Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 95

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

Nguyễn Văn Hộ - Nguyễn Đăng Bình

PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC


(Tài liệu dùng cho các lớp cao học thạc sĩ)

THÁI NGUYÊN - 2004


Bài mở đầu
ĐỐI TƯỢNG VÀ Ý NGHĨA CỦA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

I. Đối tượng và nội dung nghiên cứu của phương pháp luận nghiên cứu
khoa học:
Trước đây, hầu như chỉ có triết học mới dành mối quan tâm nghiên cứu về
khoa học như một phạm trù triết học nhằm giải thích nguồn gốc của khoa học,
các tuy luật nội tại của khoa học, quan hệ giữa khoa học với khách thể mà khoa
học nghiên cứu, quan hệ giữa khoa học với các hình thái xã hội. Đã có một thời
triết học lược coi là khoa học của các khoa học. Ngày nay, với sự phát triển như
vũ bão của khoa học công nghệ, khoa học đã trở thành bộ máy khổng lồ đang
nghiên cứu, khám phá tất cả các góc cạnh của thế giới. Kết quả nghiên cứu đã
tạo ra một hệ thống tri thức đồ sộ và mở ra kỷ nguyên bùng nổ thông tin. Những
khám phá mới của khoa học đã làm thay đổi nhiều quan niệm truyền thống trong
sản xuất vật chất và trong đời sống tinh thần của xã hội. Về mặt này, khoa học
không chỉ được xem xét trong quan hệ với khách thể mà khoa học nghiên cứu,
mà còn được xem xét trong quan hệ qua lại với hệ thống chính trị, kinh tế và xã
hội.
Trước sự phát triển nhanh chóng ấy của khoa học và công nghệ, đến phần
mình, bản thân khoa học cũng cần được nghiên cứu một cách khoa học. Một
mặt, phải tổng kết thực tiễn hoạt động nghiên cứu khoa học, phân loại và hệ
thống hoá toàn bộ những tri thức đã nhận thức được. Mặt khác, phải khái quát
những lý thuyết về cơ chế và phương pháp sáng tạo khoa học, cũng như tìm tòi
các biện pháp tổ chức, quản lý tốt quá trình nghiên cứu khoa học. Như vậy là,
chính khoa học đã trở thành đối tượng nghiên cứu.
Theo hướng đó, trong hơn hai nghìn bộ môn khoa học hiện đại, có một số
bộ môn đã đề cập khá sâu sắc tới nhiều khía cạnh khác nhau của khoa học và
hoạt động nghiên cứu khoa học như: Lịch sử khoa học, tâm lý học sáng tạo, xã
hội học khoa học, kinh tế học khoa học, tổ chức và quản lý khoa học .v.v...
Chúng ta có thể kể đến các bộ môn quan trọng sau đây:
Bộ môn thứ nhất là Triết học. Triết học nghiên cứu tổng kết tất cả các thành
tựu của khoa học, dựa trên đó đã khái quát các qui luật nhận thức chung của loài
người. Hệ thống quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đã trở thành
thế giới quan, là cơ sở phương pháp luận chung cho mọi quá trình nhận thức,

2
hướng dẫn các nhà khai học trên con đường tìm tòi sáng tạo.
Bộ môn thứ hai là Lịch sử phát triển khoa học tư nhiên và kỹ thuật đã tổng
kết thực tiễn nghiên cứu khoa học Tự nhiên và Kỹ thuật trong lịch sử thế giới,
cho chúng ta bức tranh chung về quá trình phát triển khoa học, nhờ đó mà ta có
thể phát hiện ra các qui luật, các xu hướng phát triển khoa học hiện đại.
Bộ môn thứ ba là Khoa học luận (Epistomology): Khoa học luận là bộ môn
khoa học "Nghiên cứu tổng hợp và tổng kết về mặt lý luận, kinh nghiệm hoạt
động của các hệ khoa học, phẩm dự báo chính sách khoa học - kỹ thuật, củng cố
tiềm lực khoa học và nâng hiệu suất của quá trình khoa học, thông qua các biện
pháp tác động về mặt tổ chức và xã hội". Đôbrôv G.M. Khoa học về khoa học.
NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội 1976.Tr.31).
Đối tượng của Khoa học luận là bản thân khoa học được xem như một hệ
thống nhất thế. Phương pháp nghiên cứu của Khoa học luận là phân tích và tổng
hợp lý luận và thực tiễn hoạt động của các hệ khoa học. Khoa học học luận là bộ
môn khoa học có ý nghĩa to lớn đối với công tác tổ chức, quản lý và điều hành
các hoạt động nghiên cứu khoa học.
Bộ môn thứ tư đặc biệt quan trọng là Phương pháp luận nghiên cứu khoa
học.
Phương pháp là một hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ những tri
thức về các quy luật khách quan dùng để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu đã xác định.
Các phương pháp nhận thức khoa học hiện đại rất đa dạng và cách phân
loại chúng cũng rất khác nhau. Cách thường gặp hơn cả là dựa vào phạm vi tác
động của các quy luật khách quan đã được nhận thức và được khái quát dưới
hình thức lý luận, từ đó hình thành hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh hoạt
động của chủ thể. Theo cách phân loại này, các phương pháp được chia ra thành
phương pháp riêng, phương pháp chung và phương pháp phổ biến. Phương pháp
riêng chỉ thích hợp cho từng bộ môn khoa học (phương pháp sinh vật học,
phương pháp hoá học, phương pháp xã hội học). Phương pháp chung được sử
dụng cho nhiều ngành khoa học khác nhau (các phương pháp quan sát, thí
nghiệm, phương pháp mô hình hoá, phương pháp tối ưu hoá, phương pháp quy
hoạch hoá thực nghiệm). Phương pháp phổ biến thích hợp cho mọi ngành khoa
học khác nhau cùng nhà đối với mọi lĩnh vực trong hoạt động thực tiễn. Phương
pháp biện chứng chính là phương pháp phổ biến và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu
của khoa học hiện đại.

3
Phương pháp luận (Methodology) là học thuyết hay lý luận về phương
pháp. Đó là hệ thống những quan điểm (nguyên lý) chỉ đạo, xây dựng các
nguyên tắc hợp thành phương pháp, xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng
có hiệu quả. Trong đó quan trọng nhất là các nguyên ly có quan hệ trực tiếp với
thế giới quan, có tác dụng định hướng việc xác định phương hướng nghiên cứu,
tìm tòi, lựa chọn và vận dụng phương pháp. Phương pháp và phương pháp luận
là khác nhau.
Phương pháp là phạm trù rất rộng, cho liên phạm vi bao quát của phương
pháp luận rất lớn. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học đặt ra cho mình hàng
loạt những nhiệm vụ quan trọng sau đây:
+ Nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất của khoa học và hoạt động nghiên cứu
khoa học, tổng kết các quy luật phát triển của khoa học hiện đại.
+ Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ chế tư duy sáng tạo trong nhận thức của nhà
khoa học và các kỹ năng thực hành sáng tạo của họ.
+ Nghiên cứu những quan điểm tổng quát, những cách tiếp cận đối tượng
nhận thức, đồng thời xây dựng hệ thống lý thuyết về phương pháp nghiên cứu
khoa học, với tư cách là con đường, cách thức và kỹ thuật nghiên cứu cụ thể,
đây là vấn đề trung tâm của phương pháp luận.
+ Phương pháp luận khẳng định phương pháp nghiên cứu khoa học không
những nằm trong lôgíc nhận thức mà còn nằm trong cấu trúc nội dung một công
trình khoa học. Cho nên Phương pháp luận nghiên cứu khoa học một mặt xác
định các bước đi trong tiến trình nghiên cứu một đề tài, mặt khác còn tìm ra cấu
trúc lôgic nội dung của các công trình khoa học đó.
+ Phương pháp luận nghiên cứu khoa học cũng chú ý đến phương pháp tổ
chức, quản lý nghiên cứu hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, coi đó
là một khâu ứng dụng chính các thành tựu khoa học, nhằm nâng cao tiềm lực
khoa học và tổ chức quá trình nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả cao.
Tóm lại Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là hệ thống lý thuyết về
phương pháp nhận thức khoa học bao gồm đốc các lý thuyết về cớ chê sáng tạo,
những quan điểm tiếp cận đôi tượng khoa học, cùng với hệ thống lý thuyết về
phương pháp kỹ thuật và lôgíc tiên hành nghiên cứu một công trình khoa học
cũng như phương pháp tổ chức , quản lý qúa trình ấy.
II. Ý nghĩa của việc nghiên cứu hoàn thiện và nắm vững phương pháp
luận nghiên cứu khoa học:
1. Khoa học hiện đại có kết cấu bởi nhiều thành phần, trong đó có ba bộ

4
phận chủ yếu và quan trọng sau đây:
+ Hệ thống những khái niệm phạm trù, những quy luật, các lý thuyết, học
thuyết khoa học.
+ Hệ thống trí thức ứng dụng đưa các thành tựu khoa học vào sản xuất và
quản lý xã hội, nhằm cải tạo thực tiễn.
+ Hệ thống lý thuyết về phương pháp nghiên cứu, về các con đường tìm
tòi, sáng tạo khoa học.
Như vậy, phương pháp luận là một trong ba bộ phận quan trọng của khoa
học.
2- Nghiên cứu khoa học luôn là sáng tạo và cách mạng, trong mỗi giai đoạn
phát triển của khoa học hiện đại đòi hỏi phải có cách tiếp cận mới đối với khoa
học, phải tìm ra các phương pháp nghiên cứu mới, phải phát hiện ra các con
đường mới để ứng dụng khoa học vào thực tiễn. Có thể nói: Hoàn thiện về
phương pháp luận là sự đòi hỏi thường xuyên của sự phát triển khoa học hiện
đại.
3- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là kết quả của quá trình khái
quát lý thuyết và thực tiễn nghiên cứu khoa học và nó trở thành công cụ sắc bén
để chỉ dẫn tất cả các nhà khoa học và các nhà quản lý trong công tác tổ chức,
quản lý và thực hành sáng tạo khoa học.
4- Ngày nay trong thế giới hiện đại, để hoàn thành có chất lượng bất cứ
một loại công việc nào, nhà chuyên môn cũng phải là người sáng tạo, có ý thức
tìm tòi các con đường, các phương pháp tạo động mới. Thiếu tinh thần sáng tạo
không có chỗ đứng trong cuộc sống đầy sôi động. Cải tiến chuyên môn thông
qua con đường hoạt động thực tiễn của mình đã góp phần làm phát triển khoa
học và công nghệ. Như vậy, nắm vững phương pháp luận nghiên cứu khoa học
không chỉ có nghĩa đối với các nhà nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp, mà còn
đối với các nhà chuyên môn trong các lĩnh vực hoạt động thực tiễn.
Tóm lại, phương pháp luận nghiên cứu khoa học là một bộ phận quan trọng
của khoa học. Hoàn thiện phương pháp luận nghiên cứu khoa học là sự tự ý thức
về sự phát triển của bản thân khoa học. Như vậy, nắm vững phương pháp luận
nghiên cứu khoa học không chỉ có nghĩa đối với các nhà nghiên cứu khoa học
chuyên nghiệp, mà còn đối với các nhà chuyên môn trong các lĩnh vực hoạt
động thực tiễn.

5
CHƯƠNG I
KHOA HỌC, KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ

Để có cơ sở bàn về nghiên cứu khoa học, trước hết cần xem xét các khía
cạnh rất đa rạng và phong phú trong khái niệm hiện đại về khoa học.
Từ khi bắt đấu lịch sử khoa học, các nhà nghiên cứu trong đó có những triết
gia lớn, các nhà khoa học lớn như Aristote, R. Descarte, F. Bacon. F. Hegel.
Marx, Engels, v.v... đã dành nhiều quan tâm đến việc nhận dạng bản chất và cấu
trúc của khoa học; đặc điểm của hoạt động khoa học; chức năng xã hội của khoa
học cũng như chính sách của chính phủ đối với nghiên cứu khoa học. Khoa học,
do vậy, đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn khoa học khác
nhau

A- KHOA HỌC
I. Khoa học là gì?
Trong các từ điển cũng như trong các tài liệu chuyên môn khác nhau, khoa
học được giải thích theo nhiều cách khác nhau.
Một số tài liệu chuyên khảo về phương pháp luận nghiên cứu khoa học chỉ
hướng mối quan tâm từ giác độ phương pháp luận nghiên cứu và chỉ giới hạn
trong phạm vi những gì cần thiết cho công việc của người làm nghiên cứu khoa
học. Trên hướng tiếp cận này, chắt lọc những ý tưởng cốt lõi trong khái niệm
khoa học mà các tác giả khác nhau đã đề cập, khoa học có thể được xem xét
theo một số giác độ sau:
1. Xét theo kết quả của quá trình tích luỹ trí thức của nhân loại thì
KHOA HỌC LÀ MỘT HỆ THỐNG TRI THỨC VỀ THẾ GIỚI KHÁCH
QUAN:
Ngay từ khi xuất hiện, để tồn tại con người phải lao động, cùng với lao
động con người nhận thức thế giới xung quanh. Nhận thức trước hết để thích
ứng, tồn tại cùng với môi trường, sau đó để vận dụng những điều đã biết vào
cuộc sống làm cho cuộc sống ngày càng tốt hơn. Hoạt động nhận thức phát triển
theo dòng lịch sử và kết quả nhận thức ngày một phong phú, trở thành một hệ
thống tri thức về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Quá trình nhận thức của con người được thực hiện với nhiều trình độ, bằng

6
các phương thức khác nhau và tạo ra hai hệ thống tri thức về thế giới.
a. Tri thức thông thường:
Trong cuộc sống đời thường, con người tiếp xúc với thiên nhiên với xã hội,
phải giải quyết những công việc thực tế hàng ngày, bằng các giác quan, con
người tri giác, cảm nhận về bản thân, về thế giới xã hội xung quanh, từ đó mà có
những kinh nghiệm sống. những hiểu biết về mọi mặt. Đó chính là tri thức thông
thường. Tri thức thông thường được tạo ra từ phép quy nạp đơn giản, không có
mô hình lý thuyết, do vậy nó chưa chỉ ra được bản chất bên trong, chưa phát
hiện được các quy luật của những sự vật, hiện tượng và chưa thành một hệ thống
vững chắc.
Tri thức thông thường được con người sử dụng, trao đổi với nhau, truyền
đạt cho nhau, mỗi ngày chúng được bổ xung, được hoàn thiện, tính xã hội được
xác lập và trở thành tri thức dân gian. Tri thức thông thường có ý nghĩa thực tiễn
to lớn, giúp nhiều ích lợi cho cuộc sống hàng ngày của con người.
b. Tri thức khoa học:
Sự phát triển của lao động sản xuất và hoạt động xã hội là nguyên nhân
khiến con người phải đi sâu nghiên cứu đầy đủ hơn về thế giới và tìm hiểu khả
năng nhận thức của chính mình. Để tạo ra công cụ sản xuất, con người phải tìm
tòi, nghiên cứu các loại vật liệu khác nhau. Để thuần dưỡng động vật, con người
phải biết về cấu tạo cơ thể và đặc điểm sinh hoạt của chúng. Để trồng trọt con
người phải nghiên cứu đất đai, cây trồng và thời tiết... Những hiểu biết lúc đầu
còn ít ỏi, về sau tăng dần trở thành một hệ thống tri thức vững chắc.
Cùng với quá trình phân công lao động xã hội, xuất hiện những người
thông thái có khả năng trí tuệ đặc biệt, biết chế tạo và sử dụng những công cụ,
những phương pháp độc đáo để tìm hiểu thế giới và kết quả là tạo ra một hệ
thống hiểu biết có giá trị đặc biệt, đó chính là tri thức khoa học. Cũng từ đây có
hoạt động nghiên cứu khoa học chuyên nghiệp.
Như vậy tri thức khoa học là kết quả của quá trình nhận thức có mục đích,
có kế hoạch, có phương pháp tiện đặc biệt, do đội ngũ các nhà khoa học thực
hiện.
Tri thức khoa học là hệ thống tri thức khái quát về các sự vật, hiện tượng
của thế giới và về các qui luật vận động của chúng. Đây là hệ thống tri thức
được xác lập trên các căn cứ xác đáng, có thể kiểm tra được và có tính ứng
dụng.
Mỗi kết luận khoa học đều được dựa trên các tài liệu thực tiễn hay lý

7
thuyết, nhờ có phép suy luận và các thao tác khái quát hoá, tựu tượng hoá con
người gạt bỏ những cái ngẫu nhiên, đi vào những mối quan hệ sâu xa bên trong
của các sự vật, hiện tượng, từ đó mà phát hiện ra những quy luật khách quan về
thế giới. Như vậy tri thức khoa học là sản phẩm cao cấp của trí tuệ con người.
Tri thức khoa học và tri thức thông thường tuy khác nhau nhưng có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Tri thức khoa học có thể xuất phát từ tri thức thông
thường, theo gợi ý của những hiểu biết thông thường để tiếp hành không nghiên
cứu một cách sâu sắc. Tuy nhiên tri thức khoa học không phải là tri thức thông
thường được hệ thống hoá lại hay những tri thức thông thường được hoàn thiện.
Tri thức khoa học là kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học đặc biệt.
Từ những phân tích trên chúng ta có thể đồng tình với định nghĩa sau đây:
khoa học là hệ thông tri thức về tự nhiên, về xã hội và tư duy. về những qui luật
phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy, hệ thống tri thức lấy được
hình thành trong lịch sử và không ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội".
(Đại bách khoa toàn thư Liên Xô. Quyển XIX, tr.24 1 , bản tiếng Nga).
Phân tích toàn diện khái niệm khoa học ta thấy:
Đối tượng của khoa học là những hình thức tồn tại khác nhau của vật chất
đang vận động và cả những hình thức phản ánh chúng vào ý thức của con người.
Nói cách khác đối tượng của khoa học là thế giới khách quan và cả những
Phương pháp nhận thức thế giới.
Nội dung của khoa học bao gồm:
+ Những tài liệu về thế giới do quan sát, điều tra, thí nghiệm mà có.
+ Những nguyên lý được rút ra dựa trên những sự kiện đã được thực
nghiệm chứng minh.
+ Những qui luật, những học thuyết được khái quát bằng tư duy lý luận.
+ Những Phương pháp nhận thức sáng tạo khoa học.
+ Những qui trình vận dụng lý thuyết khoa học vào sản xuất và đời sống xã
hội.
Chức năng của khoa học là:
+ Khám phá bản chất các hiện tượng của thế giới khách quan: Giải thích
nguồn gốc phát sinh, phát hiện ra các qui luật vận động và phát triển của các
hiện tượng ấy.
+ Hệ thống hoá các tri thức đã khám phá được tạo thành các lý thuyết, học

8
thuyết khoa học.
+ Nghiên cứu ứng dụng những thành quà sáng tạo khoa học để cải tạo thực
tiễn.
Động lực của sự phát triển khoa học là nhu cầu thực tiễn của cuộc sống con
người. Nhu cầu thực tiễn gợi ý cho mọi đề tài và đồng thời là mục tiêu phải giải
quyết của mọi đề tài khoa học. Thực tiễn vừa là nguồn gốc nhận thức vừa là tiêu
chuẩn để xác minh tính chân thực, vừa là mục tiêu giải quyết của mọi lý thuyết
khoa học.
2- Xét trên giác độ xã hội thì:
a) KHOA HỌC LÀ MỘT HÌNH THÁI Ý THỨC XÃ HỘI.
Theo quan điểm triết học các được trinh bầy trong Từ điển Triết học của
Rozental, khoa học tồn tại như một hình thái xã hội.
Toàn bộ cuộc sống của xã hội loài người bao gồm hai lĩnh vực: lĩnh vực vật
chất (tồn tại xã hội) và lĩnh vực tinh thần (ý thức xã hội). Tồn tại xã hội là tất cả
những gì đang diễn biến xung quanh chúng ta. Ý thức xã hội là kết qua sự phản
ánh tồn tại xã hội vào bộ não con người. Sự phản ánh này được thực hiện với
nhiều mức độ khác nhau như: ý thức sinh hoạt đời thường, tâm lý, ý thức xã hội,
trong đó có hệ tư tưởng.
Ý thức đời thường là sự phản ánh những cái cụ thể trực tiếp, gần gũi của
cuộc sống hàng ngày của con người. Ý thức xã hội là sự phản ánh những cái sâu
sắc toàn diện và hệ thống về thế giới.
Ý thức xã hội được phản ánh bằng nhiều hình thái khác nhau như: Tôn
giáo, Đạo đức Nghệ thuật, Chính trị, Khoa học... Sự khác nhau giữa các hình
thái ý thức xã hội được qui định bởi mục đích, tính chất và phương thức phản
ánh. Thế giới là đối tượng duy nhất của sự nhận thức và cũng là nguồn gốc duy
nhất đem lại nội dung cho sự nhận thức.
Các hình thái ý thức xã hội là những hình thức khác nhau của sự phản ánh
về một thế giới thống nhất và chúng có chức năng xã hội riêng.
+ Tôn giáo là một hình thái ý thức phản ánh lòng tin không có căn cứ của
con người trước lực lượng siêu tự nhiên, mà bản thân con người không hiểu nổi,
không giải thích được nó và từ đó thần thánh hoá các sức mạnh siêu tự nhiên đó.
Tôn giáo xuất hiện rất sớm trong lịch sử loài người, trong điều kiện trình độ
nhận thức và thực tiễn xã hội còn thấp kém. Tôn giáo làm cho con người lệ
thuộc vào thiên nhiên, trở thành nhỏ bé trước sức mạnh của thiên nhiên

9
+ Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội phản ánh các quan niệm về cái
thiện, cái ác trong các mối quan hệ xã hội, về quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi
người trong cuộc sống cộng đồng và được biểu hiện bằng những qui tắc, chuẩn
mực cụ thể. Tiêu chuẩn đạo đức không được ghi thành văn bản, nhưng có giá trị
to lớn trong cuộc sống nhân loại. Đạo đức định hướng giá trị cho cuộc sống cá
nhãn và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Đạo đức đưa xã hội loài người tới
cuộc sống văn minh.
+ Nghệ thuật là một hình thái ý thức xã hội phản ánh các hình tượng thẩm
mỹ của thế giới hiện thực thông qua những rung cảm thẩm mỹ cá nhân. Hình
tượng nghệ thuật là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan, nó mang thấu ấn
độc đáo của chủ thể sáng tạo. Ý tưởng nghệ thuật xuất luật trong một hoàn cảnh
cụ thể trong điều kiện sống của cá nhân, trong cộng đồng dân tộc và thời đại.
Nghệ thuật là quá trình chủ thể hoá đối tượng thẩm mỹ và khách thể hoá tình
cảm thẩm mỹ. Nghệ thuật có chức năng nhận thức, chức năng giáo dục và chức
năng giải trí và có vai trò to lớn trong đời sống nhân loại.
+ Chính trị là hình thái ý thức xã hội phản ánh các mối quan hệ kinh tế - xã
hội, vị trí và quyền lợi của các giai cấp, của các quốc gia xung quanh vàm đề lợi
ích, trước hết là lợi ích kinh tế. Chính là thể hiện trong cuộc đấu tranh giữa các
giá cấp để thiết lập trật tự xã hội và cuộc đấu tranh giữa các quốc gia để xác lập
chủ quyền dân tộc, trong quản lý và bảo vệ đất nước. Chính trị được duy trì bằng
các công cụ chuyên chính. Mọi hình thái ý thức xã hội đều bị chi phối bởi ý thức
chính trị, phục túng đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền.
+ Khoa học là một hình thái ý thức xã hội phản ánh hiện thực khách quan,
tạo ra hệ thống chân lý về thế giới. Hệ thống chân lý này được diễn đạt bằng các
khái niệm, phạm trù trừu tượng, những nguyên lý khái quát, những giả thuyết,
học thuyết... Khoa học phản ánh thế giới bằng các phương thức và công cụ đặc
biệt. Khoa học không những hướng vào giải thích thế giới mà còn nhàm tới cải
tạo thế giới. Khoa học làm cho con người mạnh mẽ trước thiên nhiên, bắt thiên
nhiên phục vụ cho cuộc sống của mình.
Khoa học có vị trí độc lập tương dối trước các hình thái ý thức xã hội khác
nhưng đồng thời lại có mối liên hệ biện chứng với chúng. Tất cả các hình thái ý
thức xã hội đều là đối tượng nghiên cầu của khoa học. Khoa học có khả năng
vạch rõ nguồn gốc, bản chất, xác định tính chính xác của sự phản ánh hiện thực
và ý nghĩa xã hội của tất cả các hình thái ý thức xã hội khác.
b) KHOA HỌC LÀ MỘT HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI ĐẶC BIỆT
Đứng ở góc độ hoạt động, khoa học có thể được hiểu là một lĩnh vực hoạt

10
động đặc biệt của loài người, giống linh hoạt động văn hoá, nghệ thuật, khoa
học, công nghệ... Mỗi loạt hình hoạt động có mục đích và phương thức riêng.
Khoa học là một loại hình hoạt động có mục đích khám phá bản chất và các qui
luật vận động của thế giới để ứng dụng chúng vào sản xuất và đời sống xã hội.
Về thực chất, ở góc độ này, khoa học được hiểu là hoạt động nghiên cứu khoa
học, là quá trình phát minh sáng tạo ra tri thức mới cho nhân loại. Ta sẽ nghiên
cứu phương diện này trong chương sau.
II. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC
1. Quá trình phát triển của khoa học
Sự phát triển của khoa học gắn liền với lịch sử phát triển xã hội loài người.
Khoa học ra đời khi xã hội đã đạt tới trình độ phát triển nhất định và gắn
liền với sự xuất hiện những nhân vật có những năng lực trí tuệ đặc biệt.
+ Ở thời cổ đại khi mới hình thành, khoa học là một thể thống nhất chưa bị
phân chia, mọi lĩnh vực tri thức đều tập trung trong Triết học. Người đặt nền
móng cho khoa học cổ đại chính là Aristôt (384-270 trước CN), mọi tri thức
khoa học và triết học thời đó đều tìm thấy trong tác phẩm của ông. Triết học
phát triển cùng với cuộc đàm tranh của hai trào lưu duy vật và duy tâm.
Khoa học dần dần phát triển cùng với thời gian và trình độ nhận thức của
xã hội loài người. Triết học được phân thành Thiên văn học, Hình học, Cơ học,
Tính học... Những bộ môn này đạt tới trình độ lấy trái đất làm trung tâm trong
hệ thống tri thức thiên văn của Pơtôlêmêm, hình học của ơcơlit, tĩnh học của
Acsimet.
+ Thời Trung cổ kéo dài hàng nghìn năm, chủ nghĩa duy tâm thống trị xã
hội. Giáo hội bóp nghét mọi tư tưởng khoa học, làm cho khoa học tiến lên hết
sức chậm chạp. Tuy nhiên do nhu cầu của thực tiễn xã hội thúc đẩy, tri thức
khoa học vẫn được bổ sung, khoa học vẫn tiếp tục phát triển dù là rất chậm.
+ Thế kỷ XV-XVIII- thời kỳ phục Hưng: Trong khuôn khổ chế độ Phong
kiến xuất hiện nhiều mầm mống của chế độ Tư bản, bắt đầu xuất hiện quá trình
đô thị hoá, công nghiệp hoá, phát triển thường nghiệp, hàng hải... dần mở ra cho
khoa học những triển vọng mới.
F.Anghen cho rằng đây là thời kỳ đầu của sự phát triển khoa học hiện đại.
Trong thời kỳ này một loạt các nhà khoa học ra đời có ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển của khoa học về sau như N.Côpécních, G.Galilê.I.Niutơn... Thuyết
mặt trời là trung tâm của Côpécních đánh đổ thuyết của Pơtôlêmê, giáng một
đòn chí mạng vào Giáo hội: Khoa học bắt đầu được phân chia thành các lĩnh vực

11
theo đối tượng nghiên cứu Hoá học, Thực vật học, Sinh lý học, Địa chất học...
đã trở thành khoa học độc lập. Chính sự phân chia này lại dẫn tới việc nghiên
cứu các lĩnh vực khoa học tách rời nhau và truyền bá tư tưởng siêu hình về thế
giới.
Trong thời kỳ này khoa học xã hội chưa phát triển hoàn chỉnh. Chủ nghĩa
duy tâm và phương pháp siêu hình là cơ sở Triết học để giải thích các hiện
tượng xã hội.
+ Thế kỷ XVIII-XIX là thời kỳ phát triển Tư bản công nghiệp.
Phong trào đô thị hoá, công nghiệp hoá phát triển quy mô lớn, nảy sinh
những nhu cầu lớn về lương thực, thực phẩm,dẫn tới sự phát triển Nông học,
Thực vật học. Sự cần thiết sản xuất phân bón, thuốc nhuộm... đặt ra hàng loạt
vấn đề cho Hoá học. Phương pháp phân tích định lượng và tổng hợp hữu cơ dẫn
đến phát triển ngành Hoá học công nghiệp. Cách mạng công nghiệp và việc sử
dụng máy hơi nước đặt cho Vật lý những nhiệm vụ nghiên cứu mới. Sự xuất
hiện điện báo, điện tử, điện thắp sáng dẫn đến sự phát triển khoa học về điện. Đó
là một biểu hiện sinh động của mối quan hệ biện chứng giữa khoa học và sản
xuất.
Theo Anghen thời kỳ này có ba phát minh vĩ đại đó là: Định luật bảo toàn
và biến hoá năng lượng của R.Maye và ].Dulơ Thuyết tế bào của P-Gôrianinôp
và F.Purơkinê, Thuyết tiến hoá của S.Đacuyn, đã có ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển khoa học.
Cũng ở thời kỳ này, cùng với khoa học tự nhiên, khoa học xã hội cũng phát
triển. Cuộc đấu tranh thắng lợi giữa chủ nghĩa duy vật trước chủ nghĩa duy tâm.
Quan điểm lịch sử và phép biện chứng duy vật được phát hiện là những cống
hiến hết sức to lớn lao cho nhân loại.
Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật phát
triển của cả khoa học xã hội và khoa học tự nhiên, như một .đặc điểm nổi bật
nhất của thời kỳ này. Chủ nghĩa Mác là sự thống nhất giữa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử.
+ Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là thời kỳ mới trong lịch sử phát triển
của khoa học.
Phép duy vật biện chứng thâm nhập vào mọi lĩnh vực nghiên cứu khoa học.
Khoa học tự nhiên bắt đầu được nghiên cứu bằng phương pháp thực nghiệm với
những thủ đoạn kỹ thuật tinh vi.
Khoa học phân hoá mạnh thành các ngành, các lĩnh vực, các bộ môn riêng,

