VietSuKyYeu PDF

You might also like

Download as pdf or txt
Download as pdf or txt
You are on page 1of 557

TRÂN XUÂN SINH

Hiệu chính: Nguycn Hào Hùng


(Hội ngliiên cứu Khoa hục Đ<)n^ Nam Á - Việl Nam)

NHÀ XUẤT BẢN HÁI PHÒNG


TRÀN XUÂN SINH

VIỆT SỬ KỶ YỂU
Hiệu đính: NGUYỄN h à o hùng
NGÔ ĐÃNG LƠI

NHÀ XUẤT BẢN HẢI PHÒNG


LỜI NÓI ĐẦU
Tập sách này khởi nguyên từ quá trình tìm tài liệu để viết lại
tập gia phả họ nhà, nhân đó tôi đã soạn nên được bộ sách Thuyết
Trần**’ (nói về nhà Trần) là sách chép lịch sử triều đại nhà Trần.
Thòi xưa, Quốc sử quán là một cơ quan của nhà nước. Người
viết sử không khỏi tư vị các vua chúa và các người cầm quyền
chính. Chỉ có dòng vua ở ngôi mới là chính thông. Bất cứ ai chôhg
đôi đều bị coi là giặc cả, dù không làm gì tàn dân, hại nước. Đến
sử mới ngày nay, có tác giả không ưa chế độ quân chủ chuyên chế,
lại cứ thấy vua chúa là đả kích, gọi hết thảy các vụ nổi dậy chông
đối chính quyền phong kiến là khởi nghĩa, kể luôn cả người phản
bội dân tộc, như Thân Lợi, Vũ Công Tuấn. Đây là hai thái cực,
tưởng nên tránh cả.
Lịch sử quốc gia dân tộc không phải chỉ là gia phả các dòng
vua chúa, mà phải nói nhiều về đời sống của quảng đại quần
chúng qua các thòi đại. Sử cũ thường chép đến cả gia đình các
lãnh tụ quốc gia, mà chép được rất ít về tình hình xã hội, kinh tế
văn hoá.
Hầu hết các người viết sử Đông cũng như Tây, Nam như Bắc,
xưa cũng như nay, đều có tật chung là chủ quan, phô trương quá
mức những cái hay cái tốt, che đậy mọi cái yếu kém. Kính yêu ai
thì phóng đại thêm công nghiệp, không ưa ai thì chê luôn cả tông
chi, họ hàng cùng là thân thuộc. Ngột Lương Hợp Đài kéo quân
sang đánh ta vào tháng chạp âm lịch năm 1257, giữa mùa đông
hàn lạnh lẽo mà Bắc sử chép quân Mông cổ không quen chịu được
khí hậu nóng nực xứ ta nên bị đau ốm, phải rút sớm về nước. (Sử
gia Trần Trọng Kim vô tình cũng lầm theo). Quân đội Hồ Quý Ly
từng chốhg cự lại quân Minh rất kịch liệt - theo Đại Việt sử ký
toàn thư - mà các tập sử khác lại thường bỏ qua không nói đến.
Học giả Trần Trọng Kim viết Việt N am sử lược khoảng năm
1920, dưới thòi Pháp thuộc và họ Nguyễn còn ở ngôi nên dù táo
bạo kê nhà Tây Sơn là chính thông, khen vua Quang Trung là anh
hùng cứu quốc, mà vẫn còn dè dặt khi bình phẩm các vua triều

(•)
Trần Xuân Sinh, Thuyết Trần, NXB Hải Phòng, 2003, 535 tr.
Nguyễn, lại không nói được duyên cớ chính người Pháp sang đô hộ
nước ta. Chúng đâu có sang đánh chiếm đất nước ta vì vua ta cấm
đạo Gia Tô. Sử gia ngày nay có người không tiếc lời mạt sát các
vua triều Nguyễn, tuy không oan, nhưng nặng nề quá.
Biên soạn tập sách này, tôi cô" gắng khách quan khi chép sự
việc, tránh những đều không đủ tin, vô lý, lệch lạc cùng khiếm
khuyết. Rất tiếc không ghi chép lại được nhiều về sinh hoạt đại
chúng qua các thời đại, do không tìm được nhiều tài liệu đáng tin,
lại không dám viết theo sự suy luận, tưởng rằng suy luận chưa
chắc hẳn đã đúng sự thực.
Lại có những lòi luận về một sô" nhân vật lịch sử, phần lớn
nhận định theo ý của các bậc tiền bối, tuy cũng có trình bày theo ý
riêng trong mấy trường hỢp, như nói: Nếu người họ Trần không
giành ngôi nhà Lý thì cũng có anh hùng hay gian hùng nào khác
tranh quyền cướp nước; không cho vụ ám sát Ô Mã Nhi trên
đường đưa y về nước là “phi nhân bất nghĩa”; việc gả Huyền Trân
cho vua Chăm chỉ là một hành vi chính trị; cho việc vua Quang
Trung mưu đánh chiếm Lưỡng Quảng của Trung Quô"c là điên
rồ... Có thể có nhiều người không đồng ỹ tưởng, nghĩ khác thì mỗi
người một ý. Đâu có phải chỉ ý riêng của mình mới là chân lý.
Rất mong tập sách nhỏ này giúp ích được phần nào bạn đọc
thông tỏ lịch sử nước nhà về các thời đại xưa.

TRẦN XUÂN SINH


Cẩn tư
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

ĐVSKTT Đại Việt sử ký toàn thư


ĐNQSDC Đại Nam quốc sử diễn ca
LSVN Lịch sử Viẹt Nam
VSTGCM Việt Sử thông giám cương mục
VNSL Việt Nam sử lược
âl âm lịch
tr. CN trước công nguyên
BẢN ĐỒ BÁCH VIỆT
trên ngàn năm trước.C.N
các THỜI ĐỢI LỊCH sđ Nước Tfl
Từ khi người nước ta dựng nước, kể hàng ba, bôn ngàn năm,
bị người Hoa phương bắc đánh chiếm cai trị mấy lần, sau lại bị
người Pháp đô hộ, chịu khô sỏ biết bao nhiêu phen, thế mà sau lại
khôi phục được nền tự chủ và vẫn giữ được tính đặc biệt của giống
nòi mình, đủ tỏ ra rằng khí lực của người mình không kém hèn.
Sử ký ghi chép những cơ hội gian truân, những sự biến chế
của người mình đã trải qua và những công việc của người trước đã
làm từ đòi nọ đến đời kia để cho người trong nước đều biết.
Lịch sử nước ta có thế chia ra từng thời đại:
I - Thời đại thưỢng cổ trước năm 208 tr. CN
II - Thời đại B ắc thuộc (thòi đại Trung cổ) từ năm 208 tr.
CN đến năm 939.
III - Thời đại tự chủ từ năm 939 đến năm 1527.
IV- Thời đại Nam B ắc phân tran h từ năm 1527 đến năm
1802.
V- Thời đại cận kim từ năm 1802.
Và từ năm 1945 là Thời đại hiện kim. (Phỏng theo Trần
Trọng Kim trong Việt N am sử lược).
THỜI ĐỢI THƯỢNG cổ
KỶ TÍỀN SỬ
Cách đây khoảng bô"n ngàn năm - tức 2000 năm trước công
nguyên, tại miền đông châu Á, giáp biển, trong khi dân tộc Hán
định cư trên khu vực giữa Hoàng Hà và Dương Tử giang, dân tộc
Miêu vùng bắc Hoàng Hà thì tại miền nam Dương Tử giang có
nhiều bộ lạc thuộc nhiều sắc tộc lập nghiệp. Người Hoa gọi chung
là Bách Việt: Ô Việt ở Triết Giang, Mân Việt ở Phúc Kiến, Dương
Việt ở Giang Tây, Nam Việt (hay Đông Việt) ở Quảng Đông (ngày
nay người Hoa còn gọi tỉnh Quảng Đông là tỉnh Việt). Đất nước ta
xưa -gồm Bắc Việt và bắc Trung Việt ngày nay là Lạc Việt.
Bắc sử có chép: Thòi đại Thần Nông, ở miền nam Trung Quốc
có nước Xích Quỷ, sau chia ra làm B ách Việt. Xích Quỷ không có
nghĩa là con quỷ đỏ. Xích là màu đỏ, theo Ngũ hành thuộc Hoả,
phương nam. Quỷ là một ngôi sao trong nhị thập bát tú, ở về
phương nam. Gọi là Xích Quỷ để chỉ khu vực rộng lớn xa xám ở
phía nam, không hẳn là tên một nước.
Dân Bách Việt đã sớm biết trồng cây lúa nước. Người Hán
khi nói đến Việt thì dùng chữ Việt bộ mễ , có nghĩa là bèn
(mễ là gạo). Sau người Việt tự cường, dùng chữ Việt ^ là vượt.
Các xứ Bách Việt được thiên nhiên ưu đãi, ít phải chông chọi
với thú dữ và tranh chiếm đất đai lẫn nhau, không cao cường võ
nghệ, không có khí giới sắc bén nên bị người Hán phương bắc thôn
tính, rồi dần dà đồng hoá với họ. Xứ ta ở miền nam xa xôi không bị
đánh chiếm sớm, sau cũng sa vào vòng Bắc thuộc hơn một ngàn
năm. Nhưng do có ý chí dân tộc hùng mạnh, người nước ta lại khôi
phục được nền độc lập.
Tự hào về việc sớm biết trồng lúa nưóc trong khi người Hán
còn du mục và có trồng ngũ cốc thì năng suất thấp và ít chất bổ
dưỡng, người nước ta xưa chép sử nói; Vua khai quốíc là con cháu
Thần Nông, được phong cai trị miền nam gồm châu Kinh và châu
Dương (Kinh Dương vương), địa giới phía bắc đến hồ Động Đình,
phía tây giáp Ba Thục. Vua xứ Lạc (Lạc Long Quân) lấy con gái
vua xứ Âu (Âu Cơ) sinh một trăm trai (?!), cử đi cai trị trăm xứ
Việt. (Người xưa lầm Bách Việt là thuộc nước ta cả).
TÊN NƯỚC GIAO CHỈ - Ngưòi Trung Quốc xưa quen gọi nước ta
là Giao Chỉ. Nhiều người lầm cho là người nưóc ta xưa có hai ngón
chân cái xoạc ra, khi đứng thì giao nhau. Thực ra thì không phải
thế. Chỉ một sô" rất ít người nước ta có ngón chân cái như vậy (lác
đác gặp ở vùng Bắc Ninh, Phúc Yên) chứ không phải nòi giõhg ta
đều như thế. Tại các nước khác ở châu Á và châu Phi, đôi khi cũng
có người có tật như vậy.
Tiếng Giao Chỉ có nguồn gôc từ xa xưa. Theo thiên Vũ
Cống, kin h Thư thì khi Hạ Vũ lên ngôi vương Trung Quốc (thế
kỷ XXII tr. CN) cử các phái đoàn đi khảo sát mọi nơi xa gần,
định biên giới, chia nước làm 9 châu, cắt người cai quản và nạp
công hàng năm cho vương triều. Qua vùng Lĩnh Nam, phái đoàn
đi sâu xuông phương nam, thấy đất còn hoang vu, vô chủ, nhiều
bùn lầy, rừng cây rậm rạp, người rất thưa thớt và lạc hậu, còn
dùng đồ đá. Có giông giao long hung dữ làm chúa tể. Họ bèn đặt
tên đất này là G iao C hỉ và ghi là khuyết địa (đất không ai quản
lí, không thu được công phẩm, tạm đặt ngoài cương vực của
vương triều).
Chữ Hán viết giao chỉ, chữ. g iao ^ bộ ^ trùng. Trùng
là sâu bọ, cũng chỉ con vật nhỏ. Đây chỉ con giao long, loài bò sát,
giông con thuồng luồng. Chữ chỉ theo Tân biên H oa - Việt tự
điển là dấu vết in sâu trên mặt đất.
Có sách viết có nghĩa là vùng đất giao nhau, cũng đọc là
Giao Chỉ.
Cũng như tiếng Xích Quỷ người Hoa xưa quen gọi Giao Chỉ
có nghĩa là vùng đất xa xôi, không hẳn là một tên nước.
Tiếng Giao Chỉ sau là tên một bộ thời vua Hùng. Nhà Hán
đặt tên Giao Chỉ một quận là xứ Bắc Kỳ ngày nay. Nhà Tốhg
phong cho các vua Đinh, Lê, Lý là Giao Chỉ quận vương. Sau có
đổi là An Nam quốc, nhưng các vua Nguyên, Minh vẫn quen gọi
nước ta là Giao Chỉ.
Có những nước khác thòi xưa cũng gọi nước ta là Giao Chỉ.
TÊN XỨ LẠC VIỆT - Thời đại thưỢng cổ, xứ ta có tên là xứ Lạc
Việt, một xứ trong Bách Việt. Tiếng lạc có nguồn gốc từ chim lạc
(nay gọi là hạc) do người xưa đã theo đường di trú của chim lạc mà
đến lập nghiệp tại nơi này.
Lạc là giống chim án tôm cá, to con, mỏ dài, chân cao, sải
cánh rộng, có thói quen di trú, cùng họ vội giang, sếu, cò. Có tiếng
kêu cạc, lạc nên gọi là chim lạc.
Thòi đại xa xưa, khoảng hai ngàn năm trước công nguyên, ở
vùng đồng lầy lưu vực sông Âu, tỉnh Triết Giang bên Trung Quốc
ngày nay, cư dân là người Việt tộc có gốc gác Mônggôlôít lai Miến
Tạng sinh sông, hành nghề đánh cá. Cũng có săn bắn chim muông
và trồng trọt hoa màu ít nhiều. Thức ăn chính thì ngoài tôm cá có
trứng chim lạc. Nơi đây quần tụ vô vàn giốhg chim này. Chúng đẻ
trứng vung vãi khắp bò nước. Đòi sống của con người eo hẹp,
chẳng có chi trù phú mấy.
Đàn chim hàng năm, cứ đến mùa đông, có gió bắc thì bay đi
hết về phương nam. Người ở lại phải chịu rét mưốt, lại thiếu thốn
lương thực, tôm cá ít, trứng chim không còn, phải đào củ, hái rau
rừng ăn tạm. Đến khi có gió nam, đàn chim lũ lượt bay về, béo tốt,
lại đẻ nhiều trứng. Năm nào cũng như thế mãi. Hành động của
chim ảnh hưởng đến con người. Chúng bay đi, hết mùa rét lại trở
về, mạnh mẽ hơn trước. Thế thì nơi chúng đến phải là miền trù
phú, có đầy rẫy lương thực nuôi sống con người và động vật.
Không lẽ cứ ở nơi nghèo nàn này mà chịu đói rét mãi, chi bằng
theo hướng đi của chim lạc, tìm nơi đất lành, may ra có khấm khá
hơn. Có những trai tráng hăng hái đi xa tìm nơi dễ làm ăn sinh
sốhg. Công cuộc buổi đầu ra đi thăm dò được tổ chức với các con
thuyền độc mộc vượt biển, theo luồng gió bắc và hướng đi của
chim lạc, xuôi xuống miền nam. Các đọàn di cư thám hiểm đi đến
vịnh Bắc Kỳ khi ấy còn ăn sâu vào đất liền đổ bộ vào lưu vực sông
Hồng và sông Mã, thấy ở đây mọi sự đều tốt đẹp, còn hơn cả
những điều từ trước vẫn hằng trông đợi. Cây CỐI tốt tươi. Hươu,
nai, hoẵng, lợn, gà rừng rất nhiều. Hồ, đầm lại đầy rẫy tôm cá.
Đất lại màu mỡ, mầm khoai sọ bỏ xuốhg thì chỉ vài tháng đã thu
đưỢc chùm củ hàng ôm. Người bản địa thưa thớt và lạc hậu, còn
dùng đồ đá, chưa biết đến kim khí. Do không có sự va chạm quyền
lợi nên không có những vụ xua đuổi đánh giết nhau giữa thổ dân
và dân di cư đến lập nghiệp. Tất cả hứa hẹn đời sốhg ấm no.
Rất sung sướng khi tìm được đất mới tốt lành, di dân liền
khai thác vùng Giao Chỉ bấy giò còn gần như hoang dã. Sốhg
chung hoà bình vối người bản địa, chỉ bảo cho họ những cách săn
thú rừng, đánh bẫy chim, bắt tôm khéo léo hơn những cách làm
ăn của họ trước kia. Đến khi có gió nam, nhiều người trở vê' đất cũ,
10
khuyến cáo đồng bào đi lập nghiệp tại ndi đất hứa. Mọi người đều nô
nức đua nhau ra đi, mong cải tạo đòi sốhg cho được tốt đ^p. Từ đấy,
hàng năm cứ đến mùa có gió bắc, người người lũ lượt kéo nhau vượt
biển đi lập nghiệp tại phương nam, xứ sở mới phồn thịnh.
Do người di cư theo hướng đi của chim lạc mà đến nện gọi là
Lạc dân, ruộng đất họ khai thác được gọi là Lạc điền.
Dân Lạc nhập cư cùng với dân bản địa giông Anhđônêdiêng
cùng nhau sông chung trên đất Giao Chỉ, tạo nên giốhg người
Kinh Việt Nam, không giốhg như mọi dân Bách Việt khác, cũng
khác hẳn với giông người Hán.
HỒNG BÀNG LÀ TÊN MỘT THỜI ĐẠI HAY MỘT DÒNG HỌ NHÀ VUA
- Quốc sử xưa chép: Vua khai quốic dựng nghiệp họ Hồng Bàng.
Chữ Hán hồng là chim hồng, họ Hồng, lại có nghĩa là to lớn,
đồng nghĩa với chữ / i . B àng còn v iế t ^ y !^
cách nào đều có nghĩa là hậu hĩ, đầy đặn, lại còn có nghĩa là lẫn
lộn, rốì beng, tạp nhạp. Các còn đọc là m ang vẫn đồng
nghĩa. Chữ lại còn đọc là mông, nghĩa là, mông lung, không rõ
ràng. Người xưa giảng Hồng Bàng là họ to lớn.

