Professional Documents
Culture Documents
Soteriological Dimensions of The Absolution Formula
Soteriological Dimensions of The Absolution Formula
Đề tài: Phân tích chiều kích Cứu độ Học của Công thức Giải tội: “Thiên Chúa là Cha hay thương xót,
đã nhờ sự chết và sống lại của của Con Chúa mà giao hoà thế gian với Chúa và ban Thánh Thần để
tha tội. Xin chúa dùng tác vụ của Hội Thánh mà ban cho (con) ơn tha thứ và bình an.”
Dàn bài:
Dẫn nhập
1. Hoà giải – tên gọi mới của ơn cứu độ.
2. Chúa Cha – Đấng có sáng kiến hoà giải.
3. Chúa Con – Trung Gian hoà giải
a. Đức Giêsu Kitô – Trung Gian duy nhất cuộc hoà giải
b. Mầu nhiệm Vượt Qua – Mầu nhiệm hoà giải
c. Ơn hoà giải phổ quát
4. Chúa Thánh Thần – Tình Yêu hoà giải
a. Thánh Thần phát xuất từ Cha
b. Thánh Thần được Con sai phái
c. Thánh Thần được ban để tha tội
5. Hội Thánh – Bí tích của ơn hoà giải
Kết luận
1
DẪN NHẬP
Các bí tích của Giao Ước Mới được gọi là các bí tích của ơn cứu độ (sacramenta salutis), vì đối
với các tín hữu, chúng cần thiết cho ơn cứu độ,1 và vì “nhiệm cục bí tích cốt tại việc thông chuyển các
hiệu quả ơn cứu chuộc của Đức Kitô.”2 Trong việc cử hành mỗi bí tích, lời nói và cử chỉ liên kết với
nhau nhằm biểu thị và diễn đạt nhiệm cục cứu độ này.3 Với ý hướng đó, bài viết sau đây sẽ phân tích
chiều kích Cứu độ Học trong phần đầu của Công thức Hoà giải hiện hành trong Giáo hội La-tinh:
Thiên Chúa là Cha hay thương xót, đã nhờ sự chết và sống lại của của Con Chúa mà giao hoà thế
gian với Chúa và ban Thánh Thần để tha tội. Xin Chúa dùng tác vụ của Hội Thánh mà ban cho (con)
ơn tha thứ và bình an.4
Công thức đã đặt mầu nhiệm hoà giải vào trong toàn bộ lịch sử cứu độ,5 diễn tả rằng
việc giao hòa hối nhân phát xuất từ lòng thương xót của Thiên Chúa, cho thấy mối giây liên kết giữa
việc giao hòa hối nhân với Mầu Nhiệm Vượt qua của Đức Kitô, làm nổi bật phần việc của Chúa
thánh Thần trong việc tha thứ tội lỗi. Sau cùng, làm sáng tỏ khía cạnh Giáo Hội của Bí Tích, vì việc
giao hòa với Thiên Chúa được kêu xin và trao ban qua thừa tác vụ của Hội Thánh.6
Dựa trên ý tưởng này, bài viết sau sẽ lần lượt trình bày vai trò của từng Ngôi Vị trong nhiệm cục
cứu độ (các Phần II, III, IV), sau đó là thừa tác vụ của Hội Thánh (Phần V) trong mầu nhiệm này,7 mầu
nhiệm nay có tên gọi mới từ “hoà giải” (Phần I).
