Professional Documents
Culture Documents
Đào Mạnh Toàn (2011) Đồng âm và đa nghĩa trong Tiếng Việt (Đối chiếu với tiếng Hán hiện đại)
Đào Mạnh Toàn (2011) Đồng âm và đa nghĩa trong Tiếng Việt (Đối chiếu với tiếng Hán hiện đại)
Đào Mạnh Toàn (2011) Đồng âm và đa nghĩa trong Tiếng Việt (Đối chiếu với tiếng Hán hiện đại)
Mã số : 62 22 01 01
PGS. Hồ Lê
Trong giới Việt ngữ học, rất nhiều nhà nghiên cứu dựa trên các quan niệm, đường
hướng tiếp cận và mức độ khác nhau đã bàn về từ ĐÂ và từ ĐN. Một số tác giả đã cố gắng
xác định các tiêu chí nhận diện từ ĐÂ, từ ĐN, đề xuất các hướng miêu tả, phân loại chúng.
Một số tác giả còn trình bày số liệu về các đơn vị (ĐV) ĐÂ và ĐN của họ. Tuy nhiên, chưa
có tác giả nào lấy từ ĐÂ, từ ĐN và từ vừa ĐÂ vừa ĐN làm đối tượng nghiên cứu chính của
mình, đặc biệt là họ chưa xác lập được sự đối lập cơ bản giữa từ ĐÂCG nghĩa (từ ĐÂCG)
với những từ ĐÂKG nghĩa (ĐÂngẫu nhiên). Đây là điểm mà luận án (LA) sẽ đề cập tới.
Vấn đề từ ĐN cũng còn nhiều chỗ phải đề cập tới như: xác định rõ các loại từ
ĐN, sự khác biệt giữa ĐN của một từ ĐN thông thường (giữa các nghĩa thường có
quan hệ phái sinh) với ĐN giữa các từ ĐÂ (không có quan hệ phái sinh, thường chỉ
có liên hệ về nghĩa). Từ những lí do này, chúng tôi xác định: đối tượng nghiên cứu
chính của LA là từ ĐÂ, từ ĐN; từ ĐÂ và ĐN trong TV. Đồng thời, sẽ đối chiếu nó
với vấn đề tương ứng trong tiếng Hán, một ngôn ngữ gần gũi về loại hình, nhằm tìm
ra những chỗ đồng nhất và khác biệt trong 2 ngôn ngữ. Đây là những lí do để chúng
chọn đề tài: Đồng âm và đa nghĩa trong tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Hán hiện đại).
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1 Ở Việt Nam, trước 1945, HTĐÂ, ĐN của TV đã gián tiếp được đề cập tới
trong một số tự vị do chính người Việt Nam biên soạn nhằm chuẩn hóa chính tả, chữ
viết (chữ quốc ngữ) nhưng chưa được soi rọi dưới góc độ lí luận. Chẳng hạn:
Năm 1895, có Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của [13 ]. Đây là cuốn
tự điển tường giải đầu tiên do người Việt biên soạn, là nguồn tài liệu quý về từ vựng
ngữ nghĩa TV những năm cuối thế kỉ XIX. Theo Lê Quang Thiêm [131, tr.50-52] thì:
“Trong một mức độ nhất định, tác giả Đại Nam quấc âm tự vị đã phân biệt được các
đề mục ĐÂ (Lê Quang Thiêm gọi là ĐÂ ngữ nghĩa). Khảo sát công trình này chúng
tôi còn nhận thấy: tác giả công trình còn bỏ sót nhiều ĐVĐÂ được tạo ra từ quá
trình phân li ngữ nghĩa như trường hợp của các ĐV bạc, đài…
Năm 1925, ở Sài Gòn, Nguyễn Văn Mai [91] là người đầu tiên đề cập tới
HTĐÂ của TV với việc xuất bản ĐÂ tự vị. Công trình này thu thập “những chữ
khó viết hoặc những chữ ĐÂ cùng những chữ không nhằm ĐÂ mà phải viết dấu
hỏi hay dấu ngã, hoặc viết d hay g ở trước, c hay là t, có g hay là không có g ở
sau”. Khảo sát công trình này chúng tôi thấy: cấu tạo của ĐÂ tự vị gồm hai phần
(1) phần thu thập những “chữ” ĐÂ với SL lên tới 1779 ĐV, (2) Phần phụ thêm
thu thập những ĐV mà theo tác giả là sẽ có vấn đề về chính tả, những ĐV gốc
Ấn Âu không được thu thập và giải thích trong công trình này. Mặc dù tác giả
không hiển ngôn thế nào là ĐÂ song qua cách giải thích, sắp xếp của tác giả, ta
vẫn có thể thấy được. Đó là những ĐV có âm đọc giống nhau, có nghĩa khác
nhau và là những ĐV đơn tiết. Do hạn chế về thời đại nên ĐÂ tự vị của Nguyễn
Văn Mai mới chỉ thống kê được một SL rất nhỏ các ĐVĐÂ của TV, chưa xử lí
thỏa đáng các vấn đề của HTĐÂ trong TV, ngữ liệu mới chỉ dừng lại trong ngôn
ngữ sinh hoạt và trong văn ngôn tiếng Hán song bước đầu cũng đã gợi mở ra
một số vấn đề lí luận liên quan đến HTĐÂ của TV như: HTĐÂ giữa từ thuần
Việt với từ gốc Hán, giữa từ địa phương với từ toàn dân, vấn đề các ĐVĐÂ đơn
tiết.… Đó là những đóng góp không thể phủ nhận.
Năm 1931, có thêm sự góp mặt của Việt Nam tự điển [63]. So với Đại Nam
quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, Việt Nam tự điển đã chú trọng tới việc phân
biệt các ĐVĐÂ và các ĐVĐN, các ĐVĐÂ đều được phân tách và giải thích khá
rõ ràng. Nếu là ĐÂ Hán Việt thì còn dẫn cả chữ Hán để phân biệt. Nghĩa của các
ĐVĐN được phân biệt bằng kí số Ả Rập 1, 2, 3…, sau mỗi nghĩa đều có ví dụ
minh họa. Các ĐV ĐÂCG được xếp liền nhau và phân biệt với nhau bằng kí số
La Mã. Sau cùng là việc liệt kê những kết hợp có chứa mục từ đó. Chẳng hạn,
loạt ĐÂ có âm đọc là A được giải thích và sắp xếp như sau:
A. I. Đồ làm ruộng để cắt rạ ở ruộng chiêm, Nam-Kỳ gọi là cái trang, cái gạc:
Rèn một lưỡi a bằng ba lưỡi hái. Cắt rạ thì dùng bằng a, quét nhà thì dùng bằng chổi.
II. Cắt rạ bằng cái a: Ruộng đã gặt rồi cầm cái a đi a rạ. (…)
Việt Nam tự điển đã phân biệt rõ từ ĐÂ và hình vị ĐÂ. Tuy vậy, công trình
này vẫn còn bỏ sót những HTĐÂ khác mà thời ấy chắc chắn đã có như HTĐÂ
giữa những ĐV thuần Việt với những ĐV có nguồn gốc Ấn Âu…
Năm 1932, đáng chú ý là công trình Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh [01]. Đây
là một bộ TĐ có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam. Khảo sát vấn đề thu thập, giải thích,
phân loại các ĐVĐÂ và ĐN của Hán Việt từ điển chúng tôi thấy: Hán Việt từ điển
đã rất coi trọng vấn đề thu thập, giải thích và phân biệt, xử lí các ĐVĐÂ Hán và
Hán -Việt. Cách xử lí của ông như sau: đầu tiên, tác giả liệt kê tất cả các ĐVĐÂ
có trong mục từ đó, tiếp theo là việc liệt kê các kết hợp song tiết có chứa các
ĐVĐÂ đó cùng lời giải nghĩa về các ĐV này. Chẳng hạn: mục từ có âm đọc là
DAO được ông phân tách thành 07 mục từ nhỏ như sau:
Dao 摇 Lay động.
Dao 遥 Xa.
Dao 瑶 Một thứ ngọc tốt; quý báu; sáng sủa trong sạch.
Dao 谣 Câu hát không thành chương khúc; lời nói bằng không đặt ra.
Dao 愮 Lo buồn không tỏ cùng ai được.
Dao 徭 Xch. Dao dịch.
Dao 猺 Tên một dân-tộc ở miền núi thượng-du Bắc-kỳ và nhiều tỉnh phía tây-nam nước
tàu… (Hán Việt từ điển, tr. 197-198)
Năm 1939, có quan điểm của Trà Ngân Lê Ngọc Vượng [94]. HTĐÂ, ĐN
được tác giả bàn đến trong phần Những nguyên tắc chung (tr.29) và trong phần
Lược khảo về từ chương (tr.139). Theo tác giả thì: “ĐÂ nghĩa là đọc giống nhau.
Những TV – Nam cùng một âm như: nước chè – Nước Việt Nam – Nước cờ là
những tiếng Đ”. Và “Đ tất phải khác nghĩa”.
Năm 1940, có quan điểm của Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ, Phạm Duy Khiêm
trong Việt Nam văn phạm [70]. Trong 18 chương của Việt Nam văn phạm thì
trong chương I Những điều khái lược (tr.18-19) và ở mục Lời tựa (tr. VIII, XI) là
những chỗ thể hiện rõ quan điểm của họ về từ ĐÂ và ĐN. Theo họ, “tiếng ĐÂ là
những tiếng viết giống nhau và đọc đồng một âm như nhau, nhưng cái nghĩa thì
khác mà không có liên – lạc gì với nhau cả. Ví như một tiếng nước là nói một xứ
có vua quan cai trị; một tiếng nước khác là nói chất lỏng ở sông ở biển. Một tiếng
năm là nói khoảng thời gian có mười – hai tháng; một tiếng năm khác là nói số
đếm sau số bốn” (Việt Nam văn phạm, tr.18).
Họ còn bàn về nguồn gốc của từ ĐÂ và nhược điểm của chữ Quốc ngữ:
“những tiếng ĐÂ ấy nhiều nhất là những tiếng gốc ở chữ nho mà ra” , họ nêu ví
dụ: Chữ minh là sáng thì viết chữ 明, chữ minh là tối thì viết chữ 冥, chữ
minh là mờ - mịt bát - ngát thì viết chữ 瞑, chữ minh là thề thì viết chữ 盟,
chữ minh là ghi, khắc thì viết chữ 铭, chữ minh là kêu (nói về chim) thì viết
chữ 鸣”.Theo họ thì “những chữ ấy viết bằng chữ nho là sáu chữ khác nhau, mà
viết bằng quốc - ngữ thì tiếng nào cũng như nhau cả. Song ta phải biết phân –
biệt rằng đó là sáu tiếng minh có sáu nghĩa riêng, chứ không phải là một tiếng
minh mà có sáu nghĩa...” (Việt Nam văn phạm; tr.19).
Trong Lời tựa, họ đưa ra nhận xét: “Chữ quốc – ngữ rất tiện – lợi là nhờ có
năm cái dấu giọng có thể phiên – dịch đúng hết thảy các âm. Chỉ hiềm vì các âm
tuy đúng, song khi gặp những tiếng đồng – âm thì viết giống nhau cả, thành ra
người nào không biết chữ nho, không làm thế nào phân - biệt những nghĩa khác
nhau trong những tiếng ấy...” (Việt Nam văn phạm; tr. III).
Có thể nói rằng, ngay từ rất sớm, HTĐÂ, ĐN trong TV đã được quan tâm
lưu ý. Ở giai đoạn này, do những hạn chế về thời đại nên chưa có những công
trình có tính lí luận, những công trình tập thể còn ít, chủ yếu là những công trình
dựa trên sự nỗ lực, cố gắng và kinh nghiệm của một số học giả nên thành tựu
nghiên cứu chưa nhiều, còn bỏ sót nhiều vấn đề liên quan đến HTĐÂ, ĐN trong
TV song bước đầu đã hé mở những vấn đề lí luận như: (1) tầm quan trọng và cái
khó của việc phân biệt những ĐVĐÂ thuần Việt và những ĐVĐÂ gốc Hán khi
không có chữ Hán chú kèm, (2) HTĐÂ giữa từ toàn dân với từ địa phương, (3)
việc chuẩn hóa chính tả, chữ viết, (4) sự xung đột giữa các loại văn tự đã và đang
được sử dụng (chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ) trong việc nhận diện các
ĐVĐÂ, ĐN của TV, (5) nhược điểm của chữ Quốc ngữ trong phản ánh các cách
phát âm vùng miền, (6) phân biệt những ĐVĐÂ với những ĐVĐN...
Từ sau 1945 đến 1975, HTĐÂ, ĐN tiếp tục nhận được sự quan tâm của các
nhà Việt ngữ học. Khảo sát những công trình này chúng tôi nhận thấy, trong khi
các học giả phía Nam vẫn tuân theo tôn chỉ chuẩn hóa chính tả, chữ viết và góp
phần truyền bá chữ Quốc ngữ là chính thì các học giả phía Bắc lại có xu thế
nghiêng nhiều về lí luận. Những quan điểm có tính lí luận ở giai đoạn này phần
lớn là về vấn đề từ điển học. Đáng chú ý là các công trình và quan điểm sau:
Năm 1947, ở Sài Gòn có Đồng âm vận tuyển của Trần Văn Khải [68]. Tiến
bộ hơn Nguyễn Văn Mai, Trần Văn Khải đã phát hiện và chỉ ra những nhược
điểm, những bất cập của chữ Quốc ngữ trong việc ghi âm, thể hiện giọng nói của
ba miền. Tác giả đã rất chú trọng đến thao tác so sánh đối chiếu và chọn mẫu
trong việc thu thập ngữ liệu: “trong quyển từ điển nầy, chúng tôi đối chiếu các tự
điển ở ba kỳ và chọn lấy cách viết của phần đông, hầu ngày sau điển - chế và
thống - nhứt văn – tự Việt – Nam” (Phàm lệ). Trần Văn Khải cũng đã có những
cải tiến, sáng tạo hơn về phương pháp biên soạn, điều này thể hiện ở phương
pháp sắp xếp các ĐVĐÂ của tác giả: thứ nhất, sau mỗi một đầu mục từ hay sau
mỗi một hình vị được giải thích đều có đánh số Ả-Rập chỉ rõ những từ hay hình
vị ĐÂ trong đầu mục ấy. Thứ hai, nghĩa của những hình vị ĐÂ được cho vào
ngoặc đơn để phân biệt với hình vị được giải thích. Sau cùng, là việc liệt kê
những kết hợp từ có chứa hình vị được giải thích. Ví dụ:
Ái 1 Ch.(Yêu) : ân ái ; ái chủng ; ái đái ; ái hộ ; ái hữu ; ái kỷ ; ái quốc ; ái sủng ;
ái tình ; bác ái ; bể ái ; luyến ái. 2 Ch. (giống như) : ái nam ; ái nữ. (lại đực ; lại cái). 3
Ch. (nấc cụt) : phát ái. 4 n. Êm ái ; ái đau ; ái ôi. (Đồng âm vận tuyển; tr 09).
Nghĩa của các từ hay các hình vị ĐÂ được thống kê và giải thích trong
Đồng âm vận tuyển khá rõ ràng và chính xác, nhất là các hình vị Hán Việt. Theo
thống kê của LA, ngoài 3647 hình vị và từ được đưa ra giải thích còn có phần
Câu rời là phần thu thập thêm những kết hợp từ có chứa những hình vị được giải
thích trong các mục từ trước đó và những chữ dễ gây nhầm lẫn với hình vị được
đưa ra giải thích. Phần này được tác giả cấu tạo thành những câu thơ lục bát
nhằm mục đích giúp người học dễ học, dễ nhớ, dễ phân biệt. Chẳng hạn, án và
áng được tác giả phân biệt như sau:
“Án binh, hương án, án quan
Áng công danh, với áng chiến trường có g” (Đồng âm vận tuyển; tr. 10).
Ngoài việc thu thập giải thích các hình vị Hán Việt, thuần Việt, Đồng âm
vận tuyển còn thu thập, giải thích cả những hình vị ĐÂ gốc Pháp.
Năm 1951, có Tự- điển Việt- Nam phổ- thông của Đào Văn Tập [118]. Công
trình này vẫn bộc lộ khá nhiều nhược điểm ở các khâu xác định nghĩa, sắp xếp
nghĩa, phân biệt các ĐVĐN với các ĐVĐÂ. Chẳng hạn: khi xác định nghĩa của
hình vị Hán Việt 白(bạch) tác giả đã gán thêm cho nó nghĩa của hình vị bạch
trong các kết hợp như: bạch đinh, bạch thủ, trinh bạch khi quan niệm hình vị này
ngoài cái nghĩa là “sắc trắng” ra còn có nghĩa là “sạch sẽ, sáng sủa; trắng trơn,
không có của cải, không có chức tước” (Tự- điển Việt- Nam phổ- thông; tr 27).
Về việc xử lí các ĐVĐÂ, Đào Văn Tập đã đem tất cả các ĐVĐÂ mà ngày nay
được dán nhãn là “ĐÂ được cấu tạo theo kiểu chuyển loại” như: cuốc (dt) <->
cuốc (đgt); bào (dt) <-> bào (đgt)... nhập chung vào một mục từ ĐN. (Tự- điển
Việt- Nam phổ- thông; tr.139, 34).
Năm 1969, đáng chú ý là quan điểm phân loại từ ĐN và từ ĐÂ của Hoàng
Phê [104, tr.3-18]. Ông cho rằng: “phân biệt HT từ nhiều nghĩa với HT từ ĐÂ là
một vấn đề khó khăn. Nhiều khi rất khó quyết định nên coi đây là một từ nhiều
nghĩa hay là nên tách ra thành mấy từ ĐÂ. Trong từ điển phổ thông, nếu quan hệ
giữa các nghĩa ngày nay không rõ ràng lắm, thì tốt hơn là tách ra thành Đ”.
Năm 1969, Đỗ Hữu Châu [17, tr.43-50] thông qua quá trình khảo sát việc giải
thích nghĩa của các ĐV từ trong TĐTV 1967 (Văn Tân chủ biên) đã thể hiện quan
điểm và phương pháp xử lí nghĩa của mình đối với các ĐVĐN. Đây là một công trình
thể hiện rõ những vấn đề lí luận ở giai đoạn này.
Trong phần thứ nhất của bài viết, ông nhấn mạnh tầm quan trọng và những
khó khăn của việc biên soạn từ điển một thứ tiếng, đặc biệt là những khó khăn
trong việc giải thích nghĩa của từ TV và khẳng định: “điều quan trọng nhất là
tính hệ thống trong cách làm việc”.
Ở phần thứ hai, ông chỉ ra những nhược điểm thường thấy trong những
quyển từ điển của ta trước đó. Trong đó, nhược điểm lớn nhất theo ông là “rời
rạc, thiếu tính hệ thống”. Nhược điểm này thể hiện ở ba điểm sau: (1) Bộc lộ ở
cách sắp xếp theo thứ tự chữ cái mà hệ quả của nó là “không thể giúp cho
người đọc thấy được những mối quan hệ giữa các ĐV từ vựng [...] cho rằng
từ vựng chỉ là một tập hợp hỗn độn những ĐVcô lập với nhau”.(2) Bộc lộ ở
cách giải thích các nghĩa khác nhau cho cùng một ĐV từ vựng mà hệ quả của nó
là “người đọc từ cách giải thích đó thường không thấy được mối quan hệ giữa
các nghĩa ấy như thế nào”. (3) Bộc lộ ở cách tách từ ĐÂ và tách nghĩa của từ với
những biểu hiện sau: ở những từ có cấu trúc ngữ nghĩa giống nhau thì trong trường
hợp A được tách thành 04 hay 05 nghĩa nhưng ở trường hợp B lại gộp thành 01
hay 02 nghĩa. Có khi, với hai nghĩa khác nhau của cùng một từ, tác giả tách làm
hai từ nhưng ở một từ khác tương tự lại được nhập làm một như trường hợp các từ
băng, đèn, bay.
Trong phần thứ ba, ông trình bày quan điểm của mình về cơ sở phân tách
nghĩa của từ, các nguyên tắc cần chú ý khi giải thích nghĩa của từ trong từ điển.
Tác giả đưa ra 02 nguyên tắc và 03 tiêu chuẩn khi giảng nghĩa của các từ như sau:
Nguyên tắc thứ nhất, “khi xử lí một ĐV từ vựng nào đó về mặt nghĩa cần
chú ý đến các HT giống nhau xảy ra trong toàn nhóm, tránh tình trạng cô lập đối
tượng. […] Vì việc tách một ĐV thành những từ riêng rẽ có liên quan tới lí luận
về ranh giới giữa HT nhiều nghĩa và HTĐ”. Đỗ Hữu Châu đề ra tiêu chuẩn
tách từ ĐÂ như sau: “nếu HT chuyển nghĩa xảy ra một cách cá biệt mà ngày
nay không thể giải thích mối quan hệ giữa nghĩa ấy với các nghĩa khác của
từ thì có thể tách nghĩa ấy thành một từ ĐÂ hay một quán ngữ.... Không thể
tách các từ ĐÂ nếu HT chuyển nghĩa đó xảy ra giống nhau trong cả một loạt
từ. Còn đối với các HT cá biệt thì việc có tách thành từ ĐÂ hay không là tùy
vào cách xử lí của người biên soạn và việc ấy không có ảnh hưởng gì tới
toàn hệ thống”.
Nguyên tắc thứ hai, “khi xử lí một từ cần nêu được thuộc tính thường trực
tổ chức và chi phối các nghĩa khác nhau của từ đó”. Theo Đỗ Hữu Châu, “đối với
các từ một nghĩa thì việc so sánh nó với các từ khác cùng nhóm (trái nghĩa, đồng
nghĩa) là điều quan trọng. Còn đối với từ nhiều nghĩa thì ngoài việc cần so sánh
với các từ cùng nhóm còn cần so sánh các nghĩa khác nhau của nó với nhau”.
Về việc sắp xếp các nghĩa của từ theo thứ tự, ông cho rằng: “nên sắp xếp
làm sao cho quan hệ giữa các nghĩa được nổi bật, làm sao cho thuộc tính thường
trực được nổi bật và được hiện lên trong lời giải thích”.
Về việc tách các nghĩa, ông đề ra ba tiêu chuẩn sau: (1) “Nếu từ được giải
thích có bao nhiêu đặc điểm từ loại khác nhau thì có thể chia thành bấy nhiêu
nghĩa”, (2) “nếu trong cùng một đặc điểm từ loại, từ đó có bao nhiêu đặc điểm cú
pháp (đặc điểm kết hợp) thì có thể có bấy nhiêu nghĩa trong phạm vi đặc điểm từ
loại ấy”, (3) “sau khi đã chia thành những đặc điểm ngữ pháp khác nhau nếu
trong cùng một đặc điểm ngữ pháp, từ ấy có khả năng kết hợp với bao nhiêu từ
loại khác xét về ngữ nghĩa thì có thể chia thêm thành bấy nhiêu nghĩa”. Theo ông,
trong ba tiêu chuẩn trên thì các tiêu chuẩn 01 và 02 là tiêu chuẩn mạnh còn tiêu
chuẩn 03 là tiêu chuẩn thứ yếu hay được dùng trong các cuốn từ điển trước đây.
Xem xét quan điểm của Đỗ Hữu Châu, chúng tôi thấy rằng: tác giả nhấn
mạnh và chú ý nhiều tới tiêu chuẩn tính thường trực và quan điểm hệ thống trong
việc xử lí nghĩa của các ĐV từ vựng trong từ điển. Qua quan điểm này, chúng ta
thấy được những khó khăn và những giải pháp của các nhà từ điển học cũng như
của tác giả khi xử lí nghĩa của các ĐV từ vựng trong từ điển, nhất là việc thu thập,
sắp xếp, xử lí các từ ĐÂ và ĐN.
Năm 1971, Nguyễn Thiện Giáp [43, tr.21-27] trình bày quan điểm về
HTĐÂ trong TV. Theo ông, có 02 đặc điểm quan trọng chi phối HTĐÂ trong TV
là: (1) không biến hình và (2) hình vị trong TV thường trùng với âm tiết. Theo
Nguyễn Thiện Giáp, từ ĐÂ trong TV có 04 đặc điểm sau: từ đơn một âm tiết
nhiều, chỉ tìm được một SL rất nhỏ từ đa âm tiết và từ ghép ĐÂ với nhau nhờ HT
chuyển loại. HTĐÂ trong TV ít hơn so với THHĐ bởi SLÂT cơ bản trong tiếng
Hán ít hơn TV và bao giờ cũng có giá trị đối lập về ý nghĩa. Đặc điểm nổi bật của
HTĐÂ trong TV là ĐÂ bộ phận (ĐÂ xảy ra giữa một hình vị cấu tạo từ với một
từ một hình vị). Ông phân loại từ ĐÂ trong TV thành 02 loại là: từ ĐÂ hoàn toàn
và từ ĐÂ bộ phận.
Từ 1976 tới nay, HTĐÂ, ĐN của TV tiếp tục nhận được sự quan tâm của
các nhà Việt ngữ học. Đáng chú ý là các công trình và quan điểm sau:
Năm 1976, đáng chú ý là quan điểm của Hồ Lê [77, tr.111-254]. Tác giả,
khi trình bày về Các mẫu cấu tạo từ tiếng Việt (06 loại nguyên vị), thông qua
việc lập danh sách các loại nguyên vị trong TV đã phân biệt rất rõ ràng các
nguyên vị ĐÂ trong hệ thống nguyên vị của TV. Bên cạnh công trình này Hồ Lê
còn có một số công trình khác hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp bàn về HT từ ĐÂ,
ĐN trong TV như: [80, tr.59-152] (khi trình bày về đặc điểm ngữ nghĩa – cú
pháp của các từ loại dt, đg, tt, phụ từ; khi trình bày những tiểu loại chính trong
từng loại từ, đặc biệt là khi bàn về sự phân loại đg). Về HTĐN nói chung và về
từ ĐN nói riêng, ông cũng có những đóng góp và kiến giải sâu sắc về lí luận [82].
Năm 1978, Đinh Văn Đức [40, tr.31-39] đã gián tiếp bày tỏ quan điểm của
mình về từ ĐÂ (ĐÂ do chuyển loại) và việc phân loại từ ĐÂ. Theo ông, những
ĐVĐÂ do chuyển loại có SL không lớn, là những ĐV có chung biểu vật nhưng
thuộc về những từ loại khác nhau, không có sự phân biệt về hình thái học nhưng có
những đặc trưng cú pháp khác nhau, có những quan hệ mới trong những trường
hợp khác nhau (khi làm chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ), bởi vậy tác giả cho rằng nên
tách ra hai từ riêng biệt và nên xếp chúng vào hai từ ĐÂ ngữ pháp và chỉ có thể
phân biệt với nhau bởi các ý nghĩa ngữ pháp. Và như vậy, chúng trở thành một tiểu
loại ĐÂ (ĐÂ ngữ pháp) bên cạnh loại ĐÂ truyền thống là ĐÂ ngẫu nhiên.
Năm 1978, Nhữ Thành [124, tr.40-48] tìm hiểu từ ĐÂ dưới góc độ tu từ
học. Qua việc khảo sát bốn kiểu hoạt động của âm tiết TV (hoạt động độc lập
thành một từ, hoạt động hạn chế với tư cách là một yếu tố CTT, hoạt động láy
âm, hoạt động kết hợp đơn nhất), tác giả đưa ra 05 nhóm đối lập có thể tạo nên
ĐÂ trong cách chơi chữ cổ và 03 cách đối lập khác do vai trò của từ phiên âm
trong TV hiện đại có thể tạo nên HTĐÂ. Từ việc đưa ra những nhóm đối lập
trên, tác giả đã loại trừ hai HT: (1) Âm tiết phiên âm ĐÂ với âm tiết phiên âm
và (2) âm tiết láy âm ĐÂ với âm tiết láy âm. Tiếp đó, tác giả đi vào khảo sát
năm nhóm đối lập đầu tiên và kết luận “hình thức âm tiết tự do ĐÂ với âm tiết
tự do xuất hiện nhiều nhất”.
Năm 1978, còn có quan điểm của Nguyễn văn Tu [138]. Quan điểm của ông tập
chung chủ yếu ở chương VI (Nghĩa từ vựng và kết cấu nghĩa của từ, tr.93-179) và ở
chương XV (Từ điển Việt Nam, tr.321-337). Trong chương VI, ông bàn về: nguồn gốc,
cách phân loại, cách phân giới hạn từ ĐÂ. Ông chia từ ĐÂ thành hai kiểu: (1) Từ ĐÂ từ
vựng và (2) từ ĐÂ từ vựng – ngữ pháp. Theo tác giả, từ ĐÂ có ba nguồn gốc sau: (1) Từ
ĐÂ ngẫu nhiên, (2) từ ĐÂ tạo ra do sự diễn biến về ngữ âm, (3) những từ ĐÂ do sự
tách rời các ý nghĩa của một từ ĐN. Tác giả đề ra 03 cách phân biệt từ ĐÂ và từ nhiều
nghĩa: (1) tìm những dấu hiệu khách quan, (2) áp dụng “tiêu chuẩn nội dung”, (3) chú ý
cả đến mặt lôgích, mặt tâm lí của nghĩa và mặt ngôn ngữ mà trong đó nghĩa tồn tại.
Theo ông, trong ba cách trên, cách thứ ba là cách có hiệu năng hơn trong việc phân biệt
từ nhiều nghĩa và từ ĐÂ trong TV.
Năm 1981, đáng chú ý là quan điểm của Đỗ Hữu Châu [19]. Ông cho rằng:
“những ĐVĐÂ là những ĐV giống nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau
về ý nghĩa”. Và “chỉ nên xem là ĐÂ thực sự khi các ĐV trong cùng một cấp độ
ĐÂ.” (tr.228). Ông cũng không coi là ĐÂ những trường hợp do cách phát âm
lệch chuẩn gây ra. Lí giải nguyên nhân hình thành HTĐÂ, ông cho rằng: do sự
trùng hợp ngẫu nhiên về ngữ âm, do sự rút gọn gây ra.
Bàn về việc phân biệt từ ĐÂ và từ nhiều nghĩa, Đỗ Hữu Châu cho rằng:
“khó khăn nhất là phân biệt từ ĐÂ và từ nhiều nghĩa. Có những từ mà nghĩa
chuyển biến đến một mức độ nào đấy thì tách ra thành hai ba từ ĐÂ... tuy nhiên
rất nhiều trường hợp chuyển nghĩa làm chúng ta băn khoăn...” Những trường hợp
khó xác định theo ông là: (1) những trường hợp chuyển nghĩa kèm theo sự
chuyển từ loại lớn như: cuốc (cuốc đất) và cuốc (cái cuốc), thịt (miếng thịt)
và thịt (thịt một con lợn)..., (2) những trường hợp chuyển nghĩa kèm theo sự
chuyển tiểu loại như: chạy (chạy trên đường) và chạy (chạy gạo)..., (3)
những trường hợp nhiều nghĩa mà quan hệ giữa các nghĩa tuy đã khá mờ
nhạt nhưng vẫn chưa mất hoàn toàn như: lóng (lóng tre) và lóng (lóng tay),
lỏi (tốt lỏi) và lỏi (thằng lỏi)..., những khó khăn trên theo ông là vẫn chưa
thể giải quyết được (tr.231-233).
Năm 1989, đáng chú ý là quan điểm của Lê Quang Thiêm [130, tr.116-189].
Trong chương IV, tác giả khẳng định: “…TV, do những đặc điểm của hình vị,
thường đơn nghĩa hoặc có ĐN thì cũng có SL rất hạn chế […] hình vị TV có đặc
trưng nổi bật nhất là ở mặt ĐÂ. Do hình vị TV tuyệt đại bộ phận là có nghĩa,
ngoài từ, phạm vi hoạt động rộng, hoàn thành nhiều chức năng nên thường có
nhiều cặp ĐÂ: về (đgt), về (từ liên hệ)” (tr.117). Trong chương VII, khi bàn về
Biểu hiện ĐÂ giữa các ngôn ngữ, Lê Quang Thiêm đã chia HTĐÂ thành: (1)
HTĐÂ ngẫu nhiên giữa các ngôn ngữ, (2) ĐÂ do kết quả tiếp xúc, vay mượn, (3)
HTĐÂ do sự giống nhau hoặc gần gũi về ngữ hệ và cấu trúc ngôn ngữ.
Khi bàn về Các bình diện ĐÂ, tác giả cho rằng “ĐÂ là những ĐV khác
nhau, có hình thức ngữ âm giống nhau. Như vậy, sự khác nhau chủ yếu là về mặt
nội dung. Và cần được xác định trên ba cơ sở là: (1) dựa vào sự phân biệt cấp độ
(cùng hoặc khác cấp độ), (2) các loại ĐV xác định (từ, hình vị, từ tổ), (3) các
mức độ khác nhau của sự Đ” (tr. 139). Theo tác giả, những ĐV giống nhau về
âm thanh mà khác cấp độ thì chắc chắn là ĐÂ. Đó là những ĐVĐÂ khác bậc.
Còn những ĐV giống nhau về âm thanh, ở cùng một cấp độ, khác nhau về nội
dung thì là những ĐVĐÂ cùng bậc (ĐÂ giữa từ với từ, hình vị với hình vị, từ tố
với từ tố). Trong hai loại trên, Lê Quang Thiêm xếp loại 01vào ĐÂ hình vị. Theo
ông, khi phân biệt các hình vị ĐÂ cũng nhất thiết phải dựa vào tiêu chuẩn ý
nghĩa (ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa ngữ pháp, ý nghĩa tạo từ, ý nghĩa cấu trúc). Theo
ông, “Trong TV, các hình vị ĐÂ là các âm tiết, chúng có SL lớn…, TV có nhiều
ĐÂ khác bậc (từ - hình vị; từ thuần – hình vị Hán Việt)” (tr.140).
Bàn về các dạng thể hiện ĐÂ từ, ông cho rằng “loại ĐV thể hiện ĐÂ điển
hình hơn cả là từ, vì rằng từ là ĐV phức tạp về cấu trúc và ý nghĩa. Từ cũng là
ĐV đảm nhiệm nhiều chức năng khác nhau và có nhiều hình thức thể hiện trong
ngôn ngữ và trong lời nói. Xét về mặt ý nghĩa, từ cũng là ĐV phức tạp, điển hình
về nghĩa”. Theo Lê Quang Thiêm “đối với ĐÂ từ vựng, cần phải xem xét: các
dạng biểu hiện ĐÂ của từ (có ý nghĩa từ vựng khác nhau) và ĐÂ hình thái của từ
(có ý nghĩa ngữ pháp khác nhau)”. Đáng chú ý là những nhận xét của tác giả về
02 khái niệm “hình thức từ” và “âm thanh từ”. Theo ông, “hình thức từ đối với
nhiều ngôn ngữ hiện đại biểu hiện ở mặt âm thanh và cả chữ viết. Khi nói về sự
giống nhau hay đồng nhất về hình thức thì trước hết và quan trọng nhất là âm
thanh. Song mặt khác không kém phần quan trọng, mặc dầu không hoàn toàn
chính xác là giống nhau về chữ viết. Chữ viết là biểu hiện kèm theo, vì hệ thống
chữ viết dù là “ghi âm vị” như TV cũng còn nhiều bất hợp lí cho nên không thể
dựa vào chữ viết làm chính mà chỉ xem là biểu hiện kèm theo. ĐÂ là giống nhau
về âm thanh. Đó là điều kiện tiên quyết, bắt buộc…” (tr.142). Theo tác giả, ĐÂ
hình thái là: “khi 02 hình thái từ (nói và viết) như nhau, có ý nghĩa ngữ pháp
khác nhau thì đó là ĐÂ hình thái”. Theo ông, TV và các ngôn ngữ đơn lập không
có ĐÂ hình thái.
Theo Lê Quang Thiêm, khi nói về ĐÂ cần chú ý tới các dạng ĐÂ và các
thuật ngữ sau: (1) ĐT dạng: là dạng viết giống nhau của các từ khác nhau (xét về
ý nghĩa từ vựng), (2) ĐÂ dạng: là dạng nói giống nhau của những từ khác nhau
(xét về ý nghĩa từ vựng), là ĐÂ theo nghĩa rộng, (3) từ ĐÂ: là những từ khác
nhau mà viết và nói như nhau, hay là từ ĐÂ hoàn toàn, ĐÂ theo nghĩa hẹp, (4)
ĐÂ hình thái: là ĐÂ ngữ pháp, đó là những hình thái của cùng một từ, giống
nhau về mặt âm thanh và chữ viết, có ý nghĩa ngữ pháp khác nhau.
Khi bàn về đặc điểm của sự thể hiện ĐÂ ở các ngôn ngữ (tr 144) Lê Quang
Thiêm cho rằng: “ (1) TV là ngôn ngữ không biến đổi hình thái từ để biểu hiện ý
nghĩa ngữ pháp nên tiêu chuẩn quan trọng để xác định từ ĐÂ hoàn toàn là khả
năng kết hợp của từ, (2) ĐÂ bộ phận (thường là các từ ĐÂ khác từ loại, khả năng
kết hợp ngữ pháp khác nhau) như: về 1 (về nhà) về 2 (bàn về)…, (3) ĐÂ dạng, có
khi không được thể hiện ra bằng chữ viết cho nên không thể căn cứ vào chữ viết
để xác định: ty 1 (ty; sở); ti 2 (cái ti). Trong TV, HTĐÂ dạng xảy ra với từ có cách
viết với các âm vị: k – k, c; i – y; z – d, gi… như: cuốc 1 (cái cuốc) và quốc 2 (tổ
quốc); dây 1 (sợi dây) và giây 2 ( giây phút), (4) khi bàn về Đồng tự dạng trong
TV phải chú ý tới khả năng khu biệt nghĩa của thanh không dấu, (5) TV không
biến đổi hình thái nên không có vấn đề đồng hình thái”.
Theo Lê Quang Thiêm, “HTĐN là HT một ĐV ngôn ngữ mà cấu tạo nội
dung của nó có nhiều nghĩa khác nhau… là HT phổ biến trong mọi ngôn ngữ”.
(tr.174). Chọn cách hiểu “từ ĐN là từ mà nội dung bao gồm một số nghĩa khác
nhau, các nghĩa này lập thành một hệ thống nằm trong các mối quan hệ liên kết
với nhau, gồm một vài nét nghĩa chung và nhiều nét nghĩa loại biệt. Các nét
nghĩa loại biệt thường biểu thị các đối tượng khác nhau nhưng lại được đặt cơ sở
trên một số giống nhau về chức năng, hình thức hoặc thuộc tính nào đó của đối
tượng”. Ông nhấn mạnh: “ĐN từ vựng trước hết là ĐNBN vì đó là dạng nghĩa
khái quát, ổn định, mang tính hệ thống cao […]. Nhờ có tính hệ thống ổn định
này mà ta mới có thể phân lập, tổng hợp, mô tả theo đặc điểm và tôn ty nhất định
trong TĐ […]. Dựa trên cấu trúc biểu niệm thì mới có cơ sở để đối chiếu đặc
điểm ĐN của mỗi ngôn ngữ như là sản phẩm sáng tạo, như là thành tựu được tập
thể ngôn ngữ ấy xây dựng nên. Nó cũng cho phép thấy rõ cái chung và cái riêng
của từ ĐN trong tất cả các lớp từ, các từ loại cơ bản của ngôn ngữ.” (tr.178).
Trong công trình này, Lê Quang Thiêm sau khi phân tích các dt, đg, tt trong
37.088 từ TV đã đưa ra số liệu: trong TV, từ đơn nghĩa chiếm 61,48 %; từ ĐN chiếm
38,52 %. Và chỉ ra sự phân bố về tỷ lệ ĐN qua các từ loại chính như sau:
DANH TỪ ĐỘNG TỪ TÍNH TỪ
ĐN Đơn nghĩa ĐN Đơn nghĩa ĐN Đơn nghĩa
30,16 % 69,84 % 31,48 % 69,52 % 27,70 % 72,30 %
Nguồn: Lê Quang Thiêm, Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ; tr.178, 179.
Bàn về đặc điểm tổ chức nội dung của từ ĐN, ông chỉ ra tình hình phân bố DLN
của các ĐVĐN trong TV (tính theo tỷ lệ %) như sau:
02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 13
79,30 % 12,60 6,38 1,82 0,82 0,53 0,54 0,17 0,12 0,9 0,08 ….
% % % % % % % % % %
Nguồn: Lê Quang Thiêm, Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, tr.184.
Với quan điểm đồng đại, Lê Quang Thiêm cho rằng: nghĩa cơ bản là nghĩa
có chứa các nét nghĩa được đặt điều kiện chủ yếu bằng các quan hệ hệ hình.
Nghĩa không cơ bản là nghĩa mà các nét nghĩa tạo nên chúng phụ thuộc nhiều
vào các quan hệ cú đoạn. Trong một từ ĐN, có một nghĩa cơ bản và một số nghĩa
không cơ bản. Sự phân biệt nghĩa cơ bản, không cơ bản của một từ có thể dựa
vào các mức độ khác nhau của sự phụ thuộc nhiều hơn vào các quan hệ hệ hình
và ít hơn vào các quan hệ cú đoạn. Theo Lê Quang Thiêm, mối quan hệ về nghĩa
về mặt đồng đại được tổ chức theo 03 loại hình là: loại kế tiếp, loại song song,
xen kẽ kế tiếp với song song. Trong đó: (1) mối quan hệ kế tiếp là quan hệ đặc
trưng cho từ chỉ có 02 nghĩa và những từ nhiều hơn hai nghĩa mà các nghĩa liên
kết nhau theo tổ chức đơn tuyến, (2) mối quan hệ song song chỉ xuất hiện ở
những từ trên hai nghĩa mà các nét nghĩa liên kết theo tổ chức đa tuyến (tổ chức
hình cây, tẽ nhánh), (3) mối quan hệ xen kẽ giữa kế tiếp và song song xẩy ra với
những từ trên 03 nghĩa và theo một tổ chức phức hợp.
Bàn về giới hạn của việc phân li ĐN thành ĐÂ và tiêu chuẩn xác định
những ĐVĐÂ ngữ nghĩa ông cho rằng: “sự tồn tại hay vắng mặt nét nghĩa chung
trong các nghĩa của từ ĐN là tiêu chuẩn xác định ĐN và ĐÂ ngữ nghĩa”.
Trong công trình này, tác giả còn nhấn mạnh đến việc cần thiết phải phân
biệt các loại quan hệ tôn ty giữa các loại nghĩa trong từ ĐN khi biên soạn TĐ
đồng đại và TĐ lịch đại. Theo ông, cần phân biệt hai loại quan hệ tôn ty sau: (1)
tôn ty theo tuần tự phái sinh, phát triển (tôn ty lịch đại) để phân biệt nghĩa gốc,
nghĩa phái sinh và các nghĩa phái sinh thứ cấp, (2) tôn ty hiện hành (tôn ty đồng
đại) để phân biệt nghĩa cơ bản, nghĩa không cơ bản định danh, nghĩa không cơ
bản hình tượng (nghĩa bóng). Theo ông thì: “đối với những từ có từ 2 nghĩa trở
lên thì việc phân biệt theo tôn ty nhiều khi không thực hiện được vì rất khó xác
định niên đại và mô tả 2 ý nghĩa cùng loại. Đặc biệt là đối với kiểu sơ đồ cấu trúc
nghĩa có quan hệ hình nhánh”. Đây là một nhận xét rất chính xác.
Năm 1992, đáng chú ý là quan điểm của Nguyễn Đức Dân, Trần Thị Ngọc
Lang [31]. Hai tác giả này khi phân tích các câu mơ hồ trên chữ viết, các kiểu
câu mơ hồ về từ vựng đã gián tiếp bình luận tới nguyên nhân và tác dụng của từ
ĐÂ và từ ĐN (tr. 88, 91- 93) đồng thời chỉ ra các kiểu ĐÂ trong các từ loại, nhất
là trong các từ loại có SL lớn như dt, đg, tt (tr.113-116). Họ không những khảo
sát và chỉ ra HT mơ hồ do việc sử dụng những từ đơn tiết ĐÂ mà còn khảo sát sự
mơ hồ do sử dụng những ngữ ĐÂ, chuỗi ĐÂ (tr.113-120) và từ ĐÂ Hán Việt gây
ra như: đồng tử 1 và đồng tử 2 (tr.120).
