ChuaGiesuNoiBangDuNgon PDF

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 159

NỘI DUNG

GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT 02

CHÚ GIẢI 15

1. NGƯỜI GIEO GIỐNG ( Mt 13,1-9 ) 15

2. NGƯỜI SA-MA-RI NHÂN HẬU( Lc 10,25-37 ) 25

3. DỤ NGÔN CÁC NÉN BẠC ( Mt 25,14-30 ) 42

4. KHÁCH DỰ TIỆC ( Lc 14,15-24 ) 64

5. NHỮNG NGƯỜI THỢ GIỜ THỨ 11 ( Mt 20,1-16 ) 75

6. NGƯỜI CHA NHÂN HẬU ( Lc 15,11-32 ) 89

7. MỤC TỬ NHÂN LÀNH ( Ga 10,1-18 ) 106

8. THỢ VƯỜN NHO SÁT NHÂN ( Mc 12,1-12 ) 126

9.NGƯỜI PHÚ HỘ VÀ ÔNG LADARÔ Lc 16,19-31 133

10. CÂY VẢ KHÔNG TRÁI ( Lc 13,6-9 ) 146

THAY LỜI KẾT 155

-1-
GIỚI THIỆU TỔNG QUÁT

Dụ ngôn1 là gì ?

Là một kiểu nói rất phổ biến trong thế giới do thái. Nó thường
là một sự so sánh, một ẩn dụ, một hình ảnh được kể lại dứoi hình
thức một câu chuyện cụ thể và lôi cuốn mượn từ cuộc sống hằng
ngày với mục đích khiến cho người nghe suy nghĩ không phải về
những ý tưởng trừu tượng mà về những thái độ sống.

Dụ ngôn trong Kinh Thánh nhằm mục đích gì ?

Nhằm gián tiếp nói cho ta biết THIÊN CHÚA LÀ AI ? và


NGÀI CHỜ ĐỢI GÌ NƠI CON NGƯỜI. Dụ ngôn không mô tả nước
Thiên Chúa là gì, nhưng vạch cho ta những thái độ thích hợp để đón
nhận Nước ấy. Dụ ngôn là lời mời gọi thay đổi, thay đổi đời sống,
thay đổi những ý nghĩ bất toàn, không chính xác mà ta có thể có về
Thiên Chúa.

Đối với thính giả thời Chúa Giêsu, Nước Trời như thế nào ?

Nước trời là hình ảnh quen thuộc, dựa trên niềm xác tín rằng
Thiên Chúa đã kí Giao ước với nhân loại, Ngài là đấng giải phóng và
lịch sử nhân loại sẽ đi đến cứu độ.

Người do thái dùng hình ảnh ông Vua để chỉ uy quyền của
Thiên Chúa. Các vua trần gian thường ít sống gương mẫu và hay
dùng quyền thống trị, áp bức, khai thác dân chúng thay vì phục vụ

1
Dụ ngôn : Nguyên ngữ hi lạp là : Para Ballein : ném qua một bên,
phóng chiếu, gợi chú ý để đi xa hơn... từ đó mà có từ Antenne Paraboles để
trên mái nhà, bắt sóng và hình ảnh để chiếu to lên trên màn hình.

-2-
họ... những người do thái đạo đức xin Thiên Chúa làm Vua của họ,
một vị vua gần gũi, yêu thương người nghèo, người yếu đuối, bị bóc
lột.

Chúa Giêsu tự hiến hòan toàn để phục vụ cho Nước Cha Ngài
ngự đến. Mỗi dụ ngôn của Ngài đều mạc khải một khía cạnh nào đó
của Nước này trên trần gian :

- Nơi những ‘rào cản’ ngăn cách hay loại trừ bị phá đổ

- Nơi những tương quan giữa con người với Thiên Chúa
được đặt trên nền tảng tín thác và yêu thương chứ không
phải sợ hãi.

- Nơi tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha nhân, nhìn nhau
như ‘anh em’, bổ túc cho nhau thay vì loại trừ nhau.

- Nơi luật lệ không còn được coi là cứu cánh, mà là một


phương tiện để phụng sự cuộc sống và tình yêu.

Đức Giêsu thường nói về Nước Trời để làm gì ?

Không phải để ta tìm cách thoát khỏi thế gian nhưng để nói với
ta rằng Thiên Chúa ở với ta để giúp ta cải biến thế gian hầu con
người có thể sống trong bình an, hòa thuận. Chính thế gian này được
kêu gọi trở nên Nước Chúa. Và nó sẽ trở thành Nước Chúa mỗi khi
tình yêu chiến thắng hận thù, tha thứ thay cho thù oán... dĩ nhiên,
nước Chúa là một thực tại ‘sẽ-đến’ theo nghĩa nó sẽ chỉ được thực
hiện trọn vẹn mai sau, nhưng được xây dựng ngay từ bây giờ. Chúa
Giêsu đòi hỏi ta phải cầu nguyện và hành động để cho Nước Chúa trị
đến.

TẠI SAO CHÚA DÙNG DỤ NGÔN

Đức Giêsu không phải là người phát minh ra dụ ngôn. Các


kinh sư cũng thường sử dụng dụ ngôn, nhưng giữa họ và Chúa Giêsu
có một số khác biệt :

-3-
1. Nhân vật trong dụ ngôn của các kinh sư thường là những
người có địa vị cao sang trong xã hội : vua chúa, ông
chủ, bà chủ... còn Chúa thường dùng hình ảnh của những
người bình thường, dân dã : thợ thuyền, người gieo
giống, mục tử, người trồng nho.
2. Các kinh sư dùng những bối cảnh cao sang còn Chúa
Giêsu thường dùng những cảnh đời thường vì Ngài tin
và muốn cho mọi ngừoi hiểu rằng Thiên Chúa hiện hữu
trong cuộc sống bình nhật và đó chính là nơi Ngài quan
tâm. Nhìn một cách khác, Nước Thiên Chúa chính là thế
giới chúng ta đang sống.
3. Các kinh sư dùng dụ ngôn để cắt nghĩa Thánh Kinh cho
mọi người hiểu. Chúa Giêsu dùng dụ ngôn giúp ta nắm
bắt được những thực tại thiêng liêng, Nước Chúa... từ
việc quan sát cuộc sống bình nhật.

DỤ NGÔN CÓ ÍCH LỢI GÌ ?

Dụ ngôn là phương pháp sư phạm rất hiệu quả. Nó bắt người


nghe phải có thái độ, có lập trường chứ không trung dung được. Ví
dụ :

Để chiếm đoạt nàng Bet-xa-bê diễm lệ, vua Đavít đã tìm cách
để Uria, chồng nàng bị tử trận... điều đó khiến Chúa phật lòng nên
Ngài đã sai tiên tri Nathan đến kể cho Đavít dụ ngôn sau : 2S 12, 1-
7a

ĐỨC CHÚA sai ông Na-than đến với vua Đa-vít.


Ông vào gặp vua và nói với vua :
"Có hai người ở trong cùng một thành,
một người giàu, một người nghèo.
Người giàu thì có chiên dê và bò, nhiều lắm.
Còn người nghèo chẳng có gì cả,
ngoài con chiên cái nhỏ độc nhất ông đã mua.
Ông nuôi nó, nó lớn lên ở bên ông, cùng với con cái ông,
nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông,
ngủ trong lòng ông : ông coi nó như một đứa con gái.
Có khách đến thăm người giàu,
-4-
ông này tiếc của, không bắt chiên dê hay bò của mình
mà làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông.
Ông bắt con chiên cái của người nghèo
mà làm thịt đãi người đến thăm ông."
Vua Đa-vít bừng bừng nổi giận với người ấy và nói với ông
Na-than : "Có ĐỨC CHÚA hằng sống ! Kẻ nào làm điều ấy, thật
đáng chết ! Nó phải đền gấp bốn con chiên cái, bởi vì nó đã làm
chuyện ấy và đã không có lòng thương xót." Ông Na-than nói với
vua Đa-vít : "Kẻ đó chính là ngài ! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của Ít-
ra-en, phán thế này : Chính Ta đã xức dầu phong ngươi làm vua cai
trị Ít-ra-en, chính Ta đã giải thoát ngươi khỏi tay vua Sa-un.

Vậy là dụ ngôn khiến người nghe phải có lập trường, phải dấn
thân vào một tình huống cụ thể. Nhưng câu chuyện kể khéo đến độ
người nghe không biết là nói về mình. Một cách nào đó, các nhân vật
trong dụ ngôn dấu mặt tới cuối mới lộ ra.

CHÚA DÙNG DỤ NGÔN RA SAO ?

Là nhà sư phạm lão luyện và tâm lý gia đại tài, Chúa Giêsu
biết rằng thính giả của mình có những quan niệm rất sai về Thiên
Chúa và về cách thế đi theo Người. Song Ngài không muốn chặn đầu
họ ngay : ‘Ông lầm rồi, ông không hiểu gì cả...’ Ngài thích giúp họ
dần dà khám phá ra sự thực về chính mình một cách bất ngờ khởi đi
từ việc quan sát những sự kiện trong đời thường. Như vậy, Chúa
Giêsu giúp họ nắm bắt được những thực tại thiêng liêng và đề cao
những giá trị phổ quát về con người.

Chúa Giêsu là ánh sáng nhưng những người sống tầm thường
lại không thích ánh sáng lắm. Họ chẳng muốn ai phơi bày khiếm
khuyết của mình cả... trái lại, họ rất thích nhấn mạnh đến lỗi lầm của
người khác ! khi mặt nạ đã được gỡ bỏ, thính giả sẽ phản ứng, nhưng
phản ứng của họ không bao giờ vì bị áp đặt mà hòan toàn tự do :

- Hoặc họ nhận ra lầm lỗi của mình và quyết định hoán cải
( như Đavit ).
- Hoặc họ khước từ ánh sáng để không thay đổi ( Mc 12,
12 ).
-5-
Nhiều dụ ngôn trực tiếp nhằm đến các Tiến sĩ luật và biệt phái,
những người tin mình biết rõ Thiên Chúa và thánh ý Người. Họ
không chấp nhận giáo lý và công việc của Chúa Giêsu. Qua các dụ
ngôn, Chúa Giêsu tìm cách giúp họ nhìn lại quan điểm của mình.
Thêm vào đó, dụ ngôn cũng là một cách để Chúa Giêsu minh định
thái độ của chính Ngài, chẳng hạn dụ ngôn ‘ Người Sa-ma-ri nhân
hậu’ và dụ ngôn ‘Người cha nhân từ’ mà ta sẽ đề cập đến sau. Bây
giờ ta cùng xem dụ ngôn : ‘Hai người mắc nợ’ ( Lc 7, 41-43 )

Dụ ngôn được kể lại sau một loạt hành động và lời nói chứng
tỏ Chúa Giêsu có một thái độ khác hẳn các nhà lãnh đạo tôn giáo
thời đó : Ngài chạm đến người phong cùi ( Lc 5, 13 ), tha tội cho
người bất toại tại Capharnaum ( Lc 5, 20 ), chữa lành một người
bệnh trong ngày lễ nghỉ ( Lc 6, 6-11 )... tất cả những việc này đều bị
cấm. Tình huống như sau :

Ông Simon, một người biệt phái, mời Chúa Giêsu đến nhà,
chắc chắn vì ông tin Chúa Giêsu là một vị tiên tri ( Lc 7, 16 ). Khi họ
đang dùng bữa thì một phụ nữ mang tiếng là ‘tội lỗi’ ( có thể đây là
một cô gái điếm, hay một người khuyết tật, hay vợ một mục tử... ).
Dẫu sao, chị ta có mặt ở đó, vì chị biết là Chúa Giêsu không xua
đuổi bất cứ ai. Nếu không, chị đã chẳng bao giờ dám bước vào nhà
ông Simon. Thật vậy, những người biệt phái không bao giờ tiếp xúc
với những ‘người tội lỗi’, vì thế mà họ có tên là ‘biệt phái’. Người
phụ nữ, vừa khóc, nước mắt ướt đẫm chân Chúa, vừa lấy tóc lau
chân Ngài và đổ dầu thơm lên đó. Ông Simon không hiểu tại sao
Chúa Giêsu không xua đuổi chị ta, vì đối với một người biệt phái, để
cho một người tội lỗi vào nhà là làm tổn hại đến chính mình và có
nguy cơ bị ô uế. Vì thế, đối với họ, không lui tới với người tội lỗi là
một bổn phận tôn giáo.

Chúa Giêsu chống lại tội lỗi, nhưng như Thiên Chúa Cha, Ngài
đón nhận tội nhân và tha thứ cho họ để họ có thể hoán cải. Chúa
Giêsu không bảo thẳng người biệt phái :

- Ông cũng chẳng hơn gì người phụ nữ tội lỗi này đâu.
Ông cũng thế, ông cũng bất trung với Thiên Chúa khi kết
án chị ta đấy.

-6-
Nếu Chúa nói vậy, người biệt phái sẽ bị tổn thương và đóng
kín cửa lòng. Để giúp ông hiểu rõ, Chúa Giêsu kể cho ông dụ ngôn
‘hai người mắc nợ’ ( Lc 7, 41-48 ).

Ta thấy, dụ ngôn không lý luận mà chỉ là một phương thế


truyền thông nhằm cho cuộc đối thọai không bị tắc. Người phụ nữ đã
chạm đến Chúa Giêsu và theo luật, đã khiến Chúa bị ô uế. Đối với
người biệt phái, đây là một vụ phạm luật trầm trọng. Chúa sẽ không
bình phẩm, vì làm thế sẽ vô ích, Ngài cũng không biện hộ cho lòng
khoan hồng, làm thế sẽ gây hiểu lầm, nguời ta sẽ kết luận là Ngài
theo chủ nghĩa khoan hòa, vô luân...

Vì là một tâm lý gia đại tài, Chúa Giêsu mới kể câu chuyện về
một người chủ nợ tha bổng mọi nợ nần cho các con nợ. Ông Simon
trở lại với vòng xoáy của dụ ngôn, nhưng chưa nhìn ra mối tương
quan giữa câu chuyện này và thái độ của người phụ nữ. Những người
biệt phái thường tự hào mình chẳng hề mắc nợ ai, ông không thể trả
lời cách nào khác được. Ông phán đoán sự việc theo kiểu trần gian
và Chúa Giêsu đã khen ông nghĩ đúng. Chính lúc ấy, Chúa Giêsu
mới mở mắt cho ông thấy mối tương quan giữa người chủ nợ và
Thiên Chúa. Trong cử chỉ của người phụ nữ, Ngài đọc thấy những
dấu chỉ yêu thương, những dấu chỉ tha thứ của Thiên Chúa mà Chị
đã đón nhận. Khi chị tự nhiên đụng chạm đến Ngài, Ngài nhận thấy
cả một niềm tin được hiển lộ : ‘ Đức tin của con đã cứu con, con đã
được thứ tha...’ Những dấu chỉ yêu thương này, người biệt phái đã
không nhận ra. Tin rằng mình trong sạch, ông chẳng cần mở lòng
đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa.

Dụ ngôn giúp Chúa Giêsu tránh bế tắc với những luật lệ và


biến đổi cái nhìn của ông Simon về người phụ nữ. Thái độ của chị
không còn bị xem là phạm luật sạch, bẩn nữa nhưng trở thành biểu
hiện của sự đón nhận ơn tha thứ từ nơi Thiên Chúa. Như vậy, Chúa
Giêsu đã mạc khải một Thiên Chúa lấy yêu thương thắng vượt sợ
hãi. Do đó, nguời biệt phái bắt buộc phải chọn lựa :

- Hoặc là duy trì cách phán đóan quen thuộc của mình :
hoài nghi lòng tha thứ và tình yêu của Thiên Chúa.

-7-
- Hoặc tin vào sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng lúc ấy
ông sẽ phải đặt lại tòan bộ cách hiểu biết về ơn tha thứ
của mình. Theo Luật do thái, chỉ có các tư tế mới có
quyền ban ơn tha thứ ( Chúa Giêsu là giáo dân ). Và để
lãnh nhận được ơn tha thứ ấy, người ta còn phải dâng lễ
hi sinh trong Đền thờ nữa. Trong khi ở đây thì chẳng có
điều kiện gì...

Chúa Giêsu giúp ông Simon phán đóan giống như mình. Chắc
chắn Người phụ nữ là kẻ tội lỗi rồi, nhưng khi liều đến nhà người
biệt phái, ( hẳn chị phải can đảm lắm mới dám đến nhà một người
biệt phái, những người ‘trong sạch’ !), chị chứng tỏ tình yêu của
mình lớn tới mức nào, điều đó cho thấy chị đã đón nhận được ơn tha
thứ của Thiên Chúa. Khi tuyên bố với ông Simon : ‘ các tội của chị
đã được tha’, Chúa Giêsu đã công khai thừa nhận đức tin của chị.
Như vậy, Ngài giúp người biệt phái có một cái nhìn khác về chị ta,
giúp ông nhận ra chính mình cũng là người tội lỗi và không đón nhận
ơn tha thứ của Thiên Chúa. Ông cũng được kêu mời hóan cải và biểu
lộ thêm tình yêu. Nhưng để đón nhận được ơn cứu độ, để được thứ
tha, trước tiên phải nhìn nhận mình cần được cứu vớt đã !

DỤ NGÔN, LIỆU PHÁP GÂY SỐC

Dụ ngôn gây sốc bằng 2 cách :

- Hoặc bằng cách cho thấy là câu chuyện đã thực sự đề


cập đến những điều thuộc phạm vi đức tin.

- Hoặc bằng cách đưa 1 điều lạ thường vào câu chuyện rất
đỗi bình thường.

Có người mục tử nào bỏ 99 con chiên để đi tìm 1 con chiên lạc


không? Có nguời gieo giống nào lại gieo bên vệ đường, trên đá sỏi ?
Có ông chủ nào lại trả công cho thợ làm 1 giờ bằng người làm cả
ngày ?

Các dụ ngôn thường bắt đầu một cách bình thường rồi bỗng
nhiên biến thành lạ thường. Đó chính là điều phi thường, điều kì diệu
trong sự bình thường ! chúng được kết cấu như vậy để nói rằng
-8-
Thiên Chúa là một ‘Đấng khác hẳn’ trong cuộc đời chúng ta. Thái độ
của Thiên Chúa luôn bất ngờ, lạ lùng. Ngài hòan tất những điều kì
diệu với ta, nhờ ta và cho ta. Thiên Chúa thật lạ. Chúa Giêsu cho
thính giả thấy rõ là có một hệ thống đánh giá khác. Chẳng hạn, trong
dụ ngôn ‘những người thợ giờ thứ mười một’, câu ‘tôi sẽ trả cho các
anh hợp lẽ công bình’Mt 20, 4 ) không giống nhau giữa lối hiểu của
các nhà lãnh đạo tôn giáo và của Chúa Giêsu. Lòng nhân từ của ông
chủ vườn phá tan hình ảnh của một thế giới bị hệ thống công xá chi
phối, không còn chỗ cho tình cảm. Nhưng đối với Thiên Chúa, sẽ
chẳng có công bình nếu không có nhân ái. Qua các dụ ngôn của
mình, Chúa Giêsu bắt ta đặt lại cách nhìn và phán đóan sự vật...

Chẳng hạn trong dụ ngôn Con chiên lạc mất được tìm thấy

"Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất
một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để
đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ? Tìm được rồi, người ấy mừng
rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và
nói : 'Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con
chiên bị mất đó.' Vậy, tôi nói cho các ông hay : trên trời cũng thế, ai
nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín
mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn (Lc 15,
4-7 )
Có hai điều gây ngạc nhiên : người mục tử bỏ 99 con chiên
trong sa mạc để đi tìm một con duy nhất, con bị lạc mất và kết luận
của Chúa Giêsu : Vậy, tôi nói cho các ông hay : trên trời cũng thế, ai
nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín
mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn ( Lc
15,7 ).

Trong dụ ngôn này, lòng nhân ái vô biên của Thiên Chúa đối
với tội nhân ( con chiên lạc ) và niềm vui của Người khi thấy họ
hoán cải, niềm vui mà Người chia sẻ với cả triều thần trên trời được
nhấn mạnh. Chúa Giêsu cũng nhấn mạnh rằng sự hóan cải chỉ có thể
có vì Thiên Chúa đã khởi xướng đi tìm trước. Điều này trái ngược
hẳn với thời đó khi người ta tin vào một Thiên Chúa trừng phạt tội
nhân và chỉ tha thứ nếu họ dâng lễ hi sinh đền tội. Đây cũng chính là
cách Chúa trả lời cho thái độ giận dữ của các Biệt phái khi thấy Ngài

-9-
lui tới với người tội lỗi và ăn uống với họ. Tuy nhiên, khi làm như
vậy Chúa cũng chỉ bắt chước Thiên Chúa mà thôi.

Trong thực tế, chỉ những kẻ tự cho mình là công chính mới
ngạc nhiên trước thái độ của Chúa Giêsu thôi... còn những người thật
sự nhìn rõ mình đều biết quá rõ mình là tội nhân. Làm gì có 99 người
không cần hoán cải. Thánh Phaolô đã chẳng viết : ‘chẳng có ai là
công chính trước mặt Thiên Chúa cả’( Rm 3, 10 ) đó sao ! Đây chính
là điều Chúa Giêsu muốn giúp người biệt phái hiểu, nhưng hiển
nhiên cũng là điều có giá trị cho chúng ta hôm nay. Dụ ngôn bảo
rằng chúng ta đều là tội nhân nhưng nhất là bảo rằng Thiên Chúa tìm
kiếm chúng ta, không phải để trừng phạt nhưng để ta được hòa giải
và được chia sẻ niềm vui của Người.

DỤ NGÔN CHẤT VẤN TA

Các dụ ngôn kho tàng và viên ngọc là 1 ví dụ điển hình

"Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng.
Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất
cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy.
"Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm
ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả
những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.( Mt 13, 44-46 ).

Chúa Giêsu biết rõ kho tàng, của cải bao giờ cũng hấp dẫn
nhất. (Ngày nay cứ nhìn cảnh người ta đâm đầu vào cá cược thì đủ
biết ) Dựa vào tâm lý ấy Chúa Giêsu đã so sánh Nước Trời như 1
kho tàng. Hiển nhiên là hai nhân vật trong dụ ngôn được đặt trước
một tình huống hòan toàn mới mẻ. Họ cần có thời gian để suy nghĩ,
nhận định. Trước khi bán hết những gì mình có, họ phải đoan chắc
rằng điều mình đã tìm thấy đáng giá hơn những gì mình sở hữu
nhiều. Vì thế, không có vấn đề họ ‘bị thiệt’.

Nước Trời cũng thế. Kẻ nghe lời Chúa đứng trước một tình
huống mới, trước những chọn lựa mới. Họ cần có thời gian suy nghĩ.
Phải làm gì ? nếu họ tin Lời Chúa là một ‘kho tàng’, một nguồn suối,
một nguồn hạnh phúc, họ sẽ thưa ‘vâng’. Họ sẽ tương đối hóa một số

- 10 -
điều mà trước đó đầy giá trị đối với mình và họ sẽ quyết định làm tất
cả để đạt được kho tàng, để, có lẽ, đổi hướng đời mình. Điều này
không có nghĩa rằng họ sẽ không còn yêu mến con người và sự vật
thuộc trần thế này nữa, nhưng họ sẽ yêu chúng một cách khác, so với
Nước Trời. Tình yêu của Thiên Chúa sẽ là ánh sáng chiếu soi toàn bộ
đời họ. Chọn lựa Thiên Chúa là lên đường kiện toàn nhân tính, là lên
đường đến bến bờ hạnh phúc.

DỤ NGÔN GIEO NIỀM HI VỌNG

Để nói lên niềm tin của mình và đánh thức niềm hi vọng của
thính giả, Chúa Giêsu đã kể một số dụ ngôn nói đến ‘sự tăng
trưởng’, chẳng hạn 2 dụ ngôn sau :

Đức Giê-su còn trình bày cho họ nghe một dụ ngôn khác.
Người nói : "Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy
gieo trong ruộng mình. Tuy nó là loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt
giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất ; nó trở thành cây,
đến nỗi chim trời tới làm tổ trên cành được." ( Mt 13,31-32 )

Người còn kể cho họ một dụ ngôn khác : "Nước Trời cũng


giống như chuyện nắm men bà kia lấy vùi vào ba thúng bột, cho đến
khi tất cả bột dậy men." ( Mt 13,33 ; cf. Lc 13, 18-19 ; 20-21 )
Hai dụ ngôn này bổ túc cho nhau, ta có một bên là ‘nhỏ tí xíu’
( hạt cải ) và bên kia là ‘sức mạnh tăng trưởng’ ( nắm men ). Điều
nhấn mạnh ở đây là sức mạnh tác động để một hạt cải nhỏ tí trở
thành một cây lớn vượt bực ( 3m ). Cũng vậy, Chúa Giêsu nhấn ạnh
đến sức mạnh phi thường tiềm ẩn trong nắmm men vì, trộn với 3 đấu
bột ( khoảng 50kg ), nó có khả năng làm dậy cả khối bột này.

Như vậy, quan sát những sức mạnh hoạt động trong thiên
nhiên đã giúp Chúa Giêsu đưa thính giả sang một bình diện khác,
bình diện của những thực tại thiêng liêng. Hạt cải và nắm men gần
như vô hình, thì Nước Trời xem ra cũng vậy. Chúa Giêsu biết rõ sức
mạnh lạ lùng của Thánh Thần Thiên Chúa. Nơi con người chỉ thấy
một hạt mầm nhỏ bé, thì Chúa Giêsu ‘nhìn ra’ cả một cây cao lớn.
Nước Trời sẽ đón nhận hằng hà sa số con người vào lúc tận thế. Nơi
mắt con người chỉ nhận ra một chút men ( các môn đệ ), trong một

- 11 -
thúng bột ( trần gian ), Chúa Giêsu ‘nhìn ra’ Giáo Hội của Ngài lớn
dậy để ‘nuôi sống’, để làm no thỏa cơn đói khát của tòan nhân loại.
Vì thế, Chúa Giêsu tin vào sự tăng trưởng không cưỡng lại được của
Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho Nước Trời dần dần xuất hiện và
Ngài tìm cách chia sẻ niềm xác tín của mình. Những dụ ngôn khác
như : Hạt giống tự mọc ( Mc, 4, 26-29 ), người gieo giống cũng cùng
một ý nghĩa.

KẾT LUẬN

1. Dụ ngôn hàm chứa nhiều ý nghĩa

Y nghĩa mà ta phải tìm không phải ở trong chi tiết, nhưng


trong tòan thể. ( chẳng hạn, đừng tức tối với những thiếu nữ khôn
ngoan không chia dầu, vả lại, đã qúa muộn rồi, vì đã đến giờ phán
xét, nhưng hãy tìm ý nghĩa tổng quát : ‘Hãy tỉnh thức, hãy sẵn
sàng...’ nghĩa là ‘ yêu thương thực sự’, vì người yêu thương thực sự
luôn sẵn sàng, luôn tỉnh thức đợi chờ... )

2. Dụ ngôn không quan tâm đến ý tưởng, đến lý thuyết cho


bằng đến thái độ phải có.

Dụ ngôn trình bày Nước Trời như một thực tại gắn
liền với đời sống cụ thể, một thực tại đang tiến tới, phát
triển.

3. Dụ ngôn, khi mặc khải một Thiên Chúa gần gũi, nhân từ,
mời gọi ta chiêm ngắm Người và thanh tẩy cách ta giới
thiệu Người.
4. Dụ ngôn là lời mời gọi ta dấn thân để xây dựng Nước
Trời với Thiên Chúa và anh em mình, nhưng mỗi người
đều có quyền tự do đáp trả.
5. Dụ ngôn phải được đọc như đang nói với chính ta.

Thường thì ta có thể nhận ra mình trong thái độ của 1


nhân vật nào đó trong dụ ngôn : chẳng hạn trong thái độ của
người con hoang đàng, của nguời con cả nhưng cũng trong cả
người cha nữa... Chúa Giêsu là ‘Dụ Ngôn’ của Thiên Chúa
- 12 -
theo nghĩa nơi Ngài, sự hiện diện biến đổi của Thiên Chúa trở
nên vừa gần gũi vừa kín đáo.

NHỮNG ĐIỀU CẦN THIẾT ĐỂ HIỂU MỘT DỤ NGÔN

1. Nhớ rằng dụ ngôn là thành phần của Tin Mừng, vì thế


nó là một Tin Mừng được viết bởi các tín hữu đã có
những xác tín mà ta có thể tóm tắt như sau :

- Thiên Chúa là tình yêu : Người yêu thương hết mọi


người và muốn cứu vớt họ, Người muốn họ được
hạnh phúc.

- Thiên Chúa đã giao uớc với nhân loại : Điều này có


nghĩa rằng Người cũng kể đến, cũng cần đến ‘sự
bằng lòng’ của họ để hành động. Một cách nào đó,
Thiên Chúa cần đến bàn tay, cần đến trái tim chúng
ta. Nguời muốn ta lãnh trách nhiệm về hạnh phúc
của mình và anh em mình.

- Yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em song


song với nhau, ta không thể yêu mến Thiên Chúa mà
không yêu thương mọi người khác, bất kể họ là ai.

2. Đọc kĩ bản văn : cảnh giác những kết luận quá vội vàng
( vd : đối với dụ ngôn ‘Những người thợ giờ thứ 11’ )
3. Tìm xem Chúa Giêsu ngỏ lời với ai và nói về vấn đề gì.
4. Có kiến thức tối thiểu về căn tính của các nhân vật được
nói đến ( người Samaritain, Lêvi, Thu thuế, Biệt phái... )
về niềm tin và phong tục thời đó.
5. Đặt dụ ngôn vào bối cảnh tin mừng : nội dung những
bản văn trước và sau dụ ngôn.
6. Tìm xem những bản văn tin mừng khác, đặc biệt là
những hành động tương tự của Chúa Giêsu so với dụ
ngôn học hỏi.

- 13 -
7. Tự hỏi xem dụ ngôn liên quan thế nào với ta hôm nay :
cá nhân ta cũng như tập thể ta đang sống.

Đôi khi chúng ta cảm thấy khó hiểu và ngay cả khó chấp nhận
sứ điệp của Chúa Giêsu trong một số dụ ngôn, vd : dụ ngôn các nén
bạc, dụ ngôn những người thợ giờ thứ 11, dụ ngôn khách mời dự
tiệc... sứ điệp này thường khiến ta bức bối. Y tưởng của ta về công
bình, về ơn nhưng không, về sự tha thứ và ngay cả về chính Thiên
Chúa... không luôn giống như điều Chúa Giêsu mạc khải. Các dụ
ngôn thúc đẩy ta cố gắng nhìn lại lập trường của mình. Chắc chắn,
mỗi người được tự do tán đồng hay phản bác, tin tưởng hay khước từ
Chúa Giêsu, nhưng sau khi đã nghiên cứu học hỏi, suy gẫm, cầu
nguyện với một dụ ngôn ta hãy tự hỏi mình xem ta có lý hay những
thái độ mà Chúa Giêsu nêu lên chẳng phải là những điều tốt đẹp nhất
cho con người đó sao.

Sứ điệp của Chúa Giêsu mà ta khám phá qua các dụ ngôn


không phải lúc nào cũng hiển nhiên mà cũng chẳng dễ sống theo
ngay đâu ! Tuy nhiên, những người từng cố gắng theo chân Đức Kitô
đều bảo ta rằng sứ điệp ấy thực sự là một Tin Mừng với tất cả tính
thời sự của nó, sứ điệp ấy là một con đường dẫn ta đến hạnh phúc.

Xin Chúa Thánh Thần soi sáng và củng cố chúng ta !

- 14 -
CHÚ GIẢI

1. NGƯỜI GIEO GIỐNG ( Mt 13,1-9 )

Hôm ấy, Đức Giê-su từ trong nhà đi ra ngồi ở ven Biển Hồ.
Dân chúng tụ họp bên Người rất đông, nên Người phải xuống thuyền
mà ngồi, còn tất cả dân chúng thì đứng trên bờ. Người dùng dụ ngôn
mà nói với họ nhiều điều.Người nói : "Người gieo giống đi ra gieo
giống. Trong khi người ấy gieo, thì có những hạt rơi xuống vệ
đường, chim chóc đến ăn mất. Có những hạt rơi trên nơi sỏi đá, chỗ
đất không có nhiều ; nó mọc ngay, vì đất không sâu ; nhưng khi nắng
lên, nó liền bị cháy, và vì thiếu rễ nên bị chết khô. Có những hạt rơi
vào bụi gai, gai mọc lên làm nó chết nghẹt. Có những hạt lại rơi
nhằm đất tốt, nên sinh hoa kết quả : hạt được gấp trăm, hạt được sáu
chục, hạt được ba chục. Ai có tai thì nghe."

ĐÀO SÂU

Đọc kĩ bản văn. Ghi lại những gì thú vị, ngạc nhiên, ý nghĩa
của chúng.

1. Để hiểu rõ hơn tại sao Đức Giê-su lại kể dụ ngôn này, nên
xem lại toàn bộ Tin Mừng Mt và đặc biệt các trích dẫn
sau :

a. Mt 4,24 ; 7,28 ; 8,2.5.18.19 ; 9,8.10 ; 13,31-


35.44.46.

b. Mt 5,23-24.39.43.44 ; 6,1-8.19 ; 8,26 ; 9,13 ; 10,32 ;


12,10.13-14.24.28 ; 14, 34-36 ; 16,21-22 ; 18,1-4.19-20 ;
21,12-16.

2. Tại sao Đức Giê-su kể dụ ngôn người gieo giống này ?


- 15 -
Xt. St 1,11 ; Hs 2,24-25 ; Is 9,1-2 ; 55,10-11 ; 61,11 ; Tv
126,5 ; Za 6,12 ; Cn 11,18 ; Mt 13,31-35.

3. Thử liên kết đời sống Đức Giê-su và dụ ngôn nhờ vào các
trích dẫn sau :

a. Mt 4,23 ; 5,1 ; 8,18 ; 9,1-3.35 ; 11,1 ; 13, 34-36 ;


15,29 ; 20,29 ; 21,12.

b. Mt 4,25 ; 8,2.5.14.16 ; 9,9-10 ; 10,1 ; 12,2-3 ;


15,22.28 ; 19,13

4. Tìm trong các Tin Mừng khác :

a. Mc 1,40-41 ; 2,15-18 ; 3,1.7-8 ; 5,18-20 ; 6,5-6.

b. Lc 7,5-9 ; 9,57-58 ; 10,25 ; 19,2.5 ; 19,28 ; 19,41-42.

c. Ga 4,3 ; 4,4 ; 4,45 ; 5,1 ; 6,1 7,1-4 ; 10,23-26.

5. Ghi lại điều ta có thể nói về hạt giống và người gieo.

Xt. Mt 19,21-22 ; 26,56 ; Mc 2,12 ; Lc 19,6-9.37 ; 22,45 ; Ga


6,66 ; 7,12 ; 13,1 ; Cv 4,2.4

6. Chia bảng thành 3 cột, để có thể thấy rõ hơn hạt giống ra sao
và thực sự thấy rằng đây là 1 dụ ngôn về niềm hi vọng.
Trong bảng này, chỉ ra :

a. Nơi hạt giống rơi xuống.


b. Điều hạt giống trở thành.
c. Kết quả.

7. Dụ ngôn này là Tin Mừng cho các môn đệ của Đức Giê-su ở
điểm nào ? và cho chúng ta hôm nay nữa ? ( chính xác ).

- 16 -
HỌC HỎI

Văn cảnh

Dụ ngôn người gieo giống là 1 dụ ngôn về Nước Thiên Chúa,


được loan báo trong bối cảnh đối kháng.

Sau những thành công ban đầu của việc loan báo Tin Mừng (
mùa xuân Galilê ), Đức Giê-su bị hiểu lầm và thù ghét. Ngài đến
mang ơn Cứu Độ cho các chiên lạc nhà It-ra-en, ‘Tốt hơn là hãy đến
với các con chiên lạc nhà It-ra-en’ ( Mt 10,6 ) và mời gọi họ hóan
cải : sống quảng đại kín đáo ( Khi làm việc lành phúc đức, anh em
phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy… ( Mt 6,1 ),
thứ tha ( thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người
anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình ( Mt 5,24 ), trung
thành trong đời sống hôn nhân ( Luật còn dậy rằng : ai rẫy vợ, thì
phải cho vợ chứng thư ly dị. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biét, ai
rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình ; và ai cưới người đàn bà bị rẫy,
thì cũng phạm tội ngoại tình ( Mt 5,31-32 ), yêu thương kẻ thù Còn
Thầy, Thầy bảo anh em : hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ
ngược đãi anh em (5,44 ) cầu nguyện Và khi cầu nguyện anh em
đừng làm như bọn đạo đức giả : chúng thích đứng cầu nguyện trong
các hội đường, hoặc ngòai các ngã ba, ngã tưu, cho người ta
thấy…( 6,5 ), cảnh giác với tiền của Không ai có thể làm tôi hai chủ,
vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này
mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa
làm tôi Tiền Của được ( 6,24 )…

Đức Giê-su vừa chứng tỏ rằng quyền năng của Thiên Chúa nơi
mình vượt trên sự dữ : giông tố yên lặng, trừ quỉ, tha tội ( Mt 8,23 ;
9,1-8 ). Nhưng cách xử sự của Ngài khiến người ta lạ lùng, vấp
phạm : Ngài ăn uống với kẻ tội lỗi ( Mt 9,10 ), tương đối hóa việc
chay tịnh ( Mt 9,14 ), chữa lành người bại tay ngày Lễ nghỉ ( Mt
12,13 )… Vì thế, giới lãnh đạo tôn giáo không nhìn nhận Ngài như
người của Thiên Chúa, họ cho rằng Ngài bị quỉ ám ( Mt 12,24 ) vì
thế nguy hiểm cho đức tin. Họ quyết định giết Ngài ( Mt 12,14 ).

- 17 -
Đức Giê-su đã thất bại, buồn bã nhận rằng sứ điệp giải phóng
của mình đã bị từ chối. Khốn cho các ngươi, hỡi Chorazin,
Bethsaida ( Mt 11,21 ).

Đức Giê-su cũng bị gia đình và các môn đệ hiểu lầm. Họ chờ
đợi 1 Đấng Cứu Thế thiết lập Nước Thiên Chúa với binh hùng tướng
mạnh, đánh đuổi quân La-mã, biến It-ra-en thành mẹ mọi dân nước (
Tv 87 ), hòa giải họ với Thiên Chúa. Nhưng để có nền hòa bình
thịnh vượng ấy, theo họ Nước Thiên Chúa này phải dùng các
phương thế hoành tráng, đôi khi cả bạo lực nữa… Song Đức Giê-su
lại chúc phúc, đề cao những kẻ hiền hòa, xây dựng hòa bình, khiêm
tốn… vì thế Ngài sẽ thất bại thôi ! Chính đám đông cũng xa lánh
người thầy thuốc âm thầm, không chịu quảng cáo, xa lánh Đấng Cứu
Thế từ chối vương quyền này.

Các môn đệ đã mất hướng, niềm tin bị lung lay …

Đức Giê-su đứng trước 1 khúc quanh trong con đường sứ vụ


và muốn ưu tiên dành thì giờ cho việc huấn luyện các môn đệ. Ngài
nắm rõ tình hình, biết rằng nhiều người không chấp nhận sứ điệp của
mình, Ngài không hề ảo tưởng. Tuy nhiên, Ngài vẫn tiếp tục con
đường của mình. Chính để trả lời cho những câu hỏi đầy âu lo của
người xung quanh mà Đức Giê-su đã kể dụ ngôn người gieo giống
để diễn tả niềm hi vọng. Để xác tín rằng chẳng có trở ngại hay thất
bại nào có thể cản bước chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa
bắt đầu gieo trồng một dân mới.

Sau dụ ngôn này, Đức Giê-su còn nói lại niềm hi vọng của
mình với hình ảnh hạt cải ( Mt 13,31.32 ) và nắm men ( Mt 13,33-35
).

MỘT CÂU TRUYỆN ĐẦY SÁNG SUỐT VÀ LẠC QUAN

Đức Giê-su nhìn nhận rằng những lời giảng của mình không
đơm hoa kết trái hay, ít nhất, không sản sinh những hiệu quả như dự
tính ( Mt 13,57-58 ; cf. Mc 6,5 ). Những thất bại đã chất chồng ( cf.
Ga 6,60 ). Nói theo kiểu thế gian : thất bại hòan toàn. Nhưng Đức
Giê-su không nản lòng ; Ngài tin vào sức mạnh của Thiên Chúa sẽ
- 18 -
vượt quá mọi niềm hi vọng. Tại sao lại sợ hãi, hỡi những kẻ kém tin
( Mt 8,26 ).

Để diễn tả niềm tin, sự tín thác và chuyển tải nó cho các môn
đệ, Ngài dùng lại đề tài gieo giống rất quen thuộc trong Cựu ước.
Chẳng hạn, trong St 1,11, Thiên Chúa được trình bày như một người
gieo giống, Người ban hạt giống cho từng loại cây để chúng sinh sôi
nảy nở. Các tiên tri cũng nói đến sự can thiệp tối hậu của Thiên
Chúa trong lịch sử như một cuộc sáng tạo mới và dùng hình ảnh
gieo mạ để diễn tả :

Hs 2,24-25 : Thiên Chúa là người gieo trồng một dân tộc


hòan hảo.
Is 61,11 : Như vườn làm hạt giống nẩy mầm, Chúa sẽ làm nẩy
sinh sự công chính.
Za 6,12 : So sánh Đấng Cứu Thế với một hạt mầm, với nguồn
sự sống : dưới bước chân Người, tất cả đều nẩy mầm.
Cn 11,18 : cũng quả quyết rằng Người gieo sự công chính
chắc chắn sẽ có mùa gặt bội thu.
Is 55,10-13 : Lời Thiên Chúa sinh hoa kết quả.
Trong dụ ngôn người gieo giống, Đức Giê-su nói về chính
mình. Ngài chính là Ngừơi gieo giống từ Chúa Cha mà đến. Ngài đã
khởi đầu sứ vụ bằng cách gieo rắc hạt giống, nghĩa là LỜI, Tin
Mừng tình yêu nhưng không của Thiên Chúa, của tình huynh đệ đại
đồng.

Nhiều yếu tố lạ lùng

1. Sự hoang phí của người gieo.

Ong gieo vãi hầu như khắp nơi. Chúng ta nhận ra ở đây Đức
Giê-su, mặc dù bị hiểu lầm, thù ghét vẫn tiếp tục loan báo sứ điệp,
bằng lời nói và hành động trước mọi hạng người và mọi nơi khác
nhau.

- 19 -
2. tính mong manh của hạt giống.

Hạt giống đầy hứa hẹn ấy không thể sản sinh nếu không rơi
vào đất tốt. Ơ đây ta cũng nhận ra kinh nghiệm của chính Đức Giê-
su : quyền năng của Ngài đã không thể thực hiện nếu người ta không
tin nơi Ngài. Chẳng hạn, tại Na-da-rét, Ngài đã không thể làm nhiều
phép lạ ( Mt 13,58 ). Mc còn xác định là Ngài không thể làm phép lạ
nào ( Mc 6,5 ). Đức Giê-su đã gặp bao trở ngại, kể cả nơi những kẻ
đáng lẽ phải vui hưởng Tin Mừng giải phóng của Ngài.

