Professional Documents
Culture Documents
Bài tập nhóm KTG PDF
Bài tập nhóm KTG PDF
Kỹ thuật gen:
Gene cloning
and DNA analysis
Tách dòng gene và phân tích DNA
Sixth edition
Part I
The basic principles of gene cloning and
DNA analysis
Phần I
Các nguyên tắc cơ bản của tách dòng gen và phân tích DNA
Gần như mọi kỹ thuật thao tác với DNA đều sử dụng các enzyme tinh khiết.
Các enzyme này tham gia vào nhiều quá trình khác nhau trong tế bào như: sao
chép DNA, phiên mã, loại bỏ các DNA ngoại lai hoặc không mong muốn, sửa
chữa các gene bị đột biến, và tái tổ hợp lại các DNA. Sau khi tinh sạch từ dịch tế
bào, nhiều enzyme có thể được thúc đẩy để thực hiện các chức năng vốn có của
nó, hoặc các chức năng tương tự, trong các điều kiện nhân tạo. Mặc dù các phản
ứng enzyme khá là đơn giản, nhưng đa số các phản ứng này lại không thể diễn ra
theo các phương thức hóa học bình thường. Vì vậy, enzyme tinh khiết có vai trò
quan trọng trong kỹ thuật gene và một ngành công nghiệp quan trọng về việc
chuẩn bị, phân loại, và quảng bá chúng đã nổi lên. Các cung cấp thương mại các
enzyme với độ tinh khiết cao cung cấp dịch vụ thiết yếu cho các nhà sinh học
phân tử.
2 thao tác cắt và nối là các thao tác cơ bản trong tách dòng gene và được thực
hiện bởi enzyme cắt giới hạn (để cắt) và ligase (để nối). Phần lớn chương này sẽ
bàn về 2 cách sử dụng của 2 loại enzyme này. Nhưng đầu tiên chúng ta sẽ tìm
hiểu về toàn bộ các loại enzyme được sử dụng trong thao tác với DNA để xem
các loại phản ứng có thể được thực hiện. Nhiều loại enzyme sẽ được nhắc đến ở
các chương sau khi các quá trình mà chúng tham gia được miêu tả.
Điểm khác biệt chính giữa các exonuclease khác nhau là số sợi DNA bị phân
hủy khi một sợi DNA đôi bị tấn công. Enzyme Bal31 (thu được từ vi khuẩn
Alteromonas espejiana) là một exonuclease có khả năng loại bỏ nucleotit của cả
2 sợi đơn của 1 sợi đôi (hình 4.2a). Khoảng thời gian mà Bal31 tác động lên một
nhóm DNA càng lớn thì các đoạn DNA thu được càng ngắn. Trái lại, các enzyme
như E.coli exonuclease III chỉ phân hủy một sợi đơn trong sợi DNA kép và kết
quả là các sợi DNA đơn (hình 4.2b).
Hình 4.2 Các phản ứng được xúc tác bởi các loại exonuclease khác nhau.
A) Bal31loại bỏ nucleotit từ cả 2 sợi đơn của sợi DNA đôi.
B) E.coli exonuclease III chỉ loại bỏ nucleotit từ đầu 3/ của sợi DNA
Các tiêu chuẩn tương tự cũng có thể được dùng để phân loại endonuclease.
Enzyme S1 endonuclease (thu được từ loài nấm Aspergillus Oryzae) chỉ cắt 1 sợi
đơn (hình 4.3a), trong khi DNase I được thu từ tuyến tụy của bò có thể cắt cả sợi
đơn và đôi (hình 4.3b). DNase I không đặc hiệu vì nó sẽ cắt DNA tại các vị trí
bất kì nên kết quả thu được sau một phản ứng dài với DNase sẽ là các
mononucleotit và các đoạn oligonucleotit ngắn. Trong khi đó, nhóm các enzyme
đặc biệt được gọi là các enzyme cắt giới hạn sẽ cắt các sợi DNA đôi tại một số
lượng có hạn các vị trí nhận biết đặc hiệu (hình 4.3c). Các enzyme quan trọng
này sẽ được miêu tả chi tiết ở trang 50.