12
chúng nghiên cứu rất sâu và rất đa dạng, đồng thời các ngành khoa học lại thâm
nhập vào nhau tạo thành các khoa học trung gian, liên ngành.
Khoa học đã trở thành bộ máy lớn thạnh có ảnh hưởng lớn đến mọi mặt của
đời sống xã hội. Thành tựu của khoa học được ứng dụng rộng rãi vào sản xuất
làm cho công nghiệp phát triển. Công nghiệp hoá bắt đầu diễn ra trên qui mô
toàn thế giới.
+ Ở thế kỷ XX khoa học phát triển như vũ bão, lượng thông tin tăng nhanh,
với tốc độ lớn, phạm vi rộng.
Đây là thời kỳ phát triển nhanh nhất của khoa học trong lịch sử nhân loại.
Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, tác động vào mọi mặt
của đời sống xã hội.
Khoa học làm cho nền sản xuân hiện đại phát triển nhanh có hàm lượng trí
tuệ cao, sản phẩm phong phú, cháu lượng tốt thoả mãn nhu cầu cuộc sống của
con người. khoa học và công nghệ là đặc trưng của thời đại, là một biểu hiện rực
rỡ nhất của nền văn minh trong toàn bộ lịch sử con người.
2. Quy luật phát triển của khoa học
Nghiên cứu lịch sử phát triển của khoa học qua các thời kỳ, dẫn ta đến
những khái quát về các qui luật phát triển của khoa học hiện đại như sau:
a)- Qui luật phát triển có gia tốc của tất cả các lĩnh vực khoa học
Điểm nổi bật nhất của sự phát triển khoa học hiện đại là nhịp độ phát triển
ngày càng gia tăng trong tất cả lĩnh vực, trên tất cả các phương diện. Ta dễ dàng
nhận thấy trong các lĩnh vực sau đây:
+ Lượng thông tin khoa học được khám phá ngày càng nhiều dẫn đến kỷ
nguyên bùng nổ thông tin. Theo tính toán của các nhà thông tin thì lượng thông
tin khoa học cứ từ 5 đến 7 năm lại tăng gấp hai lần. Riêng ở thế kỷ XX đã khám
phá một số lượng thông tin bằng 90% lượng thông tin đã khám phá được trong
lịch sử nhân loại. Người ta ví sự phát triển của khoa học như thời gian, không
thể bắt thời gian dừng lại được, nhưng khác với thời gian là khoa học tiếp lên
với tốc độ ngày một cao.
+ Số lượng các nhà khoa học cũng tăng lên hết sức nhanh chóng, 90% các
nhà khoa học từng có mặt trên trái đất sống ở thế kỷ XX.
+ Việc gia tăng thông tin khoa học đã làm rút ngắn một chu kỳ phát triển lý
thuyết khoa học. Ngày nay người ta nói đến sự lão hoá của tri thức. Thời gian
xem xét lại một lý thuyết khoa học ngày một rút ngắn; thí dụ: Thuyết hấp dẫn

13
của Aristốt tồn tại 2000 năm, thuyết của Niutơn 200 năm, thuyết của Dalton một
thế kỷ, thuyết cấu trúc nguyên tử của Bỏ chỉ còn 10 năm.
Quá trình thay đổi các quan niệm khoa học không phải bằng phương pháp
gạt bỏ đơn giản theo lối cơ học mà là đi tìm cái mới, bằng các con đường mới,
với cách chứng minh mới, khách quan và chân thực hơn.
Chìa khoá để giải thích qui luật gia tăng nhịp độ phát triển của khoa học là
sự phát triển kế thừa biện chứng trong nhận thức khoa học về một thế giới thống
nhất. Sự phát triển nhanh chóng của khoa học là một biểu hiện sinh động của
chính lịch sử loài người.
b) Quy luật phát triển nhân hoá của khoa học
Tri thức khoa học là một thể thống nhất, đó là toàn bộ tự hiểu biết của con
người, là kết quả nghiên cứu về một thế giới thống nhất. Tuy nhiên, khách thể
vô cùng phức tạp, trong quá trình nghiên cứu của mình không có một khoa học
nào có thể bao quát được toàn bộ khách thể phức tạp đó. Một quy luật hiển
nhiên là khoa học phải phân chia để nghiên cứu từng mặt, từng bộ phận khác
nhau của chúng. Đây là xu hướng hiện thực của sự phát triển khoa học hiện đại,
nó đang diễn ra hết sức mạnh mẽ. Nội dung của quá trình này là sự tách một bộ
môn khoa học mới ra khỏi một bộ môn khoa học đang tồn tại. Bản chất quá trình
phân hoá các khoa học để hình thành một bộ môn khoa học có đối tượng nghiên
cứu hẹp hơn. Phần hoá là sự biểu hiện của phát triển khoa học và chính phân hoá
lại là con đường để khoa học phát triển mạnh mẽ hơn.
Khoa học phân hoá thành các ngành, các lĩnh vực khác nhau. Môi lĩnh vực
chọn cho mình một đối tượng, một phần trong khách thể rộng lớn. Sự phân hoá
này cứ kéo dài mãi tạo ra hệ thống các bộ môn khoa học chúng nghiên cứu các
đối tượng rất đẹp. Do vậy tri thức khoa học trở nên hết sức toàn diện và cũng hết
sức sâu sắc
Lịch sử khoa học đã chứng minh cho quy luật này. Trong thời kỳ cổ đại,
như mọi người đều biết, triết học là khoa học duy nhất chứa đựng và tích hợp
những tri thức khoa học đầu tiên về tự nhiên và về xã hội, cho nên chỉ có một
loại hình quan hệ phục tùng của mọi ngành tri thức trước triết học. Triết học
biến thành một "khoa học của các khoa học". "khoa học bên trên các khoa học".
Từ thời Phục hưng, quan niệm này của triết học đã bị lung lay bởi sự phát
triển của chính bản thân khoa học tự nhiên: các khoa học tự nhiên bắt đầu tách
khỏi triết học từ trước đến nay vốn được coi là khoa học duy nhất. Sau này, đến
lượt khoa học xã hội (kinh tế học, chính trị học, ực sử, .v:v...) cũng tiếp tục phân

14
lập để trở nên những bộ môn khoa học độc lập. Ví dụ:
Triết học → Triết học; Lôgic học; Thiên văn học; Toán học; .v.v...
Toán học → Số học; Đại số học; Hình học; Lượng giác; v.v...
Hình học → Hình học; Hình học giải tích; Hình học vi phân; v.v...
Vật lý → Vật lý lý thuyết; Vật lý thống kê; Cơ học; Nhiệt học; .v.v...
Ngày nay khoa học đã phân ra thành trên 2000 bộ môn khác nhau. Khoa
học đang nghiên cứu các khía cạnh của thế giới. Có những lĩnh vực khoa học
nghiên cứu các thành phần nhỏ bé nhất của vật chất linh: hạt nhân nguyên tử, tế
bào, gieo... Có những lĩnh vực khoa học nghiên cứu cả không gian vũ trụ bao la.
c) Quy luật tích hợp của các lĩnh vực khoa học
Một điều dễ nhận thấy là khoa học càng phân nhanh để đi vào nghiên cứu
theo chiều sâu, thì một bộ môn khoa học hẹp lại không thể bao quít nổi các đối
tượng phức tạp có tính hệ thống cao. Do vậy, khi cần nhận thức những đối tượng
phức tạp lại đòi hỏi một sự phối hợp giữa các ngành và các bộ luôn khoa học
khác nhau tạo thành những liên ngành để cùng nghiên cứu.
Như vậy là do nhu cầu bức thiết để khám phá và giải quyết những vấn đề
phức tạp của thực tiễn, cần liên kết các khoa học khác nhau để cùng nghiên cứu.
Đó chính là nguồn gốc tạo ra những môn khoa học mới, những lĩnh vực nghiên
cứu mới và cũng chính là sự biểu hiện của quy luật tích hợp của sự phát triển
khoa học, tuột xu hướng phát triển của khoa học hiện đại để tạo thành một bộ
môn khoa học mới, ví dụ:
Hoá học + Vật lý học → Hoá lý.
Hoá học + Sinh học → hoá sinh.
Toán học + Vật lý học → Toán lý.
Toán học + Kinh tế học → Toán kinh tế.
Kinh tế học + Chính trị học → Kinh tế chính trị học.
Xã hội học + Chính trị học → Xã hội học chính trị.
Kinh tế học + Xã hội học → Kinh tế học xã hội.
Vật lý học Thiên văn học → Vật lý thiên văn.
Sự phân nhánh càng sau, nhánh phát triển càng nhiều, thì trong quá trình đó
tạo ra sự giao thoa, gặp gỡ giữa các khoa học lại càng thường xuyên hơn.

15
Ngày nay có những sản phẩm khoa học không phai là của một tác giả, một
ngành, mà là kết quả nghiên cứu phối hợp của nhiều ngành, nhiều tập thể khoa
học. Thí dụ, nghiên cứu vũ trụ là công trình phối hợp giữa các nhà khoa học
Thiên văn, Vật lý, Kỹ thuật, Sinh học, Y học, Tâm lý học...
Xu hướng này nói lên sự phát triển khoa học theo cơ chế tác động liên
ngành và mối quan hệ thống nhất hàm cơ của các lĩnh vực khoa học. Phần hoá
và tích hợp khoa học là hai xu hướng ngược chiều nhau, tưởng chừng chúng
mâu thuẫn với nhau, nhưng trong thực tế phát triển khoa học hiện đại chúng lại
song song tồn tại, phụ thuộc vào nhau, bổ sung cho nhau, cùng thúc đẩy sự tiến
bộ nhanh chóng của khoa học.
Khoa học phân hoá để phát triển và tích hợp để tạo nên một chất lượng
mới, chất lượng tổng hợp. Cả hai xã hướng cùng tác động trực tiếp đến nhịp độ
gia tăng của tri thức khoa học và tới sự hoàn thiện của các phương pháp nhận
thức và sự kiện toàn tổ chức quá trình nghiên cứu khoa học.
d) Quy luật ứng dung nhanh chóng các thành tựu khoa học
Khoa học và đời sống là hai phạm trù thoạt nhìn có vẻ tách rời nhau, nhưng
thực tế chúng lại gắn bó mật thiết với nhau. Mục đích của khoa học chính là
cuộc sống, nghiên cứu khoa học chính là làm tăng chất lượng cuộc sống. Nhu
cầu cuộc sống là động lực thúc đẩy quá trình nghiên cứu và trình độ phát triển
của cuộc sống là điều kiện cho sự phát triển của khoa học.
Lịch sử phát triển khoa học và công nghệ cho thấy nhịp độ ứng dụng các
thành tựu khoa học mỗi ngày một nhanh hơn, điều đó đem lại hiệu quả rất lớn
làm phát triển nhanh cả khoa học và chất lượng cuộc sống. Khoa học được ứng
dụng vào sản xuất tạo ra công nghệ mới, ứng dụng vào cuộc sống xã hội tạo ra
quy định quản lý mới làm nâng cao mức sống vật chất và tinh thần của nhân
dân.
Để chứng minh cho quy luật này ta có thể dẫn ra những con số thống kê
sau đây; về thời gian ngày một rút ngắn kể từ lúc phát minh lý thuyết đến khi áp
dụng thành công vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm.

16
Tên phát minh sáng chế Năm phát hành Năm sản xuất Thời gian
Máy hơi nước 1680 1780 100 năm
Máy chiếu bóng 1756 1844 88 năm
Phim ảnh 1832 1895 63 năm
Radio 1867 1902 35 năm
ôtô 1868 1895 27 năm
Điêzen 1878 1897 19 năm
Máy bay 1897 1911 14 năm
Vô tuyến điện 1922 1934 12 năm
Tranzitor 1948 1953 5 năm
Pin mặt trời 1953 1955 2 năm
Laze 1954 1954 6 tháng
Do quy luật ứng dụng nhanh các thành tựu của khoa học vào sản xuất đã
làm thay đổi hàng loạt những tiêu chỉ trong sản xuất.
1- Rút ngắn thời gian đổi mới công nghệ sản xuất. Nếu trước đây một thế
hệ máy tồn tại từ 10 đến 12 năm thì nay còn 2 đến 3 năm, thậm chí còn ngắn
hơn nữa.
2- Sản phẩm hàng hoá thường xuyên cải tiến mẫu mã và chất lượng ngày
càng được nâng cao. Các thế hệ sản phẩm mới luôn xuất hiện trên thị trường, thí
dụ hàng điện từ, tin học, ô tô, xe máy thế hệ mới...
3- Cơ cấu hoá thành sản phẩm hàng hoá đã thay đổi, nếu trước đây giá
thành chủ yếu do nguyên, vật liệu và sức lao động giản đơn tạo ra, thì ngày nay
có những mặt hàng tỷ trọng chất xám chiếm từ 60 đến 70% và còn cao hơn nữa.
4- Sản xuất hàng hoá rất chú trọng tới người tiêu dùng đặc biệt là phục vụ
cho nhu cầu thẩm mỹ cá nhân.
III. TRƯỜNG PHÁI KHOA HỌC VÀ BỘ MÔN KHOA HỌC.
1. Trường phái khoa học.
Khoa học luôn đưa ra những phát hiện mới về quy luật phát triển của tự
nhiên xã hội và chính con người các hiện tượng mới đó có thể đưa ra nhiều cách
giải thích khác nhau và cùng một sự vật hoặc vùng một hiện tượng. Ví dụ. các
hiện tượng kinh tế được xem xét trên giác độ chính trị (Kinh tế học chính trị
hoặc được xem xét trên giác độ xã hội (kinh tế học xã hội). Thường khi cách

17
giải thích sau có tác dụng bổ khuyết cho các phát hiện trước, đội khi. thậm chí
chủ định các phát hiện trước. Các khuynh hương khác nhau đó được gọi là
trường phái khoa học.
Như vậy có thể xem trường phái khoa học là một hướng tiếp cận nghiên
cứu theo một góc nhìn xác định và bởi một hệ phương pháp luậ xác định.
Trường phái khoa học xuất hiện là so sự phát triển ngày càng sâu rộng của khoa
học, do sự xuất hiện các gó nhìn khác nhau đối với đối tượng nghiên cứu, hoặc
so sự vận dụng các cơ sở phương pháp luận khác nhau để xem xét đối tượng
nghiên cứu.
Trường phái khoa học không chỉ dừng lại ở ý nghĩa học thuật và thường
khi đã chuyển sang một phạm trù được gọi là xã hội học của khoa học. Sự hình
thành các trường phái khoa học mới thường có thể dẫn đến những phản ứng tâm
lý trong bản thân cộng đồng khoa học và trong xã hội. thậm chí làm nổ ra những
cuộc tranh luận hoặc đụng độ quan điểm giữa trường phái khoa học mới với
trường phái khoa họ truyền thống xã hội với tôn giáo, thậm chí giữa các trường
phái khoa học với nhau, giữa mộ bộ môn Khoa học mới xuất hiện với các bộ
môn khoa học khác đặc biệt là với triết học
Lịch sử khoa học đã chứng kiến những cuộc đấu tranh quyết liệt giữa triết
học với xã hội học, giữa triết học với lý thuyết hệ thống và điều khiển học, giữa
triết học với di truyền học, vv… như cuộc đấu tranh giữa trường phái nhật tâm (
xem mặt trời là trung tâm vũ trụ) và trường phái địa tâm ( xem trái đất là trung
tam của vũ trụ trong thiên văn học; giữa trường phái duy vật với duy tâm trong
triết học; giữa trường phái Euclide với trường phái phi - Euclide trong hình học;
giữa bản chất sóng của ánh sánh với bản chất hạt của ánh sáng trong quang học,
vv…
Cuộc đấu tranh giữa các trường phái trong khoa học bao giờ cũng diễn ra
hết sức gay gắt và dai dẳng, thậm chí kéo kéo dài hàng trăm năm. Ví dụ. Toán
học hệ nhị phân (hệ đếm 2) đã bị toán học hệ thập phân chê cười và phủ đình
gần 150 năm, từ khi xuất hiện môn đại số Boole cho đến khi con người chế tạo
được chiếc máy tính điện tử đầu tiên. Lúc đó, người ta mới vỡ lẽ ra rằng toán
học hệ đếm 2 là cơ sở để xây dựng các nguyên lý hoạt động của máy tính điện
tử. Hơn nữa, ngày nay, người ta không thể tưởng tượng nổi nếu không có ngành
toán học hệ đếm 2 thì làm sao có được nền văn minh tin học hiện đại như bây
giờ. Và người ta cũng chưa hình dung hết triển vọng của nó. Cuộc đấu tranh
giữa các trường phái trong khoa học xã hội còn dai dẳng và gay gắt hơn nhiều.
Trường phái là một tồn tại khách quan. Thái độ người nghiên cứu đối với

18
ttrường phái trước hết phải là một thái độ thực sự khoa học để xem xét trường
phái. Người làm nghiên cứu khoa học không được chấp nhận sự kỳ thị trường
phái, mà phải biết em mối quan hệ giữa các trường phái để hiểu sâu sắc thêm
các thuộc tính, các khía cạnh khác nhau của sự vật và hiện tượng, đồng thời phải
biết xây dựng luận cứ khoa học vững chắc để cuối cùng, phải đi đến sự thừa
nhận hoặc không thừa nhận một trường phái.
1- Bộ môn khoa học
Sự xuất hiện một bộ môn khoa học thường dẫn tới sự thừa nhận hoặc
không thừa nhận. Để có thể đi tới thừa nhận hoặc không thừa nhận, không chỉ
dựa trên cơ sở tranh cãi cảm tính, mà phải dựa trên cơ sở những tiêu chí. Dựa
trên cơ sở của những tiên chí Về một bộ môn khoa học, người nghiên cứu sẽ tự
kiểm tra một trường phái hoặc một mộ môn khoa học mà mình đề xướng, hoặc
xem xét phân tích những trường phái hoặc bộ môn khoa học do các đồng nghiệp
đề xướng. Trên đại thể, tiêu chí để xem xét một bộ luôn khoa học có thể bao
gồm như sau:
+ Có một đối tượng nghiên cứu.
Điều kiện tiên quyết để trở thành một bộ môn khoa học là phải có một đối
tượng nghiên cứu. đôi tượng nghiên cứu là bản thân sự vật hoặc hiện tượng được
đặt trong phạm vi quan tâm của bộ môn khoa học. Đương nhiên, một sự vật
hoặc hiện tượng có thể lệ đối tượng nghiên cứu của những bộ môn khoa học
khác nhau, nhất là thững vấn đề nằm ở vị trí giáp ranh giữa các bộ môn khoa
học.
+ Có một hệ thống lý thuyết.
Chỉ khi hình thành được một hệ thống lý thuyết, một bộ môn khoa học mới
khẳng định được vị trí trong hệ thống khoa học. Hệ thống lý thuyết của một bộ
môn khoa học bao gồm các phạm trù, khái niệm, tiêu đề, qui luật, định luật, định
lý,vv…
Trong hệ thống lý thuyết chia một bộ nôn khoa học bao giờ cũng có hai bộ
phận một bộ phận là cơ sở lý thuyết riêng đặc trưng cho bộ môn khoa học được
xem xét; còn một bộ phận là những cơ sở lý thuyết được thâm nhập từ các bộ
môn khoa học khác.
+ Có một hệ thống phương pháp luận:
Tuỳ thuộc đối tượng nghiên cứu, một bộ môn khoa học được đặc trưng bồi
một hệ thống phương pháp luận nghiên cứu. Phương pháp luận nghiên cứu của
một bộ môn khoa học cũng bao gồm hai bộ phận: Một bộ phận phương pháp

19
luận riêng và một bộ phận phương pháp luật được thâm nhập từ các bộ môn
khoa học khác. Đây là điểm đáng lưu ý trong nền khoa học hiện đại.
+ Có mục đích ứng dụng.
Mỗi bộ môn khoa học có những mục đích ứng dụng xác định. Trừ trường
hợp những nghiên cứu cơ bản chưa biết trước mục đích ứng dụng, thậm chí có
thể nói có những trường hợp nhà nghiên cứu không thể biết được hoặc không
cần biết đến mục đích. ứng dụng của vấn đề mình nghiên cứu. Điều này rất có
thể có một số người không đồng ý, nhưng đối với khoa học thì đó lại là một hiện
tượng phù hợp với quy luật của khoa học. Thí du trường hợp Đại số Boole, ngay
George Boole cũng không giải thích được cho những người đương thời về mục
đích ứng dụng của môn đại số mà ông đã đề xướng. Chỉ đến ngày nay người ta
mới biết được ứng dụng to lớn như thế nào của toán học hệ đếm 2. Mặc dù như
vậy, người nghiên cứu cũng cần phải có đủ luận cứ để bác bỏ sự ngộ nhận tính
phi mục đích của một số lĩnh vực nghiên cứu.
IV- PHÂN LOẠI KHOA HỌC:
Từ những thế hệ khoa học thời Cổ đại qua Trung đại cho đến thế hệ khoa
học đương đại, các triết gia, các nhà nghiên cứu đã có mối quan tâm sâu sắc đến
phần loại khoa học. Lịch sử khoa học đã biết đến rất nhiều bảng phân loại khoa
học, từ công trình của những triết gia hà học giả mà những người bình thường
nhất trong giới nghiên cứu cũng biết đến tên tuổi, như: Aristote, Descarte,
Epicure, v.v... cho đến những nhà nghiên cứu, đồng thời là những nhà cải cách
xã hội có tầm vóc vượt khỏi thời đại, như Saint Simon, Karl Marx và Friedric
Engels.
Chỉ đến C.Mác ( 1818- 1883) ) và F.Anghen (l820- 1895) mới là những
người đầu tiên đem lại cơ sở khoa học thực sự cho vấn đề phân loại. Các ông
cho rằng mỗi khoa học phản ánh một hình thức vận động của vật chất. Sự Phân
loại khoa học chính là sự phân chia các hình thức vận động của khách thể phù
hợp với tính nhất quán, bản chất bên trong của chúng. Mối liên hệ, chuyển hoá
giữa các khoa học là phản ánh sự chuyển hoá, phát triển các hình thức vận động
của thế giới.
Phân loại khoa học phải được dựa trên hai nguyên tắc cơ bản sau đây:
1. Nguyên tắc khácn quan: Thế giới vận động bằng nhiều hình thức, mỗi
hình thức phụ thuộc vào tính chất đặc hữu bên trong của vật chất, tương ứng với
nó là thiết lập các lĩnh vực khoa học cụ thể.
Mỗi lĩnh vực khoa học phản ánh một hình thức vận động của vật chất và tất

20
cả khoa học phản ánh toàn bộ các hình thức vận động của thế giới trong mối
quan hệ biện chứng của chúng và trân theo một trật tự nhất định.
Phân loại khoa học phải dựa trên cực hình thức vận động của khách thể,
dựa trên các tính chất nhất quán bên trong của khách thể. Nói một cách cụ thể
hơn phân loại khoa học phải dựa vào đối tượng mà nó nghiên cứu. Nguyên tắc
phân loại này được gọi là i nguyên tắc kách quan
Các khoa học được phân loại và sắp xếp liên tiếp theo một bậc thang phù
hợp với trật tự phát triển của thế giới với chất và phù hợp với nhận thức của loài
người. Tri thức có sau xuất phát từ tri thức có trước và bao hàm tri thức có trước
như một yếu tố tất yếu. Nguyên tắc phân loại như vậy được gọi là nguyên tắc
phối thuộc.
Sự phân loại các khoa học theo nguyên tắc phối thuộc vừa là chú ý tới quy
luật phát triển của vật chất, vừa là chú ý tới tính kế thừa biện chứng của sự phát
triển của khoa học, điều đó vừa có ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn.
Cách phân loại UNESCO:
Các chuyên gia của UNESCO phân khoa học thành 5 lĩnh vực:
1) Khoa học tự nhiên và khoa học chính xác.
2) Khoa học kỹ thuật.
3) Khoa học nông nghiệp.
4) Khoa học về sức khoẻ.
5) Khoa học xã hội và nhân văn.
Mỗi cách phân loại có đặc điểm riêng và chúng được sử dụng tuỳ theo mục
đích tổ chức nghiên cứu, ứng dụng hay quản lý khoa học.

B- CÔNG NGHỆ
I. Khái niệm về công nghệ:
Do quy luật tự nhiên của sự phát triển khoa học và sự gắn bó mật thiết giữa
khoa học và sản xuất xã hội, Khoa học phát triển đã kéo theo sự phát triển nhanh
chóng về kỹ thuật và công nghệ sản xuất. Khoa học đã làm cho sức sản xuất
tăng gấp bội và đã đạt được những thành tựu rực rỡ chưa từng có trong lịch sử
loài người.
Trong những ngày đầu công nghiệp hoá, người ta sử dụng rất phổ biến

21
thuật ngữ kỹ thuật (Technique) với ý nghĩa là các giải pháp thực hiện một loại
công việc hay công cụ được sử dụng trong sản xuất làm tăng hiệu quả sản xuất.
Thí dụ: kỹ thuật bôi trơn chống ăn mòn kim loại trong các chi tiết máy.
Khi xuất hiện thuật ngữ công nghệ sản xuất, lúc đầu nó được hiểu là quy
trình kỹ thuật dùng trong dây chuyền sản xuất, về sau khái niệm công nghệ sản
xuất được hiểu theo nghĩa rộng hơn và dần dần ổn định như ngày nay.
Theo định nghĩa mà Trung tâm chuyển giao công nghệ Châu Á và Thái
Bình Dương đề xướng, thì công nghệ sản xuất là tất cả những gì liên quan đến
việc biến đổi tài nguyên ở đầu vào thành hàng hoá ở đầu ra của quá trình sản
xuất. Hệ thống công nghệ sản xuất bao gồm:
+ Hệ thống máy móc, thiết bị đồng bộ của các dây chuyền sản xuất (phần
kỹ thuật).
+ Thông tin về quy tinh sản xâu hay các bí quyết kỹ thuật cho một hệ sản
xuất (Phát thông tin).
+ Trình độ tay nghề kỹ năng của người lao động trực tiếp sản xuất (phần
con người).
+ Trình độ tổ chức quản lý, điều hành sản xuất của ban quản lý xí nghiệp,
công ty (phần tổ chức).
Công nghệ (Technology) là thuật ngữ gọi tắt của công nghệ sản xuất bao
gồm hai phần: phần kỹ thuật và phần thông tin. Phần kỹ thuật của công nghệ gọi
là phần cứng (Hardware). Phần thông tin gọi là phần mềm (Sofrware).
Như vậy, công nghệ là hệ thống thiết bị kỹ thuật và thông tin về quy trình
sản xuất được áp dụng trong quá trình chế biến tài nguyên thành sản phẩm hàng
hoá và dịch vụ.
Về bản chất, công nghệ là kết quả của quá trình áp dụng các thành tựu của
khoa học vào sản xuất. Công nghệ là sản phẩm của lao động trí tuệ sáng tạo của
con người trong lĩnh vực sản xuất. Công nghệ là tổ hợp nhiều công đoạn của quy
trình ứng dụng kiến thức khoa học vào sản xuất, và phương tiện để chế biến tài
nguyên vật chất thành sản phẩm hàng hoá.
Tuy nhiên công nghệ luôn gắn chặt với công nghiệp, Công nghiệp và công
nghệ là hai mặt của một thực thể thống nhất. Công nghệ là nền tảng của công
nghiệp, còn công nghiệp là phương thức chuyển tải công nghệ vào cuộc sống.
Hiện đại hoá gắn chặt với công nghiệp hoá nền sản xuất, vì nóng cốt của hiện
đại hoá là công nghiệp hoá. Công nghiệp hoá phải dựa và công nghệ tiên tiến ở

22
trình độ cao. Công nghiệp hiện đại với công nghệ cao mà hệ trung tâm là máy
tính điện tử tạo khả năng tự động hoá hoàn toàn trong các dây chuyền sản xuất
và đem lại năng xuất và hiệu quả sản xuất rất lớn.
Trong nền công nghiệp hiện đại một phần lao động sức lực và trí tuệ giao
cho máy móc đảm nhiệm. Rôbốt thông minh thay vị trí con người trong những
lao động chính xác nặng nhọc và độc hại. Những dây chuyền cơ điện tử
(Mechatronic) điều khiển bằng máy tính, ngàn loạn tư động từ nhân tính toán,
thiết kế đến khâu nhập vật liệu gia công, lắp ráp, kiểm tra thành phẩm và nhập
kho. Con người đứng bên cạnh dây chuyền làm nhiệm vụ chỉ huy, điều chỉnh và
kiểm tra chung, từ đó xuất hiện thuật ngữ công nghệ cao.
Công nghệ cao là một khái niệm nói về một nền sản xuất ở trình độ tinh
xảo nhất với những đặc điểm sau đây:
+ Hệ thống thiết bị được thiết kế tự động hoàn toàn, máy móc có kết cấu
phức tạp nhưng vận hành đơn giả?
+ Bí quyết của quy trình kỹ thuật sản xuất hết sức tinh vi.
+ Máy móc, thiết bị sản xuất tiêu thụ rất ít năng lượng, nguyên vật liệu sản
xuất được sử dụng rất tiết kiệm và nguyên liệu tái tạo được sử dụng nhiều nhất.
+ Năng xuất lao động rất cao, sản phẩm hàng hoá có chất lượng tốt.
+ Nhà máy được thiết kế khép kín, phế thải được tinh lọc, không gây ô
nhiễm môi trường.
Nền sản xuất với công nghệ hiện đại có hàm lượng trí tuệ rất cao. Nếu
trước đây hiệu quả kinh tế dựa chủ yếu vào vốn đầu tư và sức lao động đơn giản,
nặng nhọc chiếm tới 60 đất 70% cơ cấu giá thành, thì ngày nay trong sản phẩm
công nghệ cao chất xám chiếm 70% đến 75% cơ cấu ấy. Có những mặt hàng
như: điện tử, tin học, dược phẩm... Nguyên liệu chiếm 1-3% giá thành, sức lao
động 12%, còn lại dành cho đầu tư kiến thức mua bí quyết công nghệ, thực hành
thí nghiệm, sản xuất thử.
II. Chuyển giao công nghệ
Cách mạng khoa học và kỹ thuật hiện đại đã làm thay đổi bộ mặt thế giới.
Thang giá trị xã hội được đo bằng trí tuệ. Trí tuệ đã trở thành sàn phẩm cao
cấp có giá trị và giá trị sử dụng. Sản phẩm trí tuệ có mối giao lưu trên thị trường
hiện đại và bản thân nó cũng tạo ra thị trường có sức cạnh tranh mạnh mẽ. Các
nhà tương lai học khẳng định: Tương lai sẽ thuộc về dân tộc nào có tiềm lực trí
tuệ cao, chứ không thuộc về những nước giàu có tài nguyên, bởi vì trí tuệ con