3. Phân tích dàn bài

Nơi hạt giống rơi Hạt giống trở nên Thu hoạch
c.4 Bên vệ đường Bị chim trời ăn mất Không
c.5-6 Trên đá sỏi có Nẩy mầm, nhưng bị Không
ít đất khô cháy, thiếu rễ
c.7 Giữa bụi gai Mọc lên nhưng bị gai Không
bóp nghẹt
c.8 Giữa đất tốt Mọc lên, đơm bông kết 100, 60, 30 cho
trái mỗi hạt

- 20 -
Bảng phân tích này giúp ta minh xác óc thực tế, sự sáng suốt
và niềm hi vọng của Đức Giê-su. Nguời gieo giống ( Đức Giê-su ) ra
đi, cuộc mạo hiểm đã bắt đầu, nhưng ba trường hợp đầu vẫn chỉ
trắng tay. Dụ ngôn khiến độc giả thở dốc, ngừơi ta đi từ thất bại này
đến thất bại khác…

Tuy nhiên, nhìn kĩ lại, kết quả chẳng phải là con số không như
ta thoạt thấy. Ta hãy để ý đến sự triển nở dần dần :

- Lượt gieo đầu không nẩy mầm, biến mất ngay. Tuy
nhiên, khi cho lũ chim trời xuất hiện, Đức Giê-su dậy ta
rằng ít nhất hạt giống vãi gieo cũng đã trở thành thức ăn
cho chúng, cử chỉ của người gieo giống không phải hòan
toàn vô ích đâu.
- Lượt hạt thứ hai nẩy mầm trước khi khô héo. Vì thế
nó còn hơn là thứ của ăn quen thuộc, nó chất chứa trong
mình một sức sống, nó có thể sinh sôi.
- Lựơt hạt thứ ba nẩy mầm trước khi bị gai góc bóp
nghẹt. Vì thế đã phải có những kẻ khác gieo rắc gai góc gây
nên khổ đau.

Trong dụ ngôn này, có một chuyển động tiệm tiến mà


những kẻ chỉ kiếm tìm năng suất sẽ chẳng thể nhận ra. Nhưng
thật đúng, Đức Giê-su nhìn vượt trên vẻ bề ngoài và chuẩn bị
cho thính giả nhìn nhận rằng công việc của người gieo giống
đưa đến một điều khác hơn là sự thất bại…

ĐỨC GIÊSU GỢI LÊN LỊCH SỬ CỨU ĐỘ

Ngài rất sáng suốt

Ngài biết rằng có những người giống như chim trời : họ chỉ
tìm lợi lộc riêng tư, họ quan tâm đến Lời Chúa vì của cải trần gian…
Đức Giê-su cũng biết rằng có những người hời hợt bên ngoài. Họ
nghe hay đọc Lời Chúa nhưng lại chẳng bao giờ nhuần thấm. Họ
khác hẳn với Đức Maria Ghi nhớ Lời Chúa và suy gẫm trong lòng (
Lc 2,19.51 ). Ngài cũng biết có những bụi gai, nghĩa là những lời

- 21 -
nói, những sứ điệp có vẻ đạo đức sẽ châm chích, bóp nghẹt hay làm
tê liệt thay vì giải phóng, chẳng hạn Chúa phạt, Chúa cho phép hay
gởi đau khổ tới để bạn lập công… những lời ấy hôm nay vẫn còn
gây nên bao thiệt hại.

Ngài đầy niềm tin

Đức Giê-su tin vào Lời, vào hạt giống, vào mùa gặt sắp đến.
Ngài tin tưởng hạt mầm đã vãi gieo. Ngài đã có thể đọc thấy, qua
một số thái độ, những dấu chỉ về hiệu quả của lời nói và việc làm
của mình. Còn nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ
quỉ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông ( Mt 12,28
). Khi nghe lời Ngài giáo huấn, khi nhìn các lập trường của Ngài,
đám đông đã sững sờ kinh ngạc, thán phục ( Mt 7,28-29 ) và Lc
10,18 còn xác nhận chính tiếng reo vui của Đức Giê-su Thầy đã thấy
Satan từ trời rơi xuống như làn chớp… Giữa những dấu chỉ đầy hiệu
quả của sứ vụ Đức Giê-su, ta có thể trích dẫn : tha thứ cho người bất
toại ( Mt 9,5 ), niềm tin của một người phong cùi ( Mt 8,2 ), niềm tin
của viên sĩ quan ( ngoại giáo ) xin Ngài chữa bệnh cho người đầy tớ
( Mt 8,5.6 ), và sự dấn bước lạ lùng của người đàn bà xứ Cana xin
cho con gái mình khỏi bệnh ( Mt 15,28 ), và nhất là lời tuyên xưng
đức tin của viên sĩ quan dưới chân thập giá Thật người này là Con
Thiên Chúa ( Mt 27,54 ).

Trong Thánh Kinh, mùa gặt biểu trưng cho sự bùng nổ của
Vương Quốc Thiên Chúa. Đầy tin tưởng, Đức Giê-su hân hoan vì
mùa gặt tương lai khi suy gẫm Is 9,12

Dân đang lần bước giữa tối tăm


đã thấy một ánh sáng huy hoàng ;
đám người sống trong vùng bóng tối,
nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.
Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ,
đã tăng thêm nỗi vui mừng.
Họ mừng vui trước nhan Ngài
như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt,
như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm.

- 22 -
4. Dụ ngôn được xây dựng nhằm làm nổi bật phần thứ

Hiệu quả phi thường của hạt giống rơi trên đất tốt. Trong vùng
đất Palestine, thu hoạch 10/1 là tốt lắm rồi vì trung bình chỉ có 7,5/1.
Đây là dụ ngôn của niềm hi vọng. Người gieo giống gieo trước gió,
vì thế, nếu có mất mát thì cũng là điều bình thường, nhưng ông biết
sức mạnh của hạt gống và muốn thông truyền niềm tin, niềm tín thác
cho các môn đệ. Ta cũng thấy chính niềm hi vọng ấy trong dụ ngôn
hạt cải, với thời gian, sẽ trở thành một cây lớn ( Mt 13,31-32 ). Đức
Giê-su biết rõ bản văn tuyệt vời của tiên tri Isaia

Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời


không trở về trời nếu chưa thấm xuống đất,
chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy lộc,
cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn,
thì lời Ta cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta,
sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả,
chưa thực hiện ý muốn của Ta,
chưa chu toàn sứ mạng Ta giao phó.
Phải, các ngươi sẽ ra đi mừng rỡ hân hoan,
rồi lũ lượt kéo về bình an vô sự.
Trước mặt các ngươi, đồi núi sẽ cất giọng reo hò,
cây cỏ ngoài đồng sẽ vỗ tay.
Cây bách vươn cao thay bụi rậm,
cây sim lớn mạnh thế tầm ma,
để ĐỨC CHÚA được lừng danh nức tiếng,
được ghi nhớ ngàn năm và truyền tụng muôn đời.
(Is 55,10-13 )
Đọc lại dưới ánh sáng phục sinh, dụ ngôn này đã phát huy mọi
chiều kích của nó. Vào chiều ngày thứ Sáu-Tuần Thánh, lời Đức
Giê-su dường như bị bóp nghẹt, thu hoạch kể là không ( các môn đệ
bỏ trốn, Giuđa phản bội, Phêrô chối Thầy… ) tuy nhiên, chỉ ít thời
gian sau, lời Ngài sẽ mang lại hoa trái và sách Công Vụ xác quyết sự
lớn mạnh và nhanh chóng của Giáo-hội.

Trao ban sứ điệp hi vọng, dụ ngôn tìm cách khích lệ các tín
hữu. Chúng ta rất hay bị thất vọng hoặc thiếu nhẫn nại. Chúng ta
- 23 -
thích chứng kiến ngay những hoa trái trong việc tông đồ của mình.
Như người gieo giống trong dụ ngôn, chúng ta hãy tiếp tục làm
chứng cho Tin Mừng không nản lòng bằng cách tín thác vào Thánh
Thần của Chúa Ki-tô. Tin tưởng vào lời thánh Phaolô viết cho tín
hữu Côrintô : Tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới
làm cho lớn lên ( 1Cr 3,6 ).

Dụ ngôn cũng là lời mời gọi hoán cải. Ta phải tự hỏi mình
xem hòn đá nào, cây gai nào đang ngăn cản Lời Thiên Chúa sinh
hoa kết trái trong đời ta. Dụ ngôn phải khích lệ mọi nhà giáo dục
đức tin cố gắng gieo trên mọi mảnh đất với niềm hi vọng….

- 24 -
2. NGƯỜI SA-MA-RI NHÂN HẬU( Lc 10,25-37 )
Và này có người thông luật kia đứng lên hỏi Đức Giê-su để
thử Người rằng : "Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời
đời làm gia nghiệp ?" Người đáp : "Trong Luật đã viết gì ? Ông đọc
thế nào ?" Ông ấy thưa : "Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên
Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, và hết trí khôn
ngươi, và yêu mến người thân cận như chính mình." Đức Giê-su bảo
ông ta : "Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống."

Nhưng ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý, nên mới thưa cùng
Đức Giê-su rằng : "Nhưng ai là người thân cận của tôi ?" Đức Giê-
su đáp : "Một người kia từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô, dọc
đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử,
rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế
cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy người này, ông tránh
qua bên kia mà đi. Rồi cũng thế, một thầy Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng
thấy, cũng tránh qua bên kia mà đi. Nhưng một người Sa-ma-ri kia
đi đường, tới ngang chỗ người ấy, cũng thấy, và chạnh lòng thương.
Ông ta lại gần, lấy dầu lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và
băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán
trọ mà săn sóc. Hôm sau, ông lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ
quán và nói : "Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao
nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác." Vậy theo ông nghĩ,
trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi
vào tay kẻ cướp ?" Người thông luật trả lời : "Chính là kẻ đã thực thi
lòng thương xót đối với người ấy." Đức Giê-su bảo ông ta : "Ông
hãy đi, và cũng hãy làm như vậy."

ĐÀO SÂU

1. Đọc kĩ bản văn và ghi lại những phản ứng, thắc mắc, khám
phá…
2. Xem văn cảnh

- Trước : lc 5,12-16.20.27-32 ; 6,6-11 ; 7,1-10 ; 8,26 ;


9,46-48.
- Sau : Lc 10,38-42 ; 11,1-4.5-13 ; 13,6-9.10-17
- 25 -
3. Dụ ngôn dựa vào đâu ( c.30-35 ) để giúp ta trả lời câu hỏi
sống chết trong cuộc đối thoại giữa Đức Giê-su và vị tiến sĩ
luật ( 25-19 ) ?
4. Thánh Lc đã biên soạn câu truyện của ngài như một vở kịch
hai màn, mỗi màn có 4 cảnh giống nhau. Cắt đoạn văn theo
dàn bài này và trình bày thành hai màn song song.
5. Những nhân vật trong dụ ngôn là ai ? Ta biết gì về mỗi
người trong họ ? Ta nghĩ gì về thái độ của họ ? Tại sao họ
lại hành động như vậy ? ( Cf. Lv 21,1 ; Ds 19,11-13.16 và
Lv 19,33-34 ).
6. Hai nhân vật chính của cuộc đối thoại được trình bày ra sao
? ( cf. 4,1-12 )
7. Đức Giê-su có trả lời câu hỏi thứ 1 của vị luật sĩ không ? Tại
sao ?
8. Giữa câu hỏi thứ hai của vị luật sĩ ( c.29 ) với câu hỏi thứ
nhất liên quan ra sao ? Ta nghĩ gì về cách Đức Giê-su trả lời
ông ta ?
9. Câu hỏi của Đức Giê-su ( c.36 ) có đúng với câu hỏi của vị
luật sĩ không ( c.29 ) ? Xác minh.
10. Giáo huấn cốt lõi của câu truyện này liên quan tới điều gì ?
a. Cốt lõi của Lề Luật.
b. Những thực hành phụng vụ tại Đền Thờ
c. Đời sống vĩnh hằng ?
11. Yêu người thân cận có nghĩa gì đối với vị luật sĩ ? ( cf. Lv
19,18.33-34 ) và với Đức Giê-su ( cf. Mt 8,5-13 ; 15,21 ; Mc
5,1-20 ; 10,46-52 ; Lc 7,1-10 ; 13,10-17 ; 15,1-2 ; 17,11-19 ;
19,1-10 ; Ga 4,5-10 ). Kiểu cắt nghĩa thông thường sách Lv
19,18 dẫn tới đâu ?
12. Đọc Hs 6,6 ; Tv 40,7-9 ; Xh 3,7-12 và nói lên mối liên hệ
giữa các đoạn văn này và dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu.
13. Tóm lược sứ điệp bạn khám phá thấy. Sứ điệp này là Tin
Mừng cho ta hôm nay ở điểm nào ?

- 26 -
GIẢI THÍCH

Lề luật rất quan trọng đối với người do thái. Trước tiên đó là
Luật Maisen rồi đến các qui tắc khác nhau được thêm thắt theo thời
gian để giải thích Luật này ( ngừơi ta tính có tới 613 luật vào thời
Đức Giê-su, trong đó có 248 luật cấm ! ). Lề luật giúp ta biết cách
yêu mến Thiên Chúa và yêu thương anh em trong đời sống thường
ngày. Nó chỉ cho ta con đường phải theo để sống trung thành với
Giao ước.

Các kinh sư và biết phái giữ một cách tỉ mỉ, không chỉ Lề luật,
mà cả các qui định nữa. Họ đòi hỏi các người do thái khác cũng phải
làm như vậy. Họ tỏ ra rất nghiêm khắc đối với những người không
toàn tâm theo họ và tránh lui tới với những người ấy kẻo bị ô uế. Lề
luật đòi phải yêu thân nhân ( Lv 19,18 ) và cả những ngoại kiều nữa
( Lv 19,33-34 ), tuy nhiên, trong đời sống thường ngày, từ thân nhân
này chỉ còn là ngừơi do thái mà thôi. Một truyền thống giáo sĩ nói :
một người Do Thái không bao giờ được phép cứu vớt 1 người
Samari dù với bất cứ lý do gì.

Đức Giê-su yêu mến và tuân giữ Lề Luật, coi đó là biểu hiện
thánh ý của Cha Ngài. Nhưng Ngài khiến ngừơi biệt phái bị sốc khi
tỏ ra tự do với các qui tắc không giúp người ta sống tình yêu thương.
Chẳng hạn, Đức Giê-su chữa bệnh ngày Lễ nghỉ, lui tới với người
tội lỗi, ngoại quốc…

Các nhà luật học ( kinh sư hay tiến sĩ Luật ) là những người
cắt nghĩa Thánh Kinh, các chuyên gia về Lề Luật. Họ có ảnh hưởng
lớn về mặt tôn giáo, luật pháp và chính trị. Một số là tư tế nhưng
phần lớn là giáo dân. Trong Đền Thờ, họ là những người gác cửa và
có trách nhiệm điều khiển phụng vụ. Dân chúng thường chạy đến
với họ để tham khảo xem phải làm hay phải tránh điều này điều nọ.
Họ tựa như những người hướng đạo của dân, những bậc thầy về tư
tưởng.

Các tư tế : họ được tuyển lựa giữa các con cháu của Aaron.
Nhiều người trong họ là các biệt phái. Họ có nghề nghiệp riêng và
sống đạm bạc. Chức vụ của học có tính cha truyền con nối. Họ thuộc

- 27 -
số 7,200 người được chia làm 24 phiên, mỗi phiên thay nhau phục
vụ Đền Thờ 1 tuần liền. Họ lo các nghi lễ, chuẫn bị các lễ vật và
tham dự 3 cuộc hành hương lớn của người do thái.

Các Lêvi gồm 9600 người, chia thành 24 phiên làm việc theo
tuần lễ. Xuất thân kém các tư tế, họ được chia phần ít và sống rất
nghèo. Tại Đền Thờ họ chuẩn bị các lễ vật, thu thuế thập phân, lo ca
đoàn và giữ trật tự.

Người Sa-ma-ri Sau khi vương quốc Sa-ma-ri bị thất thủ vào
năm 721 trước CN ( 2V 17,5 ), những người ngoại quốc ( ngoại giáo
) chiếm đóng xứ sở. Có những cuộc hôn nhân dị giáo giữa người
Samarie và lương dân, con cái sinh từ các cuộc hôn nhân này bị coi
là ô uế và không thuộc dân Chúa.

Những nhà lãnh đạo do thái cấm họ đến cầu nguyện tại Đền Thờ
Giêrusalem. Vì thế, những người Samarie đã xây một Đền Thờ khác trên
núi Garizim. Vào năm 128 trước CN, những người do thái đã phá hủy Đền
Thờ này. Năm 6 trước CN, người Sa-ma-ri đã làm ô uế Đền Thờ
Giêrusalem bằng cách ném xương người vào Sân Đền Thờ. Cứ như vậy, ta
thấy mối tương giao căng thẳng giữa người Do Thái và người Sa-ma-ri bị
coi như kẻ thù, lạc giáo. Cách hành xử của Đức Giê-su đối với họ đã khíên
người đồng thời với Ngài ngạc nhiên và bị sốc : Ngài nói chuyện với người
Sa-ma-ri, thậm chí còn đem họ ra làm gương ( Ga 4,5-40 ; Lc 10,13 ;
17,10-17 ).

VĂN CẢNH

Trước :

Lc 5,12 ( người phong cùi ) ; 6,6 ( chữa lành ngày Lễ nghỉ ) ;


7,2 ( người ngoại ) ; 8,26 ( trong miền dân ngoại ) ; Lc 9,46-48 : Đức
Giê-su tuyên bố Người lớn nhất là người phục vụ kẻ khác ; Chúa trọ
tại nhà 1 người thu thuế ( 19 ), nói về ơn cứu rỗi của người ngoại (
Lc 13,29 )…
Lc 9,57-62 : những đòi hỏi để trở thành người môn đệ đích
thực.

- 28 -
Lc 10,1-11 : 72 môn đệ được trao quyền loan báo Nước
Thiên Chúa, vì thế đây không phải đặc quyền dành cho các thủ lãnh
tôn giáo, ngay cả nhóm 12, mà phải được phổ biến rộng rãi…
Lc 10,12-14 : Tin Mừng mà ngừơi do thái từ chối được dân
thành ngoại giáo đón nhận
Lc 10,18 : Đức Giê-su reo vui khi Nước của ma quỉ bị khuất :
Thầy thấy Satan từ trời rơi xuống như làn chớp
Sau :
Đoạn Tin Mừng nói về Marta và Maria ( Lc 10,38-42 ) : đây
không phải là hạ giá việc phục vụ của Marta, nhưng là nhắc nhở các
môn đệ rằng so với điều cần yếu nhất : Lời Chúa, Nước Trời ( cf. Tv
16,5 ; 73, 26 ), mọi việc khác chỉ là phụ tùy. Việc phục vụ huynh đệ
không được lấn át thì giờ dành để suy gẫm, lắng nghe Lời Chúa…
cầu nguyện ( Lc 11,1 )
Nb. Dụ ngôn Người Sa-ma-ri nhân hậu là của riêng thánh Lc, nhưng câu hỏi
của vị luật sĩ : tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm cơ nghiệp ? tương tự với
câu hỏi của người giầu có đến gặp Đức Giê-su ( Mt 19,16 ; Mc 10,17 ; Lc 18,18 ).
Câu trả lời của vị luật sĩ chính là câu Đức Giê-su trả lời vị kinh sư hỏi Ngài về giới
răn trọng nhất ( Mt 22,35-40 ; Mc 12,28-34 ; Lc 12, 28-34 ). Nhưng ở đây, Chúa
còn muốn đi xa hơn, khi hỏi vị luật sĩ xem ông hiểu điều Lề Luật viết như thế nào
? Ngài muốn cho ông thấy một cách đọc, hiểu và dậy mới mẻ về Lề Luật.

DÀN BÀI

Câu truyện là một vở kích chia làm hai màn và bốn cảnh mỗi
cảnh đều gồm :

Diễn biến Khai triển 1 Khai triển 2


Luật sĩ hỏi Đức Giê-su Tôi phải làm gì để có sự Ai là thân nhân của tôi (
sống đời đời làm gia c.29 )
nghiệp ( c.25 )
Đức Giê-su trả lời bằng Trong Luật đã viết gì ? … Vậy theo ông nghĩ,
cách hỏi lại Ông đọc thế nào ? trong ba người đó, ai tỏ
fa là người thân cận với
người đã bị rơi vào tay
kẻ cướp ( c.36 )
Đức Giê-su thừa nhận Ong trả lời đúng lắm. Ong hãy đi, và cũng hãy
câu trả lời của vị luật sĩ Cứ làm như vậy là sẽ làm như vậy ( c.37 )
và bảo ông phải thực được sống ( c.28 )
hiện như vậy

- 29 -
Lưu ý :

- Tình hình biến chuyển trong mỗi cảnh, người hỏi trở
thành kẻ bị hỏi và ngược lại.
- Khi trả lời Đức Giê-su, vị luật sĩ đã tự trả lời các câu
hỏi của mình.
- Như quỉ trong sa mạc ( Lc 4,12 ; cf. Đnl 6,16 ), vị
luật sĩ muốn thử thách Đức Giê-su, nhưng rốt cuộc ông được
hướng dẫn và sửa lại cách đọc Thánh Kinh của mình và thán
phục Đức Giê-su.

Màn 1

Cảnh thứ nhất : một chuyên gia tôn giáo muốn biết Đức Giê-
su có hiểu rõ tôn giáo của Ngài không, cái cớ là như vậy, nhưng thực
sự thì ông từng bị sốc nhiều lần trước thái độ của Đức Giê-su đối với
lề luật : Ngài đụng chạm đến người phong cùi ( Lc 5,12-16 ), lui tới
với người ngoại ( Lc 7,2 ), đến miền đất của người ngoại ( Lc 8,26 ),
chữa bệnh ngày Lễ Nghỉ ( lc 6,6 ).

Cảnh thứ hai : thay vì trả lời, Đức Giê-su, là nhà tâm lý và sư
phạm tinh tế, đặt cho ông một câu hỏi khác. Câu hỏi của Ngài thuộc
lãnh vực chuyên môn của ông : Luật Maisen. Chúa muốn xác minh
xem vị luật sĩ có hiểu đúng điều cốt lõi của Lề luật không. Ông đọc
thế nào ?, nghĩa là ông hiểu Lề Luật thế nào ? chứ không chỉ Lề
Luật viết gì ?

Cảnh thứ ba : không do dự, vị luật sĩ trả lời câu hỏi thứ nhất
của Đức Giê-su bằng cách trích dẫn Đnl 6,5 đòi ta phải yêu mến
Thiên Chúa và Lv 19,18 đòi ta phải thương yêu thân nhân. Như vậy,
trong câu trả lời của mình, ông gồm tóm lại cả hai khía cạnh không
thể tách rời : tình yêu Thiên Chúa và tình yêu anh em.

Cảnh thứ bốn : Đức Giê-su khen vị luật sĩ đã hiểu đúng bản
văn, nhưng gợi hứng từ sách Lêvi, sách của những qui luật thánh,
Ngài bảo ông : ông hãy làm như vậy và sẽ được sống ( cf. Lc 18,5 ).
Thật vậy, biết thôi không đủ mà phải sống các bản văn mình biết

- 30 -
nữa. Chúng ta cũng để ý rằng Đức Giê-su, muốn nói rằng cuộc sống
này chính là khởi đầu của Cuộc sống đời đời nên đã bỏ tĩnh từ đời
đời ‘ ông trả lời đúng lắm, cứ làm như vậy là sẽ được sống’ ( c.28 ).
Ta không giữ Lề Luật chỉ để cho đời sau, nhưng để sống cuộc sống
mà Thiên Chúa muốn ngay lúc này. Các hành động của ta có giá trị
vĩnh cửu… số phận đời đời của ta tùy thuộc cách ta sống hôm nay.

Ta cứ ngỡ cuộc đối thoại thế là chấm dứt. Tuy nhiên cả Đức
Giê-su lẫn vị luật sĩ đều chưa thỏa mãn. Trước tiên là Đức Giê-su, vì
vị luật sĩ chưa trả lời câu hỏi thứ hai của Ngài : ông chưa nói mình
hiểu Lề Luật ra sao ‘ ông đọc thế nào ‘ (c.26 ) ? Còn vị luật sĩ, vì
Đức Giê-su bảo ông Ông sẽ có sự sống ‘ Cứ làm như vậy là sẽ được
sống’( thì tương lai ) (c.28 ). Vậy là hiện giờ vị luật sĩ chưa được
sống, ông không thấy Nước Thiên Chúa. Ông biết Lề Luật, nhưng
không sống nó vì ông đến với Đức Giê-su không phải bằng tình yêu
mà để thử Ngài, để hạ giá Ngài. Ông thấy nơi Đức Giê-su một người
sai phạm Lề Luật ( thái độ của Ngài đối với bệnh nhân, ngoại kiều,
ngày Lễ Nghỉ … ). Để tiếp tục câu truyện, Đức Giê-su bèn kể một
dụ ngôn. Dàn bài của câu truyện cũng cùng một khuôn như dàn bài
trước.

Màn 2

Cảnh thứ nhất : câu truyện chuyển hướng. Vị luật sĩ hẳn đã


ngạc nhiên khi nghe Đức Giê-su bảo : Ông sẽ được sống, chắc chắn
ông đã tin rằng mình yêu mến Chúa và thân nhân. Ông muốn biết
xem mình đã có thể hiểu và giữ sai Lề Luật ở điểm nào. Do đó, ông
hỏi lại Đức Giê-su, để tỏ sự công chính của mình, để tỏ ra mình là
người công chính. Thâm tín rằng Đức Giê-su đã sai phạm Lề Luật,
ông hỏi Ngài : Ai là thân nhân của tôi ? Hẳn ông nghĩ rằng, Đức
Giê-su sẽ trả lời như phần lớn người thời đó rằng Thân nhân là mọi
thành viên thuộc dân tộc do thái, lúc ấy ông sẽ tận dụng ngay cơ hội
của mình : chứng minh rằng Đức Giê-su đã không tuân giữ Lề Luật
liên quan đến tình yêu thân nhân vì Ngài quan tâm đến cả những
người không thuộc dân do thái.

Cảnh thứ hai : giống như trong cảnh thứ nhất, Đức Giê-su
không trả lời nhưng kể một dụ ngôn để chuẩn bị cho 1 câu hỏi mà

- 31 -
Ngài muốn đặt ra về đề tài Thân nhân thực sự, vì Ngài không hiểu
từ này như ông. Lề Luật đòi phải yêu mến thân nhân và ngay cả
người ngoại quốc ( Lv 19,18.33.34 ), Đức Giê-su biết Luật này đã bị
biến chất, đã bị dậy và thực hành sai. Đức Giê-su múôn tỏ cho vị
luật sĩ rằng cách hiểu từ Thân nhân và lòng khinh bỉ các người Sa-
ma-ri không phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.

Hơn nữa, một số qui tắc của Lề Luật mâu thuẫn với nhau và
đôi khi tình yêu đối với Thiên Chúa và thân nhân dường như loại trừ
nhau. Đó là một trong những trường hợp mà Đức Giê-su sẽ chọn
trong dụ ngôn để soi sáng cho vị luật sĩ về ý nghĩa đích thực của Lề
Luật.

Một người nằm đó, dở sống dở chết : ta không biết ông là ai,
nhưng ông ta không thể tự cứu được mình ; ông cần một người nào
đó giúp đỡ. Một vị tư tế và 1 trợ tế, hai người có trách nhiệm phục
vụ Thiên Chúa trong Đền Thờ đi qua. Họ không tự hỏi xem người bị
thương có phải người do thái hay không, mình có phải giúp đỡ
người đó không. Có thể vị tư tế và trợ tế nghĩ rằng người bị thương
đã chết. Lề Luật đã ghi rõ, cấm chạm đến người chết, trừ phi đó là 1
thân nhân, nếu không sẽ bị cấm tế lễ trong 7 ngày (Lv 21,1; Ds
19,11-13 ).

Đức Giê-su không hề phán xét hai người phục vụ Đền Thờ về
mặt luân lý. Ngài chỉ đưa họ vào cuộc để giúp vị luật sĩ hiểu ra
những nguy hiểm của óc nệ luật, điều :

- Dẫn đến lệch lạc.


- Không phục vụ đời sống nữa.
- Tạo nên, không phải những người có trách nhiệm,
mà là những người máy.

Đức Giê-su không công khai phê bình lối gỉang dậy của vị
luật sĩ, dù nó có trách nhiệm đến thái độ cư xử của vị tư tế và trợ
tế, Ngài thích để ông tự mình khám phá ra con đường của sự
sống. Con đường ấy không thể là con đường của vị tư tế và trợ
tế, vì khi lánh xa người bị thương, họ đã kết án tử ông ta, và cho

- 32 -
rằng làm như vậy là hài lòng Thiên Chúa. Để có thể phục vụ
Thiên Chúa, họ sẽ để mặc một người nằm chết ! May thay,
người đi đường thứ ba xuất hiện… và đó là một người Sa-ma-ri,
một kẻ thù, một tên lạc giáo. Ông dừng lại, đến gần và cứu giúp
người bị nạn. Ông không phải một người máy, mù quáng vâng
theo các qui luật, ông có trái tim. Giống như Thiên Chúa ( Xh
3,7-8 ), giống như Đức Giê-su ( Lc 7,13 ) Ông thương xót người
bị nạn, ông tỏ ra đầy trách nhiệm với một người xa lạ, có khi
còn là kẻ thù của mình nữa…

Nhờ dụ ngôn này, Đức Giê-su có thể soi sáng cho vị luật sĩ
giúp ông hiểu được ý nghĩa của Lề Luật để từ nay có thể dậy dỗ tốt
hơn. Ngài thay thế đồng từ LÀ của vị luật sĩ bằng động từ LÀM.
Thật vậy, vấn đề không phải là biết xem Ai là thân nhân của mình,
mà phải tự hỏi xem Ai đã tỏ ra ( đã tự trở nên ) là thân nhân của
người bị nạn ?

Cảnh thứ ba : câu trả lời của vị luật sĩ cho Đức Giê-su, Đấng
đã kín đáo giúp ông có được phán đoán như Ngài, thật hòan hảo :
Người Sa-ma-ri chính là Thân nhân của người bị nạn ! chính là
người lại gần kẻ khác để cứu giúp họ. Đức Giê-su đã khiến vị luật sĩ
mang lại cho Lề Luật một chiều kích phổ quát và giúp ông hiểu rằng
người ta không thể yêu mến Thiên Chúa hay phục vụ Người nếu
không yêu mến tha nhân. Vị luật sĩ khám phá ra rằng nếu không yêu
thương những người Sa-ma-ri thì ông cũng không tuân giữ Lề Luật
và, chắc chắn dù không muốn, ông cũng phải nhìn nhận rằng Đức
Giê-su có lý ! Ông biện minh cho cách cư xử của Đức Giê-su, trong
khi muốn biện minh cho chính mình. Vừa rồi, ông đã không trả lời
câu hỏi : Ông đọc thế nào ? Nhưng từ nay, ông bắt đầu đọc Lề Luật
như Đức Giê-su. Cuộc biến đổi thật diệu kì !

Cảnh thứ tư : Một lần nữa, Đức Giê-su lại đòi vị luật sĩ hãy
làm như vậy. Vậy là câu hỏi ban đầu đã được giải đáp. Để có sự
sống, phải yêu thương cách cụ thể. Chính trong lúc biến mình thành
thân nhân của anh em mình, đặc biệt là những người đau khổ, bất kể
họ thuộc quốc gia, tôn giáo nào… là người ta chứng tỏ mình yêu
mến Thiên Chúa và nhờ đó, sẽ có sự sống ( cf. Mt 25 ). Nếu Đức
Giê-su tự biến mình thành thân nhân của những người bị thương tích

- 33 -
trong cuộc đời, thì không phải chỉ vì họ cần đến Ngài, mà bởi vì,
chính Ngài cũng cần đến họ để hiện hữu, để trở thành chính mình,
để trở nên Đấng Cứu Thế. Niềm vui của Ngài tùy thuộc vào niềm
vui của tha nhân. Nếu Đức Giê-su yêu thương người nghèo, người
đau yếu, người ngoại quốc thì bởi vì chính họ cũng biết trở thành
thân nhân.

Như các bản văn tiếp theo sau dụ ngôn này cho thấy, tình yêu
đối với người lân cận không miễn cho ta khỏi cầu nguyện, chính là
điều liên kết ta với Thiên Chúa, nguồn mạch mọi tình yêu ! Tình yêu
Thiên Chúa và tình yêu tha nhân, thay vì mâu thuẫn nhau, phải bổ
túc cho nhau.

Một số kết luận

Qua dụ ngôn này, Đức Giê-su bác bỏ những quan điểm cho
rằng người Sa-ma-ri tự động ( vì nguồn gốc của họ ) là những người
tội lỗi, những kẻ xa cách Thiên Chúa.

Thật vậy, như lược đồ sau minh chứng, Thiên Chúa ( D ),


nguồn mọi tình yêu, ngự trong lòng người Sa-ma-ri ( S ) vì ông, đã
biết yêu người bị nạn trước ( B ) và tỏ ra đầy trách nhiệm với người
ấy. Một người Sa-ma-ri, đối tượng của sự khinh ghét về mặt tôn
giáo, bị nghi ngờ vì lý do chính trị và xã hội, trở thành người cho
phép tình yêu lên ngôi. Điều này cho giúp có được cái nhìn đức tin
và hi vọng về cuộc sống của bao người, rõ ràng không biết Thiên
Chúa, nhưng đang theo bước Đức Giê-su trên con đường tới sự sống
đời đời

- 34 -
Mọi tình yêu đều phát xuất từ Thiên Chúa. Để có thể yêu
thương, Người Sa-ma-ri trước tiên phải được ở trong tình yêu của
Thiên Chúa. “ Thiên Chúa luôn nâng đỡ ủi an chúng ta tron gmọi
cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ,
chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn
khó”( 2 Cr 1,4 ).

Tin Mừng này minh chứng rằng Lề Luật có mục đích giúp đỡ
người ta yêu thương. Người ta có thể và phải tuân theo Lề Luật :

- Vì Thiên Chúa là tình yêu và là nguồn mạch mọi


tình yêu.
- Và vì Lề Luật nhằm mưu ích cho con người. Điều
Thiên Chúa đòi hỏi luôn có mục đích là mang lại sự sống và
hạnh phúc.

Qua người Sa-ma-ri, dụ ngôn nói với ta về Thiên Chúa là


Đấng lắng nghe tiếng kêu của người bất hạnh, nhìn thấu nỗi khốn
khổ và xuống thế để giải thoát họ ( cf. ơn gọi của Maisen Xh 3,7-8 ).
Dụ ngôn cũng nói với ta về Đức Giê-su là Đấng cũng nhìn thấy và
lắng nghe những người bị bỏ rơi, thiểu số hay bị ghét bỏ ( Giakêu,
Bartimê, người phong cùi… ).

Trong dụ ngôn người tuân giữ Lề Luật thực sự không phải là


vị tư tế hay trợ tế, mà là một người Sa-ma-ri bị coi là lạc giáo và ô
uế. Vì lỗi của các luật sĩ, nên người ta ( ở đây là thầy tư tế và trợ tế )
không hiểu rằng tình yêu của Thiên Chúa được thể hiện bằng việc
phục vụ anh em : Kẻ nói mình yêu mến Thiên Chúa mà không yêu
anh em là kẻ nói dối, thánh Gioan đã kêu lên trong thư thứ nhất của
ngài. Thiên Chúa không thể vui lòng khi thấy người ta tỉ mỉ chu toàn
các việc trong Đền Thờ, nếu, ở nơi khác, tình huynh đệ lại bị báng
bổ ( cf. Gr 7,4-11 ; Am 5,21-24 ). Đức tin không việc làm chẳng là
gì cả ( Gc 2,14-36 ).

Cốt lõi của Lề Luật là tình yêu

Là thân nhân của anh em mình và vì thế của Thiên Chúa nên
ta phải nhân từ với hết mọi người, đặc biệt là với những người yếu
- 35 -
đuối. Thiên Chúa phán : Ta muốn lòng nhân từ chứ không phải hi lễ
( Hs 6,6 ), tác giả thánh vịnh ca lên : Chúa chắng thích gì tế phẩm và
lễ vật, nhưng đã mở tai con ; lễ tòan thiêu và lễ xá tội, Chúa không
đòi, Con liền thưa: này Con xin đến ! Đức Giê-su còn thêm : không
phải bất cứ ai thưa với Thầy : Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! là được vào
Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi thành ý muốn của Cha Thầy là
Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi ( Mt 7,21).

Quả quyết : Yêu người lân cận như chính mình ( Lv 19,18 ), ở
đây hàm chứa trọn vẹn ý nghĩa của nó, vì không thể có tình yêu thực
sự nếu không yêu mình. Thân nhân là chính tôi khi tôi trở nên thân
nhân của những người khác. Để có sự sống, để thực sự hiện hữu, tôi
phải đến gần, phải biến mình thành thân nhân của người khác, đặc
biệt của người đang cần đến tôi. Yêu nhau khi ấy có nghĩa là thích
trở thành thân nhân của người khác, thích chứng tỏ lòng tốt.. không
phải để qui về mình, mà trái lại, để mở ra với người khác… không
tìm kiếm gì cho mình cả. Người Sa-ma-ri hiện hữu vì người bị nạn,
ông giúp người bị nạn sống, nhưng người bị nạn cũng giúp người
Sa-ma-ri hiện hữu khi tiến đến gần mình.

Cá tính chỉ có ý nghĩa trong tương quan với người khác.


Trong dụ ngôn ‘thân nhân’ không phải là người bị nạn nhưng là
người tỏ ra xúc động và bắt mình đến gần người cần đến mình.
Người lân cận là chính tôi khi tôi lắng nghe tiếng nói phát lên tự đáy
lòng mình, lúc người khác đòi hỏi tôi và nhờ đó mà tôi hiện hữu ( cf.
Erich Fuch ; Revue Christus, Ôctobre 2000 ).

Một dụ ngôn khác ( theo Alain Didier-Weill. Cf. Les dix


Commendements de Marc-Alain Quaknin-Le Seuil ) có thể giúp ta
hiểu câu nói Yêu thân nhân như chính mình :

Hai người bạn quyết định sang Mỹ làm ăn. Trước khi chia tay,
họ giao ước :

- Thế nào một trong hai người chúng ta cũng có cơ hội làm
giầu. Hai năm nữa, chúng ta sẽ gặp lại nhau ở đây và nếu 1 người
nghèo, 1 người giầu, chúng ta sẽ chia đôi.

- 36 -
Hai năm sau, họ gặp nhau tại nơi đã hẹn ước. Một người quần
áo rách rưới tả tơi, người kia từ trên xe Limousine sang trọng bước
xuống với hai vali to phồng những đô la. Họ quyết định trở lại quê
hương và, trên con tầu về với gia đình, họ tổ chức 1 bữa tiệc lớn
mừng ngày hồi hương. Nhưng, cuối bữa tiệc, người bạn giầu có, hẳn
vì bội thực hay trúng độc, quằn quại trong đau đớn…

Tàu cập bến. Người giầu được đưa ngay đến bệnh viện cấp
cứu. Ông thều thào với bạn : Xin nghe tôi, hẳn tôi khó mà qua khỏi
…trong vali của tôi, có 1 triệu đô la. Nếu tôi chết, xin anh đến gặp
vợ tôi, rồi đưa cho nàng số tiền anh muốn, còn bao nhiêu, anh cứ
giữ lại mà tiêu.

Sau đó, người bạn giầu chết. Người nghèo đến gặp vợ bạn và
trao cho nàng 100,000 đôla. Anh ta giữ lại 900,000 đôla và trở về
nhà, giầu có và hài lòng. Nhưng ngừơi vợ góa suy nghĩ và không
cảm thấy yên lòng. Nàng kể lại câu chuyện với 1 vị giáo sĩ. Vị giáo
sĩ đến gặp người bạn còn sống và ông ta kể lại cho vị giáo sĩ câu
truyện. Vị giáo sĩ trở lại với người phụ nữ và nói với chị rằng bạn
của chồng chị đã hết sức tôn trọng những ý muốn sau cùng của
người quá cố. Nhưng người phụ nữ nằng nặc xin người bạn của
chồng nhắc lại lời trăn trối một lần nữa. Anh ta bèn kể lại câu truyện
: Anh ấy hấp hối và bảo tôi : xin anh đưa cho vợ tôi số tiền anh
muốn, còn bao nhiêu, anh cứ giữ lại mà tiêu.

Một tia chớp lóe lên, vị giáo sĩ bèn hỏi lại :

- Thế khi chia phần, số tiền anh muốn chính xác là


bao nhiêu ?
- 900,000 đôla.
- Thế thì đúng rồi, vị giáo sĩ kêu lên, bạn anh bảo anh
: Anh hãy đưa cho vợ tôi số tiền anh muốn. Vì anh muốn 900,000
đôla, nên phần còn lại của anh là bao nhiêu thì anh đã biết.

Đức Giê-su không bảo : Anh em muốn ngừoi ta làm gì cho


mình, thì cũng hãy làm cho người ta ( Lc 6,31 ) đó sao ?

- 37 -
TIẾP TỤC ĐÀO SÂU

30
Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đừơng bị rơi vào tay kẻ cướp.
Chúng lột sạch người ấu, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa
chết.
31 32 33
Tình cờ, có thầy tư tế Rồi cũng thế, một thầy Nhưng một người
cũng đi xuống trên con Lê-vi đi tới chỗ ấy, cũng Samari kia đi đường, tới
đường ấy. Trông thấy thấy ngang chỗ người ấy,
người này, cũng thấy
Và chạnh òng thương
34 Ô
ông tránh qua bên kia Cũng tránh qua bên kia ng ta lại gần, lấy dầu
mà đi mà đi và rượu đổ lên vết
thương cho người ấy và
băng bó lại

Cách trình bày dụ ngôn trên giúp ta nhìn rõ những thái độ


khác biệt giữa hai nhân vật đầu và nhân vật cuối. Ta nhận thấy :
hòan cảnh như nhau lúc ban đầu. Rồi, một người Sa-ma-ri, người mà
ta tin là Xa Chúa, lại là kẻ đến gần người bị nạn nhờ đó đã khiến
cho tình yêu hiện đến. Ông mới chính là người thực thi ý Thiên
Chúa, là người khiến cho Lề Luật đem lại sự sống.

Biểu đồ trên giúp ta hiểu ra tầm quan trọng của câu nói chạnh
lòng thương. Chính từ đó mà mọi sự thay đổi. Người Sa-ma-ri chạnh
thương người bị nạn nên đã có thái độ khác hẳn vị tư tế và trợ tế.
Ông đến gần người bị nạn, trong khi hai người khác thì lánh xa.

Người Sa-ma-ri xúc động, ông để cho nỗi khốn khổ của người
bị thương đánh động mình. Hai người kia cũng nhìn thấy cùng một
nỗi khổ ấy nhưng không lắng nghe tiếng lòng. Song, người Sa-ma-ri
không chỉ bằng lòng với việc xúc động mà thôi, người ta có thể xót
thương và rồi chẳng làm gì cả ! Vị tư tế và trợ tế có lẽ cũng xúc
động đấy, Tin Mừng không hề nói là họ vô cảm !

Ba nhân vật cùng đứng trước 1 lựa chọn. Hoàn cảnh đáng
thương là lời kêu gọi đến tự do của họ. Họ có quyền nói không hay
nói có với sự Sống, với Tình Yêu. Ba nhân vật đứng trước hòan
- 38 -
cảnh tương tự như trong Cựu ước Coi đây, hôm nay tôi đưa ra cho
anh em chọn : hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải
chết, bị tai họa. Hôm nay tôi truyền cho anh em phải yêu mến ĐỨC
CHÚA, Thiên Chúa của anh em, đi theo đường lối của Người, và
tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh em
được sống, được thêm dông đúc và ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của
anh em, chúc phúc cho anh em trong miền đất anh em sắp vào chiếm
hữu ( Đnl 30,15.16.29.30 )

Chúng ta thấy đó, cách Lề Luật được dậy dỗ không giúp vị tư


tế và trợ tế tự do theo tiếng lòng mình. Họ chọn việc phục vụ Thiên
Chúa và Đền Thơ. Chọn lựa ấy đã lấp đầy lòng họ, khiến họ đóng
kín với các chọn lựa khác, ngay cả việc cứu sống một người khỏi
phải chết ! Như vậy, họ đã không vâng theo thánh ý Thiên Chúa hệ
tại việc chọn được sống.

Hành động theo lòng thương cảm, Người Sa-ma-ri, không


phải là tù nhân của óc nệ luật, chọn theo tiếng nói của trái tim nên đã
có thể làm mọi việc tốt đẹp cần thiết cho người bị nạn.