Hình 4.3 các phản ứng được
xúc tác bởi các loại
endonuclease khác nhau.
a) S1 nuclease chỉ cắt các sợi đơn
bao gôm cả các đoạn cắt đơn
của các sợi đôi
b) DNase I cắt cả các sợi DNA
đơn và đôi
c) Một enzyme cắt giới hạn cắt
sợi DNA đôi tại những vị trí
nhất định với số lượng có hạn
Thông thường các DNA sẽ được tách dòng cũng cần phải được cắt ra (Hình
4.7b). Có hai lý do cho việc này. Thứ nhất, nếu mục đích là để sao chép một gen
duy nhất, có thể chỉ gồm 2 hoặc 3 kb DNA, thì gen đó phải được tách khỏi các
phân tử DNA có kích thước lớn (lớn hơn 80 kb) thu được bằng cách sử dụng một
cách thuần thục các kỹ thuật tách chiết được miêu tả ở chương 3. Thứ hai, các
phân tử DNA có kích thước lớn phải được cắt nhỏ ra thành các đoạn có kích thước
đủ nhỏ để được mang bởi vector. Hầu hết các vector tách dòng phù hợp với các
đoạn DNA với kích thước cụ thể. Ví dụ: phần lớn vector tách dòng có bản chất
plasmid không hiệu quả khi tách dòng các DNA có kích thước lớn hơn 8 kb.
Các enzyme cắt giới hạn tinh khiết cho phép các nhà sinh học phân tử cắt các
phân tử DNA chính xác và có khả năng tái lặp được cần thiết cho việc tách dòng
gen. Việc tìm ra những enzyme này, dẫn tới giải nobel cho W. Arber, H. Smith,
và D. Nathans năm 1978, là một trong những bước đột phá quan trọng trong sự
phát triển của kĩ thuật gen.
4.2.1 Sự phát hiện và chức năng của enzyme giới hạn
Những quan sát đầu tiên dẫn đến việc tìm ra enzyme giới hạn được thực hiện
vào nhưng năm 1950, khi phát hiện ra một số chủng vi khuẩn có khả năng miễn
dịch với các phage, một hiện tượng gọi là sự hạn chế có kiểm soát của vật chủ.
Cơ chế của quá trình này không quá phức tạp, mặc dù đã phải mất hơn 20 năm
để hiểu được nó một cách đầy đủ. Sự cắt hạn chế này xảy ra khi vi khuẩn tiết ra
một loại enzyme có khả năng phân hủy các DNA của phage trước khi chúng kịp
sao chép và điều hòa việc tổng hợp hình thành các phage mới (Hình 4.8a). DNA
của vi khuẩn vật chủ, thứ mà khi bị phân cắt sẽ dẫn đến sự chết của tế bào, được
bảo vệ khỏi sự phá hủy này vì nó có gắn thêm các nhóm methyl bất hoạt các
enzyme phân hủy này (Hình 4.8b).
Các enzyme phân hủy này được gọi là enzyme cắt giới hạn và được tổng hợp
bởi nhiều, có thể là mọi loại vi khuẩn khác nhau, hơn 2500 loài khác nhau đã
được phân lập và hơn 300 loại đã có thể sử dụng trong phòng thí nghiệm. Ba
nhóm enzyme giới hạn khác nhau đã được nhận dạng, mỗi loại được phân biệt
bằng những cách thức hoạt động khác nhau. Loại I và III khá là phức tạp và có
một vai trò hạn chế trong kỹ thuật gen. Enzyme giới hạn loại 2 giữ vai trò rất quan
trọng trong kỹ thuật tách dòng gen.
4.2.2 Enzyme giới hạn loại 2 cắt DNA tại những trình tự nucleotide đặc
hiệu
Đặc điểm quan trọng nhất của enzyme giới hạn loại 2 (hay sẽ được gọi là
enzyme giới hạn từ đây) là mỗi enzyme có một trình tự nhận biết đặc hiệu
tại vị trí mà nó cắt phân tử DNA. Mỗi enzyme cụ thể cắt đoạn DNA tại 1 trình tự
nhận biết duy nhất và không cắt tại vị trí khác. Ví dụ, enzyme giới hạn Pvul (phân
lập từ Proteus vulgaris) chỉ cắt DNA ở đoạn hexanucleotide CGATCG. Ngược
lại, một loại enzyme thứ hai của cùng loại vi khuẩn đó, được gọi là PvuII, cắt tại
một đoạn hexanucleotide khác CAGCTG.
