Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 14

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI

KHOA TRIẾT HỌC & KHOA HỌC XÃ HỘI

TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC- LÊNIN

Tên đề tài:
1. Lượng giá trị của hàng hóa và bản chất và chức năng của tiền
2. Khái niệm và phân tích tính tất yếu khách quan của việc phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Tên sinh viên: Đặng Công Nghĩa

Mã Sinh viên: 18103664

Lớp NH24.04

Giáo viên hướng dẫn: Trần Toàn

1|Trang
MỤC LỤC

Nội dung

I. Lượng giá trị của hàng hóa và các yếu tố ảnh hưởng tới nó

1. Thời gian lao động xã hội cần thiết

2. Những yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa

II. Bản chất và chức năng của tiền


1. Nguồn gốc và bản chất của tiền
2. Chức năng của tiền

III. Sự tất yếu khách quan của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

1. Khái niệm Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

2. Tính tất yếu khách quan của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

2|Trang
NỘI DUNG

I. Lượng giá trị của hàng hóa và các yếu tố ảnh hưởng tới nó
1. Lượng giá trị của hàng hóa

Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi,
mua bán. Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình như: sắt thép, lương thực, thực phẩm… Hoặc ở dạng vô hình
như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, bác sĩ và nghệ sĩ… Hàng hóa có hai
thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.

Muốn hiểu được giá trị của hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Gía trị trao đổi là một quan hệ về số
lượng, là tỷ lệ theo đó một lượng giá trị sử dụng này đổi được với một lượng giá trị sử dụng khác.
Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
Còn giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung, là cơ sở của giá
trị trao đổi. Đồng thời, giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa. Chính vì vậy,

Giá trị của hàng hoá là do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá
đó.Vậy lượng giá trị hàng hoá do lượng lao động tiêu hao để làm ra hàng hoá quyết định. Lượng lao
động tiêu hao ấy được tính theo thời gian lao động.Trong thực tế, có nhiều người cùng sản xuất một loại
hàng hoá, nhưng điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề, năng suất lao động khác nhau do đó thời gian lao
động để sản xuất ra hàng hoá là không giống nhau, tức là hao phí lao động cá biệt khác nhau. Thế nhưng
lượng giá trị của hàng hoá không phải tính bằng thời gian lao động cá biệt, mà tính bằngthời gian lao
động xã hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động xã hội cần thiết để sản
xuất ra một hàng hoá trong những điều kiện sản xuất bình thường cuả xã hội, với một trình độ thành
thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội.Thời gian lao động xã hội cần thiết là
một đại lượng không cốđịnh. Thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá thay đổi thì
lượng giá trị của hàng hoá sẽ thay đổi. Điều đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố, vào năng suất lao động, vào
mức độ giản đơn hay phức tạp của lao động.

*Số lượng giá trị hàng hóa

- Lượng giá trị hàng hóa không đo bằng thời gian lao động cá biệt mà do bằng thời gian lao

động xã hội cần thiết.

- Thời gian lao động xã hội cần thiết: là thời gian cần thiết để sản xuất hàng hoá, với trình

độ thành thạo trung bình, cường độ trung bình, trong những điều kiện bình thường so với hoàn

cảnh XH nhất định.

- Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cá biệt của những

người cung cấp đại bộ phận lượng hàng hóa ấy trên thị trường.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là một đại lượng không cố định, vì trình độ thành thạo trung bình,
cường độ lao động trung bình, điều kiện trang bị kỹ thuật trung bình của xã hội ở mỗi nước khác nhau là
khác nhau và thay đổi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi thời gian lao động xã hội cần thiết

3|Trang
thay đổi (cao hay thấp) thì lượng giá trị của hàng hóa cũng sẽ thay đổi. Như vậy, chỉ có lượng lao động xã
hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa, mới quyết định đại
lượng giá trị của hàng hóa ấy

2. Các yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của hàng hóa

Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hóa cũng là một đại
lượng không cố định.