Theo thiển ý, có lẽ rằng người đầu tiên viết Hồng Bàng, còn
đọc là hồng mang, hồng mông theo nghĩa sau để chỉ thời đại, tựa
như hỗn mang, là đòi thượng cổ xa xăm, mọi sự việc không truyền
lại được rõ ràng, rành mạch. Chỉ đây là tên dòng họ, e có sự lầm
chăng. Chừng như thời ấy có thể người nước ta chưa có mang tên
họ. Phải chăng có thòi đại hồng bàng, hồng mang, hồng mông, mà
không có họ Hồng Bàng?

KỶ CÁC VUA HÙNG


Thòi đại xa xưa, khoảng trước sau một ngàn năm tr. CN, các
thị tộc Lạc quy tụ thành bộ lạc, có Lạc tướng đứng đầu. Nhiều bộ
lạc hỢp thành liên minh bộ lạc, có thể là tiểu quốc sơ khai, có Lạc
hầu chỉ huy. Lãnh chúa tựa như những tù trưởng đòi sau, chưa có
sự xưng là vương. Thời ấy, chỉ có vua Trung Quốíc Hạ, Thương,
Chu mới xưng là vương.
Do đất rộng, ngưồi thưa, việc giao dịch giữa các bộ lạc, cũng
như các tầng lớp dân chúng đơn giản nên rất ít có sự va chạm giữa
các tổ chức hành chính.
ĐVSKTT chép: Đời Hồng Bàng, Kinh Dương vương, Lạc Long
Quân và mười tám vị Hùng vương trị vì từ năm Mậu Tuất đồng
11
thòi với Đế Nghi bên Trung Quốc đến năm Quý Mão tức năm thứ
37 đời Chu Noãn vương (2869 - 258 tr. CN), cộng 2622 năm, mỗi vị
ỏ ngôi 240, 250 năm. Vô lý! Thời gian này, bên Trung Quốic có các
triều đại Thần Nông, Ngũ Đế, Đường, Ngu, Hạ, Thương, Tây Chu,
có hàng một trăm mấy mươi vua. Ngọc p h ả đền Hùng ỏ xã Hy
Cương, Phú Thọ, do Nguyễn Cô" soạn năm 1472 chép dòng vua
Hùng khoảng trên năm mươi đòi, tồn tại trên 2500 năm. Theo một
câu đối thò ở đền Hùng thì triều Hùng gồm bô"n mươi hai vua. Các
điều này đều không đủ tin.
Việt sử lược chép: Đời Chu Trang vương (697 - 682 tr. CN, ở
bộ Gia Ninh có ngưòi giỏi học thuật, thu phục được các bộ lạc, lên
làm vua, xưng là Hùng vương. Xét có thể gần sự thật lại phù hỢp
với thần tích xã Tiên Lát, Bắc Giang chép vua Hùng dựng nước
năm 660 tr. CN.
Sử nước ta có lẽ chỉ mới bắt đầu từ đây. Còn về trước nữa đều
là truyền thuyết thời đại hồng mang, muôn phục nguyên cần phải
bổ sung tài liệu khảo cổ học.
Khoảng thế kỷ thứ VI hay sớm lắm là thế kỷ thứ VII tr. CN,
dân Lạc Việt có người anh hùng ở bộ Gia Ninh (Vũ Ninh, Bắc Ninh?)
đa mưu túc trí, tài cao dũng lược, thu phục được các bộ lạc, khai cơ
sáng nghiệp, dựng nên một nước có quy mô rộng lớn, tổ chức hoàn bị,
tự xưng làm vua, lấy hiệu là Hùng vương, sử chép quốc hiệu là Văn
Lang. Có thể vì người Trung Quốc thấy người nước ta xâm vẽ mình
nên gọi là người Văn Lang, đất nước cũng gọi là Văn Lang. Đô kỳ
đóng ở vùng phủ Lâm Thao, Phú Thọ bây giò, đời sau di về huyện
Bạch Hạc, Vĩnh Yên, xưa đều thuộc Phong Châu.
Giúp vua trị nước có các Lạc hầu, Lạc tướng. Con trai vua
gọi là quan lang, con gái gọi là mỵ nương. Quan coi việc gọi là bồ
chính. Lãnh thổ gồm Bắc Kỳ và bắc Trung Kỳ ngày nay đến đèo
Hải Vân. Đất nước chia làm mười lăm bộ (tựa như tỉnh). Quốc sử
có chép tên và vị trí các bộ. Tên bộ chữ Hán gần với tên các hạt
sau này, có thể là do người sau tự đặt ra.
Đòi bấy giò đời sông đơn sơ, phong tục giản dị. Dụng cụ còn
bằng đồng thau, chưa biết đến dùng sắt. Buổi đầu chưa có chữ,
người ta thắt nút dây hay khắc vạch dấu trên tre, gỗ, xương làm
dấu vết sự việc. Gia đình tổ chức theo phụ hệ, có tục ăn trầu,
nhuộm răng đen như người Thái, người Mã Lai. Y phục thường thì
đàn ông đóng khô", đàn bà mặc yáy, khác với người Hán bên Trung
Quốic. Phần đông dân chúng hành nghề đánh bắt cá sông và biển.
12
Tóc cắt ngắn, mình mẩy xăm vẽ hình thuỷ tộc do để khi ngâm
mình xuốhg nước, các giông giao long, thuồng luồng lầm là đồng
chủng, không làm hại. Cũng có sán bắn và đánh bẫy muông chim
nhưng không nhiều, v ề canh nông, người Lạc Việt đã sốm biết lợi
dụng thuỷ triều lên xuốhg, trồng cấy cây lúa nước nơi ruộng thấp,
ơ miền trung, thượng du có lốì làm rẫy, đao canh thuỷ chủng,
chặt cây rồi đốt đi, xối đất, cuốc cỏ, tưới nước vào cho thối lá cây
cỏ, đổ bùn, rồi đào hô", gieo hạt.
Các vua nôi nghiệp sau cũng xưng là Hùng vương trị nước
hơn 400 năm. Không rõ có bao nhiêu vỊ, cùng một hay nhiềũ dòng
họ. Quốc sử chép có mười tám đòi vua có lẽ cũng gần sự thật. Có
sách chép hiệu các vua Hùng là Hùng Võ, Hùng Uy, Hùng Hy...
vương, chừng như phỏng theo hiệu các vua nước sở. Theo thần
tích xã Tiên Lát, huyện Việt Yên, Bắc Giang thì vị vua đầu tiên
mỏ nước (Quốc tổ) tên là Đức, người xã này xưng vương năm 660
tr.CN, có hiệu là Hùng Tạo vương. Không có tập sử sách xưa nào
chép việc này. Có sách chép Tạo vương là vua Hùng thứ 15. Thần
tích có thể thật, nhưng không chắc chắn hẳn đã là thực. Việc này
còn cần phải xét lại.
Thòi đại bấy giờ, bên Trung Quốc là thời Xuân Thu Chiến
Quốc. Nhà Chu suy, chư hầu mạnh lên thôn tính lẫn nhau, hỢp
nhiều nước nhỏ thành nước lớn, loạn lạc lung tung. Nước ta không bị
xâm lược do xa các cường quốc và cũng đã có được quân đội mạnh.
Thân thuộc nhà vua và tướng sĩ các nước bị phá không
phục kẻ chiến thắng, chạy sang miền nam. Đây là trường hỢp
dân Ngô, Việt, sở chạy sang quy phục Hùng vương, đem chữ
Hán, lễ nghi, phong tục người Hoa, truyền bá ảnh hưởng đến
triều đình và các quý tộc nên mới có việc gọi các chức vụ và địa
hạt bằng tiếng Hán.
Hiện nay, tại xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, còn có phần
mộ và đền vua Hùng. Tại huyện Bạch Hạc, Vĩnh Yên có đền lớn
thờ các vua Hùng tương truyền dựng trên nền cung điện xưa.
Các Hùng vương là những vị vua có thật đời thượng cổ hồng
mang. Sơ sử chỉ ghi chép qua loa sự việc về đại cương. Các vị
Thánh Gióng, Chử Đồng Tử, Tản Viên, Cao Sơn, Quý Minh có thể
là những người có thật mà đã được thần thánh hoá. Truyện cốhg
rùa vàng lên vua Nghiêu khá mơ hồ. Việc sứ giả Việt Thường
13
dâng bạch trĩ lên Chu Thành vương (1104 - 1068 tr. CN) chắc có
thật. Đất Việt Thường nay là các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị,
Thừa Thiên, xưa là một bộ miền cực nam nước Văn Lang, có thể có
thuyền vượt biển đi sang Trung Quốc được.
Khoảng cuối thế kỷ thứ III hoặc đầu thế kỷ thứ II tr. CN,
vua Hùng CUỐI cùng, s ử chép là đời thứ XVIII bị vua Thục nước Âu
Việt đánh bại, bị diệt.'