Nhiều loại enzyme giới hạn nhận biết các đoạn hexanucleotide, nhưng có
những loại cắt các đoạn bốn, năm, tám hay thậm chí các trình tự nucleotide dài
hơn. Sau3A (từ Staphylococcusaureus chủng 3A) nhận biết GATC, và Alul
(Arthrobacter luteus) cắt tại AGCT. Cũng có những ví dụ về enzyme giới hạn với
các trình tự nhận dạng thoái hóa, có nghĩa là chúng cắt DNA tại các đoạn trong
một họ các trình tự liên quan đến nhau. HinfI (Haemophilus influenzae chủng Rf),
nhận biết GANTC, vì thế cắt tại GAATC, GATTC, GAGTC, và GACTC. Các
trình tự nhận biết của một số loại enzyme giới hạn thường dùng đã được liệt kê ở
bảng 4.1.
Các trình tự được viết
theo chiều 5’-3’.
N thay cho mọi loại
Nucleotide bất kỳ
Chú ý rằng hầu hết
các trình tự đều có
tính đối xứng: 2 sợi là
giống nhau khi đọc
cùng chiều
Bảng 4.1 trình tự nhận biết của một số loại enzyme cắt giới hạn thường được sử
dụng nhất
4.2.3 Đầu bằng và đầu dính
Bản chất của đoạn cắt bởi các enzyme cắt giới hạn giữ vai trò quan trọng trong
việc thiết kế một thí nghiệm tách dòng. Nhiều enzyme giới hạn cắt cả 2 sợi ngay
chính giữa trình tự nhận biết (Hình 4.9a), tạo thành các “đầu cùn” hay còn gọi là
“đầu bằng”. Ví dụ như PvuII và AluI.
Các loại enzyme giới hạn khác cắt theo một cách khác. Các enzyme này cắt
hai đoạn DNA không cùng tại một ví trí. Thay vào đó, chúng cắt lệch thành hai
hoặc bốn đoạn nucleotide, các đoạn DNA có các sợi đơn ngắn ở mỗi đầu (Hình
4.9b). Hay còn gọi là “đầu dính” hoặc “đầu gắn kết”, vì sự bổ sung giữa các cặp
base có thể gắn phân tử DNA lại một lần nữa (đầu dính đã được nhắc tới ở trang
20 trong phần miêu tả sự nhân đôi của λ phage). Một đặc điểm quan trọng của
đầu dính là các enzyme giới hạn có trình tự nhận biết khác nhau có thể tạo ra các
đoạn đầu dính giống nhau. BamHI (nhận biết đoạn GGATCC) và BglII
(AGATCT) đều tạo ra đầu dính GATC (hình 4.9c). Các đoạn đầu dính này cũng
được được tạo ra bởi Sau3A chỉ nhận biết đặc hiệu đoạn tetranucleotide GATC.
Các đoạn DNA được phân chia bởi một trong các loại enzyme này có thể nối lại
với nhau, vì mỗi đoạn đều mang một đoạn đầu dính bổ sung.
4.2.4 Tần suất của các trình tự nhận biết trong một phân tử DNA
Số lượng trình tự nhận biết của một enzyme giới hạn trong một phân tử DNA
đã được xác định kích thước có thể được tính toán cụ thể. Một đoạn
tetranucleotide (ví dụ GATC) được nhận biết mỗi 4 mũ 4 = 256 nucleotides, và
một đoạn hexanucleotide (ví dụ GGATCC) được nhận biết mỗi 4 mũ 6 = 4096
nucleotides. Mỗi phép tính này giả sử các nucleotides được sắp xếp theo thứ tự
ngẫu nhiên và 4 loại nucleotides có tỷ lệ bằng nhau (ví dụ hàm lượng GC chiếm
50%). Trên thực tế, cả hai giả định này đều hoàn toàn không có hiệu lực. Ví dụ,
phân tử λ DNA, 49 kb, chứa khoảng 12 vị trí nhận biết các trình tự hexanucleotide.
Trên thực tế, nhiều vị trí nhận biết này được nhận biết với tần suất ít hơn (ví dụ 6
với BglII, 5 với BamHI, và chỉ 2 với SalI), phản ánh thực tế rằng hàm lượng GC
của λ ít hơn 50% (Hình 4.10a).
