House's Revised Schema For ST-TT Analysis

You might also like

Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 19

House’s revised schema for ST-TT analysis

- Based on Halliday’s trinity: making it easier to apply


● Field: - topic
- Province
- Social Action
● Tenor:
- Participant relationship
- Author provenance and stance: temporal, geographical, social provenance → represent Dimensions of
Language User. Stance is the intellectual, emotional and affective position tp the subject.
- Social Role Rela:
- Social Attitude: formal - consultative - informal
● Mode:
- Medium:
+ Involved vs. Informational Text Production (maybe both): written can be more explicit.
+ Explicit vs. Situation-dependent Reference
+ Abstract vs. Non-abstract Presentation of Info
- Participation:

Mismatch will be overtly erroneous error and covertly erroneous error.

- Covert ~: from situational dimension:


- Overtly ~: from non-dimensional mismatch:
+ Breaches of TL system:

Case of ungrammatically - breach of TL system

Case of dubious acceptability - breach of norm usage

+ Mistake in denotative meaning of 2 texts:

Wrong selection

Wrong omission

Ambiguity

Writing table bàn viết

The Hatter opened his eyes very Người làm mũ trợn tròn mắt
wide

only, as it's asleep, I suppose it Nhưng vì nó đang ngủ nên có lẽ nó


doesn't mind không cảm thấy gì

he had taken his watch out of his Anh ta nhìn đồng hồ và có vẻ đang
pocket, and was looking at it nghĩ ngợi mông lung.
uneasily, shaking it every now and
then, and holding it to his ear
After analysing ST and TT, we have recognised a small number of mismatches in the dimensions of FIELD and TENOR as well as
several Overt Errors.
In FIELD, the specific references to US-American culture have either been kept as the original or translated, usually in a literal
manner.

CHAPTER VII: A Mad Tea-Party

Trước cửa nhà có một cái cây và cạnh đó có một cái bàn. Thỏ rừng và người làm There was a table set out under a tree in front of the house, and the March Hare
mũ đang ngồi quanh chiếc bàn đó uống trà. Giữa họ là Chuột sóc đang ngủ, còn and the Hatter were having tea at it: a Dormouse was sitting between them, fast
Thỏ rừng và Người làm mũ thì tì khuỷu tay vào Chuột sóc và nói chuyện với nhau asleep, and the other two were using it as a cushion, resting their elbows on it, and
qua đầu nó. Alice nghĩ: “Cứ bị tì vào người thế kia thì chắc Chuột sóc khó chịu lắm talking over its head. `Very uncomfortable for the Dormouse,' thought Alice; `only,
đây. Nhưng vì nó đang ngủ nên có lẽ nó không cảm thấy gì.” as it's asleep, I suppose it doesn't mind.'

Cái bàn thì rộng, nhưng cả ba lại ngồi túm tụm ở một góc. The table was a large one, but the three were all crowded together at one corner
of it.

- Không có chỗ đâu! Không có chỗ đâu! - Thỏ rừng và Người làm mũ gào "No room! No room!" they cried out when they saw Alice coming. "There's plenty
lên khi thấy Alice đi tới. of room!" said Alice indignantly, and she sat down in a large arm-chair at one end
of the table.
- Vẫn còn nhiều chỗ đấy chứ! - Alice tức tối nói và cô ngồi xuống chiếc
ghế bành to kê ở đầu bàn.

- Cô uống chút rượu nhé. - Thỏ rừng nói bằng một giọng khích lệ. `Have some wine,' the March Hare said in an encouraging tone.

Alice nhìn quanh bàn, chẳng có gì khác ngoài nước trà. Alice looked all around the table, but there was nothing on it but tea. `I don't see
any wine,' she remarked.
- Tôi có thấy rượu đâu? - Cô nói.
`There isn't any,' said the March Hare.
- Đúng là không có tí rượu nào cả. - Thỏ rừng nói.
`Then it wasn't very civil of you to offer it,' said Alice angrily.
- Thế mà anh lại mời tôi. Như thế chẳng lịch sự chút nào. - Alice giận giữ
nói.

- Cô đã ngồi xuống khi chưa được mời. Như vậy cũng chẳng lịch sự `It wasn't very civil of you to sit down without being invited,' said the March
chút nào. - Thỏ rừng nói. Hare.

- Tôi không biết cái bàn này là của anh. Bàn này có chỗ cho nhiều người `I didn't know it was YOUR table,' said Alice; `it's laid for a great many more than
chứ đâu phải chỉ có ba. three.'

- Tóc cô cần phải cắt rồi đấy. - Người làm mũ đột nhiên lên tiếng. Đó là `Your hair wants cutting,' said the Hatter. He had been looking at Alice for some
câu phát biểu của anh ta sau khi tò mò nhìn Alice một hồi. time with great curiosity, and this was his first speech.

- Anh không nên đưa ra những nhận xét mang tính cá nhân như thế. `You should learn not to make personal remarks,' Alice said with some severity;
Như vậy là khiếm nhã. - Alice nghiêm khắc nói. `it's very rude.'

Nghe vậy, Người làm mũ trợn tròn mắt, nhưng anh ta chỉ nói: The Hatter opened his eyes very wide on hearing this, but all he said was "Why
- Tại sao một con quạ lại giống một cái bàn viết? is a raven like a writing-desk?"

“Xem nào, sắp có trò vui đây. Mình rất mừng vì họ đã bắt đầu đưa ra những câu "I'm glad they've begun asking riddles—I believe I can guess that," she added
đố rồi đấy.” Nghĩ vậy, Alice nói to: aloud.

- Tôi tin rằng mình có thể giải được câu đố đó. "Do you mean that you think you can find out the answer to it?" said the March
Hare.
- Cô cho rằng cô có thể tìm ra câu trả lời ư? - Thỏ rừng nói.
"Exactly so," said Alice.
- Đúng thế.
"Then you should say what you mean," the March Hare went on.
- Thế thì cô hãy nói ra điều cô đang nghĩ đi.
"I do," Alice hastily replied; "at least—at least I mean what I say—that's the same
- Được thôi. - Alice vội vã đáp - ít ra… tôi cũng đang nghĩ về những gì tôi thing, you know."
sẽ nói. Các bạn biết đấy, chúng giống nhau mà.
`Not the same thing a bit!' said the Hatter. `You might just as well say that "I see
- Chẳng giống nhau chút nào! - Người làm mũ chen vào - Cô có thể nói what I eat" is the same thing as "I eat what I see"!'
“Tôi nhìn thấy những gì tôi ăn” thì cũng giống như cô nói “Tôi ăn những gì tôi nhìn
thấy!”

`You might just as well say,' added the March Hare, `that "I like what I get" is the
- Cô có thể nói - Thỏ rừng tiếp lời - rằng: “Tôi thích cái tôi lấy” Cũng
same thing as "I get what I like"!'
giống như “Tôi lấy cái tôi thích!”

- Cô có thể nói - lại đến lượt Chuột sóc và nó nói như đang mê ngủ - `You might just as well say,' added the Dormouse, who seemed to be talking in
rằng “Tôi thở khi tôi ngủ” cũng giống như “Tôi ngủ khi tôi thở!” his sleep, `that "I breathe when I sleep" is the same thing as "I sleep when I
breathe"!'
- Cũng tương tự như cô nói thôi. - Người làm mũ nói và đến đây thì cuộc
đối thoại tạm ngừng. Trong giây lát, tất cả đều im lặng. Alice cố nhớ những gì cô `It is the same thing with you,' said the Hatter, and here the conversation
biết về con quạ và cái bàn viết, nhưng cô chẳng nhớ được mấy. dropped, and the party sat silent for a minute, while Alice thought over all she
could remember about ravens and writing-desks, which wasn't much.
Người làm mũ là kẻ đầu tiên phá vỡ sự im lặng.

- Hôm nay là ngày bao nhiêu nhỉ? - Anh ta quay về phía Alice hỏi rồi rút The Hatter was the first to break the silence. `What day of the month is it?' he
từ túi áo ra chiếc đồng hồ quả quýt. Anh ta nhìn đồng hồ và có vẻ đang nghĩ ngợi said, turning to Alice: he had taken his watch out of his pocket, and was looking at
mông lung. Thỉnh thoảng anh ta lại lắc lắc chiếc đồng hồ rồi đưa lên tai nghe. it uneasily, shaking it every now and then, and holding it to his ear.