KỶ NHÀ THỤC
ơ phía đông bắc xứ Lạc Việt có xứ Âu Việt gồm đất các tỉnh
Lạng Sơn và Hải' Ninh nưốc ta ngày nay và châu Khâm, châu
Liêm tĩnh Quảng Đông (Trung Quốc), sau có thời gọi là quận HỢp
Phô", có họ Thục làm lãnh chúa. Khoảng cuôl thế kỷ thứ III tr. CN,
Thục vương Phán đánh chiếm đất nước Văn Lang, hỢp nhất đất
Âu Việt và Lạc Việt, gọi là nước Âu Lạc, xưng là An Dương vương.
ĐVSKTT chép: Xưa Thục vương cầu hôn Mỵ Nương, con
gái Hùng vương, bị nghi là mưỢn cớ dòm ngó Văn Lang, không
đắt, để lòng oán giận, dặn lại con cháu phải kiêm tính đất nước
ấy. Đến cháu là Phán dũng lược mổi đem quân sang đánh. (Đây
chỉ là sự viện ra cho có cớ. Thực sự, Thục Phán xâm lăng chiếm
đất lân quô"c để mở rộng thêm đất đai, như các chư hầu bên
Trung Quốc thòi ấy).
ĐVSKTT lại chép: An Dương vương là người Ba Thục. (Đất
nước này nay là tỉnh Tứ Xuyên - Trung Quốic). VNSL theo
VSTGCM bác bỏ thuyết này, nói đất Ba Thục đã bị nhà Tần chiếm
từ lâu, đâu còn vua nào nữa. Thục chỉ là họ độc lập ỏ gần nước
Văn Lang. Ngưồi theo thuyết trước lại cho rằng sau khi Ba Thục
bị chiếm, con cháu vua nước này chạy xuông phương nam, lập nên
nước Thục trên đất Âu Việt.
Non sông đổi chủ, các Lạc hầu, Lạc tưống trước thuần phục
vua Hùng thì bây giò lại triều công vua Thục. Còn quần chúng
nhân dân thì gần như không có gì thay đổi, thời nào thì cũng phải
đóng tô thuế, chịu sưu dịch. Do không bị áp bức gì mấy, mà ngôn
ngữ, phong tục Âu Việt cũng không xa lạ nên người Lạc Việt
không hận thù nhà Thục chiến thắng.
14
An Dương vương đóng đô ỏ thành cổ Loa, trên đất Văn Lang cũ,
thuộc huyện Đông Anh - Phúc Yên, nay thuộc ngoại thành Hà Nội.
Loa Thành là một công trình kiến trúc vĩ đậi, từ ngoài đi vào
thì xoáy trôn ốc nên có tên gọi thế, gồm ba vòng trong ngoài cao
rộng, có sông Hoàng chảy qua thuận lợi cho việc đi lại trong vùng
xuôi sang sông cầu và sông Thái Bình. Thành luỹ có nhiều vọng
gác là nơi đóng quân kiên cố.
Thục vương dùng tướng Cao Lỗ (có sách chép Cao Thông) chế
ra kiểu nỏ bắn ra được nhiều tên có mũi bằng đồng. Bấy giờ là thứ
khí giói tiến bộ, rất lợi hại, giúp cho quân sĩ giữ nước.
Dưới triều vua Thục, nước ta có Lý ỏng Trọng, người Từ
Liêm, vóc to lốn, có sức mạnh phi thường, sang làm quan nước
Tần đến chức tư lệ hiệu uý, chốhg giữ quân Hũng Nô.
Ngang với thòi gian vua Thục trị vì bên ta thì bên Trung
Quốc, nhà Tần thôn tính sáu nước, thông nhất thiên hạ. Tần Thuỷ
Hoàng bỏ chế độ phong kiến, lập ra chế độ trực trị, còn gọi là chế
độ quận huyện: Việc cai trị các địa hạt xa gầư đều do quan lại
triều đình bố dụng, có thuyên chuyển, thăng giáng, cách bãi.
Nâm 218 tr. CN, Tần Thuỷ Hoàng sai hiệu uý Đồ Thư đem
50 vạn quân, chia ra làm năm đạo, kéo xuốhg phương nam đi
đánh Bách Việt. Chúng phải vất vả lắm mới kéo nhau đến đất
Việt: Mân Việt, Tây Âu... giết quận trưỏng Dịch Hu Tông, chiếm
đất Lĩnh Nam, lập ra các quận Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm
(Quảng Tây và Tượng (miền tây Quảng Tây và đất Quý Châu).
(Có sử gia ta đã lầm Tượng Quận là đất Âu Lạc, Quế Lâm là đất
Lâm Âp). Người Việt Tây Âu không chịu khuất phục, kéo nhau
vào rừng tổ chức kháng chiến, cử người tuấn kiệt làm chủ tưống,
ngày lui đêm đánh, quấy phá quân Tần. Họ đưỢc quân dân Âu Lạc
tích cực giúp đỡ. Tình thế quân Tần gay go. Hành động này không
phải là cử chỉ hào hiệp chỉ vì ở trong tình thế phải giúp người để
giữ mình, môi hở thì răng lạnh.
Năm 214 tr. CN, để giúp cho quân sĩ đang chiến đấu mệt nhọc,
Tần Thuỷ Hoàng cử Nhâm Ngao (còn có âm là Hiêu) sang làm đô uý
quận Nam Hải và Triệu Đà làm huyện lệnh Long Xuyên (thuộc Nam
Hải), đem thêm 10 vạn dân nghèo, loại tù tội, buôn đồ vặt, ở rể... sang
cho ở lẫn với người bản xứ, nhằm trấn an họ.
Quân dân Tây Âu vẫn tiếp tục kháng chiến mãnh liệt. Quân
Tần luôn luôn bị đánh phá thiệt hại nhiều, ăn không ngon, ngủ
không yên. Trong suốt mười năm, đàn ông không cởi giáp, đàn bà
15
phải chuyên chở, khổ không sông nổi. Nhiều ngưòi tự thắt cổ ở cây
trên dọc đường. Hiệu uý Đồ Thư cũng bị giết. Có thể có việc quân
Tần đã đánh sang Âu Lạc và bị khôn.
Tổ chức định cư cho đám di dân xong, Nhâm Ngao và Triệu
Đà chuyển sang đánh Âu Lạc. Nám 210 tr. CN, Ngao và Đà dẫn
quân xâm lược nước ta. Ngao đóng quân ở Tiền Giang nay là bến
Đông Hồ - Bắc Ninh. Đà đóng quân ở núi Tiên Du nay thuộc Bắc
Ninh. Nhiều trận đánh nhau lớn diễn ra ở vùng này và gần thành
Cổ Loa. Quân dân Âu Lạc giữ vững trận thế, địch nao núng không
tiến lên đưỢc. Ngao bị bệnh, vội trở về Nam Hải. Đà cô" đánh, bị
thua luôn, lui về Vũ Ninh, sai sứ sang xin giảng hoà và xin kết
thông gia. An Dương vương thuận cho. Con Đà là Trọng Thuỷ lấy
Mỵ Châu, sang ở rể. Trọng Thuỷ khéo chiều chuông vua, dò biết
được địa thế và tình hình quân sự bên ta, lại bày những trò vui
khiến vua Thục dam mê đàn hát yến ẩm, sao nhãng việc võ bị,
không dùng tướng tài Cao Lỗ.
Cuối năm 210 tr. GN, Tần Thuỷ Hoàng băng. Nông dân
Trung Quốc khắp nơi nổi dậy chông đối nhà Tần bạo ngược. Tướng
tá Tần ở vùng xa xôi nhiều người đua nhau cát cứ. Nhâm Ngao ở
Hoa Nam, bàn với Đà: Đất Phiên Ngung dựa núi cách sông, phía
đông phía tây đều mấy ngàn dặm. Ta nên nhân cơ hội dựng
nghiệp vương, làm chủ một phương. Ngao không thọ, Đà thống
lĩnh quân đội, lập bè đảng, chặn các đường hỢp binh để tự giữ, giết
các trưỏng lại nhà Tần, đem thân thích phe phái làm thái thú,
được các châu quận hưởng ứng.
Năm 208 tr. CN, Triệu Đà đem quân sang đánh Âu Lạc. An
Dương vương thì sau chiến thắng lần trưốc, tự coi mình anh hùng,
ăn chơi quá độ, việc võ bị bỏ sơ khoáng nên bị quân Triệu đánh
thua, chạy ra biển Diễn Châu, nhận rõ con gái phản bội, giết đi,
rồi nhảy xuốhg biển tự tử.
Sau quân dân Âu Lạc theo tướng Cao Lỗ chông lại quân
Triệu, cũng không lại.
Họ Thục làm vua một đồi trong 50 năm.

Quốc sủ chép: Triệu Đà đánh An Dương vương lần sau năm 208 tr.
CN, tức sau lần trước hai năm, trưốc khi lên ngôi xUng hoàng đế. Bắc
sử lại chép Triệu Đà thôn tính Âu Lạc sau khi quy thuận nhà Hán lần
thứ hai, tức sau năm 179 tr. CN, tức sau lần trưốc đến 30 năm. Bắc sử
chép sai thời gian chăng?
16
Theo ĐVSKTT, Thục Phán đánh lấy nưốc Ván Lang năm 257 tr.
CN, bị Triệu Đà đánh thua năm 208 tr. CN, làm vua được 50 năm.
Theo Bắc sử thì Triệu Đà chỉ thôn tính Ảu Lạc sau khi quy thuận nhà
Hán lần thứ hai, tức là sau nàm 179 tr. CN. Nếu vậy thì An Dương
vương đã trị vì đến 80 năm và phải thọ trên 100 tuổi.
Bắc sử chép: Tần Thuỷ Hoàng sai Đồ Thư đi đánh Bách Việt gặp
nhiều khó khăn, khôn quẫn, chứ không nói đi đánh Giao Chỉ. Không
rõ quân Tần có xâm nhập đất nước ta hay không. Sử gia có người cho
là có. Nói người nưốc ta không phục, bỏ trôn tránh, không chịu cung
ứng lương thực cho quân xâm lăng. Chúng bị thiếu thôn cái ăn, lại là
người xứ lạnh, rất khổ sở về khí hậu nóng nực phương nam ta. Nhiều
kẻ bị đau ô"m. Quân ta mới nổi dậy đánh đuổi chúng. Có thể người viết
thê do tự ái dân tộc, chủ quan, muôn nói lên rằng đồng bào ta xưa lần
thứ nhất đã chiến thắng bạo Tần, đời sau nhà Trần lại lần đầú tiên
chiến thắng quân Mông cổ hùng mạnh. Xét việc dân ta đánh lui quân
Tần không chắc chắn có thực vì khắp trong nước không đâu có đền thờ
Dịch Hu Tông, người lãnh đạo kháng Tần.
Có sách chép; Quân Tần xâm nhập đất Âu Lạc. An Dương vương
phải chịu quy phục, nộp công phẩm và dâng hiến tướng tài Lý ông
Trọng. Việc này xét không có thực. Người viết đã lầm Tượng Quận là
đất ta và đất Champa.
Lại có thuyết Thục Phán là dòng dõi vua Ba Thục. Nước Thục bị
nhà Tần diệt. Con cháu nhà vua Thục chạy xuông miền nam. Phán
đến Văn Lang nương nhờ Hùng vương XVIII. Là tướng tài, Phán đẩy
lui được quân Tần sang xâm lăng. Đại thắng giặc mạnh, Phán bức
bách vua Hùng nhường ngôi. Làm vua Âu Lạc 24 năm, sau bị Triệu
Đà đánh thua.