Sự thay đổi lượng giá trị của hàng hóa tùy thuộc vào 2 nhân tố :

Năng suất lao động

Mức độ phức tạp của lao động

2.1. Năng suất lao động

Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, nó được tính bằng số lượng sản phẩm trong một
đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Nó phản ánh hiệu
quả, kết quả lao động (thể hiện ở người, quốc gia, …)

Ví dụ : Ngày xưa áo quần may bằng tay, bây giờ áo quần may bằng máy (cho thấy ta có thể phân biệt
thời đại qua năng suất lao động)

Có hai lọai năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội.

Trên thị trường, hàng hóa được trao đổi không theo giá trị cá biệt mà là giá trị xã hội. Vì vậy, năng suất
lao động xã hội có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa chính là năng suất lao động xã hội.

Lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh (thời gian lao động xã
hội cần thiết) và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội. Năng suất lao động càng được nâng cao thì
giá trị của một đơn vị hàng hóa càng hạ xuống, nghĩa là lượng lao động nói chung của con người kết tinh
trong một đơn vị hàng hóa lại ít đi. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hóa xuống (giảm
thời gian lao động xã hội cần thiết) thì ta phải tăng năng suất lao động xã hội.

Năng suất lao động là hiệu suất của lao động. Nó được tính bằng hai cách:

- Số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian
- Thời gian lao động để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm

Năng suất được hiểu một cách chung nhất và cơ bản như sau

+ Đầu ra ngày càng được chú trọng nhiều hơn so với đầu vào. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động, cải tiến
năng suất, đạt lợi thế cạnh tranh chủ yếu thông qua việc sản xuất được sản phẩm tốt hơn, giao hàng
nhanh hơn chứ không phải chỉ là việc giảm chi phí. Hàng hóa và dịch vụ phải được thiết kế và sản xuất
sao cho thỏa mãn được nhu cầu của khách hàng về chất lượng, chi phí, thời gian giao hàng… đồng thời
nâng cao được chất lượng, chi phí, thời gian giao hàng… đồng thời nâng cao được chất lượng cuộc sống.
Ta có thể hiểu yêu cầu này bao gồm các yếu tố: không tạo ra tác động xấu tới xã hội, ví dụ sự ô nhiễm…
trong sản xuất, thỏa mãn yêu cầu về sức khỏe, giáo dục của người dân và đóng góp vào ciệc đạt được
các mục tiêu kinh tế- xã hội của đất nước.

4|Trang
Vì thế các tổ chức cần phải hiểu được các nhu cầu của khách hàng và nhu cầu xã hội để nâng cao khả
năng thiết kế ở cấp quốc gia và cấp doanh nghiệp.

+ Các nguồn lực vô hình như thái độ, sự huy động, thông tin, kiến thức và thời gian ngày càng trở nên
quan trọng.

Con người cùng với khả năng tư duy sáng tạo, xây dựng và thực hiện các thay đổi, là nguồn lực cơ bản
trong cải tiến năng suất.

+ Chất lượng quản lý tạo ra sắc thái và phương hướng của tổ chức thông qua việc xây dựng một tầm
nhìn chiến lược, các chính sách và phương thức hoạt động để đáp ứng kịp thời những thay đổi không
ngừng của môi trường. Sự năng động của lãnh đạo đóng vai trò quan trọng nhất trong việc phát triển
các phương thức nhằm cải thiện môi trường làm việc sao cho người lao động được động viên, khích lệ,
và chuẩn bị thích ứng một cách hiệu quả với những thay đổi không ngừng của môi trường kinh tế.

+ Tập trung vào tầm nhìn chiến lược toàn cầu để giải quyết các vấn đề của công ty và các vấn đề năng
suất trong các hệ thống chính trọ- xã hội từ cấp phân xưởng. Phải tạo mọi nỗ lực để nâng cao năng suất
của tổ chức và đóng góp tích cực vào năng suất xã hội. Điều đó đòi hỏi hệ thống quản lý bao trùm mọi
hoạt động, từ khâu mua nguyên liệu , sản xuất và giao hàng đến tận tay khách hàng, đến các hoạt động
nghiên cứu, phát triển. Nhấn mạnh vào việc tối thiểu hóa các chi phí trong chu kỳ sống của sản phẩm
bằng cách thiết kế các sản phẩm có thể tái sử dụng hoặc tái tạo.

