụng
như một yếu tố chỉ điểm bằng cách kiểm tra số lượng đại thực bào phế nang trong mô phổi từ các
trường hợp ngạt nước ngọt, các trường hợp đột tử và các trường hợp phế thủng.
- Trong các trường hợp ngạt nước, tỷ lệ đại thực bào phế nang/mô kẽ giảm hơn so với các
nhóm khác nhưng không đến mức độ đặc trưng.
- Các dấu hiệu đặc trưng thủy thủng phổi với hầu hết các phế nang dãn và trống được giải
thích bằng ảnh hưởng thải ra ngoài của nước gây ngạt dẫn đến lấy đi một phần đại thực
bào ra khỏi phế nang.
- Trong các trường hợp phổi bị thối rữa, sự phá hủy cấu trúc phổi liên quan đến sự thối rữa
làm cho các đại thực bào bong khỏi vách phế nang, do đó hạn chế giá trị của đánh giá .
Não, tim, gan… có tình trạng sung huyết nặng kèm với xuất huyết quanh mạch và phù nội mô
mao mạch. Những thay đổi này chứng tỏ có giảm oxy máu nhưng không đặc hiệu. Kiểm tra tim
để tìm các bệnh lý tim, kiểm tra não để tìm bệnh lý động kinh.
- Thu 2 mẫu nước, mỗi mẫu 100ml tại vị trí cơ thể được tìm thấy, chứa trong lọ sạch và
một mẫu lấy từ cạo đá tại vị trí gần nước.
- Khuê tảo được làm sạch bằng cách nhúng vào hydrogen peroxide (130 vol%) tại nhiệt độ
80oC trong 12 giờ trước khi được cố định bằng Naphrax.
- Mẫu mô nên lấy khi tử thiết là phổi ngoại vi, thận, gan, não và tủy xương. Khuê tảo được
trích xuất bằng nhiều phương pháp khác nhau bao gồm việc dùng HCL hay acid citric,
dùng men proteinase K hay đốt thành tro.
- Chẩn đoán dương tính khi có 20 khuê tảo trong 100 µl cặn lắng được trích xuất từ 10gam
phổi. Với các tạng khác khác là 5 khuê tảo.
1.Ở giai đoạn phân hủy, các tử thi chết đuối đều nổi trên mặt nước. Tại thời điểm nổi : tử thi nam
nằm úp, tử thi nữ nằm ngửa. Giải thích hiện tượng này
I.Bỏng :
Lửa
- Da sẽ nóng chảy và biến thành than
Tiếp xúc (một dạng khác của bỏng lửa)
- Tia lửa phát ra do sự đánh lửa ban đầu làm nổ các khí, chất hóa dầu, hay các chất
có phân tử nhỏ gây cháy.
- Tia lửa ban đầu có thời gian xảy ra ngắn chỉ trong vài giây, toàn bộ bề mặt tiếp
xúc bị bỏng đồng nhất
- Thường gây bỏng sâu cục bộ và tóc bị cháy xém.
- Tia lửa phát ra rất ngắn, bỏng thường nông do da dẫn nhiệt thấp.
- Với nhiệt độ bề mặt ≥ 700C, hoại tử xuyên biểu bì xảy ra không đến 1 giây.
Nhiệt bức xạ (một dạng của sóng điện từ)
- Không có sự tiếp xúc của cơ thể với lửa hay vật nóng
- Nhiệt độ không khí > 15000C sẽ gây ra bỏng độ 2 ở trên làn da trần trong chưa
đầy 10s.
- Ban đầu, da có trở nên đỏ và bỏng rộp ở vùng da mà bức xạ tác động đến.
- Nếu để ở nhiệt độ lạnh lâu thì vùng da này sẽ có màu nâu nhạt và dai.
- Phần lớn bỏng do bức xạ không ảnh hưởng đến tóc, ít nhất là ban đầu. Nếu như
tiếp xúc với bức xạ lâu thì có thể bị đốt thành than.
- Ba yếu tố để xác định mức độ nghiêm trọng của nó là:
Nhiệt độ của sóng nhiệt.