Năm 1995, đáng chú ý là quan điểm của Phan Ngọc [100, tr.51-74]. Tuy
mục đích là bàn về phong cách, song qua những lập luận của tác giả, ta có thể
thấy được quan điểm của ông về HTĐÂ trong TV.
Phan Ngọc khẳng định “Mọi ngôn ngữ đều có HTĐÂ vì vỏ ngữ âm của từ
là võ đoán, không liên can gì đến nội dung của nó […] kết quả là một hình thức
ngữ âm có thể hiểu hai ba cách”. Theo tác giả, “HTĐÂ chỉ phổ biến ở những từ
chỉ có một hay hai âm tiết mà thôi, trái lại, rất hiếm ở những từ ba âm tiết trở lên
[…]. Mặt khác, ở các ngôn ngữ đơn tiết như tiếng Hán, TV, tiếng Thái…số từ
ĐÂ phải lớn hơn ở các ngôn ngữ đa tiết.” (tr. 66). Theo Phan Ngọc, nếu đã thừa
nhận trong TV có 3 lớp từ là thuần Việt, Hán Việt, láy âm thì về mặt lí thuyết, tối
đa chỉ có 6 kiểu từ ĐÂ sau: (1) thuần Việt - thuần Việt, (2) láy âm - láy âm, (3)
thuần Việt - láy âm, (4) Hán Việt - thuần Việt, (5) Hán Việt - láy âm, (6) Hán
Việt - Hán Việt.
Từ việc xác lập 6 kiểu từ ĐÂ, ông lần lượt đi vào khảo sát từng kiểu một và
khẳng định: “tuy về mặt cấu trúc có thể có sáu kiểu từ ĐÂ, nhưng một khi TV đã
là đơn tiết, thì chắc chắn HTĐÂ giữa từ thuần Việt với từ thuần Việt phải là cơ
bản nhất, tức là quen thuộc nhất… tần số xuất hiện nhiều nhất, làm cơ sở cho mọi
HTĐÂ khác” (tr. 67). Theo kết quả khảo sát, phân tích của Phan Ngọc thì đứng ở
vị trí thứ hai trong sáu kiểu ĐÂ là kiểu Hán Việt - Hán Việt. Trong bài viết, Phan
Ngọc còn lí giải một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới HTĐÂ trong
TV khác với HTĐÂ trong THHĐ là do SL âm tiết thực sử dụng của tiếng Hán ít
hơn so với TV.
Năm 1998, đáng chú ý là quan điểm của của Nguyễn Thiện Giáp [47,
tr.147-189]. Tác giả phân chia từ vựng TV thành hai loại là từ, ngữ (ngữ định
danh, thành ngữ, ngữ láy âm, quán ngữ). Ông cho rằng “từ của TV là một chỉnh
thể nhỏ nhất có ý nghĩa dùng để tạo câu nói, nó có hình thức của một âm tiết,
một khối viết liền” (tr 69). Ông quan niệm “nghĩa của từ là quan hệ” (tr. 125),
bao gồm 04 thành tố sau: (1) nghĩa sở chỉ, (2) nghĩa sở biểu, (3) nghĩa sở dụng,
(4) nghĩa kết cấu. Tác giả chia các từ của TV thành năm loại: (1) các từ kiểu một
như: nhà, đẹp, đi…, (2) các từ kiểu hai như: sẽ, tuy, với…, (3) các từ kiểu ba như:
quốc, thủy, hỏa…, (4) các từ kiểu bốn như: búa (chợ búa), lạnh (lạnh lẽo)…, (5)
các từ kiểu năm như: bù, nhìn, bồ, hóng….
Theo ông, HTĐN trong TV có những đặc điểm riêng sau đây: (1) để biểu thị
những SV, HT hoặc khái niệm mới, TV có thiên hướng cấu tạo các ĐV từ vựng mới
hơn là phát triển nghĩa của các ĐV từ vựng đã có từ trước, (2) số ĐV có nhiều nghĩa
cũng như số nghĩa trong những từ ĐN của TV đều thấp hơn so với nhiều ngôn ngữ
khác, trong khi đó, SL các ĐV từ vựng mới tăng lên rất nhanh, đặc biệt là những ĐV
hai âm tiết, (3) HTĐN của TV chủ yếu xảy ra ở các từ, ở các ngữ thì tỷ lệ ĐN chỉ
khoảng 1/10 và cũng chỉ có hai hoặc ba nghĩa mà thôi. Các ngữ ĐN phần lớn là có
nguồn gốc Hán.
Theo Nguyễn Thiện Giáp, HT từ ĐN của TV chỉ bao gồm 2 kiểu sau đây:
(1) HTĐN của các từ kiểu một (nhà, đẹp, đi) và (2) HTĐN của các từ kiểu ba
(quốc, thủy, hỏa). Tiến hành thống kê, phân tích những từ ĐN kiểu một trong
TĐTV do Văn Tân chủ biên, ông nhận xét: (1) số từ ĐN chiếm khoảng 33% tổng
số (33% tổng số từ kiểu một, là những từ thuần Việt và đều là đơn tiết), trong
đó những từ có 2 và 3 nghĩa chiếm khoảng 86% tổng số từ ĐN, từ nhiều
nghĩa nhất là 19 nghĩa, (2) về tỉ lệ ĐN ở các từ loại, đg có tỉ lệ cao nhất
(32%), kế đó là dt (23%), cuối cùng là tt (20%).
Phân tích các nghĩa của mỗi từ ĐN, tác giả đi đến 2 nhận xét sau: (1) Các
nghĩa của mỗi từ ĐN có thể thuộc hai loại là: nghĩa tự do (là nghĩa liên hệ trực
tiếp với sự phản ánh các HT của TTKQ), sự hoạt động của các nghĩa này không
bị hạn chế vào các ngữ cố định, có mối quan hệ đa dạng. Nghĩa hạn chế (là nghĩa
chỉ được thể hiện trong những kết hợp hạn chế, do quy luật nội tại của hệ thống
từ vựng quy định, không do nội dung lô gích của các từ quy định). Theo tác giả,
đối với TV thì nghĩa hạn chế là HT phổ biến hơn trong các ngôn ngữ khác vì TV
đã và đang phát triển mạnh khả năng cấu tạo các ngữ bởi chính các nghĩa hạn chế
góp phần tạo ra tính cố định của các cụm từ. (2) Trong các nghĩa của một từ ĐN,
có một nghĩa là cơ bản còn các nghĩa khác là phái sinh. Theo ông, nghĩa cơ bản
thường phải là nghĩa tự do. Trong trường hợp từ có một vài nghĩa tự do thì sẽ có
một nghĩa tự do là cơ bản, các nghĩa khác là nghĩa tự do phái sinh.
Trong phần III của Từ vựng học TV (tr.147-189), HTĐÂ cũng là một trong
sáu trọng tâm được Nguyễn Thiện Giáp đề cập tới. Trong phần Nhận xét chung,
trước tiên, ông coi HTĐÂ là một phổ niệm trong ngôn ngữ. Kế đó, tác giả đi vào
phân tích, so sánh HTĐÂ trong các loại hình ngôn ngữ đơn lập và biến hình với
ngữ liệu từ tiếng Anh, tiếng Nga, TV, tiếng Hán. Đáng chú ý là 5 nhận xét sau:
(1) HTĐÂ thường xảy ra trong phạm vi những từ ngắn, có cấu trúc đơn giản
do có tính võ đoán cao.
(2) Trong các ngôn ngữ Ấn Âu, từ ĐÂ thường là các từ đơn. Trong TV, do mỗi
âm tiết đồng thời là một từ, cấu trúc âm tiết TV lại gồm các thành phần (âm đầu, vần,
thanh điệu. Vần lại chia ra thành âm chính, âm cuối, âm đệm), mỗi thành phần của
âm tiết làm thành một đối hệ do đó các thành phần cấu tạo âm tiết luôn có mặt. Vì
vậy, HTĐÂ trong TV chắc chắn phổ biến hơn các ngôn ngữ Ấn Âu.
(3) HTĐÂ phụ thuộc rất nhiều vào SLÂT được ngôn ngữ sử dụng là nhiều hay
ít. TV sử dụng khoảng 6000 âm tiết, còn tiếng Hán chỉ sử dụng một SL ít (khoảng
1/10 TV) cho nên HTĐÂ trong tiếng Hán phổ biến hơn, nhiều hơn trong TV.
(4) So với các tiếng Ấn Âu, từ ĐÂ trong TV có những phẩm chất khác như
sau: (a) Vì TV không biến hình cho nên các từ đã có quan hệ ĐÂ sẽ giữ mãi
quan hệ đó trong tất cả hoàn cảnh sử dụng của mình, không có HTĐÂ ở một
dạng thức biến đổi nào đó của từ, TV chỉ có một dạng ĐÂ hoàn toàn mà thôi. (b)
Vì trong TV, mỗi hình vị là một từ cho nên cũng không có sự đối lập giữa HTĐÂ
gốc từ và HTĐÂ phái sinh, chỉ có một loại ĐÂ gốc từ mà thôi.
(5) Trong TV, tuy có HTĐÂ giữa các ngữ và các cụm từ như: băng hà 1 và
băng hà 2 … nhưng HTĐÂ của từ vẫn là cơ bản và quan trọng nhất bởi: (a)
HTĐÂ hoàn toàn của ngữ hoặc cụm từ tự do ít hơn rất nhiều so với HTĐÂ của từ.
(b) HTĐÂ của ngữ và cụm từ thường chỉ tạo nên từng cặp một, trong khi ấy, loạt
ĐÂ của từ khá phong phú, có khi lên tới 8 hay 9 thành viên. (c) Sự ĐÂ của từ
quyết định toàn bộ sự ĐÂ của những ĐV khác vì các ngữ, các cụm từ tự do ĐÂ
với nhau là do từng từ một tạo nên, chúng có quan hệ ĐÂ với nhau. HTĐÂ của
ngữ và cụm từ chỉ là sản phẩm hậu kỳ do kết quả của quá trình sử dụng có dụng
ý của con người. (d) Các HTĐÂ trong TV đều bắt nguồn từ sự ĐÂ của các từ và
cần phải xuất phát từ sự ĐÂ của các từ để soi sáng các HTĐÂ khác là phù hợp
với thực tế TV. Tuy kết luận như vậy, nhưng tác giả cũng nêu lên những ngoại lệ
sau: anh nuôi 1 và anh nuôi 2 (theo tác giả là hai từ ghép); ý thức 1 và ý thức 2; hy
vọng 1 và hy vọng 2… cũng không phải là do ĐÂ của những từ đơn tiết tạo ra mà
được hình thành từ HTCL.
Căn cứ vào năm kiểu từ khác nhau về nghĩa đã được phân chia, tác giả chia
từ ĐÂ thành 14 kiểu quan hệ. Theo Nguyễn Thiện Giáp, bức tranh về HTĐÂ của
TV rất đa dạng, trong một loạt ĐÂ của TV có thể có trên dưới 10 từ thuộc các
kiểu khác nhau (tr.173). Nguyễn Thiện Giáp còn bình luận về tác dụng của từ
ĐÂ. Theo ông, trong 14 kiểu quan hệ trên, chỉ có hai kiểu quan hệ có thể gây ra
sự hiểu lầm đó là: kiểu từ thuần việt - từ Hán Việt (kiểu 1.3) và kiểu từ Hán Việt
- từ Hán Việt (kiểu 3.3). Theo ông, sở dĩ các từ kiểu 1.3 và 3.3 dễ gây hiểu lầm
bởi chúng không hoạt động tự do nhưng cũng không chỉ nằm trong những kết
hợp đơn nhất, nghĩa của chúng ít nhiều có sự cộng hưởng với nghĩa của các từ
cùng kết hợp với chúng, vì vậy người ta khó nhận ra nghĩa riêng của từng từ. Ví
dụ: nghĩa của các từ đại trong các kết hợp đại ác; đại biểu, thời đại…
Theo Nguyễn Thiện Giáp, có bốn con đường hình thành nên các ĐVĐÂ của
TV, đó là: (1) do sự tiếp nhận các từ nước ngoài, trong đó, các từ gốc Hán tạo
nên SL lớn các loạt ĐÂ trong TV, (2) do sự biến đổi ngữ âm, (3) do sự phân hóa
ý nghĩa của từ ĐN, (4) do sự hình thành các ĐV từ vựng mới trên chất liệu cũ.
Bàn về vấn đề phân biệt ĐVĐN và ĐVĐÂ trong TV, tác giả cho rằng: “TV
là ngôn ngữ không biến hình cho nên không thể áp dụng tiêu chuẩn hình thái của
từ vì hoàn toàn không có tác dụng”. Ông chủ trương vận dụng tiêu chuẩn ngữ
nghĩa, theo ông “khi một ý nghĩa của một ĐV nhiều nghĩa bị phân hóa xa đến
mức cái nghĩa tố chung vốn có của ý nghĩa này với các ý nghĩa khác của từ trở
nên không quan yếu đối với nó nữa, đặc trưng cho ý nghĩa này là một nghĩa tố
khác, chính nghĩa tố đó đưa từ nhập vào một trường HT mới, khi đó có thể coi
như đã xuất hiện một từ mới”.
Năm 1998, có quan điểm của tập thể tác giả Hoàng Văn Hành, Hà Quang
Năng, Nguyễn Văn Khang [57, tr.143-184]. Xuất phát từ quan điểm của
Bloomfield, họ cho rằng: “hình vị là ĐV ngôn ngữ nhỏ nhất, có nghĩa”. Các tác
giả này tuy không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về từ song họ thừa nhận “từ
là ĐV cơ bản của TV”.
Theo họ, ĐÂ và nhiều nghĩa là những khái niệm khác nhau trong ngôn ngữ
học. Song có một điểm chung là: “sự khác nhau về ý nghĩa trong khi đồng nhất
về hình thức”, điểm khác biệt giữa hai HT này là ở chỗ: “trong trường hợp ĐÂ
thì những cái được biểu hiện là khác nhau, còn trong trường hợp nhiều nghĩa thì
cái biểu hiện chỉ là một” (tr.159). Theo họ, “Hệ thống các nghĩa của từ ĐN chính
là toàn bộ các mối liên hệ [...] bị chế định theo một kiểu nhất định [...] và được
bảo đảm bằng tính liên tục của các quan hệ phái sinh giữa các nghĩa riêng rẽ của
hệ thống... chỉ cần tính liên tục này bị phá hủy, bị đứt đoạn dù chỉ ở một chỗ, chỉ
cần một mắt xích bảo đảm cho tính liên tục này bị mất đi thì sự thống nhất về
ngữ nghĩa của từ sẽ bị phá vỡ và khi đó xảy ra sự phân rã HT nhiều nghĩa, tức là
biến một từ nhiều nghĩa thành hai từ ĐÂ không có liên hệ gì với nhau
nữa”(tr.161). Theo họ, “để nhận biết sự tồn tại hay vắng mặt các quan hệ phái
sinh giữa các nghĩa có thể dùng: phương pháp phân tích thành tố, phương pháp
so sánh cách giải thích của từ điển, phương pháp cải biến cách giải
thích”(tr.162)... Họ đưa ra 02 tiêu chí sau để xác định HTĐÂ trong TV: (1) đồng
nhất về mặt biểu hiện (trùng về âm thanh), (2) khác nhau về bình diện được biểu
hiện (ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa ngữ pháp).
Năm 1999, có quan điểm của Diệp Quang Ban [03, tr.69-70]. Ông quan
niệm: “từ là ĐV nhỏ nhất mà có nghĩa và có thể hoạt động tự do trong câu”. Khi
bàn về yếu tố ngoại lai trong CTT TV, tác giả có đề cập tới HTĐÂ trong TV.
Ông khẳng định: “các yếu tố Hán vừa chiếm đa số vừa giữ vai trò khá quan trọng
trong vốn từ và trong CTT TV”. Theo ông, “các yếu tố gốc Hán du nhập vào TV
vốn tự chúng đã chứa nhiều trường hợp ĐÂ như: thủy 1 (nước), thủy 2 (bắt đầu,
trước...). Thêm vào đó là những trường hợp ĐÂ giữa các yếu tố gốc Hán với các
yếu tố thuần Việt như: công 1 (thuần Việt) có nghĩa là “tha đi” như trong chim
công mồi...và công 2 (Hán Việt) có ý nghĩa là “chung cho mọi người” như trong
của công, ruộng công...
Năm 1999, Lê Biên [05, tr.177-183] dưới góc độ cú pháp học, gián tiếp
trình bày quan điểm của mình về từ ĐÂ và ĐN khi trình bày HTCL trong TV.
Theo tác giả, HTCL có liên quan đến HTĐÂ, ĐN của từ: chuyển loại không phải
là HTĐÂ từ vựng mà là ĐÂ – ngữ pháp (ĐÂCG). Theo tác giả, “đây là những từ
giống nhau về hình thức ngữ âm (ĐÂ), cùng gốc (xét về nghĩa) mà hiện nay được
sử dụng thành hai từ khác nhau về bản chất từ loại” (tr.179).
Năm 1999, Bùi Minh Toán [133, tr.61-68; tr.79,101] trình bày quan điểm của
mình về từ ĐÂ và ĐN trong TV. Tác giả cho rằng: “từ là ĐV nhỏ nhất mà có nghĩa
và có thể dùng độc lập để tạo câu, đồng thời là ĐV nhỏ nhất mà thực hiện được một
số chức năng đối với tư duy và giao tiếp” (tr 39). Theo ông, nghĩa của từ bao gồm:
(1) thành phần NBV, (2) thành phần NBN, (3) thành phần nghĩa tình thái.
Ông cho rằng: “Từ ĐÂ là những từ có hình thức âm thanh hoàn toàn giống
nhau nhưng lại khác hẳn nhau về ý nghĩa và có thể khác nhau cả về các phương
diện khác như bản chất ngữ pháp, chức năng trong giao tiếp, sắc thái phong
cách...” (tr. 61). Theo ông, từ ĐÂ là HT có trong nhiều ngôn ngữ. Nhưng có
những ngôn ngữ, từ ĐÂ chỉ tồn tại trong dạng ngôn ngữ nói, còn khi hoạt động
giao tiếp tiến hành bằng ngôn ngữ viết thì chữ viết hiện thực hóa sự khác nhau
giữa những từ ĐÂ khác nghĩa. Lúc đó, các từ ĐÂ chỉ giống nhau khi nói hoặc
khi đọc, còn khi viết, chúng được hiện thực hóa theo các dạng chữ viết khác nhau.
Điều này thể hiện rõ trong các loại chữ viết như chữ Hán. Ông nêu ví dụ : trung 1
中 có nghĩa là: ở giữa và: trung 2 忠có nghĩa là: sự trung thành, một lòng một dạ.
Theo Bùi Minh Toán, trong TV “các từ ĐÂ có sự giống nhau cả ở hình thức
âm thanh khi nói, cả ở hình thức văn tự khi viết. Nếu viết các từ ĐÂ bằng chữ quốc
ngữ và viết rời từng từ thì ta không thể phân biệt được chúng với nhau”. Theo ông,
trong TV, đại đa số các từ ĐÂ là từ đơn tiết. Tuy vậy vẫn có từ ĐÂ đa tiết. Cũng
theo tác giả, “không chỉ ở bình diện nghĩa mà ở bình diện ngữ pháp cũng có từ ĐÂ.
Nhưng chúng mang những thuộc tính và bản chất ngữ pháp hoàn toàn khác nhau.
Chúng thuộc các hệ thống từ loại khác nhau, do đó chúng hiện thực hóa các thuộc
tính ngữ pháp khác nhau khi tham gia hoạt động giao tiếp”, (tr.79). Ông nêu ví dụ :
là1 (là dt, chỉ hàng tơ, thưa, mỏng), là2 (là đg, chỉ hành động làm phẳng quần áo),
là3 (chỉ hành động sà xuống gần sát mặt phẳng nằm ngang nào đó), là 4 (là hệ từ) Nó
là sinh viên, là5 (là tình thái từ) trông nó hiền hiền là.
Theo chúng tôi, mặc dù tác giả đã nêu lên được một số đặc điểm cơ bản của
HT từ ĐÂ, ĐN trong một số ngôn ngữ và trong TV, song khái quát chưa đủ,
chưa toàn diện. Chẳng hạn, khi bàn về HTĐÂ trong THHĐ ông đã bỏ sót HT
ĐÂĐT và những HTĐÂ trong khi nói nhưng trên chữ viết lại phân biệt trong TV.
Năm 2001, đáng lưu ý là công trình Từ điển đồng âm tiếng Việt của tập thể
tác giả Hoàng Văn Hành, Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Thị Trung Thành, [58].
Công trình thu thập và giải thích khoảng 7000 ĐVĐÂ (bao gồm từ, ngữ và các
yếu tố CTT), đây là một trong số rất ít những công trình thực hiện nhiệm vụ thu thập,
xử lí những ĐVĐÂ trong TV. Mặc dù kết quả thống kê, phân loại và xử lí của họ vẫn
còn tồn tại những nhược điểm như: bỏ sót khá nhiều ĐV ĐÂST của TV… song đóng
góp của họ là quan trọng và rất đáng ghi nhận.
Năm 2007, đáng chú ý là quan điểm của Nguyễn Văn Khang [69, tr.144-
198]. Những nội dung liên quan tới HT từ ĐÂ, ĐN trong TV chủ yếu được tác
giả khai thác từ góc độ từ ngoại lai.
Theo tác giả, khi các từ Hán Việt hoạt động trong TV đã tạo ra xung đột ĐÂ: Thứ
nhất là HTĐÂ xảy ra giữa các từ Hán Việt với từ Việt như: 埃 (ai) bụi ĐÂ với ai (đại
từ);布(bố) vải ĐÂ với bố (cha);车(xa) xe ĐÂ với xa (nói về khoảng cách). Thứ hai, là
HTĐÂ xảy ra giữa các từ Hán Việt với nhau như:平 (bình) bằng ĐÂ với 评 (bình)
bình luận;人(nhân) người ĐÂ với 仁 (nhân) nhân đức (tr.144).
Theo tác giả, HTĐÂ có thể xảy ra giữa từ với từ, giữa hình vị với hình vị,
giữa hình vị với từ như: yếu要(quan trọng, là hình vị) ĐÂ với yếu (không khỏe, là
từ) lưu留(giữ, ở lại; là từ) ĐÂ với lưu流 (chảy, là hình vị). Mặt khác, ĐÂ không
chỉ liên quan tới các từ đơn tiết mà còn liên quan tới cả những từ Hán Việt đa tiết
như: yếu điểm1 (điểm quan trọng) và yếu điểm 2 (điểm chưa đạt, chưa tốt). Ông còn
thảo luận về HT: người Việt khi sử dụng từ Hán Việt đã đem những từ Hán Việt
có âm đọc giống nhau, có nghĩa gần nhau, chữ viết gần giống nhau nhập lại thành
một từ ĐN do phiên chuyển những ĐV này sang hệ chữ la tinh như những trường
hợp có âm đọc là chi, luyện, bản, dục, man, phản... trong một số cuốn từ điển của
người Việt.
Về những từ ngoại lai gốc Pháp (tr.257-320), theo tác giả, cũng như những
từ Hán Việt, từ mượn Pháp khi nhập vào TV, do quá trình Việt hóa về mặt ngữ
âm đã làm cho các từ mượn Pháp một mặt ĐÂ với các từ Việt vốn có, mặt khác
ĐÂ với các từ mượn Pháp khác (vốn trong tiếng Pháp chúng không ĐÂ), thậm
chí là ĐÂ với những từ mượn trong các ngôn ngữ khác như: can (canne và
calque) với can (can ngăn) và can (can đảm); băng (đạn) và băng (tuyết), băng
(qua cánh đồng)...
Theo tác giả, “cũng giống như HT du nhập của các từ mượn Hán, do sự gần
nhau về nghĩa và ĐÂ nhờ Việt hóa mà có HT nghĩa của các từ Pháp khác nhau
được xếp thành một từ ĐN như cách xử lí từ băng thành một từ ĐN trong các từ
điển TV là kết quả của việc đồng hóa và đập nhập ngữ nghĩa của các từ ĐÂ -
gần nghĩa trong tiếng Pháp như: bande, bandeau, bande role, ruban, panser...
thông qua nét nghĩa chung dải dài và hẹp để dùng vào việc gì đó”.
2.2. Ở Trung Quốc, ngay từ giai đoạn 1950 – 1976, HTĐÂ, ĐN đã nhận
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu như: Cao Danh Khải, Tôn
Thường Tự, Chu Tổ Mạc, Thôi Hạ Ái, Hà Ái Nhân, Vương Cần – Võ Chiếm
Khôn….Đối với HT từ ĐÂ, trong giai đoạn này có 02 quan niệm rộng và hẹp.
Đại diện cho quan niệm rộng là Tôn Thường Tự [200, tr.199]. Ông cho rằng: “từ
có hình thức ngữ âm tương đồng và có nghĩa khác biệt nhau gọi là từ Đ”. Sở dĩ
chúng tôi xếp Tôn Thường Tự vào quan niệm rộng là bởi cách hiểu của ông về
tiêu chí ngữ âm tương đồng có điểm khác biệt với những tác giả khác. Trong các
ví dụ đưa ra của ông có cả những từ vốn không cùng thanh điệu. Chẳng hạn: dūn
吨 (đốn; mang thanh một: tấn) và: dùn 吨 (đốn; mang thanh bốn: bữa, trận); dà
mang hai thanh bốn: đại ý, ý chính) đều được xếp vào hai loạt ĐÂ. Ngày nay, (dūn 吨)
và (dùn 吨) được xếp vào những từ ĐH nhưng không ĐÂ còn (大意 dà yi) và (dà yì
từ là: mở rộng, rút gọn, chuyển di và đưa ra hai thuật ngữ mới là 深化 (thâm hóa:
làm sâu sắc thêm) và 分割 (phân cát: chia cắt) trong đó: 深化 (thâm hóa) có
hàm nghĩa là có thêm nhận thức mới về sự vật cũ, HT cũ còn 分割 (phân cát) có
hàm nghĩa là chỉ một từ ĐN biến đổi thành hai từ ĐÂ khác nhau vì những mối
quan hệ vốn có về nghĩa đã bị triệt tiêu hoàn toàn.
Giai đoạn (1977 – 1989) đáng chú ý là quan điểm của Trương Vĩnh Ngôn
[182] và Phù Phó Thanh [189]. Đây là những công trình khảo cứu chuyên sâu về
từ vựng ngữ nghĩa học, có ứng dụng lí luận của nước ngoài vào việc nghiên cứu
từ vựng tiếng Hán.
Từ vựng học giản luận của Trương Vĩnh Ngôn gồm 06 chương, trong đó
chương 05 là chương có đề cập khá nhiều và khá sâu về vấn đề ĐÂ, ĐN trong
tiếng Hán. Về vấn đề từ ĐÂ, Trương Vĩnh Ngôn cho rằng: đã là ĐÂ thì phải thỏa
mãn ba điều kiện: (1) giống nhau về âm thanh, (2) giống nhau về hình thức chữ
viết, (3) có ý nghĩa khác nhau. Ông đặt ra thuật ngữ 等音词(đẳng âm từ) và
dùng thuật ngữ này để chỉ những từ có âm đọc giống nhau.
Hiện đại Hán ngữ từ vựng [1985] của Phù Phó Thanh gồm 10 chương. Tác
giả quan niệm: từ là ĐV nhỏ nhất của ngôn ngữ có nghĩa, dùng để tạo câu. Từ có
hai mặt là hình thức ngữ âm và khái niệm (nội dung). Theo Phù Phó Thanh, từ
trong quá trình sử dụng chịu rất nhiều những chế định, ảnh hưởng và nghĩa của
từ thể hiện ra rất nhiều điểm dị biệt. Tuy vậy, trong những điểm dị biệt ấy vẫn có
những nét chung có thể xác định được, đó chính là ý nghĩa của từ. Và một ý
nghĩa xác định được của từ gọi là một nghĩa hạng của từ. Theo tác giả, “nghĩa
hạng có tính khái quát và là đơn vị cơ bản của nghĩa từ”.
Trong chương 04, trên cơ sở xây dựng và xác định khái niệm nghĩa hạng,
ông thảo luận về vấn đề từ ĐN và từ ĐÂ. Theo ông, “từ đơn nghĩa là từ có một
hình thức ngữ âm liên hệ tới một nghĩa hạng. Còn từ ĐN là từ có một hình thức
ngữ âm liên hệ với hơn một nghĩa hạng trở lên và giữa các nghĩa hạng vẫn còn
tồn tại một mối quan hệ mà hiện thời vẫn nhận ra. Nếu giữa các nghĩa hạng
không còn nhận ra được mối quan hệ nữa thì chúng sẽ tách ra thành những từ ĐÂ.
Từ ĐÂ là một hình thức ngữ âm liên hệ với hơn một nghĩa hạng mà hiện nay đã
không còn nhận diện được quan hệ nữa vì vậy mà được coi là những từ có âm
thanh giống nhau và ý nghĩa khác nhau” (tr.51).
Về vấn đề từ ĐÂ, Phù Phó Thanh cho rằng “hai từ trở lên mà có thanh mẫu,
vận mẫu và thanh điệu giống nhau thì là những từ Đ” (tr.72). Tác giả chia từ
ĐÂ thành: (1) từ ĐÂĐH, (2) từ ĐÂDH (3) từ ĐÂ phái sinh. Phù Phó Thanh còn
đi vào phân tích những hệ quả xấu do nhận thức không tốt từ ĐÂ đưa lại mà việc
đem từ ĐÂ viết thành chữ khác là một ví dụ điển hình với các biểu hiện như: (1)
viết sai những từ ĐÂ có hình và nghĩa khác xa nhau, (2) viết sai những từ ĐÂ có
hình chữ gần giống nhau, (3) viết sai những từ ĐÂ có nghĩa gần nhau.
Bàn về nguồn gốc của từ ĐÂ ông cho rằng: có ba nguồn gốc chính là: (1) do
ngữ âm biến đổi mà thành ĐÂ, (2) do quá trình phân li ý nghĩa của từ ĐN tạo
thành, (3) do việc phiên dịch từ ngoại lai tạo nên. Bàn về giới hạn của từ ĐÂ và
từ ĐN ông cho rằng: “quan trọng nhất là xem hiện nay có còn quan hệ về ngữ
nghĩa hay không. Nếu không còn quan hệ thì là từ ĐÂ, nếu còn quan hệ thì là từ
ĐN”. Theo ông, có thể xét ở hai góc độ: (1) trong từ nguyên có quan hệ hay
không? (2) hiện nay có thể cảm nhận được không?, ông còn bình luận về tác
dụng của từ ĐÂ và từ ĐN dưới cả hai góc độ tích cực và tiêu cực.
Có thể nói rằng Hiện đại Hán ngữ từ vựng của Phù Phó Thanh là một công
trình khoa học rất chú trọng tới thao tác mô tả và hình thức hóa vấn đề. Đây là
một trong số ít công trình nghiên cứu về từ vựng học có tầm ảnh hưởng lớn ở
Trung Quốc đương thời và cho đến tận bây giờ.
Bên cạnh ba công trình có ảnh hưởng lớn ở trên, trong giai đoạn này còn có
một số chuyên đề, bài viết nghiên cứu khá sâu về vấn đề từ ĐÂ và từ ĐN. Tiêu
biểu là nhóm Vương Cần, Võ Chiếm Khôn [159], Cát Bản Nghi [179], Tôn Tích
Quân [184], Cao văn Đạt, Vương Lập Ứng [162], Tạ Văn Khánh, Vương Chấn
Côn [170], Từ Thanh [191]…. Những nghiên cứu về HTĐN trong những công
trình này tập trung chủ yếu vào hai vấn đề là: quan hệ giữa các ý nghĩa của từ
ĐN và những nguyên nhân sản sinh ra từ ĐN.
Về HT từ ĐÂ, các tác giả chủ yếu tập chung vào ba phương diện sau: những
nhận định về tính chất của từ ĐÂ, những nguyên nhân hình thành từ ĐÂ và việc
phân loại từ ĐÂ, tác dụng của từ ĐÂ.
Nhận định về tính chất của từ ĐÂ, nhiều nhà nghiên cứu kiên trì quan điểm
âm giống, nghĩa khác. Chẳng hạn: năm 1982, Cao Văn Đạt và Vương Lập Ứng
[162] cho rằng: “một tổ hợp từ trong kho từ vựng có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau
mà có âm thanh tương đồng gọi là từ Đ”. Cát Bản Nghi [179] cũng cho rằng:
“…giữa các từ ĐÂ không có quan hệ gì về nghĩa”.… Một số nhà nghiên cứu Hán ngữ
khác còn đề xuất thêm tiêu chí giống nhau về trọng âm đối với những từ ĐÂ đa tiết
bên cạnh tiêu chí có thanh, vận, điệu tương đồng.
Về nguyên nhân hình thành từ ĐÂ cũng có rất nhiều ý kiến. Ngoài quan điểm
của Phù Phó Thanh [189], Võ Chiếm Khôn và Vương Cần [172] còn đưa ra 4 nguyên
nhân hình thành từ ĐÂ là: (1) do ĐÂ ngẫu nhiên, (2) do lịch sử ngữ âm biến đổi làm
cho một số từ có âm đọc khác nhau trở thành có âm đọc giống nhau, (3) do sự tiếp
nhận vốn từ địa phương, từ có nguồn gốc nước ngoài cũng tạo nên một SL từ ĐÂ, (4)
do sự phân hóa của từ ĐN.
Về tác dụng của từ ĐÂ, Tạ Văn Khánh, Vương Chấn Côn [170] cho rằng:
“từ ĐÂ trong quá trình phát triển của ngôn ngữ học có tác dụng vô cùng quan
trọng và tích cực” Còn Cao Văn Đạt và Vương Lập Ứng [162] thì cho rằng: “con
người khi tiến hành giao tiếp, đặc biệt là trong khẩu ngữ thì việc sử dụng từ ĐÂ
có khi tạo ra những trường hợp không rõ ràng […] nhưng không thể phủ nhận
những khả năng gây ra nhầm lẫn do từ ĐÂ tạo nên”. Còn Từ Thanh [191] thì viết:
“sự tồn tại của từ ĐÂ cần phải cho rằng đó là một chuyện không tốt, nó gây ra
những trở ngại cho quá trình biểu đạt tư tưởng […] sự tồn tại của từ ĐÂ đối với
yêu cầu biểu đạt rõ ràng hiển nhiên là rất bất lợi […] tác dụng của từ ĐÂ là thứ
yếu, không thể bù đắp cho những điều mà nó gây ra”.
Trong thời kì này, vấn đề thống kê từ ĐÂ cũng đã được chú ý tới, đáng chú
ý là số liệu thống kê từ ĐÂST trong Hiện đại Hán ngữ từ điển của Tạ Văn Khánh,
Vương Chấn Côn [170]. Theo số liệu của họ thì: trong Hiện đại Hán ngữ từ điển
có 168 tổ hợp ĐÂST với 346 từ. Trong đó, từ ĐÂĐH có 65 tổ hợp với 130 từ,
chiếm 37% tổng số từ ĐÂST. Từ ĐÂDH có 103 tổ hợp với 216 từ, chiếm 62%
tổng số từ ĐÂST. Đây là bài viết sớm nhất có sử dụng thao tác thống kê mô tả về
từ ĐÂ trong THHĐ.
Ở giai đoạn (1990 – 1999), đáng nhắc đến là công trình nghiên cứu của Lưu
Thúc Tân [187]. Công trình gồm 12 vấn đề lớn. Trong 12 vấn đề chính, đáng chú
ý là vấn đề thứ 5 (bàn về hình thức ngữ âm của từ và ngữ cố định trong THHĐ).
Theo tác giả, hình thức ngữ âm của từ và ngữ cố định trong THHĐ có 3 đặc điểm
lớn sau: có thanh điệu, cấu trúc tương đối ngắn và nhẹ, tồn tại một SL lớn từ ĐÂ.
Khi bàn về đặc điểm thứ ba, Lưu Thúc Tân đã trình bày rất rõ quan điểm của
mình về HTĐÂ nói chung và HT từ ĐÂ nói riêng.
Theo tác giả, những nguyên nhân chính làm cho THHĐ có một SL lớn từ
ĐÂ là: (1) do những đặc điểm về ngữ âm đưa lại (ngắn, nhẹ), (2) SL âm tiết
trong THHĐ là hữu hạn, (3) hình thức ngữ âm của từ trong tiếng Hán phần lớn
là hai âm tiết khác nhau xâu chuỗi vào nhau hoặc là đơn tiết cho nên rất dễ
nảy sinh HT ĐÂ ngẫu nhiên. Theo Lưu Thúc Tân, “nói tới HTĐÂ là nói tới
hai từ hoặc trên hai từ có âm đọc giống nhau trở lên”, ông chia HTĐÂ thành
hai loại lớn là: ĐÂ ngẫu nhiên và từ ĐÂ. Theo tác giả thì “đối với trường hợp
ĐÂ ngẫu nhiên, ý nghĩa của chúng khác nhau rất xa. Trong lịch sử cũng
không có quan hệ gì với nhau hoặc cũng không có quan hệ diễn sinh. Loại ĐÂ
ngẫu nhiên này nếu là đơn tiết thường có SL hơn một, còn nếu là song tiết,
thường thành cặp và có SL khá nhiều. Hai âm tiết trở lên có SL rất ít, ba âm
tiết kiểu như: 礼拜寺 (lễ bái tự) lên chùa lễ phật) và: 礼拜四 (lễ bái tứ)chỉ
ngày thứ năm trong tuần cũng rất hiếm gặp”. Tác giả cũng chỉ ra rằng “trong
những từ ĐÂ ngẫu nhiên mà không phải là đơn âm tiết, thường có cùng một
yếu tố đóng vai trò là từ tố của từ căn như: 财力(tài lực) chỉ tài lực, sức của,
vốn liếng) và: 才力(tài lực) chỉ tài năng, năng lực. Những từ ĐÂ này do có
cùng chung một từ căn nên thường có quan hệ ít nhiều với nhau”.
Tác giả còn cho rằng: “trong những từ ĐÂ ngẫu nhiên, có một bộ phận nhỏ
có ý nghĩa rất gần nhau, tồn tại một mối quan hệ khá rõ ràng (quan hệ đồng nghĩa)
kiểu như: 厉害(lệ hại) ghê gớm, lợi hại, kịch liệt, hung dữ mạnh mẽ) và: 利害
(lợi hại) lợi hại, hơn thiệt. Đây là những từ ĐÂ đồng nghĩa rất đặc biệt” (tr 174).
Còn đối với những từ như: 月1 (nguyệt) tháng và: 月 (nguyệt) trăng; 满月 (mãn
2 1
nguyệt) đầy tháng, đầy cữ trẻ con và: 满月 (mãn nguyệt) chỉ trăng rằm; 快
2 1
(khoái) nhanh và: 快 (khoái) sắp; 顶子 (đỉnh tử) chỉ chóp của tháp, kiệu…, chỉ
2 1
ngọc (đính trên đỉnh mũ) và: 顶子 (đỉnh tử) chỉ nóc nhà thì ông coi là “những từ
2
ĐÂ được phân hóa từ những từ ĐN mà ra, giữa chúng đã từng là một từ, không
phải là ĐÂ ngẫu nhiên. Nếu xem xét từ góc độ nghĩa thì những từ này về mặt lịch
sử có quan hệ cội nguồn hay quan hệ diễn sinh nhưng hiện nay đã không còn
quan hệ gì nữa và nên xếp chúng vào nhóm ĐÂĐH”. Tuy vậy, tác giả cũng bổ
sung thêm rằng: “Song cũng có những từ ĐÂĐH không xuất phát từ một từ mà
do những từ khác nhau có hình thức văn tự và ngữ âm giống nhau như: 田鸡1
(điền kê) chỉ loài ếch và: 田鸡 (điền kê) chỉ một loài chim sống ở thảo nguyên
2
“ngữ cố định cũng có trường hợp ĐÂ với từ ghép như: 大会(đại hội) chỉ đại hội,
mít tinh và: 大恚 (đại khuể) nỗi oán hận lớn và HTĐÂ xảy ra giữa ngữ cố định
với ngữ cố định, giữa từ và ngữ cố định là ít gặp”. Ông lí giải nguyên nhân của
HT này là “do hình thức ngữ âm của ngữ cố định nói chung là dài hơn từ”. Từ đó,
ông kết luận: “nói chung, khi nhắc đến HTĐÂ trong từ vựng chỉ nói đến từ mà
không đề cập tới các ĐV từ vựng của từ thì mới chỉ đề cập và nắm được đối
tượng chính. Nói tới cả những đối tượng như từ kiêm cấp và ngữ cố định mới là
nắm vững HTĐÂ của từ vựng tiếng Hán.” Từ đó ông đề xuất thuật ngữ từ ngữ
ĐÂ (同音词语) để chỉ các HT trên.
Bàn về tác dụng của từ ĐÂ, tác giả khẳng định cả tác dụng tích cực và tiêu
cực và chỉ ra rằng “đối với người học tiếng Hán như một ngoại ngữ thì HTĐÂ
trong THHĐ đã gây ra không ít những khó khăn, đặc biệt là với vấn đề văn tự
phiên âm”.
Những năm đầu thế kỷ XXI, tình hình nghiên cứu vấn đề ĐÂ, ĐN trong
THHĐ có những bước phát triển vượt bậc. Theo số liệu của Chu Tồn và Dương
Thế Thiết [198, tr.576] thì từ năm 2000 đến năm 2007 đã có 87 luận văn bàn về
nghĩa của từ và có 6 công trình bàn về từ ĐÂ. Đặc điểm của các công trình này là
luôn chú trọng tới thao tác thống kê và mô tả, đào sâu những vấn đề cũ bằng
những lí luận mới. Các tác giả tiêu biểu phải kể đến là Lưu Tân Xuân, Lưu xuyên
Dân [161], Tôn Kế Thiện [192], Chu Tồn [199]…. Chẳng hạn:
Trương Bác [151] đã lật lại vấn đề khu biệt từ ĐÂĐH và từ ĐN. Ông đề
xuất các phương pháp sau: phương pháp phân tích nghĩa tố, phương pháp khảo
sát từ nguyên, phương pháp so sánh đối chiếu và phương pháp xử lí nghĩa dẫn
xuất. Theo tác giả thì phương pháp phân tích nghĩa tố thích hợp với việc kiểm
nghiệm xem những từ có hơn một nghĩa hạng do sự mở rộng ý nghĩa, thu hẹp ý
nghĩa và chuyển di ý nghĩa hiện nay có còn tồn tại quan hệ hay không. Phương
pháp xử lí nghĩa dẫn xuất có lợi cho việc phân tích những từ ĐÂĐH mà có nhiều
nghĩa hạng. Phương pháp so sánh đối chiếu rất có lợi cho việc làm sáng rõ những
trường hợp đã bị hư hóa về ý nghĩa và ẩn dụ. Phương pháp khảo sát từ nguyên lại
có ích cho việc kiểm nghiệm những ý nghĩa mà hiện nay có cảm giác là có quan
hệ với từ nguyên học.
Tác giả Lưu Xuyên Dân [161] lại chú ý tới việc thống kê số liệu và phân
tích những nhược điểm của TĐ thể hiện ở việc xử lí từ ĐÂĐH trong TĐ. Qua
việc khảo sát Hán ngữ từ điển; 1996, tác giả đưa ra số liệu từ ĐÂĐH trong Hán
ngữ từ điển là 270 tổ hợp. Tiến hành phân tích số liệu này, tác giả cho rằng: số
liệu chính xác là từ ĐÂĐH chỉ có 237 tổ hợp, chiếm 88% tổng số. Số liệu không
phải là từ ĐÂĐH nhưng bị xử lí thành từ ĐÂĐH là 33 tổ hợp, chiếm 12%. Lí do
dẫn đến việc tác giả phủ nhận 33 tổ hợp không phải là từ ĐÂĐH là vì: giữa
những nét nghĩa của những từ này hoặc còn có quan hệ dẫn xuất như trường hợp
của 海口(hải khẩu) và 青皮(thanh bì) Hoặc là thông qua việc chuyển hóa từ tính
mà tạo nên như trường hợp 南面 (nam diện) và 杀气 (sát khí). Hoặc là do việc
sử dụng những chữ cũ, mới mà tạo nên như trường hợp của 皇皇 (hoàng hoàng)
và 累累 (lụy lụy). Từ kết quả phân tích này, tác giả cho rằng: khi nghiên cứu từ
ĐÂĐH, cần phải chú ý tới mối quan hệ giữa tiếng Hán xưa và nay cũng như phải
chú ý tới việc nghiên cứu quy luật diễn biến, phát triển nghĩa dẫn xuất của từ
vựng tiếng Hán mới có thể nắm vững được.