Hơn nữa, các vị trí giới hạn thường không phân bố đều dọc theo một phân tử
DNA. Nếu chúng có, sẽ bị cắt bởi một enzyme giới hạn thành các đoạn có kích
thước gần bằng nhau. Hình 4.10b chỉ ra rằng các đoạn được tạo ra bởi việc cắt λ
DNA bằng BglII, BamHI, và SalI. Trong mỗi trường hợp có một sự phân bố khá
rộng về kích thước các mảnh, cho thấy rằng trong các λ DNA, nucleotides không
được sắp xếp theo trình tự ngẫu nhiên.
Bài học rút ra từ hình 4.10 là mặc dù biện pháp toán học có thể tính toán số
lượng vị trí giới hạn trong một phân tử DNA nào đó, chỉ có phân tích thực nghiệm
mới có thể đưa ra kết quả chính xác. Do đó chúng ta phải tiếp tục xem xét cách
sử dụng các enzyme giới hạn trong phòng thí nghiệm.
Hình 4.10 Sự phân cắt phân tử λ DNA
a) Vị trí của các trình tự nhận biết của BglII, BamHI, SalI
b) Các mảnh được tạo ra khi cắt bởi mỗi loại enzyme. Các con số là kích thức của mảnh
tính theo bp.
4.2.5 Quá trình cắt giới hạn trong phòng thí nghiệm
Ví dụ, chúng ta xem xét làm thế nào để cắt một mẫu λ DNA (nồng độ 125
mg/ml) bằng BglII.
Đầu tiên, đưa lượng DNA cần thiết vào ống nghiệm. Lượng DNA sẽ bị cắt
giới hạn phụ thuộc vào bản chất của thí nghiệm. Trong trường hợp này chúng ta
sẽ cắt 2 µg λ DNA, được chứa trong 16 µl mẫu (Hình 4.11a). Vì vậy, micropipette
với độ chính xác cao rất cần thiết trong thí nghiệm này.
Hình 4.11 Quy trình thực hiện thí nghiệm phân cắt giới hạn trong phòng TN
Các thành phần quan trọng khác trong phản ứng sẽ là các enzyme giới hạn,
được sản xuất bởi một nhà cung cấp thương mại với độ tinh khiết cao và nồng độ
xác định. Nhưng trước khi bổ sung enzyme, dung dịch có chứa DNA cần phải
được điều chỉnh để tạo các điều kiện nhất định để đảm bảo các enzyme hoạt động
một cách tốt nhất. Hầu hết enzyme giới hạn hoạt động hiệu quả tại pH 7.4, nhưng
những enzyme khác nhau có yêu cầu khác nhau về độ mạnh của ion (thường là
NaCl) và nồng độ Mg2+ (Tất cả các enzyme giới hạn loại 2 đều cần Mg2+ để có
thể hoạt động được). Cũng nên bổ sung thêm một chất khử, ví dụ như
dithiothreitol (DTT), giúp ổn định enzyme và ngăn ngừa sự bất hoạt của nó. Tạo
ra các điều kiện thích hợp cho sự hoạt động của enzyme rất quan trọng – nồng độ
Mg2+ hoặc NaCl không phù hợp không chỉ làm giảm hoạt tính của enzyme giới
hạn, mà còn có thể thay đổi tính đặc hiệu của enzyme, khiến cho sự phân cắt DNA
có thể xảy ra thêm ở các trình tự khác, không đúng tiêu chuẩn.
Bảng 2.2 Một dung dịch đệm với nồng độ 10x thích hợp cho việc cắt giới hạn
DNA bằng BglI
Các thành phần dung dịch đệm phù hợp của BglII đã được liệt kê tại bảng 4.2.
Những chất đệm này với nồng độ gấp 10 lần với nồng độ thực hiện thí nghiệm,
nên cần pha loãng bằng cách thêm vào hỗn hợp phản ứng. Ví dụ, thể tích thích
hợp cho hỗn hợp phản ứng là 20 µl, vì thế chúng ta thêm 2 µl 10 × BglII chất đệm
vào 16 µl DNA (Hình 4.11b).