Có hai sức mạnh hiện hữu, sức mạnh của sự thiện và sự ác :

+ Sức mạnh của sự ác đè bẹp con người, khiến họ dở sống dở


chết. Sức mạnh này cô lập con người, vứt bỏ, loại trừ, gây thương
tích và đôi khi giết chết. Đó là những sức mạnh của chết chóc, gây
đau khổ. Người bị nạn gặp ba nỗi khổ :

- Thể lý : bị cướp đánh nhừ tử.


- Luân lý : bị lột truồng, và như vậy là mất phẩm gía
con người.
- Tình cảm : bị bỏ rơi bên vệ đường.

+ Sức mạnh của sự thiện lấn bước sự ác bằng chính nhân


cách của người Sa-ma-ri, vượt qua mọi hàng rào ngăn cách mình với
người bị nạn. Nếu sức mạnh của sự ác khiến người ta xa nhau, thì
sức mạnh của sự thiện giúp người ta xích lại gần nhau và đưa đến sự
sống. Người Sa-ma-ri nhìn người bị thương xa lạ, nằm dài trên

- 39 -
đường, như một con người nên đáng được xót thương. Thấy người
ấy bị khổ ông không chịu nổi, ông bị sốc trước cách đối xử tàn ác
của bọn cướp gây nên cho người bộ hành. Ông đau đớn trước cảnh
ấy.

Lòng ông không chỉ dừng lại với tình cảm xót thương. Xúc
động trước nỗi khổ của người khác là câu trả lời cần nhất, nhưng
chưa giải quyết được gì. Từ bước thụ động này, người Sa-ma-ri
bước sang thái độ chủ động để cứu người bị nạn khỏi hoàn cảnh đau
khổ ấy.

Ong lại gần ( tự biến mình thành thân nhân ) người bị nạn
khiến người ấy không còn thấy mình bị bỏ rơi nữa. Đã có một người
đến gần mình, không phải để đánh đập nữa mà để yêu thương. Hi
vọng sống lại, con đường cứu thoát đã mở ra. Trước trận đòn nhừ tử
khiến ông chết đi sống lại ấy, người Sa-ma-ri đáp trả bằng 3 loại săn
sóc :

- Sơ cứu
- Chu đáo hơn trong quán trọ.
- Dặn dò chủ quán săn sóc người bị nạ khi mình vắng
mặt.

Người Sa-ma-ri đã trả lại nhân phẩm cho người bị nạn khi dìu
ông lên lưng lừa để đưa tới quán tro. Ông nâng nguời ấy lên rồi đảm
bảo cho ông ta một chỗ náu nương để ông ta có thể tái hòa nhập vào
thế giới con người.

Mặc dù thương thế người bị nạ đã nhẹ bớt, người Sa-ma-ri vẫn


chưa yên lòng. Ông muốn yêu thương đến cùng : Ông chỉ ngừng khi
người đó hoàn tòan khỏe mạnh. Ông biết mình không thể đảm
đương mọi sự, nên đã giao phó người ấy cho chủ quán. Không phải
ông muốn rảnh nợ đâu, bằng chứng là ông hứa sẽ thanh toán mọi phí
tổn ăn ở nơi quán trọ kia mà. Thực là một lối giúp đỡ hết sức hợp lý
và đầy hiệu quả.

- 40 -
Thái độ của người Sa-ma-ri khiến ta nghĩ đến Chúa Ki-tô,
Đấng rất hay chạnh lòng thương, luôn đem hết khả năng để giúp đỡ
người khốn khổ và tìm mọi cách để người khác cùng góp phần : Hãy
gọi anh ta đến đây, Ngài bảo đám đông để cho anh mù Bartimê ngồi
bên vệ đường đến với mình ( Mc 10,46-52 ). Chính các con hãy cho
họ ăn đi, Ngài bảo các môn đệ đang muốn giải tán dân chúng đói
khát về nhà ( Mt 14,16 ).

Người cha của đứa con hoang đàng, cũng chạnh lòng thương
đứa con trở về và làm đủ cách để phục hồi tước vị làm con cho anh (
Lc 15,20 ).

- 41 -
3. DỤ NGÔN CÁC NÉN BẠC ( Mt 25,14-30 )

"Quả thế, cũng như có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến
mà giao phó của cải mình cho họ. Ông cho người này năm yến,
người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi
người. Rồi ông ra đi. Lập tức, người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy
đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. Cũng vậy, người
đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. Còn người đã lãnh một
yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. Sau một thời gian lâu
dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ.
Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói :
"Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được
năm yến khác đây." Ông chủ nói với người ấy : "Khá lắm ! hỡi đầy
tớ tài giỏi và trung thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì
tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh
!" Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói : "Thưa ông chủ,
ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây."
Ông chủ nói với người ấy : "Khá lắm ! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung
thành ! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho
anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh !" Rồi người đã lãnh
một yến cũng tiến lại gần và nói : "Thưa ông chủ, tôi biết ông là
người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. Vì thế, tôi đâm
sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông
cầm lấy !" Ông chủ đáp : "Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác ! Anh đã
biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, thì đáng lý anh phải
gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn
lẫn lời chứ ! Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho
người đã có mười yến. Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có
dư thừa ; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi.
Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài :
ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng."

ĐÀO SÂU

Đọc kĩ dụ ngôn rồi ghi lại các phản ứng : điều khiến mình vui,
ngạc nhiên, sốc.
- văn cảnh trước : Mt 24,27-31.42-44.45-51 ; 25,1-13
;
- 42 -
- văn cảnh sau : Mt 25,31-46.
- Nói lên điều thách đố trong các văn bản này. Vấn đề
Tỉnh Thức. Các môn đệ phải tỉnh thức ra sao? tại sao ?
- Một số qui chiếu để soi sáng dụ ngôn : St 1,27-28 ;
Mt 5,20.46-48 ; 7,15-21 ; 10,8b ; 13,31-33 ; 19,13-15.20-22 ; Mc
8,35 ; Lc 15,28-30 ; 18,11-12 ; 22,19-20 ; Ga 3,16 ; 10,28 ; 2Cr 6,1 ;
2Cr 9,8-9.
- Dàn Bài. Đặt tựa cho mỗi phần ( 14-15 ; 16-23 ; 24-
28 ; 29-30 ). Gạch dưới các từ quan trọng và thường trở đi trở lại
cũng như những từ đối nghịch.
- Có mấy loại nhân vật? họ tượng trưng cho ai ?
o Giải thích cách xử sự của ông chủ.
o Giải thích cách xử sự của hai người đầy tớ đầu tiên.
o Giải thích thái độ của người đầy tớ thứ ba. Ý nghĩa
của câu 25 là gì ?
- Kết luận ( 29-30 ) có hợp lý không ?
o Dụ ngôn trình bày những khuôn mặt nào của Thiên
Chúa ? Thiên Chúa xuất hiện như Đấng Sáng Tạo và Cứu Độ trong
dụ ngôn này ra sao và hệ tại điều gì ?
o Các câu 21b, 23b và 30 khác nhau ra sao ?
o Dụ ngôn nói gì về Nước Thiên Chúa ?
o Đây có phải là Tin Mừng cho ngày nay không ?
Chứng minh.

VĂN CẢNH

Trước

Mt 24,27-31 : Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, Đấng sẽ đến


phán xét, nghĩa là, đối diện với Ngài, chúng ta sẽ phải đánh giá lại
đời mình trước mặt Ngài.

- 43 -
Mt 24,45-51 : Phúc cho người đầy tớ trung tín lúc nào cũng
thấy tỉnh thức, đợi chờ và sẵn sàng phục vụ ( người đang yêu thì
luôn luôn đợi chờ… )

Mt 25,1-13 : Mười trinh nữ chờ đón Chàng Rể ( Thiên Chúa ).


5 cô khôn, 5 cô khờ. Giấc ngủ tượng trưng cho sự chết, giờ Chàng
Rể đến tức là giờ phán xét. Giờ này cũng là giờ mạc khải, khiến mọi
người nhận ra giá trị của đời sống và tình yêu của mình. Dầu thắp
đèn tượng trưng cho những việc mà mỗi người đã làm trong đời,
cho niềm vui được đón tiếp người mình yêu thương. Dầu này, dù có
được chia sẻ đi nữa thì những người khờ dại cũng không thể dùng.
Đã quá muộn để làm lại đời mình, để tỉnh thức. Câu Ta không biết
các ngươi chỉ sự cắt đứt, mất liên lạc ; 5 cô thiếu nữ khờ dại không
còn trong Giao Ước nữa, họ đã bị loại ra ngoài. Đức Giê-su muốn
nói : đứng hòai phí đời mình, đừng đợi đến lúc đã quá muộn. Phải
bắt đầu làm việc cho Nước Trời ngay, phải yêu thương ngay từ hôm
nay.

Sau

Mt 25,31-46 : Vẫn còn liên quan đến ngày phán xét :

"Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả
các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của
Người. Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và
Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê.
Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. Bấy giờ
Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng : "Nào những
kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho
các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi
đã cho ăn ; Ta khát, các ngươi đã cho uống ; Ta là khách lạ, các
ngươi đã tiếp rước ; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc ; Ta đau
yếu, các ngươi đã thăm viếng ; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han."
Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng : "Lạy Chúa, có bao
giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống ; có
bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước ; hoặc trần truồng
mà cho mặc ? Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc
ngồi tù, mà đến hỏi han đâu ?" Đức Vua sẽ đáp lại rằng : "Ta bảo

- 44 -
thật các ngươi : mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong
những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho
chính Ta vậy." Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái
rằng : "Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa
đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa
Ta đói, các ngươi đã không cho ăn ; Ta khát, các ngươi đã không
cho uống ; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước ; Ta trần
truồng, các ngươi đã không cho mặc ; Ta đau yếu và ngồi tù, các
ngươi đã chẳng thăm viếng." Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa
rằng : "Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát,
hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không
phục vụ Chúa đâu ?" Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng : "Ta bảo
thật các ngươi : mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong
những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính
Ta vậy." Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những
người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời." Mt 25,31-46

Đức Giê-su tự đồng hóa mình hòan toàn với những người bị
coi rẻ và xác định rằng sự sống đời đời tùy thuộc cách ta đã sống
trên trần. Sự sống ấy dành để cho những ai từng biết yêu thương anh
em mình cách cụ thể. Những ai không biết yêu thương không thể
thừa hưởng hạnh phúc. Đức Giê-su chỉ cho ta con đường cứu độ :
phục vụ anh em mình, đặc biệt những kẻ thiếu thốn nhất chính là
dấu chỉ lòng ta yêu mến Thiên Chúa. Đức Giê-su cũng nói rằng cả
những người không phải là tín hữu cũng sẽ được cứu độ Đã bao giờ
chúng tôi thấy Ngài bệnh tật, đói khát đâu ? – điều con làm cho
người khác, là làm cho chính ta. Sự sống đời đời tùy thuộc mức độ
yêu thương của chúng ta. Ai mất mạng sống mình sẽ cứu được nó.

NB. Ta không được quyền dựa vào dụ ngôn này rồi suy ra
rằng có một loại người hòan toàn công chính, loại khác hòan tòan
bất chính. Phần trăm nằm trong mỗi người chúng ta. Mỗi người
chúng ta đều có một phần tốt, một phần xấu. Ta có thể giúp đỡ
người đau khổ, nhưng than ôi, lại có thể từ chối chia sẻ, tiếp đón, tha
thứ cho người đang cần. Điều giúp ta sống lại, vượt qua sự chết,
giúp ta tồn tại, chính là tình yêu, lòng nhân ái. Phần còn lại : ích kỉ,
ác độc, từ chối yêu thương… chúng ta sẽ không mang chúng tới
thiên đàng, như tục ngữ vẫn bảo. Đức mến không bao giờ biến mất (

- 45 -
1Cr 15,8-13 ). Kẻ không yêu thương thì ở trong sự chết ( 1Ga 3,14 ;
Mt 13,47-50 ). Vì thế dụ ngôn của Chúa Ki-tô là một dụ ngôn của
niềm hi vọng : người ta có thể nghĩ rằng, trong mỗi người, nếu
không phải là trong nhiều người, ít nhất cũng có một chút tình yêu.
Nhưng dụ ngôn cũng là lời Chúa Ki-tô ngỏ với mỗi người chúng ta :
chúng con hãy sống hết sức yêu thương và tình yêu này, từ Thiên
Chúa mà đến, sẽ là nguồn hạnh phúc vĩnh cửu, cho Thiên Chúa, cho
tha nhân và cho chính chúng con.

ĐỂ HIỂU DỤ NGÔN

Dụ ngôn các nén bạc sâu sắc và không đơn giản như ta nghĩ.
Chỉ dừng lại ở bề ngoài là lầm lẫn. Văn cảnh cho thấy ở đây ta có cả
một câu truyện về ngày Phán Xét, về sự sống đời đời, về Nước
Thiên Chúa.

Giải thích một số từ ngữ :

Nén bạc : Đức Giê-su muốn nói đến ơn phi thường dành cho
mỗi người ( 1 nén bạc giá trị bằng 6,000 đồng. 1 đồng là lương công
nhật. Như vậy, 1 nén bạc tương đương với 17 năm công nhật ! )

Một thời gian lâu sau : đó là thời hạn cần thiết để các đầy tớ
thi hành trách nhiệm và tự do của mình. Đó là thời gian sống trên
trần thế. Lúc ông chủ trở về tức là ngày phán xét. Khi chết, chúng ta
sẽ ra trước mặt Chúa, Đấng phán xét và Cứu chuộc chúng ta. Trình
bầy Thiên Chúa như vị Thẩm phán muốn nói lên rằng cuộc đời của
Đức Giê-su Con Chúa chính là mẫu của đời sống thành công. Một
cuộc sống thành công hay không tùy ở nó có giống cuộc sống của
Chúa Ki-tô hay không.

Tính sổ không hiểu theo nghĩa hẹp. Ông chủ không đến để
trừng phạt. Ông tin tưởng các đầy tớ. Ông muốn họ hạnh phúc và để
họ có thời gian tự thể hiện, làm chủ các ơn huệ đã nhận, tạo nên
niềm vui, trở nên giống mình, trở nên những người có trách nhiệm…
đến để xem họ đã làm gì với niềm tin ông đặt nơi họ, để đánh gía sự
tăng tiến của họ. Ông đến vui cùng họ.

- 46 -
- theo luật của các giáo sĩ : người chôn dưới đất 1
kho tàng được trao phó cho mình được miễn tố mọi trách
nhiệm dân sự trong trường hợp bị hư hại, vì người đó đã
chọn cách an tòan nhất để tránh khỏi bị mất cắp.
- theo luật cổ : mọi lời lãi mà người nô lệ làm ra đều
thuộc về ông chủ.
- Bóng tối, khóc lóc và nghiến răng : nơi thất vọng,
buồn sầu, khốn khổ của những người bị loại khỏi miền ánh
sáng, không hiệp thông với Thiên Chúa tình yêu và với anh
em mình.

SUY TƯ

Dụ ngôn chia làm 4 phần :

- 14-15 Trình bày các nhân vật khác nhau

- 16-23 Trình bày thái độ của các đầy tớ trung thành


và tốt lành.

- 24-28 Trình bày thái độ của người đầy tớ xấu

- 29-30 Kết luận

Một ông chủ lạ lùng và quảng đại

Ong giao phó của cải mình : kiểu nói hơi mơ hồ khiến một số
người coi ông chủ như một địa chủ khắc nghiệt khai thác các đầy tớ
như nô lệ. Lối cắt nghĩa này không đúng vì câu 28 Vậy các ngươi
hãy lấy nén bạc ở tay nó mà trao cho người có 10 yến, cho thấy đây
là một ơn nhưng không. Ông chủ nói đến nén bạc đã thuộc về người
đầy tớ thứ ba ( ở tay nó ) sẽ được trao lại cho người thứ nhất đã có
10 nén. Nếu người đầy tớ thứ nhất đã có 10 nén thì chính là vì ông
chủ đã để cho y tất cả, vì y đã được quyền giữ chúng. Vì thế người
chủ đã trao ban tất cả những gì mình có, những gì ông làm chủ, ông
đã trao cho các đầy tớ mọi quyền hành. Thay vì tìm kiếm lợi lộc
riêng tư, ông chủ là nguời cực kì quảng đại, ông từ bỏ tất cả những
- 47 -
gì mình có để nhường cho các đầy tớ. Ông đã cực kì tin tưởng họ,
để họ hòan toàn tự do quản lý những gì ông đã trao ban.

Sau đây là một số đoạn Thánh Kinh giúp ta hiểu hơn ý nghĩa
của hồng ân này :

Chúng ta đã được tạo nên giống hình ảnh Thiên Chúa để


thống trị mặt đất. St 1,27-28a ( cf. St 2,7.15 )
Anh em đã nhận được nhưng không, thì cũng hãy cho nhưng
không. Mt 10,8
Ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng sẽ cứu
được mạng sống ấy. Mc 8,35
Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ,
nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn
người." Mc 10,45
Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin
vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.
Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải
để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà
được cứu độ. Ga 3,16-17
Tôi ban cho chúng sự sống đời đời ; không bao giờ chúng
phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. Ga 10,28
Rồi người thứ ba đến trình : 'Thưa ngài, nén bạc của ngài đây,
tôi đã bọc khăn giữ kỹ. Lc 22,19,20
Vì được cộng tác với Thiên Chúa, chúng tôi khuyên nhủ anh
em : anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng để trở
nên vô hiệu. 2Cr 6,1
Tôi xin nói điều này : gieo ít thì gặt ít ; gieo nhiều thì gặt
nhiều. Mỗi người hãy cho tuỳ theo quyết định của lòng mình, không
buồn phiền, cũng không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến, thì được
Thiên Chúa yêu thương. Vả lại, Thiên Chúa có đủ quyền tuôn đổ
xuống trên anh em mọi thứ ân huệ, để anh em vừa được luôn đầy đủ
mọi mặt, vừa được dư thừa mà làm mọi việc thiện, theo như lời đã
chép : Kẻ túng nghèo, Người rộng tay làm phúc ; đức công chính
của Người tồn tại muôn đời. 2Cr 9,6-9

- 48 -
Như đã viết : theo luật thời xưa, ông chủ có quyền sử dụng tất
cả những gì mà các nô lệ đã kiếm được. Nhưng, ông chủ này coi các
đầy tớ như những người cộng sự chứ không phải nô lệ. Ông coi họ
như những người chủ, bằng cách chia cho họ của cải của mình. Ông
không đòi hỏi gì cho mình và cả nén bạc mà người đầy tớ thứ ba trả
lại ông cũng không lấy : Lấy nén bạc của khỏi tay nó mà đưa cho
người đã có mười nén ( 28 ). Niềm vui của ông là trao ban, hòan
toàn do lòng tốt của ông. Chẳng lẽ Ông chủ này không tượng trưng
cho Thiên Chúa, Đấng đã cứu vớt ta một cách nhưng không, trong
Đức Giê-su Kitô, Con của Người đó sao !

Ong trao cho mỗi người tùy khả năng của họ rồi ra đi

Ong chủ biết rõ các đầy tớ của mình và chỉ đòi hỏi họ điều họ
có thể làm. Điều cốt yếu là biết rằng Thiên Chúa nhìn thấy khả năng
của mỗi người, rằng Người tính đến khả năng của họ để trao ban
hồng ân, cho họ làm chủ, cho họ lấy làm của mình và quản lý hòan
toàn. Ta cũng lưu ý là ông chủ trẩy đi mà không dặn dò gì đầy tớ cả.
Ông muốn họ lãnh trách nhiệm về việc sử dụng của cải ông trao phó.
Ông cho họ có thời gian để tự do thể hiện.

Người đầy tớ thứ nhất nhận một số tiền khổng lồ, tương
đương với 85 năm lương công nhật ! Vội vã tìm cách sinh lợi ( lập
tức ) chứng tỏ anh rất hạnh phúc. Anh chấp nhận rủi ro vì niềm tin
- 49 -
tưởng của chủ khiến anh hạnh phúc muôn vàn. Sự mau mắn của
anh đầy tích cực khác hẳn 5 cô trinh nữ khờ dại trong dụ ngôn trước
( Mt 24,1-13 )

Ngày ông chủ trở về tức là ngày phán xét, vì thế ta ở vào thời
điểm sau khi chết. Người đầy tớ tiến tới và trình bày kết quả của
công việc mình đã làm = anh tạ ơn. đã cho thấy niềm tín thác chủ
đặt nơi mình là đúng, anh đã hiểu rằng mình có trách nhiệm với kho
tàng đã được trao ban. Người đầy tớ thứ nhất tượng trưng cho những
kẻ biết lắng nghe Lời Thiên Chúa, tin vào Tin Mừng, đón nhận nó
trong đời sống mình, vun trồng để nó lớn lên và sinh hoa kết trái.

Thái độ của ông chủ

Ong chủ khen lao, chúc mừng người đầy tớ tốt lành và trung
tín. Từ tốt lành có nghĩa là hạnh phúc. Ông chủ không hề ghen tị,
trái lại ! ông không đòi hỏi gì cho mình, nhưng chia sẻ niềm vui
riêng, niềm hạnh phúc và đề cao người đầy tớ mà nhờ ông, anh đã
vươn tới một chiều kích mới.

Ngươi đã trung tín trong những việc nhỏ : câu nói lạ lùng vì
ơn ban thật lớn lao. Nhưng Đức Giê-su múôn nói rằng của cải lớn
lao nhất ở đời chẳng là gì sánh với niềm vui của ông chủ chờ đợi nơi
những người trung thành, những người đáp trả niềm tín thác, tình
yêu thương của Thiên Chúa ( niềm tin, trung thành, tín thác thuộc
cùng một gốc từ ).

Niềm hạnh phúc : ơn cứu độ, được trao ban cho ngừơi đầy tớ
này còn hơn là hoa trái của công việc. Đó là một ơn nhưng không,
chẳng ai đáng được. Đó là hình ảnh của ơn gọi kitô hữu và của ơn
cứu độ vĩnh hằng. Tuy nhiên, nếu ơn cứu độ là một hồng ân, thì nó
không tự động mà phải được tích cực đón nhận. Đời sống trần gian
chính là nơi minh định sự tiếp nhận này. Nó hệ tại việc làm những
hồng ân đã lãnh nhận : ơn của hơi thở sáng tạo ( St 2,7 ), ơn của sự
hiện diện cứu độ của Thiên Chúa ( Xh 3,12 ), ơn sức mạnh của Chúa
Thánh Thần ( Cv 2,4 ) được sinh hoa kết trái. Thiên Chúa muốn biến
chúng ta thành những người cộng sự, những đồng minh, những
người thừa kế. Ngài tự ban mình cho chúng ta để chúng ta, với

- 50 -
Người và nhờ Người, trở thành những nhà sáng tạo, giải phóng.
Trung thành hay đáng tin hệ tại chỗ làm sinh hoa kết trái những tài
năng, hệ tại việc sáng tạo, phát minh, chấp nhận nguy cơ, dấn thân…

Đây là câu truyện của lòng biết ơn chứ không phải của sự bồi
hoàn. Người đầy tớ biết mình đã lãnh nhận, anh cũng biết mình đã
thành công và chính ông chủ cũng đã nhìn nhận, chứng thực rằng
anh đã trở thành điều ông hằng mơ ước : 1 ông chủ ( anh đã làm chủ
được ơn đã lãnh nhận ), vì thế anh không còn sống như 1 người tôi
tớ nữa.

Ông chủ ban ơn qua bốn giai đoạn :

1. Trao ban các nén bạc.


2. Với sự vắng mặt, ông cho người lãnh nhận được tự do.
3. Khi trở về, ông cho họ được làm chủ nhiều hơn nữa, nghĩa
là tăng thêm uy quyền.
4. Sau hết, ông cho họ san sẻ niềm vui của mình. Ông không
hề thoái vị để trở nên thân cận, ông cho phép đầy tớ được
đạt tới tầm vóc riêng của mình, được ở với mình. Điều này
khiến cả hai được hưởng 1 niềm vui vô biên : niềm vui của
sự tương giao, niềm vui được làm chủ cùng với người khác,
niềm vui được thể hiện mình nhờ người khác.

Niềm vui của chủ đánh dấu sự chấm dứt tình trạng chủ tớ, vì
cuối cùng, tất cả đều là chủ. Chúng ta sống trong sự bình đẳng mà
các nhà cách mạng khao khát tìm kiếm, nhưng bằng 1 con đường
khác. Thay vì chặt đầu các ông chủ, dụ ngôn nói với ta về việc
phong tước cho các người đầy tớ. Điều đó lâu hơn, thật vậy, là triệt
hạ các ông chủ : có lẽ trọn cả một cuộc đời, trong khi máy chém chỉ
cần một vài giây. Và nếu ông chủ của dụ ngôn là Thiên Chúa độc
nhất, thì mỗi người, dù được nhận nhiều hay ít, cũng đều đủ để trở
thành chủ những gì mình đã nhận. Một mạc khải lạ lùng biết bao (
Marie Balmary : Abel hay đi qua vườn Eden ; Grasset ).

Người đầy tớ thứ hai

- 51 -
Mối liên hệ giữa ông chủ và người thứ hai cũng là người đã
làm việc theo khả năng của mình cũng giống hệt người thứ nhất :
cùng một lời thừa nhận, cùng việc nhận biết lòng trung thành, cùng
một sự vui hưởng niềm vui của ông chủ.

Sau khi đã chứng tỏ được lòng trung thành sáng tạo, anh cũng
được hưởng đầy đủ như người thứ nhất. Nếu Đức Giê-su bỏ công
lập lại điều đó, chính là vì để :

- Thu hút sự chú ý về thái độ của ông chủ muốn


người ta tự do, có trách nhiệm, giống hình ảnh mình.
- Nói lại mối quan tâm của ông chủ là muốn cho các
ơn huệ của mình được tăng triển, công trình của mình được
hòan thành.
- Nhấn mạnh lòng quảng đại vô bờ đã biến đổi các
người đầy tớ thành người thừa kế, thành ông chủ.
- Nói rằng ông chủ quan tâm đến khả năng của mỗi
ngừơi, hơn là đến những gì họ có.

Nếu bây giờ người có 4 nén bạc cũng vui hưởng cùng 1 niềm
hạnh phúc như ngừoi có 10 nén, chính là vì mỗi người đã làm hết
sức mình.

Người đầy tớ thứ ba

Ơ đây là sự trái ngược hoàn toàn. Trái với hai người trước,
người thứ ba này đã chôn vùi nén bạc của mình, và vì thế, nó không
sinh hoa trái gì. Đã đành, như ta đã thấy, người ta không có quyền
trách cứ anh ta điều gì ; anh ta làm đúng luật. Anh không thích mạo
hiểm, anh đã gìn giữ nén bạc khỏi bị trộm cắp. Anh đã không hoang
phí, nhưng cũng không làm gì tích cực cả. Anh đã khiến ân huệ ban
cho mình trở thành vô ích và điều này rất nghiêm trọng. Ở đây Đức
Giê-su phê phán giáo huấn của nhiều vị Tiến sĩ Luật và thái độ của
những kẻ không sử dụng khả năng của mình hay muốn ngăn cản
ngừoi khác tăng triển, luật về ngày Lễ nghỉ chẳng hạn. Xem thêm dụ
ngôn cây vả không trái ( Lc 13,6-9 ).

- 52 -
Người đầy tớ này đã không làm tròn trách nhiệm của mình,
anh đã không tận dụng những khả năng của mình, đã không phải là
người sáng tạo. Anh đã làm hỏng đời mình. Giữ đúng luật theo qui
định của các giáo sĩ, anh có lương tâm bình an, giống như vị tư tế và
trợ tế trong dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu ( Lc 10,31-32 ). Tuy
nhiên, anh tìm cách biện minh cho mình và điều đó cho thấy những
gì chất chứa trong đáy lòng anh. Những lời anh nói chính là chìa
khóa giúp ta hiểu được sứ điệp của Đức Giê-su. Một trong những
khía cạnh quan trọng nhất của dụ ngôn nằm ở đây.

Người đầy tớ thứ ba nghĩ rằng nén bạc đó luôn thuộc về chủ
anh ta chôn dấu bạc của chủ mình. Anh trao trả cho chủ : của ông
đây, ông cầm lấy. Trong mẩu đổi thoại này, không có chút quan hệ
tình nghĩa nào. Anh không hiểu rằng ông chủ là người quảng đại, vô
vị lợi, rằng mối liên hệ của ông với các đầy tớ dựa trên tình yêu
nhưng không và trên lòng tin tưởng. Dưới mắt anh, ông chủ đối xử
với các đầy tớ như nô lệ. Nếu anh nhìn ông chủ như một người hà
khắc, bất công, bóc lột… chính là vì anh không nhận ra nơi ông một
người giải phóng trao tặng nhưng không.

Ta để ý, ở câu 26, ông chủ không lập lại y nguyên những lời
người đầy tớ này thốt ra ở câu 25. Ông không bảo Anh biết ta là một
người hà khắc…, vì sự thật không phải vậy. Trái lại, ông chỉ lập lại
phần câu sau : Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không
vãi… Quả thật, ông chủ này giống như Đấng Sáng Tạo đã đặt con
người trong vườn để canh giữ và trồng trọt ( St 2,15 ). Thật sự thì
Thiên Chúa đã không muốn gieo vãi, Người còn làm hơn thế :
Người đã trao ban cho con người khả năng để làm điều đó ! Đức
Giê-su cũng nói với các môn đệ chính anh em hãy cho những người
đói này ăn đi ( Mt 15,16 ). Thiên Chúa cho con người cơ hội để
đứng dậy….

Nếu ông chủ ( Thiên Chúa ) thu góp những gì mình không
gieo vãi… thì đó không phải để cho mình, không phải vì ích kỉ…
nhưng để tất cả làm của chung và rồi chia sẻ lại cho mọi người. Câu
truyện của Ga 21,1-14 có cùng một ý nghĩa và có thể giúp ta hiểu
được dụ ngôn. Đức Giê-su phục sinh ở trên bờ biển ( trong Nước
Thiên Chúa, cũng y hệt như vậy. Xem Kh 21,1 ). Khi các môn đệ lên

- 53 -
tới bờ, Ngài xin các ông mang kết quả của mẻ cá ( đời họ ) để dọn
thành bữa ăn mà Ngài cùng chia sẻ với họ. Ngừơi đầy tớ thứ ba rất
có lý khi bảo rằng ông chủ gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi,
nhưng anh không hiểu rằng đó là dấu chỉ niềm tín thác và tình yêu
dành cho những người có trách nhiệm…

Hiển nhiên rằng tưởng tượng ra một ông chủ hà khắc, sản
phẩm … cứng rắn này, không phải là kết quả của yêu thuơng, mà
của sợ hãi. Sự sợ hãi này giải thích trọn đoạn kết của dụ ngôn và có
những hệ quả thần học đáng kể. Sự sợ hãi này tương đương với sự
thiếu thốn tình yêu, làm tê liệt và sơ cứng mọi hoạt động. Hình ảnh
ông chủ ( hay của Thiên Chúa ) cứng rắn, hà khắc sẽ ngăn cản mọi
sức sáng tạo trong ta. Sợ mạo hiểm, sợ mất mát nén bạc và bị chủ
phạt khiến ta sống trong tình trạng nô lệ. Chắc chắn, anh ta cố gắng
giữ mình không phạm tội, nhưng cũng khiến mọi khả năng của mình
bị tê liệt. Cẩn thận thái quá hóa thành lạm dụng lòng tin.

Thái độ của ông chủ đối với người đầy tớ thứ ba

Cứ theo kiểu lý luận của người đầy tớ này, thì ta thấy sáng
kiến gởi nén bạc vào ngân hàng thật thích hợp và rất an toàn. Ít nhất
thì cũng còn chút hi vọng. Nhưng tại sao anh lại không làm như vậy
nhỉ ? Lý do hết sức đơn giản nhưng cũng rất nặng nề : anh không
yêu mến chủ mình. Tự đặt mình trong mối tương quan : Chủ-tớ, anh
không hề muốn cho nén bạc sinh lợi, vì theo anh, rồi cũng sẽ phải
nộp lại cả cho chủ thôi, tội gì.Anh chẳng muốn biếu không cho chủ !

Ông chủ đã thất vọng khi thấy mình tin lầm người, tình yêu
của mình bị hiểu sai. Ông chỉ muốn có 1 điều : chia sẻ niềm vui,
giúp cho đầy tớ mình được thăng hoa ! nhưng để cho tình yêu, cho
tình bạn, cho sự gặp gỡ đổi trao… có thể sinh hoa kết trái và mang
lại hạnh phúc và triển nở, chúng phải được tiếp nhận, đón chờ. Để có
thể sinh hoa trái, cành cây phải gắn với thân cây ( cf. Ga 15,4 ). Khi
1 người bạn tin tưởng trao phó cho ta 1 công việc ( khi người ta tin
tưởng mình ), chúng ta cố gắng hết sức để đáp trả niềm tin ấy… thế
mà, vì thiếu tình yêu, vì sợ hãi… ngừơi đầy tớ thứ ba này đã phá
hỏng tất cả.

- 54 -
Ong chủ nhấn mạnh đến sự bất nhất của người đầy tớ này khi
bảo anh : vì nghĩ rằng ta gặt chỗ không gieo… đáng lẽ anh đã phải
làm cho nén bạc sinh lời và tránh được những lời trách móc của ta.
Khi đặt tiền vào ngân hàng, anh tỏ ra mình là ngừơi có trách nhiệm,
là người đầy sáng kiến. Ngân hàng sẽ đón tiếp anh như một người
đáng được chủ tin tưởng. Điều đó sẽ cho phép anh có một cái nhìn
mới vê chính mình. Anh sẽ lớn lên trong con mắt mình !...

Người đầy tớ ấy xấu xa và lười biếng. Những từ trái ngược với


hạnh phúc và trung tín. Được dùng để sáng tạo, để mang lại niềm
vui, nén bạc vẫn còn trong kho chết. Ta có thể nói với Charles
Peguy, rằng người đầy tớ ấy không có đôi tay bẩn thỉu, nhưng cũng
chẳng có bàn tay. Anh ta không chỉ lừoi biếng, anh còn khốn khổ vì
không biết yêu thương !

Đánh gía về ông chủ của anh ta khác với 2 người đầy tớ trước
biết bao ! Ta để ý, đây là người đầy duy nhất đã nói Tôi biết ông.
Lầm lẫn biết bao ! vì làm sao ta có thể biết người khác được ( người
đàn ông chẳng biết thế nào là đàn bà và người đàn bà cũng chẳng
biết thế nào là đàn ông cả ). Anh biết chủ mình như một người hà
khắc nào đó trong khi những người khác nhìn nhận rằng ông chủ rất
hào phóng, ông đến để chung vui với những người mà ông trao phó
mọi của cải của mình làm quà tặng để sinh lợi. Biết nói thế nào về 1
người có cái nhìn như vậy với chủ mình ? Bởi thê, làm sao anh lại
không sợ hãi và dám tin rằng một người chủ lại có thể yêu thương
mình đến thế ?

Chỉ khi chấp nhận mình không biết được người khác thì ta mới
có thể giao hảo với họ vì tin chứ không phải vì biết. Vì không biết
người khác, nên tôi mới có thể tin họ, và niềm hạnh phúc mới có thể
có khi tôi tin rằng chỉ họ mới có thể nói về họ thôi… nhưng nếu tin
rằng mình biết một người nào khác, không cần họ, tôi sẽ chỉ nhìn
thấy nơi họ điều tôi tưởng tượng ra. Mà điều người ta tưởng tượng
về người khác thường gây nên sự khiếp hãi ( Marie Balmary ).

Vậy các ngươi hãy lấy nén bạc khỏi tay nó mà trao cho người
đã có mười nén ( c.28 ). Câu này cho thấy rõ động từ tin tưởng có
nghĩa là trao ban. Tuy nhiên, thoạt nhìn, câu này thật vô nghĩa ( làm

- 55 -
sao có thể lấy 1 điều nơi kẻ chẳng có gì ? ) và xem ra thật bất công (
tại sao lại cho kẻ đã có đủ ? ). Thật vậy, sẽ là bất công, nếu đây là
của cải vật chất : ông chủ làm giầu trên sức lao động của người
nghèo. Điều này không tương hợp với sứ điệp Tin Mừng, vì Đức
Giê-su, luôn luôn hành động vì người nghèo, vì những người bất
hạnh… thường cảnh giác chống lại của cải : ngừoi ta không thể vừa
làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của. Con lạc đà chui qua lỗ kim
còn dễ hơn người giầu có vào Nước Trời. Chúng ta đừng quên là
một dụ ngôn luôn có điều gì đó đánh lạc hướng, gây sửng sốt. Ở đây
cũng vậy. Có thể nói, chính vì muốn nhấn mạnh đến thái độ nghiêm
trọng của người đầy tớ thứ ba là người đã mất tất cả mà Đức Giê-su
đã cường điệu đôi chút.

Vì thế, phải tìm ý nghĩa ở nơi khác. Người đầy tớ xấu xa và


lười biếng không làm gì xấu. Anh ta làm đúng luật… nhưng cũng
không làm gì tốt cả ! Phản bội niềm tin tưởng chủ đặt ở nơi mình,
không làm cho nén bạc của mình sinh hoa kết trái, anh trần truồng,
hai bàn tay trắng. Qua anh, Đức Giê-su nói về tất cả những kẻ không
làm gì cả, không có sáng kiến gì, chỉ là những kẻ ăn bám, ngăn cản
Thiên Chúa là Đấng sáng tạo và giải phóng, làm cho Nước Thiên
Chúa chậm đến…. Vì họ, vì sự lười biếng của họ, vì sự thụ động của
họ… sự ác, bạo lực, sự trả thù tiếp tục hoành hành trên trái đất. Họ
khiến chương trình cứu độ con người của Thiên Chúa bị thất bại.

Chính là để cứu vớt ngừơi đầy tớ thứ ba này mà ông chủ nói
như vậy. Tại sao ? Thật vậy, để lại cho ngừoi này hồng ân, mà thay
vì được triển nở, đã bị giảm thiểu, chỉ khiến anh thêm khốn khổ mà
thôi. Anh đã chẳng sống trong sợ hãi từ khi giữ nó đó sao ? ông chủ
có lý khi lấy lại nén bạc mà anh ta chỉ biết có mỗi một điều là giữ
sao để khỏi mất mà thôi.

Để ai đó khỏi bị bận vướng với 1 món quà, 1 tấm hình từ 1


nguời họ không còn yêu thương nữa chẳng phải là giúp đỡ họ đấy
sao ? … Có những người không sao chịu nổi, dù chỉ trong chốc lát,
khi nhìn thấy điều đã từng là dấu chỉ của tình bạn !

Còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. Thật
vậy, người đầy tớ thứ 3 đã không có cái mà anh ta có, theo nghĩa anh

- 56 -
không biết rằng mình có, rằng mình đang sở hữu nén bạc. Vì thế
khi lấy dùm anh món quà khiến anh bận vướng mà anh muốn trả lại
bằng mọi cách ( c.25 ) chính là tôn trọng anh. Ông chủ xác định rằng
mình đã ban ơn cho người đầy tớ : nén bạc của anh ta và, khi cho
thêm người đầy tớ thứ nhất nén bạc ấy, ông cho thấy rõ mối liên hệ
giữa mình và người đầy tớ không phải là mối liên hệ chủ-tớ. Ông
không tìm lợi lộc cho riêng mình, mà là cho các đầy tớ, những người
bạn của ông. Ông cảm thấy thất vọng khi không thể làm cho người
đầy tớ thứ ba được hạnh phúc. Tuy nhiên, không được để hoài phí cả
một nén bạc, vì thế phải giao nó cho người biết làm sinh lợi.

Những đoạn Thánh Kinh sau sẽ giúp ta hiểu thêm về sứ điệp


của Đức Giê-su

"Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công
chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào
Nước Trời. Mt 5,20

"Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà
đến với anh em ; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem
họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai. Ở bụi gai, làm gì có nho mà
hái ? Trên cây găng, làm gì có vả mà bẻ ? Nên hễ cây tốt thì sinh
quả tốt, cây xấu thì sinh quả xấu. Cây tốt không thể sinh quả xấu,
cũng như cây xấu không thể sinh quả tốt. Cây nào không sinh quả
tốt, thì bị chặt đi và quăng vào lửa. Vậy, cứ xem họ sinh hoa quả
nào, thì biết họ là ai.

"Không phải bất cứ ai thưa với Thầy : "Lạy Chúa ! lạy Chúa
!" là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của
Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. Mt 7,15-21

Người thanh niên ấy nói : "Tất cả những điều đó, tôi đã tuân
giữ, tôi còn thiếu điều gì nữa không ?" Đức Giê-su đáp : "Nếu anh
muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho
người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo
tôi." Nghe lời đó, người thanh niên buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có
nhiều của cải. Mt 19,20-22

- 57 -
"Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông
Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở
trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ
từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa."Và kìa có
những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ
xuống hàng chót." Lc 13,28-30

Hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó sẽ phải khóc


lóc nghiến răng

Câu này dường như vẽ nên cho ta thấy 1 ông chủ nghiêm
khắc. Nhưng, ta hãy nhớ, đây là 1 dụ ngôn về ngày phán xét, về số
phận đời đời, kết quả của lối sống, của những lời đáp trả trước các
ân huệ của Thiên Chúa, trong khi còn sống. Ở đây, Đức Giê-su sử
dụng một ngôn ngữ, hơi cường điệu một chút, để thu hút sự chú ý,
để nhấn mạnh điều Ngài muốn nói. Những lời đầy hình ảnh này
mượn từ ngôn ngữ thời đại, nói lên rằng Thiên Chúa, tuy muốn mọi
người được cứu độ ( 1Tm 2,2 ), nhưng vẫn không thể cứu vớt những
kẻ không muốn.

Đức Giê-su muốn thính giả suy nghĩ nghiêm túc về các hệ qủa
trong việc làm và lời nói của họ trong cuộc sống. Dụ ngôn này là
một lời kêu gọi giúp đỡ, một dấu chỉ cảnh báo. Khi nêu lên 1 người
không làm gì cả, một người hoang phí tài năng của mình, và không
đóng góp 1 hòn đá nào để xây dựng cho tòa nhà thế giới được tốt
hơn… Đức Giê-su khẩn thiết mời gọi ta mở lòng đón nhận hồng ân
của Thiên Chúa, đón nhận Lời của Thiên Chúa. Đây là lời kêu gọi
phải tỉnh thức. Yêu thương ai chính là làm cho họ tin tưởng, là hi
vọng rằng những ân ban sẽ giúp họ thành đạt trong đời. Như vậy,
Chúa Ki-tô hi vọng rằng Tin Mừng Ngài mang đến sẽ sinh hoa kết
trái, sẽ giúp con người trở nên những hình ảnh của Thiên Chúa,
những hình ảnh của 1 Thiên Chúa sáng tạo và giải phóng.

Đức Giê-su muốn nói rằng ngày chung thẩm, khi Ngài quang
lâm, sẽ dựa vào những gì con người đã làm, hay không làm, với ân
huệ của tình yêu Ngài. Chúa Ki-tô, Đấng Cứu Chuộc duy nhất ( Cv
4,12 ), sẽ ban thưởng cho mỗi người tùy theo lối sống của họ ( Mt

- 58 -
16,27 ). Bạn sẽ chỉ còn lại những gì đã cho đi ( Michel Scouarnec )
Chỉ có tình yêu mới đi qua được cõi chết ( F. Varillon ).

Nước Trời được tạo dựng bằng ánh sáng, tình yêu và niềm
vui. Bi loại khỏi Nước Trời là đi vào bóng tối, buồn thảm, Ôán
hờn… Trọn thảm kịch Khổ Nạn hiện diện ở đây : sứ mệnh của Chúa
Ki-tô dường như thất bại. Ơn cứu độ được trao ban cho mọi người
có thể bị từ chối. Người đầy tớ thứ ba không tin vào tình yêu của
ông chủ, vì thế anh không thể cảm nếm được niềm vui vô biên mà
ông đề nghị với mình. Và anh đã có đủ khả năng để đón nhận, thế
mới tiếc ! Giống như Ađam và Evà rời khỏi vườn Địa Đàng sau khi
đã chối từ tin tưởng vào Lời Thiên Chúa ( St 3 ), anh không thể chia
sẻ niềm vui với người chủ mà anh không yêu mến.