Tôn Kế Thiện [192], trước tiên nêu lên những khó khăn trong việc phân biệt
từ ĐÂĐH SÂT và từ ĐN SÂT: “việc phân biệt từ ĐÂĐH SÂT và từ ĐN SÂT
trên thực tế là rất phức tạp. Ngoài việc cần phải khảo sát cân nhắc xem giữa
chúng còn có quan hệ dẫn xuất về nghĩa hay không còn phải cân nhắc phương
thức cấu từ giữa những ngữ tố và những ngữ tố đại diện cho hai âm tiết xem
chúng có tương đồng hay không”. Tiếp đó, tác giả căn cứ vào cách xác lập các
đầu mục của Hiện đại Hán ngữ từ điển; 1996 để đưa ra 8 loại hình từ ĐÂ. Cuối
cùng tác giả cho rằng: đã là từ ĐÂĐH song tiết cần phải hội đủ các đặc trưng sau
đây: (1) hai từ phải có âm đọc hoàn toàn giống nhau và không có quan hệ dẫn
xuất về nghĩa, (2) phải bao hàm một hoặc hai ngữ tố ĐÂ, (3) phải bao hàm một
hoặc hai ngữ tố ĐN biểu thị những nghĩa hạng khác nhau, (4) nghĩa hạng của ngữ
tố phải giống nhau nhưng có phương thức cấu tạo từ khác nhau. Trong 04 điều
kiện trên, thì chỉ cần thỏa mãn 03 tiêu chuẩn là đạt.
Chu Anh Quý [185] công nhận: “từ ĐÂ là những từ có âm thanh giống nhau
và có ý nghĩa khác nhau”, và “trong THHĐ thì SL từ ĐÂ đơn tiết nhiều hơn SL
từ ĐÂ song tiết gấp nhiều lần”. Chọn đối tượng khảo sát của mình là từ ĐÂ song
tiết, loại bỏ những ĐVĐÂ đơn tiết và những ĐVĐÂ có từ ba âm tiết trở lên. Ông
đề xuất thêm một tiêu chí phân loại từ ĐÂ song tiết khác là “dựa vào những điểm
giống nhau và khác nhau về phương thức cấu tạo từ”. Theo tác giả “cách phân
loại này sẽ giúp các nhà nghiên cứu có thể những nhận thức mới về điểm khác
biệt và mối liên hệ giữa những từ ĐÂ song tiết với nhau”. Kết quả phân loại của
tác giả về từ ĐÂ song tiết trong Hán ngữ ngữ pháp tản luận như sau:
Căn cứ vào các tiêu chuẩn như “có hai yếu tố đồng hình”, “có yếu tố trước
đồng hình”, “có yếu tố sau đồng hình” Chu Anh Quý chia thành 4 loại lớn là: (1)
từ SÂT ĐÂĐH có cùng cấu tạo, cùng tính chất, (2) từ ĐÂ SÂT đồng cấu dị tính,
(3) từ ĐÂ SÂT đồng cấu đồng tính, (4) từ ĐÂ SÂT dị cấu dị tính.
Căn cứ vào đặc điểm “có yếu tố trước đồng hình”, ông chia làm 4 loại nhỏ
sau đây: (1) từ ĐÂST đồng cấu đồng tính, (2) từ ĐÂST đồng cấu dị tính, (3) từ
ĐÂST dị cấu đồng tính, (4) từ ĐÂST dị cấu dị tính.
Căn cứ vào đặc điểm “có yếu tố sau đồng hình”, ông chia làm 4 loại nhỏ sau:
(1) từ ĐÂST đồng cấu đồng tính, (2) từ ĐÂST đồng cấu dị tính, (3) từ ĐÂST dị
cấu đồng tính, (4) từ ĐÂST dị cấu dị tính.
Căn cứ vào đặc điểm “có cả hai yếu tố dị hình”, ông chia làm 4 loại: (1) từ ĐÂST
đồng cấu đồng tính, (2) từ ĐÂST đồng cấu dị tính, (3) từ ĐÂ ST dị cấu đồng tính, (4) từ
ĐÂ ST dị cấu dị tính.
Nhìn lại lịch sử nghiên cứu HTĐÂ, ĐN ta thấy: (i) Qua các thời kì, HTĐÂ,
ĐN luôn là một vấn đề nhận được sự quan tâm của các nhà ngôn ngữ học, các
nhà từ điển học… (ii) Với cách tiếp cận khác nhau, những khía cạnh có liên can
tới HTĐÂ, ĐN như: tiêu chí xác định từ ĐÂ, từ ĐN; tiêu chí xác định nghĩa có
quan hệ dẫn xuất (đối với các ĐVĐN thông thường) và nghĩa giữa các từ ĐÂ
(không có quan hệ dẫn xuất, chỉ có liên hệ về nghĩa) cũng đã được họ phân tích,
bàn luận và đề cập tới với những mức độ nông, sâu khác nhau.
Trên tinh thần kế thừa thành tựu nghiên cứu TV, tiếng Hán và lí thuyết
NNH ĐC, LA có những nhiệm vụ sau:
(2) Phương pháp miêu tả. LA tập trung phân tích ngữ liệu để rút ra những
nhận xét, kết luận về các vấn đề có liên quan tới HTĐÂ và ĐN trong cả hai ngôn
ngữ Việt, Hán.
(3) Phương pháp đối chiếu. Phương pháp này được sử dụng nhằm góp phần
làm rõ các tiêu chí, cơ sở ngữ nghĩa, dấu hiệu hình thức thể hiện HTĐÂ và ĐN
trong các ngôn ngữ khác nhau. THHĐ là ngôn ngữ chủ yếu được dùng để đối
chiếu với TV. Đây là một ngôn ngữ có nhiều nét tương đồng về phương diện loại
hình với TV và cũng là ngôn ngữ được các nhà ngôn ngữ học trên thế giới để tâm
nghiên cứu từ lâu.
(4) Phương pháp phân lập và đối lập ngữ nghĩa trong phân tích ngữ nghĩa.
Trong các phương pháp trên thì các phương pháp (1), (2), (3) là những
phương pháp chính, phương pháp còn lại là phương pháp bổ sung.
Trong quá trình khảo sát, miêu tả ngữ liệu cũng như khi tiến hành đối chiếu,
chúng tôi đứng trên quan điểm đồng đại là chính. Tuy nhiên, để làm rõ một số vấn đề,
quan điểm lịch đại cũng được tham khảo và áp dụng như một hướng nhìn bổ sung.
4.2. Nguồn ngữ liệu chủ yếu mà LA khảo sát là TĐTV 2006 (Hoàng Phê
chủ biên) và TĐ THHĐ 2005.... Xét ở dạng thức thể hiện, ngôn ngữ nói (những
ví dụ được trích xuất trong từ điển) sẽ được lưu ý hơn so với ngôn ngữ viết. Xét
từ phương diện nguồn gốc, những từ thuần Việt, từ Hán Việt sẽ được lưu ý nhiều
hơn những từ có nguồn gốc ngoại lai khác như những từ gốc Ấn Âu…).
4.3. Với mục đích là khái quát tất cả những biểu hiện phong phú của HT
ĐÂ và ĐN trong cả hai ngôn ngữ Việt, Hán và do cách hiểu về ĐV cơ bản của
TV và sự phân biệt các ĐV cùng chức năng cú pháp như từ, ngữ… trong TV vẫn
còn một số điểm chưa rõ ràng nên chúng tôi chủ trương dùng khái niệm các ĐV
ĐÂ, các ĐV ĐN để chỉ tất cả các ĐVĐÂ hay ĐN là từ hay là ngữ.
Về khái niệm từ, quan niệm của chúng tôi như sau: xét từ phương diện cấu tạo,
từ có thể là từ đơn tiết, như: ăn, ngủ, chạy, nhảy, cười, nói, nghe, đánh, giúp..., chúng
cũng có thể là đa tiết (bao gồm cả từ phức là những từ có ít nhất 01 âm tiết vô nghĩa
như: vui vẻ, trẻ trung, động đậy, kín mít…, hoặc cả 02 âm tiết đều có nghĩa tiềm tàng
như: ngưỡng mộ, nhẫn tâm…, và từ ghép là những từ mà các âm tiết đều có nghĩa
như: kiêng cữ, động lòng, thù ghét, miễn giảm…, đại bộ phận chúng thường có cấu tạo
02 âm tiết), Những từ đa tiết như trên, thuộc vào một trong những kiểu kết hợp: (i) cả
hai âm tiết vốn là những từ Hán Việt không có khả năng hoạt động độc lập, (ii) một
hoặc tất cả các âm tiết không có nghĩa xác định, (iii) mối quan hệ giữa các âm tiết có
tính chất cố định, thành ngữ. Xét về phương diện nghĩa, chúng có thể là những ĐV
đơn nghĩa (chiếm đa số), và cũng có thể là những ĐV ĐN; chúng có thể chỉ có nghĩa
thực (chiếm đa số), cũng có thể chỉ có nghĩa ngữ pháp và nhiều khi có cả hai loại ý
nghĩa trên trong cùng một ĐV. Một số ĐV từ, ngữ vay mượn còn mới, hoặc chỉ
được sử dụng trong phạm vi giới hạn, có SL không nhiều sẽ không được đưa vào
phạm vi khảo sát hoặc sẽ không được ưu tiên khảo sát như: chat, e-mail, fax,
phone, penalty …
Một nội dung quan trọng của LA là so sánh từ ĐÂ và ĐN trong hai ngôn
ngữ Việt, Hán, do đó, ĐV cơ bản trong tiếng Hán cũng cần được xác định rõ ràng:
(i) về cấu tạo, cũng như trong TV, ĐV cơ bản trong tiếng Hán cũng là những ĐV
nhất thể ba ngôi, chúng có thể là những ĐV đơn tiết như: 说 (thuyết) nói, 走
(tẩu) đi, 看 (khán) thăm, xem, nhìn…, cũng có thể là những ĐV đa tiết (phần lớn
là những ĐV có cấu tạo 02 âm tiết) như: 参观 (tham quan) tham quan, 家庭 (gia
đình) gia đình, 好看 (hảo khán) đẹp, dễ coi….Chúng tôi cũng xem là đối tượng
khảo sát của LA những ĐV có cấu tạo từ 03 âm tiết trở lên như: 礼拜四 (lễ bái
tứ) chỉ thứ năm, 缩手缩脚 (súc thủ súc giảo)…vì những ĐV này cũng có đầy đủ
những đặc điểm của những ĐV khác đồng cấp với chúng như từ nên không có lí
do gì để gạt bỏ chúng. (ii) Về nghĩa, nghĩa của các ĐV này mang tính thành ngữ
– nghĩa của chúng khác với tổng ý nghĩa của các yếu tố hợp thành. (iii) Về cú
pháp, đây là những kết hợp cố định, khi tham gia vào câu chúng cũng giữ những
chức vụ cú pháp nhất định như từ (làm bổ ngữ, chủ ngữ, vị ngữ, định ngữ…).
Về phương diện lí luận, LA có những đóng góp sau đây: LA góp phần làm
rõ đặc điểm, vai trò và vị trí quan trọng của từ ĐÂ, từ ĐN, từ ĐÂCG nói chung
cũng như từ vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG của TV nói riêng.
Từ các tiêu chí: từ loại; SLÂT tham gia cấu tạo nên các ĐVĐÂ và ĐN của
TV; DLN; nét nghĩa và từ cấu trúc ngữ nghĩa của các ĐVĐN…, cùng với việc
vận dụng các khái niệm truyền thống như: ĐÂ đơn tiết, ĐÂ đa tiết, ĐÂ cùng từ
loại, ĐÂ khác từ loại, ĐÂ chuỗi…, ĐN đơn tiết, ĐN đa tiết, ĐN thường gặp, ĐN
ít gặp…, từ việc khái quát hóa các HT từ ĐÂ và ĐN trong hai ngôn ngữ, dựa trên
2 khối ngữ liệu đáng tin cậy của TV và THHĐ là TĐTV 2006 và TĐ THHĐ
2005, LA đã tiến hành thống kê, mô tả và phân loại chi tiết những biểu hiện của
HT từ ĐÂ, từ ĐN cũng như những đặc điểm của HT từ vừa ĐÂ vừa ĐN trong
TV, tiếng Hán, đồng thời lí giải được nguyên nhân của những biểu hiện và HT ấy.
Ở một góc độ nào đó, những đồng nhất và khác biệt trong TV và THHĐ thể hiện
ở HT từ ĐÂ, từ ĐN và HT từ vừa ĐÂ vừa ĐN đã được LA chứng minh, kiến
giải một cách có cơ sở khoa học từ việc thống kê, mô tả và đối chiếu ở diện rộng
và từ một số phạm trù hẹp song có tính phổ quát trong hai ngôn ngữ.
Về phương diện thực tiễn, LA đã đưa ra số liệu cập nhật, chi tiết về các
ĐVĐÂ, các ĐVĐN, các ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong TV và ở một mức độ nào đó
là số liệu về các các ĐVĐÂ, các ĐVĐN, các ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong tiếng
Hán. Trong một chừng mực nào đó, những số liệu này sẽ đem đến những lợi ích
nhất định cho việc biên soạn giáo trình từ vựng ngữ nghĩa học, từ điển đồng âm
TV, giáo trình dạy TV cho người nước ngoài, giáo trình dạy tiếng Hán cho người
Việt cũng như rất thuận tiện cho việc tra cứu nhanh trong quá trình học TV, tiếng
Hán. Những số liệu của LA cũng có thể được dùng cho việc xây dựng ngôn ngữ
máy và dịch máy.
Phần Dẫn nhập có dung lượng 37 trang trình bày Lí do chọn đề tài và đối
tượng nghiên cứu (mục §1), Lịch sử vấn đề (mục §2), Nhiệm vụ của LA (mục
§3), Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu (mục §4), Những đóng góp của
LA (mục §5), Bố cục LA (mục §6).
Chương 1 với tiêu đề “Những vấn đề lí luận” có dung lượng 32 trang nêu
những vấn đề lí luận chung làm nền tảng cho việc tìm hiểu HTĐÂ và ĐN nói chung,
HTĐÂ và ĐN trong TV và THHĐ nói riêng. Cụ thể là: Từ và cấu trúc nghĩa từ
(mục §1.1.), HT chuyển loại của từ (mục §1.2.), Vai trò của chữ viết trong việc
nghiên cứu HTĐÂ và HTĐN (mục §1.3.), Khái niệm ĐÂ, ĐN và từ ĐÂĐN (mục
§1.4.), Về danh xưng từ ĐÂ và ĐN (mục §1.5.), Tiêu chí xác định các ĐVĐÂ, ĐN
và từ ĐÂ ĐN (mục §1.6.), Giới hạn của các ĐVĐÂ, ĐN (mục §1.7.), Vấn đề phân
loại các ĐV ĐÂ, ĐN và từ ĐÂĐN (mục §1.8.), Vị trí của từ ĐÂCG trong tổng thể
từ ĐÂTV (mục §1.9.), Nhận diện các ĐVĐÂ, ĐN trong TĐ (mục §1.10.), Tiểu kết
(mục §1.11.).
Chương 2 với tiêu đề “HTĐÂ trong TV đối chiếu với THHĐ” là một trong ba
phần trọng tâm của LA có dung lượng 36 trang gồm các nội dung chính sau đây: (1)
Trình bày số liệu về các ĐVĐÂ trong TĐTV 2006 (tổng số loạt và tổng số ĐVĐÂ, tỷ
lệ ĐÂ); phân loại và mô tả chi tiết các HTĐÂ của TV thông qua 04 tiêu chí: nguồn gốc,
từ loại, từ góc độ các ĐV ngôn ngữ, SLÂT tham gia cấu tạo và quan hệ ngữ nghĩa trong
nội bộ từ (mục §2.1 và các tiểu mục 2.1.1., 2.1.2.). (2) Trình bày các giải pháp phân loại
các ĐVĐÂ trong tiếng Hán của các nhà nghiên cứu Hán ngữ từ các tiêu chí hình – âm –
nghĩa và từ SLÂT tham gia cấu tạo cũng như đi vào mô tả một HTĐÂ đặc biệt chỉ thấy
trong THHĐ (ĐÂ phái sinh sau 儿化); trình bày số liệu thống kê ở diện rộng các
ĐVĐÂ trong THHĐ từ 02 tiêu chí: từ loại và SLÂT tham gia cấu tạo. (3) Đối chiếu từ
ĐÂCG trong TV với từ ĐÂCG trong THHĐ, nhận xét về HTĐÂ trong tiếng Hán và
HTĐÂ trong TV (mục § 2.2 và các tiểu mục 2.2.1; 2.2.2 và 2.2.3.), (4) Tiểu kết.
Chương 3 với tiêu đề “HTĐN trong TV đối chiếu với THHĐ” cũng là một
trọng tâm của LA có dung lượng 46 trang gồm các nội dung chính sau đây: (1)
Thống kê số liệu các ĐVĐN trong TĐTV 2006, (2) Phân loại và mô tả chi tiết
các HTĐN của TV thông qua 03 tiêu chí: từ loại, SLÂT tham gia cấu tạo và DLN.
Dựa vào đó làm cơ sở để xác định những HTĐN thường gặp, ĐN ít gặp hay
những trường hợp ĐN cơ bản, không cơ bản của TV (mục §3.1 và các tiểu mục
3.1.1., 3.1.2.), (3) Trình bày quan niệm cũng như các giải pháp phân loại các ĐV
ĐN trong tiếng Hán của các nhà nghiên cứu Hán ngữ; trình bày số liệu thống kê
ở diện rộng các ĐVĐN trong THHĐ của chúng tôi trong TĐTHHĐ 2005 từ 03
tiêu chí: từ loại, SLÂT tham gia cấu tạo và DLN, (4) Đối chiếu và nhận xét về
HTĐN trong tiếng Hán với HTĐN trong TV ở diện rộng cũng như ở diện hẹp
của hai khối ngữ liệu (qua số liệu của TĐ và qua một số phạm trù phổ quát) với
mục đích để làm nổi bật những tương đồng cũng như những khác biệt giữa hai
ngôn ngữ, qua đó tìm thêm luận cứ cho việc biện giải HTĐN trong TV (mục §3.2
và các tiểu mục 3.2.1, 3.2.2, 3.2.3), (5) Tiểu kết.
Chương 4 với tiêu đề “Từ ĐÂ và ĐN trong TV đối chiếu với THHĐ” có dung
lượng 20 trang gồm các nội dung chính sau đây: (1) Trình bày số liệu về các ĐV vừa
ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG và khác gốc ngữ nghĩa, (2) Phân loại các ĐV vừa
ĐÂ vừa ĐN trong TV, tiếng Hán. (3) Mô tả nguồn gốc, đặc điểm cấu tạo, dung lượng
ngữ nghĩa, quan hệ ngữ nghĩa của những ĐV này trong TV, tiếng Hán. (4) Đối chiếu từ
ĐÂ và ĐN cùng gốc nghĩa và khác gốc nghĩa trong TV với từ ĐÂ và ĐN cùng gốc
nghĩa và khác gốc nghĩa trong THHĐ (trọng tâm là đối chiếu từ ĐÂ và ĐN cùng gốc
nghĩa trong 2 ngôn ngữ), nhằm chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt về vấn đề
này trong hai ngôn ngữ.
Phần Kết luận có dung lượng 10 trang nhằm tổng kết những nội dung cơ
bản của LA, nêu lên những khó khăn trong quá trình thực hiện LA cũng như
những vấn đề LA đề cập chưa đầy đủ hoặc chưa giải quyết được.
CHƯƠNG 1: NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG
bé → lớn
Trong sơ đồ trên, ông cho rằng: từ ghép thuộc tổ hợp cố định, đoản ngữ
thuộc tổ hợp tự do.
Điểm khác biệt giữa hai tác giả này là ở chỗ: Nguyễn Thiện Giáp [44]
không thừa nhận từ ghép là từ, còn tiếng được Nguyễn Thiện Giáp coi là từ (bao
gồm cả những từ điển hình và những từ không điển hình). Từ đó ông kết luận:
“đường ranh giới rành mạch nhất, hiển nhiên nhất bao giờ cũng là đường ranh
giới độc lập một bên là “tiếng” ( từ điển hình, từ không điển hình) và một bên là
“tổ hợp tiếng” (bao gồm từ ghép và các tổ hợp cố định còn lại)”.
(2) Đại diện cho khuynh hướng thứ hai là các tác giả như Nguyễn Kim Thản
[120], Hoàng Tuệ [141], Đái Xuân Ninh [103], Lưu Vân Lăng [73], Hồ Lê [77],
[78], Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê [26], Nguyễn Văn Tu [136], [138],
Hoàng Văn Hành [57], Đỗ Hữu Châu [16], [21], Trần Ngọc Thêm [128]…. Mặc
dù giữa các tác giả này không phải là không còn tồn tại những điểm khác nhau như:
hệ thống phân loại khác nhau, tiêu chí phân loại khác nhau, sử dụng hệ thống thuật
ngữ khác nhau (người thì dựa vào tiêu chí khối lượng để chia thành hình vị lớn
hơn âm tiết, bằng âm tiết và nhỏ hơn âm tiết; người thì dựa vào tiêu chí nghĩa để
để chia thành hình vị thực, hình vị hư, hình vị hệ thống hay nguyên vị thực,
nguyên vị hư và nguyên vị hệ thống…) song về cơ bản họ đều cho rằng: (a) Tuy
còn có nhiều khó khăn trong việc phân định ranh giới từ TV song từ vẫn là một
thực thể, tồn tại với một tư cách là một ĐV cơ bản của TV, là khái niệm trung tâm
của Việt ngữ học, (b) để nhận diện từ, cần dựa vào các tiêu chí như: tính nhất thể
về ngữ âm, tính hoàn chỉnh về ngữ nghĩa, tính độc lập về cú pháp (khi hoạt động
trong lời nói), (c) tuy còn tồn tại những khó khăn nhất định song vẫn có thể chấp
nhận và vận dụng khái niệm hình vị vào phân tích cấu trúc từ TV, (d) từ TV về cơ
bản có thể phân thành: từ đơn, từ phức (bao gồm từ ghép và từ láy).
Những năm gần đây, đặc biệt là vào những năm cuối thế kỷ XX và những
năm đầu của thế kỷ XXI, lại nổi lên xu hướng coi tiếng (âm tiết) là từ, những tác
giả tiêu biểu cho khuynh hướng này là Cao Xuân Hạo [49], [54], [52], Nguyễn
Quang Hồng [60], [61]…. Chẳng hạn: Cao Xuân Hạo [52, tr.180-183,188] đã chỉ
ra rằng: “kích thước ngữ âm của hình vị TV là âm tiết (chiếm tới 97% hình vị TV)
và 100% trường hợp biên giới hình vị trùng với biên giới âm tiết (kể cả những
hình vị đa tiết), không có HT phụ âm cuối của một âm tiết đứng trước nhảy sang
một âm tiết khác bắt đầu bằng một nguyên âm để làm thay đổi diện mạo của nó đi,
mỗi âm tiết là một ĐV mang nghĩa, có cấu trúc chặt chẽ như từ của các ngôn ngữ
Châu Âu. Tình hình này cũng tương tự trong tiếng Trung Quốc. Bloomfield (1926)
cho rằng: “trong tiếng Trung Quốc, tiêu chuẩn để phân định từ là có hay không có
hình thức âm tiết (mỗi từ là một âm tiết gồm hai hay ba âm vị)” và còn nói rõ thêm:
“ngôn ngữ này không có hình thái ràng buộc” cho nên ngữ pháp “chung quy là cú
pháp, không có hình thái học”.
Cùng có quan điểm như Cao Xuân Hạo, Nguyễn Quang Hồng [61,tr. 215]
ngoài những vấn đề có tính lí luận còn đưa ra những số liệu quan trọng sau: (i) số
lượng (SL) âm tiết được sử dụng phổ biến trong TV văn hóa là 8590 âm tiết. (theo
Vương Hữu Lễ; 1974 là 6900 âm tiết. Theo Hoàng Tuệ và Hoàng Minh; 1978 là
6100 âm tiết). (ii) SL âm tiết có được trên lý thuyết là 19520 âm tiết. (iii) SL âm
tiết tiềm năng (không hoặc hầu như không được dùng đến) trong TV văn hóa hiện
đại là: 19520 - 5890 = 13630 (âm tiết tiềm năng). Cũng theo Nguyễn Quang Hồng
(dẫn lại của Đẳng Thiếu Văn; 1964), trong THHĐ có 1255 âm tiết được sử dụng
trong thực tế, 365 âm tiết tiềm năng và có khoảng 1620 âm tiết có thể có được
trong THHĐ, nếu loại trừ thanh điệu sẽ còn 408 khuôn âm tiết cho hệ thống ngữ
âm THHĐ (tr.219-224). Cũng theo Nguyễn Quang Hồng [60, tr.39] thì: SL âm tiết
cơ bản của tiếng Hán là ngày càng ít đi và hệ quả của nó là tiếng Hán sẽ ngày càng
có xu thế tiến gần tới chắp dính và chắc chắn sẽ kém điển hình hơn về mặt loại
hình so với TV.
Theo quan điểm của chúng tôi, khuynh hướng thứ hai mặc dù có những ưu điểm
nhất định trong việc nhận diện và phân định từ trong TV song vẫn phải dựa trên những
khái niệm cơ sở là âm tiết (tiếng) để lí giải. Trong LA này, chúng tôi tiếp thu những
thành tựu của khuynh hướng này song chúng tôi thấy rằng: giải thuyết âm tiết/tiếng – từ
một tiếng - hình vị là một thể ba ngôi là phù hợp hơn, có lợi hơn cho hướng đi của LA.
1.1.2. Theo John Lyons (89, tr.37-38-57), cùng với các khái niệm ngữ ngôn
(Langue), lời nói (Parole)… cho đến tận bây giờ thì thế nào là nghĩa (meaning)
và thế nào là nghĩa của từ vẫn là một vấn đề chưa có sự thống nhất. Chẳng hạn:
(1) Thuyết qui chiếu hay sở thị (denotational) cho rằng: “nghĩa của một biểu thức
chính là đối tượng mà biểu thức đó chỉ ra hay biểu thị hoặc đại diện. Chẳng hạn
“chó” thì có nghĩa hoặc là một tập hợp khái quát các con chó, hoặc là các đặc
trưng bản chất chung của chúng.”, (2) Thuyết ý niệm (ideational) hay tâm lý
(mentalistic) cho rằng “nghĩa của một biểu thức là cái ý niệm hay quan niệm gắn
với nó trong tư duy của những ai biết và hiểu được biểu thức đó.”, (3) Thuyết
hành vi (behaviourist) cho rằng “nghĩa của một biểu thức là cái kích thích được
gợi ra cho nó hay cái phản ứng mà nó gợi ra hoặc là sự kết hợp của hai thứ này
trong một tình huống phát ngôn cụ thể.”, (4) Thuyết nghĩa là cách dùng (meaning
is use) cho rằng “nghĩa của một biểu thức được xác định và đồng nhất với cách
dùng của nó trong ngôn ngữ.”, (5) Thuyết thẩm định (verification ist) thì cho rằng
“nếu một biểu thức có nghĩa thì cái nghĩa này được xác định bởi chứng cứ lấy từ
câu hay mệnh đề chứa biểu thức đó.”, (6) Thuyết điều kiện chân trị (truth
conditional) lại cho rằng “nghĩa của một biểu thức là sự đóng góp của nó vào
điều kiện chân trị của câu chứa nó.”. Và trên thực tế, vẫn không có thuyết nào tự
mình làm thành cơ sở cho một lí thuyết ngữ nghĩa học toàn diện và giàu sức giải
thích thực tiễn song chúng đều có những đóng góp nhất định cho việc xây dựng
một lí thuyết toàn diện hơn.
Để làm việc, trong LA này chúng tôi chấp nhận định nghĩa sau: “Nghĩa của
từ (cũng như của các ĐV ngôn ngữ khác) là quan hệ của từ với cái gì đó nằm
ngoài bản thân nó.” Đây cũng là quan niệm khá phổ biến trong giới Việt ngữ học
hiện nay. Theo chúng tôi, cần phân biệt rõ 02 vấn đề là: nghĩa (là nội dung tinh
thần, là quan hệ của từ với cái gì đó nằm ngoài bản thân nó) và vật sở chỉ (những
thực thể được từ, ngữ… chỉ ra. Trên thực tế, vật sở chỉ có thể có thực hoặc có thể
không có thực (là giả tưởng).
Về vấn đề cấu trúc của nghĩa từ, cũng có không ít những cách hiểu và quan
niệm khác nhau, cách sử dụng thuật ngữ cũng khác nhau, chẳng hạn: Đỗ Hữu
Châu [19, tr.103-105] cho rằng: các thành phần ý nghĩa chính trong từ (thực từ)
gồm 05 thành tố là: (1) nghĩa biểu vật (NBV), (2) nghĩa biểu niệm (NBN), (3)
nghĩa biểu thái (NBT), (4) nghĩa ngữ pháp, (5) những nét nghĩa liên hội. Nguyễn
Thiện Giáp [47, tr.125-128] cho rằng: nghĩa của từ bao gồm 04 thành tố là: (1)
nghĩa sở chỉ, (2) nghĩa sở biểu, (3) nghĩa sở dụng, (4) nghĩa kết cấu. Bùi Minh
Toán [133, tr.46-48] cho rằng: nghĩa của từ bao gồm 03 thành phần là: (1) thành
phần NBV, (2) thành phần NBN, (3) thành phần nghĩa tình thái. Ba thành phần
này làm nên nghĩa từ vựng của từ. Hoàng Dũng – Bùi Mạnh Hùng [35, tr.124] thì
cho rằng: nghĩa của từ bao gồm (1) nghĩa biểu hiện (là trung tâm của nghĩa từ, là
sự hợp thành của nghĩa sở biểu và nghĩa sở thị), (2) nghĩa liên hệ, (3) nghĩa liên
tưởng. Hoàng Phê [105, tr.14] thì cho rằng: nghĩa của từ bao gồm 02 thành phần
có cấp bậc khác nhau là: (1) nghĩa chính thức, (2) thành phần hàm ẩn (chỉ có ở một
số từ, không có giá trị thông báo chính thức). Hồ Lê [82, tr.155; tr. 179-226] cho
rằng: “về phương diện nghĩa, ngôn ngữ nào cũng đều có những nghĩa vị (nét nghĩa)
biểu vật, biểu niệm, biểu thái, biểu chức năng…”. Nghĩa vị theo Hồ Lê “là một ĐV
nghĩa” còn nghĩa “là một phạm trù”. Theo ông, “khi nói từ vị này có nhiều nghĩa
hoặc có nghĩa này, nghĩa kia thì cần hiểu là từ vị ấy mang nhiều nghĩa vị hoặc
mang nghĩa vị này, nghĩa vị kia…” (tr.198). Theo Hồ Lê “nghĩa vị phải là mô hình
được khái quát từ nhiều biến thể nghĩa cùng nội dung” (tr.206). Theo ông, cấu trúc
nghĩa trong một từ vị có thể được miêu tả bằng một trong 07 tập nghĩa vị (tr.276)
và hoàn toàn có thể xây dựng công thức của 04 loại nghĩa vị biểu vật, biểu niệm,
biểu thái, chức năng (tr.275). Lê Quang Thiêm [130, tr.177-178] thì cho rằng:
những thành phần nghĩa thường có mặt trong từ là (1) NBV, (2) NBN (là trung
tâm của nghĩa từ), (3) NBT….
Về cấu trúc của nghĩa từ, chúng tôi quan niệm: (1) có nhiều thành phần
nghĩa có mặt trong từ và những thành phần thường có mặt trong từ là: (a) NBV
(tồn tại trong thực từ), (b) NBN (là hạt nhân cơ bản, là cái ổn định, là trung tâm
của nghĩa từ), (c) NBT. (2) Cấu trúc của nghĩa từ là một cấu trúc có tính tôn ty
gồm nghĩa, nét nghĩa (nghĩa vị). Trong đó: nét nghĩa là những đặc trưng nhỏ
nhất, dùng để phân biệt từ này với từ kia. Chẳng hạn: nghĩa của 02 từ đàn ông,
đàn bà (TĐTV tr.206) có thể phân tích thành 02 nét nghĩa như sau:
Đàn ông Đàn bà
Người lớn + +
Nam giới + -
Đối với THHĐ, do đặc điểm nổi bật của từ vựng tiếng Hán là từ song tiết
(chiếm tới 67%) nên sự chú ý của các nhà từ vựng học tiếng Hán tập trung vào sự
phân biệt giữa nghĩa của từ và nghĩa của từ tố (nghĩa của hình vị cấu tạo từ). Về
việc xác định ĐV cơ bản của nghĩa từ, đại đa số họ đều cho rằng đó là nghĩa
hạng (là những nét nghĩa chung nhất, khái quát nhất giữa các nghĩa hạng, nghĩa
hạng là khái niệm tương đương với khái niệm nét nghĩa chung trong TV). Từ 02
khái niệm xuất phát là nghĩa hạng và nghĩa của từ tố nhiều nhà Hán ngữ chủ
trương chia từ ĐN thành 04 loại là: (1) toàn bộ nghĩa hạng của từ đều ĐN, (2) chỉ
có một nghĩa hạng là nghĩa của từ, còn lại là nghĩa của những từ tố ĐN, (3) từ đã
có nhiều nghĩa hạng lại kèm theo nghĩa của những từ tố ĐN, (4) đều là những từ
tố ĐN. Đây cũng là cơ sở để họ phân chia các nghĩa hạng thành 04 loại sau: (1)
nghĩa gốc, (2) nghĩa cơ bản, (3) nghĩa dẫn xuất, (4) nghĩa tỷ dụ. Trong đó: nghĩa
gốc là ý nghĩa xưa nhất, cổ nhất của từ được ghi lại. Nghĩa cơ bản là ý nghĩa chủ
yếu, thường dùng nhất của từ ngày nay. Là trường hợp hợp nhất giữa nghĩa gốc
và nghĩa cơ bản. Nghĩa dẫn xuất là ý nghĩa do phái sinh mà thành. Nghĩa dẫn
xuất gồm 02 loại: (i) phát triển từ nghĩa gốc, nghĩa cơ bản, (ii) phát triển từ nghĩa
dẫn xuất khác. Nghĩa tỷ dụ là ý nghĩa do những biện pháp tu từ về từ của từ cố
định lại mà thành.
1.3. VAI TRÒ CỦA CHỮ VIẾT TRONG VIỆC NGHIÊN CỨU HIỆN
TƯỢNG ĐỒNG ÂM VÀ HIỆN TƯỢNG ĐA NGHĨA
Như lí luận ngôn ngữ học đại cương (NNHĐC) đã chỉ rõ: đối tượng cụ thể
của ngôn ngữ học là “cái sản phẩm xã hội được lưu trữ trong óc mỗi người” hay
“ngôn ngữ thuộc về hệ thống bên trong, độc lập với chữ viết” và “ngôn ngữ và
chữ viết là 02 hệ thống dấu hiệu khác nhau” và “lí do tồn tại duy nhất của chữ
viết là để biểu hiện ngôn ngữ”. Song cũng chính lí luận NNHĐC cũng từng
khẳng định: “trong mỗi tập thể ngôn ngữ, cái sản phẩm này (ngôn ngữ) lại khác,
thành ra những cái chúng ta có được là những ngôn ngữ khác nhau” và
“…Chúng ta thường chỉ biết các ngôn ngữ qua chữ viết […] đặc biệt là đối với
những ngôn ngữ phương xa và những ngôn ngữ đã mất đi […] cho nên, tuy chữ
viết tự bản thân nó vốn xa lạ đối với hệ thống bên trong, vẫn không thể nào
không đếm xỉa đến nó vốn là biện pháp luôn luôn được dùng để biểu thị ngôn
ngữ, cần phải biết công dụng của nó, những nhược điểm của nó và những mối
nguy hiểm do nó gây ra.” Saussure [113, tr.67-68].
Cũng trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (tr.69), Saussure từng khẳng
định: “đối tượng của NNH không phải là sự kết hợp giữa cái từ được viết ra với
cái từ được nói ra, chỉ cái sau này mới là đối tượng của NNH. Song những từ viết
(chữ viết) luôn xen lẫn một cách khít khao với những từ nói (ngữ âm, âm thanh)
mà nó là hình ảnh…” hay “ngôn ngữ có một truyền thống phát âm độc lập với
chữ viết và lại cố định hơn nữa…”.
Ông đồng thời chỉ rõ 03 nguyên nhân khiến cho chữ viết có ưu thế hơn đối
với ngôn ngữ là: (1) trước hết, hình ảnh chữ viết của từ đập vào trí ta như một vật
cố định và vững chắc, thích hợp hơn là âm thanh đối với việc duy trì tính thống
nhất của ngôn ngữ qua thời gian. Mặc dầu mối liên hệ này rất hời hợt và tạo ra
một sự thống nhất thuần túy giả tạo, nó vẫn dễ thấy hơn nhiều, so với mối liên hệ
tự nhiên, mối liên hệ duy nhất chân chính của âm thanh, (2) ở phần lớn chúng ta,
các ấn tượng thị giác vẫn rõ và bền hơn các ấn tượng thính giác, cho nên người ta
thường bám vào loại trên hơn. Hình tượng chữ viết rốt cục lấn át âm thanh, (3)
ngôn ngữ văn học càng làm tăng thêm cái ưu thế không đáng được hưởng của
chữ viết. Nó có những pho từ điển, những bộ ngữ pháp của nó; người ta giảng
dạy ở nhà trường cũng theo sách và bằng sách; ngôn ngữ có một quy phạm chi
phối; mà cái quy phạm này cũng là một hệ thống luật lệ bằng chữ viết, tuân theo
một cách dùng nghiêm ngặt là chính tả, và thế là chữ viết đã có được một tầm
quan trọng hàng đầu. Rốt cục người ta quên mất rằng mình học nói rồi mới học
viết, và mối quan hệ tự nhiên bị đảo ngược lại. Cuối cùng, mỗi khi có sự mâu
thuẫn giữa ngôn ngữ và chính tả, thì bao giờ cuộc tranh chấp cũng khó giải quyết
đối với bất cứ ai không phải là nhà ngôn ngữ học lại không có tiếng nói ở đây,
cho nên hình thức chữ viết hầu như tất nhiên phải thắng thế, bởi lẽ bất cứ giải
pháp nào dựa vào nó cũng vẫn dễ hơn; do đó chữ viết tự gán cho mình một tầm
quan trọng mà nó không đáng có.
Saussure đồng thời cũng chỉ ra rằng: “chỉ có 2 loại chữ viết là loại biểu ý
(văn tự của người Trung Quốc) và loại chữ viết ngữ âm học” và “từ viết có xu
hướng thay thế cho từ nói trong trí óc ta; điều đó đúng với cả 2 loại chữ viết,
nhưng trong loại đầu (loại chữ viết biểu ý) xu hướng này mạnh hơn. Đối với
người Trung Quốc, chữ biểu ý và từ nói đều là những dấu hiệu của ý niệm như
nhau; đối với họ, chữ viết là một ngôn ngữ thứ hai, và trong khi nói chuyện, nếu
gặp 2 từ nói phát âm như nhau (ĐÂ), đôi lúc họ phải nhờ đến chữ viết để giải
thích ý nghĩ của mình. Nhưng sự thay thế này, vì nó có thể là tuyệt đối, không có
những hậu quả phiền hà như trong chữ viết của ta (chữ viết ngữ âm học), những
từ Trung Quốc thuộc nhiều phương ngữ khác nhau nhưng tương ứng với một ý
thì đều có thể cùng được biểu hiện bằng một chữ”.
Cũng trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, sau khi chỉ ra ưu thế của
chữ viết so với khẩu ngữ, Saussure đã giới hạn đối tượng nghiên cứu của mình ở
loại văn tự ngữ âm học và chỉ ra những nguyên nhân của tình trạng không ăn khớp
giữa cách viết và cách phát âm. Theo ông, có những nguyên nhân chính sau (1) do
ngôn ngữ biến hóa không ngừng trong khi chữ viết có xu thế đứng yên, (2) do sự
vay mượn hệ thống chữ cái của một dân tộc khác dẫn đến sự không tương thích…,
(3) do sự chi phối của từ nguyên học. Và những hậu quả của nó là: (1) chữ viết che
mất bộ mặt thật của ngôn ngữ, (2) chữ viết ngày càng ít biểu hiện cái mà nó phải
biểu hiện và cái xu hướng muốn lấy nó (chữ viết) làm cơ sở lại càng mạnh thêm
dẫn tới đảo ngược mối quan hệ chính đáng và hiện thực giữa chữ viết và ngôn ngữ,
(3) nó tác động đến ngôn ngữ và làm cho ngôn ngữ thay đổi (trong những ngôn
ngữ văn học) thậm chí là tạo ra những quái thai của chính tả.
Ở Việt Nam, ngay từ những năm đầu thế kỷ XX đã có rất nhiều ý kiến khen,
chê của các nhà khoa học về chữ Quốc ngữ như: Nguyễn Bạt Tụy [142]; nhóm
Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ, Phạm Duy Khiêm [70]; Cao Xuân Hạo [52]…. Trong
những ý kiến này đáng lưu ý là quan điểm của Cao Xuân Hạo [52, tr.157, 160-
161]. Theo Cao Xuân Hạo, nhược điểm của chữ Quốc ngữ chính là ở chỗ “nó có
tính chất thuần túy ghi âm và hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ biểu hiện nghĩa
mà lẽ ra nó phải đảm đương, và nhược điểm ấy bộc lộ rõ nhất và tai hại nhất là
trong các trường hợp các từ ĐÂ vốn có rất nhiều trong TV [….] Bỏ chữ Hán và
chữ Nôm là một tai họa không còn hoán cải được nữa nhưng người ta còn có thể
bổ cứu cho sự mất mát này bằng cách dạy chữ Hán như một môn bắt buộc ở
trường phổ thông. Người Việt sẽ không thể giỏi TV nếu không thấu đáo nghĩa
của các từ Hán Việt, vốn chiếm tỷ lệ hơn 70% trong vốn từ TV” (tr.160-161) và
“trên bình diện ngôn ngữ học lý thuyết, chữ quốc ngữ không phải là một cách
viết thích hợp với TV” (tr.157).
Theo chúng tôi, những luận điểm trên có một ý nghĩa hết sức quan trọng
trong việc nghiên cứu HTĐÂ, HTĐN trong TV và THHĐ. Chúng tôi cho rằng,
không thể phủ nhận hoàn toàn vai trò của chữ viết trong việc nhận diện, phân loại
các ĐVĐÂ trong THHĐ và một bộ phận không nhỏ từ ĐÂ của TV (ĐÂ Hán
Việt). Hơn thế nữa, chữ viết còn là một tiêu chí quan trọng bên cạnh các tiêu chí
âm, nghĩa tạo thành một bộ tiêu chí quan trọng (hình – âm – nghĩa) trong việc
phân biệt các ĐVĐÂ của THHĐ và các yếu tố cấu tạo từ (YT CTT) kiểu như:
đại trong các kết hợp đại ác (大恶), đại biểu (代表) thời đại (时代)… trong TV
hiện đại. Các yếu tố này hiện nay, do việc thay đổi văn tự (từ văn tự biểu ý sang
văn tự ngữ âm) đã che mờ những sự khác biệt về văn tự và ý nghĩa vốn tồn tại
thật trong những ĐV Hán Việt này của TV – một bộ phận mà theo ước tính là
chiếm gần 70% vốn từ TV và hiện vẫn có rất nhiều yếu tố có sức sản sinh từ
vựng mạnh và có một vị trí xứng đáng trong tâm thức của người Việt.