2
giải chính là tên gọi mới của ơn cứu độ.15 Lịch sử cứu độ “là lịch sử của kế hoạch hiệp thông giữa con
người với Thiên Chúa, được thực hiện ngang qua những cuộc hoà giải, mãi cho đến cuộc hoà giải dứt
khoát được thực hiện bởi Đức Kitô.”16
Hơn nữa, thuật ngữ hoà giải còn được chú ý vì đã bao hàm hết tất cả các phạm trù khác của khoa
cứu độ học (như “giá chuộc”, “của lễ”, “đền tội”, “đền bù”, “tha thứ”),17 đã hiện diện trong thần học
và việc thực hành sám hối tự xa xưa, nhất là trong các kỷ luật cổ về phụng vụ trọng thể của việc hoà
giải các hối nhân.18 Sau cùng, hoà giải còn làm nổi bật ý tưởng rằng tuy “ơn cứu độ hoàn toàn phát
xuất từ sáng kiến nhưng không và đầy tình thương của Thiên Chúa,”19 con người vẫn được mời gọi tự
do đáp trả. Nếu hoà giải bao hàm một sự thay đổi, thì đó không ám chỉ bất cứ một sự thay đổi nào nơi
Thiên Chúa, vì Người là Đấng Hằng Hữu (x. Xh 3,14), nhưng là sự thay đổi nơi con người. Ơn ban
hoà giải luôn được Thiên Chúa rộng ban, phần quyết định là con người có đó nhận hay không.20
Hoà giải là công trình của chung của Chúa Ba Ngôi, vì có sự thống nhất hoàn hảo trong hành
động của Cha, của Con và của Thần Khí trong nhiệm cục này. Tuy nhiên, sự thống nhất đó lại bao
gồm chuỗi “những sắp xếp” (dispositions) mang tính lịch sử diễn tả sự khác biệt trong hành động của
ba Đấng.21 Hơn nữa, việc ta đi vào sự hiệp thông với Chúa Ba Ngôi tạo ra nơi ta những tương quan
khác nhau với từng Ngôi Vị. Nói cách khác, mỗi Ngôi Vị có một vai trò riêng trong nhiệm cục hoà
giải,22 và sáng kiến là của Chúa Cha.
3
“Cha của những sự thương xót,” “the Father of mercies” (KJV), “le Père des miséricordes” (TOB).
Cách dịch “Người là Cha giàu lòng từ bi lân ái” (CGKPV) hay “Cha đầy tình thương xót” (NTT) xem
ra diễn tả đầy đủ hơn điều mà Phaolô muốn truyền tải. Vì thương xót con người, Thiên Chúa đã đi tìm
sự hoà giải với họ. Vì thế, có thể nói như W. KASPER: lòng thương xót là “khúc dạo đầu của tất cả
chương trình cứu độ,”29 là nguồn gốc, là nguyên nhân và là nền tảng của toàn bộ nhiệm cục hoà giải.30
Vì “lòng thương xót là đặc tính nền tảng của Thiên Chúa,”31 nên có thể nói ý định hoà giải đã
được Chúa Cha ấp ủ tự đời đời, ngay trước khi vũ trụ được tạo thành (x. Ep 3,1-10).32 Ý định ấy được
thực hiện cách không mỏi mệt dọc dài lịch sử nhân loại, đặc biệt nơi lịch sử dân Israel qua các giao
ước,33 và được hoàn thành cách trọn vẹn và dứt khoát nơi Đức Kitô, Đấng Trung Gian duy nhất giữa
Thiên Chúa và nhân loại (x. 1Tm 2,5).34
1. Đức Giêsu Kitô: Trung Gian duy nhất của cuộc hoà giải
“Chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người: đó là một
con người, Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người” (1Tm 2,5-6). Đó là xác quyết
một đời của Phaolô: Đức Giêsu Kitô là Đấng Trung Gian tuyệt hảo duy nhất. Một mặt, vì Ngài chính
là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa (x. Ga 1,1), nên Ngài có thể gửi trao chúng ta ân ban của Thiên
Chúa, ân ban là chính Ngài. Mặt khác, Ngài cũng là người thực sự, là một trong số chúng ta (x. Ga
1,14), giống chúng ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi (x. Dt 4,15).35 Như vậy, trong tiến trình hoà giải, “Đức
Kitô Giêsu cùng một lúc vừa là Con đến hoà giải với nhân loại thù nghịch của Thiên Chúa, vừa là con
người đến cùng Thiên Chúa.”36 Vị thế Trung Gian như thế là duy nhất nơi Ngài, và hoà giải là một
nhiệm cục duy nhất cho toàn nhân loại.37
Tuy nhiên, Đức Giêsu không đơn thuần chỉ là một người môi giới (intermédiaire), một tác nhân
có nhiệm vụ đi qua đi lại (faire la navette) giữa hai bên. Ngài là Trung Gian (médiateur) theo nghĩa là
điểm gặp gỡ giữa hai bên,38 và hai tác động hoà giải trở thành một và cùng biến cố duy nhất (un seul
et même événement)”:39 nơi nhân tính của Ngài, Thiên Chúa đã thực sự gặp gỡ con người, tác động
hoà giải đã được hoàn thành ở một phía; nơi thiên tính của Ngài, con người đã thực sự gặp gỡ Thiên
Chúa. Tác động hoà giải ở phía còn lại được hoàn thành nơi cái chết và sự phục sinh của Người.