Alice nghĩ một lát rồi nói:

- Là ngày mồng bốn. Alice considered a little, and then said `The fourth.'

`Two days wrong!' sighed the Hatter. `I told you butter wouldn't suit the works!' he
added looking angrily at the March Hare.
- Sai mất hai ngày! Tôi đã bảo ảnh rồi, loại bơ đó không thích hợp để
dùng vào việc đó đâu! - Người làm mũ nói và cáu kỉnh nhìn Thỏ rừng. `It was the BEST butter,' the March Hare meekly replied.

- Đó là thứ bơ tốt nhất đấy. - Thỏ rừng từ tốn đáp. `Yes, but some crumbs must have got in as well,' the Hatter grumbled: `you
shouldn't have put it in with the bread-knife.'
- Phải, nhưng một ít vụn bánh mì đã lẫn trong đó. Anh không nên cắt bơ
bằng con dao cắt bánh mì. - Người làm mũ cằn nhằn.

Thỏ rừng cũng lại rút một chiếc đồng hồ quả quýt ra và rầu rĩ nhìn nó. Đột nhiên The March Hare took the watch and looked at it gloomily: then he dipped it into
nó nhúng cả chiếc đồng hồ vào tách nước trà rồi lại nhìn, nhưng nó chẳng nghĩ his cup of tea, and looked at it again: but he could think of nothing better to say
được điều gì hay hơn là câu nói ban đầu: than his first remark, `It was the BEST butter, you know.'

- Đó là loại bơ tốt nhất đấy, anh biết thế mà.

Alice tò mò nhìn qua vai Thỏ rừng. Alice had been looking over his shoulder with some curiosity.
- Cái đồng hồ này lạ thật đấy. Nó chỉ ngày nhưng lại không chỉ giờ! - Cô `What a funny watch!' she remarked. `It tells the day of the month, and doesn't
nhận xét. tell what o'clock it is!'

- Sao nó phải như thế chứ? - Người làm mũ lẩm bẩm - Thế đồng hồ của `Why should it?' muttered the Hatter. `Does YOUR watch tell you what year it is?'
cô thì chỉ năm à?
`Of course not,' Alice replied very readily: `but that's because it stays the same
- Tất nhiên là không rồi! Đơn giản là vì đồng hồ mà chỉ năm thì đợi nó year for such a long time together.'
chỉ sang năm khác lâu lắm. - Alice quả quyết.
`Which is just the case with MINE,' said the Hatter.
- Thế thì nó cũng giống cái đồng hồ của tôi thôi. - Người làm mũ nói.

Alice cảm thấy rối tinh rối mù. Những lời nói của Người làm mũ hình như chẳng
có ý nghĩa gì cho dẫu đó là Tiếng Anh. Alice felt dreadfully puzzled. The Hatter's remark seemed to have no sort of
meaning in it, and yet it was certainly English. `I don't quite understand you,' she
- Tôi chẳng hiểu gì cả. - Alice lịch sự nói. said, as politely as she could.

- Chuột sóc lại ngủ rồi. - Người làm mũ lịch sự nói và anh ta rót một ít `The Dormouse is asleep again,' said the Hatter, and he poured a little hot tea
trà nóng lên mũi nó. upon its nose.

Chuột sóc khó chịu lắc đầu. Nó nói, mắt vẫn nhắm nghiền: The Dormouse shook its head impatiently, and said, without opening its eyes:

- Tất nhiên, tất nhiên, đó chính là điều mà tôi sẽ đích thân nhận xét `Of course, of course; just what I was going to remark myself.'
đấy.
`Have you guessed the riddle yet?' the Hatter said, turning to Alice again.
- Cô đã giải được câu đố chưa? - Người làm mũ quay sang Alice hỏi.
`No, I give it up,' Alice replied: `what's the answer?'
- Chưa. Tôi chịu thua rồi. Thế câu trả lời thế nào?
`I haven't the slightest idea,' said the Hatter.
- Tôi chẳng đoán được gì cả. - Người làm mũ nói.

Thỏ rừng tiếp lời: ‘Tôi cũng vậy.’ `Nor I,' said the March Hare.

Alice thở dài ngán ngẩm. Alice sighed wearily. `I think you might do something better with the time,' she
said, `than waste it in asking riddles that have no answers.'
- Tôi nghĩ các anh nên làm những gì hữu ích hơn là mất thời gian vào
việc đưa ra những câu đố không có lời giải. `If you knew Time as well as I do,' said the Hatter, `you wouldn't talk about
wasting IT. It's HIM.'
- Nếu cô hiểu rõ Thời gian như tôi, thì cô đã không nói tới việc lãng phí
hắn. Chính là hắn. - Người làm mũ nói.

- Tôi không hiểu anh nói gì. `I don't know what you mean,' said Alice.

- Tất nhiên cô không hiểu gì cả! Tôi dám nói rằng cô chưa bao giờ nói `Of course you don't!' the Hatter said, tossing his head contemptuously. `I dare
chuyện với gã thời gian! - Người làm mũ vừa nói vừa liên tục lắc lư đầu. say you never even spoke to Time!'

- Có lẽ thế. Nhưng tôi biết tôi phải đánh nhịp khi học nhạc. - Alice thận
trọng đáp.
`Perhaps not,' Alice cautiously replied: `but I know I have to beat time when I
- Ầy, đó là vấn đề đấy. Thời gian sẽ nổi cơn tam bành khi bị đánh đấy learn music.'
[14] . Nếu cô có quan hệ tốt với Thời gian, hắn sẽ làm hầu hết những gì cô thích.
Thí dụ, bây giờ là chín giờ sáng, là giờ bắt đầu phải học bài, nhưng cô chỉ cần nói `Ah! that accounts for it,' said the Hatter. `He won't stand beating. Now, if you
thầm một điều gì đó với Thời gian thế là cái đồng hồ sẽ quay nhanh như chớp! only kept on good terms with him, he'd do almost anything you liked with the
Một rưỡi, đã đến giờ ăn trưa! clock. For instance, suppose it were nine o'clock in the morning, just time to begin
lessons: you'd only have to whisper a hint to Time, and round goes the clock in a
(“Tôi chỉ mong sao được như vậy” Thỏ rừng lẩm bẩm một mình.) twinkling! Half-past one, time for dinner!'

(`I only wish it was,' the March Hare said to itself in a whisper.)
- Điều đó hay đấy, chắc chắn là thế. Nhưng lúc đó… anh thấy đấy, tôi sẽ `That would be grand, certainly,' said Alice thoughtfully: `but then--I shouldn't be
không thấy đói. hungry for it, you know.'

- Có thể lúc đầu cô không thấy đói nhưng cô có thể giữ cho Thời gian ở
điểm một giờ rưỡi bao lâu cũng được mà. - Người làm mũ nói.
`Not at first, perhaps,' said the Hatter: `but you could keep it to half-past one as
- Anh vẫn làm như thế à? - Alice hỏi. long as you liked.'

`Is that the way YOU manage?' Alice asked.


Người làm mũ rầu rĩ lắc đầu: ‘Không phải tôi! Tháng ba vừa rồi chúng tôi cãi nhau, The Hatter shook his head mournfully. `Not I!' he replied. `We quarrelled last
ngay trước lúc anh ta hóa điên, cô biết đấy (Người làm mũ cầm cái thìa uống trà March--just before HE went mad, you know--' (pointing with his tea spoon at the
chỉ vào Thỏ rừng). Đó là buổi hòa nhạc lớn do bà Hậu Cơ tổ chức và tôi thì phải March Hare,) `--it was at the great concert given by the Queen of Hearts, and I had
hát như thế này: to sing:

“Lấp lánh, lấp lánh, kìa dơi nhỏ! Em là ai tôi tự hỏi thầm!”

Có lẽ cô biết bài hát này? "Twinkle, twinkle, little bat! How I wonder what you're at!"

- Tôi có nghe một bài cũng từa tựa như thế. - Alice nói. You know the song, perhaps?'

