Luận văn: Đánh giá Quả n lý tài nguyên nướ c mặt trong hệ thống quản lý tổng hợp lưu vực sông

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 76

Luận văn

Đánh giá Quản lý tài nguyên


nước mặt trong hệ thống
quản lý tổng hợp lưu vực
sông
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT LVS ..... 3
1.1 Quản lý lưu vực sông ............................................................................ 3
1.1.1 Khái niệm quản lý LVS và các khía cạnh liên quan đến quản lý LVS . 3
1.1.1.1 Lưu vực sông ............................................................................. 3
1.1.1.2 Chức năng của sông và lưu vực sông ....................................... 4
1.1.1.3. Quản lý tổng hợp lưu vực sông ................................................. 5
1.1.2 Quá trình phát triển của quản lý lưu vực sông ................................. 9
1.2 Quản lý tổng hợp tài nguyên nước ....................................................... 12
1.2.1 Khái niệm quản lý tổng hợp tài nguyên nước .............................. 12
1.2.2 Các khía cạnh của QLTHTNN ...................................................... 13
1.2.3 Các nguyên tắc của QLTHTNN ................................................... 17
1.2.4 Kinh nghiệm QL THTN nước mặt tại các LVS trên thế giới ........ 20
1.3 Đánh giá hiệu quả công tác quản lý ..................................................... 24
1.3.1 Mục đích của việc đánh giá ........................................................... 25
1.3.2 Cơ sở để thực hiện đánh giá .......................................................... 25
1.3.2.1 Luật pháp về tài nguyên nước .................................................. 25
1.3.2.2 Các chính sách về tài nguyên nước: ........................................ 26
1.3.2.3 Các bộ tiêu chuẩnmôi trường nước ......................................... 26
1.3.2.4 Đặc điểm của vùng mà lưu vực sông đi qua ............................ 26
1.3.3 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý .......................................... 27
CHƯƠNG 2: HIỆN TRẠNG LƯU VỰC SÔNG CẦU ................................... 28
2.1. Giới thiệu lưu vực sông Cầu ............................................................... 28
2.1.1 Đặc điểm tự nhiên................................................................................. 28
2.1.2 Đặc điểm kinh tế, xã hội ....................................................................... 29
2.2 Hiện trạng chất lượng nước lưu vực sông Cầu .................................... 30
2.2.1 Thượng nguồn lưu vực sông Cầu.................................................. 31
2.2.2 Trung lưu Lưu vực sông Cầu (qua tỉnh Thái Nguyên) .................. 31
2.2.3 Hạ lưu Lưu vực sông Cầu (từ Cầu Vát đến cầu Phả Lại) ............... 34
2.3 Các nguồn gây ô nhiễm đối với sông Cầu........................................... 36
2.3.1. Hoạt động công nghiệp ................................................................. 36
2.3.2. Hoạt động làng nghề..................................................................... 39
2.3.3 Nước thải sinh hoạt ....................................................................... 42
2.3.4 Hoạt động y tế ............................................................................... 43
2.3.5 Hoạt động nông nghiệp ................................................................. 44
2.3.6 Chất thải rắn .................................................................................. 45
2.4. Các thiệt hại do ô nhiễm môi trường tại lưu vực sông ........................ 46
2.4.1. Đe dọa tới sức khỏe con người ............................................................ 46
2.4.2. Ảnh hưởng đến nguồn nước cấp ......................................................... 47
2.4.3 Ảnh hưởng tới môi trường và hệ sinh thái ........................................... 48
2.4.4 Ảnh hưởng tới phát triển kinh tế .......................................................... 49
2.5. Công tác Quản lý chất lượng nước tại LVS Cầu ................................. 50
2.5.1 Thể chế, chính sách ....................................................................... 50
2.5.2 Tổ chức quản lý ............................................................................. 51
2.5.3 Hoạt động nghiên cứu, công tác quan trắc và ĐTM ....................... 55
2.5.4 Công cụ kinh tế ............................................................................. 58
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT
LƯU VỰC SÔNG CẦU ......................................................... 61
3.1 Cơ sở đề xuất các giải pháp ................................................................. 61
3.2 Các giải pháp ....................................................................................... 63
3.2.1 Nhóm giải pháp kỹ thuật ............................................................... 63
3.2.2 Nhóm giải pháp kinh tế ................................................................. 64
3.2.3 Nhóm giải pháp cơ chế, chính sách quản lý ................................... 64
3.2.4 Giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của mọi người........... 66
KẾT LUẬN .................................................................................................. 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

LVS: Lưu vực sông


QLLVS: Quản lý lưu vực sông
QLTH LVS: Quản lý tổng hợp lưu vực sông
QLTH TNN: Quản lý tổng hợp tài nguyên nước
TNN: Tài nguyên nước
TCVN: Tiêu chuẩn Việt Nam
VQG: Vườn quốc gia
BTTN: Bảo tồn thiên nhiên
GDP: Gross Domestic Product (Tổng sản phẩm quốc nội)
IWMI: International Water Management Institute
(Tổ chức quản lý nước quốc tế)
ADB: Asian Development Bank (Ngân hàng phát triển Châu Á)
KCN: Khu công nghiệp
SS: Suspended Sediment (Bùn, cát lơ lửng)
COD: Chemical Oxygen Demand (nhu cầu oxy hóa học)
BOD: Biochemical Oxygen Demand (nhu cầu oxy sinh hóa)
HTMT: Hiện trạng môi trường
BVTV: Bảo vệ thực vật
BVMT: Bảo vệ môi trường
KHĐT: Kế hoạch đầu tư
UBND: Ủy ban nhân dân
TN & MT: Tài nguyên và môi trường
NN & PTNT: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
ĐTM: Đánh giá tác động môi trường
DANH MỤC CÁC HÌNH, BẢNG, BIỂU

DANH MỤC BẢNG


Bảng 2.1 Một số đặc điểm kinh tế, xã hội của các địa phương LVS Cầu .... 30
Bảng 2.2 Lượng nước thải của một số mỏ khai thác khoáng sản tại
Thái Nguyên ....................................................................... 37
Bảng 2. 3. Một số làng nghề tiêu biểu trong tỉnh Bắc Ninh ........................ 40
Bảng 2.4 Tải lượng các thông số ô nhiễm từ nước thải sinh hoạt được đưa
vào môi trường nước LVS Cầu năm 2005 .................................. 43

DANH MỤC HÌNH


Hình 2.1. Bản đồ các tỉnh nằm trong LVS Cầu ...................................... 29
Hình 2.2 Giá trị BOD 5 trên sông Cầu đoạn chảy qua tỉnh Bắc Kạn .......... 31
Hình 2.3 Giá trị SS trên sông Cầu đoạn chảy qua tỉnh Bắc Kạn ............. 31
Hình 2.4 Diễn biến dầu mỡ trên sông Cầu đoạn chảy qua Thái Nguyên 33
_Toc229058171Hình 2.5 Diễn biến COD trên sông Cầu đoạn chảy qua Thái
Nguyên .............................................................................. 33
Hình 2.6 Diễn biến dầu mỡ tên sông Công đoạn chảy qua Thái Nguyên .. 34
Hình 2.7 Diễn biến BOD 5 tại đoạn sông Cầu qua Bắc Giang, Bắc Ninh
trong các năm 2004 và 2005 ................................................... 34
Hình 2.8 Diễn Biến COD tại sông Ngũ Huyện Khê qua các năm 2004
và 2005 ............................................................................... 35
Hình 2.9 Tỷ lệ các làng nghề thuộc tỉnh/ thành phố trong lưu vực sông Cầu .... 40
Hình 2.10 Tỷ lệ nước thải sinh hoạt ước tính theo số dân của các tỉnh trong
LVS Cầu ........................................................................................ 42
Hình 2.11 Tỷ lệ nước thải y tế ước tính theo số giường bệnh của các
tỉnh trong LVS Cầu ............................................................ 44
Hình 2.12 Tỷ lệ các loại hóa chất dùng trong nông nghiệp tại LVS Cầu .. 45
Hình 2.13 Tỷ lệ trẻ em mắc bệnh trên tổng số người mắc bệnh của
Thái Nguyên ...................................................................... 47
1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tài nguyên nước có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống con người,
sinh vật và sự phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của mỗi một vùng lãnh thổ,
mỗi một quốc gia và sự phát triển của cả nhân loại. Tuy nhiên trong những
thập kỷ gần đây, cùng với tốc độ gia tăng dân số, hoạt động công nghiệp cũng
phát triển mạnh mẽ kéo theo đó là nhu cầu sử dụng tài nguyên nước ngày
càng cao. Bên cạnh đó nhận thức của đông đảo người dân, đặc biệt là những
người dân tại các nước đang phát triển về tài nguyên nước chưa thật sự đúng
đắn, dẫn tới tình trạng nguồn nước ngọt – nguồn nước được sử dụng chủ yếu
đang bị suy giảm nghiêm trọng cả về lượng và chất.
Lưu vực sông là một địa điểm chứa, luân chuyển và tuần hoàn nguồn
nước cần phải có sự quản lý một cách chặt chẽ và khoa học do lưu vực sông
có một vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển của khu vực địa lý mà
nó đi qua. Nước nói chung và nước ở lưu vực sông nói riêng có mối quan hệ
mật thiết với các thành phần khác của môi trường tự nhiên. Vì vậy muốn quản
lý tài nguyên nước trong lưu vực sông một cách hiệu quả ta cần thực hiện việc
quản lý tổng hợp, tức là xem xét các mối quan hệ giữa tài nguyên nước và các
tài nguyên khác,từ đó đưa ra các biện pháp quản lý phù hợp.
Lưu vực sông Cầu là một lưu vực sông lớn và quan trọng của vùng Bắc
Bộ. Năm 2006, Ủy ban Quản lý tổng hợp lưu vực sông Cầu được Thủ Tướng
ký quyết định thành lập nhằm quản lý tài nguyên nước một cách hiệu quả.
Quản lý tổng hợp lưu vực sông là một cách quản lý mới được áp dụng trong
việc quản lý Môi trường tại nước ta. Việc gặp phải những khó khăn và thách
thức là điều được dự báo trước. Để có sự nhìn nhận và tổ chức quản lý một
cách phù hợp hơn cần có những đánh giá về thực trạng quản lý lưu vực sông
theo từng giai đoạn. Từ đó có những thay đổi và khắc phục những điểm còn
2

hạn chế, dần đạt tới mục tiêu là quản lý chất lượng nước ở lưu vực sông một
cách hiệu quả nhất, tạo điều kiện cho sự phát triển của quốc gia và các tỉnh
trên lưu vực sông. Vì vậy em lựa chọn đề tài: “ Đánh giá Quản lý tài nguyên
nước mặt trong hệ thống quản lý tổng hợp lưu vực sông”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Quản lý tài nguyên nước mặt trong hệ thống quản lý tổng hợp LVS là
một khái niệm quản lý tài nguyên mới ở Việt Nam, đòi hỏi sự tổng hợp trong
quản lý và cần phải có sự khoa học trong triển khai thực hiện. Chính vì lý do
đó mà đề tài được đề ra với mục tiêu:
 Nghiên cứu cơ sở lý luận trong công tác quản lý tài nguyên nước, cụ
thể tại LVS ở Việt Nam hiện nay.
 Nghiên cứu cơ sở thực tiễn hoạt động quản lý tài nguyên nước mặt tại
LVS ở Việt Nam nói chung và LVS Cầu nói riêng.
 Đề xuất một số biện pháp nhằm cải thiện những thực trạng trong công
tác quản lý tài nguyên nước mặt tại LVS Cầu.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là lưu vực sông Cầu. Lưu vực sông đi qua
6 tỉnh và thành phố là Bắc Kạn, Thái Nguyên, Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh,
Hải Dương. Lưu vực sông Cầu là một trong những lưu vực sông lớn ở Việt
Nam, có vị trí địa lý đặc biệt, đa dạng và phong phú về tài nguyên cũng như
lịch sử phát triển kinh tế, xã hội của các tỉnh nằm trong lưu vực của nó.
3

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT LVS

1.1 Quản lý lưu vực sông


1.1.1 Khái niệm quản lý LVS và các khía cạnh liên quan đến quản lý LVS

1.1.1.1 Lưu vực sông

Nước trên bề mặt đất theo quy luật chung đều chảy từ nơi cao xuống nơi
thấp, lâu ngày các đường chảy tạo thành sông suối. Mỗi một dòng sông đều
có phần diện tích hứng và tập trung nước gọi là lưu vực sông.
Một LVS có thể xem như một vùng địa lý được giới hạn bởi đường chia
nước trên mặt và dưới đất. Đường chia nước trên mặt là đường nối các đỉnh
cao của địa hình. Nước từ đỉnh cao đó chuyển động theo hướng dốc của địa
hình để xuống chân dốc đó là các suối nhỏ rồi tập trung xuống các nhánh sông
lớn hơn để chảy về biển. Cứ như thế chúng tạo thành mạng lưới sông. Trên
lưu vực sông, ngoài các diện tích đất trên cạn còn có các thành phần đất chứa
nước thuộc dòng chảy sông, hồ và các vùng đất ngập nước theo từng thời kỳ.
Tất cả phần bề mặt lưu vực cả trên cạn và dưới nước đều là môi trường và nơi
ở cho các loài sinh sống (Nancy D.and et al, 1996).
Về mặt hình thái, một con sông có thể chia thành các vùng thượng lưu,
trung lưu và hạ lưu.
- Vùng thượng lưu của sông thường là các vùng núi cao với địa hình
dốc, chia cắt phức tạp. Đây là nơi khởi nguồn của các dòng sông và bề mặt
thường bao phủ bằng những cánh rừng thượng nguồn như những “kho nước
xanh” có vai trò điều hoà dòng chảy, làm giảm dòng chảy đỉnh lũ và tăng
lượng dòng chảy mùa cạn cho khu vực hạ lưu.
- Trung lưu các dòng sông thường là vùng đồi núi hoặc cao nguyên có
4

địa hình phức thấp và thoải hơn, là vùng trung gian chuyển nước xuống vùng
hạ lưu. Tại vùng trung lưu, các con sông thường có độ dốc nhỏ hơn, lòng sông
bắt đầu mở rộng ra hơn và bắt đầu có bãi, đáy sông có nhiều cát mịn. Các bãi
ven sông thường có nguy cơ bị ngập nước tạo thành các bãi chứa lũ tạm thời.
- Hạ lưu sông là vùng thấp nhất của lưu vực sông, phần lớn là đát bồi
tụ lâu năm có thể tạo nên các vùng đồng bằng rộng. Nói chung các sông khi
chảy đến hạ lưu thì mặt cắt sông mở rộng, sông thường phân thành nhiều
nhánh đổ ra biển. Sông ở hạ lưu thường có độ dốc nhỏ, dòng bùn cát chủ yếu
ở đáy sông là cát mịn và bùn. Do mặt cắt sông mở rất rộng nên tốc độ nước
giảm nhỏ khiến cho qúa trình bồi lắng là chủ yếu, còn xói lở chỉ xảy ra trong
mùa lũ tại một số điểm nhất định. Tại hạ lưu gần biển các sông thường dễ bị
phân nhánh, lòng sông biến dạng uốn khúc theo hình sin và thường có sự biến
đổi về hình thái dưới tác động của các quá trình bồi, xói liên tục, như vùng hạ
lưu gần cửa của các sông Hồng và sông Cửu Long.
Lưu vực sông là một hệ thống mở và luôn tương tác với tầng khí quyển
bên trên thông qua hoạt động của hoàn lưu khí quyển và chu trình thuỷ văn,
nhờ đó hàng trăm lưu vực sông đều nhận được một lượng nước đến từ mưa để
sử dụng cho các nhu cầu của con người và duy trì hệ sinh thái.
1.1.1.2 Chức năng của sông và lưu vực sông
Sông, lưu vực hứng nước và hệ sinh thái thuỷ sinh có vai trò và vị trí vô
cùng quan trọng đối với con người, có thể ví như một cỗ xe sinh học của hành
tinh cung cấp nguồn sống và nuôi dưỡng sự sống của con người và các cộng
đồng sinh học trên lưu vực sông.
Đối với tự nhiên, sông có chức năng chủ yếu là chuyển tải nước và các
loại vật chất từ nguồn tới vùng cửa sông, thường là biển cả. Đối với con
người và hệ sinh thái, sông còn có các chức năng khác như là:
- Sông cung cấp nơi ở cho cá và các sinh vật của hệ sinh thái dưới nước,
5

nơi diễn ra các hoạt động sinh sống, nghỉ ngơi và giải trí của người dân sống
ven sông.
- Sông cung cấp nước cho các nhu cầu sử dụng của con người và cho
duy trì hệ sinh thái dưới nước và các hệ sinh thái ven sông.
- Sông có khả năng chuyển hoá các chất ô nhiễm thông qua sự tự làm
sạch của nước sông.
Lưu vực sông là nơi cư trú của con người và thế giới sinh vật, cung cấp
các tài nguyên đồng thời là nơi chứa đựng và đồng hoá các chất thải do quá
trình sống của con người và các sinh vật thải ra tạo dựng sự cân bằng của các
quá trình sinh thái.
1.1.1.3. Quản lý tổng hợp lưu vực sông
Khái niệm
Lưu vực sông là một hệ thống mở và luôn tương tác với tầng khí quyển
bên trên thông qua hoạt động của hoàn lưu khí quyển và chu trình thủy văn để
nhận được một lượng nước đến hàng năm sử dụng cho các nhu cầu của con
người và cho hệ sinh thái. Lưu vực sông là một hệ thống vô cùng quan trọng
của tự nhiên với các chức năng cũng rất quan trọng đối với con người, thí dụ
như: cung cấp không gian sống cho con người và các sinh vật, cung cấp các
tài nguyên tự nhiên cho con người, đặc biệt là nước cho sinh hoạt, công
nghiệp, nông nghiệp, giao thông, thủy sản, nghỉ ngơi giải trí,…
Trong lưu vực sông, nước là một yếu tố môi trường thiết yếu, luôn liên
quan tới đất và các yếu tố môi trường tự nhiên khác. Sự phát triển kinh tế, xã
hội và cuộc sống của muôn loài trên lưu vực sông không thể bền vững nếu
không được cung cấp đúng và đủ nước theo thời gian và không gian, đảm bảo
cả số lượng và chất lượng. Nước cũng là tài nguyên có khả năng tạo nên
“hình dáng” cho môi trường của con người đang sống thông qua năng lực xói
mòn đất trên các sườn núi dốc, sự vận chuyển bùn cát và tạo nên đồng bằng ở
6

vùng hạ lưu, gây nên lũ lụt và hạn hán. Nó mang lại cho con người và các
sinh vật cả niềm vui và sự lo âu.
Hiện nay có nhiều định nghĩa về quản lý tổng hợp lưu vực sông của các
cơ quan nghiên cứu, tổ chức quốc tế, như là một số định nghĩa sau đây:
Tổ chức Cộng tác vì nước toàn cầu (GWP) thì cho rằng: “Quản lý tổng
hợp lưu vực sông là một quá trình mà trong đó con người phát triển và quản
lý tài nguyên nước, đất và các tài nguyên khác nhằm đạt được hiệu quả tối ưu
của các thành quả kinh tế xã hội một cách công bằng mà không đánh đổi
bằng sự bền vững của các hệ sinh thái then chốt”.
Theo J.Buston thì “Quản lý tổng hợp lưu vực sông bao hàm việc các nhà
hoạch định chính sách xem xét tất cả các khía cạnh về các nguồn tài nguyên
có trên lưu vực, nhu cầu sử dụng các nguồn tài nguyên đó theo cách tiếp cận
hệ sinh thái nhằm đảm bảo những sự lựa chọn phương án phát triển kinh tế
xã hội có hiệu quả lâu dài thông qua sự phát triển các mối quan hệ hài hòa
giữa các hộ sử dụng tài nguyên và giữa cộng đồng dân cư sống trên lưu vực”.
Tất cả các định nghĩa trên đều nhấn mạnh những khía cạnh nổi bật của
quản lý tổng hợp lưu vực sông và cho thấy quản lý tổng hợp lưu vực sông là
sự hợp tác trong quản lý và khai thác sử dụng các nguồn tài nguyên có trên
tòan bộ lưu vực một cách hợp lý, hiệu quả và công bằng để đạt được lợi ích
kinh tế và xã hội mà không làm tổn hại sự bền vững của hệ sinh thái.
QLLVS bao trùm tất cả các hoạt động của con người cần phải sử dụng
nước và tác động tới hệ thống tài nguyên nước mặt. Nó là quản lý các hệ sinh
thái nước như là một phần của môi trường tự nhiên rộng lớn và trong mối
quan hệ với môi trường kinh tế xã hội của chúng.
Quản lý tổng hợp lưu vực sông khác với cách quản lý theo địa giới hành
chính thông thường ở chỗ:
- Phạm vi không gian của quản lý là bao quát trên toàn bộ lưu vực sông.
7