Bây giờ có thể bổ sung các enzyme giới hạn. Theo quy ước, 1 đơn vị enzyme
được định nghĩa là số lượng cần thiết để cắt 1 µg DNA trong 1 giờ, vì thế chúng
ta cần 2 đơn vị BglII để cắt 2 µg λ DNA. BglII với nồng độ 4 đơn vị/ µl, vì thế 0.5
µl là vừa đủ để phân tách DNA. Các thành phần cuối cùng trong hỗn hợp phản
ứng là 0.5 µl BglII và 1.5 µl nước, với tổng thể tích dung dịch là 20 µl (Hình 4.11c).
Yếu tố cuối cùng cần phải xem xét là nhiệt độ. Phần lớn enzyme giới hạn bao
gồm BglII, hoạt động tốt nhất ở 37 °C, tuy nhiên một số loại khác cần những điều
kiện khác nhau. Ví dụ như TaqI, một loại enzyme giới hạn của Thermus aquaticus
và, như Taq DNA polymerase, hoạt động tốt ở nhiệt độ cao. Quá trình cắt giới
hạn của Taq phải được thực hiện ở nhiệt độ 65 °C để enzyme có thể hoạt động
tốt nhất.
Sự phân tách sẽ hoàn tất sau 1 tiếng (Hình 4.11d). Nếu các đoạn DNA được
phân tách này được sử dụng trong các thí nghiệm về tách dòng gen, enzyme bằng
cách nào đó phải bị phá hủy hoàn toàn để nó không thể vô tình cắt các phân tử
DNA khác được thêm vào ở các giai đoạn sau. Có rất nhiều cách để “giết chết”
các enzyme này. Trong nhiều trường hợp ủ trong thời gian ngắn ở 70 °C là đủ,
đối với một vài trường hợp khác ta sử dụng phenol hoặc bổ sung ethylenediamine
tetraacetate (EDTA) liên kết các ion Mg2+ để bất hoạt các enyme giới hạn (Hình
4.11e).
4.2.6 Phân tích kết quả phân chia bằng các enzyme giới hạn
Kết quả của quá trình cắt giới hạn là các đoạn DNA, với kích thước phụ thuộc
vào vị trí của trình tự nhận biết trong phân tử ban đầu (Hình 4.10). Một phương
pháp để xác định số lượng và kích thước các đoạn DNA là cần thiết nếu các
enzyme giới hạn được sử dụng trong tách dòng gen. Liệu 1 phân tử DNA có được
cắt hay không có thể được xác định dễ dàng bằng cách kiểm tra độ nhớt của dung
dịch. Phân tử DNA lớn hơn tạo cho dung dịch độ nhớt hơn so với các phân tử nhỏ
hơn, do đó sự phân cắt liên quan tới sự giảm độ nhớt. Tuy nhiên việc tính toán cụ
thể số lượng và kích thước của từng đoạn riêng biệt khó khăn hơn nhiều. Trong
thực tế, trong nhiều năm đây là một trong những lĩnh vực tẻ nhạt nhất trong các
thí nghiệm liên quan tới DNA. Cuối cùng thì những vấn đề này được giải quyết
khi kỹ thuật điện di trên gel được phát triển vào những năm 1970.
Hình 4.12
a) Điện di tiêu chuẩn không tách các
mảnh DNA khác kích cỡ
b) Điên di trên gel
Hình 4.13
Hiển thị băng DNA trong gel agarose
bằng thuốc nhuộm EtBr và tia UV
Để thiết lập một biểu đồ như vậy, một loại các quá trình cắt giới hạn phải được
thực hiện. Đầu tiên, số lượng và kích cỡ các đoạn được phân tách bởi các enzyme
giới hạn khác nhau phải được xác định bằng điện di trên gel sau đó so sánh với
các marker (Hình 4.16). Số liệu này phải được bổ sung bằng một chuỗi các quá
trình cắt song song, trong đó DNA được cắt bằng 2 enzyme giới hạn cùng một
lúc. Có thể thực hiện được việc cắt song song trong cùng 1 bước nếu cả hai
enzyme có cùng điều kiện về pH, nồng độ Mg2+, vv. Ngoài ra, hai quá trình phân
cắt này có thể thực hiện lần lượt, điều chỉnh các hỗn hợp phản ứng sau quá trình
đầu tiên để cung cấp những điều kiện cần thiết cho quá trình cắt bằng enzyme thứ
2.
