Quyền lực, bất bình đẳng và phân tầng xã hội

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 23

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

QUYỀN LỰC, BẤT BÌNH ĐẲNG, PHÂN


TẦNG XÃ HỘI VÀ DI ĐỘNG XÃ HỘI

TIỂU LUẬN GIỮA KÌ


Môn: Xã hội học đại cương
Giảng viên: TS Đinh Phương Linh

Hà Nội 11/2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

QUYỀN LỰC, BẤT BÌNH ĐẲNG, PHÂN


TẦNG XÃ HỘI VÀ DI ĐỘNG XÃ HỘI

TIỂU LUẬN GIỮA KÌ


Môn: Xã hội học đại cương
Giảng viên: TS Đinh Phương Linh

Danh sách thành viên


Nguyễn Thị Hải Yến 19030061 Nguyễn Thị Nhung 19031387
Đào Thị Phương Dung 19031341 Nguyễn Hải Ngọc 19031380
Nguyễn Thị Phương Anh 19031331 Lê Thị Trang 18031981
Nguyễn Thị Thu Hiền 19031351 Hoàng Thị Trang 18031979
Nguyễn Thị Nhung 19031386 Ma Thị Hà Thư 18031973
Lê Như Quỳnh 19031392 Bùi Kim Anh 19031324
Trần Thị Thanh Châm 19031338 Nông Bích Tâm 19031394
Nguyễn Thị Hương Trà 19031401 Nguyễn Thị Hồ Trang 18031982
Nguyễn Thị Thanh Tuyền 19031406 Đỗ Nhật Minh 19031373
Kiều Vân Quế Anh 19031329 Nguyễn Thị Trang 19031404
Nông Kim Chi 19031339

Hà Nội 11/2019
Mục Lục

Phần Mở Đầu ..................................................................................................................... 1


Phần Nội Dung ................................................................................................................... 1
1. Quyền lực .................................................................................................................. 1
1.1. Khái niệm quyền lực........................................................................................... 1
1.2. Những quan điểm về quyền lực .......................................................................... 2
1.2.1. Max Weber .................................................................................................. 2
1.2.2. Lukes ............................................................................................................ 3
1.2.3. Michel Foucault ........................................................................................... 4
2. Bất bình đẳng............................................................................................................. 5
2.1. Khái niệm ........................................................................................................... 5
2.2. Cơ sở tạo nên bất bình đẳng ............................................................................... 6
2.3. Quan điểm về bất bình đẳng xã hội .................................................................... 7
2.3.1. Quan điểm của Karl Marx ........................................................................... 7
2.3.2. Quan điểm của Max Weber ......................................................................... 8
2.3.3. Quan điểm của Bryan S. Turner .................................................................. 9
2.3.4. Một số quan điểm khác ................................................................................ 9
2.3.4.1. Quan điểm dựa vào yếu tố sinh học cá nhân ............................................ 9
2.3.4.2. Quan điểm dựa vào yếu tố kinh tế.......................................................... 10
2.4. Sự phân phối không đồng đều thu nhập và sự giàu có ..................................... 10
2.5. Bất bình đẳng trên phạm vi toàn cầu ................................................................ 11
3. Phân tầng xã hội ...................................................................................................... 11
3.1. Khái niệm ......................................................................................................... 11
3.2. Đặc điểm và nguyên nhân của sự phân tầng xã hội ......................................... 11
3.2.1. Đặc điểm .................................................................................................... 11
3.2.2. Nguyên nhân của phân tầng xã hội ............................................................ 12
3.3. Tháp phân tầng xã hội ...................................................................................... 12
3.4. Các lý thuyết về sự phân tầng xã hội ................................................................ 13
3.4.1. Lý thuyết chức năng .................................................................................. 13
3.4.2. Lý thuyết xung đột ..................................................................................... 13
3.5. Những quan niệm về phân tầng xã hội ............................................................. 13
3.5.1. Quan niệm của Max Weber ....................................................................... 13
3.5.2. Quan niệm của John Macionis ................................................................... 14
3.6. Mối quan hệ giữa phân tầng xã hội và bất bình đẳng ....................................... 15
4. Di động xã hội ......................................................................................................... 16
4.1. Khái niệm ......................................................................................................... 16
4.2. Các hình thức di động xã hội ............................................................................ 16
4.2.1. Di động trong thế hệ và di dộng liên thế hệ............................................... 16
4.2.2. Di động theo chiều dọc và di động theo chiều ngang ................................ 16
4.2.3. Một số hình thức di động khác .................................................................. 16
4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến di động xã hội ........................................................ 17
Phần Kết Luận ................................................................................................................. 18
Phần Mở Đầu

Quyền lực, bất bình đẳng và phân tầng xã hội là những khái niệm phổ biến, được sử dụng
rất nhiều trong xã hội hiện nay. Tuy nhiên để thực sự hiểu và chỉ ra được sự khác nhau,
những đặc điểm cũng như mối quan hệ của những khái niệm này, ta cần phải nghiên cứu
chúng dưới góc nhìn xã hội học.

Phần Nội Dung

1. Quyền lực
1.1. Khái niệm quyền lực
Quyền lực là một trong những chủ đề quan trọng của xã hội học. Nhiều tác giả đã bàn
đến khái niệm quyền lực dưới những góc độ khác nhau. Cho đến nay, nhiều nhà xã
hội học nổi tiếng đã đưa ra những định nghĩa của mình liên quan đến khái niệm
quyền lực. Chúng ta có thể kể đến những nhân vật nổi tiếng như: Anthony Giddens,
Max Weber, Talcott Parson,… Sau đây sẽ là đôi nét về những tác giả này và những
khái niệm quyền lực được họ nghiên cứu.
- Nhà xã hội học người Anh Anthony Giddens sinh năm 1938, là một tác giả nổi
tiếng và có ảnh hưởng lớn trên thế giới. Công trình nghiên cứu của ông được
đưa vào các tuyển tập rất nhiều lần, vô số sách cùng bài tạp chí đã ca ngợi và
cả phê phán ông. Ông xếp thứ 39 trong danh sách 100 trí thức hang đầu thế
giới do các tạp chí “Prospect” và “Foreign Affairs” lập ra gần đây. Và theo
ông, quyền lực được định nghĩa là “Khả năng can thiệp vào những sự việc/sự
kiện để thay đổi chúng theo cách nào đó” (Jary and Jary 1991:378).
Ví dụ: giám đốc của một công ty dựa vào quyền lực của mình có thể yêu cầu
nhân viên thay đổi bản kế hoạch nếu chưa phù hợp. Đó là khả năng giám đốc
can thiệp vào những công việc của công ty để thay đỏi sao cho phù hợp.
- Trong nghiên cứu về quyền lực, nhà xã hội học Max Weber (Đức) được xem
là người đã đưa ra định nghĩa rõ ràng nhất về quyền lực và vì vậy định nghĩa
của ông được trích dẫn nhiều nhất. Theo ông, quyền lực là “khả năng mà một
người, hoặc một nhóm người thực hiện ý định của mình trong một hành động
chung, ngay cả trong trường hợp chống lại phản kháng của người khác tham
gia vào hành động chung đó” (trích từ Turner 2006: 465). Định nghĩa này đề
cập đến mối liên hệ giữa hai nhóm hoặc các phái trong một nhóm thực hiện
quyền lực với một nhóm khác. Quyền lực này có thể dựa trên việc sử dụng
cưỡng bức hay là uy quyền.
Ví dụ: Quyền lực của người cha đối với con trai.
- Việc xem xét quyền lực phải được đặt trong bối cảnh toàn xã hội nói chung,
chứ không thể đặt trong mối quan hệ giữa hai cá nhân, nhóm như Max Weber,