- Cách quản lý dựa trên nguyên tắc của quản lý tổng hợp các nguồn tài
nguyên và bảo vệ môi trường lưu vực nhằm đạt đến mục tiêu bền vững, trong
đó trọng tâm là quản lý tổng hợp tài nguyên nước trong mối liên quan tới tài
nguyên đất và các tài nguyên liên quan khác.
Vì thế, quản lý tổng hợp lưu vực sông cần phải:
+ Chú ý quản lý các dạng khác nhau của nước: nước mặt và nước ngầm.
+ Chú ý quản lý cả số lượng và chất lượng nước trên lưu vực sông.
+ Chú ý các mối liên quan giữa các nguồn tài nguyên, đặc biệt là giữa
tài nguyên đất và tài nguyên nước.
+ Tổng hợp các giới hạn tự nhiên, các nhu cầu kinh tế xã hội.
+ Tổng hợp về luật pháp, chính sách và thể chế.
Mục đích của quản lý lưu vực sông
Theo quan điểm của phát triển bền vững thì quản lý lưu vực sông có ba
mục đích chủ yếu sau:
(i) Bảo vệ các chức năng của sông và lưu vực sông;
(ii) Quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên nước trong mối quan hệ
với đất và các tài nguyên sinh thái khác;
(iii) Hạn chế suy thoái và duy trì môi trường của sông và lưu vực sông
bền vững cho các thế hệ hiện tại và tương lai.
Thực vậy, việc thực hiện quản lý lưu vực sông sẽ giúp cho con người có
thể quản lý bảo vệ các chức năng của hệ sinh thái trên cạn và dưới nước, bảo
vệ và cải thiện chất lượng môi trường của lưu vực sông không cho nó suy
thoái. Đồng thời, trong quản lý lưu vực sông ngoài quản lý tài nguyên
nước, các hoạt động quản lý còn phải vươn rộng hơn sang các tài nguyên
liên quan khác như tài nguyên đất, rừng, quản lý và bảo vệ các hệ sinh thái
lưu vực, quản lý các hoạt động của con người trên lưu vực có ảnh hưởng
đến các tài nguyên như là việc định cư dân số , phát triển đô thị, công
8

nghiệp, nông nghiệp…


Nước là một tài nguyên có thể tái tạo, sự hình thành và quy luật biến đổi
của nước phụ thuộc chặt chẽ vào chu trình thủy văn trên lưu vực sông. Việc
khai thác và sử dụng nước giữa các vùng khác nhau trên lưu vực đều tác động
đến nhau. Thí dụ như lấy nước quá mức nguồn nước ở thượng lưu sẽ ảnh
hưởng rõ rệt làm suy giảm dòng chảy tại hạ lưu. Vì thế, lấy tòan bộ lưu vực
sông làm đơn vị quản lý sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi và cơ sở tốt xem
xét các mối quan hệ trên và hướng tới quản lý tài nguyên nước lưu vực một
cách tổng hợp và bền vững.
Với một lưu vực sông bao gồm nhiều tỉnh thì quản lý thống nhất theo lưu
vực sông sẽ tạo cơ sở thuận lợi để giải quyết tốt công việc quản lý, nhất là khi
cần giải quyết các mối quan hệ hay các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình sử
dụng hay quản lý tài nguyên giữa các vùng khác nhau trên lưu vực như là
giữa thượng lưu, trung lưu và khu vực hạ lưu của sông. Thông qua hoạt động
của một cơ quan quản lý lưu vực sông, tất cả các hoạt động quản lý bảo vệ tài
nguyên được xem xét và xử lý một cách thống nhất và nhanh chóng không
phải thông qua bất cứ một cơ chế phối hợp phức tạp nào mà cơ chế quản lý
theo địa giới hành chính thường gặp phải.
Quản lý theo lưu vực sông sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho việc cải
thiện việc lập kế hoạch, bảo tồn, phát triển và quản lý nước, đất, rừng và các
nguồn lực dưới nước trong phạm vi lưu vực sông, nhằm tối đa hóa lợi ích
kinh tế và phúc lợi xã hội một cách công bằng mà không làm tổn hại đến tính
bền vững của hệ thống môi trường trọng yếu của lưu vực sông.
Xem xét một cách chi tiết thì quản lý lưu vực sông cần đạt được những
yêu cầu chủ yếu sau đây:
+ Phối hợp các chính sách, chương trình và các hoạt động trong mối
9

quan hệ của quản lý tổng hợp lưu vực sông.


+ Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng trong quản lý tổng hợp lưu vực.
+ Khuyến khích sử dụng bền vững các tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là
các tài nguyên nước trong mối quan hệ với đất và các tài nguyên tự nhiên khác.
+ Xác định và phục hồi những nguồn tài nguyên thiên nhiên bị suy giảm
và xuống cấp.
+ Cung cấp đất canh tác ổn định, cung cấp đủ nước với chất lượng đảm
bảo bảo vệ lớp phủ thực vật trong lưu vực.
Trong quá trình khai thác và sử dụng tài nguyên tự nhiên trên lưu vực
sông từ thời xa xưa cho đến ngày nay, con người thường chú trọng đến việc
khai thác các nguồn lợi sẵn có của tự nhiên để sử dụng cho cuộc sống của
mình, điều đó không thể tránh khỏi các sự tổn thương đối với tài nguyên và
hệ sinh thái. Làm thế nào vừa khai thác sử dụng mà vẫn quản lý bảo vệ và duy
trì được các nguồn tài nguyên tự nhiên của lưu vực sông? Để đạt được mục
tiêu trên, quản lý lưu vực phải hướng vào các hoạt động chủ yếu sau:
- Ngăn ngừa và chặn đứng sự xuống cấp của các tài nguyên hiện có
của lưu vực sông, trong đó có chú trọng những tài nguyên thiên nhiên đã bị
xuống cấp (thí dụ như tài nguyên nước và đất), và tìm cách bảo tồn chúng cho
sử dụng lâu dài của con người.
- Tạo các phương thức phù hợp để sử dụng hợp lý các nguồn tài
nguyên thiên nhiên trong khả năng của chúng.
- Các biện pháp để giảm thiểu các tác động tiêu cực gây ra từ việc gia
tăng sử dụng tài nguyên của con người trong các thập kỷ gần đây.
Đây là một vấn đề rất phức tạp liên quan không những về mặt kỹ thuật
mà còn cả việc tổ chức thể chế cần có một cách nhìn chiến lược theo hướng
tổng hợp, tòan diện và lâu dài thì mới có thể giải quyết nổi.
1.1.2 Quá trình phát triển của quản lý lưu vực sông
10

Từ xa xưa khi con người bắt đầu sinh sống, khai thác tài nguyên môi
trường lưu vực, thì cũng đã có ý thức bảo vệ các nguồn tài nguyên và môi
trường trên các lưu vực sông. Tuy nhiên các hoạt động đó thường đơn lẻ tự
phát và chưa được tổ chức cụ thể.
Vấn đề quản lý lưu vực sông chỉ đựơc nêu lên và được Chính phủ các
nước quan tâm và coi đó là yêu cầu cần thiết phải thực hiện khi mà các tác
động tiêu cực của các hoạt động phát triển của con người để lại những hậu
quả xấu tới môi trường, như làm gia tăng tình trạng suy thoái tài nguyên và
môi trường các lưu vực sông, làm ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội của
đất nước.
Có thể nói rằng hầu hết các lưu vực sông trên thế giới đều trải qua một
thời gian dài được quản lý một cách riêng rẽ do nhiều ngành và nhiều người
sử dụng tài nguyên trong suốt quá trình phát triển của lưu vực sông. Đó là thực
tế của việc quản lý và sử dụng tài nguyên môi trường lưu vực sông trong nhiểu
thế kỷ trước đây, khi mà khái niệm quản lý tổng hợp chưa ra đời và được coi
trọng. Thực trạng này vẫn còn đang diễn ra trên nhiều sông trên thế giới cũng
như ở nước ta khi mà việc quản lý lưu vực sông chưa được quan tâm hay mới
chỉ bắt đầu tiếp cận nên chưa có được thể chế và chính sách phù hợp.
Do yêu cầu cấp thiết của vấn đề quản lý lưu vực đáp ứng yêu cầu của
phát triển kinh tế xã hội, nhất là phát triển công nghiệp ở các nước phát
triển trong thời đại công nghiệp hóa, vấn đề quản lý lưu vực sông đã được
đặt ra và được các nước quan tâm ngay từ đầu thế kỷ 19 với sự ra đời của
một số tổ chức lưu vực sông ở các nước công nghiệp như Mĩ, Anh,
Pháp…Trong thực tế vấn đề quản lý lưu vực sông thực sự được thế giới
quan tâm và thực hiện kể từ giai đoạn phát triển mạnh của kinh tế thế giới
sau chiến tranh thế giới thứ 2.
Hiện nay trên thế giới đã có hàng trăm tổ chức quản lý lưu vực sông
11

được thành lập và hoạt động nhất là trên các con sông quốc tế. Tình hình này
đặc biệt phát triển mạnh nhất là trong khoảng 30 năm trở lại đây.
Tại khu vực Đông Nam Á, Ủy ban quốc tế sông Mê Kông được thành
lập năm 1957 với 4 nước thành viên là Thái Lan, Việt Nam, Lào và
Campuchia.
Tại Trung Quốc, kế hoạch quản lý lưu vực sông đã được nhà nước thông
qua và hiện tại các lưu vực sông lớn như lưu vực sông Trường Giang, Hoàng
Hà,…đều đã thành lập các ban quản lý lưu vực sông và hoạt động có hiệu quả.
Tại Indonexia, Nhà nước cũng đưa ra chính sách mới về quản lý nước
và quản lý lưu vực sông, trong đó quản lý nước được lấy trung tâm ở cấp
lưu vực và tập trung trách nhiệm quản lý nước thông qua sự tham gia và
hợp tác hiệu quả của các đối tượng hưởng lợi trên lưu vực. Một số ban
quản lý lưu vực sông tại Indonesia đã được thành lập. Các nước khác trong
khu vực cũng đêu bắt đầu tiếp cận thực hiện quản lý lưu vực sông trong
một, hai thập kỷ qua.
Việc áp dụng cách tiếp cận quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu
vực sông để soạn ra các chính sách và chiến lược phát triển, quản lý và bảo vệ
tài nguyên nước đã giúp cho tài nguyên nước ngày nay được xem xét trêm cơ
sở hệ thống. Cách tiếp cận này cho phép những người sử dụng nước hiểu biết
tốt hơn về các vấn đề thủy văn có liên quan (IWMI, 2000).
Ở Việt Nam, ngay từ những năm 1960 quản lý lưu vực sông đã được nhà
nước quan tâm với việc thành lập Ủy ban trị thủy sông Hồng, một tổ chức có
trách nhiệm quy hoạch và quản lý tài nguyên nước cấp lưu vực đầu tiên ở
nước ta nhưng hoạt động của Ủy ban này cũng còn nhiều hạn chế.
Quản lý tài nguyên nước ở nước ta cho đến nay vẫn chủ yếu là quản lý
theo địa giới hành chính và riêng rẽ do từng ngành sử dụng nước tự đảm
nhiệm. Tình trạng đó kéo dài cho đến năm 1998 khi Luật Tài nguyên Nước ra
12

đời đã nêu định hướng cho việc thực hiện quản lý lưu vực sông.
Thực hiện Luật Tài nguyên nước, năm 2002 nhà nước đã thành lập 3
Ban quản lý quy hoạch lưu vực sông của ba lưu vực sông lớn là lưu vực sông
Hồng – Thái Bình, lưu vực sông Đồng Nai và lưu vực sông Cửu Long.
Nhiều đề tài và dự án nghiên cứu về quản lý lưu vực sông đã được thực
hiện do các cơ quan trong nước và các tổ chức quốc tế như dự án của ADB
cho lưu vực sông Hồng, dự án Danida của chính phủ Đan Mạch cho lưu vực
sông Serepok và lưu vực sông Cả, dự án của Nhật quy hoạch quản lý lưu vực
cho 12 lưu vực sông lớn của nước ta,…Các đề tài và dự án này đã chuẩn bị
tiền đề tốt cho việc tìm một mô hình phù hợp cho thực hiện việc quản lý lưu
vực sông ở nước ta.
1.2 Quản lý tổng hợp tài nguyên nước
1.2.1 Khái niệm quản lý tổng hợp tài nguyên nước
Quản lý tài nguyên nước
Quản lý tài nguyên nước theo Savanie (1997) là “tập hợp hợp tất cả các
hoạt động thuộc về kỹ thuật, tổ chức, quản lý và vận hành cần thiết để quy
hoạch, xây dựng các công trình sử dụng nguồn nước cũng như thực hiện quản
lý nguồn nước của lưu vực sông”.
Như vậy, quản lý tài nguyên nước bao gồm tất cả các hoạt động từ quy
hoạch, thiết kế, xây dựng và vận hành khai thác các hệ thống nguồn nước và
là hoạt động gồm nhiều thành phần, nhiều mục tiêu và có nhiều ràng buộc.
Quản lý tổng hợp tài nguyên nước
QLTHTNN ra đời thay thế cho khái niệm quản lý nguồn nước truyền
thống. Khái niệm này đang tiếp tục được bổ sung và phát triển, hiện vẫn đang
còn những ý kiến tranh luận. Trong Chương 18 của Chương trình nghị sự 21
có nêu rõ: “Quản lý tổng hợp tài nguyên nước dựa trên nhận thức nước là một
bộ phận nội tại của hệ sinh thái, một nguồn tài nguyên thiên nhiên và một loại
13

hàng hóa kinh tế và xã hội, mà số lượng và chất lượng quyết định bản chất
của việc sử dụng. Vì mục đích này, tài nguyên nước cần phải được bảo vệ, có
tính đến chức năng của các hệ sinh thái nước và tính tồn tại mãi mãi của tài
nguyên, để có thể thỏa mãn và dung hòa các nhu cầu về nước cho các họat
động của con người”. Sau đây là một số định nghĩa cụ thể về QLTHTNN.
Michell (1990) đã đưa ra định nghĩa “ QLTHTNN là một quá trình giải
quyết vấn đề quản lý sử dụng nước cắt ngang tất cả các thành phần của chu
trình thủy văn, vựơt trên biên giới giữa nước, đất và môi trường, tạo lập mối
liên hệ nội tại của nước với các chính sách rộng lớn hơn phù hợp với đặc
điểm phát triển kinh tế và quản lý môi trường khu vực”.
Grig thì cho rằng “ QLTHTNN là một khuôn khổ được tạo nên cho việc
quy hoạch, tổ chức và kiểm sóat hệ thống nước nhằm làm cân bằng tất cả
những quan điểm và mục tiêu của những người bị ảnh hưởng”.
Mạng lưới cộng tác vì nước tòan cầu (GWP, 2000) với mục đích đưa ra
một khuôn khổ chung trong quản lý tài nguyên nước đã nêu lên định nghĩa “
QLTHTNN là một quá trình đẩy mạnh sự phối hợp phát triển và quản lý tài
nguyên nước, đất và các tài nguyên liên quan khác để tối ưu hóa lợi ích kinh
tế và phúc lợi xã hội một cách công bằng mà không tổn hại đến sự bền vững
của các hệ sinh thái thiết yếu”.
Định nghĩa trên đã nhấn mạnh QLTHTNN là một quá trình, và trong đó
khái niệm “quản lý” phải được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm cả “phát triển và
quản lý ” nhằm đạt tới 3 mục tiêu cơ bản về kinh tế, xã hội và môi trường.
1.2.2 Các khía cạnh của QLTHTNN
Trong QLTHTNN có một từ then chốt đó là từ “tổng hợp”, vậy khái
niệm tổng hợp ở đây là gì và cần hiểu như thế nào? Điều này chúng ta cũng
cần làm rõ và từ đó sẽ hiểu các nội dung của quản lý tổng hợp đối với tài
nguyên nước.
Theo (TAC, 2000) thì khái niệm tổng hợp trong cụm từ quản lý tổng
14

hợp tài nguyên nước phải xem xét trong hai hệ thống chủ yếu, đó là trong hệ
thống tự nhiên và hệ thống nhân văn. Hệ thống tự nhiên (netural system) với
đặc trưng chủ yếu là lượng và chất lượng của các tài nguyên tự nhiên như
nước, đất, không khí và các tài nguyên sinh học, là đầu vào quan trọng cho hệ
thống nhân văn (human system) khai thác và sử dụng.
Quản lý Tổng hợp trong hệ thống tự nhiên bao gồm:
(1). Quản lý tổng hợp nước và đất: Nước và đất là hai thành phần của
môi trường tự nhiên, chúng có mối liên quan và tác động với nhau trong quá
trình diễn ra của tự nhiên. Trong chu trình thủy văn, nước được vận chuyển
giữa các thành phần của khí quyển, đất, lớp phủ thực vật và các nguồn nước
mặt, nước ngầm. Các kiểu khác nhau của sử dụng đất và lớp phủ thực vật sẽ
có các ảnh hưởng khác nhau đến khả năng giữ nước trong đất và trên các tán
lá cây và ảnh hưởng đáng kể tới sự biến đổi của số lượng và chất lượng nước
để sử dụng. Vì thế, việc quản lý sử dụng nước không thể tách rời với quản lý
sử dụng đất và các biện pháp canh tác trên đất nông nghiệp, nhất là quản lý
các lưu vực nhỏ để bảo vệ đất chống xói mòn.
(2). Quản lý tổng hợp các thành phần nước xanh lá cây và nước xanh da trời:
Có hai thành phần liên quan đến việc quản lý nước, đó là:
+ Nước liên quan đến sử dụng của hệ sinh thái như nước mưa và bốc
thoát hơi (còn gọi là nước xanh lá cây).
+ Nước sử dụng trực tiếp của con người như nước trong sông, hồ và
nước ngầm (còn gọi là nước xanh da trời).
Quản lý truyền thống thường chỉ quan tâm quản lý nước xanh da trời
trong các sông hồ, nhưng quản lý tổng hợp cần chú trọng thêm cả nước mưa
và nước trong tầng đất ẩm bởi vì thông qua các biện pháp canh tác có thể đem
lại tiềm năng đáng kể đối với tiết kiệm nước, nâng cao hiệu quả sử dụng nước
15

và bảo vệ các hệ sinh thái.