17
THỜI ĐỢI BHC THaộC
KỶ THUỘC NHÀ TRIỆU
TRIỆU VŨ VƯƠNG - Triệu Đà, người Hoa gổic huyện Chân Định,
làm quan nhà Tần, lĩnh chức Long Xuyên lệnh, sau thay Nhâm
Ngao làm Nam Hải uý. Nhà Tần suy, Đà chiếm giữ đất ba quận
Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (huyện Minh Quý - Quảng Tây)
và Tượng Quận (miền tây Quảng Tây và phần đất Quý Châu),
năm 207 tr. CN, tự xưng làm vua, đặt tên nước là Nam Việt, đóng
đô ở Phiên Ngung, gần thành Quảng Châu bây giò, lấy hiệu là
Triệu Vũ đế.
Đốĩ với ta, Triệu Đà là kẻ xâm lăng cướp nước. Do có tên
nước là Nam Việt nên sử gia ta xưa đã lầm, chép là vua chính
thông, khai sáng cơ nghiệp. Thời Hậu Lê, Ngô Thì Sĩ đã cải chính
mà người sau vẫn gọi là vua ta. Người Hán cho Nguyên, Thanh
xâm lược là vua họ, vì đóng đô trên đất Trung Quốc cũ. Nhà Triệu
đóng đô bên ngoài đất Ảu Lạc, nếu ta nhận nhà Triệu là vua ta thì
Hán, Đường cũng là vua ta cả.
Năm 206 tr. CN, Hán Cao Tổ thông nhất Trung Quốc. Việc
cai trị vẫn theo chê độ trực trị quận huyện, riêng các vùng xa xôi
còn giữ chế độ phong kiến (theo nghĩa hẹp). Năm 196 tr. CN, sứ
nhà Hán Lục Giả sang dụ nhà Triệu quy thuận nhà Hán. Đà
thoạt đầu không chịu nhưng sau biết thế nhà Hán mạnh nên chịu
nghe theo, chỉ còn xưng là vương. Đến lúc Lữ Hậu cầm quyền,
cấm bán đồ sắt cho dân Nam Việt, Đà tức giận cắt đứt quan hệ với
nhà Hán, lại xưng hoàng đế, đem quân đi đánh đất Trường Sa.
Bên Hán sai Chu Tác đem quân đánh Nam Việt. Binh sĩ Hán
không quen thời tiết chết hại nhiều. Năm 180 tr. CN, Lữ Hậu
chết, nhà Hán bãi binh. Hán Ván đế lên ngôi. Đà trở lại quy thuận
nhà Hán. (Bắc sử chép sau vụ này, mặt bắc đã yên, Đà mới quay
về phương nam, thôn tính Ảu Lạc).
Triệu Đà thống trị Âu Lạc, chia đất làm hai quận: Giao Chỉ
(Bắc Việt) và Cửu Chân (Bắc Trung Việt ngày nay). Mỗi quận đặt
chức điển sứ giữ việc cai trị, thu công phú và chức tả tướng chỉ
huy quân đội trú phòng, nói là để giữ trị an cho dân chúng, thực
18
sự là để đề phòng dân bản xứ nổi dậy chốhg đốì. Phần lớn các nhà
quý phái Lạc hầu, Lạc tướng, lại đổi chủ, phục tùng vương triều
nhà Triệu nhưng bị đặt dưới quyền kiểm soát của điển sứ, tuy
không chặt chẽ lắm. Nhân dân phải đóng góp nhiều hơn trước
phần nào để trả lương quan lại, binh sĩ trú phòng. Do không nặng
nề lắm nên không có sự thù oán
Dưới triều nhà Triệu, có sự truyền bá chữ Hán và lễ giáo
phong tục của Trung Quốc sang bên ta. Ánh hưởng văn hoá Hán
không sâu rộng mấy, chỉ đến tầng lớp quý tộc. Duy có sự tiến bộ về
nông nghiệp; Người nước ta biết dùng đồ sắt như cày, bừa, mai,
cuốíc thay đồ đồng thau nhưng các nông cụ này phải mua đắt của
người Hán.
Năm 137 tr. CN, Triệu Vũ vương băng, ở ngôi 70 nám, thọ
121 tuổi (?!). Vũ vương là người anh hùng nhưng các vua kế
nghiệp: Văn vương Hồ, Minh vương Anh Tề đều hèn kém.
TRIỆU VẢN VƯƠNG - Cháu Vũ vương là Hồ, con Trọng Thuỷ,
nôl ngôi, tức là Triệu Văn vương.
Văn vương nhu nhược. Năm 135 tr. CN, quân Mân Việt kéo
sang đánh. Văn vương không chốhg cự, sai sứ sang cầu cứu Hán
triều theo lời ước trước. Hán Vũ đế sai Vương Khôi và Hàn An
Quốc cử quân đi đánh Mân Việt. Người nước này giết quốc vương
xin hàng. Nhà Hán nhân dịp vòi Văn vương sang hầu để dụ dỗ
đem nước phụ thuộc Hán.
Tướng Lữ Gia khuyên không nên đi, nên sai con là Anh Tề
sang làm con tin.
Anh Tề ở Hán mười năm, chịu ảnh hưởng Hán, lấy Cù thị,
người Hàm Đan đất Hán.
Năm 125 tr. CN, Triệu Văn vương khuất, ở ngôi 12 năm, thọ
52 tuổi.
TRIỆU MINH VƯƠNG - Anh Tề về nốỉ ngôi, ấy là Triệu Minh
vương. Phong Cù thị làm hoàng hậu, con Cù thị là Hưng làm thái tử.
Cù thị thường khuyên Minh vương theo về Hán. Thị lại có quan hệ
xấu với viên quan nhà Hán là An Quốc Thiếu Quý, mỗi lần về kinh
Trường An bắt đem theo nhiều người Việt bán làm nô nên bị triều
thần không ưa. Thị càng có ý đem Nam Việt nộp cho nhà Hán. Bấy
giò vua Hán Vũ đế cường thịnh, cương quyết xâm chiếm Nam Việt,
nắm được chỗ yếu của nhà Triệu, ra tay tổ chức công cuộc xâm lược,
sai sứ sang dụ dỗ Minh vương dâng đất, sẽ được lĩnh một chức quan
như chư hầu nội địa Hán. Tể tướng Lữ Gia, người Lạc Việt và một sô"
19
triều thần bàn không nên thuận theo. Trong tình trạng bốì rốĩ, năm
113 tr. CN thì Minh vương mất. Cái chết này chừng như không bình
thường. Minh vương ở ngôi 12 nám.
TRIỆU AI VƯƠNG - Thái tử Hưng lên nôi ngôi. Ây là Triệu Ai
vương. Ai vương còn ít tuổi, Cù thị làm thái hậu nhiếp chính.
Cù thị muôn đem con về Hán. Triều thần Nam Việt nhiều
người muôn giữ độc lập. Hán triều trước đây cử bọn An Quốíc
Thiếu Quý sang du thuyết thì một mặt sai vệ uý Lộ Bác Đức đem
quân đóng ỏ Quế Dương để làm áp lực. Tình thế gay go. Cù thị
mưu sát Lữ Gia, người đứng đầu đảng độc lập, không thành. Lữ
Gia thoát chết, cương quyết hành động. Nhà Hán cử Hàn Thiên
Thu và Cù Lạc - em Cù thị - đem hai ngàn quân đánh vào đất
Nam Việt. Lữ Gia họp bách quan, mở cuộc đình nghị, kể tội Cù thị
và bè phái, rồi đem giết hết. Ai vương và An Quốc Thiếu Quý cũng
bị giết. Bấy giò là năm 112 tr. CN. Ai vương ở ngôi một năm.
TRIỆU DƯƠNG VƯƠNG - Lữ Gia tôn con trưởng Minh vương là
Thuật Dương hầu Kiến Đức, có mẹ đẻ người Việt, lên làm vua. Ây
là Triệu Dương vương.
Lữ Gia chuẩn bị kháng chiến. Mùa đông năm ấy, quân đội
của Hàn Thiên Thu và Cù Lạc xâm nhập biên giới, phá một sô"
làng ấp, tiến vào phía thành Phiên Ngung. Lữ Gia tiến quân ra
chặn, đánh tan quân xâm lược.
Hán Vũ đế hay tin, tức giận, quyết định chiếm bằng được đất
Nam Việt, cử đại binh mở cuộc tấn công quy mô rộng lớn, sai Phục
Ba tướng quân Lộ Bác Đức và Lâu Thuyền tướng quân Dương Bộc
đem ba vạn quân (thòi ấy sô" này đã là nhiều lắm) sang đánh.
Quân xâm lược gồm năm đạo, từ Quế Dương, Dự Chương, Linh
Lăng, Thương Ngô, Dạ Lang, rầm rộ kéo đến Phiên Ngung.
Năm 111 tr. CN, quân Hán hội họp lại tấn công thành này,
thê" rất hung dữ. Quân đội Lữ Gia chông chọi lại mãnh liệt nhưng
không lại được với giặc đông đúc hung tợn. Thành Phiên Ngung bị
hạ. Lữ Gia dẫn Dương vương chạy sang đất Giao Chỉ, đến núi
Nghiêm Trang (núi Ngăm, nay thuộc Nam Định), bị giặc bắt cùng
với một sô" tướng tá đưa sang Hán. Điển sứ và tả tướng hai châu
Giao Chỉ và Cửu Chân, đều hàng, được giữ chức cũ.
Quận trưởng Tây Vu, vùng Thái Nguyên, Tuyên Quang bây
giờ, xưng là Tây Vu vương, tụ tập quân dân Việt chông lại quân
Hán, giữ độc lập. Lực lượng nghĩa quân không được mạnh lắm,
không bao lâu cũng bị bại vong.
20
Đất nước Âu Lạc xưa, từng thuộc Triệu, đến đến đây phải
chịu nhà Tây Hán đô hộ.

Lữ Gia người Lạc Việt, quán xã Lật Sài, huyện Thạch Thất, phủ
Quôc Oai, Sơn Tây. Tại nơi đây nay còn có đền thờ, gần hang Hoàng Xà.
Tại xã Côi Sơn, gần núi Ngăm, huyện Vụ Bản (Nam Định) cũng có đền
thờ. Sử gia Lê Văn Hưu chê Lữ Gia giết vua lại không giữ được nước.
Nhiều người nghĩ khác, cho rằng Lữ Gia biết lấy giang sơn là trọng. Phê
bình thì không phải chỉ thành công mới đáng khen.
Nước Nam Việt do Triệu Đà dựng nên. Quan lại phần nhiều
dùng người Hán nhưng dân chúng thì người giông Hán lại là thiểu
sô", chỉ gồm đám 10 vạn dân nhà Tần đưa sang lập nghiệp cho ở lẫn
với người bản thổ. Cư dân Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận thuộc
các sắc tộc Việt trong Bách Việt: Đông Việt, Nam Việt, Tây Âu
Việt... gần với dân Lạc Việt, Âu Việt hơn là dân Hán tộc. Sau gần
một thê kỷ thuộc Triệu, lễ giáo phong tục Hán du nhập thì ảnh
hưởng chỉ đến đám quý tộc và thị dân, còn quần chúng không biến
đổi gì mấy. Trong cộng đồng các người Việt này, Lạc Việt tuy ở cực
nam nhưng đông đúc hơn hết. Lữ Gia, người Lạc Việt, ra làm quan
ngay từ khi Triệu Đà còn sông cầm quyền.
Nếu nước Nam Việt còn tồn tại được lâu dài thì đây là một Đại Việt
gồm nhiều sắc dân Việt, mà Lạc Việt là dân đa số, có địa vị quan trọng
trong cộng đồng. Sau ngàn năm thuộc Hán... Đường, dân Nam Hải,
Quê Lâm - Lưỡng Quảng ngày nay - bị Hán hoá nhiều thành ra xa cách
với ta. Thời Bà Trưng khỏi nghĩa, vẫn còn một số người Việt khác sắc
tộc hưởng ứng chông lại nhà Hán. Sau thì người dân Âu Việt ỏ bắc HỢp
Phô" cũng bị Hán hoá.

KỶ THUỘC TÂY HÁN


Năm 111 tr. CN, nhà Hán đánh chiếm đất nước Nam Việt,
chia ra làm 9 quận: Nam Hải (Quảng Đông), Thương Ngô (Quảng
Tây), Uất Lâm (Quảng Tây), Châu Nhai (đảo Hải Nam), Đàm Nhĩ
(đảo Hải Nam), đất Ảu Lạc cũ gồm 4 quận: HỢp Phô" (đông Quảng
Đông), Giao Chỉ (Bắc Việt), cửu Chân (Thanh, Nghệ, Tĩnh), Nhật
Nam (Bình, Trị, Thiên, Nam, Nghĩa). Sau bãi hai quận đảo Hải
Nam sáp nhập vào HỢp Phô".
Tại mỗi quận đặt thái thú cầm quyền cai trị, chuyên trông
coi việc hành chính và thu phú cống. Bên thái thú là quan văn, có
đô uý chỉ huy quân đội, giữ an ninh, đàn áp các vụ chông đô"i.
21
BẢN e ó N ư ớ c TA THỜI TH U Ộ C HÁN

Trên các thái thú có chức thứ sử, còn gọi là châu mục, đề cử
và kiểm tra các quan lại đô hộ. Phủ trị thứ sử đóng ở Long Uyên,
có sách chép là Luy Lâu, nay là xã Lũng Khê phủ Thuận Thành
(Bắc Ninh). Thứ sử đóng trên đất quận Giao Chỉ, toàn cõi gọi là
Giao Chỉ bộ. Thứ sử đầu tiên là Thạch Đái.
Các quý tộc bản xứ có thế tập: Lạc hầu, Lạc tướng thì chính
quyền đô hộ vẫn dùng giữ chức huyện lệnh tức huyện trưởng, cai
trị dân chúng, dưới quyền thái thú.
Dưới ách thống trị nhà Hán, nhân dân ta cực khổ. Thòi thuộc
Triệu còn đỡ, sang thời Hán trực trị thì quá tệ. Không kể thuê má
cao, dân ta còn phải lặn xuông biển kiếm đồi mồi, trai có ngọc, lên
rừng săn voi, tê giác lấy ngà, lấy sừng, tìm hương liệu, gỗ quý, lao
dịch nặng nhọc và nguy hiểm. Các công việc phục dịch chính
quyền như xây thành trì, đắp đồn luỹ, làm đưòng sá thì không
22
đáng kể. Đàn bà, con gái không phải đi phu thì bị bắt đưa làm nô
tỳ, hầu hạ nhà các quan. Các quan cai trị người Hán sang ta đều
tham nhũng, chẳng nhiều thì ít. Còn bọn quý tộc bản xứ thì xu
nịnh bọn thông trị, bóc lột đồng bào. Suốt 150 năm thuộc Tây
Hán, dân tình khổ cực mà không có cuộc nổi dậy quy mô lốn nào,
do bình dân không có người tài giỏi lãnh đạo, mà bọn quý tộc lại
đứng về phe quân cướp nước.
Bắc sử có chép: Người Hán dẫn dắt dân man di theo vương
hoá, dạy dân lễ nghĩa, phong tục Trung Quốc. Việc này trước
Triệu Đà đã cho thi hành, ảnh hưởng chẳng được mấy. Lại đâu có
phải cái gì của Trung Quốc cũng hay, cũng tốt cả. Bắc sử có chép:
Triệu Qua, đô uý Cửu Chân, dạy dân trước chỉ biết đánh cá, cày
ruộng bằng trâu bò phổ biến cách canh tác luân lưu ba mảnh, gọi
là phép đại điền. Dân Lạc Việt đã sớm biết trồng lúa trên ruộng
nước, đâu phải nhò đến người Hán dạy cày cấy. Có chăng có cải
tiến phần nào về nông nghiệp.
Năm 8 sau CN, tại Trung Quốc, Vương Mãng thoán ngôi nhà
Hán. Các quan nhà Hán ở bộ Giao Chỉ: thứ sử Đặng Nhượng, thái
thú Tích Quang, Đỗ Mục tự chuyên, không nạp cốhg phú cho
Vương Mãng. Sau khi Quang Vũ phục quốc năm 24, chúng lại sai
người về công hiến, được phong liệt hầu.
Trung Quốc gặp loạn Vương Mãng, từ năm 8 đến 24, có hàng
trăm quý tộc người Hán chạy sang lập nghiệp bên xứ ta, được các
quan cai trị người Hán giúp đỡ. Bọn chúng trắng trỢn tước đoạt
ruộng đất của nhân dân ta, hoặc lấy không, hoặc trả giá rẻ mạt,
đem phân phối cho họ. Có thêm lũ quý tộc người Hán này, nền
thông trị càng được củng cố’. Tích Quang, thái thú Giao Chỉ, mỏ
trường dạy chữ Hán cho các con cái quý tộc Hán, cùng con cái các
quan Lạc hầu, Lạc tướng. Ngoài ra còn còn lấy vào sô" ít ngưòi bản
xứ để sau tuyển dụng làm lại viên (thư ký) cho các quan người
Hoa (Thời ấy ở ta chưa có tầng lớp sĩ phu).
TÍCH QUANG - Người Hán Trung, năm 2 sau CN sang làm thái
thú Giao Chỉ. Sử cũ chép ông hết lòng khai hoá dân ta, dạy dân lễ
nghĩa, đưỢc dân trong quận nhiều người kính phục. Chữ Hán và lễ
giáo Hán tộc được truyền bá rộng rãi trên đất Giao Chỉ.
NHÂM DIÊN - Người huyện Uyên, Nam Dương, năm 20 được
cử sang làm thái thú quận cửu Chân. Dân quận này bấy giờ làm
nghề chài lưới đánh cá và săn bắn, có đất rộng mà ít biết khai
thác. Nhâm Diên khuyến khích việc khai khẩn ruộng đất, cải tiến
23
nông nghiệp, dùng điền khí bằng sắt, dùng trâu bò kéo cày bừa.
Dân tự túc đưỢc lương thực, ông lại dạy dân nghi lễ cưới hỏi, bắt
lại thuộc trong quận nhường một phần lương bông cho những kẻ
nghèo lấy vỢ. Bấy giò có đến hơn 2000 người lấy nhau, năm mưa
thuận gió hoà, mùa màng phong đăng. Nhiều người sinh con đặt
tên là Nhâm để ghi nhớ ơn. Nhâm Diên lại cho đúc đồ điền khí,
sửa đổi tục lệ cư dân bằng cách phô biến nghề làm mũ khiến dân
đội, nghề khâu giầy khiến dân đi. Lại giảm bớt sô" lính canh
phòng, khiến họ đi khẩn hoang, ông ở châu 4 năm, dân quận nhớ
ơn lập đền thờ.