1
Talcott Parsons (1902 – 1979) định nghĩa quyền lực là “ khả năng đạt được
những mục tiêu xã hội và mục tiêu xã hội mang tính tổng quát. Như vậy theo
Parsons, thì quyền lực là các nguồn lực (tiền bạc), đồng thời cũng là năng lực
của xã hội trong việc thông qua luật pháp để giữ gìn an ninh, quốc phòng
chống lại kẻ thù.
Từ quan niệm của các tác giả đã đề cập đến ở trên, chúng ta có thể quan niệm một
cách khái quát :
Quyền lực là khả năng của cá nhân hoặc nhóm thay đổi thái độ, quan điểm hành vi
của cá nhân khác, nhóm khác. Quyền lực là khả năng của cá nhân hoặc nhóm trong
việc tác động lên sự kiện – sự việc nhằm thay đổi sự kiện – sự việc theo cách nào đó.
Ví dụ: + Hiến pháp là một loại quyền lực được nhà nước ban hành để kiểm soát các
lĩnh vực của đất nước như kinh tế, chính trị, xã hội,...
+ Quyền con người: quyền tự do ngôn luận, quyền sống, quyền học tập,…
1.2. Những quan điểm về quyền lực
1.2.1. Max Weber
Theo Max Weber, một trong những người có công lớn đóng góp trong việc
nghiên cứu qyền lực xã hội đưa ra định nghĩa về quyền lực, đã nói rằng: “khả
năng hành động trong mối quan hệ xã hội sẽ có một vị trí để thực hiện ý chí
mong muốn của mình bất chấp sự chống đối”. Theo đó quyền lực xã hội không
phải là một sự vật mà là một mối quan hệ đó là quan hệ giữa những người tham
gia vào hành động chung.
- Đặc điểm:
+ Quyền lực đề cập đến khả năng chứ không phải sự chắc chắn.
+ Quyền lực phản ánh tiềm năng tức là năng lực thực hiện điều đó.
- Nguồn gốc:
+ Quyền lực mang tính truyền thống (traditional): đây là loại quyền lực
được hợp pháp hóa thông qua sự tôn trọng những khuôn mẫu văn hóa
được thiết lập lâu đời. Dựa vào truyền thống cổ xưa và địa vị chính
thống của người sử dụng quyền lực đó, ông cho rằng chế độ thủ lĩnh,
trưởng bộ tộc là biểu hiện quan trọng nhất của kiểu quyền lực truyền
thống. Ngoài ra còn có hình thức cha truyền con nối. Sự phục tùng
đối với quyền lực truyền thống dựa vào chỗ người cai trị chiếm giữ
đại vị cai trị và việc người cai trị có thể sử dụng quyền lực là do sự
ràng buộc truyền thống. Nếu trong số họ có người nào thường xuyên
vi phạm quy định do truyền thống đặt ra thì họ có nguy cơ đánh mất
tính hợp pháp của sự cai trị. Ông cha có câu: “con vua thì lại làm vua,
con sãi ở chùa lại quét lá đa”. Có nghĩa là truyền thống ấy như một
điều hiển nhiên xảy ra từ bao đời nay và xã hội đã công nhận nó như
vậy.
+ Quyền lực lôi cuốn là loại quyền lực bắt nguồn từ những đặc điểm cá
nhân. Đây là quyền lực do sự ngưỡng mộ, tôn sùng đối với một cá
nhân nào đó. Sự phục tùng đối với loại hình này dựa vào lòng tin của
người cấp dưới về sự thiếng liêng của lãnh tụ chứ không phải là sức
mạnh cưỡng chế. Weber cho rằng loại hình quyền lực này không thể
2
dựa vào sự ngưỡng mộ của công dân đối với một nhân vật vĩ đại nào
đó, phục tùng sự cai trị của nhân vật ấy.
Ví dụ: Bác Hồ là một con người vĩ đại với cách sống cao đẹp nên
chúng ta luôn nêu cao tinh thần học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh chứ không có tính bắt buộc cưỡng chế đối với bất
kì ai.
+ Quyền lực duy lý - mang tính pháp lý: đây là loại quyền lực được hợp
pháp hóa thông qua những luật lệ và quy định chính thức về mặt pháp
lý. Nếu nói rằng tất cả những loại hình quyền lực khác đều quy vào
các quy định pháp luật, không quy vào cá nhân thì theo quyền lực duy
lí mang tính pháp lý, mọi việc đều thi hành theo quy định của pháp
luật. Những người sử dụng quyền lực là những người thực thi các quy
định pháp luật, chứ không phải là ngọn nguồn của các quy định pháp
luật. Weber cho rằng những quan lại của các quốc gia hiện đại là nô
bộc của mọi quyền lực chính trị cao hơn.
Ví dụ: Chính phủ do dân bầu cử hình thành và các bộ trưởng cũng
vậy. Nó không phải là theo truyền thống như quyền lực truyền thống.
Nhưng điều Weber lo lắng là những quan lại do nhân bầu ra không
phải lúc đều đặt mình đúng chỗ. Trên thực tế, các quan lại không phải
lúc nào cũng làm việc tuân theo phương thức họ phải tuân theo mà
thường tìm cách mở rộng quyền lực, mở rộng lợi ích riêng của họ. Họ
không làm việc với tư cách là những nô bộc trung thành mà họ muốn
trở thành ông chủ của các bộ phận thuộc quyền.
Trong xã hội hiện đại thì loại hình quyền lực này ngày càng phổ biến
và nó thay thế dần loại hình quyền lực truyền thống.
Theo Anthony Giddens thì nhiều tác giả theo quan niệm của Max Weber đã phân
chia quyền lực thành hai loại đó là quyền lực mang tính cưỡng bức và quyền uy.
1.2.2. Lukes
Steven Lukes (sinh năm 1941) là một nhà lý luận chính trị và xã hội người
Anh. Hiện tại ông là giáo sư chính trị và xã hội học tại Đại học New York. Ông
trước đây là giáo sư tại Đại học Siena, Viện Đại học Châu Âu (Florence)
và Trường Kinh tế Luân Đôn. Từ 1974 đến 1983, ông là Chủ tịch Ủy ban Lịch sử
Xã hội học của Hiệp hội Xã hội học Quốc tế.
Ông đưa ra quan niệm được gọi là góc nhìn ba chiều về quyền lực (three-
dimensional view of power).
- Trước hết là quyền lực một chiều. Quyền lực một chiều đề cập đến hành vi
của những người tham gia đưa ra quyết định phản ánh sự mong muốn của
chính họ. Lukes cho rằng đây là cách nhìn khá giới hạn về quyền lực.
Ví dụ: Quyền lực của các nhà lãnh đạo chính trị khi đưa ra những quyết định
chính sách sau khi tham khảo ý kiến của công chúng.

3
- Thứ hai là quan điểm hai chiều về quyền lực. Về quan điểm này, Lukes nhấn
mạnh rằng các cá nhân/ nhóm có quyền lực có thể đưa ra quyết định mang lại
lợi ích cho chính họ, đồng thời giới hạn sự lựa chọn của người khác, bao gồm
kiểm soát những gì được quyết định, bằng cách bỏ qua hoặc làm chệch hướng
những bất bình hiện có, là sức mạnh để kiểm soát chương trình nghị sự. Nó
được gọi là 'huy động sự thiên vị', củng cố quyền lực bằng cách loại trừ các
vấn đề đe dọa khỏi thảo luận trên các diễn đàn công cộng.
- Từ hai quan điểm trên có thể xây dựng quan điểm ba chiều về quan hệ quyền
lực. Đây là quan điểm mang tính cấp tiến. Lukes lưu ý đây ko phải là việc vận
dụng quyền lực tột bậc để làm cho người khác có mong muốn như mình
mong muốn, mà chính là việc tìm kiếm sự đồng thuận của người khác thông
qua việc hướng dẫn mong muốn và suy nghĩ của họ, thậm chí khiến họ muốn
mọi thứ trái ngược với lợi ích cá nhân của họ (ví dụ, khiến phụ nữ ủng hộ một
xã hội gia trưởng). Lukes đưa ra chiều thứ ba này như là một "phê bình thấu
đáo" về trọng tâm hành vi của hai chiều đầu tiên, bổ sung và sửa chữa những
thiếu sót của các quan điểm trước đây, cho phép nhà phân tích bao gồm cả
những xung đột tiềm ẩn và có thể quan sát được. Lukes tuyên bố rằng một sự
phê phán đầy đủ về quyền lực nên bao gồm cả lợi ích chủ quan và những lợi
ích "thực sự" được nắm giữ bởi những người bị loại trừ bởi quá trình chính
trị.
Steven Lukes phát hiện ra bộ mặt thứ ba của quyền lực quan hệ và bộ mặt này
giống “quyền lực mềm” như anh em sinh đôi. Đó là khả năng khiến người khác
muốn cùng các kết quả mà ta muốn bằng cách tác động vào quan niệm và niềm
tin đe định hình sở thích ban đầu của người khác.
1.2.3. Michel Foucault
Michel Foucault (1926-1984) là triết gia, nhà lý luận xã hội, nhà văn và nhà phê
bình văn học người Pháp
Ông nổi tiếng về việc đưa ra một cách hiểu mới về khái niệm quyền lực, một
cách hiểu rất có ảnh hưởng trong giới nghiên cứu không những về triết học hay
văn học mà còn cả về tâm lý học, xã hội học, chính trị học và rất nhiều lãnh vực
khác.
Ông cho rằng quyền lực không tập trung vào 1 thiết chế như nhà nước, hoặc là
nắm giữ bởi một cá nhân hay 1 nhóm. Ông cho rằng quyền lực có ở mọi cấp độ
của tương tác xã hội trong tất cả các thiết chế bởi tất cả mọi người (Theo Giddens
2009:900). Ông cũng cho rằng quyền lực và kiến thức liên hệ gần gũi với nhau
và củng cố cho nhau.
Ví dụ: Tuyên bố về mặt chuyên môn của bác sĩ cũng là lời nói mang tính quyền
lực nếu đặt trong bối cảnh bệnh viện bởi kiến thức về sức khỏe đã gia tăng thẩm
quyền của bác sĩ trong mối quan hệ với bệnh nhân.
Có thể nói quan điểm của Michel Foucault về quyền lực đã phá vỡ cách nhìn đơn
giản truyền thống về quyền lực cưỡng bức và quyền lực mang tính thẩm quyền.
Foucault đã mở ra một hướng tiếp cận mới, không chỉ đối với vấn đề quyền lực,
nhưng còn đối với các vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Cách suy tư về
quyền lực của Foucault làm thay đổi nhiều tư tưởng quyền lực từ trước. Quyền
lực trong quan niệm của ông có thể tìm thấy trong mọi mối quan hệ xã hội chứ
không không phải là thứ được sử dụng bởi các nhóm chi phối trong xã hội.
4
Như vậy, nhìn một cách tổng thể chúng ta có thể thấy các nhà xã hội học uy tín trên thế
giới đã có những quan niệm khác nhau về quyền lực. Sự khác nhau đó xuất phát từ góc
nhìn của từng người đối với vấn đề quyền lực. Nếu như Max Webere nhấn mạnh quyền
lực liên quan đến quan hệ xã hội và hành động xã hội thực Lukes lại quan tâm đến góc
nhìn quyền lực ba chiều là như thế nào. Còn Michel Foucault lại nhìn thấy được quyền
lực trong mọi cấp độ tương tác xã hội từ cá nhân, nhóm thiết chế xã hội đến nhà nước. Từ
đó các tác giả đã bổ sung cho nhau tạo nên sự đa dạng trong quan niệm, lí giải về quyền
lực.