(3) Quản lý tổng hợp nước mặt và nước ngầm: Tài nguyên nước của lưu
vực bao gồm cả nước mặt và nước ngầm, giữa nước mặt và nước ngầm lại có
mối liên hệ thủy lực với nhau nên việc khai thác quá mức một thành phần nào
cũng ảnh hưởng đến thành phần kia. Vì thế để sử dụng hiệu quả và bền vững,
cần phải quản lý tổng hợp cả về số lượng và chất lượng của nước mặt và nước
ngầm, trong đó phải chú ý các biện pháp quản lý và kiểm soát các nguồn ô
nhiễm nước.
(4) .Quản lý tổng hợp số lượng và chất lượng nước: Ô nhiễm nước có
thể làm suy giảm nhanh chóng nguồn nước sạch mà con người có thể sử
dụng. Vì thế trong QLTHTNN không chỉ chú ý quản lý số lượng nước mà
phải chú trọng cả quản lý và bảo vệ chất lượng nước.
(5). Quản lý tổng hợp các lợi ích sử dụng nước vùng thượng lưu và hạ
lưu: Lợi ích về sử dụng nước tại vùng hạ lưu các sông thường bị ảnh hưởng
do sử dụng nước tại thượng lưu. Thí dụ như lấy nước qúa mức để sử dụng ở
thượng lưu sẽ dễ làm cạn kiệt dòng chảy ở hạ lưu, xả nước thải ở thượng lưu
thường làm suy giảm chất lượng nước khu vực hạ lưu, việc thay đổi sử dụng
đất tại thượng lưu sẽ ảnh hưởng tới nước ngầm chảy vào sông và làm biến đổi
dòng chảy của sông trong các tháng kiệt ở hạ lưu. Vì thế các mâu thuẫn về lợi
ích trong sử dụng nướ giữa thượng lưu và hạ lưu thường là không thể tránh
khỏi và phải được xem xét và giải quyết dựa trên các nguyên tắc của quản lý
tổng hợp.
Quản lý tổng hợp trong hệ thống nhân văn bao gồm quản lý tất cả
các hoạt động quản lý và sử dụng tài nguyên nước của con người như là:
(1). Tổng hợp liên ngành trong quy hoạch và quản lý nguồn nước: xem
xét các điều kiện kinh tế xã hội và môi trường tác động lên tất cả các ngành sử
dụng nước trong quá trình xây dựng các phương án quy hoạch phát triển TNN
16

cũng như xác định các biện pháp quản lý nguồn nước đáp ứng yêu cầu phát
triển của con người.
(2). Tổng hợp các chính sách về nước vào trong chính sách phát triển
kinh tế xã hội quốc gia: Nước là đầu vào quan trọng của các hoạt động phát
triển kinh tế xã hội, vì thế chính sách nước phải được tổng hợp trong các
chính sách kinh tế của quốc gia cũng như trong chính sách của ngành ở cấp
quốc gia. Ngược lại, các chính sách kinh tế xã hội cũng phải xem xét mối liên
quan đến nước, chẳng hạn chính sách phát triển năng lượng hay lương thực
đều có ảnh hưởng rất lớn tới tài nguyên nước và ngược lại.
(3). Tổng hợp tất cả những thành phần liên quan trong quy hoạch và quá
trình ra quyết định: Sự tham gia của tất cả các thành phần có liên quan trong
quy hoạch và quản lý tài nguyên nước là một yếu tố chủ yếu để sử dụng cân
bằng và bền vững tài nguyên nước. Việc quản lý tổng hợp cả nước và nước
thải sẽ giúp cho duy trì chất lượng nước trong sông cũng như khiến cho các
dòng nước thải có thể là dòng bổ sung có ích đối với dòng sông và sử dụng
của con người. Trong cấp nước sinh hoạt và công nghiệp, nếu không phối hợp
quản lý cả nước thải thì dòng nước thải sẽ làm giảm lượng nứơc cấp hữu ích
do nó làm giảm chất lượng nước và tăng chi phí cấp nước tương lai.
(4). Tổng hợp các chính sách, luật pháp và thể chế trong phát triển tài
nguyên nước: Thực hiện QLTHTNN rất phức tạp đòi hỏi phải có những thay
đổi kể cả trong chính sách luật pháp nếu có những điểm không phù hợp. Thí
dụ như những chính sách làm tăng yêu cầu nước, chính sách ảnh hưởng tới
phân chia nguồn nước cho các mục tiêu sử dụng nước là những chính sách
thường phải cải tiến hay xây dựng mới cho phù hợp với QLTHTNN. Người
lập chính sách phải biết cân bằng giữa lợi ích trước mắt và cái giá lâu dài phải
trả của việc không mạnh dạn đổi mới các chính sách không phù hợp, từ đó có
17

quyết định đổi mới chính sách


1.2.3 Các nguyên tắc của QLTHTNN
Hiện nay, có thể coi 4 nguyên tắc được thảo luận và thống nhất trong hội
nghị về Nước và Môi trường năm 1992 tại Dublin (gọi tắt là nguyên tắc
Dublin là những nguyên tắc nền tảng của QLTHTNN). Những nguyên tắc này
đã phản ánh sự thay đổi những nhận thức về tài nguyên nước.
Nguyên tắc 1: Nước ngọt là tài nguyên hữu hạn, không tài nguyên
nào có thể thay thế được, rất thiết yếu để duy trì cuộc sống, và phát triển
môi trường.
Nguyên tắc 1 mở ra một phương pháp tiếp cận mới trong quản lý nước,
đó là phải xem xét tất cả các đặc tính của chu trình thủy văn, cũng như các
tương tác của nước với các tài nguyên khác và hệ sinh thái. Nguyên tắc cũng
chỉ rõ nước cần thiết cho nhiều mục đích và việc quản lý phải xem xét các
nhu cầu sử dụng và các nguy cơ đe dọa nguồn nước.
Nhận thức nước là một tài nguyên hữu hạn, không phải là vô hạn như
trước đây nhiều người lầm tưởng đặt ra trong quá trình quản lý và sử dụng
nước phải hạn chế các sự thất thoát và phải coi nước là một tài sản tự nhiên
chính yếu cần phải được duy trì đem lại những lợi ích mong muốn và bền vững
Con người bằng các hoạt động của mình có thể gây nên các tác động tiêu
cực và làm suy giảm khả năng tái tạo của nguồn nước cũng như làm suy giảm
số lượng và chất lượng nước, đồng thời cũng có thể tác động tích cực tới
nguồn nước của sông như điều tiết lại dòng chảy để tăng khả năng sử dụng
nước cũng như lợi ích mang lại. Các vấn đề này cần phải chú trọng trong quản
lý sử dụng nước.

Nguyên tắc 2: Phát triển và bảo vệ nguồn tài nguyên nước cần phải
18

dựa trên phương pháp tiếp cận có sự tham gia của tất cả các thành phần
bao gồm những người dùng nước, người lập quy hoạch và người xây dựng
chính sách ở tất cả các cấp.
Quản lý truyền thống không chú trọng tới sự tham gia của các thành
phần, nhất là của người dùng nước. Nguyên tắc 2 đưa ra một cách tiếp cận
mới về mặt quản lý có tính quyết định để nâng cao hiệu quả của việc sử dụng
nguồn nước, trong đó vai trò của người dùng nước cũng phải coi trọng như
của người lập quy hoạch cũng như xây dựng chính sách về nước.
Nguyên tắc này nhấn mạnh cần có sự tham gia thật sự của các thành
phần liên quan là một phần của quá trình ra quyết định. Có sự tham gia thể
hiện ở các khía cạnh như cộng đồng dân cư tập hợp nhau lại để chọn cách sử
dụng cũng như quản lý cung cấp nước, hoặc bầu một cách dân chủ các cơ
quan quản lý phân phối nước. Sự tham gia thật sự yêu cầu những người có
liên quan ở mọi cấp của xã hội đều phải có tác động trong việc ra quyết định
của tất cả các cấp của quá trình quản lý nước, không chỉ dừng ở việc hỏi ý
kiến đơn thuần.
Phương pháp tiếp cận có sự tham gia là cách duy nhất để đạt tới các sự
thỏa thuận chung có tính lâu dài trong quản lý và sử dụng nước. Để đạt được
điều đó các thành phần liên quan và các cán bộ của cơ quan quản lý nước cần
phải nhận thức được sự bền vững của nguồn nước là vấn đề chung nhất và tất
cả các bên cần phải biết hy sinh một số mong muốn nào đó cho kết quả chung
tốt đẹp. Tham gia nghĩa là nhận các trách nhiệm, là sự ghi nhận những ảnh
hưởng các hoạt động của mỗi ngành đến người dùng nước và hệ sinh thái
nước, là chấp nhận các sự thay đổi để nâng cao hiệu quả của sử dụng nước và
phát triển vền vững tài nguyên nước. Tham gia không có nghĩa là luôn luôn
thống nhất mà cũng có lúc nảy sinh mâu thuẫn và phải có cơ chế để giải quyết
các mâu thuẫn đó.
Thực hiện quản lý theo cách tiếp cận có sự tham gia thì chính quyền các
19

cấp từ trung ương tới địa phương cần phải tạo các cơ chế thuận lợi cho sự
tham gia của các bên, đặc biệt là của cộng đồng dân cư những người trực tiếp
được hưởng lợi hay bị thiệt hại. Thí dụ như xây dựng các cơ chế cho tư vấn
của các thành phần liên quan tham gia trên mọi quy mô, như là quốc gia, lưu
vực, tiểu lưu vực hoặc cộng đồng. Các cấp chính quyền cũng cần hỗ trợ để
nâng cao năng lực tham gia của cộng đồng, nhất là của phụ nữ và những
tầng lớp dân cư có trình độ thấp trong xã hội. Sự tham gia còn là một
phương tiện để cân đối giữa phương pháp quản lý từ trên xuống và phương
pháp từ dưới lên.
Nguyên tắc 3: Phụ nữ có vai trò trung tâm trong việc cung cấp, quản
lý và bảo vệ nguồn nước.
Có một thực tế là trong số cộng đồng, do đặc điểm của nền văn hóa mà
vị trí người phụ nữ thường bị xem nhẹ, điều đó dẫn đến sự tham gia của phụ
nữ trong quản lý nước thường bị bỏ qua hoặc gây khó khăn. Trong thực tế,
người phụ nữ có vai trò chủ yếu trong việc lấy và bảo vệ nguồn nước dùng
cho sinh hoạt của gia đình và cho sản xuất nông nghiệp, nhưng vai trò của họ
lại rât hạn chế trong vấn đề quản lý cũng như ra quyết định liên quan đến tài
nguyên nước. Từ thực tế nêu trên nguyên tắc 3 đã nhấn mạnh lại vai trò của
phụ nữ và chỉ rõ cần phải có những cơ chế thích hợp để nâng cao khả năng
tiếp cận của phụ nữ tới quá trình ra quyết định, mở rộng những phạm vi mà
qua đó người phụ nữ có thể tham gia vào QLTHTNN. Nguyên tắc này cũng
chỉ rõ trong QLTHTNN cần phải có nhận thưc đầy đủ về giới, cụ thể là phải
xem xét cách thức của các xã hội khác nhau ấn định vai trò kinh tế, xã hội,
văn hóa của nam giới và phụ nữ để từ đó xây dựng phương thức tham gia đầy
đủ và hiệu quả của phụ nữ ở mọi cấp vào việc ra quyết định trong quản lý và
bảo vệ nguồn nước.
Nguyên tắc 4: Nước có giá trị kinh tế trong mọi hình thức sử dụng và
20

cần phải được xem như một loại hàng hóa có giá trị kinh tế
Một sai lầm kéo dài hàng nhiều thế kỷ trước đây là đã không nhận biết
được giá trị kinh tế của tài nguyên nước và coi như là một nguồn lợi của tự
nhiên có thể sử dụng tự do hoàn toàn miễn phí. Điều này khiến cho nước
được sử dụng một cách tùy tiện và kém hiệu quả trong các thời gian của quá
khứ và người dùng không có ý thức bảo vệ năng lực tái tạo của tài nguyên
nước. Nguyên tắc 4 chỉ ra giá trị kinh tế của nước là nhận thức mới nhất của
nhân loại tìm ra trong mấy chục năm trở lại đây. Điều đó đã đặt ra những yêu
cầu đổi mới của con người trong cách thức quản lý, cách thức sử dụng nước
theo hướng thực sự tiết kiệm và phải làm sao phát huy được giá trị của nước
như bất cứ một loại hàng hóa nào khác. Trong QLTHTNN cần phải tính toán
đầy đủ giá trị của nước bao gồm giá trị kinh tế và giá trị nội tại của tài nguyên
nước, và phải tạo cơ chế cho người dùng nước có đủ khả năng sử dụng nước
và trả đủ các chi phí cho “ việc mua nước” cũng như làm trách nhiệm của họ
trong bảo vệ nguồn nước.
Bốn nguyên tắc của Hội nghị Dublin đã chỉ ra những thay đổi trong nhận
thức và cách quản lý sử dụng nước cần thiết để tháo gỡ những tồn tại hiện
nay. Từ những nguyên tắc này, khái niệm và một phương pháp mới quản lý
mới quản lý tài nguyên nước trên nguyên tắc tổng hợp đã hình thành, đáp ứng
yêu cầu thực tế.
1.2.4 Kinh nghiệm QL THTN nước mặt tại các LVS trên thế giới
Tổng hợp một số mô hình của cơ quan quản lý LVS trên thế giới (Sông
Hoàng Hà tại Trung Quốc, sông Muray-Darling tại Australia, sông Lerma-
chapala tại Mexico) có thể rút ra một số nhận xét:
Về hình thức
Có một số hình thức của cơ quan quản lý lưu vực sông hiện hành trên thế
giới, nhưng có thể quy thành ba hình thức phổ biến nhất đó là: (i) cơ quan
21

thủy vụ lưu vực sông; (ii) ủy hội lưu vực sông, và (iii) hội đồng lưu vực sông.
Mỗi loại có một mức độ tập trung quyền lực cũng như mức độ tham gia vào
quản lý nước khác nhau.
(i) Cơ quan thủy vụ lưu vực sông (River basin Authority):
Đây là hình thức cơ quan quản lý lưu vực sông có đầy đủ quyền hạn và
phạm vi quản lý lớn nhất. Thí dụ như là Cơ quan thủy vụ thung lũng
Tennessce ở Mỹ và Cơ quan thủy vụ Núi tuyết ở Úc,…Đây là những tổ chức
liên ngành lớn, tiếp nhận hầu hết các chức năng của các cơ quan hiện hữu,
trong đó bao gồm cả chức năng điều hành và quản lý nước. Hình thức này có
thể áp dụng đối với các lưu vực có nhiệm vụ phát triển lớn.
(ii) Ủy hội lưu vực sông (River basin Commission): là mô hình thấp hơn
cơ quan thủy vụ LVS ở trên về quyền hạn cũng như sức mạnh của tổ chức và
ảnh hưởng của nó trong quản lý LVS.
Một Ủy hội lưu vực sông thường bao gồm một “Hội đồng quản lý” đại
diện cho tất cả các bên quan tâm và có một “ Văn phòng kỹ thuật” chuyên sâu
hỗ trợ. Ủy hội lưu vực sông liên quan chủ yếu tới xây dựng chính sách, lập
quy hoạch phát triển lưu vực, xây dựng thủ tục và kiểm soát sử dụng nước.
Nó có thể điều chỉnh các vấn đề sử dụng nước liên quan đến nhiều tỉnh, thông
qua các chính sách liên quan đến nước của lưu vực sông, xây dựng các cơ sở
dữ liệu, thông tin và mô hình phù hợp về các vấn đề quản lý trên quy mô toàn
lưu vực. Có ủy hội lưu vực sông có thể nắm chức năng vận hành (có thể cả
đầu tư) đối với những công trình lớn, còn hầu hết việc vận hành và quản lý
hàng ngày các công trình và hệ thống cung cấp dịch vụ nước là công việc của
các tỉnh nằm trong lưu vực. Một ủy hội như vậy có thể giám sát việc thực hiện
các chiến lược, vận hành và quản lý các công trình thủy lợi, thủy điện chủ
chốt. Tuy nhiên, trong thực tế Ủy hội thường ủy quyền làm việc cho các tổ
chức khác thông qua các thỏa thuận hay hợp đồng vận hành. Thí dụ về loại tổ
22

chức này như là Ủy hội sông Maray Darling của Úc, Ủy hội sông Mê Kông.
(iii). Hội đồng lưu vực sông (River basin Council): đây là mô hình yếu
hoặc có ít quyền lực nhất hiện nay. Hội đồng lưu vực sông hoạt động chỉ như
là một diễn đàn mà tại đó chính quyền liên bang, các tiểu bang, cũng như đại
diện các hộ dùng nước chia sẻ trách nhiệm phân phối nước, thúc đẩy toàn
diện quản lý nước tại cấp lưu vực. Các Hội đồng lưu vực sông thường hoạt
động theo nguyên tắc đồng thuận.
Kiểu tổ chức này bao gồm một hội đồng điều phối là người đứng đầu các
cơ quan liên quan thuộc ban ngành của các tỉnh, cán bộ chuyên môn giỏi của
tỉnh hoặc cơ quan trung ương và có sự hỗ trợ của một ban thư ký nhỏ. Nói
chung, hình thức này có vai trò trong giới hạn trong quy hoạch dài hạn, điều
phối các vấn đề chính sách và chiến lược cấp cao, không có vai trò vận hành
hoặc quản lý hàng ngày. Thí dụ về hình thức này như Hội đồng LVS Lerma –
Chapala được thành lập năm 1993 của Mexico,…
Về chức năng nhiệm vụ
Chức năng và nhiệm vụ của cơ quan quản lý LVS có thể nhiều hay ít tùy
theo mục tiêu của cơ quan quản lý LVS được đặt ra khi thành lập. Việc xác
định các chức năng và nhiệm vụ của cơ quan quản lý LVS phải tương xứng
với yêu cầu quản lý của LVS cần phải thực hiện.
Nói chung các cơ quan quản lý LVS đều có chức năng về lập quy hoạch
quản lý lưu vực và bổ sung điều chỉnh quy hoạch qua từng thời kỳ. Ngoài quy
hoạch, cơ quan quản lý LVS có thể tham gia vào quản lý nước cũng như vận
hành hệ thống công trình khai thác sử dụng TNN. Tuy nhiên mức độ tham gia
trong lĩnh vực quản lý cũng có thể ở các mức độ khác nhau tùy theo từng
LVS cụ thể hay như ba hình thức tổ chức LVS đã nói ở trên. Trong thực tế,
phần lớn các cơ quan quản lý LVS đều tập trung chủ yếu vào phát triển chiến
lược, chính sách, phân chia và điều phối sử dụng nước trong phạm vi cấp lưu
23

vực, có ít các cơ quan quản lý LVS tham gia vào quản lý vận hành cụ thể các
công trình. Từ chức năng có thể xác định nhiệm vụ và trách nhiệm cụ thể của
cơ quan quản lý LVS trong quản lý nguồn nước.
Về quyền hạn
Quyền hạn biểu thị quyền lực của cơ quan quản lý LVS để thực hiện
các nhiệm vụ và trách nhiệm quản lý LVS. Không có đủ quyền hạn thì cơ
quan quản lý LVS khó có thể thực hiện các chức năng và nhiệm vụ được giao.
Nói chung, tùy theo hình thức tổ chức của mỗi cơ quan quản lý LVS mà nó có
thể có nhiều hoặc ít quyền hạn trong quản lý TNN. Quyền hạn của cơ quan
quản lý LVS phải được thể chế hóa trong các văn bản Nhà nước và phải
tương xứng với trách nhiệm và nhiệm vụ quản lý được giao.
Như đã nêu ở trên có những cơ quan QL LVS được giao rất nhiều quyền
hạn và tập trung rất nhiều quyền lực và như vậy cũng có nhiều chức năng kể
cả điều tra quan trắc các số liệu khí tượng thủy văn, đầu tư xây dựng và quản
lý các công trình sử dụng nước vừa và lớn,…thí dụ như các tổ chức quản lý
LVS lớn của Trung Quốc như Trường Giang, Hoàng Hà…Ngược lại có các
cơ quan quản lý lưu vực sông có rất ít quyền lực, chỉ có vai trò như là một tổ
chức tư vấn đóng góp các ý kiến về quản lý LVS cho các cấp chính quyền mà
không quyền hạn về thực hiện các hoạt động quản lý cụ thể.
Phương thức hoạt động
Phương thức hoạt động là cách thức để cơ quan quản lý LVS thực hiện
các hoạt động quản lý của mình. Thí dụ như cách thức làm việc của Cơ quan
điều hành hay văn phòng thường trực của cơ quan quản lý LVS với các cơ
quan hành chính trung ương hay địa phương. Mỗi cơ quan quản lý LVS cần
có một phương thức hoạt động phù hợp với hình thức và quy mô công việc
của cơ quan quản lý LVS được giao và phải thuận lợi cho việc tổ chức và
triển khai các hoạt động hàng ngày.
Cơ chế tài chính
24