4
2. Mầu nhiệm Vượt Qua: mầu nhiệm hoà giải
“Nhờ máu Người đổ ra trên thập giá, Thiên Chúa đã đem lại bình an cho mọi loài dưới đất và
muôn vật trên trời” (Cl 1,20). Với Phaolô, sự hoà giải đã được hoàn tất nhờ cái chết của Đức Giêsu
(theologie de la croix). Thập giá là nơi hai chuyển động hoà giải hội tụ: chiều đi xuống của vị Thiên
Chúa muốn gặp gỡ con người và chiều đi lên của nhân loại muốn đến cùng Thiên Chúa.
Hoà giải trước hết và trước nhất là việc Thiên Chúa cúi mình xuống với nhân loại (descendant):
“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một” (Ga 3,16). Chưa hết, “Người lại còn hạ mình, vâng
lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,8). “Để cho ta sự sống, Ngài đã cho đi
sự sống của mình.”40 Thiên Chúa khao khát hoà giải với con người đến nỗi chẳng còn gì Ngài đã không
làm: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta.
Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta?” (Rm 8,32).
Thập giá còn chứng kiến chiều đi lên (ascendant) của một nhân loại đến cùng Thiên Chúa. Trong
khi con người, vì là một thụ tạo giới hạn, không thể dâng lên Thiên Chúa một quà tặng xứng đáng với
Ngài,41 thì Đức Giêsu, vì là người thật, đã hoàn tất hiến lễ và sự đáp trả con người dâng lên Thiên
Chúa: “Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng
lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt” (Ep 5,2). “Trong cái chết Đức Giêsu tỏ bày cho nhân loại
sự liên đới vô biên và phổ quát.”42
Chiều chuyển động này, trong đó Đức Kitô kéo ta cách đau đớn ra khỏi tội lỗi, mở đầu và làm cho
chiều chuyển động của toàn thể nhân loại hướng về Thiên Chúa có thể xảy ra, cũng như nhân loại
có thể tìm được sự hiệp thông với Ngài, như thân thể với đầu. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã nâng
nhân loại về với Ngài: đó là một con người, Đấng Phục Sinh, Đấng từ nay ở bên hữu Thiên Chúa.43
Như thế, trên thập giá, Đức Giêsu hoàn thành hai khía cạnh của công trình hoà giải.44 Ngài vừa
là Thiên Chúa Đấng hoà giải, vừa là con người được hoà giải (le Dieu réconciliateur et l’homme
réconcilié)45: “Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân
thể duy nhất” (Ep 2,16). Nhưng cái chết của Đức Giêsu sẽ chẳng có giá trị gì nếu Ngài đã không phục
sinh: “nếu Đức Ki-tô đã không trỗi dậy […] thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người”
(1Cr 15, 19). Phục sinh là biến cố “đã mạc khải đầy đủ và chung cuộc ý nghĩa và sự thật về cuộc đời,
con người, công việc, và cái chết của Đức Kitô.”46 Như thế, hai chiều kích hữu thể (being) và sự nghiệp
(work) nơi Đức Kitô, hay Kitô học hữu thể (ontological Christology) và Kitô học chức năng (functional
Christology) luôn gắn kết làm một.47 Thần học về thập giá (théologie de la croix) và thần học về vinh
quang (théologie de la gloire) gắn kết, bổ túc và hoàn thiện lẫn nhau.48
5
Thiên Chúa đã muốn làm cho tất cả sự viên mãn hiện diện ở nơi Người, cũng như muốn nhờ Người
mà làm cho muôn vật (τὰ πάντα) được hoà giải với mình” (Cl 1,20). “Κόσμος,” theo Phaolô, là “τὰ
πάντα,” là “mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời” (Cl 1,20).