So sánh kết quả của việc cắt riêng rẽ và song song cho phép biểu thị nhiều vị
trí giới hạn (Hình 4.16) tuy nhiên không phải tất cả. Sự mơ hồ này có thể giải
quyết bằng quá trình “ phân cắt từng phần”, được thực hiện trong điều kiện chỉ
cắt tại một số lượng các vị trí giới hạn nhất định trên bất cứ phân tử DNA nào.
Phân cắt từng phần thường được thực hiện bằng cách giảm thời gian ủ, do đó
enzyme không đủ thời gian để cắt tại tất cả các vị trị giới hạn, hoặc bằng cách ủ
ở nhiệt độ thấp (ví dụ như ở 4 ° C chứ không phải là 37 ° C), làm hạn chế hoạt
động của enzyme.
Kết quả của việc cắt giới hạn là một tổ hợp các band phức tạp trong quá trình
điện di trên gel. Cũng như các đoạn tiêu chuẩn, được phân tách từ quá trình cắt
hoàn toàn, có thể nhìn thấy các đoạn kích cỡ lớn hơn. Đây là những phân tử bao
gồm 2 đoạn giới hạn, được phân cách bởi 1 vị trí chưa bị cắt. Kích cỡ của chúng
cho biết những đoạn giới hạn nào trong quá trình cắt hoàn toàn nằm cạnh nhau
trong một phân tử chưa được cắt (Hình 4.16).
Hình 4.17 Ảnh hưởng của kích thước DNA lên tốc độ di chuyển trong quá trình
điện di thông thường
Hình 4.19 Quá trình nối: bước cuối cùng trong việc tạo thành 1 phân tử DNA tái
tổ hợp
4.3.1 Phương thức hoạt động của DNA ligase
Mọi tế bào sống đều sản xuất enzyme DNA ligase, nhưng loại enzym được sử
dụng trong kỹ thuật di truyền thường được tinh chế từ vi khuẩn E. coli bị nhiễm
phage T4. Trong tế bào, enzym thực hiện chức năng rất quan trọng là sửa chữa
bất kỳ điểm gián đoạn nào có thể phát sinh ở một trong những sợi đơn phân tử
sợi kép (Hình 4.4). Một điểm gián đoạn là vị trí mà liên kết phosphodiester giữa
các nucleotide liền kề bị thiếu (khác với một đoạn nick (đoạn mất DNA ngắn) là
nơi mà một hoặc nhiều nucleotide bị thiếu). Mặc dù các điểm gián đoạn có thể
phát sinh do sự đứt gẫy ngẫu nhiên của các phân tử DNA của tế bào, chúng cũng
là kết quả tự nhiên của các quá trình như sao chép và tái tổ hợp DNA. Do đó
ligase đóng vai trò quan trọng trong tế bào. Trong ống nghiệm, các enzyme DNA
ligase đã tinh chế, ngoài sửa chữa các gián đoạn sợi đơn, cũng có thể kết hợp với
các phân tử DNA riêng lẻ hoặc hai đầu của cùng một phân tử. Phản ứng hóa học
liên quan đến việc ligating hai phân tử giống như với sửa chữa gián đoạn, ngoại
trừ phải tạo hai liên kết phosphodiester, mỗi sợi một liên kết.
Phương pháp thứ hai để gắn các đầu dính vào một phân tử đầu bằng được thiết
kế để tránh vấn đề này. Adaptor, giống như linker, là các oligonucleotides tổng
hợp ngắn. Nhưng không giống như các linker, adaptor được tổng hợp sao cho có
sẵn một đầu dính (Hình 4.23a). Tất nhiên ý tưởng sẽ là nối đầu bằng của adaptor
với đầu bằng của đoạn DNA để tạo ra phân tử mới có đầu dính. Nghe có vẻ là
một phương pháp đơn giản nhưng trong thực tế sẽ phát sinh ra nhiều vấn đề. Các
đầu dính của các phân tử adaptor riêng lẻ có thể kết hợp với nhau để hình thành
các dimer (hình 4.23b), do đó phân tử DNA mới vẫn còn đầu bằng (hình 4.23c).