Hoạt động của cơ quan quản lý LVS cần có nguồn kinh phí ổn định lâu
dài, nếu không thì cơ quan quản lý LVS nếu thành lập cũng khó mà hoạt động
được như yêu cầu. Vì thế mỗi cơ quan quản lý LVS cần xây dựng một cơ chế
tài chính hợp lý để duy trì hoạt động thường xuyên hàng năm của cơ quan
quản lý LVS ngay khi đề xuất thành lập cơ quan quản lý LVS. Nguồn tài
chính này có thể dựa trên sự trợ giúp của nhà nước, các tổ chức quốc tế hoặc
đóng góp tài chính của các tỉnh, các hộ dùng nước được hưởng lợi trên LVS.
Tuy nhiên phần lớn các tổ chức LVS trích một phần nguồn thu từ thuế tài
nguyên nước và phí ô nhiễm nước cho các hoạt động quản lý của mình.
Thành phần tham gia
Cơ quan quản lý LVS còn là một diễn đàn để tất cả các bên liên quan
trao đổi, thảo luận, giải quyết các tranh chấp và tìm tiếng nói chung trong
quản lý sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước. Vì thế, trong quá trình thành lập
cũng như trong quá trình hoạt động của mình, cơ quan quản lý LVS cần có sự
tham gia một cách đầy đủ của tất cả các thành phần liên quan đến quản lý
nước và phải có đầy đủ quy chế cho thực hiện sự tham gia này. Thiếu điều
này thì hiệu quả hoạt động của một cơ quan quản lý LVS sẽ rất hạn chế. Nói
chung, một cơ quan quản lý LVS thường phải có sự tham gia của các thành
phần chủ yếu sau:
- Cơ quan quản lý cấp Trung ương.
- Đại diện của các tỉnh và địa phương.
- Đại diện của các Bộ, Ngành dùng nước.
- Đại diện các hộ dùng nước.
Tùy theo chức năng và nhiệm vụ của mỗi cơ quan quản lý LVS mà mức
độ tham gia của các thành phần này có thể khác nhau tạo nên đặc điểm riêng
về hoạt động của tổ chức LVS đó.
1.3 Đánh giá hiệu quả công tác quản lý
25

1.3.1 Mục đích của việc đánh giá


Quản lý tổng hợp lưu vực sông là công tác quản lý mới ở nước ta do
vậy với bước đầu triển khai không khỏi gặp nhiều thách thức và khó khăn.
Chính vì vậy việc theo dõi và xem xét quá trình thực hiện quản lý tổng hợp
lưu vực sông theo từng giai đoạn là cần thiết, qua đó có những sự hiệu
chỉnh và bổ xung cần thiết để kết quả, mục tiêu cuối cùng thu được là tốt
nhất. Để môi trường nói chung và chất lượng nước mặt nói riêng ở lưu vực
sông được đảm bảo cả về số lượng và chất lượng sử dụng cho các hoạt
động sản xuất của khu vực.
1.3.2 Cơ sở để thực hiện đánh giá
1.3.2.1 Luật pháp về tài nguyên nước
Bao gồm các văn bản pháp luật về nước và các khía cạnh liên quan đến
nước để thực hiện trên lưu vực sông. Thí dụ như các quy định có tính pháp lý
về quyền sử dụng nước, về giải quyết các xung đột trong sử dụng nước, trách
nhiệm và sự tham gia của các thành phần liên quan và cộng đồng dân cư trong
quản lý sử dụng nước, các khuôn khổ luật pháp để thực hiện quản lý nước
theo phương thức tổng hợp. Tiêu biểu nhất cho các văn bản luật pháp về tài
nguyên nước là Luật tài nguyên nước của mỗi quốc gia và các nghị định
hướng dẫn thực hiện của luật này.
Các văn bản pháp luật về nước còn có thể được soạn thảo dưới dạng các
điều luật, các quy tắc, các điều khoản thực hiện hoặc các quy định về tổ chức
quản lý tài nguyên nước. Chúng được ban hành một cách chính thức trong các
Nghị định, thông tư, hoặc hướng dẫn của các cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền. Ngoài ra chúng còn bao gồm cả “các quy tắc, quy định về quản
lý tài nguyên nước nội bộ” của các tổ chức tham gia quản lý nước trên lưu
vực sông, thí dụ như các quy định của cơ quan quản lý lưu vực sông, của các
cơ quan quản lý nước tại địa phương về các vấn đề thực hiện quản lý nước tại
26

lưu vực sông và ngay tại địa phương.


1.3.2.2 Các chính sách về tài nguyên nước:
Bao gồm các chính sách liên quan đến khai thác, sử dụng và quản lý bảo
vệ tài nguyên nước. Thí dụ như các tiêu chuẩn để lựa chọn dự án; các chính
sách về giá nước và thu hồi vốn đầu tư xây dựng các công trình; về phân chia
nước giữa các ngành dùng nước cũng như chuyển nước giữa các vùng hay
sang lưu vực lân cận; chính sách đóng góp về kinh tế; về sự tham gia của
cộng đồng những người dùng nước.
Các chính sách về tài nguyên nước có thể được ban hành do các cấp
quản lý khác nhau từ trung ương đến địa phương, như là các chính sách về tài
nguyên nước quốc gia của cấp trung ương và các chính sách của các tỉnh hoặc
của tổ chức quản lý lưu vực sông ở cấp địa phương.
1.3.2.3 Các bộ tiêu chuẩnmôi trường nước
Để đánh giá chất lượng quản lý, bên cạnh việc xem xét các mặt chính
sách, thể chế,…thì việc, quan trắc chất lượng nước và so sánh với tiểu chuẩn
chất lượng nước của đơn vị chức năng cũng góp một phần vào quá trình nhìn
nhận vấn đề thực trạng chất lượng nước ở lưu vực xem xét. Từ đó có những
đánh giá, những nhận định về một mặt cụ thể trong hệ thống quản lý chất
lượng nước tại lưu vực sông.
Một số tiêu chuẩn môi trường nước đã được ban hành như là:
+ Tiêu chuẩn chất lượng nước mặt (TCVN, 59442-1995);
+ Tiêu chuẩn chất lượng nước ngầm, (TCVN,5944-1995);
+ Tiêu chuẩn chất lượng nước thải công nghiệp (TCVN,5945-1995)
+ Tiêu chuẩn chất lượng nước thải sinh hoạt (TCVN, 6772-2000)
+ ….

1.3.2.4 Đặc điểm của vùng mà lưu vực sông đi qua


27

Muốn xem xét và đánh giá một cách đầy đủ nhất mức độ phù hợp và
hiệu quả của các biện pháp quy hoạch, quản lý tài nguyên nước tại lưu vực
cần nghiên cứu thì việc nhận biết và hiểu rõ vai trò của lưu vực sông đối với
từng đoạn, từng tỉnh mà nó đi qua nói riêng và cả khu vực nói chung là hết
sức quan trọng. Có biết rõ, có hiểu rõ thì mới biết những điểm nào cần phải
khắc phục, như thế nào là phù hợp.
1.3.3 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý
Một lưu vực sông đang có chiều hướng phát triển tốt hoặc đang trong
tình trạng bị suy thoái, muốn biết được cụ thể tình trạng đó như thế nào cần
phải đánh giá về quản lý lưu vực sông. Việc đánh giá quản lý lưu vực sông là
rất cần thiết khi lập quy hoạch lưu vực hoặc sau một thời kỳ thực hiện quy
hoạch nhằm xác định những gì đã đạt được cần thực hiện tiếp hoặc các nội
dung cần điều chỉnh trong các lĩnh vực của quản lý lưu vực sông.
Việc đánh giá quản lý lưu vực sông cần phải đánh giá tổng hợp dựa trên
các nôi dung quản lý như đã nêu trên. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng
phải đánh giá tất cả các khía cạnh mà còn tùy thuộc vào mục tiêu và việc sử
dụng kết quả đánh giá đó để làm gì và sử dụng như thế nào. Phục vụ cho mục
tiêu quản lý và phát triển bền vững tài nguyên nước và môi trường lưu vực
sông cần thực hiện các vấn đề sau đây:
+ Đánh giá về phát triển thể chế chính sách, sự thống nhất trong quản lý
nước và tài nguyên môi trường lưu vực sông giữa các tỉnh trong lưu vực sông.
+ Đánh giá về quản lý các hoạt động phát triển (công nghiệp, nông
nghiệp, lâm nghiệp, thủy lợi thủy điện trên lưu vực…), các công tác quan trắc,
đánh giá tác động môi trường trong lưu vực
+ Đánh giá về quản lý bảo vệ sinh cảnh và bảo vệ chất lượng môi trường
sông cũng như lưu vực sông.
CHƯƠNG 2
28

HIỆN TRẠNG LƯU VỰC SÔNG CẦU

2.1. Giới thiệu lưu vực sông Cầu


2.1.1 Đặc điểm tự nhiên
Sông Cầu là phụ lưu của Sông Hồng: LVS Cầu có diện tích 6.030 km2 là
một phần của LVS Hồng – Thái Bình (chiếm khoảng 8 % diện tích LVS
Sồng – Thái Bình trong lãnh thổ Việt Nam). Lưu vực có tổng chiều dài các
nhánh sông khoảng 1.600 km. Lưu vực bao gồm gần như toàn bộ các tỉnh Bắc
Kan, Thái Nguyên, và một số tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Hải
Dương và Hà Nội (huyện Đông Anh, Sóc Sơn).
Lưu vực sông Cầu có cả 3 vùng sinh thái: đồng bằng, trung du và miền
núi. Địa hình chung của lưu vực theo hướng Tây Bắc – Đông Nam.
Mạng lưới sông suối trong lưu vực sông Cầu tương đối phát triển. Các
nhánh sông chính phân bố tương đối đều dọc theo dòng chính, nhưng các
sông nhánh tương đối lớn đều nằm ở phía hữu ngạn lưu vực, như các sông:
Chợ Chu, Đu, Công, Cà Lồ...Trong toàn lưu vực có 68 sông suối có độ dài từ
10 km trở lên.
Tổng lượng nước trên LVS Cầu khoảng 4,5 tỷ m3/năm, trong đó đóng
góp của sông Công, sông Cà Lồ là khoảng 0,9 tỷ m 3/năm. Dòng chảy các
sông thuộc LVS Cầu được phân biệt thành hai mùa rõ rệt là mùa lũ và mùa
kiệt. Mùa lũ thường bắt đầu từ tháng 6 đến tháng 10; lượng dòng chảy trong
mùa lũ không vượt quá 75% lượng nước cả năm. Mùa kiệt dài 7 đến 8 tháng,
chiếm khoảng 18 – 20% lượng dòng chảy cả năm. Ba tháng kiệt nhất là tháng
1, 2, 3 dòng chảy chỉ chiếm 5,6 – 7,8%.
Trong lưu vực có VQG Ba Bể và VQG Tam Đảo, khu BTTN Kim Hỷ,
và các khu văn hóa – lịch sử môi trường với giá trị sinh thái cao. Lưu vực
sông Cầu khá giàu các nguồn tài nguyên thiên nhiên: tài nguyên rừng đa
29

dạng, tài nguyên nước dồi dào, tài nguyên khoáng sản phong phú…Độ che
phủ của rừng trong lưu vực sông Cầu được đánh giá là trung bình, đạt khoảng
45 %. Tuy nhiên, rừng bị phá hủy mạnh mẽ cùng những hoạt động phát triển
kinh tế, xã hội khác như công nghiệp, khai thác mỏ, làng nghề thủ công và
hoạt động nông nghiệp gây áp lực lớn lên môi trường trong lưu vực.

Hình 2.1. Bản đồ các tỉnh nằm trong LVS Cầu


2.1.2 Đặc điểm kinh tế, xã hội
Lưu vực chiếm khoảng 47% diện tích của 6 tỉnh. Tổng dân số 6 tỉnh
thuộc lưu vực năm 2005 khoảng 6,9 triệu người. Trong đó, dân số nông thôn
khoảng 5,9 triệu người; dân số thành thị khoảng 1 triệu người. Mật độ dân số
30

trung bình khoảng 427 người/km2, cao hơn 2 lần so với mật độ trung bình
quốc gia.
Vung núi thấp và trung du là khu vực có mật độ dân cư thấp nhất trong
lưu vực, chiếm khoảng 63% diện tích toàn lưu vực nhưng dân số chỉ chiếm
khoảng 15% dân số lưu vực sông. Mật độ dân số cao ở vùng trung tâm và khu
vực đồng bằng.
Thành phần dân cư trong lưu vực có sự đan xen của 8 dân tộc anh em:
Kinh, Tày, Nùng, Sán Dìu, Mông, Sán Chay, Hoa, Dao trong đó người Kinh
chiếm đa số
Cơ cấu kinh tế dựa trên nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, thủy sản
đóng góp không đáng kể vào cơ cấu này. GDP tăng trưởng mạnh mẽ, tăng
gấp đôi trong vòng 5 năm tại hầu hết các tỉnh; Hải Dương có GDP cao nhất.
Tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp cao hơn tỉ lệ trung bình quốc gia.
Sản phẩm từ nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản chiếm khoảng 26% và có xu
hướng giảm. Các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Ninh và Vĩnh Phúc tăng trưởng
nhanh về công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Bảng 2.1 Một số đặc điểm kinh tế, xã hội của các địa phương LVS Cầu

Diện Dân số Mật độ GDP Thu nhập bình Tốc độ tăng


Tỉnh tích (nghìn (người/k (tỷ quân (nghìn trưởng so với
2 2
(km ) người) m) đồng) đồng /tháng) 2004(%)
Bắc Kạn 4.857,2 289,9 60 1.032,7 1.050,2 114,5
Thái Nguyên 3.542,6 1.109,0 313 6.459,0 1.229,1 117,8
Bắc Ninh 07,6 998,4 1.236 8.356,8 1.099,4 121,5
Bắc Giang 3.822,7 1.581,5 414 7.559,8 1.095,3 123,0
Hải Dương 1.648,4 1.711,4 1.038 13.664,7 1.242,7 118,2
Vĩnh phúc 1.371,4 1.169,0 852 9.565,3 1.025,9 122,0
Nguồn: Niên giám thống kê, 2005
2.2 Hiện trạng chất lượng nước lưu vực sông Cầu
31

Lưu vực sông Cầu tiếp nhận nước thải của 6 tỉnh nằm trong lưu vực và
một phần nước thải của Hà Nội (huyện Sóc Sơn, Đông Anh ), chất lượng
nước hiện đang bị ảnh hưởng bởi các hoạt động sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp, sinh hoạt, khai khoáng….của các tỉnh thành này.
Chất lượng nước sông Cầu ở hầu hết các địa phương đều cũng không đạt
tiêu chuẩn chất lượng là nguồn nước cấp cho mục đích sinh hoạt (TCVN
5942-1995, loại A).
Nước mặt tại vùng trung lưu và hạ lưu của lưu vực sông Cầu hiện đanh
bị ô nhiễm cục bộ bởi một số chất gây ô nhiễm hữu cơ, chất rắn lơ lửng (SS)
và dầu mỡ (có nơi đang bị ô nhiễm trầm trọng).
2.2.1 Thượng nguồn lưu vực sông Cầu
Thượng nguồn sông Cầu nằm trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn ngoài dòng chảy
chính là sông Cầu còn có phụ lưu là sông Chợ Chu. Chất lượng nước sông
Cầu và sông Chợ Chu tương đối ổn định.
Sông Cầu qua tỉnh Bắc Kạn đã bắt đầu bị ô nhiễm nhẹ ở một vài vị trí: Theo
số liệu quan trắc, khu vực cầu Phà và cầu Thác Riềng (Bắc Kạn), một số giá trị
BOD5 và SS đã vượt TCVN 5942-1995 đối với nguồn loại A (Hình 2.2 và 2.3)

30 100
25 80
20
60
m g /l
m g /l

15
40
10
5 20

0 0
Cầu Phà Thác Riềng Cầu Phà Thác Riềng

Tháng 10/2005 Tháng 11/2005 Tháng 10/2005 Tháng 11/2005


Tháng 12/2005 TCVN 5942-1995 (B) Tháng 10/2005 TCVN 5942-1995 (B)
TCVN 5942-1995 (A) TCVN 5942-1995 (A)

Hình 2.2 Giá trị BOD5 trên sông Cầu Hình 2.3 Giá trị SS trên sông Cầu
đoạn chảy qua tỉnh Bắc Kạn đoạn chảy qua tỉnh Bắc Kạn
Nguồn: Cục Bảo vệ môi trường, 2005 Nguồn: Cục Bảo vệ môi trường, 2005

2.2.2 Trung lưu Lưu vực sông Cầu (qua tỉnh Thái Nguyên)
32

Lưu vực sông Cầu đoạn chảy qua Thái Nguyên gồm dòng chính là sông
Cầu, và 3 phụ lưu: sông Nghinh Tường, sông Đu, sông Công.

Đoạn sông Cầu trước khi chảy vào thành phố Thái Nguyên, bắt đầu chịu
tác động do các hoạt động sản xuất công nghiệp, khai thác khoáng sản, sản
xuất nông nghiệp dọc bên bờ sông. Ngoài ra, đoạn sông này tiếp nhận hai phụ
lưu là sông Nghinh Tường và sông Đu nên chất lượng nước sông Cầu bị ảnh
hưởng bởi nguồn nước từ hai phụ lưu này đổ sang. Sông Nghinh Tường chịu
tác động của hoạt động khai thác vàng, đoạn cuối sông Đu tiếp nhận nước thải
của mỏ than Phấn Mễ, tuy nhiên mức độ ô nhiễm nước đối với hai dòng sông
này chưa đáng kể.

Đoạn sông Cầu chảy qua thành phố Thái Nguyên nhận nước thải của các
nhà máy sản xuất giấy, nhiệt điện, gang thép, các bệnh viện, khu dân cư đô thị
như nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ, nhiệt điện Cao Ngạn, khu công nghiệp
gang thép Thái Nguyên, nước thải sinh hoạt. Đồng thời, đoạn sông cũng chịu
tác động của nước suối Phượng Hoàng chảy sang.