- Cô biết đấy, bài hát tiếp tục như thế này. - Và người làm mũ hát tiếp: `I've heard something like it,' said Alice.

“Mãi trên cao em bay bay mãi, `It goes on, you know,' the Hatter continued, `in this way:--

"Up above the world you fly, Like a teatray in the sky. Twinkle, twinkle--"

Như khay trà ở giữa bầu trời Lấp lánh, lấp lánh…” Here the Dormouse shook itself, and began singing in its sleep `Twinkle, twinkle,
twinkle, twinkle--' and went on so long that they had to pinch it to make it stop.
Đến đây, Chuột sóc bỗng lắc người và bắt đầu hát trong giấc ngủ.

- Lấp lánh, lấp lánh, lấp lánh, lấp lánh…

Chuột sóc cứ kéo dài mãi điệp khúc đó đến nỗi Người làm mũ và Thỏ rừng phải
véo nó một cái để nó dừng lại.
- Thế rồi tôi chưa hát xong đoạn đầu - Người làm mũ nói tiếp - thì `Well, I'd hardly finished the first verse,' said the Hatter, `when the Queen jumped
Hoàng hậu đã nhảy lên và oang oang ra lệnh: “Hắn đang giết thời gian! Chặt đầu up and bawled out, "He's murdering the time! Off with his head!"'
hắn đi!”
`How dreadfully savage!' exclaimed Alice
- Sao mà độc ác thế! - Alice kêu lên.
`And ever since that,' the Hatter went on in a mournful tone, `he won't do a thing
- Rồi từ đó - Người làm mũ tiếp tục giọng đau xót - hắn không làm bất kỳ việc gì I ask! It's always six o'clock now.'
mà tôi yêu cầu nữa! Lúc nào đồng hồ cũng chỉ sáu giờ như thế này.
Một ý nghĩ lóe lên trong đầu Alice. Cô hỏi: A bright idea came into Alice's head. `Is that the reason so many tea-things are
put out here?' she asked.
- Có phải vì thế mà có rất nhiều bộ tách uống trà được bày ra ở đây?

- Đúng là như thế. - Người làm mũ thở dài - Vì lúc nào cũng là giờ uống
trà và chúng tôi chẳng có thời gian để rửa ấm chén. `Yes, that's it,' said the Hatter with a sigh: `it's always tea-time, and we've no time
to wash the things between whiles.'
- Thế là các anh cứ đi vòng quanh cái bàn để sử dụng hết bộ ấm chén
này đến bộ ấm chén khác phải không? `Then you keep moving round, I suppose?' said Alice.

- Đúng thế đấy! Bởi vì tất cả các bộ ấm chén đều phải được sử dụng. -
Người làm mũ nói.
`Exactly so,' said the Hatter: `as the things get used up.'
- Nhưng nếu các anh lại bắt đầu một vòng mới thì làm thế nào? - Alice
hỏi.

- Thôi chúng ta chuyển chủ đề đi - Thỏ rừng ngáp dài - Tôi chán ngấy cái `But what happens when you come to the beginning again?' Alice ventured to
trò này rồi. Tôi tán thành để cô bé này kể cho chúng ta nghe một câu chuyện nào ask.
đó.
`Suppose we change the subject,' the March Hare interrupted, yawning. `I'm
- Nhưng tôi chẳng biết chuyện nào cả. - Alice nói, cô hơi hoảng trước đề getting tired of this. I vote the young lady tells us a story.'
nghị đó.

- Thế thì Chuột sóc vậy! - Thỏ rừng và Người làm mũ cùng nói. Cả hai
`I'm afraid I don't know one,' said Alice, rather alarmed at the proposal.
cùng cấu hai bên sườn Chuột sóc và gọi:

- Dậy đi nào! Chuột sóc!


`Then the Dormouse shall!' they both cried. `Wake up, Dormouse!' And they
pinched it on both sides at once.

Chuột sóc từ từ mở mắt: The Dormouse slowly opened his eyes. `I wasn't asleep,' he said in a hoarse, feeble
voice: `I heard every word you fellows were saying.'
- Tôi có ngủ đâu. Tôi nghe rõ từng lời các anh nói đấy chứ. - Giọng Chuột
sóc khàn khàn yếu ớt.

- Thế thì hãy kể cho chúng tôi nghe một chuyện nào đó đi! - Thỏ rừng `Tell us a story!' said the March Hare.
bảo.
- Đúng đấy, kể đi nào! - Alice cũng nài nỉ.

- Kể nhanh lên kẻo chú mày chưa kịp kể đã lại ngủ tiếp đấy. - Người làm `Yes, please do!' pleaded Alice.
mũ nhắc.
`And be quick about it,' added the Hatter, `or you'll be asleep again before it's
done.'

Thế là Chuột sóc vội vã bắt đầu: `Once upon a time there were three little sisters,' the Dormouse began in a great
hurry; `and their names were Elsie, Lacie, and Tillie; and they lived at the bottom
- Ngày xửa ngày xưa có 3 chị em tên là Elsie, Lacie và Tillie. Họ sống of a well--'
dưới đáy một cái giếng.

`What did they live on?' said Alice, who always took a great interest in questions
- Họ sống bằng gì? - Alice hỏi vì cô luôn quan tâm đến việc ăn uống. of eating and drinking.

- Họ sống bằng đường mật. - Chuột sóc nói sau vài phút suy nghĩ. `They lived on treacle,' said the Dormouse, after thinking a minute or two.

- Họ không thể sống như thế được! Bạn biết là như thế thì họ sẽ ốm `They couldn't have done that, you know,' Alice gently remarked; `they'd have
mất. - Alice nhẹ nhàng nhận xét. been ill.'
- Đúng vậy, họ ốm và ốm rất nặng. - Chuột sóc nói. `So they were,' said the Dormouse; `VERY ill.'

Alice cố tưởng tượng ra cuộc sống đặc biệt đó như thế nào nhưng càng nghĩ càng Alice tried to fancy to herself what such an extraordinary ways of living would be
rối tinh lên. Thế là cô tiếp tục hỏi: like, but it puzzled her too much, so she went on: `But why did they live at the
bottom of a well?'
- Nhưng tại sao họ lại sống ở đáy một cái giếng?
`Take some more tea,' the March Hare said to Alice, very earnestly.
- Cô uống thêm ít trà nữa nhé? - Thỏ rừng sốt sắng hỏi.
`I've had nothing yet,' Alice replied in an offended tone, `so I can't take more.'
- Tôi có gì đâu mà uống - Alice đáp bằng một giọng khó chịu - Vì thế tôi
không thể uống thêm. `You mean you can't take LESS,' said the Hatter: `it's very easy to take MORE than
nothing.'
- Ý cô là cô không thể uống bớt chứ gì? - Người làm mũ nói - Lấy thêm
cái gì đó thì bao giờ cũng dễ hơn là chẳng có gì mà lấy. `Nobody asked YOUR opinion,' said Alice.

- Có ai yêu cầu anh nói ý kiến của mình đâu. - Alice nói.

- Thế giờ ai là người đưa ra những nhận xét mang tính cá nhân đấy? - `Who's making personal remarks now?' the Hatter asked triumphantly.
Người làm mũ hỏi, giọng đắc thắng.
Alice did not quite know what to say to this: so she helped herself to some tea
Alice không biết phải nói lại thế nào. Thế là cô tự rót cho mình một chút nước trà and bread-and-butter, and then turned to the Dormouse, and repeated her
và ăn ít bánh phết bơ rồi cô quay sang Chuột sóc và nhắc lại câu hỏi: question. `Why did they live at the bottom of a well?'

- Tại sao họ lại sống ở đáy giếng?

Chuột sóc ngẫm nghĩ vài phút rồi nói:

- Đó là một cái giếng chứa đầy đường mật. The Dormouse again took a minute or two to think about it, and then said, `It was
a treacle-well.'
- Làm gì có cái giếng nào như thế! - Alice bắt đầu nổi cáu, nhưng Người
làm mũ và Thỏ rừng ra hiệu bảo cô im lặng còn Chuột sóc giận dỗi bảo Alice: `There's no such thing!'