2. Bất bình đẳng

2.1. Khái niệm

Tất cả các xã hội (cả quá khứ lẫn hiện tại) đều được đặc trưng bởi sự khác biệt xã
hội. Đó là một quá trình trong đó con người tạo nên khoảng cách do cách ứng xử
khác nhau bởi các địa vị, vai trò và những đặc điểm của họ.

Quá trình của sự khác biệt xã hội không đòi hỏi con người đánh giá các vai trò và các
hoạt động cụ thể tồn tại như là quan trọng hơn những cái khác. Tuy nhiên, sự khác
biệt xã hội chuẩn bị cho bất bình đẳng xã hội, là một điều kiện trong đó con người có
cơ hội không ngang bằng về sử dụng của cải, quyền lực và uy tín.

Như Daniel Rossides (1976) đã lưu ý: “Thậm chí ngay trong các xã hội đơn giản nhất
người già thường có quyền uy đối với người trẻ, cha mẹ có quyền uy đối với con cái,
và nam giới có quyền uy đối với phụ nữ”.

Bất bình đẳng không phải là một hiện tượng tồn tại một cách ngẫu nhiên giữa các cá
nhân trong xã hội. Xã hội có bất bình đẳng khi một số nhóm xã hội kiểm soát và khai
thác các nhóm xã hội khác. Qua những xã hội khác nhau đã tồn tại những hệ thống
bắt bình đẳng khác nhau. Là một vấn đề trung tâm của xã hội học, bất bình đẳng có ý
nghĩa quyết định đối với sự phân tầng trong tổ chức xã hội. Bởi vậy, nhà xã hội học
quan tâm tới cách mà các nhóm xã hội khác nhau có mối quan hệ bất bình đẳng với
những nhóm xã hội khác và luôn coi vị trí bất bình đẳng của họ sẽ được truyền lại
cho con cái họ.

Xã hội học muốn phát hiện, khám phá nguồn gốc của bình đẳng trong văn hóa và cơ
cấu xã hội. Mặc dù họ không nhận thấy rằng có những khác biệt bẩm sinh trong
những cá nhân hoặc những khác biệt trong quá trình phát triển cá nhân tạo nên bất
bình đẳng , song các nhà xã hội học tin rằng văn hóa và cơ cấu xã hội là những yếu tố
chủ yếu của những bất bình đẳng xã hội giữa các cá nhân. Trong khi các nhà xã hội
học đồng ý rằng bất bình đẳng là phổ biến, thì họ lại không thống nhất được như thế
nào là bất bình đẳng và vì sao nó tồn tại?

Cho đến nay có nhiều tác giả khác nhau đã đưa ra những quan điểm riêng về bất bình
đẳng:

5
- Có thể tìm thấy một trong những giải thích sớm nhất về bất bình đẳng trong
cuốn “ sự phân công lao động trong xã hội” của E.Durkheim (1893). Theo
quan điểm của Durkheim, tất cả các xã hội nhìn nhận một số hành động
quan trọng hơn những hành động khác. Ví dụ, trong xã hội có người cho
rằng sự cứu vớt Linh hồn của Tôn giáo là có giá trị cao, người khác có thể
cho sự giàu sang vật chất là một giá trị xã hội. Khía cạnh thứ hai của lý
thuyết Durkheim liên quan tới sự khác nhau về tài năng cá nhân, một số
người có nhiều thiên bẩm hơn những người khác, trải qua đào tạo, những
khác biệt tăng lên, dẫn đến sự bất bình đẳng trong xã hội.

- David Popenoe cho rằng bất bình đẳng là tình trạng không ngang bằng
nhau giữa các cá nhân hay các nhóm đối với việc tiếp cận những điều đáng
ao ước trong xã hội.Những điều đáng mong muốn này có thể khác nhau từ
bối cảnh này sang bối cảnh khác, từ nền văn hóa này sang nền văn hóa
khác. Những điều đáng mong muốn có thể mang tính phi vật chẳng hạn sự
kính trong, hay tình yêu,.... cũng có thể mang tính vật chất chẳng hạn thực
phẩm, hoặc vàng bạc,...

- Theo từ điển Xã hội học do Turner chủ biên được xuất bản bởi Nhà xuất
bản Đại học Cambridge thì bất bình đẳng là sự bôi không đồng đều cơ hội,
phần thưởng và quyền lực giữa các cá nhân, hộ gia đình, nhóm xã hội.

Từ những quan niệm của các tác giả vừa đề cập đến ở trên, chúng ta có thể định
nghĩa một cách khái quát:

Bất bình đẳng là sự không ngang bằng nhau về cơ hội xã hội giữa các cá nhân, các
nhóm trong xã hội; sự không ngang bằng nhau về cơ hội xã hội liên quan chặt chẽ
đến sự không ngang bằng nhau về của cải , uy tín, quyền lực giữa các cá nhân, các
nhóm.