Nhưng không thể có được sự hoà giải với Thiên Chúa mà không có sự giải hoà với anh chị em.49
Qua cái chết và sự phục sinh, Đức Kitô “đã liên kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một;
Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét [… ] Người đã tác tạo đôi
bên thành một người mới duy nhất nơi chính bản thân Người” (Ep 2,14-16). Sự hoà giải theo chiều
ngang là điều kiện để có được sự hoà giải theo chiều dọc: “Xin tha tội cho chúng con như chúng con
cũng tha cho những người có lỗi với chúng con” (Mt 6,12). Vì thế, trong bí tích Hoà giải, “hối nhân
được hoà giải không chỉ với Thiên Chúa, nhưng còn với toàn thể Hội Thánh.”50
Để kết phần này, chúng ta mượn ý tưởng của B. SESBOÜÉ: “Thập giá là nơi gặp nhau của hai
chuyển động hoà giải: chiều ngang và chiều dọc. Thập giá là nơi hội tụ của hai chuyển động: chiều đi
xuống và chiều đi lên, của sự hoà giải của Thiên Chúa với con người và của con người với Thiên Chúa,
được hoàn thành nhờ Đấng Trung Gian duy nhất.”51 Đức Kitô chính là bí tích nguyên căn (primordial
sacrament) của cuộc hoà giải.52 Tuy nhiên, “việc hoà giải đã được hoàn thành một cách khách quan
nơi Đức Giêsu Kitô, còn việc thực hiện một cách chủ quan xảy ra trong Giáo hội: đó là công trình của
Chúa Thánh Thần trong lãnh vực của con người và của thế giới tội lỗi.”53
6
2. Thánh Thần được Con sai phái
Theo Gioan, Thần Khí chỉ được ban một khi Đức Giêsu được tôn vinh (x. Ga 7,39). Giờ “tôn
vinh” cũng chính là giờ được “giương cao”:55 “Rồi Người gục đầu xuống và trao Thần Khí” (Ga
19,30). Nói cách khác, “Thần Khí là hoa trái của mầu nhiệm Vượt Qua.”56 Thần Khí của Cha nay trở
thành Thần Khí của Đức Giêsu (Spiritus Iesu/ Christi, x. Cv 16,7; Rm 8,9). F. X. DURRWELL viết rằng:
Thần Khí của Thiên Chúa [...] cũng là “Thần Khí của Đức Giêsu,” vì Đức Giêsu là “Con duy nhất
trong cung lòng Cha.” Thần Khí tuy nhiên không là cùng một cách thức như của nơi Cha và nơi Con.
Bởi vì điều riêng nơi Cha thì mang sắc thái của cha, điều riêng nơi Con thì mang sắc thái của con.