+ Năng suất hợp nhất với phát triển ổn định có thể đạt được thông qua việc khuyến khích thiết kế sản
phẩm xanh và hệ thống sản xuất sạch. Kinh nghiệm cho thấy phương pháp phòng ngừa ô nhiễm là
phương pháp tiết kiệm, hiệu quả và có thể thực hiện được. Các nỗ lực được tạo ra nhằm giảm ô nhiễm
ngay tại nguồn bằng cách cải tiến công nghệ và thay đổi thiết kế. Nhu cầu giải quyết các nguồn ô nhiễm
để cho ra đời khái niệm năng suất xanh. Năng suất xanh cần được thực hiện nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống của chúng ta ngày càng tốt đẹp hơn và văn minh hơn.

+ Cải tiến năng suất phải được thực hiện theo hướng nâng cao chất lượng cuộc sống và thúc đẩy phong
cách sống lành mạnh. Nâng cao chất lượng cuộc sống không chỉ là việc cung cấp nhiều hàng hóa mà còn
là cho phép mỗi cá nhân tìm kiếm hạnh phúc và hoàn thành sứ mạng trong cuộc sống của họ. Năng suất
trong tương lai không những nhằm thỏa mãn vật chất mà còn thảo mãn tinh thần của con người. Xem
xét các vấn đề môi trường và việc định hướng đầu ra là các bước đi theo hướng này.

2.2. Mức độ phức tạp của lao động

Tăng năng suất lao động xã hội sẽ giúp tăng hiệu quả lao động ( có thể tăng số lượng sản phẩm trong
một đơn vị thời gian hay giảm thời gian sản xuất cần thiết để tạo ra một sản phẩm).

Ví dụ : Công ty trước đó sản xuất cần 2h/sp và sau khi tăng năng suất lao động thì chỉ cần 1h/sp.

+ Để tăng năng suất lao động thì ta có thể :

Áp dụng kĩ thuật công nghệ mới

Nâng cao trình độ người lao động

5|Trang
Tổ chức, quản lý lao động khoa học

Thay đổi điều kiện tự nhiên của sản xuất

Ví dụ : Người nông dân cải tạo đất để nâng cao năng suất thu họach gạo (thay đổi điều kiện tự nhiên của
sản xuất)

+ Lao động phức tạp: là lao động phải qua huấn luyện đào tạo, lao động thành thạo.

Khi đem trao đổi ở trên thị trường người ta lấy lao động giản đơn làm đơn vị và quy mọi lao động thành
lao động giản đơn, với ý nghĩa đó lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn. Trong cùng một
thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn bởi vì thực chất lao động phức
tạp là lao động đơn giản hơn được nhân lên. Trong quá trình trao đổi mua bán, lao động phức tạp được
quy đổi thành lao động giản đơn trung bình một cách tự phát.

Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hướng nhất định đến số lượng giá trị của hàng hóa. Trong cùng
một thời gian thì lao động phức tạp tạo ra nhiêu giá trị hơn lao động giản đơn. Tăng chất lượng sản
phẩm cần làm cho lao động phức tạp kết tinh trong sản phẩm nhiều hơn. Một sản phẩm làm ra có chất
lượng tốt đòi hỏi lao động kết tinh trong đó phải phức tạp, tỉ mỉ. Vì vậy, tay nghề của lao động rất quan
trọng.

2.3. Cường độ lao động

Nói lên mức độ khẩn trương nặng nhọc của người lao động trong một đơn vị thời gian.

Cường độ lao động được đo bằng sự tiêu hao lao động trong 1 đơn vị thời gian và thường được tính
bằng số calo hao phí trong 1 đơn vị thời gian.

- Tăng cường độ lao động: là tăng sự hao phí lao động trong 1 thời gian lao động nhất định.

- Cường độ lao động tăng giá trị một đơn vị sản phẩm không đổi.

- Cường độ lao động phụ thuộc vào:

+ Trình độ tổ chức quản lý.

+ Quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất.

+ Thể chất, tinh thần của người lao động.