Chúng tôi, mặc dầu cũng ý thức được những đặc điểm phong phú đa dạng
và phức tạp của HTĐÂ trong TV song do nhiệm vụ chính đã được xác định nên
chọn cho mình một quan điểm là: các ĐVĐÂ trong TV đồng thời cũng là những
ĐV đồng tự dạng trong mọi dạng thức biểu hiện của ĐV ấy.
1.6. TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH CÁC ĐƠN VỊ ĐỒNG ÂM, ĐA NGHĨA VÀ
TỪ ĐỒNG ÂM ĐA NGHĨA
1.6.1. Trong ngôn ngữ học, 03 tiêu chí cần và đủ để xác định những ĐVĐÂ
là: (1) tiêu chí về ngữ âm (giống nhau về âm thanh), (2) tiêu chí nghĩa (khác nhau
về nghĩa), (3) tiêu chí quan hệ (không có quan hệ gì với nhau). Chẳng hạn: trong
tiếng Anh bank 1 (chỉ tổ chức tài chính) và bank 2 (chỉ sườn dốc của con sông) là
02 từ ĐÂ với nhau (ĐÂ hoàn toàn) vì có âm thanh giống nhau, có nghĩa khác
nhau, không có quan hệ về từ nguyên. Trong TV, ba 1 (chỉ số đếm sau số hai) và
ba 2 (chỉ người đàn ông trong mối quan hệ với con) là 02 từ ĐÂ. anh vũ 1 (chỉ
chim vẹt) và anh vũ 2 (chỉ một loài cá nước ngọt) cũng là 02 từ ĐÂ với nhau.
Trong THHĐ 尝 (thường) nếm và 长 (trường) dài là 02 từ đơn tiết ĐÂ với nhau.
会议 (hội nghị) hội nghị và 会意 (hội ý) hội ý, biết ý, hiểu ý là 02 từ song tiết
ĐÂ với nhau. Tuy vậy, trên thực tế, khi xác định những ĐVĐÂ một số nhà ngữ
học vẫn đưa thêm vào một số tiêu chí khác như: văn tự, dạng thức….
Theo chúng tôi, TV và THHĐ thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, không biến
đổi hình thái nên phương pháp xác định các ĐVĐÂ nói chung và từ ĐÂ nói riêng sẽ
không giống vói các ngôn ngữ Ấn Âu (không có ĐÂ hình thái), các từ đã có quan hệ
ĐÂ sẽ giữ mãi quan hệ đó trong tất cả quan hệ sử dụng của mình và mặc dù chữ viết
(văn tự) về lí luận chỉ là “cái để biểu hiện ngôn ngữ”, “ nằm ngoài ngôn ngữ”…
song do những đặc thù về lịch sử của 2 ngôn ngữ Việt, Hán như: trong TV có một
bộ phận không nhỏ từ Hán Việt (xấp xỉ 70 %), người Việt đã sử dụng chữ Hán trong
một thời gian dài song song với việc sử dụng văn tự âm vị học và THHĐ hiện vẫn
đang sử dụng loại văn tự biểu ý nên theo chúng tôi, bên cạnh 3 tiêu chí (ngữ âm, ý
nghĩa, quan hệ) thì tiêu chí phụ (tiêu chí văn tự) sẽ có một vai trò nhất định trong
việc xác định, phân loại các ĐVĐÂ trong 2 ngôn ngữ Việt, Hán (dùng để phân biệt
các ĐV ĐÂĐH trong tiếng Hán, phân biệt các ĐVĐÂ ngẫu nhiên với những ĐVĐÂ
được phân tách từ những ĐVĐN…).
1.6.2. Trong ngôn ngữ học, những tiêu chí thường được dùng để xác định một
ĐVĐN là: (1) tiêu chí SL nghĩa (có từ 2 nghĩa trở lên), (2) tiêu chí quan hệ (giữa các
nét nghĩa của một ĐVĐN hiện vẫn còn tồn tại mối quan hệ nào đó với nhau), (3)
tiêu chí từ nguyên (có quan hệ về từ nguyên học).
Theo thống kê của chúng tôi, trong TV, từ có nhiều nghĩa nhất là từ đánh
(có 27 nghĩa), trong tiếng Hán, từ có nhiều nghĩa nhất là từ 打(đả; có 25 nghĩa)
song phổ biến nhất là những từ có 2 hoặc 3 nghĩa. Về mặt quan hệ, các nghĩa của
một từ ĐN thường được xác định là phải có một mối quan hệ nào đó với nhau
thông qua một vài nét nghĩa chung và một số nét nghĩa loại biệt. Các nét nghĩa
loại biệt thường biểu thị các đối tượng khác nhau nhưng lại được đặt cơ sở trên
một số điểm giống nhau về chức năng, hình thức hoặc một thuộc tính nào đó của
đối tượng. Những tiêu chí này đã dẫn tới những hệ quả như: sự phân loại các ĐV
ý nghĩa trong một từ ĐN thành: (1) HT ĐNBV (phạm vi hiện thực khách quan
ứng với từ), HT ĐNBN, HT ĐNBT. (2) Nghĩa gốc (nghĩa chính) – nghĩa phụ, (3)
nghĩa cơ bản – nghĩa không cơ bản, (4) nghĩa tự do, nghĩa hạn chế, (5) nghĩa dẫn
xuất bậc một, nghĩa dẫn xuất bậc hai…. Đồng thời cũng là cơ sở quan trọng để
nhận diện hiện tượng đẳng cấu ngữ nghĩa trong ngôn ngữ (đó là những ĐV có
SL nét nghĩa như nhau, trật tự các nét nghĩa giống nhau, quan hệ giá trị của các
nét nghĩa giống nhau).
Theo quan điểm của LA, cùng với các phương pháp phân loại khác, việc
phân loại HTĐN thành: ĐNBV, ĐNBN, ĐNBT cũng là hướng phân loại hợp lí.
Trong đó, theo chúng tôi HT ĐNBN là HT cần được lưu tâm nhất bởi đó là dạng
nghĩa khái quát, ổn định, có tính hệ thống cao, nhờ đó mà ta mới có thể phân lập,
tổng hợp, mô tả theo đặc điểm và tôn ty. Mặt khác, dựa trên cấu trúc biểu niệm
thì mới có được cơ sở vững chắc để đối chiếu đặc điểm ĐN của các ngôn ngữ với
nhau, từ đó mới thấy được cái chung và cái riêng của từ ĐN trong các lớp từ
vựng hay trong các từ loại cơ bản của ngôn ngữ.
Qua thực tiễn thống kê, mô tả chúng tôi nhận thấy: đối với TV, mối quan hệ về
nghĩa trong các ĐVĐN thường được xây dựng trên 3 kiểu quan hệ là: quan hệ kế
tiếp, quan hệ song hành và xen kẽ kế tiếp với song hành.
1.6.3. Từ ĐÂ và ĐN là từ vừa ĐÂ (nằm trong một loạt ĐÂ nào đó) vừa ĐN
(có từ 02 nghĩa trở lên). Trong TV, từ ĐÂ và ĐN có mặt ở cả hai khu vực: khu
vực ĐÂCG và khu vực ĐÂKG, chúng bao gồm cả những ĐV đơn tiết và đa tiết.
Điểm khác biệt cơ bản giữa những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG và
những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂKG là ở chỗ: những ĐV vừa ĐÂ
vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG vẫn còn tồn tại một mối liên hệ về nghĩa nào đó
trong khi đó những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂKG thì không.
R (cất hàng), cất4 (cất vó) và ĐÂ không hoàn toàn như: chảy (chảy nước mắt), trảy
R R
(trảy quả). Loại ĐÂ từ vựng – ngữ pháp cũng bao gồm hai tiểu loại là: loại đơn giản
(chỉ có hai từ loại với nhau) kiểu như: bào (đgt) – bào (dt); về (giới từ) – về (về nhà).
Loại phức tạp (gồm nhiều từ loại khác nhau) như: dầu (liên từ) – dầu (dt) – giầu (tt)
– rầu (tt)”.
Phan Ngọc [100, tr.67] thì chia từ ĐÂ thành 06 loại là: (1) thuần Việt ĐÂ
với thuần Việt, (2) láy âm ĐÂ với láy âm, (3) thuần Việt ĐÂ với láy âm, (4) Hán
Việt ĐÂ với thuần Việt, (5) Hán Việt ĐÂ với láy âm, (6) Hán Việt ĐÂ với Hán
Việt. Từ việc xác lập 06 kiểu từ ĐÂ trên, ông lần lượt đi vào khảo sát từng kiểu
một và khẳng định: “Tuy về mặt cấu trúc có thể có 06 kiểu từ ĐÂ, nhưng một khi
TV đã là đơn tiết, thì chắc chắn HTĐÂ giữa từ thuần Việt với từ thuần Việt phải
là cơ bản nhất, tức là quen thuộc nhất… tần số xuất hiện nhiều nhất, làm cơ sở
cho mọi HTĐÂ khác” (tr 67). Theo kết quả khảo sát, phân tích của Phan Ngọc
thì đứng ở vị trí thứ hai trong 06 kiểu ĐÂ là kiểu Hán Việt ĐÂ với Hán Việt.
Nguyễn Thiện Giáp [44], [47; tr.174-178] chia từ ĐÂ thành 02 loại là: (1) ĐÂ
giữa từ với từ (là cơ bản nhất), (2) ĐÂ giữa ngữ và cụm từ (là sản phẩm hậu kỳ của
quá trình sử dụng ngôn ngữ) với 14 kiểu quan hệ. Tập thể tác giả Hữu Đạt, Trần Trí
Dõi, Đào Thanh Lan [36, tr.89-90] chia từ ĐÂ thành 02 loại là (1) ĐÂ hoàn toàn: là
ĐÂ giữa hai ĐV cùng cấp độ. Tức là ĐÂ giữa từ với từ hoặc giữa từ tố với từ tố, (2)
ĐÂ khác bậc: là kiểu ĐÂ giữa một từ tố với một từ độc lập”. Bùi Minh Toán [133,
tr.65] chia từ ĐÂ thành 04 loại là (1) ĐÂ từ vựng, (2) ĐÂ ngữ pháp, (3) ĐÂ đơn tiết,
(4) ĐÂ đa tiết. Nguyễn Văn Khang [69, tr.144,476] chia từ ĐÂ thành 03 loại là: ĐÂ
giữa từ Hán Việt với từ Việt, từ Hán Việt ĐÂ với từ Hán Việt, ĐÂ giữa từ mượn
Pháp với từ Việt, rồi lại chia nhỏ thành: ĐÂ giữa từ với từ, ĐÂ giữa hình vị với hình
vị, ĐÂ giữa từ với hình vị. Lê Quang Thiêm [130, tr.139-141] thì chia thành 02 loại
là (1) ĐÂ cùng bậc và (2) ĐÂ khác bậc và khẳng định “ĐV ĐÂ điển hình là từ bởi
từ là ĐV phức tạp về cấu trúc, ý nghĩa, đảm nhiệm nhiều chức năng và có nhiều
dạng thể hiện trong lời nói”…
Theo chúng tôi, tất cả những cách phân loại trên đều có cơ sở khoa học, vẫn
có giá trị giải thích đối với HTĐÂ trong TV. Và trong những thời điểm nhất định
đã giúp ích cho việc dạy và học TV. Song có lẽ do tiến hành thống kê trong
những bộ từ điển được biên soạn đã quá lâu nên số liệu tới nay đã không còn
hoàn toàn chính xác. Mặt khác, một số tác giả khi làm thống kê chưa thật sự triệt
để mà chỉ làm điểm một số mục từ rồi dựa vào đó để đoán định nên kết quả là bỏ
sót nhiều HTĐÂ lí thú của TV và khi kiểm tra lại thấy còn mơ hồ hoặc còn nhiều
sai sót. Chẳng hạn: Đỗ Hữu Châu [1981; tr. 229-230] cho rằng: “…HT ĐÂ trong
tiếng Việt xuất hiện khá nhiều ở những từ một âm tiết”. Theo kết quả thống kê xử
lí mục L trong từ điển của ông thì: “…Có tổng cộng 106 âm tiết tương đương với
hai từ trở lên và có 164 âm tiết tương đương với một từ. Ở các mục từ khác thì tỷ
lệ giữa các âm tiết ĐÂ và âm tiết một từ cũng xấp xỉ tỷ lệ trên. Còn những trường
hợp ĐÂ song tiết (02 âm tiết) là cực kỳ hiếm thấy…”. (chỉ thấy ông đưa ra có 06
cặp). Thống kê Từ điển từ đồng âm tiếng Việt; 2001 [58] chúng tôi thu được 136
loạt ĐÂST với 272 ĐV. Còn theo số liệu thống kê TĐTV 2006 của chúng tôi thì
trong TV hiện có tới 282 loạt ĐÂST với 577 ĐV.
Theo quan điểm của LA, nếu tiến hành phân loại các ĐVĐÂ theo hướng
đối lập từ địa phương với từ toàn dân thì sẽ đứng trước một tình trạng là rất khó
phân biệt được một cách rạch ròi giữa từ ĐÂ địa phương với từ ĐÂ toàn dân,
nhất là trong bối cảnh giao thoa ngôn ngữ mạnh mẽ như hiện nay. Những khó
khăn tương tự cũng là như vậy nếu chọn cách đối lập giữa từ thuần Việt với từ
Hán việt. Còn nếu tiến hành phân loại các ĐVĐÂ theo tôn ty, cấp bậc của các
ĐV ngôn ngữ thì cũng sẽ có một số khó khăn như: sự phân biệt giữa những ĐV
như từ ghép và ngữ cố định… là không rõ ràng. Còn nếu tiến hành phân loại các
ĐVĐÂ theo từ loại của chúng thì sẽ có một khó khăn như: cho tới tận bây giờ,
sự phân biệt các từ loại trong TV vẫn không thật sự rõ ràng, thậm chí còn có
nhiều ý kiến khác nhau. Chẳng hạn như sự phân biệt giữa đg từ với tt, giữa tt với
dt… Điều này dẫn tới một thực tế là sẽ có những ĐVĐÂ mà khi chú từ loại sẽ
phải dùng một giải pháp lưỡng khả là đg cũng được mà tt cũng được hay dt hay
tt cũng không sai. Khảo sát những ĐVĐÂ trong TĐTV 2006 chúng tôi thấy
những trường hợp như vậy là không hiếm gặp. Mặt khác, có một số ĐVĐÂ
nhưng đồng thời lại là những ĐVĐN, các nghĩa của những ĐVĐÂ - ĐN này lại
thuộc về các từ loại khác nhau và sự sắp xếp ý nghĩa này trước ý nghĩa kia nhiều
khi chỉ có tính võ đoán chứ không phản ánh một trật tự lôgic nào, lắm khi chỉ
phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người biên soạn…. Điều này chắc chắn sẽ ảnh
hưởng ở một mức độ nào đó tới việc thống kê, quy loại và đánh giá tỷ lệ các ĐV
ĐÂ trong nội bộ một từ loại và liên từ loại.
Ý thức được những khó khăn này, chúng tôi khi thống kê xử lí những ĐV
kiểu này đã triệt để tuân thủ một nguyên tắc là: lấy việc chú loại cho nghĩa thứ
nhất làm cơ sở quy loại cho ĐV được thống kê đối với những ĐVĐÂ có hai
nghĩa trở lên mà những nghĩa đó lại thuộc về những từ loại khác nhau…
Chúng tôi còn nhận thấy, ngoài Nguyễn Văn Tu [138], Nguyễn Đức Dân [32]
và Nguyễn Thiện Giáp [44], [47], các tác giả Việt ngữ khác khi tìm hiểu HTĐÂ
của TV dưới góc độ từ loại không thấy đề cập tới những HT mà trên thực tế đã
xẩy ra như: có HTĐÂ giữa những ĐV thuộc về nhiều từ loại khác nhau (trên 2 từ
loại), thậm chí lên tới 4 từ loại. Và ngoài những HTĐÂ thường gặp giữa các thực
từ thì còn có những HTĐÂ giữa những ĐV hư từ với nhau với nhiều dạng thức
khác nhau….Theo chúng tôi, nhìn nhận HTĐÂ dưới góc độ từ loại tuy có phức
tạp song nếu tiến hành triệt để, nhất quán thì những kết luận đưa lại vẫn có giá trị
tham khảo, vẫn có ích cho thực tiễn. Đứng trước những tồn tại chưa được giải
quyết của HTĐÂ trong TV và với những băn khoăn của mình, chúng tôi quyết
định thống kê, phân loại tất cả những ĐVĐÂ trong TĐTV 2006. Từ việc thống kê
đó, thử lật lại vấn đề dưới hai góc độ: từ góc độ SLÂT tham gia cấu tạo nên các
loạt ĐÂ và từ góc độ từ loại. Hi vọng rằng, với một cách làm triệt để sẽ tìm thấy
những khám phá mới về HTĐÂ trong TV hay chí ít ra cũng kiểm chứng và củng
cố được một cách chắc chắn những kết luận đã được một số tác giả đi trước nêu ra.
1.8.2. Về việc phân loại các ĐVĐN trong các ngôn ngữ cũng có nhiều ý
kiến khác nhau. Trong giới nghiên cứu Hán ngữ học, vấn đề phân loại các ĐV
ĐN trong tiếng Hán cũng là một vấn đề hết sức phức tạp. Đáng chú ý và hợp lý
hơn cả là quan điểm của Phù Phó Thanh [189]. Căn cứ vào nghĩa hạng và nghĩa
của từ tố, ông chia từ ĐN thành 04 loại: (1) toàn bộ nghĩa hạng của từ đều ĐN,
(2) chỉ có một nghĩa hạng là nghĩa của từ, còn lại là nghĩa của những từ tố ĐN,
(3) từ đã có nhiều nghĩa hạng lại kèm theo nghĩa của những từ tố ĐN, (4) là
những từ tố ĐN.
Trong TV, lấy đối tượng khảo sát là thực từ (dt, đg, tt), Đỗ Hữu Châu [19,
tr.131] phân loại các ĐVĐN thành: (1) HT nhiều NBV, (2) HT nhiều NBN, (3)
HT nhiều NBT trong đó: căn cứ để xác định từ nhiều NBV là phạm vi, các lãnh
vực sự vật hiện tượng thực tế khác nhau ứng với từ. Theo ông, phải lưu ý đến
HT nhiều NBV trong ngôn ngữ (đã cố định lại trong ngôn ngữ). Theo tác giả,
căn cứ để xác định một từ có nhiều NBN là dựa vào các tiêu chuẩn sau: (i) ý
nghĩa từ loại khác nhau, đặc điểm ngữ pháp khác nhau, (ii) đặc điểm ngữ pháp
của các từ loại và kèm theo là các ý nghĩa ngữ pháp của các từ loại nhỏ trong
một từ loại lớn, (iii) dựa vào tính đồng nhất giữa các NBN được tách ra trong
một từ với ý NBN của các từ khác. Theo ông, “SL NBN thường ít hơn SL NBV”
và “có nhiều cách phân loại ý nghĩa biểu vật của một từ (05 cách) và nên dùng
sự phân biệt nghĩa chính (nghĩa cơ bản) và nghĩa phụ”.
Nguyễn Thiện Giáp [44], [47; tr.148) thì chia thành: (1) HT từ ĐN (chiếm
tuyệt đối) và (2) HT ngữ ĐN (chiếm một tỷ lệ nhỏ). Theo ông, trong mỗi một từ
ĐN thì có thể có những nghĩa thuộc về nghĩa tự do, và có những nghĩa thuộc về
nghĩa hạn chế. Và trong một từ ĐN sẽ có một nghĩa là cơ bản và một số nghĩa là
phái sinh. Lê Quang Thiêm [130, tr.178] tuy không hiển ngôn về phân chia từ ĐN
song nhấn mạnh: “ĐN từ vựng trước hết là ĐNBN vì đó là dạng nghĩa khái quát,
ổn định, mang tính hệ thống cao, là yếu tố của ngôn ngữ. Nhờ có tính hệ thống ổn
định này mà ta mới có thể phân lập, tổng hợp, mô tả theo đặc điểm và tôn ty nhất
định trong từ điển…. Dựa trên cấu trúc biểu niệm thì mới có cơ sở để đối chiếu
đặc điểm ĐN của mỗi ngôn ngữ như là sản phẩm sáng tạo, như là thành tựu được
tập thể ngôn ngữ xây dựng nên. Nó cũng cho phép thấy rõ cái chung và cái riêng
của từ ĐN trong tất cả các lớp từ, các từ loại cơ bản của ngôn ngữ”.
Một số tác giả như Nguyễn Thiện Giáp [47, tr.150], Lê Quang Thiêm [130,
tr.178-179, 184] còn có xu hướng tích hợp thêm những tiêu chí về lượng (thống
kê phân loại các ĐVĐÂ, ĐN của TV dưới góc độ từ loại, SL nghĩa, SLÂT tham
gia cấu tạo nên các loạt ĐÂ, các ĐVĐN). Theo chúng tôi, đây là phương pháp
tiếp cận và phân loại hợp lí bởi nó cho phép chúng ta tiếp cận vấn đề từ cả 02
hướng bên trong và bên ngoài. Thông qua kết quả thống kê, xử lí từ điển của họ,
số liệu về các ĐVĐÂ, ĐN trong TV hiện lên một cách khá cụ thể. Đáng tiếc là
phương pháp này chưa được áp dụng một cách triệt để, nhất quán; khối ngữ liệu
thống kê còn nhỏ, thời gian thống kê cách đây đã khá lâu (trên 20 năm) nên cho
tới nay một số điểm đã không còn phù hợp, cần phải được kiểm chứng lại.
Có thể nói rằng, các nhà Việt ngữ học khi phân loại các ĐVĐN thường đi
từ các hướng tiếp cận như: (1) từ quan điểm hệ thống, cấu trúc luận và đều nhấn
mạnh đến những ĐVĐN thuộc ngôn ngữ như: từ ĐN, ngữ ĐN, ĐNBV cố định,
ĐNBN…, (2) từ quan điểm cú pháp học (từ loại, tôn ty…). Chúng tôi cho rằng:
những phương pháp tiếp cận và phân loại các ĐVĐN trên đây đều dựa trên
những cơ sở khoa học khách quan và đều góp phần bổ sung soi sáng cho HTĐN
trong TV. Song cũng phải thừa nhận một thực tế là cũng như một số các đường
hướng phân loại khác, sự phân loại này chưa bao giờ được áp dụng và kiểm
chứng một cách triệt để trên một khối ngữ liệu đủ lớn để xem năng lực giải thích
của chúng thế nào mà mới chỉ dừng ở việc chứng minh sự tồn tại của các
phương pháp phân loại này mà thôi. Trong LA này, chúng tôi sẽ bước đầu thử
nghiệm những tiêu chí phân loại khác như: (1) Tiêu chí về lượng (DLN, nét
nghĩa của các ĐVĐN), (2) tiêu chí từ loại, (3) tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo
nên một ĐVĐN…. Tuy nhiên, các phương pháp phân loại truyền thống cũng sẽ
được tham khảo và áp dụng trong một chừng mực nhất định mà chúng tôi cho là
hợp lí. Chẳng hạn, chúng tôi cũng sẽ đặc biệt chú ý tới việc đối chiếu cấu trúc
biểu niệm, biểu vật (HT đa nghĩa biểu niệm, đa nghĩa biểu vật) trong tiếng Hán
với TV thông qua việc so sánh một số đg, dt, tt… thuộc lớp từ vựng cơ bản của
02 ngôn ngữ. Từ đó chỉ ra những điểm tương đồng và dị biệt trong nhận thức và
phản ánh HTKQ của 02 dân tộc Việt, Hán.
1.8.3. Về vấn đề phân loại các ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN, căn cứ vào tiêu chuẩn:
các ý nghĩa của một ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN bao chứa/không bao chứa hoàn toàn
các nét nghĩa chúng tôi phân loại các ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN thành 02 loại là: (i)
ĐÂĐN đa nét nghĩa hoàn toàn và (ii) ĐÂĐN đa nét nghĩa không hoàn toàn.
ngữ nghĩa còn gọi là những ĐV ĐÂDH (chúng có hình văn tự khác nhau, có nghĩa
khác nhau, giữa những ĐV này không còn cảm nhận được bất cứ mối liên hệ nào về
nguồn gốc - ngữ nghĩa). Trong từ điển, những ĐV này được phân tách thành các đầu
mục riêng biệt như: 尝 (thường) có nghĩa là nếm ĐÂ với长 (trường) có nghĩa là dài,目
的 (mục đích) chỉ mục đích ĐÂ với 墓地 (mộ địa) chỉ nghĩa trang…
Các ĐVĐN trong TĐ THHĐ 2005 bao gồm cả những ĐV đơn tiết và đa tiết,
có mặt ở tất cả các từ loại của tiếng Hán, nhiều nhất về SL là các ĐV thuộc về
các từ loại như: dt, đg, hình dung từ, phó từ. Chúng bao gồm các ĐV là từ, ngữ
và hình vị cấu tạo từ (từ tố, ngữ tố). Trong đó ĐV trung tâm của HTĐN trong
THHĐ là từ ĐN (từ đơn tiết, từ song tiết).
R (mãn đường hồng) chỉ (cây, hoa) mãn đường hồng... rất hiếm gặp và thường là
ĐÂ ngẫu nhiên.
Theo số liệu của Trương Đình [163] thì: trong Hiện đại Hán ngữ từ điển;
1996 có 97,85% các ĐV đơn tiết được thống kê trong TĐ có liên quan tới ĐÂ và
có 15,157% các ĐV đa tiết được thống kê trong TĐ có liên quan tới ĐÂ. Còn số
liệu các ĐVĐÂ song tiết mà tác giả thống kê được trong Hiện đại Hán ngữ từ
điển 1996 chiếm 7,67% tổng số ĐV song tiết của từ điển. Còn theo số liệu của Cố
Việt [203] thì tổng số ĐVĐÂ của THHĐ là vào khoảng 9,5 %.
2.2.2. HTĐÂ trong THHĐ nhìn từ tiêu chí hình - âm – nghĩa
Như chúng ta đã biết, do những đặc điểm riêng mà ba tiêu chí hình – âm –
nghĩa đã từ lâu được coi là những tiêu chí quan trọng mà các nhà ngôn ngữ học
dùng để phân loại những ĐVĐÂ trong THHĐ. Từ góc độ này, các ĐVĐÂ của
tiếng Hán được phân loại thành ba loại lớn là: (1) ĐÂĐT, (2) ĐÂDT và (3) ĐÂ
phái sinh. Chẳng hạn: 在 (tại) có nghĩa là ở và再 (tái) có nghĩa là lại là hai ĐV đơn
tiết ĐÂDT. Còn 生地 P
1
P (sinh địa) là tên một vị thuốc và生地 2
P P (sinh địa) chỉ đất
hoang, đất không trồng trọt là những ĐV SÂT ĐÂĐT. Còn hai từ 盘 (bàn) và牌
(bài) vốn là những ĐV đơn âm tiết khác nhau, không ĐÂ với nhau nhưng sau khi
được 儿化 (nhi hóa) mà trở thành hai ĐVĐÂ với nhau. Chẳng hạn:
盘[bàn; pán] chậu rửa tay ->盘儿[pár] cái khay, cái mâm
牌[bài; pái] nhịp điệu -> 牌儿[pár] tấm biển của cửa hiệu
2.2.2.1. Hiện tượng đồng âm đồng hình trong THHĐ
ĐÂĐH là khái niệm dùng để chỉ những ĐV có âm đọc và hình chữ giống hệt
nhau nhưng có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau trong THHĐ như: 黑人1 (hắc nhân) chỉ P P
người da đen và黑人2 (hắc nhân) chỉ người không có hộ khẩu là hai ĐV song tiết
P P
ĐÂĐH với nhau. 生气 (sinh khí) có nghĩa là tức giận và生气2 (sinh khí) chỉ sức sống
1
P P P P
cũng là hai ĐV song tiết ĐÂĐH với nhau. Còn 叫1 (khiếu) có nghĩa là kêu, gáy và叫2
P P P P
(khiếu) có nghĩa là baûo, laøm cho, khieán cho là hai ĐV đơn tiết ĐÂĐH với nhau.
Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu Hán ngữ hiện đại, thuộc về HT
ĐÂĐH còn có:
(1) Hiện tượng đồng âm đồng hình giữa từ với từ tố
Ví dụ: 借1 (giá) tạm thời sử dụng tiền hay đồ vật của người khác là một từ đơn
tiết ĐÂ với借2 (giá) là một từ tố ( YT CTT) trong 借故 (giá cố) có nghĩa là mượn
cớ, vin vào cớ . 穷1 (cùng) là một từ đơn tiết có nghĩa là nghèo ĐÂ với穷2 (cùng) là
một YT CTT trong穷途 (cùng đồ) có nghĩa là đường cùng.
(2) Hiện tượng đồng âm đồng hình giữa từ tố với từ tố
Ví dụ: từ tố 津1 (tân) trong 津液 (tân dịch) chỉ nước bọt, nước miếng ĐÂ với
(tân) trong 津渡 (tân độ) chỉ bến sông, bến đò. Từ tố 工1 (công) trong 工
2
từ tố津
业 (công nghiệp) chỉ công nghiệp ĐÂ với từ tố工2 (công) trong 工作 (công tác) chỉ
công tác, lao động sản xuất.
Hiện nay, theo quan điểm phổ biến, những ĐV ĐÂĐH trong THHĐ được coi là
những ĐVĐÂ bị phân li từ những nét nghĩa của các ĐVĐN. Chúng có SL ít hơn nhiều so
với những ĐV ĐÂDT. Theo số liệu của Tạ Văn Khánh và Vương Chấn Côn [170] thì
trong Hiện đại Hán ngữ từ điển có 168 tổ hợp ĐÂST với 346 từ. Trong đó: từ ĐÂĐH là
65 tổ hợp với 130 từ chiếm 37% tổng số từ ĐÂST, từ song tiết ĐÂDH là 103 tổ hợp với
216 từ chiếm 62% tổng số từ ĐÂST. Còn theo số liệu của Lưu Xuyên Dân [161] thì trong
Hiện đại Hán ngữ từ điển có 273 tổ hợp là từ ĐÂ song tiết.
(3)Từ đồng âm đồng hình song âm tiết trong THHĐ
Tiến hành khảo sát, thống kê TĐ THHĐ 2005 chúng tôi thu được 317 loạt
ĐÂĐH SÂT với 645 ĐV. Trong đó phổ biến nhất là HT những loạt ĐÂĐH SÂT có
chứa hai ĐV. Những loạt có chứa 03 ĐV chỉ có 07 loạt dưới đây: (xin xem bảng 2.5)
Bảng 2.5. Bảng kê những loạt ĐÂĐH song tiết chứa 03 đv trong THHĐ 2005:
stt ĐV được thống kê Âm Hán Việt TĐ Trang
也罢, 你一定走,我送你上车。được rồi, anh muốn đi thì tôi sẽ tiễn anh lên xe.
Thí dụ 105: 会议 (hội nghị) chỉ hội nghị và 会意 (hội ý) có nghĩa là hiểu ý, biết
ý. Đây là hai ĐV ĐÂDT (khác nhau ở yếu tố cấu tạo thứ hai). 事物 (sự vật)
chỉ SVHT nói chung và 事务 (sự vụ) chỉ việc, công việc, việc hành chính
quản trị… cũng là hai ĐV ĐÂDT (khác nhau ở yếu tố cấu tạo thứ hai).
(2) Hình chữ hoàn toàn khác nhau
và ĐÂ với 肠 (trường) chỉ ruột là 3 ĐVĐÂ đơn tiết có hình chữ hoàn toàn khác
nhau. 目的 (mục đích) chỉ mục đích ĐÂ với 墓地 (mộ địa) chỉ nghĩa trang cũng là
những ĐVĐÂ song tiết có hình chữ hoàn toàn khác nhau. 密封 (mật phong) có
nghĩa là đóng kín, gói kín ĐÂ với 蜜蜂 (mật phong) chỉ mật ong là những ĐVĐÂ
tử) chỉ sổ sách, vở ghi chép nói chung. 刁1 (điêu) chỉ họ điêu ĐÂ với碉2 (điêu) trong
Trên thực tế thì những ĐV ĐÂDH (bao gồm cả đơn tiết lẫn đa tiết) là những
ĐV có SL đông đảo nhất và cũng là những ĐV làm nên diện mạo chính cho HTĐÂ
trong THHĐ.
2.2.3. Hiện tượng đồng âm phái sinh trong THHĐ nhìn từ góc độ cấu từ pháp
Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu từ vựng học Trung Quốc thì ĐÂ
phái sinh là khái niệm dùng để chỉ “những từ mà ban đầu có âm đọc không giống
nhau, sau khi âm biến đổi mà trở thành Đ” (Phù Phó Thanh; 1983; tr.77). Hay:
“hình thức ban đầu của những từ ĐÂ phái sinh là những từ có âm đọc khác nhau,
do sự chi phối có quy luật của sự biến đổi ngữ âm của từ, có một số từ ban đầu
không Đ sau khi biến đổi trở thành Đ” (Tôn Thường Tự; 1957; tr.207). Thuộc
về từ ĐÂ phái sinh có các loại: (i) Do HT biến điệu về thanh điệu ở từ song tiết,
(ii) do việc bảo lưu một số âm cổ trong một số vùng phương ngôn, (iii) do việc
tiếp nhận và sử dụng từ nước ngoài, (iv) do 儿化 đưa lại…Trong LA này chúng
tôi bước đầu đi vào tìm hiểu loại ĐÂ phái sinh do 儿化 đưa lại.
Trong THHĐ, HTĐÂ phái sinh nói chung và HTĐÂ phái sinh do 儿化 đưa
Khảo sát, so sánh từng cặp từ trên ta thấy: khi chưa chịu sự tác động của 儿
化 chúng là những từ khác nhau về âm đọc, chỉ giống nhau về thanh điệu và có
cùng một kiểu kết thúc vận mẫu. Sau khi chịu sự tác động của 儿化 trở thành hai
từ hoàn toàn ĐÂ. Chẳng hạn: 盘 [pán] chậu rửa tay và 牌 [pái] nhịp điệu là hai
từ khác nhau về âm đọc, chỉ giống nhau về thanh điệu và có cùng một kiểu kết
thúc vận mẫu (khai khẩu hô), sau khi chịu sự tác động của 儿化 trở thành hai từ
hoàn toàn ĐÂ: 盘儿 [pár] cái khay, cái mâm;牌儿 [pár] tấm biển của cửa hiệu.
Tương tự như vậy 柜 [gùi] và 棍 [gùn] cũng là hai từ khác nhau về âm đọc,
chỉ giống nhau về thanh điệu và có cùng một kiểu kết thúc vận mẫu (hợp khẩu
hô), sau khi chịu sự tác động của 儿 化 trở thành hai từ hoàn toàn ĐÂ:
柜儿 [gùr] cái tủ, cái két;棍儿 [gùr] cái que, cái gậy…
Qua việc phân tích các ví dụ ta thấy: xét về bản chất thì loại ĐÂ phái sinh sau 儿
化 không những có nguyên nhân từ quá trình 儿化 đưa lại mà còn có nguyên nhân từ
cách kết thúc đuôi vần trong THHĐ, liên quan tới khái niệm tứ hô (四呼). Để rõ ràng
hơn chúng tôi xin được nói rõ hơn về vấn đề này: tứ hô là khái niệm chỉ những cách
kết thúc đuôi vần trong cấu trúc âm tiết tiếng Hán với 04 kiểu: khai khẩu hô (开口呼 ),
chỉ những vận mẫu là [i] hoặc lấy [i] làm giới âm. Căn cứ vào TĐ THHĐ thì trong
tiếng Hán có khoảng 400 âm tiết, nếu tính âm tiết mang thanh điệu thực sử dụng thì có
khoảng 1250 âm tiết (nếu tính cả những âm tiết có 儿化 thì SL còn lớn hơn). Trong
400 âm tiết này thì có tới 83 âm tiết có kiểu kết thúc này. Hợp khẩu hô chỉ những vận
mẫu là [u] hoặc lấy [u] làm giới âm, loại này gồm 114 âm tiết. Toát khẩu hô chỉ
những vận mẫu là [ü] hoặc lấy [ü] làm giới âm, loại này có SL ít (chỉ có 24 âm tiết).
Khai khẩu hô chỉ những vận mẫu không dùng [i, u, ü] cũng không lấy [i, u, ü] làm
giới âm. Loại này gồm 179 âm tiết, chiếm gần ½ SL âm tiết của tiếng Hán.
Thực tế cho thấy rằng: loại ĐÂ phái sinh sau 儿化 chỉ nảy sinh ở những từ
khác nhau, có cùng một kiểu kết thúc đuôi vần, cùng thanh điệu, sau khi chịu tác
động của quá trình 儿化 mà trở thành ĐÂ. Mặt khác, từ số liệu thống kê ta cũng có
thể dự đoán rằng: tiềm năng sản sinh ra loại ĐÂ phái sinh sau 儿化 nhiều nhất xếp
theo thứ tự là nhóm âm tiết khai khẩu hô, hợp khẩu hô, tề xỉ hô và toát khẩu hô.
Theo chúng tôi loại ĐÂ phái sinh sau 儿化 thuộc về HTĐÂ ngẫu nhiên
song cái cơ chế tạo ra HT này là rất đặc biệt, nó thuộc về lĩnh vực ĐÂ song lại có
liên quan mật thiết tới tới HT 儿化 trong THHĐ. Còn HTĐÂ phái sinh trong
THHĐ nói chung có quan hệ tới việc giao thoa giữa ngôn ngữ toàn dân và ngôn
ngữ địa phương cũng như với HT biến đổi ngữ âm trong lời nói…
Có thể nói rằng, sản sinh ra những lớp từ vựng mới nhằm thỏa mãn nhu cầu của cuộc
sống luôn là yêu cầu cấp thiết của mọi ngôn ngữ. Bên cạnh những phương thức sản sinh từ
vựng thường gặp, trong một số ngôn ngữ chúng ta còn thấy những phương thức sản sinh
đặc biệt khác và phương pháp phái sinh dùng 儿化 và ĐÂ phái sinh sau 儿化 trong
THHĐ là một ví dụ điển hình. Nó điển hình vì bởi nó không tìm thấy trong tiếng Hán cổ và
cũng không tìm thấy trong các ngôn ngữ đơn lập khác như TV. Từ cách thức và sản phẩm
mà nó tạo ra cho chúng ta thấy rõ hơn những nét đại đồng tiểu dị trong các ngôn ngữ thuộc
về cùng một loại hình.
những dị biệt nhất định và kiểu các ĐVĐÂ phái sinh sau 儿化 và các ĐV ĐÂDH là
Bảng thống kê tỉ lệ đơn/đa nghĩa của các đơn vị từ vựng trong TĐTV 2006
Đơn nghĩa Đa nghĩa
34504 ĐV (chiếm 86,42%) 5420 ĐV (chiếm 13,58 %)
39924 ĐV (100%)
Nhìn từ góc độ từ loại chúng tôi nhận thấy: HTĐN của TV nhiều nhất
là ở dt, kế đó là đg, tt rồi đến các từ loại khác.
Nhìn từ DLN, có thể thấy rằng: TV là một ngôn ngữ có DLN thấp, phần
lớn các ĐVĐN của TV là các ĐV có 02 hoặc 03 nghĩa, những ĐV có 07
nghĩa trở lên chỉ chiếm 1,42%. Từ góc độ này thì đg lại là từ loại có nhiều
nghĩa nhất, kế đó là dt và tt.
Các ĐVĐN trong TV thuộc loại có cấu tạo đơn giản, phần lớn là các ĐV
đơn tiết và song tiết, những ĐV nào có cấu tạo phức tạp nhất cũng chỉ lên tới 04
âm tiết là cùng và cũng chỉ có một SL rất ít.
Quan hệ giữa các nghĩa trong từ ĐN TV phần lớn thuộc về 03 kiểu là: (i)
quan hệ kế tiếp (quan hệ phái sinh), (ii) quan hệ song song và (iii) quan hệ kế tiếp
xen kẽ với song song.
3.1.2. Phân loại hiện tượng đa nghĩa trong tiếng Việt
- Hướng phân loại từ cấu trúc nghĩa của từ
Từ góc độ cấu trúc ngữ nghĩa, các ĐVĐN của TV có thể được phân loại
thành: HT ĐNBV, HT ĐNBN, HT ĐNBT. Ba thành phần ý nghĩa trên đây là các
thành phần ý nghĩa thường có mặt ở trong từ. Trong đó:
Căn cứ để xác định tính nhiều NBV là các phạm vi, các lĩnh vực, SVHT
thực tế khác nhau ứng với từ.
Căn cứ để xác định tính nhiều NBN của từ là: (i) Ý nghĩa từ loại khác nhau
và đi kèm với chúng là các đặc điểm ngữ pháp khác nhau. (ii) Các đặc điểm ngữ
pháp của các từ loại và đi kèm với chúng là các ý nghĩa ngữ pháp của các từ loại
nhỏ trong một từ loại lớn. (iii) Tính đồng nhất giữa các NBN được tách ra trong
một từ với ý NBN của các từ khác.
Do DLN của các ĐVĐN TV phần lớn là thấp (những ĐV có 02 và 03 nghĩa
chiếm trên 90 %) nên sẽ dẫn đến một hệ quả tất yếu là: cấu trúc của các ĐV ĐN
BV, ĐNBN, ĐNBT trong TV phần lớn cũng sẽ là kiểu cấu trúc đơn giản. LA
bước đầu chỉ khảo sát, phân tích một số HT ĐNBV, ĐNBN cố định mà thôi.
3.1.2.1.Hiện tượng đa nghĩa biểu vật
Thí dụ 01: Âu 1 d. 1. Âu tàu (nói tắt) 2. ụ (để đưa tàu lên thuyền) (TĐTV, tr. 19)
Phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của từ âu 1 ta thấy: danh từ âu 1 là từ ĐNBV.
Cụ thể, danh từ từ âu 1 có có 02 NBV dưới đây:
Từ Nghĩa biểu vật của từ
âu 1 1. NBV 01: Chỉ âu tàu (nói tắt)
2. NBV 02: Chỉ ụ (để đưa tàu lên thuyền)
Thí dụ 02: Ăn mày I đg. 1. Xin của bố thí để sống. Xách bị đi ăn mày. 2. Cầu xin
của Thánh, Phật theo quan điểm tín ngưỡng. Ăn mày của Phật. (TĐTV, tr. 13)
Phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của động từ ăn mày I ta thấy: động từ ăn mày I
cũng là một từ ĐNBV. Động từ ăn mày I có 02 NBV sau:
Từ Nghĩa biểu vật của từ
1. NBV 01: Xin của bố thí để sống.
ăn mày I 2. NBV 02: Cầu xin của Thánh, Phật theo quan điểm tín ngưỡng.
Thí dụ 03: Bạc bẽo t. 1. Không nghĩ gì đến tình nghĩa, ân nghĩa. Ăn ở bạc bẽo. 2.
Không đền bù tương xứng với công lao. (TĐTV, tr. 24)
Phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của tính từ bạc bẽo ta thấy: tính từ bạc bẽo
cũng là một từ ĐNBV. SL NBV của tính từ bạc bẽo được phân tích như sau:
dập, đứng 2 , kể, rút, bắt, đâm, chết, tròn, choI, đểI, điểmI, kêuI, màI, ngoàiI,
R R
3.2. ĐỐI CHIẾU MỘT SỐ HTĐN TRONG TIẾNG VIỆT VỚI THHĐ
3.2.1. Các đơn vị đa nghĩa trong THHĐ
Cũng như trong TV, HTĐN trong THHĐ cũng có nhiều biểu hiện phong
phú và phức tạp. Về quan niệm, các nhà Hán ngữ hiện đại cũng chủ trương xác
định một ĐV ĐN dựa trên 02 tiêu chí là: (i) tiêu chí về lượng: có từ 02 nghĩa
(nghĩa hạng) trở lên, (ii) tiêu chí quan hệ: các nghĩa hạng của một ĐVĐN có
quan hệ với nhau. Chẳng hạn, hai ĐV dưới đây là 02 ĐVĐN:
Thí dụ 07: 插 [ tháp]1. Cắm, cấy, giâm, giắt, gài, thọc (vào) 2. Chen, cắm, nhúng, chõ,
chêm (vào).