23
người là cơ sở thật sự cho mọt sự phát triển khoa học và kinh tế - xã hội.
Việc ứng dụng các thành tựu khoa học đã làm rút ngắn thời gian đổi mới
công nghệ. Khả năng thay đổi công nghệ được dự tính trước. Máy móc có tính
mềm dẻo, linh hoạt, phụ kiện dễ thây thế, đảm bảo không bị lạc hậu so với công
nghệ mới. Việc đổi mới cóng nghệ diễn ra nhanh chóng kể cả số lượng và tốc độ
trên phạm vi toàn thế giới từ đó tạo nên quá trình chuyển giao công nghệ.
Chuyển giao công nghệ là nơi gặp gỡ giữa khoa học và thị trường.
Về bản chất, chuyển giao công nghệ là chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ,
thông qua dịch vụ thương mại có tổ chức.
Chuyển giao công nghệ theo khái niệm của UNESCO bao hàm. Chuyển
giao thiết bị kỹ thuật, chuyển giao kiến thức về quy trình sản xuất, chuyển giao
kinh nghiệm tổ chức quản lý và hoạt động tư vấn trong lĩnh vực sản xuất. Tuy
nhiên chuyển giao công nghệ chú trọng hai phần một cách đồng bộ: phần kỹ
thuật và phần thông tin.
Phần kỹ thuật được chuyển giao bằng dịch vụ thương mại thông thường,
phần thông tin được chuyển giao bằng những thoả thuận của hai bên chuyển
giao và tiếp nhận.
Chuyển giao công nghệ được thực hiện bởi hai nguồn:
+ Nguồn thứ nhất, chuyển giao tơi nơi phát minh đến các xí nghiệp ứng
dụng sản xuất gọi là chuyển giao dọc. Nội dung là công nghệ theo con đường
chuyển giao dọc hoàn toàn mới, lần đầu tiên được đưa vào sản xuất. Đây là con
đường ngắn nhất của chu trình nghiên cứu - ứng dụng. Tuy nhiên con đường này
chứa những yếu tố mạo hiểm vì công nghệ mới chưa được thử thách.
+ Nguồn thứ hai, chuyển giao từ cơ sở sản xuất có trình độ công nghệ cao
đến cơ sở sản xuất còn yếu kém, gọi là chuyển giao ngang. Nguồn chuyển giao
này ít mạo hiểm hơn vì công nghệ được thực tiễn thử thách, nhưng bên mua
công nghệ thường bị thua thiệt, bởi vì trong thị trường cạnh tranh không một xí
nghiệp nào lại bán bí quyết công nghệ mới nhất cho đối thủ cạnh tranh.
Cho nên trong quá trình chuyển giao công nghệ ở nước ta, đặc biệt là quá
trình nhập ngoại công nghệ phải thận trọng và thực hiện đúng các quy định của
nhà nước, thể hiện trong các nguyên tắc đây:
1- Công nghệ nhập ngoại phải là công nghệ tiên tiến, nếu đạt tới trình độ
tiên tiến nhất thì đó là điều lý tưởng.
2- Công nghệ nhập ngoại phải giúp ta tận dụng hết các nguồn lực sản xuất

24
trong nước.
3- Công nghệ nhập ngoại phải thúc đẩy sự phát triển công nghệ quốc gia.
4- Công nghệ nhập ngoại phải phù hợp với trình độ sản xuất của công nhân
Việt Nam và đem lại hiệu quả cao:
5- Công nghệ nhập ngoại không gây ô nhiễm môi trường.
Chuyển giao công nghệ được thực hiện cả ở trong nước và Quốc tế.
Chuyển giao công nghệ có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với từng quốc gia và với
cả thế giới. Với ý nghĩa văn hoá- khoa học, chuyển giao công nghệ vừa kích
thích quá trình lao động sáng tạo của các nhà khoa học, nó vừa thúc đẩy quá
trình sản xuất bằng việc ứng dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học. Chuyển
giao công nghệ đảm bảo tính pháp lý của các chủ thể sáng tạo và quyền sử dụng
hợp pháp các thành quả khoa học ở các cơ sở sản xuất.
Với ý nghĩa kinh tế - thương mại, nó giúp mở rộng sự hợp tác giao lưu kinh
tế khoa học, kỹ thuật giữa các khu vực trong nước và quốc tế, từ đó làm rút ngắn
khoảng cách sự khác biệt trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học, kỹ thuật
giữa các khu vực và tạo điều kiện để các quốc gia cùng phát triển.
Để thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước một trong
những con đường quan trọng của chúng ta là phải nhập ngoại công nghệ tiên
tiến, với chiến lược chung là: Bước đầu thích nghi với công nghệ nước ngoài để
áp dụng có kết quả vào sản xuất, dần dần,cải tiếm công nghệ nhập ngoại để có
sản phẩm tốt hơn, khi năng lực khoa học và công nghệ đủ mạnh thì vươn lên
sáng tạo công nghệ Việt Nam có sức cạnh tranh với công nghệ thế giới.
Chuyển giao công nghệ là hoạt động phức tạp có các mức độ, chiều sâu
khác nhau đó là: Trao kiến thức, trao phương tiện kỹ thuật, trao chìa khoá sau
khi xây dựng nhà máy, trao chìa khoá sau khi đã sản xuất ra sản phẩm, trao thị
trường truyền thống tiêu thụ sản phẩm, mức sâu nhất là đầu tư tư bản.
Chúng ta đang tranh thủ tối đa mọi khả năng của chuyển giao công nghệ để
nhanh chóng phát triển kinh tế tiếp kịp trình độ các nước trong khu vực.

C- KỸ THUẬT
- Kỹ thuật là bất kỳ kiến thức kinh nghiệm hoặc kỹ năng có tính chất hệ
thống hoặc thực tiễn được sử dụng cho việc chế tạo sản phẩm hoặc để áp dụng
vào các quá trình sản xuất (kỹ thuật theo nghĩa hẹp).
- Kỹ thuật là bất kỳ kiến thức kinh nghiệm hoặc kỹ năng có tính chiến hệ

25
thống hoặc thực tiễn được sử dụng cho việc sản xuất các sản phẩm hoặc áp dụng
vào mục đích quản lý, thương mai, công nghiệp hoặc trong các lĩnh vực đời
sống xã hội.
Kỹ thuật là những thao tác có thể, cách thức tác động vào sự vật hoặc hiện
tượng nhằm biến đổi trạng thái của chúng.

D- PHÂN BIỆT GIỮA KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ KỸ THUẬT


Trong quá trình sử dụng các thuật ngữ "khoa học", "công nghệ", "kỹ thuật", đôi
khi chúng ta không chú ý đầy đủ đến phân biệt về ý nghĩa chính xác của chúng,
cũng như sự thiếu tách bạch giữa các khái niệm “phát minh”? và sáng chế. Tuy
vậy việc phân biệt một cách rõ ràng các khái niệm này còn chưa được thống
nhất trong các nhà khoa học và giới nghiên cứu.
Về sự phân biệt kỹ thuật và công nghệ, có nhiều quan điểm khác nhau.
Theo Charles Edquist, công nghệ có một ý nghĩa tổng hợp và thường bao hàm
một số những hiện tượng mang đặc trưng xã hội, như trí thức, tổ chức, phân
công lao động xã hội, một phạm trù phi vật chất. Và theo ông thì thuật ngữ kỹ
thuật mang một ý nghĩa hẹp hơn. Nó chỉ những yếu tố vật chất và vật thể, chẳng
hạn, máy móc, thiết bị và sự tác nghiệp, vận nhành của con người.
Theo ông Jacquyes Perrin, công nghệ là sự tư duy về kỹ thuật; nó bao gồm
việc mô tả, phân tích lịch sử, triết lý về kỹ thuật, định hình các khái niên, đào
tạo, truyền bá và hoàn thiện các hoạt động kỹ thuật và ông xem công nghệ là
những tri thức được tổ chức, được định hình trên các kỹ thuật.
Tuy nhiên, không phải sự phân biệt trên đây đã được hiểu thống nhất trong
giới nghiên cứu. Ví dụ. Có một số tác giả lại đưa ra một các hiểu ngược lại. Các
tác giả này đưa ra khái niệm "kỹ thuật công nghiệp" và cho rằng khái niệm kỹ
thuật công nghiệp rộng hơn khái niệm công nghệ và "bao hàm tất cả các hoạt
động (có hệ thống hoặc chỉ đạt được từ thực tiễn) nhằm áp dụng những quy luật
khoa học vào sản xuất công nghiệp. Một điều cần quan tâm là các thuật ngữ
“công nghệ” và “kỹ thuật” trong các nước sử dụng cũng chưa thống nhất.
Trong nghiên cứu khoa học cũng như trong những hoạt động kinh doanh
liên quan đến chuyển giao công nghệ và bảo hộ các quyền sở hữu công nghiệp,
những phạm trù này cần được phân biệt một cách chuẩn xác. Một vài khía cạnh
so sánh về mặt ý nghĩa giữa khoa học và công nghệ được chỉ ra trong bảng tsau:
Bảng so sánh các đặc điểm khoa học là công nghệ

26
TT Khoa học Công nghệ

1 Quá trình nghiên cứu khoa học Quá trình điều hành công ghệ mang
mang tính xác xuất tính xác định
2 Hoạt động khoa học mang tính Hoạt động công nghệ được tập lại theo
hướng mới, không lặp lại chu kỳ
3 Sản phẩm khó được định hình trước Sản phẩm được định hình theo thiết kế
4 Sản phẩm mang đặc trưng thông tin Đặc trưng sản phẩm tuỳ theo đầu vào
5 Một khoa học có thể ra đời ngẫu Công nghệ ra đời tuỳ thuộc thành tựu
nhiên khoa học và sức ép của phát triển
6 Lao động với độ linh hoạt và độ Lao động bị định khuôn theo quy định
sáng tạo cao mang tính thiết chế của công nghệ
7 Có thể mang mục đích tự nhân Không mang mục đích tự thân
8 phát minh khoa học tồn tại mãi với Sáng chế công nghệ tồn tại tiêu vong
thời gian theo lịch sử tiến bộ kỹ thuật

Sự so sánh chỉ trong bảng chỉ là gợi ý cho người nghiên cứu, người làm
chính sách và quản lý nghiên cứu những cơ sở phương pháp luận phù hợp với
đặc điểm của mỗi loại hình lao động. Trong sự so sánh này; cần lưu ý rằng khái
niệm về công nghệ với những thuộc tính chỉ trong bảng là những công nghệ đã
được xác nhận qua quá trình phát triển của khoa học và công nghệ, đã được
kiểm chứng là không còn rủi ro trong thử nghiệm, nghĩa là đã vượt quạ phạm trù
nghiên cứu để bước vào giai đoạn vận hành ổn định, đủ điều kiện để bàn giao
cho người sử dụng.

27
Chương II
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

I. KHÁI NIỆM
Nghiên cứu khoa học là sự tìm hiểu khám phá những thuộc tính bản chất
của sự vật hoặc hiện tượng, phát hiện được quy luật vận động của chúng, đồng
thời vận dụng những quy luật ấy để sáng tạo các giải pháp cải tạo thế giới khách
quan.
Nghiên cứu khoa học, suy cho cùng, mang hai nội dung cơ bản sau:
+ Phát hiện quy luật vận động của thế giới khách quan (tự nhiên, xã hội,
con người).
+ Sáng tạo các giải pháp nhằm biến đổi trạng thái của sự vật hoặc hiện
tượng, cải tạo thế giới, tức tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người.
Bản chất nghiên cứu khoa học là các hoạt động sáng tạo của các nhà khoa
học nhằm nhận thức thế giới, tạo ra hệ thống tri thức có giá trị để sử dụng vào
cải tạo thế giới.
Chủ thể của nghiên cứu khoa học là các nhà khoa học với những phẩm chất
trí tuệ và tài năng đặc biệt, được đào tạo chu đáo. Quá trình nghiên cứu được
thực hiện trong một cơ quan nghiên cứu với một tập thể có tiềm lực mạnh, được
tổ chức chặt chẽ, có chương trình chiến lược hoạt động. Sự sáng tạo khoa học
bao giờ cũng được bắt đầu từ một ý tưởng của cá nhân và sau đó được sự hỗ trợ,
hợp tác nghiên cứu của một tập thể, theo ý tưởng định hướng nghiên cứu của
người đề xuất. Vì vậy, có thể nói: chủ thể nghiên cứu khoa học vừa là cá nhân,
vừa là tập thể.
Mục đích của nghiên cứu khoa học là tìm tòi, khám phá bản chất và các
quy luật vận động của thế giới, tạo ra thông tin mới, nhằm ứng dụng chúng vào
sản xuất vật chất hay tạo ra những giá trị tinh thần, để thỏa mãn nhu cầu cuộc
sống của con người. Nhiều nghiên cứu khoa học không chỉ là nhận thức thế giới
mà còn cải tạo thế giới, khoa học đích thực luôn vì cuộc sống con người.
Phương pháp nghiên cứu khoa học là phương pháp nhận thức thế giới bao
gồm những quan điểm tiếp cận, những quy trình, các thao tác cụ thể để tác động
vào đối tượng để làm bộc lộ bản chất của đối tượng. Nghiên cứu khoa học còn
phải sử dụng những công cụ đặc biệt, có tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe trong định

28
tính và định lượng để thí nghiệm, thực nghiệm… đo lường và kiểm định sản
phẩm sáng tạo.
Sản phẩm của nghiên cứu khoa học là hệ thống thông tin mới về thế giới và
những giải pháp cải tạo thế giới. Cho nên có thể nói khoa học luôn hướng tới cái
mới. Nhiều ý tưởng khoa học độc đáo đi trước thời đại và có giá trị dẫn dắt sự
phát triển của thực tiễn.
Sản phẩm khoa học luôn được kế thừa, hòan thiện, bổ sung theo đà tiến bộ
của xã hội lòai người và ngày một tiệm cận tới chân lý khách quan. Mỗi lý
thuyết khoa học được hình thành, phát triển hưng thịnh, rồi lạc hậu nhường chỗ
cho cái mới, cái tiến bộ, cái có triển vọng hơn.
Giá trị của nghiên cứu khoa học được quyết định bởi tính thông tin, tính
ứng dụng và sự đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Thông tin khoa học phải có tính
khách quan, có độ tin cậy, có thể kiểm tra được bằng các phương pháp khác
nhau.
Quá trình nghiên cứu khoa học: quá trình nghiên cứu khoa học diễn ra phức
tạp, luôn chứa đựng những mâu thuẫn, liên tục xuất hiện những xu hướng, các
trường phái lý thuyết, các giả thuyêt, các dự báo khác nhau, thậm chí trái ngược
nhau và kết cục cái nào phù hợp với hiện thực, đem lại lợi ích cho con người là
cái chiến thắng. Khoa học là cách mạng với nghĩa đó.
Nghiên cứu khoa học có chứa đựng những yếu tố mạo hiểm, bởi vì nghiên
cứu khoa học không phải lúc nào cũng thành công. Sự thành công sẽ tạo ra giá
trị mới cho nhân loại và có cả những thất bại rủi ro, đó là sự phải trả giá của
nghiên cứu khoa học, nhưng chính sự thất bại đó cũng là một thông tin có ích để
đồng nghiệp không lặp lại sai lầm tương tự.
II. CHỨC NĂNG VÀ CÁC LOẠI HÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1. Chức năng của nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học là hoạt động phức tạp. Cùng với lịch sử phát triển của
loài người, trình độ nhận thức khoa học ngày một nâng cao. Tổng kết lịch sử
phát triển khoa học người ta thấy loài người đã trải qua mấy trình độ nhận thức
sau đây:
Trình độ mô tả: Mô tả khoa học là trình bày lại những kết quả nghiên cứu
một hiện tượng hay một sự kiện khoa học làm sao cho đối tượng đó được thể
hiện đến mức độ nguyên bản tối đa.

29
Tri thức mô tả là những tri thức thu nhận được qua quan sát, điều tra và
được trình bày hệ thống ký hiệu có tính trực quan, đồng thời là những khái niệm
có liên quan đến hệ thống ký hiệu này. Mô tả là biện pháp quan trọng để chuẩn
bị tư liệu cho việc giải thích khoa học.
Trong mô tả thường người ta phân biệt mô tả định tính và mô tả định
lượng.
Mô tả định tính là chỉ rõ các đặc trưng về vật chất của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ, Trái đất và sao kinh tinh quay xung quanh mặt trời theo một quỹ đạo bầu
dục, “Quy theo một quỹ đạo bầu dục” là một đặc trưng về chất của cả hai hành
tinh Trái đất và Kim tinh. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở mô tả dựa trên những
tiêu chí định tính trên đây, thì người ta chưa thể phân biệt được Trái đất và Kim
tinh khác nhau như thế nào. Vì vậy, sự mô tả định tính phải được bổ sung bằng
các mô tả định lượng.
Mô tả định lượng là tiêu chí chỉ rõ các đặc trưng về lượng của sự vật hoặc
hiện tượng. Trong ví dụ trên, người ta biết được một trong những đặc trưng về
lượng là chu kỳ quay của Trái đất xung quanh mặt trời là 365,24 ngày đêm; còn
chu kỳ của Kim tinh xung quanh Mặt trời là 224,7 ngày đêm. Đó là các mô tả
định lượng.
Mô tả khoa học tuy đã cố gắng cho ta hình ảnh đầy đủ về đối tượng nghiên
cứu hiện thực, nhưng mô tả chưa đạt tới trình độ thiết lập được các mối liên hệ
có tính quy luật, bản chất bên trong của đối tượng, vì thế nó vẫn còn dừng ở mức
độ nhận thức thực tiễn và kinh nghiệm.
Trình độ giải thích: Giải thích khoa học là trình bày một cách tường minh
bản chất của đối tượng nghiên cứu, bằng cách chỉ rõ rằng đối tượng ấy đã tuân
thủ một phần hay toàn bộ các quy luật chung của sự phát triển hiện thực.
Cơ sở cần thiết cho mọi sự giải thích khoa học là các tài liệu về đối tượng
phải đầy đủ, chính xác, ngôn ngữ rõ ràng, lập luận chặt chẽ, phù hợp với các
lôgíc của suy luận, tư tưởng học thuật phải phù hợp với các lý thuyết khoa học
đã được chứng minh.
Giải thích khoa học cố gắng phản ánh trung thực các sự kiện của hiện thực,
chỉ ra nguồn gốc phát sinh, phát triển, mối quan hệ của sự kiện với các sự kiện
khác, với môi trường xung quanh, những điều kiện, nguyên nhân, những hệ quả
đã có hay có thể xẩy ra.

30
Trình độ giải thích khoa học như vậy đã cố gắng đi sâu vào bản chất của sự
kiện, bắt đầu tham gia vào quá trình tìm kiếm quy luật vận động của đối tượng
nhận thức.
Tuy nhiên đạt tới trình độ chính xác đến đâu, còn phụ thuộc vào khả năng
của người nghiên cứu và mức độ tự bộc lộ của đối tượng…
Trình độ phát hiện: Trình độ phát hiện là trình độ nghiên cứu hướng tới
bản chất của các sự kiện, hiện tượng khách quan một cách chủ động nhằm khám
phá các quy luật vận động và phát triển của chúng. Phát hiện đồng nghĩa với
phát minh, với quá trình sáng tạo ra chân lý mới làm phong phú thêm kho tàng
tri thức của nhân loại.
Trình độ phát triển khoa học là trình độ nhận thức sáng tạo cao nhất của
con người, được thực hiện bằng những phương thức đặc biệt, với những công
cụ, phương tiện tinh sảo và với những quy trình kỹ thuật khắt khe làm cho đối
tượng bộc lộ nguyên hình với những dấu hiệu bản chất, với các quy luật vận
động và phát triển khách quan.
Tri thức phát hiện tạo nên các khái niệm, phạm trù, các quy luật các lý
thuyết, học thuyết mới, những phương pháp nghiên cứu mới, những quy trình
công nghệ mới, đó là những tri thức có giá trị đối với lý luận và thực tiễn.
2. Loại hình nghiên cứu khoa học
Việc lựa chọn loại hình nghiên cứu khoa học được quyết định bởi mục tiêu
nghiên cứu và chủng loại sản phẩm thu được sau quá trình nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu: Mục tiêu nghiên cứu khoa học có thể rất khác nhau:
hoặc là phát hiện quy luật, mô tả, giải thích nguyên nhân vận động của sự vật
hoặc hiện tượng; hoặc là sáng tạo nguyên lý những giải pháp phục vụ cho các
hoạt động xã hội khác nhau của con người.
Chủng loại sản phẩm sẽ thu nhận được sau nghiên cứu: có thể là các phát
hiện, phát kiến, phát minh, vv… cũng có thể là các giải pháp, bí quyết, sáng chế,
v.v…
Tùy thuộc mục tiêu nghiên cứu và sản phẩm thu nhận sau nghiên cứu,người
ta chia ra những loại hình nghiên cứu khác nhau: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu
dứng dụng hoặc triển khai.
a) Nghiên cứu cơ bản
Nghiên cứu cơ bản là loại hình nghiên cứu có mục tiêu là tìm tòi, sáng tạo
ra những tri thức mới, những giá trị mới cho nhân loại. Nghiên cứu cơ bản đi sâu

31
khám phá bản chất và quy luật vận động và phát triển của thế giới ở cả hai phía
vi mô và vĩ mô. Tri thức sáng tạo từ nghiên cứu cơ bản là tri thức nền tảng cho
mọi quá trình nghiên cứu và ứng dụng tiếp theo.
Kết quả của nghiên cứu cơ bản luôn là những phân tích lý luận, những kết
luận về quy luật, những định luật, định lý… Cuối cùng, trên cơ sở những nghiên
cứu này, người nghiên cưu đưa ra những phát hiện, phát kiến, phát minh, xây
dựng nên những cơ sở lý thuyết có một giá trị tổng quát cho nhiều lĩnh vực hoạt
động.
Nghiên cứu cơ bản là loại hình nghiên cứu phức tạp nhất do đội ngũ các
nhà khoa học có trình độ năng lực sáng tạo đặc biệt tiến hành. Với những yêu
cầu cao về trang thiết bị, với những chương trình nghiên cứu lâu dài, một nguồn
tài chính lớn, tốn kém và mạo hiểm. Chỉ có các nước có tiềm lực khoa học mạnh
mới có khả năng tổ chức loại hình nghiên cứu cơ bản một cách rộng rãi.
Nghiên cứu cơ bản được phân thành hai loại: Nghiên cứu cơ bản thuần túy
và nghiên cứu cơ bản định hướng.
Nghiên cứu cơ bản thuần túy: Nghiên cứu cơ bản thuần túy còn được gọi là
nghiên cứu tự do hoặc nghiên cứu cơ bản không định hướng. Nghiên cứu cơ bản
thuần túy có mục tiêu là phát hiện, sáng tạo ra giá trị mới, những quy luật,
những lý thuyết khoa học mới dù chưa có địa chỉ ứng dụng.
Sản phẩm của nghiên cứu cơ bản thuần túy có thể là các phát hiện, phát
minh, phát kiến, các công thức và thường dẫn đến việc hình thành hệ thống lý
thuyết có ảnh hưởng đến một hoặc nhiều lĩnh vực khác nhau.
Trong lịch sử khoa học, chúng ta gặp rất nhiều những phát hiện của nghiên
cứu cơ bản thuần túy trong mọi lĩnh vực khoa học tự nhiên và xã hội, chẳng hạn,
Newtơn phát hiện định luật hấp dẫn vũ trụ, Galileo phát hiện các vệ tinh của Sao
Mộc, Marie Curie phát hiện nguyên tố phóng xạ uranium, Adam Smith phát
hiện “bày tay vô hình” của kinh tế thị trường, Karl Marx phát hiện ra quy luật về
thặng dư. Đó đều là sản phẩm của những nghiên cứu cơ bản thuần túy.
Tác giả các phát hiện này không thể dự kiến hết được, thậm chí không hề
dự kiến được những phát hiện của mình sẽ được nhằm vào mục đích áp dụng
nào và dẫn đến những kết quả, những ảnh hưởng lớn lao như thế nào trong đời
sống xã hội.
Nghiên cứu cơ bản định hướng: Nghiên cứu cơ bản định hướng có mục
tiêu để tìm ra những kiến thức mới, giải pháp mới theo yêu cầu của thực tiễn xã
hội hay sản xuất, đã có sẵn địa chỉ ứng dụng. Hay nói cách khác đây là những

32
nghiên cứu cơ bản đã dự kiến trước mục đích ứng dụng. Nghiên cứu cơ bản định
hướng còn được gọi là nghiên cứu thăm dò và đôi khi được hiểu là một loại hình
nghiên cứu để xác định phương hướng nghiên cứu. Thí dụ, hoạt động thăm dò
địa chất mỏ cũng xem là nghiên cứu cơ bản định hướng, bởi vì nó nhằm khám
phsa quy luật (định tính và định lượng) phân bố khoáng sản trong lòng đất. Hoạt
động nghiên cứu này hướng vào mục đích phục vụ nhu cầu khai thác khoáng
sản.
Nghiên cứu nền tảng: nghiên cứu nền tảng là những nghiên cứu dựa trên
các quan sát, đo đạc để thu thập số liệu và dữ kiện nhằm mục đích tìm hiểu và
khám phá quy luật của tự nhiên. Thuộc loại hình nghiên cứu nền tảng có thể liệt
kê một số dạng như nghiên cứu dịch tễ học trong y; điều tra cơ bản tài nguyên
và các điều kiện thiên nhiên như điều tra địa chất, nghiên cứu đại dương, khí
quyển, khí tượng; tổng hợp các hóa chất, nghiên cứu bản chất vật lý, hóa học,
sinh học.
Nghiên cứu chuyên đề: Nghiên cứu chuyên đề là nghiên cứu có hệ thống
một hiện tượng đặc biệt của tự nhiên, ví dụ trạng thái plasma của vật chất, của
bức xạ vũ trụ, gien di truyền.
Những loại hình nghiên cứu cơ bản định hướng thuộc dạng này không chỉ
đưa đến những cơ sở lý thuyết quan trọng, mà còn có thể dẫn đến những ứng
dụng có ý nghĩa lớn lao trong kinh tế và trong các lĩnh vực khác nhau của đời
sống xã hội.
Chúng ta không nên hiểu đồng nhất giữa hai khái niệm nghiên cứu cơ bản
và khoa học cơ bản
b) Nghiên cứu ứng dụng
Nghiên cứu ứng dụng là loại hình nghiên cứu có mục tiêu là tìm cách vận
động những tri thức cơ bản để tạo ra những quy trình công nghệ mới trong sản
xuất, những nguyên lý mới trong quản lý kinh tế xã hội.
Sản phẩm của nghiên cứu ứng dụng có thể là một giải pháp về công nghệ
có tính mới về nguyên lý, vật liệu mới, sản phẩm mới, giải pháp hữu ích, sáng
chế.
Điều quan trọng nhất để phân biệt nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng
dụng là ở chỗ, nghiên cứu cơ bản thì đưa ra những tri thức mới về bản chất, quy
luật vận động và hiện tượng, còn nghiên cứu ứng dụng đưa ra những nguyên lý
mới về giải pháp tác động vào sự vật hoặc hiện tượng.