Cường độ lao động tăng lên thì số lượng( hoặc khối lượng) hàng hóa sản xuất ra tăng lên và sức lao động
hao phí cũng tăng lên tương ứng. Do đó, giá trị của một đơn vị hàng hóa là không đổi vì thực chất tăng
cường độ lao động chính là việc kéo dài thời gian lao động.

Cường độ lao động tăng lên tức là mức hao phí sức cơ bắp, thần kinh trong một đơn vị thời gian tăng
lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao động tăng lên. Nếu cường độ lao động tăng
lên thì số lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên và sức hao phí lao động cũng tăng lên tương tứng, vì vậy
giá trị của một đơn vị hàng hóa vẫn không đổi. Tăng cường độ lao động thực chất cũng như kéo dài thời
gian lao động cho nên hao phí lao động trong một đơn vị sản phẩm không đổi.

Cường độ lao động phụ thuộc vào trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất và
đặc biệt là thể chất và tinh thần của người lao động.

6|Trang
2.4. Cơ cấu lượng giá trị hàng hóa

Để sản xuất ra hàng hóa cần phải chi phí lao động bao gồm lao động quá khứ tồn tại trong

các yếu tố như tư liệu sản xuất và lao động sống hao phí trong quá trình chế biến tư liệu sản

xuất thnh sản phẩm – hàng hóa mới. vì vậy, cơ cấu lương giá trị hàng hóa bao gồm hai bộ phận:

bộ phận giá trị cũ và bộ phận giá trị mới.

II. Bản chất và chức năng của tiền


1. Khái niệm

Tiền tệ là kết quả của quá trình phát triển sản xuất và trao đổi hàng hóa, là sản phẩm của sự phát
triển các hình thái giá trị từ thấp đến cao, từ hình thái giản đơn đến hình thái phát triển cao nhất là
hình thái tiền tệ.
Sự ra đời và phát triển của tiền là do yêu cầu của sản xuất hàng hóa và gắn với sự phát triển của sản
xuất hàng hóa, đó là quá trình phát triển lâu dài qua nhiều hình thái từ từ giản đơn ngẫu nhiên, đến
hoàn thiện – hình thái thái tiền của giá trị. Tiền tệ chính là một hàng hóa đặc biệt, nó là vật ngang
giá chung thống nhất, nó thể hiện quan hệ xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất
hàng hóa

2. Nguồn gốc và bản chất của tiền

2.1. Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị

20 vuông vải = 1 cái áo

hoặc hàng hóa A = 5 hàng hóa B

- Giá trị của hàng hóa A được biểu hiện ở giá trị sử dụng của hàng hóa B, còn hàng hóa B

dùng làm hình thái biểu hiện giá trị của hàng hóa A. Hàng hóa A ở vào hình thái giá trị tương

đối.

- Hàng hóa B: mà giá trị sử dụng của nó biểu hiện giá trị của hàng hóa khác (A) thì ở vào

hình thái ngang giá.

- Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên là mầm mống phôi thai của hình thái tiền;

- Hàng hóa đóng vai trò vật ngang giá là hình thái phôi thai của tiền tệ.

- Hình thái giản đơn xuất hiện vào cuối xã hội cộng sản nguyên thủy. Trao đổi mang tính

ngẫu nhiên và trực tiếp.

2.2. Hình thái đầy đủ hay mở rộng của giá trị

= 1 cái áo

Ví dụ 20 vuông vải = 10 đấu chè

= 40 đấu cà phê

7|Trang
= 0.2 gam vàng

Ở đây giá trị của 1 hàng hóa được biểu hiện ở giá trị sử dụng của nhiều hàng hóa đóng vai trò vật ngang
giá chung. Tỷ lệ trao đổi đã cố định hơn, tuy vậy vẫn là trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng.

2.3. Hình thái chung của giá trị


1 cái áo =
10 đấu chè =  20 vuông vải
40 đấu cà phê =
0.2 gam vàng =

Ở đây giá trị của mọi hàng hóa đều được biểu hiện ở GTSD của một hàng hóa đóng vai trò làm vật ngang
giá chung.

2.4. Hình thái tiền

Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển cao hơn, đặc biệt là khi nó được mở rộng giữa các vùng đòi
hỏi phải có một vật ngang giá chung thống nhất thì vật ngang giá chung được cố định ở một hàng hóa
đặc biệt, khi đó xuất hiện hình thái tiền.