Các đầu dính có thể được tái tạo bằng cách phân hủy với sự giúp đỡ của
endoglucanase cắt giới hạn, nhưng điều đó sẽ đi ngược lại mục đích của việc sử
dụng adaptors ở bước đầu. Câu trả lời cho vấn đề nằm trong cấu trúc hóa học
chính xác của các đầu phân tử adaptor. Thông thường, hai đầu của một sợi
polynucleotid có sự khác biệt về mặt hoá học, một sự thật thu được từ việc kiểm
tra kỹ lưỡng cấu trúc polyme của DNA (Hình 4.24a). Một đầu, được gọi là đầu
5’, chứa một nhóm phosphat (5'-P); đầu còn lại, đầu 3’, có một nhóm hydroxyl
(3'-OH). Trong đường xoắn kép, hai sợi ngược chiều nhau (hình 4.24b), do đó,
mỗi đầu của một phân tử kép bao gồm một đầu cuối 5'-P và một đầu 3'-OH. Quá
trình nối xảy ra giữa đầu 5'-P và 3'-OH (Hình 4.24c).
Các phân tử adaptor được tổng hợp để đầu bằng giống như DNA“tự nhiên”,
nhưng đầu dính là khác nhau. Đầu cuối 3'-OH của đầu dính cũng giống như thông
thường, nhưng đầu cuối 5'-P được sửa đổi: nó thiếu nhóm phosphate, và thực ra
là một đầu 5'-OH (Hình 4.25a). DNA ligase không thể tạo thành cầu nối
phosphodiester giữa 5'-OH và 3'-OH. Kết quả là, mặc dù sự bắt cặp ba zơ luôn
xảy ra giữa các đầu dính của các phân tử adaptor, nhưng sự kết hợp này không
bao giờ được ổn định bằng việc nối (hình 4.25b).
Vì thế, các adaptor có thể gắn kết với một phân tử DNA đầu bằng nhưng không
phải với chính nó. Sau khi gắn adaptor, điểm cuối 5'-OH bất thường được chuyển
đổi sang dạng tự nhiên 5'-P bằng cách xử lý với enzyme polynucleotide kinase
(trang 50), tạo ra một đoạn có đầu dính có thể được chèn vào một vector thích
hợp.
Hình 4.25 Cách sử dụng
adaptor:
a) Cấu trúc thực tế của một adaptor,
với đầu 5’-OH
b) Sự thay đổi tư đầu bằng sang đầu
dính bằng cách gắn các adaptor
Để thực hiện việc nối đầu bằng xử dụng DNA topoisomerase, phải sử dụng q
loại vector tách dòng đặc biệt. Đây là một plasmid đã được duỗi thằng bởi hoạt
tính nuclease của DNA topoisomerase từ virus vaccinia. Enzyme topoisomerase
của vaccinia phân cắt DNA ở vị trí CCCTT, chỉ xuất hiện duy nhất một chỗ trong
plasmid. Sau khi cắt plasmid, các enzyme topoisomerase vẫn gắn kết bằng các
liên kết cộng hóa trị với các đầu bằng thu được. Phản ứng có thể được dừng lại
tại thời điểm này, cho phép vector được lưu trữ cho đến khi cần thiết.
Sự phân cắt bởi topoisomerase dẫn đến các đầu 5'-OH và 3'-P (Hình 4.28a).
Nếu các phân tử được tách có đầu bằng đã được tạo ra từ một phân tử lớn hơn
bằng cách phân cắt với một enzyme hạn chế, thì chúng sẽ có các đầu 5'-P và 3'-
OH. Trước khi trộn những phân tử này với vector, các gốc phosphate cuối cùng
của chúng phải được loại bỏ để tạo ra các đầu 5'-OH có thể ligate tới đuôi 3'-P
của vector. Do đó những phân tử này được xử lý bằng alkaline phosphatase (Hình
4.28b).
Thêm các phân tử được loại bỏ gốc phosphat vào vector sẽ tái hoạt hóa các
topoisomerases bị ức chế tiến tới giai đoạn nối của chúng. Quá trình nối xảy ra
giữa các đầu 3'-P của vectơ và các đầu 5'-OH của các phân tử đã được loại bỏ gốc
phosphat. Từ đó, các phân tử có đầu bằng được đưa vào các vectơ. Chỉ có một
sợi được nối vào mỗi điểm nối (hình 4.28c), nhưng đây không phải là vấn đề bởi
vì các điểm gián đoạn sẽ được sửa chữa bởi các enzyme tế bào sau khi các phân
tử tái tổ hợp đã được đưa vào vi khuẩn chủ.