Trong dụ ngôn này, Đức Giê-su nói đến những nguy hiểm của
sự hiểu sai về Thiên Chúa. Ông chủ như anh ta biết, như anh ta nhìn
nhận giống như 1 bạo chúa… mà có nói gì thì cũng chỉ để cho người
khác thấy bằng chứng của sự tàn bạo này và có lý di để cho cuộc
quang lâm không bị trì hoãn mà thôi. Tất cả những gì Người có thể
nói đều đã bị cắt nghĩa lệch lạc. Nhưng, khi chết, chúng ta sẽ ra
truớc mặt Chúa mà chúng ta sẽ thấy Người như thế nào, và lúc ấy,
tất cả đều có thể thay đổi, tất cả còn có thể được cứu độ.

Sự trục xuất mang tính cứu độ. Thoạt nhìn, câu quăng nó ra
chỗ tối tăm bên ngoài… nơi đầy khóc lóc và nghiến răng tuồng như
1 lời kết án vĩnh viễn. Trong dụ ngôn, có thật như thế không ? sự
thất bại không thể sửa chữa nổi nữa sao ? cũng như việc lấy lại nén
bạc của người đầy tớ có thể được nhìn 1 cách tích cực thì việc quăng
ra chỗ tối tăm bên ngoài cũng thế.

Người đầy tớ này sẽ làm gì ? Dụ ngôn không nói gì cả. Hỏa


ngục, tương đương với sự từ chối một cách ý thức, tuyệt đối, tự do
hòan toàn và dứt khoát mọi tình yêu thương, vẫn là một bi kịch của
sự có thể. Thiên Chúa không thể muốn hỏa ngục, Người cũng không
thể chống lại tự do của con người. Tuy nhiên, liệu có thể có ai sau
khi đã hiểu biết rõ ràng mà lại còn có thể từ chối hạnh phúc vĩnh cửu
được đề nghị với mình chăng ?

- 59 -
Ta để ý là người đầy tớ thứ ba kông bị ném từ nơi ánh sáng
vào bóng tối nhưng, từ bóng tối nội tâm ra bóng tối bên ngoài.
Trước khi bị quăng vào bóng tối, người đầy tớ này không thể đạt
được sự biến đổi mà ông chủ hi vọng và đã rất thành công với hai
người đầy tớ trước. Ông chủ không thể nói với anh ta Hãy đến
hưởng niềm vui với Ta. Thật vậy, để có thể chia sẻ niềm vui của ông
chủ, người đầy tớ phải ngưng coi ông như một người hà khắc. Làm
sao có thể hạnh phúc với một người mà ta không yêu thương được ?
Vì thế, bị quăng ra ngoài có thể được xem như một cơ may.

Vì của cải ( 1 nén bạc giá trị bằng 17 năm công nhật ! ) và
niềm vui không thể trở thành của anh, nên cơn giận và Ôán hờn chất
chứa trong anh sẽ có thể ra đi ! Tiếng kêu Ôán giận, phản kháng của
anh có thể sẽ hạ bớt. Chắc chắn lúc đầu, anh sẽ cảm thấy nhẹ nhàng
khi được xa lánh ông chủ mà anh sợ hãi. Ta cũng có thể hi vọng
rằng, giống như người con hoang đàng, sự xa cách có thể trở nên
con đường sự sống. Nguy cơ trước cái chết có thể giúp người ta sống
lại. Có lẽ kinh nghiệm mới mẻ này sẽ mở mắt cho anh và cho phép
anh nhìn chủ mình một cách khác…

Việc bị quăng ra bóng tối là hình ảnh của luyện tội hơn là của
hỏa ngục. Thiên Chúa trao ban cho anh một cơ may để thanh luyện
cái nhìn và trái tim để có thể bước vào trong niềm vui của Người…
nhà thần học Henri Bourgeois viết : Luyện ngục là một tiến trình
thanh luyện, nghĩa là một tiến trình giúp chân lý sống trong ta và
đặt chúng ta vào trong chân lý để giúp ta đạt được hưởng kiến của
Thiên Chúa và vì thế đạt được đời sống sung mãn.

Đức Giê-su nhằm mục đích gì khi kể dụ ngôn này ?

Ông chủ trẩy đi phương xa, như đã nói, có thể chỉ Thiên Chúa,
qua Con Mình, gieo rắc Lời Người, Tin Mừng là con đường sự sống
mà một số đã chối từ bước theo.

Thời gian xa vắng của ông chủ là thời gian của đời người. Lúc
ông trở về là lúc ta chết, sự chuyển bước ấy thật sự đặt ta trước mặt
Thiên Chúa.

- 60 -
Người đầy tớ thứ ba tượng trưng những kẻ hiểu sai Tin Mừng
tình yêu của Thiên Chúa, của Giao Ước Người. Đức Giê-su chắc
chắn nhắm đến những kẻ đã làm biến tướng Thiên Chúa khi biến
Người thành một người trừng phạt ( bệnh tật, nghèo đói, được coi là
dấu chỉ của tội lỗi và hình phạt của Thiên Chúa ). Họ đã trình bầy 1
Thiên Chúa phải mua chuộc hồng ân bằng các lễ vật. Họ làm tê liệt
Tin Mừng, biến tướng Lề Luật, thánh ý của Thiên Chúa, bằng cách
nhân lên vô vàn những qui tắc trở thành xiềng xích trói buộc. Cách
trình bày Thiên Chúa như vậy chẳng những không cứu vớt mà trái
lại còn gây nên khiếp hãi. Nó khiến con người tìm kiếm an toàn cá
nhân trong việc tuân giữ tỉ mỉ các giới luật, chỉ biết có chính mình
và lọai trừ tất cả những gì bị coi là ô uế : lương dân, chắc chắn rồi,
nhưng cũng còn những người Sa-ma-ri, thu thuế, đui mù, phong
cùi…

Cách dậy dỗ ấy có kết quả là khiến tôn giáo, sự sống, tương


giao giữa con người bị tê liệt và khiến Thiên Chúa xa cách người
nghèo khó, bé nhỏ ( cf. các lễ tế ở Đền Thờ )… chẳng hạn :

- Thái độ của vị tư tế và trợ tế trong dụ ngôn người


Sa-ma-ri nhân hậu đưa đến cái chết vì họ tin rằng đụng
chạm vào máu sẽ khiến mình ra ô uế ( Lc 10,25-37 ; Ds
19,11-13 ).
- Hiểu sai thánh ý của Thiên Chúa về ngày Lễ Nghỉ,
các Biệt Phái muốn giết Đức Giê-su vì đã chữa bệnh trong
ngày đó ( Mc 3,1-6 ).
- Để không trở thành tội nhân, ngừoi anh cả của đứa
con hoang đàng đã từ chỗi dự tiệc được người cha tổ chức
mừng đứa con thứ trở về ( Lc 15,25-32 )…

Qua dụ ngôn này, Đức Giê-su lên án thái độ tiêu cực của
người đầy tớ thứ ba. Ngài không thể chấp nhận một cuộc sống
chỉ bằng lòng với việc không làm gì xấu. Ngài múôn người ta
làm lành, có sáng kiến… không làm điều lành mình có thể làm
chính là làm ác.

- 61 -
Cốt lõi của sứ điệp hệ tại việc mạc khải cho ta, qua ông
chủ quảng đại, sự nhưng không và rộng rãi của tình yêu Thiên
Chúa đổ tràn trên ta muôn vàn hồng ân của Người và muốn mọi
người chúng ta đạt được niềm hạnh phúc vĩnh hằng, đạt được
niềm vui cứu độ. Như vậy, trong khi mạc khải khuôn mặt đích
thực của Cha Ngài, Đức Giê-su đã phê phán hình ảnh méo mó
về 1 Thiên Chúa cứng cỏi, nghiêm khắc. Một Thiên Chúa như
vậy sẽ ngăn cản sự sống, và nếu nguời ta có làm thì cũng vì sợ
hãi. Trái lại, một Thiên Chúa tình yêu luôn khiến người ta bạo
dạn, tự do, sáng tạo, một Thiên Chúa mà hai người đầy tớ trước
đã hiểu.

Qua dụ ngôn này, Đức Giê-su cũng nói với ta rằng việc
làm cho Nước Trời sinh hoa kết trái ( các nén bạc ), nhờ tình yêu
đón nhận từ Thiên Chúa, là chấp nhận mạo hiểm để làm việc
cho hòa bình, công chính tình yêu. Đừng làm gì để ngăn cản
chương trình của Thiên Chúa đang thực hiện và góp tay giúp sức
cho sự dữ, cho bạo lực.

Đối với các kitô hữu của thánh Mt, việc lấy yến bạc khỏi
tay nó mà giao cho người đã có mang một ý nghĩa mới : Tin
Mừng bị những nhà lãnh đạo do thái từ chối đã chuyển sang tay
người khác là các lương dân. Thật vậy, sau khi Đức Giê-su tử
nạn và phục sinh, nhiều người ngoại đã chọn kitô giáo và cùng
với các người do thái trở lại, tạo thành Giáo-hội sơ khai.

Để Nước Thiên Chúa ngự đến, mở ra cho mọi người,


Chúa Ki-tô đã ban cho ta sức mạnh, tình yêu, Thánh Thần của
Ngài. Ngài xin ta cầu nguyện : Lạy Cha chúng con… Nguyện
cho Nước Cha trị đến. Chính như vậy mà ta sẽ trở nên hình ảnh
của Thiên Chúa, của vị Thiên Chúa tự hiến hòan toàn để cho ta
được sống đời sống của Người. Mọi sự trong chúng ta đều nhắc
nhở đến tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Đức Giê-su giao cho
chúng ta đảm nhận phần trách nhiệm của mình trong việc loan
báo Tin Mừng của Ngài.

Việc không biết gì về số phận tiếp theo của người đầy tớ


thứ ba chẳng phải là dịp để ta suy nghĩ, tìm hiểu đó sao ? Chúng

- 62 -
ta tin tưởng vào Thiên Chúa nào ? Cách mà các môn đệ đang
trình bày chân dung của Thiên Chúa giúp những ngừoi tìm kiếm
đến gần Người, khám phá ra Người, hay chỉ khiến người ta xa
lánh Người !

Thiên Chúa được Đức Giê-su mạc khải thật lạ lùng.


Thường thì các thần thánh và ông chủ điều khiển và bắt mọi
người vâng phục. Ơ đây, ông chủ muốn các đầy tớ trở thành ông
chủ. Ông muốn chia sẻ ngai vàng của mình. Thiên Chúa muốn
con người trở thành cao cả. Thầy không gọi anh em là tôi tớ,
nhưng là bạn hữu… các vị thần khác thì hóa thân làm người, còn
Thiên Chúa thì cho phép con người trở nên hình ảnh của mình
và chia sẻ Vinh quang vĩnh cửu của mình với họ… Thiên Chúa
không bao giờ kết án, Người tin tưởng, tha thứ, trao ban và trả
lại cho mỗi ngừoi cơ may của mình. Thiên Chúa không muốn
những ngừoi nô lệ, mà muốn những người thừa kế, những người
đứng thẳng trên đôi chân của mình.

Chỉ trong mức độ tin tưởng vào Thiên Chúa của Đức Giê-
su Kitô mà ta có thể hiểu, với thánh Phaolô, rằng khốn cho tôi
nếu tôi không rao giảng Tin Mừng ( cf. 1Cr 9,16 )

Nếu chúng ta nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ban ( Ga 4,10 )

- 63 -
4. KHÁCH DỰ TIỆC ( Lc 14,15-24 )

Nghe vậy, một trong những kẻ đồng bàn nói với Đức Giê-su :
"Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa !" Người đáp :
"Một người kia làm tiệc lớn và đã mời nhiều người. Đến giờ tiệc,
ông sai đầy tớ đi thưa với quan khách rằng : 'Mời quý vị đến, cỗ bàn
đã sẵn.' Bấy giờ mọi người nhất loạt bắt đầu xin kiếu. Người thứ
nhất nói : 'Tôi mới mua một thửa đất, cần phải đi thăm ; cho tôi xin
kiếu.' Người khác nói : 'Tôi mới tậu năm cặp bò, tôi đi thử đây ; cho
tôi xin kiếu.' Người khác nói : 'Tôi mới cưới vợ, nên không thể đến
được.'

"Đầy tớ ấy trở về, kể lại sự việc cho chủ. Bấy giờ chủ nhà nổi
cơn thịnh nộ bảo người đầy tớ rằng : 'Mau ra các nơi công cộng và
đường phố trong thành, đưa các người nghèo khó, tàn tật, đui mù,
què quặt vào đây.' Đầy tớ nói : 'Thưa ông, lệnh ông đã được thi hành
mà vẫn còn chỗ.' Ông chủ bảo người đầy tớ : 'Ra các đường làng,
đường xóm, ép người ta vào đầy nhà cho ta. Tôi nói cho các anh biết
: Những khách đã được mời trước kia, không ai sẽ được dự tiệc của
tôi.'"

ĐỂ HIỂU DỤ NGÔN

Đọc kĩ, ghi ra những phản ứng bộc phát, những khám phá,
những thắc mắc…

Xem văn cảnh của dụ ngôn

Trước : Lc 10,12-13 ; 13,5-35 ; 14,1-14.

Sau : Lc 14,25-35 ; 15,1-7 ; 18,18-27.

- 64 -
ĐÀO SÂU

Đâu là những nhân vật của dụ ngôn ? họ làm gì ? họ nói gì ?


Họ tượng trưng cho ai ?

Bữa đại tiệc mà Đức Giê-su nói ở đây có nghĩa gì?( cf. Is
25,6-12 ; 55,1-3 ; Tv 23, 5 ; Cn 1-5 ; Lc 13,29 ; 22,16.18.30 )

Phần thứ nhất ( 15-21a )

- Bạn nghĩ gì về khách mời ? Giải thích sự từ chối


của khách ra sao ? Lời cáo lỗi của họ có nghĩa gì ?

- Tại sao ông chủ giận dữ ( cf. 2M 8,5 ; Tv 86,15 ; Kn


16,5 ; Is 12,1 ; Hs 11,9 ; Đnl 29,23-24 ; Tl 3,8 ; 2V 22,13; Cn 11,23
).

- Thử liên kết với Lễ tế của Abraham ( St 22,1-19 ) và


nói xem phần thứ nhất liên quan tới ta ra sao ?

Phần thứ hai ( 21-24 )

- Tại sao ông chủ lại mời thêm hai loại người mới ? (
x. Cv 13,46 )

- Những khách mới là loại người nào ? Họ tượng


trưng cho ai ?

- Điều này giúp ta hiểu thêm điều gì ?

- Ý nghĩa của câu 24 là gì ?

- Thử liên kết dụ ngôn này với Tin báo cho các mục
đồng ( Lc 2,8-19 ), rồi với câu truyện các đạo sĩ thờ lạy Chúa Hài
Đồng.

- 65 -
Kết luận :

- Dụ ngôn là một Tin Mừng ở khía cạnh nào ?

- Đức Giê-su nói gì với ta về Thiên Chúa ? về Nước


Trời ?

HỌC HỎI

Dẫn Nhập

Thiên Chúa mời gọi tất cả chia sẻ niềm hạnh phúc của
Người, gia nhập Nước Người, nhưng vì thiếu tin tưởng hoặc
thiếu tình yêu, nhiều người do dự không dám đáp lời, những
người khác lại từ chối. Qua dụ ngôn các khách mời dự tiệc, Đức
Giê-su muốn lôi kéo ta theo Ngài. Qua đó, dù không giấu diếm
những đòi hỏi dành cho những kẻ đáp lời, Ngài cũng mạc khải
cho ta một Thiên Chúa yêu thương vô vị lợi và phổ quát, một
Thiên Chúa chỉ tìm cách giúp ta được hạnh phúc. Dụ ngôn cũng
giúp Đức Giê-su thanh minh cho thái độ và sự lưu tâm của Ngài
đối với người nghèo khó, người bị ngược đãi. Thái độ của Ngài
phù hợp với sứ mệnh mà Thiên Chúa đã trao phó : cứu vớt mọi
người.

Lướt qua văn cảnh trước dụ ngôn này ta sẽ hiểu rõ hơn.


Đức Giê-su nhận rằng nhiều người thời đó đã từ chối sứ điệp
của Ngài. Có nhiều lý do : các luật sĩ dậy rằng, ngày Lễ Nghỉ
phải dành cho Thiên Chúa, mọi công việc chân tay đều bị cấm,
ngay cả việc săn sóc bệnh nhân, trừ khi nguy tử… vì thế họ
không thể khoan nhượng trước việc Đức Giê-su tự tiện chữa trị
bệnh nhân hay người khuyết tật ngày Lễ Nghỉ ( Lc 13,10-17 ;
14,1-6 ). Những người khác, tìm cách đưa mình lên, nên khó
chấp nhận sứ điệp của Đức Giê-su đòi họ phải làm đầy tớ anh
em mình ( Lc 14,7-11.12-14 ).. Song, lý do chính đó là Đức Giê-
su đòi mỗi người phải hoán cải, nhìn lại cách mình đang sống
mối tương quan với Thiên Chúa và với anh em ( Lc 13,5 ), điều
mà phần đông không chấp nhận. Đức Giê-su đau khổ thấy mình
bị hiểu lầm, thấy người ta đi những con đường khác với đường
- 66 -
đưa đến hạnh phúc thật. Đức Giê-su khóc vì những hiểu lầm, vì
Giêrusalem từ chối Tin Mừng ( Lc 13,34 ), nhưng Ngài vẫn
không thất vọng. Ngài nhắc nhở các thính giả về sự nhẫn nại của
Thiên Chúa ( dụ ngôn cây vả không trái, hình ảnh của nhà It-ra-
en được ban cho một cơ may mới Lc 13,8 ). Ngài nói với họ
niềm tin tưởng của mình : hạt cải nhỏ tí sẽ biến thành cây ( lc
13,18 ). Các thành dân ngoại đã chấp nhận sứ điệp của Ngài ( Lc
10,13 ).

Những câu truyện tiếp sau dụ ngôn các khách mời dự tiệc
cũng rất rõ ràng. Dụ ngôn nhằm xác quyết lòng quảng đại của
Thiên Chúa, tình yêu cao cả của Người, niềm vui của Nước
Trời… để chúng ta hiểu rằng thật là khờ dại, điên khùng khi từ
chối lời mời gọi đến với hạnh phúc. Trong khi đó, là người thực
tế, Đức Giê-su không quên nhắc đến những khó khăn của con
đường dẫn đến sự sống thật, những trở ngại phải vượt thắng.
Theo Đức Giê-su, là bỏ tất cả vì Nước Trời, là sống tự do, không
bị tiền bạc, con người ràng buộc ( Lc 14,25.27.34 ; 18,18-27 ).

ĐÀO SÂU

- Lời mời dự tiệc chia làm 2 giai đoạn : lời mời thứ
nhất trước ngày đãi tiệc khá lâu, lời mời thứ hai khi tiệc đã dọn sẵn
sàng. Vì thế các khách được mời mà Đức Giê-su nói ở đây đã nhận
lời trước rồi.

- Những nhà lãnh đạo tôn giáo chỉ mời những người
đồng vai, những kẻ thanh sạch.

- Những người đui mù, què quặt, thọt chân… bị coi là


bị Thiên Chúa phạt vì một tội lỗi nào đó. Họ bị cấm tham dự phụng
vụ, bị loại khỏi cộng đồng, bị kể như những người ngoại giáo ( cf.
Lv 21,18 ; 2S5,8 ), vì người ta cho rằng họ không yêu mến Thiên
Chúa và Thiên Chúa cũng không yêu mến họ. Trong các văn bản ở
Qumran, người ta còn nói rõ là họ sẽ không được tham dự Bàn tiệc
cánh chung, trong Nước Thiên Chúa.

- 67 -
- Ep vào nhà có ý nhấn manh, thúc hối ( Lc 14,29 ;
Cv 16,15 ).

- Các đường làng, đường xóm : nghĩa là ngoài thành,


ngòai vùng dân Thiên Chúa ( dân ngoại ).

- Các bữa tiệc tượng trưng cho nước thiên sai mang
đến niềm vui, sự chia sẻ, dư dật, no đầy ( cf. Tv 23,5 ; Cn 9,1-5 ; Lc
13,29 ; 22,16.18.30 ). Isaia cũng nói về tính đại đồng ( Is 25,6 ),
nhưng không ( Is 55,1 ).

TÌM KIẾM Ý NGHĨA

Đức Giê-su đang ở nhà 1 nguời biệt phái ( Lc 14,1 ). Ngài


vừa tán dương tinh thần vô vị lợi, quan tâm đến người nghèo khó và
nói về sự sống lại của người công chính. Chính lúc ấy, một khách
mời kêu lên Phúc thay ai được dự tiệc trong Nước Thiên Chúa. Dựa
vào lời ước hạnh phúc ấy, Đức Giê-su liền nói về Nước Thiên Chúa
và về những người được mời. Dụ ngôn có thể chia làm 2 phần :

Phần thứ nhất :

Các khách mời từ chối ( 15,21a ). Ta lấy làm lạ vì :

- Lòng quảng đại của người chủ tiệc : ông thết 1 bữa
tiệc lớn và mời rất nhiều người.

- Tất cả khách mời đều từ chối.

Mỗi khách mời đều tìm được lý do phù hợp để hồi lại quyết
định tham dự bữa tiệc trước đó. Tuy nhiên, không lý do nào thực sự
chính đáng cả. Ta chú ý đến sự tiệm tiến trong các lý do từ chối.
Người thứ nhất muốn thăm cánh đồng mới mua. Điều này khá lạ, vì
trong xứ nhỏ bé ấy, chẳng ai mua đất mà đã không đi thăm và đo đạc
trước … người thứ hai muốn đi thử bò ( đây là 1 người giầu có, vì có
5 đôi bò tức là phải làm chủ ít nhất 45 ha đất ). Người thứ ba, thậm
chí không thèm xin lỗi, vừa mới cưới vợ và không muốn để vợ ở nhà
một mình ( nàng không được mời ).
- 68 -
Ta có thể hiểu các lý do này, nhất là khi chính mình, chúng ta
nghĩ mình cũng sẽ hành động như họ !Nhưng tất cả những người
này đều có thể giữ lời đã hứa sẽ đến dự tiệc. Vợ mới cưới, 10 con bò
và nhất là miếng đất đều có thể chờ đợi vài tiếng đồng hồ… Nếu vì
những lý do khác : tìm việc, có được mối lợi lớn… chắc chắn những
người này sẽ chẳng ngần ngại dời lại những việc đã kể ngay và vợ
mới cưới của người thứ ba hẳn cùng sẽ chẳng trách cứ gì ! Đức Giê-
su không hề phê phán những lý do họ đưa ra, Ngài chỉ giúp cử tọa
thấy rằng những lý do ấy đã khiến họ thất hứa và tự loại mình ra
khỏi bữa tiệc.

Trong thực tế,lời từ chối của họ còn có lý do sâu xa hơn : họ


không muốn tham dự bữa tiệc, muốn bỏ giờ để đến với ông chủ và
các khách mời khác. Tâm trí họ bị việc khác thu hút. Họ không nghĩ
đến bữa tiệc nữa, họ quan tâm đến việc khác rồi. Họ không sẵn sàng
cho bữa tiệc nữa. Hai người đầu phục vụ tiền bạc hơn là Thiên Chúa,
điều đã được Đức Giê-su minh họa : anh em không thể vừa làm tôi
Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được ( Lc 16,13 ). Người thứ ba, để
người vợ mới lên hàng đầu, giữ đúng Lề Luật ( khi một người đàn
ông mới cưới vợ, thì người ấy không phải đi linh, và người ta sẽ
không bắt làm công tác nào ; người ấy sẽ được miễn, được ở nhà 1
năm, và sẽ là niềm vui cho ngừơi vợ đã cưới. Dnl 24,5 ), nhưng Đức
Giê-su lại muốn người ta vượt trên óc nệ luật chỉ chú trọng đến việc
được phép hay cấm đoán. Dù sao chăng nữa, anh ta cũng có thể báo
trước cho người chủ tiệc chứ !

- 69 -
Vì sợ dụ ngôn không rõ ràng đủ, nên thánh Lc đã đặt ngay
sau dụ ngôn, 1 bài giảng của Đức Giê-su nói với đám đông đi theo
Ngài về những đòi hỏi của Nước Trời : Ai đến với tôi mà không dứt
bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì
không thể làm môn đệ tôi được…Ai trong anh em không từ bỏ hết
những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được ( Lc 14,26.33 )

Bài giảng thật rõ ràng, dễ hiểu. Đức Giê-su sẽ mâu thuẫn với
sứ điệp tình yêu của Ngài nếu bảo rằng không được yêu mến cha mẹ
họ hàng… Ngài chỉ muốn giúp ta thanh luyện cách sống tình yêu
thương. Trong dụ ngôn Người Sa-ma-ri nhân hậu ( Lc 10,25-37 ),
Đức Giê-su phê bình cách yêu mến Chúa mà miễn trừ hoặc ngăn cản
tình yêu anh em. Điểm nhấn ở đây, chính là tự do, là sẵn sàng. Vì
thế, Đức Giê-su cảnh giác các mối dây tình cảm sẽ giam hãm hay
trói buộc ta. Đó là thứ tình yêu chiếm hữu, giam cầm. Ý nghĩa của lễ
hi sinh mà Thiên Chúa đòi hỏi Abraham chính là : thanh luyện tình
yêu của ông đối với Isaac để Isaac có thể hiện hữu và được tự do.
Đức Giê-su muốn nói rằng, mọi tình yêu ( dù là sự vật, người khác
hay chính mình… ) phải phụ thuộc vào tình yêu Thiên Chúa mới là
tình yêu chân thật. Như vậy, Ngài cảnh giác ta khỏi mọi tình yêu giả
dối ngăn không cho ta được đủ tự do để theo buớc con đường của
Chúa Ki-tô, con đường dẫn đến Thiên Chúa và vì thế dẫn đến sự
sống, đến bữa tiệc vĩnh cửu.

Ong chủ có nổi giận cũng là điều dễ hiểu. Bữa tiệc đã dọn sẵn
và rồi chẳng ai đến cả ! Chắc ta nghĩ ngay đến chuyện thức ăn hư
hỏng, nhưng ở đây còn hơn thế… ông chủ thất vọng khi thấy lòng
quảng đại của mình bị hiểu lầm, tình thân của ông bị xúc phạm, bội
phản, lừa dối.

Cơn giận của ông chủ chính là điều Giavê Thiên Chúa biểu lộ
trong Cựu ước trước những lần It-ra-en vi phạm Giao ước ( Đnl
19,23 ; Tl 3,8 ; 2 V22,13 ; Cn 11,23 ) trước những kẻ đã tàn sát trẻ
thơ ( 2 M 8,5 ), hay xúc phạm đến sự tự do của con người ( Kn 16,5
). Khi nói về cơn giận của Thiên Chúa, Thánh Kinh chỉ muốn chứng
tỏ tội từ khước của ta nặng nề tới mức nào. Thiên Chúa đã thất vọng
khi thấy ta lạc xa niềm hạnh phúc. Nhưng Thánh Kinh cũng cho ta
thấy sự giận dữ ấy không ngăn cản Thiên Chúa tiếp tục đề xuất Giao

- 70 -
Ước, lòng tha thứ và ơn Cứu độ của Người. Thiên Chúa chậm bất
bình và giầu tình yêu ( Tv 86,15 ), Cơn giận của Người chẳng kéo
dài ( Kn 16,3 ; Is 12,1 ; Hs 11,8.9 ).

Những tiếng nức nở của Đức Giê-su truớc thành thánh


Giêrusalem không chịu lắng nghe sứ điệp của Ngài, phù hợp với cơn
giận của ông chủ. Qua dụ ngôn, Đức Giê-su hỏi mỗi người chúng ta
: Con có sẵn sàng bỏ mọi sự vì Nước Trời không ? Con có tin vào
Nước Trời mà Ta loan báo, vào niềm hạnh phúc vĩnh hằng được
sống trong sự hiệp thông đích thực không ? Nếu con tin, con sẽ sẵn
sàng bán hết mọi sự để có được kho tàng ấy. Con sẽ chấp nhận đi
trên con đường mà ta chỉ cho con, cho dù có khó khăn. Đối với
những hạnh phúc hay thú vui chóng qua, con lại chẳng mất bao nỗ
lực để có được chúng đó sao ?

Đi theo con đường Nước Trời không phải là chối bỏ hoặc


khinh thường đời sống trần gian hoặc những mối tương quan nhân
lọai. Nhưng Đức Giê-su chỉ cho ta những điều phải ưu tiên, Ngài nói
với ta rằng tình yêu đối với Thiên Chúa và với tha nhân phải bổ túc
chứ không được đối nghịch với nhau. Có những điều quan trọng có
thể đợi sau… có những lời mời mà ta không thể từ chối nếu không
phá vỡ mọi giao ước… Qua dụ ngôn này, Đức Giê-su khuyến khích
ta tự hỏi mình xem đâu là những mối quan tâm hàng đầu của ta, và
điều gì khiến ta không thể nói VÂNG với Thiên Chúa ? Tình yêu xa
tránh Thiên Chúa không phải là tình yêu.

Phần thứ hai : Những khách mời bất ngờ ( 21b-24 )

Tất cả những lời từ chối trên thật đáng tiếc. Niềm hạnh phúc
hóa thành bất hạnh. Yêu mà không được yêu lại. Ông chủ tôn trọng
những từ chối ấy. Ông không nài ép. Những khách mời biết điều
đó… ( ở đây Đức Giê-su nhắm đến các nhà lãnh đạo do thái ). Ông
chủ nổi giận, ông ngao ngán, nhưng cơn giận không khiến ông đóng
cửa cài then. Ông muốn chia sẻ niềm vui, ban phát hạnh phúc của
mình bằng mọi giá … ông không bó tay. Ông chấp nhận mạo hiểm
thêm… ông sẽ mời mọi người không ai ngờ tới :

- 71 -
- Những ngừơi đui mù và què quặt ( những kẻ bị loại trừ, gạt
bỏ bên lề… )

- Những người ngoại thành ( dân ngoại )

Lòng ông chỉ đau đáu một niềm : buổi lễ phải được tổ chức,
nhà ông phải đầy người. Đi nhanh lên, ông bảo.

Nếu biết rằng vào thời Đức Giê-su, một trong những bổn phận
tôn giáo quan trọng nhất là xa lánh người tội lỗi và hạng người này
thường được gắn liền với người bệnh tật, ta sẽ dễ hình dung hơn sự
ngạc nhiên của những người nghe Đức Giê-su. Họ không thể không
bị sốc vì lớp khách mời thiếu chất lượng này.

Theo họ, ông chủ cho mời mọi loại người như thế không thể là
Thiên Chúa cũng chẳng phải là một người của Thiên Chúa được…
Một lần nữa, Đức Giê-su lại coi nhẹ các niềm tin của do thái giáo.

Ông chủ thực sự là một người khác thường. Ông muốn ép các
khách mới này vào ( ở đây không muốn nói là cưỡng ép, nhưng là
hết sức thuyết phục, cf. Lc 24,29 ).

Ta hiểu tại sao ông chủ phải nhấn mạnh, vì những người này
biết rõ phong tục tập quán. Họ không được mời trước. Vì thế nên rất
ngại ngùng.

Họ tự nhủ : làm sao bọn mình lại được mời dự tiệc cơ chứ.
Xưa nay có ai đoái hoài đến bọn mình đâu ? Tuy nhiên, là những
người cởi mở, luôn sẵn sàng nên họ nhận lời.

Vì thế dụ ngôn khiến ta phải tự hỏi ông chủ mời gọi hết mọi
người, muốn chia sẻ niềm vui của mình bằng mọi giá là ai vậy ? Cử
tọa gồm các kinh sư và Biệt phái, hẳn biết rõ rằng bữa tiệc tượng
trưng cho Nước Thiên Chúa. Nhưng thái độ của ông chủ thì khác
hẳn điều họ vẫn nghĩ về thánh ý Thiên Chúa đến độ dụ ngôn cũng
khiến họ phải tự hỏi người kể dụ ngôn này thực sự là ai và ông có
quyền gì mà nói như vậy.

- 72 -
Họ có hiểu là Đức Giê-su muốn nói rằng thời của Nước
Thiên Chúa đã điểm không ? Tóm lại, Đức Giê-su đòi họ nhìn lại
những suy nghĩ của mình về Thiên Chúa, để hóan cải, để sẵn sàng
đón nhận Nước Trời : đừng giống như những người được mời đầu
tiên, vì cố ý từ chối nên đã chẳng bao giờ được nếm hương vị bàn
tiệc nữa. Một trong những ý nghĩa của câu 24 là : Thiên Chúa không
thể cứu vớt kẻ không muốn, Người tôn trọng tự do mỗi người.
Những khách mời đầu tiên đã không sẵn sàng, Nước Trời đối với họ
để sau cũng được, đời sống trần thế mới cần, họ đói khát một điều
khác : thỏa mãn nhu cầu trước mắt. Đức Giê-su muốn nói với cử tọa
là hãy mở lòng đón nhận sự mới mẻ và đừng cứng ngắc trong những
thói quen và xác tín của mình. Trong Cv 13,46, thánh Luca viết Anh
em phải là những người đầu tiên được nghe công bố lời Thiên Chúa,
nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng đáng
hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại…

Để kết luận, ta hãy nhớ lại một vài khía cạnh của sứ điệp Đức
Giê-su :

- Chính Thiên Chúa có sáng kiến mời gọi trước.


Không ai có thể tự cứu vớt được mình.

- Tình yêu của Thiên Chúa phổ quát, nhưng không,


quảng đại ( sứ điệp này cũng chứa đựng trong câu truyện về việc báo
tin cho các mục đồng, Lc 2,8-20 ). Hạnh phúc mà Thiên Chúa hứa
ban vượt trên mọi điều ta có thể tưởng tượng. Tất cả đã sẵn sàng, tất
cả đã được trao ban…

- Đức Giê-su chỉ cho ta con đường Nước Trời. Ngài


không giấu diếm các đòi hỏi của mình. Ngài đòi ta cộng tác vì câu
trả lời của ta có hệ quả đời đời. Ngài bảo ta phải cảnh giác với thứ
tình yêu chiếm hữu khiến ta bị giam hãm, tê liệt và tách biệt những
người khác…

- Thuộc về It-ra-en, thuộc về Giáo-hội không phải là


một đảm bảo để được cứu độ. Thiên Chúa đề nghị. Chúng ta có khả
năng từ chối lời mời của Người. Thiên Chúa không thể cứu vớt ta
nếu ta không đồng ý, Ngài cần tiếng Vâng của ta.

- 73 -
- Mọi sự đều phải phụ thuộc vào tình yêu của Thiên
Chúa. ta phải thanh luyện cách yêu mến Thiên Chúa và tha nhân.
Nếu ta biết Thiên Chúa và hạnh phúc Người hứa ban, sự thanh luyện
này phải được thực hiện trong niềm vui.

- Dù nhấn mạnh đến sự nghiêm trọng của việc từ


chối, Đức Giê-su bảo ta rằng Thiên Chúa không thất vọng về con
người. Ngài không thể giữ riêng cho mình niềm vui Nước Trời. Ngài
không mỏi mệt sai các sứ giả đến. Ngài đã tạo nên ta để hưởng hạnh
phúc.

- Thiên Chúa không xua đuổi ai khỏi Nước trời.


Nguời mời gọi hết mọi người. Chỉ kẻ tự loại trừ một cách tự do, ý
thức mới bị loại trừ. Dụ ngôn nói với ta về sứ vụ phổ quát của Đức
Giê-su, mời gọi ta trở nên những sứ giả của Tin Mừng tình yêu
nhưng không của Thiên Chúa….

- 74 -
5.NHỮNG NGƯỜI THỢ GIỜ THỨ 11 ( Mt 20,1-
16 )

"Nước Trời giống như chuyện gia chủ kia, vừa tảng sáng đã ra
mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. Sau khi đã thoả
thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho
làm việc. Khoảng giờ thứ ba, ông lại trở ra, thấy có những người
khác ở không, đang đứng ngoài chợ. Ông cũng bảo họ : "Cả các anh
nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng."
Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và
cũng làm y như vậy. Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có
những người khác đứng đó, ông nói với họ : "Sao các anh đứng đây
suốt ngày không làm gì hết ?" Họ đáp : "Vì không ai mướn chúng
tôi." Ông bảo họ : "Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho !" Chiều
đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý : "Anh gọi thợ lại mà trả
công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những
người vào làm trước nhất." Vậy những người mới vào làm lúc giờ
mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. Khi đến
lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều
hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. Họ vừa
lãnh vừa cằn nhằn gia chủ : "Mấy người sau chót này chỉ làm có một
giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người
đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt."
Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ : "Này bạn, tôi đâu có
xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan
tiền sao ? Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho
người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. Chẳng lẽ tôi lại
không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao ? Hay vì
thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?" Thế là những kẻ đứng
chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống
hàng chót. [Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.]

ĐÀO SÂU

- Đọc kĩ dụ ngôn, ghi lại những phản ứng bộc phát,


những khám phá, những thắc mắc, điều thú vị hay gây sốc…

- 75 -
- Đọc một số đoạn văn Cựu ước liên quan đến vườn
nho : Hs 10,1 ; 11,1-4.9 ; Tv 80,9-15 ; Gr 2,20-21 ; 3,1.22.23

- Đọc tiếp : Mt 8,5-13.28-34 ; 10,5-6 ; 13,53-58 ;


14,21.34.36-37 ; 15,7-9.13.24-28.37 ; 21,12-17 ; 23,37 ; 25,31-46 ;
26,28.

- Từ những đoạn văn qui chiếu này có thể nói xem


trong dụ ngoo, ông chủ, vườn nho, thợ vườn ( đặc biệt những người
đầu tiên và sau cùng ) là những ai ?

- Tìm hiểu văn cảnh của dụ ngôn

Trước : Mt 5,20 ; 6,19-21 ; 7,1-5 ; 11,28-30.

Sau : Mt 10,17-19. 20-28.29-34 ; 23,1-4.

Những đoạn văn qui chiếu trên giúp ta nhận ra sứ điệp


mà Đức Giê-su muốn loan báo trong dụ ngôn về điều gì ?

- Định vị sự đối chọi giữa những người thợ đến đầu


tiên và cuối cùng.

- Phân tích thái độ của ông chủ : Ông xử sự có hợp


luật không ? ( cf. Lv 19,13 ; Đnl 24,15 ; Mt 20,2 ). Các người thợ
đầu tiên nổi loạn vì điều gì ? Cái gì biện minh cho thái độ của ông
chủ ?

- Qua dụ ngôn này, Đức Giê-su mạc khải cho ta


khuôn mặt nào của Thiên Chúa ?

- Tóm tắt sứ điệp được Đức Giê-su loan báo và cho


biết sứ điệp Tin Mừng cho hôm nay hệ tại điều gì ?

- 76 -
TÌM HIỂU

Đây là 1 đoạn văn đã được chú giải rất nhiều và cũng từng gây
sốc không ít… làm sao Đức Giê-su có thể so sánh Thiên Chúa với 1
ông chủ trả công cho người chỉ làm có 1g bằng với người lao động
vất vả suốt ngày ? Đó có phải là hình ảnh của sự công bình của
Thiên Chúa không ?

Để hiểu rõ hơn, ta nên đọc một số bản văn Cựu ước liên hệ ở
trên. Sau đây là một số đoạn nhấn mạnh đến lòng bất trung của It-ra-
en

Ít-ra-en vốn là một cây nho sum sê,


trái trăng thật dồi dào phong phú.
Nhưng trái trăng càng nhiều,
chúng càng dựng thêm các bàn thờ ngẫu tượng ;
đất nước càng giàu sang,
chúng càng làm thêm những cột thần lộng lẫy.
Chúng là thứ người lòng một dạ hai,
rồi đây chúng sẽ phải đền tội ;
bàn thờ của chúng, chính Người sẽ đập tan,
cột thờ của chúng, Người cũng sẽ phá đổ. Hs 10,1-2

Khi Ít-ra-en còn là đứa trẻ, Ta đã yêu nó,


từ Ai-cập Ta đã gọi con Ta về.
Nhưng Ta càng gọi chúng, chúng càng bỏ đi ;
chúng dâng hy lễ cho các Ba-an, đốt hương kính ngẫu
tượng.
Ta đã tập đi cho Ép-ra-im, đã đỡ cánh tay nó,
nhưng chúng không hiểu là Ta chữa lành chúng.
Ta lấy dây nhân nghĩa, lấy mối ân tình mà lôi kéo chúng.
Ta xử với chúng như người nựng trẻ thơ, nâng lên áp vào
má ; Ta cúi xuống gần nó mà đút cho nó ăn.
Nó sẽ không trở về Ai-cập nữa,
nhưng Át-sua sẽ lại làm vua nó, vì nó không chịu về với Ta.
Gươm đao sẽ hoành hành trong các thành của nó,
sẽ làm cỏ và ngốn sạch con cái nó, vì chúng có những ý đồ
xấu xa.

- 77 -
Dân Ta cứ miệt mài buông theo bội tín,
chúng được kêu mời hãy vươn lên,
mà chẳng một ai ngóc đầu dậy !
Hỡi Ép-ra-im, Ta từ chối ngươi sao nổi !
Hỡi Ít-ra-en, Ta trao nộp ngươi sao đành !
Làm sao Ta xử với ngươi như với Át-ma,
để ngươi nên giống như Xơ-vô-gim được ?
Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi.
Ta sẽ không hành động theo cơn nóng giận, sẽ không tiêu
diệt Ép-ra-im nữa, vì Ta là Thiên Chúa, chứ không phải
người phàm.
Ở giữa ngươi, Ta là Đấng Thánh,
và Ta sẽ không đến trong cơn thịnh nộ. Hs 11,1-9

Phải, từ lâu rồi, ách đè lên ngươi, ngươi bẻ gãy,


xiềng xích trói buộc ngươi, ngươi giật phăng ;
ngươi còn dám nói : "Chẳng làm tôi ai cả !"
Thế rồi, trên khắp các đồi cao, dưới mọi lùm cây rậm,
ngươi uốn mình như một con điếm.
Còn Ta, Ta đã trồng ngươi như cây nho hảo hạng,cây nho
thuần chủng. Sao ngươi lại thoái hoá thành những cành nho
tạp chủng ? Gr 2,20-21

Nếu một người đuổi vợ


và bà này bỏ đi, làm vợ một người khác, thử hỏi :
người chồng cũ có trở lại với bà ta nữa không ?
Vậy, phải chăng đất kia đã chẳng hoàn toàn ra ô uế ?
Và ngươi, ngươi đã đàng điếm với bao nhiêu tình nhân, lại
còn mong trở về với Ta nữa ! - Sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.
- Trở về đi, hỡi lũ con phản bội,
Ta sẽ chữa lành tội phản bội của các ngươi !
- Này chúng con đây, chúng con đến với Ngài,
vì Ngài là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng con.
Thật ra, các đồi cao chỉ là trò dối trá,
cảnh ồn ào huyên náo trên núi non cũng vậy.
Thật ra, chỉ nơi ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng con, Ít-
ra-en mới có ơn cứu độ. Gr 3,1.22

- 78 -
Tv 90
Lời cầu nguyện của ông Mô-sê, người của Thiên
Chúa.
Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ,
Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn.
Ngay cả khi đồi núi chưa được dựng nên,
địa cầu và vũ trụ chưa được tạo thành,
Ngài vẫn là Thiên Chúa, từ muôn thuở cho đến muôn đời.
Chúa bắt phàm nhân trở về cát bụi, Ngaì phán bảo : "Hỡi
người trần thế, trở về cát bụi đi !"
Ngàn năm Chúa kể là gì,
tựa hôm qua đã qua đi mất rồi,
khác nào một trống canh thôi !
Ngài cuốn đi, chúng chỉ là giấc mộng,
như cỏ đồng trổi mọc ban mai,
nở hoa vươn mạnh sớm ngày,
chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn.

Ngài thịnh nộ, chúng con phải mạng vong,


nổi trận lôi đình : thấy mà khủng khiếp !
Tội chúng con, Chúa bày ra trước mặt Ngài,
lỗi thầm kín, Thánh Nhan đều soi tỏ.
Chúa nổi xung, đời chúng con tàn tạ,
kiếp sống thoảng qua : một tiếng thở dài.
Tính tuổi thọ, trong ngoài bảy chục,
mạnh giỏi chăng là được tám mươi,
mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ,
cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi.