2.2. Cơ sở tạo nên bất bình đẳng


Những cơ hội trong cuộc sống : Bao gồm tất cả những thuận lợi vật chất có thể
cải thiện chất lượng cuộc sống như kinh tế, giáo dục, an sinh xã hội, chăm sóc sức
khỏe...
- Kinh tế : Cơ chế thị trường gây ra bất bình đẳng xã hội.
Ví dụ: Tại Việt Nam trong giai đoạn 2004-2010, chênh lệch giữa thu nhập
trung bình của 20% hộ khá giả nhất với 20% hộ nghèo nhất đã tăng từ mức
7 lần lên 8,5 lần (do tốc độ tăng thu nhập trung bình hàng năm của nhóm
khá giả nhất là 9% trong khi tốc độ tăng thu nhập của nhóm nghèo nhất chỉ
là 4%). Các nhóm dân tộc thiểu số (DTTS) ngày càng bị tụt hậu trong quá
trình tăng trưởng, dẫn đến nghèo tại Việt Nam ngày càng tập trung trong
các nhóm DTTS. Nếu như năm 1998 người DTTS chiếm 29% trong tổng
số người nghèo thì đến năm 2010 người DTTS chiếm đến 47% trong tổng
số người nghèo tại Việt Nam. (Nguồn: World Bank 2012).
Sự chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng, các nhóm dân cư dẫn đến bất bình
đẳng xã hội ngày càng tăng, đó là một thách thức lớn đối với sự ổn định xã
hội và phát triển hài hòa của đất nước.
6
- Giáo dục:
+ Bất bình đẳng về giáo dục giữa các vùng miền, giữa các dân tộc.
Ví dụ: Bất bình đẳng giữa nông thôn và thành thị ở Việt Nam hiện nay:
khu vực đô thị có mức chi tiêu cho giáo dục cao hơn nhiều lần so với khu
vực nông thôn và mức chi này càng ngày càng gia tăng theo các bậc học
từ thấp đến cao ở cả hai khu vực. Tình trạng bất bình đẳng về giáo dục
còn khá phổ biến về tỉ lệ biết đọc, biết viết và trình độ học vấn giữa các
vùng miền, giữa các dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh, giáo dục ở khu vực
nông thôn còn tụt hậu so với khu vực thành thị.
+ Bất bình đẳng giới trong giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số.
Ví dụ: Hiện tượng bất bình đẳng giới trong giáo dục còn tồn tại ở một số
nhóm dân cư, vùng miền, tỉ lệ trẻ em nữ ở các vùng dân tộc thiểu số chưa
bao giờ đi học cao hơn so với các vùng khác trong cả nước; tỉ lệ biết đọc,
biết viết thấp nhất cả nước; tỉ lệ biết đọc, biết viết ở bậc tiểu học thấp hơn
trẻ em trai tại tất cả các tỉnh trong cùng vùng; càng học cao trẻ em gái bỏ
học càng nhiều hơn so với trẻ em trai.
- Địa vị xã hội : Là vị trí và thứ bậc của một người trong xã hội. Cơ sở địa vị
xã hội có thể có thể khác nhau trong xã hội – cụ thể một người này có thể
có những cơ hội trong khi nhóm kia thì không. Đó là cơ sở khách quan của
bất bình đẳng.
- Ảnh hưởng chính trị : Bất bình đẳng trong ảnh hưởng chính trị có thể được
nhìn nhận như là có được từ những ưu thế vật chất hoặc địa vị cao. Thực tế,
bản thân chức vụ chính trị có thể tạo ra cơ sở để đạt được địa vị và những
cơ hội trong cuộc sống. Có thể gọi đó là những bất bình đẳng dựa trên cơ
sở chính trị.
2.3. Quan điểm về bất bình đẳng xã hội
2.3.1. Quan điểm của Karl Marx
Học thuyết của Marx chủ yếu dựa trên sự nghiên cứu các học thuyết kinh tế mà
ông coi là nền tảng của cơ cấu giai cấp. Mối quan hệ giai cấp là chìa khoá của
mọi vấn đề trong đời sống xã hội. Marx khẳng định: "Những tư tưởng thống trị
của một thời đại bao giờ cũng là những tư tưởng của giai cấp thống trị" và phục
vụ cho giai cấp thống trị.
Những lý luận của Marx về hoạt động tổ chức sản xuất sản xuất của cải vật chất
cũng như sự phân công lao động trong xã hội cùng với những phân tích về cấu
trúc xã hội đã vạch rõ tính chất giai cấp của xã hội và tính bất bình đẳng trong
quan hệ xã hội. Muốn có bình đẳng xã hội giữa người với người phải đấu tranh
xoá bỏ sự phân chia giai cấp xã hội. Thời kì bất bình đẳng giai cấp có thể cuối
cùng sẽ biến mất và được thay thế bằng một trật tự kinh tế mới (điều này trái
ngược hẳn với quan điểm của những người theo lý thuyết chức năng: coi sự phân
tầng và bất bình đẳng như là những nét thường trực tất yếu và không tránh khỏi
của các xã hội loài người).

7
Theo quan niệm của Marx, cơ sở của sự phân chia giai cấp và sự phân tầng xã
hội theo giai cấp là trình độ sản xuất còn thấp. Quy luật phân công lao động quy
định sự phân chia xã hội thành các giai cấp. Marx chỉ ra rằng, chế độ sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất sản sinh ra cấu trúc phân tầng xã hội gồm hai tầng bậc
chủ yếu:
- Giai cấp hay tập đoàn người làm ông chủ, sở hữu tư liệu sản xuất, chiếm
vị trí thống trị và bóc lột người khác.
- Các nhóm hay các giai cấp còn lại trong xã hội không nắm tư liệu sản
xuất.
Trong cấu trúc xã hội như vậy, quan hệ giữa hai phe nhóm, hai giai cấp này
mang tính chất bất bình đẳng sâu sắc về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đó là
mối quan hệ giữa những kẻ áp bức với những người bị áp bức.
Marx chỉ rõ, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản là giai cấp mà những
nhà tư bản hiện đại, những người sở hữu tư liệu sản xuất xã hội và sử dụng lao
động làm thuê, kiểm soát lao động và sản phẩm lao động, áp bức và bóc lột giai
cấp vô sản. Giai cấp bị thống trị, bị áp bức là giai cấp những công nhân làm thuê
hiện đại, vì mất hết tư liệu sản xuất của bản thân nên buộc phải bán sức lao động
của mình để kiếm sống.
Qua những phân tích về cấu trúc xã hội của Marx, có thể rút ra hai điều quan
trọng: Thứ nhất, về mặt lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa cộng sản, cần xóa bỏ
và thay thế chế độ sở hữu tư nhân bằng chế độ sở hữu xã hội để xây dựng xã hội
phát triển. Thứ hai, về mặt lý luận và thực nghiệm xã hội học cần tập trung phân
tích cấu trúc xã hội để chỉ ra ai là người có lợi và ai là người thiệt hại từ cách tổ
chức xã hội và cơ cấu xã hội hiện có. Nói cách khác, cấu trúc xã hội, phân tầng
xã hội và bất bình đẳng xã hội phải là những chủ đề nghiên cứu cơ bản của xã hội
học hiện đại.
2.3.2. Quan điểm của Max Weber
Khác với Marx, Weber không coi mọi cấu trúc xã hội, đều bất bình đẳng như
trong một xã hội có giai cấp.Chẳng hạn, đẳng cấp phụ thuộc vào những khác
nhau đặc biệt về địa vị trên nền tảng nghi thức tôn giáo.
Ví dụ: Ấn Độ tồn tại chế độ đẳng cấp vác-na trong đó đẳng cấp cao nhất là những
người làm nghề tôn giáo, thực hiện và trông coi các tế lễ tôn giáo, sau đó là đến
những người được tham gia vào các buổi lễ tôn giáo và những người thuộc đẳng
cấp thấp nhất thì không được tham gia.

Weber nhấn mạnh rằng quyền lực kinh tế có thể là kết quả nắm giữ quyền lực
dựa vào các nền tảng khác. Địa vị xã hội và uy tín xã hội có thể xuất phát từ
quyền lực kinh tế, song đó không phải là tất yếu duy nhất.
Ví dụ: Một nhà nghiên cứu khoa học là người có địa vị và uy tín xã hội nhưng
không có thể giàu tức là không có quyền lực kinh tế.
Ngược lại, địa vị có thể tạo nên cơ sở của quyền lực chính trị.
Ví dụ: Nhà khoa học trên với địa vị của mình cũng có thể trở thành thành viên
trong bộ máy nhà nước.

8
Weber nhấn mạnh tầm quan trọng của thị trường tức là sự trao đổi, lưu thông của
hàng hóa, tiền tệ giữa người mua và người bán chứ không phải sự tái sản xuất
(quá trình sản xuất lặp đi lặp lại thường xuyên và phục hồi không ngừng) như là
cơ sở kinh tế giai cấp. Ông quan niệm giai cấp là một tập hợp người có chung các
cơ hội sống trong điều kiện kinh tế thị trường.

Với Weber, nguyên nhân đầu tiên của bất bình đẳng trong xã hội tư bản là khác
biệt về khả năng thị trường, nghĩa là khả năng chiếm lĩnh thị trường của các cá
nhân phụ thuộc sự hiểu biết, bản lĩnh và kỹ năng làm việc.
Ví dụ: Trong cùng một khu chợ, người bán hàng nào khéo léo, niềm nở mời chào
khách hàng thường đông khách hơn những quầy khác dù mặt hàng buôn bán
giống nhau. Trong một công ty, người nào có kỹ năng, kiến thức tốt, tìm hiểu
được những nhu cầu của khách hàng kỹ càng để đem về cho công ty nhiều hợp
đồng thì sẽ có nhiều cơ hội thăng tiến đến những vị trí cao hơn trong công ty,
kiếm được nhiều tiền hơn.