- Nếu cô không thể cư xử lịch sự thì tốt hơn hết với cô câu chuyện sẽ kết Alice was beginning very angrily, but the Hatter and the March Hare went `Sh! sh!'
thúc tại đây. and the Dormouse sulkily remarked:

- Ồ không, bạn kể tiếp đi! Tôi sẽ không ngắt lời bạn nữa đâu. Tôi dám `If you can't be civil, you'd better finish the story for yourself.'
nói là có thể có một cái giếng như thế. - Alice vội nói.

- Chứ sao nữa, có một cái giếng như thế! - Chuột sóc có vẻ phẫn nộ. Tuy
nhiên nó cũng bằng lòng kể tiếp. `No, please go on!' Alice said very humbly; `I won't interrupt again. I dare say
- Thế rồi ba chị em nhà ấy đi học kéo… there may be ONE.'

- Họ kéo gì? - Alice hỏi, quên khuấy mất lời hứa lúc nãy. `One, indeed!' said the Dormouse indignantly. However, he consented to go on.
`And so these three little sisters--they were learning to draw, you know--'
- Họ kéo đường mật! - Chuột sóc nói, lần này thì nó trả lời ngay không
nghĩ ngợi gì cả. `What did they draw?' said Alice, quite forgetting her promise.

- Tôi muốn có một cái chén sạch. - Người làm mũ ngắt lời - chúng ta hãy `Treacle,' said the Dormouse, without considering at all this time.
dịch sang một chỗ.

Anh ta vừa nói vừa chuyển sang một chỗ bên cạnh, Chuột sóc chuyển vào chỗ của
Người làm mũ, Thỏ rừng chuyển vào chỗ của Chuột sóc và Alice miễn cưỡng phải `I want a clean cup,' interrupted the Hatter: `let's all move one place on.'
ngồi vào chỗ của Thỏ rừng. Người làm mũ là kẻ duy nhất có lợi từ việc chuyển chỗ
He moved on as he spoke, and the Dormouse followed him: the March Hare
này và Alice là người chịu thiệt, bởi vì Thỏ rừng vừa dốc ngược cả bình sữa vào
moved into the Dormouse's place, and Alice rather unwillingly took the place of
đĩa của nó.
the March Hare. The Hatter was the only one who got any advantage from the
change: and Alice was a good deal worse off than before, as the March Hare had
just upset the milk-jug into his plate.
Alice không muốn lại làm Chuột sóc khó chịu, nên cô hết sức thận trọng hỏi:

- Nhưng tôi không hiểu họ kéo đường mật ở đâu?


Alice did not wish to offend the Dormouse again, so she began very cautiously:
- Cô có thể kéo nước từ một cái giếng nước - Người làm mũ nói - Vậy thì `But I don't understand. Where did they draw the treacle from?'
tôi cho là cô cũng có thể kéo đường mật từ cái giếng mật đường chứ sao. Hứ, sao
mà tối dạ thế? `You can draw water out of a water-well,' said the Hatter; `so I should think you
could draw treacle out of a treacle-well--eh, stupid?'
- Nhưng họ đang ở trong giếng cơ mà? - Alice không để tâm đến nhận
xét của Người làm mũ, cô băn khoăn hỏi Chuột sóc.

- Tất nhiên họ đang ở trong giếng. - Chuột sóc nói. `But they were IN the well,' Alice said to the Dormouse, not choosing to notice this
last remark.

`Of course they were', said the Dormouse; `--well in.'


Câu trả lời của Chuột sóc càng làm Alice thêm rối trí và cô đành để Chuột sóc kể
tiếp câu chuyện mà không cắt ngang nữa.

- Họ đang học kéo. Họ kéo tất cả mọi thứ và mọi thứ đều bắt đầu bằng This answer so confused poor Alice, that she let the Dormouse go on for some
chữ M. - Chuột sóc tiếp tục kể, vừa kể vừa dụi mắt, rồi ngáp. Nó buồn ngủ quá. time without interrupting it.

- Sao lại bằng chữ M? - Alice hỏi. `They were learning to draw,' the Dormouse went on, yawning and rubbing its
eyes, for it was getting very sleepy; `and they drew all manner of things--
- Sao lại không? - Thỏ rừng vặn lại. everything that begins with an M--'

Alice im lặng. `Why with an M?' said Alice.

`Why not?' said the March Hare.

Alice was silent.

Lúc này, Chuột sóc đã nhắm tịt hai mắt lại và bắt đầu ngủ, nhưng bị Người làm The Dormouse had closed its eyes by this time, and was going off into a doze; but,
mũ véo một cái, nó choàng dậy, hét một tiếng nhỏ rồi lại tiếp tục kể. on being pinched by the Hatter, it woke up again with a little shriek, and went on:

- Bắt đầu bằng chữ M, thí dụ như cái bẫy chuột, mặt trăng, ký ức [15] và `--that begins with an M, such as mouse-traps, and the moon, and memory, and
nhiều thứ giống như thế. Cô biết đấy, cô vẫn nói những thứ này “giống hệt nhau” muchness-- you know you say things are "much of a muchness"--did you ever see
vậy cô đã bao giờ nhìn thấy một vật giống y như cái vật cô kéo chưa? such a thing as a drawing of a muchness?'

- Thật ra… Bây giờ mà anh hỏi tôi thì… - Alice vô cùng hoang mang - Tôi
không nghĩ…
`Really, now you ask me,' said Alice, very much confused, `I don't think--'
- Thế thì cô cũng đừng nói chuyện nữa. - Người làm mũ chen vào.
`Then you shouldn't talk,' said the Hatter.

Cái kiểu nói năng thô lỗ như thế của Người làm mũ khiến Alice không thể chịu nổi.
Cô đứng dậy tỏ thái độ phẫn nộ và bỏ đi. Chuột sóc lập tức ngủ luôn. Thỏ rừng và This piece of rudeness was more than Alice could bear: she got up in great disgust,
Người làm mũ đều không mảy may để tâm tới việc Alice bỏ đi mặc dù cô đã mấy and walked off; the Dormouse fell asleep instantly, and neither of the others took
lần ngoái lại nhìn họ hy vọng họ sẽ gọi cô lại, nhưng cô chỉ thấy họ đang cố ấn the least notice of her going, though she looked back once or twice, half hoping
Chuột sóc vào ấm trà. that they would call after her: the last time she saw them, they were trying to put
the Dormouse into the teapot.

- Dù thế nào thì mình cũng sẽ không bao giờ trở lại đây nữa! - Alice nói
trong lúc đi xuyên qua cánh rừng cạnh đó - Cả đời mình, mình chưa thấy một buổi `At any rate I'll never go THERE again!' said Alice as she picked her way through
tiệc trà nào toàn chuyện ngu xuẩn và tẻ ngắt đến thế! the wood. `It's the stupidest tea-party I ever was at in all my life!'

Nói đến đây, Alice bỗng phát hiện ra một cái cây có cửa dẫn vào trong thân. “Kỳ lạ
chưa! Nhưng ngày hôm nay cái gì mà chẳng kỳ lạ. Có lẽ mình nên vào trong đó
xem sao.” Nghĩ vậy Alice bước qua cửa và tiến vào trong thân cây.