Thời gian tiếp xúc bức xạ.
Da có được quần áo che chở hay không.
Nước sôi (một dạng khác của bỏng tiếp xúc)
- Bỏng do dung dịch sôi có thể gây bỏng ngay cả trên vùng da được quần áo che
phủ.
Hóa chất
Vi sóng
Mức độ nghiêm trọng của vết bỏng do nhiệt tuỳ thuộc vào:
Ở người sống thì mức độ tổn thương da dựa vào phần trăm dịên tích da bề mặt bị tổn thương.
Điều này đựơc xác định theo “định luật số 9” :
Toàn bộ cơ thể là 100%
Đầu 9%
Mỗi chi trên là 9%
Mỗi chi dưới là 18%,
Phần thân trước là 18%
Phần thân sau 18%
Vùng hội âm là 1%.
Độ 1:
Độ 2:
- Kinh điển thì bỏng độ 2 khi vết thương có đỏ da, rộp và rỉ nước.
- Bỏng nông : tổn thương các lớp của thượng bì nhưng không phá huỷ hoàn toàn lớp đáy
và phù ở ranh giới giữa lớp thượng bì và lớp bì.
- Bỏng sâu : phá huỷ toàn bộ cấu trúc lớp thượng bì kể cả màng đáy, có thể có rộp da.
- Các phần phụ của da (lông, tuyến mồ hôi) không bị tổn hại và đóng vai trò là nguồn để
tái tạo lớp thượng bì. Bỏng độ hai lành không để lại sẹo.
- Hoại tử lớp thượng bì, lớp bì và phá huỷ các phần phụ của da.
- Bên ngoài thì vết thương có dạng như mảnh da dày màu trắng, khô, không có rộp da.
- Vết bỏng có thể có màu đen hoặc nâu do bị đốt cháy thành than hoặc do sự đóng vảy vết
thương.
- Những vết bỏng độ này khi lành để lại sẹo.
Độ 4:
Chú ý : Bề mặt của vết bỏng không cho ta biết được độ sâu của vết thương.
II.Chết cháy :
- Bỏng nặng có thể gây tụ máu ngoài màng cứng sau chết :
Khối máu tụ này khá dày (1,5cm) và lớn
Máu có màu socola, có hình tổ ong và dễ vỡ, thường nằm ở thuỳ trán, thuỳ đỉnh
và thái dương, vài trường hợp có thể lan đến thuỳ chẩm.
- Xương bị cháy thường thấy ở vùng mặt, có màu trắng xám, để lộ một mạng lưới mỏng ở
đầu gãy ở trên bề mặt vỏ xương và có thể vỡ vụn ra nếu lấy ra
- Tử thi chết cháy có thể có hình ảnh của tư thế thi đấu boxing đưa tay che chắn phía trước
mình. Do nhiệt làm đông cứng cơ, gây co các sợi cơ, làm co các chi không liên quan
đến việc nạn nhân cháy trước hay sau khi chết.
- Da có màu nâu nhạt, cứng, dày, có thể có rộp da. Rộp da hay mép da quanh vết rộp có
màu đỏ đều có thể có trước chết hoặc sau chết. Nhiệt làm co thắt các mao mạch dưới da
đẩy dịch máu ra ngoài tạo nên vết đỏ da và rộp da giống như phản ứng viêm sung huyết
xảy ra ở người sống.
- Muội than bám trong mũi miệng, thanh quản và khí phế quản. Có thể giúp ích phân biệt
trước và sau chết, nhưng không có muội than cũng không thể khẳng định là nạn nhân đã
chết trước đó do bệnh nhân có thể chết do ngộ độc trước khi hít đủ khói.
- Vết hoen tử thi, cơ và các tạng cũng như máu có màu đỏ anh đào. Màu đỏ anh đào cũng
có thể gặp trong ngộ độc các chất khác hoặc vết hoen tử thi có màu này khi để ở nhiệt độ
lạnh trong thời gian dài.
Đo nồng độ CO trong máu là bắt buộc.