1 cái áo =

10 đấu chè =  0.2 gam vàng

40 đấu cà phê =

20 vuông vải =

Ở đây, giá trị của tất cả mọi hàng hoá đều được biểu hiện ở giá trị sử dụng của một hàng

hoá đóng vai trò tiền tệ.

- Khi bạc và vàng cùng làm chức năng tiền tệ thì chế độ tiền tệ gọi là chế độ song bản vị.

- Khi chỉ còn vàng độc chiếm vị trí tiền tệ thì chế độ tiền tệ được gọi là chế độ bản vị vàng.

Tại sao vàng và bạc, đặc biệt là vàng có được vai trò tiền tệ như vậy?

+ Thứ nhất, nó cũng là một hàng hoá, có thể mang trao đổi với các hàng hoá khác.

+ Thứ hai, nó có những ưu thế (từ thuộc tính tự nhiên) như: thuần nhất, dễ chia nhỏ,

không mòn gỉ...

Kết luận:

- Nguồn gốc của tiền:Tiền ra đời trong quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi

hàng hóa.

=>> Bản chất của tiền: là một hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung, là sự thể

hiện chung của giá trị và thể hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa.

“Tiền: loại hàng hóa đặc biệt mà hình thái tự nhiên của nó dần gắn liền với hình thái ngang

8|Trang
giá trong xã hội, sẽ trở thành hàng hóa - tiền, hay làm chức năng là tiền, chức năng xã hội riêng

biệt của nó và do đó, độc quyền xã hội của nó là đóng vai trò vật ngang giá phổ biến trong giới

hàng hóa”.

3. Các chức năng của tiền


III.1. Thước đo giá trị

- Tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của các hàng hoá khác.

Để thực hiện được chức năng này có thể chỉ cần một lượng tiền tưởng tượng, không cần thiết phải có
tiền mặt.

- Giá trị hàng hóa biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả hàng hóa.

- Đơn vị đo lường tiền tệ và các phần chia nhỏ của nó gọi là tiêu chuẩn giá cả.

3.2. Phương tiện lưu thông

- Tiền làm môi giới trong trao đổi hàng hoá

+ Khi tiền chưa xuất hiện: trao đổi trực tiếp H−H

+ Khi tiền xuất hiện: quá trình trao đổi có tiền làm trung gian H−T−H

- Khi tiền làm phương tiện lưu thông đòi hỏi phải có tiền mặt trên thực tế (vàng thoi, bạc nén, tiền đúc,
tiền giấy, tiền tín dụng...) .

- Các loại tiền:

+ Với chức năng là phương tiện lưu thông, lúc đầu tiền xuất hiện trực tiếp dưới hình thức vàng thoi, bạc
nén.

+ Tiền đúc: là khối kim loại đúc có hình thức, trọng lượng và giá trị nhất định và được dùng làm phương
tiện lưu thông.

+ Tiền giấy: là dấu hiệu của tiền tệ buộc phải thừa nhận và do nhà nước phát hành ra.

Tiền là hình thức biểu hiện giá trị hàng hóa, phục vụ cho sự vận động của hàng hóa. Lưu thông hàng hóa
và lưu thông tiền tệ là hai mặt của quá trình thông nhất với nhau. Lưu thông tiền tệ xuất hiện và dừa
trên cơ sở của lưu thông hàng hóa. Ở mỗi thời kỳ nhất định, lưu thông hàng hóa bao giờ cũng đòi hỏi
một lượng tiền cần thiết cho sự lưu thông. Số lượng tiền này được xác định bởi quy luật chung của lưu
thông tiền tệ.

Số lượng tiền tệ cho lưu thông do ba nhân tố quy định: số hàng hóa lưu thông trên thị trường, giá cả
trung bình của hàng hóa, và tốc độ lưu thông của những đơn vị tiền tệ cùng loại.