Cha là nguồn mạch; Con nhận Thần Khí từ Đấng là nguồn mạch của Thần Khí. Đức Kitô, một cách
nghịch lý, cũng là nguồn mạch của Thần Khí, nguồn mạch trong tính chất của một người con, trong
tính thụ cảm đối với Cha. Trong cái chết mở rộng đến vô biên của Người, Người nhận lấy sự đầy
tràn của Cha, và khi lãnh nhận trọn vẹn, Người là nguồn ban Thần Khí mà Cha đã ban cho Người,
là trung gian của ân ban Thiên Chúa. Đức Giêsu đã chết vì vậy, chết để ban Thánh Thần.57
Trong cái chết của Người, Đức Giêsu đã trả lại cho Cha “Thần Khí” của Người (Ga 19,30), Thần
Khí sẽ trở thành ân ban chung của Cha và Con cho thế giới.58
Như thế, ta phần nào hiểu được chiều sâu suy tư và trực giác đức tin hàm chứa trong công thức Filioque
của Giáo hội La-tinh: Chúa Thánh Thần là Đấng “ex Patre Filioque procedit”.59
KẾT LUẬN
Trong Công thức Giải tội, hoà giải là tư tưởng chủ đạo. Như thế, có thể mượn lại tư tưởng của
K. BARTH để nói rằng: mầu nhiệm cứu độ chính là mầu nhiệm hoà giải. Qua mầu nhiệm Vượt Qua của
Chúa Giêsu Kitô, Đấng Trung Gian duy nhất, Thiên Chúa Cha đã hoà giải thế gian với Ngài, và đã ban
Chúa Thánh Thần để tha thứ tội lỗi nhân loại. Hội Thánh, với sứ mạng hoà giải do Chúa Giêsu Kitô
uỷ thác, tiếp tục nhiệm vụ và trách nhiệm chuyển trao ơn hoà giải của Thiên Chúa cho mọi người.
8
1
X. GIOAN PHAOLÔ II, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (GLHTCG), bản dịch của Uỷ ban Giáo lý Đức Tin, Hội Đồng
Giám Mục Việt Nam, Hà Nội, Nxb. Tôn Giáo, 2011, n. 1129.
2
________________, Bản Toát Yếu Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo (BTY GLHTCG), bản dịch của Uỷ ban Giáo lý
Đức Tin, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Hà Nội, Nxb. Tôn Giáo, 2007, n. 220.
3
X. CÔNG ĐỒNG VATICAN II, Sacrosanctum Concilium (SC), bản dịch của Uỷ ban Giáo lý Đức Tin, Hội Đồng Giám Mục
Việt Nam, Nxb. Tôn Giáo, 2012, n. 21; GLHTCG nn. 1155, 1190; BTY GLHTCG n. 238.
4
THÁNH BỘ PHƯỢNG TỰ VÀ KỶ LUẬT BÍ TÍCH, Nghi thức Bí tích Sám hối (Ordo Paenitentiae, OP), 46 (bản dịch chính
thức của Ủy ban Giám mục về Phụng Vụ, 1975).
5
X. DOMENICO SARTORE et ACHILLE M. TRIACCA (dirs.), Dictionaire Encyclopédique de la Liturgie, trad. HENRI
DELHOUGNE (dir.), Vol. II, Turnhout, Brepols Publishers, 2002, tr. 187; x. OP, nn. 1-5.
6
Ibid., 19.
7
X. KENAN B. OSBORNE, O.F.M., Reconciliation and Justification: The Sacrament and Its Theology, New York, Paulist
Press, 1990, tr. 206.
8
X. BERNARD SESBOÜÉ, Réconciliés avec le Christ, tr. 10-11; X. BERNARD SESBOÜÉ, Jésus-Christ: L’unique Médiateur,
Tome 1: Próblematique et Relecture Doctrinale, Paris, Desclée, 1988, tr. 381-382.
9
Hoà giải xuất hiện nhiều trong các tài liệu của Huấn quyền: OP nói rằng tên gọi “Bí tích Hoà giải” (the Sacrament of
Reconciliation) từ nay nên được ưu tiên dùng hơn, x. BERNARD SESBOÜÉ, Réconciliés avec le Christ, tr. 83. Vì thế, OP
được mở đầu bằng những chữ: “Reconciliationem inter Deum et homines", và mỗi nghi thức được gọi là: “Ordo ad
reconciliandum”; Uỷ ban Thần học Quốc tế với văn kiện “Penance and Reconciliation” (1982), “Mémoire et reconciliation:
L'Église et les fautes du passé” (2000),…
10
Các bản dịch tiếng Việt của Kinh Thánh được trích trong bài viết này đều được lấy từ CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ, Kinh
Thánh, Hà Nội, Nxb. Tôn Giáo, 2011.