Sử gia ta xưa cực lực ca tụng công đức Tích Quang, Nhâm
Diên. Ngô Sĩ Liên nói: Đất Lĩnh Nam thành văn hiến kể từ Tích
Quang‘và Nhâm Diên. Người khác lại cho rằng Tích Quang, Nhâm
Diên tiến hành công tác đưa nhân dân ta vào đường Hán hoá. Nếu
có nhiều quan cai trị như hai ông thì nước ta chỉ còn là một tỉnh
của Trung Quốíc. Ke ra thì những ông này còn hơn hẳn lũ quan chỉ
vơ vét.
Về thời Bắc thuộc, sử gia ta xưa chép, chừng như thiếu tài
liệu, thường chỉ phỏng theo Bắc sử. Mà Bắc sử thì rất chủ quan,
hay che đậy những cái kém, những tội lỗi và phóng đại công nghiệp
của người nưốc họ. Dần Lạc Việt đâu có phải đến thế kỷ thứ I do
người Hán dạy bảo mối biết đến nông nghiệp.

Các Sắc dân Bách Việt thì Dương Việt (Giang Tây) và Ô Việt
(Triết Giang) đã sớm Hán hoá, kế đến Mân Việt cũng theo đà ấy.
Còn Đông, Nam Việt (Quảng Đông) và Tây Âu Việt (Quảng Tây)
cùng chung sô" phận với Lạc Việt ta nhưng sau rồi cũng Hán hoá,
mất gốc. Riêng người Lạc Việt có truyền thô"ng yêu giông nòi, yêu
đất nước, tiềm tàng từ đòi nọ sang đòi kia vẫn son sắt vững vàng
giữ được tiếng nói và phong tục nên sau hơn hai ngàn năm Bắc
thuộc lại khôi phục được nền độc lập.

TÌNH HÌNH DÂN Âu LẠC DƯỚI THỜI BẮC THUỘC


Sau khi Thục An Dương vương thua quân, nước ta sa vào
vòng Bắc thuộc trước sau hơn hai ngàn năm. Nhân dân Âu Lạc
làm nô lệ cho quan lại tướng sĩ người Hán, sông cơ cực gian khổ, bị
bóc lột tàn khốic. Dưới thòi thuộc Triệu còn đỡ. Từ ngày thuộc Tây
Hán, ngoài thuê" má nặng nề, còn phải chịu lao dịch khó nhọc và
24
nguy hiếm như xuông biển mò trai ngọc, bắt đồi mồi, lên rừng săn
voi lây ngà, bắt tê giác lấy sừng, cùng kiếm gỗ quý hương liệu. Đôi
với Trung Cỉuôc, Giao Chỉ là vùng xa xôi, nóng nực, đầy lam sơn
chướng khí, nhiều người đi không về. Có quan lại được bổ nhiệm
về đó, không chịu sang nhậm chức vụ, bị trách phạt, có cả trường
hựp cố ý thoái thác, bị giết. Quan, tướng người Plán, một khi đã
nhận việc, thấy đất này có nhiều thố sản quý thì sinh lòng tham,
liền vơ vét làm giàu. Thê người đô hộ mạnh, triều đình ở xa, dân
bản xứ bị trị đê sai khiến nên tha hồ làm mưa làm gió, nhặt
nhạnh cho đầy túi tham. Nhiều người tham bạo, trắng trỢn hà •
hiếp nhân dân, tước doạt vàng bạc của báu, biết rằng bị thù oán
nhiều thì một khi đã kiếm dược khá, bèn xin đối đi nơi khác, hoặc
trơ về trung nguyên. Có những người khác, khôn ngoan hơn, một
mặt vơ vét đấy nhung không quá tệ lắm, một mặt giả nhân giả
nghĩa, làm vài công việc ích nhỏ đê mua chuộc lòng dân, ở lại lâu
một chỗ, tích cóp dần trong vài năm cũng được vô vàn. Chúng nói
rằng Giao Chỉ giầu lắm nên quan lại sang đấy, trở về giầu có là sự
thường. Quan cấp trên kha khá thì quan cấp dưới cũng đỡ phần
nào, cấp trẽn gian tham thì cấp dưới càng thậm tệ. Chỉ có tham
nhũng nhiêu hay ít, còn thanh liêm kê rằng sự lạ. Dân khốn khổ
không kêu vào đâu được. Thưa kiện lên thượng cấp thì thượng cấp
thường cũng chỉ là một giuộc, có ích chi. Chính quyền trung ương
Hán dường như cũng dung túng các lưu quan tham nhũng, chỉ cốt
sao phú công thu được nộp về đầy đủ. Tuy vậy, cũng có trường hỢp
tham quan bị bắt làm tội thì chỉ là hãn hữu. Bọn quý tộc bản xứ
làm tôi mọi cho quan người Hán, vì quyền lợi riêng, xu phụ chúng,
còn làm trưng gian cho chúng vơ vét là khác, không còn kê gì đến
tình đồng loại nữa.
Suôt hơn hai ngàn năm Bắc thuộc có đến hơn trăm thứ sử,
châu mục, tiết độ sứ và năm bảy trăm thái thú, huyện lệnh người
Hoa, mà sử chép mươi lăm người tôt. Đến như Sĩ Nhiếp xưa được
các nhà nho ca tụng mà có đòi sông rất đế vương, huy hoàng hơn
cả Triệu Vũ vương Đà; lại hàng trăm triều công nhà Hán trước,
nhà Ngô sau rất hậu hĩ. Nếu không vơ vét nhiều của cải của dân
ta thì lấy đâu ra?
Trong thời Bắc thuộc, có nhiều người Hán di cư sang lập
nghiệp bên xứ ta, đủ mọi hạng. Có quan lại, bính sĩ được cử sang
rồi ỏ hẳn lại, có tù nhân bị phát vãng đem sang, có quý tộc trong
buổi loạn lạc bỏ chạy vào nơi xa xôi nhưng yên tĩnh này, có những
25
kẻ có tội bỏ trốn, người nghèo khổ trôn nỢ kéo đến kiếm ăn do
nghe được nói xứ ta giần. Lại có quan lại dân người họ hàng, thân
thích sang khai thác tại nơi có nhiều đất hoang. Qua một vài thế
hệ, nhất là ở trung châu bắc Việt, những người này Việt hoá.
Riêng tại Hợp Phố" (châu Khâm, châu Liêm, Quảng Đông ngày
nay), khách đông hơn chủ, do thổ dân dưới triều Ngô bị bắt đi mò
ngọc trai cực nhọc quá, sô" đông phải bỏ đi nơi khác, dân Việt còn ở
lại bị Hán hoá. Vì vậy, ta mất hẳn đất này cho Trung Quổc.
Cũng có những người Việt sang ử hắn bên Trung Quốc rồi Hán
hoá. Sô" người này không nhiều, gồm có cả đàn bà, con gái và trẻ con
bị đưa đi bán làm tỳ thiếp hav gia nô, thợ khéo bị dụ dỗ hay ép buộc
sang hành nghề, tù binh - tức những nghĩa quân chống đô"i bị thua
trận bị bắt hay quv hàng, bị đưa sang làm việc khổ sai, những người
quan Hán nghi ngờ chông đôi phải bắt đem đi xa để không còn hành
động được gì nữa. Lại cùng có người Việt được triều đình Trung Quốc
bổ dụng làm quan như Lý Tiến, Lý cầm triều Hán, anh em Khương
Công Phụ, Khương Công Phục đời Đường...

KỶ THUỘC ĐÒNG HÁN


Năm 25, Hán Quang Vũ phục quô"c, gọi là nhà Đông Hán,
củng cô" quyền lực tại các địa phương xa xôi.
Dưới các châu mục, đật công tào coi việc tuyến bổ quan lại,
binh tào coi việc binh lính, tòng sự giúp việc. Tại các quận có thêm
chức quận thừa giúp việc thái thú. Quận xa có thêm chức trưởng
sứ. Quang Vũ bãi chức đô uý và đô uý thừa, cho thái thú kiêm giữ,
chỉ khi có biến mới đặt lại chức ấy. Dưới thái thú có các tào duyên
sứ phụ trách, lại có thêm các chức diêm quan, thiết quan. (Chính
quyền đô hộ giữ độc quyền muối và đồ sắt).
Dưới cấp quận là cấp huyện. Dứng đầu huyện to là huyện lệnh,
huyện nhỏ là huyện trưởng, giúp việc có hai viên uý và một viên
thừa, cũng lập tào để làm việc, hàng năm thu thuế nộp lên quận.
Bộ máy quan lại tổ chức lại chặt chẽ và đông hơn trước. Ach
bóc lột tàn khốc.
Xưa việc trị nhậm các huyện đều do quý tộc bản xứ là các Lạc
hầu, Lạc tướng, có thể tập. Quang Vũ cải cách, dùng lốì bổ dụng.
Duy có nhiều quý tộc vẫn còn đưỢc dùng nhưng triều đình đặt quan
người Hán ở bên, nói là đê giúp việc, nhưng thực ra là đê giám sát.
Các huyện thòi hấy giò lớn lắm. Quận Giao Chỉ có 10 huyện,
Họp Phô" 6, Cửu Chân7, Nhật Nam 5.
26
Thòi ấy, ở xứ ta có được sự cải tiến nông nghiệp, phổ biến
việc dùng điền khí: Cày, bừa, mai, cuốc... bằng sắt thay đồ bằng
đồng thau lạc hậu. Có điều là dân ta chưa biết khai mỏ sắt và rèn
đúc đồng sắt, phải mua của người Trung Quốc. Chính quyền đô hộ
lại giữ độc quyền bán đồ sắt cũng như muôi nên nông dân ta phải
mua vói giá quá đắt.