Cơn giận Ngài, ai lường được sức mạnh,


trận lôi đình, ai hiểu thấu căn nguyên ?
Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống,
ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan.

Lạy CHÚA, xin trở lại ! Ngài đợi đến bao giờ ?
Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ Ngài đây.
Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để
ngày ngày được hớn hở vui ca.
- 79 -
Xin ban tặng chúng con niềm hoan hỷ,
bù lại những tháng năm
Ngài đã bắt nếm nhục nuốt sầu.

Ước gì chúng con là tôi tớ Chúa


được thấy công trình Ngài thực hiện,
và con cháu chúng con được thấy vinh hiển Ngài.
Xin cho chúng con được vui hưởng
lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con.
Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố,
xin củng cố việc tay chúng con làm.
Những đoạn qui chiếu này nhấn mạnh sự kiện It-ra-en là vườn
nho được Thiên Chúa chọn để nói với các dân khác rằng Thiên Chúa
cũng yêu thương họ như vậy. It-ra-en đã bất trung với sứ mệnh của
mình, đã ích kỉ độc chiếm cho riêng mình mạc khải của Giao ước.
Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ, nhưng qua trung gian Con Một Giêsu,
Người đòi dân này phải mở lòng với các dân tộc khác và chấp nhận
rằng Thiên Chúa cũng yêu thương cả dân ngoại nữa.

Ta cũng nên xem lại văn cảnh của dụ ngôn trong Tin Mừng
của Thánh Mt để thấy rõ là ngài muốn ta đưa ta đi từ ngạc nhiên này
đến ngạc nhiên khác với Đức Giê-su, từ giáo huấn lạ lùng đến cách
nhìn nhận và phán đóan khác hẳn người bình thường.

Trước khi kể dụ ngôn này, Đức Giê-su đã nói :

"Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công
chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào
Nước Trời ( Mt 5,20 ).

"Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán ( Mt


7,1 )
"Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi
mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích
trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư
nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. Vì kho tàng của anh ở đâu,
thì lòng anh ở đó ( Mt 6,19-21).

- 80 -
"Anh em đừng xét đoán, để khỏi bị Thiên Chúa xét đoán ( Mt
7,1 ).

"Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người


lớn nhất Nước Trời ( Mt 18,4 ).

"Anh em nghĩ sao ? Ai có một trăm con chiên mà có một con


đi lạc, lại không để chín mươi chín con kia trên núi mà đi tìm con
chiên lạc sao ? Và nếu may mà tìm được, thì Thầy bảo thật anh em,
người ấy vui mừng vì con chiên đó, hơn là vì chín mươi chín con
không bị lạc. Cũng vậy, Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không
muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất ( Mt
18,12-14 ).

Đức Giê-su đáp : "Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là
đến bảy mươi lần bảy."( Mt 18,22 )

Nói cách khác, các tiêu chuẩn của Đức Giê-su khác hẳn trần
thế. Nếu Đức Giê-su không hề giấu diếm những đòi hỏi phải có để
trung thành với Thiên Chúa thì Ngài cũng không quên thêm rằng
điều không thể đối với loài người thì đối với Thiên Chúa thật dễ
dàng ( Mt 19,26 ). Thánh Mt chuẩn bị cho ta thêm 1 ngạc nhiên khác
khi đặt dụ ngôn tiếp ngay sau lời tuyên bố đầy bí ẩn của Đức Giê-su
Nhiều người trứơc hết sẽ nên sau hết và nhiều người sau hết sẽ nên
trước hết ( Mt 19,30 ), câu nói sẽ được lập lại để kết thúc dụ ngôn.

Sau dụ ngôn

Đức Giê-su loan báo cuộc tử nạn của Ngài, qua đó cho thấy là
giáo huấn của Ngài không được con người hiểu và chấp nhận như
Tin Mừng. Đức Giê-su chống lại đám đông hắt hủi hai người đui
- 81 -
mù, coi họ như những kẻ tội lỗi và vì thế không đủ điều kiện được
cứu độ. Đức Giê-su nhắc các Tông đồ nhớ rằng kẻ lớn nhất, người
có quyền nhất, không được thống trị người khác, mà phải làm đầy tớ
họ ( Mt 20,26-27 ). Chính Ngài cũng đã đến, không phải để được
phục vụ mà để phục vụ và cứu chuộc muôn người ( Mt 20,28 ). Lời
Đức Giê-su loan báo về việc Ngài sống lại cho thấy là bằng chứng
Thiên Chúa đã thừa nhận lời Ngài.

Câu truyện mà Đức Giê-su kể lại bắt đầu cách rất đơn giản và
hòan tòan khớp với thói quen làm việc 12giờ một ngày tại Palestine
thời đó.

Câu 1 và 2 cho thấy rằng thời đó người ta rất tôn trọng luật lệ,
người chủ vườn có sáng kiến mướn thợ trước. Thời gian làm việc và
tiền công nhật ( 1đồng ) không do ép uổng mà là kết quả sự thương
lượng tự do giữa ông chủ và thợ.

Câu 3-5 xác định 3 giờ sau ông chủ lại đi mướn thợ thêm.
Thời đó, tại Palestine nạn thất nghiệp khá trầm trọng, vì thế không
có gì là lạ khi 9g sáng mà vẫn còn nhiều người đang đi tìm công ăn
việc làm. Tuy nhiên, điều lạ là trong truyện, ông chủ tuyên bố Tôi sẽ
trả cho các anh hợp lẽ công bằng, hãy đi vào vườn nho. Họ chấp
nhận không thắc mắc gì. Hẳn họ phải tin tưởng nơi ông chủ lắm. Có
lẽ vì họ đang cần việc làm, nhưng cứ nhận làm mà không biết người
ta sẽ trả cho mình bao nhiêu kể cũng lạ.

Điều lạ nhất là tới giữa trưa, rồi 3g chiều, người chủ vẫn đi
mướn thêm thợ. Lạ hơn nữa là cũng không có một thỏa thuận nào
giữa hai bên. Chỉ có giờ giấc là được nêu lên một cách chính xác,
hẳn để nhấn mạnh đến số giờ làm việc rất chênh lệch nhau.

Câu 6-7 còn lạ hơn nữa : lúc 5g chiều, 1g trước khi ngày công
kết thúc, ông chủ vẫn còn đi mướn thợ. Tại sao vậy ?

Những người được mướn trước có thể tượng trưng cho những
nhà lãnh đạo tôn giáo mà tiên tri Ez đã nói đến ở chương 34, chỉ
quan tâm đến những người khỏe mạnh… thật vậy, những người chờ
đợi từ sáng mà không ai muốn mướn chính là những người kém cỏi,
- 82 -
bị tổn thương trong đời sống, những người yếu đuối. Trái lại ông
chủ nhà giống với Đức Giê-su, luôn quan tâm đến người bé mọn,
những người ‘yếu đau’, bị loại trừ…

Chúng ta để ý là giữa ông chủ và những người thợ giờ cuối


cùng có 1 cuộc đổi trao, giống như với những người đầu tiên. Vì thế
câu truyện nhấn mạnh trên hai thái cực và làm nổi bật sự đối nghịch
của chúng :

- Những người được mướn đầu tiên đã có 1 hợp


đồng hòan hảo và rõ ràng. Họ sẽ phải làm việc suốt ngày, 12g liền
với 1 đồng tiền lương. Vì liên kết với ông chủ bằng một hợp đồng,
mối tương quan của họ dựa trên căn bản luật pháp. Do đó, ông chủ
bị cản trở, không được làm điều mình muốn. Khế ước chỉ có thể
được thay thế bằng 1 khế ước khác.

- Những người thợ giờ cuối cùng chỉ làm việc trong
1g. Không phải họ lười biếng. Chỉ vì họ không may mắn kiếm được
việc sớm hơn, vì thế lỗi không phải ở họ. Đoạn văn không bảo ta
phải thương xót họ nhưng muốn chứng thực với ta rằng họ đón nhận
món quà được làm việc quá trễ và đã đi làm ngay mà không đặt vấn
đề lương bổng. Họ đã từ chối mọi khế ước, vì thế ông chủ được tự
do và có thể cho họ bao nhiêu tùy ông muốn.

Câu 8-10, hoàn toàn phù hợp với bối cảnh luật pháp ( Lv
19,13 ; Đnl 24,15 ), ông chủ ra lệnh trả lương cho thợ.

Hiển nhiên khi bảo người quản lý bắt đầu trả công cho những
người đến sau cùng và trả mỗi người một đồng, ông chủ lại càng
khiến tình hình thêm gay cấn. Tại sao ông lại làm như vậy ? Rõ
ràng, Đức Giê-su cố ý khiến cho câu chuyện thêm hồi hộp. Khi đọc
truyện, chúng ta nghĩ rằng ông chủ đã lầm : đáng lẽ phải trả 1 đồng
cho những người đầu tiên mà ông đã thương lượng mới đúng ! Câu
truyện một là có sự nhầm lẫn, hai là ông chủ quảng đại khác thường
!... dẫu sao, điều chắc chắn là, những người được mướn sau cùng đã
lãnh mỗi người một đồng, vì thế, những người đầu tiên hi vọng sẽ
được nhận nhiều hơn số tiền mình đã thỏa thuận. Cuối cùng, họ cũng
chỉ có 1 đồng, nên họ thất vọng, bất nhẫn ( 11.12 ).

- 83 -
Phản ứng của họ không phải vì được trả công ít mà vì ông
chủ đã đối xử với những người chỉ làm có 1 giờ ngang bằng với
những họ, là những người phải chịu nắng nôi suốt cả ngày. Họ cảm
thấy bị coi thường Ông đối xử với chúng tôi cùng một cách. Trả
công như nhau tức là làm thiệt hại họ.

Câu 13-15 giúp ta giải mã câu truyện. Ông chủ thanh minh
thái độ của mình. Ông bảo 1 trong những người thợ không hài lòng
Bạn ơi ! Kiểu xưng hô của ông vua nói với người khách mời không
mặc áo cưới trong dụ ngôn của thánh Mt 22,12 và của Đức Giê-su
nói với Giuđa phản bội : Mt 26,50, nhằm nối lại mối tương giao
dường như đã gẫy vỡ. Ông chủ đề nghị với anh ta 1 mối tương giao
khác với mối tương giao thuần túy pháp lý. Thành ngữ đi đi không
hề là 1 cử chỉ mạ lỵ hay chối bỏ. Nó chỉ có nghĩa : Tiền công của
anh đó thôi, mình hết nợ nhau rồi nhé, tôi đã sòng phẳng với anh
mà. Anh có thể đi về, tôi đã trả cho anh số tiền chúng ta đã thỏa
thuận sáng nay. Đi đi để nói ngay cho mọi người biết điều anh đã
thấy : một ông chủ đã thêm lòng tốt vào sự công bình ! Như vậy ông
chủ tránh bị nghi ngờ là đã sống bất công. Ông đã hành động đúng
như mình muốn !

Câu 14 và 15 giúp ta hiểu tại sao những người thợ giờ sau
cùng đã nhận được như người thứ nhất, ngược hẳn điều người ta chờ
đợi. Ông chủ không hành động như 1 gã nhà giầu đồng bóng hoặc đã
xử sự cách tùy tiện. Ông chỉ đòi được quyền, được tự do làm điều
tốt. Qua câu nói có phải vì thấy tôi tốt bụng mà bạn ghen tức không
? ông chủ nhấn mạnh đến sự chống đối đầy ác ý của người thợ đứng
trên lãnh vực pháp lý, trong khi ông, ông đứng trên lãnh vực của
lòng tốt, của ơn ban nhưng không. Đối với người thợ, sự công bình
là tiền công phải được tính tỷ lệ với việc đã làm.

Bây giờ thì chúng ta đã hiểu tại sao ông chủ bắt đầu trả công
từ người đến sau cùng : ông muốn mọi người chứng kiến lòng quảng
đại của mình. Ông muốn họ thấy rằng để sống những mối tương
giao giữa con người với nhau, ngoài công bình giao hoán còn có
những cách khác nữa. Sòng phẳng không thôi chưa đủ.

- 84 -
Ơ đây chúng ta chạm tới 1 trong những khía cạnh nền tảng
trong sứ điệp của Đức Giê-su bắt nguồn từ vô số những cuộc tranh
luận của Ngài với các thủ lãnh tôn giáo. Sự gần gũi giữa dụ ngôn
này của Đức Giê-su với dụ ngôn của thầy Rabbi Zeera thật ý nghĩa :

Trong bài điếu văn ca tụng Rabbi Bun, chết sớm vào năm 325,
lúc mới 28 tuổi, Rabbi Zeera nói : Thầy Bun giống ai ? Giống 1 vị
vua đã mời nhiều người thợ và 1 trong những thợ ấy làm việc chăm
chỉ hơn mức cần thiết. Vị vua ấy đã làm gì ? Ngài coi người ấy như
bạn đồng hành để cùng dạo chơi. Chiều về, các người thợ đến nhận
tiền công, và nhà vua đã trả cho người thợ này y như họ.

Những người thợ bèn phàn nàn và nói : chúng tôi đã làm việc
suốt ngày thế mà anh ta cũng nhận được số tiền y hệt chúng tôi. Nhà
vua trả lời : trong 2 giờ, người này đã làm được nhiều hơn các
ngươi làm suốt ngày. Như vậy, trong 28 năm thầy Bun đã cống hiến
cho Lề Luật hơn 1 vị thầy nổi tiếng không thể cống hiến cho nó
trong 100 năm ( Bill IV 493 ).

Chúng ta thấy giữa sứ điệp Tin Mừng và tính truyền thống do


thái được trình bày qua dụ ngôn của Zeera có sự xa cách khổng lồ.
Trong khi do thái giáo tạo nên một mối liên hệ chặt chẽ giữa trả
công và công phúc, thì Đức Giê-su lại nhấn mạnh đến lòng quảng
đại nhưng không, chẳng xét đến xứng hay không xứng của ông chủ.
Ông không chối rằng ân huệ được ban để thưởng công cho 1 công
việc. Không người thợ nào lười cả, mọi người đều chấp nhận làm
việc ngay khi được thuê mướn.

+ Xin chú ý là chỉ những người đã thỏa thuận điều kiện


thuê mướn mới là những người phê bình ( xầm xì ) ông chủ.

- 85 -
Những lời xầm xì của người đại diện cho đám thợ được mướn
đầu tiên khiến ta nghĩ ngay đến những người Biệt Phái không hiểu,
không chấp nhận việc Đức Giê-su ân cần đón tiếp những người tội
lỗi ( Lc 15,2 ) và đứa con trưởng trước sự tha thứ khôn lường của
người cha dành cho đứa con hoang đàng ( 15,29 ). Chúng cũng nhắc
ta nhớ đến phản ứng của đám đông bị sốc khi thấy Đức Giê-su đến
nhà ông Giakêu, người thu thuế ( Lc 19,1-10 ). Đức Giê-su cũng
từng nói : Nếu sự công chính của anh em không hơn các kinh sư và
Biệt phái, anh em sẽ chẳng được vào Nước Trời ( Mt 5,20 ).

Người ta sẽ khó mà hiểu được sứ điệp của Đức Giê-su khi


đứng ở phía công bình hẹp hòi của luật lệ, cũng như khi nhấn mạnh
về mặt luân lý, lý luận để cắt nghĩa câu chuyện này cho nó dễ chấp
nhận hơn. Chắc chắn không có gì sai khi bảo Các người thợ giờ cuối
cùng đã sống suốt ngày trong nỗi âu lo bị thất nghiệp : liệu mình có
tìm được việc không ? liệu tôi có kiếm được chút tiền để nuôi gia
đình không ?... Nhưng lý luận như thế, tức là không nắm được ý
chính của dụ ngôn và khiến cho sứ điệp của Đức Giê-su nhằm bảo ta
rằng ngoài lòng tốt của ông chủ ra, chẳng gì có thể cắt nghĩa nổi
số tiền công trao ban cho những người thợ giờ thứ 11 cả. Qua dụ
ngôn này, Đức Giê-su, không chỉ thanh minh với những nhà làm luật
thời đó về thái độ của mình, mà còn tìm cách trình bày ân sủng lạ
lùng và khôn dò của Thiên Chúa. Đức Giê-su mạc khải một Thiên
Chúa yêu thương cách nhưng không, một Thiên Chúa không chỉ
phán xét bề ngoài và 1 Thiên Chúa nhân từ vô biên.

Một số điểm kết luận


- 86 -
Trong khi minh định rằng nếp sống của mình hoàn tòan phù
hợp với Chúa Cha, Đức Giê-su cho thấy sự thiếu mạch lạc của các
nhà lãnh đạo do thái ( tượng trưng bởi các người thợ giờ đầu tiên ).
Thật vậy, sự công chính của họ dựa trên việc giữ gìn cẩn thận các
giới răn… tại sao họ, theo sự công chính hẹp hòi của mình, xầm xì
trách cứ ông chủ đã cho người thợ cuối cùng bằng với người thứ
nhất ? Chắc chắn vì họ muốn ông chủ đừng xử sòng phẳng với mình
! Trong khi đó, họ lại không chấp nhận việc Đức Giê-su không giữ
Lề Luật một cách nghiêm nhặt, khi tha thứ cho người tội lỗi, chữa
lành bệnh nhân ngày Lễ Nghỉ ? Chẳng phải vì họ đâm ra ghen tức
đó sao ? ( cf. Mt 12,10 ; 22,35 ).

Khi trình bày một ông chủ trả công cho những người đến sau
cùng ngang bằng những người đầu tiên, Đức Giê-su muốn chứng
minh rằng Nước Thiên Chúa không chỉ dành cho riêng người do thái
( được kêu gọi đầu tiên ), nhưng mời gọi hết mọi người. Ngài muốn
nói với giới lãnh đạo tôn giáo rằng phải mừng vui vì Tin Mừng tình
yêu của Thiên Chúa cũng được loan báo cho cả người tội lỗi lẫn dân
ngoại.

Ơ đây, Đức Giê-su phá vỡ mối liên hệ mà thần học do thái đã


thiết lập giữa ơn cứu độ và công trạng ( đó cũng là một trong những
ý nghĩa của tấm màn trong Đền Thờ bị xé đôi khi Đức Giê-su chịu
chết, trong Mt 27,51 ). Không chối rằng ơn cứu độ phải được đón
nhận bằng một đời sống phù hợp hết sức có thể, song Đức Giê-su
muốn cho thấy rằng chẳng ai xứng đáng với hạnh phúc vĩnh cửu là
một ơn huệ thần linh cả. Điều Thiên Chúa đòi hỏi, đó là chúng ta
đáp trả, không tính tóan, tình yêu của Người đồng thời chấp nhận
rằng Thiên Chúa có thể yêu thương cách nhưng không cả những
người khác bằng tình yêu mà ta vẫn ước mong Người dành cho mình
nữa. Dụ ngôn mời gọi ta làm việc cho Nước Trời vô điều kiện.
Thiên Chúa sẽ ban cho ta điều công bình, theo sự công chính của
Người, nghĩa là vượt xa giá trị của ta. Ta hãy gắn bó với Chúa Ki-tô
bằng trọn niềm tín thác, bằng tình yêu, mà đừng tính toán.

Trong Tin Mừng theo thánh Mt, dụ ngôn trở nên sứ điệp hi
vọng cho những nguời đương thời. Tình trạng của Giáo-hội là tình
trạng của những người thợ giờ thứ 11. Giáo-hội cũng có chỗ của

- 87 -
mình trong Giao Uớc có tính phổ quát. Chẳng ai bị loại trừ khỏi
tình yêu của Thiên Chúa cả.

Nhưng Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng


nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loạiKhông
phải vì tự sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính,
nhưng vì Người thương xót, nên Người đã cứu chúng ta nhờ phép
rửa ban ơn Thánh Thần, để chúng ta được tái sinh và đổi mới. Thiên
Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ
Đức Giê-su Ki-tô, Đấng cứu độ chúng ta. Như vậy, một khi nên công
chính nhờ ân sủng của Đức Ki-tô, chúng ta được thừa hưởng sự
sống đời đời, như chúng ta vẫn hy vọng (Tt 3,4-7).

N.B. Hiển nhiên là nếu đồng hóa ông chủ với một điền chủ
không thương xót trả công một cách tùy tiện, ta sẽ đọc dụ ngôn khác
hẳn. Nhưng việc ông tuyên bố mình là người tốt bụng ( c.15 ), khiến
ta khó mà cắt nghĩa dụ ngôn cách khác được…

- 88 -
6.NGƯỜI CHA NHÂN HẬU( Lc 15,11-32 )

Rồi Đức Giê-su nói tiếp : "Một người kia có hai con trai.
Người con thứ nói với cha rằng : 'Thưa cha, xin cho con phần tài
sản con được hưởng.' Và người cha đã chia của cải cho hai con. Ít
ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó
anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.

"Khi anh ta đã ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy
một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, nên
phải đi ở đợ cho một người dân trong vùng; người này sai anh ta ra
đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho
đầy bụng, nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ :
'Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa,
mà ta ở đây lại chết đói ! Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa
với người : 'Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng
còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công
cho cha vậy.' Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.

"Anh ta còn ở đằng xa, thì người cha đã trông thấy. Ông
chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta và hôn lấy hôn để. Bấy giờ
người con nói rằng : 'Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha,
chẳng còn đáng gọi là con cha nữa ...' Nhưng người cha liền bảo các
đầy tớ rằng : 'Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn
vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm
thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng ! Vì con ta đây đã chết mà nay
sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.' Và họ bắt đầu ăn mừng.

"Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta
về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người
đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời : 'Em cậu đã về,
và cha cậu đã làm thịt con bê béo, vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ.'
Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà. Nhưng cha cậu
ra năn nỉ. Cậu trả lời cha : 'Cha coi, đã bao nhiêu năm trời con hầu
hạ cha, và chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy
được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của
cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về,
thì cha lại giết bê béo ăn mừng !'
- 89 -
"Nhưng người cha nói với anh ta : 'Con à, lúc nào con cũng
ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta
phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã
mất mà nay lại tìm thấy.'"

ĐÀO SÂU

- Đọc kĩ bản văn và ghi lại những phản ứng bộc phát :
những gì khiến ta ngạc nhiên, những gì xem ra quan trọng và hiện
thực…

- Đọc các câu 1-10 : nêu lên tầm quan trọng của các
câu 1và 2.

- Đâu là sứ điệp của 2 dụ ngôn trước ( chiên lạc và


đồng bạc bị mất ) ?

Phần thứ nhất của dụ ngôn ( lc 15,11-32 )

+ Đâu là điểm cốt lõi ( minh định câu trả lời, xác minh
bằng cách tách ra cấu trúc trong khung của bản văn tiếp theo
)

+ Tại sao người con xin chia phần gia tài của mình và
tại sao người cha lại đồng ý cho nó ?

+ Làm sao đánh giá được đời sống của người con khi
nó ở xa ? tại sao nó quyết định quay về ? Nó ước muốn gì ?

+ Nguời cha đón tiếp đứa con ra sao ? Ý nghĩa của


cuộc đón tiếp này là gì ( Cf. 2S 14,33 ) ? Tại sao nguời cha
không để nó xưng tội xong ? Tại sao lại dọn tiệc, cho áo, cho
nhẫn … ? Ghi ra sự đối nghịch giữa đời sống của đứa con đi
hoang và của người cha khi con trở về.

- 90 -
Phần hai của dụ ngôn ( lc 15,25-32 )

+ Đâu là những phần khác nhau của đoạn văn này ?


Đâu là Điểm nhấn, khúc quanh ? Minh định câu trả lời và
xác minh nó bằng cách tách ra cấu trúc trong khung của
đoạn văn tiếp theo.

+ Đâu là thái độ của người anh cả đối với đứa em và


với cha mình ( Tại sao anh ta nổi giận ? )

+ Người anh so sánh mình với cha và người cha với


người em như thế nào ? Tại sao anh từ chối vào nhà ?

+ Tại sao người cha nhấn mạnh việc người con cả


luôn ở bên mình ?

ĐÂU LÀ TIN MỪNG CHỨA ĐỰNG TRONG DỤ NGÔN

- Tại sao Đức Giê-su ăn uống với ngừơi tội lỗi và tại
sao người ta trách cứ Ngài ( c.1-2 ) Xem thêm Lc 5,32 ;
19,10.

- Nghĩ gì về tựa đề quen thuộc Dụ ngôn đứa con


hoang đàng gán cho đoạn văn ? Bạn sẽ đặt tựa nào cho nó ? Tại sao
?

- Qua các nhân vật người cha, đứa con út, đứa con cả,
Đức Giê-su muốn nói về ai ? Dụ ngôn liên quan tới ta hôm nay ra
sao ?

- Theo dụ ngôn này thì thế nào là tội ? Ta có thể nói


gì về ơn tha thứ của Thiên Chúa ? Đâu là những bước của bí tích hòa
giải ?

- Ở đây Đức Giê-su mạc khải cho ta khuôn mặt nào


của Thiên Chúa ? ( c. 24 và 32 ). So sánh đoạn cốt lõi của 2 phần dụ
- 91 -
ngôn để khám phá phân đoạn của chúng tiếp theo cấu trúc trong
khung.

GIẢI THÍCH

Những người thu thuế : đến gần Đức Giê-su ( Lc 15,1 ). Họ


có trách nhiệm thu góp tiền bạc cho người Lamã. Họ bị khinh bỉ và
mang tiếng xấu. Người ta tố cáo họ là những tên ăn cắp, lợi dụng
đục nước béo cò để tư túi. Nhưng lỗi nặng nhất của họ là thu tiền
của người do thái để nộp cho quân chiếm đóng Lamã, nghĩa là cho
kẻ thù và tệ hơn nữa, cho quân ngoại đạo. Vì thế, họ bị coi là những
kẻ tội lỗi và bị loại ra khỏi cộng đồng. Các nhà lãnh đạo tôn giáo nói
rằng chỉ khi bỏ nghề, họ mới có thể được tha tội.

Những người tội lỗi, nghĩa là những kẻ bất trung, không chỉ
với Lề Luật của Thiên Chúa, mà cả với những qui tắc thông thường
khác. Họ bị tẩy chay. Người giữ đạo phải tránh tiếp xúc, ăn uống với
họ. Đó là một bổn phận tôn giáo phải giữ. Nhiều người nghĩ rằng
Thiên Chúa không yêu thương họ và đụng chạm đến họ sẽ khiến
mình ra ô uế.

Biệt phái là nhóm người khá quan trọng ( khoảng 6,000 thành
viên ). Phần lớn là tín hữu nghèo nhưng sống 1 lý tưởng tôn giáo rất
cao. Họ sống rất nhiệt tình và tuân giữ tỉ mỉ Lề Luật và các qui tắc.
Họ từng mời Đức Giê-su đến dự tiệc, chứng tỏ họ coi Chúa là thanh
sạch. Tuy nhiên, nhiều người chống lại Đức Giê-su, vì theo họ, Ngài
quá tự do trước các tập tục và qui tắc. Đức Giê-su, trân trọng họ, qua
một số dụ ngôn, Ngài muốn họ bớt nệ luật và tìm cách giúp họ hiểu
tại sao Ngài làm như vậy, khi tình yêu Thiên Chúa và tình yêu tha
nhân bị đặt đối nghịch ( cf. người thu thuế và biệt phái Lc 18,9-14 ;
Hai con nợ ( Lc 7,41-43 ; Mời tiệc những người nghèo ( Lc 14,12-14
)….

Ơn tha thứ. Người do thái tin vào lòng tha thứ của Thiên
Chúa. Nhưng các nhà lãnh đạo cho rằng Thiên Chúa chỉ tha các lỗi
nặng với điều kiện :

- 92 -
- Trước tiên, phải đáng được tha thứ : tỏ lòng thống
hối tội lỗi, ăn năn trở lại và chuộc lại các sai lầm với người khác.
- Phải dâng của lễ hi sinh để được ơn tha thứ của
Thiên Chúa.
- Chỉ Thiên Chúa mới có thể tha thứ, và qua trung
gian một vị tư tế.
- Phải lãnh ơn tha thứ tại 1 nơi nhất định : Đền Thờ
Giêrusalem.
- Chúa tha thứ mỗi năm 1 lần, vào ngày lễ Xá Tội (
Kippour ).
Cũng nên biết thêm :

- Theo Ben Sirac, người cha không bao giờ được


nhựơng bộ con. Làm như vậy, là khinh thường các giá trị truyền
thống và tập tục. Người con cả cũng mắc lỗi khi nhận phần gia tài
của mình, trước khi cha chết ( cf. Hđ 33,20-24 ).
- Khi chia gia tài, người con cả được nhận phần bất
động sản cũng như hai phần ba của cải ( Đnl 21,17 ). Vì thế, anh trở
thành người thừa kế duy nhất giữ lại của cải của cha mình. Người
em út chỉ nhận 1 phần ba của cải và mất mọi quyền sở hữu bất động
sản.
- Đi xa có nghĩa là đến vùng đất lương dân và vì thế
là rời bỏ dân tộc của Giao Ước.
- Những con lợn bị con như những giống vật ô uế (
Đnl 14,8 ) và những người chăn lợn trở thành ô uế và không thể
tham dự việc phụng vụ.
Những chi tiết này giúp ta nắm được tầm quan trọng của Lc
15,1-2, cũng như thái độ của người con cả. Chúng giúp ta hiểu tại
sao dụ ngôn là 1 Tin Mừng cho chúng ta hôm nay cũng như cho
những người đương thời với Đức Giê-su.

Ý NGHĨA

Thật đáng tiếc vì người ta gọi đây là Dụ ngôn người con


hoang đàng. Gọi như vậy là nhấn mạnh trên đứa con út, trong khi
cấu trúc văn chương cho thấy là dụ ngôn tập trung vào thái độ của
- 93 -
người cha. Nếu Đức Giê-su kể dụ ngôn này, một trong những dụ
ngôn hay nhất và phong phú nhất của bộ Thánh Kinh, chính là để
mạc khải cho ta hình ảnh đích thực của Thiên Chúa và để minh định
cho thái độ của Ngài có vẻ đã khiến các kinh sư và biệt phái bị sốc.
Họ nghĩ, khi lui tới với người tội lỗi, Đức Giê-su chẳng còn thế giá
gì để nói về Thiên Chúa nữa. Đó là ý nghĩa của câu 1 và 2, là những
câu rất quan trọng để hiểu tại sao Đức Giê-su lại kể dụ ngôn này,
cũng như đã kể 2 dụ ngôn khác trước đó ( niềm vui của người mục
tử khi tìm thấy con chiên bị mất và niềm vui của người đàn bà khi
tìm thấy đồng bạc đã đánh rơi ). Đức Giê-su minh định cho thái độ
của mình đồng thời mạc khải cho ta rằng Thiên Chúa là tình yêu và
thương xót.

CẤU TRÚC

Như đã nói ở trên, hai phần của dụ ngôn được xây dựng giống
hệt nhau. Cấu trúc văn chương của chúng thường được gọi là trong
khung. Phân tách đoạn văn sẽ giúp ta nhận thấy chính thái độ của
người cha mới là đỉnh điểm, là khúc quanh của mỗi phần. Người cha
yêu thương hai đứa con, cả đứa ra đi lẫn đứa ở lại, một cách nhưng
không.

Chính bởi Thiên Chúa là tình yêu mà Đức Giê-su cũng đã


hành động vì yêu thương. Hiểu rõ dụ ngôn hơn, ta sẽ tránh được một
số sai lạc khi trình bày tội lỗi, bí tích hòa giải và thái độ của Thiên
Chúa đối với tội nhân…

Người con út tượng trưng cho những người thu thuế và tội lỗi
ở câu 1, còn người anh cả là các kinh sư và Biệt Phái ở câu 2.
Nhưng, xét chung thì hai đứa con trai có mặt nhằm để người cha (
nghĩa là Thiên Chúa ) mạc khải tận đáy lòng mình và để nói rằng
câu truyện liên can đến mọi ngừơi chúng ta.

Đừng giảm thiểu dụ ngôn vào 1 bài học luân lý ; nó không nhằm
mục đích bảo ta phải làm gì cho bằng để chứng minh với ta điều Thiên
Chúa đã làm ( chú ý đến vô số động từ chủ động ).

- 94 -
NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON ÚT

Rồi Đức Giê-su nói tiếp : Vì con ta đây đã


"Một người kia có hai con trai. 11 chết mà nay sống lại, đã
Người con thứ nói với cha rằng : 24 mất mà nay lại tìm thấy.'
'Thưa cha, xin cho con phần tài Và họ bắt đầu ăn mừng.
sản con được hưởng.' Và người
cha đã chia của cải cho hai con.
Ít ngày sau, người con thứ thu 13
góp tất cả rồi trẩy đi phương xa.
Ở đó anh ta sống phóng đãng,
phung phí tài sản của mình.

"Khi anh ta đã ăn tiêu hết Nhưng người cha


sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy 14 liền bảo các đầy tớ rằng :
một nạn đói khủng khiếp. Và anh 23 'Mau đem áo đẹp nhất ra
ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu, đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn
nên phải đi ở đợ cho một người vào ngón tay, xỏ dép vào
dân trong vùng; người này sai chân cậu, rồi đi bắt con
anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta 16 bê đã vỗ béo làm thịt để
ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà 22 chúng ta mở tiệc ăn mừng
nhét cho đầy bụng, nhưng chẳng !
ai cho.
Bấy giờ anh ta hồi tâm và Bấy giờ người con
tự nhủ : 'Biết bao nhiêu người 17 nói rằng : 'Thưa cha, con
làm công cho cha ta được cơm 21 thật đắc tội với Trời và
dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết với cha, chẳng còn đáng
đói ! Thôi, ta đứng lên, đi về gọi là con cha nữa ...'
cùng cha và thưa với người :
'Thưa cha, con thật đắc tội với
Trời và với cha, chẳng còn đáng
gọi là con cha nữa. Xin coi con
như một người làm công cho cha 20
vậy.' Thế rồi anh ta đứng lên đi
về cùng cha.

19 "Anh ta còn ở
đằng xa, thì
người cha đã
trông thấy. Ông
chạnh lòng
thương, chạy ra
ôm cổ anh ta và
hôn lấy hôn để.

- 95 -
NGƯỜI CHA VÀ ĐỨA CON CẢ

"Nhưng người cha


"Lúc ấy người con 25 31
nói với anh ta : 'Con
cả của ông đang ở
à, lúc nào con cũng
ngoài đồng. Khi anh
ở với cha, tất cả
ta về gần đến nhà,
những gì của cha
nghe thấy tiếng đàn
đều là của con.
ca nhảy múa, liền
Nhưng chúng ta phải
gọi một người đầy tớ 26 32 ăn mừng, phải vui
ra mà hỏi xem có
vẻ, vì em con đây đã
chuyện gì.
chết mà nay lại sống,
đã mất mà nay lại
tìm thấy.'"

Còn thằng con của


Người ấy trả lời : 27 30
cha đó, sau khi đã
'Em cậu đã về, và
nuốt hết của cải của
cha cậu đã làm thịt
cha với bọn điếm,
con bê béo, vì gặp
nay trở về, thì cha lại
lại cậu ấy mạnh
giết bê béo ăn mừng
khoẻ.'
!'

Cậu trả lời cha


Người anh cả 28 29
: 'Cha coi, đã bao
liền nổi giận và
nhiêu năm trời con
không chịu vào nhà.
hầu hạ cha, và chẳng
khi nào trái lệnh, thế
mà chưa bao giờ cha
cho lấy được một
con dê con để con ăn
mừng với bạn bè.
28b. Nhưng cha cậu
ra năn nỉ.

- 96 -
Thái độ của các nhân vật trong phần đầu của dụ ngôn

Người con út

Đức Giê-su mô tả anh như kẻ tội lỗi-điển hình có thể định tính
bằng 5 từ :

CÓ : Dường như anh ta chỉ coi cha mình như một người
cấp dưỡng. Anh muốn có ngay phần gia sản. Nếu anh quyết định trở
về, thì cũng chỉ vì đã tiêu sạch những gì mình có và cũng chỉ mong
được đối xử như 1 người làm công để được ăn no mà thôi.

CHẾT : Đòi gia tài khi cha mình còn sống tức là làm tổn
thương đến quyền của bề trên. Khi đòi hỏi phần gia tài của mình,
anh hành động như tuồng cha anh đã chết. Ơ câu 24 người cha nói
rằng con ông đã chết. Dù bản chất tội của anh không được xác định
ta vẫn có thể cho đó là sự cắt đứt mọi mối tương quan.

CÔ ĐỘC: Người con không chỉ tuyệt giao với gia đinh, mà
còn muốn hưởng hạnh phúc một mình. Anh phung phá những gì
mình có ( anh không làm ra, trong khi sứ mạng của con người là
thống trị trái đất St 1,28 ), là vun trồng và canh giữ khu vườn mà
Thiên Chúa đã đặt vào ( St 2,25 ). Sự lầm lạc của anh không phải là
sống độc lập mà là muốn sống ích kỉ.

THẤT VỌNG : Anh chăn heo là những con vật dơ bẩn. Vì


thế, anh ở trong đất kẻ ngoại. Anh đã rời bỏ dân tộc của Giao Uớc.
Anh đã tự trục xuất : Đnl 14 xác định rằng những người chăn heo
không thể tham dự vào đời sống cộng đồng. Thậm chí anh còn rơi
xuống thấp hơn cả các con heo ( chúng còn được ăn trong khi không
ai cho anh cái gì cả ( anh đã tiêu phá hết ), không ai cho anh cái gì !
Đức Giê-su cố ý làm cho bức tranh thêm u ám….

TRỞ VỀ : Giữa cảnh tuyệt vọng, anh nghĩ đến lòng tốt
của cha già. Nhưng đường như ý định của anh chỉ là lợi dụng lòng
tốt đó thôi. Chính cơn đói đã khiến anh hối lỗi và thúc đẩy anh trở về
! Anh nghĩ đến những người làm công ở nhà cha anh đang có bánh
ăn dư dật, và muốn được đối xử như họ, nghĩa là miễn có ăn là được.
- 97 -
Câu : Thưa cha, con đã lỗi phạm … chẳng phải là câu nói tuyệt vời
sẽ giúp anh được đón nhận đó sao ? Vì thế, thái độ của anh không
phải là tấm gương của sự trở về… Sự lạ lùng, gây sốc của dụ ngôn là
ở chỗ đó.

Người cha trước đứa con hoang đàng

Người con út thực sự đã phạm tội đối với cha mình và với
Thiên Chúa. Làm tổn thương người khác luôn là làm tổn thương
Thiên Chúa. Anh đã tiêu phá sạch sẽ và đã đánh mất chức vị làm
con. May lắm thì anh cũng chỉ hi vọng chân làm công mà thôi.. cha
anh là người tốt kia mà !

Đứng trước kẻ tội lỗi này, Đức Giê-su nhấn mạnh đến người
cha mà thái độ đáng ra chẳng có gì lạ. Thế mà sự tiếp đón ông dành
cho con mình vượt quá mọi điều anh có thể đợi chờ.

- Người cha, vì tôn trọng tự do của con, đã chia phần


gia tài cho anh, đã để anh ra đi, vì ta chẳng thể ép ai yêu thương
mình.

- Ong vẫn luôn tin tưởng, đợi chờ con ( c. 20 ).

- 98 -
- Ong chạy đến để ôm hôn con, nghĩa là ông đã tha
cho anh ( 2S 14,33 ). Ông không đặt bất cứ điều kiện nào để tha thứ
cả và cũng không để anh có thời gian kể lại thái độ cũng như diễn tả
ước muốn được đối xử như người làm công.

- Ong không hề trách cứ anh 1 lời. Điều ông quan


tâm, không phải là tội lỗi của anh, động cơ khiến anh trờ về, mà chỉ
là việc anh đã trở về.

+ Ông đề nghị với anh những tương quan mới trong


niềm vui, lễ lạc. Ông không coi anh như 1 người làm công, nhưng
trả lại cho anh chức vị làm con, làm 1 người tự do ( áo mới, nhẫn,
dép ). Giết bê béo có nghĩa rằng cả làng đều đựơc mời đến chung
vui.

+ Bữa ăn là dấu chỉ của hiệp thông, dấu chỉ của


Nước Thiên Chúa.

+ Ao mới chỉ người khách danh dự.

+ Xỏ nhẫn vào tay ai là trao cho họ quyền hành. Ta


cũng có thể coi đây như dấu chỉ của Giao Ước.

+ Dép là món đồ xa hoa dành cho người tự do.

HÒA GIẢI

Trong dụ ngôn này, tội xuất hiện như một sự cắt đứt, một cái
chết : chết cho những mối quan hệ, chấm dứt những liên lạc, xé bỏ
Giao Uớc. Một sự cắt đứt hoàn toàn vì người con đã tiêu sạch tất cả
những gì mình có, tất cả những gì cha anh để lại ( mối dây vật chất,
dấu chỉ của tình phụ tử ).

Chính người cha đã đi bước trước để tạo ra những mối liên hệ


mới, tạo ra sự hòa giải, tái lập mối liên hệ cha-con. Cũng có 1 cử
chỉ, một bước tiến của người con, nhưng chỉ để tìm kiếm mối liên hệ
chủ-tớ. Anh hi vọng nhiều về điều này. Anh đâu ngờ tình yêu của
cha bao la như vậy, một tình yêu vô biên….
- 99 -
Ơn tha thứ là nhưng không. Không 1 điều kiện nào được đặt
ra bởi chẳng có gì lấp đầy được lòng tha thứ của Thiên Chúa cả.
Người cha chẳng nợ nần gì con, mà anh cũng chẳng mang lại cho
cha mình điều gì. Khi chạy đón con, người cha đã xóa sạch mọi
ngăn cách mà người con đã dựng nên trong mối tương quan với cha
mình. Khi ôm hôn con, người cha cho thấy là ông yêu thương nó
hòan toàn nhưng không chứ chẳng phải nó có công trạng gì. Mối
hiệp thông không hề bị đứt đoạn bên phía người cha.

Đức Giê-su mạc khải cho ta tình yêu vô biên của Thiên Chúa,
lòng nhân ái và thương xót của Người. Cảnh diễn tả nỗi thất vọng
của người con nêu bật tình yêu cao cả của người cha. Chúa cũng nói
với ta rằng ơn tha thứ không phải là kết qủa mà là điều kiện cho
sự trở về của tội nhân. chính ý thức về lòng nhân từ của cha đã
khiến người con hoang đàng có sức mạnh trở về, cho dù anh không
ngờ tình yêu ấy mạnh tới độ anh được phép nối lại mối dây phụ tử
đã bị tội lỗi cắt đứt. Chỉ có tình yêu mới thu hút ( Gilbert Cesbron )

THÁI ĐỘ CỦA CÁC NHÂN VẬT TRONG PHẦN 2 CỦA


DỤ NGÔN

Người con cả

Ngược lại với đứa em, người con cả xem ra thật chí hiếu. Anh
không bao giờ cãi lời cha. Anh tận tâm phục vụ cha. Tuy nhiên, ta
vẫn có thể tự hỏi : anh có thực lòng yêu mến cha không. Nói cách
khac, người ta có thể sòng phẳng với tình yêu được không ?

Đoạn tiếp của câu truyện cho thấy mối tương quan giữa anh và
cha mình không hiển nhiên như vậy. Lòng vâng phục đã đưa anh
đến thái độ không hiệp thông : anh có công, anh có quyền. Chẳng
bao giờ anh gọi 1 tiếng Cha. Anh hỏi người làm công tại sao có
tiếng đàn ca hát xướng trong nhà chứ không phải hỏi cha mình.

N.B. Một số người tự hỏi tại sao người cha đã không bắt đứa
con cả phải vào nhà ngay để tham dự bữa tiệc ông cho chuẩn bị để
mừng đứa con út trở về. Phải biết là người con cả sở dĩ không vào,

- 100 -
vì anh sợ bị ô uế và vì anh không thể lường được thái độ lạ lùng,
phi thường của người cha.