2.3.3. Quan điểm của Bryan S. Turner


Trong cuốn “Từ điển xã hội học” do ông chủ biên, Bryan nhấn mạnh những
chuyên ngành cụ thể khác nhau của Xã hội học bàn đến những loại bất bình đẳng
cụ thể.
Ông cho rằng khi xem xét bất bình đẳng thì cần phân biệt rõ hai chiều cạnh của
bất bình đẳng:
- Bất bình đẳng về cơ hội: Mỗi người trong xã hội có những cơ hội khác
nhau. Những đứa trẻ có khả năng tương đương nhưng sinh ra trong hoàn
cảnh gia đình khác nhau dẫn tới việc chúng sa vào những mỗi trường có
độ thuận lợi khác nhau, và mức độ thành công trong cuộc đời khác nhau.
- Bất bình đẳng về kết quả.
Ví dụ: cùng đi học nhưng có bạn thi điểm cao, có bạn điểm thấp; người đi
làm có người lương cao, có người lương thấp.
Hai chiều cạnh này có thể được xem xét ở bốn cấp độ: cá nhân, nhóm, tổ chức,
thiết chế xã hội.
2.3.4. Một số quan điểm khác
2.3.4.1. Quan điểm dựa vào yếu tố sinh học cá nhân
Quan điểm này cho rằng, bất bình đẳng là một thực tế của xã hội, nó luôn
hiện diện bởi sự khác biệt giữa các cá nhân. Trong một xã hội mở và nếu
con người có sự khác nhau về tài năng và nhu cầu thì điều đó tất yếu dẫn
đến bất bình đẳng. “Một số bất bình đẳng đến như là kết quả không thể né
tránh về bất bình đẳng sinh học của kỹ năng, thể chất, khả năng tinh thần
và những khía cạnh của nhân cách.”(Cauthen, 1987:8)

Ngay từ thời cổ đại, một số nhà triết học đã khẳng định những “khác biệt”
mang tính tự nhiên giữa các cá nhân. Trong thực tế, vẫn có những khác
biệt trong kiểu phân chia giới như là kết quả không thể tránh được của bất
bình đẳng. Aristotle (384 – 322 TCN) cho rằng: “Đàn ông bản chất là
thống trị, đàn bà là bị trị, và đó là một luật lệ.”

Ngay cả đến hiện nay, quan điểm này vẫn còn tồn tại. Steven Goldberg
nêu quan điểm: “Sự thống trị và sự thành đạt cao của nam giới là khả năng
9
không thể đảo ngược, bởi có những khác biệt về sinh học giữa nam và
nữ.”
Ví dụ: Thực tế trong nhiều gia đình Việt Nam vẫn còn tư tưởng coi trọng
nam kinh nữ.
2.3.4.2. Quan điểm dựa vào yếu tố kinh tế
Trong luận văn Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng năm 1753, Jean-
Jacques Rousseau đã vạch rõ nguồn gốc của sự bất bình đẳng trong xã hội
là ở chế độ tư hữu tài sản. Theo ông, bất bình đẳng không phải là một quy
luật tự nhiên, mà là sản phẩm của xã hội loài người; nó tồn tại và phát
triển từ khi xuất hiện chế độ tư hữu tài sản; rằng con người đã tạo ra sự bất
bình đẳng thì con người cũng có thể xóa bỏ nó. Những đặc điểm về kinh tế
– chính trị và thị trường lao động tạo ra những khác biệt trong thu nhập và
của cải. Thực chất, sự khác biệt về vị trí của các cá nhân trong cơ cấu xã
hội gây ra bất bình đẳng kinh tế. Ông cũng đã phân biệt rõ hai loại bất
bình đẳng giữa người với người. Đó là bất bình đẳng tự nhiên và bất bình
đẳng xã hội – bất bình đẳng do cơ chế xã hội tạo nên.

- Bất bình đẳng mang tính tự nhiên: đó là sự khác biệt của cá nhân về
một hoặc một số đặc điểm sẵn có như giới, tuổi, chủng tộc, trí
lực,....

- Bất bình đẳng mang tính xã hội: đó là sự phân công lao động dẫn
đến phân tầng, tạo ra lợi ích khác nhau giữa các cá nhân.

2.4. Sự phân phối không đồng đều thu nhập và sự giàu có


Một trong những mối quan tâm nhất mà các nhà xã hội học nêu ra khi nghiên cứu bất
bình đẳng là sự phân phối không đồng đều thu nhập và sự giàu có.
Thu nhập phản ánh việc nhận tiền hay hàng hóa theo những khoảng thời gian được
tính toán (giờ, ngày, tuần, tháng, năm...). Đối với phần lớn cá nhân và hộ gia đình,
thu nhập phản ánh mức sống của họ và khả năng có được hàng hóa và dịch vụ.
Ví dụ: Xét dòng thu nhập theo độ tuổi của 1 cá nhân:
- Tuổi trẻ có thu nhập thấp hoặc không có thu nhập.
- Tuổi trung niên thu nhập thường đạt ở đỉnh.
- Về già thu nhập có xu hướng giảm.
Những sự kiện như thất nghiệp, suy thoái kinh tế, ốm đau, sinh con, những cơ hội
may mắn hay rủi ro là những nhân tố làm thay đổi mức thu nhập cá nhân.

Nguồn thu nhập: có nhiều nguồn khác nhau. Thu nhập từ việc làm, đầu tư,thu nhập
phát sinh từ sở hữu tài sản hay doanh nghiệp,...
Nguồn thu nhập có sự phân biệt. Những cá nhân chỉ dựa vào việc làm hay trợ giúp
chính phủ sẽ có mức thu nhập, mức ổn định thu nhập(thu nhập đến theo kỳ hạn, có
định mức) khác những cá nhân có nhiều nguồn thu nhập.
Thu nhập thường gắn với nghề nghiệp. Những ngành nghề khác nhau có thể có mức
thu nhập khác nhau.
Ví dụ: Thu nhập của một bác sĩ khác với thu nhập của một người nông dân.
Ngành nghề mỗi cá nhân thường là yếu tố dự đoán thu nhập của người đó.
Ví dụ: Mọi người thường cho rằng bác sĩ là một ngành nghề có thu nhập cao.

10
2.5. Bất bình đẳng trên phạm vi toàn cầu
Dưới một góc nhìn khác, Giddens quan tâm đến bất bình đẳng trên phạm vi toàn cầu.
Ông nhấn mạnh rằng những nước có thu nhập cao có mức sống tốt hơn những nước
có thu nhập thấp.

Cư dân những nước thu nhập cao có nhiều thực phẩm hơn, ít phải chịu đói kém hay
suy dinh dưỡng và sống lâu hơn.
Ví dụ: người Châu Âu thường có sức vóc to lớn, khỏe mạnh.

Những người sống ở các nước có thu nhập cao được học hành tốt hơn, do đó có kỹ
năng tốt hơn và được trả lương cao hơn
Ví dụ: Nhiều người đi du học ở các nước như Anh, Mỹ với mong muốn được hưởng
một nền giáo dục tốt hơn và tìm được những công việc được trả lương hậu hĩnh.

Quy mô gia đình ở các nước có thu nhập cao thường nhỏ hơn và con cái ít bị chết ở
tuổi ấu thơ do suy dinh dưỡng,
Ví dụ: gia đình thường chỉ có bố mẹ và con cái.

Nhìn lại các quan điểm đã được đề cập đến ở trên, chúng ta thấy sự đa chiều của bất bình
đẳng trong xã hội. Bất bình đẳng, không chỉ vậy, còn diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau
như cá nhâ, nhóm, tổ chức, thiết chế. Đặc biệt là trong bối cảnh xã hội hiện tại, bất bình
đẳng toàn cầu là vấn đề rất đáng chú ý. Nó nhấn mạnh đến sự khác biệt cơ hội xã hội của
các cá nhân ở nước có thu nhập cao hơn so với những nước có thu nhập thấp hơn.