Tại phường Tân Long, nước rất đục, có màu đen nâu và mùi. Đoạn sông
Cầu chảy qua khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên, giá trị các thông số
SS BOD 5, COD vượt TCVN 5942-1995(loại A) từ 2-3 lần; nước sông có mùi
dầu cốc rõ rệt .
33

0.35 50
0.3 40
0.25 30

m g /l
0.2
m g /l

20
0.15
0.1 10
0.05 0
0 Văn Hòa Sơn Cầu Gia Đập Cầu
Văn Hòa Sơn Cầu Đập Cầu lang Bình Cầm Bảy thác mây
lang Bình Cầm Gia thác mây Huống
Bảy Huống
2003 2004
Trung bình 2004 Trung bình 2005 2005 TCVN 5942-1995 (B)
TCVN 5942-1995 (B) TCVN 5942-1995 (A) TCVN 5942-1995 (A)

Hình 2.4 Diễn biến dầu mỡ trên sông Cầu Hình 2.5 Diễn biến COD trên sông Cầu
đoạn chảy qua Thái Nguyên đoạn chảy qua Thái Nguyên
Nguồn: Cục Bảo vệ môi trường, 2005 Nguồn: Cục Bảo vệ môi trường, 2005

Sau khi ra khỏi thành phố Thái Nguyên: do không có các khu công
nghiệp và ít các hoạt động sản xuất nên nồng độ các chất ô nhiễm trong nước
sông giảm. Tại khu vực Thuận Thành đã phát hiện dư lượng thuốc bảo vệ
thực vật nhưng vẫn nằm trong giới hạn cho phép loại A.
Suối Phượng Hoàng (nhánh suối nhỏ chảy trên địa bàn phường Tân
Long – TP Thái Nguyên), nước suối bị ô nhiễm hữu cơ nghiêm trọng do nước
thải của nhà máy sản xuất Giấy Đế thải trực tiếp, hàm lượng các hợp chất hữu
cơ chứa ni tơ rất cao. Các thông số đặc trưng ô nhiễm là BOD5, COD, phenol.
Sông Công là sông lớn thứ hai trong lưu vực, chảy qua địa phận Thái
Nguyên và nhập lưu với sông Cầu tại Đa Phúc. Nước sông đã bắt đầu bị ô
nhiễm hữu cơ, dầu mỡ. Dư lượng thuốc bảo vệ được phát hiện ở một số điểm.
Hình 2.6 biểu diễn giá trị hàm lượng dầu mỡ trung bình năm 2004 và 2005
trên toàn tuyến sông. Đây là khu vực chịu ảnh hưởng bởi hoạt động của cá
thuyền du lịch trên Hồ Núi Cốc, tàu thuyền khai thác cát trên sông, nước thải
của hoạt động khai thác khoáng sản và nước thải của KCN Sông Công.
34

0.35
0.3
0.25
0.2

mg/l
0.15
0.1
0.05
0
Phú Cầu Huy Hồ Núi Cửa xả TX. Cầu Đa
Cường Ngạc Cốc hồ Núi Sông Phúc
Cốc Công

Trung bình 2004 Trung bình 2005


TCVN 5942-1995 (A) TCVN 5942-1995 (B)

Hình 2.6 Diễn biến dầu mỡ tên sông Công đoạn chảy qua Thái Nguyên
Nguồn : Cục Bảo vệ môi trường, 2005

2.2.3 Hạ lưu Lưu vực sông Cầu (từ Cầu Vát đến cầu Phả Lại)
Chất lượng nước sông tại vùng hạ lưu (chảy qua Bắc Giang và Bắc
Ninh) của sông Cầu đã bị ô nhiễm hữu cơ tương đối nghiêm trọng (hình 2.7).

35

30

25

20
mg/l

15

10

0
xã Hợp Thịnh- Xã Hương Lâm- Xã Vạn Phúc- Xã Hoà Long- Thị xã Bắc Ninh
Bắc Giang Bắc Giang Bắc Ninh Bắc Ninh

năm 2005 năm 2006 TCVN 5942-1995 (B) TCVN 5942-1995 (A)

Hình 2.7 Diễn biến BOD5 tại đoạn sông Cầu qua Bắc Giang, Bắc Ninh
trong các năm 2004 và 2005
Nguồn: Cục Bảo vệ Môi trường, 2005

Đoạn cuối sông Cầu tại Phả Lại, nước sông có nhiều váng dầu do hoạt
động giao thông đường thủy. Vùng hạ lưu của lưu vực sông còn tiếp nhận
nước của sông Cà Lồ tại Bắc Giang và sông Ngũ Huyện Khê tại Bắc Ninh.
35

Trong đó, ô nhiễm nước sông Ngũ Huyện Khê là vấn đề đáng lưu ý, góp phần
làm gia tăng ô nhiễm nước trong lưu vực.
Sông Cà Lồ chảy qua nhiều khu, cụm công nghiệp và đô thị trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Phúc và một số phần của thành phố Hà Nội (huyện Sóc Sơn, Đông
Anh). Nước sông có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ do nước thải sinh hoạt, đô thị,
du lịch và ô nhiễm dầu mỡ từ chất thải công nghiệp. Hàm lượng các chất hữu
cơ và các chất dinh dưỡng cũng lớn hơn tiêu chuẩn cho phép loại A. Ô nhiễm
dầu mỡ thể hiện rõ tại điểm cầu Lò Cang, Bình Xuyên.
Sông Ngũ Huyện Khê là một trong những điển hình ô nhiễm nghiêm
trọng của lưu vực sông Cầu do hoạt động của các cơ sở sản xuất và đặc biệt là
các làng nghề trải suốt từ Đông Anh (Hà Nội) cho đến cống Vạn An của Bắc
Ninh. Sông Ngũ Huyện Khê chảy qua thị xã Bắc Ninh và huyện Từ Sơn, Yên
Phong trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Dọc hai bên bờ sông có nhiều làng nghề
chế biến thực phẩm , chăn nuôi gia súc, tái chế giấy, phế liệu, cơ khí…Hầu
hết nước thải của các làng nghề này đều thải trực tiếp vào sông. Nước sông bị
ô nhiễm hữu cơ, hàm lượng các chất dinh dưỡng cao hơn TCVN 5942-1995
loại A hàng chục lần.
45

40

35

30

25
mg/l

20

15

10

0
Cầu Lộc Hà Cầu Song Thất Cầu Tấn Bào Văn Môn Cầu Đào Xá

năm 2004 năm 2005 TCVN 5942-1995 (B) TCVN 5942-1995 (A)

Hình 2.8 Diễn Biến COD tại sông Ngũ Huyện Khê qua
các năm 2004 và 2005
Nguồn : Cục Bảo vệ môi trường
36

2.3 Các nguồn gây ô nhiễm đối với sông Cầu


Hoạt động phát triển kinh tế - xã hội trên LVS Cầu đã tác động rất lớn
đến chất lượng nước sông. Cơ cấu kinh tế LVS Cầu có sự khác biệt giữa các
tỉnh vùng núi, trung du và đồng bằng trong lưu vực. Ở các tỉnh Bắc Kan, Bắc
Giang và các vùng thuần nông khác trên LVS Cầu, tác nhân gây ô nhiễm môi
trường chủ yếu do nước thải sinh hoạt và các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Ngược lại, ở các huyện giáp sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Ninh, Thái Nguyên,
Vĩnh Phúc(huyện Mê Linh), Hà Nội(huyện Đông Anh)…tác nhân gây ô
nhiễm môi trường từ hoạt động sản xuất công nghiệp, làng nghề và đô thị.
2.3.1. Hoạt động công nghiệp
Theo thống kê đến năm 2004 toàn bộ lưu vực sông Cầu có hơn 2000
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp, trong đó Bắc Giang chiếm tỷ lệ cao nhất
28%, sau đó là Hải Dương 23% và Bắc Ninh 22%.
Các ngành sản xuất ở LVS Cầu bao gồm: luyện kim, chế biến thực
phẩm, chế biến lâm sản, vật liệu xây xựng, sản xuất phương tiện vận tải…Các
KCN và nhà máy lớn tập trung chủ yếu ở Thái Nguyên và Hải Dương, Bắc
Ninh và Bắc Giang. Hiện tại, Thái Nguyên có 27 KCN – nhiều nhất trong số 6
tỉnh thuộc lưu vực sông. Trong đó có 12 KCN đã đi vào hoạt động.
Xét về tổng lượng, nước thải của ngành khai thác mỏ, chế biến khoáng
sản chiếm tỷ lệ cao nhất 55%, tiếp đến là ngành kim khí 29%, ngành giấy 7%,
chế biến nông sản, thực phẩm 4%.
Công nghiệp khai thác và tuyển quặng: tập trung phát triển ở 2 tỉnh
thượng nguồn sông Cầu là Bắc Kạn và Thái Nguyên. Hoạt động khai thác
vàng diễn ra tại Bắc Kạn (NaRì, Ngân Sơn…), Thái Nguyên(Đồng Hỷ, Võ
Nhai, Bắc Phú Lương…); khai thác sắt, chì , kẽm (Đồng Hỷ, Đại Từ, Phú
Lương…); khai thác than (Đại Từ, Phú Lương…); khai thác sét (Võ Nhai,
Phổ Yên, Sông Công…) và các loại khoáng sản khác ở 2 tỉnh.
37

Đa số các mỏ khai thác ở LVS Cầu không có hệ thống xử lý nước


thải(chỉ có mỏ sắt Trại Cau, mỏ thiếc Phục Linh có hệ thống sử lý nước thải
sơ bộ), nước thải trong và sau khi khai thác, tuyển quặng được xả thẳng vào
nguồn nước mặt.
Bảng 2.2 Lượng nước thải của một số mỏ khai thác khoáng sản
tại Thái Nguyên

Công suất thiết


Mỏ khai thác Lượng nước thải (nghìn m3)
kế (tấn)
Năm
Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
2004
Mỏ khai thác Phấn Mễ 80.000 335 453 580 937
Mỏ sắt Trại Cau 35.000 8.120 13.460 19.852 15.971
Mỏ thiếc Đại từ 200 696 629 636 629
Mỏ sét Cúc Đường 15.000 4 71 138 79
Mỏ chì kẽm Làng Hích 15.000 710 939 1.093 796
Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường Thái Nguyên, 2005
Luyện kim, cán thép, chế tạo thiết bị máy móc: tập trung chủ yếu ở Thái
Nguyên với tổng lượng nước thải khoảng 16.000m3/ngày. Trong đó, nước thải
của KCN qua hai mương dẫn rồi chảy vào sông Cầu với lưu lượng ước tính
1,3 triệu m3/năm. Hoạt động sản xuất gang thép phát sinh nước thải có chứa
nhiều chất ô nhiễm độc hại như dầu mỡ, phenol và xianua từ quá trình cốc
hóa. Đến nay, KCN đã đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước thải nhằm hạn
chế mức độ ô nhiễm. KCN lớn thứ 2 của Thái Nguyên là KCN Sông Công
nằm trên địa bàn thị xã Sông Công với các nhà máy sản xuất cơ khí, chế tạo
máy động lực. KCN này đã hoạt động từ năm 2001 nhưng đến nay vẫn chưa
có hệ thống xử lý nước thải , hoặc chỉ có hệ thống xử lý lắng cặn sơ bộ rồi
thải thẳng ra sông Công. Nước thải của khu công nghiệp này chứa nhiều dầu
mỡ, kim loại nặng do tính đặc thù của ngành sản xuất cơ khí.
38

Sản xuất giấy : là nguồn thải gây ô nhiễm đáng kể đối với lưu vực với
tổng lượng thải khoảng 3500 m3/ngày. Trong đó, mức thải của Nhà máy giấy
Hoàng Văn Thụ (Thái Nguyên) có ảnh hưởng lớn nhất tới chất lượng nước
sông. Nước thải của nhà máy đổ ra sông Cầu chứa các chất ô nhiễm vô cơ,
COD, xơ sợi khó lắng, nước có màu đen, độ kiềm cao và bốc mùi. Từ năm
2005, công ty đã chuyển đổi công nghệ sản xuất và năm 2006 đã đầu tư hệ
thống xử lý nước thải nhằm giảm thiểu ô nhiễm. Ngoài ra, nhà máy sản xuất
Giấy Đế xuất khẩu cũng trực tiếp thải nước thải vào suối Phượng Hoàng –
Thái Nguyên.

Chế biến thực phẩm: Hoạt động sản xuất, chế biến thực phẩm tại các tỉnh
thuộc lưu vực với lượng nước thải khoảng 2.000 m 3/ngày, không được xử lý
và đổ thẳng vào các cống, mương, kênh, rạch và sông. Thành phần nước thải
chủ yếu là các hợp chất hữu cơ, gluxit, lipit, vi khuẩn, Coliform…làm cho
nguồn nước mặt bốc mùi hôi thối.

Ngoài các nguồn thải chính nêu trên, các nhà máy, cơ sở sản xuất thuộc
các ngành nghề khác cũng đổ nước thải sản xuất vào LVS Cầu. Bao gồm các
cơ sở sản xuất dược phẩm, may mặc, sản xuất vật liệu xây dựng, bao bì, lắp
ráp ô tô…thuộc các khu – cụm công nghiệp của Vĩnh Phúc thải nước thải
chưa qua xử lý hoặc mới chỉ xử lý sơ bộ vào sông Cà Lồ; nước thải của một
số cụm công nghiệp và nhà máy sản xuất của Bắc Giang (như KCN Đình
Trám, cụm công nghiệp Song Khê – Nội Hoàng, Công ty phân đạm và hóa
chất Hà Bắc…)chỉ qua xử lý sơ bộ như lắng lọc cơ học rồi thải trực tiếp vào
các thủy vực xung quanh; một số nhà máy quy mô lớn như nhà máy kính Đáp
Cầu, nhà máy thuốc lá Bắc Sơn (Bắc Ninh) đều xả nước thải sản xuất vào
sông Ngũ Huyện Khê.
39

Ngành sản xuất tấm lợp Fibro – ximăng: Ngành sản xuất tấm lợp fibro –
ximăng gồm 6 cơ sở sản xuất, trong đó có 4 cơ sở tại Thái Nguyên và 2 cơ sở
tại Hải Dương với tổng khối lượng sản phẩm ước tính khoảng 5.200.000
m2/năm. Hiện nay tại các cơ sở chỉ tuần hoàn một phần nước sau khi đã lắng
cơ học sơ bộ, phần còn lại được xả thẳng ra nguồn nước mặt bên ngoài không
qua xử lý. Tổng lượng nước thải của các cơ sở theo thống kê khoảng 55.300
m3/ năm. (Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam, 2005).

2.3.2. Hoạt động làng nghề

Trên lưu vực sông Cầu có hơn 200 làng nghề như các làng nghề sản xuất
giấy, nấu rượu, mạ kim loại, tái chế phế thải, sản xuất đồ gốm,..tập trung chủ
yếu ở Bắc Ninh và một số làng nghề nằm rải rác ở Thái Nguyên, Vĩnh Phúc,
Bắc Giang. Lưu lượng nước thải làng nghề lớn, mức độ ô nhiễm cao, không
được xử lý và thải trực tiếp xuống các nguồn nước mặt. Tại một số làng nghề
đã có các dự án đầu tư xây dựng hệ thông xử lý nước thải tập trung, song hiệu
quả đạt được không cao.

Bắc Ninh là tỉnh có số lượng là nghề nhiều nhất (hơn 60 làng nghề,
chiếm 31%). Các làng nghề tại Bắc Ninh và Bắc Giang tập trung chủ yếu ở
dọc hai bên sông, so đó ảnh hưởng rất lớn tới môi trường nước mặt trong
lưu vực.

Các làng nghề truyền thống ở Bắc Ninh với nhiều ngành nghề sản xuất
phong phú, đa dạng và chủ yếu nằm dọc theo sông Ngũ Huyện Khê. Phần lớn
các cơ sỏ tiểu thủ công nghiệp tại các làng nghề đều có hệ thống thiết bị lạc
hậu, quy mô mang tính gia đình, khả năng đầu tư hệ thống xử lý nước thải
hạn chế. Hầu hết nước thải từ các làng nghề đều được đổ trực tiếp xuống sông
Ngũ Huyện Khê mà không qua hệ thống xử lý.
40

Hình 2.9 Tỷ lệ các làng nghề thuộc tỉnh/ thành phố trong
lưu vực sông Cầu

Vinh phuc
Bắc Giang
9%
13%
Thái
Nguyên,Bắc Kan
27%
Bắc Ninh
30%

Hải Dương
21%

Bảng2. 3. Một số làng nghề tiêu biểu trong tỉnh Bắc Ninh

Số cơ sở /hộ sản
Tên các làng nghề
xuất

Làng nghề sản xuất giấy Phong Khê 64

Làng nghề sản xuất sắt thép Đa Hội 450

Làng nghề đúc nhôm chì Văn Môn 80 – 120

Làng nghề đúc đồng Đại Bái 600 – 700

Làng nghề chế biến gỗ Đồng Kỵ 1000

Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường Bắc Ninh, 2005

Làng nghề sản xuất giấy tái chế Phong Khê và Phú Lâm sản xuất 18 – 20
nghìn tấn/năm và thải ra 1.200 – 1.500 m3 nước thải/ngày. Nước thải sản xuất
giấy chứa rất nhiều hóa chất độc hại như xút, thuốc tẩy, phèn kép, nhựa thông
và phẩm màu các loại. Hàm lượng BOD5 = 130mg/l vượt 4,3 lần, COD =
617mg/l vượt 6 lần tiêu chuẩn cho phép.
41

Làng nghề rèn, cán, kéo thép Đa Hội có tổng sản lượng khoảng 500 –
700 tấn sản phẩm/ngày và thải ra 3.500 – 4.000 m3 nước thải/ngày. Thành
phần nước thải chứa rất nhiều axit hoặc kiềm, dầu, rỉ sắt…thải ra môi trường
và vượt quá tiêu chuẩn cho phép: độ màu vượt 3,1 lần, Fe vượt 3,3 lần, CrVI
vượt 8,6 lần, CN vượt 2 lần.

Các hộ sản xuất chế biến lương thực, thực phẩm thuộc xã Tam Đa
huyện Yên Phong sản xuất 1,2 – 1,3 triệu lít rượu/năm. Nước thải của
nghề này chứa nhiều chất hữu cơ cũng không được xử lý và thải trực tiếp
ra sông Ngũ Huyện Khê.

Bắc Giang có 25 làng nghề tập trung, trong đó điển hình là làng nghề
Vân Hà với ngành nghề chính là chưng cất rượu, làm bánh đa nem và chăn
nuôi gia súc; làng nghề Phúc Lâm giết mổ gia súc. Nước thải của hai làng
nghề này đều thải trực tiếp ra ao hồ xung quanh làng rồi chảy vào lưu vực
sông Cầu gây ô nhiễm hữu cơ.

Thái Nguyên có các làng nghề thủ công mỹ nghệ như mây tre đan, làm
miến dong, sản xuất gạch nung. Ngoài ra, Thái Nguyên còn có 12 cơ sở đúc
gang và cán thép thủ công, trên 30 bàn tuyển quặng chì thiếc nhỏ và trên 100
bàn tuyển vàng lớn nhỏ. Tất cả các cơ sở sản xuất này đều chưa có hệ thống
xử lý nước thải. Nước thải của cá cơ sở này chứa nhiều kim loại nặng , hóa
chất độc hại và được thải trực tiếp vào các mương thoát nước rồi chảy vào
sông Cầu.

Vĩnh Phúc có 16 làng nghề với các nghề như cơ khí, mộc, gốm sứ, mây
tre đan, chế biến lương thực. Hầu hết nước thải từ các làng nghề đều không
được xử lý, thải vào các ao, hồ cống thải, kênh mương…rồi đổ vào sông Cà
Lồ góp phần gây ô nhiễm nguồn nước.
42

2.3.3 Nước thải sinh hoạt

Mật độ dân số trung bình trong lưu vực là 784 người/km2. Dân số
trong các tỉnh thuộc lưu vực sông Cầu ngày càng tăng, đặc biệt là dân số ở
các đô thị.