Anh không hiểu nổi tình yêu nhưng không và vô hạn của cha.
Anh từ chối chia sẻ niềm vui với cha và chỉ trách cứ ông. Anh cũng
không thông hiệp với em mình khi phán xét nó một cách nghiêm
khắc và không chịu coi nó là em. Anh nói về nó một cách khinh bỉ,
anh nói với cha về em mình : Còn thằng con của cha đó,

Theo anh, thái độ của cha không chỉ là bất công ( em của anh
không đáng được đón tiếp như vậy ), mà còn vượt quá quyền hạn và
làm tổn hại đến các niềm tin và giới luật tôn giáo nữa. Cha anh
dường như đã ban thưởng cho một cuộc sống xấu xa !

Người anh giận quá hóa khùng khi nói Nó đã nuốt hết tài
sản của cha với bọn điếm. Thật ra, người em út đã tiêu sạch tài sản
của riêng nó ( phần gia tài ) chứ đâu phải của cha nó. Người con cả
dường như quên rằng mình cũng đã có phần riêng rồi ( bản văn nói
rõ là người cha đã chia của cải cho hai con ). Và phần của anh rõ
ràng là hơn người em nhiều ; của cải đã gấp đôi lại còn thêm nhà cửa
nữa. Chính vì vậy mà cha anh mới bảo : Mọi sự của cha là của con.
Người cha không trách con đã vâng lời, nhưng ông chứng minh với
anh rằng mình đã không làm điều gì bất công với anh khi tiếp đón
người con út cả. Ông không ăn mừng vì nó đã sống hoang đàng mà
vì sự trở về của đứa con đã mất.

Người con cả từ chối tham dự bàn tiệc không phải vì ghen tức
cho bằng vì lo giữ luật đạo. Dưới mắt anh, thằng em hư đốn ấy luôn
là đứa tội lỗi. Vì thế, anh không thể nào ăn chung với quân tội lỗi
được ( cf. Cn 1,10.15 ).

Cuộc trở về của người con út cho ta thấy rằng người con cả,
mặc dù 1 đời vâng phục, cũng là kẻ tội lỗi : anh từ chối tham dự 1
biến cố liên quan đến cuộc sống hiệp thông ( bữa tiệc ).

Hiển nhiên, điều Đức Giê-su nhắm tới ở đây là thái độ và


niềm xác tín của các Biệt phái, các nhà làm luật. Đức Giê-su lay đổ
những tập tục được coi như nguyên lý của nền luân lý và tôn giáo,
- 101 -
nhưng cũng là để nói rằng nơi Thiên Chúa có một thứ nguyên lý
khác, nguyên lý của tình yêu nhưng không, không hề tính toán.

Tội cho người cha quá ! Một trong hai đứa con ông trở về, hẳn
ông hoàn tòan mãn nguyện, bữa tiệc vui rồi sẽ đầy ắp tiếng cười
đây… nhưng có ngờ đâu, đứa con cả lại không chịu vào nhà để
chung niềm vui tìm thấy những gì đã mất !..

Ta có thể nghĩ rằng người cha sẽ tự nhủ : Thôi mặc nó, khi nào
đói, nó sẽ lại vào, ta sẽ làm mọi người mất vui vì nó đấy… nghĩ như
thế là chẳng hiểu gì tâm sự của người cha, là hiểu lầm Thiên Chúa.
Có lẽ ta còn nghĩ : Cả một bữa tiệc lớn mà thiếu mất 1 người vì ghen
tương hay cứng đầu thì có nghĩa gì !... thính giả của Đức Giê-su đã
không phản ứng như vậy. Điều khiến họ bị sốc, không phải là tình
yêu mà người cha dành cho các con mà là sự vô hạn của tình yêu ấy.
Khép kín trong óc nệ luật, họ không thể chấp nhận việc người cha hạ
mình để năn nỉ người con trở vào nhà. Người cha, kẻ đã tiếp đón 1
người tội lỗi, giờ lại muốn mang 1 kẻ thanh sạch theo luật định ngồi
cạnh đứa tội lỗi đó sao. Quyền nào cho phép ông làm như vậy chứ !
Họ không thể chấp nhận điều đó.

Theo niềm tin tôn giáo của họ, người con cả không được phép
ăn với 1 kẻ sống trong tội lỗi, vì những điều kiện để được tha thứ
chưa thực hiện : chúng ta không ở trong Đền Thờ, không vào ngày
Xá Tội ( kippour ) và người cha không phải là 1 vị tư tế. Thêm vào
đó, lễ vật hi sinh cũng không có…

Nhưng vậy thì ai mới là người cha không thể sống hạnh phúc
bao lâu con cái chưa qui tụ, coi hạnh phúc của con hơn của mình, hạ
mình dưới chân đứa con giận hờn và âu yếm bảo Con ơi ! Cái nhìn
của người cha đối với đứa con hoang đàng ngược lại với cái nhìn
của đứa con cả. Anh ta chỉ nhìn thấy tội nơi đứa em, anh trùm kín nó
trong tội của mình, trong khi người cha chỉ để ý đến việc nó quay trở
về, và đã tha thứ cho tội lỗi của nó. Người cha thanh minh, không
phải ông làm tiệc vì đời sống hư hỏng của con mà vì nó đã chết nay
sống lại : Phải vui mừng, em con đã chết nay sống lại.

- 102 -
Trong thâm tâm, cử tọa của Đức Giê-su lại chẳng thán phục
người cha yêu thương cách nhưng không, chạy ra trước để đón đứa
con từ xa trở về và ra ngòai để nài van đứa con khác vào nhà sao ?
Họ lại chẳng thông cảm với người cha mà con cái không hiểu nổi
tình yêu của mình sao ? Hẳn họ đã từng biết yêu mà không được đáp
trả cay đắng tới mức nào !

Dụ ngôn kết thúc mà không cho ta biết người con cả có vào


nhà hay không. Điều chắc chắn, đó là người cha sẽ tôn trọng, cho dù
rất đau khổ, tự do của con mình. Các người Biệt phái chắc chắn đã
hiểu Đức Giê-su nói về họ. Đức Giê-su đã trao cho họ sứ điệp tình
yêu của Ngài. Họ biết rằng, nếu Đức Giê-su có lý ( nhưng …. Ngài
có lý không ? ), Thiên Chúa yêu thương và chờ đợi họ, với đôi cánh
tay rộng mở. Họ cũng biết rằng điều Thiên Chúa muốn đó là họ
hoán cải bằng cách thay đổi thái độ đối với người tội lỗi. Họ sẽ làm
gì đây ? Hai con đường mở ra trước mắt họ ( và cũng trước mắt
chúng ta ) :

- Con đường của óc nệ luật, chỉ lo giữ sao cho thanh


sạch, xa lánh người tội lỗi.

- Con đường của tình yêu nhưng không và tha thứ.

MỘT VÀI KẾT LUẬN

Đức Giê-su muốn loan báo tình yêu nhưng không


của Thiên Chúa dành cho hết mọi người, dù có tội hay không, vì
người cha ở đây tượng trưng cho Thiên Chúa.

- Lược đồ sau cho ta thấy, ơn tha thứ không phải là hệ quả


của bước trở về của tội nhân, nó phải khởi đi từ Thiên Chúa,
nó là điều kiện để trở về. Chính lòng tha thứ ( tình yêu của
Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi ) sẽ giúp ta trở về và nối lại mối
dây đã bị tội lỗi cắt đứt. Thiên Chúa tôn trọng tự do của con
người. Để có hiệu quả, để mang lại hoa trái, tình yêu của
Người ( lòng tha thứ ) phải được đón nhận. Dấu chỉ của sự
đón nhận được biểu hiện qua các hành động hòa giải của
chúng ta.
- 103 -
Quan niệm cũ về lòng tha thứ Điều Đức Giê-su mạc khải
của Thiên Chúa

Số 1 chỉ tội nhân ( X ) trước tiên Chính Thiên Chúa ( D ) đi bước


phải nỗ lực hòai giải với người bị mình trước 1, bằng cách ban ơn tha thứ cho
xúc phạm ( Y ) để Thiên Chúa ( D ) tội nhân ( X ). Nếu nguời này đón nhận
mới có thể tha cho mình : 2 ơn tha thứ ( tình yêu ) của Thiên Chúa, y
mới có thể -2 tha thứ cho người khác (
PAR-DONNER : cho thêm nữa, Y ). Chính vì đón nhận được tình yêu đó
dù sự xấu người ta đã có thể làm cho nên y mới có thể trao ban lại. Sự tha thứ
mình mà tội nhân trao bang cho người khác là
dấu chỉ mình đã đón nhận được ơn tha
thứ của Thiên Chúa.

- Thái độ của Đức Giê-su đối với người tội lỗi là thái
độ của chính Thiên Chúa ; thay vì bị sốc, đáng lẽ người Biệt phái
phải hân hoan khi thấy người tội lỗi trở về và khi biết Thiên Chúa là
tình yêu.

- Đức Giê-su bảo ta rằng Thiên Chúa là mục tử của


100 con chiên chứ không phải của 99 con. Người là người đàn bà
với 10 đồng bạc, người cha với 2 đứa con… Người muốn hạnh phúc
cho cả hai. Mỗi người tự do quyết định trước mặt Người.

Dụ ngôn là một Tin Mừng cho hôm nay. Đối với chúng ta,
Thiên Chúa chính là nguời cha đầy thương xót tha thứ bất cứ tội lỗi
nào của chúng ta, dù chúng trầm trọng đến đâu mặc lòng và kêu gọi
chúng ta có cùng một thái độ của Đức Giê-su đối với người tội lỗi.

- 104 -
Người con út sẽ không trở nếu anh không tin, dù 1 niềm tin
bất toàn vào tình yêu của người cha, nếu anh không hi vọng sẽ được
đón nhận, ít nhất cũng như nguời làm công. Như vậy, người con cả
cũng sẽ chỉ vào nhà nếu anh hiểu được rằng tình yêu của cha mình
lớn hơn tội lỗi của em mình.

Niềm vui của Thiên Chúa là thứ tha.

- 105 -
7. MỤC TỬ NHÂN LÀNH ( Ga 10,1-18 )
"Thật, tôi bảo thật các ông : Ai không đi qua cửa mà vào ràn
chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ
cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa
mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh ; anh gọi tên từng
con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và
chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không
theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng
người lạ." Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không
hiểu những điều Người nói với họ.

Vậy, Đức Giê-su lại nói : "Thật, tôi bảo thật các ông : Tôi là
cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp ; nhưng
chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được
cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn
trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống
và sống dồi dào.

Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh


mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là
mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ
chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta
là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử
nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa
Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình
cho đoàn chiên.

Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng
phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn
chiên và một mục tử. Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh
mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi
được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy
sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi
mà tôi đã nhận được."

- 106 -
ĐÀO SÂU

Đọc kĩ. Ghi lại những phản ứng, nhưng câu hỏi bộc phát cũng
như những điều quan trọng để khám phá ra sứ điệp Đức Giê-su
muốn mạc khải.

Khởi đi từ văn cảnh của dụ ngôn, trả lời xem Đức Giê-su ngỏ
lời với ai, và đâu là điểm cốt lõi :

Trước : Ga 2,9.15 ; 5,8.10.18 ; 7,17.29.30.32 ; 8,11.2 ;


9,16.34-41

Sau : Ga 10,20 ; 11,53.

Để hiểu sâu hơn, nên tìm lại trong Thánh Kinh ý nghĩa các từ
Đức Giê-su đã dùng :

Mục tử : Ds 27,16.17 ; 1V 22,17 ; Is 63,11 ; Gr 33,4 ; Ez 34,8-


11.
Người chăn thuê : Is 56,10 ; Ez 34,206 ; Gr 23,1-4 ; 10,21 ;
Mi 3,4.
Mục tử đích thực : St 48,15 ; Tv 23,1 ; 28,9 ; Is 40,11 ; Gr
31,10.
Biết các con chiên : Hs 2,22 ; Gr 31,34 ; 1Cr 8,2 ; Is 43,1-4.
Tên : Xh 33,12 ; Is 41,25 ; 43, 1-4 ; 49,1.
Cửa : St 28,17 ; Tv 78,23 ; 118,19 ; Mt 7,13.14 ; Lc 13,23.
Đồng cỏ : Tv 23,2 ; 95,7 ; Gr 33,12.
Tiếng : Xh 15,26 ; Đnl 4,30 ; Gs 24,24 ; Br 5,5 ; Tv 3,5 ; Gr
10,13.
Đi trước : Xh 23,23 ; Đnl 1,30 ; 9,3 ; Mi 2,13 ; Ga 14,2-3 ;
16,7-28.
Nghe tiếng : Xh 3,18 ; 15,26 ; Đnl 4,30 ; 30,16 ; 1S 3,9 ; Gr
29,30.
Vào-Ra : Xh 3,10 ; 20,2 ; Đnl 28,6 ; 27,15-17 ; Lv 19,36 ; Ga
16,27-30.
Hiến mạng sống : 1Mcb 2,50 ; Mc 10,45 ; Lc 22,27 ; 1Tt 2,6 ;
Ga 10,18 ; 12,25 ; 15,13 ; Mt 10,13.
Chuồng : Xh 27,9-20 ; 2Bn 6,13.
- 107 -
Nên một : Ga 29,14 ; 31,10 ; Ez 11,17 ; Eph 2,14-16 ; Ga
14,11 ; 17,21.
Sự sống : Is 43, 13 ; Ga 7,22-26 ; 6,37.43
Chó sói : Ez 22,27 ; So 3,3 ; Mt 7,15; 10,16 ; Lc 10,3 ; Kh
20,28-29.
Cứu vớt : Mc 8,35 ; Lc 23, 35 ; Ga 12,47.
- Liên kết dụ ngôn này với những việc Đức Giê-su đã
thực hiện trong những dịp khác, chẳng hạn : Ga 2,13-19 ; 4,1-13 ;
5,1-18 ; 8,1-12 ; Mc 1,40-45 ; Lc 5,17-26…

- Nếu có giờ, so sánh dụ ngôn với Ez 34,2-31 rồi chỉ


ra những điểm tương đồng, và nếu có, những khác biệt giữa hai câu
truyện.

Ê-DÊ-KI-EN 34,2-31

Hỡi con người, hãy tuyên sấm hạch tội các mục tử chăn dắt Ít-
ra-en, hãy tuyên sấm. Hãy nói với chúng, với các mục tử đó : ĐỨC
CHÚA là Chúa Thượng phán thế này : Khốn cho các mục tử Ít-ra-
en, những kẻ chỉ biết lo cho mình ! Nào mục tử không phải chăn dắt
đàn chiên sao ? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo
tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt. Chiên
đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh ; chiên bệnh tật, các ngươi
không chữa cho lành ; chiên bị thương, các ngươi không băng bó ;
chiên đi lạc, các ngươi không đưa về ; chiên bị mất, các ngươi
không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và
hà khắc. Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi
cho mọi dã thú, chúng tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn
núi, trên mọi đỉnh đồi. Chiên của Ta tản mác trên khắp mặt đất, thế
mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm.

Vì thế, hỡi các mục tử, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA. Ta lấy mạng
sống Ta mà thề - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng -, bởi
chiên của Ta bị cướp phá và biến thành mồi cho mọi dã thú vì thiếu
mục tử, bởi các mục tử chỉ biết lo cho mình mà không chăn dắt đàn
chiên của Ta, nên hỡi các mục tử, hãy nghe lời ĐỨC CHÚA : ĐỨC
CHÚA là Chúa Thượng phán thế này : Đây Ta chống lại các mục tử.
Ta sẽ đòi lại chiên của Ta ; Ta sẽ không để chúng chăn dắt chiên, và
- 108 -
các mục tử sẽ không còn lo cho mình. Ta sẽ giải thoát các chiên
của Ta khỏi miệng chúng, để chiên của Ta không còn làm mồi cho
chúng nữa.

Quả thật, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán thế này : Đây,
chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. Như
mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị
tản mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy. Ta
sẽ kéo chúng ra khỏi mọi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây
đen mù mịt. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân, tập hợp chúng lại từ
các nước và đưa chúng vào đất của chúng. Ta sẽ chăn dắt chúng
trên các núi Ít-ra-en, trong các thung lũng và tại mọi nơi trong xứ
có thể ở được. Ta sẽ chăn dắt chúng trong đồng cỏ tốt tươi và
chuồng của chúng sẽ ở trên các núi cao Ít-ra-en. Tại đó chúng sẽ
nằm nghỉ trong chuồng êm ái, sẽ đi ăn trong đồng cỏ mầu mỡ trên
núi non Ít-ra-en. Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ
cho chúng nằm nghỉ - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.
Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm ; con nào đi lạc, Ta sẽ đưa về ; con nào
bị thương, Ta sẽ băng bó ; con nào bệnh tật, Ta sẽ làm cho mạnh ;
con nào béo mập, con nào khoẻ mạnh, Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo
lẽ chính trực mà chăn dắt chúng.

Phần các ngươi, hỡi chiên của Ta, ĐỨC CHÚA là Chúa
Thượng phán. Này Ta sẽ xét xử giữa chiên với chiên, giữa cừu với
dê. Được chăn trong đồng cỏ tốt tươi đối với các ngươi phải chăng
còn quá ít, mà các ngươi lại lấy chân giày đạp phần đồng cỏ còn lại
của các ngươi, được uống nước trong mà các ngươi lại lấy chân
quậy đục phần còn lại ? Vì thế, đàn chiên của Ta phải gặm phần cỏ
chân các ngươi đã giày đạp, phải uống phần nước chân các ngươi
đã quậy đục. Bởi vậy, ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phán với chúng
như sau : Này Ta sẽ xét xử giữa chiên béo với chiên gầy. Vì các
ngươi thúc vào sườn, vào vai và lấy sừng mà húc vào mọi con chiên
đau yếu đến độ các ngươi làm cho chúng phải tản mác ra ngoài, nên
Ta sẽ cứu thoát chiên của Ta để chúng không còn bị cướp phá, Ta sẽ
xét xử giữa chiên với chiên.

Ta sẽ cho xuất hiện một mục tử để chăn dắt chúng ; nó sẽ


chăn dắt chúng, đó là Đa-vít, tôi tớ của Ta : chính nó sẽ chăn dắt

- 109 -
chúng ; chính nó sẽ là mục tử của chúng. Chính Ta, ĐỨC CHÚA,
Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và Đa-vít, tôi tớ của Ta, sẽ là ông
hoàng ở giữa chúng. Chính Ta, ĐỨC CHÚA, Ta đã phán. Ta sẽ thiết
lập với chúng một giao ước bình an, Ta sẽ đuổi thú dữ ra khỏi xứ.
Chúng sẽ cư ngụ trong sa mạc an toàn, sẽ nằm ngủ trong rừng. Ta
sẽ đặt chúng ở các vùng chung quanh ngọn đồi của Ta ; Ta sẽ cho
mưa xuống đúng mùa, đó là những trận mưa phúc lành. Cây cối trên
đồng sẽ trổ sinh hoa trái, đất đai sản sinh hoa lợi. Chúng sẽ sống an
toàn trên đất của chúng. Bấy giờ, chúng sẽ nhận biết chính Ta là
ĐỨC CHÚA khi Ta bẻ gãy ách sắt đè lên chúng và khi Ta cứu thoát
chúng khỏi tay những kẻ hà hiếp chúng. Chúng không còn bị chư
dân cướp phá cũng không còn bị thú vật trong xứ cắn xé. Chúng sẽ
được an cư lạc nghiệp, không bị ai quấy phá. Ta sẽ thiết lập cho
chúng một khu vườn danh tiếng ; chúng sẽ không còn phải chết vì
nạn đói kém trong xứ, cũng không còn bị chư dân lăng nhục.

Bấy giờ, chúng sẽ nhận biết chính Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên


Chúa của chúng. Ta ở với chúng, còn chúng, nhà Ít-ra-en, chúng là
dân của Ta, - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng. Phần các
ngươi, hỡi các chiên của Ta, các ngươi là đàn chiên trong đồng cỏ
của Ta. Các ngươi là phàm nhân, còn Ta là Thiên Chúa các ngươi, -
sấm ngôn của ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng.

VĂN CẢNH

Cũng như mọi dụ ngôn khác, dụ ngôn này có thể bắt nguồn từ
một câu chuyện thật. Những người ăn trộm lén lút vào trong chuồng
chiên tránh đi qua lối cửa chính. Các đàn chiên thuộc nhiều chủ khác
nhau và con chiên nhận ra mục tử của mình qua giọng nói, khi họ
gọi tên chúng. Nhưng ta không dừng lại ở mức độ giai thoại này.
Đây là 1 dụ ngôn, ta phải đào sâu để khám phá sứ điệp thiêng liêng
của nó.

Bài giảng của Đức Giê-su về người mục tử tốt lành, được xếp
vào loại dụ ngôn, nằm trong bối cảnh đầy kịch tính. Trước và sau dụ
ngôn là những cuộc tranh luận gay gắt về căn tính và sứ mệnh của
Đức Giê-su.

- 110 -
Dụ ngôn có tính sống còn vì vấn đề ở đây thuộc đời sống thật
và ơn cứu độ nhân loại. Đức Giê-su tuyên bố rằng Ngài đến để cứu
vớt nhưng các nhà lãnh đạo do thái chống đối Ngài mãnh liệt.

Trước dụ ngôn

Các chương 7-9 của Tin Mừng theo thánh Gioan mạc khải căn
tính đích thực của Đức Giê-su trong khung cảnh thích hợp nhất, tại
Giêrusalem và trong Đền Thờ. Sau đây là một số qui chiếu quan
trọng để hiểu bài giảng :

Ga 2,9 : Đức Giê-su biến nước để thanh tẩy ( tượng trưng cho
muôn vàn nghi thức bên ngoài thường khiến ngừơi ta quên đi điều
cốt lõi và đe dọa Giao Uớc ) thành ruợu dư dật và nhưng không (
dấu chỉ tình yêu, niềm vui, sự nhưng không của tình yêu Thiên Chúa
).

2,15 : Đức Giê-su xua đuổi các thú vật dành làm lễ tế khỏi
Đền Thờ và điều này chỉ sự nhưng không của ơn Thiên Chúa ban.
5,42 : Đức Giê-su nói với giới lãnh đạo do thái : các ngươi
không có tình yêu của Thiên Chúa trong lòng các ngươi vì họ muốn
bắt Ngài khi Ngài chữa lành một người bất toại ngày Lễ Nghỉ ( Ga
5,8.10.18 ).
7,7 : thế gian ghét thầy vì thầy làm chứng rằng các việc nó
làm thì xấu xa.
7,12 : Đức Giê-su là người của sự lành đối với nhiều người,
nguy hiểm đối với nhiều người khác.
7,16.17 : Đức Giê-su là Đấng Thiên Chúa sai đến nên Ngài
phải làm cho thánh ý Thiên Chúa được nhận biết.
7,20 : Đám đông người do thái tuyên bố rằng Đức Giê-su bị
quỉ ám.
7,23 : Đức Giê-su chữa bệnh ngày Lễ Nghỉ.
7,27 : Người ta không nhìn nhận Đức Giê-su là Đấng Kitô.
7,28.29 : Đức Giê-su quả quyết Ta biết Thiên Chúa, còn các
ngươi, các ngươi không biết Người.
7,30.32 : Người ta tìm bắt Đức Giê-su.
8,11 : Đức Giê-su từ chối kết án người đàn bà ngoại tình.
8,12 : Đức Giê-su quả quyết : Ta là ánh sáng thế gian.

- 111 -
9,16 : Đức Giê-su cho người mù bẩm sinh được thấy vào
ngày Lễ Nghỉ.
9,17.34.38 : người mù bị trục xuất, vì đã tin vào Đức Giê-su
là Tiên tri, Chúa.
Tất cả những qui chiếu này sẽ giúp ta nắm bắt được sự phong
phú của dụ ngôn mà thánh Gioan gắn liền với việc chữa lành người
mù bẩm sinh.

Sau dụ ngôn

Ta nhận ra một lần nữa sự chia rẽ giữa người do thái. Nhiều


người đến với Đức Giê-su ( c.21.24 ) và tin vào Ngài ( c.42 ), Ngài
đã thành công nơi người nghèo, người bị loại bỏ. Tuy nhiên, những
người khác lại nói rằng Ngài mê sảng và bị quỉ ám ( 10,20 ).

Điều đó khiến Đức Giê-su phải xác nhận 1 lần nữa :

- ơn gọi của Ngài : Ngài sống như người mục tử


trong dụ ngôn ( 10,25-28 )

- căn tính của Ngài : Ngài chỉ làm với Thiên Chúa
mà Ngài gọi là Cha ta ( 10,30.36 )

Một số người, vì chối bỏ căn tính của Ngài, coi Ngài là kẻ


phạm thượng và quyết định ném đá Ngài ( 10,32-33 ) nhưng Ngài đã
thoát thân ( 10,39 ). Sau khi Lazarô sống lại, các thủ lãnh người do
thái dự định giết Đức Giê-su ( 11,35 ) vì Ngài đã tuyên bố : Ta là sự
sống lại và là sự sống ( 11,47-48 ).

Tác giả đã thật khéo léo khi xen dụ ngôn vào giữa bối cảnh
này và qua đó cung cấp cho Đức Giê-su cơ hội quả quyết rằng Ngài
là ai, tại sao và cho ai mà Ngài đã đến cũng như những lý lẽ Ngài đã
dùng để chống lại giới cầm quyền do thái.

- 112 -
Ý NGHĨA CỦA CÁC HÌNH ẢNH MỤC TỬ, ĐÀN
CHIÊN… TRONG THÁNH KINH

Trong bài giảng này, Đức Giê-su dùng những hình ảnh Thánh
Kinh rất quen thuộc, như mục tử, người chăn thuê, đàn chiên, cửa.
Tv 23 chẳng hạn, so sánh Thiên Chúa với một vị mục tử, diễn tả
cách tuyệt vời mối tương quan giữa tình gắn bó giữa Thiên Chúa với
dân Người và với từng người dân một. Thiên Chúa của Giao Ước đã
kí thác dân Người cho các mục tử như Maisen, Giosuê, Đavít. Và
Người nổi giận ( thất vọng, ngao ngán ) khi các mục tử nhà It-ra-en
không săn sóc các chiên của họ ( Gr 22,22 ; Za 11,15-17 ; Ez
34.2.11 ). Qua miệng tiên tri Giêrêmia, Thiên Chúa loan báo Người
sẽ đặt 1 mục tử như lòng Người mong muốn để dân Người được cứu
vớt và cư ngụ an toàn ( Gr 23,4tt ). Có lẽ cũng gợi hứng từ sách Các
dụ ngôn của Henoch ( năm 164 trước CN ) so sánh dân It-ra-en với
một đàn chiên bị mù và đã sáng mắt trở lại khi được Thiên Chúa săn
sóc.

Biết như vậy sẽ giúp ta hiểu rõ hơn dụ ngôn của Đức Giê-su.
Thật vậy, sự đui mù bẩm sinh, cũng như mọi bệnh tật khác, bị coi
như một hình phạt của Thiên Chúa. Trong Tin Mừng theo thánh
Gioan 9,24, người mù được chữa lành xuất hiện như 1 con chiên bị
trục xuất khỏi đàn. Qua dụ ngôn của mình, Đức Giê-su mời gọi cử
tọa thay đổi, hoán cải cái nhìn của mình. Thật vậy, đối với Đức Giê-
su, người mù này là thành phần của dân gồm những kẻ biết nhận ra
tiếng Ngài và theo bước Ngài ( Ga 9,38 ). Trái lại, giới lãnh đạo tôn
giáo lại không tin rằng Đức Giê-su là 1 người của Thiên Chúa vì
Ngài đã chữa bệnh ngày Lễ Nghỉ, điều bị Lề Luật cấm đoán.

Thêm một số qui chiếu Thánh Kinh khác để ta dễ hiểu câu


truyện hơn :

- Gr 13,17 ; Tv 74, 1 ; 72,3 ; 80,2 ; Mk 7,14 : It-ra-en


là đàn chiên của Thiên Chúa.

- Ds 27,16.17 ; Jdt 11,19 ; 1V 22,17 : đàn chiên cần 1


vị mục tử, 1 nguời hướng đạo, 1 người qui tụ săn sóc và yêu
thương.

- 113 -
- Is 56,10 ; Ez 34,2-6 ; Gr 2,8 ; 10,21 ; 12,10 ; 22,22
; 23,1-3 ; Mk 3,4 : những người chăn dắt It-ra-en mù lòa, họ không
săn sóc những con chiên ốm yếu. Họ có trách nhiệm về sự lầm lạc
của dân vì họ bất trung với sứ mệnh Thiên Chúa đã ủy thác.

- Xh 27,9-20 ; 1V 8,64 ; Mc 14,66 ; Ga 18,15 ; 2Sb


6,13 : từ chuồng chiên được thánh Gioan dùng cũng có nghĩa là Sân
hay Tiền đường Đền Thờ.

- Is 44,28 ; 63,11 ; Gr 3,15 ; 23,4 ; Ds 27,17 ; 2V7,7 ;


Tv 77,21 ; 78,52 : Thiên Chúa đã chọn các mục tử theo lòng Ngài
mong ước : Maisen, Giosuê, Đavít… và trao phó cho họ đàn chiên
của Người.

- Gr 23,5 : Loan báo việc một vị mục tử bí ẩn sẽ đến


và cứu vớt dân It-ra-en.

- St 48,15 ; Tv 23,1 ; 28,9 ; 85,7 ; Ez 34,11 ; Hc 18,13


; Is 40,11 : đứng trước những lạm dụng quyền lực, và với những bất
trung của giới lãnh đạo nhà It-ra-en, Thiên Chúa quyết định tự mình
nắm lấy số phận đàn chiên Người.

- St 28,17 ; Tv 78,23 ; 118,19 ; Mt 7,13,14 ; 25,10 ;


Lc 13,23 : Cửa là lối đi giúp ta đạt tới Nước Trời, tới Thiên Chúa.

- Tv 23,2 ; 95,7 ; 100,3 ; Gr 33,12 ; 50,19 : Đồng cỏ


chỉ nơi nghỉ ngơi, nơi bầy chiên được sống no thỏa.

- Ez 22,27 ; Xp 3,3 ; Am 3,12 ; Mt 7,15 ; Lc 10,3 ; Cv


20,28-29 : Chó sói tượng trưng cho những kẻ xấu, giới lãnh đạo bất
công, những tiên tri giả, những ông thầy dối trá…

- Is 43,1-4 ; Hs 2,22 ; Gr 31-34 ; 1Cr 8,2 : động từ


Biết trong Thánh Kinh, có nghĩa rất mạnh, chỉ sự gắn bó, những mối
dây liên kết dựa trên lòng quí mến, tin tưởng, yêu thương.

- Ga 3,16 ; 6,27.39.40.54.57.63 ; 12,25 : Liều mạng,


có nghĩa là hiến mạng cho những người mình yêu thương.
- 114 -
- Gr 7,11 ; Mt 21,13 : kẻ trộm, kẻ cướp là những kẻ
tự xưng mình nghĩa thiết với Thiên Chúa vì thường lui tới Đền Thờ
trong khi đời sống hằng ngày lại ít quan tâm đến Thiên Chúa và tha
nhân. trong Ga 18,40, từ kẻ trộm chỉ những tên du kích như Barabas
nghĩ có thể chiến thắng quân xâm lược Lamã bằng sức mạnh, bằng
vũ khí. Đức Giê-su luôn luôn chống lại ảo tửơng của những nhà cách
mạng này vì thế Ngài rất dè dặt với tước hiệu Cứu Thế dễ gây hiểu
lầm về mặt chính trị.

Trong bài giảng của mình, Đức Giê-su cũng lấy hứng
nhiều từ bản văn của tiên tri Ez 34,1-31. Hai câu truyện có thể đặt
song song với nhau. Ta thấy trong :

- Ez 34,3 và Ga 10,1.10 : những con chiên bị kẻ trộm


ăn cắp, giết hại.
- Ez 34,5 và Ga 10,12 : những con chiên bị tản lạc vì
thú dữ, sói rừng.
- Ez 34,15.30 và Ga 10,3.9.11.16 : Đồng cỏ tươi xanh
dành cho chiên.
- Ez 34,22 và Ga 10,9 : Ta đến để cứu vớt.
- Ez 34,23 và Ga 10,16 : Sẽ chỉ có 1 đàn chiên duy
nhất.
- Ez 34,25-27 và Ga 10,9 : Con chiên ta sẽ được an
toàn, bình an và cứu thoát.
Giữa những khía cạnh độc đáo của riêng thánh Gioan, ta để ý :
ghi chú về cửa, về sự sống lại ( quyền lấy lại mạng sống ), sự kết
hợp của Đức Giê-su với Chúa Cha và của các chiên với Đức Giê-su,
của ơn cứu độ ( sống dồi dào ) được thông ban cho các con chiên,
của đàn chiên duy nhất….

SUY TƯ

Dụ ngôn người mục tử nhân lành nối tiếp cuộc tranh luận giữa
Đức Giê-su và các người Biệt phái mù quáng trong óc nệ luật của
mình ( Ga 9,39-41 ). Ta có thể chia dụ ngôn làm ba phần với cùng
một dàn bài, việc chia cắt giúp ta nhận ra mạc khải tiệm tiến trong
suốt dụ ngôn về căn tính và sứ mệnh của Đức Giê-su.

- 115 -
PHẦN THỨ NHẤT ( 1-6 ) : ẨN DỤ

Trình bầy dụ ngôn theo kiểu trong khung

"Thật, tôi bảo thật các 1 5 Chúng sẽ không theo


ông : Ai không đi qua người lạ, nhưng sẽ chạy
cửa mà vào ràn chiên, trốn, vì chúng không
nhưng trèo qua lối khác nhận biết tiếng người lạ."
mà vào, người ấy là kẻ
trộm, kẻ cướp.
Còn ai đi qua cửa mà 2 4 Khi đã cho chiên ra hết,
vào, người ấy là mục tử. anh ta đi trước và chiên
Người giữ cửa mở cho 3 đi theo sau, vì chúng
anh ta vào, và chiên nghe nhận biết tiếng của anh.
tiếng của anh ;
3b Anh gọi tên từng
con, rồi dẫn chúng ra.

Cấu trúc văn chương này giúp ta thấy là con chiên và mục tử
gắn chặt với nhau. Các câu 1 và 5 ( đậm nét ) thực sự nói đến các
mục tử xấu là kẻ trộm, kẻ cướp, những người lạ không biết cách nói
với chiên. Họ không có quan hệ thực sự với chiên, vì vậy, chiên
không theo họ vì không biết giọng nói của họ.

Phần này được kết cấu khởi đi từ 2 đối trọng giúp ta nhận
dạng người mục tử.

- trước tiên là cặp MỤC TỬ – NGƯỜI LẠ ( kẻ trộm


cướp ) cho thấy có 2 cách tiếp cận con chiến :

+ Cách thứ nhất là đi qua cửa, bình thường, hợp lý.

+ Cách thứ hai : trèo qua lối khác, đáng nghi, không
rõ lý lịch.

- sau đó là cặp : BƯỚC THEO-KHÔNG THEO


liên hệ trực tiếp với động từ biết.

- 116 -
Phần đầu này là một ẩn dụ : cử tọa của Đức Giê-su
không hiểu Ngài muốn nói gì ( cf. 6 và 19 ). Dĩ nhiên họ hiểu ý
nghĩa của hình ảnh mục tử và kẻ trộm cướp, nhưng là những người
theo đạo và trung thành với lề luật, họ chẳng bao giờ coi mình là
quân trộm đạo cả ! họ cũng không nhìn nhận Đức Giê-su là mục tử
nữa. Thật vậy, dưới mắt họ, Đức Giê-su không phải là người của
Thiên Chúa vì :

- Ngài nói chuyện với phụ nữ Sa-ma-ri, một kẻ ngoại


quốc, bị coi là kẻ thù lạc giáo ( Ga 4 )

- Ngài tha thứ cho ngừoi đàn bà ngoại tình, mà theo


luật Maisen ( theo họ là thánh ý của Thiên Chúa ) phải bị ném đá (
Ga 8,11 ).

- Ngài tự coi mình là Anh sáng thế gian, là Con


Người ( Đấng Thiên Sai ) … trong khi lại chẳng tôn trọng gì đến các
luật lệ liên quan tới ngày Lễ Nghỉ cả ( Ga 9,16 ).

Những người chăn thuê, mà thánh Gioan chỉ định bằng từ Do


thái ( Ga 9,18 ), chắc chắn là các thủ lãnh tôn giáo, phe Sađốc,
nhưng cũng là các Biệt phái đã xua đuổi ngừoi mù khỏi hội đường,
muốn ném đá người đàn bà ngoại tình. Họ đã ăn trộm, một cách nào
đó, các con chiên của Thiên Chúa, vì họ không chu tòan bổn phận đã
được trao phó cho mình. Phần đầu của dụ ngôn này cho thấy sứ
mệnh của người mục tử là biết, là yêu thương chiên và đưa chúng ra
khỏi chuồng, nghĩa là giải phóng chúng khỏi hệ thống tôn giáo do
thái quá khắc nghiệt.

Thời tiên tri Edêkiên, khi Giêrusalem bị tàn phá, vào năm 587,
thái độ của giới lãnh đạo It-ra-en đã khiến Thiên Chúa bất bình tới
nỗi Người quyết định nắm lại số phận đòan chiên của Người ( Ez
34,11 ). Ơ đây, Đức Giê-su dù không xác định vào lúc nào, đã lấy lại
hình ảnh của người mục tử đích thực : Ngài quan tâm đến các con
chiên mà Ngài từng biết rõ, thân thiết, và muốn giải phóng. Vị mục
tử xuất hiện như một Maisen mới được loan báo trong sách Đnl
18,15, đến để thực hiện cuộc xuất hành mới. Vị mục tử này không
phải là kẻ quyến rũ thu hút đoàn chiên về với mình, vì những thỏa

- 117 -
mãn riêng tư. Ngài đi trước chiên, theo kiểu nói do thái có nghĩa là
Ngài dẫn chiên đến với Cha, về miền hạnh phúc ( cf. Ga
14,2.3.12.28 ; 16,7.28 ). Để được thế, Ngài phải đưa chiên ra khỏi
căn chuông được vây bọc bằng luật lệ và Đền Thờ trở thành những
khỏang không chật chội, ngăn cách, thay vì tạo dựng mối hiệp
thông. Thật vậy, từ chuồn đựơc dùng để chỉ chuồng chiên, chỉ tiền
đình Đền Thờ ( Xh 27,9-20 ; 2Bs 6,13 ). Điều giúp phân biệt giữa
mục tử và kẻ trộm, điều giúp phân biệt Đức Giê-su với giới lãnh
đạo tôn giáo và biến Ngài thành 1 người giải phóng, 1 đấng cứu thế,
chính là chỗ Ngài chú ý tới từng con chiên một và sự hiểu biết
tường tận giữa mục tử và con chiên.

Kiểu nói chiên thuộc về người ấy có nghĩa là chiên gắn bó với


Ngài, hay tin vào Ngài như người mù được chữa lành tin vào Con
Người ( Ga 9,9 ). Điều này tự nói lên khi ta biết ý nghĩa rất mạnh
của việc gọi mỗi con chiên bằng tên của nó và biết “Nhưng bây giờ,
đây là lời ĐỨC CHÚA phán, lời của Đấng tạo thành ngươi, hỡi
Gia-cóp, lời của Đấng nắn ra ngươi, hỡi Ít-ra-en : Đừng sợ,
vì Ta đã chuộc ngươi về, đã gọi ngươi bằng chính tên ngươi :
ngươi là của riêng Ta ! Ngươi có băng qua nước, Ta sẽ ở cùng
ngươi,ngươi có vượt qua sông, cũng không bị nước cuốn ; ngươi có
đi trong lửa, cũng chẳng hề hấn gì, ngọn lửa không thiêu rụi ngươi
đâu.Vì chính Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa ngươi thờ, là Đức
Thánh của Ít-ra-en, Đấng cứu độ ngươi. Ta đã thí Ai-cập làm giá
chuộc ngươi về, nộp Cút và Xơ-va để đổi lấy ngươi.

Vì trước mắt Ta, ngươi thật quý giá, vốn được Ta trân
trọng và mến thương, nên Ta đã thí bao người đổi lấy ngươi,nộp
bao dân nước thế mạng ngươi.

Chỉ có đấng yêu thương mới có thể cứu vớt, đó là lý do tại sao
Đức Giê-su tự sánh mình với người giữ cửa : Ngài lùa chiên ra khỏi
chuồng, giải phóng chúng khỏi nơi giam hãm. Trong khi những bận
tâm hàng đầu của giới lãnh đạo tôn giáo là giữ nghiêm nhặt luật lệ
và qui tắc với bao điều cấm đóan họ thêm vào, còn Đức Giê-su thì
chỉ quan tâm đến yêu thương, yêu mỗi ngừơi như họ là ( tên chỉ định
người, nhân cách ), để giúp họ phát triển mọi khả năng tiềm ẩn. Lề
Luật chỉ có giá trị khi giúp người ta biết yêu thương : Ngày Lễ nghỉ

- 118 -
được làm ra vì con người chứ không phải con người vì ngày Lễ
nghỉ ( Mc 2,27 ).Nhưng, sơ cứng trong những xác tín và thói quen
của mình, giới lãnh đạo tôn giáo không thể hiểu và chấp nhận lập
trường của Đức Giê-su vì nó quá mới mẻ đối với họ.

PHẦN THỨ HAI : CỬA CHUỒNG CHIÊN ( 7-10 )

Trong phần này, Đức Giê-su xác định vai trò và sứ mệnh của
mình. Ngài giải thích câu 3b cấu thành trục chính của phần thứ nhất.
Ta hiểu hơn tại sao người mục tử ( Thiên Chúa ) có thể đưa chiên ra
ngoài, giải phóng chúng ? chính vì Ngài, Đức Giê-su, là Cửa chuồng
chiên. Đã đành, cửa cũng có thể dùng để khép kín, nhưng ở đây,
nhiệm vụ của nó ( của Đức Giê-su ) là mở ra 1 LỐI ĐI như cấu trúc
của phần thứ hai với ý tưởng chính trong câu 9.

Chuồng chiên không còn là khoảng không khép kín nữa,


mà là một khoảng trống tự do. Chiên có thể ra vào tự ý. Đức Giê-
su chính là người thực thi điều Maisen từng xin với Thiên Chúa :
Người ấy sẽ ra vào trước họ và dẫn họ ra vào, để cộng đồng của
ĐỨC CHÚA đừng giống như đàn chiên không có mục tử chăn dắt (
Ds 27,17 ).

Chúng ta nhận ra điều đó trong lược đồ dưới đây : gọng kìm (


câu 8 và 10 ) xiết chặt xung quanh Đức Giê-su vì những qủa quyết
về chính Ngài ( 7 và 9 ), nhưng câu 10b cho thấy là Đức Giê-su,
chiến thắng những kẻ đã đến để làm mất và giết hạn, sẽ là nguồn sự
sống dồi dào.

Phần tôi, tôi đến để cho


Vậy, Đức Giê-su lại nói : 7 10b chiên được sống và sống
"Thật, tôi bảo thật các dồi dào.
ông : Tôi là cửa cho
chiên ra vào.
Kẻ trộm chỉ đến để ăn
Mọi kẻ đến trước tôi đều 8 10 trộm, giết hại và phá huỷ.
là trộm cướp ; nhưng
chiên đã không nghe họ.
9. Tôi là cửa. Ai qua tôi
mà vào thì sẽ được cứu.
Người ấy sẽ ra vào và
gặp được đồng cỏ.
- 119 -
Câu 9 cũng cho ta một cửa khác. Thay vì các con chiên thuộc
về chuồng, còn có 1 người nào đó, nghĩa là ai đó muốn vào. Vì thế
ơn cứu độ được trao ban cho mọi người, chứ không chỉ cho người do
thái mà thôi. Nói về 1 người nào đó, cũng có nghĩa là các con chiên,
thay vì tạo thành một đàn chiên nhất lọat, không cá tính, được tôn
trọng về tính đa dạng, về nhân cách, chúng được tự do. Mỗi phần tử
trong đòan thực sự là 1 người nào đó đối với vị mục tử này. Mỗi
người đều có giá trị trước mặt Ngài.