33
Đây là một loại hình nghiên cứu phù hợp với quy luật phát triển của khoa
học hiện đại, nó làm rút ngắn thời gian từ khi phát minh đến khi ứng dụng.
Chính nghiên cứu ứng dụng đã làm cho khoa học trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển cả khoa học lẫn sản xuất.
Nghiên cứu ứng dụng là một trong những con đường quan trọng nhất giúp
cho các nước phát triển nhanh chóng, bỏ qua giai đoạn nghiên cứu cơ bản tốn
kém để tiến kịp các nước phát triển có tiềm lực khoa học mới. Nhật Bản là thí dụ
điển hình.
Cũng như đối với nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng không nên hiểu
đồng nghĩa với khoa học ứng dụng. Và điều cần lưu ý nữa là, mặc dầu loại hình
này có tên gọi là nghiên cứu ứng dụng, nhưng kết quả của nó thì chưa ứng dụng
được. Để có thể đưa kết quả của nghiên cứu ứng dụng vào sử dụng trong thực tế
thì còn phải tiến hành một loại hình nghiên cứu khác, có tên gọi là nghiên cứu
triển khai.
c) Nghiên cứu triển khai
Nghiên cứu triển khai là loại hình nghiên cứu có mục tiêu là tìm khả năng
áp dụng đại trà các kết quả nghiên cứu ứng dụng vào thực tế sản xuất và đời
sống xã hội, tạo ra các mô hình chế biến thông tin khoa học thành ra sản phẩm
tinh thần hay vật chất.
Nghiên cứu triển khai là loại hình nghiên cứu nối liền khoa học và đời
sống, là con đường đưa khoa học tới nơi cần sử dụng, chính nó làm cho ý tưởng
khoa học trở thành hiện thực, làm phát triển nền kinh tế văn hóa xã hội, làm tăng
chất lượng cuộc sống của con người.
Đặc trưng của nghiên cứu triển khai là sự vận dụng các quy luật (thu được
từ nghiên cứu cơ bản) và nguyên lý (thu được từ nghiên cứu ứng dụng) để đưa
ra các hình mẫu với những tham số đủ mang tính khả thi về kỹ thuật.
Sản phẩm của nghiên cứu triển khai chỉ mới là những vật mẫu, hình mẫu có
tính khả thi về kỹ thuật, nghĩa là đã được khẳng định, không còn xác suất rủi ro
về mặt kỹ thuật trong áp dụng. Điều này chưa hòan toàn có nghĩa là đã có thể áp
dụng vào một địa chỉ cụ thể nào đó, bởi vì, để áp dụng được vào một điều kiện
cụ thể xác định còn phải tính đến khả năng về tài chính, kinh tế, môi trường, xã
hội, chế độ, chính trị, v.v…
d) Nghiên cứu dự báo
Nghiên cứu dự báo là loại hình nghiên cứu có mục tiêu là phát hiện những
triển vọng, những khả năng xu hướng mới của sự phát triển của khoc học và

34
thực tiễn. Nghiên cứu dự báo dựa trên các quy luật và tốc độ phát triển của khoa
học hiện đại, trên cơ sở các tiềm lực khoa học quốc gia và thế giới. Nghiên cứu
dự báo dựa trên kết quả phân tích và tổng hợp một số lượng lớn các thông tin
khách quan về các thành tựu của khoa học, đồng thời dựa vào nhu cầu khả năng
phát triển cuộc sống của xã hội hiện đại. Các dự báo gồm:
+ Những thành tựu của khoa học và thực tiễn có thể đạt được trong tương
lai. Những triển vọng của những phát minh, số lượng và chất lượng thông tin
mới.
+ Những xu hướng, trường phái khoa học, những chương trình khoa học
mới, những khả năng phát triển tiềm lực khoa học quốc gia và quốc tế.
+ Những khả năng hình thành các tổ chức khoa học mới và những triển
vọng của sự phát triển tiềm lực khoa học quốc gia và quốc tế.
Nghiên cứu dự báo có ba cấp:
- Cấp 1: Dự báo cho 15-20 năm.
- Cấp 2: Dự báo cho 40-50 năm
- Cấp 3: Dự báo cho 1 thế kỷ
Mọi dự báo đều chứa đựng những thông tin giả định, tuy vậy nó có vai trò
to lớn trong phát triển cả thực tiễn và lý luận khoa học. Cuộc sống hiện thực,
nhu cầu thực tế, tiềm năng của khoa học sẽ bổ sung và sửa đổi dự báo. Số phận
của dự báo chịu ảnh hưởng của sự phát triển xã hội và những bí mật của thiên
nhiên được phát hiện.
3. Ý nghĩa của việc xác định loại hình nghiên cứu
Trong nghiên cứu khoa học, người nghiên cứu cần bắt đầu từ việc thiết lập
sự kiện, quan sát và đưa ra các giả thuyết nghiên cứu. Giả thuyết nghiên cứu
chính là cái mà người nghiên cứu phải kiểm chứng trong toàn bộ tiến trình
nghiên cứu.
Đặt giả thuyết nghiên cứu: Mỗi loại hình nghiên cứu tương ứng với nhiều
loại giả thuyết nghiên cứu. Bất cứ nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học nào,
người nghiên cứu cũng cần phải đưa ra những giả thuyết nghiên cứu. Giả thuyết
nghiên cứu sẽ được chứng minh hoặc bác bỏ sau khi được kiểm chứng bởi chính
người nghiên cứu.
- Với nghiên cứu cơ bản, người nghiên cứu cần đưa ra những giả thuyết về
bản chất hay quy luật vận động của sự vật hoặc hiện tượng.

35
- Với nghiên cứu ứng dụng, người nghiên cứu cần đưa ra những giả thuyết
về hình mẫu.
Khi đã xác định được loại hình nghiên cứu, người nghiên cứu sẽ định
hướng được sản phẩm nghiên cứu của mình, đưa ra được những kết luận giả
định (giả thuyết nghiên cứu) để theo đuổi.
III. ĐẶC ĐIỂM CỦA NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nghiên cứu khoa học trước hết là một hoạt động xã hội, là một dạng nhân
công lao động xã hội. Nhưng nghiên cứu khoa học có những đặc điểm khác với
các loại hình lao động khác, nhất là so với lao động trong lĩnh vực sản xuất vật
chất. Những đặc điểm ấy làm cho lao động nghiên cứu khoa học khó đánh giá.
Chính Marx cũng phải nói rằng: “Sản phẩm của lao động khoa học luôn luôn
được đánh giá kém xa so với giá trị thực của nó, bởi vì giá trị lao động sống
nhằm tái tạo ra nó không thể nào so sánh được với giá trị lao động quá khứ đã
sáng tạo ra nó lần đầu tiên”. Để minh họa, Marx đã lấy ví dụ, “Bất kỳ một em
học sinh tiểu học nào cũng có thể học thuộc lòng một bản cửu chương. Trong
khi các nhà bác học phải mất bao nhiêu năm nghiên cứu mới xây dựng nên nó.
Để có cơ sở đánh giá giá trị và tầm quan trọng của loại hình lao động này, chúng
ta nêu lên một số đặc điểm cơ bản của nghiên cứu khoa học.
1. Tính mới mẻ
Nghiên cứu khoa học là một quá trình thâm nhập vào thế giới của những sự
vật, hiện tượng mà con người chưa biết. Vì vậy, quá trình nghiên cứu khoa học
là quá trình sáng tạo luôn hướng tới những phát hiện mới hoặc sáng tạo mới.
Trong nghiên cứu khoa học không có sự phát hiện lại hoặc sáng tạo lại. Vì vậy,
tính mới là thuộc tính số một của lao động khoa học.
Đặc điểm trên đây cho thấy một đặc điểm khác, là quá trình nghiên cứu
khoa học không có sự lặp lại một thí nghiệm hoặc một quan sát đúng như công
việc đã làm trước đó. Ví dụ, khi làm lại một thí nghiệm hóa học với những thành
phần hóa chất tham gia phản ứng vẫn được giữ nguyên như ban đầu, thì các
tham số về điều kiện phản ứng, như nhiệt độ, áp suất, v.v… phải thay đổi.
“Tính mới” cần phải được hiểulà, cho dù đạt được một phát hiện mới,
nhưng người nghiên cứu còn tiếp tục vươn tới những phát hiện mới hơn. Tuy
nhiên, cần lưu ý rằng, tính mới của nghiên cứu khoa học không hề mâu thuẫn,
và do vậy, không thể bị hiểu lầm bởi một tính chất khác về tính tin cậy của kết
quả nghiên cứu.

36
2. Tính thông tin
Sản phẩm của nghiên cứu khoa học được thể hiện dưới nhiều dạng, có thể
đó là một báo cáo khoa học, tác phẩm khoa học, song cũng có thể là một mẫu
vật liệu mới, mẫu sản phẩm mới, mô hình thí điểm về một phương pháp tổ chức
sản xuất mới, vv… Tuy nhiên, trong tất cả các trường hợp này, sản phẩm khoa
học luôn mang đặc trưng thông tin về quy luật vận động của sự vật hoặc hiện
tượng, thông tin về quy trình công nghệ và các tham số đi kèm quy trình đó.
Ví dụ, trong trường hợp kết quả nghiên cứu cho sản phẩm là một kilogram
thóc giống vừa được thử nghiệm thành công. Nhìn bề ngoài, nó có thể không
khác bao nhiêu so bởi một kilogram thóc khác, nhưng đi sâu vào bên trong, nó
chứa đựng những thông tin hoàn toàn mới về kỹ thuật lai tạo, kỹ thuật canh tác,
khả năng chống chịu sâu bệnh, chế độ chăm bón, tưới tiêu, bảo vệ thực vật, v.v...
3. Tính khách quan
Tính khách quan vừa la đặc điểm của nghiên cứu khoa học, vừa là một tiêu
chuẩn của người nghiên cứu khoa học. Một nhận định vội vã theo cảm tính, một
kết luận thiếu các xác nhận bằng kiểm chứng chưa thể xem là một phản ánh
khách quan về bản chất của sự vật hoặc hiện tượng.
4. Tính tin cậy
Tính tin cậy là một thuộc tính của sản phẩm khoa học. Một kết quả nghiên
cứu đạt được nhờ một phương pháp nào đó chỉ có thể xem là tin cậy khi nó có
khả năng kiểm chứng lại nhiều lần do nhiều người khác nhau thực hiện trong
những điều kiện quan sát hoặc thí nghiệm hoàn toàn giống nhau và với những
kết quả thu được hoàn toàn giống nhau.
Một kết quả ngẫu nhiên dù phù hợp với giả thuyết đã đặt ra trước đó cũng
chưa thể xem là đủ tin cậy để kết luận về bản chất của sự vận động hoặc hiện
tượng. Điều này dẫn đến một nguyên tắc mang tính phương pháp luận của
nghiên cứu khoa học, là khi trình bầy một kết quả nghiên cứu, người nghiên cứu
đã chỉ rõ các điều kiện, các nhân tố và phương tiện thực hiện (nếu có). Ví dụ,
khi nói “nước sôi ở nhiệt độ 1000C”, thì người nghiên cứu đã phải chỉ ra điều
kiện là nước nguyên chất, đun nóng dưới áp xuất 1atm. Nếu lặp lại các điều kiện
giống như thế, mọi người đều có thể đạt được kết quả giống như những kết quả
đạt được trước đó.
5. Tính rủi ro
Tính hướng mới của nghiên cứu khoa học quy định một thuộc tính quan
trọng khác của nghiên cứu khoa học, đó chính là tính rủi ro. Một nghiên cứu có

37
thể thành công, có thể thất bại. Sự thất bại trong nghiên cứu khoa học có thể do
nhiêu nguyên nhân với các mức độ khác nhau, chẳng hạn, do thiếu những thông
tin cần thiết và đủ tin cậy; do trình độ kỹ thuật của thiết bị thí nghiệm không đáp
ứng nhu cầu kiểm chứng giả thuyết; do khả năng thực hiện của người nghiên
cứu chưa đủ tầm để xử lý vấn đề; do giả thuyết nghiên cứu đặt ra sai; do những
tác nhân bất khả kháng,v.v…
Ngay cả những nghiên cứu đã thử nghiệm thành công vẫn chịu những rủi
ro trong áp dụng kỹ thuật chưa được làm chủ, hoặc ngay cả khi đã thử nghiệm
thành công thì vẫn không thể đi đến quyết định áp dụng vì một nguyên nhân xã
hội nào đó.
Tuy nhiên, trong nghiên cứu khoa học, sự thất bại cũng được xem là một
kết quả. Kết quả ấy cũng được mang ý nghĩa về một kết luận của nghiên cứu
khoa học, mà nội dung là, các giả thuyết đã đặt ra không được xác nhận về mặt
khoa học, nghĩa là, trong sự vật hoặc hiện tượng không tồn tại quy luật hoặc giải
pháp như đã dự kiến. Kết quả này cũng phải được tổng kết lại, được lưu giữ như
một tài liệu khoa học nghiêm túc. Mục đích của sự tổng kết là để tránh cho các
nhà nghiên cứu khác không dẫm trên lên lối mòn, lãng phí các nguồn lực nghiên
cứu.
6. Tính kế thừa
Ngày nay không còn một công trình nghiên cứu khoa học nào bắt đầu từ
chỗ hoàn toàn trống không về kiến trúc. Mỗi nghiên cứu phải kế thừa các kết
quả nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học rất xa khác nhau. Chẳng hạn, khi nghiên
cứu kinh tế học, Marx đã kế thừa những kiến thức về mô hình toán học để thiết
lập mô hình toán học của quá trình tái sản xuất xã hội.
Tính kế thừa có một ý nghĩa quan trọng về mặt phương pháp luận nghiên
cứu: một người nghiên cứu chân chính không bao giờ đóng cửu cố thủ trong
những “kho tàng” lý luận và phương pháp luận “riêng có” của mình mà bài xích
sự thâm nhập cả về lý luận và phương pháp luận từ các lĩnh vực khoa học dù là
rất khác nhau.
Hàng loạt các phương hướng nghiên cứu mới và các bộ môn khoa học mới
xuất hiện chính là kết quả kế thừa lẫn nhau giữa các bộ môn khoa học. Chẳng
hạn, sự xuất hiện bộ môn Kinh tế chính trị học chính là kết quả kế thừa những
cơ sở lý luận và phương pháp luận của chính trị học và nghiên cứu kinh tế học.
Hiển tính kế thừa mang một ý nghĩa hết sức quan trọng về mặt phương
pháp luân: Trước hết, người nghiên cứu không giữ thái độ quá cứng nhắc và tự

38
mãn đối với những hệ lý luận và phương pháp luận “của mình” đến mức từ chối
tiếp nhận những cơ sở lý luận và phương pháp luận tiên tiến của các bộ môn
khoa học khác. Hơn nữa, người nghiên cứu không ngộ nhận và áp đặt những lý
luận và phương pháp luận “của mình” cho các lĩnh vực nghiên cứu khác.
7. Tính cá nhân
Dù là một công trình nghiên cứu khoa học do một tập thể thực hiện, thì vai
trò cá nhân trong sáng tạo cũng mang tính chất quyết định. Tư duy cá nhân trong
nghiên cứu chính là quá trình tự tìm tòi, điều tra, sáng tạo để có ý kiến riêng có
giá trị mới mẻ về mặt khoa học. Người nghiên cứu nên thường xuyên kiểm tra
trong các tác phẩm của mình về xuất xứ của các sản phẩm trí tuệ, xem đâu là sản
phẩm tư duy của riêng mình, đâu là ý kiến cấp trên, đâu là tiếp thu của người
khác hoặc kế thừa từ một công trình nghiên cứu của các đồng nghiệp đi trước.
8. Tính kinh phí
Tính kinh phí là một đặc trưng đáng lưu ý của nghiên cứu khoa học. Đặc
trưng này thể hiện ở một số điểm sau:
- Lao động nghiên cứu khoa học rất khó định mức một cách chính xác như
trong lĩnh vực sản xuất vật chất, thậm chí có thể nói, lao động khoa học hầu như
không thể định mức.
- Những thiết bị chuyên dụng cho nghiên cứu khoa học hầu như không thể
khấu hao, nếu nó được đặt trong balô của các nhà nghiên cứu. Có hai lý do:
+ Thứ nhất, tần suất sử dụng không ổn định và hầu như rất thấp. Một kính
hiển vi điện tử rất đắt tiền có thể chỉ sử dụng để phân tích một vài mẫu thí
nghiệm trong một tuần, đôi khi sử dụng dồn dập trong vài ba ngày với tần suất
24/24 giờ, và sau đó hàng tháng, thậm chí hàng năm không sử dụng đến nữa.
+ Thứ hai, tốc độ hao mòn vô hình luôn vượt trước rất xa so với tốc độ hao
mòn hữu hình, một thiết bị thí nghiệm hoặc một máy vi tính đắt tiền chưa kịp
hao mòn hữu hình thì đã bị lỗi thời về kỹ thuật.
- Hiệu quả kinh tế của nghiên cứu khoa học hầu như không thể xác định
được, ngay cả những kết quả nghiên cứu về kỹ thuật dưới dạng các sáng chế và
hình mẫu rất có giá trị về kỹ thuật, thậm chí có thể giá trị mua bán rất cao trên
thị trường, song không thể áp dụng chỉ vì một lý do thuần túy xã hội, và như vậy
hiệu quả kinh tế cũng không thành hiện thực.
- Lợi nhuận trong nghiên cứu khoa học không dễ xác định.

39
IV. TIỀM LỰC KHOA HỌC
Tiềm lực khoa học của một quốc gia là năng lực khoa học quốc gia đảm
bảo cho mọi hoạt động và phát triển của toàn bộ hệ thống tổ chức nghiên cứu
khoa học và công nghệ của đất nước. Tiềm lực khoa học dồi dào, khai thác có
hiệu quả sẽ tạo ra mọi thành công trong hiện đại hóa khoa học của quốc gia.
Tiềm lực khoa học được biểu hiện bằng các thông số sau đây:
1. Nhân lực khoa học
Nhân lực khoa học là đội ngũ những người tham gia trực tiếp vào quá trình
nghiên cứu sáng tạo khoa học. Nhân lực khoa học là tiềm năng của mọi tiềm
năng, là nhân tố quan trọng nhất tạo ra mọi thành công không những cho khoa
học, mà còn cho tất cả các lĩnh vực hoạt động khác của nhân loại.
Nhân lực khoa học bao gồm: các nhà khoa học, các nhân viên kỹ thuật và
dịch vụ khoa học, đội ngũ này hỗ trợ nhau trong tìm tòi, sáng tạo ra mọi giá trị
khoa học.
Nhân lực khoa học quan trọng nhất là các nhà khoa học. Các nhà khoa học
là những người có trình độ từ đại học trở lên trực tiếp tham gia vào quá trình
nghiên cứu và giảng dạy ở các Viện nghiên cứu và các Trường Đại học. Đội ngũ
này gồm có:
+ Trợ lý nghiên cứu và trợ lý giảng dạy
+ Nghiên cứu viên và giảng viên
+ Nghiên cứu viên chính và giảng viên chính
+ Nghiên cứu viên cấp cao, phó giáo sư, viện sĩ. Với các học vị: Cử nhân
khoa học, thạc sĩ khoa học và Tiến sĩ khoa học.
Điều quan trọng nhất của nhân lực khoa học là khả năng sáng tạo của họ.
Các nhà khoa học thường có ba mức độ tài năng:
1- Những người có khả năng tạo ra những lý thuyết độc đáo, những trường
phái mới, làm phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ. Những người này tuy
rất ít nhưng vai trò cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của khoa học.
2- Những người có khả năng nghiên cứu để hoàn thiện và bổ sung tri thức
hiện có, làm phong phú thêm kho tàng tri thức nhân loại.
3- Những người có khả năng giải quyết những tình huống, những công việc
cụ thể nẩy sinh trong sản xuất và đời sống xã hội.
Các nhà khoa học tài năng có những phẩm chất đặc biệt sau đây:

40
1- Có trí tuệ phát triển cao, linh hoạt, độc đáo, luôn hướng vào bản chất của
mọi vấn đề, biết quan sát, biết phê phán và đánh giá, đồng thời cũng biết bổ
sung, hoàn thiện những thiếu sót của mình và của người khác.
2- Có tri thức toàn diện và sâu sắc trong lĩnh vực chuyên ngành, đồng thời
có hiểu biết rộng về các lĩnh vực liên ngành.
3- Có óc tưởng tượng sáng tạo, có khả năng trực giác, tiên đoán chính xác,
táo bạo và mạo hiểm trong tư duy và trong hành động.
4- Say mê khoa học, có khả năng tập trung cao độ và lâu dài vào một đối
tượng nghiên cứu dù là rất hẹp.
5- Có tính mục đích cao, kiên trì với ý tưởng khoa học, không ngại gian
khổ khó khăn, quyết tâm đạt tới mục đích bằng mọi biện pháp sáng tạo.
6- Có các phẩm chất đặc biệt: Khách quan, trung thực, thẳng thắn, khiêm
tốn, ham học hỏi, có tinh thần hợp tác và đôi khi có những tính cách độc đáo
khác.
Trong suốt cuộc đời lao động của nhà khoa học tính tích cực sáng tạo phát
triển không đều, tạo thành “đường cong sáng tạo”. Một quy luật cần được các
nhà tổ chức, quản lý và đào tạo quan tâm thích đáng.
Thực tiễn đã xác minh: Trí lực và sáng tạo của con người giảm theo tuổi
tác, sự cằn cỗi trí tuệ lấn áp sức sống và tính năng động, ở tuổi già việc tiếp thu
cái mới trở nên khó khăn. Các nhà khoa học cũng có tuổi già, thậm chí còn già
nhanh hơn người bình thường, bởi vì ở tuổi trẻ họ đã lao động quá mệt mỏi, đã
cống hiến nhiều trí lực cho khoa học.
Theo thống kê, ở nước ta hiện nay có khoảng trên hai vạn cán bộ khoa học
đang làm việc trong hơn 350 Viện nghiên cứu và trường Đại học. Đây là con số
lớn và nó phát triển rất nhanh trong mấy thập niên vừa qua. Họ là vốn quý, đang
làm phát triển nhanh chóng bộ mặt của đất nước. Tuy nhiên, đa số những nhà
khoa học có trình độ cao đã vào tuổi trung niên.
Để xây dựng và phát huy hết tiềm năng của nhân lực khoa học, cần có quy
hoạch đào tạo cán bộ trẻ, bổ xung thường xuyên đội ngũ cán bộ trẻ cho các Viện
nghiên cứu khoa học, các trường Đại học cần sắp xếp họ vào các vị trí làm việc
hợp lý và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho họ làm việc. Cần có chính sách đặc
biệt đối với tài năng, cần ưu đãi nhân tài, coi nhân tài và trí tuệ như tài sản quý
giá nhất của quốc gia.

41
2. Tài lực khoa học
Tài lực khoa học là toàn bộ ngân sách đầu tư cho khoa học và công nghệ.
Tài lực là thông số quan trọng để đánh giá tiềm lực khoa học của một quốc gia
và là điều kiện thiết yếu đảm bảo cho sự thành công của mọi kế hoạch triển khai
nghiên cứu khoa học.
Ở các nước phát triển, người ta dành một khoản ngân sách lớn cho triển
khai nghiên cứu khoa học và công nghệ. Đây là khoản tài chính khổng lồ, với
hàng trăm tỷ USD, dành cho các chương trình khoa học. Nhờ có tài lực dồi dào
họ đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn.
Ở nước ta, theo kế hoạch nhà nước sẽ dành 2% tổng thu nhập quốc dân
ngân sách cho nghiên cứu khoa học vào năm 2000. Ngoài ngân sách do nhà
nước đầu tư, còn có các nguồn khác bổ xung như vay vốn ngân hàng, nguồn tự
tạo do hợp đồng, liên kết nghiên cứu sản xuất, chuyển giao công nghệ và viện
trợ của các tổ chức chính phủ hoặc phi chính phủ. Ngân sách khoa học đang
được dùng để chi cho xây dựng cơ bản, mua sắm thiết bị, chi trả lương và sau đó
là chi cho các chương trình nghiên cứu khoa học từ cấp cơ sở tới cấp nhà
nước…
3. Thông tin khoa học
Thông tin theo nghĩa chung nhất là các tin tức có ích cho một hoạt động
nào đó. Thông tin này có hai cấp: thông tin sơ cấp và thông tin thứ cấp.
+ Thông tin sơ cấp (còn gọi là thông tin đầu nguồn) được thu nhận từ các
hoạt động xã hội hoặc sản xuất, từ các cuộc điều tra cơ bản, điều tra xã hội hay
quan sát thực tiễn…
+ Thông tin thứ cấp (còn gọi là thông tin tinh) đã qua xử lý bằng kỹ thuật
toán học hay máy tính, thông tin thứ cấp được cung cấp cho các cơ quan nghiên
cứu để chọn lọc, xử lý và sử dụng theo mục đích của các hệ đề tài. Đó chính là
thông tin khoa học. Nhờ có bộ máy lôgíc với phép suy luận đặc biệt mà thông
tin trở thành các lý thuyết khoa học.
Như vậy, thông tin khoa học là các tài liệu lý thuyết hoặc số liệu thực tiễn
(đã qua xử lý) cung cấp cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Nhờ có thông tin
khoa học mà bộ máy khoa học mới có thể vận hành tạo ra những giá trị mới.
Thông tin khoa học là sản phẩm nghiên cứu khoa học hoặc thu nhập từ hoạt
động thực tiễn, thông tin khoa học lại là “nguyên liệu” để khoa học tái sản xuất
tạo ra thông tin mới có giá trị cao hơn.

42
Nghiên cứu khoa học theo lý thuyết thông tin đó là quá trình thu thập, gia
công xử lý thông tin để tạo hệ thống các lý thuyết thông tin mới.
Các nguồn cung cấp thông tin thường là:
+ Từ các ấn phẩm công bố trong nước và thế giới.
+ Từ các kho tài liệu lưu trữ quốc gia.
+ Từ các kết quả điều tra cơ bản hay điều tra xã hội, các cuộc phỏng vấn,
các cuộc thội thảo khoa học.
+ Các số liệu thực tế trong hoạt động kinh tế, xã hội của trung ương và địa
phương…
Số lượng và chất lượng thông tin là những chỉ tiêu rất quan trọng đối với
hoạt động nghiên cứu khoa học. Về mặt số lượng, thông tin cần phải phong phú,
đa dạng, nhiều chiều. Về mặt chất lượng, thông tin phải khách quan, chính xác
và cập nhật. Thông tin là điều kiện sống còn của hoạt động khoa học. Thiếu
thông tin, nghiên cứu khoa học sẽ rơi vào tình trặng của hoạt động khoa học.
Thiếu thông tin, nghiên cứu khoa học sẽ rơi vào tình trạng mất phương hướng,
lạc hậu, nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay.
4. Vật lực khoa học
Vật lực khoa học là toàn bộ cơ sở vật chất, thiết bị, vật tư kỹ thuật chuyên
dùng trong nghiên cứu khoa học. Vật lực là một trong bốn nguồn lực đảm bảo
cho thành công của hoạt động nghiên cứu khoa học. Cơ sở vật chất đầy đủ, thiết
bị phong phú, hiện đại là điều kiện thuận lợi để khoa học phát triển nhanh và
ngược lại thiếu vật lực không thể tiến hành bất cứ hoạt động khoa học nào.
Vật lực khoa học bao gồm:
+ Cơ sở hạ tầng như trụ sở làm việc, phòng thí nghiện, nhà xưởng nơi
nghiên cứu, sản xuất thực nghiệm.
+ Máy móc, thiết bị kỹ thuật phổ thông hay đặc chủng chuyên dùng cho
nghiên cứu khoa học.
+ Nguyên liệu, vật tư kỹ thuật sử dụng trong thí nghiệm, thực nghiệm, sản
xuất thử nghiệm…
Về nguyên tắc, trong nghiên cứu khoa học phương tiện, thiết bị phải đầy
đủ, tinh xảo, hiện đại, với tiêu chuẩn kỹ thuật cao, nguyên vật liệu sử dụng phải
tinh khiết, đáp ứng đầy đủ yêu cầu về định tính và định lượng.

43
Nguồn cung cấp thiết bị, vật tư khoa học rất đa dạng, có thể là tự chế tạo
hay đặt ra hàng từ nhà máy chuyên sản xuất thiết bị khoa học. Đối với Việt Nam
nhập từ nước ngoài vẫn là nguồn quan trọng nhất…
Tóm lại, nghiên cứu khoa học là một hoạt động được tổ chức đặc biệt, mục
đích của nó nhận thức và cải tạo thế giới, phục vụ cho lợi ích của con người. Để
nghiên cứu khoa học mỗi quốc gia phải có tiềm năng, trong đó tiềm năng trí tuệ
là tiềm năng của mọi tiềm năng. Các nguồn lực khác là điều kiện thiết yếu đảm
bảo cho nghiên cứu khoa học thành công. Nghiên cứu khoa học phải được tổ
chức thành hệ thống chặt chẽ, với những chương trình chiến lược quốc gia.

44
Chương III
TIẾP CẬN VÀ SÁNG TẠO KHOA HỌC

I. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VỚI TƯ CÁCH LÀ THẾ GIỚI KHÁCH


QUAN
Sự phát triển của khoa học hiện đại không những đem lại cho con người
những hiểu biết sâu sắc về thế giới, mà còn đem lại cho con người cả những hiểu
biết về phương pháp nhận thức thế giới, ngày nay cùng với bản thân khoa học
người ta chú ý tới phương pháp nhận thức khoa học.
Nghiên cứu khoa học là hoạt động tìm tòi khám phá bản chất và các quy
luật vận động của thế giới, quá trình này được tổ chức hết sức chặt chẽ, luôn
phải chọn lọc và sử dụng các phương pháp nghiên cứu. Phương pháp gắn liền
với hoạt động có ý thức của con người, là một trong những yếu tố quyết định sự
thành công của hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới.
Phương pháp là phạm trù phức tạp, có phạm vi bao quát rộng, với nhiều
cấp độ và rất phong phú về nội dung và chủng loại. Phương pháp nghiên cứu
khoa học có ba đặc trưng quan trọng:
+ Một là: Phương pháp luôn gắn với những tư tưởng cơ bản, có tính
nguyên tắc, định hướng chỉ đạo hoạt động, đó chính là các quan điểm tiếp cận
đối tượng, là thế giới quan của nhà nghiên cứu.
+ Hai là: Phương pháp là một hệ thống các phương thức hoạt động, bao
gồm thủ pháp, các thao tác hoạt động có tính kỹ thuật. Đó là các phương pháp
cụ thể.
+ Ba là: Phương pháp là hệ thống các quy trình hoạt động, là trình tự các
bước đi, bao gồm logíc tiến trình và lôgíc nội dung của hoạt động. Phương pháp
có tính quy trình.
Như vậy, phương pháp nghiên cứu khoa học có liên quan tới ba vấn đề
quan trọng. Phương pháp luận, phương pháp cụ thể và lôgíc tiến hành các công
trình khoa học.
Trong nghiên cứu khoa học phương pháp và phương pháp luận là hai khái
niệm gần nhau nhưng không đồng nhất, Phương pháp luận là hệ thống các quan
điểm, nguyên tắc chỉ đạo chủ thể xác định con đường và phạm vi nghiên cứu.
Phương pháp là cách thức, thủ đoạn hoạt động cụ thể của chủ thể. Cái thứ nhất

45
thuần túy lý luận, cái thứ hai vừa lý luận vừa thực tiễn, cái thứ nhất chỉ đạo cái
thứ hai, cái thứ hai xuất phát từ cái thứ nhất trong sự thống nhất chung.
Các quan điểm phương pháp luận nghiên cứu khoa học có tính lý luận cho
nên thường mang màu sắc Tiết học, tuy nhiên nó kkhông đồng nhất với Triết
học. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là sự vận dụng các quan điểm Triết
học (như thế giới quan) để tiếp cận và nhận thức thế giới.
Các quan điểm phương pháp luận là một hệ thống, tồn tại với ba cấp độ:
+ Có những quan điểm chung nhất chỉ dẫn hoạt động nhận thức đối với tất
cả lĩnh vực khoa học, đó chính là các quan điểm duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử, nó là nền tảng của mọi tư tưởng học thuật. Quan điểm duy vật biện
chứng là cơ sở xuất phát cho các quan điểm Phương pháp luận chung và Phương
pháp luận chuyên ngành.
+ Có những quan điểm phương pháp luận chung áp dụng cho một nhóm
ngành hay một số lĩnh vực khoa học, thí dụ phương pháp luận nghiên cứu khoa
học xã hội, phương pháp luận nghiên cứu khoa học Tự nhiên hay Kỹ thuật…
+ Có những quan điểm riêng dùng cho bộ môn, một chuyên ngành cụ thể.
Thí dụ: Phương pháp luận nghiên cứu Toán học, phương pháp luận nghiên cứu
Kinh tế, phương pháp luận nghiên cứu Tâm lý học…
Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu các quan điểm phương pháp luận chung
nhất cho các lĩnh vực khoa học.
II. CÁC QUAN ĐIỂM PHƯƠNG PHÁP LUẬN CHUNG NHẤT
TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HọC.
1- Phép biện chứng duy vật là cơ sở chung của mọi nhận thức khoa học.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa phép duy vật và
phép biện chứng trong nhìn nhận thế giới. Phép biện chứng duy vật là sự kết tinh
của các thành tựu khoa học và các tư tưởng Triết học nhân loại. Phép duy vật là
sự khẳng định vật chất là cái có trước quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh
hiện thực khách quan vào bộ não của con người. Phép biện chứng trình bày một
cách hệ thống tính biện chứng của thế giới bằng các phạm trù và những quy luật
chung của thế giới tự nhiên và rút ra những quan điểm, những quy tắc chỉ đạo
hoạt động của con người.
Phép biện chứng duy vật bao gồm hai nguyên lý, những cặp phạm trù và
những quy luật cơ bản, chúng vừa là cơ sở lý luận và là phương pháp nhận thức
thế giới.