KỶ TRƯNG VƯƠNG
Tên huý hai bà Trưng các sách sử viết bằng chữ quốc ngữ
mẫu tự La tinh đều chép bà chị là Trắc (phụ âm TR), bà em là Nhị
(dấu nặng). Nhưng do sự khảo cứu lại thì thực ra bà chị là Chắc
(phụ âm CH), bà em là N hi (dấu huyền). Theo lời truyền tụng của
dân xã Hạ Lôi, quê hương hai bà, thì do nhà nuôi tằm, kén tôd
nhất gọi là kén chắc, kén loại hai gọi lả kén nhì, còn loại ba là thứ
xấu. Hai bà được đặt tên Nôm. Người xưa viết sử chữ Hán, do
tiếng Hán - Việt không có chữ chắc và chữ nhì là tiếng Nôm, nên
viêt là Trắc và N hị có dấu cá bên. Có thế là qua tam sao thất bản,
dấu cá bên đã bị bỏ đi. Đến khi phiên âm ra chữ quổic ngữ, người
dịch trước đã viết là Trắc và Nhị, rồi người sau cứ theo thế.
Tên huý chồng bà Chắc là Đặng Thi. Thi là tên chứ không
phải họ. Tiếng sách là chữ viết sau chữ thi trong câu văn. Điều
này mấy học giả đã thừa nhận. Các bản sử quốíc ngữ chép là Thi
Sách tuy có bản chú thích thêm ông họ Đặng.
Có người cho rằng; Ngày nay ta đã quen gọi là Trưng Trắc,
Trưng N hị, Thi Sách thì đây đã thành tên mới rồi, có thể gọi các
nhân vật lịch sử ấy như thế cũng được.

lìÀ TRUN(Ỉ KHỞI NGHĨA


Năm 34, Hán đê Quang Vũ cử Tô Định sang làm thái thú
quận Giao Chỉ. Định tham tàn, bạo ngược, chính trị ác liệt. Dân
chúng đều oán giận, nhiều nơi mưu toan nổi dậy chông đôl. Năm
39, Định tàn sát nhiều người ở Đông Triều và ở Duyên Hà, do
không chịu phục tòng mệnh lệnh của y và rục rịch khởi sự tranh
đấu vũ trang.
Bà Trưng Chắc, con quan lạc tướng Mê Linh vùng Phú Thọ
và Vĩnh Phúc Yên ngày nay - là người tài trí, giỏi võ nghệ, lấy
chồng là Đặng Thi, con quan Lạc tướng Châu Diên - vùng Sơn
Tây, Hà Đông, VNSL ghi là phủ Vĩnh Tường, Vĩnh Yên. Hai nhà
quý tộc kết thân, được dân chúng mến phục. Tô Định rất e ngại.
27
Đặng Thi thấy Định tàn bạo, nhiều lần gửi thư can gián, một mặt
ngầm lo toan dấy quần khỏi nghĩa. Định biểt rõ, hắt ông giết luôn,
tương dùng chính sách khủng bô^ dập tắt được mẳm mông nổi
loạn, không ngò lại khiến dân chúng càng thêm oán ghét. Bấy giò
là năm 40, khắp mọi nơi trong xứ đều xôn xao muôn nôi dậy.
Chồng bị hại, bà Trưng dũng cảm, quyêt tâm mưu đồ việc
lớn, vũ trang khởi nghĩa, đánh đổ chính quyền đô hộ, hắt giết bọn
quan lại tướng sĩ Hán tham tàn, báo thù chồng và cứu dân khỏi
vòng đồ thán. Bà được em là N hi hết lòng giúp đỡ khơi sự. Hai bà
thông đạt. giấy tờ đến các vị Lạc hầu, Lạc tướng, bồ chính khắp các
huyện đất nước Âu Lạc cũ thuộc các quận Giao Chỉ, Hợp Phô", cửu
Chân, Nhật Nam, hẹn nhau cùng nổi dậy chống lại chính quyền
nhà Hán, khôi phục độc lập nước nhà. Một mặt cử người đi khắp
các nơi trong xứ chiêu mộ người ra nhập đoàn quân nghĩa dũng.
Nbân dân ta thâm thù lũ quan tướng đô hộ tham ác, đua nhau xin
tòng quân, không chỉ trai tráng, mà đàn bà con gái cũng nô nức
không kém. Hai bà rèn đúc vũ khí, tập luyện quân sĩ võ nghệ,
không những chỉ trong rừng sâu, mà ngay cả ở đồng hằng. Dân
chúng không ai tô" cáo với chính quyền đô hộ. Tỗ Định cũng có sai
tướng đem quân đi đánh dẹp nhưng quân sĩ người bản xứ, do đã
được truyền từ trước, lại bỏ đi theo nghĩa quân, giở giáo đánh lại
cấp chi huy người Hán. Khắp xứ. nhất là ở quận Giao Chỉ, nơi nào
cũng có nghĩa quân tụ họp thành những toán to, nhỏ, nam, nữ
ngày đêm luyện tập. Tướng Đô Lương hưng binh các đạo cửu
Chân, Nhật Nam kéo ra phụ giúp. Chỉ trong mấy tháng, hai bà
kiếm điểm lực lượng trong quận, thấy đã có đủ để tấn công, liền
tập hỢp quân đội, thẳng tiến đánh vào thủ phủ quận Giao Chỉ.
Binh sĩ người bản xứ trong thành, phần đông đã đào ngũ, sô" còn
lại bấy giò cũng bỏ chạy sang nghĩa quân. Quân sĩ người Hán
chông lại rất kém. Tô Định hoảng sỢ, cùng lũ quận thừa, trưởng
sứ, đô uý vội vã bỏ chạy sang quận Nam Hải.
Nghĩa quân làm chủ thủ phủ Giao Chỉ. Lòng người phấn
khởi. Hai bà cùng các tướng chia quân đi thu phục các huyện xa
gần. Quan lại hĩnh sĩ Hán bị giết hay hỏ chạy xa. Tại nhiều huvện
nghĩa quân chưa kịp đến mà chúng đã vội bỏ đi. Không riêng quận
Giao Chỉ, nhân dân các quận Hợp Phô", cửu Chân, Nhật Nam
cũng lần lượt nổi dậy theo gương hai hà, quét sạch trên đất nước
lũ quan quân người Hán. Trong không đầy một năm, nghĩa quân
thu phục 65 thành trì cõi Lĩnh Nam (con sô" e có quá đáng: Bấy giờ
28
trong 4 quận chỉ có 28 huyện. Hoặc giả người Hán có đặt đồn bóp
tại nơi hiếm yếu, cũng xây dựng thành chàng?).
Theo gương dân Lạc Việt, dân Nam Hải, Tương Ngô và Uất
Lâm cũng có nhiều nơi nổi dậy chông đôl chính quyền nhà Hán.
Điều này quổc sử và Bắc sử không chép nhưng tại Lưỡng Quảng
nay còn có những đền thờ bà Trưng thì việc này tất phải có thật, ớ
ĩch Châu xa xôi cũng có nghĩa quân nối dậy giết bọn trưởng lại.
Thái thú Phồn Thăng vất vả đánh dẹp mãi không xong.
Công cuộc khơi nghĩa thành công mau chóng, giang sơn thu
lại thành một môl. Các tướng lĩnh tôn bà Trưng Chắc lên làm vua.
Đất nước Au Lạc lại phục hồi. Bà lên ngôi, đóng đô ở Mê Linh là
nơi quê nhà, tôn mẹ Man Thiện làm hoàng thái hậu, phong em
Trưng Nhì làm Bình Khôi công chúa, cử tướng Đô Lương trấn thủ
hai quận cửu Chân và Nhật Nam, phân phối các tướng đi trị
nhậm các huyện, phong các nữ tướng làm công chúa.
Bà Trưng lãnh đạo khơi nghĩa thuộc giới quý tộc. Chồng bà
cũng thuộc giai câ"p này. Bà vừa hô hào thì Lạc hầu, Lạc tướng
khắp nơi răm rắp hương ứng ngay, hăng hái chỉ huy dân chúng
nối dậy chông đôl chính quyền đô hộ, toàn dân cùng khởi sự.
Trước các vua Triệu và Tây Hán vẫn dùng các quý tộc bản
xứ, lây người Việt trị người Việt. Chính sách này ít gây mâu thuẫn
giữa quan lại người Hán với các Lạc hầu, Lạc tướng, lại dùng được
họ làm tay sai đắc lực. Dân chúng bị bóc lột tàn khôL, thâm oán
chính quyền đô hộ nhưng trình độ hiểu biết thiếu, không có người
tài giỏi lãnh đạo vũ trang chông đôi. Đến Hán Quang Vũ phục
quôc ban hành chính sách trực trị do rất e sợ bọn quý tộc, một khi
mạnh lên sẽ chông đôl lại nhà vua: Vương Mãng vôn là nhà quý
tộc. Lạc hầu Lạc tướng ít được dùng, lại còn bị người Hán giám
sát. Quyền lợi bị xâm phạm chúng bất mãn nên lãnh đạo quần
chúng chông lại chính quyền đô hộ.

MÃ VIỆN SANC ĐÁNH x ứ TA


Tin cơ sở chính quyền đô hộ đổ nát thê thảm đưa về Hán,
triều đình xôn xao, Hán Quang Vũ hạ lệnh cho các quận Trường
Sa, Nam Hải, Thương Ngô, sắm sửa thuyền xe, tu bổ cầu đường,
thông núi khe, chứa thóc lương, cử Phục Ba tướng quân Mã Viện,
Phù Lạc hầu Lưu Long và Lâu Thuyền tướng quân Đoàn Chi, dẫn
hai vạn quân thuỷ bộ sang đánh xứ ta. Đội quân nam chinh gồm
có 8000 quân tinh nhuệ Trường Sa, Quế Dương, 12000 quân các
29
nơi khác. Thiiỷ quân có tới 2 ngàn thuyền lớn nhỏ. Năm 41 xuất
quân, Mã Viện là đệ nhất danh tướng bấy giò, từng có nhiều chiến
công lớn, đã ngoài 70 tuổi, còn khoẻ mạnh làm tổng chỉ huy, Lưu
Long làm chức phó.
Đường bộ kỳ khu, quân lính trèo đèo vượt suôi khó nhọc.
Tiền quân phải phá rừng, làm đường nên tiến rất chậm. Chúng
phải đi men bò hiến, song song với thuyền thuỷ quân, hỗ trỢ nhau
mà tiến.
Tiền quân giặc xâm nhập đất nước. Hai bà đem quân chặn
đưòng đánh, vây hãm chúng ở bên hồ Lãng Bạc. (Hồ này không
phải là Hồ Tây ở ngoại thành Hà Nội như trước đây sử gia đã lầm,
mà ở gần lị sở quận Giao Chỉ hấy giò, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh,
huyện Tiên Du. Có thuyết ở vùng hai huyện Lang Tài và Gia
Bình). Quân lính Hán không phá được vòng vây, bị hãm gần một
tháng, mất tinh thần, lo sỢ bị đói. Trung quân và hậu quân kịp
tiến đến, ngoài đánh vào trong phá ra, bọn Mã Viện mới đưỢc giải
thoát. Quân lính Hán võ nghệ cao cưòng, lại đông đúc, có khí giới
sắc bén, hội nhau lại đánh vào đô thành Mê Linh mãnh liệt. Quân
hai bà địch lại không nổi. Sau mấy trận kịch chiến không lợi, hai
bà rút quân vê đóng ở cẩm Khê (có tập sử chép ở Kim Khê, nay là
huyện Cẩm Khê Phú Thọ chăng? VNSL chú thích là phủ Vĩnh
Tường, Vĩnh Yên). Mã Viện đem toàn lực tiến đánh. Trận giao
phong vô cùng kịch liệt diễn ra ngày 6 tháng 2 âl năm 43 tại cửa
sông Hát, nay là xã Hát Môn huyện Phúc Lộc, Sơn Tây. Hai bà
cùng các tướng quân Lê Chân, Hoàng Thiều Hoa, Nguyễn Đào
Nương, Phùng Thị Chính đều anh dũng bỏ mình tại trận tiền.
Nhiều tập sử ta đều chép hai bà thế bức, gieo mình xuông sông
Hát Giang tự tận . Nơi đây là chỗ sông Đáy chảy vào sông Hồng.
Người nước nhớ ơn hai bà, lập đền thò tại xã Hạ Lôi huyện Yên
Lãng, Phúc Yên, nơi quê hương; xã Hát Môn huyện Phúc Lộc, Sơn
Tây, nơi chiến trận cuối cùng; xã Đồng Nhân huyện Thanh Trì gần
Hà Nội; xã Quy Phú huyện Nam Trực, Nam Định. (Cả hai xã Đồng
Nhân và Quy Phú, dân làng đều nói rằng thi thế hai bà trên sông
Hồng trôi về, người lảng vớt được, xây mộ phần, lập đền thò).

Bắc sử có tập chép: Bà Trưng thấy Mã Viện anh hùng, quân Hán
tài giỏi, cìã xin hàng và tình nguyện xin làm thiếp. Đây là lòi người
phương hắc nói láo, hạ nhục vị nữ anh hùng nưốc ta. Hai bà oanh liệt đâu
có thế. Sách Việt chí của Thấm Hoài Viên người Hoa lại chép: Trưng Chắc
30
chạy sang Kim Khê ẩn náu, sau khi thua trận. Hai năm sau, bị dân
chúng bắt đem nộp cho quan quân nhà Hán. Đây cũng là lòi nói láo. Đất
nước ta không nơi nào có hang Kim Khê. Khu cẩm Khê, từng có tên là
Hoa Khê, nay thuộc Phú Thọ, không có vết tích gì về bà Trưng. Dân nước
ta thâm thù lũ quan lại nhà Hán và kính phục bà Trưng như thần thánh,
đâu có ai phản bội bắt đem nộp cho giặc nếu bà có chạy đến ẩn náu.
Sử gia Lê Vàn Hưu bàn; Trưng Chắc, Trưng Nhì là đàn bà, hô một
tiếng mà các quận cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phô’ và 65 thành ở Lĩnh
Nam đều hưởng ứng, dựng nưốc xưng vương, dễ như trơ bàn tay, đủ biết
tình thê đất Việt ta có thê dựng được cơ nghiệp lớn. Tiếc rằng trong hơn
ngàn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu làm tôi mọi cho người phương bắc.
Trần Trọng Kim phê bình: Bà Trưng làm vua đưỢc ba năm nhưng
lấy tài chí người đàn bà mà dấy được nghĩa lốn như thế, khiến cho vua tôi
nhà Hán phải lo sỢ, ấy cũng đủ đế tiếng thơm vê muôn đời.
Công cuộc khới nghĩa của bà Trưng thành công chỉ mong manh,
sớm bị đàn áp, nhưng ảnh hưởng lớn đã đánh thức lòng dũng cảm của
người dân táo bạo nổi dậy khi bị đè nén quá độ, giác ngộ lòng yêu nước,
yêu đồng bào cùng nhau mưu hạnh phúc chung. Sau bà Trưng luôn luôn
có những vụ vũ trang khới nghĩa chống lại chính quyền đô hộ, không còn
chịu ép một bê như trước nữa.
Xứ ta thuộc Hán từ năm 111 tr. CN, chính quyền đô hộ tàn
ngược, mà suôt 150 năm không có cuộc nổi dậy chống đô’i quy mô lốn
nào. Đến khi bà Trưng hô hào thì khắp nơi trong bô’n quận đểu nhiệt
liệt hưởng ứng. Theo các nhà sử học kiêm chính trị xã hội học thì trước
đó quý tộc bản xứ bị vua quan nhà Hán lợi dụng làm tay sai cho
chúng, xu phụ họ, không đi đôi với đồng bào bị áp bức. Đến thòi Quang
Vũ, các Lạc hầu, Lạc tướng không còn được trọng dụng nữa, quyền lợi
bị xúc phạm nặng nể nên mới sát cánh với đông đảo quần chúng bình
dân chông lại nhà Hán.