Đức Giê-su đi rất xa vì Ngài quả quyết mình là cửa duy nhất
cho phép con chiên đạt tới Sự Sống ( đồng cỏ ). Khi nói Những kẻ
đến trước Ta, hiển nhiên, không phải Đức Giê-su muốn chỉ các tổ
phụ và tiên tri mà Ngài dùng làm chứng từ và các tín hữu lắng nghe.
Ngài nghiêm khắc phê bình giới lãnh đạo tôn giáo đã làm biến dạng
khuôn mặt của Thiên Chúa và xuyên tạc thánh ý Người. Ngài coi họ
như những kẻ sát nhân, vì họ không chỉ không mang lại tự do (
nhiệm vụ của họ ), mà còn ngăn cản chiên được sống. Bằng việc
chất những gánh nặng lên vai người khác ( Mt 23,4 ), bằng việc loại
trừ những kẻ đau yếu, nghèo hèn và tội lỗi, bằng việc nhân lên vô
vàn những loại của lễ nhằm mua chuộc ơn tha thứ hay lòng quan

- 120 -
hoài của Thiên Chúa…. họ đã ăn cắp các con chiên của Thiên Chúa
vì làm như vậy con chiên có nguy cơ bị hư mất vì đã xa rời Đấng
duy nhất có thể đưa chúng đến Sự Sống ( xem lại các qui chiếu
Thánh Kinh ở trên ).

Vì thế, Đức Giê-su cảnh giác các mục tử xấu, các kẻ thù của
sự sống. Ta để ý là đối thủ lần này được nêu tên ở số ít ( c.10a ) điều
khiến ta nghĩ đến Satan đã ám vào những kẻ, hài hước thay, quả
quyết rằng Đức Giê-su bị quỉ ám ! khi quả quyết mình đem sự sống
dồi dào ( kiểu nói trong Cựu ước gợi lên thời Cứu Thế ), Đức Giê-su
tự giới thiệu như là Đấng Cứu Thế ( cf. dồi dào và nhưng không của
rượu Cana : Ga 2,6-7 , của tấm bánh được chia sẻ : Ga 6,10-12 ;
hình ảnh về Nước hằng sống : Ga 4,14 ; về ánh sáng : Ga 8,12 … )
Ngài là ĐẤNG CỨU THẾ duy nhất phải qua Ngài mới đến được với
Thiên Chúa, với sự sống. Trọn cả niềm tin phục sinh đã được loan
báo ở đây ( Cv 4,12 ).

Đức Giê-su, không giấu diếm những đòi hỏi của Nước Trời (
cf. Cửa hẹp trong Mt 7,13 ), mời gọi ta tin tưởng. Cửa này ( cửa đức
tin ), dù có hẹp, sẽ mở ra sự sống viên mãn ( Ga 3,16 ; 6,27.30 ;
12,25 ; xem các trích dẫn Thánh Kinh về cửa ). Nó khiến ta nghĩ đến
Tháp Babel ( St 11,1-9 ). Thật vậy, Babel có nghĩa Cửa của Thiên
Chúa. Trong câu truyện này, Thiên Chúa đã mở một ô cửa nhỏ để
cứu vớt con người khỏi sự bảo thủ và sự nhất loạt. Trong dụ ngôn ta
đang nghiên cứu, cửa được mở lớn ra toàn thế giới, dấu chỉ của ơn
cứu độ phổ quát ( 1Cr 16,9 ; 2Cr 2,12 ). Đoạn kế tiếp sẽ cho ta thấy
lý do tại sao ta có thể tin tưởng vào Đức Giê-su.

PHẦN BA : VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH( 11-18 )

Trong phần này, vị mục tử là người biết rõ chiên và được


chiên biết rõ, sẽ mở cửa để đưa chiên ra ngoài và bước đi trước
chiên. Ơ đây, vị mục tử là người không do dự đặt cược mạng sống
mình và còn có những chiên khác mà ông muốn cứu vớt. Chúng ta
lại thấy cặp đối trọng MỤC TỬ-NGƯỜI LÀM THUÊ và cách chỉ ra
các đặc điểm của ngừoi làm thuê giúp ta hiểu hơn Đức Giê-su là
mục tử nhân lành ở chỗ nào

- 121 -
Sở dĩ Chúa Cha yêu mến
Tôi chính là Mục Tử 11 17 tôi, là vì tôi hy sinh mạng
nhân lành. Mục Tử nhân sống mình để rồi lấy lại.
lành hy sinh mạng sống Mạng sống của tôi, không
mình cho đoàn chiên. ai lấy đi được, nhưng
chính tôi tự ý hy sinh
mạng sống mình. Tôi có
quyền hy sinh và có
quyền lấy lại mạng sống
ấy. Đó là mệnh lệnh của
Cha tôi mà tôi đã nhận
được."

và tôi hy sinh mạng sống


Người làm thuê, vì không 12 15b mình cho đoàn chiên.
phải là mục tử, và vì Tôi còn có những chiên
chiên không thuộc về 16 khác không thuộc ràn
anh, nên khi thấy sói đến, này. Tôi cũng phải đưa
anh bỏ chiên mà chạy. chúng về. Chúng sẽ nghe
Sói vồ lấy chiên và làm tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một
cho chiên tán loạn, vì anh đoàn chiên và một mục
ta là kẻ làm thuê, và 13 tử.
không thiết gì đến chiên.

14. Tôi chính là


Mục Tử nhân lành.
Tôi biết chiên của
tôi, và chiên của tôi
biết tôi, như Chúa
Cha biết tôi, và tôi
biết Chúa Cha,
Thành ngữ hi-sinh mạng sống mình được dùng 5 lần. Trong
Tân ước hiến mạng mình có nghĩa rằng cuộc tử nạn của Đức Giê-su
là nguồn ơn cứu độ : Con người đến để hiến mạng mình làm giá
chuộc muôn loài ( Mc 10,45 ). Này là mình Thầy, hiến tế vì anh em (
Lc 22,19.20 ). Tuy nhiên, chủ từ của động từ hi sinh mạng sống
mình được thánh Gioan dùng trong câu 11 là vị mục tử nhân lành
với nghĩa tổng quát chứ không có nghĩa chịu chết, nếu không đòan
chiên sẽ ra sao ? dịch là liều mạng xem ra đúng hơn. Đức Giê-su
muốn nói rằng mọi vị mục tử đích thực đều phải sẵn sàng liều mạng
để bảo vệ đàn chiên như chiên gắn bó với mình. Trái lại, Đức Giê-su
- 122 -
là chủ từ của động từ mà ta cũng dịch là hi sinh ( c. 15,17,18 ).
Trong các câu này, động từ có nghĩa sẵn sàng đi đến chết. Vì thế nó
có nghĩa rằng, không gì có thể, ngay cả những đe dọa đến tính mạng
có thể khiến Đức Giê-su dừng bước khi Ngài cứu vớt chiên mình.

Người chăn thuê hành động vì lợi ích riêng, vì tiền công chứ
không vì chiên. Vả lại, chiên có phải của y đâu, vì thế y chẳng gắn
bó, chằng có sự hiệp thông đích thực với chúng. Vì thế y chạy trốn
ngay khi thấy sói xuất hiện, nghĩa là thấy kẻ thù, cho dẫu đó là giới
lãnh đạo bất công và có hại có thể đánh mất thực sự đàn chiên mình
( Ez 22,27 ; Xp 3,3 ). Đức Giê-su nhắm đến giới lãnh đạo tôn giáo
không hề lo lắng gì đến ơn cứu độ, đến số phận đời đời của đàn
chiên đã trao phó cho họ và họ có trách nhiệm.

Để khiến các đối thủ suy nghĩ và kêu gọi họ hóan cải, Đức
Giê-su đánh bóng chân dung của người phải có trách nhiệm tôn giáo.
Làm như vậy, Ngài chứng minh rằng thái độ của mình phù hợp với
vị mục tử nhân lành. Ngài hành động vì yêu thương. Ngài tìm cách
cứu sống các chiên trước khi cứu sống chính mình. Ngài thật sự hiện
hữu vì họ và vì thế chiên theo Ngài với tất cả niềm tin.

Với hình ảnh Giavê thay thế cho các vua It-ra-en đã trở nên
các mục tử xấu ( cf. Is 49,9 ; Gr 31,10 ; Ez 34,22 ), Đức Giê-su đồng
hóa mình với vị mục tử đích thực đã được loan báo và đợi chờ ( Ga
9,4 ; Cv 20,28 ; Dt 13,20 ; 1P 2,25 ; 5,4 ). Ngài là vị mục tử duy
nhất, vì, một đàng, Ngài hiến mạng vì chiên, đàng khác, Ngài qui
tụ các chiên tản lạc về. Ngài nghĩ đến ơn cứu độ của mọi người, và
không chỉ của người do thái, vfi tất cả đều được Thiên Chúa yêu
thương ( cf. Lc 2,14 ; Ga 1,12 ).

Đức Giê-su bộc lộ bí mật của mình qua động từ biết. Nếu
Ngài có thể thông hiệp với con chiên chính là vì Ngài có một sự
thông hiệp sâu xa giữa Ngài và Chúa Cha.

Như lược đồ đã chỉ, ý tưởng cốt lõi, khúc quanh của phần 3
này, nằm trong câu 14-15 : Tình yêu nối kết Đức Giê-su với Cha
Ngài là nguồn tình yêu mà Đức Giê-su dành cho chiên, cho
những con ở trong đàn ( do thái ) cũng như ở ngòai đàn ( lương

- 123 -
dân ). Sức mạnh này, tình yêu này, Đức Giê-su kín múc trong kinh
nguyện.

Câu truyện minh chứng về niềm tin, về sự tín thác vào Chúa.
Ngài biết còn có những con chiên lạc đàn và chưa làm thành 1 đàn
chiên duy nhất, nhưng Ngài chắc chắn rằng điều đó sẽ thực hiện :
Chúng sẽ nghe tiếng ta và sẽ chỉ có 1 đàn chiên, không phải 1 đàn
nhất loạt, nhưng hợp nhất. Chính cái chết của vị mục tử ( người hiến
mạng vì tình yêu ) và sự Sống Lại sẽ là nguồn cho sự hợp nhất này.

Dù gì xẩy tới, sự sống sẽ chiến thắng, vì nó là vĩnh cửu và từ


Thiên Chúa mà đến ( cf. Is 43,13 ; Kn 3,1 ; Ga 5,22-26 ; 6,37.43 ).

Vì thế Đức Giê-su loan báo ( 17.18 ) rằng, nếu Ngài có chết
đi, thì Ngài cũng sẽ sống lại nhờ tình yêu mà Chúa Cha dành cho
Ngài. Như vậy, trong bài giảng này, Đức Giê-su nói với ta niềm tin
của Ngài : cái chết của Ngài, xem ra như thất bại, một cách quyết
định, sẽ là nguồn cứu độ và hòa giải cho hết mọi người tin vào
Ngài. Đó cũng chính là điều mà thánh Gioan chú giải quyết định
giết Đức Giê-su của thượng tế Caipha. Điều đó, ông không tự mình
nói ra, nhưng vì ông là thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên tri là Đức
Giê-su sắp phải chết thay cho dân, và không chỉ thay cho dân mà
thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp
nơi về một mối. ( Ga 11,51-52 )

Về phần mình, thánh Phaolô cũng quả quyết :

Thật vậy, chính Người là bình an của chúng ta : Người đã liên


kết đôi bên, dân Do-thái và dân ngoại, thành một ; Người đã hy sinh
thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét ; Người đã
huỷ bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật. Như vậy, khi thiết lập
hoà bình, Người đã tác tạo đôi bên thành một người mới duy nhất
nơi chính bản thân Người. Nhờ thập giá, Người đã làm cho đôi bên
được hoà giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất ; trên
thập giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét. ( Ep 2,14-16 )

Dụ ngôn này thực sự là một Tin Mừng cho chúng ta hôm nay
vì Đức Giê-su nói với ta rằng Ngài yêu thương mọi người chúng ta
- 124 -
và Ngài chính là đường sự sống, cứu vớt mọi người ( không ai bị
loại khỏi tình yêu của Ngài ). Có một vị mục tử như thế ( Ngài đã
trao hiến mạng sống để giải phóng chúng ta, để chúng ta được cứu
độ ) chỉ có thể gợi lên niềm tin tưởng. Ngài cũng nói với ra rằng bí
mật của cuộc sống thành đạt là ở trong kinh nguyện, trong mối liên
kết, trong sự hiệp thông với Thiên Chúa là TÍNH YÊU.

- 125 -
8. THỢ VƯỜN NHO SÁT NHÂN ( Mc 12,1-12 )
Đức Giê-su bắt đầu dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng : "Có
người kia trồng được một vườn nho ; ông rào giậu chung quanh, đào
bồn đạp nho và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi
trẩy đi xa. Đến mùa, ông sai một đầy tớ đến gặp các tá điền để thu
hoa lợi vườn nho mà họ phải nộp. Nhưng họ bắt người đầy tớ, đánh
đập và đuổi về tay không. Ông lại sai một đầy tớ khác đến với họ. Họ
đánh vào đầu anh ta và hạ nhục. Ông sai một người khác nữa, họ
cũng giết luôn. Rồi ông lại sai nhiều người khác : kẻ thì họ đánh,
người thì họ giết. Ông chỉ còn một người nữa là người con yêu dấu :
người này là người cuối cùng ông sai đến gặp họ ; ông nói : "Chúng
sẽ nể con ta." Nhưng bọn tá điền ấy bảo nhau : "Đứa thừa tự đây rồi
! Nào ta giết quách nó đi, và gia tài sẽ về tay ta." Thế là họ bắt cậu,
giết chết rồi quăng ra bên ngoài vườn nho. Vậy ông chủ vườn nho sẽ
làm gì ? Ông sẽ đến tiêu diệt các tá điền, rồi giao vườn nho cho
người khác. Các ông chưa đọc câu Kinh Thánh này sao ? Tảng đá
thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên đá tảng góc tường. Đó chính là công
trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta !

Họ tìm cách bắt Đức Giê-su, nhưng lại sợ dân chúng ; quả
vậy, họ thừa hiểu Người đã nhắm vào họ mà kể dụ ngôn ấy. Thế là
họ để Người lại đó mà đi.

ĐỂ HIỂU DỤ NGÔN

Đọc kĩ dụ ngôn rồi ghi lại những phản ứng tự phát, những
khám phá mới, những thắc mắc.

Thấy gì phía sau những từ :

Vườn nho : Is 3,14 ; 5,1-4 ; Gr 2,21 ; 12,10 ; Ez 17,6 ; Hs 10,1


; Tv 80,9 ; Is 2,2-3 ; 60,12 ; Mt 20,1 ; Ga 15,1-5.
Con Yêu Dấu :Mc 1,11 ; 9,7 ;
Đá góc : Tv 118,22-23 ; 1Cr 3,10-11 ; 1Cr 10,4.

- 126 -
Xem văn cảnh : Mc 6,53 ; 7,1-13 ; 10,13-16 ; 11,15-19. 27-33
và nói tại sao điều này có thể giúp ta hiểu lý do những người thợ
vườn nho quyết định giết người con yêu-dấu.

NHỮNG YẾU TỐ GIÚP TRẢ LỜI

Chủ đề vườn nho rất hay được dùng trong Thánh Kinh,
thường thì theo nghĩa riêng, nhưng cũng theo nghĩa ẩn dụ và chỉ nhà
It-ra-en. Chẳng hạn :

Gốc nho này, Chúa bứng từ Ai-cập, đuổi chư dân, lấy
chỗ mà trồng, ( Tv 80,9 )

Ít-ra-en vốn là một cây nho sum sê, trái trăng thật dồi
dào phong phú. Nhưng trái trăng càng nhiều, chúng càng dựng thêm
các bàn thờ ngẫu tượng ; đất nước càng giàu sang, chúng càng làm
thêm những cột thần lộng lẫy (Hs 10,1).

Tiên tri Isaia cũng lấy lại ví dụ này. Thiên Chúa chính là người
trồng nho :

Chính Ta, ĐỨC CHÚA, Ta là người canh giữ vườn nho, vẫn
đều đặn tưới nước ; Ta canh giữ ngày đêm, không cho ai phá hoại
(Is 27,3)

Đức Giê-su cũng bảo :

"Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho (Ga
15,1).

Trong dụ ngôn đang nghiên cứu, vườn nho tượng trưng nhà It-
ra-en và chủ vườn là chính Thiên Chúa. Vì lòng tốt, Thiên Chúa của
Giao Ước đã ủy quyền săn sóc vườn nho mình cho các nhà lãnh đạo
tôn giáo nhưng tiếc thay họ đã lạm dụng lòng tin tưởng của Chúa,
giống như các mục tử mà Ez 34 nói đến.

- 127 -
Viên đá bị ném ra ngoài đã trở nên đá góc tường.

Đức Giê-su mượn hình ảnh này từ Tv 118,22-23. Đây là viên


đá được đặt làm góc 1 ngôi nhà, tạo thành mối nối giữa các bức
tường và chiếm 1 chỗ quan trọng trong việc xây dựng. Trong các
viên đá đầu góc này, những viên ở dưới cùng bảo đảm sự vững vàng
cho tòan thể căn nhà và dùng làm điểm chuẩn cho các bức tường.
Truyền thống do thái thường áp dụng ẩn dụ này cho vua Đavít với
ngụ ý tuy nhà vua là dân dã song đã nắm 1 vai trò quan trọng trong
lịch sử Cứu độ ( cf. 1S 16 ). Còn viên đá bị loại bỏ trở nên viên đá
góc tường ở đây chính là Đức Giê-su. Chẳng hạn, trong bài giảng về
Chúa Ki-tô, trong Cv 4,11, thánh Phêrô đã trích Tv 118,22. Chính
thánh Phaolô cũng sẽ trình bầy Chúa Ki-tô với 1 vị trí quan trọng
Đá tảng của chúng ta, chính là Chúa Ki-tô ( 1Cr 3,10-11 ; 1Cr 10,4
). Những người thợ xây loại bỏ viên đá này cũng chính là giới lãnh
đạo tôn giáo do thái.

VĂN CẢNH

Dụ ngôn những người thợ làm vườn nho sát nhân, mà ta cũng
thấy ở trong Mt 21,33-36 và Lc 20,9-19 này, được đặt trong 1 bối
cảnh tranh luận. Đức Giê-su phải đối diện với các thượng tế, kinh sư
và kì lão phản đối quyền của Ngài ( Mc 11,27-28 ). Kết thúc câu
truyện cho thấy là giới lãnh đạo tôn giáo đã hiểu dụ ngôn nhắm đến
mình. Thường thì ý nghĩa của 1 dụ ngôn hay bị che dấu, nhưng ở
đây, bài học lại rất rõ ràng : Đức Giê-su tự trình bầy mình thuộc hàng
các tiên tri bị bách hại, và đồng thời phê bình giáo huấn của những
người thợ xây thời đó, tức là Thượng Hội Đồng.

TÌM HIỂU

Đức Giê-su bắg đầu bằng cách trích dẫn 1 bài ca tuyệt đẹp nói
về tình yêu của Thiên Chúa đối với vườn nho của Người : Nhà
Israen, dân của Giao Uớc. Đây là đoạn mở đầu bài thơ của tiên tri
Isaia.

Tôi xin hát tặng bạn thân tôi, bài ca của bạn tôi về vườn nho
của mình. Bạn thân tôi có một vườn nho trên sườn đồi mầu mỡ. Anh
- 128 -
ra tay cuốc đất nhặt đá, giống nho quý đem trồng, giữa vườn anh
xây một vọng gác, rồi khoét bồn đạp nho. Anh những mong nó sinh
trái tốt,nó lại sinh nho dại. Vậy bây giờ, dân Giê-ru-sa-lem và
người Giu-đa hỡi, xin phân xử đôi đàng giữa tôi với vườn nho.Có gì
làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm ? Tôi
những mong trái tốt, sao nó sinh nho dại ? ( Is 5,1-4 )

Trong bài thơ trên, tiên tri Isaia nói với ta về tình yêu lạ lùng
của Thiên Chúa dành cho dân Người mà Người hết tình săn sóc.
Điều đó chứng tỏ qua những hình ảnh của việc rào giậu ngăn cách
khu vườn với bên ngoài, của hầm ép rượu, nằm dưới đất, chứa sản
phẩm thu hoạch và của tháp canh, bên trên, dùng để bảo vệ.

Sau đó, tiên tri Isaia nói đến nỗi thất vọng của Thiên Chúa đối
với dân Người vì bao việc Người đã làm cho họ mà họ đã không
sống Giao uớc của Người. Chính Đức Giê-su được gởi đến trực tiếp
với các giới lãnh đạo do thái là những người có trách nhiệm chính
trong việc thất thu của vườn nho. Giáo huấn của họ về Lề Luật, về
chính Thiên Chúa bị đặt vấn đề : họ trình bầy 1 Thiên Chúa đáng sợ
hãi, những luật lệ ép buộc và loại trừ. Họ đã quên mất tình yêu
nhưng không của 1 Thiên Chúa giải phóng…. Đức Giê-su kể dụ
ngôn này để giúp họ hiểu mình đã lầm lạc ra sao và kêu mời họ hoán
cải.

CÁC NHÂN VẬT

Chủ vườn, trước khi trẩy đi giao vườn nho lại cho các thợ lĩnh
canh, là chính Thiên Chúa. Dụ ngôn các nén bạc đã vẽ nên một bức
tranh hòan toàn phù hợp với các điều kiện xã hội của miền Palestine
thời đó ( chủ vườn thường cho nông dân thuê mướn khai thác hoa
lợi và sống ở nước ngoài. Họ chỉ trở về vào mùa thu hoạch ). Việc
Thiên Chúa dường như vắng mặt muốn nói rằng Người để cho con
người có trách nhiệm và tự do.

Thợ vườn, tượng trưng cho giới lãnh đạo tôn giáo đã được
trao phó cả một dân tộc để dẫn họ đi trên con đuờng hạnh phúc mà
Thiên Chúa muốn. Vườn nho được thiết lập để sản sinh hoa trái !
Nhưng giới lãnh đạo tôn giáo này đã không hiểu sứ mạng của mình

- 129 -
và vườn nho, vì họ, sẽ trở nên hoang tàn ; Thái độ của họ sẽ là
nguồn bất hạnh cho họ. Giới lãnh đạo tôn giáo muốn giữ riêng cho
mình hoa trái của vườn nho. Họ quên rằng tất cả đều đến từ Thiên
Chúa. Họ cũng không muốn nghe các tiên tri nhắc nhở họ rằng nhà
It-ra-en phải mở rộng ra cho muôn nước : Chư dân sẽ đi về phía ánh
sáng của ngươi ( Is 2,2-3 ; 60,3 ). Khi xua đuổi các đầy tớ ( các tiên
tri ) trở về tay không, ngược đãi họ, giết chết họ… Giới lánh đạo
không muốn hồi tâm. Như những người xây tháp Babel, họ khép kín.
Họ cho rằng mình nắm được chân lý. Như Ađam và Evà ( St 3 ), họ
từ chối tin tưởng vào Thiên Chúa. Họ cắt nghĩa sai thánh ý Người để
thống trị và chà đạp dân Người.

Các đầy tớ, có trách nhiệm làm mối dây liên lạc giữa chủ
vườn và người làm công, đó là các tiên tri. Chủ vườn đã 3 lần muốn
nối lại mối tương quan bằng việc gởi các đầy tớ đến. Nhưng mối
tương quan này đã bị cắt đứt mau chóng vì các thợ làm vườn đã
chiếm đoạt vườn nho. Mọi sứ giả được chủ vườn sai đến bị đánh đập
: đấm đá, đập đánh, một số còn bị giết chết.

Điều này đã thực sự xẩy ra trong lích sử. Thiên Chúa đã sai
các tiên tri để nhắc nhở Giao Ước của Người : Ta đã không ngừng
sai đến với các ngươi tôi tớ của Ta là các ngôn sứ… Gr 35,15.
Thánh Kinh tường thuật lại cuộc tử đạo của vô số các tiên tri ( 1V
18,33 ; 22,27 ; 2Bs 24,21 ). Các sách do thái cũng ghi lại các trường
hợp ném đá tiên tri Giêrêmia, Tiên tri Isaia bị cưa làm hai khúc…
Việc liên tiếp gởi các sứ giả đến vườn nho chỉ sự kiên trì của Thiên
Chúa, niềm tín trung và tình yêu của Người đối với vườn nho Người.
Người biết rằng nó sẽ sản sinh hoa trái và Người muốn mùa thu
hoach dồi dào vì Người mê mẩn trước niềm hạnh phúc của con
người.

Con trai chủ vườn, niềm hi vọng cuối cùng được sai đi,
nhưng cũng bị giết chết. Bị ném ra ngoài vườn nho. Chắc chắn đây
chính là Đức Giê-su mà Chúa Cha đã gọi là Con yêu-dấu lúc chịu
phép rửa ( Mc 1,11 ) và khi Biến hình ( Mc 9,7 ). Đức Giê-su được
giới thiệu như là người kế tục các tiên tri nhưng khác hơn họ. Ngài là
Người Tôi tớ, chắc chắn rồi, nhưng cũng là Con.

- 130 -
Đức Giê-su vấp phải một số người thời đó có khuynh hướng
tin mình là thừa kế các ân huệ của Thiên Chúa. Ghen tức trước ảnh
hưởng của Đức Giê-su và giận dữ khi thấy Ngài mạc khải một khuôn
mặt Thiên Chúa khác với họ nên họ quyết định giết Ngài.

Dụ ngôn chứng tỏ sự sáng suốt của Chúa và trở thành lời loan
báo về cuộc Khổ nạn và tử nạn của Ngài.

Việc so sánh vườn nho nhường chỗ cho việc xây dựng : viên
đá bị loại bỏ đã trở nên viên đá góc tường. Lối so sánh này khiến dụ
ngôn được nhìn thêm dưới ánh sáng phục sinh. Được Chúa cha sai
đến, sau các tiên tri, Đức Giê-su đã bị giết chết, bị loại trừ khỏi dân (
những người bị đóng đinh bị xem như những kẻ bị Thiên Chúa
nguyền rủa cf. Đnl 21,33 ). Song cái chết dữ dằn không chấm hết sứ
mệnh của Ngài. Bị loại bỏ, qua sự phục sinh, Ngài đã trở nên viên đá
góc giữ cho cả tòa nhà đứng vững.

Thuật lại dụ ngôn, thánh Mc muốn khích lệ các kitô hữu tại
Rôma, đang bị bách hại. Ngài bảo họ rằng Đức Giê-su đã chết đớn
đau nhưng Ngài đã sống lại. Thành ngữ Ông sẽ cho tru diệt những
người thợ vườn có lẽ ám chỉ việc đền thờ Giêrusalem bị tàn phá.
Thiên Chúa giao ý định xây dựng Nước Trời cho những người khác (
cho dân ngoại ) vì những người có trách nhiệm đầu tiên đã không
chu tòan sứ mệnh của mình. Đức Giê-su nhắc lại điều này trong các
dụ ngôn khác như Khách mời dự tiệc, Những người thợ giờ thứ 11…
Thánh Mc giúp cho các Kitô hữu hiểu rằng Đức Giê-su không chỉ
rao giảng cho nhà It-ra-en, mà còn cho mọi dân tộc. Như vậy, ngài

- 131 -
giúp họ chống lại khuynh hướng coi mình như những người thừa kế
của Tin Mừng. Từ nay không còn rào giậu, tường bao nữa.

Kết thúc dụ ngôn là vui mừng, giầu sang và hiện thực

Qua việc giới lãnh đạo do thái từ chối, mỗi người lại trở nên tự
do đối với Tin Mừng mà các tiên tri trong Cựu ước, rồi đến Đức Giê-
su, đã loan báo qua bao việc làm cũng như lời nói. Dụ ngôn này gần
giống với dụ ngôn mà tiên tri Natan đã kể lại với vua Đavít để trách
cứ thái độ của nhà vua ( 2S 12,1-7 ) và đã được chú giải ở trên. Tuy
nhiên giữa hai dụ ngôn có 1 khác biệt lớn về kết quả : vua Đavít đã
đón nhận những lời trách cứ của tiên tri Natan và đã hoán cải, trong
khi cử tọa của Đức Giê-su lại muốn tra tay bắt Ngài. Đức Giê-su chỉ
thoát khỏi tay họ vì đám đông ưa thích Ngài mà thôi.

Vai trò của đám đông thật đáng khích lệ. Nó ngăn không cho
giới lãnh đạo tôn giáo giết Đức Giê-su hay ít nhất cũng làm chậm
chương trình đen tối của họ. Đám đông tỏ ra vẫn tự do, đối diện với
những kẻ phải giáo dục đức tin cho mình. Họ ưa thích Đức Giê-su vì
họ hiểu tự do, hạnh phúc, cứu độ ở khía cạnh nào. Họ phân biệt được
đâu là những kẻ phán xét, kết án, hay chất những gánh nặng trên vai
người khác với Đấng hằng tỏ ra yêu thương và nhân ái. Khuôn mặt
của Thiên Chúa được mạc khải ở đây là 1 khuôn mặt yêu thương vô
điều kiện và cứu độ. Thái độ của đám đông cho thấy Tin Mừng được
Đức Giê-su gieo rắc đã tìm được đất tốt và sẽ đơm bông kết trái.

- 132 -
9. NGƯỜI PHÚ HỘ VÀ ÔNG LADARÔ( Lc 16,19-31
)

"Có một ông nhà giàu kia, mặc toàn lụa là gấm vóc, ngày ngày
yến tiệc linh đình. Lại có một người nghèo khó tên là La-da-rô, mụn
nhọt đầy mình, nằm trước cổng ông nhà giàu, thèm được những thứ
trên bàn ăn của ông ấy rớt xuống mà ăn cho no. Lại thêm mấy con
chó cứ đến liếm ghẻ chốc anh ta. Thế rồi người nghèo này chết, và
được thiên thần đem vào lòng ông Áp-ra-ham. Ông nhà giàu cũng
chết, và người ta đem chôn.

"Dưới âm phủ, đang khi chịu cực hình, ông ta ngước mắt lên,
thấy tổ phụ Áp-ra-ham ở tận đàng xa, và thấy anh La-da-rô trong
lòng tổ phụ. Bấy giờ ông ta kêu lên : 'Lạy tổ phụ Áp-ra-ham, xin
thương xót con, và sai anh La-da-rô nhúng đầu ngón tay vào nước,
nhỏ trên lưỡi con cho mát ; vì ở đây con bị lửa thiêu đốt khổ lắm !'
Ông Áp-ra-ham đáp : 'Con ơi, hãy nhớ lại : suốt đời con, con đã
nhận phần phước của con rồi ; còn La-da-rô suốt một đời chịu toàn
những bất hạnh. Bây giờ, La-da-rô được an ủi nơi đây, còn con thì
phải chịu khốn khổ. Hơn nữa, giữa chúng ta đây và các con đã có
một vực thẳm lớn, đến nỗi bên này muốn qua bên các con cũng
không được, mà bên đó có qua bên chúng ta đây cũng không được.'

"Ông nhà giàu nói : 'Lạy tổ phụ, vậy thì con xin tổ phụ sai anh
La-da-rô đến nhà cha con, vì con hiện còn năm người anh em nữa.
Xin sai anh đến cảnh cáo họ, kẻo họ lại cũng sa vào chốn cực hình
này !' Ông Áp-ra-ham đáp : 'Chúng đã có Mô-sê và các Ngôn Sứ, thì
chúng cứ nghe lời các vị đó.' Ông nhà giàu nói : 'Thưa tổ phụ Áp-ra-
ham, họ không chịu nghe đâu, nhưng nếu có người từ cõi chết đến
với họ, thì họ sẽ ăn năn sám hối.' Ông Áp-ra-ham đáp : 'Mô-sê và
các Ngôn Sứ mà họ còn chẳng chịu nghe, thì người chết có sống lại,
họ cũng chẳng chịu tin.'"

ĐÀO SÂU

- Đọc thật kĩ dụ ngôn và ghi chép các phản ứng và


những câu hỏi nẩy ra trong óc.

- 133 -
- Gạch dưới các từ và câu mà mình thấy quan trọng.
Tại sao ?
- So sánh hòan cảnh của các nhân vật trước và sau khi
chết.
- Liên kết dụ ngôn với các mối phúc thật ( Lc
6,20.21.24.25 ; Kinh Tạ ơn ( lc 1,53 ) ; dụ ngôn 10 trinh nữ trong Mt
25,1-13 , các nén bạc : Mt 24,14-30 và ngày phán xét : Mt 25,31-46.
xem thêm các đoạn Lc 6,43-49 ; 11,42 ; 12, 15.21.33 ; 14,12-
14.18.19 ; 16,13-15 ; 18,24-27 ; Gc 2,14-18 ; 1Tm 2,4 ; Ga 1,9-12 ;
6-68…
- Đọc một số đoạn Cựu ước : Xh 3,7-8 ; Dnl 15,7-16 ;
!m 4,1 ; 5,11.12 ; Is 58,6-9 ; Cn 21,13…
- Tại sao người nghèo có tên còn người phú hộ lại
không ?
- Ta hiểu các can thiệp của Abraham ra sao ?
- Qua dụ ngôn này, Đức Giê-su muốn nhấn mạnh về
khía cạnh nào trong đời sống và trong đức tin ?
KẾT LUẬN :

- Điều nào trong dụ ngôn là Tin Mừng ?


- Đức Giê-su nói với ta điều gì về Thiên Chúa ? về
đời sống con người cụ thể ?
Chú ý :

- Tránh kiểu đọc quá đơn giản : những người giầu sẽ


phải sa hỏa ngục còn người nghèo được lên thiên đàng. Những
người nghèo hãy nhẫn nại và chịu khó, mai mốt sẽ được hạnh
phúc… mà hãy đọc cẩn thận dụ ngôn.

- Dụ ngôn không hề phê phán đời sống luân lý của


hai nhân vật, Đức Giê-su chỉ mô tả tình trạng của họ, trước và sau
khi chết. Độc giả phải nắm bắt lấy sứ điệp…

Một số đoạn văn khác của thánh Lc nói về tiền bạc, giầu có,
nghèo khó :

- 134 -
Khốn cho các người, hỡi các người Pha-ri-sêu ! Các người
nộp thuế thập phân về bạc hà, vân hương, và đủ thứ rau cỏ, mà xao
lãng lẽ công bình và lòng yêu mến Thiên Chúa. Các điều này phải
làm, mà các điều kia cũng không được bỏ.( Lc 11,42 )

"Hãy bán tài sản của mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những
túi tiền không hề cũ rách, một kho tàng không thể hao hụt ở trên
trời, nơi kẻ trộm không bén mảng, mối mọt không đục phá. Vì kho
tàng của anh em ở đâu, thì lòng anh em ở đó. ( Lc 12, 33-34 )

Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của
người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em
?

"Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét
chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể
chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền
Của được."

Người Pha-ri-sêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy,
thì cười nhạo Đức Giê-su. Người bảo họ : "Các ông là những kẻ làm
ra bộ công chính trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa thấu biết
lòng các ông, bởi vì điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê
tởm trước mặt Thiên Chúa. ( Lc 16, 12-15 )

Đức Giê-su nhìn ông ta và nói : "Những người có của thì khó
vào Nước Thiên Chúa biết bao ! ( Lc 18, 24)

SUY TƯ

Ngay những câu đầu tiên, chúng ta đã nhận ra tình trạng đối
nghịch giữa người phú hộ và người nghèo :

- Kẻ thì sống trong giầu sang, dư dật, mặc toàn lụa là gấm
vóc.

- Người thì sống trong nghèo khó cùng cực, mình đầy ghẻ lở.

- 135 -
Ngừơi giầu không làm gì giúp người nghèo cả. Mà không làm
điều gì tốt thì người ta có thể ra xấu ! ông vô cảm. Ông chỉ biết có
chính mình. Ông thỏa mãn, ông tự cho là đủ… ông đã tự xa cách
đến độ không biết là có người nghèo. Ích kỉ, tự mãn … khiến ông
đui mù và câm điếc. Thái độ của ông khác hẳn thái độ của Thiên
Chúa trong sách Xh 3,7-12 Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân ta
bên Ai-cập, ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Ta
xuông giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, Ta sẽ ở với
ngươi…trong thánh vịnh 34, câu 18.19 ta đọc thấy : Họ kêu xin và
Chúa đã nhậm lời, giải thoát khỏi mọi cơn nguy khốn, Chúa gần gũi
những tấm lòng tan vỡ, cứu những tâm thần thất vọng ê chề.

Trong Thánh Kinh, tên rất quan trọng, nó nói lên căn tính
của người được gọi tên. Gọi tên ai tức là bảo họ : Bạn có giá trị đối
với tôi, tôi yêu bạn ( Is 43,1-4. Trong dụ ngôn, Đức Giê-su không
gọi tên người giầu. Nếu sự thực người ta chỉ hiện hữu khi liên hệ với
người khác thì khi người giầu chỉ tìm kiếm vui thỏa cho riêng mình,
ta có thể nói rằng ông không hiện hữu như 1 người, vì con người
được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa ( St 1,27 ). Người giầu
sống trong giả tạo, ảo tưởng, không thực. Chỉ có mà thôi chưa đủ để
hiện hữu !

Người nghèo biết rõ mình không thể hiện hữu nếu không có
người khác và mỗi người cần được nhìn nhận và yêu thương. Mà,
ông nằm trước cổng nhà người giầu : ông ở đó như một người
chết ( nằm dài ). Ta chú ý, nếu trước mắt người giầu, ông kể như
không có, thì đối với Đức Giê-su, ông rất quan trọng, ông là 1 người
nào đó. Thật vậy, Đức Giê-su đặt tên cho ông : La-da-rô ( Thiên
Chúa là đấng cứu giúp tôi ). Nếu ông bất hạnh chính vì không ai yêu

- 136 -
thương ông, giúp đỡ ông như Thiên Chúa đã muốn mang đến cho
ông.

NB. Đối với Đức Giê-su, người thu thuế mà đám đông gọi là
tội lỗi, cũng có tên : Giakêu ( trong trắng ), và sự kiện Chúa gọi tên
ông khiến ông tràn đầy hân hoan và biến đổi hòan toàn ( Lc 19,1-10
).

La-da-rô nằm trước cổng nhà người giầu ( trước cổng, như
1 người bị loại bỏ ). Cổng là ranh giới để liên lạc với bên ngoài, với
người khác, nên phải được mở ! nếu người giầu ra khỏi lâu đài của
mình, khỏi cái TÔI, hẳn ông đã nhìn thấy người nghèo chờ đợi ông
giúp đỡ. Không có tương giao, khép kín với của cải, vì thế, ông thực
sự không phải là người. Ông không đóng góp 1 viên đá nào để xây
dựng lịch sử. Chỉ duy có lũ chó còn liên lạc với La-da-rô. Đứng
trước La-da-rô, người giầu còn kém hơn 1 con chó !

Cuộc đời nào cũng có những biến cố giúp mình thấy mình
thực sự là ai và cái gì có thể biến đổi tận căn cách sống và cách nhìn
nhận con người cũng như sự vật của mình. Trong dụ ngôn, biến cố
ấy chính là cái chết khiến cho cục diện thay đổi hòan toàn. Điều kiện
phải chết là điểm chung duy nhất giữa hai con người này, nhưng
thay vì giúp họ xích lại gần nhau thì cái chết lại khiến họ vĩnh viễn
cách xa và đảo ngược tình trạng của họ.

Trứơc khi chết, người giầu được đặt lên trước, ông được nói
đến trước. Sau khi chết, chính người nghèo lại được Đức Giê-su nói
đến đầu tiên. Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.

Chúng ta chứng kiến cuộc xoay vần mà các mối Phúc loan báo
: Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là
của anh em. Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì
Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng. Phúc cho anh em là những
kẻ bây giờ đang phải khóc, vì anh em sẽ được vui cười Lc 6,21-22.
Đó cũng chính là điều Mẹ Maria đã nói đến trong Kinh Tạ Ơn người
nghèo khó Chúa ban của đầy dư, người giầu có lại đuổi về tay trắng
( Lc 1,53 ).

- 137 -
La-da-rô, khi còn sống, chẳng có được niềm hạnh phúc ước
mơ, giờ lại có trong tay : Ông đựoc các thiên thần mang vào thế giới
của Thiên Chúa, trong niềm hạnh phúc của những kẻ được chọn đại
diện là Abraham, cha của những kẻ tin, trong Vương quốc mà Đức
Giê-su từng sánh ví như một bữa tiệc ( Lc 13,27-28 ).

Người phú hộ được chôn cất. ông phải ở trong hỏa ngục với
Hades, vị thần thống trị cõi chết. Hades, theo thần thoại hi lạp, được
bởi con chó Cerbere, quái vật đáng sợ giúp đỡ. Nó được buộc ngay
trước cửa âm phủ để ngăn không cho ai ra khỏi đó.

Vì thế hai nhân vật của chúng ta ở trong tình trạng đảo ngược
hoàn tòan với lúc còn sống. Người nghèo mình đầy ghẻ chốc, người
giầu bây giờ ở trong lửa. Chó đến liếm vết thương của La-da-rô ;
Chó Cerbere, canh giữ nơi nhục hình mà người giầu bị đắm chìm.
Người giầu cuối cùng cũng mở mắt và thấy cả Abraham lẫn La-da-
rô, nhưng từ xa, trong khi ngày trước, người nghèo ấy nằm ngay
trước cửa nhà ông thì ông lại không thấy ( quá gần và … quá xa ! ).

Trước tiên, người giàu cầu xin cho chính mình. Ông, kẻ không
biết xót thương ngừoi chỉ mong ước những vụn bánh rơi từ bàn
mình xuống, giờ lại muốn những giọt nước để làm mát lưỡi mình. Vì
thế, ông khám phá thấy tầm quan trọng của người nghèo vì ông gọi
tên và nhận ra La-da-rô từ đàng xa.

Vực thẳm ngăn cách hai con người chỉ củng cố thêm khoảng
cách giữa cửa nhà và bàn ăn ngày trước của người giầu ( cf. huyền
thoại hi lạp quả quyết rằng Hades là ông chủ độc ác không cho phép
bất cứ ai liên lạc với người sống ). Đức Giê-su dùng ngôn ngữ của
thời đại : Hades, khổ hình, lửa đốt… để làm nổi bật tầm quan trọng
của đời sống con người, về những giá trị thực sự : tình yêu, chia
sẻ… cũng như những nguy hiểm của giầu sang. Cái chết kết thúc đời
sống trần thế đã được trao ban để có tương giao, để yêu thương, để
hạnh phúc và làm cho ngừoi khác được hạnh phúc. Vĩnh cửu tùy
thuộc vào điều người ta sống lúc còn ở trần gian. Người ta chỉ thực
sự hiện hữu, thực sự là người bằng tình yêu ( đã lãnh nhận ) để làm
cho nó sinh hoa kết trái.

- 138 -
Đời sống vĩnh cửu được thể hiện ngay từ đời này. người phú
hộ ở trong Hades vì ông đã sống không tình yêu thương… và nếu
Đức Giê-su đã chọn chết như là biến cố chuyển đổi chính là để nói
rằng : Đừng chờ cho đến lúc quá muộn mới mở mắt và lắng tai !
Đức Giê-su qui chiếu về 1 câu trong Cựu ước Kẻ bịt tai trước tiếng
kêu của người cô thế, đến lúc nó kêu, sẽ chẳng được đáp lời ( Cn
21,13 ). Người phú hộ không thể quay trở lại nữa. Ta không biết các
ngươi, Chúa nói với các trinh nữ khờ dại ( Mt 25,12 ). Đức Giê-su sẽ
thêm rằng những kẻ từ chối cho người đói ăn sẽ ở xa Thiên Chúa,
trong lửa đời đời ( Mt 25,41.42 ).

NB. Cần hiểu rõ điều này : kẻ bị mất, bị đốt, không phải trọn
cả cuộc đời, trọn cả con người, nhưng chính là kẻ lúc sinh thời, đã
không sống theo gương mẫu của Chúa Ki-tô, nghĩa là không sống
trong tình yêu. Trong mỗi con người, ta vẫn có thể hi vọng, có 1
điều gì đó tốt đẹp… khi nói 1 người nào đó hòan toàn vô cảm và bất
nhân, Đức Giê-su đã cường điệu… Ngài lấy 1 trường hợp cực đoan
để giúp ta chú ý đến 1 điều có tính sống còn, vì nó là vấn đề của số
phận đời đời ! Đó chính là vai trò của dụ ngôn : gợi ý để suy nghĩ.