Một lần nữa, Alice lại thấy mình đang đứng giữa gian sảnh dài ngay cạnh cái bàn Just as she said this, she noticed that one of the trees had a door leading right
thủy tinh nhỏ. “Lần này mình sẽ làm mọi việc tốt hơn.” Cô tự nhủ và bắt đầu bằng into it. `That's very curious!' she thought. `But everything's curious today. I think I
việc cầm lấy chiếc chìa khóa nhỏ bằng vàng và mở cánh cửa dẫn vào khu vườn. may as well go in at once.' And in she went.
Thế rồi, cô lại cắn một miếng nấm (cô vẫn giữ miếng nấm trong túi) và nhấm nháp
cho tới khi cô cao khoảng 1 foot. Sau đó, cô men theo lối đi nhỏ và cuối cùng cô
đã đứng giữa khu vườn tuyệt đẹp, xung quanh là những bông hoa rực rỡ và đây Once more she found herself in the long hall, and close to the little glass table.
đó là những đài phun nước mát lạnh. `Now, I'll manage better this time,' she said to herself, and began by taking the
little golden key, and unlocking the door that led into the garden. Then she went
to work nibbling at the mushroom (she had kept a piece of it in her pocket) till she
was about a foot high: then she walked down the little passage: and THEN--she
found herself at last in the beautiful garden, among the bright flower-beds and the
cool fountains.
CHAPTER VIII
Chương 8
The Queen's Croquet-Ground

Gần cửa vườn có một cây hoa hồng lớn nhưng các bông hoa đều là màu
trắng. Ba người làm vườn đang chăm chú sơn chúng thành màu đỏ. Alice cho
rằng đây cũng là một điều thật lạ và cô bước lại gần hơn để xem. Lúc đó cô A large rose-tree stood near the entrance of the garden: the roses growing on it
nghe một người làm vườn nói: were white, but there were three gardeners at it, busily painting them red. Alice
thought this a very curious thing, and she went nearer to watch them, and just as
- Nhìn này, anh Năm [16] ! Đừng để sơn bắn tung tóe lên người tôi như she came up to them she heard one of them say, `Look out now, Five! Don't go
thế! splashing paint over me like that!'

- Tôi làm thế nào được - Quân Năm cáu kỉnh nói - Anh Bảy cứ huých vào `I couldn't help it,' said Five, in a sulky tone; `Seven jogged my elbow.'
khuỷu tay tôi.

Nghe vậy, quân bảy nhìn lên và nói:

- Sự thật là Năm ạ, cậu cứ luôn đổ lỗi cho người khác!


On which Seven looked up and said, `That's right, Five! Always lay the blame on
- Còn anh, tốt hơn hết là anh đừng nên nói gì cả! - Quân năm others!'
nói - Hôm qua tôi được nghe chính Hoàng hậu nói anh đáng bị
chặt đầu! `YOU'D better not talk!' said Five. `I heard the Queen say only yesterday you
deserved to be beheaded!'
- Vì sao? - Người trách móc quân Năm lúc nãy mà Alice nghe được
khi cô vừa bước vào khu vườn, lên tiếng.

- Đó không phải việc của cậu, Hai ạ! - Quân bảy nói. `What for?' said the one who had spoken first.

- Chính là việc của nó đấy! - Quân Năm nói - Tôi sẽ cho nó biết. Đó là vì
lẽ ra phải mang củ hành nấu thì nó lại mang củ hoa tulip.
`That's none of YOUR business, Two!' said Seven.

Quân Bảy quẳng cái chổi sơn xuống đất và nói:

- Ờ, trong tất cả những điều bất công thì… `Yes, it IS his business!' said Five, `and I'll tell him--it was for bringing the cook
tulip-roots instead of onions.'
Vừa nói đến đó, chợt thấy Alice đang nhìn họ, lập tức anh ta im bặt. Hai
người kia thấy quân Bảy không nói nữa cũng nhìn quanh và khi họ trông thấy
Alice, họ đều cúi đầu chào cô.

- Xin các bạn hãy cho tôi biết tại sao các bạn lại phải sơn những
bông hoa này? - Alice nhỏ nhẹ hỏi. Seven flung down his brush, and had just begun `Well, of all the unjust things--'
when his eye chanced to fall upon Alice, as she stood watching them, and he
Quân Năm và quân Bảy chỉ im lặng nhìn quân Hai. Quân Hai nói nhỏ: checked himself suddenly: the others looked round also, and all of them bowed
low.
- Sao ư? Thật ra là thế này thưa cô, lẽ ra phải trồng cây hoa hồng đỏ
thì chúng tôi lại trồng nhầm hoa hồng trắng. Nếu Hoàng hậu phát
hiện ra thì cô biết không, tất cả chúng tôi sẽ bị chặt đầu. Cho nên,
`Would you tell me,' said Alice, a little timidly, `why you are painting those roses?'
như cô thấy đấy, chúng tôi đang làm hết sức mình trước khi Hoàng
hậu tới để…

Quân Năm đang lo lắng quan sát khắp vườn bỗng nhiên kêu lên: Five and Seven said nothing, but looked at Two. Two began in a low voice:

- Hoàng hậu tới! Hoàng hậu tới!

Cả ba lập tức nằm úp mặt xuống đất. Có tiếng bước chân của nhiều người. `Why the fact is, you see, Miss, this here ought to have been a RED rose-tree, and
Alice nhìn quanh, cô rất muốn được nhìn thấy Hoàng hậu. we put a white one in by mistake; and if the Queen was to find it out, we should all
have our heads cut off, you know. So you see, Miss, we're doing our best, afore
she comes, to--'
Đầu tiên là mười tên lính tay cầm gậy xuất hiện. Trông họ cũng giống những First came ten soldiers carrying clubs; these were all shaped like the three
người làm vườn, nghĩa là người họ có hình chữ nhật và mỏng dẹt, chân tay thì gardeners, oblong and flat, with their hands and feet at the corners: next the ten
chìa ra ở bốn góc. Tiếp sau là đám triều thần khoác trên mình những bộ phẩm courtiers; these were ornamented all over with diamonds, and walked two and
phục dát đầy kim cương, cứ từng cặp hai người một tiến lại giống như mười two, as the soldiers did. After these came the royal children; there were ten of
người lính lúc trước. Sau họ là bọn trẻ con hoàng gia. Tất cả có mười đứa đều them, and the little dears came jumping merrily along hand in hand, in couples:
mặc những bộ áo quần có hình trái tim [17] . Chúng cầm tay nhau từng đôi một they were all ornamented with hearts. Next came the guests, mostly Kings and
vừa đi vừa nhảy nhót vui vẻ, trông rất đáng yêu. Tiếp đó là khách khứa, hầu hết là Queens, and among them Alice recognised the White Rabbit: it was talking in a
các vị vua và Hoàng Hậu. Trong số này Alice nhận ra Thỏ trắng. Vẫn dáng điệu vội hurried nervous manner, smiling at everything that was said, and went by without
vã, bồn chồn, nó mỉm cười với tất cả mọi người nhưng khi đi ngang qua Alice, nó noticing her. Then followed the Knave of Hearts, carrying the King's crown on a
không nhận ra cô. Tiếp đó là viên cận thần J Cơ [18] cũng mặc áo có hình trái tim, crimson velvet cushion; and, last of all this grand procession, came THE KING AND
tay bê chiếc nệm phủ nhung đỏ trên có vương miện của nhà Vua. Đi sau cùng QUEEN OF HEARTS.
đám rước linh đình chính là Vua Cơ và Hậu Cơ [19] .

Alice phân vân không biết có nên nằm úp mặt xuống đất như ba người làm vườn Alice was rather doubtful whether she ought not to lie down on her face like the
kia không. Chẳng lẽ có một điều luật quy định như thế khi có đám rước sao? Cô three gardeners, but she could not remember ever having heard of such a rule at
không nhớ là mình đã từng nghe nói về một điều luật nào như thế chưa, nhưng processions; `and besides, what would be the use of a procession,' thought she, `if
cô cho rằng nếu mọi người đều nhất loạt nằm úp mặt xuống đất thì người ta tổ people had all to lie down upon their faces, so that they couldn't see it?' So she
chức đám rước làm gì vì chẳng ai nhìn thấy gì cả. Nghĩ vậy, cô cứ đứng im và chờ stood still where she was, and waited.
đám rước đi qua.

When the procession came opposite to Alice, they all stopped and looked at her,
Khi đám rước đến đúng chỗ cô, cả đoàn đột nhiên dừng lại và tất cả đều nhìn cô. and the Queen said severely `Who is this?' She said it to the Knave of Hearts, who
Hậu Cơ nghiêm nghị hỏi J Cơ: only bowed and smiled in reply.

- Đây là ai?

Nhưng đáp lại, J Cơ chỉ mỉm cười và cúi đầu chào.

`Idiot!' said the Queen, tossing her head impatiently; and, turning to Alice, she
went on, `What's your name, child?'
- Ngươi đúng là đồ ngốc! - Hậu Cơ lắc đầu có vẻ sốt ruột rồi quay sang
Alice, bà ta hỏi - Tên cô là gì, cô bé?