3. Phân tầng xã hội


3.1. Khái niệm
Có nhiều định nghĩa khác nhau về phân tầng xã hội, điển hình như:
- David Popenone: cho rằng phân tầng xã hội là khuôn mẫu phân chia con
người thành những tầng lớp khác nhau theo vị trí xã hội, dựa trên việc họ tiếp
cận những điều đáng mong muốn.
- Anthony Gidden: cho rằng phân tầng xã hội được hiểu theo một cách đơn giản
là những bất bình đẳng mang tính cấu trúc giữa các nhóm xã hội khác nhau.
- Laurence A. Basirico, Barbara G. Cashion, J Ross Eshleman: phân tầng xã hội
là sự phân hạng con người dựa trên của cải, uy tín và vị trí xã hội.
Từ đây, chúng ta có thể định nghĩa một cách khái quát:
Phân tầng xã hội là sự phân chia các cá nhân trong xã hội thành các tầng/lớp
nhất định, trong đó mỗi tầng xã hội bao gồm những cá nhân có đặc điểm chung
hay có sự ngang bằng nhau về những phương diện nào đó, chẳng hạn như của
cải, vị trí xã hội, uy tín, quyền lực, tuổi tác.
3.2. Đặc điểm và nguyên nhân của sự phân tầng xã hội
3.2.1. Đặc điểm
- Diễn ra ở nhiều khía cạnh như kinh tế, chính trị, địa vị xã hội, học vấn.
Ví dụ: có sự phân tầng xã hội rõ rệt giữa những người giàu và người nghèo.
- Phạm vi toàn cầu: Sự phân tầng xã hội này không chỉ xảy ra ở Phương Đông
hay Phương Tây, cũng không phải chỉ xảy ra ở các quốc gia phát triển hay
đang phát triển mà diễn ra trên phạm vi toàn cầu, rộng lớn,...
- Tồn tại theo lịch sử và các thể chế chính trị: cho dù theo thể chế phong kiến
hay dân chủ hay bất kể thể chế chính trị nào thì sự phân tầng xã hội này đều
11
diễn ra và tồn tại theo suốt chiều dài lịch sử kéo dài từ thời cổ đại cho đến
hiện nay.
- Tồn tại trong các nhóm dân cư, giai cấp, tầng lớp xã hội.
Ví dụ: Hiện tượng phân tầng xã hội vốn có từ trong xã hội cổ xưa:
+ Xã hội cổ đại:
 Hi Lạp cổ đại: chủ nô, nô lệ, dân tự do.
 Ấn Độ cổ đại: bao gồm bốn đẳng cấp là tăng lữ, chiến binh,
thợ thủ công- làm ruộng- buôn bán, đầy tớ.
+ Xã hội phong kiến: phân thành hai tầng lớp xã hội chủ yếu là địa chủ
và nông dân.
+ Xã hội tư bản: chia thành tư sản và công nhân.
3.2.2. Nguyên nhân của phân tầng xã hội
- Do sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của tất cả các chế độ xã hội.
- Do sự phân công lao động.
- Sự khác nhau về nghề nghiệp, thu nhập, điều kiện làm việc.
- Sự khác nhau về địa vị xã hội, địa vị chính trị.
3.3. Tháp phân tầng xã hội
Trong lịch sử, người ta đã loại hình hóa một số kiểu tháp phân tầng đặc trưng cho các
xã hội. Các kiểu tháp phân tầng xã hội bao gồm:
- Tháp hình nón: Phản ánh mức độ bất bình đẳng cao của các xã hội, ở đó nhóm
người giàu, có quyền lực chiếm tỉ lệ rất thấp, trong khi đa số người nghèo khổ
lại chiếm tỉ lệ rất cao.
- Tháp hình nón cụt: Tầng lớp giàu có tăng lên, tầng lớp trung lưu chiếm tỉ
trọng lớn hơn, mức độ bình đẳng cao hơn.
- Tháp hình thôi (quả trám/ con quay): Cả hai nhóm giàu và nghèo đều chiếm tỉ
lệ nhỏ, nhóm trung lưu chiếm đa số và nằm ở phần thân tháp. Tuy nhiên
khoảng cách của hai nhóm đỉnh và đáy tháp còn khá xa.
- Tháp hình trụ: Tỉ lệ các nhóm giàu có, nghèo và trung lưu tương đối đồng đều.
Tùy vào chiều cao của tháp để nói về mức độ bình đẳng xã hội.
- Tháp hình "đĩa bay", thấp dẹt: Có thể có hai trạng thái là bình quân nghèo khổ
hoặc xã hội lí tưởng, thịnh vượng toàn dân, với tuyệt đại bộ phận các thành
viên của xã hội có mức sống trung lưu và khá giả.

Các kết quả nghiên cứu và khảo sát phân tầng xã hội theo mức sống ở Việt Nam vừa
qua cũng thường phân chia thành thành năm nhóm mức sống tính theo tỉ lệ phần trăm
và thể hiện thành các "tháp phân tầng" như vật để định dạng và phân tích.

Hình dạng thông thường của các tháp phân tầng này là hình thoi. Phần giữa thể hiện
nhóm giàu có/khá giả còn bé và nhọn; phần giữa phình rộng , thể hiện nhóm mức
sống trung bình, với tỉ lệ trên dưới 50%; còn phần đáy thể hiện nhóm mức sống
nghèo.

Tháp phân tầng này có thể phản ánh cơ cấu các tầng mức sống cũng như mức độ
phân hóa/ phân cực xã hội giữa chúng. Đối với khu vực đô thị, các tháp phân tầng
thường có hình thoi đều với phần trên và phần dưới tương đối đồng đều, cho thấy tỉ
lệ nhóm giàu có và tỉ lệ nhóm nghèo xấp xỉ gần nhau. Trong khi đó, tháp phân tầng
đối với các vùng nông thôn lại có dạng hình thoi cao - nhọn ở phần trên, thấp - bè ở
phần dưới cho thấy tỉ lệ thấp giữa các hộ giàu và tỉ lệ khá cao các hộ nghèo.
12
3.4. Các lý thuyết về sự phân tầng xã hội
3.4.1. Lý thuyết chức năng
Việc phân tầng xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội nghĩa là mỗi tầng xã hội
có chức năng xã hội riêng. Điều này giải thích vì sao cần phải có các tầng lớp,
đẳng cấp, giai cấp xã hội và tổ chức xã hội.
Lý thuyết này cho rằng phân tầng xã hội là hiện tượng xã hội phổ biến, tất yếu,
không tránh được của xã hội. Nhờ có phân tầng xã hội mới đảm bảo được những
địa vị quan trọng cho những người tài năng nhất đảm nhiệm một cách có ý thức.
Lý thuyết này cũng cho rằng trong một xã hội có một số địa vị quan trọng hơn
một số địa vị khác do vậy xã hội phải thiết chế hóa sự bất bình đẳng về uy tín,
quyền lực và thu nhập của mỗi người. Xét về mặt chức năng trong xã hội có
những địa vị then chốt chỉ những người có kỹ năng đặc biệt mới đảm nhận được.
Muốn vậy người ta phải trải qua quá trình học tập, rèn luyện, hi sinh, tốn thời
gian,... Do đó họ phải nhận được những lợi ích xứng đáng, gắn với địa vị khi họ
được đảm nhận. Vì vậy xã hội phải có sự phân chia lợi ích, bất bình đẳng phù
hợp với thang bậc địa vị khác nhau.
3.4.2. Lý thuyết xung đột
Thuyết xung đột nhấn mạnh mâu thuẫn là một phần không thể tránh khỏi trong
mối quan hệ giữa con người với con người đồng thời xung đột và mâu thuẫn
cũng đóng góp vào sự thay đổi không ngừng của xã hội.
Thuyết này dùng để giải thích mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội, giữa người
giàu với người nghèo hoặc giữa các nhóm xã hội khác nhau.
Giai cấp, quyền lực chính trị, địa vị chính trị là những yếu tố được đề cập đến
trong thuyết xung đột. Đối với thuyết này tất cả các thể chế chính trị, luật pháp
và truyền thống trong xã hội được tạo ra để hỗ trợ và bảo vệ người có quyền lực
hoặc nhóm người mà được xem là người có địa vị cao trong xã hội. Các bất bình
đẳng xã hội này sẽ dẫn đến xung đột trong xã hội, chính vì thế các tầng lớp trong
xã hội sẽ không được ổn định.
3.5. Những quan niệm về phân tầng xã hội
3.5.1. Quan niệm của Max Weber
Max Weber (1925) đã bàn đến ba khía cạnh của phân tầng xã hội, bao gồm sự
giàu có, quyền lực và uy tín (Trích lại từ Popeone 1986: 219).

Theo David Popenone, sự giàu có là tất cả các tài sản kinh tế của một xã hội,
không chỉ tiền mà còn các sản phẩm vật chất như đất đai, các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, lao động, dịch vụ,…nhiều đồ vật được coi là có giá trị vì chúng kết
tinh nhiều giờ lao động trong đó (nhiều giờ lao động để làm ra chúng), một số thì
vì vẻ đẹp của chúng, một số thì vì chúng sẽ mang lại những lợi ích vật chất trong
tương lai. Sự giàu có, trong nhiều tình huống được định nghĩa như là lao động
được tích lũy. Nhưng, giàu có có thể là sự tích lũy nhiều thứ như vẻ đẹp, tình
cảm, kiến thức, hay là các cơ hội kinh tế trong tương lai.
Ví dụ:
- Kim cương có giá trị vì nó đep và quý hiếm.
- Bức thư của George Washington có giá trị vì nó hiếm, và có ý nghĩa về mặt
lịch sử.
- Đất đai có giá trị vì chúng có thể tạo ra lợi ích kinh tế.

