Professional Documents
Culture Documents
Kham Tong Quat
Kham Tong Quat
Kham Tong Quat
và xác định vùng thâm nhiễm cứng. Bên còn lại, cũng được khám bằng
phương pháp tương tự.
Hình 5: Khám lưỡi – sàn miệng
Họng (Hình 6):
Nhìn. Yêu cầu bệnh nhân mở to miệng và không đưa lưỡi ra ngoài, yêu cầu
bệnh nhân nói “A”.Phương pháp này giúp chúng ta thấy được thành sau họng.
Ngoài ra, có thể sử dụng que đè lưỡi đè lên điểm giữa của cung lưỡi đủ xa ra
phía sau để có thể nhìn thấy thành sau họng mà không gây phản xạ nôn. Quan
sát khẩu cái mềm, lưỡi gà, hai trụ cơ trước và sau, hạnh nhân và họng. Ghi
nhận màu sắc, tính đối xứng và ghi nhận hạnh nhân xem có xuất tiết, phù nề,
loét, hay phì đại không.
Sờ. Nếu có thể, dùng tay sờ vào các vùng nghi ngờ có thâm nhiễm cứng hay
đau. Hạnh nhân có dạng những thùy nhỏ hay các rãnh sâu của các biểu mô lát
tầng mà bình thường chúng ta có thể thấy các nốt màu trắng trên bề mặt. Bỏ
que đè lưỡi sau khi đã sử dụng.
6.4.6 Cổ
Khám tổng quát vùng cổ
Nhìn. Nhìn vùng cổ, ghi nhận tính đối xứng, các khối hay các vết mổ. Nhìn
xem tuyến mang tai và tuyến dưới hàm có phì đại không và ghi nhận bất kỳ
hạch bạch huyết nào nhìn thấy được.
Sờ. Sờ hạch bạch huyết: dùng các đầu ngón trỏ và ngón giữa hai tay ấn nhẹ
nhàng và di chuyển trên da ở mỗi vùng. Bệnh nhân cần thư giãn, cổ gấp nhẹ ra
phía trước và nếu cần có thể xoay nhẹ sang một bên trong lúc khám. Chúng ta
có thể khám hai bên cùng lúc, ghi nhận các hạch bạch huyết và tính bất đối
xứng của chúng. Tuy nhiên, đối với hạch dưới cằm, cảm nhận tốt nhất bằng
một tay và tay còn lại cố định đầu của bệnh nhân. Khi khám hệ thống hạch cổ,
chúng ta nên khám mỗi bên chứ không khám hai bên cùng lúc, vì có thể sẽ xoa
vào xoang cảnh và làm bệnh nhân ngất.
Hình 8: Vị trí các hạch cổ
Dưới đây là các vị trí hạch vùng cổ cần được khám (Hình 8):
Hạch trước tai
Hạch sau tai: nông trên xương chũm
Hạch chẩm: vùng nền sọ sau
Hạch hạnh nhân: ngay góc xương hàm dưới
Hạch dưới hàm: đường giữa giữa góc và đỉnh xương hàm dưới. Những
hạch này thường nhỏ hơn và mềm hơn tuyến nước bọt dưới hàm.
Hạch dưới cằm: Ngay đường giữa, vài cm phía sau đỉnh xương hàm
dưới.
Hạch cổ nông: nông ở phía trên cơ ức đòn chũm
Hạch cổ sau: dọc theo bờ trước cơ thang
Hạch cổ sâu: sâu dưới cơ ức đòn chũm và thường không thể sờ thấy
được. Móc ngón cái và các ngón khác ở hai cạnh cơ ức đòn chũm để
tìm các hạch này.
Hạch thượng đòn: nằm sâu dưới góc hình thành giữa xương đòn và cơ
ức đòn chũm.
Ghi nhận hình dạng, kích thước, giới hạn (tách rời hay dính chùm), tính di
động, độ chắc và đau của hạch. Các hạch nhỏ, di động, giới hạn rõ và không
đau có thể sờ thấy được ở người bình thường. Mô tả kích thước các hạch to
theo hai chiều (rộng x dài). Cũng cần ghi nhận các biến đổi của vùng da bên
trên như hồng ban, thâm nhiễm cứng, dò hay loét.