- Không phải lúc nào cũng rõ ràng do nồng độ CO trong các đám cháy thường thấp hơn
liều gây chết
- Cyanua chỉ mang tính lý thuyết do lượng cyanua sinh ra trong đám cháy tương đối nhỏ và
khó xác định bằng xét nghiệm
- Sự thiếu oxy thường không thực tế do nếu thiếu oxy thì đám cháy đã tắt rồi.
- Ngoài ra còn có sự góp phần của : những bệnh có sẵn ở nạn nhân, thuốc, rượu
6.Hoả táng:
Trong lò hoả thiêu :
Đầu mặt cổ :
- Sau 10 phút da đầu và phần mềm cháy hết để trơ ra vòm sọ.
- Sau 20 phút thì bản ngoài bắt đầu nứt ra tại các khớp sọ.
- Sau 30 phút thì xương sọ có những đường vỡ lớn tạo thành các mảnh vỡ.
- Sau 40 phút thì vòm sọ cháy hết để trơ ra phần não cháy đen và teo nhỏ lại.
Xương mặt không còn mô mềm và tách rời nhau. Các phần mềm vùng cổ biến
mất hoặc cháy thành than.
- Sau 50 phút, nền sọ lộ ra, các xương mặt tách rời nhau.
- Sau 60 phút thì chỉ còn lõi của các xương vùng mặt và nền sọ.
Thân:
- Sau 20 phút, thành ngực đã bị cháy hết, lộ ra lớp cơ bị cháy, có vài trường hợp lộ
cả xương sườn với phần sụn đã cháy hết.
- Sau 30 phút, thành ngực và bụng đều cháy hết để lộ ra các nội tạng bị cháy đen và
teo nhỏ ngoại trừ ruột với phần màu đen ở trước và phần sau vẫn còn ẩm. Phần
trước của xương sườn hóa vôi.
- Sau 40 phút, xương sườn lộ ra hoàn toàn và hoá vôi đến đường nách sau. Các tạng
ở bụng ngực bị cháy teo lại và có bề mặt giống như bọt biển, ngoại trừ gan thì
phải đến sau 50 phút mới có hiện tượng này, và bị biến thành tro sau 60 phút.
Bộ Sách Lâm Sàng Chuyên Khoa : Y học Pháp y 103
Tứ chi :
- Sau 20 phút da của tay và chân đã cháy hết để lộ phần cơ bị thiêu cháy, có thể
nhìn thấy một phần xương trụ và xương quay. Xương của chi trên hóa vôi và dính
với phần mô mềm, ngoại trừ trường hợp chúng đã bị phá huỷ hoàn toàn.
- Cẳng tay cháy đến đầu gần của xương và biến mất sau 40 phút. Phần cánh tay thì
mất hết mô mềm sau 40 phút, để lộ đầu xương cánh tay bị hoá vôi, và có đường
nứt dọc thân xương.
- Đối với chân, sau 30 phút mô mềm ở đầu xa của xương đùi và xương chày bị
cháy hoàn toàn, lộ phần xương đã hóa vôi với đường gãy dài và mép xương gãy
cuộn ra ngoài.
- Sau 50 phút, cánh tay biến mất và xương đùi chỉ còn lại một đoạn gốc chi hóa vôi.
- Hút thuốc là nguyên nhân gây cháy hay gặp nhất trong những vụ cháy nhà.
- Trẻ em thường là người gây ra cháy và cũng là nạn nhân của cháy. Lúc bắt đầu cháy trẻ
thường hoản loạn và núp vào những chỗ kín như dưới giường hay trong nhà tắm.
- Án mạng.
- Tự thiêu
8.Những trường hợp cháy khác:
b) Sự phát nổ:
Một khi vụ cháy xảy ra tạo ra bức xạ nhiệt, khí nóng và khói :
Khí nóng và khói sẽ bốc lên tạo thành một lớp ngay dưới trần nhà, khi tích tụ lại thành
một lớp dày sẽ tràn xuống sàn.
Ban đầu khí nóng sẽ làm nóng trần và tường nhà ngay gần đó.