尝 [ thường] 1. Nếm 2. Nếm trải. (TĐ THHĐ tr. 140, 154).
Từ góc độ ĐV cơ bản của ngôn ngữ, các ĐVĐN của tiếng Hán có thể là
những ĐV đơn tiết như: 插,尝... có khi là những ĐV đa tiết (từ 02 đến 06 âm
tiết) như: 有一搭, 没一搭 (hữu nhất đáp, một nhất đáp).
Từ góc độ các ĐV ngôn ngữ và góc độ cấu từ pháp ta thấy: các ĐVĐN của
tiếng Hán có thể là một ngữ như: 吃白饭(ngật bạch phạn), 站住脚(trạm trú
trống, khuyết: 补一个缺 (bù vào một chỗ khuyết). (TĐ THHĐ tr. 1134).
Kiểu 2: chỉ có một hoặc một số nghĩa hạng của từ còn lại là nghĩa của
những từ tố ĐN như:
Thí dụ 09: 折 (chiết): 1. gấp, gập, xếp: 把信折好装在信封里 (gấp xong thư, bỏ
vào phong bì) 2. sổ, tập: 存折(sổ tiết kiệm). (TĐ THHĐ tr. 1725).
Kiểu 3: từ đã có nhiều nghĩa hạng lại kèm theo nghĩa của những từ tố ĐN.
Chẳng hạn như nghĩa của từ 风(fēng; phong) dưới đây:
Thí dụ 10: 风(fēng) 1. Gió. 2. Làm khô (bằng sức gió): 风干 Hong cho khô. 晒干
风净 Phơi khô quạt sạch. 3. Hong: 风鸡 gà hong, 风肉 thịt hong. 4. Nhanh như gió: 风
发 hăm hở/phấn khởi. 风行 thịnh hành. 5. Phong khí/phong tục: 蔚然成风 Phát triển
mạnh mẽ thành phong trào. 移风易俗 Thay đổi phong tục. 不正之风 Phong khí bất
chính/nếp làm sai trái. 6. Cảnh tượng: 风景 phong cảnh. 风光 Phong quang. 7. Thái độ:
作风 Tác phong. 风度 Phong độ. 8. Phong thanh/tin đồn/tin tức: 闻风而动 Nghe tin
liền nổi dậy. 刚听见一点风儿就来打听 Vừa nghe thấy một chút phong thanh liền tới
hỏi thăm. 9. Đồn đại/không có căn cứ chắc chắn: 风闻 Nghe đồn. 风言风语 Lời đồn
nhảm/điều bịa đặt. 10. Dân ca: 采风 Thu thập dân ca. 11. (đông y chỉ một số bệnh)
bệnh phong: 鹅掌风 Bệnh tổ đỉa. 羊痫风 Bệnh động kinh. (TĐ THHĐ tr.405).
Trong các nghĩa của từ 风(fēng) trên thì các nghĩa 1, 4, 7 là nghĩa của từ,
các nghĩa còn lại là nghĩa của từ tố.
Kiểu 4: đều là nghĩa của từ tố như:
Thí dụ 11: 元1 (nguyên): 1. Đầu tiên, thứ nhất: 元始 (nguyên thủy). 2. Đứng đầu:
状元 (trạng nguyên). 3. Chủ yếu, cơ bản, cơ sở: 元素(nguyên tố),元音(nguyên âm). 4.
Nguyên tố: 一元论 (nhất nguyên luận). 5. Tổ hợp tự cấu thành chỉnh thể hoặc hệ thống:
Thí dụ 12: 阿姨 (a di): 1. Dì, dà (chị gái, em gái của mẹ). 2. Cô, dì (xưng gọi
người phụ nữ cùng thế hệ và tuổi xấp xỉ với mẹ mình). 3. Cô (xưng gọi cô bảo mẫu).
( TĐ THHĐ tr. 01).
Thuộc về động từ như:
Thí dụ 13: 安排 (an bài): 1. Xếp đặt, sắp đặt, bố trí (việc, người): 安排工作(bố trí
công tác). 安排生活(tổ chức đời sống). 安排他当统计员(cắt đặt anh ta làm nhân viên
thống kê). 2. Quy hoạch, sắp xếp, tổ chức:重新安排家乡的山河 (quy hoạch lại núi sông
Thí dụ 14: 安静 (yên tĩnh): 1. Yên tĩnh, yên lặng: 病人需要安静 (người bệnh cần
yên tĩnh). 2. Yên, yên ổn: 孩子睡得很安静 (con ngủ rất yên giấc). 过了几年安静生活
thị mức độ cao nhất): Nhất trên đời, chẳng gì bằng, cực kì, hết mức: 再好不过(tốt
kì kháu khỉnh). 2. (phó từ, biểu thị phạm vi thu hẹp): Chỉ có, vẻn vẹn, không quá,
chỉ, mới có: 当年她参军的时候不过十七岁 (hồi ấy, khi chị tòng quân tuổi mới
mười bảy). 3. (liên từ, đứng đầu phân câu sau, biểu thị sự trái ngược): Nhưng,
song, chỉ có điều là: 病人精神还不错,不过胃口不太好 (bệnh nhân tinh thần vẫn
khá, có điều là ăn uống chưa ngon miệng lắm). (TĐ THHĐ tr.112).
Đặc biệt, trong các ĐV đơn tiết thường có nhiều từ loại tham gia vào việc
tạo nên các nghĩa hạng của một ĐVĐN. Chẳng hạn như:
Thí dụ 17: 爱 (ái): 1. đg: Yêu, chuộng: 爱劳动 (yêu lao động). 他爱上了一个姑娘
(anh ta đem lòng yêu một cô gái). 2. đg: Thích, ưa: 爱游泳 (thích bơi) 爱看电影 (thích xem
phim). 3. đg: Quý, trọng: 爱公物 (quý của công). 爱集体荣誉 (trọng vinh dự tập thể). 4.
phó từ: Hay, dễ (nảy sinh): 爱笑 (hay cười).爱哭 (hay khóc). 铁爱生锈 (sắt dễ gỉ). 5. dt:
Tình yêu, lòng thương yêu, tình: 谈情说爱 (tình tự). 母爱 (tình mẹ). 同志爱 (tình đồng
Thí dụ 19: 扳手(ban thủ): 1. Cờ lê, lắc lê (dụng cụ vặn mở ốc vít, ê cu). 2. Tay quay, cán
棒子(bổng tử): 1. Cái gậy. 2. Chỉ ngô (một loại ngũ cốc). (TĐ THHĐ tr.42).
包子(bao tử): 1. Bánh bao. 2. Nồi luyện gang thép. (TĐ THHĐ tr. 44).
Thí dụ 20: 哎 (ai): 1.Ôi, ôi chao, ồ, ơ kìa (tỏ ý ngạc nhiên hoặc không vừa lòng):
哎,真是没想到的事 (ôi, thật là một chuyện không thể nào ngờ). 2. Này, nè (tỏ ý nhắc
nhở): 哎, 我倒有个办法,你们大家看 行不行 (này, tôi có một biện pháp, mọi người
Thí dụ 21: 矛盾 (mâu thuẫn): 1. Chỉ 02 loại vũ khí thời cổ đại (mâu để đâm và
thuẫn để đỡ). 2. Mâu thuẫn (trong phép biện chứng chỉ mối quan hệ giữa các mặt đối
lập trong nội bộ sự vật khách quan và trong tư tưởng của người ta, vừa dựa vào nhau
vừa bài xích lẫn nhau). 3. Mâu thuẫn (trong lôgích hình thức chỉ mối quan hệ giữa hai khái
niệm bài xích lẫn nhau hoặc giữa hai phán đoán không thể cùng đúng cũng không thể cùng
sai). 4. Mâu thuẫn (chỉ chung các sự vật đối lập bài xích lẫn nhau) 他俩的意见有矛盾 (ý
kiến của hai người ấy có mâu thuẫn với nhau). (TĐ THHĐ tr. 923).
Có thể là những ĐV được sắp xếp theo kiểu: từ cụ thể đến khái quát như:
Thí dụ 22: 标号 (tiêu hiệu): 1. Mác (chữ số ghi tính năng vật lí của sản phẩm như
xi măng mác 200, 300…). 2. Dấu, kí hiệu (nói chung). (TĐ THHĐ tr. 88).
Có thể là những ĐV được sắp xếp theo một trật tự dẫn xuất: S 1 -> S 2 ->
S 3 …như:
Thí dụ 23: 标兵 (tiêu binh): 1. Tiêu binh (người đứng làm mốc ranh giới trong duyệt
binh, mít tinh). 2. (ví người hoặc ĐV gương mẫu): Tấm gương, mẫu mực, kiểu mẫu: 树立
标兵 (dựng kiểu mẫu, nêu tấm gương). 服务标兵 (tấm gương phục vụ, phục vụ kiểu mẫu).
标的 (tiêu đích): 1. Cái bia (tập bắn). 2. Mục đích. 3. Chỉ tiêu (hàng hóa, lao động,
hạng mục công trình… mà quyền lợi mà nghĩa vụ của hai bên kí hợp đồng cần cùng nhau
đạt tới). ( TĐ THHĐ tr. 88).
正房 (chính phòng): 1. Nhà chính, nhà trên. 2.Vợ cả. ( TĐ THHĐ tr. 1739).
Có thể là những ĐV được sắp xếp theo kiểu “song song” như:
Thí dụ 24: 按 1 (án): 1. (dùng ngón tay hoặc tay) Ấn, bấm, đè: 按电铃 (bấm
chuông). 按图钉(bấm đinh ghim bản đồ). 按脉 (bắt mạch). 一手按着纸 (một tay đè lên
giấy). 2. Ỉm đi, gác lại, để lại, ém: 按下此事不说 (ỉm việc đó đi không nói). 3. Nén, kìm,
ức chế: 按不住心头怒火 (không nén nổi tức giận). 4. (tay) Đặt lên: 按剑 (tay đặt lên
đốc kiếm). 5. Theo, dựa vào: 按时上班 (làm ca theo giờ). 按质论价 (định giá theo chất
lượng). 按制度办事 (làm việc theo đúng chế độ). ( TĐ THHĐ tr. 10).
Thí dụ 25: 正面 (chính diện): 1. Chính diện, mặt trước, mặt tiền, phía trước: 正
có tám trụ đá hoa). 一连从正面进攻,二连,三连侧面包抄 (đại đội một tấn công trực
diện, đại đội hai, đại đội ba đánh vòng hai bên). 2. Mặt phải, mặt ngoài, mặt trước, mặt
trên của vật mỏng: 牛皮纸的正面比较光滑 (mặt phải của giấy bao bì khá nhẵn). 3.
Mặt tốt, mặt tích cực, chính diện: 正面人物(nhân vật chính diện). 正面教育 (giáo dục
mặt tốt). 4. Mặt phải, mặt bộc lộ (của sự việc, vấn đề…): 不但要看问题的正面,还要看
问题的反面(không những phải xem xét mặt phải của vấn đề, mà còn phải xét tới cà mặt
trái của vấn đề). 5. Trực tiếp, thẳng, trực diện: 有问题正面提出来,别绕弯子(có vấn đề
chính trên sân khấu, nhiều người ở hậu đài hát họa theo). 2. (tỷ dụ) Về hùa, phụ họa, ủng hộ, nói
chẳng có ai về hùa ủng hộ, cũng không dám kiên trì nữa). ( TĐ THHĐ tr. 40).
病根 (bệnh căn): 1. Bệnh căn, bệnh cũ (chưa chữa khỏi hẳn): 这是坐月子时留
下的病根 (đây là bệnh cũ hồi ở cữ để lại). 2. (ví với nguyên nhân gây ra thất bại, tai
họa): Căn nguyên, mầm tai họa, mầm bệnh: 我厂连年亏损的病根要找出来 (phải tìm
ra căn nguyên làm nhà máy ta mấy năm liên tiếp thua lỗ). ( TĐ THHĐ tr. 100).
园丁(viên đinh): 1. Người làm vườn, nhân viên công ti cây xanh. 2. Người trồng
trận). 铁扇公主打败了(công chúa Thiết Phiến đã bị thua trận). 2. Chiến thắng, đánh thắng,
đánh bại (kẻ thù): 孙行者打败了铁扇公主 (Tôn Hành Giả đã đánh thắng công chúa
Thiết Phiến). 孙行者把铁扇公主打败了(Tôn Hành Giả đã đánh bại công chúa Thiết
bị đánh bại: 这场比赛如果你们打败了,就失去赛资格 (trận đấu này nếu các anh thua
瞪眼 (trực mi trừng nhãn), 抓耳挠腮 (trảo nhĩ náo tai), 打败 (đả bại), 打包 (đả bao)…
Các ĐV này phần lớn là ngữ (từ tổ, đoản ngữ), có cấu tạo và cấu trúc ngữ nghĩa
đơn giản (thường là có 02 nghĩa hạng) và có một đặc điểm đặc biệt là các nghĩa
hạng luôn luôn đối lập nhau. Theo chúng tôi, đây là những ĐVĐN hết sức thú vị
cần tiếp tục đào sâu nghiên cứu.
3.2.2. Phân loại các đơn vị đa nghĩa trong THHĐ
Cũng như trong TV, vấn đề phân loại các ĐVĐN trong tiếng Hán cũng rất
phức tạp. Trên thực tế đã có các giải pháp phân loại sau đây:
(i) Xuất phát từ cấu trúc ngữ nghĩa để phân loại thành ĐNBV, ĐNBN, ĐN
BT, (ii) dựa vào trật tự, tính chất giữa các nghĩa hạng để chia thành: nghĩa cơ bản
(nghĩa gốc), nghĩa chuyển (nghĩa dẫn xuất, nghĩa tỷ dụ), (iii) dựa vào tần xuất sử
dụng hay phạm vi rộng hẹp để chia thành: nghĩa thường dùng và nghĩa không
thường dùng, (iv) dựa vào quan hệ chặt/ lỏng giữa các nghĩa hạng để phân loại
thành: nghĩa tự do và nghĩa không tự do, (v) dựa vào ĐV ngôn ngữ để phân loại
thành nghĩa của từ và nghĩa của từ tố (hình vị), (vi) dựa vào SLÂT tham gia cấu
tạo để phân loại thành từ đơn tiết ĐN và từ đa tiết ĐN…
Song cũng như trong TV, phần lớn những công trình có đề cập tới vấn đề
phân loại các ĐVĐN của tiếng Hán chỉ đi vào chứng minh lý do tồn tại của các
giải pháp phân loại này hơn là việc đi vào chứng minh khả năng giải thích, ứng
dụng vào thực tiễn của các giải pháp phân loại trên. Những công trình chứng
minh được tính hiệu quả của việc phân loại và giải thích cũng như khả năng bao
quát khối ngữ liệu rất ít, chủ yếu tập trung vào mảng ĐÂĐH là mảng có giao
thoa với HTĐN (Tạ Văn Khánh, Vương Chấn Côn, 1980; Lưu Xuyên Dân, 2001;
Chu Anh Quý, 2002). Số liệu về các ĐVĐN trong THHĐ rất sơ sài, thiếu bổ
sung cập nhật.
Chúng tôi, trong LA này, bước đầu thử nghiệm hướng phân loại các ĐVĐN
của THHĐ từ các tiêu chí: (i) Từ DLN của các ĐVĐN, (ii) từ cấu tạo của các ĐV
ĐN (SLÂT tham gia cấu tạo nên các ĐVĐN), (iii) từ góc độ từ loại. Do đứng trước
một khối ngữ liệu quá lớn nên chúng tôi chủ trương: (i) Chỉ thống kê điểm một số
mục từ trong TĐ THHĐ 2005 (mục A,B; có tham khảo những mục từ còn lại) để
chứng minh hiệu quả của giải pháp phân loại từ tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo nên
các ĐVĐN trong THHĐ. (ii) Quét toàn bộ ngữ liệu của TĐ THHĐ 2005 đối với 02
hướng phân loại còn lại. Sau đây là kết quả thống kê, phân loại cụ thể:
3.2.2.1. Phân loại các ĐVĐN trong THHĐ từ tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo
Thống kê điểm một số mục từ trong TĐTHHĐ 2005 (mục A,B) từ tiêu chí
SLÂT tham gia cấu tạo chúng tôi thu được kết quả sau: (xem bảng 3.3)
Bảng 3.3 Bảng thống kê, phân loại các ĐVĐN trong TĐ THHĐ 2005 mục
A,B từ tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo:
Tổng số ĐVĐN Số lượng âm tiết tham gia cấu tạo
Đơn tiết Đa tiết
02 âm tiết 03 âm tiết 04 âm tiết
339 đv 46 đv 18 đv
403 đv
692 đv 289 đv 84,12 % 11,41 % 4,47 %
Tỷ lệ % 41,76 % 58,24 %
Kết hợp với số liệu của các mục từ khác trong TĐ chúng tôi nhận thấy: các
ĐVĐN của tiếng Hán gồm 02 loại: đơn tiết (chiếm tỷ lệ thứ yếu) và đa tiết
(chiếm tỷ lệ chủ yếu). Kết quả khảo sát còn cho thấy, các ĐV đa tiết ĐN trong
tiếng Hán có cấu tạo từ 02 đến 06 âm tiết, trong đó thường gặp nhất, có SL nhiều
nhất là những ĐV song tiết như: 爱人(ái nhân), 安静 (yên tĩnh)… nhưng có khi
là những ĐV có cấu tạo 03 âm tiết như: 站住脚 (trạm trú giảo, 04 nghĩa), 吃白
饭 (ngật bạch phạn, 03 nghĩa )…, có khi lại là những ĐV có cấu tạo 04 âm tiết
như: 缩手缩脚 (súc thủ súc giảo, 02 nghĩa), 直眉瞪眼 (trực mi trùng nhãn, 02
nghĩa), có khi là những ĐV có cấu tạo 05 âm tiết như: 无政府主义 (vô chính
phủ chủ nghĩa, 02 nghĩa) và có cấu tạo tối đa là 06 âm tiết như: 有一搭没一搭
(hữu nhất đáp, một nhất đáp, 02 nghĩa). Các ĐVĐN có cấu tạo từ 03 âm tiết trở
lên trong tiếng Hán có SL ít và có DLN không cao (thường chỉ có 02 hoặc 03
nghĩa), quét toàn bộ TĐ THHĐ 2005 chúng tôi chỉ thu thập được 01 ĐV có cấu
tạo 03 âm tiết có 04 nghĩa là: 站住脚 (trạm trú giảo, 04 nghĩa), và duy nhất 01
ĐV có cấu tạo 04 âm tiết có 05 nghĩa là: 昏天黑地 (hôn thiên hắc địa).
Các ĐVĐN SÂT trong tiếng Hán tuy chiếm tỷ lệ áp đảo hơn song có DLN
không cao (thường gặp nhất là có 02 hoặc 03 nghĩa). Thống kê toàn bộ TĐ THHĐ
2005 chúng tôi chỉ thu thập được 07 ĐV có 06 nghĩa là: 底子(để tử); 上面 (thượng
(quan hệ), 04 ĐV có 07 nghĩa là: 倒是 (đảo thị); 人事 (nhân sự); 什么 (thân ma); 抓
挠 (trảo náo); và chỉ tìm được duy nhất 01 ĐV có 08 nghĩa là: 一头 (nhất đầu). Và
cũng chỉ thống kê được 46 ĐV có 05 nghĩa bao gồm cả từ và ngữ. (xem bảng 3.4)
Bảng 3.4 Bảng thống kê các ĐVĐN song tiết có từ 05 nghĩa hạng trở lên
trong THHĐ 2005:
stt ĐV ĐN Âm Hán Việt SL nghĩa TĐ trang
01 总理 tổng lí 05 nghĩa 1814
02 组织 tổ chức 05 nghĩa 1820
03 左右 tả hữu 05 nghĩa 1825
04 交通 giao thông 05 nghĩa 680
05 理会 lí hội 05 nghĩa 835
06 没有 một hữu 05 nghĩa 927
07 门户 môn hộ 05 nghĩa 944
08 勉强 miễn cưỡng 05 nghĩa 1053
09 内线 nội tuyến 05 nghĩa 570
10 后身 hậu thân 05 nghĩa 572
11 厚实 hậu thực 05 nghĩa 591
12 怀抱 hoài bão 05 nghĩa 617
13 活动 hoạt động 05 nghĩa 1715
14 站住 trạm trú 05 nghĩa 1719
15 招呼 chiêu hô 05 nghĩa 1739
16 正面 chính diện 05 nghĩa 1594
17 一定 nhất định 05 nghĩa 1628
18 引子 dẫn tử 05 nghĩa 1059
19 破坏 phá hoại 05 nghĩa 1114
20 清爽 thanh sảng 05 nghĩa 1146
21 人情 nhân tình 05 nghĩa 1218
22 生活 sinh hoạt 05 nghĩa 1243
23 世界 thế giới 05 nghĩa 1363
24 通报 thông báo 05 nghĩa 1378
25 秃噜 thốc lỗ 05 nghĩa 1398
26 外家 ngoại gia 05 nghĩa 1419
27 尾巴 vĩ ba 05 nghĩa 1468
28 下海 hạ hải 05 nghĩa 335
29 独立 độc lập 05 nghĩa 231
30 粗重 thô trọng 05 nghĩa 257
31 大小 đại tiểu 05 nghĩa 213
32 窗口 song khẩu 05 nghĩa 143
33 碴儿 tra nhi 05 nghĩa 156
34 场面 trường diện 05 nghĩa 366
35 发火 phát hỏa 05 nghĩa 379
36 反映 phản ánh 05 nghĩa 383
37 方便 Phương tiện 05 nghĩa 390
38 放炮 phóng pháo 05 nghĩa 399
39 分解 phân giải 05 nghĩa 408
40 风情 phong tình 05 nghĩa 450
41 高低 cao đê 05 nghĩa 454
42 高压 cao áp 05 nghĩa 457
43 疙瘩 ngật đáp 05 nghĩa 464
44 根本 căn bản 05 nghĩa 526
45 过去 quá khứ 05 nghĩa 117
46 不行 bất hành 05 nghĩa 117
Từ số liệu trên có thể thấy rằng: (i) Các ĐVĐN có cấu tạo phức tạp trong
tiếng Hán có SL nhiều hơn trong TV, (ii) cũng như các ĐVĐN của TV, các ĐV
ĐN trong tiếng Hán cũng có chung một quy luật là: những ĐV nào có cấu tạo
càng đơn giản thì ý nghĩa càng phức tạp và ngược lại, những ĐV nào có cấu tạo
càng phức tạp thì ý nghĩa càng đơn giản. Và nếu như trong TV, vấn đề ĐN của
những ĐV đơn tiết là vấn đề nổi bật hơn thì trong THHĐ, vấn đề ĐN của những
ĐV đa tiết lại là vấn đề cần được lưu tâm hơn (đặc biệt là với những ĐV SÂT).
Điều này cũng có nghĩa là, trong THHĐ, vấn đề nghĩa của từ tố (hình vị) là một
trọng tâm cần chú ý.
3.2.2.2. Phân loại các ĐVĐN trong THHĐ từ tiêu chí DLN
Từ danh sách 692 ĐVĐN thống kê được trong TĐ THHĐ 2005 chúng tôi
tiếp tục phân loại các ĐV này từ tiêu chí DLN, kết quả như sau: (Xem bảng 3.5)
Bảng 3.5 Bảng phân loại các ĐVĐN song tiết trong TĐTHHĐ 2005 mục
A,B từ tiêu chí DLN:
Tổng số Dung lượng nghĩa
ĐV ĐN
02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 13
473 117 37 28 11 07 08 05 04 01 01
đvị đvị đvị đvị đvị đvị đvị đvị đvị đvị đvị
590 đvị 102 đvị
692 đvị
Tỷ lệ % 85,26 % 14,74 %
Kết hợp với số liệu của các mục từ khác trong TĐ chúng tôi nhận thấy: các
ĐVĐN của tiếng Hán có dung lượng từ 02 đến 25 nghĩa. Trong đó những ĐV có
Với mục đích so sánh những ĐVĐN ít gặp trong TV và THHĐ, chúng tôi tiến
hành thống kê những ĐV có từ 07 nghĩa trở lên trong TĐ THHĐ 2005 và thu
được số liệu sau: (Xem bảng 3.6)
Bảng 3.6 Bảng TK các ĐV có từ 07 nghĩa hạng trở lên trong TĐ THHĐ 2005:
SỐ LƯỢNG NGHĨA Sl & Tlệ
07 08 09 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 25 slg tl
đơn đa đơn đa
87 04 75 01
91 76 49 28 14 09 09 07 04 01 01 02 02 01 01 295
%
So sánh bảng số liệu này với số liệu thống kê những ĐV có từ 07 nghĩa trở
lên trong TĐTV 2006 chúng tôi thấy: những ĐV có từ 07 nghĩa trở lên trong
THHĐ có SL lớn hơn trong TV (gần gấp 05 lần). Trong những ĐV có từ 07
nghĩa trở lên thì đại đa số là các ĐV đơn tiết (290/295 ĐV). Số liệu này chứng tỏ
rằng: về tổng quát THHĐ không những có SL các ĐVĐN nhiều hơn TV mà
THHĐ còn có nhiều ĐVĐN có cấu trúc ngữ nghĩa phức tạp hơn TV.
Trong cả hai ngôn ngữ Việt, Hán đều có các kiểu quan hệ ngữ nghĩa phổ biến
như: quan hệ dẫn xuất, quan hệ song song, quan hệ xen kẽ giữa dẫn xuất và song song,
quan hệ hình nhánh. Tuy nhiên, kiểu từ có cấu trúc nghĩa đối lập nhau trong tiếng Hán
phổ biến hơn trong TV và HT hình vị cấu tạo từ ĐN trong TV ít gặp hơn trong THHĐ.
3.2.3. Đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa, ngữ dụng của các từ ăn, hoa, hồng, đỏ
từ 花1 trong THHĐ
Nằm trong lớp từ chỉ thực vật thuộc hệ thống từ vựng cơ bản, lại là 02 ĐV
có cấu trúc ngữ nghĩa đặc biệt (vừa có điểm tương đồng, vừa có điểm khác biệt).
Để làm rõ những điểm tương đồng, dị biệt này, chúng tôi sẽ tiến hành đối chiếu
cấu trúc ngữ nghĩa của từ hoa 1 trong TV với từ花1(hoa) trong THHĐ.
đg; có nghĩa là: tiêu dùng, sử dụng. Đây cũng không phải là đối tượng của LA.
Khảo sát cấu trúc ngữ nghĩa của danh từ hoa 1 trong TV qua một số từ điển,
tự điển do người Việt biên soạn chúng tôi có được kết quả sau: (Xem bảng 3.7)
Bảng 3.7 Bảng thống kê nghĩa của từ hoa 1 qua các tự điển, từ điển do người
Việt Nam biên soạn:
Stt Nguồn Số Lượng nghĩa
Tự điển chữ Nôm (Nguyễn Quang 1. Chỉ cơ quan sinh sản hữu tính của loài cây
Hồng chủ biên) Nxb GD 2006; tr 481. có hạt, thường có màu sắc, hương thơm.
01
2. Hình dung sự vật tươi đẹp.
花 3. Hình dung vẻ đẹp của người phụ nữ. Nói
[kèm 14 dẫn liệu] về người phụ nữ.
TĐ từ Hán – Việt (Phan Văn Các) Nxb 1. d. Cơ quan sinh sản của cây hạt kín,
TP HCM 2001; tr 190. thường có hương thơm và màu sắc.
02
2. (Vch). Người con gái đẹp.
花 3. Phần mười của lạng.
[kèm 09 dẫn liệu] 4. Có hình hoa.
5. Choáng váng, có cảm giác như các vật
xoay tròn.
6. Vung tròn lên (một vũ khí).
TĐ Hán – Việt (Đào Duy Anh) Nxb 1. Bộ phận trọng yếu của loài cây kết thành
Trường Thi 1957; tr 365. quả.
03
[kèm 54 dẫn liệu] 2. Sắc tạp loạn.
3. Chỉ Ả đào hoặc đĩ.
4. Bệnh đậu trời.
5. Tiêu phí. (化)
TĐTV (Văn Tân chủ biên) Nxb KHXH Hoa. - Cơ quan sinh sản của cây bí tử
1967; tr 492. thường có hương thơm và màu sắc.
04
Tách từ “Hoa” thành 04 từ ĐÂ. Ngb. Từ chỉ phụ nữ đẹp trong văn học xưa:
[Không chú chữ Hán; kèm 39 dẫn liệu] hoa sao hoa khéo đọa đày bấy hoa (k).
Hoa. - Quáng mắt vì bệnh ánh sáng quá
mạnh rọi vào hoặc bị rối loạn về sinh lí.
Hoa. – “Hoa tai” nói tắt: đeo hoa tai.
Hoa. – Hòn dái của gà đã luộc rồi.
TĐTV 2006, Nxb Đà Nắng (Hoàng 1. Cơ quan sinh sản hữu tính của cây hạt kín,
Phê chủ biên) tr 444. thường có màu sắc và hương thơm. Hoa sen.
05
[Không chú chữ Hán; kèm 51 dẫn liệu] Ra hoa. Kết quả. Cười tươi như hoa.
2. Cây trồng để lấy hoa làm cảnh. Trồng
hoa. Mấy khóm hoa. Vườn hoa nhiều hương
sắc.
3. Vật có hình tựa bông hoa. Hoa lửa. Hoa
tuyết. Hoa đèn.
4. (id). Hoa tai (nói tắt). Đeo hoa.
5. (Kng). ĐV đo khối lượng, bằng một phần
mười lạng, ngày trước được tính bằng dấu
hoa thị trên cán cân. Ba lạng hai hoa.
6. (Dùng phụ sau dt). Hình hoa trang trí. Đĩa
men hoa (có hình hoa). Vải hoa. Chiếu hoa.
7. (Kết hợp hạn chế). Dạng chữ đặc biệt, to
hơn chữ thường, thường dùng ở đầu câu và
đầu danh từ riêng. Viết hoa. Chữ A hoa.
Việt Nam Quấc Âm Tự Vị (Huỳnh Tịnh Hán (bông).
Của) 1895; tr 427. 1. Cái tinh anh cây cỏ.
06
2. Phát ra có nhiều màu sắc.
花 [kèm 36 dẫn liệu] 3. Cái tốt.
4. Cái nhuân nhụy.
TĐ từ và ngữ Hán – Việt (Nguyễn 1. Bông hoa; Người con gái.
07 Lân) Nxb TĐBách Khoa 2002; tr 303. 2. Tốt đẹp; Nước Trung Hoa.
(không chú chữ Hán).
Song nhập 02 từ 华 và 花 vào làm
một.
[kèm 25 dẫn liệu]
TĐTV (Thanh Nghị) Sài Gòn 1951; tr Hoa1 (huê) dt.
550. (Tách ra làm 05 từ ĐÂ). 1. Phần trong cây cỏ nở ra đầu mút cành
08
[Không chú chữ Hán; với 50 dẫn liệu] nhỏ, để rồi kết thành quả: Có hoa rồi mới có
quả (…).
Ngb. a, Người đàn bà (tươi tốt, mong manh
như hoa) (…).
b, Ả đào, đĩ: hoa liễu.
2. Bịnh đậu trời: lên hoa.
Hoa2 tt. (khd).
1. Rực rỡ; Hoa – mỹ.
2. Nói chữ viết lớn, khác với chữ thường
(…)
Hoa3 đt. Huơ, vẩy, động đậy: hoa chân múa
tay.
Hoa4 (khd). Nước trung Hoa nói tắt (…)
Hoa5 đt. Choáng, làm chói: lửa sáng quá hoa
cả mắt.
Tự - điển Việt – Nam Phổ - Thông (Đào 1. Bộ - phận sinh – thực của cây cối, thường
Văn Tập) Sài Gòn 1951; tr 270. có hương có sắc (nh. Bông): (…)
09
[Không chú chữ Hán; kèm 39dẫn liệu] 2. Vật gì hình cái hoa: (…)
3. Đẹp (…)
4. Con gái đẹp (…)
5. Chỉ chữ viết lối lớn và đặc biệt cho khác
với chữ nhỏ thường (…)
6. Hoa tai (…)
7. Hoa mắt (…)
Tự điển Việt Nam (Hội Khai Trí Tiến Hoa1.
Đức) 1931; tr 238. 花 1. Bộ phận của cây cỏ nảy ra, thường kết
10
thành quả (…)
(tách ra thành 02 từ ĐÂ ĐH)
2. Nghĩa rộng: Cái gì có hình giống cái hoa:
[kèm 20 dẫn liệu]
Hoa đèn.
Hoa2: Choáng: Trời nắng hoa cả mắt.
Từ kết quả thu thập, xử lí nghĩa của hoa1 qua các bộ TĐ trên, chúng tôi thấy:
Cách các bộ TĐ của ta giải thích nghĩa của từ hoa1 là rất khác nhau và không
thống nhất, cụ thể là: (i) khác nhau ở SL nghĩa ( SL nghĩa dao động từ 02 đến 07
nghĩa). (ii) Khác nhau ở việc tách các nghĩa của một ĐVĐN có chung một âm đọc là
hoa ra thành một số ĐVĐÂ: Tự điển Việt Nam, 1931, tách 花ra thành 02 từ ĐÂĐH;
TĐTV (Thanh Nghị), 1951, tách ra làm 05 từ ĐÂ). Ngược lại với việc tách các nghĩa
của từ hoa thành các ĐVĐÂ là việc nhập các nghĩa của một số ĐVĐÂ có cùng âm
đọc là hoa vào một ĐVĐN (Nguyễn Lân, Đào Văn Tập, Phan Văn Các…). Nguyên
nhân của sự khác nhau thì có nhiều nhưng chủ yếu là do liên quan tới lí luận của các
tác giả về vấn đề ĐÂ, ĐN, liên quan tới việc có/không chú Hán tự (những từ điển, tự
điển có chú Hán tự thì tính ổn định cao hơn và những sự khác biệt giữa họ về cơ bản
là đều có thể lí giải được), do quá trình mở rộng ý nghĩa của từ hoa theo thời gian.
Thậm chí là do những sai lầm hay nhầm lẫn của các nhà biên soạn TĐ đưa lại. LA lấy
cách giải nghĩa của từ hoa1 trong TĐTV 2006 làm điển mẫu để phân tích và đối chiếu
Xem xét cách giải thích nghĩa của từ hoa1 trong TĐTV 2006 ta thấy: (i) hoa1 là
một ĐVĐN ít gặp, là một ĐVĐN đa nét nghĩa không hoàn toàn. (ii) Các nghĩa của
hoa1 được sắp xếp theo kiểu từ nghĩa gốc đến nghĩa phái sinh (s1 -> s2 -> s3 -> s4 -> s5 ->
s6 -> s7 ). (iii) Trong 07 nghĩa của hoa1 thì nghĩa phái sinh thứ ba (chỉ những vật có
hình tựa bông hoa) là nghĩa được sử dụng nhiều nhất hiện nay còn các nghĩa 05, 06,
07 xét về bản chất cũng chỉ là những nghĩa phái sinh ra từ nghĩa thứ 03 này mà thôi.
Các kết hợp có chứa hoa1 theo nghĩa này cũng chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số các
kết hợp được thống kê trong từ điển. (iv) Trong các nghĩa của hoa1 thì các nghĩa 01 và
03 là những nghĩa thường dùng và cổ xưa nhất, nghĩa 07 là nghĩa sau này mới có (liên
quan tới chữ quốc ngữ và những quy định chính tả của chữ quốc ngữ).
Khảo sát các kết hợp có chứa hoa 1 trong TĐTV 2006 ta thấy: (i) hoa 1 là yếu
tố chính trong các kết hợp chính - phụ của những từ hay ngữ định danh như: hoa
đèn, hoa đăng, hoa lệ, hoa mĩ, hoa tai, hoa thị, hoa văn, hoa môi, hoa lá 1 , hoa
hiên, hoa loa kèn…(ii) có khả năng kết hợp với một số yếu tố khác để tạo ra một
số ẩn dụ từ vựng cố định như: hoa lá 1 , hoa hoét: (có hàm ý chê, mỉa mai những
biểu hiện phô trương hình thức), hoa nguyệt (ẩn dụ thường dùng để nói về
chuyện trai gái, cũng có lúc đảo ngược trật tự thành nguyệt hoa), hoa niên (ẩn dụ
chỉ tuổi trẻ - tuổi được coi là tuổi đẹp nhất trong đời người), hoa râm (ẩn dụ chỉ
tuổi trung niên), hoa tàn nhị rữa (ẩn dụ chỉ sắc đẹp của người phụ nữ đã bị tàn tạ),
hoa tay (ẩn dụ chỉ dấu hiệu biểu thị tài nghệ khéo léo có tính chất bẩm sinh của
con người), hoa cái (ẩn dụ chỉ xương sọ của người chết)…
Trong tiếng Hán, chữ gốc của花1 là 华và còn viết là 华. Hình chữ trong kim
văn giống như một đóa hoa. Về sau (từ tiểu triện, lệ thư, khải thư, thảo thư, hành thư
và chữ giản thể) có thêm bộ thảo đầu “艹” ở trên. Trong kinh thi, 花1 có nghĩa gốc là
chỉ hoa. Ví dụ: 桃之夭夭, 灼灼其华Cây đào mơn mởn, rực rỡ những hoa. Về sau,
Thuyết văn, 花1 cũng được giải thích là phồn vinh, tươi tốt: 华,荣也Hoa là phồn vinh.
Trong Cổ Hán ngữ tự điển của Vương Lực, (tr.1045) 花1 có 05 nghĩa sau:花1 1. Chỉ
đóa hoa. 2. Chỉ những vật có hình dạng giống bông hoa. 3. Chỉ những vật có màu sắc,
hoa văn. 4. Chỉ màu sắc tạp loạn. 5. Chỉ dung mạo xinh đẹp của phụ nữ.
Trong TĐTHHĐ 2005, hiện có 02 từ花 ĐÂĐH, trong đó: 花1 là danh từ, 花2
là động từ, có nghĩa là tiêu dùng/sử dụng. Đối tượng của LA là花1. Trong
1. (~ 儿) Hoa: 一朵花儿 Một bông hoa. 2. (~ 儿) (Một loại thực vật dùng để
thưởng thức) Hoa: 花木 Hoa, cây cảnh. 花盆儿 Chậu hoa. 花儿匠 Thợ trồng hoa. 种花
Trồng hoa. 3. (~ 儿) (Vật có hình dạng như cái hoa) Hoa: 灯花儿 Hoa đèn. 火花 Hoa
lửa/ tia lửa. 雪花 Hoa tuyết. 4. (Một loại pháo hoa) Hoa: 花炮 Pháo hoa. 礼花 Pháo
hoa/ pháo bông. 放花 Đốt pháo hoa. 5. (~ 儿) Vân hoa: 白地蓝花儿 Nền trắng vân hoa
xanh. 这被面花太密 Chiếc vỏ chăn này vân hoa quá dày. 6. (Trang trí bằng hoa) Hoa:
花圈 Vòng hoa. 花篮 Lẵng hoa. 花灯 Hoa đăng. 花车 Xe hoa. 花布 Vải hoa. 7. (Màu
sắc hoặc chủng loại hỗn tạp trộn lẫn vào nhau) Hoa/ đốm/ lốm đốm: 花猫 Mèo hoa. 花
花绿绿 Sặc sỡ. 8. (Mắt nhìn lờ mờ) Hoa/ mờ: 眼花 Mắt hoa. 昏花 Hoa mắt/mờ mắt. 9.
Sờn: 袖子都磨花了 Ống tay sờn hết cả. 10. Giả dối: 花招儿 Mánh khóe. 花账 Khoản
ma. 花言巧语 Lời ngon ngọt. 11. (Tinh hoa, tinh túy) Bông hoa: 文艺之花 Bông hoa
văn nghệ. 革命之花 Bông hoa cách mạng. 12. Hoa khôi: 校花 Hoa khôi của trường. 交
际花 Hoa khôi giao tế/ bông hoa giao tiếp. 13. (Chỉ gái điếm hoặc có liên quan đến gái
điếm) Hoa: 花魁 Hoa khôi. 花街柳巷 Đường hoa ngõ liễu. 寻花问柳 Tìm hoa hỏi liễu.
14. Bông: 扎花 Cán bông. 弹花 Bật bông. 花纱布 Vải sợi bông. 15. (~ 儿) Giọt/hạt/vụn:
泪花 Giọt lệ. 油花 Giọt dầu. 花葱 Hành thái vụn. 16. Nhỏ/con: 蚕花 Tằm nhỏ. 鱼花 Cá
con. 17. (~ 儿) (Bệnh) Đậu: 天花 Bệnh đậu mùa. 种花儿 Chủng đậu. 出过花儿 Đã
từng bị lên đậu. 18. Bị thương: 挂了两次花 Đã bị thương hai lần. 19. (Họ) Hoa.
Khảo sát các nghĩa hạng của花1 chúng tôi nhận thấy: về cơ bản, quan hệ
giữa các nghĩa hạng của花1 là quan hệ dẫn xuất (quan hệ phái sinh), trong đó:
quan hệ giữa các nghĩa hạng 01, 02, 03, 04, 05, 06 hay quan hệ giữa các nghĩa
hạng 07, 08 hay quan hệ giữa các nghĩa hạng 11, 12, 13 là còn nhận ra khá rõ.
Trong khi đó, quan hệ giữa các nhóm nghĩa hạng 07, 08 với các nghĩa hạng 09,
10 là khá mơ hồ. Tương tự như vậy, mối quan hệ giữa các nghĩa hạng 09, 10 với
nhóm các nghĩa hạng 11, 12, 13 hay mối quan hệ giữa các nghĩa hạng 11, 12, 13
với các nghĩa hạng 14, 15, 16, 17, 18, 19 cũng là khá mờ nhạt.
Trong 19 nghĩa hạng của花1 thì các nghĩa hạng 01, 02, 03, 04, 05, 06, 07, 08,
11,12, 13, 17, 19 là các nghĩa hạng thường dùng, các nghĩa hạng còn lại (09, 10, 14,
15, 16, 18) là những nghĩa hạng không thường dùng. Trong các nghĩa hạng thường
dùng thì nghĩa hạng 03 (chỉ những vật có hình dạng như cái hoa) là nghĩa hạng
được dùng nhiều nhất. Như vậy là ở đây, có một sự tương ứng giữa nghĩa thường
dùng với nghĩa gốc, nghĩa cơ bản của từ花1 trong THHĐ và điểm giống nhau giữa
Khảo sát 134/142 kết hợp có chứa花1 trong TĐTHHĐ 2005, chúng tôi nhận
thấy: (i) 花1 đóng vai trò là YT CTT trong các kết hợp đa tiết (từ 02 đến 05 âm
tiết), (ii) 花1 cũng có khả năng kết hợp với một số yếu tố khác để tạo nên nhiều ẩn
Phần lớn các ẩn dụ từ vựng này gắn với phụ nữ, diễn tả vẻ đẹp về dung mạo
và trang phục của phụ nữ, gắn với thế giới ăn chơi (kĩ viện, nhà chứa), chỉ khách
làng chơi và kĩ nữ, chỉ những hành động hay sự sự vật có vẻ hoa mĩ về hình thức
song không có thực chất, chỉ những trò bịp bợm hay chỉ những gì còn chưa chính
thức, chưa xảy ra, chưa được xác thực hóa… Tất cả những ẩn dụ từ vựng này đều
là những ẩn dụ giàu sức gợi cảm, gợi tả và rất phổ biến trong giao tiếp xã hội của
người Hán xưa và nay.