Tốc độ gia tăng dân số nhanh (3,5%/năm), trong khi đó hạ tầng kỹ thuật
đô thị không phát triển tương ứng, làm gia tăng vấn đề ô nhiễm do nước thải
sinh hoạt. Hầu hết lượng nước thải sinh hoạt đều không được xử lý mà đổ
thẳng vào các sông, hồ trong lưu vực sông.

Theo ước tính, trong các tỉnh có liên quan của LVS Cầu, Hải Dương là
tỉnh đóng góp lượng nước thải sinh hoạt lớn nhất (khoảng 25%), sau đó là
Bắc Giang (23%), Vĩnh Phúc (17%).

Thái Nguyên Bắc Giang


16% 23%
Bắc Kan
4%

Vĩnh Phúc
17%

Hải Dương
25% Bắc Ninh
15%

Hình 2.10 Tỷ lệ nước thải sinh hoạt ước tính theo số dân của các tỉnh
trong LVS Cầu

Nguồn: Tính toán theo số dân các tỉnh – Niên Giám thống kê, 2005
43

Bảng 2.4 Tải lượng các thông số ô nhiễm từ nước thải sinh hoạt được đưa
vào môi trường nước LVS Cầu năm 2005

Vĩnh Phúc Bắc Ninh Hải Dương Bắc Kan Thái Nguyên BắcGiang

COD
83 – 119 71 - 101 122 – 174 21 - 30 79 – 112 112- 161
(tấn/ngày)
BOD
52 – 62 44 – 53 76 – 92 13 – 16 49 – 59 70 – 85
(tấn/ngày)
Tổng nitơ (tấn/ngày) 7 – 14 6 – 12 10 – 20 1,8 – 3,5 6,5 – 13 9,3 – 19
Tổng phốt pho
0,46 – 4,6 0,4 – 4 0,7 – 7 0,2 – 1,2 0,4 – 4 0,6 – 6
(tấn/ngày)
Coliform 1.155– 987 – 1.698 - 295 – 1.095 - – 1.564 - –
9
(10 con/ngày) 1.155.000 987.000 1.698.000 295.000 1.095.000 1.564.000
Dầu
11,43 9,78 16,81 2,92 10,84 14,48
(tấn/ ngày)
SS 167,8– 265,9 - –
196,3 – 254,1 288,7 – 373,6 50,2– 64,9 186,2 – 240,1
(tấn/ngày) 217,3 344,1

(Tính toán theo phương pháp tính toán tải lượng ô nhiễm của WHO,
1993 – dựa theo dân số ước tính năm 2005, Niên giám thống kê, 2005)
Đặc trưng của nước thải sinh hoạt là có chứa nhiều chất dinh dưỡng, hàm
lượng BOD5 và các hợp chất hữu cơ chứa Nitơ rất cao; nước thải có nhiều
Coliform, các vi khuẩn và mầm bệnh. Trong LVS Cầu, các đô thị thường nằm
ngay sát cạnh sông, nước thải sinh hoạt thường thải trực tiếp vào sông, do đó
không những gây tác động trực tiếp đến chất lượng nước sông mà còn làm
cho công tác quản lý nguồn thải này gặp rất nhiều khó khăn.
2.3.4 Hoạt động y tế
Theo số liệu thống kê năm 2005, các tỉnh thuộc LVS Cầu có 74 bệnh
viện với khoảng 15.400 giường bệnh, với lượng nước thải y tế ước tính là
5.400 m 3/ngày.
44

Trong đó, một số bệnh viện đã có hệ thống xử lý nước thải. Tuy nhiên
phần lớn các hệ thống này không hoạt động hiệu quả nên hầu hết nước thải
được thải trực tiếp vào nguồn nước mang theo nhiều hóa chất độc hại, chất
hữu cơ và các vi khuẩn gây bệnh.

Thái Nguyên Bắc Giang


21% 22%

Bắc Kan
7% Vĩnh Phúc
13%

Hải Dương
24%
Bắc Ninh
13%

Hình 2.11 Tỷ lệ nước thải y tế ước tính theo số giường bệnh


của các tỉnh trong LVS Cầu
Nguồn: Niên giám thống kê, 2005

2.3.5 Hoạt động nông nghiệp


Sản xuất nông nghiệp vẫn là một ngành quan trọng được quan tâm phát
triển tại các tỉnh thuộc LVS Cầu. Ngoài các loại cây lương thực truyền thống,
các tỉnh còn chú trọng đền phát triển các loại cây được coi là thế mạnh của
từng tỉnh. Để tăng năng suất cây trồng, thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa
học đã được sử dụng ngày càng nhiều. Người dân phun thuốc trừ sâu từ 3 -5
lần trong một vụ lúa hoặc chè.
Lượng thuốc BVTV được sử dụng tại các tỉnh trong lưu vực trung bình
là 3 kg/ha/năm, trong đó thuốc trừ sâu chiếm tỷ lệ lớn nhất (68,3%). Hiện tại tất
cả các vùng sản xuất nông nghiệp trong lưu vực đều dùng rộng rãi các loại phân
hóa học khoảng 500.000 tấn/năm và thuốc diệt trừ sâu bệnh khoảng 4.000
tấn/năm, lượng dư thừa đổ vào lưu vực ước tính 33% (số liệu sơ bộ 1999).
45

5%
12%

16%

67%

Các loại khác Thuốc trừ cỏ


Thuốc trừ bệnh Thuốc trừ sâu

Hình 2.12 Tỷ lệ các loại hóa chất dùng trong nông nghiệp tại LVS Cầu
Nguồn: báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam, 2005

Ngoài sản xuất lương thực là cây lúa, tại Bắc Giang còn chú trọng phát
triển các cây ăn quả lâu năm, đặc biệt là cây vải và nhãn. Lượng thuốc BVTV
sử dụng ước tính khoảng 145 tấn/năm (Báo cáo HTMT Bắc Giang, 2005).
Lượng hóa chất bảo vệ thực vật sử dụng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh bao
gồm khoảng 1.200 tấn thuốc BVTV và khoảng 200.000 – 300.000 tấn phân
N.P.K. Tại các vùng thâm canh ray, tỷ lệ lượng thuốc BVTV và phân hóa học
được sử dụng cao gấp 3 – 5 lần các vùng trồng lúa. Hiện nay, tỉnh đanh
khuyến khích và dần dần sử dụng các loại thuốc BVTV có nguồn gốc sinh
học, thực hiện canh tác, phòng trừ dịch bệnh tổng hợp.
Hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm của các tỉnh thuộc lưu vực sông
Cầu tăng đều qua các năm. Song, các biện pháp xử lý chất thải rắn, nước thải
từ các chuồng trại chăn nuôi còn rất hạn chế. Do đó, hầu hết các chất thải này,
đặc biệt là nước thải đều được đổ xuống các nguồn nước mặt.
2.3.6 Chất thải rắn
Theo số liệu thống kê, các tỉnh trong lưu vực sông làm phát sinh khoảng
hơn 1500 tấn rác thải đô thị các loại mỗi ngày, trong đó phần lớn là rác thải
sinh hoạt.
46

Tỷ lệ thu gom chất thải rắn nhìn chung còn ở mức thấp, trung bình
khoảng 40 – 45% trong hoàn toàn lưu vực. Ở các đô thị, tỷ lệ thu gom cao
hơn, đạt khoảng 60 – 70%. Hầu hết các tỉnh đều không có bãi chôn lấp hợp vệ
sinh và hệ thống xử lý nước rác. Lượng rác thải phát sinh không được thu
gom và xử lý mà thường đổ tập trung ở rìa đường, các mương, rãnh hoặc đổ
xuống các sông suối. Đây là nguồn gây ô nhiễm tiềm tàng cho nước mặt và
nước ngầm thuộc lưu vực sông Cầu.
Lượng phát sinh chất thải nguy hại công nghiệp và chất thải y tế ít hơn
so với chất thải sinh hoạt nhưng lại là nguồn thải cần phải quan tâm nhất bởi
chúng tác động đến môi trường và sức khỏe rất lớn nếu không có biện pháp
quản lý hiệu quả.
Bảng 2.4 Lượng rác thải y tế tại một số tỉnh thuộc LVS Cầu năm 2004
Tỉnh Kg/ngày
Thái Nguyên 350
Vĩnh Phúc 141
Bắc Ninh 438
Hải Dương 613
(Nguồn: Báo cáo hiện trạng môi trường các tỉnh, 2005)

2.4. Các thiệt hại do ô nhiễm môi trường tại lưu vực sông
2.4.1. Đe dọa tới sức khỏe con người
Trong lưu vực sông Cầu, các tỉnh Bắc Kạn (có nước sông Cầu và các
phụ lưu ít bị ô nhiễm ) và các bệnh về đường tiêu hóa ít hơn so với các phía
hạ nguồn như Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang và Hải Dương.
Nguồn nước mặt bị ô nhiễm trong khi khả năng tiếp cận với các nguồn
nước sạch của người dân trong lưu vực còn hạn chế, là một trong những
nguyên nhân dẫn đến các bệnh về đường tiêu hóa, bệnh ngoài da, bệnh phụ
khoa….
47

Trong số những người mắc các bệnh liên quan đến nguồn nước thì trẻ
em chiếm tỷ lệ khá cao. Đây là đối tượng nhạy cảm, sức khỏe dễ bị ảnh
hưởng bời các điều kiện môi trường.

%
60

50

40

30

20

10

0
năm 2001 năm 2002 năm 2003 năm 2004

Hội chứng Tiêu chảy

Hình 2.13 Tỷ lệ trẻ em mắc bệnh trên tổng số người mắc bệnh
của Thái Nguyên
(Nguồn: Sở tài nguyên và Môi trường Thái Nguyên, 2006)

2.4.2. Ảnh hưởng đến nguồn nước cấp


Mặc dù trong những tập niên gần đây chính phủ đã có chính sách đầu tư
cung cấp nước sạch nhưng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của người
dân nghèo. Người dân sinh sống trong khu vực nông thôn và vùng núi cao
không được tiếp cận với hệ thống nước sạch hoặc thiếu nước cho sinh hoạt.
Giữa các nhóm có thu nhập khác nhau, mức độ được tiếp cận với nước sạch
cũng khác nhau. Ví dụ, tại đồng bằng sông Hồn, chỉ có hơn 50% số dân nghèo
được tiếp cận với nguồn nước sạch, trong khi đó tỷ lệ này là hơn 90% ở nhóm
người dân có thu nhập cao. Tỷ lệ này ở các vùng khác còn thấp hơn nhiều.
48

Tại khu vực đô thị, mặc dù tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch là
cao hơn nhưng với những người dân nghèo, khả năng tiếp cận với nước sạch
vẫn rất hạn chế.
Tại khu vực nông thôn, tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch trung
bình toàn quốc năm 2005 là 66%, trong khi đó tỉ lệ này ở LVS Cầu là 61%.
Chi phí đầu tư một hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt cho một hộ gia
đình thường cao hơn nhiều so với mức thu nhập bình quân và mức sống của
người dân nông thôn. Do đó, phần lớn người dân nông thôn khai thác và sử
dụng trực tiếp nước sông hoặc các thủy vực xung quanh phục vụ cho sinh
hoạt. Một khi nguồn nước mặt bị ô nhiễm thì đây chính là yếu tố làm gia tăng
bệnh tật của người dân tại các tỉnh thuộc LVS hiện nay, đặc biệt là các tỉnh
phía hạ lưu.
Tất cả những điều vừa trình bày ở trên đã cho thấy tác động mạnh và
trực tiếp của nước sông bị ô nhiễm tới việc cấp nước cho người dân tại ba
LVS hiện nay, đặc biệt là người dân nông thôn và người nghèo.
2.4.3 Ảnh hưởng tới môi trường và hệ sinh thái
Sông, suối là nguồn tiếp nhận và vận chuyển các chất ô nhiễm trong
nước mặt. Chất lượng nước mặt có liên quan mật thiết với điều kiện môi
trường và loại hình sử dụng đất trong lĩnh vực sông.
Sự thay đổi cấu trúc lòng sông, thảm thực vật hai bên bờ sông, khả năng
thoát lũ, dòng chảy và môi trường sống của sinh vật cũng gây ảnh hưởng tới
chất lượng nước.
Nước thải chứa hàm lượng chất hữu cơ có thể thuận lợi cho thực vật
phát triển nhưng nếu vượt quá sẽ gây hiện tượng phú dưỡng, làm giảm
lượng ô xy trong nước, các loài thủy sinh bị thiếu ô xy dẫn đến một số loài
bị chết hàng loạt.
49

Sự xuất hiện của các độc chất như dầu mỡ, kim loại nặng, các loại hóa
chất trong nước sẽ tác động đến động thực vật thủy sinh và dần đi vào chuỗi
thức ăn trong tự nhiên.
Ở LVS Cầu, việc dùng hóa chất trong tuyển rửa khoáng sản gây ô nhiễm
các chất độc hại, đã ảnh hưởng tới chất lượng nước sông. Tại khu vực các mỏ,
hàm lượng thiếc và chì trong nước sông cao. Lượng nước thải từ các mỏ than
khá lớn lại chứa nhiều bụi sét và bụi than đã gây ô nhiễm nước mặt và ô
nhiễm đất canh tác quanh khu vực mỏ. Thêm vào đó, các mỏ than, moong
khai thác lộ thiên thường nằm thấp hơn mực nước ngầm nên đã là hạ sâu mực
nước và suy giảm trữ lượng nước ngầm quanh khu vực mỏ.
Trước năm 2005, ở một số đoạn sông, đặc biệt là sông Ngũ Huyện Khê,
các chất hữu cơ và nhiều hóa chất độc hại nguy hiểm có trong nước sông đã
khiến nước sông không còn dùng để ăn uống, tắm giặt, thậm chí các loài thủy
sinh vật cũng không thể tồn tại.
2.4.4 Ảnh hưởng tới phát triển kinh tế
Trong lưu vực sông Cầu, vẫn chưa giải quyết được việc cung cấp nước
cho các mục đích sử dụng khác nhau
LVS Cầu có tổng lượng nước hàng năm thuộc loại trung bình khá, nhưng
do dòng chảy phân bố không đều trong năm, nên trong mùa khô đã xảy ra
hiện tượng thiếu nước nghiêm trọng ở một số nơi, nhất là vào khoảng tháng
Giêng và tháng Ba. Theo tính toán sơ bộ, các tháng này thiếu khoảng 36 triệu
m3 để cung cấp cho sản xuất công nghiệp và nông nghiệp ở Thái Nguyên, Bắc
Ninh, Bắc Giang.
Đập Thác Huống được xây dựng ở Thái Nguyên và phần lớn cung
cấp nước cho Bắc Giang sử dụng cho tưới tiêu. Để đảm bảo việc tưới tiêu
theo công suất thiết kế của đập, Bắc Giang phải sử dụng nước rất tiết
kiệm để tránh “mua nước” (với giá 14 đồng/m 3). Như vậy, nhu cầu nước
50

của Bắc Giang vẫn còn thiếu , đồng thời chất lượng nước sông Công
không đạt chất lượng.
Phía hạ lưu của lưu vực, lượng nước cung cấp cho nông nghiệp thiếu.
Bắc Giang có 15 trạm bơm lấy nước từ sông Cầu phục vụ cho hoạt động sản
xuất nông nghiệp là cho mực nước sông hạ thấp, gây khó khăn cho các trạm
bơm tại Bắc Ninh cũng lấy nước ở hạ lưu.
Hồ Núi Cốc là nguồn cung cấp nước cho sản xuất công nghiệp, nông
nghiệp. Công suất thiết kế cấp nước cho tưới tiêu 12.000 ha đất canh tác.
Nhưng hiện nay chỉ cung cấp cho 9.800 ha đất nông nghiệp vùng hạ lưu.
Trong khi đó, hồ còn được khai thác phục vụ du lịch. Mực nước hồ Núi Cốc
luôn duy trì ở mức cao (+42m) vào mùa khô để phục vụ du lịch.
Ô nhiễm nguồn nước làm gia tăng những ảnh hưởng tiêu cực đối với
phát triển kinh tế trong LVS Cầu
Nhiều lưu vực sông hiện đang thiếu nước vào mùa khô. Thêm vào đó, việc
khai thác quá mức và ô nhiễm nguồn nước đã làm cho nhiều khu vực và nhiều
lĩnh vực bị thiếu nước. Điều này ảnh hưởng xấu tới tốc độ phát triển kinh tế.
Sự suy giảm chất lượng nước sông Ngũ Huyện Khê là một ví dụ rõ nét
về ảnh hưởng tiêu cực của ô nhiễm nguồn nước đối với sự phát triển kinh tế
trên LVS Cầu. Trước đây, sông Ngũ Huyện Khê là một dòng sông đẹp, là
nguồn cung cấp nước sinh hoạt và sản xuất cho các làng ven sông. Hiện nay,
nước sông này đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, không thể sử dụng cho các mục
đích cấp nước.
2.5. Công tác Quản lý chất lượng nước tại LVS Cầu
2.5.1 Thể chế, chính sách
Thể chế, chính sách quản lý lưu vực sông Cầu là nền tảng cho các hoạt
động về BVMT (trong đó có tài nguyên nước) còn thiếu và còn yếu so với đòi
hỏi của điều kiện thực tế.
51

Một số văn bản pháp lý liên quan đến quản lý BVMT lưu vực sông nói
chung đã ra đời song vẫn chưa có hiệu quả cao. Một trong những nguyên
nhân là do việc xây dựng thể chế, chính sách quản lý lưu vực sông Cầu chưa
dựa vào các nguyên tắc cơ bản như: Chỉ đạo thống nhất, quản lý chung của
nhà nước về bảo vệ tài nguyên môi trường, phù hợp với địa phương, cso sự
tham gia của cộng đồng.
2.5.2 Tổ chức quản lý
Tổ chức quản lý cấp độ lưu vực và địa phương
Chủ tịch UBND 6 tỉnh thuộc LVS Cầu đã nhóm họp nhiều lần, đã ký
Thỏa ước về hợp tác bảo vệ và khai thác bền vững LVS Cầu, phấn đấu đến
năm 2010, môi trường sinh thái, cảnh quan sông Cầu và lưu vực đảm bảo đầy
đủ các yếu tố về kinh tế, văn hóa và môi trường. Theo thỏa thuận của 6 tỉnh
trong lưu vực, Ban chỉ đạo lâm thời LVS Cầu đã được thành lập để điều phối
các hoạt động. Các tỉnh trong lưu vực đã phối hợp xây dựng Đề án bảo vệ môi
trường lưu vực và đến năm2006, Đề án Tổng thể bảo vệ và phát triển vền
vững môi trường sinh thái, cảnh quan LVS Cầu đã được Thủ tướng chính phủ
phê duyệt theo quyết định số 174/2006/QĐ-TTg. Đây là quyết định quan
trọng nhằm từng bước xử lý ô nhiễm, cải thiện và nâng cao chất lượng môi
trường nước của dòng sông này, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế xã hội tới
năm 2020.
Tuy nhiên, trên thực tế, các tổ chức/ ủy ban đã được thành lập này hoặc
đến nay không còn hoạt động hoặc hoạt động chưa thực sự hiệu quả.
Ở các địa phương, từ năm 2003 (sau khi thành lập Bộ TN & MT), các cơ
quan quản lý tài nguyên và môi trường đã được thành lập. Các Sở TN & MT
đều có phòng quản lý tài nguyên và môi trường. Một số tỉnh cũng đã thành
lập các trung tâm quan trắc.
52