`My name is Alice, so please your Majesty,' said Alice very politely; but she added,
to herself, `Why, they're only a pack of cards, after all. I needn't be afraid of them!'
- Tên tôi là Alice, thưa Hoàng hậu. - Alice lễ độ đáp, nhưng ngay lúc đó,
cô lại nghĩ rằng họ chỉ là những quân bài, mình cần gì phải sợ họ.

`And who are THESE?' said the Queen, pointing to the three gardeners who were
lying round the rosetree; for, you see, as they were lying on their faces, and the
pattern on their backs was the same as the rest of the pack, she could not tell
whether they were gardeners, or soldiers, or courtiers, or three of her own
- Thế còn những người này là ai? - Hậu Cơ hỏi Alice, tay chỉ vào những
children.
người làm vườn lúc đó đang nằm úp mặt xuống đất quanh cây hoa hồng. Vì họ
đều nằm úp mặt xuống đất và những hình vẽ trên lưng họ cũng giống hình vẽ trên
tất cả những quân bài khác nên Hoàng hậu không thể biết họ là những người làm
vườn, quân lính, hay ba đứa con của bà. `How should I know?' said Alice, surprised at her own courage. `It's no business of
MINE.'
- Làm sao tôi biết được? - Alice nói, ngạc nhiên vì sự dũng cảm của
chính mình. - Đó đâu phải là việc của tôi.

The Queen turned crimson with fury, and, after glaring at her for a moment like a
wild beast, screamed `Off with her head! Off--'
Hoàng hậu đỏ mặt vì tức giận. Bà ta nhìn trân trân vào mặt Alice bằng cái nhìn của
một con dã thú. Một lúc sau, Hậu Cơ rít lên:

- Hãy chặt đầu con bé này cho ta, chặt đầu ngay lập tức! `Nonsense!' said Alice, very loudly and decidedly, and the Queen was silent.

- Thật vô lý! - Alice nói, giọng quyết liệt còn bà Hoàng thì im lặng.

The King laid his hand upon her arm, and timidly said `Consider, my dear: she is
Nhà vua lúc đó nắm tay Hoàng hậu và rụt rè nói: only a child!'

- Hãy nghĩ lại đi, ái Hậu của ta, nó vẫn còn là một đứa trẻ!

The Queen turned angrily away from him, and said to the Knave `Turn them
over!'

Hậu Cơ bực tức vùng khỏi tay Vua Cơ và bảo J Cơ:


The Knave did so, very carefully, with one foot.
- Mang chúng đi!

`Get up!' said the Queen, in a shrill, loud voice, and the three gardeners instantly
J Cơ lập tức chạy đi thực hiện mệnh lệnh của hoàng hậu với vẻ rất cần mẫn. jumped up, and began bowing to the King, the Queen, the royal children, and
everybody else.
- Đứng dậy! - Hoàng hậu rít lên, giọng the thé chói tai. Ba người làm
vườn lập tức đứng dậy và cúi đầu chào Vua, Hoàng hậu, đám trẻ con hoàng gia và
tất cả những người trong đoàn.
`Leave off that!' screamed the Queen. `You make me giddy.' And then, turning to
the rose-tree, she went on, `What HAVE you been doing here?'

- Thôi cái trò đó đi! - Hậu Cơ lại gào lên - Các ngươi làm ta chóng cả mặt.
Các ngươi làm gì ở đây thế?
`May it please your Majesty,' said Two, in a very humble tone, going down on one
knee as he spoke, `we were trying--'

- Thưa Hoàng hậu, hy vọng lệnh bà hài lòng - Quân Hai quỳ một bên gối,
khúm núm thưa

- Chúng tôi đang cố gắng….

- Ta biết rồi! - Hoàng hậu vừa nói vừa xem xét các bông hoa rồi rít lên - `I see!' said the Queen, who had meanwhile been examining the roses. `Off with
Hãy chặt đầu bọn chúng cho ta! their heads!' and the procession moved on, three of the soldiers remaining behind
to execute the unfortunate gardeners, who ran to Alice for protection.
Đám rước lại đi tiếp chỉ có ba người lính ở lại để hành quyết những người làm
vườn khốn khổ. Ba người này vội chạy tới bên Alice hy vọng được cô bảo vệ.

- Các bạn sẽ không bị chặt đầu đâu! - Alice nói và cô đặt họ vào trong `You shan't be beheaded!' said Alice, and she put them into a large flower-pot
một chậu hoa lớn gần đó. Ba người lính đi loanh quanh tìm họ nhưng không thấy that stood near. The three soldiers wandered about for a minute or two, looking
liền nhập vào cuối đám rước. for them, and then quietly marched off after the others.

`Are their heads off?' shouted the Queen.

- Bọn chúng đã rơi đầu chưa? - Hoàng hậu quát hỏi. `Their heads are gone, if it please your Majesty!' the soldiers shouted in reply.

- Họ đã rơi đầu rồi! Hoàng hậu dã hài lòng chưa? - Những người lính `That's right!' shouted the Queen. `Can you play croquet?'
dõng dạc đáp lại.

- Tốt lắm! Ngươi có biết chơi croke không? - Hậu Cơ hỏi.


The soldiers were silent, and looked at Alice, as the question was evidently meant
for her.

Ba người lính im lặng nhìn Alice vì rõ ràng câu hỏi của Hoàng hậu là nhằm vào cô.

`Yes!' shouted Alice.

- Có ạ! - Alice nói to. `Come on, then!' roared the Queen, and Alice joined the procession, wondering
very much what would happen next.
- Thế thì đi thôi! - Hoàng hậu gầm lên và Alice nhập vào đám rước, nôn
nóng không biết chuyện gì sẽ xảy ra. `It's--it's a very fine day!' said a timid voice at her side. She was walking by the
- Hôm nay trời thật đẹp! - Một giọng nhỏ nhẹ bên cạnh Alice, hóa ra là White Rabbit, who was peeping anxiously into her face.
Thỏ Trắng. Vừa đi Thỏ Trắng vừa e ngại liếc nhìn Alice.

`Very,' said Alice: `--where's the Duchess?'


- Đúng là đẹp thật. Bà Nữ công tước đâu rồi? - Alice hỏi.

`Hush! Hush!' said the Rabbit in a low, hurried tone. He looked anxiously over his
- Suỵt! - Thỏ Trắng thấp giọng. Nó lo lắng nhìn quanh rồi kiễng chân, ghé shoulder as he spoke, and then raised himself upon tiptoe, put his mouth close to
đầu sát tai Alice thì thầm - Bà ấy đã bị tuyên án tử hình. her ear, and whispered `She's under sentence of execution.'

`What for?' said Alice.

`Did you say "What a pity!"?' the Rabbit asked.

- Vì sao thế? `No, I didn't,' said Alice: `I don't think it's at all a pity. I said "What for?"'

- Cô nói bà ấy thật đáng thương ư?