46
+ Hai nguyên lý cơ bản của phép duy vật biện chứng là:
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của thế giới chỉ ra cho các nhà nghiên
cứu tính vô hạn của thế giới và tính hữu hạn của các sự kiện, hiện tượng cụ thể
và các mối quan hệ phức tạp của chúng. Nguyên lý này đòi hỏi sự quán triệt tính
hệ thống và toàn diện trong nghiên cứu các hiện tượng của thế giới.
- Nguyên lý về tính phát triển của thế giới chỉ ra rằng mọi sự vật, hiện
tượng đều vận động và biến đổi không ngừng và đều có xu hướng phát triển.
Nghiên cứu khoa học đòi hỏi phải xem xét các sự kiện trong trạng thái vận động
phát triển và biến đổi không ngừng của chúng.
+ Các cặp phạm trù nội dung và hình thức, cái chung và cái riêng, tất nhiên
và ngẫu nhiên, nguyên nhầ và kết quả…là cơ sở phương pháp luận cho việc
nghiên cứu tính toàn diện, chính xác, sâu sắc về các hiện tượng của thế giới.
+ Ba quy luật: đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập, quy luật
chuyển hóa từ những biến đổi về lượng thành những biến đổi về chất, quy luật
phủ định của phủ định chỉ đạo quá trình nghiên cứu theo quan điểm toàn diện,
phát triển của lsịch sử để tìm ra nguồn gốc, động lực, con đường và xu hướng
phát triển của thế giới.
Các nguyên lý, phạm trù, quy luật của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa
phương pháp luận cực kỳ quan trọng, chúng cần được vận dụng vào cả trong
nhận thức khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và hoạt động thực tiễn. Các nhà
khoa học chỉ có đứng trên lập trường duy vật biện chứng để nghiên cứu thế giới
mới có thể đạt tới chân lý khách quan.
2 – Quan điểm hệ thống cấut trúc trong nghiên cứ khoa học.
Quan điểm hệ thống cấu trúc là một luận điểm quan trọng của phương pháp
luận nhận thức. Để hiểu rõ và vận dụng đúng đắn quan điểm này ta cần xem xét
các khái niệm sau đây:
+ Hệ thống là tập hợp các thành tố tạo thành một chỉnh thể trọn vẹn, ổn
định và vận động theo quy luật tổng hợp.
Một hệ thống bao giờ cũng có một cấu trúc gồm nhiều thành tố, mỗi thành
tó lại có những cấu trúc nhỏ hơn. Như vậy hệ thống nhỏ bao giờ cũng nằm trong
một hệ thống lớn đó chính là môi trường, giữa hệ thống và môi trường có mối
quan hệ tác động hai chiều.
Mỗi thành tố của hệ thống là một bộ phận có vị trí độc lập, có chứng năng
riêng và luận vận động theo quy luật của toàn hệ thống. Các thành tố của hệ

47
thống có quan hệ biện chứng với nhau bằng quan hệ vật chất và quan hệ chức
năng.
Như vậy thành tố là một bộ phận của một hệ thống, có tính xác định về
chất, có chứng năng riêng. Các thành tố có mối quan hệ, tác động qua lại với
nhau tạo thành một thể thống nhất. Tính chỉnh thể là tính chất cơ bản nhất của
hệ thống bởi vì mỗi thành tố chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các thành tố khác
trong hệ thống chung.
Tính hệ thống là thuộc tính, quan trọng của thế giới và chính nó lại là một
trong số quan trọng để đánh giá trình độ phát triển của thế giới. Chính vì vậy,
nghiên cứu khoa học có nhiệm vụ quan trọng là phát hiện tính hệ thống của các
đối tượng.
Tính hệ thống có khía cạnh phương pháp luận và khía cạnh ứng dụng.
Nhận thức đầy đủ về chúng có ý nghía quan trọng đối với cả thực tiễn. Tính hệ
thống trước hết là công cụ phương pháp luận, bởi vì việc nghiên cứu đầy đủ các
thuộc tính và các quy luật có tính hệ thống là cơ sở để xã hội quy trình nhận thức
cho mọi đối tượng phức tạp. Tính hệ thống giá trịn thực tiễn vì nó đem lại giá
trịn thực sự, có thể vận dụng vào thực tiễn sản xuất, nghiên cứu khoa học, kỹ
thuật và quản lý xã hội.
Phương pháp hệ thống là con đường nghiên cứu các đối tượng phức tạp
trên cơ sở phân tích đối tượng thành các bộ phận để nghiên cứu một cách sâu
sắc, để tìm ra tính hệ thống, tính toàn diện của đối tượng. Phương pháp hệ thống
là công cụ phương pháp luận, nó giúp ta nghiên cứu các đối tượng phức tạp và
cho ta một sản phẩm khoa học có cấu trúc lôgíc chặt chẽ.
Quan điểm hệ thống cấu trúc là một luận điểm quan trọng của phương pháp
luận, nó yêu cầu phải xem xét các đối tượng một cách tonà diện nhiều mặt,
nhiều mối quan hệ, trong trạng thái vận động và phát triển, trong những điều
kiện hoàn cảnh cụ thể để tìm ra bản chất và các quy luật vận động của đối tượng.
Quan điểm này chỉ dẫn quá trình nghiên cứu các đối tượng phức tạp bằng
phương pháp hệ thống để tìm ra cấu trúc, phát hiện ra tính hệ thống theo quy
luật của cái toàn thể.
Bản chất của quan điểm hệ thống, cấu trúc có thể tập trung ở mấy điểm:
+ Nghiên cứu các đối tượng phức tạp phải xem hữu cơ của các thành tố
trong hệ thống để tìm ra quy luật phát triển nội tại của hệ thống.
+ Nghiên cứu đối tượng trong mối quan hệ với môi trường, thấy được mối
quan hệ chi pohois giữa đối tượng và môi trường, thấy được tính quy định của

48
môi trường và phát triển những điều kiện cần thiết cho sự phát triển thuận lợi
của đối tượng.
+ Kết quả nghiên cứu phải được trình bày rõ ràng khúc triết, tạo thành một
hệ thống chặt chẽ, có tính logíc cao.
Như vậy nghiên cứu khoa học theo quan điểm hệ thống – cấu trúc cho ta tri
thức đầy đủ toàn diện, khách quan về đối tượng, thấy được mối quan hệ của hệ
thống với các hiện tượng khác, từ đó mà thấy được cái triệt để, khách quan của
tri thức khoa học.
3- Quan điểm lịch sử lôgíc trong nghiên cứu khoa học
Quan điểm lịch sử lôgíc trong nghiên cứu khoa học là một luận điểm quan
trọng của phương pháp luận nghiên cứu khoa học.
Thực hiện quan điểm này một mặt cho phép ta nhìn thấy toàn bộ sự pott
của đối tượng nghiên cứu; sự xuất hiện quá trình diễn biến, phát triển và kết thúc
sự kiện. Giúp ta phát hiện các quy luật phát triển tất yếu của đối tượng, điềm mà
bất cứ hoạt động khoa học nào cũng hướng tới như một mục đích quan trọng
nhất.
Lịch sử là sự vận động có thực của các đối tượng trong thế giới khách
quan. Sự diễn biến lịch sử bao giờ cũng phức tạp, quanh co và đầy mâu thuẫn,
trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể nhất định. Lịch sử có những diễn biến
thành công và có cả những thất bại. Sự diễn biến lịch sử bao giờ cũng xuất phát
từ những nguyên nhân, từ nguyên nhân dẫn đến hệ quả. Điều kiện lịch sử thuận
lợi thúc đẩy nhanh quá trình phát triển của các sự kiện. Sự phát triển của lịch sử
là sự diễn biến khách quan.
Lôgíc là sự phản ánh quá trình phát triển của thực tiễn lịch sử vào ý thức
của con người. Lôgíc là cái tất yếu, là trật tự diễn biến, là con đường ngắn nhất
của sự phát triển lịch sử. Lôgíc là kết quả nhận thức của con người về sự diễn
biến có quy luật của đối tượng. Nghiên cứu khoa học về bản chất là những cố
gắng nhằm phát hiện ra cái lôgíc tất yếu ấy của hiện thực.
Quan điểm lịch sử - lôgic trong nghiên cứu khoa học yêu cầu phải nghiên
cứu đối tượng bằng phương pháp lịch sử. Phát hiện nguồn gốc nảy sinh, quá
trình diễn biến của đối tượng trong những thời gian. Phát hiện nguồn gốc nảy
sinh, quá trình diễn biến của đối tượng trong những thời gian, không gian với
những điều kiện hoàn cảnh cụ thể.

49
Lịch sử và lôgic tuy là hai phạm trù nhưng thống nhất với nhau. Ngiên cứu
khoa học đi từ cái lịch sử để phát hiện cái tất yếu của lịch sử, đó là cái lôgic
khách uqna của sự phát triển lịch sử đó.
Bảo đảm sự thống nhất giữa tính lịch sử và tính lôgic trong nghiên cứu
khoa học chính là tôn trọng lịch sử khách quan, là hiểu triệt để những điều kiện
có thật của mọi sự diễn biến của đối tượng nghiên cứu. Phải phát hiện ra các quy
luật phát triển chung của sự thật lịch sử. Điều đó nói lên ý nghĩa lý luận và ý
nghĩa thực tiễn của quan điểm lịch sử và lôgíc.
4 – Quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học
Quan điểm thực tiễn là luận điểm quan trọng của phương pháp luận, nó yêu
cầu nghiên cứu khoa học phải bám sát sự phát triển của thực tế sinh động.
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có tính chất lịch sử - xã hội
của con người làm biến đổi tự nhiên và xã hội. Diễn biến của hiện thực là diễn
biến khách quan, với những sự kiện đa dạng, phức tạp, phát triển nhiều khuynh
hướng, có những thực tiễn tiên tiến, có những thực tiễn yếu kém và có những
mâu thuẫn, những xu hướng chống đối nhau cần giải quyết, khắc phục.
Các sự kiện của thực tiễn là những gợi ý rất quan trọng cho những ý tưởng
của các đề tài khoa học. Nhu cầu giải quyết những mâu thuẫn của thực tiễn là
động lực thúc đẩy quá trình triển khai mọi hoạt động nghiên cứu khoa học.
Nghiên cứu khoa học thực chất là hướng vào khám phá các sự kiện, phát
hiện các quy luật phát triển của hiện thực. Những tri thức này có ý nghĩa to lớn
bởi vì nó hướng tới phục vụ trực tiếp cho cuộc sống của con người. Chính vì thế
mà mọi đề tài nghiên cứu khoa học phải có tính cấp thiết xuất phát từ thực tiễn
và phải có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn.
Mục đích của nghiên cứu khoa học suy cho cùng về thực chất là tìm ra
phương pháp tốt nhất để cải tạo thực tiễn phục vụ cho cuộc sống của con người.
Nghiên cứu khoa học luôn bám sát thực tiễn, coi thực tiễn là tiêu chuẩn để đánh
giá các sản phẩm khoa học. Khoa học là chân lý chỉ khi nào nó phù hợp với thực
tiến và có giá trị cải tạo thực tiến. Như vậy, thực tiễn vừa là nguồn gốc, vừa là
động lực, vừa là mục tiêu, vừa là tiêu chuẩn để đánh giá sản phẩm nghiên cứu
khoa học.
Quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học có ý nghĩa to lớn, quán
triệt quan điểm thực tiễn vừa có lợi cho khoa học, vừa có lợi cho thực tiễn. Công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra cho khoa học rất nhiều

50
vấn đề để nghiên cứu và ngược lại nghiên cứu khoa học phải nhằm vào giải
quyết những vấn đề của thực tiễn, phục vụ cho sự phát triển của nước ta.
III – CƠ CHẾ SÁNG TẠO KHOA HỌC (MECHANISM)
Nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học, thường
bắt đầu từ việc xuất hiện những ý tưởng về chủ đề, tiếp đến là những diễn biến
đặc biệt trong tư duy và cuối cùng dẫn đến phát minh. Một vấn đề quan trọng
được đặt ra là cơ chế sáng tạo khoa học nảy sinh và phát triển như thế nào trong
hoạt động tư duy của các nhà khoa học?
Phân tích quá trình phát minh của các nhà khoa học có tên tuổi trong lịch
sử khoa học thế giới và tổng kết các quá trình nghiên cứu sáng tạo trong thực
tiễn hiện đại, ta thấy có ba loại cơ chế sáng tạo sau đây:
1 – Cơ chế trực giác (Intuition)
Trong nghiên cứu khoa học, với các nhà bác học tài năng nhiều khi có các
ý tưởng độc đáo xuất hiện hết sức đột ngột, bỏ qua tất cả các bước, các thao tác
tư duy theo lôgíc thông thường và ngay tức khắc họ nhìn thấy rõ mọi điều cần
thiết. Trong trường hợp này bản thân các nhà khoa học không giải thích được vì
sao và từ đâu nó tới. Họ chỉ biết rằng ở thời điểm ấy ý tưởng xuất hiện như một
“tia chớp” họ rơi vào thời điểm “bừng sáng” nhìn rõ chân lý. Việc “bất ngờ”
xuất hiện một ý tưởng khoa học, một cách giải quyết vấn đề, mà các nhà khoa
học phải vật lộn nhiều năm chưa ra, đó là cái nhảy vọt của tư duy được gọi là
trực giác (hay còn gại là trực cảm).
Trong lịch sử phát minh khoa học có rất nhiều trường hợp như thế. Nhờ
trực giác, con người khám phá nhiều điều kỳ diệu, với những phát minh vĩ đại.
Niutơn phát hiện ra Định luật vạn vật hấp dẫn nhờ quan sát hiện tượng quả táo
rơi. Acsimet ngay trong bồn tắm phát hiện ra quy tắc tính lực đẩy của nước đối
với một vận nhấn chìm trong đó. Gaoxơ nhà toán học nổi tiếng tự thuật: “Việc
giải một bài toán mà toi loay hoay vài năm không xong, bỗng cuối cùng nó đã
đến… nhưng không phải bằng sự cố gắng vất vả… cách giải quyết bất ngờ như
một tia chớp…” (xem: Khái lực về lịch sử và lý luận phát triển khoa học. NXB
Khoa học Xã hội. Hà Nội 1975 tr.128).
Giải thích và đánh giá hiện tượng trực giác này có nhiều cách khác nhau.
Những người theo chủ nghĩa duy tâm, tuyệt đối hóa trực giác, họ khoa họcẳng
định tất cả các phát minh khoa học đều nhờ trực giác. Họ cho rằng trực giác là gì
đó phi lý tính, ngoài lôgíc, đó là sự thành công của cảm hứng, một món quà của
“Thượng đế”.

51
Các nhà khoa học duy vật cho rằng “món quà” này chính là kết quả lao
động không mệt mỏi của bản thân con người, là bước nhảy vọt của tư duy, đã
giải phóng sự kìm hãm của phương pháp cũ, xuất hiện năng lực trí tuyệ đặc biệt
và dẫn đến phát minh. Trực giác là kết quả của sự dồn nén trí tuệ và kiến thức, là
sự “bùng nổ” dựa trên nhiều thao tác tư duy đã phát triển ở nhiều trình độ khác
nhau.
Trực giác là sản phẩm của tài năng, là kết quả của sự tích lũy kiến thức,
đồng thời là kết quả của sự say mê, sự kiên trì lao động sáng tạo. Không có một
phát minh nào lại ngẫu nhiên nằm ngoài tâm hoạt động kiên trì với một định
hướng khoa học nghiêm túc.
2 – Cơ chế Algôrit (Algorithm)
Trong quá trình nghiên cứu khoa học, đặc biệt là trong sáng tạo kỹ thuật, có
thể đạt tới kết quả, khi tư duy của các nhà nghiên cứu tuân thủ các bước đi với
một nguyên tắc, một trật tự tạo thành chuỗi thao tác lôgíc hợp lý. Bản ghi chính
xác trật tự các bước đi để giải bài toán sáng tạo như thế được gọi là một Algôrit
sáng tạo (hay còn gọi là thuật toán).
Theo quan điểm này thì các phát minh khoa học Tự nhiên và kỹ thuật về
thực chất là phát hiện ra các algôrit sáng tạo. Khi ý thức được một bản ghi chính
xác các bước đi lôgíc của một loại công việc, thì cũng có nghĩa là sẽ thực hiện
thành công loại công việc đó.
Tư tưởng cơ bản của algôrit sáng tạo là: các hệ kỹ thuật hình thành và phát
triển không phải ngẫu nhiên, mà theo những quy tắc nhất định, ta có thể nhận
thức được các quy tắc ấy và sử dụng chúng một cách có ý thức, sẽ tránh được
những phép thử - sai một cách vô ích.
Cơ sở để giải quyết một bài toán sáng tạo ly quy luật biện chứng về sự phát
triển của các hệ kỹ thuật. Bài toán sáng tạo được giải bằng cách phân tích một
khối lượng lớn, có khi hàng nghìn các thông tin (Patent) về một giải pháp.
Algôrit giải các bài toán sáng tạo với hệ thống các quy tắc (các thuật chuẩn)
là các cơ chế chủ yếu để hoàn thiện các hệ kỹ thuật. Điều quan trọng là khó
thông tin luôn được bổ sung và chỉnh lý thường xuyên.
Việc giải quyết các bài toán sáng tạo được tiến hành không thể bằng các
phép thử - sai mà phải được tiến hành có kế hoạch. Người ta áp dụng các thuật
toán với những biến đổi đặc biệt bằng các thủ thuật chuyên môn để phá vớ sức ì
tâm lý của lối tư duy truyền thống và tạo nên quá trình tưởng tượng mới có tính
sáng tạo.

52
Nắm vững các quy tắc phát triển của các hệ kỹ thuật cho phép ta không chỉ
giải thích được các bài toán có sẵn, mà còn dự đoán được các khoa họcả năng
xuất hiện các bài toán mới. Các dự đoán này chính xác hơn nhiều so với những
dự đoán nhờ các phương pháp chủ quan. Giải các bài toán sáng tạo gắn liền với
sự phát triển của các hệ kỹ thuật.
Như vậy, các alôrit sáng tạo được chuyển thành lý thuyết phát triển của các
hệ kỹ thuật. Algôrit các công nghệ sáng tạo, một công nghệ quan trọng nhất
trong các công nghệ hiện đại.
3 – Cơ chế Ơristie (Heuristies)
Thông thường nghiên cứu khoa học bắt đầu từ việc phát hiện đề tài. Đề tài
là một vấn đề khoa học được hình thành do phát hiện các mâu thuẫn, các mặt
thiếu sót của lý thuyết hay thực tiễn nào đó. Các mâu thuẫn này không thể giải
quyết được bằng những điều đã biết, đặt các nhà khoa học vào một tình huống
phải nghiên cứu tìm tòi.
Trên cơ sở phân tích nhiều hiện tượng, sự kiện tương tự với hiện tượng mới
phát hiệu, người ta tìm thấy những điều giống nhau và những khác nhau của
chúng. Bằng những tri thức và kinh nghiệm đã có, bằng phép tương tự
(Anology) và trí tưởng tượng mà phỏng đoán bản chất hiện tượng, sự kiện vừa
phát hiện, tức là hình thành một giả thuyết khoa học (Hypothesis)
Từ giả thuyết khoa học, như là một dự báo định hướng, giúp ta tìm cách
chứng minh để khẳng định chính điều phỏng đoán ban đầu ấy. Vậy là quá trình
nghiên cứu khoa học được thực hiện bằng con đường đề xuất và chứng minh
một giả thuyết khoa học về một sự kiện, hiện tượng mới. Con đường sáng tạo
như thế được gọi là sáng tạo theo cơ chế Ơristic.
Vấn đề trung tam của cơ chế sáng tạo Ơristic là đề xuất giả thuyết khoa
học. Giả thuyết khoa học là một giả định, một dự đoán hết sức độc đáo về bản
chất đối tượng nghiên cứu. Để đề xuất một giả thuyết, nhà khoa học phải có
chuyên môn vững chắc, phải có kinh nghiệm hoạt động sáng tạo phong phú và
đặc biệt và phải có năng lực dự đoán.
IV. KỸ NĂNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bất cứ hoạt động nào, chủ thể hoạt động cũng phải là người thạo việc,
nghiên cứu khoa học là lao động đặc biệt lại càng đòi hỏi sự thành thạo ở mức
độ cao hơn. Sự thành thạo trong nghiên cứu khoa học chính là sự nắm vững các
kỹ năng nghiên cứu.

53
Nghiên cứu khoa học ngoài việc đòi hỏi các nhà khoa học phải có một năng
lực đặc biệt, một uyên bác về kiến trúc, sắc sảo và nhậy cảm trong tư duy, còn
đòi hỏi các nhà phải có một quan điểm tiếp cận đối tượng, có một chiến lược nv
đúng đắn, nắm vững các quy trình lôgic khách quan và sự thành thạo trong sử
dụng các phương tiện kỹ thuật để thu thập, xử lý thông tin và các trình bày các
kết quả nghiên cứu, nghĩa là phải có kỹ năng nghiên cứu. Kỹ năng nghiên cứu
khoa học là khả năng thực hiện thành công các công trình khoa học trên cơ sở
nắm vững các quan điểm phương pháp luận, sử dụng thành thạo phương pháp
và kỹ thuật nghiên cứu.
Kỹ thuật nghiên cứu khoa học bao gồm một tổ chức các cách thức các con
đường nghiên cứu, với nhiều mức độ phức tạp, mà nhà khoa học phải thực hiện
thành thạo. Hệ thống kỹ năng này có thể phân thành ba nhóm sau đây:
Nhóm thứ nhất: Nhóm kỹ năng nắm vững lý luận khoa học và phương
pháp luận nghiên cứu. Ở nhóm này các kỹ năng các kỹ thuật nghiên cứu thể hiện
bắt đầu từ phát hiện đề tài, xây dựng chiến lược và chiến thuật nghiên cứu. Xác
định các cách tiếp cận đối tượng, các quan điểm giải quyết vấn đề, lập đề cương,
xây dựng giả thuyết, tìm lôgic mới, tạo hệ thống mới.
Nhóm thứ hai: Nhóm kỹ thuật sử dụng thành thạo các phương tiện nghiên
cứu cụ thể. Các nhà khoa học phải nắm vững các phương pháp nghiên cứu trong
phạm vi chuyển môn và biết sử dụng chúng một cách hợp lý vào đề tài của
mình. Phương pháp nghiên cứu khoa học là phạm trù phức tạp, nó gao gồm
nhiều thao tác, đơn giản nhất như tìm tư liệu, đến những phương pháp phức tạp
hơn là tác động vào đối tượng thực.
Nhóm thứ ba: Nhóm kỹ năng sử dụng kỹ thuật nghiên cứu, đó là việc các
nhà khoa học phải thành thạo trong việc sử dụng các phương tiện, công cụ kỹ
thuật để thu thập, xử lý và trình bày thông tin khoa học. Việc thu thập thông tin
có thể bằng kỹ thuật quan sát, điều tra, bằng sử dụng các thiết bị máy móc hay
tra cứu các tài liệu lưu trữ… Xử lý thông tin có thể bằng thống kê toán học, có
thể bằng máy vi tính… trình bày thông tin phải đảm bảo đúng các yêu cầu kỹ
thuật, các sơ đồ, biểu đồ chính xác… Nghĩa là trong nghiên cứu khoa học kỹ
thuật cũng cần phải thành thạo.
Tóm lại: kỹ năng nghiên cứu là một hệ thống phức tạp, nhiều thành phần.
Các kỹ năng là điều kiện thiết yếu để thực hiện thành công các công trình nghiên
cứu khoa học.

54
Chương IV
NỘI DUNG CỦA NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Dù nghiên cứu khoa học thuộc lĩnh vực nào (khoa học tự nhiên, khoa học
kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn,v.v…), thì suy cho cùng
trong nghiên cứu khoa học cũng đều phải thực hiện một trình tự thao tác sau:
thiết lập và quan sát sự kiện, phát hiện vấn đề nghiên cứu, xây dựng khái niệm,
đặt giả thuyết nghiên cứu và kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu.
I. THIẾT LẬP SỰ KIỆN
Vai trò của sự kiện trong nghiên cứu khoa học rất quan trọng. Sự kiện tồn
tại ngay trong tự nhiên và trong đời sống xã hội. Người nghiên cứu thu thập sự
kiện nhừ quan sát, trong hàng loạt trường hợp, người nghiên cứu phải chủ động
là để quan sát. Quan sát đóng một vai trò để xây dựng khái niệm; quan sát để đặt
giả thuyết, và quan sát để kiểm chứng giả thuyết.
II. PHÁT HIỆN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Vấn đề nghiên cứu là những điều chưa biết, hoặc chưa biết thấu đáo về bản
chất sự vật hoặc hiện tượng, cần được là sáng rõ trong quá trình nghiên cứu.
Khi nói đến nghiên cứu khoa học là sự tìn tòi nhằm khám phá quy luật bản
chất của sự vật hoặc hiện tượng, hoặc sáng tạo những giải pháp mới cho mục
đích cải tạo thế goới, thì cũng có nghĩa, nghiên cứu khoa học, trong mọi trường
hợp đều nhằm vào những điều chưa biết (một quy luật chưa biết được khám phá,
một giải pháp chưa được sáng tạo, một hình mẫu chưa được kiểm chứng). Vì
vậy, vấn đề nghiên cứu là một câu hỏi cần được giải đáp trong nghiên cứu. Khi
phát hiện được vấn đề ở người nghiên cứu tất yếu sẽ nảy sinh hàng loạt ý tưởng
giải quyết. Ý tưởng đó được gọi là ý tưởng nghiên cứu, hoặc còn gọi là ý tưởng
khoa học. Đây chính là cơ sở ban đầu đi đến những giả thuyết nghiên cứu.
Con đường hình thành ý tưởng nghiên cứu: Cuối cùng, vấn đề được đặt ra
về mặt phương pháp luận là làm thế nào phát hiện được những vấn đề nghiên
cứu để đến được ý tưởng nghiên cứu? Đối với người nghiên cứu đã có một bề
dày kinh nghiệm, thì rất có thể luôn có những ý tửng nv thường trực trong đầu.
Tuy nhiên, đối với những người nghiên cứu mới bước chân vào con đường
nghiên cứu, thì cách thức hình thành ý tưởng nghiên cứu là một vấn đề đáng
được quan tâm. Đại thể có thể có những con con đường dau đây dẫn đến ý tưởng
nghiên cứu:

55
+ Phát hiện những kẻ hở trong khoa học: Loại ý tưởng này xuất hiện khi
người nghiên cứu bất chợt nhận ra chỗ yếu hoặc những nội dung chưa được giải
quyết trọn vẹn về mặt khoa học trong các tài liệu khoa học trong quá trình viết
nhận xét phản biên cho một công trình khoa học của đồng nghiệp.
+ Nhận dạng những bất đồng trong tranh luận khoa học: Loại ý tưởng này
xuất hiện trong khi tham dự những hội nghị khoa học. Do sự vận động của bộ
não mà trong đầu người nghiên cứu nảy ra những suy luận liên tục trước những
ý kiến tranh luận, những nhận xét phản biện, dẫn đến những ý tưởng hoàn toàn
mới lạ mang bản sắc riêng biệt của mình.
+ Nghĩ ngược lại những quan điểm thông thường: Loại ý tưởng này xuất
hiện tương tự như khi hình thành khách ngồi trên xe chạy với tốc độ nhanh có
cảm giác như mọi vật đều chạy ngược lại hướng xe chuyển động. Về mặt logic
học, đây là sự tìm kiếm môt khái niệm đối lập với khái niệm đang tồn tại, nghĩa
là, đi tìm kiếm một cách phân đôi khái niệm. Dự hình thành nàyvề mọi sự vật
dẫn đến những ý tưởng nghiên cứu thường rất độc đáo cả trong khoa học tự
nhiên, khoa học kỹ thuật và trong khoa học xã hội.
+ Sự nhận dạng những vướng mắc trong hoạt động kinh tế: Nhiều khó khăn
nảy sinh trong hoạt động sản xuất, hoạt động xã hội, không thể sử dụng những
biện pháo thông thường để xử lý. Thực tế này đã đặt trước người nghiên cứu
những câu hổi phải trả lời (xuất hiện vấn đề nghiên cứu), đòi hỏi người nghiên
cứu phải đề xuất những giải pháp mới xuất phát từ việc nghiên cứu tận gốc rễ
những quy luật của sự vật hiện tượng.
+ Sự kêu ca phàn nàn của người không am hiểu: Đôi khi nhiều ý tưởng
nghiên cứu được xuất hiện nhờ sự bắt gặp những lời phàn nàn của những những
người không am hiểu trong lĩnh vực mà người nghiên cứu quan tâm. Khi người
nghiên cứu đã thai nghén những ý tưởng sáng tạo khác nhau, sự bắt gặp nguồn
này đôi khi đưa đến những ý tưởng nghiên cứu sáng tạo bất ngờ.
+ Những ý tưởng khoa học bất chợt xuất hiện: Đây là những ý tưởng khoa
học xuất hiện một cách ngẫu nhiên trong đầu người nghiên cứu không phục
thuộc bất cứ lý do, thời gian hoặc không gian nào.
Điều này cuối cùng đối với người nghiên cứu là:
1) Các ý tưởng khoa học thường xuyên xuất hiện rất nhanh, đôi khi chỉ như
một ý nghĩ thoảng qua trong tư duy về một vấn đề khác. Vì vậy, người nghiên
cứu cần ghi lại ngay vì bộ nhớ sinh học sẽ xóa nhòa đi rất nhanh mọi thông tin
quý giá đó nếu như nó không được giao nhiệm vụ tiếp tục xử lý.