Tuy nhiên, sự phối hợp giữa các cơ quan Bộ, ngành và địa phương để
giải quyết các vấn đề về lưu vực sông còn yếu. Giữa các địa phương trong
cùng lưu vực chưa tìm được tiếng nói chung, chưa thống nhất và hợp tác
chặt chẽ trong công tác quản lý môi trường lưu vực. Quan niệm về trách
nhiệm của địa phương, các ngành về bảo vệ môi trường LVS là chưa dầy
đủ. Nhiều địa phương quan niệm không đúng về mục đích bảo vệ môi
trường LVS, về vai trò và trách nhiệm của địa phương trong tổ chức bảo vệ
môi trường lưu vực sông.
Thực hiện quy hoạch lưu vực sông
+ Quy hoạch của các ngành khai thác sử dụng nước
Trong các quy hoạch cảu ngành khai thác, sử dụng nước, quy hoạch thủy
lợi và quy hoạch thủy điện là hai ngành có tác động lớn và trực tiếp làm thay
đổi nguồn nước. Các hồ đập, công trình thủy lợi, thủy điện đã điều tiết lại
dòng nước. Cho đến nay, đã có khá nhiều quy hoạch thủy lợi và thủy điện trên
lưu vực sông, đó là: Quy hoạch thủy lợi lưu vực sông Cầu
+ Quản lý quy hoạch và quản lý lưu vực sông
Cho đến nay, ở nước ta chưa thực sự có các tổ chức hay cơ quan quản
lý lưu vực sông, nhưng đã có hình thức của cơ quan quản lý quy hoạch lưu
vực sông
Ngày 09/04/2001, Bộ trưởng Bộ NN & PTNT đã ký các Quyết định số
38 và 39/2001/QĐ/BNN-TCCB về thành lập các Ban quản lý quy hoạch các
lưu vực sông Đông Nai, Hồng – Thái Bình. Đây là các cơ quan sự nghiệp trực
thuộc Bộ NN & PTNT. Về thực chất, đây chưa phải là các tổ chức quản lý lưu
vực sông mà chỉ là “Quản lý quy hoạch” với thành phàn chủ yếu là đại diện
các Sở NN & PTNT của các tỉnh thuộc lưu vực sông. Trong thời gian qua, do
nhiều nguyên nhân về cơ cấu tổ chức và tính đại diện nên hoạt động của các
Ban quản lý quy hoạch đó cũng chưa thực sự hiệu quả.
53

Ngày 28/07/2006, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 174/2006/QĐ-


TTg phê duyệt Đề án Tổng thể bảo vệ môi trường sinh thái cảnh quan lưu vực
sông Cầu.Trong đó, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ TN & MT chuẩn bị và
kiến nghị với Thủ tướng việc thành lập Ủy ban Bảo vệ môi trường LVS Cầu với
các thành viên là UBND các tỉnh trong lưu vực và các đại diện có thẩm quyền
của các Bộ, ngành liên quan đê phối hợp tổ chức thực hiện Đề án.
Đội ngũ cán bộ
Tình hình đội ngũ cán bộ hiện nay
Đội ngũ cán bộ hoạt động trong lưu vực bảo vệ môi trường LVS bao
gồm: cán bộ quản lý (quản lý môi trường LVS, kiểm soát ô nhiễm LVS, quản
lý tài nguyên nước mặt, thanh tra môi trường) và cán bộ quan trắc môi trường
(nước mặt lục địa, nước ven bờ).
Lực lượng cán bộ đang rất thiếu hụt về số lượng
Bộ máy quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi
trường LVS nói riêng tuy đã được tăng cường một bước, nhưng còn thiếu về
số lượng (đặc biệt ở cấp địa phương) và hạn chế về năng lực. Theo tính toán
sơ bộ, trong tổng số khoảng 1.200 cán bộ quản lý môi trường ở Việt Nam thì
chỉ có gần 150 cán bộ quản lý môi trường LVS. Chỉ số năng lực ước tính theo
số lượng nhân sự cho thấy các chỉ số năng lực về bảo vệ môi trường LVS của
Việt Nam rất thấp, chỉ đạt khoảng 1,8 cán bộ/ 1 triệu dân.
Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý môi trường nói chung và quản lý
môi trường lưu vực sông nói riêng giữa các tỉnh cũng không đồng đều.
Đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế về năng lực
Các cán bộ hiện tại đang làm việc trong lĩnh vực bảo vệ môi trường sông
phần lớn đều không được đào tạo chuyên ngành về môi trường và tài nguyên
nước, lại phải kiêm nhiệm nhiều lĩnh vực nên kiến thức về bảo vệ môi trường
lưu vực sông thường không sâu.
54

Những kỹ năng truyền thống cũng như trình độ hiện tại của đội ngũ cán
bộ hiện nay đã bắt đầu bộc lộ việc không phù hợp với điều kiện mới, đặc biệt
trong lĩnh vực đa ngành và tổng hợp như bảo vệ môi trường lưu vực sông.
Hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu
Hiện tại, chưa có hệ thống thông tin môi trường lưu vực sông cả ở mức
quốc gia cũng như ở mức lưu vực, cũng như chưa có chuẩn thống nhất cho hệ
thống thông tin và cơ chế cập nhật thông tin môi trường các LVS trong cả nước.
Trong năm 2006, Cục bảo vệ môi trường phối hợp với các tỉnh trong lưu
vực tiến hành xây dựng và cập nhật thông tin cho trang thông tin điển tử về
môi trường Lưu vực sông Cầu.
Một số địa phương trên các LVS đã tiến hành xây dựng cơ sở dữ liệu
môi trường tại địa phương mình. Tuy nhiên, chưa có các cơ sở dữ liệu ở cấp
lưu vực hoặc tiểu lưu vực.
Nghị định số 162/2003/NG-CP ngày 19/12/2003 của Chính phủ về việc
Ban hành Quy chế thu thập, quản lý, khai thác, sử dụng dữ liệu, thông tin về
tài nguyên nước, đây là văn bản cung cấp cơ sở pháp lý cho việc phát triển
các mô hình quản lý dữ liệu về tài nguyên nước cùng với việc xác định rõ vai
trò, trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong việc quản lý số liệu. Tuy
nhiên, đến nay Quy chế vẫn chưa được thực thi một cách hiệu quả.
Sự tham gia của cộng đồng
Thực tế những năm qua cho thấy, thành công của các hoạt động bảo vệ
môi trường phụ thuộc rất nhiều vào sự tham gia của cộng đồng.
Tuy nhiên, sự tham gia của cộng đồng trong công tác bảo vệ môi trường
lưu vực sông hiện vẫn còn nhiều hạn chế:
- Tiềm năng của cộng đồng vẫn chưa được phát huy đầy đủ, sự tham
gia của cộng đồng vào các quá trình ra quyết định, hoạch định chính sách và
các hoạt động quản lý môi trường vẫn còn nhiều hạn chế.
55

- Trách nhiệm bảo vệ môi trường lưu vực sông và tuân thủ pháp luật
của các doanh nghiệp cũng như cộng đồng chưa cao.
Nhận thức của cộng đồng dân cư với công tác bảo vệ môi trường lưu vực
sông còn là vấn đề cần được quan tâm. Vấn đề này sẽ còn tồn tại cho tới khi
chuyển biến được tư tưởng cố hữu vốn không quen coi việc bảo vệ môi
trường là trách nhiệm của bản thân.
2.5.3 Hoạt động nghiên cứu, công tác quan trắc và ĐTM
Hoạt động nghiên cứu
Nghiên cứu về lưu vực sông ở Việt Nam đã được thực hiện khá sớm, đặc
biệt những nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh vực: khí tượng - thuỷ văn, địa
hình – địa mạo….tạo nền tảng cho các định hướng phát triển kinh tế xã hội
trong lưu vực sông. Các nghiên cứu về diễn biến và chất lượng môi trường
nước trong lưu vực sông gần đây được phát triển mạnh hơn.
Các công trình nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp thiết thực, có
những đóng góp tích cực trong công tác bảo vệ môi trường lưu vực sông và
cung cấp các số liệu quý giá cho các nghiên cứu tiếp theo.
Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu vẫn còn một số hạn chế như: phân tán,
không tập trung, mới dừng ở mức khái quát, chưa nghiên cứu chuyên sâu về
chất lượng nước, phương pháp luận trong quy hoạch, công cụ kinh tế, công cụ
thông tin, quản lý xung đột trong lưu vực sông. Một số nghiên cứu không có
tính thực tế, hiệu quả ứng dụng không cao.
Quan trắc
Trong những năm gần đây, nhiều chương trình quan trắc chất lượng
nước mặt phục vụ cho các mục tiêu khác nhau đã được thực hiện, việc quan
trắc chất lượng nước mặt ngày càng được tổ chức một cách hệ thống hơn, thu
được nhiều số liệu quan trọng theo không gian và thời gian đối với từng lưu
vực. Các địa phương trong lưu vực mặc dù còn hạn chế về kinh phí cũng như
56

kinh nghiệm trong hoạt động quan trắc nhưng đã rấtt nỗ lực đầu tư mua sắm
các thiết bị, kể cả xây dựng các phòng thí nghiệm quan trắc và phân tích chất
lượng nước. Tuy nhiên, những việc làm được như vừa kể trên chưa tương
xứng với nhu cầu cần thiết.
Hoạt động quan trắc môi trường nước các khu vực sông ở cấp trung
ương hiện nay chủ yếu do một số đơn vị trong Bộ TN & MT và một số
bộ/ngành khác tham gia. Trong đó quan trọng nhất là Hệ thống quan trắc môi
trường Quốc gia do Cục Bảo vệ môi trường quản lý.
Từ năm 2005, Chương trình quan trắc tổng thể lưu vực sông Cầu đã
được Cục bảo vệ môi trường phê duyệt và hoạt động quan trắc trong các lưu
vực sông này cũng đã bắt đầu được tiến hành. Tuy nhiên,do giới hạn về kinh
phí, hoạt động quan trắc chưa được tiến hành với đầy đủ số điểm quan trắc và
tấn suất như thiết kế chương trình
Bộ TN & MT còn có mạng lưới quan trắc thủy văn và môi trường nước
thuộc Trung tâm Khí tượng thủy văn Quốc gia; mạng lưới quan trắc tài
nguyên nước (bao gồm cả nước mặt và nước dưới đất) do Cục Quản lý Tài
nguyên nước quản lý.
Bên cạnh đó, các Bộ ngành khác cũng tiến hành quan trắc nước mặt lưu
vực sông, phục vụ các yêu cầu của Bộ, ngành mình. Chẳng hạn Bộ Thủy sản
quan trắc chất lượng nước nuôi trồng thủy sản, Bộ Y tế giám sát chất lượng
nước đảm bảo điều kiện vệ sinh, Bộ NN & PTNT quan trắc môi trường nước
phục vụ nông nghiệp.
Ngoài các trạm quan trắc môi trường quốc gia, nhiều tỉnh/thành trong
các lưu vực sông cũng đã thành lập Trung tâm Quan trắc nhằm theo dõi, giám
sát diễn biến chất lượng môi trường nói chung, phục vụ công tác quản lý bảo
vệ môi trường của địa phương (như: Thái Nguyên, Bắc Ninh, và Vĩnh Phúc).
Hoạt động quan trắc môi trường nước lưu vực sông của các địa phương cũng
57

ngày càng được tăng cường, số điểm quan trắc, tần suất và thông số quan trắc
cũng ngày càng tăng.
Hoạt động quan trắc chất lượng nước mặt lưu vực sông còn nhiều hạn
chế như:
- Kinh phí đầu tư và nguồn nhân lực cán bộ cho công tác quan trắc môi
trường nước còn hạn chế do đó tần suất quan trắc còn thưa, thông số quan trắc
còn hạn chế và số lượng điểm quan trắc còn ít so với yêu cầu thực tế.
- Chưa có các hoạt động quan trắc chất lượng nước liên tục. Do đó khó
phát hiện và cảnh báo kịp thời các vấn đề ô nhiễm khi mới xuất hiện hoặc
đang tiềm tàng.
- Một số địa phương đã trang bị được các thiết bị quan trắc và phân tích
môi trường, tuy nhiên chưa chú trọng đến phát triển dài hạn cũng như vấn đề
đào tạo nguồn nhân lực.
- Hoạt động bảo đảm chất lượng và kiểm soát chất lượng (QA/QC)
trong hoạt động quan trắc môi trường còn yếu làm ảnh hưởng đến chất lượng
và tính thống nhất của số liệu.
Tình hình thực hiện công tác ĐTM
Trong nhiều năm qua, công tác ĐTM ở Việt Nam đã được triển khai
một cách có hệ thống từ Trung ương tới địa phương, đều khắp mọi ngành
trong cả nước và ngày càng mạnh mẽ. Tổng số báo cáo ĐTM và bản đăng ký
đạt tiêu chuẩn môi trường được phê duyệt và thẩm định trong hơn 10 năm qua
ngày càng tăng ở cả cấp Trung ương và địa phương. Tại các tỉnh, thành phố
thuộc LVS Cầu, tỷ lệ báo cáo ĐTM và bản đăng ký đạt tiêu chuẩn môi
trường được thẩm định và phê duyệt trên tổng số các dự án và cơ sở thuộc
diện phải lập báo cáo ĐTM còn thấp; số báo cáo ĐTM và bản đăng ký đạt
tiêu chuẩn môi trường được phê duyệt giữa các tỉnh/thành trong LVS cũng
không đồng đều; chưa có báo cáo ĐTM tổng hợp cho các LVS liên tỉnh nào
58

được xây dựng và phê duyệt; hoạt động sau thẩm định báo cáo ĐTM còn rất
yếu; nhiều dự án được phê duyệt nhưng sau đó không xây dựng các công trình
xử lý nước thải hoặc có xây dựng nhưng không vận hành đúng quy cách thiết
kế…Song cần phải nói rằng nỗ lực thực hiện công tác ĐTM của các
tỉnh/thành phố trong các LVS thời gian qua là rất đáng khích lệ, góp phần
không nhỏ để bảo vệ môi trường các LVS.
2.5.4 Công cụ kinh tế
Đầu tư tài chính
Nguồn chi cho quản lý cà bảo vệ môi trường lưu vực sông từ ngân sách
nhà nước không được phân bổ thành mục chi riêng. Khoảng chi này chủ yếu
nằm trong ngân sách của Bộ TNMT, Bộ NNPTNT (đối với cấp trung ương)
và Sở TN & MT, Sở NN &PTNT (đối với cấp địa phương).
Tổng kinh phí đầu tư cho bảo vệ môi trường nói chung không ngừng
tăng (thực hiện các chủ trương và chỉ đạo của Nghị quyết số 41-NQ/TW của
Bộ Chính trị, Bộ TNMT đã, đang phối hợp Bộ Tài chính, Bộ KHĐT lập đề
án, tổ chức và triển khai chi 1% ngân sách hàng năm cho sự nghiệp môi
trường). Tuy nhiên, cho đến nay đầu tư cho hoạt động bảo vệ môi trường lưu
vực sông còn ít, chưa đáp ứng yêu cầu.
Nguồn vốn: Trong thời gian qua, nguồn vốn cho công tác quản lý và
BVMT lưu vực sông đã từng bước được đa dạng hóa: ngân sách nhà nước, tài
trợ quốc tế, đầu tư từ cộng đồng và khu vực tư nhân. Mặc dù vậy, hiện nay,
đầu tư cho bảo vệ môi trường lưu vực sông chủ yếu từ ngân sách nhà nước,
còn các nguồn khác chiếm tỷ lệ rất nhỏ.
Hiệu quả đầu tư: Tác dụng và hiệu quả sử dụng vốn còn hạn chế;
Chưa xác định được các ưu tiên để đầu tư tập trung có trọng điểm, đầu tư
còn trùng lặp.
59

Áp dụng các công cụ kinh tế


Công cụ kinh tế như phí, thuế, ký quỹ…đóng vai trò quan trọng trong
quản lý môi trường LVS. Công cụ kinh tế sử dụng lợi ích vật chất và sức mạnh
của thì trường khiến cho các tổ chức và cá nhân lựa chọn cách ứng xử hiệu quả
trong khai thác, sử dụng và bảo tồn thiên nhiên, mà cụ thể là trong thủy nông,
cấp thoát nước đô thị và khắc phục ô nhiễm nguồn nước, bao gồm: định giá
dich vụ nước, tự chủ tài chính của doanh nghiệp, thuế tài nguyên nước và các
thuế khác, chính sách huy động vốn đầu tư phát triển, thu phí bảo vệ môi
trường đối với các hộ dân, cơ sở sản xuất kinh doanh….trên lưu vực sông.
+ Tình hình hoạt động của Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam
Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam là tổ chức tài chính nhà nước thực
hiện chức năng tài trợ chính trong lĩnh vực Bảo vệ môi trường trên phạm vi cả
nước mà không vì mục đích lợi nhuận. Trong giai đoạn từ năm 2004 đến nay,
qua thực tế xét duyệt dựa trên quy chế cho vay và tiêu chí lựa chọn của Quỹ,
đã có 13 dự án được quyết định cho vay vốn với lãi xuất ưu đãi trong đó có 6
dự án về xây dựng các trạm xử lý nước thải ở các khu công nghiệp và nhà
máy, chiếm hơn 41% số dự án được quyết định cho vay vốn. Trong đó có 2
dự án xấy dựng trạm xử lý nước thải của các công ty hoạt động trên địa bàn
LVS Cầu: Công ty Dệt Vĩnh Phú (Vĩnh Phúc) và công ty Cổ phần giấy xuất
khẩu Thái Nguyên (Thái Nguyên). Mặc dù số dự án lập hồ sơ cho vay vốn là
số dự án được chấp thuận cho vay vốn tại các tỉnh, thành phố thuộc LVS là rất
ít song đây là dấu hiệu rất đáng mừng, tạo đà cho việc phát triển và áp dụng
các công cụ kinh tế khác trong bảo vệ môi trường lưu vực sông.
+ Tình hình thực hiện Nghị định số 67/2003/NĐ-CP ngày 13/06/2003 về
phí bảo vệ môi trường đối với nước thải
Tiếp theo việc bắt buộc ký quỹ bồi hoàn môi trường trong khai thác
khoáng sản, chính phủ đã ban hành Nghị định 67/2003/NĐ-CP ngày
60

13/06/2003 về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. Đến nay, theo báo
cáo của các Sở TN & MT thuộc LVS Cầu, tỷ lệ phần trăm số tiền thu được so
với dự kiến tính toán là rất thấp, song điều quan trọng là phần lớn các tỉnh,
thành phố trong lưu vực đều đã thu được phí (trừ Hải Dương, Bắc Kạn).
Tình hình cấp phép xả nước thải ở 3 LVS
Việc xin và cấp phép xả nước thải vào nguồn nước đã được quy định tại
điều 18, Luật Tài nguyên nước. Để quy định cụ thể việc xin và cấp phép xả
nước thải, Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 149/2004/NĐ-CP ngày
27/07/2004 quy định việc cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên
nước, xả nước thải vào nguồn nước. Bộ TN & MT cũng đã ban hành Thông
tư số 02/2005/TT-BTNMT ngày 24/06/2005 hướng dẫn việc thực hiện Nghị
định 149 đó.
Theo báo cáo của các địa phương, nhiều nơi đã thực hiện việc thống kê
các cơ sở xả thải thuộc diện phải xin cấp phép, nhưng cho đến nay trên lưu
vực sông, số lượng giấy phép xả nước thải vào nguồn nước cấp được còn rất
ít so với số lượng các đối tượng phải xin cấp phép. Tính đến cuối tháng 6
năm 2006, mới có khoảng vài chục giấy phép trong tổng số khoảng hàng
trăm các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc diện phải xin cấp phép xả nước
thải cho thấy công tác này mới chỉ được bắt đầu và cần triển khai mạnh mẽ
trong thời gian tới.
61

CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT
LƯU VỰC SÔNG CẦU

3.1 Cơ sở đề xuất các giải pháp


Tại LVS Cầu còn tồn tại một số mặt cần khắc phục:
 Chất lượng nước sông Cầu đang bị ô nhiễm và suy thoái cục bộ: Môi
trường lưu vực sông Cầu nói chung và môi trường nước LVS Cầu nói riêng
đang chịu tác động mạnh mẽ của các hoạt động phát triển kinh tế, đặc biệt của
các trọng điểm như các khu công nghiệp, khu khai thác và chế biến khoáng
sản, các khu đô thị,…
 Cảnh quan, sinh thái lưu vực sông Cầu đang bị suy thoái: Cảnh quan,
sinh thái khu vực bị suy thoái, rừng bị chặt phá, đất canh tác bị thoái hóa,
cảnh quan thiên nhiên bị biến dạng. Nhiều moong khai thác chưa được hoàn
thổ và san lấp trở lại. Lòng sông bị khai thác cát, sỏi bừa bãi gây sạt lở bờ…
 Công trình hạ tầng cơ sở, hệ thống cấp thoát nước khu vực thiếu, không
đồng bộ và đang bị xuống cấp gây ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường lưu
vực, đặc biệt là môi trường nước.
 Hoạt động quản lý LVS Cầu mang tính phức tạp và đa dạng do rộng về
diện tích và đông dân cư: Phạm vi không gian của các lưu vực nói chung và
LVS Cầu nói riêng thường rộng và mang tính liên vùng (về lãnh thổ, địa
hình)…Sông Cầu chảy qua 6 tỉnh phía Bắc (Bắc Kan, Thái Nguyên, Bắc
Giang, Bắc Ninh, Hải Dương và Vĩnh Phúc) với tổng diện tích trên 15.000
km2 trong đó diện tích lưu vực là 6.030 km2. Việc quản lý LVS không đơn
giản do tính phức tạp, tính đa dạng giữa các khu vực, các tỉnh khác nhau như:
Điều kiện tự nhiên, điều kiện phát triển kinh tế, xã hội, sự chênh lệch về nhận
thức BVMT của cộng đồng, năng lực quản lý nhà nước về BVMT không
đồng đều,…
62

 Thiếu thể chế, chính sách quản lý LVS Cầu: Một số văn bản pháp lý
liên quan đến quản lý BVMT lưu vực sông nói chung đã được ra đời song vẫn
chưa có hiệu quả cao. Một trong những nguyên nhân là do việc xây dựng
thể chế, chính sách quản lý LVS Cầu, trong đó có TNN chưa dựa vào các
nguyên tắc cơ bản như: Chỉ đạo thống nhất, quản lý chung của nhà nước về
bảo vệ tài nguyên và môi trường, phù hợp với địa phương, có sự tham gia
của cộng đồng.
 Thiếu sự thống nhất và phân công trách nhiệm giữa các cơ quan quản
lý Nhà nước về BVMT sông Cầu, trong đó có MT nước. Nhiều bộ, ngành
hiện đang cùng tham gia bảo vệ môi trường LVS Cầu song trách nhiệm vẫn
còn chồng chéo gây hạn chế hiệu quả quản lý ở các cấp khác nhau.
 Trách nhiệm và quyền hạn của Ban Quản lý tổng hợp môi trường LVS
Cầu chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tế: Ban quản lý tổng hợp môi
trường lưu vực sông Cầu đã được hình thành với một số quy định ban đầu
về trách nhiệm và quyền hạn. Tuy nhiên nhiều nội dung có liên quan chưa
được thực thi có hiệu quả do nhiều yếu tố tác động (thiếu các quy định cụ
thể về quyền hạn và trách nhiệm, thiếu nguồn kinh phí hoạt động, năng lực
quản lý chưa được chuẩn bị chu đáo, hạ tầng cơ sở phục vụ cho hoạt động
quản lý còn thiếu).
 Phương pháp tiếp cận hành động nhằm BVMT lưu vực sông Cầu là
quản lý tổng hợp tài nguyên nước chưa được xác định rõ ràng: Mục tiêu của
hành động là kết hợp phát triển và quản lý tài nguyên nước, đất đai và các tài
nguyên có liên quan nhằm phát huy tối đa những lợi ích kinh tế và xã hội mà
không gây tổn hại tới tính bền vững của các hệ sinh thái. Thực tế cho thấy,
phương pháp tiếp cận hành động QL THTNN chưa được xác định rõ ràng.
Đây chính là một trong những vấn đề bức xúc môi trường chính cần quan tâm
và giải quyết.
63

 Nhận thức sai lệch về nguồn tài nguyên nước: Nhận thức sai lệch về
nguồn nước đang là vấn đề tồn tại ở các LVS đặc biệt là đối với LVS Cầu.
Khi chưa coi nước là loại hàng hóa kinh tế và chưa có được nhận thức đúng
về giá trị của tài nguyên nước thì việc sử dụng nước còn bừa bãi, thiếu trách
nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ nguồn tài nguyên, gây ra sự thiếu công bằng xã hội.
3.2 Các giải pháp
3.2.1 Nhóm giải pháp kỹ thuật
 Xử lý ngay các nguồn gây ô nhiễm nước lưu vực sông: tập trung thực
hiện ngay xử lý nước thải công nghiệp, làng nghề, sinh hoạt.
 Đẩy mạnh hoạt động, nghiên cứu, quan trắc và công tác ĐTM:
- Thiết lập mạng lưới quan trắc chất lượng nước hệ thống lưu vực sông
Cầu để cập nhật thường xuyên và có hệ thống diễn biến chất lượng môi
trường nước, kịp thời phát hiện các chiều hướng diễn biến xấu, xác định
nguyên nhân, đề xuất các biện pháp ngăn chặn và khắc phục kịp thời.
- Thực hiện công tác ĐTM định kỳ, thường xuyên để theo dõi chất lượng
nước cũng như mức độ tác động của các chất ô nhiễm tới môi trường, từ đó
có những biện pháp khắc phục và cải thiện.
- Lập đề án xây dựng các trạm quan trắc tự động chất lượng nước: 3 trạm
trên lưu vực sông Cầu.(tương ứng với thượng lưu, trung lưu và hạ lưu của lưu
vực sông).
- Thường xuyên thông báo cho cộng đồng về tình trạng ô nhiễm môi
trường nước trong lưu vực.
- Thực hiện công khai hóa các thông tin về các cơ sở gây ô nhiễm môi
trường, tạo áp lực xã hội mạnh mẽ đối với các cơ sở này.
 Tiến hành nghiên cứu các phương án bổ xung nguồn nước cho lưu vực
sông Cầu. Nghiên cứu xây dựng các hồ chứa nước vừa và nhỏ ở thượng lưu
để bổ xung nước cho hạ lưu và mùa khô.
64

 Xem xét lại quy định vận hành các hồ, cống, trạm bơm để tăng tối đa
nguồn nước trong mùa khô nhằm pha loãng nồng độ các chất ô nhiễm.
 Tiến hành các dự án quy hoạch lưu vực sông một cách hệ thống cụ thể,
chi tiết sao cho hài hòa và phù hợp với đặc thù tự nhiên và đặc điểm hoạt
động sản xuất kinh tế của từng lưu vực (thượng lưu, trung lưu, hạ lưu) và từng
tỉnh trong lưu vực sông. Để từu đó tạo được hiệu quả sử dụng cũng như có thể
dễ dàng cải thiện chất lượng môi trường nước trong lưu vực sông trong mối
quan hệ tổng hòa với các tài nguyên khác.
3.2.2 Nhóm giải pháp kinh tế
 Áp dụng nguyên tắc người gây thiệt hại và người hưởng lợi phải trả tiền.
 Áp dụng các công cụ kinh tế (thuế, phí môi trường, ký qũy,….) đồng
thời tăng các mức xử phạt đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như
sinh hoạt hàng ngày của người dân 6 tỉnh trong lưu vực sông để khuyến khích
các doanh nghiệp và cá nhân có hành động bảo vệ môi trường nói chung và
nguồn nước nói riêng và hạn chế các tác động không có lợi tới môi trường.
 Phạt nặng với các doanh nghiệp cố tình gây ô nhiễm, không tuân thủ
quy định của nhà nước.
 Hạn chế phát triển một số ngành nghề trong các khu vực đã bị ô nhiễm
nghiêm trọng.
 Tăng nguồn tài chính cho công tác bảo vệ môi trường lưu vực sông,
trước hết là từ nguồn 1% ngân sách hàng năm cho sự nghiệp bảo vệ môi
trường; hoàn chỉnh cơ chế đầu tư, đa dạng hóa nguồn tài chính.
3.2.3 Nhóm giải pháp cơ chế, chính sách quản lý
 Hình thành và xây dựng các cơ quan/ đơn vị chuyên trách bảo vệ môi
trường ở các lưu vực sông ở cả cấp trung ương và địa phương.
 Ủy ban bảo vệ môi trường lưu vực sông Cầu được quyết định thành lập
từ năm 2006 nhưng tới năm 2008 ủy ban mới thực sự ra mắt, trước tiên cần
65

nhanh chóng hoàn chỉnh mô hình tổ chức bảo vệ môi trường lưu vực phù hợp
với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng lưu vực. Cần nhanh chóng
trình chính phủ nội dung, kế hoạch tổ chức thực hiện quản lý lưu vực sông
Cầu trong đó có kế hoạch quản lý chất lượng môi trường nước.
 Làm rõ sự phân công giữa các bộ/ngành và tăng cường phân cấp cho
các địa phương trong bảo vệ môi trường chất lượng nước ở lưu vực; Nâng cao
tính khả thi, tính hiệu quả của các Ban quản lý Quy hoạch lưu vực sông theo
luật tài nguyên nước; Thống nhất các nội dung quản lý tài nguyên nước từ
trung ương tới địa phương.
 Kiểm soát chặt chẽ các khu vực bị ô nhiễm nghiêm trọng trong lưu vực.
Cụ thể đối với sông Cầu là các khu vực sông, đoạn sông sau:
+ Hai đoạn trên sông Cầu: đoạn chảy qua thành phố Thái Nguyên( sau
nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ đến cầu Trà Vườn) và đoạn từ cầu Vạn Phúc
đến cầu Đáp Cầu.
+ Đoạn cuối suối Phượng Hoàng trong thành phố Thái Nguyên.
+ Đoạn sông Công chảy qua thị xã Sông Công.
+ Đoạn cuối sông Cà Lồ.
+ Sông Ngũ Huyện Khê.
 Ban hành các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, cơ sở sản
xuất công nghiệp cũng như làng nghề và nông nghiệp trên địa phận lưu vực
sông sử dụng các công nghệ sản xuất sạch hoặc thực hiện công tác xử lý chất
thải trước khi thải ra môi trường. Nếu doanh nghiệp cam kết thực hiện công
nghệ sản xuất sách hoặc có các biện pháp xử lý chất thải thì nhà nước cũng
như tỉnh sẽ có những hỗ trợ như: giảm thuế đầu vào, hỗ trợ thủ tục hành
chính; tìm và giải quyết đầu ra; hỗ trợ giống , vốn, kĩ thuật canh tác….
 Ban hành các chính sách tạo điều kiện về mặt pháp lý cũng như các thủ
tục hành chính cho các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất nước ngoài sử dụng
66

công nghệ sạch, thân thiện với môi trường (trong đó có môi trường nước)
được phép hoạt động tại địa bàn trong LVS.
 Xác định việc phân phối TNN giữa các ngành khác nhau trên cùng một
lưu vực cũng như xác định thứ tự ưu tiên sử dụng nước trong những thời điểm
nguy cấp, điều phối việc thực hiện các dự án dẫn chuyển nước giữa các địa
phương trong lưu vực.
 Xây dựng ngân hàng dữ liệu chất lượng nước của LVS Cầu: Để có thể
quản lý số liệu chất lượng nước có hiệu quả và có thể chuyển hóa số liệu
thành thông tin phục vụ cho các đối tượng sử dụng nước và công tác quản lý
chất lượng nước tại LVS Cầu. Ngân hàng dữ liệu chất lượng nước phải được
xây dựng sao cho không chỉ là nơi thuần túy lưu trữ dữ liệu mà nó chính là
một mô hình có chức năng tập hợp, cập nhật và xử lý số liệu nhằm đưa ra các
thông tin thỏa mãn các yêu cầu đa dạng của người sử dụng.
Bên cạnh các biện pháp kĩ thuật, kinh tế, chính sách trực tiếp áp dụng
cho môi trường nước cần sử dụng đồng thời các biện pháp tương tự để bảo
vệ và khắc phục những hạn chế còn tồn tại đối với các dạng môi trường
khác như môi trường không khí, đất, rừng,… Đảm bảo môi trường nước
được bảo vệ và duy trì trong môi trường bền vững.
3.2.4 Giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của mọi người
Quản lý tổng hợp tài nguyên nứơc chỉ có thể thành công nếu tất cả các
bên có liên quan cùng nhau tham gia mặc dù họ có thể có những quyền lợi
mâu thuẫn nhau. Đây là một thách thức vì những đối tượng nghèo và yếu thế
thường không nhận thức được quyền lợi của mình cũng như khả năng họ có
thể hành động, và có ít quyền lực kinh tế cũng như không tiếp cận với quá
trình ra các quyết định thông qua các kênh dân chủ.
Nâng cao nhận thức không chỉ riêng kiến thức về nguồn tài nguyên nước
mà gồm cả kiến thức về tài nguyên đất, không khí,… Nhận thức được nâng
67

cao sẽ là một trong những phương tiện quan trọng nhất để khuyến khích và
thúc đẩy sự tham gia của các bên liêm quan trong khi khai thác sử dụng và
bảo vệ tài nguyên nước.
 Đối với người dân cần tăng cường tuyên truyền thông qua các kênh
thông tin như truyền hình, rađio, báo chí. Đưa giáo dục về nhận thức với môi
trường vào nhà trường từ ngay những cấp học nhỏ.
 Tổ chức gặp gỡ và trao đổi trực tiếp giữa lãnh đạo ngành môi trường
từng khu vực đối với lãnh đạo các sở, doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn và
người dân bản địa để tuyên truyền và cũng là cơ hội để tìm ra tiếng nói chung,
giải quyết các khúc mắc của người dân.
 Đối với nhân dân vùng sâu, vùng xa cần tổ chức đội ngũ tuyên truyền
viên tới từng nhà từng xã để tuyên truyền.
 Ngay cả đối với những người trong ngành môi trường cũng cần phải
quán triệt tư tưởng, nhận thức về môi trường nói chung và môi trường nước
nói riêng thông qua các hội nghị, hội thảo trong ngành.
 Đưa cán bộ trong ngành đi học tập tại các tỉnh thành khác hoặc ra nước
ngoài để trao đổi, giao lưu và học hỏi nhằm nâng cao năng lực cũng như nhận
thức về vấn đề môi trường (trong đó có môi trường nước).
68

KẾT LUẬN

LVS đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, xã
hội của đơn vị địa lý, kinh tế mà nó đi qua. Nó là nến tảng cho sự phát triển
bền vững của những vùng mà nó đi qua, cũng như sự phát triển của cả quốc
gia. Muốn có một nền tảng bền vững cho sự phát triển đó, LVS cần được
quản lý bằng phương pháp quản lý tổng hợp. Tổng hợp giữa tài nguyên nước
và tài nguyên đất, giữa nước và không khí, giữa nước và rừng,…Tạo nên sự
bền vững trong quá trình phát triển của môi trường – một mắt xích không thể
thiếu trong sự phát triển bền vững tổng thể(kinh tế - xã hội – môi trường).
LVS Cầu là một LVS lớn của khu vực Bắc Bộ. Tài nguyên nước tại LVS
Cầu là một thành phần của môi trường LVS Cầu. Quản lý nguồn nước mặt tại
LVS là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác quản lý cả hệ thống LVS.
Quản lý tổng hợp nước mặt tại LVS Cầu một cách hiệu quả sẽ tạo tiền đề cho
sự phát triển kinh tế cũng như xã hội của 6 tỉnh và thành phố nằm dọc theo
LVS. Tuy nhiên thực trạng quản lý tài nguyên nước mặt tại LVS Cầu lại chưa
thực sự hiệu quả. Cơ chế, chính sách quản lý cũng như các công cụ kinh tế, kỹ
thuật và đặc biệt là nhận thức của người dân trong LVS chưa thực sự đầy đủ
và phù hợp. Từ hiện trạng đó dẫn tới công tác quản lý tài nguyên nước mặt
chưa đạt được như những mục tiêu được đặt ra.
Để có thể khắc phục, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường LVS
nói chung và môi trường nước LVS nói riêng, cần phải thực hiện công tác
quản lý nguồn nước mặt một cách tổng hợp. Quản lý tổng hợp giữa các dạng
tài nguyên, tổng hợp giữa các biện pháp, công cụ quản lý.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thái Lai, Luận án TS Kĩ thuật, Nghiên cứu đánh giá ô nhiễm nước
và phương pháp bảo vệ, quản lý chất lượng nước hệ thống thủy lợi Bắc
Hưng Hải, Đại học Thủy Lợi, 1999.

2. GS.TSKH Đặng Như Toàn (chủ biên), Giáo trình Quản lý môi trường,
Hà Nội 2001.

3. PGS.TS Nguyễn Văn Thắng, ThS Phạm Thị Ngọc Lan, Giáo trình Quản lý tổng
hợp lưu vực sông, Đại học Thủy Lợi, Nhà xuất bản Nông Nghiệp, 2007.

4. PGS.TS Trần Thanh Xuân, Đặc điểm thủy văn và nguồn nước sông Việt Nam,
Nhà xuất bản Nông Nghiệp, 2007.

5. Báo cáo Môi trường Quốc gia năm 2006: “Chất lượng nước 3 lưu vực sông Cầu -
Nhuệ Đáy - Đông Nai, Bộ TN&MT,2006.
6. Báo cáo kết quả Dự án KHCN cấp nhà nước: “Môi trường lưu vực sông Cầu”,
Viện địa lý, 2003.

7. Báo cáo kết quả quan trắc Môi trường LVS Cầu năm 2005, Cục Bảo vệ
Môi trường, 2006.

8. Báo cáo hiện trạng Môi trường tỉnh Bắc Kan, Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Bắc Kan, 2005.

9. Báo cáo hiện trạng Môi trường tỉnh Bắc Ninh, Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Bắc Ninh, 2005.

10. Báo cáo hiện trạng Môi trường tỉnh Thái Nguyên, Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Thái Nguyên, 2005.

11. Báo cáo hiện trạng Môi trường tỉnh Hải Dương, Sở tài nguyên và Môi
trường tỉnh Hải Dương, 2005.
12. Báo cáo hiện trạng Môi trường tỉnh Vĩnh Phúc, sở tài nguyên và Môi
trường tỉnh Vĩnh Phúc, 2005.

13. Đề án xây dựng Cơ sở dữ liệu về nguồn tài nguyên nước trên địa bàn
thành phố Hà Nội phục vụ công tác Quản lý, Sở TN&MT, 2005.

14. Niên giám thống kê năm 2004, Nhà xuất bản Tổng cục Thống kê, 2005.

15. Xây dựng cơ sở khoa học và thực tiễn đánh giá dòng chảy môi trường ứng
dụng cho hạ lưu sông Cầu, Viện Khí tượng - Thủy văn - Môi trường, 2006.

You might also like