11
BERNARD SESBOÜÉ, Croire: Invitation à la foi catholique pour les femmes et les hommes du XXI e siècles, Paris, Droguet
et Ardant, 1999, tr. 491.
12
GIÁO HOÀNG HỌC VIỆN THÁNH PIÔ X, Điển ngữ Thần học Thánh Kinh, “Hoà Giải,” Hà Nội, Nxb. Tôn Giáo, 2016, tr.
667.
13
X. THE CATHOLIC UNIVERSITY OF AMERICA, “RECONCILIATION, MINISTRY OF”, New Catholic Encyclopedia, 2nd
Edition, Vol. 11, Washington D.C., Gale, 2003, tr. 955.
14
BERNARD SESBOÜÉ, Jésus-Christ: L’unique Médiateur, tr. 387.
15
Ibid., tr. 386.
16
_______________, Réconciliés avec le Christ, tr. 111-112.
17
X. NORBERTO, Cuộc Vượt Qua của Đức Giêsu Kitô, Kitô học II, ĐCV Thánh Giuse Xuân Lộc, Lưu hành nội bộ, 2011,
tr. 52-108.
18
BERNARD SESBOÜÉ, Jésus-Christ: L’unique Médiateur, tr. 386-387.
19
NORBERTO, op. cit., tr. 108.
20
X. BERNARD SESBOÜÉ, Jésus-Christ: L’unique Médiateur, tr. 384.
21
X. _______________, Croire: Invitation à la foi catholique pour les femmes et les hommes du XXIe siècles, tr. 413-414.
22
X. ROCH A. KERESZTY, Đức Giêsu Kitô: Những nguyên tắc căn bản của Kitô học, trad. Dom. Nguyễn Đức Thông, Tập
II, Hà Nội, 2014, Nxb. Tôn Giáo, tr. 294.
23
X. BERNARD SESBOÜÉ, Jésus-Christ: L’unique Médiateur, tr. 383.
24
KENAN B. OSBORNE, O.F.M., sđd., tr. 214-215.
25
X. GERARD MOORE (ed.), A Hunger for Reconciliation: In Society and the Church, Strathfield, St. Pauls Publications,
2004, tr. 41; x. BERNARD SESBOÜÉ, Réconciliés avec le Christ, tr. 14: “C’est Dieu qui en est le sujet actif, nous, nous
sommes le sujet passif: Dieu nous réconcilie et nous sommes réconciliés.”
26
X. BERNARD SESBOÜÉ, Réconciliés avec le Christ, tr. 14.
27
GERARD MOORE (ed.), op. cit., tr. 41-42.
28
X. HOÀNG PHÊ (dir.), Từ Điển Tiếng Việt, “hay4”, Hà Nội, Nxb. Hồng Đức, 2016, tr. 537: “hay4 tr. Thường thường, một
cách thường xuyên. Ông khách hay đến chơi.”
29
WALTER KASPER, Lòng Thương Xót: Cốt lõi của Tin Mừng và và Chìa khoá của đời sống Kitô hữu, trad. Giaokim
Nguyễn Khương Duy, Marie Paulina Nguyễn Thị Chung et. Maria Phạm Bích Giang, Hà Nội, Nxb. Tôn Giáo, 2016, tr.
115.
30
X. Ibid., tr. 115.
31
Ibid., tr. 104.
32
X. INTERNATIONAL THEOLOGICAL COMISSSION, “Christianity and the World Religions”, (1997), n. 28.
33
X. __________________, “Penance and Reconciliation” (1982), B.I.2.; “Christianity and the World Religions” (1997),
n. 28.
34
X. GIÁO HOÀNG HỌC VIỆN THÁNH PIÔ X, op. cit., tr. 667.
35
X. BERNARD SESBOÜÉ, Réconciliés avec le Christ, tr. 115-116.
36
_______________, Jésus-Christ: L’unique Médiateur, tr. 384.
37
X. INTERNATIONAL THEOLOGICAL COMISSSION, “Christianity and the World Religions”, (1997), n. 49e.
9
38
BERNARD SESBOÜÉ, Réconciliés avec le Christ, tr. 116.