Qua việc khảo sát nghĩa và khả năng kết hợp của hoa 1 trong TV và花1 trong
THHĐ, chúng tôi thấy rằng: (i) Tuy đều là những ĐV dùng chung trong TV và
tiếng Hán song mức độ phát triển nghĩa (mở rộng nghĩa) của 02 ĐV này là không
như nhau (花1 trong THHĐ có SL nghĩa cao gần gấp 03 lần hoa 1 trong TV). Nói
khác đi thì chúng chỉ giống nhau ở nghĩa gốc, nghĩa cơ bản, khác nhau ở những
nét nghĩa phái sinh. (ii) Bên cạnh những điểm tương đồng về nghĩa (ở các nét
nghĩa 01, 02, 03, 06 trong TV và các nghĩa hạng 01, 02, 03, 06 trong THHĐ) thì
những điểm khác biệt trong hai ngôn ngữ là khá rõ ràng (các nét nghĩa và nghĩa
hạng còn lại trong hai ngôn ngữ). (iii) Hoa 1 trong TV và花1 trong THHĐ đều là
những ĐV có khả năng kết hợp với một số yếu tố khác để tạo ra nhiều ẩn dụ từ
vựng cố định trong ngôn ngữ. Trong những ẩn dụ từ vựng cố định này thì điểm
giống nhau là cơ bản, điểm khác biệt là nét không cơ bản (ẩn dụ liên quan đến
hoa 1 trong TV đa dạng hơn trong THHĐ. Ví dụ như: hoa cái, hoa tay… là
những ẩn dụ từ vựng chỉ có trong TV mà không thấy trong tiếng Hán song những
ẩn dụ từ vựng trong TV thường ít hơn THHĐ về SL ĐV.
3.2.2.3. Đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa của các từ hồng, đỏ trong TV với
Từ chỉ màu sắc là một trong những vấn đề thuộc vốn từ vựng cơ bản của một
dân tộc. Trong hội họa, màu sắc được hiểu là độ sáng tối của màu. Trong đó: màu là
tên gọi (màu đỏ, màu vàng…). Sắc là độ sáng tối của màu. Lý luận hội họa cũng
thừa nhận: sự tham gia một phần của ánh sáng đã làm cho màu sắc thay đổi.
Trong hội họa, thông thường người ta hay nhắc tới 03 màu cơ bản (màu bậc
một) như: đỏ, vàng, lam. (vì không thể pha 03 màu này từ những màu khác). Từ
màu đỏ và màu vàng sẽ tạo thành màu da cam; từ màu vàng và màu xanh dương
cho ta màu lục; từ màu xanh dương và màu đỏ cho ta màu tím. Và những màu da
cam, màu lục, màu tím được màu bậc hai. Quy luật này cũng đúng với những
màu bậc ba vốn được tạo ra từ một màu cơ bản và một màu bậc hai kế tiếp nó,
hình thành những màu như: đỏ cam, cam vàng, vàng lục, lục xanh dương, xanh
tím hay tím đỏ. Trong hội họa, tất cả các màu được xếp vào hai loại: nóng và
lạnh. Trong đó các màu nóng gồm: đỏ, cam, vàng. Các màu lạnh gồm: lục, xanh
dương (lam) và tím. Tuy nhiên, hai thuật ngữ này chỉ tương đối vì hầu như các
màu đều có hai yếu tố nóng và lạnh và đứng một mình thì được xem là nóng
song có thể trở thành lạnh khi đứng cạnh màu khác tương tự nhưng “nóng” hơn.
Do màu nóng và màu lạnh có sự tương phản nhau nên trong hội họa người ta
thường sử dụng màu thứ ba tham gia vào đó là màu đen hoặc trắng để tạo ra độ
sáng hay tối.
Như vậy, trong hội họa, danh sách các màu cơ bản gồm: đỏ, vàng, lam, đen,
trắng, và trên thực thế đã và có thể quy về hai gam màu (tông màu) cơ bản: nóng,
lạnh và cũng có thể quy thành ba loại là: những màu tương phản, những màu
tương đồng, những màu bổ túc (chỉ xảy ra bên màu tương phản). Đồng thời lý
luận về hội họa cũng đã khẳng định rằng: (1) tất cả các sắc độ của một màu đều
có thể so sánh tương đương với một một thanh sắc độ chuyển dần từ đen sang
trắng, (2) việc phân biệt sắc độ riêng của một số màu là không phải dễ, (3) màu
sắc có thể tạo nên cảm giác và là phương tiện để thể hiện cảm xúc như: vui –
buồn, đẹp – xấu… và khi vẽ, phần lớn các họa sĩ thường sử dụng ít nhất 02 màu
và nhiều là 06 màu.
Trong ngôn ngữ học, khu vực màu sắc là một trong những khu vực được
bàn luận khá nhiều vì đây là khu vực được dùng làm ví dụ để chứng minh rằng:
cùng một chất liệu có thể có những hình thức khác nhau do các ngôn ngữ khác
nhau áp đặt cho nó. Lí luận ngôn ngữ đại cương cũng đã chỉ rõ: trong các ngôn
ngữ, SL chỉ màu sắc là không hoàn toàn như nhau chẳng hạn:
Trong tiếng Anh, các từ chỉ màu sắc thường gặp là: red (đỏ), orange (cam),
yellow (vàng); green (xanh) và blue (xanh da trời)… trong từ điển, nghĩa của
chúng thường được quy chiếu với một sự vật nào đó gắn với đặc điểm điển hình
của bối cảnh.
Theo conklin [88, tr. 677] Trong tiếng Hanu nóo (một ngôn ngữ ở
Philippines) lại có 04 từ chỉ màu sắc chính là: sáng, tối, ướt và khô. Cũng
theo conklin thì “màu, theo ý nghĩa chuyên môn của phương tây, không phải
là khái niệm phổ quát; các đối lập quy định thực chất của màu trong các
ngôn ngữ có thể lệ thuộc trước tiên vào sự liên tưởng của các ĐV từ vựng
với các đặc điểm quan trọng về mặt văn hóa của các sự vật trong môi trường
tự nhiên”. Còn Lý Toàn Thắng [126, tr. 36, 37], dựa vào những nghiên cứu
của Rosch 1970, 1971, 1972 và các tác giả khác như Berlin và Kay năm
1969 thì lại nhận định rằng: “khi phạm trù hóa các màu sắc, chúng ta dựa
vào một số điểm quy chiếu để định hướng trong việc lựa chọn thẻ màu nào là
đúng nhất, là “tâm điểm nhất” của một màu nào đó…và dựa vào “các màu
trung tâm” vốn không những được người bản ngữ dễ dàng đồng tình trong sự
phân loại mà còn rất nhất quán giữa các ngôn ngữ khác nhau. Các tâm điểm
hay các màu trung tâm này có một tôn ty nhất định mang tính phổ quát chứ
không phải mang tính tương đối) rất rõ qua khảo sát các từ chỉ màu cơ sở
(basis colour terms) của 98 ngôn ngữ trên thế giới. Cụ thể là với 11 phạm trù
màu cơ sở (Trắng – Tr, Đen – Đn, Đỏ - Đ, Xanh lá cây – Xlc, Xanh da trời –
Xdt, Vàng – V, Nâu – N, Tía – T, Hồng – H, Da cam – Dc, Xám – X) thì quy
tắc phân bổ các từ chỉ màu cơ sở trong 98 ngôn ngữ như sau: /Tr/Đn/ < /Đ/ <
/Xlc/ /V/ < /Xdt/ < /N/ < /T/H/Dc/X/. Nghĩa là tất cả 98 ngôn ngữ đều có 02
từ chỉ màu đen và màu trắng. Và một ngôn ngữ có 03 từ chỉ màu thì ngôn
ngữ đó sẽ có thêm từ chỉ màu đỏ, nếu có 04 từ thì sẽ có thêm từ chỉ màu
xanh lá cây hoặc vàng…. Và tiến trình lịch sử xuất hiện các từ chỉ màu cơ sở
gồm 07 giai đoạn sau:
/Xlc/ → /V/
/Tr/Đ/ → /Đ/ /Xdt/ → /N/ /T/H/Dc/X/
/V/ → /Xlc/
Tiếng Việt, theo Berlin và Kay, với 09 từ chỉ màu cơ sở đã phát triển tới
giai đoạn 07…” .
Chúng tôi thấy rằng: màu hồng và màu đỏ được xếp vào danh sách các màu
cơ bản của TV (trắng, đen, vàng, đỏ, hồng, xanh). Trong từ điển, chúng được xử
lí thành 02 màu riêng biệt (màu đỏ, TĐTV 2006; tr. 327; màu hồng, TĐTV 2006;
tr. 462). Song bản chất đều là một màu (chỉ khác nhau về thang độ đậm – nhạt).
Trong TV, để diễn tả màu đỏ hay màu hồng còn có các ĐV khác như:
Chu 3 (朱): đỏ như màu son. Cái ấm chuyên da chu. (TĐTV 2006 tr.173)
chu sa (朱砂): Đỏ như màu son (là thủy ngân kết tinh thành hạt, nhỏ như cát, màu
đỏ tươi, rất độc, thường dùng làm chất màu hoặc làm thuốc). (TĐTV 2006 tr.173)
Xích (赤) trong các kết hợp xích thằng, xích thố, xích vệ, xích tử….(TĐTV
2006 tr.1150) Song đó chỉ là những yếu tố gốc Hán không độc lập (các hình vị
gốc Hán) dùng để cấu tạo từ. Trong các văn bản cổ, TV cũng dùng các từ này để
chỉ màu đỏ và màu hồng. Sau đây là nghĩa của 02 ĐVĐN hồng và đỏ được thu
thập, phân tích qua một số TĐ của người Việt: (Xem bảng 3.9)
Bảng 3.9 Bảng thống kê nghĩa của từ hồng qua các tự điển, từ điển do
người Việt Nam biên soạn:
Stt Nguồn Số lượng nghĩa
Tự điển chữ Nôm (Nguyễn Quang 1. Màu đỏ.
Hồng); Nxb GD 2006; tr 495. 2. Trỏ người con gái đẹp: Bóng hồng, má hồng.
01
3. Trỏ nhân duyên: Tơ hồng, chỉ hồng.
红 4. Một loài cây, hoa (thường màu đỏ).
5. Chỉ thế gian trần tục.
6. Cây ăn quả, cùng họ với thị, quả chín màu đỏ.
[kèm 22 dẫn liệu có liên quan]
TĐ Hán – Việt (Phan Văn Các); 1. tt. Đỏ. Cờ hồng. Má hồng.
Nxb TpHCM 2001; tr 202. 2. Lợi tức.
02
[kèm 10 dẫn liệu có liên quan]
红
TĐTV ( Văn Tân) 1967; Nxb 1. Đỏ: Cờ hồng.
KHXH; tr 512. 2. Đỏ nhạt mà tươi: Má hồng.
03
[không chú Hán tự] [kèm 13 dẫn liệu có liên quan]
TĐ Hán – Việt (Đào Duy Anh) Nxb Đỏ lợt gọi là hồng (đơn nghĩa).
Tràng Thi 1957; tr 390. [kèm 23 dẫn liệu có liên quan]
04
红
TĐTV 2006 (Hoàng Phê chủ biên); tt. 1. (Vch; kết hợp hạn chế). Đỏ, có màu đỏ.
tr 462. Cờ hồng. Ngọn lửa hồng.
05
[không chú Hán tự] 2. Có màu đỏ nhạt và tươi. Má ửng hồng. Tia
nắng hồng ban mai.
3. (cũ; kết hợp hạn chế). Có tư tưởng vô sản, tư
tưởng cách mạng. Vừa hồng vừa chuyên.
[kèm 20 dẫn liệu có liên quan]
06 Việt Nam Quấc âm tự vị (Huỳnh Màu đỏ tươi (đơn nghĩa)
Tịnh Của) 1895; tr 446. [kèm 20 dẫn liệu có liên quan]
07 Việt Nam Tự điển (Hội Khai Trí Màu đỏ (đơn nghĩa)
Tiến Đức) 1931; tr 248. [kèm 14 dẫn liệu có liên quan]
08 Tự điển Việt - Nam - Phổ - Thông 1. Giống cây có quả, thuộc loài cây: Cốm ăn
(Đào Văn Tập, Sài gòn 1951); tr với hồng.
285. Gộp tất cả các từ “hồng” thành 2. Giống cây nhỏ, có hoa thơm: Hoa hồng.
một từ ĐN với 05 nét nghĩa. 3. Màu đỏ: Phấn hồng. Má hồng.
[không chú Hán tự] 4. Lớn: Hồng phúc.
Nhận xét: 5. Chim thuộc loài ngỗng: Chim hồng, chim
- Nhầm lẫn với nghĩa của từ 洪 hộc.
[kèm 23 dẫn liệu liên quan tới nghĩa 03].
“Hồng” (nghĩa 04).
- Nhầm lẫn với nghĩa của từ 鸿
“Hồng” (nghĩa 05).
TĐTV (Thanh Nghị, Sài gòn 1951); Hồng 1 : dt. (th). Cây có trái, đến khi chín đỏ
tr 583. hồng, trái ăn rất ngon, trái đỏ như quả hồng.
09
Tách thành 04 từ Hồng ĐÂ. Hồng ngâm, thứ hồng phải ngâm nước rồi mới
[có chú từ loại; không chú Hán tự] ăn được.
Hồng 2 : dt. (th). Loại cây có hoa màu sắc rất
đẹp và rất thơm, cành cây có nhiều gai: Anh kia
sao khéo hoài công, tham hái hoa hồng bị mắc
phải gai (cd).
Hồng 3 : tt. 1. Đỏ lạt, đỏ: Má hồng. Mây hồng.
2. Màu hồng lạt:
Hồng 4 : dt. (đ). Chim thuộc loại Ngỗng: Cánh
hồng bay bổng tuyệt vời ( Nguyễn Du).
[kèm 25 dẫn liệu liên quan tới hồng 3 ].
TĐ từ và nghĩa Hán – Việt (Nguyễn 1. Đỏ.
Lân; Nxb TĐBách khoa 2002); tr 2. Lớn.
10
326. 3. Ngỗng trời.
Tách “Hồng” làm 03 ĐV ĐÂ. [kèm 17 dẫn liệu liên quan tới “đỏ”].
[không chú Hán tự]
Từ kết quả thu thập, xử lí nghĩa của hồng trên, chúng tôi thấy rằng:
Cách các bộ TĐ giải thích nghĩa của từ hồng là không thống nhất, trong đó:
(i) Đào Văn Tập [118, tr. 285] khi giải thích nghĩa của từ红 (hồng) đã có sự
nhầm lẫn ở nghĩa thứ 04 và 05. Cụ thể: ở nghĩa 04 đã nhầm sang nghĩa của từ 洪,
ở nghĩa 05 đã nhầm sang nghĩa của từ 鸿. Mặt khác, việc tách thêm các nghĩa 01
và 02 là không hợp lí mà nên xử lí chúng thành hai từ ĐÂ, và như vậy, chỉ có
nghĩa 03 mới là nghĩa chính của từ红 (hồng). (ii) Thanh Nghị [96, tr.583] tách
thành 04 ĐV hồng ĐÂ song chỉ có hồng 3 mới là đối tượng của LA. (iii) Các tác
giả còn lại (trừ Hoàng Phê, Nguyễn Quang Hồng, Phan Văn Các), về cơ bản đều
quy chiếu nghĩa của từ红 (hồng) về 02 sắc độ của đỏ là đỏ và đỏ nhạt (đỏ tươi).
(iv) Nguyễn Quang Hồng [62, tr. 495] tách红 (hồng) thành 06 nghĩa song theo
chúng tôi đó là những ý nghĩa của những ĐV红 (hồng) ĐÂĐT với nhau. (v)
Phan Văn Các [06, tr. 202] thì ngoài việc quy chiếu nghĩa của红 (hồng) về màu
đỏ còn cấp thêm cho红 (hồng) một nét nghĩa mới (chỉ lợi tức). Theo chúng tôi,
Trong đó: 02 nghĩa đầu quy chiếu nghĩa của từ红 (hồng) về 02 sắc độ là đỏ và đỏ
nhạt (đỏ tươi), ngoài ra còn chú thêm 01 nghĩa nữa là “có tư tưởng cách mạng, tư
tưởng vô sản”. Theo chúng tôi, cách chú giải nghĩa của红 (hồng) trong TĐTV
2006 là cách chú giải hợp lí hơn. Trong LA, chúng tôi lấy cách chú giải này làm
điển mẫu để so sánh với THHĐ.
Thống kê cách thu thập, giải thích nghĩa của từ đỏ trong một số bộ từ
điển và tự điển của ta chúng tôi có được kết quả dưới đây: (Xem bảng 3.10)
Bảng 3.10 Bảng thống kê nghĩa của từ đỏ qua các tự điển, từ điển do người
Việt Nam biên soạn:
stt Nguồn SL nghĩa
01 Việt Nam Quấc âm tự vị (Huỳnh Nôm: Màu lửa, thuộc về nam phương. Màu
Tịnh Của); 1895; tr 303. tươi tốt. đỏ lòm, đỏ chói…
[kèm 38 dẫn liệu có liên quan].
02 Việt Nam tự điển (Hội Khai Trí Tiến Đỏ. Màu hồng: Phẩm đỏ, vải đỏ, mặt trời đỏ.
Đức); 1931; tr 184. Nghĩa bóng: Nói về lúc vận may, gặp dịp: Vận
[kèm 07 dẫn liệu có liên quan] đỏ dễ làm ăn, đánh bạc gặp canh đỏ.
03 Tự điển Việt – Nam – phổ - Thông Đỏ. 1. Màu hồng tươi và xẫm: phẩm đỏ; mặt đỏ
(Đào Văn Tập); 1951, Sài gòn; tr 2. Gặp may (nh. Hên sui): Cuộc đỏ đen.
200.
[kèm 13 dẫn liệu có liên quan]
04 TĐTV (Thanh Nghị); 1951; tr 424 Đỏ: tt. Hồng thẫm.
[kèm 17 dẫn liệu có liên quan] Nghĩa bóng: may mắn: vận đỏ, số đỏ.
05 TĐTV (Văn Tân chủ biên); 1967; tr Đỏ: I. . 1. Có màu như màu máu: Cờ nền đỏ sao
378. vàng.
[kèm 30 dẫn liệu có liên quan] 2. May mắn: Vận đỏ.
3. Cộng sản, có tư tưởng cộng sản: Vừa chuyên
vừa đỏ.
II. Sáng, sáng lên: Đỏ đèn.
06 TĐTV 2006 (Hoàng Phê chủ biên); Đỏ. tt. 1. Có màu đỏ như màu của son, của
tr 327. máu. Mực đỏ. Khăn quàng đỏ. Thẹn quá, mặt
[kèm 38 dẫn liệu có liên quan] đỏ như gấc. Lửa đỏ rực cả góc trời.
2. (Hay đg). Ở trạng thái hoặc làm cho ở trạng
thái cháy (nói về lửa). Lửa đã đỏ lại bỏ thêm
rơm (tng). Đỏ lửa.
3. Thuộc về cách mạng vô sản, có tư tưởng vô
sản (do coi màu đỏ là biểu tượng của cách
mạng vô sản). Công hội đỏ. Đội tự vệ đỏ.
4. Có được sự may mắn ngẫu nhiên nào đó; trái
với đen. Số đỏ. Gặp vận đỏ. Láy: đo đỏ (nghĩa
1; ý mức độ ít).
07 Tự điển chữ Nôm (Nguyễn Quang 1. Màu thắm.
Hồng) Nxb GD 2002; tr 345. 2. Hoa quả chín (ngả màu vàng sẫm).
[có chú chữ nôm; kèm 30 dẫn liệu 3. Trẻ nhỏ, đứa bé.
có liên quan] 4. Màu tượng trưng cho vận may.
Phân tích cách thu thập, giải thích nghĩa của từ đỏ trong một số bộ từ điển và
tự điển của ta ở trên chúng tôi nhận thấy: tuy việc phân tách nghĩa và giải thích
nghĩa của từ đỏ là không hoàn toàn như nhau song nét chung nhất, dễ nhận thấy
nhất là: (i) Đều quy chiếu nghĩa của đỏ vào sắc độ đậm của đỏ (màu lửa, màu của
phẩm đỏ, hồng thẫm, màu của máu, màu của son…). (ii) Đều hướng tới những ẩn
dụ, so sánh về sự may mắn, tốt lành, tích cực hay sự thay đổi theo chiều hướng tốt.
(iii) Đỏ có sự tương liên nhất định với ý nghĩa của hồng song phân biệt nhau ở sắc
độ (đỏ có sắc độ mạnh và cao hơn hồng), ý nghĩa và sự quy chiếu của đỏ trong TV
gần với ý nghĩa và sự quy chiếu của 赤 (xích) trong THHĐ hơn là đối với 红
(hồng). (iv) Rõ ràng là có sự phát triển về nghĩa của đỏ (thuộc về cách mạng vô
sản, có tư tưởng vô sản; có được sự may mắn ngẫu nhiên nào đó…) so với ý nghĩa
và sự quy chiếu ban đầu (đơn thuần là chỉ sắc độ của màu sắc).
Phân tích các kết hợp của hồng4 (20/32 kết hợp) trong TĐTV 2006 chúng tôi
nhận thấy: (i) chỉ có 20/32 kết hợp từ là thuộc hồng4. (ii) Hồng4 luôn là yếu tố chính
của các kết hợp đa tiết Hán Việt (đại bộ phận là song tiết) có cấu tạo theo kiểu chính -
phụ của ngữ định danh như: hồng lâu, hồng cầu, hồng nhan, hồng thập tự, hồng y
giáo chủ…(iii) Hồng4 thường được quy chiếu tới các sắc độ sáng hơn là tối. (iv) Sắc
thái biểu cảm của hồng4 thiên về trung tính. (v) Hồng4 có xu thế thiên về diễn tả
ngoại giới hơn là nội giới. (vi) Hồng4 cũng có tiềm năng tạo lên những ẩn dụ từ vựng
cố định như: vừa hồng vừa chuyên (vừa có đạo đức cách mạng, vừa có năng lực trong
công tác), hồng nhân (chỉ người tri kỉ với mình), hồng trần (chỉ cuộc đời trần tục
nhiều đau khổ), hồng quần (chỉ phụ nữ nói chung)…
Phân tích các kết hợp của đỏ (38 kết hợp) trong TĐTV 2006 chúng tôi nhận
thấy: (i) đỏ là yếu tố chính, thường nằm trong các kết hợp của những ĐV đa tiết
Hán Việt có cấu tạo theo kiểu chính - phụ của ngữ tính từ như: đỏ au, đỏ chóe, đỏ
chói…(ii) Các sắc độ mà các kết hợp của đỏ quy chiếu rất đa dạng, có khi là
những sắc độ sáng như: đỏ chót, đỏ hoe, đỏ rực, đỏ ửng, đỏ au, đỏ chóe, đỏ
chói…. Có khi là những sắc độ tối như: đỏ đọc, đỏ hoét, đỏ hỏn, đỏ khè, đỏ kè,
đỏ khé, đỏ loét, đỏ lòm, đỏ lừ, đỏ lựng, đỏ ngầu, đỏ nhừ, đỏ ối, đỏ
quạch…(iii) Sắc thái biểu cảm mà các kết hợp của đỏ biểu thị cũng rất
phong phú như: đỏ bừng (đỏ lên nhanh, thời gian ngắn), đỏ gay (diện rộng,
thời gian dài), đỏ loét (mức độ đậm, loang lổ không đều), đỏ ối (mức độ đều,
rộng khắp)….(iv) Đỏ có khả năng diễn tả tinh tế cả ngoại giới và thế giới nội
tâm. (v) Đỏ cũng có khả năng tạo nên những ẩn dụ từ vựng, ẩn dụ tu từ như:
công hội đỏ (chỉ công đoàn luôn đấu tranh vì quyền lợi của công nhân, người
lao động, đối lập với công đoàn vàng), máu đỏ da vàng (chỉ những người có
cùng chủng tộc)….
Tuy vậy, trong TV hiện nay, vẫn tồn tại những khu vực chồng lấn trong việc
tri nhận màu đỏ của người Việt. Chẳng hạn: Trong công trình Những cây cỏ và vị
thuốc Việt Nam của Đỗ Tất Lợi [87] chúng tôi thấy rằng: có khá nhiều vị thuốc,
cây thuốc có liên quan tới màu đỏ được người Việt định danh có tính tương đối
(không phân biệt một cách dứt khoát giữa các sắc độ của đỏ nữa). Chẳng hạn:
Quất hồng bì (红皮) = Quất hoàng bì (黄皮); Chu sa (朱砂) = Đan sa (丹砂);
Đan sâm (丹参) = Xích sâm (赤参); Duyên đơn (铅丹) = Hồng đơn (红丹)….
Theo chúng tôi, nguyên nhân đầu tiên có lẽ là do việc sử dụng chung các
tên thuốc, vị thuốc với y học cổ truyền Trung Quốc (có nhiều tên thuốc, vị thuốc
được sử dụng cho tới nay đã tới vài ngàn năm). Nguyên nhân thứ hai là do SVHT
luôn phát triển, biến đổi trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển của nó, dẫn
tới “những nét đặc thù” của đối tượng được định danh cũng có sự biến đổi ít
nhiều theo thời gian hay theo một thang độ nào đó nhưng vẫn còn là nó. Và có thể còn
do những nguyên nhân khách quan khác như: do sự di thực các cây thuốc, vị thuốc từ
khu vực này sang khu vực khác; do đặc điểm về thổ nhưỡng, khí hậu… của các vùng
miền không giống nhau nên sinh giới ở những vùng miền khác nhau sẽ có một số đặc
điểm khác nhau và sự khác nhau này thể hiện ngay trong từng họ, loài và thậm chí là
ở từng cá thể…. Bởi vậy, việc định danh các đối tượng như vậy chỉ là tương đối và
trên thực tế, người Việt cũng đã chấp nhận điều này.
Trong tiếng Hán, đặc biệt là tiếng Hán cổ cũng có khá nhiều ĐV dùng để
phản ánh những sự vật, HT có thuộc tính “đỏ” hay “hồng”. Khảo sát sơ bộ công
trình Cổ Hán ngữ tự điển của Vương Lực [176 ]; chúng tôi thu thập được không
ít các ĐV dùng để phản ánh những sự vật, HT có thuộc tính “đỏ” hay “hồng”
chẳng hạn như:
Hà (瑕): 有赤色之玉 chỉ ngọc có sắc đỏ
Hà (驖): chỉ một giống ngựa có màu pha trộn giữa đỏ và đen
Lưu (骝): chỉ một loại ngựa xích thố (có bờm và lông đuôi màu đen) ….
Trong TĐ THHĐ, hiện cũng còn thu thập, lưu giữ và giải thích khá nhiều
những ĐV dùng để phản ánh những sự vật, HT có màu đỏ, màu hồng và liên can
tới các sắc độ của đỏ và hồng. (Xem bảng 3.11)
Bảng 3.11 Bảng thống kê những ĐV dùng để phản ánh những SVHT có
màu đỏ, màu hồng và liên can tới các sắc độ của đỏ và hồng trong THHĐ:
Stt Từ diễn tả hồng, đỏ Âm Hán Việt Nghĩa TĐ Trang
01 缙 tấn chỉ lụa điều, lụa đỏ 716
02 绯 Phi chỉ màu đỏ 394
03 缇 đề chỉ màu cam 1340
04 绀 Cám chỉ màu đen pha màu hồng 446
05 緅 Trâu/ tưu màu bánh mật, ngăm đen 1816
06 緟 Huân màu hồng nhạt 1597
07 赧 Noãn màu đỏ 982
08 朱 Chu/châu màu đỏ như màu son 1775
09 丹 Đan/đơn màu đỏ tươi 263
10 茜 Khiếm màu đỏ 1092
11 彤 đồng màu đỏ 11368
12 絳 Giáng màu đỏ thẫm 678
13 赭 Giả màu đỏ 1726
Tuy là vậy nhưng phần lớn các ĐV trên hiện rất ít sử dụng hay chỉ là những
hình vị cấu tạo từ (từ tố) trong các kết hợp như: 朱墨 (chu mặc): màu đỏ và màu
đen; 丹枫 (đơn cương): cây bàng; 茜纱 (khiếm sa): the màu đỏ… trong những
ĐV dùng để phản ánh những SVHT có màu đỏ, màu hồng và liên can tới các sắc
nhiều, trong đó: 赤 (xích) được dùng nhiều trong ngôn ngữ viết còn 红 (hồng)
xuất hiện trong cả ngôn ngữ viết và ngôn ngữ nói và là từ điển hình (điển mẫu)
cho nhóm từ chỉ màu đỏ, màu hồng và liên can tới các sắc độ của đỏ và hồng
trong THHĐ. Trong Hán ngữ từ điển, 红 (hồng) và 赤(xích) được giải thích như
(hồng) và 赤 (xích) cũng là hai từ đồng nghĩa (đồng nghĩa không hoàn toàn), các
nghĩa hạng của 赤 (xích) được thu thập trong từ điển nhiều hơn so với 红 (hồng)
nhưng tần số sử dụng và khả năng kết hợp để sản sinh từ vựng mới của 红 (hồng)
là mạnh hơn so với 赤 (xích). 红 (hồng) và 赤 (xích) đều có thể kết hợp với một
Nhưng 赤 (xích) thường được quy chiếu về những gam màu đậm hơn so với 红
(hồng) và cũng có một số trường hợp mà sự quy chiếu về thang độ của 红 (hồng)
và 赤 (xích) là rất khó phân biệt (có chồng lấn). Nhìn về tổng quan, 赤 (xích)
thiên về chỉ nội giới còn 红 (hồng) thiên về chỉ ngoại giới hơn.
Nhìn về tổng thể, chúng ta thấy rằng: (i) TV và THHĐ đều là những ngôn
ngữ có nhiều ĐV dùng để phản ánh những sự vật, HT có thuộc tính “đỏ” hay
“hồng” và SL những ĐV sử dụng chung trong cả hai ngôn ngữ là khá nhiều, đó
là do những nguyên nhân sâu xa từ lịch sử để lại. (ii) Xét về SL thì THHĐ có
nhiều ĐV dùng để phản ánh những SVHT có thuộc tính “đỏ” hay “hồng” hơn TV.
(iii) Nếu như trong TV, hai từ hồng và đỏ là hai ĐV được sử dụng chính (là điển
mẫu) thì trong THHĐ 红 (hồng) và 赤 (xích) lại là những từ vựng điển hình
dùng để phản ánh những sự vật, HT có thuộc tính “đỏ” hay “hồng”. (iv) Trong
hai ĐV hồng và đỏ của TV thì đỏ có xu hướng phát triển các nghĩa mạnh hơn và
có tần số sử dụng cao hơn so với hồng. Trong THHĐ 赤 (xích) tuy có nhiều
nghĩa hơn so với 红 (hồng) song tần số sử dụng của 红 (hồng) lại cao hơn nhiều
trong THHĐ đều là những màu sắc được sử dụng để tạo nên nhiều ẩn dụ tu từ
với nhiều sắc thái biểu cảm như: ẩn dụ về cách mạng, về sự may mắn, tốt đẹp….
3.2.2.4. Đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa, ngữ dụng của từ ăn trong TV với
từ 吃1trong THHĐ
Là một trong những hành vi quan trọng nhằm duy trì sự sống, phạm trù ăn
cũng là một phạm trù quan trọng trong nhiều ngôn ngữ. Trong TV, có khá nhiều
ĐV dùng để diễn tả sự tình ăn với rất nhiều sắc thái biểu cảm như: chén, măm,
ngốn, xơi, đớp, hốc, tọng, xực, dùng…. Bên cạnh đó, trong lớp từ Hán Việt còn
có những ĐV cũng dùng để diễn tả sự tình ăn hay liên can tới việc diễn tả sự tình
ăn như: 食 (thực) trong các kết hợp như: thực túc binh cường, lễ hội ẩm thực,
nam thực như hổ nữ thực như miêu…, 服(phục) trong các kết hợp như: phục
thuốc… Trần Ngọc Thêm [129, tr.342, 343] cho rằng: “hiển nhiên, để duy trì sự
sống, ăn uống luôn là việc có tầm quan trọng số một. Tuy nhiên, quan niệm của
các dân tộc về việc này lại không giống nhau […] người Việt Nam nông nghiệp
với tính thiết thực thì trái lại, công khai nói to lên rằng ăn quan trọng lắm: có
thực mới vực được đạo (thành ngữ), có năng lượng vật chất thì mới nói đến
chuyện tinh thần được […] Người Việt Nam rất có “tâm hồn ăn uống” […]
Trong TV, các từ ghép chỉ những hành động thông thường hầu hết đều bắt đầu
bằng từ tố “ăn” […] Ngay cả khi tính thời gian, người Việt Nam xưa cũng lấy
việc ăn uống và cấy trồng làm đơn vị tính…”.
Trong các tự điển, từ điển của người Việt, ăn là một trong những ĐV có
nhiều nghĩa nhất (xem bảng 3.13). Theo kết quả thống kê chi tiết của chúng tôi,
trong TĐTV 2006, ăn là một trong 72 ĐV có nhiều nghĩa nhất trong 5420
ĐVĐN của TV, SL nghĩa của ăn chỉ đứng sau 02 ĐVĐN có nhiều nghĩa nhất
của TV là: đi (18 nghĩa), đánh (27 nghĩa). Trong những ĐV đồng nghĩa với ăn,
chúng tôi coi ăn là điển mẫu trong số những ĐV dùng để diễn tả sự tình ăn trong
TV và lấy cấu trúc ngữ nghĩa của ăn trong TĐTV 2006 làm đối tượng để so sánh,
đối chiếu với cấu trúc ngữ nghĩa của “吃1 ” trong THHĐ. Tuy nhiên để có được
một cái nhìn lịch đại và tổng quát về quá trình phát triển về ngữ nghĩa của ăn
trong TV, góp phần làm sáng tỏ cấu trúc ngữ nghĩa và đặc điểm của đối tượng
khảo sát, chúng tôi thấy rằng cần phải có những số liệu thống kê chi tiết cấu trúc
ngữ nghĩa, ngữ dụng và khả năng kết hợp của ăn trong các tự điển, từ điển của
người Việt. (Xem bảng 3.13)
Bảng 3.13 Bảng thống kê nghĩa của từ ăn qua các tự điển, từ điển do người
Việt Nam biên soạn:
stt Nguồn Số lượng nghĩa
Việt Nam Nôm: Nhai nuốt, hưởng dùng
01 Quấc âm tự
vị (Huỳnh
Tịnh Của); [kèm 125 dẫn liệu có liên quan].
1895; tr 09.
Việt Nam tự I. Cắn, gậm, bỏ vào miệng nhai rồi nuốt đi. Ăn cơm, ăn bánh (…)
02 điển (Hội II. Nói chung về sự ăn uống, sự tiêu dùng. Nhà nọ đủ ăn đủ tiêu (…)
Khai Trí III. Nói chung cuộc ăn uống trong sự vui mừng hay ngày giỗ tết: Ăn
Tiến Đức); cưới, ăn giỗ (…)
1931; tr 08. IV. Hưởng thụ cái của lợi lộc gì: Ăn lương, ăn bổng …
V. Thu nhận một cách không chính đáng: Ăn tiền, ăn đút …
[kèm 410 VI. Lấy, tìm cách mà lấy làm của mình: Ăn cắp, ăn gian …
dẫn liệu có VII. 1. Vừa vặn bằng nhau, đúng khớp, in nhịp: Đàn ăn nhịp, hai cánh
liên quan] cửa này ăn khớp nhau như in (…) 2. Xứng nhau mà làm cho tôn lên:
Nước da ăn phấn ăn đèn (…)
VIII. Được hơn trong cuộc đố, trong đám cờ bạc hoặc trong đám cạnh
tranh: Ăn cuộc, ăn gà…
IX. Ưng thuận, nhận, chịu: Đặt mười đồng có ăn không?; ăn giá…
X. Đi kiếm ăn: Vạc đi kiếm ăn (…)
XI. 1. Xâm vào, bén vào: sơn ăn mặt (…) 2. Lấn ra: Cỏ ăn lan ra, rễ ăn
sâu vào (…) 3. Thấm vào: Cá ăn muối, giấy ăn mực, nước ăn chân (…)
4. Dính vào: Hồ loãng dán không ăn.
XII. Mua hàng, tiêu thụ đồ, hàng: Độ này tàu ăn gạo nhiều. Người khách
đương ăn tơ nhiều.
Tự điển Việt 1. Cho vào miệng rồi nuốt vào dạ dày (…)
03 - Nam - Phổ 2. Bày cuộc ăn uống nhân một cơ hội nào (…)
- Thông 3. Kiếm ăn: Cò đi ăn đêm
(Đào Văn 4. Thâu nạp, thừa nhận: ăn lãi, giấy không ăn mực.
Tập, Sài 5. Mua: Tàu ăn hàng
gòn 1951); 6. Nhận của hối lộ: Viên quan ăn bẩn…
tr 18. 7. Vừa, đúng, hợp: Mặt ăn ảnh; da ăn phấn.
8. (Cờ bạc) được, hơn
[kèm 57 dẫn 9. Xâm lấn: Ăn lan ra, ăn sâu vào.
liệu có liên 10. Nói về địa vị, ngôi thứ trong một đoàn thể: ăn lên, ăn trên.
quan]
TĐTV 1. Cắn, nhai và nuốt.
04 (Thanh 2. Dùng với các tiếng khác để chỉ sự ăn uống, tiêu pha trong nhà.
Nghị); 3.Dùng với tiếng khác để chỉ sự hưởng lợi lộc gì: Ăn huê hồng, ăn lương.
1951; tr 30 4. Dùng với tiếng khác để chỉ sự ăn uống, tiệc tùng, giỗ cúng.
5. Dùng với tiếng khác để chỉ sự thu nhận tiền của không chính đáng: Ăn
[kèm 85 dẫn hối lộ, ăn đút…
liệu có liên 6. Dùng với tiếng khác để chỉ sự được, hơn trong một cuộc tranh chấp, cờ
quan] bạc: Ăn non, ăn lường…
7. Dùng với tiếng khác để chỉ sự lấy của người làm của mình một cách
hèn mọn: Ăn cắp, ăn lận…
8. Dùng với tiếng khác để chỉ sự vừa vặn, thích hợp nhau: Ăn nhịp…
9. Dùng với tiếng khác để chỉ sự ưng, thuận: Ăn giá, ăn lời...
10. Chỉ sự đi tìm thức ăn, tìm sự sống: Thú vật đi ăn đêm; quen mồi lại
kiếm ăn miền nguyệt hoa (Nguyễn Du).
11. Tùy thuộc với: Đất này ăn về làng anh.
12. Chỉ sự mua hàng, tiêu thụ: Dạo nầy gạo hút vì có tàu ăn nhiều.
13. a. Chỉ sự mòn: Chất hóa học ăn da.
b. Lấn: Cỏ ăn lan cả sân.
c. Thấm vào: Giấy thấm ăn mực.
d. Dính: Hồ dán không ăn.
TĐTV (Văn 1. Bỏ vào miệng, nhai và nuốt. (…)
05 Tân chủ 2. Hút thuốc vì thói quen: Ăn thuốc lào.
biên); 1967; 3. Dự một cuộc ăn uống nhân một dịp gì.
tr 21. 4. Dùng những dụng cụ như bát, đũa, thìa để ăn: Người Châu Âu không
quen ăn đũa.
[kèm 157 5. Ăn uống tiêu dùng nói chung.
dẫn liệu có 6. Hưởng một lợi lộc gì.
liên quan] 7. Vơ về mình, thu về mình một cách không chính đáng.
8. Hợp với nhau, khớp với nhau.
9. Có tác dụng đến, như thấm vào, dính vào hoặc lan ra, làm cho loét ra
(…)
10. Nắm phần thắng trong một cuộc đố, một đám bạc hay một cuộc cạnh
tranh (…)
11. Tiêu thụ, lấy hàng, lấy khách để chở đi (…)
12. Tính theo giá tiền, tương đương với: Một cân ta ăn sáu trăm gam.
13. Thuộc vào: Đất này ăn vào làng bên.
14. Thông ra, thông đến (…)
15. Từ ghép trước một động từ để khái quát hóa ý nghĩa của động từ ấy:
ăn cướp, ăn mặc.
Tự điển chữ 1. Nhận hưởng. Sinh nhai.
06 Nôm a. Nhận hưởng vật phẩm. Hưởng thụ vật phẩm, của cải (…)
(Nguyễn b. Hành nghề sinh hai (làm ăn, kiếm ăn…)
Quang c. Cách sống xử thế (ăn ở, ăn nói…)
Hồng) Nxb d. Được phần hơn, đạt hiệu quả. (…)
GD 2002; tr 2. Trong ăn năn.
07. [có chú chữ Nôm; kèm 35dẫn liệu có liên quan]
07 TĐTV 2006 1. Tự cho vào cơ thể thức ăn nuôi sống. Ăn cơm. Thức ăn. Ăn có nhai,
(Hoàng Phê nói có nghĩ (tng.). Làm đủ ăn. Cỏ ăn hết màu.
chủ biên); tr 2. Ăn uống nhân dịp gì. Ăn cưới. ăn liên hoan. Ăn tết.
12 3. (Máy móc, phương tiện vận tải) tiếp nhận cái cần thiết cho sự hoạt
động. Cho máy ăn dầu mỡ. Xe ăn tốn xăng. Tàu đang ăn hàng (nhận
[kèm 114 hàng để chuyên chở) ở cảng.
dẫn liệu có 4. (Kết hợp hạn chế). Nhận lấy để hưởng. Ăn hoa hồng. Ăn thừa tự. Ăn
liên quan] lương tháng.
5. (kng.). Phải nhận lấy, chịu lấy (cái không hay; hàm ý mỉa mai). Ăn
đòn. Ăn đạn.
6. Giành về mình phần hơn, phần thắng (trong cuộc thi đấu). Ăn con xe.
Ăn giải. Ăn cuộc. Ăn ở tinh thần.
7. Hấp thu cho thấm vào, nhiễm vào trong bản thân. Vải ăn màu. Da ăn
nắng. Cá không ăn muối, cá ươn (tng.).
8. Gắn, dính chặt vào nhau, khớp với nhau. Hồ dán không ăn. Gạch ăn
vôi vữa. Phanh không ăn.
9. (kết hợp hạn chế). Hợp với nhau tạo nên một cái gì hài hòa. Hai màu
rất ăn nhau. Người ăn ảnh (chụp ảnh dễ đẹp).
10. Làm tiêu hao, hủy hoại dần dần từng phần. Sương muối ăn bạc trắng
cả lá. Sơn ăn mặt.
11. Lan ra hoặc hướng đến nơi nào đó (nói về khu vực hoặc phạm vi tác
động của cái gì). Rễ tre ăn ra tới ruộng. Sông ăn ra biển. Phong trào ăn
sâu, lan rộng.
12. (kng.). Là một phần ở ngoài phụ vào; thuộc về. Đám đất này ăn về xã
bên. Khoản này ăn vào ngân sách của tỉnh.
13. (ĐV tiền tệ, đo lường) có thể đổi ngang giá. Một dollar ăn mấy đồng
Việt Nam?
Trong TĐTV 2006, các nghĩa của ăn được sắp xếp theo một trật tự dẫn
xuất (từ nghĩa gốc đến nghĩa phái sinh), từ những nghĩa thường dùng tới những
nghĩa không thường dùng. Quan hệ giữa các nghĩa của ăn về cơ bản là có thể giải
thích được, còn nhận ra được.
Khảo sát các kết hợp có chứa ăn chúng tôi nhận thấy: (i) ăn là yếu tố chính
trong 114 kết hợp đa tiết (từ 02 đến 05 âm tiết). Trong 114 kết hợp này có 15 kết
hợp là những ĐVĐN, 99 kết hợp là những ĐV đơn nghĩa. Các kết hợp này có khi
là từ như: ăn học, ăn cướp, ăn mày…, có khi là những cụm từ cố định như: ăn
chắc mặc bền, ăn hương ăn hoa…, (ii) cùng với một số yếu tố khác, ăn trong TV
đã góp phần tạo ra nhiều ẩn dụ từ vựng cố định giàu sức gợi cảm gợi tả như: ăn
cháo đái bát, ăn dầm nằm dề, ăn hại đái nát, ăn không ngồi rồi, ăn không nói có,
ăn lông ở lỗ, ăn mày đòi xôi gấc, ăn mặn khát nước, ăn miếng trả miếng, ăn nên
làm ra, ăn no vác nặng, ăn như mỏ khoét, ăn ốc nói mò, ăn sống nuốt tươi, ăn
sung mặc sướng, ăn thật làm giả, ăn to nói lớn, ăn trắng mặc trơn, ăn trên ngồi
trốc, ăn xổi ở thì, ăn đời ở kiếp, ăn xôi nghe kèn, ăn phải đũa (bị ảnh hưởng xấu,
nhiễm thói xấu của kẻ khác), ăn cám (vô tích sự, vô dụng), ăn đất (chết), ăn đong
(túng thiếu), ăn gỏi (đoạt được thắng lợi một cách dễ dàng), ăn hớt (chiếm và
hưởng trước thành quả của người khác), ăn nằm (có sự chung đụng về xác thịt),
ăn sương (kiếm ăn một cách không chính đáng), ăn xổi (muốn đạt kết quả ngay
vì nóng vội)…. Đây là những ẩn dụ xuất phát từ đời sống thực tế hàng ngày, đã
đi vào lời ăn tiếng nói của người Việt nên nói ra ai cũng hiểu và cảm nhận được
ngay hàm ý của chúng.