56
2) Ý tưởng nghiên cứu như mang một ý nghĩa thực tế đối với khoa học. Nó
phải được người nghiên cứu tiếp tục phát triển tư duy để nâng lên đến một trình
độ cao hơn. Đó là giả thuyết nghiên cứu.
III- XÂY DỰNG KHÁI NIỆM
Xây dựng khái niệm là công việc đầu tiên của người nghiên cứu, bởi vì
không có sự thống nhất khái niệm thì không thể có ngôn ngữ chung trong tranh
luận khoa học. Trong bất cứ nghiên cứu nào, người nghiên cứu cũng cần phải
chuẩn hóa nhỡng khái niệm vốn đã được sử dụng trong các lĩnh vực khác, thống
nhất hóa những khái niệm được hiểu biết khác nhau trong các lĩnh vực khác
nhau và phải xây dựng những khái niệm hòan toàn mới để đáp ứng cho sự đòi
hỏi của nhiệm vụ nghiên cứu mới.
1. Khái niệm là gì ?
Khái niệm là một hình thức tư duy phản ánh những thuộc tính bản chất và
chúng của một nhóm sự vật trong thế giới quan.
Khái niệm là kết quả của quá trình trừu tượng hóa và khái quát hóa một
nhóm vật trong thế thời khách quan.
Trừu tượng hóa là một phương pháp của tư duy, trong đó chúng ta tách một
mặt riêng lẻ của sự vật ra khỏi những mặt khác, nhằm nhận thức sâu sắc từng
mặt riêng lẻ, trên cơ sở đó tư duy của chúng ta phân tích, so sánh, lựa chọn để
phát hiện ra được mặt của bản chất sự vật hiện tượng.
Nhưng tư duy của con người không dừng lại ở trừu tượng hóa. Sau khi phát
hiện ra được những thuộc tính bản chất của sự vật, tư duy con người có xu
hướng nhìn ra xung quanh xem còn có những sự vật nào nữa cũng có những
thuộc tính bản chất mà ta phát hiện được ở sự vật có chung thuộc tính bản chất.
Đó là sự khái quát của quá trình trừu tượng hóa và khái quát hóa đợpc ghi lại
dưới hình thức khái niệm. Như vậy, khái niệm là sự phản ánh trong nhận thức
cái chung và cái bản chất của một nhóm sự vật mà ta nhận được sau khi trừu
tượng hóa và khái quát hòa tài liệu do thực tiễn cung cấp. Chính vì vậy, khái
niệm là sản phẩm cao nhất của bộ óc con người.
2- Khái niệm và từ
Mỗi khái niệm được biểu hiện dưới ngôn ngữ bằng một cụm từ (tên gọi).
Cần chú ý rằng tên gọi là cái chủ quan và người ta quy ước với nhau. Còn nội
dung của khái niệm là cái khách quan. Nội dung đó của sự vật khách quan quy
định. Nội dung đó không phụ thuộc vào ý muốn của chủ quan. Đó là nội dung

57
khách quan vốn có của sự vật.Chính vì vậy, tên gọi có thể thay đổi, nhưng
không vì thế mà nội dung của khái niệm phải thay đổi theo.
3- Nội hàm và ngoại diên của khái niệm.
Khái niệm gồm 2 bộ phận chính là: Nội hàm và ngoại diên.
Nội hàm: Nội hàm của khái niệm là những hiểu biết về toàn thể thuộc tính
bản chất của sự vật được phản ánh trong khái niệm.
Ngoại diên: Ngoại diên của khái niệm là toàn thể những sự vật có chứa các
thuộc tính bản chất được phản ánh trong khái niệm.
Giữa nội hàm và ngoại diên có quan hệ tỷ lệ nghịch: khi mở rộng ngoại
diên của khái niệm thì những dấu hiệu đặc trưng trong nội hàm của khái niệm bị
thu hẹp và ngược lại, khi thu hẹp ngoại diên của khái niệm thì nội hàm khái
niệm được mở rộng ra.
Thí dụ, khi mở rộng ngoại diện của khái niệm la “bông hoa” ta có hoa
hồng, hoa huệ, hoa lan,v.v… Nhưng nếu ta thu hẹp ngoại diên của khái niệm chỉ
là “hoa hồng” thì ta có hồng nhung, hồng bạch, hồng vàng…
4- Phương pháp định nghĩa một khái niệm:
Công việc của nghiên cứu khoa học buộc người nghiên cứu phải định nghĩa
các kinh nghiệm.
Có nhiều hình thức định nghĩa khái niệm khoa học:
1- Lôgíc hình thức đặc biệt chú ý đến phương pháp định nghĩa một khái
niệm bằng cách quy vào một khái niệm có ngoai diên rộng hơn.
Ví dụ, trong định nghĩa “triết học khoa học về quy luật chung nhất của thế
giới và sự nhận thức thế giới” ta có thể thấy: “triết học” – sự vật cần định nghĩa;
“khoa học” – sự vật gắn bó và có ngoại diên rộng hơn; : quy luật chung nhất” –
nội hàm của sự vật cần định nghĩa.
Tuy nhiên, phương pháp này là vạn năng, bời vì, phương pháp này không
thể sử dụng được khi ta định nghĩa những khái niệm mà không có các khái niệm
khác có ngoại diên rộng hơn. Thí dụ khi định nghĩa các khái niệm phạm trù.
Chẳng hạn như khi ta định nghĩa khái niệm về phạm trù vật chất. Phương pháp
định nghĩa phạm trù vật chất của Lênin là một đóng góp cho khoa học lôgic.
2- Định nghĩa phát sinh là loại định nghĩa trình bày nguồn gốc hình thành
đối tượng. Thí dụ: “Đường tròn là đường cong khép kín được tạo nên bởi điểm
A quay quanh điểm O với khoảng cách không đổi”.

58
3- Định nghĩa mô tả là loại hình định nghĩa làm rõ đối tượng bằng cách liệt
kê các ngoại diên của khái niệm. Thí dụ: “Người thừa kế là những người có
quan hệ hôn nhân hay huyết thống với chủ tài sản, như cha mẹ, vợ chồng, con
cái, anh em ruột…”
Tài sử dụng, phương pháp định nghĩa khái niệm trên, cần chú ý đến các
quy tắc sau đây:
Quy tắc 1: Định nghĩa phải cân đối. Điều đó có nghĩa là ngoại dien của
khái niệm được định nghĩa phải cân đối với ngoại diên của khái niệm để dùng
định nghĩa.
Quy tắc 2: Trong định nghĩa không được nói vòng quanh.
Quy tắc 3: Trong định nghĩa phải chỉ ra những thuộc tính bản chất của đối
tượng dưới hình thức khẳng đinhk.
Thí dụ: Nếu ta định nghĩa: “Lôgic học là khoa học về tư duy”. Đây là một
định nghĩa không cân đối, quá rộng. bởi vị ngoại diên của khái niệm “khoa học
về tư duy” quá rộng so với khái niệm lôgic học.
Nếu ta định nghĩa: “Lôgic học là khoa học về từ duy đúng đắn”, thì một
câu hỏi đặt ra là : “Tư duy đúng đắn là gì?”. Nếu câu trả lời là: “Tư duy đúng
đắn là sự tư duy tuân theo những quy tắ của logic học”. Thì đây là một định
nghĩa nói vòng quanh, ở đây không làm rõ được nội hàm của khái niệm cần
được định nghĩa.
ĐẶT GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU
I- Khái niệm về giả thuyết nghiên cứu
Cũng như việc xây dựng khái niệm, đặt giả thuyết và kiểm chứng giả
thuyết là công việc thiết yếu số một của nghiên cứu khoa học. Thiết những thao
tsac lôgic này thì không co nghiên cứu khoa học. “Giả thuyết là khởi điểm của
mọi nv khoa học, không có khoa học nào mà lại không có giả thuyết”*.
Một giả thuyết có thể được đặt ra phù hợp với quy luật vận động của sự
vật hoặc hiện tượng, song rất có khả năng là giả thuyết được đặt ra không phù
hợp và bị bác bỏ hoàn toàn sau một quá trình nghiên cứu, nhưng đối với nghiên
cứu khoa học, “có một giả thuyết sai còn hơn không có một giả thuyết nào cả”**.
II- Đặc trưng khoa học các giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu là một kết luận giả định về bản chất của sự vật hiện
tượng mang tính chất định hướng, cần được tiếp tục kiểm chứng. Giả thuyết
không phải chỉ là một mềnh đề đơn giản, mà đồng thời còn là một chân lý, một

59
luận điểm – chân lý được kiểm chứng các sự kiện và luận cứ, và như vậy, giả
thuyết sẽ phải được kiểm chứng”.
Tuy nhiên, một giả thuyết nghiên cứu chỉ có thể mang tính khoa học khi
hội đủ những điều kiện sau:
+ Giả thuyết phải được xây dựng trên cơ sở các sự kiện được quan sát. Nói
như Claude Berarde, giả thuyết phải có điểm tựa trong tự nhiên.
+ Giả thuyết không được trái với những lý thuyết đã được xác nhận tính
đúng đắn về mặt khoa học. Đương nhiên điều này đôi khi lại có thể trở thành
một bi kịch cho khoa học nếu có những quan niệm bị ngộ nhận là đã được xác
nhận về mặt khoa học. Không có cách nào khắc phục khó khăn này tốt hơn là sự
nhẫn nại, tập trung mọi nỗ lực nghiên cứu đế chứng minh giả thuyết một cách
đầy đủ luận cứ khoa học.
+ Giả thuyết được kiểm chứng bằng lý thuyết hay bằng thực nghiệm. Tuy
nhiên không phải giả thuyết nào cũng có thể chứng minh hoặc bị bác bỏ ngay
trong thời đại của nó.
III- Quan hệ giả thuyết nghiên cứu và phán đoán và suy luận lôgic
Về mặt lôgic học, giả thuyết được trình bày dưới dạng một phán đoán khoa
học. Vì vậy, để có thể đạt được giả thuyết một cách đúng đắn, người nghiên cứu
cần nắm vững những kiến thức lôgic học phán đoán. Phán đoán là một thao tác
lôgic nhờ đó người ta nối liền các khái niệm khẳng định khái niệm này là hoặc
không phải là khái niệm kia.
3.1- Phán đoán
a) Phán đoán đơn
Phán đoán là một hình thức của tư duy nhằm khẳng định hay phủ định một
thuộc tính nào đó của sự vật hay hiện tượng trong thế giới khách quan.
Lôgic hình thức phân chia phán đoán đơn thành 4 loại sau:
+ Phán đoán khẳng định toàn thể, có hình thức lôgic là: Mọi S và P.
+ Phán đoán khẳng định một bộ phận, có hình thức lôgic là: Một số S là P.
+ Phán đoán phủ định toàn thể, có hình thức lôgic là: Không S nào là P.
+ Phán đoán phủ định một bộ phận, có hình thức lôgic là : Một số D không
là P.

60
Người ta quy ước lấy chữ cái A và I để chỉ các phán đoán khẳng định toàn
thể và khẳng định bộ phận, lấy chữ cái E và O để chỉ các phán đoán phủ định
toàn thể và phủ định bộ phận:
A = mọi S là P; I = Một số S là P; E = Không S nào là P; O = Một số S
không là P.
Mối quan hệ các phán đoán trên được biểu diễn trên hình như sau:
Từ sơ đồ trên ta thấy quan hệ giữa A với I (cũng như E với O) như sau:
A đ s s
I đ ? s
Tương tự ta suy ra các quan hệ khác giữa A và E; I và O; A và O; E và I.
b) Phán đoán phức
Trong phần này ta nghiên cứu việc kết hợp các phán đoán đờn thành phán
đoán phức. Ta ký hiệu các phán đoán bằng các chữ cái A,B,C,… Mỗi phán đoán
đơn này có giá trị lôgic hoặc là đúng, hoặc lài sai. Các phán đoán phức có giá trị
lôgic đúng hay sai phụ thuộc vào các giá trị của các phán đoán thành phần.
Lôgic hình thức nghiên cứu các phán đoán sau:
a) A ∧ B (đọc là : A và B) được định nghĩa như hình (hình 1):
b) A ∨ B (đọc là: A hoặc B) được định nghĩa như sau (hình 2):
A B A∧B A B A∨B
đ đ đ đ đ đ
đ s s đ s đ
s đ s s đ đ
s s s s s s
Hình 1 Hình 2

c) A ∨ B (đọc là: A hoặc B) được định nghĩa như sau (Hình 3):
d) A → B (đọc là: nếu A thì B) được định nghĩa như sau (Hình 4):
A B A∨B A B A→B
đ đ s đ đ đ
đ s đ đ s s
s đ đ s đ s
s s s s s đ
e) Điều kiện cần và đủ:
Chúng ta nghiên cứu một số định nghĩa sau:

61
- Định nghĩa 1: A gọi là Điều kiện cần của B
Có định nghĩa là, nếu không có A thì không có B ( A → B ).
- Định nghĩa 2: A gọi là Điều kiện đủ của B, có nghĩa là nếu có A thì tất
yếu của B (A → B).
- Định nghĩa 3: A gọi là Điều kiện cần nhưng không đủ của B, có nghĩa là,
nếu không có A thì không có B, những nếu có A thì chưa hẳn đã có B.
Thí dụ: Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng.
A B A→B B→A A→B A (B → A)
đ đ đ đ đ
đ s s đ s
s đ đ s s
s s đ đ đ
Biểu thức (A → B) A (B → A) được ký hiệu là A⇔B, cho nên ta có bảng
định nghĩa sau:
A B A⇔B Chú ý: A⇔B có thể đọc là:
đ đ đ + A là điều kiện cần và đủ của B
đ s s + B là điều kiện cần và đủ của A
s đ s + Có A khi và chỉ khi có B
s s đ + Có B khi và chỉ khi có A

Trong thực tế, điều kiện cần và đủ của một hiện tượng A nào đó thường tập
hợp của một số điều kiện : A ⇔ (B1, B2, B3, Bn)
Trong đó mỗi điều kiện B1, B2, B3, Bn chỉ mới là điều kiện cần nhưng
không đủ của A.
Nghiên cứu định nghĩa trên nhằm đáp ứng tư duy phân biệt được trong thực
tế, cáci nào là điều kiện cần và đủ; cái nào mới chỉ là điều kiện cần nhưng chưa
đủ ; hay đủ nhưng không cần. Điều đó giúp tư duy được chính xác, chặt chẽ, góp
phần giúp tư duy nhận thức chân lý.
c) Các quy luật lôgic

62
Để đảm bảo tính chính xác của các suy luận ta còn phải tuân thủ các quy
luật tư duy sau đây:
+ Luật đồng nhất: Trong suốt quá trình tư duy không được tự ý thay đổi nội
hàm và ngoại diên của khái niệm, nói cách khác không được tự ý thay đổi đối
tượng tư duy. Trong một công trình khoa học đối tượng nghiên cứu phải nắm
vững trong suốt quá trình, vi phạm điều này làm cho đề tài sẽ trở thành hỗn loạn,
phức tạp không bao giờ đạt tới mục đích đã đề ra.
+ Luật mưu thuẩn: Nếu có hai phán đoán mưu thuẩn nhau thì không thể cả
hai điều đúng. Luật này liên quan tới hai cặp phán đoán: A-E và O-I.
+ Luật bài trung: Nếu hai phán đoán phủ định nhau thì nhất thiết có một
trong hai phán đoán đó là đúng, phán đoán còn lại là sai, không thể có trường
hợp thứ ba nào khác. Luật này có liên quan tới hai cặp phán đoán : O-A và E-I.
+ Luật lý do đầy đủ: Để rút ra kết luận khoa học, quá trình suy luận phải
dựa vào các căn cứ xác đáng, với số lượng cần và đủ. Nói cách khác suy luận
khoa học không được kết luận vội vàng thiếu các lý do xác thực.
Nghiên cứu khoa học là quá trình tư duy các quy tắc và quy luật của tư suy
lôgic. Không nắm vững quy tắc mà dẫn đến các kết luận sai lầm đó là ngộ nhận,
cố tình vi phạm các quy tắc suy luận sẽ trở thành ngụy biện khoa học. Cả hai
đều rất có hại cho khoa học, vì điều đó không bao giờ đưa khoa học tới chân lý.
3.2- Suy luận
Suy luận là một hình thức tư duy nhằm rút ra một phán đoán mới (gọi là kết
luận) từ những phán đoán đã so (gọi là những tiền đề).
Có thể chia suy luận ra thành nhiều loại: Suy luận diễn dịch (gọi tắt là suy
diễn) và suy luận quy nạp (gọi tắt là quy nạp).
1. Suy diễn: Người ta thường hiểu suy diễn là loại suy lý đi từ những tri
thức về cái chung đến những tri thức về cái riêng. Đặc trưng của suy diễn là ở
chỗ: Trong suy diễn cái chúng ta dựa vào những quy tắc lôgic, mà ta gọi những
quy tắc suy diễn. Ở đây, tư suy tuân theo các quy tắc suy diễn, và nếu như tất cả
các tiền đề đều là những phán đoán chân thực thì kết luận được rút ra nhất đinh
là chân thực.
Như vậy, muốn cho kết luận chân thực thì phải đảm bảo hai điều kiện. Thứ
nhất là các tiền đề phải chân thực. Thứ hai là phải tuân theo các quy tắc suy
diễn. Hai đk đó là hai điều kiện cần và đủ cho kết luận của suy diễn là chân thực.

63
Lôgic là hình thức nghiên cứu một hệ thống những quy tắc suy diễn, mà tư
duy cần phải tuân theo. Đó là:
+ Quy tắc kết luận:
A→B A→B
A (1) B (2)
B A

Ở đay A gọi là cơ sở; B gọi là hệ quả.


Tư duy chỉ chính xác khi:
- Đi từ khẳng định cơ sở đến khẳng định hệ quả.
- Đi từ phủ định hệ quả đến phủ định cơ sở.
Các quy tắc (1) và (2) ở trên là những tất yếu lôgic.
Trong thực tế, tư duy thường mắc phải những sai lầm sau đây:
A→B A→B
B A

A B

+ Quy tắc bán cầu:


A→B
B→C

A→C
+ Quy tắc lựa chọn:
AVB AVB
A A
B B

Tương tự ta có thể mở rộng: A V B V C


A A B
C
Ở đây cần chú ý rằng: A V B không phải là tất yếu của lôgic.
B
Nhưng A V B lại là một tất yếu của lôgic.
B

64
+ Một nội dung rất quan trọng của suy diễn mà lôgic hình thức nghiên cứu,
đó là Tam đoạn luận. Nội dung của nguyên tắc này như sau:
Mọi M là P
Mọi S là M
Mọi S là P
Trong đó S,M,P là 3 thuật ngữ; M là thuật ngữ trung gian. Đây là một sơ đồ
lôgic, một quy tắc lôgic được biểu diễn như sau:
Thí dụ: Mọi kim loại đều dẫn điện.
P
Vật này là kim loại.
M
Vật này dẫn điện. S
Nhưng nếu ta lập luận: Mọi kim loại dẫn điện.
Vật này dẫn điện.
Vật này là kim loại.
Thì lại không logic và có thể dẫn đến kết luận sai lầm. Bởi vì, ta đã lập luận
theo sơ đồ:
Mọi P là M
S là M
S là P
Mà sơ đồ này không phải là tất yếu logic.
Ta có thể minh họa lập luận trên bằng hình vẽ sau:

M
M
P
P
S S

2. Quy nạp
Quy nạp là lọai suy lý từ những tri thức về các hiện tượng đơn lẻ, từ những
kinh nghiệm riêng lẻ, đến sự khái quát những nguyên lý chung.

65
Có thể chia quy nạp thành: Quy nạp không hoàn toàn và Quy nạp hoàn
toàn.
a) Quy nạp hoàn toàn
a có t.
a*
b có t.
c có t. b*
S c*
d có t. d*
Mọi S có t
Đây là loại quy nạp mà trong các tiêu đề người ta đã nêu được tri thức về
tất cả các đối tượng riêng lẻ của lớp đối tượng mà người ta đang xem xét. Tập
hợp S có các phần tử a,b,c,d. Người ta đã phát hiện ra rằng, mỗi phần tử của tập
hợp S đều có thuộc tính t. Từ đó người ta đã khái quát thành nguyên lý chung.
Với phương pháp tư duy này, kết luận của quy nạp là hoàn toàn đáng tin cậy.
Tuy nhiên, phạm vi áp dụng của loại quy nạp này là rất hạn chế. Nó chỉ được áp
dụng với những nhóm sự vật hay hiện tượng mà số lượng đối tượng là có hạn.
Trong khi đó thực tế đã đặt ra yêu cầu phải nhận thức, phải khái quát những lớp
hiện tượng mà số hiện tượng lại nhiều vô kể, khiến người ta không thể áp dụng
phương pháp quy nạp hoàn toàn, mà phải áp dụng phương pháp quy nạp không
hoàn toàn.
b) Quy nạp không hoàn toàn.
a có t.
b có t. a*
c có t.
b*
d có t. S c*
d*

Mọi S có t
Trong đó, tập hợp S có vô số các hiện tượng riêng lẻ a,b,c,d,…
Qua nghiên cứu chúng ta thấy rằng, một số đối tượng của lớp S có được
thuộc tính t và ta cũng chưa thấy và chưa phát hiện ra được một đối tượng nào
của lớp S lại không có thuộc tính t. Từ đó ta đưa ra kết luận khái quát: mọi S có
t.

66
Rõ ràng kết luận ở đây chưa đảm bảo chắc chắn. Bởi vì, chỉ cần phát hiện
ra một đối tượng của lớp S không mang thuộc tính t thì kết luận sẽ bị bác bỏ.
Kết luận càng đáng tin cậy khi số đối tượng của lớp S được nghiên cứu tăng.
Chính vì vậy, kết luận đó chưa thể có giá trị khoa học. Nó chỉ mới gợi mở cho ta
hướng phát hiện ra cái chung.
Suy diễn và quy nạp là 2 phương pháp khác nhau, nhưng lại gắn liền với
nhau và quy định lẫn cho nhau trong quá trình nhận thức. Thử hỏi cái chung mà
suy diễn dùng làm điểm xuất phát, lấy ở đâu ra? Rõ ràng cái chung đó là kết quả
của quá trình quy nạp. Điều đó có nghĩa là suy diễn phải dựa vào quy nạp. Tuy
nhiên, như ta đã biết, quy nạp có trường hợp không thể tự chứng minh được kết
luận của mình. Chúng ta không thể dừng lại ở kết luận của quy nạp, mà phải giải
thích kết luận đó để vạch ra được tính quy nạp của kết luận đó. Chính suy diễn
đã tham gia vào giải thích kết luận của quy nạp.
3.3. Chứng minh và bác bỏ giả thuyết:
Trong thực tế, để giải thích một sự kiện mới, người ta đưa ra không phải
chỉ có một, mà có thể đưa ra nhiều giả thuyết. Những giả thuyết này về sau hoặc
là được bác bỏ, hoặc là được xác nhận, được chứng minh và trở thành những tri
thức mới. Giả thuyết là một khâu tất yếu trong quá trình tìm tòi tri thức mới.
Một giả thuyết nghiên cứu cần phải được kiểm chứng bằng lý thuyết, quan sát
hoặc thực nghiệm. Nội dung kiểm chứng bao giờ cũng dẫn đến một trong hai
trường hợp sau:
+ Chứng minh tính chân xác, tính đúng đắn của giả thuyết, hoặc
+ bác bỏ tính phi chân xác của một giả thuyết.
Về mặt logic học, chứng minh hoặc bác bỏ là những hình thức của suy
luận.
a) Bác bỏ giả thuyết.
Sự bác bỏ giả thuyết được thực hiện bằng cách phát hiện ra các sự kiện
mâu thuẫn với hệ quả rút ra từ giả thuyết. Nếu thực tế bác bỏ hệ quả của giả
thuyết, thì điều đó cũng có nghĩa là giả thuyết bị bác bỏ.
G → h. ở đây G là giả thuyết.
h H là hệ quả của giả thuyết
G
b) Chứng minh giả thuyết.

67
Việc chứng minh giả thuyết thường được diễn ra rất phức tạp.
Nếu như hệ quả của giả thuyết được xác nhận, được chứng minh, thì điều
đó chưa có nghĩa là giả thuyết được chứng minh. Bởi vì, sơ đồ:
G → h.
h
G Không là tất yếu logic
Như vậy, nếu như mối quan hệ giữa giả thuyết G và hệ quả h của nó mới
chỉ là G → h; thì việc h được xác nhận, chưa đủ để xác nhận G.
Giả thuyết G chỉ được xác nhận, chỉ được chứng minh khi mối quan hệ
giữa G và h được xác lập là G ⇔ h (h là điều kiện cần và đủ của G), và h đã
được thực tế xác nhận. Bởi vì sơ đồ:
G ⇔h
h
G là tất yếu logic
Trong thực tế, việc xác nhận G diễn ra rất phức tạp. Để chứng minh giả
thuyết G, người ta thường tìm cách rút ra từ giả thuyết G, không phải chỉ là một
hệ quả, mà là một số hệ quả, trong đó tập hợp các hệ quả này là điều kiện cần và
đủ của giả thuyết G. G ⇔ (h1,h2,h3,…). Và nếu tất cả các hệ quả h1,h2,h3,… đã
được xác nhận, thì điều đó cũng có nghĩa là giả thuyết G được chứng minh, Bởi
vì: G ⇔ (h1,h2,h3,…)
(h1, h2, h3,...)
là tất yếu logic
G
Tuy vậy, từ việc nghiên cứu trên, chúng ta có thể rút ra mấy đặc điểm nổi
bật nhất, cơ bản nhất của logic hình thức trong quá trình chứng minh hay bác bỏ
một giả thuyết là:
- Đặc điểm thứ 1: Những quy luật của logic hình thức mới chỉ phản ánh
được sự vật trong tính ổn định tương đối về chất, mà chưa phản ánh được sự
biến đổi và phát triền của sự vật và hiện tượng.
- Đặc điểm thứ 2: Logic hình thức mới chỉ quan tâm đến tính chính xác về
mặt hình thức logic của các tư tưởng, mà chưa quan tâm đến nội dung cụ thể của
các tư tưởng.
Chính vì vậy, để chứng minh hay bác bỏ một giả thuyết, ngoài việc vận
dụng lý luận của logic hình thức ta còn phải dựa vào logic biện chứng.

68
Toàn bộ quá trình nghiên cứu khoa học là quá trình thu thập và xử lý thông
tin để chứng minh hoặc bác bỏ các giả thuyết, nghiên cứu. Khi một giả thuyết
nghiên cứu được chứng minh, thì quá trình nghiên cứu kết thúc. Ngược lại, khi
một giả thuyết nghiên cứu bị bác bỏ, thì người nghiên cứu phải tiếp tục thu thập
và xử lý thông tin để chứng minh giả thuyết, hoặc phải xem xét lại giả thuyết và
thậm chí, phải đặt lại một giả thuyết khác.