Xa hoa, yến tiệc… đủ cho người phú hộ không còn phải nghĩ
rằng mình cần được cứu độ… ông sống trong dư dật và không ý thức
rằng sự giầu có của mình sẽ hư nát, ông không biết kho tàng đích
thật duy nhất, kho tàng không bị han dỉ, là kho tàng của trái tim :
lòng nhân từ. Giầu có không được chia sẻ chẳng có giá trị gì cho
đời sống vĩnh cửu cả.

Câu nói của Abraham : Con ơi, nói lên tình âu yếm của Thiên
Chúa và nỗi đau khổ của Người vì không thể cứu vớt kẻ không có
một chút yêu thương. Thiên Chúa muốn cứu vớt hết mọi người (
1Tm 2,4 ), nhưng kính trọng tự do của họ. Chính ở trần thế mà người
ta có thể hoán cải, mở lòng cho người khác, lấp đầy các hố sâu, phá
bỏ những bức tường ngăn cách. Người phú hộ có khả năng trở thành
1 người nào đó đối với người khác, có khả năng hiện hữu đối với
La-da-rô. Ông có khả năng lắng nghe luật Maisen và các Tiên tri.
Song ông đã không làm ! Mà đời sống vĩnh cửu đâu thể xây dựng
trên hư không.

- 139 -
Thật vậy, chỉ có người sống như con người mới vượt qua và
sống muôn đời. Là người, nghĩa là trở nên hình ảnh của Thiên Chúa
nhân lành luôn biết chia sẻ và tha thứ, chiến đấu chống lại sự dữ…
con người đích thật chính là Đức Giê-su. Ai trong chúng ta không
nên giống như Ngài, không thể gọi được là người và sẽ hư mất đời
đời. Michel Scouarnec quả quyết : Bạn sẽ chỉ còn lại điều mình đã
cho đi. Francois Varillon viết : Chỉ có tình yêu mới phục sinh. Trong
Thánh Kinh ta có thể đọc : Ai cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó..
Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn mình thì nào có ích gì ( Lc
9,24.25 ).Kẻ không yêu ở trong sự chết ( 1Ga 3,14 ) Không có tình
yêu, tôi chẳng là gì cả. Tất cả sẽ lụi tàn, biến mất, chỉ có tình yêu là
tồn tại ( 1Cr 13 ).

Tự nó, của cải không có gì xấu cả. Chính tình trạng của người
phú hộ sau khi chết, tình trạng là hậu quả của cách ông ta sống trên
trần gian, đã giúp ta xác định được đời sống của ông tốt hay không :
Người ta nhìn quả sẽ biết cây… chính vì ông khổ sở và bị xa cách
đời đời những kẻ ở trên Nước Thiên Chúa mà ta có thể kết luận rằng
người giầu có đã mù lòa biết chừng nào, đã phí phạm đời mình biết
bao. Một ví dụ giúp ta hiểu thêm : nếu ai đó đau bệnh hay chết sau
khi ăn nấm, thì chứng tỏ nấm đó độc… An tòan trên hết ! vì thế, dụ
ngôn cảnh giác chúng ta và bảo ta : chú ý, có những con đường đưa
đến hư vong. Đừng bắt chước người giầu. Hãy tỉnh thức, mở mắt,
mở tay, mở lòng ra.

Bấy giờ người phú hộ cầu xin cho 5 anh em mình ( 27-28 ) thế
là mắt ông tiếp tục mở ra. Ơ đây, Đức Giê-su cho ta một giáo huấn
quan trọng về đức tin, về cái nhìn của đức tin có thể biến đổi 1
người, biến đổi 1 cuộc đời. Thật vậy, chính vì nhìn thấy Abraham,
cha của các kẻ tin, mà người phú hộ ra khỏi chính mình, khỏi sự câm
lặng của mình, khỏi sự đui mù của mình, khỏi sự điếc lác của
mình… một lần nữa, ông ý thức về sự hiện hữu của La-da-rô và cần
đến ông ấy. Ông biết rằng mình đã đi sai đường và muốn anh em
mình tránh được những nỗi bất hạnh của mình.

Người phú hộ chưa khám phá ra nguyên nhân thực sự khiến


mình khốn khổ và cách để tránh né chúng. Đức Giê-su, qua con
người của Abraham, sẽ nhắc lại con đường phải theo để tránh những

- 140 -
nỗi khốn khổ và đạt tới sự sống : Họ đã có Maisen và các Tiên tri,
Họ hãy nghe các người ấy. Đức Giê-su, qua câu trả lời của tổ phụ
các kẻ tin, muốn soi sáng cho ta điều mà người phú hộ không biết, vì
của cải dư dật đã ngăn cản người ta lắng nghe Maisen và các Tiên
tri, nghĩa là Thánh Kinh. Hai điều được nhấn mạnh ở đây, 1 bên là :
Lời Chúa rất quan trọng, 1 bên là : nguy hiểm của 1 đời sống xa hoa
thường đưa đến ích kỉ, khép kín.

Chúng ta đọc lại Thánh Kinh một chút và sẽ hiểu rằng người
phú hộ và anh em vẫn có thể thành công trong đời nếu biết thực
hành các lời khuyên và gợi ý đã được ban :

Linh hồn tôi hãnh diện vì CHÚA , xin các bạn nghèo nghe tôi
nói mà vui lên.( Tv 34,3 ).

Phúc thay kẻ lưu tâm đến người nghèo khổ : trong ngày hoạn
nạn, sẽ được CHÚA cứu nguy ( Tv 41,2 ).

Phúc thay người biết cảm thương và cho vay mượn, biết theo
lẽ phải mà thu xếp công việc mình ( Tv 112,5 ).

Con hãy dùng của cải bố thí cho tất cả những ai thực thi công
chính, và khi bố thí, mắt con đừng có so đo. Đối với ai nghèo khổ,
con đừng ngoảnh mặt làm ngơ, để rồi đối với con, Thiên Chúa cũng
sẽ không ngoảnh mặt làm ngơ (Tb 4,7 )

Thương xót kẻ khó nghèo là cho ĐỨC CHÚA vay mượn,


Người sẽ đáp trả xứng việc đã làm.( Cn 19,17 )

Tiên tri Amos cảnh giác những người giầu, ngủ trên giường
ngà, khai thác những người yếu đuối, nghèo khó và chỉ nghĩ đến yến
tiệc, xa hoa… họ chuẩn bị cho một tương lai khốn nạn

Hãy nghe lời này, hỡi các mụ bò cái xứ Ba-san trên vùng
núi Sa-ma-ri ! Các ngươi ngược đãi kẻ yếu hèn, chà đạp người
nghèo đói, và bảo các ông chồng của mình : "Đem rượu lại đây
cho ta uống !"( Am 4,1).

- 141 -
Một vị tiên tri khác, Isaia, nhân danh Chúa tuyên bố :

Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao : mở


xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị
áp bức, đập tan mọi gông cùm ?( Is 58,6 )

Trong Tân ước, ta cũng gặp lại chính những thái độ này :

"Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét
chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể
chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền
Của được."( Lc 16,13)

Thật thế, cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền
bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó,nhiều người đã lạc xa đức tin
và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé(1Tm 6,10 ).

Tôi xin nói điều này : gieo ít thì gặt ít ; gieo nhiều thì gặt
nhiều. Mỗi người hãy cho tuỳ theo quyết định của lòng mình, không
buồn phiền, cũng không miễn cưỡng, vì ai vui vẻ dâng hiến, thì được
Thiên Chúa yêu thương. Vả lại, Thiên Chúa có đủ quyền tuôn đổ
xuống trên anh em mọi thứ ân huệ, để anh em vừa được luôn đầy đủ
mọi mặt, vừa được dư thừa mà làm mọi việc thiện, theo như lời đã
chép : Kẻ túng nghèo, Người rộng tay làm phúc ; đức công chính
của Người tồn tại muôn đời (2Cr 9,6-9 ).

Vì Thiên Chúa không thương xót khi xét xử kẻ không biết


thương xót. Còn ai thương xót, thì chẳng quan tâm đến việc xét
xử.Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động
theo đức tin, thì nào có ích lợi gì ? Đức tin có thể cứu người ấy được
chăng ? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân
và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ
: "Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no", nhưng lại không cho
họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì ? Cũng vậy,
đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết (Gc 2,13-17).

Câu 30 cho thấy sự hiểu biết của người phú hộ : Không, lạy
cha Abraham… ông biết anh em mình sẽ không nghe Lời Chúa !
- 142 -
đối với Đức Giê-su, đây chính là dịp để quả quyết một cách mãnh
liệt rằng :

Lời Thiên Chúa có thể giúp con người vượt trên số phận
và đạt được 1 căn tính.

Câu 31, Đức Giê-su phê phán niềm tin cho rằng nhìn thấy việc
lạ thường sẽ đủ để hoán cải các tâm hồn ! Abraham lập lại : Chúng
cũng sẽ chẳng nghe một người từ cõi chết trở về đâu ( 1 ngừơi sống
lại ). Vả lại, ta cũng thấy rõ điều này rồi : sau khi làm cho 1 ông La-
da-rô khác sống lại, ở Bêtania, các nhà lãnh đạo do thái chỉ thêm
cứng lòng mà thôi ( Ga 11,46 ). Đức Giê-su, Đấng Thiên Sai của
Thiên Chúa ( Người con phục sinh ) cũng từng bị bao người chối bỏ.
Vì thế Đấng Phục Sinh sẽ bảo Tôma : Phúc cho những người không
thấy mà tin ( Ga 20,29 ). Thánh Kinh là con đường sống đức tin tốt
hơn những cuộc hiện ra nhiều !

Khi ban Lời ( Ngôi Lời, Con Thiên Chúa ), Thiên Chúa đã
trao ban tất cả, Người đã nói hết, đã vạch ra hẳn 1 con đường sự
sống, con đường cứu độ và đã chỉ ra những tường rào cản bước ơn
cứu độ này. Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và
chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ
Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà
mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. Còn những ai đón
nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền
trở nên Con Thiên Chúa ( Ga 1,9-12 ). Thánh Phêrô thưa Đức Giê-
su : Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi với ai ? Thầy mới có những
lời ban sự sống ( Ga 6,68 ).

Lắng nghe Lời tức là tin vào Lời, mang Lời ra thực hành và
đón nhận Lời. Abraham nói một điều sống còn : Lời có thể biến đổi
thế giới, chắc chắn nó không ngừng được loan báo, nhưng để sinh
hoa kết trái, nó phải được lắng nghe. Ai có tai để nghe thì hãy nghe,
Đức Giê-su kết thúc dụ ngôn người gieo giống ( Lc 8,8 ). Ta có thể
nói Lời đã không thực sự được lắng nghe, chẳng hạn, ở Na-da-rét,
Đức Giê-su không thể làm 1 phép lạ nào cho những kẻ không tin vào
Ngài ( ở Na-da-rét, Mc 6,5-6 ). Nhưng những kẻ lắng nghe sẽ được
biến hình. Lời xin vâng của con người là niềm hi vọng và niềm vui

- 143 -
của Thiên Chúa, trong khi, không tin là khổ đau. Đức Giê-su phán
Phúc cho những kẻ nghe Lời Thiên Chúa và tuân giữ ( Lc 11,28 ).
Phúc cho những người nghèo khó, khốn cho những người giầu có (
Lc 6,20.24 ). Bà Elisabeth đã chào Mẹ Maria rằng : Phúc cho em là
kẻ đã tin, nhờ tiếng Xin vâng của Mẹ và của thánh Giuse, Thiên
Chúa đã có thể làm người.

Điều Đức Giê-su mạnh mẽ công bố ở đây, và là một trong


những dữ kiện nền tảng của Tin Mừng thánh Lc, chính là tầm quan
trọng trong việc lắng nghe LỜI Thiên Chúa ( Lc 6,47 ; 8,15 ; 9,32 ) ;
lời Đức Giê-su căn dặn phải mời người nghèo dự tiệc ( Lc 14,12-14
) ; phải dùng của cải cho tốt ( Lc 16,9… ) Từ chối lắng nghe và sống
Lời Thánh Kinh cũng giống như từ chối ăn uống. Đó là tự kết án tử
cho mình vì Thánh Kinh là Lời hằng sống.

Lc cũng muốn bảo cộng đoàn mình đừng tìm kiếm hay chờ
đợi việc lạ lùng, phi thường như người chết hiện về chẳng hạn…
tuồng như điều đó sẽ đủ để hóan cải tâm hồn. Lời Thiên Chúa được
công bố qua Maisen, các Tiên tri, Đức Giê-su và các tông đồ … vẫn
còn đó, trong tầm tay ta. Chúng ta phải làm gì ? Chúng ta đừng quên
chạy đến với Lời Thánh Kinh, Lời từng giúp Đức Giê-su đánh bại
Satan, trong cơn cám dỗ ở sa mạc ( Lc 4,1-13 ).

Sau Phục Sinh, Chúa Ki-tô nhắc lại và giải thích tầm quan
trọng của Thánh Kinh cho các Môn đệ trên đường Emmaus ( Lc
24,27-32 ), rồi cho nhóm 11 ( Lc 24,44.45 ). Các Môn Đệ này đã
lắng nghe và sống Lời ấy và đã được biến đổi, vì như lời Tiên tri đã
chép Cũng như mưa với tuyết sa xuống từ trời, không trở về nếu
chưa thấm xuống đất, chưa làm cho đất phì nhiêu và đâm chồi nẩy
lộc, cho kẻ gieo có hạt giống, cho người đói có bánh ăn, thì Lời Ta
cũng vậy, một khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu
chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý muốn của Ta, chưa chu toàn sứ
mạng Ta giao phó ( Is 55,10-11 ).

- 144 -
Vì thế, dụ ngôn người phú hộ và ông La-da-rô muốn bảo
ta :
- Lời Chúa là con đường hoán cải, là nguồn sự sống
thật.
- Của cải vật chất rất nguy hiểm, nó có thể khép kín
tâm hồn.

Chỉ có tình yêu mới vượt trên sự chết và có thể biến hình, có
gía trị vĩnh cửu. Thiên Chúa không thể cứu vớt những kẻ không
sống trong tình yêu. Độc ác, ích kỉ… không thể vượt qua cái chết…
Ta hãy lắng nghe tiếng Đức Giê-su kêu lên : hãy mở lòng, hãy mở
tay anh em ra … Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng
Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy,
và người ấy sẽ dùng bữa với Ta. ( Kh 3,20 )

Và, mở ra cho Thiên Chúa cũng là mở ra cho tha nhân, đặc


biệt, cho những ngừơi nghèo khó…

- 145 -
10. CÂY VẢ KHÔNG TRÁI ( Lc 13,6-9 )

Rồi Đức Giê-su kể dụ ngôn này : "Người kia có một cây vả


trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy,
nên bảo người làm vườn : 'Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này
tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất ?'
Nhưng người làm vườn đáp : 'Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay
nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. May ra sang
năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.'

TÌM HIỂU

Để hiểu 1 dụ ngôn, chúng ta biết điều quan trọng là phải định


vị được văn cảnh của nó trong toàn bộ tác phẩm của tác giả ( ở đây
là của thánh Lc ). Nhưng ngoài văn cảnh văn chương ra, cũng còn
phải kể đến bối cảnh chính trị, xã hội và tôn giáo nữa. Vì thế một vài
yếu tố sau có thể giúp ta nhận ra tầm quan trọng của dụ ngôn cây vả
không trái ngắn gọn này.

Câu 1-5 nói đến việc người ta kể lại cho Đức Giê-su về việc
cuộc tàn sát do tay Philatô, tổng trấn miền Giuđê. Philatô là người
hung bạo, hay e sợ và trấn áp mọi phong trào từ trong trứng nước.
Những người này, điển hình cho niềm tin tôn giáo thời đó, đã hỏi
Chúa xem những nạn nhân bị tàn sát ấy đã phạm tội gì. Thiên tai,
dịch bệnh… được coi như hậu của của tội lỗi. Đức Giê-su thêm vào
trường hợp bi thảm này, một trường hợp khác cũng bi thảm không
kém : tai nạn bất ngờ dưới chân tháp Siloê. Hai sự kiện khác nhau,
theo nghĩa là sự kiện thứ nhất do trách nhiệm trực tiếp của con
người, sự kiện thứ hai thì không. Tuy nhiên, con người, dù gián tiếp,
vẫn có trách nhiệm trước tai nạn đó. Thói cẩu thả của họ đã gây nên
nỗi ! Thật ra, thời đó, người ta không tìm kiếm những nguyên nhân
vật lý, vật chất, khoa học của các cơn bệnh hay tai họa. Đối với họ,
18 người bị tháp đè là những kẻ tội lỗi và việc tháp đổ là do trời
phạt…
- 146 -
Đức Giê-su, theo thói quen, nắm ngay lấy cơ hội để mạc khải
ý nghĩ của Ngài về vấn đề này, và Ngài khởi đi từ hình ảnh của
Thiên Chúa.

Trước 1 biến cố, chúng ta có thể có hai thái độ. Ta có thể


nghĩ :

-Như nhiều người khác rằng các thiên tai, tai nạn,
bất hạnh gắn liền với tội lỗi.

-Như Đức Giê-su quả quyết rằng các nạn nhân ấy


không tội lỗi hơn những người khác.

Đức Giê-su, đã nhiều lần bác bỏ ý tưởng theo đó Thiên Chúa


trừng phạt con người hoặc giữa bệnh tật và tội lỗi có mối liên hệ trực
tiếp. Chẳng hạn, trong Lc 5,17.26, khi thấy đức tin của người bất
tọai, Đức Giê-su đã bảo anh ta : Tội con đã được tha, người ta không
tin, vì người bệnh vẫn không được lành. Thật vậy, nếu bệnh bất toại
gắn liền với tội lỗi, thì nó phải biến mất với tội lỗi chứ !

Một biến cố khác, việc chữa lành một người mù bẩm sinh ( Ga
9,1-41 ) giúp Đức Giê-su có cơ hội xác quyết rằng Thiên Chúa
không phải là nguyên nhân gây bệnh. Đối với người do thái, thì đó
là điều hiển nhiên : người mù này là kẻ tội lỗi : Vì anh đã sinh ra
trong tội ( c.34 ). Ngay cả các môn đệ của Đức Giê-su cũng tin như
vậy khi họ hỏi : Thưa thầy, ai đã phạm tội, anh ta hay cha mẹ anh
ta, bởi vì anh đã sinh ra mù lòa ? Đức Giê-su đáp : chẳng phải anh
ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta ( 2-3 ).

Đức Giê-su không nói rằng các nạn nhân ấy thực sự vô tội,
Ngài biết rằng mọi ngừơi chúng ta đều là tội nhân, nghĩa là, đều ít
nhiều xa lìa chương trinh của Thiên Chúa. Vì thế Đức Giê-su mời
gọi mỗi người ăn năn, hoán cải, thay đổi đời sống.

Trong 6,6-11, chúng ta thấy một trường hợp khác : việc chữa
lành một người bại tay… ở đây cũng vậy, Đức Giê-su có thể có hai
thái độ :

- 147 -
- Chữa lành người bệnh. Ngài có thể làm điều đó,
Ngài đã từng chữa nhiều bệnh tật ; nhưng trường hợp này xẩy ra vào
ngày Lễ nghỉ, và luật cấm làm việc trong ngày lễ nghỉ.

- Không làm gì cả ( hay chờ mai mới làm ). Trong


trường hợp này, không ai có thể trách cứ Ngài. Tuy nhiên, dù ý thức
nguy cơ bị hiểu lầm và kết án, Đức Giê-su vẫn chữa lành người
bệnh. Ơ đây cũng vậy, mục đích của Ngài là dậy dỗ cử tọa và giúp
họ hiểu rằng con người phải ưu tiên trước các qui luật và phải làm
việc lành, nghĩa là làm theo thánh ý của Thiên Chúa, làm hết sức
mình để chống lại sự ác, đau khổ, bất kể ngày đêm.

Trước cử chỉ này của Đức Giê-su, các người Biệt phái cũng có
thể có hai thái độ :

- Chấp nhận nhìn lại lập trường của mình, nhìn lại
cách đọc Lề Luật của mình, đón nhận sứ điệp của Đức Giê-su.

- Hoặc từ chối đặt vấn đề ( hoán cải ).

Họ đã theo thái độ thứ hai, và giận điên lên, họ bàn nhau xem
có làm gì được Đức Giê-su không.

Thêm một ví dụ khác. Trong Lc 9,54 : Đức Giê-su vừa sai các
môn đệ đi trước mình vào một làng Sa-ma-ri. Người do thái và Sa-
ma-ri ghét nhau thậm tệ vì thế không có gì là lạ khi các môn đệ bị
xua đuổi cả. Trước thái độ ác cảm ấy, họ có hai khả năng để lựa
chọn :

- Tuân theo lời Đức Giê-su căn dặn : Yêu thương kẻ


thù, làm ơn cho những kẻ thù ghét các con ( Lc 6,46 ).

- Trả thù, lấy ác báo ác…

Và thánh Giacôbê lẫn thánh Gioan đã chọn thái độ thứ hai này
thưa Thầy, Thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu
hủy chúng nó không ?

- 148 -
Khi xin như thế, họ đã hiểu sai ý Thầy mình. Chúa bèn quở
mắng các ông ! Đã đành là Đức Giê-su kết án thái độ của họ nhưng
Ngài không ruồng bỏ họ, Ngài tiếp tục con đường của mình và tiếp
tục thanh tẩy niềm tin của các môn đệ.

Trong khi đào sâu Dụ Ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu, chúng
ta đã thấy Đức Giê-su dậy dỗ vị Tiến Sĩ Luật, bằng cách đặt ông
trước một hoàn cảnh : một người bị thương nằm đó, dở sống dở
chết. Phải làm gì ?

- Hành động như vị tư tế và trợ tế, để giữ sự thanh


sạch theo luật định, xa lánh người bị thương, để mặc anh ta chết…

- Đến bên người bị thương, săn sóc anh ?

Bằng câu hỏi : Ai đã tỏ ra là người thân cận với người bị rơi


vào tay kẻ cướp ? Đức Giê-su giúp vị Tiến sĩ Luật đổi mới cách đọc
và dậy Lề Luật của mình, vì ông đi theo quan điểm của Đức Giê-su.

Những suy nghĩ này giúp ta hiểu tại sao Đức Giê-su kể dụ
ngôn trên. Có nhiều cách đọc dụ ngôn ấy, và không được bỏ cách
nào, vì chúng đều giúp ta khám phá một điều gì đó về Tin Mừng của
Đức Giê-su Kitô.

1. Mức đọc đầu tiên. Phân tích hòan cảnh, thái độ khởi đi từ
những sự kiện được kể lại. Ta hiểu sự thất vọng của ông chủ vườn
khi thấy cây vả không trái. Chúng ta chú ý đến sự nhẫn nại của ông,
ông nuôi hi vọng cả ba năm trời nay, ông đặt trọn niềm tin vào cây
vả. Ông đã ra quyết định thật dứt khoát : phải chặt nó thôi !... và nói
với người giữ vườn, ông minh định chọn lựa này Để nó tốn đất vô
ích. Chúng ta nghĩ ông có lý, đôi khi chúng ta cũng hành động như
ông… ta lưu ý là Đức Giê-su không hề đưa ra một nhận định luân lý
nào về thái độ của người này.

Thế rồi người làm vừơn nói với ông rằng còn có thể có một
cách hành xử khác : cho cây vả 1 cơ may cúôi cùng. Thật vậy, nếu
nó không sinh hoa trái, chưa chắc đã phải lỗi tại nó. Biết đâu tại đất
? Người chủ vườn không nghĩ đến điều đó, ông chỉ thấy kết quả tiêu
- 149 -
cực, không tự hỏi tại sao lại như vậy… Giải pháp được đề nghị :
vun xới xung quanh, bón phân cho nó biết đâu sẽ có được kết quả
đợi chờ. Ông không chắc, nhưng chí ít ông cũng cho cây vả một
tương lai… nếu không có gì xẩy ra ( nhưng ai mà biết được ), chắc
chắn sẽ phải giải quyết bằng cách chặt đi, nhưng phải làm hết sức có
thể trước khi đi đến quyết định không thể đảo ngược này.

2. Mức đọc thứ hai. Vì đây là 1 dụ ngôn nên ta linh cảm rằng
Đức Giê-su muốn nói một điều khác hơn là việc trồng trọt ! Và ta có
thể đoán được cây vả tượng trưng cho hạng người nào. Ta lấy vài ví
dụ cụ thể và hiện thực

Có nhà giáo dục, giáo lý viên, người làm công mà ta trao phó
trách nhiệm, công việc, mà ta tin tưởng, mà ta tín nhiệm, mà ta cần
thiết…. Nhưng đã khiến ta thất vọng não nề. Ta cảm thấy bắt buộc
phải thải hồi họ, vì chỉ làm hại công ty, đưa đến thất bại hoặc làm hư
trẻ em mà họ có trách nhiệm… có thể đó là một đứa trẻ phá phách
trong lớp học hay lớp giáo ly, nó làm rối loạn các giờ học, xáo trộn,
phá phách, khiến các bạn chia trí, .. vì thế tôi có đủ lý do để đuổi họ.

Và rồi 1 người nào đó bảo tôi : Chờ đã, có lẽ còn 1 giải pháp
khác. Nếu đứa trẻ đó phá phách, có phải vì lỗi nguyên của nó không
? hòan cảnh gia đình nó ra sao ? có lẽ thái độ của nó là một tiếng
kêu, một lời xin giúp đỡ để người ta chú ý đến nó, để hiện hữu, để
được nhận biết và yêu thương chăng ? có lẽ khi nói chuyện với nó,
với cha mẹ nó, nhờ 1 nhà tâm lý học…biết đâu ta có thể thay đổi
được thái độ của nó… nếu thử mọi biện pháp rồi mà vẫn thế, ta vẫn
cứ tiếp tục suy nghĩ, bàn hỏi để tìm ra những giải pháp tốt nhất để
đưa nó vào 1 nhóm khác, 1 trường khác…

Trong dụ ngôn, Đức Giê-su không mang lại những giải pháp
chính xác. Ngài muốn ta có trách nhiệm. Tuy nhiên, khi bảo vun xới
xung quanh, rồi bón phân cho nó… Ngài bảo chúng ta : đừng hành
động quá vội vàng, đừng kết án, hãy tìm kiếm các giải pháp, phải có
1 lối thoát, một tương lai khả dĩ.

3. Suy tư thần học. Đối với người do thái, vườn nho chỉ dân
tộc It-ra-en ; cây vả tượng trưng cho Lề luật. Một cây vả, được săn

- 150 -
sóc cẩn thận, cho nhiều hoa trái trong 10 tháng, vào mùa thu, mùa
đông và mùa xuân. Đó chính là nguồn lợi không thể thờ ơ. Giống
như cây vả, Lề Luật phải sinh hoa kết trái. Diễn tả thánh ý Thiên
Chúa, Lề Luật được hình thành để giúp con người sống đúng Giao
Ước với Thiên Chúa và đồng loại. Lề luật là tốt. Đức Giê-su đã tuân
giữ và trình bày nó như con đường sự sống ( Lc 16, 17 ; Mt 5,17-19
). Tuy nhiên, các Tiến sĩ Luật thường lầm lẫn Lề Luật này với các
qui định dùng để giải thích nó. Luật đã trở thành xiềng xích bó buộc.
Giới lãnh đạo tôn giáo đã khiến Lề Luật bị biến tướng. Họ chất
những gánh nặng trên vai người khác ( Mt 23,4 ). Lề luật giải phóng
đã trở thành trói buộc : bệnh nhân, bị xem như kẻ tội lỗi, bị loại trừ,
kết án. Những người mù, người què… không được phép vào Đền
Thờ. Cấm nấu ăn, chữa bệnh… ngày Lễ Nghỉ. Cấm lui tới với
những người bị xem là ô uế, những người phong cùi chẳng hạn.
Muốn được Thiên Chúa thứ tha, phải có điều kiện : lễ vật hi sinh…
nếu đó là những lỗi nặng, phải lên Đền Thờ vào ngày Xá tội. Không
được phép nói chuyện với phụ nữ chốn công khai… Mà Đức Giê-su,
tương đối hóa nhiều qui định này : Ngài chạm đến người phong cùi (
Lc 5,29 ; 15,1.2 ), chữa lành ngày Lễ nghỉ ( Lc 6,6-11 ), Ngài và
môn đệ ăn uống với người tội lỗi ( Lc 5,29 ; 15,1.2 ), tha tội cho
người bất toại, ở Capharnaum mà không đòi phải dâng của lễ ( Lc
5,20 ). Đức Giê-su nhận các phụ nữ làm môn đệ ( Lc 8,2.3 ) ; Ngài
nói chuyện với người phụ nữ xứ Sa-ma-ri ( Ga 4,7 ). Ngài giảm nhẹ
tầm quan trọng của các nghi thức thanh tẩy(Lc11,38-41 )

Thay vì loại bỏ các nhà lãnh đạo lệch lạc này, Đức Giê-su cố
gắng tận dụng mọi cơ hội để dậy dỗ họ. Ta có nhiều bằng chứng :
đối với ông Simon, biệt phái ( Lc 7,40-50 ) ; đối với vị Tiến sĩ Luật (
Lc 10,25-37 ), đối với ông trưởng hội đường ( Lc 13,15-17 )… Cho
tới cùng, Ngài vẫn cho mỗi người một cơ may, để có thể sinh hoa
kết trái, nhưng thường muộn màng hơn, mãi đến sau Phục Sinh ( cf.
sách Công vụ ). Tuy nhiên lập trường của Ngài được con người coi
như những dấu chỉ của Thiên Chúa, mà lúc đầu, bị nhìn như là phạm
thượng. Thánh Lc viết Mọi người đều sửng sốt và tôn vinh Thiên
Chúa. Họ kinh hãi bảo nhau : Hôm nay, chúng ta đã thấy những
chuyện lạ kỳ ( Lc 5,26 ). Từ Mọi người bao gồm cả các kinh sư và
biệt phái mà hành động của Đức Giê-su ( tha thứ và chữa người bại
liệt ) đã hoán cải. Trong Mc 12,34, Đức Giê-su vui mừng khen ngợi
một kinh sư đã hiểu biết điều cốt lõi của Lề Luật…
- 151 -
Trong Ga 8,1-12, câu truyện người phụ nữ ngoại tình mà các
kinh sư và Biệt phái, chuẩn bị kết án tử hình ( tiêu diệt tội lỗi bằng
cách tiêu diệt tội nhân, đó là phương pháp triệt để giống như việc
chặt cây vả không trái ! ). Khi từ chối lên án người phụ nữ và xin chị
đừng phạm tội nữa, Đức Giê-su ban cho chị 1 cơ may. Ngài không
đánh giá chị chỉ với tội lỗi đã phạm. Ơ đây cũng vậy, Ngài trình bày
một phương pháp sư phạm tuyệt hảo : Ngài soi sáng để các kinh sư
và biệt phái thấy rằng chính mình cũng là tội nhân và cần được hoán
cải.

Cuối cùng, Đức Giê-su là người duy nhất thật sự tuân giữ Lề
Luật, Luật được tóm tắt lại trong động từ yêu thương ( Lc 10,36 ; Mt
12,28-34 ). Và, ta hãy suy nghĩ đến Khuôn vàng thước ngọc : tất cả
những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em
cũng hãy làm cho người ta ( Mt 7,12 ).

Nếu Đức Giê-su từ chối loại trừ ai đó, thì các đối thủ của Ngài
lại chẳng do dự. Họ xem những người ấy hệt như 1 cây vả không
trái, nguy hại cho tôn giáo, cho dân tộc … và từ 3 năm rồi. Thượng
tế Caipha đẵ chẳng từng nói nhân danh thủ lãnh do thái giáo : thà
môt nguời chết thay cho dân còn hơn là tòan dân bị tiêu diệt ( Ga
11,50 ; 18,14 ) đó sao ? Như vậy, thay vì sửa đổi cái nhìn, họ sẽ tiêu
diệt Đức Giê-su. Họ có khác gì cây vả không trái đâu ? Thật vậy,
đám đông đi theo và thán phục Đức Giê-su ( Lc 8,42 ; 9,37 ; 11,14 ;
12,1 ; 13,17b ; 14,25 ) trong khi các thủ lãnh tôn giáo thì chống lại
Ngài và đám đông đi theo Ngài ( Lc 13,17a ; 19,38 ). Vả lại, chính
nhờ đám đông mà Đức Giê-su mới không bị bắt sớm hơn ( Lc 20,19
). Cúoi cùng nếu Chúa bị kết án và đóng đinh ( chặt, loại trừ khỏi
dân tộc ), thì Thiên Chúa đã bênh vực Ngài bằng cách cho Ngài sống
lại : Ngài chính là Đường, là Sự Thật và Sự Sống ( Ga 14,6 ).

Ap dụng thực hành

Trước thánh ý Thiên Chúa được diễn tả bằng Luật tình yêu,
các mối phúc, những lời dặn dò của Đức Giê-su : Yêu thương kẻ thù,
Tha thứ 70 lần 7, Phục vụ… cũng có thể có hai phản ứng khác nhau.

- 152 -
- Đây là điều không thực tế, tôi chẳng bao giờ đạt tới
được, tôi bỏ thôi ( chặt bỏ )

- Nhiều người đã đạt được, tôi sẽ cố gắng với những


người khác giúp đỡ, tôi sẽ cầu nguyện…

Trước hiện trạng của Giáo-hội, tại Pháp, tại Au Châu, ta


cũng có thể :

- Bảo rằng : thế là hết, Giáo-hội đã lạc đường rồi,


Giáo-hội đã lầm, đã chấm dứt. Tôi rời bỏ Giáo-hội khô cằn, không
còn gì mong đợi nữa…

- Tự nhủ : Chính ta phải thay đổi, phải hoán cải


thôi… rốt cuộc thì ta phải cố gắng xem xét để nhận ra điều phải làm
để trung thành với Giáo-hội. Thay vì phê binh, xét bề ngoài, ta phải
biến đổi, phải thích nghi và làm cho phụng vụ của ta sống động
hơn… ta phải cầu nguyện thêm, bằng cách lắng nghe lời Đức Giê-su
: "Thế nên Thầy bảo anh em : anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì
sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm
thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho. Ai trong anh em là một người cha,
mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó ? Hoặc nó xin
trứng lại cho nó bò cạp ? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà
còn biết cho con cái mình của tốt của lành, phương chi Cha trên trời
lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao ?" Lc
11,9-13.

Ta cũng biết rằng Giáo-hội không chỉ qui vào hàng giáo phẩm
mà gồm tòan thể những người tin vào Đức Giê-su Kitô và những
người nhờ phép Rửa Tội, gia nhập vào gia đình này. Mỗi kitô hữu
phải cảm thấy có trách nhiệm, theo khả năng của mình…

Đức Giê-su tuyên bố : Không Thầy, các con không làm được
gì ( Ga 15,1-5 ). Chính Ngài cũng đã nếm trải cám dỗ, sợ hãi ( cf.
hấp hối : Lc 22,40-46 ). Cầu nguyện là mở lòng ra với Chúa, là
nghiêng về Người. Đức Giê-su, thay vì bỏ cuộc, đã cầu nguyện và
sức mạnh của Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần đã được ban cho Ngài.

- 153 -
Nhờ đó, Ngài đã có thể đi đến cùng sứ mệnh của mình. Tình yêu đã
chiến thắng mọi sức mạnh của sự dữ.

Để dụ ngôn trở thành một con đường sống. Thay vì phê bình,
kết án, ta hãy cho mỗi người 1 cơ may mới. Hãy nói Vâng với tương
lai…

Cây Vả không trái đôi khi có thể là mỗi người chúng ta. Ta
hãy nhớ lại lời Đức Giê-su Tất cả những gì anh em muốn người
khác làm cho mình, thì anh em hãy làm cho họ ( Mt 7,12 ). Thánh
giá của Đức Giê-su không phải là một thất bại, nó là dấu chỉ tình
yêu bất bại của Thiên Chúa, nó có thể sinh hoa kết trái, trở thành
nguồn Sống cho mỗi người.

- 154 -
THAY LỜI KẾT
Lược qua một số DỤ NGÔN của Đức Giê-su chắc chắn sẽ
giúp ta khám phá rõ hơn sứ điệp của Ngài. Mỗi dụ ngôn soi sáng
một khía cạnh đặc biệt trong Tin Mừng của Ngài, mà tất cả đều nói
về tình yêu, về lòng nhân hậu của Thiên Chúa, tất cả đều dựa trên
vốn sống, trên những thái độ mà Đức Giê-su đã có thể quan sát, đã
từng chứng kiến hoặc chính Ngài đã sống. Theo nghĩa này, các dụ
ngôn rất hiện thực, chúng ta có thể tìm thấy mình trong đó miễn là
chấp nhận nhìn sâu tận đáy lòng mình và nhìn vào sự thật. Các dụ
ngôn sẽ trở thành Lời Thiên Chúa, Lời hằng sống cho chúng ta nếu
ta đọc chúng như chúng được viết riêng cho ta và cộng đoàn của ta.

ĐỨC GIÊSU THỰC SỰ ĐÁNG TIN

Ngài là Đấng gieo Lời, sứ điệp của Ngài dành cho mọi loại
người : Ngài nói với bạn hữu nhưng cũng nói với người xa lạ và
thậm chí cả các đối thủ của mình, và lời Ngài luôn là lời giải phóng,
lời mang đến sự sống và niềm hi vọng. Để cho dễ hiểu, các dụ ngôn
của Đức Giê-su gắn liền với các hành động cụ thể của Ngài. Đức
Giê-su là một con người nhất quán : Ngài đã sống điều Ngài nói qua
các dụ ngôn. Vì thế ta hãy đọc lại thật kĩ các Tin Mừng rồi nối kết
từng dụ ngôn với các lập trường của Đức Giê-su : phép lạ này, cuộc
gặp gỡ kia…

Ngài là người Sa-ma-ri nhân hậu đến bên mọi người bị


thương tích của cuộc đời và ta nghĩ đến ông Giakêu, ông Bartimê,
các bệnh nhân, các người đói khát, các phụ nữ, các trẻ em, tất cả mọi
người mà xã hội loại bỏ. Ngài chỉ làm một với Thiên Chúa Đấng ban
phát dư dật và nhưng không các tài năng, các ân huệ và lòng tha thứ
của Người vì Người là Đấng đáng tin cậy. Ngài muốn mỗi người
chúng ta làm cho những ơn đã lãnh nhận được sinh hoa kết trái, vì
Ngài chỉ có một ước mơ : làm cho con người được hạnh phúc và trở
thành những con người đầy tự do và trách nhiệm.

Ngài là Đấng mời gọi mọi người đến dự tiệc vui, không
phân biệt tôn giáo, giầu nghèo. Ngài chọn 1 ngừơi thu thuế làm môn
đệ, Ngài chữa lành đầy tớ của viên quan la mã ( một kẻ thù ), con gái
một phụ nữ xứ Cana, một người phong cùi xứ Sa-ma-ri…
- 155 -
Ngài là Đấng lên đường tìm kiếm các chiên lạc, và chờ đợi
người tội lỗi trở về để ấp ủ họ bằng những nụ hôn trìu mến, để đổ
tràn lòng họ niềm vui của Ngài và hòa giải họ với Thiên Chúa và với
anh em mình.

Ngài là Đấng kêu gọi mọi người muốn cộng tác vào công
trình cứu độ của mình mọi nơi, mọi lúc vì Ngài muốn cứu vớt hết
mọi người. Với Đức Giê-su, không bao giờ là quá muộn. Làm sao tả
được niềm vui của Ngài khi mở rộng, đến cực độ, thiên đàng cho 1
trong những kẻ trộm cùng chịu đóng đinh với Ngài ? Nhưng cũng
làm sao tả được nỗi thất vọng của Ngài khi nhìn thấy một số người
rời bỏ hay từ chối bước theo Ngài ? Tất cả đều được mời gọi, Ngài
chỉ đường sự sống cho hết mọi người. Tuy nhiên, Ngài tôn trọng tự
do của mỗi người. Ngài không biết áp đặt, Ngài chỉ biết đề nghị thôi.
Những ai mở lòng đón nhận, Ngài trao ban không tính toán. Ngài
không cân đong đo đếm, vì Ngài chỉ biết có yêu thương.

Ngài là vị mục tử nhân lành mạo hiểm mạng sống vì đoàn


chiên : Ngài tự do chữa lành bệnh nhân ngày Lễ nghỉ, nói chuyện
với 1 phụ nữ xứ Sa-ma-ri, ăn uống với các người tội lỗi…. Những
thứ mà giới lãnh đạo tôn giáo cấm đoán, Ngài chẳng màng. Mặc dù
bị dọa giết, Ngài vẫn bảo vệ đến cùng sự nghiệp của con người và
của Thiên Chúa. Chẳng gì có thể khiến Ngài dừng buớc và Ngài sẽ
tự hiến chính mình cho đoàn chiên vì Ngài biết tên từng con một và
yêu thương nó với tất cả tấm lòng.

Các dụ ngôn của Đức Giê-su trình bày 1 Vương Quốc của
Yêu Thương, 1 Thiên Chúa nhân lành và hay thương xót…Thiên
Chúa của Đức Giê-su là 1 Thiên Chúa dễ mủi lòng, 1 Thiên Chúa
chờ đợi chúng ta, cần đến chúng ta. Vương Quốc của Thiên Chúa là
một thế giới trong đó mọi tương quan đều dựa trên niềm tin tưởng
và yêu thương, một thế giới mà mỗi người đều được đón nhận và tôn
trọng. Đức Giê-su không giấu diếm những đòi hỏi của Vương Quốc
này, nhưng Ngài đảm bảo với ta về sự hiện diện của Ngài. Để sống
sứ điệp của các dụ ngôn, chỉ cần có một điều : bằng lòng để mình
được yêu thương và hòa giải.

- 156 -
Các dụ ngôn là những lời mời gọi hoán cải. Thiên Chúa
của các dụ ngôn là 1 Thiên Chúa muốn chúng ta lớn lên, muốn
chúng ta được hạnh phúc. Niềm vui của Người ở nơi niềm vui của
chúng ta. Ngài chờ đợi ta nói tiếng xin vâng, vì đôi khi, vì thường
khi, ta chậm bước theo Người.

Nếu Thánh Kinh là Lời của Thiên Chúa đối với ta… Nếu ta
hiểu Tin Mừng chứa đựng trong các dụ ngôn và nếu ta sống Tin
Mừng ấy, có lẽ ta đã nghe Đức Giê-su bảo ta Ta ở cùng con, ta sẽ đi
theo con trên mọi nẻo đường đời.

- 157 -
SÁCH THAM KHẢO

- Bí mật của các dụ ngôn (Fêtes et Saisons số 365- Le Cerf )


- Các dụ ngôn ( Les dossiers de la Bible- Le Cerf )
- Các dụ ngôn của Đức Giêsu, J. Jeremias ( Livre de vie số
85-86- Le Seuil, 1968 )
- Tại sao lại có các dụ ngôn ? ( Lire la Bible, số 46, Cerf
1977 )
- Dụ ngôn, Daniel Marguerat (Cahier Evangile, số 75,1991 )
- Thiên Chúa của các Kitô hữu thời sơ khai, Daniel
Marguerat ( Labor et fides, tr. 17-33 ).
- Các dụ ngôn của Đức Giêsu, Denis Mc Bride ( Ed. De
l’Atelier-2001 )
- Các Tin Mừng-Bản văn và chú giải, Claude Tassin ;
Jacques Hervieux ; Hugues Cousin và Alain Marchadour,
( Ed. Bayard 2001)

CHÚA GIÊSU NÓI BẰNG DỤ NGÔN

Nguyên bản tiếng pháp JESUS PARLAIT EN


PARABOLES, của Fr. Theophile PENNDU, Paris Septembre
2001.

Lm Giuse Nguyễn Văn Diễm chuyển ngữ, Hà-nội tháng


chín 2007.

- 158 -

You might also like