Trong THHĐ có 03 ĐV đơn tiết thường dùng để diễn tả phạm trù ăn là: 吃
thường dùng để diễn tả phạm trù ăn trong THHĐ. Trong đó: chức năng chủ yếu
của 食(thực) là ĐV dùng để cấu tạo nên các ngữ định danh liên quan tới phạm trù
ăn như: 食堂 (thực đường, nhà ăn), 食品 (thực phẩm), 主食 (chủ thực, thức ăn
chính), 面食 (diện thực, chỉ đồ ăn chế biến từ bột mì), 食客 (thực khách, chỉ
khách ăn uống trong nhà hàng), 食谱 (thực phổ, sách dạy nấu ăn), 食油 (thực du,
dầu ăn), 食盐 (thực diêm, muối ăn), 饮食 (ẩm thực, chỉ chuyện ăn uống nói
chung)…. Còn chức năng chủ yếu của 吃 (ngật) là để trực tiếp diễn tả sự tình ăn
trong THHĐ như: 吃饭 (ngật phạn, ăn cơm), 吃药 (ngật dược, uống thuốc), 吃奶
(ngật nãi, uống sữa), 吃素 (ngật tố, ăn chay)…. Còn 用(dụng) cũng có chức năng
như 吃 (ngật) song có hàm ý trang trọng lịch sự hơn 吃 (ngật). 用(dụng) có cách
dùng tương đương với xơi, dùng trong TV còn 吃 (ngật) có sắc thái trung hòa
thuốc. 2. Ăn ở nơi bán nào đó/ăn theo tiêu chuẩn nào đó: 吃食堂Ăn ở nhà ăn. 吃大灶
Ăn đại táo. 吃大灶Ăn tiểu táo. 3. Sống nhờ/ăn nhờ: 靠山吃山,靠水吃水Ở ven rừng
núi ăn nhờ rừng núi, ở ven sông biển ăn nhờ sông biển. 4. Thấm/ngấm/hút (nước): 道林
纸不吃墨Giấy Đạo Lâm (Dowling) không thấm mực. 5. Ăn sâu/ngập: 这条船吃水浅
Chiếc thuyền này mớn nước nông. 6. Tiêu diệt/xơi/ăn (dùng về quân sự và đánh cờ): 吃
敌人一个团Xơi tái một trung đoàn địch. 拿车吃他的炮Dùng con xe ăn con pháo của
anh ấy. 7. Lĩnh hội/nắm chắc: 吃透文件精神Hiểu thấu tinh thần văn kiện. 他的心思我
还吃不准Tâm tư anh ấy tôi còn chưa nắm đúng. 8. Chịu đựng/gánh chịu: 这根绳子吃
不住这么重的分量Sợi dây này chịu không được phân lượng nặng đến thế. 9. Bị: 吃批
评Bị phê bình. 10. Hao phí/tốn. 11. Bị (thường gặp trong văn bạch thoại thời kì đầu): 吃
他耻笑Bị anh ta cười khinh. (TĐTH; tr. 208).
Khảo sát mối quan hệ giữa các nghĩa hạng của 吃 (ngật) chúng tôi nhận thấy:
quan hệ giữa các nghĩa hạng của 吃 là quan hệ dẫn xuất (từ nghĩa gốc tới nghĩa
phái sinh), từ nghĩa thường dùng đến nghĩa không thường dùng. Thống kê các
kết hợp có chứa 吃 trong TĐTHHĐ 2005 chúng tôi thu được số liệu sau: 吃 nằm
trong 80 kết hợp đa tiết (từ 02 đến 06 âm tiết) trong đó có 15 kết hợp ĐN, 65 kết
hợp đơn nghĩa, trong 80 kết hợp này thì những kết hợp SÂT chiếm đại bộ phận
và cùng với một số các yếu tố khác, 吃 (ngật) cũng tạo nên rất nhiều ẩn dụ từ
So sánh cấu trúc ngữ nghĩa của từ ăn trong TV với cấu trúc ngữ nghĩa của
吃 (ngật) trong THHĐ chúng tôi nhận thấy: tuy giữa chúng có một số điểm giống
nhau (các nghĩa 01, 06, 07 của từ ăn trong TV giống với các nghĩa hạng 01, 04,
06 của từ 吃 (ngật) trong THHĐ) song điểm khác biệt giữa chúng vẫn là cơ bản
(các nghĩa và các nghĩa hạng còn lại trong hai ngôn ngữ), cụ thể là: (i) Đối tượng
mà động từ ăn của TV hướng tới là phong phú, đa dạng hơn rất nhiều đối tượng
của động từ 吃 trong THHĐ. Trong TV, chúng có thể là thực phẩm để nuôi sống
con người như cơm, thức ăn, rau…, mà cũng có thể là: cưới, liên hoan, thừa tự,
sinh nhật, tân gia…, chúng có thể là nguyên, nhiên liệu hay hàng hóa như: xăng,
dầu mỡ, hàng, đất, than…, có khi chúng là những lợi ích vật chất như: hoa hồng,
chiết khấu, lương, tiền bo, hối lộ, lại quả… và cũng có thể là những đối tượng
gây bất lợi như: đòn, đạn, chửi, bả… hay những đối tượng trừu tượng thiên về
đời sống tinh thần như: giải, cuộc, may…. (ii) Chủ thể của động từ ăn trong TV
cũng đa dạng hơn trong tiếng Hán, nó có thể là người, động vật, thực vật hay đồ
vật, máy móc, công cụ do con người chế tạo ra, nó có thể là những đối tượng
thuộc về thế giới tự nhiên như: sông, biển, núi, đất, nước, sương muối.… (iii) Sắc
thái biểu cảm của từ ăn trong TV cũng phong phú, đa dạng hơn 吃 (ngật) trong
THHĐ. Nó có thể là trung tính trong các trường hợp như: ăn cơm, ăn liên hoan,
ăn tết… Nó có thể là tiêu cực trong các trường hợp như: ăn đòn, ăn đạn, ăn
bẩn… Nó có thể là tích cực trong các trường hợp như: ăn lộc, ăn giải, ăn cuộc….
Chính vì vậy, để chuyển tải hết chức năng ngữ nghĩa của từ ăn trong TV
sang tiếng Hán người ta bắt buộc phải sử dụng rất nhiều vị từ khác nhau như: 过
tạo phức tạp hơn từ bao gồm một vị từ và một động từ đứng sau làm bổ ngữ chỉ
kết quả như: 相上 (tương thượng), 相合 (tương hợp), 通到 (thông đáo)… thậm
chí là cả các ĐV bậc trên từ như câu. Chẳng hạn: để truyền tải một nội dung
thông báo là xe này ăn tốn xăng từ TV sang tiếng Hán người ta sẽ không thể
dùng động từ吃 (ngật) để diễn tả mà chắc chắn sẽ dùng một vị từ như 耗 (hao)
để thay thế hay dùng một ngữ vị từ như: 不好用 (bất hảo dụng, xài không ngon)
hay耗油量多 (hao du lượng đa, tiêu tốn rất nhiều xăng)… thì mới có thể chuyển
tải hết chức năng ngữ nghĩa của từ ăn trong phát ngôn này. (iv) Khác với THHĐ,
trong TV, dường như có sự đối lập hay phân biệt một cách khá rõ ràng giữa việc
ăn những thực phẩm có đặc tính đặc với những thực phẩm có đặc tính lỏng.
Chẳng hạn, người Việt sẽ nói: ăn cơm, ăn súp, ăn cháo, ăn bánh, ăn kẹo, ăn kem,
uống nước, uống sữa, uống thuốc… mà sẽ không nói hay ít nói là: uống súp*, ăn
canh, ăn sữa*, ăn thuốc*, uống cháo* như người Hán. Nói khác đi thì trong TV,
cái đặc thù của thực phẩm (± đặc/lỏng) dùng để ăn sẽ quy định việc dùng động từ
ăn hay uống. Nếu đặc, sẽ có xu hướng thiên về dùng ăn, nếu lỏng sẽ có thiên
hướng dùng uống. Nếu thực phẩm dùng để ăn có đặc điểm pha trộn giữa đặc và
lỏng thì xu thế lựa chọn này vẫn là phổ biến, chẳng hạn: người Việt sẽ nói: khôn
ăn cái, dại uống/húp nước hay: không ăn cái thì uống/húp nước chứ không nói là:
khôn uống cái dại ăn nước hoặc: không uống/húp cái thì ăn nước… nhưng nếu
với động từ dùng thì đều được. Cũng bởi chính vì có sự phân biệt dứt khoát và
tinh tế này mà TĐTV 2006; tr 1087 đã định nghĩa động từ uống rất đơn giản và
ngắn gọn như sau:
Uống đg. Đưa chất lỏng vào miệng rồi nuốt. Uống bia. Uống nước nhớ
nguồn (tng). Nghe như uống từng lời.
Ngay cả đối với những trường hợp lưỡng khả như: ăn canh, ăn cháo… nếu
xét về bản chất cũng chỉ thường dùng khi nhằm nhận xét, đánh giá bản chất nói
chung như: ăn canh cả cặn, ăn cháo đái bát.… Nói khác đi thì chúng chỉ nằm
trong hệ thống của những nhận xét, đánh giá kiểu như: ăn chó cả lông, ăn hồng
cả hạt; ăn tục nói phét, ăn trên ngồi trốc… mà thôi.
4.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA NHỮNG ĐƠN VỊ ĐÂ&ĐN TRONG KHU VỰC
ĐỒNG ÂM KHÁC GỐC NGỮ NGHĨA
4.3.1. Về nguồn gốc
Kết quả thống kê, khảo sát cho thấy: đây là những ĐVĐÂ ngẫu nhiên với
nhau (khác gốc ngữ nghĩa), do có âm đọc ngẫu nhiên giống nhau nên được xếp
chung vào cùng một loạt ĐÂ. Các loạt ĐÂ này tạo thành các lớp ĐÂ trong từ
điển. Các ĐV trong các loạt ĐÂ này đại bộ phận thuộc về các lớp từ thuần Việt,
Hán Việt, Ấn Âu. Dưới đây là các dạng biểu hiện của những loạt ĐÂ này:
(1) Toàn bộ những đơn vị đồng âm trong loạt đều là từ Hán Việt
Thí dụ 1: Loạt ĐÂ có âm đọc là “bản vị” và “bất tử” dưới đây:
Bản vị 1 d. 1. Trọng lượng kim loại quí dùng làm đơn vị tiền tệ cơ sở của
một nước. 2. Kiểu chế độ tiền tệ. Bản vị bạc (lấy bạc làm thước đo giá trị và
phương tiện lưu thông. Bản vị vàng.
Bản vị 2 t. Chỉ biết chú ý và bênh vực lợi ích của bộ phận mình mà không
quan tâm đến lợi ích của bộ phận khác. Tư tưởng bản vị. (TĐTV. tr 31).
Thí dụ: Bất tử 1 t. 1. (tr tr.). Không bao giờ chết, còn sống mãi trong trí nhớ,
tình cảm của người đời. Những người anh hùng đã trở thành bất tử. 2. (thgt.).
Bạt mạng. Tứ bất tử. Ăn nói bất tử.
Bất tử 2 p. (Ph.). Bất thình lình. Ngã lăn ra chết bất tử. (TĐTV. tr 52).
(2) Toàn bộ những đơn vị đồng âm trong loạt đều là từ thuần Việt
Thí dụ 2: Loạt ĐÂ có âm đọc là “bánh” và “ang” dưới đây:
Bánh 1 d. 1. Món ăn chín có hình khối nhất định chế biến bằng bột thường
có thêm chất ngọt, mặn, béo. Gói bánh. Nhân bánh. 2. (thường dùng phụ trước
d.). Từ dùng để chỉ ĐV có hình khối bề ngoài giống như chiếc bánh. Bánh xà
phòng. Bánh pháo. Đóng thành bánh.
Bánh2 d. (thường nói bánh xe). Bộ phận của xe máy, có dạng đĩa tròn hoặc vành
lắp nan hoa, quay quanh một trục để thực hiện một chuyển động hoặc để truyền
chuyển động. Xe ba bánh. Không thể quay ngược bánh xe lịch sử. (TĐTV. tr 34).
Ang1 d. 1. Đồ đựng nước bằng đất nung, thành hơi phình, miệng rộng. Ang sành.
Ang đựng nước. 2. Đồ đựng bằng đồng, thấp, thành hơi phình, miệng rộng.
Ang 2 d. Dụng cụ đong lường bằng gỗ hoặc đan bằng tre, hình hộp, dung
tích khoảng bảy tám lít, dùng ở một số địa phương để đong chất hạt rời. Một ang
gạo. (TĐTV. tr 06)
Tuy vậy, trong TV vẫn có một SL lớn những loạt ĐÂ chứa những ĐV khác
nhau về nguồn gốc. Chẳng hạn như:
(3) Là những ĐV Hán Việt đồng âm với những ĐV thuần Việt
Thí dụ 3: Biểu1 (表) d. 1. Bảng kê số liệu có đối chiếu. Biểu thuế. 2. (chm). Cn. Biểu
thống kê. Bảng thống kê làm theo mẫu quy định trước. Lập biểu. Lên biểu.
Biểu 2 (表) d. Bài văn tâu lên vua, trình bày ý kiến về sự việc quan trọng.
Ban 2 (斑) d. Nốt đỏ bất thường nổi thành từng mảng trên da, thường thấy
Ban 4 (班) d. 1. Hàng quan lại trong triều đình phong kiến, chia theo văn, võ
(hoặc tả, hữu) và phân theo hạn bậc. Hai ban văn võ. 2. Tổ chức gồm một tập thể
người được lập ra để cùng làm một công việc. Ban văn nghệ. Ban bầu cử. Ban
thư kí của hội nghị. Ban quản trị. 3. (kết hợp hạn chế). Phiên làm việc để bảo
đảm công tác liên tục. Nhận ban. Giao ban.
Ban 6 d. (dùng trong một số tổ hợp). Khoảng thời gian không xác định rõ,
nhưng tương đối ngắn (thường trong phạm vi một phần nào đó của ngày). Ban
trưa. Ban chiều. Ban đêm. Ban nãy.
Ban 7 đg. (ph.) San cho bằng. Ban mô đất. Ban bờ.
Ban 8 đg. (kng.) Pan.
Ban 9 (颁) đg. 1. (cũ; trtr.). Cho, cấp cho người dưới. Ban lộc. Ban phúc. 2.
(cũ). Truyền cho mọi người biết. Lệnh trên ban xuống. (TĐTV. tr 28).
Trong loạt ĐÂ có âm đọc là “ban” trên đây, các ĐVĐÂ trong loạt như: ban 2
(斑), ban 4 (班), ban 5 (般), ban 9 (颁) là những ĐVĐÂ Hán Việt. Những ĐVĐÂ
trong loạt như: ban 1 , ban 6 , ban 7 là những ĐVĐÂ thuần Việt. Còn ban 3 , ban 8 lại
là những ĐVĐÂ có nguồn gốc Ấn Âu.
4.3.2. Về dung lượng nghĩa
Những ĐV ĐÂ và ĐN trong khu vực ĐÂ ngẫu nhiên nhìn chung là những
ĐV có DLN thấp. Đại bộ phận là những ĐV có 2 và 3 nghĩa. ĐV có nhiều nghĩa
nhất là 12 nghĩa và chỉ có duy nhất một ĐV là lại 2 (TĐTV. tr 537)
4.3.3. Về cấu tạo
Những ĐVĐÂ và ĐN trong khu vực ĐÂ ngẫu nhiên có cấu tạo tối đa là 04
âm tiết như: cọc cà cọc cạch 1,2 . Trong đó: những ĐV có cấu tạo 01 âm tiết như:
bê 2 , ải 1 … có SL nhiều nhất, kế tiếp là những ĐV có cấu tạo 02 âm tiết như: bà
mụ 2 , bản vị 1 , bẻ bai 2 , bo bo 4 …. Kết quả thống kê cho thấy: về SL, những ĐVĐÂ
và ĐN có cấu tạo song tiết trong khu vực ĐÂ ngẫu nhiên có SL ít hơn hẳn những
ĐVĐÂ và ĐN có cấu tạo song tiết trong khu vực ĐÂCG ngữ nghĩa.
4.3.4. Về quan hệ ngữ nghĩa
4.3.4.1. Mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các đơn vị trong loạt đồng âm
Qua khảo sát ngữ liệu của TĐTV 2006 chúng tôi thấy rằng: những ĐVĐÂ
và ĐN trong một loạt ĐÂ ngẫu nhiên không hề có mối quan hệ hay liên hệ gì về
nghĩa với nhau.
Thí dụ 6: Loạt ĐÂ có âm đọc là bết dưới đây:
Bết 1 đg. Dính hành lớp, dính sát. Quần áo ướt dính bết vào người.
Bết 2 t. (Ph.; kng.) 1. Mệt quá sức. Trâu cày đã bết. 2. Kém, tồi. Nhà máy
này bết lắm. (TĐTV. tr 59).
4.3.4.2. Mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các nghĩa trong một đơn vị ĐÂ&ĐN
Kết quả thống kê, khảo sát của chúng tôi cũng cho thấy, mối quan hệ ngữ
nghĩa giữa các nghĩa trong một ĐVĐÂ và ĐN thuộc khu vực ĐÂ ngẫu nhiên thuộc về
một trong ba kiểu dưới đây:
(1) Chỉ có mối quan hệ phái sinh về ngữ nghĩa
Thí dụ 7: Ác 1 d. 1. (Ph.). Quạ. Ác tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa (tng.). Gửi
trứng cho ác. 2. Miếng gỗ đẽo hình con quạ để mắc dây go trong khung cửi. 3.
(cũ; vch.). Từ dùng để chỉ mặt trời. Thỏ lặn, ác tà.
Ác 2 t. 1. (Người hoặc việc) gây hoặc thích gây đau khổ, tai hoạ cho người
khác. Kẻ ác. Làm điều ác. Đối xử ác. 2. Có tác dụng gây nhiều tai họa. Năm nay
rét ác hơn mọi năm. Trận đánh ác. 3. (kng.; thường dùng phụ sau đg.). (Làm việc
gì) ở mức độ cao khác thường, gây ấn tượng mạnh. Dạo này cô ta diện ác lắm.
(TĐTV. tr 02)
Thí dụ 8: Bông 1 d. 1. Cây thân cỏ hay cây nhỡ, Lá hình chân vịt, hoa màu
vàng, quả già chứa xơ trắng dùng để kéo thành sợi vải. Ruộng bông. 2. Chất sợi
lấy từ quả của bông hoặc một số cây khác. Cung bông. Bông gạo. Chăn bông. Áo
Bông. 3. (dùng trong tên gọi một số sản phẩm). Chất tơi xốp như bông. Ruốc
bông. (TĐTV. tr 83).
Trong các thí dụ trên, trật tự các ý nghĩa là không thể đảo lộn. Nếu cố tình
đảo lộn sẽ dẫn tới việc phá vỡ cấu trúc ngữ nghĩa vốn rất chặt chẽ và logic của
chúng. Đây chính là những ĐV có cấu trúc ngữ nghĩa theo kiểu phái sinh.
(2) Chỉ có mối quan hệ song song về ngữ nghĩa
Thí dụ 9: Bà mụ3 d. 1. Người đàn bà đỡ đẻ ở nông thôn ngày trước. 2. Nữ thần nặn ra
hình đứa trẻ và chăm nom, che chở cho trẻ, theo tín ngưỡng dân gian. (TĐTV. tr 22).
Thí dụ 10: Bớt 2 đg. 1. Làm cho hoặc trở lên ít đi một phần về số lượng, mức
độ. Giảm bớt chi phí. Thêm bạn bớt thù. Chặt cho ngắn bớt. 2. (kng.). Lấy ra một
phần dùng vào việc khác. Bớt lại một tí để dành. 3. (kng.). Nhường hoặc bán lại
một phần. Bớt cho ít gạch để xây giếng. (TĐTV. tr 87).
Trong 2 ví dụ trên, các ý nghĩa của bà mụ3 và bớt 2 hoàn toàn có thể hoán
đổi vị trí cho nhau mà không hề ảnh hưởng gì tới cấu trúc ngữ nghĩa của từ. Đây
chính là những ĐV có cấu trúc ngữ nghĩa theo kiểu song song.
(3) Vừa có mối quan hệ phái sinh lại vừa có mối quan hệ song song về
ngữ nghĩa
Thí dụ 11: Bố 1 d. 1. (kng., hoặc ph.). Cha (có thể dùng để xưng gọi). Con
giống bố. Bố chồng. Con lại đây với bố! 2. (thường dùng phụ sau d.). Con vật
đực thuộc thế hệ trước, trong quan hệ với những con vật thuộc thế hệ sau và được
trực tiếp sinh ra. Lựa chọn cá bố, cá mẹ. 3. (kng.). Thường dùng để gọi nhười lớn
tuổi, đáng mặt cha (tỏ ý thân mật hoặc vui đùa). Nhà bố ở đâu? Bố già. 4. (thgt.).
Từ dùng để gọi người đàn ông hàng bạn bè hoặc trẻ em trai (hàm ý đùa nghịch
hoặc không bằng lòng, trách mắng). Thôi đi các bố, đừng nghịch nữa! 5. (kng.;
dùng phụ sau d., trong một số tổ hợp). Cỡ lớn, to (thường nói về chai lọ). Chai
bố. 6. (thgt.; dùng sau đg., kết hợp hạn chế). Từ dùng trong tiếng rủa, biểu thị ý
hơi bực mình. Mất bố cái đồng hồ rồi. (TĐTV. tr 78).
Trong ví dụ trên thì các nghĩa thứ nhất, thứ hai và thứ ba là các nghĩa có
quan hệ phái sinh (không thể đảo lộn trật tự các nghĩa này) còn các nghĩa thứ tư,
thứ năm và thứ sáu là những nghĩa có quan hệ song song với nhau (có thể hoán
đổi trật tự các nghĩa cho nhau mà không ảnh hưởng gì tới cấu trúc ngữ nghĩa của
từ). Kiểu cấu trúc ngữ nghĩa này là kiểu cấu trúc ngữ nghĩa hỗn hợp (tức là vừa
có mối quan hệ phái sinh lại vừa có mối quan hệ song song về ngữ nghĩa).
Thí dụ 12: Bầu1 d. 1. Cây leo bằng tua cuốn, lá mềm rộng và có lông mịn, quả
tròn, dài hay thắt eo ở giữa, dùng làm thức ăn. Canh bầu. Bầu ơi, hương lấy bí cùng…
(cd.). 2. Đồ đựng làm bằng vỏ quả bầu tròn và to đã nạo ruột và phơi khô; đồ đựng hoặc
nói chung vật giống hình quả bầu. Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài (tng.). Bầu rượu. Bầu
đèn. 3. (chm.). Phần phình to ở phía dưới của nhuỵ hoa, bên trong chứa noãn. 4. Khối
đất bọc quanh rễ khi bứng cây lên để đem đi trồng nơi khác. Trồng cây bằng cách đánh
bầu. 5. (kng.; kết hợp hạn chế). Thai. Có bầu. Mang bầu. 6. (dùng trước d, trong một số
tổ hợp). Từ dùng để chỉ một lượng nhiều, nhưng không xác định, những tình cảm, ý
nghĩ, tưởng tượng như chứa đầy trong tim, trong lòng. Dốc bầu tâm sự (kể hết nỗi lòng).
Bầu nhiệt huyết. (TĐTV. tr 52).
Trong ví dụ trên thì các nghĩa thứ nhất và thứ hai là các nghĩa có quan hệ
phái sinh (không thể đảo lộn trật tự các nghĩa) còn các nghĩa thứ ba, thứ tư, thứ
năm và thứ sáu là những nghĩa có quan hệ song song với nhau (có thể thay đổi
trật tự các nghĩa). Đây cũng là một ĐV có kiểu cấu trúc ngữ nghĩa hỗn hợp.
Qua việc thống kê, khảo sát những ĐV này chúng tôi nhận thấy:
(i) Trong ba kiểu quan hệ ngữ nghĩa trên đây thì kiểu (3) là kiểu có SL ĐV
ít hơn kiểu (1) và kiểu (2).
(ii) Mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các nghĩa trong một ĐVĐÂ và ĐN thuộc khu vực
ĐÂ ngẫu nhiên của TV có nhiều nét tương đồng với những ĐVĐN thường gặp của TV.
4.4. ĐẶC ĐIỂM CỦA NHỮNG ĐV ĐÂ&ĐN TRONG KHU VỰC
ĐÂCG
4.4.1. Về số lượng
Trong TĐTV 2006 hiện thu thập và xử lí một SL đáng kể những ĐVĐÂ và
ĐN trong khu vực ĐÂCG ngữ nghĩa. (Xem bảng 4.1)
Bảng 4.1 Bảng Tkê các ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG của TV.
Các ĐV ĐÂCG ngữ nghĩa trong TĐTV 2006
ĐÂ đơn thuần ĐÂ – ĐN ĐÂ - ĐN
(không ĐN) không hoàn toàn hoàn toàn
886 loạt (1772 đv) 479 loạt (1029 đv) 115 loạt (235 đv)
1480 loạt (3036 đv)
4.4.2. Về cấu tạo
Trước hết, phải thấy rõ rằng: những ĐV ĐÂCG nói chung, những ĐV
ĐÂvà ĐN cùng gốc ngữ nghĩa nói riêng vốn là những ĐV được sản sinh bằng
PTCL. Sự chuyển loại của những ĐV kiểu này có khi diễn ra trong nội bộ một từ
loại (danh từ, động từ, tính từ...), có khi diễn ra thành nhiều từ loại mà nhiều nhất
là 02 từ loại với các kiểu mô hình thường gặp như: danh – động, danh – tính,
động – tính.... Những ĐV chuyển hóa thành 03 từ loại khác nhau trở lên kiểu
(danh – động – tính...) rất hiếm gặp. Nhiều nhất là chuyển hóa thành 04 từ loại.
Chẳng hạn như loạt ĐÂ có âm đọc là cứ dưới đây:
Thí dụ 13: Cứ I đg. 1. Dựa theo để hành động hoặc lập luận. Cứ phép công mà
làm. 2. (thường dùng không có chủ ngữ). Dựa vào, lấy đó làm điều kiện tất yếu cho sự
việc gì. Chẳng cứ có kiểm tra mới làm cẩn thận. Cứ đà này thì công việc sẽ hoàn thành
đúng thời hạn. Cứ đúng 7 giờ là đóng cửa. Cứ gì khó dễ, việc cần là làm.
II d. 1. (cũ ; id.). Khu vực dùng làm chỗ dựa để chuẩn bị và tiến hành chiến tranh.
Chọn nơi làm cứ. 2. (kng.). Căn cứ địa cách mạng ở vùng nông thôn hoặc rừng núi. Tạm
rút về cứ.
III p. Từ biểu thị ý khẳng định về hoạt động, trạng thái nhất định như thế, bất chấp
mọi điều kiện. Dù có phải hi sinh cũng cứ làm. Đừng sợ, cứ nói ! Tôi cứ tưởng là đã hết.
Nó vẫn cứ chứng nào tật ấy.
IV tr. (kng.). Từ biểu thị ý nhấn mạnh thêm về sắc thái khẳng định, không kể
khách quan như thế nào. Cứ nói trắng ra. Nặng thế mà nó xách cứ như không. (TĐTV
2006 tr. 228).
Trong TV, sự chuyển hóa từ loại trong nội bộ một từ loại của các ĐV ĐÂ
CG ít hơn sự chuyển hóa thành nhiều từ loại. Sự chuyển hóa khác từ loại của
chúng có các kiểu sau:
(i) Thực từ <-> thực từ.
Chẳng hạn như 2 loạt ĐÂ có âm đọc là bừa, cưa dưới đây:
Thí dụ 14: Bừa 1 I d. Nông cụ dùng sức kéo để làm nhỏ, làm nhuyễn đất, san bằng
ruộng hoặc làm sạch cỏ, có nhiều kiểu loại khác nhau. Kéo bừa. Bừa cải tiến.
Bừa II đg. Làm nhỏ, làm nhuyễn đất, san bằng ruộng hoặc làm sạch cỏ bằng cái
bừa. Cày sâu bừa kĩ. ... chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa (cd.). (TĐTV 2006 tr. 93).
Cưa I d. Dụng cụ để xẻ, cắt gỗ, kim loại và vật liệu cứng khác, lưỡi bằng thép
mỏng có nhiều răng sắc nhọn.
Cưa II đg. 1. xẻ, cắt, làm cho đứt bằng cái cưa. Cưa gỗ. Nhà máy cưa. Chân bị
thương, phải cưa. 2. (thgt.). Tán tỉnh, làm cho xiêu lòng mà đồng ý nghe theo ( thường nói
về quan hện tình cảm). Tán tỉnh mãi mà không cưa được cô nào. (TĐTV 2006 tr. 228).
(ii) Thực từ <-> hư từ.
Thí dụ như 2 loạt ĐÂ có âm đọc là của, đố dưới đây:
Thí dụ 15: Của I d. 1. Vật do sức con người làm ra, về mặt thuộc quyền sở hữu
của người nào đó. Người làm nên của, của chẳng làm nên người (tng.). Bảo vệ của công.
Của bền tại người (tng.). 2. Cái ăn, về mặt có đặc tính nào đó. Thích của ngọt. Của
không ngon, nhà đông con cũng hết (tng.). 3. (kng. ; thường dùng trước ấy, này.). Đồ
vật hoặc người thuộc loại, hạng nào đó (hàm ý coi khinh). Mua làm gì cái của ấy ! của
ấy chỉ biết ăn diện.
Của II k. Từ biểu thị quan hệ sở thuộc. 1. Biểu thị điều sắp nêu ra là người hay sự
vật có quyền sở hữu, quyền chi phối đối với cái vừa được nói đến. Chiếc đồng hồ của
tôi. Sách của thư viện. 2. Biểu thị điều sắp nêu ra là chỉnh thể, mà bộn phận là cái vừa
được nói đến. Tay của em bé. Nắp của cái hộp. Một phần mười của giây. 3. Biểu thị
điều sắp nêu ra là người hay sự vật có thuộc tính hoặc hoạt động vừa được nói đến.
Lòng dũng cảm của anh ta. Mùi hương của hoa nhài. Đề nghị của cấp dưới. Sự phát
triển của xã hội. 4. Biểu thị điều sắp nêu ra là người hay sự vật có quan hệ nguồn gốc,
thân thuộc, tác động qua lại,v.v. với người hay sự vật vừa được nói đến. Tác phẩm của
nhà văn trẻ. Tác giả của bài thơ. Người bạn của tôi. Nguyên nhân của sự việc. (TĐTV
2006 tr 220).
Đố 3 I đg. 1. Hỏi để thử trí thông minh hoặc trí nhớ. Chơi trò đố chữ. Câu đố. 2.
Nói khích người khác thử làm việc gì đó, với ngụ ý cho rằng người ấy không làm nổi.
Không thầy đố mày làm nên (tng.). Đố ai quét sạch lá rừng. Để ta khuyên gió, gió đừng
rung cây (cd.).
Đố 3 II p. (kng.). Từ biểu thị ý phủ định tuyệt đối ; hoàn toàn không, không hề.
Dọa thế mà nó đố có sợ. (TĐTV 2006 tr. 334).
(iii) Hư từ <-> hư từ.
Chẳng hạn như 3 loạt ĐÂ có âm đọc là chứ, đã, đếch dưới đây:
Thí dụ 16: Chứ I k. Từ biểu thị điều sắp nêu ra phủ định khả năng ngược lại điều
vừa nói đến, để bổ sung khẳng định thêm điều muốn nói. Tôi vẫn còn nhớ, chứ quên thế
nào được. Anh ta chứ ai ! thế chứ còn gì nữa. Thà chết, chứ không khai.
Chứ II tr. (dùng trong đối thoại, thường ở cuối câu hoặc cuối đọan câu). 1. Từ biểu
thị ý ít nhiều đã khẳng định về điều nêu ra để hỏi, tựa như chỉ là để xác định thêm. Anh
vẫn khỏe đấy chứ ? Anh quen ông ấy chứ ? 2. Từ biểu thị ý nhấn mạnh thêm điều vừa
khẳng định hoặc yêu cầu, cho là không có khả năng ngược lại. Có thế chứ ! Đẹp đấy
chứ nhỉ ! Khẽ chứ ! Phải làm thế nào chứ, cứ để như thế à ? (TĐTV 2006 tr. 190).
Đã 2 I p. 1. (thường dùng trước đg., t.). Từ biểu thị sự việc, HT nói đến xảy ra
trước hiện tại hoặc trước một thời điểm nào đó được xem là mốc, trong quá khứ hoặc
tương lai. Bệnh đã khỏi từ hôm qua. Mai nó về thì tôi đã đi rồi. Đã nói là làm. 2. (dùng
ở cuối vế câu, thường trong câu cầu khiến). Từ biểu thị việc vừa nói đến cần được hoàn
thành trước khi làm việc nào đó. Đi đâu mà vội, chờ cho tạnh mưa đã. Nghỉ cái đã, rồi
hãy làm tiếp.
Đã 2 II tr. 1. Từ biểu thị ý nhấn mạnh thêm về sắc thái khẳng định của một nhận
xét. Nhà ấy đã lắm của. Đã đẹp chưa kìa ? Đã đành như thế. 2. (dùng trong câu có hình
thức nghi vấn). Từ biểu thị ý nhấn mạnh thêm về sắc thái nghi vấn. Phê bình chưa chắc
nó đã nghe. Đã dễ gì bảo được anh ta. (TĐTV 2006 tr. 276).
Đếch I p. (thgt.). Từ biểu thị ý phủ định dứt khoát một cách nặng lời. Đếch cần.
Đếch ai tin. Đếch ra gì.
Đếch II tr. (thgt.). Từ biểu thị ý nhấn mạnh về sắc thái phủ định dứt khoát một
cách nặng lời. Nói làm đếch gì nữa. Đi thế đếch nào được. Việc đếch gì phải buồn.
(TĐTV 2006 tr. 309).
Những ĐV ĐÂCG nói chung và những ĐVĐÂ và ĐN cùng gốc nói riêng
có cấu tạo từ 01 đến 04 âm tiết, đại bộ phận là những ĐV có cấu tạo 01 và 02 âm
tiết. Những ĐV có cấu tạo 03 và 04 âm tiết có SL rất ít (chỉ có 10 loạt với 20 ĐV)
và đều là ngữ. Trong những ĐV có cấu tạo 01 âm tiết và 02 âm tiết thì chiếm
tuyệt đối là từ đơn tiết và từ song tiết, chỉ có một SL rất nhỏ các ĐV đơn tiết là
các YT CTT (yếu tố phụ trước, phụ sau danh từ, động từ, tính từ). Các YT CTT
này luôn luôn là những ĐV đơn nghĩa. (Chi tiết, xem bảng 4.2)
Bảng 4.2 Bảng thống kê, phân loại các ĐV ĐÂCG trong TV ( SL loạt) nhìn
từ tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo:
Bảng thống kê các ĐV ĐÂCG nhìn từ tiêu chí SLÂT
Đơn tiết Đa tiết
02 âm tiết 03 âm tiết 04 âm tiết
797 loạt 673 loạt 03 loạt 07 loạt
683 loạt
1480 loạt
Những ĐV ĐÂ cùng gốc nói chung và những ĐV ĐÂ và ĐN cùng gốc nói
riêng có 03 nguồn gốc là: từ thuần Việt, từ Hán Việt, từ gốc Ấn Âu. Trong đó,
nhiều nhất xếp theo thứ tự là: từ Hán Việt, từ thuần Việt, từ gốc Ấn Âu. Chúng
có mặt ở tất cả 08 từ loại cơ bản của TV và có SL nhiều nhất là ở các từ loại:
danh từ, động từ, tính từ, phó từ...
4.4.3. Về dung lượng nghĩa
Những ĐV ĐÂCG của TV có biên độ nghĩa rộng (có từ 01 đến 18 nghĩa).
Trong những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN thì những ĐV có 02 và 03 nghĩa chiếm SL
tuyệt đối. Những ĐV có nhiều nghĩa nhất là những ĐV có cấu tạo đơn tiết và 02
âm tiết. Những ĐV có cấu tạo 03 và 04 âm tiết đều là đơn nghĩa. Những từ loại
có nhiều nghĩa nhất là động từ, danh từ, tính từ.... (Chi tiết xin xem bảng 4.3)
Bảng 4.3 Bảng thống kê DLN của các ĐV ĐÂCG trong TĐTV 2006:
Bảng thống kê DLN của các ĐV ĐÂCG
Đơn Đa nghĩa
nghĩa 02 03 04 05 06 07 08 09 12 18
2195 563 129 78 35 14 11 04 04 02 01
đvị đvị đvị đvị đvị đvị đvị đvị đvị đvị đvị
841 đvị
3036 đvị
Khảo sát 841 ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG ngữ nghĩa về các
phương diện từ loại, chúng tôi nhận thấy:
Cũng giống như các ĐVĐN thông thường, các ĐVĐN trong khu vực ĐÂ
CG cũng tuân theo quy luật: (i) các ĐV đơn tiết bao giờ cũng có nhiều nghĩa hơn
các ĐV song tiết, (ii) xét về SL thì các ĐVĐN thuộc thực từ bao giờ cũng chiếm
SL tuyệt đối so với các ĐV hư từ. Trong các ĐVĐN thuộc thực từ như danh từ,
động từ, tính từ, thì những ĐVĐN thuộc từ loại danh từ bao giờ cũng có SL
nhiều nhất. Song nếu xét về DLN thì những ĐV là động từ lại có DLN cao hơn.
4.4.4. Về quan hệ ngữ nghĩa
Khảo sát mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các nghĩa trong một ĐVĐN thuộc khu
vực vừa ĐÂ vừa ĐN chúng tôi cũng nhận thấy một quy luật chung là: về cơ bản,
chúng cũng có 03 kiểu quan hệ: (i) quan hệ phái sinh (thường gặp nhất trong
những ĐV có 02 và 03 nghĩa). (ii) quan hệ song song (thường gặp nhất là trong
những ĐV có từ 04 nghĩa trở lên). (iii) quan hệ vừa phái sinh vừa song song
(thường gặp trong các ĐV có từ 05 nghĩa trở lên.
Thí dụ 17: (quan hệ phái sinh): bào II đg. 1. Làm nhẵn mặt gỗ bằng cái bào. Bào
tấm ván. Vỏ bào. Ruột xót như bào. 2. (chm.). Cắt các mặt do một đường thẳng chuyển
động vạch ra trên vật kim loại đang chế tạo bằng cách dùng một lưỡi dao hớt từng lớp
mỏng theo phương của đường thẳng ấy. (TĐTV 2006 tr. 38).
Thí dụ 18: (quan hệ song song): bạn I d. 1. Người quen biết và có quan hệ gần gũi,
coi nhau ngang hàng, do hợp tính, hợp ý hoặc cùng cảnh ngộ, cùng chí hướng, cùng
hoạt động, v.v. Bạn nghèo với nhau. Bạn chiến đấu. Người với người là bạn. 2. (ph.).
Người đàn ông đi ở làm thuê theo mùa, theo việc trong xã hội cũ. Ở bạn. Bạn ghe. 3.
Người đồng tình, ủng hộ. Bạn đồng minh. Thêm bạn bớt thù. 4. (dùng phụ sau d.). ĐV
tổ chức có quan hệ gần gũi. Đội bạn. Nước bạn. (TĐTV 2006 tr. 33).
Thí dụ 19: (quan hệ phái sinh kèm song song): bóng1 I d. 1. Vùng không được ánh
sáng chiếu tới do bị một vât che khuất, hoặc hình của vật ấy trên nền. Dưới bóng cây. Bóng
người in lên vách. Ngồi sấp bóng (quay lưng về phía ánh sáng). Trong bóng đêm (bóng tối
ban đêm). Đi đôi với nhau như hình với bóng. 2. (Dùng sau đg.; kết hợp hạn chế.). Bóng
của người có thế lực, dùng để ví sự che chở. Núp bóng. Nương bóng từ bi. 3. (chm.). Mảng
sáng tối trên bề mặt của vật do tác dụng của ánh sáng. Đánh bóng. 4. (kết hợp hạn chế).
Ánh, ánh sáng. Bóng nắng xuống thềm. Bóng trăng mờ mờ. 5. Hình ảnh do phản chiếu mà
có. Soi bóng trong gương. Bóng cây in xuống nước. 6. Hình dạng không rõ nét hoặc thấp
thoáng. Bóng núi trong sương. 7. (thường dùng sau đg., trong một số tổ hợp.). Hình ảnh
gián tiếp hoặc vu vơ. Nói bóng. Dọa bóng. Chó sủa bóng. (sủa vu vơ trong đêm.). 8. (ph.).
Ảnh. Chụp bóng. (TĐTV 2006 tr. 74-75).
Khác với những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂ ngẫu nhiên (giữa
các nghĩa của một ĐVĐN và các ĐVĐÂ trong loạt không có mối liên hệ hay
quan hệ gì với nhau – võ đoán tuyệt đối), các nghĩa của một ĐVĐN hay một số
nghĩa của chúng với các ĐVĐÂ trong loạt ĐÂ của khu vực ĐÂCG luôn có mối
liên hệ về ngữ nghĩa với nhau mà hiện thời chúng ta vẫn có thể cảm nhận được.
Chẳng hạn như:
Mối liên hệ giữa nghĩa thứ nhất của bào II (làm nhẵn mặt gỗ bằng cái bào)
với một danh từ cùng gốc nghĩa với nó là bào I (dụng cụ của thợ mộc ; gồm một
đoạn gỗ có lắp lưỡi thép nằm ngang; dùng để nạo nhẵn mặt gỗ) là hoàn toàn có
thể nhận ra. Đó là mối liên hệ giữa một danh từ với chức năng của danh từ đó.
Đây chính là lí do dẫn đến việc một số từ điển nhập chung các nghĩa của hai từ
bào I, II thành một từ ĐN.
Quy luật này cũng giống như mối liên hệ giữa nghĩa thứ nhất của danh từ
bạn I “chỉ người quen biết và có quan hệ gần gũi, coi nhau ngang hàng, do hợp
tính, hợp ý hoặc cùng cảnh ngộ, cùng chí hướng, cùng hoạt động như: Bạn nghèo
với nhau. Bạn chiến đấu. Người với người là bạn. với động từ bạn II vốn có
nghĩa là “kết bạn”.
名。 1 没有种上庄稼的天地:留下一 (白地儿)名。白色的衬托面:白地
块白地准备种白薯。2 没有树木,房屋 儿红花儿。
等的土地:村子被烧成一片白地。 Dịch : Nền trắng : Bông hoa hồng trên
Dịch: 1. Đất chưa gieo trồng: Để một vạt nền trắng.
đất không, chuẩn bị trồng khoai. 2. Đất
không (không nhà cửa, cây cối) : Làng
xóm bị thiêu trụi thành một giải đất
không.
Nghĩa của白地1 và 白地2 đều được phát triển từ các nghĩa khác nhau của từ
白1 dưới đây. Trong đó: 白地1 được phát triển từ nghĩa thứ 04 còn白地2 là phát
triển từ nghĩa thứ 01.
白 1 bái 1. 形。像霜或雪的颜色(跟 “黑”相对)。2. 形。光亮;明
亮:东方发白/ 大天白日。3. 清楚;明白;弄明白:真相大白/ 不白之冤。4.