Sau đó bức xạ nhiệt của lửa và khí nóng sẽ làm nóng các vật dụng ở phía dưới thấp của
căn phòng.
Những chất liệu dễ phát nổ trong căn phòng bắt đầu tạo ra các khí dễ cháy (được gọi là
quá trình nhiệt phân).
Một nạn nhân nam, 30 tuổi bị bỏng sau một đám cháy. Qua khám nghiệm thương tích, pháp y
ghi nhận: bỏng 2 tay, vùng thân trước, vùng đầu. Tình trạng bỏng
ĐỘT TỬ
I.Tổng quan :
Định nghĩa theo WHO : là cái chết xảy ra trong vòng 24 giờ từ khi bắt đầu có triệu chứng.
Thuật ngữ “đột tử” trong pháp y (đôi khi gọi là "cái chết tự nhiên bất ngờ"), ám chỉ đến những
cái chết không có trước triệu chứng dụ báo rõ ràng. Để chẩn đoán đột tử thì trước tiên phải loại
trừ chết do ngoại lực hoặc chấn thương.
Bao gồm :
Đột tử do bệnh lý
Đột tử do gắng sức
Trong trường hợp nạn nhân chết trong khi đang gắng sức, các thủ tục cần làm là:
Điều tra hoàn cảnh xảy ra và hiện trường vụ án một cách hoàn chỉnh. Bác sĩ pháp y phải
ghi nhận được càng nhiều thông tin và ghi chép về vụ việc càng tốt.
Giải phẫu tử thi hoàn chỉnh. Kể cả xét nghiệm trên vi thể, nhất là tim.
Tầm soát độc chất một cách kĩ càng.
Khi vận động cường độ cao, nồng độ Kali máu cũng tăng cao có thể lên đến 5mEq/l hoặc
hơn (vượt quá mức cho phép). Đồng thời tuyến thượng thận sẽ phóng thích các
catecholamine đạt mức cao nhất vào 3 phút sau khi ngừng vận động.
Khi ngưng hoạt động đột ngột thì nồng độ kali giảm xuống nhanh chóng và ngay lập tức,
xuống đến còn 2mEq/l (5 phút sau khi ngưng hoạt động có thể gây hạ kali máu). Nồng độ
kali quá thấp này gây loạn nhịp tim. Tuy nhiên, tình trạng loạn nhịp này sẽ được trung
hoà bởi cơ chế tự bảo vệ của tim bằng cách tăng mức catecholamine. Vì vậy, thời gian
nguy hiểm của loạn nhịp là ngay sau khi ngưng gắng sức 3 phút.
Các hội chứng loạn nhịp, bệnh lý gây loạn nhịp tim
Rượu
Cocain có tác dụng tăng phóng thích catecholamine và ức chế sự tái hấp thu
norepinephrine.
Amphetamine cũng có tác dụng tương tự nhưng thay vì ngăn tái hấp thu norepinephrine
thì nó lại gây tăng phóng thích chất này từ các sợi giao cảm sau hạch
Cơ chế 2 thuốc này đều làm tăng norepinephrine nhịp tim tăng (do tác dụng của β1),
nhưng mạch vành co (do không kích thích β2 mà lại thêm kích thích α1) Thiếu máu
mà cơ tim cứ tăng sức bóp Tử vong
Các thuốc chống trầm cảm 3 vòng, giống với cocain, ức chế việc tái hấp thụ
norepinephrine. Hoạt động của các thuốc này có thể ảnh hưởng đến tim gây loạn nhịp.
1.Đột tử sau khí gắng sức thường liên quan đến cơ chết:
A. Tăng catecholamine máu và tăng Kali máu
B. Giảm catecholamine máu và giảm Kali máu
C. Tăng catecholamine máu và giảm Kali máu
D. Giảm catecholamine máu và tăng Kali máu
Định nghĩa độc chất học trong pháp y (forensic toxicology) là môn khoa học nghiên cứu
về chất độc để phục vụ cho vấn đề pháp lý (theo Levin).