- Không, tôi không hề nghĩ là bà ta đáng thương. Tôi nói là vì sao bà ấy `She boxed the Queen's ears--' the Rabbit began. Alice gave a little scream of
bị tội tử hình? laughter. `Oh, hush!' the Rabbit whispered in a frightened tone. `The Queen will
hear you! You see, she came rather late, and the Queen said--'
- Bà ta đã bạt tai Hoàng hậu. - Alice suýt nữa thì phá lên cười nhưng Thỏ
Trắng ra hiệu bảo cô chỉ cười nhỏ thôi. Rồi nó thì thầm, giọng lo sợ: - Hoàng hậu
có thể nghe được cô cười đấy! Cô biết là bà Công Tước đến hơi muộn và hoàng
hậu nói… `Get to your places!' shouted the Queen in a voice of thunder, and people began
running about in all directions, tumbling up against each other; however, they got
settled down in a minute or two, and the game began. Alice thought she had never
seen such a curious croquet-ground in her life; it was all ridges and furrows; the
- Đứng vào vị trí của mình đi! - Hoàng hậu hét lên như sấm và mọi người balls were live hedgehogs, the mallets live flamingoes, and the soldiers had to
nháo nhào từ mọi phía đâm bổ vào nhau. Tuy vậy chỉ vài phút sau đó, các quân double themselves up and to stand on their hands and feet, to make the arches.
bài đã vào đúng vị trí và cuộc chơi bắt đầu. Alice chưa bao giờ thấy một sân chơi
croke nào kỳ lạ như vậy: trên sân có những luống đất dài với những đường rãnh
song song ở giữa. Quả bóng là những con nhím, gậy đánh bóng là những con
hồng hạc, còn gôn là những người lính cúi gập người lại, chân và tay chống xuống
đất, cả người họ làm thành hình vòng cung.
The chief difficulty Alice found at first was in managing her flamingo: she
succeeded in getting its body tucked away, comfortably enough, under her arm,
with its legs hanging down, but generally, just as she had got its neck nicely
Alice nhận ra ngay khó khăn chính trong trò chơi này là điều khiển gậy đánh bóng straightened out, and was going to give the hedgehog a blow with its head, it
tức là các chú hồng hạc. Cô đã tóm được một con hồng hạc và giữ chặt lấy nó WOULD twist itself round and look up in her face, with such a puzzled expression
nhưng vẫn đủ để nó cảm thấy thoải mái, hai cẳng chân nó vẫn được thả lỏng ở that she could not help bursting out laughing: and when she had got its head
phía sau. Cứ mỗi khi Alice giữ cho cái cổ con hồng hạc vươn thẳng để nó có thể down, and was going to begin again, it was very provoking to find that the
dùng đầu đánh vào con nhím, thì nó lại quay lại nhìn vào tận mặt cô với vẻ ngạc hedgehog had unrolled itself, and was in the act of crawling away: besides all this,
nhiên và bối rối đến nỗi cô không sao nhịn được cười. Và khi cô bắt cái đầu nó there was generally a ridge or furrow in the way wherever she wanted to send the
chúc xuống để chuẩn bị một đòn đánh tiếp theo thì cô thấy bực mình vì con nhím hedgehog to, and, as the doubled-up soldiers were always getting up and walking
không còn cuộn mình như quả bóng nữa và chỉ lăm le bỏ chạy. Cạnh đó đã có sẵn off to other parts of the ground, Alice soon came to the conclusion that it was a
một đường rãnh giữa hai luống đất để Alice có thể đánh những con nhím lăn theo very difficult game indeed.
các đường rãnh đó đến bất kỳ điểm nào mà cô muốn. Ngoài những điều đó ra,
những người lính phải gập đôi người để làm gôn cũng luôn đứng dậy và đi sang
các vị trí khác trong sân. Alice nhanh chóng đi đến kết luận rằng đây thật sự là
một trò chơi cực khó.
The players all played at once without waiting for turns, quarrelling all the while,
and fighting for the hedgehogs; and in a very short time the Queen was in a furious
Tất cả người chơi đều chơi cùng một lúc và không ai chịu chờ đến lượt mình. Thế passion, and went stamping about, and shouting `Off with his head!' or `Off with
là lúc nào họ cũng cãi nhau, đánh nhau để giành bóng là các con nhím. Hoàng hậu her head!' about once in a minute.
thì chốc chốc lại nổi điên. Bà ta giậm chân thình thịch, miệng hét lớn: “Chặt đầu
thằng này ngay tức khắc!” hoặc “Chặt đầu ả kia ngay tức khắc!” Nói chung cứ mỗi
phút Hậu Cơ lại ban ra một mệnh lệnh như vậy.
Alice bắt đầu cảm thấy rất khó chịu. Cô hiểu rất rõ mặc dù lúc này cô chưa có va Alice began to feel very uneasy: to be sure, she had not as yet had any dispute
chạm gì với Hoàng hậu nhưng điều đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào và lúc đó thì, with the Queen, but she knew that it might happen any minute, `and then,'
cô nghĩ, điều gì sẽ xảy đến với mình đây? Mọi người ở đây có vẻ thích thú với việc thought she, `what would become of me? They're dreadfully fond of beheading
chặt đầu, cứ như vậy liệu còn ai sống sót nữa! people here; the great wonder is, that there's any one left alive!'

Cô nhìn quanh để tìm cách thoát khỏi đây và băn khoăn không biết có bị ai nhìn She was looking about for some way of escape, and wondering whether she
thấy khi chạy trốn không thì đúng lúc đó cô nhận ra một hình bóng kì lạ xuất hiện could get away without being seen, when she noticed a curious appearance in the
trong không trung. Thoạt đầu cô hết sức ngạc nhiên nhưng sau vài phút nhìn kỹ, air: it puzzled her very much at first, but, after watching it a minute or two, she
cô nhận ra đó là một nụ cười. “Chính là mèo Cheshire! Thế là bây giờ mình có made it out to be a grin, and she said to herself `It's the Cheshire Cat: now I shall
người để trò chuyện rồi!” Alice vui mừng nghĩ. have somebody to talk to.'

- Cô thế nào rồi? - Mèo hỏi ngay sau khi cái miệng hiện ra vừa đủ để nó
có thể nói được.
`How are you getting on?' said the Cat, as soon as there was mouth enough for it
to speak with.

Alice chờ cho đến khi đôi mắt mèo xuất hiện mới gật đầu, cô nghĩ: “Thật mất
công nói chuyện với nó khi mà tai nó chưa xuất hiện dù chỉ là một cái.” Chờ thêm
một phút nữa thì cả cái đầu mèo đã hiện ra đầy đủ. Alice đặt con hồng hạc xuống Alice waited till the eyes appeared, and then nodded. `It's no use speaking to it,'
và bắt đầu kể lại cuộc chơi cho mèo Cheshire nghe. Cô cảm thấy rất vui vì đã có she thought, `till its ears have come, or at least one of them.' In another minute
người nghe cô nói. Hình như con mèo cho rằng chỉ cần cái đầu của nó xuất hiện là the whole head appeared, and then Alice put down her flamingo, and began an
đủ, chẳng cần phải hiện cả người lên nữa. account of the game, feeling very glad she had someone to listen to her. The Cat
seemed to think that there was enough of it now in sight, and no more of it
- Tôi không nghĩ là họ chơi đẹp - Alice phàn nàn - Và họ cứ cãi nhau suốt appeared.
chẳng ai nghe ai. Hình như họ chẳng có luật lệ nào cả. Và nếu có thì cũng chẳng ai
tuân thủ. Bạn không thể hình dung nổi cuộc chơi rối loạn thế nào khi mà tất cả
dụng cụ chơi đều là các con vật sống. Thí dụ, cái hình vòng cung ở cuối sân đằng
`I don't think they play at all fairly,' Alice began, in rather a complaining tone,
kia kìa, lẽ ra tôi đã đánh được quả bóng, tức là con nhím vào đó rồi, thế nhưng nó
`and they all quarrel so dreadfully one can't hear oneself speak--and they don't
lại chạy mất khi thấy quả bóng của tôi, tức là con nhím, lăn đến!
seem to have any rules in particular; at least, if there are, nobody attends to
them--and you've no idea how confusing it is all the things being alive; for
instance, there's the arch I've got to go through next walking about at the other
end of the ground--and I should have croqueted the Queen's hedgehog just now,
only it ran away when it saw mine coming!'
- Cô có thích Hoàng hậu không? - Mèo thấp giọng hỏi.

- Không hề. Bà ta rất… - Ngay lúc đó, Alice phát hiện ra Hoàng hậu đang
`How do you like the Queen?' said the Cat in a low voice.
đứng ngay sau cô và dang chăm chú nghe cô nói. Thế là Alice nói tiếp:
`Not at all,' said Alice: `she's so extremely--' Just then she noticed that the Queen
- Hoàng hậu chắc chắn là thắng cuộc rồi, đó là chiến thắng xứng đáng
was close behind her, listening: so she went on, `--likely to win, that it's hardly
khi chung cuộc.
worth while finishing the game.'

Hoàng hậu mỉm cười và bỏ đi. Nhà vua đến.

- Cô đang nói chuyện với ai đây? - Vua hỏi Alice và kinh ngạc nhìn cái
đầu mèo.
The Queen smiled and passed on.