没有加上什么东西的;空白:白卷/ 白饭/ 白开水/ 一穷二白。5. 副。没有效
果,徒然:白跑一趟/ 白费力气。6. 副。无代价;无报偿:白吃/ 白给/白看
戏。7. 象征反动:白军/ 白区。8. 指丧事:白事。9. 动。用白眼珠看人,表
示轻视或不满:白了他一眼。10. (bái)名。姓。
Dịch: BẠCH 1. (Hình dung từ) giống như màu của sương hay tuyết (ngược lại với
đen): Trắng/ bạc. 2. (Hình dung từ) Sáng/ rạng/ quang sáng/ tỏ: phương đông hừng
sáng/ trời đông đã rạng. Thanh thiên bạch nhật/ ban ngày ban mặt/ giữa ban ngày. 3.
Rõ ràng/ rõ/ làm rõ/ sáng rõ. Rõ chân tướng/ rõ bộ mặt thật. Nỗi oan chưa tỏ. 4. Trắng
không (không có gì thêm)/ không/ suông/ trống/ hổng: một nghèo hai trắng. Một vùng
đất trống không. Công tác khoa học còn có một số điểm trống hổng. Thịt gà luộc. 5.
Mất công/ uổng phí/ toi/ chẳng được tích sự gì: Toi công một chuyến đi. Uổng phí một
ngày trời. 6. Không phải trả tiền: Cho không. Ăn không. Xem chạc (không trả tiền.). 7.
Trắng (phản động) : Bạch quân. Vùng trắng. 8. (Chỉ việc tang) : Việc hiếu hỉ/ đám cưới
đám tang. 9. Lườm/ nguýt (tỏ ý khinh thị hoặc không hài lòng): Lườm nó một cái. 10.
Bạch (tên dân tộc): dân tộc Bạch. 11. (Họ) Bạch.
Những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG nghĩa trong THHĐ có
biên độ nghĩa rất rộng (từ 02 đến 27 nghĩa). Trong đó, những ĐV có 02 nghĩa, 03
nghĩa, chiếm tỉ lệ lớn nhất. Chúng che phủ tất cả HTĐN trong THHĐ như: ĐN
BV, ĐNBN, ĐNBT, từ đơn ĐN, từ tố ĐN, từ song tiết ĐN, ngữ ĐN.
Dưới đây là bảng đối sánh DLN trong các ĐV ĐÂCG nghĩa trong mục A,
B của TĐTV 2006 và TĐTH HĐ 2005.
Bảng 4.5 Bảng đối chiếu DLN của những ĐV ĐÂCG mục A,B trong
TĐTV 2006 với DLN của những ĐV ĐÂCG mục A,B trong TĐ THHĐ:
TĐ 01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 11 12 SL
TV
2006
Mục 112 34 08 03 03 01 161đvị
A, B đvị đvị đvị đvị đvị đvị
HTĐÂ,ĐN trong ngôn ngữ cũng như HTĐÂ,ĐN và HTĐÂ&ĐN trong TV,
THHĐ là một vấn đề lớn mà phạm vi của một LA cũng như khả năng có hạn của
người viết sẽ không thể nào bao quát đầy đủ được. Tuy nhiên, bằng sự nỗ lực của
mình, chúng tôi cũng đã tiếp cận được một số khía cạnh cơ bản và quan trọng của
vấn đề cũng như có được một số đóng góp nhất định về số liệu và lí luận. Dưới
đây là những thuận lợi, khó khăn mà chúng tôi gặp phải trong quá trình thực hiện
LA cũng như các kết quả cơ bản đã thực hiện được và những vấn đề còn tồn
đọng chưa giải quyết được liên quan tới đề tài.
1. Việc nghiên cứu HTĐÂ,ĐN và HTĐÂ&ĐN trong ngôn ngữ cũng như
trong TV, THHĐ đã được đề cập tới từ lâu và hiện vẫn đang được tiếp tục. Đây
là thuận lợi lớn cho chúng tôi. Trong giới Việt ngữ học, những vấn đề liên quan
tới HTĐÂ,ĐN và HTĐÂ&ĐN được đề cập tới từ khá sớm. Tuy nhiên, vì nhiều lí
do, HT này chưa được khảo sát có hệ thống trên cùng một khối ngữ liệu mà chỉ
được tiến hành với quy mô nhỏ và tản mạn, số liệu đã cũ do được thống kê cách
đây trên 20 năm nên đã bộc lộ những điểm không còn phù hợp nữa. Tuy vậy, có
rất nhiều vấn đề có liên quan như: HT ĐÂĐH, ĐÂDH, HT ĐÂCG, HTCL, HT
ĐNBV, ĐNBN, ĐNBT, mối quan hệ giữa ngôn ngữ với chữ viết… đã được
nhiều nhà Việt ngữ học, Hán ngữ học khảo sát và đề cập tới. Đây chính là những
điều kiện quan trọng mà thiếu nó, chúng tôi sẽ không thể hoàn thành nhiệm vụ đã
đề ra. Trên cơ sở thực tiễn sử dụng TV, thông qua việc thống kê, mô tả số liệu
của TĐTV 2006, TĐ THHĐ 2005, LA đã xác lập được một cách khá hệ thống
những đồng nhất và khác biệt giữa HTĐÂ, HTĐN cũng như sự khác biệt giữa
những ĐV ĐÂ&ĐN trong khu vực ĐÂCG với những ĐV ĐÂ&ĐN trong khu
vực ĐÂKG trong TV và THHĐ cả ở diện rộng, diện hẹp và ở một số phạm trù cơ
bản; LA đã xác lập được vị trí, vai trò của những ĐV ĐÂCG trong tổng thể từ
ĐÂ của TV, đã chứng minh được tầm quan trọng của HTCL trong TV. Cụ thể là:
1.1. Về HTĐÂ, nếu như trong THHĐ vấn đề gây nên tranh luận chỉ nằm ở
một SL nhất định các ĐV ĐÂĐH (các ĐV phân li từ những nghĩa hạng của một
ĐVĐN), còn đại bộ phận các ĐVĐÂ trong tiếng Hán đã có 3 tiêu chí hình, âm,
nghĩa ràng buộc và khu biệt thì trong TV, do việc từ bỏ chữ Hán, chữ Nôm dẫn tới
mối quan hệ giữa ba mặt hình, âm, nghĩa của gần 70% vốn từ Hán Việt và một tỷ
lệ không nhỏ từ thuần Việt hoàn toàn bị đứt đoạn, do việc xác định các đối lập cơ
bản giữa những ĐV đồng cấp độ như từ, ngữ… trong TV còn nhiều chỗ đáng phải
bàn thêm nên việc nhận diện, xác định và phân loại các ĐVĐÂ hay ĐN gặp rất
nhiều khó khăn, tạo nên nhiều khu vực có sự tròng tréo hay lưỡng khả mà những
ĐV được TĐTV 2006 dán nhãn là ĐÂ ngữ nghĩa là một ví dụ điển hình. Mặt khác,
do sự đối lập giữa những lớp từ loại của TV như: đg - tt, dt - tt… cũng là những
chỗ chưa có được những tiêu chuẩn rõ ràng nên cũng gây ra nhiều tranh luận trong
nhận diện, quy loại, phân loại và xử lý các ĐVĐÂ và ĐN trong TV. Tiếp đó là
những khó khăn không nhỏ do HTCL của các ĐV ngôn ngữ gây nên. Tiếp nữa là
việc xác định những giới hạn hay điều kiện phân li cho những ĐV vốn là những
nét nghĩa của một ĐVĐN để chúng trở thành những ĐVĐÂ với nhau cũng là
những thách thức không nhỏ… Cuối cùng phải kể đến là những khó khăn do quan
niệm hay do phương pháp xử lí khác nhau của các công trình từ điển học, từ vựng
ngữ nghĩa học. Thực tế này dẫn đến những số liệu khác nhau, không khớp nhau,
thậm chí trái ngược nhau qua các thời kỳ đã gây ra sự phân vân, thậm chí là những
ngộ nhận cho người viết. Chính những điều này đã tạo ra những khó khăn trong
nhận diện, phân loại và mô tả các ĐV ĐÂ,ĐN trong TV và tất yếu sẽ dẫn đến một
sự thật là: hoặc phải chấp nhận rất nhiều ngoại lệ hay vùng giao vùng mờ, hoặc
phải tìm ra những tiêu chí phân loại mới hay phải triệt để nhất quán hơn với một
chùm tiêu chí trên cùng một khối ngữ liệu.
Chọn hướng tiếp cận, phân loại các ĐVĐÂ của TV không chỉ từ tiêu chí ngữ
nghĩa đơn thuần hay từ tiêu chí nguồn gốc, LA còn kết hợp với 2 tiêu chí: SLÂT
tham gia cấu tạo nên các ĐVĐÂ; Từ loại của các ĐVĐÂ để tiến thống kê, phân loại
và mô tả các ĐVĐÂ của TV trên một khối ngữ liệu 39.924 ĐV của TĐTV 2006.
Đây không phải là một hướng phân loại mới song được thực hiện triệt để, nhất quán
và là số liệu cập nhật nhất sau hơn 20 năm.
Từ tiêu chí phân loại thứ nhất (từ tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo nên các
ĐVĐÂ), tức là xuất phát từ chính những đặc điểm cơ bản của TV (đơn lập; có
tiếng/âm tiết – từ đơn tiết - hình vị là 1 thể ba ngôi), tức là xuất phát và dựa trên
những cơ sở quan trọng của lý thuyết tín hiệu học. Từ tiêu chí này, các ĐVĐÂ
của TV được khảo sát, thống kê chi tiết tới từng loạt ĐÂ, từng ĐVĐÂ và được
mô tả chi tiết về sự phân bố của chúng qua từng khu vực và hoàn toàn có thể
kiểm tra được bằng từ điển. Từ số liệu này, tỷ lệ của các ĐVĐÂ trong kho ngữ
liệu được đánh giá cụ thể với 8408 ĐV (chiếm 21,06 % TĐTV 2006) với 3691
loạt chứ không phải bằng những con số ước lượng. Các cấu tạo tối đa của các
ĐVĐÂ cũng được thống kê và mô tả chi tiết (tối đa là 4 âm tiết). Từ số liệu này,
các ĐVĐÂ cũng như các kiểu HTĐÂ cơ bản, không cơ bản của TV cũng được
làm rõ. Đó là các ĐV có một vỏ ngữ âm ứng với 2, 3 ĐV và kiểu ĐVĐÂ đơn tiết.
Từ tiêu chí phân loại thứ hai (từ tiêu chí từ loại của các ĐVĐÂ) tức là xuất
phát từ tiêu chí ngữ pháp, tức là xuất phát từ bên ngoài, các ĐVĐÂ của TV sẽ có
3 loại là: ĐÂ cùng từ loại (với 3 tiểu loại kèm danh sách chi tiết); ĐÂ khác từ
loại (với 2 tiểu loại); và các HTĐÂ khác (với 2 tiểu loại). Điểm mạnh của 2 tiêu
chí phân loại này là có thể giải thích được toàn bộ khối ngữ liệu ĐÂ của TĐTV
2006 mà không gặp bất cứ sự cản trở hay mâu thuẫn nào.
Từ tiêu chí phân loại thứ ba (từ tiêu chí nguồn gốc của các ĐVĐÂ) tức là
xuất phát từ tiêu chí từ nguyên, các ĐVĐÂ của TV sẽ có 3 loại là: ĐÂ Hán Việt
(chiếm đa số), ĐÂ thuần Việt (chiếm tỷ lệ thứ yếu) và ĐÂ gốc Ấn Âu (chiếm tỷ
lệ ít nhất).
Từ tiêu chí ± quan hệ ngữ nghĩa, ta sẽ có 2 loại là: từ ĐÂKG (không có liên
hệ, quan hệ gì về nghĩa, chiếm tỷ lệ nhiều nhất) và từ ĐÂCG (giữa các ĐVĐÂ
vẫn còn tồn tại một mối liên hệ mơ hồ về nghĩa thông qua PTCL của từ (chiếm tỷ
lệ thứ yếu).
Từ các hướng tiếp cận và phân loại khả quan này, chúng tôi cũng tiến hành
với khối ngữ liệu của TĐ THHĐ 2005 nhằm kiểm tra thêm năng lực giải thích
của những tiêu chí này đối với HTĐÂ của một ngôn ngữ đơn lập cùng loại hình
song kém điển hình hơn TV. Kết quả khảo sát ở diện rộng và những đối chiếu ở
diện hẹp trong 2 ngôn ngữ Việt, Hán đã chứng tỏ ưu điểm của những tiêu chí
phân loại này. Sau đây là những kết luận quan trọng được rút ra từ việc so sánh
đối chiếu HTĐÂ trong 2 ngôn ngữ Việt, Hán:
1.1.1 Nếu như trong TV, HTĐÂ của các ĐV đơn tiết mới là kịch bản chính
(ĐÂ giữa những ĐV đơn tiết với những ĐV đơn tiết là quan trọng) thì trong
THHĐ vấn đề ĐÂ của các ĐV đa tiết (nhất là các ĐV song âm tiết) lại là vấn đề
then chốt. Điều này dẫn tới một hệ quả tất yếu là: trong THHĐ, HTĐÂ của từ tố
là vấn đề quan trọng còn HTĐÂ giữa từ đơn tiết với từ đơn tiết, giữa từ với từ tố
là vấn đề thứ yếu.
1.1.2. Đứng ở góc độ lý thuyết tín hiệu học, THHĐ do có SL âm cơ bản ít
hơn TV nên tỷ lệ ĐÂ phải cao hơn TV. Kết quả thống kê của chúng tôi ở diện
rộng đã chứng minh rất rõ điều này. Trong TV, ta chỉ gặp những ĐVĐÂ đơn tiết
là chính và SL các ĐVĐÂ đa tiết có cấu tạo phức tạp (2, 3, 4 âm tiết) là rất ít
(gồm có 1967 ĐV, chỉ chiếm 10,867 % tổng số các ĐVĐÂ của TV) và chỉ có cấu
tạo tối đa là 4 âm tiết nhưng trong THHĐ, ta lại thường gặp các ĐVĐÂ đa tiết là
chính (phần lớn là song tiết) và cấu tạo của chúng lên tới 6 âm tiết. Bên cạnh
những loại ĐÂ thường gặp như: ĐÂĐT, ĐÂDT… trong THHĐ còn có những
HTĐÂ đặc biệt khác không tìm thấy trong TV và cũng không thấy trong tiếng
1.1.3. Do việc từ bỏ loại văn tự biểu ý và chuyển sang sử dụng loại văn tự
ghi âm mà HTĐÂ của TV đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, khó nhận
diện, xử lí hơn trong THHĐ do mối quan hệ then chốt, vốn có giữa ba mặt hình –
âm – nghĩa của một tín hiệu văn tự biểu ý bị phá vỡ hoàn toàn dẫn đến tính võ
đoán của các ĐVĐÂ trong TV cao hơn trong THHĐ rất nhiều.… Theo chúng tôi,
để khắc phục điều này cần phải có những giải pháp mạnh trong việc dạy và học
từ Hán Việt ở các cấp học và bậc học (bắt buộc phải học viết chừng 500 chữ Hán
thông dụng chứ không chỉ dừng ở việc nhận diện từ Hán Việt thông qua âm đọc
ghi bằng chữ quốc ngữ) như ý kiến của nhiều nhà ngôn ngữ học đã đề nghị.
Chúng tôi, do những giới hạn về thời gian nên đã không thể thống kê, mô tả và
phân loại toàn bộ các ĐVĐÂ trong THHĐ mà mới chỉ dừng ở diện khái quát mà
thôi. Đây là điều mà chúng tôi thấy còn thiếu sót trong LA.
1.2. Với tư cách là một trong những vấn đề trọng tâm của từ vựng ngữ nghĩa
học, có mối quan hệ mật thiết với HTĐÂ, HTĐN trong TV cũng là một trong
những vấn đề được luận án quan tâm, giải quyết.
1.2.1. Xuất phát từ quan niệm một ĐVĐN là 1 ĐV có từ 2 nghĩa trở lên, giữa
các nghĩa còn tồn tại một quan hệ nào đó; với mục đích khái quát các biểu hiện
của HTĐN TV, đánh giá tổng quan về các ĐVĐN trong TV, làm cơ sở đối chiếu
với HTĐN trong THHĐ ở diện rộng, ở diện hẹp và ở một số phạm trù phổ quát;
qua việc xử lý TĐTV 2006, chúng tôi thống kê được 5420 ĐVĐN (bao gồm từ,
ngữ ĐN; chiếm 13,58 % khối ngữ liệu của TĐTV 2006). Chọn hướng phân loại,
miêu tả 5420 ĐV này từ tiêu chí: DLN của các ĐVĐN; SLÂT cấu tạo nên các
ĐVĐN và từ tiêu chí từ loại, chúng tôi thu được kết quả sau:
1.2.1.1. Nhìn từ tiêu chí SLÂT các ĐVĐN của TV sẽ gồm 5420 ĐV. Số liệu
rút ra từ hướng phân loại này đã chỉ rõ đặc điểm của các ĐVĐN trong TV là: đơn
tiết chiếm ưu thế hơn đa tiết, các ĐVĐN trong TV là những ĐV có cấu tạo đơn
giản (từ 1 - 4 âm tiết).
1.2.1.2. Từ tiêu chí DLN, các ĐVĐN của TV có 2 HT thường gặp: (i) HTĐN
thường gặp (có từ 2 - 6 nghĩa) với 5343 ĐV, chiếm 98,58 % các ĐVĐN. (ii)
HTĐN ít gặp (có từ 7 nghĩa trở lên) với 72 ĐV đơn tiết chiếm 1,42 % các ĐVĐN.
Số liệu và những phân tích ở hướng phân loại này đã chỉ rõ: những ĐVĐN
thường gặp với hạt nhân là những ĐVcó 2, 3 nghĩa mới là vấn đề cơ bản của
HTĐN TV còn những ĐVĐN ít gặp là HT không cơ bản, chúng chỉ góp phần tạo
nên bức tranh chung về HTĐN TV mà thôi. (iii) HT đẳng cấu ngữ nghĩa thường
gặp trong TV là HT đẳng cấu ở những ĐVcó 2 và 3 nghĩa.
1.2.1.3. Từ tiêu chí từ loại, ta lại thấy được một số khía cạnh khác của
HTĐN TV là: các ĐVĐN có mặt ở tất các các từ loại của TV, nhiều nhất là: dt,
đg, tt… song nếu xét về DLN thì trật tự sẽ là: đg, dt, tt… thực tế này phù hợp với
tỷ lệ của các từ loại trong TV.
Từ 3 tiêu chí tiếp cận trên, đặc điểm của các ĐVĐN TV bộc lộ rõ và cụ thể qua
từng khu vực, từng danh sách, góp phần làm sáng tỏ hơn lí luận của NNH đại cương
và lý thuyết tín hiệu học. Đây là những đóng góp quan trọng của luận án.
1.2.2. Dựa vào đặc điểm của các ĐVĐN TV, kết hợp với các khái niệm như:
nghĩa, nét nghĩa chúng tôi đề xuất một số thuật ngữ sau đây: ĐN đơn tiết, ĐN đa
tiết, ĐN thường gặp, ĐN ít gặp, ĐNBV đơn thuần, ĐN đa nét nghĩa không hoàn
toàn (ĐNBN không hoàn toàn), ĐN đa nét nghĩa hoàn toàn (ĐNBN hoàn toàn).
Các khái niệm này được xây dựng dựa trên những đặc điểm nội tại của các
ĐVĐN TV, dựa trên những số liệu thực của từ điển tiếng Việt, chúng bao quát và
giải thích được toàn bộ khối ngữ liệu ĐN của TV.
1.3. Luận án cũng tiến hành thống kê ở diện rộng các ĐVĐN của tiếng Hán
trong TĐ THHĐ 2005 từ 3 tiêu chí trên. Kết quả thống kê cũng chỉ rõ: hoàn toàn
có thể ứng dụng 3 tiêu chí này vào việc nhận diện, mô tả và phân loại các ĐVĐN
của THHĐ. Sau đây là những kết luận được rút ra từ việc đối chiếu HTĐN TV
với HTĐN trong THHĐ:
1.3.1. Nhìn từ tiêu chí SLÂT tham gia cấu tạo nên các ĐVĐN ta thấy: nếu
như trong TV, ĐVĐN có cấu tạo tối đa là 4 âm tiết thì trong THHĐ, chúng có thể
có cấu tạo lên tới 6 âm tiết (có cấu tạo phức tạp hơn TV). Nếu như trong TV,
HTĐN của các ĐVđơn tiết là HT nổi bật thì trong THHĐ, HTĐN của các ĐV đa
tiết (2 âm tiết) là HT phải được lưu tâm. Nói khác đi: trong TV, HT từ đơn tiết
ĐN là trung tâm, các HT khác là biên còn trong THHĐ vấn đề từ tố ĐN lại là
trung tâm, các HT khác thuộc về biên. Nguyên do sâu xa là do xu thế đa tiết hóa
đã và đang diễn ra mạnh trong THHĐ. Nói khác đi là do THHĐ là một ngôn ngữ
đơn lập kém điển hình hơn TV.
1.3.2. Nhìn từ tiêu chí DLN của các ĐVĐN ta lại thấy: ở diện rộng của khối
ngữ liệu, THHĐ là ngôn ngữ có DLN cao hơn hẳn so với TV. Trong TV, chỉ
thống kê được 72 ĐV có 7 nghĩa trở lên và toàn là những ĐV đơn tiết. Trong
THHĐ, số lượng các ĐVĐN có 7 nghĩa trở lên có số lượng gần gấp 5 lần TV,
bao gồm cả những ĐV đa tiết, đơn tiết (trong đó, đơn tiết chiếm SL tuyệt đối).
1.3.3. Nhìn từ tiêu chí từ loại của các ĐVĐN ta lại thấy: giống như trong TV,
các ĐVĐN của THHĐ cũng có mặt ở tất cả các từ loại cơ bản. Và nếu xét về SL
thì ba từ loại có số lượng ĐVĐN nhiều nhất là: dt, đg, hình dung từ… song nếu
xét ở DLN thì trật tự cũng sẽ là: đg, dt, hình dung từ.
1.4. Với mục đích làm rõ thêm những điểm tương đồng và khác biệt về tư
duy, văn hóa và tri nhận của hai dân tộc Việt, Hán, LA đã tiến hành khảo sát, đối
chiếu một số ĐV dùng chung trong hai ngôn ngữ và một số phạm trù cơ bản như:
cấu trúc ngữ nghĩa của lớp từ chỉ màu sắc (màu đỏ, màu hồng), các hoạt động cơ
bản nhằm duy trì sự sống (động từ ăn), lớp từ chỉ thực vật (danh từ hoa) trong 2
ngôn ngữ. Qua phân tích đối chiếu, những điểm tương đồng và dị biệt về cơ bản
đã được miêu tả và làm rõ. Đây cũng là một đóng góp của LA.
1.5. Với mục đích: làm rõ thêm những điểm tương đồng và khác biệt giữa
những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂKG với những ĐV vừa ĐÂ vừa
ĐN trong khu vực ĐÂCG, tìm hiểu tỷ trọng của những ĐV ĐÂCG và những ĐV
vừa ĐÂ vừa ĐN trong tổng thể từ ĐÂ và từ ĐN TV, chỉ ra những khác biệt cơ
bản giữa những ĐVĐN thông thường và những ĐVĐN nằm trong khu vực
ĐÂCG, trong chương 4, LA đã đi vào thống kê, mô tả những ĐV vừa ĐÂ lại vừa
ĐN trong 2 khu vực: khác gốc và cùng gốc ngữ nghĩa về các mặt: cấu tạo, DLN,
quan hệ ngữ nghĩa… trong TV và đối chiếu vấn đề này với THHĐ. Những kết
quả đối chiếu rút ra ở khu vực này một lần nữa đã làm sáng tỏ thêm những đồng
nhất và khác biệt về HTĐÂ, HTĐN trong 2 ngôn ngữ Việt, Hán. Cụ thể là: (1)
Những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG của TV và THHĐ đều là
những ĐV được sản sinh bằng PTCL. Trong TV, sự chuyển loại trong nội bộ một
từ loại của các ĐV ĐÂCG ít hơn sự chuyển hóa thành nhiều từ loại. Trong
THHĐ thì ngược lại. (2) Khác với những ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực
ĐÂKG (giữa các nghĩa của một ĐVĐN và các ĐVĐÂ trong loạt không có mối
quan hệ hay liên hệ gì với nhau – võ đoán tuyệt đối), các nghĩa của một ĐVĐN
hay một số nghĩa của chúng với các ĐVĐÂ trong loạt thuộc khu vực ĐÂCG luôn
có mối liên hệ về ngữ nghĩa với nhau mà hiện thời chúng ta vẫn có thể cảm nhận
được. (3) Trong khi TVcó xu thế ĐÂ hóa (tách các nghĩa, các nét nghĩa của
những ĐVĐN thành những ĐV ĐÂCG thì THHĐ lại có xu thế ĐN hóa.…
Trên đây là một số kết quả và những vấn đề còn tồn tại liên quan đến LA.
Chắc chắn có nhiều vấn đề mà hướng giải quyết của LA không phải là tối ưu, cần
bổ khuyết hoặc cần phải được nghiên cứu kĩ hơn trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT :
1. Đào Duy Anh (1932), Hán Việt từ điển, Nxb Tràng Thi.
2. Đào Duy Anh (1978), "Để hiểu nghĩa, cần biết từ nguyên", Ngôn ngữ số 04.
3. Diệp Quang Ban (1999), Ngữ pháp tiếng Việt, Tập 1, 2. Nxb GD.
4. Diệp Quang Ban, Hoàng văn Thung (1991), Ngữ pháp tiếng Việt, Tập 1 Nxb GD.
5. Lê Biên (1999), Từ loại tiếng Việt hiện đại, Nxb GD.
6. Phan Văn Các (2001), Từ điển Hán Việt, Nxb Tp HCM.
7. Nguyễn Tài Cẩn (1975a), Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb KHXH.
8. Nguyễn Tài Cẩn (1975b), Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng - Từ ghép - Đoản ngữ), Nxb
ĐH và THCN, Hà Nội.
9. Nguyễn Tài Cẩn (1998), “Thử phân kì lịch sử 12 thế kỉ của tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 10.
10. Nguyễn Tài Cẩn (2000), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt,
Nxb ĐHQG Hà Nội.
11. Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1983), Giáo trình ngữ
pháp tiếng Việt, Tập 1, Nxb GD, Hà Nội.
12.Nguyễn Hồng Cổn (2003), "Về vấn đề phân định từ loại trong tiếng Việt", Ngôn ngữ số 02.
13. Huỳnh Tịnh Của (1895), Việt Nam quấc âm tự vị, Quyển I,II, Sài Gòn.
14. Hoàng Cao Cương (2004), "Về chữ Quốc Ngữ hiện nay", Ngôn ngữ số 01.
15. Chafe.W.L (1998), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Nxb GD.
16. Đỗ Hữu Châu (1962), Giáo trình Việt ngữ (từ hội học), Nxb GD.
17. Đỗ Hữu Châu (1969), “Một số ý kiến về việc giải thích nghĩa của từ trong từ điển
tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 02.
18. Đỗ Hữu Châu (1979), "Cách xử lý những hiện tượng trung gian trong ngôn ngữ ",
Ngôn ngữ số 01.
19. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb GD, Hà Nội.
20. Đỗ Hữu Châu (1983), "Ngữ nghĩa học hệ thống và ngữ nghĩa học hoạt động", Ngôn
ngữ số 01.
21. Đỗ Hữu Châu (1985), “Từ và tiếng” (thảo luận về bài báo Về cương vị ngôn ngữ học
của tiếng), Ngôn ngữ số 03.
22. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb GD.
23. Đỗ Hữu Châu (1999), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb ĐHQG Hà Nội.
24. Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học tiếng Việt, Nxb ĐHQG Hà Nội.
25. Nguyễn Văn Chiến (1992), Ngôn ngữ học đối chiếu và đối chiếu các ngôn ngữ Đông Nam Á.
26. Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê (1963), Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam,
Nxb Đại học Huế.
27. Trương Chính (2001), Giải thích các từ gần âm, gần nghĩa dễ nhầm lẫn, Nxb GD.
28. Đỗ Quang Chính (1972), Lịch sử chữ quốc ngữ (1620-1659), Tủ sách ra khơi Sài Gòn.
29. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1997), Cơ sở ngôn ngữ học và
tiếng Việt, Nxb GD.
30. Mai Ngọc Chừ (2001), Các ngôn ngữ phương Đông, Nxb ĐHQG Hà Nội.
31. Nguyễn Đức Dân (1999), Lô gích và tiếng Việt, Nxb GD.
32. Nguyễn Đức Dân, Trần Thị Ngọc Lang (1992), Câu sai và câu mơ hồ, Nxb GD.
33. Nguyễn Đức Dân (2005), “Những giới từ không gian: sự chuyển nghĩa và ẩn dụ”,
Ngôn ngữ số 09.
34. Trần Trí Dõi (2007), Giáo trình lịch sử tiếng Việt sơ thảo, Nxb ĐHQG Hà Nội.
35. Hoàng Dũng, Bùi Mạnh Hùng (2007), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb ĐHSP.
36. Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Đào Thanh Lan (1998), Cơ sở tiếng Việt, Nxb GD.
37. ĐHQG Tp HCM, (2001), Mấy vấn đề về tiếng Việt hiện đại, Nxb ĐHQG Tp HCM.
38. Phạm Hữu Điển (1933), Trùng -Âm - Dị -Tự (in lần 2 năm 1949), Sài Gòn.
39. Lê Đông, Nguyễn Văn Hiệp (2003), “Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ học”,
Ngôn ngữ số 07-08.
40. Đinh Văn Đức (1978), “Về một cách hiểu ý nghĩa các từ loại trong tiếng Việt”,
Ngôn ngữ số 02.
41. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), Nxb ĐH và THCN.
42. Lê Văn Đức (chủ biên) 1962, Việt Nam tự điển, Quyển thượng, quyển hạ, Nhà sách
Khai Trí, Sài Gòn.
43. Nguyễn Thiện Giáp (1971), "Một vài suy nghĩ về hiện tượng đồng âm trong tiếng
Việt", Ngôn ngữ số 04.
44. Nguyễn Thiện Giáp (1985), Từ vựng học tiếng Việt, Hà Nội, Nxb ĐH và THCN.
45. Nguyễn Thiện Giáp (1996), Từ và nhận diện từ tiếng Việt, Nxb GD.
46. Nguyễn Thiện Giáp (1996), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb GD.
47. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb GD.
48. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, Nxb GD.
49. Cao Xuân Hạo (1985), “Về cương vị ngôn ngữ học của tiếng” Ngôn ngữ số 01.
50. Cao Xuân Hạo (1991a), “Mấy tiền đề cho việc phân tích cú pháp”, Ngôn ngữ số 02.
51. Cao Xuân Hạo (1991b), Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Quyển I, Nxb KHXH.
52. Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt - Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb GD.
53. Cao Xuân Hạo (2001a), “Hai phép tính cộng và trừ trong ngôn ngữ học”, Ngôn ngữ số 10.
54. Cao Xuân Hạo (2001b), Âm vị học và tuyến tính, Nxb ĐHQG Tp HCM.
55. Cao Xuân Hạo (2002), “Bắt buộc và tùy ý về hai cách biểu đạt nghĩa trong ngôn
ngữ”, Ngôn ngữ số 09.
56. Cao Xuân Hạo (chủ biên) (2005), Nguyễn Văn Bằng, Hoàng Xuân Tâm, Bùi Tất
Tươm, Ngữ pháp chức năng tiếng Việt, quyển 2 - Ngữ đoạn và từ loại, Nxb GD.
57. Hoàng Văn Hành (chủ biên) (1998), Từ tiếng Việt, Nxb KHXH.
58. Hoàng Văn Hành, Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Thị Trung Thành (2001), Từ điển
đồng âm tiếng Việt, Nxb Tp HCM.
59. Honey. P.J (1965), Vài nhận xét về văn phạm Việt Nam, Trong: "Tham luận về từ
pháp và cú pháp Việt ngữ”, Hoàn Vũ xuất bản, Sài Gòn.
60. Nguyễn Quang Hồng (1986), “Hiện tượng đơn lập hóa âm tiết về mặt ngữ âm trong
các ngôn ngữ có thanh điệu ở phương đông” Ngôn ngữ số 02.
61. Nguyễn Quang Hồng (2002), Âm tiết và loại hình ngôn ngữ, Nxb ĐHQG Hà Nội.
62. Nguyễn Quang Hồng (2006), Tự điển chữ Nôm, Nxb GD.
63. Hội Khai trí Tiến đức (1931), Việt Nam tự điển, Mặc Lâm xuất bản, Hà Nội.
64. Đinh Thanh Huệ (1986), Hư từ đa chức năng trong tiếng Việt hiện đại, Trong:
"Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông", Hà Nội.
65. Đỗ Việt Hùng (2004),"Nét nghĩa và hoạt động của nét nghĩa trong kết hợp từ" Ngôn
ngữ số 02.
66. Bùi Mạnh Hùng (2008), Ngôn ngữ học đối chiếu, Nxb GD, Hà Nội.
67. Kasevich. V.B. (1977), Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cương (Trần Ngọc
Thêm dịch, 1998), Nxb ĐH và THCN, Hà Nội.
68. Trần Văn Khải (1951), Đồng âm vận tuyển, Thanh Trung thư xã xuất bản, Sài Gòn.
69. Nguyễn Văn Khang (2007), Từ ngoại lai trong tiếng Việt, Nxb GD.
70. Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm (1940), Việt Nam văn phạm, Sài
Gòn (in lại 1973).
71. Phan Khôi (1955), Việt ngữ nghiên cứu. Nxb Đà Nẵng, (tái bản, 1997).
72. Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam Bộ, Nxb KHXH.
73. Lưu Vân Lăng (1986), “Cần phân biệt hình (trong từ vựng) với tiếng trong ngữ
pháp” Ngôn ngữ số 04.
74. Lưu Vân Lăng (1998), Ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb KHXH.
75. Nguyễn Lân (1956), Ngữ pháp Việt – Nam, Hà Nội.
76. Nguyễn Lân (2002), Từ điển từ và ngữ Hán Việt, Nxb Từ điển Bách Khoa.
77. Hồ Lê (1976), Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại, Nxb KHXH Hà Nội.
78. Hồ Lê (1985), "Vị trí của âm tiết, nguyên vị và từ trong tiếng Việt", Ngôn ngữ số 02.
79. Hồ Lê (1991), Cú pháp tiếng Việt, Quyển I, (phương pháp nghiên cứu cú pháp),
Nxb KHXH Hà Nội.
80. Hồ Lê (1992), Cú pháp tiếng Việt, Quyển II, (cú pháp cơ sở), Nxb KHXH Hà Nội.
81. Hồ Lê (1993), Cú pháp tiếng Việt, Quyển III, (cú pháp tình huống), Nxb KHXH.
82. Hồ Lê (1995), Quy luật ngôn ngữ, Quyển 1, (tính quy luật của bộ máy ngôn ngữ),
Nxb KHXH.
83. Hồ Lê (2002), Một số vấn đề về lý luận ngữ pháp, Nxb ĐHQG Tp HCM.
84. Nguyễn Hiến Lê (1952), Để hiểu văn phạm, Nxb Phạm Văn Tươi, Sài Gòn.
85. Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Quyết Thắng (1990), Chúng tôi tập viết tiếng Việt, Nxb Long An.
86. Đặng Chấn Liêu (1978), "Những câu và nhóm từ mơ hồ hoặc nhiều nghĩa ở tiếng
Việt và tiếng Anh", Ngôn ngữ số 03.
87. Đỗ Tất Lợi (2005), Những cây cỏ và vị thuốc Việt Nam,; Nxb Y học.
88. Lyons J. (1968), Nhập môn ngôn ngữ học lý thuyết, (Vương Hữu Lễ dịch, 1996),
Nxb GD, Hà Nội.
89. Lyons. J (2006), Ngữ nghĩa học dẫn luận (Nguyễn Văn Hiệp dịch), Nxb GD.
90. Lê Văn Lý (1968), Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam, Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục, Sài Gòn.
91. Nguyễn Văn Mai (1925), Đồng âm tự vị, Sài Gòn.
92. Hà Quang Năng (1988), Đặc trưng ngữ pháp của hiện tượng chuyển từ loại
trong tiếng Việt, “Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt”. Nxb KHXH, Hà Nội.
93. Nguyễn Thị Thanh Nga (1997), “Vài nhận xét về việc chú từ loại trong từ điển
tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 01.
94. Trà Ngân (1939), Khảo cứu về tiếng Việt Nam, Nxb Cộng Lực, Hà Nội.
95. Lý Lạc Nghị, Jim Waters (1997), Tìm về cội nguồn chữ Hán, Nxb Thế giới.
96. Thanh Nghị (1951), Tân từ điển tiếng Việt, Sài Gòn.
97. Vũ Đức Nghiệu (1986), Về sự biến dịch âm - nghĩa ở một ở số nhóm từ trong tiếng Việt. Trong:
"Những vấn đề ngôn ngữ học về các ngôn ngữ phương Đông", Hà Nội.
98. Vũ Đức Nghiệu (2004), "Một số hệ quả của xu thế đơn tiết hoá trong quá trình phát
triển của tiếng Việt", Ngôn ngữ số 02.
99. Phan Ngọc, Phạm Đức Dương (1983), Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á, Viện
Đông Nam Á xuất bản.
100. Phan Ngọc (1995), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb Trẻ.
101. Phan Ngọc (2000), Mẹo giải nghĩa từ Hán Việt và chữa lỗi chính tả, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
102. Đái Xuân Ninh (1978), Hoạt động của từ tiếng Việt. Nxb KHXH.
103. Đái Xuân Ninh (1986), “Hình vị, đơn vị cơ sở của tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 01.
104. Hoàng Phê (1969), “Về việc biên soạn một cuốn từ điển tiếng Việt mới”, Ngôn
ngữ số 02.
105. Hoàng Phê (1975), “Phân tích ngữ nghĩa”, Ngôn ngữ số 02.
106. Hoàng Phê (1989), Lô gích ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng.
107. Hoàng Phê (1992), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
108. Hoàng Phê (2003), Chính tả tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
109. Hoàng Phê (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
110. Hữu Quỳnh (1978), Cơ sở ngôn ngữ học, Tập 1, Nxb GD.
111. Rhodes. A.de (1651) Từ điển ANNAM – LUSITAN – LATINH, Nxb KHXH (in lại 1991).
112. Sapir E.D (2000), Ngôn ngữ dẫn luận vào việc nghiên cứu tiếng nói, Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp HCM.
113. Saussure F.de (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb KHXH Hà Nội.
114. Solncev V-M (1980), "Một số vấn đề lý thuyết nghĩa" (hay ngữ nghĩa), Ngôn ngữ số 02.
115. Solncev V-M (1986), "Những thuộc tính về mặt loại hình học của các ngôn ngữ
đơn lập" (trên cứ liệu tiếng Hán và tiếng Việt), Ngôn ngữ số 03.
116. Taberd. A.J.L (1838), Dictionarium Anamitico Latinum, Nxb Văn Học (in lại 2004).
117. Văn Tân (chủ biên) (1976), Từ điển tiếng Việt.
118. Đào Văn Tập (1951), Từ điển Việt Nam phổ thông, Sài Gòn.
119. Vũ Thế Thạch (1985), “Ngữ nghĩa và cấu trúc của động từ tiếng Việt (khuynh
hướng định danh trong nghiên cứu ngữ nghĩa)”, Ngôn ngữ số 03.
120. Nguyễn Kim Thản (1964), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, Tập 2,Nxb KHXH.
121. Nguyễn Kim Thản (1977), Động từ trong tiếng Việt, Nxb KHXH.
122. Nguyễn Kim Thản (1997), Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, Nxb GD.
123. Trần Văn Thanh (1953), Đồng âm dẫn giải và mẹo – luật chánh – tả, Sài Gòn.
124. Nhữ Thành (1978), "Cấu trúc từ đồng âm trong câu đối", Ngôn ngữ số 02.
125. Lý Toàn Thắng (2004), Lý thuyết về trật tự từ trong cú pháp, Nxb ĐHQG Hà Nội.
126. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận, từ lí thuyết đại cương đến thực
tiễn tiếng Việt, Nxb KHXH.
127. Đoàn Thiện Thuật (1977), Ngữ âm tiếng Việt, Nxb ĐH và THCN.
128. Trần Ngọc Thêm (1984), “Bàn về hình vị tiếng Việt dưới góc độ ngôn ngữ học đại
cương”, Ngôn ngữ số 01.
129. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Tp HCM.
130. Lê Quang Thiêm (1989), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, Nxb ĐH và THCN.
131. Lê Quang Thiêm (2003), lịch sử từ vựng tiếng Việt thời kì 1858 – 1945, Nxb KHXH.
132. Bùi Đức Tịnh (1968), Văn phạm Việt Nam giản dị và thực dụng, Trung tâm học liệu
Bộ Giáo Dục, Sài Gòn.
133. Bùi Minh Toán (1999), Từ trong hoạt động giao tiếp tiếng Việt, Nxb GD.
134. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hoá - dân tộc của ngôn ngữ và tư
duy ở người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác), Nxb ĐHQG Hà Nội.
135. Nguyễn Đức Tồn (2001), Phương pháp dạy và học tiếng Việt ở bậc trung học cơ
sở, Nxb ĐHQG Hà Nội.
136. Nguyễn Văn Tu (1968), Từ vựng học tiếng Việt hiện đại, Nxb GD, Hà Nội.
137. Nguyễn Văn Tu (1969), “Về việc giải thích từ nhiều nghĩa trong từ điển tiếng
Việt”, Ngôn ngữ số 02.
138. Nguyễn Văn Tu (1978), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb ĐH và THCN, Hà Nội.
139. Hoàng Tuệ (1962), Giáo trình Việt ngữ, Nxb GD.
140. Hoàng Tuệ (1969), "Chung quanh một cái từ nho nhỏ của tiếng Việt”, Tác phẩm mới, số 04,
Trích trong: Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb ĐHQG Tp HCM, 2001.
141. Hoàng Tuệ (1984), Thảo luận chuyên đề “Tiếng, hình vị và từ trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ số
01, Trích trong: Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb ĐHQG Tp HCM.
142. Nguyễn Bạt Tụy (1959), Ngôn – ngữ - học Việt – Nam, chữ và vần Việt khoa – học, Sài Gòn.
143. Lê Ngọc Trụ (1959), Việt-Ngữ, chánh- tả, Tự -vị, Thanh Tân xuất bản, Sài Gòn.
144. Lê Ngọc Trụ (1993), Tầm nguyên từ điển Việt Nam, Nxb Tp HCM.
145. Nguyễn Văn Trung (1975), Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu pháp thuộc, Nam Sơn xuất bản.
146. Thomas. D (1965), Thế nào là một “tiếng” trong Việt ngữ , Trong: “Tham luận về
từ pháp và cú pháp Việt ngữ”, Hoàn Vũ xuất bản, Sài Gòn.
147. Thompson L.C (1965), Tính cách nội tâm của các cấu tạo ngữ pháp tiếng Việt. Trong:
“Tham luận về từ pháp và cú pháp Việt ngữ”, Hoàn Vũ xuất bản, Sài Gòn.
148. UB KHXH Việt Nam (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb KHXH Hà Nội.
149. Xtankêvich N.V (1982), Loại hình các ngôn ngữ, Nxb ĐH &THCN.
TIẾNG HÁN:
150. 崔夏爱, (1957),《现代汉语词义讲话》.
研究 04 期。
论与应用》商务印书馆。
出版社。
161.刘川民, (2001),《现代汉语词典中的同形同音词》杭州师范学院报 01 期。
164. FanciscoVaro “Arte dela lengua mandarina” , (2003), 姚小平, 马又青, 外语教学
与研究出版社。
05 期。
TIẾNG ANH :
206. Ashe, R.E (ed) (1994). The Encyclopedia of Language and Linguistics. Volume
08, Pergamon Press Ltd.
207. Thompson L.C (1965). A Vietnamese Grammar. University of Washington Press.