Định nghĩa chất độc: Paracelsus (1493-1541) đưa ra định nghĩa đầu tiên về chất độc
“Tất cả mọi chất đều là chất độc và không có chất nào là không độc. Chỉ có liều lượng
giúp xác định không phải là chất độc”.
Đến nay, định nghĩa này vẫn được chấp nhận.
Cần phân biệt độc chất học lâm sàng và độc chất học pháp y. Điểm mấu chốt là do yếu tố
pháp lý.
Vai trò của người làm độc chất học pháp y là trả lời những vấn đề :
Phạm vi :
Nhóm Các chất thường gặp Khả năng phát hiện (chất)
Xác định chất cần xác định và mẫu (loại, vị trí, số lượng) cần lấy : rượu trong máu, CO
trong máu, nước tiểu, mẫu mô như gan, não,… Đối với mẫu máu cần ghi nhận vị trí lấy
máu, số ml máu lấy ở ngoại biên và trước thi mổ tử thi.
Lọ đựng mẫu thích hợp: đối với mẫu cần xét nghiệm ethanol, cocaine, cần giữ trong lọ
tráng NaF hoặc KF 2%. Thành phần lọ đựng mẫu không tương tác với chất cần xác định.
Nhiệt độ lưu mẫu : 4 độ C (trường hợp lưu ngắn), -20 độ C (trường hợp lưu dài).
3.Xét nghiệm:
- Ethanol
- Methanol
- Isopropanol
- Ethylene glycol
A.ETHANOL
1.Hấp thu:
Ethanol được hấp thu qua đường tiêm, hô hấp và da :
Hạn chế say thì phải để dạ dày nhận diện ra rượu để không cho xuống ruột non quá nhiều.
Ethanol được hấp thu từ đường tiêu hóa vào máu qua hệ thống tĩnh mạch cửa và đến gan.
Từ gan, máu chứa ethanol sẽ đến tim, sau đó bay hơi một phần qua phổi.
Cùng trọng lượng và cùng uống lượng rượu tương đương, nồng độ rượu trong máu :
- Người nam thấp hơn người nữ do cùng một lượng rượu phân phối trong thể tích
nước ít hơn ở người nữ.
- Hai người cùng giới khi uống một lượng rượu tương tự, người có trọng lượng
lớn hơn sẽ có nồng độ rượu trong máu thấp hơn.
Cùng một cá thể : nồng độ ethanol trong huyết tương cao hơn cùng một nồng độ ethanol
trong máu toàn phần.
4.Đào thải:
5-10% lượng ethanol được đào thải ra dưới dạng không đổi trong nước tiểu.
> 90% ethanol được chuyển hóa qua gan qua 2 con đường :
- Enzyme alcohol dehydrogenase (ADH) chuyển đổi ethanol thành acetaldehyde
Acetaldehyde được oxy hóa tiếp thành acid acetic dưới chất xúc tác của enzyme
aldehyde dehydrogenase Acetate trong chuyển hóa yếm khí sẽ chuyển hóa thành
CO2 và nước.
Ethanol + NAD acetaldehyde + NADH
Acetaldehyde + NADH acetate + NADH
- Hệ thống oxy hóa ethanol thuộc hạt lưới nội bào (MEOS) thuộc họ enzyme P450
cytochrome có nhân thơm là CYP2E1 ở những người thường xuyên uống rượu.
Ngưỡng gây hôn mê ở cả 2 con đường chuyển hóa là như nhau : 0,35 – 0,5 g/dL
Tốc độ thải ethanol khỏi cơ thể mỗi giờ là : 0,015g/dL mỗi giờ ở nam < 0,018g/dL mỗi
giờ ở nữ.
II.Ảnh hưởng :
Dung nạp chéo giữa ethanol và các thuốc ức chế hệ thần kinh trung ương bao gồm barbiturate và
benzodiazepines tăng độc tính
2.Phân tích
Hóa học: chưng cất hoặc vi khuếch tán.
Enzyme: dựa vào enzyme alcohol dehydrogenase (ADH)
Phương pháp sắc ký khí (phương pháp phổ biến nhất): tách các phân tử dựa trên quá trình
hấp phụ và giải hấp phụ giữa 2 pha: tĩnh (thể rắn) và động (thể khí).