Chiến thắng xong đại quân Trưng vương, Mã Viện cùng Lưu
Long, Đoàn Chi tiếp tục tiếp tục đi đánh chiếm thành trì thuộc các
huyện quận Giao Chỉ, kế đến quận Hợp Phô". HỢp Phô" trên đưòng
Bắc quô"c sang ta, Mã Viện không đánh quận này trước mà tiến
quân thẳng đến Giao Chỉ mưu triệt nơi đô kỳ thì nhân dân mọi
nơi xa mất tinh thần, dễ bị đánh thua. Quân Hán đi đến đâu đều
giết hại quân dân ta nhiều, lại vơ vét chiếm đoạt của cải, nhất là
trông đồng và đồ đồng. Chúng tịch thu tài sản các quý tộc dù
không dự cuộc chông đôi, đã chết hay đã chịu hàng. Rất nhiều
31
trông đồng và đồ đồng bị thu đem về dâng vua Hán. Việc bình
định Giao Chỉ và Hợp Phô" kéo dài suô"t năm 42.
Sau đó, Mã Viện cho quân sĩ nghỉ ngơi ít bữa. Sang nửa cuôl
năm 43, giặc lại tiến vào miền trong, đánh chiếm hai quận cửu
Chân và Nhật Nam. Tướng Đô Dương ngăn giặc ở Vũ Công (Ninh
Bình?) bị đánh thua phải chạy. Mã Viện tiến quân vào Thanh
Hoa. Tướng Chu Bá kháng cự mạnh, cũng không nổi, phải rút vào
rừng. Quân dân ta ở Vũ Biên (Nông Công, Tĩnh Gia) và Cư Phong
(Thọ Xuân và Đông Sơn đều thuộc Thanh Hoá ngày nay) chông cự
kịch liệt, oũng không lại. Hàng trăm tướng suý bị chém. Quân dân
đất Cửu Chân vẫn còn chông cự lai rai, chưa chịu phục. Sau gần
một năm, Mã Viện mới bình xong. Bọn Đô Dương kiệt lực, sau
phải xin hàng.
Các huyện thuộc quận Nhật Nam không chống nối với giặc thê
hung dữ, lần lượt phải mất. Tướng Tam Quang cũng phải xin hàng.
Mã Viện vơ vét, nhặt nhạnh của cải của dân ta vô sô", không
biết chừng nào mà kế.
Bình định xong xứ ta, Mã Viện bắt hết thảy các quý tộc và cả
những người có chút uy thê chính trị, đến ba trăm người, cho đưa
cả sang ở tỉnh Hồ Nam, không còn liên lạc gì nữa với đồng bào ta.
Rất ít các quý tộc đào tẩu được vào rừng sâu, thoát nạn. Riêng các
quý tộc Thái, Mường trong rừng sâu xa xăm không bị.
Từ đấy, các huyện do các quan người Hán cai trị, đều là
người của triều đình bổ dụng.
Mã Viện dựng cột đồng lớn ở biên giới ghi công chinh nam
của mình, có khắc sáu chữ: Đồng trụ chiết, Giao C hỉ diệt (cột đồng
gãy thì toàn dân Giao Chỉ bị giết hết). Có lòi truyền tụng rằng:
Người xứ ta qua đấy, thường lấy đất đá chất vào, lâu ngày thành
gò đông, do sỢ cột đồng gãy. Thuyết khác cho rằng chính người
Hoa đã lấp cột đồng ấy đi, đế lâ"n đất biên giới. ĐVSKTT chép: Cột
đồng được đặt ơ động Cổ Lâu thuộc Khâm Châu. VSTGCM lại
chép là động Cố Sâm, Đào Duy Anh cho là đúng hơn.
Chuyện cột đồng Mã Viện thuộc về truyền thuyết. Có người
cho là không chắc có thật. Nhiều người đời sau cho là đặt ở các nơi
khác nhau, từ biên giới Việt - Trung đến núi Ngự, đồng trụ gần
đèo Đại Lĩnh, đều thấy khó tin. cổ Sâm là động phía nam Khâm
Châu, gần biên giới nước ta. Lại có thuyết cột đồng dựng ở khoảng
phía hắc sông Gianh, nam Hoành Sơn, tại biên giới của Giao Chỉ,
không phải ỏ hiên giới phía bắc, không rõ đâu là đúng.
32
Theo thiển ý, cột đồng dựng ở biên giới bộ (ỉiao Chỉ bấy giờ thì phái là
bắc Hợp Phô, (lất cũ Áu Việt nhà Thục, nay thuộc Quảng Đông Trung Quốc.

Chiếm đoạt xong đất xứ ta, Mã Viện chỉ định lại các quan lại
vua Hán cử sang làm những chức thái thú, huyện lệnh. Viện có
chia cắt lại các địa hạt huyện nhỏ hơn. Việc cai trị của nhà Hán
bấy giờ có mưu đồ Hán hoá dân tộc ta.
Về kinh tê, Viện có làm được vài việc công ích, như đào ngòi
bắc máng dẫn nước vào ruộng. Viện lại có một số" binh sĩ khai
khẩn đất hoang, lập thành làng ấp, thành lập những nhóm người
Hán, gọi là Mã Lưu trên xứ ta.
Năm 44, Viện mới trở về Trung Quốc.

Hắc sử chép: Viện sang ta, thích ăn món ý dĩ, cho là ý dĩ trừ
được chướng khí. Khi về nước, mang theo về mấy xe ý dĩ. Có người
tâu với vụa Quang Vũ rằng Viện đưa về mấy xe vàng bạc châu báu.
Vua Hán ng('j oan lão tướng. Viện sang tạ vơ vét của cải dữ
quá lắm. Khó tin mấy xe ý dĩ đó toàn là ý dĩ cả.
Sau Mã Viện, năm 80 tuổi, còn đi đánh Ngũ Man Khê. ó
đấy, Viện đã đưcíc như lòi nguyện, da ngựa học thây nhưng không
vì tên đạn, mà vì bệnh sốt rét rừng, cùng véii một sô lớn quân đội
viễn chinh.

F»HỊJ LỤC VỂ KHỞI NGHĨA BÀ TRUNG


Quốc sử chép: Quân đội của hà Trưng là quân ô hỢp, có lẽ vì
thấy đã bị quân đội Mã Viện đánh thua. Điều này hoàn toàn sai
lầm, cần phải cải chính. Tô Định làm thái thú, dưới quyền ngoài
các quan văn, còn có các tướng giữ chức đô uý và đô uý thừa, chỉ
huy nhiều quân lính người Hán, mạnh mẽ. Đạo quân ô hỢp thì
làm sao đánh đuổi nổi họn này thua chạy được? Tất nhiên, quân
đội của hà phải hùng mạnh và phải có kỷ luật lắm mới thắng đưỢc
chúng. Lại có thê rằng Tô Định thua chạy về nước còn sông phóng
đại thêm lực lượng của bà đê nhẹ tội mình. Cho nên triều đình
Hán mới xôn xao, phải cử Mã Viện là đệ nhất danh tướng thời bấy
giò đi đánh, chứ không cử tướng tẩm thường nào khác. Mã Viện
trước khi ra đi, nói: “Làm trai phải lấy sự da ngựa nơi chiến
trường làm vinh”. Đây là lòi cương quyết. Nhưng phải là trước đó
đã e ngại. Nếu chỉ coi là cuộc hành quân tảo thanh thì cứ bình
tĩnh ra đi, can chi phải thôt ra lòi đanh thép. Chính Mã Viện khi
33
ra đi cũntí' không dám chắc chắn sẽ thắng nên mới nói đến sự da
ngựa bọc xương. Khi quân Hán xâm nhập bò cõi ta thì tiền quân
bị đánh chặn, rồi hị vây hên hồ Lãng Bạc hàng tháng, hinh sĩ Hán
đã lo sỢ, hản thân Mã Viện cũng đã ngại ngùng. Đạo quân ô hỢp
thì làm sao lại hùng cường đến thế được. Sau khi chiến thắng, Mã
Viện tự đắc mình đã lập được kỳ công nên mới dựng cột đồng để
kỷ niệm. Nếu chỉ là đánh bại đưỢc đạo quân đàn bà ô hỢp thì công
lao có chi đáng kê. Xét như vậy thì quân đội của bà từng có chiến
công lớn, phải hùng tráng dũng cảm lắm, đâu có phải là tầm
thưòng. Sở dĩ bị đánh thua là gặp phải đôl phương lực lượng quá
n\ạnh quân sĩ có vóc người to lớn, nhiều sức khoẻ lại được tập
luyện kỹ càng, từng dày dạn qua nhiều chiến trận, lại có vũ khí
sắc bén hơn cùng chỉ huy bởi tướng đại tài.
Về cái chết của hai bà thì phải thừa nhận là hai hà đã bỏ
mình tại trận tiền. Vì nước, vì dân, chết trận vinh dự. Người nưốc
ta xưa có quan niệm sai lầm cho thế là sự không hay nên sử gia
viêt khác đi. Bắc sử chép hai bà chết tại trận. Riêng về điểm này
ta phái tin họ hơn là quốc sử. Sách Việt Điện u Linh cũng chép
hai hà thế cô, phải tử trận. VSTGCM, ĐNQSDC và VNSL và sách
Nam H ải dị nhân đều chép là hai bà nhảv xuông sông tử tận.
ĐVSKTT chép không rõ ràng, chỉ nói quân chạy tan cả, thế cô,
đều thua chêt. Ngô Thì Sĩ trong Việt Sử tiêu án viết hai bà mất
tích sau khi thua trận. Thần tích xã Hạ Lôi Phúc Yên nói hai bà
bay lên tròi và dân xã này vào đền thờ kiêng màu đỏ (màu máu).
Bay lên trời chỉ là một cách nói là đã chết.
('hỉ có hà Trưng Chắc mới xưng làm vua. Bà em Trưng Nhì
chỉ nhận là Bình Khôi công chúa, lúc nào cũng ỏ bôn giúp đỡ bà
chị, chứ khỗng phái cùng làm vua.