`Who ARE you talking to?' said the King, going up to Alice, and looking at the Cat's
- Đó là một người bạn của tôi, mèo Cheshire. Cho phép tôi được giới
head with great curiosity.
thiệu cậu ấy với ngài.

`It's a friend of mine--a Cheshire Cat,' said Alice: `allow me to introduce it.'
- Ta không thích hình dạng của nó chút nào. Nhưng nếu muốn thì nó có
thể hôn tay ta.
- Tôi chả thèm. - Mèo nói.

- Không được nói năng xấc xược và cũng không được nhìn ta như thế! - `I don't like the look of it at all,' said the King: `however, it may kiss my hand if it
Vua nói và chạy lại đứng nấp sau lưng Alice. likes.'

- Một con mèo có thể nhìn một ông vua. Tôi đã đọc điều đó trong một `I'd rather not,' the Cat remarked.
cuốn sách nào đó nhưng tôi không nhớ là ở đâu. - Alice nói.
`Don't be impertinent,' said the King, `and don't look at me like that!' He got
- Hừ, phải đuổi nó đi thôi - Vua Cơ nói, giọng kiên quyết rồi ông ta gọi behind Alice as he spoke.
Hoàng hậu lúc đó vừa đi ngang qua - Này Ái Hậu! Ta mong rằng Hậu sẽ cho người
đuổi con mèo này đi khỏi đây! `A cat may look at a king,' said Alice. `I've read that in some book, but I don't
remember where.'

`Well, it must be removed,' said the King very decidedly, and he called the Queen,
Bà Hoàng này chỉ có một cách duy nhất để giải quyết mọi vấn đề, lớn cũng như who was passing at the moment, `My dear! I wish you would have this cat
nhỏ. removed!'

- Hãy chặt đầu nó! - Bà ta nói chẳng thèm nhìn xung quanh rồi bỏ đi.

- Ta sẽ tự mình đưa đao phủ đến. - Vua Cơ mừng rỡ nói và vội chạy đi The Queen had only one way of settling all difficulties, great or small. `Off with his
tìm đao phủ. head!' she said, without even looking round.

Alice nghĩ cô nên trở lại xem trận đấu diễn ra thế nào vì từ xa cô đã nghe tiếng
Hoàng hậu đang gào thét. Đó là lệnh hành quyết ba người chơi vì họ đã mất lượt.
Alice không hề thích cảnh tượng này chút nào. Cuộc chơi luôn trong cảnh vô cùng `I'll fetch the executioner myself,' said the King eagerly, and he hurried off.
hỗn loạn đến nỗi cô chẳng bao giờ biết đến lúc nào thì đến lượt mình được đánh
bóng. Thế là cô đi tìm con nhím của mình.
Alice thought she might as well go back, and see how the game was going on, as
she heard the Queen's voice in the distance, screaming with passion. She had
Con nhím đó đang đánh nhau với một con nhím khác. Alice coi đây là cơ hội tuyệt already heard her sentence three of the players to be executed for having missed
vời để cô dùng con nhím này làm quả bóng đánh vào con nhím kia. Nhưng khó their turns, and she did not like the look of things at all, as the game was in such
khăn duy nhất là cây gậy đánh bóng của cô đã chạy sang phía bên kia vườn và confusion that she never knew whether it was her turn or not. So she went in
đang cố bay lên một cái cây trong một cố gắng vô vọng. search of her hedgehog.

Đến lúc Alice bắt được con hồng hạc và đưa nó trở lại sân chơi thì cuộc chiến giữa The hedgehog was engaged in a fight with another hedgehog, which seemed to
hai con nhím đã kết thúc và chẳng còn thấy bóng dáng chúng đâu nữa. “Cũng Alice an excellent opportunity for croqueting one of them with the other: the only
chẳng sao vì các vòng cung làm gôn cũng đã đi khỏi phía bên này sân cả rồi.” Nghĩ difficulty was, that her flamingo was gone across to the other side of the garden,
vậy, Alice cắp con hồng hạc dưới tay để nó không thể chạy thoát rồi cô trở lại để where Alice could see it trying in a helpless sort of way to fly up into a tree.
trò chuyện thêm chút nữa với anh bạn mèo Cheshire.

By the time she had caught the flamingo and brought it back, the fight was over,
and both the hedgehogs were out of sight: `but it doesn't matter much,' thought
Khi cô quay lại với mèo Cheshire, cô ngạc nhiên thấy một đám đông đang tụ tập ở Alice, `as all the arches are gone from this side of the ground.' So she tucked it
đó. Một cuộc cãi cọ đang diễn ra giữa đao phủ, Vua và Hoàng hậu. Cả ba cùng nói away under her arm, that it might not escape again, and went back for a little
một lúc trong khi đám đông lặng im và có vẻ rất căng thẳng. more conversation with her friend.

Khi Alice xuất hiện, cả ba đều yêu cầu cô phân giải và họ kể lại cho cô nghe trận When she got back to the Cheshire Cat, she was surprised to find quite a large
cãi cọ của họ, nhưng vì cả ba cùng nói một lúc nên thật khó mà biết chính xác crowd collected round it: there was a dispute going on between the executioner,
những điều họ nói. the King, and the Queen, who were all talking at once, while all the rest were quite
silent, and looked very uncomfortable.

The moment Alice appeared, she was appealed to by all three to settle the
Tên đao phủ lập luận rằng hắn không thể chém một cái đầu nếu không có cơ thể.
question, and they repeated their arguments to her, though, as they all spoke at
Từ trước đến nay, hắn chưa bao giờ làm một việc như thế và bây giờ cũng không
thể biến việc này thành sự mở đầu một công việc mới trong cả cuộc đời của hắn once, she found it very hard indeed to make out exactly what they said.
được.

The executioner's argument was, that you couldn't cut off a head unless there
Lý luận của Vua là bất cứ cái gì nếu có đầu thì đều có thể chặt được và người ta was a body to cut it off from: that he had never had to do such a thing before, and
không thể nói rằng đó là điều ngớ ngẩn. he wasn't going to begin at HIS time of life.

Hoàng hậu thì lý sự rằng nếu lại có việc nào đó không được thực hiện thì ngay lập
tức bà ta sẽ cho hành quyết tất cả mọi người, tất tật không chừa một ai (chính
tuyên bố này đã phủ lên đám đông bầu không khí lo lắng ảm đạm). The King's argument was, that anything that had a head could be beheaded, and
that you weren't to talk nonsense.
Alice cũng chẳng biết phân xử thế nào ngoài việc nói:

- Cái đầu mèo đó là của Nữ công tước đấy. Tốt hơn hết là hãy hỏi bà ta
xem. The Queen's argument was, that if something wasn't done about it in less than no
time she'd have everybody executed, all round. (It was this last remark that had
made the whole party look so grave and anxious.)

Hoàng hậu bảo tên đao phủ:

- Bà ấy đang ở trong tù. Hãy đưa bà ta đến đây. Alice could think of nothing else to say but `It belongs to the Duchess: you'd
better ask HER about it.'

Đao phủ vội chạy đi nhanh như tên bắn. Hắn ta vừa đi khỏi thì cái đầu mèo cũng
mờ dần và khi anh ta trở lại cùng với Nữ công tước thì cái đầu đã hoàn toàn biến
mất. Thế là Vua và đao phủ cuống cuồng chạy khắp nơi tìm kiếm, trong khi đó
đám đông quay trở lại tiếp tục cuộc chơi. `She's in prison,' the Queen said to the executioner: `fetch her here.' And the
executioner went off like an arrow.

The Cat's head began fading away the moment he was gone, and, by the time he
had come back with the Dutchess, it had entirely disappeared; so the King and the
executioner ran wildly up and down looking for it, while the rest of the party went
back to the game.

● Key point: compare functions of the two texts.


● Function of text: application or use of a text in the context of a situation.

To see the degree of equivalence in the function → analysis the ST (the situation that the text arises).

House’s manageable parts - various situational dimensions:

- Dimension of language user:


+ Geographical origin
+ Social class
+ Time
- Dimension of language use:
+ Medium: Simple - Complex
+ Participation: Simple - Complex (Monologue or dialogue)
+ Social Role rela: proximity -
+ Social attitude
+ Province

You might also like