Sự tác động của ba nhân tố này đói với khối lượng tiền tệ cần cho lưu thông diễn ra theo quy luật phổ
biến là: “tổng số giá cả của hàng hóa chia cho số vòng lưu thông của các đồng tiền cùng loại trong một
thời gian nhất định”

Khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành vào lưu thông vượt quá khối lượng tiền cần

9|Trang
cho lưu thông, thì giá trị của tiền tệ sẽ bị giảm xuống, tình tạng lạm phát sẽ xuất hiện.

3.3 Phương tiện cất giữ

- Tiền được rút khỏi lưu thông và cất giữ lại để khi cần thì đem ra mua hàng.

- Các hình thức cất trữ:

+ Cất giấu.

+ Gửi ngân hàng.

- Chỉ có tiền vàng, tiền bạc, các của cải bằng vàng bạc có giá trị mới thực hiện được chức năng này.

3.4 Phương tiện thanh toán

- Kinh tế hàng hoá phát triển đến một trình độ nào đó tất yếu sẽ nảy sinh việc mua bán chịu:

- Tiền làm chức năng phương tiện thanh toán tức nó được dùng để chi trả sau khi công việc đã hoàn
thành như:

+ trả tiền mua hàng chịu;

+ trả nợ;

+ nộp thuế...

- Khi tiền làm chức năng phương tiện thanh toán xuất hiện một loại tiền mới: tiền tín dụng, hình thức
chủ yếu của tiền tín dụng là giấy bạc ngân hàng. Tiền tín dụng phát hành từ chức năng phương tiện
thanh toán của tiền. Mặt khác tiền tín dụng phát triển thì chức năng phương tiện thanh toán của tiền
càng mở rộng và các hình thức của tiền càng phát triển. Ví dụ hiện nay trên thế giới xuất hiện tiền điện
tử...

3.5. Tiền tệ thế giới

Khi trao đổi hàng hóa mở rộng ra bên ngoài biên giới quốc gia và hình thành quan hệ buôn bán giữa các
nước thì chức năng tiền tệ thế giới ra đời.

- Thực hiện chức năng này tiền làm nhiệm vụ:

+ phương tiện lưu thông, mua bán hàng hóa;

+ phương tiện thanh toán quốc tế và các hoạt động ngoại thương, tín dụng, tài chính;

+ di chuyển của cải từ nước này sang nước khác.

- Làm chức năng tiền tệ thế giới thì phải là tiền vàng hoặc tiền tín dụng được công nhận là phương tiện
thanh toán quốc tế.

III. Sự tất yếu khách quan của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam

1. Khái niệm Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

10 | T r a n g
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị trường,
thông qua quá trình trao đổi mua bán. Quan hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển đến một trình độ nhất định
sẽ đạt đến kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hóa dựa trên cơ
sở phát triển của lực lượng sản xuất. Trong những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, sự phát triển của
kinh tế hàng hóa, tất nhiên, chịu sự tác động của những quan hệ xã hội nhất định hình thành nên các
chế độ kinh tế - xã hội khác nhau. Vì vậy, không thể nói kinh tế hàng hóa là sản phẩm của một chế độ
kinh tế - xã hội nào mà phải hiểu rằng nó là một sản phẩm của quá trình phát triển của lực lượng sản
xuất xã hội loài người, nó xuất hiện và tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất xã hội và đến trình độ
cao hơn đó là kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một kiểu nền kinh tế thị trường phù hợp với
Việt Nam, phản ánh trình độ phát triển và điều kiện lịch sử của Việt Nam. Kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường đồng thời góp phần hướng tới
từng bước xác lập một xã hội mà ở đó dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, có sự điều
tiết của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Mục đích của kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, nâng cao đời sống của nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại
gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới tiên tiến.

Kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một kiểu tổ chức kinh tế của
một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế còn ở trình độ thấp sang kinh tế ở trình độ
cao hướng tới một chế độ xã hội mới- xã hội Xã hội chủ nghĩa.

2. Tính tất yếu khách quan của phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
1.1 Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với tính quy luật phát triển
khách quan

Trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, Đảng mới nêu ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa
có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH, chưa đề cập đến cơ chế thị trường và phát triển nền
kinh tế thị trường. Tuy vậy, đây là dấu mốc quan trọng trong quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng
về con đường và phương pháp xây dựng CNXH ở nước ta.

Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao. Khi có đủ các điều kiện cho sự
tồn tại và phát triển, nền kinh tế hàng hóa tự hình thành. Kinh tế thị trường không phải là một giai đoạn
khác biệt, độc lập, đứng ngoài kinh tế hàng hóa mà là sự hòa nhập của kinh tế hàng hóa với kinh tế thị
trường để đạt tới sự quyết định và chi phối của thị trường trong sản xuất, lưu thông. Là cách tổ chức
kinh tế xã hội, kinh tế thị trường dựa trên những cơ sở sau: Tự do (tự do sở hữu, tự do kinh doanh, tự
do giao dịch thương mại, tự do hành nghề, tự do học hành); Mỗi chủ thể kinh tế theo đuổi lợi ích của
chính mình trong hoạt động kinh tế; Khách hàng là thượng đế, sản xuất và bán hàng hóa theo nhu cầu
thị trường; Cạnh tranh; Tiền tệ hóa các quan hệ kinh tế.

Sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa theo các quy luật tất yếu đạt tới trình độ nền kinh tế thị trường.
Đó là tính quy luật tất yếu đạt đến trình độ nền kinh tế thị trường.

11 | T r a n g
Đến Đại hội VIII (6-1996), trên cơ sở tổng kết 10 năm đổi mới (1986 - 1996), Đảng đã rút ra một số kết
luận mới về mối quan hệ giữa sản xuất hàng hóa và chủ nghĩa xã hội, giữa kế hoạch hóa và thị trường,
giữa thị trường trong nước và quốc tế, giữa quyền quản lý của Nhà nước và quyền tự chủ kinh doanh
của doanh nghiệp, về phân phối và lấy đó làm cơ sở cho việc tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế với
mục tiêu xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, tiếp tục tạo lập đồng bộ cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trong đó đáng chú ý Đảng ta đưa ra quan niệm mới, rất
quan trọng về kinh tế hàng hóa và CNXH: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là
thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”

Ở Việt Nam, các điều kiện và định hướng của Nhà nước cho sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa
luôn tồn tại. Do đó, sự hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam là tất yếu khách quan

Định hướng XHCN là làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thì xét cho cùng,
không khác gì xã hội mà các nước TBCN phát triển hiện đại đang thực hiện. Do đó việc định hướng tới
xác lập những giá trị đó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phù hợp và tất yếu trong phát triển.

Nền KTTT tự do cạnh tranh chịu sự điều tiết tự phát của các quy luật của KTTT (mà A. Smith gọi là “bàn
tay vô hình”) thì phân phối theo các quyền sở hữu và quyền chiếm hữu các yếu tố của sản xuất nên tất
yếu dẫn đến sự phân cực giàu và nghèo ngày càng xa, chỉ có thể dẫn đến chủ nghĩa tư bản. Nhưng nền
kinh tế hỗn hợp còn chịu sự điều tiết phân phối lại của nhà nước (mà ngày nay gọi là “bàn tay hữu hình”)
thì có thể đi theo những định hướng tùy thuộc bản chất của nhà nước. Nhưng sự điều tiết của nhà nước
trong điều kiện còn tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất có giới hạn chật hẹp, muốn thực hiện đầy
đủ dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thì phải kế thừa những thành tựu đã đạt được
để khắc phục mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất, tức là phải chuyển lên chủ nghĩa xã hội.

Do vậy nhân loại muốn tiếp tục phát triển thì không chỉ dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Với ý nghĩa đó, sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là phù
hợp với xu thế của thời đại và đặc điểm phát triển của dân tộc và không hề mâu thuẫn với tiến trình
phát triển của dân tộc.

1.2. Do tính ưu việt của kinh tế thị trường trong thúc đẩy phát triển

Do vậy nhân loại muốn tiếp tục phát triển thì không chỉ dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Với ý nghĩa đó, sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam là phù
hợp với xu thế của thời đại và đặc điểm phát triển của dân tộc và không hề mâu thuẫn với tiến trình
phát triển của dân tộc.

Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc
rút kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam
để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhằm sử dụng kinh tế thị
trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên CNXH.