13
Một trong những chiều cạnh của sự giàu có là thu nhập - lợi ích có được từ việc
sử dụng nguồn tài nguyên hay nhân lực. Thu nhập có thể được thể hiện như là
lưu lượng tiền trên một đơn vị thời gian. Nhưng không phải tất cả các loại thu
nhập đều được thể hiện bằng tiền.
Ví dụ: Khi thành viên gia đình làm việc nhà, những hành động đó không mang
lại tiền, nhưng mang lại thu nhập thực sự cho gia đình. Tức là người ta tạo ra thu
nhập không phải dưới hình thức tiền bạc. nếu gia đình đó không thể làm việc nhà
thì họ sẽ phải trả tiền cho dịch vụ dọn dẹp nhà cửa,… mặc dù chúng ta đều mong
muốn giàu có nhưng một số người thì giàu có hơn một số người khác.
Giữa các quốc gia cũng vậy, có những quốc gia rất phát triển, nhưng một số
quốc gia thì mới chỉ đang phát triển thậm chí là kém phát triển, mức sống của
người dân rất thấp.

Khía cạnh thứ hai của phân tầng xã hội, theo Weber là quyền lực. Quyền lực là
khả năng của một người hay một nhóm người trong việc gây ảnh hưởng lên hành
động của người khác, bất chấp việc người đó có muốn thế hay không. Các nhà
xã hội học nghiên cứu quyền lực không chỉ quan tâm đến tại sao người ta lại
thực hành quyền lực, và điều đó mang lại lợi ích cho ai. Trong ba khía cạnh của
phân tầng, quyền lực là thứ khó đo lường nhất. Nhiều nhà xã hội học cho rằng
quyền lực thực sự có thể không nằm ở nơi mà chúng ta nghĩ nó ở đó. Chẳng hạn
như, một thị trưởng thành phố là người mà chúng ta nghĩ rằng nắm quyền lực,
đưa ra mọi quyết định. Tuy nhiên, thực tế những quyết định do ông ta tuyên bố
lại chịu sự chi phối của những nhà doanhn nghiệp đứng sau hậu trường (trích lại
từ Popeone 1986: 221).

Chiều cạnh thứ ba của quyền lực là uy tín. Uy tín là sự quý trọng và sự thừa
nhận mà một người nhận được từ những người khác. Uy tín đến từ nhiều nguồn,
tiếng tăm và sự thừa nhận từ công chúng, sự kính trọng và sự ngưỡng mộ, sự tôn
trọng và sự quý mến. Uy tín cũng có thể đạt được bằng nhiều cách. Những người
dũng cảm, thông minh, tài ba, tốt bụng, rộng lượng thường có uy tín. Uy tín cũng
có thể mua được bằng tiền. Quyền lực cũng có thể tạo ra uy tín, ít nhất là hình
thức bên ngoài của nó. Thông thường, uy tín đến từ việc chiếm giữ những vị trí
cao trong xã hội. Uy tín và vị trí cao trong xã hội thường đạt được bằng những
thành công trong các lĩnh vực, thông qua góc nhìn của công chúng (trích lại từ
Popeone 1986: 222).
3.5.2. Quan niệm của John Macionis
Theo John Macionis, khái niệm phân tầng đề cập đến một hệ thống phân hạng
con người theo thứ bậc dựa trên bốn nguyên lý sau đây:
- Phân tầng xã hội là một đặc điểm của xã hội chứ không đơn thuần là sự khác
biệt giữa các cá nhân. Trong thực tế, xã hội định hình nên cuộc sống của từng
cá nhân nhiều hơn những gì cá nhân nghĩ là mình quyết định nên sô phận của
chính mình.
Ví dụ: Một đứa trẻ có thể có sức khỏe tốt hơn, học hành tốt hơn, nghề nghiệp
tốt hơn không hẳn chỉ do cá nhân đó có năng lực hơn, và một phần không nhỏ
là do bối cảnh xã hội chẳng hạn như điều kiện kinh tế gia đình, chất lượng
ngôi trường người đó học tốt hơn,…tạo nên. Một ví dụ khác là hầu hết những
kẻ giết người hàng loạt thường bị những chấn thương về mặt tâm lý hoặc thể
14
xác trong quá khứ như bị bạo hành, lạm dụng hay bị bỏ rơi khi còn nhỏ, cô
độc vì bị xa lánh bởi những người xung quanh,…
- Phân tầng xã hội chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác. Một thực tế là, vị trí
xã hội của bố mẹ được trao truyền sang cho con cái. Nói cách khác, bối cảnh
xã hội định hình nên vị trí xã hội của cá nhân.
Vi dụ: trong các doanh nghiệp gia đình, yếu tố gia đình đóng vai trò chính
trong tổng thể hệ thống vận hành, với quyền sở hữu và quản lý nằm cả trong
tay các thành viên gia đình. Khi doanh nghiệp đó tiến hành chuyển giao thế
hệ thì những người điều hành doanh nghiệp công ty đó sẽ lùi về sau để cho
con cái của họ tiếp tục điều hành và phát triển sự nghiệp gia đình.
Tuy nhiên, nhiều cá nhân cũng có những sự di động xã hội liên tục, đi lên hay
đi xuống, trên các thang bậc xã hội khác nhau dựa vào nỗ lực cá nhân, hay do
thất bại của cuộc sống. Trong lịch sử cũng có không ít trường hợp những
người thuộc tầng lớp nghèo khó vươn lên trở thành một nhà tỉ phú, nhà tư
bản. Chẳng hạn ở Mỹ Abraham Lincoln sinh ra từ một túp lều nhưng đã biến
nó trở thành nhà trắng. Ông là một tấm gương sáng của sự tự lập, tự phấn đấu
từ hoàn cảnh nghèo khó vươn lên là người có địa vị cao nhất thế giới.
- Phân tầng xã hội phổ biến ở mọi nơi. Tuy nhiên bất bình đẳng về cái gì, và
bất bình đẳng như thế nào do sự phân tầng tạo ra lại khác nhau từ nơi này đến
nơi khác. Có nơi phân tầng chủ yếu dựa trên uy tín, có nơi khác lại nhấn
mạnh đến phân tầng về của cải hay quyền lực.
Ví dụ:
+ Trong một công ty, doanh nghiệp thì tồn tại sự phân tầng về quyền
lực. Những người đứng đầu công ty, doanh nghiệp đó thì có quyền
lực, của cải, sức ảnh hưởng và địa vị cao hơn những bộ phận, nhân
viên trong công ty, doanh nghiệp đó.
+ Có nơi lại phân tầng về của cải, ví dụ như những gia đình giàu có thì
có khả năng chạy việc cho con cái của họ có những vị trí tốt còn
những người đủ khả năng, đủ điều kiện để có vị trí đó lại không được
nhận, từ đó dẫn đến sự bất bình đẳng về cơ hội trong việc làm.
- Phân tầng xã hội không chỉ liên quan đến bất bình đẳng xã hội mà còn liên
quan đến niềm tin. Thực tế là, bất cứ xã hội nào cũng không chỉ mang đến
cho người này nhiều thứ hơn người khác mà còn biện minh cho sự sắp đặt đó
là hợp lý. Như vậy là, không chỉ có sự đa dạng về bất bình đẳng mà còn có cả
sự đa dạng về sự giải thích tại sao người ta lại bất bình đẳng từ xã hội này
sang xã hội khác.
3.6. Mối quan hệ giữa phân tầng xã hội và bất bình đẳng
- Phân tầng xã hội và bất bình đẳng có mối quan hệ mật thiết.
- Bất bình đẳng là nguyên nhân, phân tầng xã hội là kết quả.
- Sự bất bình đẳng là thuộc tính vốn có trong cấu trúc phân tầng, và sự phân
tầng xã hội đã thể trong đó sự phân nhóm xã hội.

Qua việc điểm lại quan điểm của các tác giả khác nhau về phân tầng xã hội, chúng ta
thấy nổi bật quan điểm của Max Weber về ba chiều cạnh quan trọng của phân tầng xã
hội bao gồm của cải, quyền lực và uy tín. Thêm nữa, điều cần nhấn mạnh ở đây là phân
tầng xã hội là đặc điểm xã hội mang tính phổ biến, có tính thế hệ, và không chỉ phản

15
ánh bất bình đẳng xã hội mà còn liên quan đến niềm tin trong xã hội - niềm tin biện
minh cho phân tầng xã hội.
4. Di động xã hội
4.1. Khái niệm
Khi bàn về định nghĩa di động xã hội, các nhà nghiên cứu xã hội đưa ra những
nhận định khác nhau:
- David Popenoe cho rằng: “Di động xã hội là khái niệm chỉ sự dịch chuyển
của một các nhân từ một vị thế xã hội, hay một giai cấp sang một vị thế xã
hội khác, hay giai cấp khác”.
Ví dụ: Một nhân viên cấp dưới trở thành giám đốc cũng được xem là di
động xã hội.
- Từ điển xã hội học do John Scott và Gordon Marshall chủ biên cho rằng:
“Di động xã hội thường là sự dịch chuyển của các nhân, nhưng cũng có thể
là sự dịch chuyển của nhóm, giữa những vị trí khác nhau trong một hệ
thống xã hội phân tầng, trong bất cứ xã hội nào”.
Ví dụ: Trong một công ty, việc nhân viên thăng chức lên thành giám đốc
và giám đốc bị giáng chức xuống thành nhân viên là một di động xã hội.
- Anthony Giddens thì cho rằng: “Khái niệm di động xã hội đề cập đến sự di
chuyển của các cá nhân, các nhóm giữa các vị trí kinh tế- xã hội khác
nhau”.
Ví dụ: Từ bác sĩ trở thành chủ tiệm bánh là một di động xã hội.