Khí quản và tuyến giáp
Hình 14: Các vị trí đánh giá rung thanh (phía sau)
Sờ cả hai phổi để xác định rung thanh (Hình 14). Rung thanh được định
nghĩa là tiếng rung sờ được truyền qua hệ thống phế quản phổi đến
thành ngực khi bệnh nhân nói và bình thường đối xứng với nhau. Rung
thanh rõ ở khoảng liên bả (giữa 2 xương bả vai) hơn là ở vùng thấp của
phổi và bên phải dễ xác định hơn bên trái. Rung thanh biến mất dưới cơ
hoành. Để xác định rung thanh, yêu cầu bệnh nhân đếm “một – hai –
ba”. Dùng cả hai tay để sờ và so sánh tính đối xứng. Xác định vị trí của
bất kỳ vùng nào có rung thanh tăng, giảm hay mất. Nếu rung thanh nhẹ,
yêu cầu bệnh nhân nói to hơn hoặc nói bằng giọng trầm. Khi rung thanh
không đối xứng, cần xác định bằng cách nghe tiếng thở, tiếng nói và
tiếng thì thầm ở vùng bên dưới. Tất cả những tiếng này sẽ tăng hoặc
giảm theo
Vị trí sờ rung thanh (Hình 14): Bắt đầu từ đỉnh phổi, đi dần xuống đáy
phổi.
Gõ:
Gõ là một kỹ thuật thăm khám quan trọng. Gõ vào thành ngực và mô bên dưới
khi hít thở có thể tạo ra các tiếng có thể nghe được hay rung thanh sờ được.
Gõ giúp xác định mô bên dưới là khí, dịch hay đặc. Tuy nhiên, gõ chỉ có thể
truyền sâu 5 – 7 cm trong lồng ngực và sẽ không giúp ích cho việc xác định
các tổn thương nằm sâu bên trong.
Kỹ thuật gõ có thể luyện tập ở bất cứ mặt phẳng nào. Khi thực tập, cần chú ý
lắng nghe sự thay đổi của tiếng gõ trên những vật liệu khác nhau hay trên
những vùng khác nhau. Kỹ thuật gõ mô tả dưới đây dành cho người thuận tay
phải (hình 15, hình 16).
Dãn các ngón giữa của bàn tay trái. Đặt các khớp liên đốt xa khít lên
trên phổi để gõ. Tránh tiếp xúc các vùng khác của bàn tay lên bề mặt vì
điều này sẽ làm mất tiếng rung. Chú ý: ngón cái, ngón hai, ngón bốn,
ngón năm không được chạm lên thành ngực.
Đặt bàn tay phải hếch lên và gần với bề mặt. Ngón giữa gập nhẹ và sẵn
sàng để gõ.
Gõ bằng cách chuyển độ cổ tay nhanh, gọn và thư giãn. Gõ ngón giữa
của bàn tay phải vào các ngón giữa của bàn tay trái. Gõ vào các khớp
liên đốt xa, với mục tiêu là truyền động thông qua xương từ khớp này
xuống thành ngực bên dưới. Dùng lực đều nhau cho mỗi lần gõ vào mỗi
ngón tay để tránh sự thay đổi do kỹ thuật gõ hơn là bất thường bên
dưới.
Khi gõ phải dùng đỉnh ngón giữa, không dùng mặt lòng ngón giữa. Nên
gõ vuông góc với các ngón giữa. Rút ngón tay ra nhanh sau gõ để tránh
làm mất rung động được hình thành do gõ.
Vị trí gõ: gõ một bên sau đó sang bên còn lại theo hình bậc thang.
Tránh gõ trên xương vai.
Gõ xác định sự di chuyển của cơ hoành: Dựa trên sự mất âm vang của
tiếng gõ và so sánh ở kỳ hít vào tối đa và kỳ thở ra tối đa. Bình thường
cơ hoành di động khoảng 4 – 6 cm.
Hình 22: Xác định vị trí mỏm tim bằng các ngón tay