39
_______________, Jésus-Christ: L’unique Médiateur, tr. 388.
40
BERNARD SESBOÜÉ, Réconciliés avec le Christ, tr. 117.
41
X. ROCH A. KERESZTY, op. cit., tr. 308.
42
BERNARD SESBOÜÉ, Jésus-Christ: L’unique Médiateur, tr. 350.
43
_______________, Réconciliés avec le Christ, tr. 118.
44
X. Id..
45
BERNARD SESBOÜÉ, Jésus-Christ: L’unique Médiateur, tr. 388.
46
GERARD O’COLLINS, Kitô học: Một Nghiên Cứu Hệ Thống, Lịch Sử Và Kinh Thánh Về Chúa Giêsu, trad. Dom.
Nguyễn Đức Thông, Hà Nội, Nxb. Tôn Giáo, 2012, tr. 153 (in nghiêng của người viết).
47
X. RENÉ LATOURELLE & RINO FISICHELLA, Dictionary of Fundamental Theology, New York, Crossroad, 1995, tr. 127-
128.
48
X. JOESPH RATZINGER, Đức tin Kitô giáo: hôm qua và hôm nay, trad. Athanase Nguyễn Quốc Lâm & Phạm Hồng
Lam, Hà Nội, Nxb. Tôn Giáo, 2009, tr. 243-244.
49
BERNARD SESBOÜÉ, Jésus-Christ: L’unique Médiateur, tr. 383.
50
PHILIPPE ROUILLARD, Histoire de la penitence des origines à nos jours, Paris, Les Éditions du Cerf, 2007, tr. 102.
51
BERNARD SESBOÜÉ, Jésus-Christ: L’unique Médiateur, tr. 385.
52
X. KENAN B. OSBORNE, O.F.M., op. cit., tr. 214-215.
53
BERNARD SESBOÜÉ, Jésus-Christ: L’unique Médiateur, tr. 388-389; x. NORBERTO, op. cit., tr. 110.
54
_______________, Jésus-Christ: L’unique Médiateur, tr. 351.
55
X. JOHN BARTON & JOHN MUDDIMAN, The Oxford Bible Commentary, Oxford, Oxford University Press, 2001, tr. 986.
56
NORBERTO, op. cit., tr. 232.
57
FRANÇOIS-XAVIER DURRWELL, La mort du Fils: Le mystère de Jésus et de l’homme, Paris, Les Éditions du Cerf, 2008,
tr. 62.
58
BERNARD SESBOÜÉ, Croire: Invitation à la foi catholique pour les femmes et les hommes du XXIe siècles, tr. 424.
59
Denzinger-Schӧnmetzer, Enchriridion Symbolorum, definitionum et declarationum de rebus fidei et morum (1963), 86.
60
ROCH A. KERESZTY, op. cit., tr. 319.
61
X. INTERNATIONAL THEOLOGICAL COMISSSION, “Christianity and the World Religions”, (1997), nn. 51-52. X. IRENAEUS
OF LYONS, Adversus Haereses. 5, 6, 1, coll. “The Ante-Nicene Fathers, Vol. I: The Apostolic Fathers with Justin Martyr
and Irenaeus,” trad. Alexander Roberts, D.D., và James Donaldson, LL.D., Michigan, WM. B. Eerdmans Publishing
Company, 1985.
62
DOMENICO SARTORE et ACHILLE M. TRIACCA (dirs.), otr. cit., tr. 187.
63
X. INTERNATIONAL THEOLOGICAL COMISSSION, “Christianity and the World Religions”, (1997), nn. 56, 61.
64
BERNARD SESBOÜÉ, Jésus-Christ: L’unique Médiateur, tr. 386.
65
OP, 1.
66
X. Ibid, 8.
67
X. INTERNATIONAL THEOLOGICAL COMISSSION, “Penance and Reconciliation” (1982), B.III.4.
10