Mặt khác, nồng độ ethanol có thể tăng trong mẫu tử thi do ethanol được tạo thành do vi sinh
chuyển hóa glucose thành ethanol. Để đánh giá chính xác lượng ethanol thực sự uống vào với
ethanol sinh ra sau tử vong, cần phân tích mẫu ethanol ở nhiều vị trí như dịch thủy tinh thể, nước
tiểu. Đồng thời, quá trình hoạt động vi sinh có thể được ngăn chặn bằng cách thêm 1% NaF vào
lọ đựng mẫu.
B.METHANOL
Nguồn gốc: dung môi, chất chống đông, thường được sử dụng làm rượu giả.
Chuyển hóa :
- Methanol + NAD Formaldehyde + NADH (1)
- Formaldehyde + NADH Acid formic + NADH (2)
Giải độc : methanol và ethanol sẽ cùng cạnh tranh enzym alcohol dehydrogenase. Do ái
tính của men ADH với ethanol cao gấp 10 lần với methanol nên ethanol được sử dụng để
điều trị các trường hợp ngộ độc methanol.
Papaver somniferum được sử dụng cách đây hơn 2000 năm với mục đích giảm đau.
Morphine là alkaloid chủ yếu của cây thuốc phiện, được đặt theo tên của Morpheus, vị thần của
những giấc mơ.
Thuật ngữ opioid được dùng để mô tả alkaloids tự nhiên và bán tổng hợp được điều chế từ cây
thuốc phiện cũng như những chất tổng hợp thay thế với dược tính tương tự morphin. Như vậy,
thuật ngữ này bao gồm các neuropeptide tự nhiên và nội sinh (opiopeptin) như enkephalin,
endorphin và dynorphin.
II.Chuyển hóa :
1.Heroin:
Hiếm khi phát hiện được heroin trong dịch cơ thể do thời gian bán hủy chỉ vài phút và heroin
chuyển hóa thành 6-acetylmorphine (6-AM) và 6-AM sẽ chuyển hóa tiếp thành morphin.
Như vậy, sự hiện diện của 6-AM là bằng chứng xác thực cho việc sử dụng heroin. Tuy nhiên,
chất này chỉ xuất hiện trong nước tiểu trong 8 giờ sau khi sử dụng.
2.Codeine:
Khoảng 10-20% codeine đưa vào cơ thể được thải ra nước tiểu trong 24 giờ sau ở dạng tự do.
Trong cơ thể, codeine chuyển hóa thành morphine (10%) có tác dụng giảm đau và norcodeine.
Cả 3 chất (codeine, morphine và norcodeine) được thải ra nước tiểu ở cả 2 dạng: tự do và kết hợp
glucuronide khoảng 48 giờ sau.
Khoảng 3 ngày sau khi sử dụng codeine, thành phần những chất chuyển hóa trong nước tiểu
tương tự như những thành phần chuyển hóa ở người sử dụng morphine và heroin. Duy nhất sự
hiện diện của norcodeine trong nước tiểu là dấu hiệu chứng minh việc sử dụng codeine.
Khuyết điểm: kết quả chậm, cần chuẩn bị mẫu phức tạp, giá thành cao.
10.Định lượng nồng độ rượu bằng xét nghiệm nào ? chọn đáp án ưu tiên : sắc ký khí (GC) có
head space, enzyme ADH, xét nghiệm qua hơi thở
11.Nồng độ rượu bao nhiêu là đủ gây tai nạn giao thông ? > 0,05 (giai đoạn phởn phơ trở
lên), theo sách chính xác là 0,08 mg/dL
12.Cách lấy mẫu để xét nghiệm nồng độ ruộu ? Lấy ngoại biên, trước thi mổ tử thi, đậy nắp…
13. Nhà máy rượu tự động do : đột biến gen, nấm đường tiêu hoá ..
14. Nhà máy rượu tự động thì đồ ăn biến thành rượu khi ăn cái j : protid, glucid, lipid...