Từ quan niệm của các tác giả được đề cập đến ở trên, ta có thể kết luận:
Di động xã hội là sự di chuyển của cá nhân/ nhóm xã hội từ một vị trí xã hội
đến một vị trí xã hội khác.
4.2. Các hình thức di động xã hội
4.2.1. Di động trong thế hệ và di dộng liên thế hệ
- Di động trong thế hệ: Những người trong cùng một thế hệ có địa vị xã hội
khác nhau.
Ví dụ: Hai người bạn cùng một thế hệ (cùng học, cùng ra trường) đều làm
giám đốc nhưng cho hai công ty khác nhau, nhưng sau đó một người vẫn giữ
nguyên vị trí còn người kia bị giáng chức xuống thành nhân viên.
- Di động liên thế hệ: Những người không cùng một thế hệ có địa vị xã hội
khác nhau.
Ví dụ: Trong một nhà, thế hệ con cái làm bác sĩ có vị thế xã hội cao hơn so
với thế hệ cha mẹ làm nghề nông của họ.
4.2.2. Di động theo chiều dọc và di động theo chiều ngang
- Di động theo chiều dọc: Chỉ sự di chuyển của các cá nhân giữa các nhóm xã
hội, giai cấp xã hội tới vị trí, địa vị xã hội có giá trị cao hơn hoặc thấp hơn.
Ví dụ: Phó giám đốc một doanh nghiệp bị giáng xuống chức trưởng phòng.
- Di động theo chiều ngang: Chỉ sự di chuyển của các cá nhân giữa các nhóm
xã hội, giai cấp xã hội tới một vị trí ngang bằng về mặt xã hội.
Ví dụ: Một bác sĩ ngoại khoa chuyển công tác từ Hà Nội vào TP Hồ Chí
Minh. (Bác sĩ đó vẫn giữ chức vụ tương đương).
4.2.3. Một số hình thức di động khác
- Theo địa vị xã hội:

16
+ Di động được sự bảo trợ: Đạt được địa vị cao bởi nguyên nhân hoàn
cảnh gia đình hoặc yếu tố khác không trực tiếp liên quan đến khả năng
hoặc sự nỗ lực, cố gắng.
+ Di động do tranh tài: Đạt được địa vị cao trên cơ sở của sự nỗ lực và
tai năng.
Ví dụ: Trong một gia đình gồm hai chị em có bố làm phó giám đốc
công ty lớn. Trong khi người em B dựa vào sự nâng đỡ của bố để vào
làm trưởng phòng kinh doanh (di động được sự bảo trợ), người chị A
từ chối sự giúp đỡ và trúng tuyển và công ty bằng năng lực của mình
(di động do tranh tài).
Di động xã hội chủ yếu nói tới địa vị giành được, chứ không phải địa vị gán
cho (có sẵn).
- Theo cơ cấu xã hội:
+ Di động cơ cấu: Là sự di động xã hội với tư cách là kết quả của sự thay
đổi trong quá trình phân phối các địa vị xã hội. Di động cơ cấu diễn ra
bất chấp các quy tắc thống trị của địa vị.
Ví dụ: Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cùng sự phát triển
mạnh mẽ của công nghệ thông tin đã giúp thế hệ sau kiếm được nhiều
hơn những việc làm có vị thế cao hơn so với thế hệ trước.
+ Di động trao đổi: Khi có người di động xuống sẽ có người di động lên
thay vào vị trí của người đó, kết quả tạo nên sự cân bằng trong cơ cấu
xã hội.
4.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến di động xã hội
- Điều kiện kinh tế - xã hội: Tùy vào sự phát triển của xã hội mà di động xã hội
diễn ra nhiều hay ít.
Ví dụ: Trong xã hội phong kiến, địa vị được truyền từ đời này qua đời khác, cố
đinh và cứng nhắc. Còn trong xã hội hiện đại ngày hay, các vị trí có tính mềm
dẻo, linh hoạt hơn nhờ sự nỗ lực của các cá nhân, có sự cạnh tranh địa vị dựa
trên năng lực của họ.
- Trình độ học vấn: Một trong những yếu tố tác động mạnh nhất đễn sự di động
xã hội. Nhiều nhà nghiên cứu xã hội học cho rằng, những cá nhân có trình độ
độ học vấn cao hơn sẽ dễ có được những cơ hội, những vị trí cao trong xã họi
hơn là những người có trình độ học vấn thấp hơn.
- Giới tính: Nhìn chung, sự di động xã hội của phụ nữ thường thấp hơn đàn ông,
ngay cả ở trong xã hội hiện đại.
- Nơi cư trú: Khu vực mà con người sinh sống cũng ảnh hưởng đến di động xã
hội, Ví dụ như những người ở nông thôn sẽ ít có điều kiện và cơ hội hơn so
với những cá nhân sống ở thành thị.
- Đặc điểm nhân khẩu: Một số đặc điểm nhân khẩu như tuổi tác, tôn giáo, thu
nhập,... cũng ảnh hưởng đến sự di động xã hội.

Như vậy, di động xã hội đã có một lịch sử nghiên cứu lâu dài. Bàn về di động xã hội,
các nhà xã hội học thường nói đến các loại di động xã hội khác nhau, nhưng nổi bật
nhất là di động trong thế hệ - liên thế hệ và di động theo chiều dọc - ngang. Trong xã
hội hiện đại, di động xã hội diễn ra nhiều hơn và thường liên quan đến nghề nghiệp.

17
Phần Kết Luận

Tóm lại, quyền lực, bất bình đẳng và phân tầng xã hội là những chủ đề quan trọng của
xã hội học. Trong đó:
- Quyền lực là khả năng của cá nhân hoặc nhóm trong việc thay đổi thái độ,
quan điểm hành vi của cá nhân khác, nhóm khác. Quyền lực là khả năng của
cá nhân hoặc nhóm trong việc tác động lên sụ kiện/ sự việc nhằm thay đổi sự
kiện/ sự việc theo cách nào đó. Quyền lực ở trong mọi quan hệ xã hội.
- Bất bình đẳng là sự không ngang bằng nhau về cơ hội xã hội giữa các cá
nhân, các nhóm trong xã hội liên quan đến sự không ngang bằng nhau về của
cải, uy tin và quyền lực giữa các cá nhân, các nhóm.
- Phân tầng xã hội là sự phân chia các cá nhân trong xã hội thành các tầng lớp
nhất định, trong đó mỗi tầng xã hội bao gồm những cá nhân có những đặc
điểm chung hay có sự ngang bằng nhau về những phương diện nào đó, chẳng
hạn như của cải, vị trí xã hội, uy tín, quyền lực, tuổi tác,...
- Di động xã hội là sự di chuyển của các cá nhân/ nhóm xã hội từ một vị trí xã
hội đến một vị trí xã hội khác. Các loại di động xã hội nổi bật bao gồm: di
động theo chiều dọc, di động xã hội theo chiều ngang, di động trong thế hệ,
di động liên thế hệ.

18
Tài Liệu Tham Khảo
1. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Khoa Xã hội học, Giáo trình Xã
hội học đại cương, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Phạm Tất Dong – Lê Ngọc Hùng (2008), Xã hội học, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội.
3. Trịnh Duy Luân (2009), Giáo trình Xã hội học đô thị, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội
4. https://voer.edu.vn/m/phan-tang-xa-
hoi/c2855a35?fbclid=IwAR0w757mJOK5cjuBBmDoYXU_Ki3hOFkWc6gJyBdu
gnEuQDcX1FlRFWhCpVI
5. https://sjjs.edu.vn/blog/2018/06/30/tim-hieu-van-de-quyen-luc-pouvoir-trong-tu-
tuong-cua-michel-foucault/
6. https://sites.google.com/site/xahoihocsociology/cac-khai-niem-ly-thuyet-xa-hoi-
hoc/phan-tang-xa-hoi?fbclid=IwAR1fb9tGyipQFeP-
R6ItVX1b4jNqiETsS2u6MGdSPKLMO4CJkSVqkEezPdk

You might also like