Lý luận và thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cho thấy, kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã tạo nên những giá trị mới, rất ưu việt mà không một chế độ nào
trước đó ở Việt Nam có được. Những thành quả của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã góp phần quan trọng tạo nên những giá trị tiến bộ

12 | T r a n g
mới, có sức sống bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đặc biệt những thành công của sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Sau 30 năm đổi mới, nhất là từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa làm mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thì Việt Nam đã
rất nhanh chóng thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và tình trạng kém phát triển, kinh tế tăng trưởng khá,
trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Chính sự lựa chọn phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam đã và đang được hưởng cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc hơn; cuộc sống của mọi tầng lớp dân cư từng ngày được thay da, đổi thịt, từ thiếu
thốn trăm bề, cơm không đủ no, áo không đủ mặc, đến nay mọi người dân đang được thụ hưởng đầy đủ
các dịch vụ phục vụ cho sự phát triển một cách toàn diện. Chính sách an sinh xã hội, đặc biệt là xóa đói,
giảm nghèo, giải quyết việc làm, hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chế độ ưu đãi người có công,
trợ giúp xã hội… tạo điều kiện để người dân được hưởng thụ nhiều hơn về mọi mặt. Nhờ đó mà vị thế
và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Trong khi xã hội tư bản vẫn
đang tồn tại nhiều khuyết tật và mâu thuẫn không thể giải quyết như: thất nghiệp, đói nghèo, bất bình
đẳng… Đặc biệt, tình trạng khủng bố, bạo lực, tội phạm, an ninh, phân biệt chủng tộc diễn ra triền miên,
điển hình là phương Tây, Mỹ, khu vực Trung Đông.

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn cách làm, bước đi đúng quy luật
kinh tế khách quan, là phương tiện cần thiết để đi đến mục tiêu của chủ nghĩa xã hội nhanh và có hiệu
quả

1.3. Là mô hình kinh tế thị trường phù hợp với nguyện vọng của nhân dân mong muốn dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

CNXH là khát vọng của con người về một xã hội văn minh, giàu có, ai cũng có cuộc sống ấm no hạnh
phúc xứng đáng với tài năng và mức độ cống hiến của mình cho nhân dân. Đại hội Đảng lần thứ VII đề ra
mục tiêu định hướng của nền kinh tế nước ta là xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa rằng CNXH là định hướng mà
nền kinh tế thị trường nước ta hướng tới. Hiểu như thế về “định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế
thị trường hướng tới ở nước ta” cho phép chúng ta có cách nhìn khách quan về nền kinh tế thị trường
của các nước TBCN, cho phép chúng ta tổng kết, học hỏi những bài học kinh nghiệm của chính các nước
này.

Với khát vọng và mục đích mà không có một nền kinh tế thị trường nào trên thế giới đã và đang hướng
đến và có thể đạt được thì, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được nhân dân Việt Nam
đồng thuận và nhất trí xây dựng và phát triển. Mục đích cuối cùng là dân giàu nước mạnh, tiến lên hiện
đại trong một xã hội do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức, bất công,
tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Để thực hiện hóa khát vọng như vậy
thì việc thực hiện kinh tế thị trường mà trong đó hướng tới những giá trị mới, do đó là tất yếu khách
quan.

dKinh tế thị trường sẽ còn tồn tại lâu dài ở nước ta là một tất yếu khách quan, là sự cần thiết cho công
cuộc xây dựng và phát triển

Với Việt Nam, con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con
đường phát triển tất yếu, khách quan, hợp quy luật. Và, về thực chất, đó là con đường phát triển rút
ngắn theo phương thức quá độ gián tiếp nhằm tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh

13 | T r a n g
vực, nhằm phát triển nhanh lực lượng sản xuất và xây dựng nền kinh tế hiện đại.Phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa phá vỡ những tính chất xưa cũ, thúc đẩy lực lượng sản xuất, hành
hóa, con người và xã hội.

Đây chính là quy luật phù hợp với sự chuyển đổi đối với các nước đi lên XHCN trong thời đại ngày nay,
hay nói cách khác đấy chính là sự phù hợp với lý luận cách mạng không ngừng của chủ nghĩa Mác -
Lênin.

14 | T r a n g

You might also like