69
CHƯƠNG V
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

I. Khái niệm về phương pháp nghiên cứu kho


1. Khái niệm và đặc điểm
Phương pháp là phạm trù trung tâm của phương pháp luận nghiên cứu khoa
học, phương pháp không chỉ là vấn đề lý luận mà còn là vấn đề có ý nghĩa thực
tiễn to lớn, bởi vì chính phương pháp góp phần quyết định thành công của mọi
quá trình nghiên cứu khoa học. Chúng ta sẽ tìm hiểu bản chất của phương pháp
và các đặc điểm của nó.
Bản chất của phương pháp nghiên cứu khoa học chính là việc con người sử
dụng một cách có ý thức các quy luật vận động của đối tượng như một phương
tiện để khám phá chính đối tượng đó. Phương pháp nghiên cứu là con đường
dẫn nhà khoa học đạt tới mục đích sang tạo.
Phân tích sâu sắc cả hai phương diện lý luận và thực tiễn cho ta thấy những
đặc điểm sau:
a) Phương pháp bao giờ cũng là cách làm việc của chủ thể nhằm vào các
đối tượng cụ thể, ở đây có hai điều chú ý là: Chủ thể và đối tượng.
+ Phương pháp là cách làm việc của chủ thể, cho nên nó gắn chặt với chủ
thể và như vậy phương pháp có mặt chủ quan. Mặt chủ quan của phương pháp
chính là năng lực nhận thức, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo của chủ thể, thể
hiện trong việc ý thức được các quy luật vận động của đối tượng và sử dụng
chúng để khám phá chính đối tượng.
+ Phương pháp là cách làm việc của chủ thể và bao giờ cũng xuất phát từ
đặc điểm của đối tượng, phương pháp gắn chặt với đối tượng và như vậy
phương pháp có mặt khách quan. Mặt khách quan quy định việc chọn cách này
hay cách kia trong hoạt động của chủ thể. Đặc điểm của đối tượng chỉ dẫn cách
chọn phương pháp làm việc. Trong nghiên cứu khoa học cái chủ quan phải tuân
thủ cái khách quan. Các quy luật khách quan tự chúng chưa phải là phương pháp
nhưng nhờ có chúng mà ta phát hiện ra phương pháp. Ý thức về sự sang tạo của
con người phải tiếp cận được các quy luật khách quan của thế giới.
b) Phương pháp có tính mục đích vì mọi hoạt động của con người đều có
mục đích, mục đích nghiên cứu các đề tài nghiên cứu khoa học chỉ đạo việc tìm
tòi và lựa chọn phương pháp nghiên cứu và ngược lại nếu lựa chọn được phương

70
pháp chính xác phù hợp thì sẽ làm cho mục đích nghiên cứu đạt tới nhanh hơn
và đôi khi vượt qua các yêu cầu mà mục đích đã dự kiến ban đầu.
c) phương pháp nghiên cứu gắn chặt với nội dung của các vấn đề cần
nghiên cứu. Phương pháp là hình thức vận động của nội dung. Nội dung công
việc quy định phương pháp làm việc. Trong mỗi đề tài khoa học có phương
pháp cụ thể, trong mỗi ngành khoa học có một hệ phương pháp đặc trưng.
d) Phương pháp nghiên cứu khoa học có một cấu trúc đặc biệt, đó là một hệ
thống các thao tác được sắp xếp theo một chương trình tối ưu. Sự thành công
nhanh chóng hay không của một hoạt động nghiên cứu chính là phát hiện được
hay không logic tối ưu của các thao tác hoạt động và sử dụng nó một cách có ý
thức. Chương trình hoạt động tối ưu đó chính là một Algorithm để giải bài toán
sang tạo. Tìm ra được Algorithm cho một dạng hoạt động nào đó chính là đạt tới
sự hoàn hảo về phương pháp trong dạng hoạt động đó.
e) Phương pháp nghiên cứu khoa học luôn cần có các công cụ hỗ trợ cần có
các phương tiện kĩ thuật hiện đại với độ chính xác cao. Phương tiện và phương
pháp là hai phạm trù khác nhau nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ với nhau căn
cứ vào đối tượng nghiên cứu mà ta chọn phương pháp nghiên cứu, theo yêu cầu
của phương pháp mà ta chọn các phương tiện phù hợp và nhiều khi phải tạo ra
các công cụ đặc biệt để nghiên cứu một đối tượng cụ thể nào đó. Chính các
phương tiện kĩ thuật hiện đại đảm bảo cho quá trình nghiên cứu đạt tới độ chính
xác cao.
2. Phân loại phương pháp
Phương pháp nghiên cứu khoa học là một hệ thống phong phú. Chính vì sự
phong phú ấy của phương pháp và cũng để tiện sử dụng, người ta tìm cách phân
loại chúng. Trong thực tế có nhiều cách phân loại phương pháp:
+ Dựa vào phạm vi sử dụng người ta chia phương pháp thành: Những
phương pháp chung nhất dùng cho tất cả các lĩnh vực khoa học, những phương
pháp chung dùng cho một số ngành và những phương pháp đặc thù chỉ dùng cho
một lĩnh vực cụ thể.
+ Dựa theo lý thuyết thông tin về quy trình nghiên cứu một để tài khoa học
và người ta chia phương pháp thành ba nhóm: nhóm phương pháp thu thập
thông tin, nhóm phương pháp sử lý thông tin và nhóm phương pháp trình bày
thông tin.

71
+ Dựa theo tính chất và trình độ nghiên cứu của đối tượng người ta chia
phương pháp thành: nhóm phương pháp mô tả, nhóm phương pháp giải thích và
nhóm phương pháp phát hiện.
+ Dựa theo trình độ nhận thức khoa học chung của loài người, người ta
chia phương pháp thành hai nhóm: nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
(còn gọi là phương pháp kinh nghiệm- Empirical Method) và phương pháp
nghiên cứu lý thuyết (Theoretical Method).
+ Ngày nay toán học đã thâm nhập vào mọi khoa học đem lại sức sống mới
cho khoa học, chính vì thế bên cạnh hai nhóm phương pháp nhận thức thực tiễn
và lý thuyết, người ta có thêm một nhóm phương pháp mới: nhóm phương pháp
Toán học. Do vậy nghiên cứu khoa học có ba nhóm phương pháp: nhóm phương
pháp nghiên cứu thực tiễn, nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết và nhóm
phương pháp sử dụng Toán học.
Trong thực tế tùy theo mục đích và đặc điểm chuyên ngành người ta sử
dụng phối hợp nhiều phương pháp để hỗ trợ và kiểm tra lẫn nhau nhằm khẳng
định các kết quả nghiên cứu. Trong một lĩnh vực khoa học có một sốcác phương
pháp đặc trưng. Trong một đề tài người ta có thể sử dụng một hệ thống nhiều
phương pháp phối hợp, được gọi là phương pháp hệ (Methodica).
Sau đây chúng ta nghiên cứu hệ thống các phương pháp chung nhất theo
trình độ nhận thức khoa học.
II. Hệ thống các phương pháp nghiên cứu khoa học chung nhất.
1. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn đó là nhóm các phương pháp
trực tiếp tác động vào đối tượng có trong thực tiễn để làm bộc lộ bản chất và các
quy luật vận động của các đối tượng ấy. Nhóm này có các phương pháp cụ thể
sau đây:
a. Phương pháp quan sát kho
Quan sát khoa học là phương pháp tri giác đối tượng một cách có hệ thống
để thu thập thông tin về đối tượng. Đây là một hình thức quan trọng của nhận
thức kngh thông tin, nhờ quan sát mà ta có thông tin về đối tượng, trên cơ sở đó
mà tiến hành các bước tìm tòi và khám phá tiếp theo.
Quan sát khoa học được tiến hành trong thời gian dài hay ngắn, không gian
rộng hay hẹp, đối tượng nhiều hay ít tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu của các

72
đề tài. Các tài liệu quan sát qua xử lý đặc biệt cho ta những kết luận đầy đủ,
chính xác về đối tượng.
Có hai loại quan sát khoa học: quan sát trực tiếp và quan sát gián tiếp.
- Quan sát trực tiếp là quan sát trực diện đối tượng đang diễn biến trong
thực tế bằng mắt thường hay bằng các phương tiện kĩ thuật như: máy quan trắc,
kính thiên văn, kính hiển vi… để thu thập thông tin một cách trực tiếp.
- Quan sát gián tiếp là quan sát diễn biến hiệu quả của các tác động tương
tác giữa đối tượng cần quan sát với các đối tượng khác, mà bản thân đối tượng
không thể quan sát trực tiếp được, thí dụ: Nghiên cứu các phương pháp nguyên
tử, hóa học lượng tử…
Các đối tượng nghiên cứu khoa học có thể là đơn lẻ, có thể là số đông. Các
đối tượng đó có thể đang vận động trong môi trường tự nhiên hay trong môi
trường nhân tạo. Người quan sát có thể là nhà khoa học hay các cộng tác viên.
Quan sát khoa học có ba chức năng:
+ Chức năng thu thập thông tin thực tiễn, đây là chức năng quan trọng nhất.
Các tài liệu này qua xử lý cho ra những thông tin có giá trị về đối tượng.
+ Cn kiểm chứng các giả thuyết hay các lý thuyết đã có. Trong nghiên cứu
khoa học khi cần xác minh tính đúng đắn của các lý thuyết hay giả thuyết nào
đó, các nhà khoa học cần phải thu thập các tài liệu từ thực tiễn để kiểm chứng.
Qua thực tiễn kiểm nghiệm mới khẳng định được độ tin cậy của lý thuyết.
+ Chức năng đối chiếu các kết quả nghiên cứu lý thuyết với thực tiễn để
tìm ra sự sai lệch của chúng, mà tìm cách bổ khuyết, hoàn thiện lý thuyết.
Quá trình quan sát được tiến hành như sau:
+ Xác định đối tượng quan sát trên cơ sở mục đích của đề tài đồng thời xác
định cả các phương diện cụ thể của đối tượng cần phải quan sát.
+ Lập kế hoạch quan sát: thời gian, địa điểm, số lượng đối tượng, người
quan sát, phương diện cụ thể của đối tượng cần phải quan sát.
+ Lựa chọn phương thức quan sát: quan sát trực tiếp, quan sát gián tiếp,
quan sát bằng mắt thường hay bằng các phương tiện kĩ thuật, quan sát một lần
hay nhiều lần, số người quan sát, địa điểm, thời điểm và khoa họcảng cách thời
gian cho mỗi lần quan sát…
+ Tiến hành quan sát đối tượng hết sức thận trọng, phải theo dõi từng diễn
biến dù là nhỏ nhất kể cả ảnh hưởng của những tác động khác từ bên ngoài tới
đối tượng.

73
+ Xử lý tài liệu: Các tài liệu do các cá nhân quan sát được là tài liệu cảm
tính, mang tính chủ quan, chưa phải là tài liệu khoa học. Các tài liệu này cần
phải được xử lý thận trọng bằng cách phân loại, hệ thống hóa, bằng thống kê
toán học, bằng máy tính mới đáng tin cậy, các tài liệu qua xử lý cho ta thông tin
cô đọng và khái quát về đối tượng.
+ Để kiểm tra các kết quả quan sát khách quan, người ta thường sử dụng
một loại các biện pháp hỗ trợ khác như: trao đổi trực tiếp với nhân chứng, lặp lại
quan sát nhiều lần, sử dụng người có trình độ cao hơn để quan sát lại…
Bất cứ một quan sát nào cũng đều do con người thực hiện, cho nên phải
tính đến các đặc điểm của quá trình quan sát. Để tránh những sai sót có thể xảy
ra cần lưu ý một số điểm sau đây:
- Một là: Chủ thể quan sát là các nhà khoa học hay các cộng tác viên. Đã là
con người đều bị các quy luật tâm lý chi phối. Mỗi cá nhân đều có tính chủ
quan. Chủ quan ở trình độ kinh nghiệm, ở thế giới quan, ở cảm xúc. Quan sát
bao giờ cũng thông qua lăng kính chủ quan, có “cái tôi” trong sản phẩm. Ngay
cả khi sử dụng máy quay phim “vô tri” người cầm máy cũng vẫn quay theo góc
độ mà họ muốn. Các chủ quan có thể là nguồn gốc của mọi sự sai lệch, thậm chí
có thể “xuyên tạc” sự thật.
- Hai là: Phải chú ý tới các quy luật của cảm giác, tri giác như quy luật lựa
chọn, quy luật thích ứng với các ảo giác…
- Ba là: Đối tượng quan sát là thế giới phức tạp. Sự chính xác của quan sát
một mặt do trình độ của con người, mặt khác do sự bộc lộ của chính đối tượng.
Đối tượng nằm trong một hệ thống có mối quan hệ phức tạp với đối tượng phức
tạp khác, nó lại luôn vận động, phát triền và biến đổi. Cho nên việc xác định
đúng các chỉ số trọng tâm về đối tượng cần quan sát là điều rất quan trọng.
Tóm lại, quan sát là một phương pháp nghiên cứu khoa học quan trọng tuy
nhiên chúng chưa đạt tới trình độ nhận thức bản chất bên trong của đối tượng,
càn phải sử dụng phối hợp quan sát với các phương pháp khác để đạt tới kết quả
bản chất và khách quan.
b) Phương pháp điều tra
Điều tra là phương pháp khảo sát một nhóm đối tượng trên một diện rộng
nhằm phát hiện các quy luật phân bố, trình độ phát triền những đặc điểm về mặt
định tính và định hướng của các đối tượng cần nghiên cứu.

74
Các tài liệu điều tra được sẽ là những thông tin quan trọng về đối tượng cần
cho các quá trình nghiên cứu và là căn cứ quan trọng để đề xuất những giải pháp
khoa học hay giải pháp thực tiễn.
Có hai loại điều tra: điều tra cơ bản và điều tra xã hội học:
+ Điều tra cơ bản là khảo sát sự có mặt của các đối tượng trên một diện
rộng, để nghiên cứu các quy luật phân bố cũng như các đặc điểm về mặt định
tính và định hướng. Thí dụ: Điều tra địa hình, địa chất, điều tra dân số, trình độ
văn hóa, điều tra chỉ số thông minh (IQ) của trẻ em, điều tra khả năng tiêu thụ
hàng hóa…
+ Điều tra xã hội là điều tra quan điểm, thái độ của quần chúng về motọ sự
kiện chính trị, xã hội hiện tượng văn hóa, thị hiếu… Thí dụ: Điều tra nguyện
vọng nghề nghiệp của thanh niên, điều tra hay trưng cầu dân ý về bản hiến pháp
mới…
Điều tra là một phương pháp nghiên cứu khoa học quan trọng, một hoạt
động có mục đích, có kế hoạch, được tiến hành một cách thận trọng.
c) Phương pháp thực nghiệm khoa học
Thực nghiệm khoa học (Experiment) là phương pháp đặc biệt quan trọng
của nghiên cứu thực tiễn, trong đó các nhà khoa học chủ động tác động vào đối
tượng và quá trình diễn biến sự kiện mà đối tượng tham gia, để hướng dẫn sự
phát triền của chúng theo mục tiêu dự kiến của mình. Thực nghiệm thành công
sẽ cho ta các kết quả khách quan và như vậy là mục đích khám phá khoa học
được thực hiện một cách hoàn toàn chủ động.
Thực nghiệm là phương pháp được coi là quan trọng nhất, một phương
pháp thủ công trong nghiên cứu khoa học hiện đại. Trong lịch sử nhiều thế kỷ
của mình, thực nghiệm tỏ ra có sức sống. Ngay từ khi xuất hiện, thực nghiệm đã
có ý nghĩa như là một cuộc cách mạng tronog nghiên cứu khoa học, làm đảol ộn
tư duy khoa học kiểu cũ và nó được sử dụng triệt để trong nhiều lĩnh vực khoa
học, đặc biệt là các khoa học tự nhiên. Thực nghiệm đã làm đẩy nhanh quá trình
nghiên cứu khoa học và tạo khả năng vận dụng nhanh chóng các kết quả nghiên
cứu khoa học vào thực tiễn sản xuất. Chính vì vậy, một số bộ môn khoa học tự
nhiên được mệnh danh là khoa học thực nghiệm.
Hiệu quả của phương pháp thực nghiệm làm tăng trình độ kĩ thuật thực
hành nghiên cứu đạt tới mức tinh vi và làm phát triền cả khả năng tư duy lý
thuyết. Thực nghiệm đã tạo ra một hướng nghiên cứu mới, phương pháp hoàn
toàn chủ động trong sáng tạo khoa học. Ngày nay thực nghiệm đã được sử dụng

75
cả trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội và đem lại những kết quả quan
trọng.
Phương pháp thực nghiệm có những đặc điểm sau đây:
+ Thực nghiệm được tiến hành xuất phát từ một giả thuyết hay phỏng đoán
về sự diễn biến tốt hơn của đối tượng nếu ta chú ý đến một số biến số quan trọng
và bỏ một số biến số thứ yếu. Nghĩa là thực nghiệm được tiến hành để khẳng
định tính chân thực của phỏng đoán hay giả thuyết đã nêu. Thực nghiệm thành
công sẽ góp phần tạo nên một lý thuyết mới.
+ Thực nghiệm được tiến hành có kế hoạch như là thực hiện một chương
trình khoa học cần hết sức chi tiết và chính xác.
Kế hoạch thực nghiệm đòi hỏi phải miêu tả hệ thống các biến số theo một
chương trình. Có hai loại biến số: biến số độc lập và biến số phụ thuộc. Biến số
độc lập là những nhân tố thực nghiệm có thể điều khiển được và kiểm tra được,
nhờ có chúng mà sự kiện sẽ diễn ra khác thường. Biến số phụ thuộc là những
diễn biến của sự kiện khác với thông thường do các biến số độc lập quy định và
đó chính là kết quả sau tác động thực nghiệm.
+ Với mục đích kiểm tra giả thuyết, các nghiệm thể (đối tượng thực
nghiệm) được chia thành hai nhóm: nhóm thực nghiệm và nhóm đối chứng (còn
gọi là nhóm kiểm chứng). Hai nhóm này được lựa chọn ngẫu nhiên, có số lượng
và trình độ phát triền ngang nhau, điều đó được khẳng định bằng kiểm tra chất
lượg ban đầu. Nhóm thực nghiệm bị tác động bằng những biến số độc lập (nhân
tố thực nghiệm) để xem xét sự diễn biến có đúng với giả thuyết ban đầu hay
không? Nhóm đối chứng cho diễn biến phát triền hoàn toàn tự nhiên không làm
thay đổi bất cứ điều gì khác thường, đó là cơ sở để kiểm tra những kết quả thay
đổi của nhóm thực nghiệm. Nhờ những khác biệt của hai nhóm mà ta có thể
khẳng định hay phủ định giả thuyết của thực nghiệm.
Vì những đặc điểm trên cho nên việc tổ chức thực nghiệm được tiến hành
như sau:
+ Xây dựng giả thuyết thực nghiệm trên cơ sở phân tích kỹ các biến số độc
lập.
+ Để đảm bảo tính phổ biến của kết quả thực nghiệm, cần chọn các đối
tượng thực nghiệm tiêu biểu cho cả lớp đối tượng nghiên cứu. Các đối tượng
này chia thành hai nhóm: nhóm thực nghiệm và đối chứng tương đương nhau về
số lượng và chất lượng. Tổ chức kiểm tra ban đầu để khẳng định tính tương
đương đó.

76
+ Tiến hành các bước thực nghiệm thận trọng đối với mục tiêu mà giả
thuyết đã đề ra. Phải theo dõi sát sao tất cả những diễn biến một cách khách
quan của hai nhóm trong từng giai đoạn.
+ Các kết quả thực nghiệm được sử lý thận trọng bằng việc phân tích, phân
loại, bằng thống kê toán học hay bằng máy tính để khẳng định mối liên hệ của
các biến số trong nghiên cứu không phải ngẫu nhiên mà là mối liên hệ nhân quả
xét theo bản chất của chúng.
+ Kết quả thực nghiệm cho ta cơ sở để khẳng định giả thuyết, từ đó đề xuất
những khả năng ứng dụng vào thực tiễn.
Trong nghiên cứu khoa học tự nhiên và kĩ thuật người ta còn sử dụng
phương pháp thí nghiệm. Thí nghiệm được tiến hành trong các la bộ (laboratory)
với những thủ đoạn kĩ thuật nhằm phát hiện đặc điểm và các quy luật phát triền
của đối tượng nghiên cứu. Thí nghiệm thực hiện trên cơ sở thay đổi dần các dữ
kiện hay các chỉ số định tính và định lượng của những thành phần tham gia sự
kiện và lặp lại nhiều lần nhằm xác định tính ổn định của đối tượng nghiên cứu.
Thí dụ: thí nghiệm trong Vật lý, Hóa học hay thí nghiệm Kĩ thuật…
Thí nghiệm, có thể là một bước, một bộ phận của các thực nghiệm khoa
học. Từ kết quả của những thí nghiệm có thể chuyển dần thành lý thuyết thực
nghiệm. Thực nghiệm và thí nghiệm về bản chất cũng là để tìm tòi hay chứng
minh cho một ý tưởng, một giả thuyết khoa học nào đó.
d) Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm
Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm là phương pháp nghiên
cứu xem xét lại những thành quả của hoạt động thực tiễn trong quá khứ để rút ra
những kết luận bổ ích cho thực tiễn và cho khoa học. Tổng kết kinh nghiệm
thường hướng vào nghiên cứu diễn biến và nguyên nhân của các sự kiện và
nghiên cứu các giải pháp thực tiễn đã áp dụng trong sản xuất hay trong hoạt
động xã hội để tỉm ra các giải pháp hoàn hảo nhất.
Tổng kết kinh nghiệm cũng còn nhằm phát hiện logic các bước đi để giải
một bài toán sáng tạo trên cơ sở phân tích một loạt các thông tin về một giải
pháp, thí dụ giải pháp kĩ thuật. Đây chính là con đường sáng tạo theo quy chế
algorithm.
e) Phương pháp chuyên gia
Phương pháp chuyên gia là phương pháp sử dụng trí tuệ của đội ngũ
chuyên gia có trình độ cao của một chuyên ngành để xem xét, nhận định bản

77
chất một sự kiện khoa học hay thực tiễn phức tạp, để tìm ra giải pháp tối ưu cho
các sự kiện đó hay phân tích, đánh giá một sản phẩm khoa học.
Ý kiến của từng chuyên gia bổ sung cho nhau, kiểm tra lẫn nhau và các ý
kiến giống nhau của đa số chuyên gia về một nhận định hay một giải pháp thì
được coi là kết quả nghiên cứu.
Phương pháp chuyên gia là phương pháp rất kinh tế, nó làm tiết kiệm về
thời gian, sức lực và tài chính để triển khai nghiên cứu. Tuy nhiên nó chủ yếu
dựa trên cơ sở trực cảm hay kinh nghiệm của chuyên gia, vì vậy chỉ nên sử dụng
khi các phương pháp khác không có điều kiện thực hiện hay không thể thực hiện
được.
2. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết là nhóm các phương pháp thu thập
thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu các văn bản, tài liệu đã có và bằng các
thao tác tư duy logic để rút ra các kết luận khoa học cần thiết.
Nhóm phương pháp lý thuyết gồm các phương pháp cụ thể sau đây:
a. Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết.
Phương pháp phân tích lý thuyết là phương pháp nghiên cứu các văn bản,
tài liệu lý luận khác nhau về một chủ thể bằng cách phân tích chúng thành từng
bộ phận, từng mặt theo lịch sử thời gian, để hiểu chúng một cách đầy đủ toàn
diện. Phân tích lý thuyết còn nhằm phát hiện ra những xu hướng, những trường
phái nghiên cứu của từng tác giả và từ đó chọn lọc những thông tin quan trọng
phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình.
Phương pháp tổng hợp lý thuyết là những phương pháp liên kết từng mặt,
từng bộ phận thông tin từ các lý thuyết đã thu thập được để được tạo ra một hệ
thống lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về chủ đề nghiên cứu. Tổng hợp lý thuyết
được thực hiện khi ta đã thu thập được nhiều tài liệu phong phú về một đối
tượng. Tổng hợp cho chúng ta tài liệu toàn diện và khái quát hơn các tài liệu đã
có.
Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp có chiều hướng đối lập nhau
song chúng lại thống nhất biện chứng với nhau. Phân tích chuẩn bị cho tổng hợp
và tổng hợp lại giúp cho phân tích càng sâu sắc hơn.
Nghiên cứu lý thuyết thường bắt đầu từ phân tích các tài liệu đã tìm ra cấu
trúc các lý thuyết, các trường phái, các xu hướng phát triền của lý thuyết. Từ

78
phân tích người ta lại tổng hợp chúng lại để xây dựng thành một hệ thống khái
niệm, phạm trù, tiến tới tạo thành các lý thuyết khoa học mới
b. Phương pháp phân loại, hệ thống hóa lý thuyết.
Phân loại là phương pháp sắp xếp các tài liệu khoa học thành một hệ thống
logic chặt chẽ theo từng mặt, từng đơn vị kiến thức, từng vấn đề khoa học có
cùng dấu hiệu bản chất, cùng một hướng phát triền.
Phân loại làm cho khoa học từ chỗ có kết cấu phức tạp trong nội dung
thành cái dễ nhận thấy, dễ sử dụng theo mục đích nghiên cứu của các đề tài.
Phân loại còn giúp phát hiện các quy luật phát triền của khách thể, cũng như sự
phát triền của kiến thức khoa học, để từ đó mà dự đoán được các xu hướng phát
triền mới của khoa học và thực tiễn.
Phương pháp hệ thống hóa là phương pháp sắp xếp tri thức khoa học
thành hệ thống trên cơ sở một mô hình lý thuyết làm cho sự hiểu biết của ta về
đối tượng được đầy đủ và sâu sắc.
Hệ thống hóa là phương pháp tuân theo quan điểm hệ thống- cấu trúc trong
nghiên cứu khoa học. Những thông tin đa dạng thu thập từ các nguồn, các tài
liệu khác nhau, nhờ phương pháp hệ thống hóa mà ta có được một chính thể với
một kết cấu chặt chẽ để từ đó mà ta xây dựng một lý thuyết mới hoàn chỉnh.
Phân loại và hệ thống hóa là hai phương pháp đi liền với nhau, trong phân
loại đã có yếu tố hệ thống hóa, hệ thống hóa phải dựa trên cơ sở của phân loại và
hệ thống hóa làm cho phân loại được đầy đủ và chính xác hơn. Phân loại và hệ
thống hóa là hai bước tiến để tạo ra những kiến thức mới sâu sắc và toàn diện.
c. Mô hình hóa:
Mô hình hóa là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng khoa học bằng xây
dựng gần giống với đối tượng nghiên cứu, trên cơ sở tái hiện lại những mối liên
hệ cơ cấu- chức năng, mối liên hệ nhân quả của các yếu tố trong đối tượng.
Đặc tính quan trọng của mô hình là sự tương ứng của nó với nguyên bản,
mô hình thay thế đối tượng và bản thân nó lại trở thành đối tượng để nghiên cứu,
chính mô hình là phương tiện để thu nhận thông tin mới.
Mô hình là sự tái hiện đối tượng nghiên cứu dưới dạng trực quan. Tri thức
thu được từ nghiên cứu các mô hình là cơ sở để chuyển sang nghiên cứu nguyên
bản sinh động, phong phú và phức tạp hơn.
Mô hình lý thuyết có nhiệm vụ xây dựng cấu trúc cái mới chưa có trong
hiện thực tức là mô hình hóa cái chưa biết để nghiên cứu chúng. Như vậy mô

79
hình vẫn là cái giả định, vì thế mà nó còn được gọi là mô hình giả thuyết. Mô
hình hóa được coi là một hình thức thử nghiệm tư duy, một cố gắng để tìm ra
bản chất của sự kiện cần nghiên cứu.
Tóm lại, mô hình hóa là phương thức chuyển cái trừu tượng thành cái cụ
thể, dùng cái cụ thể để nghiên cứu cái trừu tượng, đó là một phương pháp nhận
thức quan trọng.
d. Phương pháp giả thuyết
Phương pháp giả thuyết là phương pháp nghiên cứu đối tượng bằng cách
dự đoán bản chất của đối tượng và tìm cách chứng minh các dự đoán đó. Như
vậy phương pháp giả thuyết có hai chức năng: chức năng dự đoán và chức năng
chỉ đường, trên cơ sở dự đoán mà tìm bản chất của sự kiện. Với hai chức năng
đó giả thuyết đóng vai trò là một phương pháp nhận thức.
Trong nghiên cứu khoa học khi phát hiện ra các hiện tượng lạ mà với kiến
thức đã có, không thể giải thích được, người ta thường tiến hành bằng so sánh
hiện tượng chưa biết với các hiện tượng đã biết, tri thức cũ với trí tưởng tượng
sáng tạo mà hình dung cái cần tìm. Đó chính là thao tác xây dựng giả thuyết.
Trong giả thuyết, dự đoán được lập luận theo lối giả định- suy diễn, có tính
xác suất, cho nên cần phải chứng minh. Chứng minh giả thuyết được thực hiện
bằng hai cách: chứng minh trực tiếp và chứng minh gián tiếp. Chứng minh trực
tiếp là phép chứng minh dựa vào các luận chứng chân thực và bằng các quy tắc
suy luận để rút ra luận đề. Chứng minh gián tiếp là phép chứng minh khẳng định
rằng phản luận đề là gian dối và từ đó rút ra luận đề chân thực.
Với tư cách là phương pháp biện luận, giả thuyết được sử dụng như là một
thí nghiệm của tư duy, thử nghiệm thiết kế các hành động lý thuyết. Suy diễn để
rút ra các kết luận chân thực từ giả thuyết là thao tác logic quan trọng của quá
trình nghiên cứu khoa học.
e. Phương pháp lịch sử
Phương pháp lịch sử là phương pháp nghiên cứu bằng đi tìm nguồn gốc
phát sinh, quá trình phát triền và biến hóa của đối tượng, để phát hiện bản chất
và quy luật của đối tượng.
Mọi sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội đều có lịch sử của mình,
tức là có nguồn gốc phát sinh, có vận động phát triền và tiêu vong. Quy trình
phát triền lịch sử biểu hiện toàn bộ tính cụ thể của nó, với mọi sự thay đổi,
những bước quanh co, những cái ngẫu nhiên, những cái tất yếu, phức tạp, muôn
hình, muôn vẻ, trong các hoàn cảnh khác nhau và theo một trật tự thời gian nhất

80
định. Đi theo dấu vết của lịch sử chúng ta sẽ có bức tranh trung thực về bản thân
đối tượng nghiên cứu.
3. Nhóm phương pháp toán học trong nghiên cứu khoa học.
Sự phát triền mạnh mẽ của khoa học hiện đại đã dẫn đến hai xu hướng phát
triền trong nghiên cứu khoa học.
+ Một là, khoa học sử dụng các thiết bị kĩ thuật hiện đại để tiến hành các
hoạt động nghiên cứu. Các thiết bị kĩ thuật là công cụ hỗ trợ đắc lực trong quan
sát, thực nghiệm và xử lý các tài liệu thu thập được.
Hai là, khoa học đã sử dụng các lý thuyết toán học vào việc tìm ra các lý
thuyết chuyên ngành. Xu hướng “toán học hóa” mở ra con đường mới giúp khoa
học đạt tới độ chính xác, sâu sắc để từ đó khám phá bản chất và các quy luật vận
động của đối tượng nghiên cứu.
Khoa học hiện đại sử dụng toán học với hai mục đích:
+ Một là: sử dụng Toán học thống kê như một công cụ xử lý các tài liệu đã
thu thập được từ các phương pháp nghiên cứu khác nhau như: quan sát, điều tra
hay thực nghiệm làm cho các kết quả nhu cầu trở nên chính xác, đảm bảo độ tin
cậy.
+ Hai là: sử dụng các lý thuyết Toán học và phương pháp logic Toán học
để xây dựng các lý thuyết chuyên ngành. Nhiều công thức toán học đặc biệt
được dùng để tính toán các thông số có liên quan tới đối tượng, từ đó tìm ra
được các quy luật của đối tượng.
Trong nghiên cứu khoa học tự nhiên, Toán học thật sự là một công cụ đắc
lực. Khoa học tự nhiên và Toán học đi liền như hình với bóng, thiếu vắng
phương pháp Toán học không thể tiến hành nghiên cứu khoa học tự nhiên.
Trong nghiên cứu khoa học xã hội, từ sự xác định, chọn mẫu nghiên cứu,
Toán học đã tham gia một cách tích cực và khi xử lý tài liệu Toán học đã làm
tăng tính chính xác khách quan của các kết quả nghiên cứu và nhờ đó các kết
luận của các công trình nghiên cứu có tính thuyết phục cao.

81
CHƯƠNG VI
LOGIC TIẾN TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Nghiên cứu khoa học là hoạt động được tổ chức đặc biệt, với một logic
gồm trình tự các bước đi nghiêm ngặt. Logic này được thể hiện ở hai mặt: Logic
tiến trình nghiên cứu và logic nội dung công trình. Logic nghiên cứu là một
thành phần quan trọng trong phạm trù phương pháp. Ta sẽ nghiên cứu làm rõ cả
hai mặt đó.
I.Logic tiến trình
Hiệu quả của nghiên cứu khoa học phụ thuộc rất nhiều ở phương diện tổ
chức hợp lý các bước đi của quá trình nghiên cứu, mà ta gọi là logic tiến trình.
Logic tiến hành một công trình khoa học được thực hiện bằng các bước sau
đây:
1. Giai đoạn chuẩn bị nghiên cứu
Giai đoạn chuẩn bị nghiên cứu một đề tài khoa học bao gồm công việc sau
đây:
+ Xác định đề tài là tìm vấn đề làm đối tượng để nghiên cứu. Vấn đề của
khoa học và thực tiễn là vô cùng phong phú, vì vậy, xác định cho mình một vấn
đề để nghiên cứu không phải là việc làm đơn giản. Xác định đề tài là một khâu
then chốt, bởi vì phát hiện được vấn đề để nghiên cứu nhiêu khi còn khó hơn
giải quyết một vấn đề đó.
Đề tài nghiên cứu phải có tính cấp thiết đối với thời điểm mà ta định tiến
hành nghiên cứu. Vấn đề đang là điểm nóng cần phải giải quyết và giải quyết
được nó sẽ đem lại những giá trị thiết thực cho lý luận và thực tiễn đóng góp cho
sự phát triền của khoa học và đời sống (trừ có những nghiên cứu khoa học mà
hàng vài chục năm sau mới được công nhận và được áp dụng).
Đề tài nghiên cứu của cá nhân, thí dụ như: luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ,
phải phù hợp với xu hướng, khả năng, kinh nghiệm của nghiên cứu sinh, phù
hợp với các điều kiện vật chất kĩ thuật và nguồn thông tin, tư liệu khoa học hiện
có trong và ngoài cơ quan nghiên cứu.
+ Xây dựng đề cương nghiên cứu. Một văn bản trình bày cấu trúc nội dung
của công trình khoa học tương lai, gồm các chi tiết cụ thể theo yêu cầu của bản
luận án khoa học tương lai và các chi tiết cụ thể theo yêu cầu của bản thân luận

82
án khoa học. Xây dựng đề cương nghiên cứu là một thao tác quan trọng phù hợp
với logic sáng tạo khoa học (ta sẽ nghiên cứu ở phần sau).
+ Xây dựng kế hoạch triển khai nghiên cứu. Kế hoạch nghiên cứu là văn
bản trình bày kế hoạch dự kiến triển khai đề tài về tất cả các phương diện như:
nội dung công việc, ấn định thời gian thực hiện công việc, sản phẩm phải có và
phân công trách nhiệm cho các thành viên, cộng tác viên.
Kế hoạch nghiên cứu đối với các đề tài cấp Bộ và cấp Nhà nước còn bao
gồm cả mục đích nghiên cứu, chỉ rõ cá nhân và cơ quan chủ trì, cơ quan phối
hợp, kế hoạch về bổ sung nhân lực, nguồn vật lực, tài lực, nguồn thông tin khoa
học và các yêu cầu về hợp tác, đào tạo và nghiên cứu trong và ngoài nước…
2. Giai đoạn triển khai nghiên cứu
Giai đoạn triển khai thực hiện công trình khoa học là giai đoạn nghiên cứu
chủ yếu bao gồm các bước sau đây:
+ Lập thư mục các tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu. Để lập thư mục
được nhanh chóng, ta có thể tham khảo danh mục tài liệu tham khảo của các
công trình khoa học khác gần với đề tài nghiên cứu. Thư viện sẽ giúp ta tìm
được các tài liệu cần đọc.
+ Nghiên cứu đầy đủ các tài liệu, các công trình khoa học có liên quan trực
tiếp hay gián tiếp tới đề tài để làm tổng quan, hay còn được gọi là lịch sử nghiên
cứu của vấn đề. Tổng quan là tổng thuật những gì có liên quan tới vấn đề mà tác
giả nghiên cứu. Tổng quan cho bức tranh chung làm cơ sở cho việc phát hiện ra
những yếu điểm của các công trình nghiên cứu trước đó hay những kẽ hở của lý
luận hay thực tiễn mà đề tài sẽ tìm cách tiếp tục nghiên cứu phát triền.
+ Xây dựng cơ sở lý thuyết của vấn đề nghiên cứu là công việc phức tạp và
khó khăn nhất của bất kỳ công trình khoa học nào. Xây dựng cơ sở lý thuyết là
tìm ra chỗ dựa lý thuyết của đề tài. Để có cơ sở lý thuyết nhà khoa học phải
phân tích, hệ thống hóa, khái quát hóa tài liệu và bằng suy luận mà tạo ra lý luận
cho đề tài.
+ Phát hiện thực trạng phát triền của đối tượng bằng các phương pháp
nghiên cứu thực tiễn. Các tài liệu thu thập được từ các phương pháp quan sát,
điều tra, thí nghiệm, thực nghiệm qua xử lý bằng toán học thống kê cho ta những
tài liệu khách quan về đối tượng.
+ Các tài liệu lý thuyết và thực tế thu được từ các phương pháp khác nhau
giúp tác giả chứng minh cho giả thuyết khoa học đã đề xuất ban đầu.

83
+ Kiểm tra giả thuyết bằng việc lặp lại các thí nghiệm, thực nghiệm hay
dùng các phương pháp khác nhau với phương pháp đã sử dụng ban đầu. Các
phương pháp kiểm tra lẫn nhau ta khẳng định tính chân thực của các kết luận.
+ Tổ chức các hội thảo khoa học, sử dụng trí tuệ chuyên gia đóng góp ý
kiến về hướng đi, phương pháp nghiên cứu và đánh giá các sản phẩm nghiên
cứu. Ý kiến chuyên gia là cơ sở quan trọng để sửa chữa bổ sung và hoàn thiện
công trình.
+ Trong từng giai đoạn nghiên cứu tác giả phải công bố dần các kết quả,
bằng các báo cáo khoa học trình bày ở các cuộc hội thảo, viết các bài báo để
đăng trên các
+ Tạp chí khoa học chuyên nghành. Đây là các bước quan trọng để khẳng
định giá trị của công trình.
3- Giai đoạn viết công trình
Viết công trình là trình bày tất cả các kết quả nghiên cứu bằng một văn bản
hay luận án. Việc viết công trình phải tiến hành nhiều lần.
+ Viết nháp cho riêng mình, trên cơ sở tổng hợp các tài liệu thu nhập được.
+ Sửa chữa bản thảo theo đề cương chi tiết, trên cơ sở góp ý của các
chuyên gia và người hướng dẫn.
+ Viết sạch công trình đưa ra thảo luận ở Bộ môn.
+ Sửa chữa theo sự góp ý của Bộ môn.
+ Viết sạch để bảo vệ ở Hội đông bảo vệ cấp cơ sở.
+ Sửa chữa lần cuối sau khi tiếp thu ý kiến của Hội đồng bảo vệ cấp cơ sở.
Viết hoàn chỉnh văn bản báo cáo.., luận án, luận văn đồng thời viết tóm tắt các
văn bản đó.
4- Giai đoạn nghiệm thu, bảo vệ công trình.
Giai đoạn nghiệm thu hay bảo vệ công trình là giai đoạn cuố cùng để xác
nhận các kết quả nghiên cứu. Giai đoạn này bao gồm các công việc sau đây:
+ Hoàn chỉnh toàn bộ công trình, thể hiện bằng văn bản đúng với các yêu
cầu về nội dung và hình thức trình bày luận án của Bộ Giáo dục và Đào tạo (
xem phần phụ lục).
+ Lấy nhận xét của các chuyên gia trong lĩnh vực chuyên ngành.

84
+ Đưa tới các phản biện đọc và cho nhận xét về kết qủa nghiên cứu, các
phương pháp nghiên cứu và hình thức trình bày luận văn.
+ Đưa ra bảo vệ trước Hội đồng nghiệm thu hay Hội đồng chấm luận án.
Bảo vệ luận án Tiến sĩ được thực hiện theo hai cấp: Cấp cơ sở và nhà nước.
II. Logic nội dung công trình khoa học.
Logíc nội dung công trình khoa học là trật tự các nhu cầu của nội dung bản
luận văn. Nội dung của công trình bao gồm các phần sau đây.
1. Những vấn đề chung.
Phần này trình bày như trong đề cương nghiên cứu, bao gồm:
+ Lý do chọn đề tài hay tính cấp thiết của đề tài.
+ Mục đích nghiên cứu.
+ Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
+ Giải thuyết khoa học.
+ Các nhiệm vụ nghiên cứu.
+ Giới hạnd đề tài.
+ Những luận điểm bảo vệ.
+ Những đóng góp mới cũng như ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án.
+ Cơ sở phương pháp luanạ và các phương pháp nghiên cứu mà luận văn,
luận án sử dụng.
2- Các kết quả nghiên cứu.
Phần này trình bày toàn bộ các kết quả nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn
của đề tài. Luận án Tiến sĩ khoa học được trình bày ít nhất gồm ba chương.
Thí dụ: Nội dung luận văn Tiến sĩ ít nhất là ba chương ngoài phần mở đầu,
kết luận.
Chương I. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu cần trình bày:
+ Lịch sử nghiên cứu những vấn đề có liên quan tới đề tìa (tổng quan)
+ Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.

85
+ Trình bày cac bước tiến hành và kết quả quan sát, điều tra, thí nghiệm.
+ Những khái quát tài liệu thực tiễn đã sử lý bằng Toán học.
Chương 3: Trình bày quá trình thực nghiệm khẳng định giả thuyết khoa
học. Những bài học rút ra từ các kết quả nghiên cứu thực nghiệm.
3. Kết luận:
Phân kết luậnc của luận án trình bày:
+ Toàn bộ những tư tưởng quan trọng nhất mà luận án đã nghiên cứu, phát
hiện, bao gồm cả những vấn đề lý thuyết và thực tiễn.
+ Các đề xuất ứng dụng kết quả nghiên cứu của luận án.
+ Những kiến nghị cho việc nghiên cứu tiếp theo.
4- Phần phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo.
+ Cuối luận án trình bày phần phụ lục để làm rõ thêm các kết quả nghiên
cứu, mà trong phần chính luận án chưa trình bày.
+ Cuối cùng là danh mục các tài liệu tham khảo theo thứ tự ABC họ tên tác
giả, tiếp nối là tên tài liệu, nhà xuất bản, nới xuất bản, năm xuất bản và trong tài
liệu đã sử dụng trong luận án.

86
Chương VII
ĐỀ TÀI KHOA HỌC

I. Khái niệm về đề tài khoa học.


Đề tài khoa học ( Subject) là một vấn đề khoa học (Problem) có chứa một
nội dung thông tin chua biết, cần phải nghiên cứu làm sáng tỏ. Có thể nói đơn
giản đề tài khoa học là một câu hỏi, một vấn đề của khoa học cần phải giải đáp
và khi giải đáp được thì làm cho khoa học tiến thêm một bước.
Vấn đề khoa học về bản chất là một sự kiện, hiện tượng mới phát hiện mà
khoa học chưa biết, là một sự thiếu hụt của lý thuyết hay một mâu thuẫn của
thực tiễn đang cản trở bước tiến của con người, với kiến thức cũ, kinh nghiệm cũ
không giải thích được, đòi hỏi các nhà khoa học nghiên cứu làm sáng tỏ. Điều
dó có nghĩa là một vấn đề trở thành đề tài khoa học phải có các điều kiện sau:
- Một là, đó là sự kiện hay hiện tượng mới chưa từng ai biêt, một mâu
thuẫn hay vướng mắc cả trở bước tiến cũ khoa học hay thực tiễn.
- Hai là, bằng kiến thức cũ không thể giải quyết được, đòi hỏi các nhà khoa
học phải nghiên cứu giải quyết.
- Ba là, vấn đề nếu được giải quyết sẽ cho một thông tin mới có giá trị cho
khoa học hay làm khai thông các hoạt động của thực tiễn.
Ngược lại nếu một sự kiện, một mâu thuẫn của thực tế đã quen biết, bằng
kiến thức và kinh nghiệm cũ có thể giải quyết được thì vấn đề này không có giá
trị thông tin không thể lấy làm đề tài khoa học.
Sự xuất hiện của đề tài là do nhu cầu của thực tiễn cuộc sống hay nhu cầu
phát triển khoa học. Giải quyết những yêu cầu đó đòi hỏi phải huy động lực
lượng các nhà khoa học nghiên cứu.
Do vậy đề tài khoa học phải là vấn đề có tính cấp thiết đối với lý luận hay
đối với thực tiễn. Đề tài phải có tính mới mẻ, giải quyết được vấn đề sẽ làm cho
khoa học phát triển, sẽ bổ sung cho kho tàng tri thức nhân loại những thông tin
mới.
Đề tài khoa học được diễn đạt bằng tên đề tài. Tên đề tài là tên gọi của vấn
đề khoa học mà ta cần nghiên cứu. Tên gọi là cái vỏ bên ngoài còn vấn đề khoa

87
học là nội dung bên trong. Cái vỏ chứa nội dung, cái vở phải phù hợp với nội
dung. Đọc đề tài là ta nắm bắt được ngay nội dung vấn đề nghiên cứu của đề tài.
Đề tài cần diễn đạt bằng một câu ngữ pháp trọn vẹn, rõ ràng, một nghĩa,
chứa đựng vấn đề cần nghiên cứu. Tên đề tài có thể đặt thẳng vào đối tượng
nghiên cứu. Bắt đắc dĩ mới đặt tên có thêm ngoặc đơn để giải thích chủ đề.
Không đặt tên đề tài quá dài, thiếu xác định quá xa với nội dung, có thể
hiểu theo nhiều cách hoặc dùng mỹ từ bóng bẩy. Thí dụ.
- Một số vấn đề về…
- Thử tìm hiểu…
- Góp phần làm sáng tỏ.
II. Các loại đề tài
Đề tài khoa học rất đa dạng về chủng loại, phong phú về nội dung và nhiều
cấp quản lý. Người ta dựa vào các dấu hiện khác nhau để phân loại đề tài khoa
học.
1. Dựa theo trình độ đào tạo ta có.
+ Luận văn Cử nhân khoa học. Đó là một văn bản trình bày các kết quả tập
dượt nghiên cứu của sinh viên trong quá trình đào tạo ở trường đại học để trở
thành nhà khoa học. Kết quả đánh giá luận văn là cơ sở để nhà trường công nhận
tốt nghiệp. Tuy vậy, cũng có những sinh viên tài năng, luận văn của họ có giá trị
thực tiễn và khoa học cao, có thể lên thành luận văn Thạc sĩ hoặc luận án Tiến sĩ
khoa học.
+ Luận văn Thạc sĩ khoa học là một công trình nghiên cứu khoa học có giá
trị thực tiễn. Luận văn thường hướng vào việc tìm tòi các giải pháp cho một vấn
đề nào đó của thực tiễn chuyên nghành. Hoàn thành luận văn Thạc sĩ là bước
trưởng thành về mặt khoa học của nhà chuyên môn trẻ và là bước chuẩn bị để
tiếp tục học ở bậc nghiên cứu sinh.
+ Luận án Tiến sĩ khoa học là một công trình nghiên cứu khoa học của
nghiên cứu sinh. Đề tài luận án có tính cấp thiết, kết quả nghiên cứu có những
đóng góp mới, những phát hiện mới và kiến giải có giá trị trong lĩnh vực khoa
học và thực tiễn chuyên ngành.

88
2- Dựa theo quy trình tổ chức nghiên cứu khoa học tao có:
+ Đè tài khoa học do cấp trên giao: Loại đề tài này thường là đề tài cấp nhà
nước, cấp Bộ hay một phần của các loai đề tài đó có phạm vi rộng, nghiên cứu
các chiếm lược phát triển kinh tế và xã hội của quốc gia hay chiếm lược phát
triển của các nghành. Các cơ sở tiếp nhận một phần theo khẳ năng của chuyên
nghành mình để nghiên cứu.
+ Đề tài phát hiện từ cơ sở thực tiễn. Đây là loại đề tài có ý nghĩa thiết
thực đối với các hoạt động thực tiễn ở cơ sở. Đề tài này do các nhà khoa học
đăng ký với cấp trên cơ sở phát hiện được những vấn đề cụ thể trong phạm vi
hoạt động chuyên môn của mình. Loại đề tài này có ý nghĩa thực tiễn lớn và khả
năng ứng dụng rất cao.
3- Dựa theo cấp quản lý đề tài ta có:
+ Chương trình khoa học quốc gia nghiên cứu cac chiếm lược phát triển
kinh tế,văn hoa, khoa học công nghệ quốc gia. Chương trình này chia thành
nhiều nhánh với nhiều đề tài cấp nhà nước, giao cho cac cơ sở, các nhà khoa học
từng chuyên ngành thực hiện.
+ Đề tài cấp Bộ là đề tài nghiên cứu các vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên
nghành nhằm thúc đẩy sự tiến bộ chuyên môn của các ngành phục vụ cho sự
tiến bộ chung.
+ Đề tài cấp cơ sở là đề tài do các cơ sở đăng ký và cấp trên phê duyệt. Đề
tài cấp cơ sở giải quyết những vấn đề trực tiếp trong chuyên môn của cơ sở hoặc
của ngành.
Ba loại đề tài này không chỉ khác nhau về cấp quản lý mà khác nhau về
phạm vị nghiên cứu và ứng dụng. Trong ba loại dó thì chương trình khoa học
với các đề tài cấp nhà nước có phạm vi ứng dụng. Trong ba loại đó thì chương
trình khoa học với các đề tài cấp nhà nước có phạm rộng bao hàm những vấn đề
quan trọng ở tầm cỡ chiếm lược quốc gia và chỉ dẫn các đề tài cấp dưới theo một
định hướng chung..
4- Dựa theo các loại hình nghiên cứu khoa học ta có:
+ Đề tài nghiên cứu cơ bản là đề tài nghiên cứu có mục tiêu phát hiện ra
các sự kiện hiện tượng khoa học mới, tìm ra bản chất và các quy luật phát triển
của chúng hoặc tìm ra các phương pháp nhận thức mới.

89
+ Đề tài nghiên cứu ứng dụng là đề tài tìm ra giải pháp áp dụng các thành
tựu khoa học vào thực tế sản xuất hay quản lý xã hội nhằm tạo ra sản phẩm vật
chất hay tinh thần, cũng như nhằm cải tiến nội dung và phương pháp hoạt
động…
+ Đề tài nghiên cứu dự báo là loại đề tài hướng vào tìm tòi các xu hướng
phát triển của khoa học và thực tiễn trong tương lai.
Đề tài khoa học dù là ở dạng nào cũng xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn
mà mục đích thật sự của nó hoặc là phát hiện ra các tri thức mới, các quy luật
phát triển của thế giới hoặc là các phương pháp nhận thức và cải tạo hiện thực.
III. Phát triển vấn đề khoa học.
Đề tài khoa học thường bắt nguồn từ những ý tưởng khoa học độc đóa của
cá nhân và sau đó là sự đóng góp chung của tập thể. Đề tài được xây dựng trên
cơ sở:
+ Phát hiện ra một hiện tượng lạ chưa từng thấy và chưa có ai nghiên cứu,
chưa có tài liệu nào trình bày.
+ Phát hiện những sai sót, sự không hoàn thiện của lý thuyết hiện có.
+ Phát hiện mâu thuẫn của các trường phái lý thuyết. Từ các mâu thuẫn này
có thể tìm thấy một hướng nghiên cứu mới tốt hơn.
+ Phát hiện mâu thuẫn giữa lý thuyết với thực tế. Sự khác biệt giữa lý
thuyết và thực tiễn tạo ra khoảng cách không thể chấp nhận được.
+ Phát hiện sự bế tắc của các phương pháp phát hiện có, bằng cách làm cũ
không tạo được hiệu quả công việc, cần phải có các phương pháp hành động
mới.
+ Phát hiện sự phát triển chậm chạp của thực tế. Tức là cuộc sống đang
dậm chân tại chỗ do nhiều nguyên nhân, cầm tìm tòi các nguyên nhân đó để đề
xuất các giải pháp hành động thích hợp.
Các ý tưởng về đề tài của cá nhân thường xuất hiện trong quá trình giải
quyết các công việc thực tế, trong khi nghiên cứu tài liệu lý thuyết hay thực tiễn,
trong trao đổi, tranh luận, hội thảo và cũng có khi xuất hiện bất ngờ theo cơ chế
trực giác.

90
Tổ chức nghiên cứu là huy động nhân lực, vật lựuc thực thi kế hoạch, tạo ra
sản phẩm khoa học. Nghiên cứu không còn là hoạt động của một cá nhân mà là
một sự phối hợp của nhiều nhà khoa học, nhiều ngành khoa học. Nghiên cứu
khoa học trở thành hoạt động của xã hội. Tuy nhiên hoạt động nghiên cứu dù là
của tập thể vẫn phải là thực hiện trên cơ sở ý tưởng của một cá nhân và chiếm
lược tìm tòi của ý tưởng đó.
Thực hiện đề tài được giao từ các cấp bộ và chương trình khoa học nhà
nước một dạng phân tầng nghiên cứu theo chiếm lược chung, mà sự phát hiện ra
vấn đề nghiên cứu thuộc về cấp chỉ huy chiếm lược bên trên.

91
Chương VIII
ĐỀ CƯƠNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Khi bắt tay vào nghiên cứu một đề tài khoa học thì một thao tác rất quan
trọng là phải xây dựng một đề cương nghiên cứu. Đề cương nghiên cứu là văn
bản dự kiến các bước đi và nội dung của công trình.
Đối với một luận văn Thạc sĩ hay luận án Tiến sĩ thì đề cương nghiên cứu
bao gồm các mục sau đây.
Tên đề tài…. (Được diễn đạt bằng một câu ngữ pháp bao quát được đối
tượng và hàm chứa nội dung và phạm vi nghiên cứu).
I. Lý do chọn đề tài (Hay còn gọ là tính cấp thiết của đề tài). Phần này
yêu cầu người nghiên cứu phải trình bày rõ ràng, tường minh những lý do nào
khiến tác giả chọn đề tài để nghiên cứu. Phải làm rõ những lý do này là cấp thiết
đối với lý luận, là một đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống.
Nói chung, lý do chọn đề tài các luận văn, luận án thường xuất phát từ
những yêu cầu của thực tế công tác mà người nghiên cứu đảm nhiệm hay từ việc
phát hiện các thiếu sót trong nghiên cứu lý thuyết chuyên ngành cần phải bổ
sung. Việc nghiên cứu này sẽ đem lại ích lợi cho hiện tại và tương lai của khoa
học và thực tiễn.
II. Mục đích nghiên cứu.
Mỗi đề tài tùy theo phạm vi nghiên cứu của mình phải xác định rõ mục
đích nghiên cứu. Mục đích sẽ hướng dẫn các bước đi chiếm lược của công trình
để đạt tới đích cuối cùng.
Mục đích của một luận án khoa học thường là tìm tòi làm rõ bản chất của
một sự kiện mới hay tìm một giải pháp nâng cao chất lượng một hoạt động thực
tế nào đó.
III. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
Thế giới khách quan là đối tượng duy nhất của nghiên cứu khoa học. Tuy
nhiên thế giới vô cùng rộng lớn, mỗi lĩnh vực khoa học phải chọn cho mình một
bộ phận, một phần nào đó để tập trung khám phá tìm tòi, đó chính là thao tác
xác định khách thể nghiên cứu.

92
Trong cá Khách thể rộng lớn đó, mỗi đề tài cụ thể lại phải chọn cho mình
một mặt, một thuộc tính, một mối quan hệ của Khách thể để nghiên cứu. Bộ
phận đó chính là đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Mỗi đề tài nghiên cứu một vấn đề, cũng có nghĩa là mỗi đề tài có một đối
tượng nghiên cứu. Như vậy, xác định đối tượng nghiên cứu là xác định cái trung
tâm cần khám phá của đề tài khoa học.
Khách thể và đối tượng nghiên cứu là hai khái niệm có mối quan hệ như
loài và giống, chúng có thể chuyển hóa cho nhau. Khách thể của đề tài nhỏ có
thể là đối tượng của đề tài hơn và ngược lại đối tượng của đề tài lớn có thể là
khách thể của đề tài nhỏ hơn.
Khách thể đồng nghĩa với môi trường của đối tượng mà ta đang xem xét.
Xác định đối tượng là xác định cái trung tâm còn xác định khách thể nghĩa là
xác định cái giới hạn chứa đựng cái trung tâm, cái vòng mà đề tài không được
phép vượt qua. Do đó xác định khách thể và đối tượng nghiên cứu là thao tác
bản chất của quá trình nghiên cứu khoa học
IV. Giả thuyết khoa học.
Giả thuyết khoa học (Hypothesis) là mô hình giả định, một dự đoán về bản
chất của đối tượng nghiên cứu. Một công trình khoa học về thực chất là chứng
minh một giả thuyết khoa học. Do đó xây dựng giả thuyết là thao tác quan trọng
của mỗi công trình khoa học. Giả thuyết có chức năng tiên đoán bản chất sự
kiện, đồng thời là chức năng chỉ đường để khám phá đối tượng.
Giả thuyết được xây dựng phải tuân thủ các yêu cầu sau đây:
1- Giả thuyết phải có tính thông tin về sự kiện, nghĩa là có khả năng giải
thích được sự kiện cần nghiên cứu.
2- Giả thuyết có thể kiểm chứng được bằng thực nghiệm.
V.Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích và giả thuyết khoa học, mỗi đề tài phải xác định
các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể. Nhiệm vụ nghiên cứu là mục tiêu cụ thể mà đề
tài phải thực hiện. Một luận văn Thạc sĩ hay luận án Tiến sĩ khoa học thường có
ba nhiệm vụ;
+ Nhiệm vụ xây dựng cơ sở lý thuyết.

93
+ Nhiệm vụ phân tích làm rõ bản chất và quy luật của đối tượng nghiên
cứu.
+ Nhiệm vụ đề xuất những giải pháp ứng dụng cải tạo hiện thực.
VI. Giới hạn đề tài.
Giới hạn đề tài là thao tác logíc xác định phạm vi về thời gian, không gian
những mặt, những chỉ số cần điều tra, quan sát, nghiên cứu phát hiện … Hay nói
cách khác giới hạn của đề tài là phạm vi mà đề tài phải thực hiện.
Giới hạn đề tài là thao tác quan trọng giúp cho việc nghiên cứu đi đúng
trọng tâm, không lệch hướng.
VII. Những luận điểm bảo vệ.
Luận điểm bảo vệ là những luận điểm quan trọng, những tư tưởng cốt lõi
của đề tại, nhờ có nó mà công trình khoa học có thể đứng vững và bảo vệ được.
Luận điểm bảo vệ được trình bày khái quát, chứa đựng thông tin quan
trọng và cô đọng nhất của luận án.VIII. Cái mới của luận án
Cái mới của công trình khoa học là những thông tin khoa học mà tác giả
của công trình là người đầu tiên tìm ra, chúng có giá trị đối với lý luận và thực
tiễn.
Cái mới của luận án Tiến sĩ có thể là phát hiện mới, góp phần bổ sung ,
phát triển lý thuyết hiện có hoặc có thể là những giải pháp lý thuyết vào thực
tiễn.
Mỗi luận án phải có cái mới, đó chính là giá trị thật sự của công trình khoa
học, là tiêu chuẩn để luận án được bảo vệ thành công.
VIII. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
+ Luận án được tiến hành nghiên cứu phải dựa vào những quan điểm tư
tưởng nhất định, nhờ có quan điểm nhất quán mà công trình đi tới chân lý khách
quan. Do đó luận án khoa học phải trình bày đầy đủ và rõ ràng phương pháp tiếp
cận đối tượng hay cơ sở phương pháp luận mà mình dựa vào để nghiên cứu.
+ Để tiến hành nghiên cứu một công trình khoa học , tác giả phải sử dụng
phối hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể. Các phương pháp được sử dụng
hợp lý, phù hợp với đề tài sẽ đảm bảo cho công trình đạt tới kết quả. Cho nên
trong đề cương nghiên cứu, tác giả phải trình bày các phương pháp dự kiến sử
dụng, ý đồ và kỹ thuật sử dụng chúng.

94
Đọc cơ sở phương pháp và các phương pháp nghiên cứu dự kiến sử dụng
trong đề tài. Người ta có thể đánh giá năng lực của tác giả và khả năng thành
công của công trình. Lựa chọn các phương pháp và chiến thuật nghiên cứu.
IX. Dàn ý nội dung công trình
Đề cương nghiên cứu khoa học yêu cầu phải trình bày một dàn ý nội dung
dự kiến của luận án. Để làm việc này tác giả phải nghiên cứu công phu nhiều tài
liệu tham khảo và đồng thời phải có khả năng tưởng tượng sáng tạo, thiết kế một
mô hình cho luận án tương lai.
Một luận án Tiến sĩ khoa học phải có ít nhất 3 chương và dàn ý cần được
trình bày cụ thể tới từng tiểu mục.
X. Tài liệu tham khảo
Tác giả phải trình bày rõ các tài liệu tham khảo đã đọc để xây dựng đề
cương. Các tài liệu được liệt kê có chọn lọc phù hợp với phạm vi của đề tài
nghiên cứu.

95

You might also like