CÁC TƯỚNí ; lĩn h CIÌA BÀ TRưNíỉ


Nữ tướng dưới trướng Bà Trưng, có các bà:
Lê Chân, người xã An Biên, huyện Đông Triều. Cha là Lê
Giao, bị Tô Định giết. Bà đem gia quyến ra lánh ở chỗ nay là
thành phô" Hải Phòng. Sau theo Bà Trưng khởi nghĩa, được giao
pho việc rèn luyện quân sĩ. Tham chiến đánh đuổi Tô Định, được
phong là Thánh Chân công chúa. Đền Nghè Hải Phòng thò hà.
Hoàng Thiều Hoa, người động Lăng Xương nay thuộc vùng
Thanh Sơn, Thanh Thuỷ, Phú Thọ. Có tư sắc, nên đã là nạn nhân
của thời cuộc, phải ẩn thân vào chùa Song Long Quan. Theo Bà
d4
'IVưng dấy quân, lập được nhiều công, được phong là Đông Cung
tướng quản.
Nguyển Đào Nương, người gò Bảo Tháp xã Sùng Đầu, khu
Ba Vì, Sơn Tây. Có lập nhiều công với Trưng triều. Không rõ được
phong chức gì.
Phùng Thị Chính, người xã Phú Nghĩa trang, sứ Sơn Tây.
Có chiên công, đưực phong chức Thị Nội nữ tướng quân.
Bôn hà này đều anh dũng bỏ mình cùng với hai bà Trưng
trong chiến trận kịch liệt ở Cửa Hát.
B át Não Phù Tướng, không rõ tên huý, chồng là tướng
Trương (ỉuán. Bà cùng quê với Nguyễn Đào Nương, cũng là dũng
tướng cua bà Trưng, từng bị tám lần tai nạn, được phong là Bát
Nạn công chúa. Bà sống sót sau khi Trưng Vương thua trận,
không liên lạc được với quán cửu Chân, chạy lạc lõng về Thái
Bình bây giờ, vào tu ơ ngôi chùa xã Tiên Lữ, huyện Duyên Hà. Bà
vẫn dạy võ nghệ cho thanh niên nam nữ, lại dạy trẻ con trò chơi
đánh quả phết hằng gậy, vẫn nuôi hy vọng một ngày kia khởi
nghĩa trở lại. Tại xã Tiên Lữ nay còn đền thờ bà.
Phạm Thị Côn người xã Thưọng Lỗi, nay là ngoại thành
Nam Định. Trong chông nhau với qưân Hán, bà đương giữ chức
trấn thủ khu Nam Định. Sau chiến thắng bà Trưng, Mã Viện
xuôhg đánh miền nam, thê rất hung dữ. Bà biết thế quân mình
không chôhg lại nổi, ra lệnh giải tán binh sĩ, rồi gieo mình xuổng
sông Nam Định tự tử. Nay ở xã Thượng Lỗi có đền thờ bà.
Ngọc Lâm , chủ tướng các đạo quân Sơn Nam, người lớp đầu
tiên đem quân phôi hỢp với các đạo nghĩa quân miền trung châu
bắc Việt, được phong là Bình Tây đại tướng quân, cùng hai bà
Trưng tiến quân vào đánh thủ phủ quận Giao Chỉ, đánh đuổi Tô
Định. Chung cuộc ra sao không rõ, chỉ biết được phong là Thánh
Thiện công chúa, ngang với Thcánh Chân công chúa Lê Chân.
Ngoài ra còn có các bà:
Mỹ Đào Nương công chúa (có thể cũng là bà Nguyễn Đào Nương)
Mỹ Quế Nương công chúa, em bà Mỹ Đào Nương
Hoàng Hà Nhập Nôi công chúa
Đều không rõ lý lịch
Nam tướng, có các ông:
Trương Quán, chồng bà Bát Nạn, đưỢc lệnh cầm quân giữ
mặt Lạng Sơn, chặn giữ vùng khu hiểm yếu ấy. Quân Mã Viện
phải mở đường theo dọc bò biển mà sang. Sau khi Trưng vương
35
mất rồi, quân Hán kéo lên vây đánh ông ở mặt sau. ông bị thua,
tử trận. Tại xã cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay còn có
đền thờ.
Cao Doãn, chồng bà Nguyễn Đào Nương, tử trận gần cửa
sỗng Hát.
Định LưỢng, chồng bà Phùng Thị Chính, chết trong đám
loạn quân ở khu vực Sơn Tây.
Đô Dương trấn thủ hai quận cửu Chân và Nhật Nam.
Tam Quang, phó trấn thủ quận Nhật Nam.
Hai ông này sau hị Mã Viện vào đánh, chông chọi lại mãi
không nổi, sau phải chịu hàng.
PHỤ LỤC
L.ỜĨ .MÃ VIỆN
Hán có chép lòi Mã Viện (đại ý) rằng: Em trai ta là Thiếu
Du thitờng nói: Người ta ăn ngày không qucá ba bữa cơm, mặc
không quá ba manh áo. Sông chi’ cần sao khỏi đói rét, được no ấm
là đủ rồi.
Là nên công nghiệp to lớn mà chi? Em chỉ muôn làm tiểu lại,
cưỡi con ngựa yếu, là đủ. Làm nên công nghiệp to lớn thì phải lao tâm
trí, tổn tinh thần, tự mình làm khổ cho mình thôi. Ta (lòi Mã Viện)
không cho lòi ấy là phải. Nhưng khi đi chinh nam, bị vây bên hồ Lãng
Bạc, trông đợi hậu quân đến cứu viện mãi không thấy. Dưới trướng
quàn sĩ xôn xao. Nhìn ra chung quanh toàn sơn lam chướng khí. Một
con ó từ trên cao sa xuôhg đất mà chết. Lòng ta buồn rời rỢi. RâV giờ,
nghĩ lại mới thấy lời em ta không phải là vô lý,
Xem sự kiện này thì thấy rằng; (ịuân đội bà Trưng đã chiến
đấu mãnh liệt lắm. Điêu sử cũ nói “Nữ nhi chông với anh hùng
được nao", quân của bà là quán ô hỢp, gặp quân Hán thì sớm tan
vỡ, là không đúng, sở dĩ vẫn bị thua là vì hoả lực địch quá mạnh.
Mà Mã Viện phải vất vả lắm mới thắng nổi. Sau khi bà khuất, còn
phải gần cả năm mới bình định xong Giao Chỉ, qua năm sau mới
đánh vào cửu Chân và Nhật Nam, cũng phải lâu lâu mới xong.

KỶ THUỘC ĐÔNG HÁN (LẦN SAU)


Quốc thông vừa phục hồi, sớm bị tan vỡ, đất nước ta lại bị đặt
dưới ách đô hộ triều Đông Hán. Quan lại người Hán sang lần này
cũng như trước kia, đều tham bạo, có phần lại tệ hơn, bơi các
huyện lệnh hầu hết là người Hán do triều đình nhà Hán bổ dụng.
36
Trước kia thì do quý tộc bản xứ, dù sao cũng còn đỡ. Dân chúng,
ngoài thuế má nặng nề, vẫn còn phải lên rừng tìm sừng tê, ngà
voi, xuông biến hắt đồi mồi, ngọc trai, khó nhọc và nguy hiểm.
Nhiều người dân Hợp Phố cực khổ phải đi mò trai dưới biển, phải
hỏ xứ mà đi nơi khác. Việc này khiến ta thiệt hại lớn. Người Âu
Việt còn ở lại không nhiều. Mà người Hán kéo đến lập nghiệp lại
đông. Khách mạnh hiếp chủ. Người Âu Việt sau bị Hán hoá nên về
sau không còn cùng người Lạc Việt phục quốc nữa. Triều đình ở
xa. Quan lại tham nhũng tha hồ tung hoành. Bắc sử có chép: Năm
54, thái thú Cửu Chân ích Xương bị nhà Hán trị tội vì đã từng sai
người đi mua bán sừng tê và nô tỳ, tang vật giá trên trăm vạn.
Đây là công hằng nếu là trường hỢp duy nhất. Nhưng thực sự còn
có bao nhiêu quan lại người Hán, vơ vét không kém, vẫn yên bình
hưởng phú quý, sông thừa thãi, lại có nhiều của cải lưu truyền lại
cho con cháu, nào có ai hỏi tội.
ĐVSKTT có chép: Dưới thời Hán Minh đế (58 - 86), có Lý
Thiện, thái thú Nhật Nam, chính trị ân huệ, yêu dân vỗ yên người
khác tục. Năm 136, Hán Thuận đế cử Chu Xương, thái thú cửu
Chân làm thứ sử, tóm coi các quận huyện. Ngoài ra không chép sự
gì quan trọng.
Năm 137, Khu Liên lãnh đạo dân Hòi ở huyện Tượng Lâm
quận Nhật Nam, nổi dậy đánh quận huyện, giết trưỏng lại. Thứ
sử Giao Chi' Phan Diễn đem một vạn quân hai quận Giao Chỉ và
Cửu Chân đến cứu. Quân sĩ ngại đi xa, làm loạn, đánh lại phủ trị.
Năm sau (138), thự ngự sử Giả Xương cùng các quân hỢp sức
đánh, không nổi, bị vây hãm cả năm. Triều thần nhà Hán bàn cử
đại binh 4 vạn người các châu Kinh, Dương, Duyên, Dự đi đánh.
Lý Cô" bằc đi, bàn nên dùng người dũng lược nhân huệ phủ dụ thì
hơn. Hán đế sai Chúc Lương, thứ sử Tinh Châu và Trương Kiều,
ích Châu đi bình Nhật Nam. Bọn Lương Kiều đến nơi, tỏ rõ uy tín,
lâ"y lòng thực dỗ bảo. Dân Nhật Nam hàng vạn người hàng phục.
Năm 144, người Nhật Nam lại đánh đốt quận ấp. Thứ sử cửu
Chân Hạ Phương gọi những kẻ ra hàng và dỗ bảo.
Năm 157, huyện lệnh Cư Phong thuộc Cửu Chân tham bạo,
bóc lột không biết chán, dân khổ sở. Chu Đạt kêu gọi quần chúng
nổi dậy đánh giết huyện lệnh. Lực lượng nghĩa quân tăng nhanh
chóng đến 4,5 ngàn người, tiến vào quận lỵ Cửu Chân. Thái thú
Ngô Thúc đem quân ra chông cự, bị tử trận. Sau đô uý Nguy Lãnh
mới đánh tan được. Nghĩa quân chạy vào Nhật Nam, tiếp tục hoạt
37
động, thanh thế càng thịnh. Nhà Hán lại phải gọi Hạ Phương đã
đổi làm thái thú Quế Dương sang dẹp. Năm 160, Hạ Phương đến
quận, dùng uy lực và lòi lẽ dụ hảo. Cuộc khởi nghĩa đã chấm dứt.
Năm 170, nhân dân 0 Hử ở biên giới Việt- Trung nôi dậy chống
quan lại đô hộ. Thứ sử Giao Chỉ Chu Ngưng không đàn áp nối.
Năm 178, nhân dân 0 Hử lại dánh mạnh, Lương Long người
Giao Chỉ kêu gọi người các quận Hợp Phô, Giao Chỉ, Cửu Chân,
Nhật Nam cùng nổi dậy, đánh phá các quận huyện. Lực lượng
nghĩa quân ngày càng cường thịnh đến mấy vạn người, vây hãm
các thành ấp, lại liên kết với thái thú Khổng Chi ỏ Nam Hải cùng
phản lại nhà Hán, thanh thế càng nổi mạnh. Chu Ngung đóng cửa
thành cô" thủ, cho người về triều cầu cứu. Năm 181, vua Hán Linh
đê sai Chu Tuấn huyện lệnh Lan Lăng đem quân sang cứu. Qua
quận Côl Kê, Tuấn mộ thêm người nhà hỢp với quân hản bộ hơn
5000 người tiến vào xứ ta. Đến biên giới, Tuấn đóng quân lại, cho
người vào dò thăm tình thế, dùng án uy để hiếu dụ. Sau mới đem
quân sang đàn áp. Lương Long bị giết tại trận tiền. Quân sĩ tan
vỡ. Cuộc khỏi nghĩa bị đàn áp năm 181. Lương Long bị dẹp. Chu
Ngung vẫn tiếp tục chính sách tàn bạo, lại còn hơn xưa. Năm 184,
quân sĩ trong châu không chịu được nữa, làm cuộc binh biến, bắt
giết Ngung, cho người về triều kể tội trạng Ngung. Hán Linh đế
chọn người tài giỏi, cử Giả Tung (VSTGCM chép Giả Mạnh Kiên)
người Lạc Thành Đông quận, trước đó làm ngự sử sang. Đến bộ,
Giả Tung xét hỏi tình trạng. Dân chúng nói thuế má quá nặng nề,
trăm họ đều khôn khổ túng thiếu, không sông nổi, không kêu vào
đâu được, cho nên phải họp nhau chông thuế, chứ thực không có
lòng làm phản. Trước đây, những người được bổ dụng đi làm thứ
sử, thái thú, huyện lệnh, thấy đất xứ ta có nhiều của quý( sừng tê,
ngà voi, ngọc trai, đồi mồi, lông trả, hương xạ, gỗ tốt),hầu hết
không liêm khiết, vơ vét của cải cho đầy túi tham. Phú liễm quá
nặng, trăm họ xơ xác. Kinh sư ỏ quá xa, không nơi kêu oan được,
không biết nhò vào đâu mà sông. Giả Tung sai người chia nhau đi
các nơi khuyên dỗ khiến dân về quê yên nghiệp sản xuất làm ăn,
gọi những kẻ lưu vong, tha hết thuế má, rồi đem giết mấy kẻ bạo
ngưỢc đầu sỏ, lại chọn quan tốt cho làm quận huyện. Trăm họ yên
nghiệp thanh bình, Tung coi việc ba năm. Sau có Lý Tiến, người
Giao Chỉ thay.
Cuôl đòi Đông Hán, có Chu Phú, người Côi Kê, sang làm thứ
sử, đem bọn người nhà nhũng nhiễu nhân dân: Một con cá vàng
38
bắt nộp một hộc thóc thuế. Dân oán hận, nổi dậy đánh phá Châu
Thành. Chu Phú chông lại khỗng nối, phải chạy trôn ra vùng biển
rồi trôi dạt m<ât.

LÝ TIẾN , LÝ CẨM
Trong thòi gian xứ ta thuộc nhà Hán, quan cai trị tham
nhũng. Triều đình lại hạc đãi người hản xứ, dù có học hành thông
thái cũng không được giữ việc chính trị. Mãi đến đồi vua Hán
Linh đê (168 - 189) mới có Lý Tiến được cử làm thứ sử Giao Chỉ.
Lý Tiến dâng sớ xin cho ngưòi Giao Chỉ được bổ dụng làm quan
như người trung châu, hlán đế chỉ cho những người đỗ mậu tài
hoặc hiêu liêm được làm lại thuộc trong xứ mà thôi, không được
làm quan ơ châu khác.
Bấy giò, có Lý cầm, người Giao Chỉ, làm túc vệ hầu vua
trong điện, rủ mấy người đồng hương, giữa ngày đầu năm, các
nước triều hội phủ phục ở sân điện, kêu cầu thảm thiết: ơn vua
ban không đều. Nam Việt ỏ xa không được đội ơn, ý rất thành
khẩn. Hán đế nói chó một người đỗ mậu tài làm huyện lệnh Hà
Dương, một người đỗ hiếu liêm làm huyện lệnh Lục Hợp. Sau Lý
Cầm được thăng quan dến chức tư lệ hiệu uý. Lại có Trương Trọng
làm thái thú Kim Thành.
Nhân tài người Việt được tuyển dụng làm quan như người Hán
khỏi đầu từ Lý Tiến, Lý cầm. Có thuyết Trương Trọng đã làm quan
dưói triều Hán Minh đế, nửa sau thê kỷ I, trước Lý cầm.

Sử gia ngày nav có người cực lực chê tránh thái độ của Lý
Cầm quỳ lạy khóc lóc thảm thiết, kêu xin với vua Hán là hèn hạ,
thiếu nhân phẩm, không ý thức rằng quyền vua thời quân chủ
chuyên chế, nhất là hoàng đê Trung Quôh thời xa xUa là vô hạn
định, hái (Ịuỳ là giữ lễ phép. Việc làm của Lý cầm không có gì phải
đáng chê trách, Theo quan niệm của người đòi nay mà phê bình
người thời xưa, e không được đúng.

LÂM ẤP DỤlN(ỉ Nước


Thòi xa xưa, hàng ngàn năm trước công nguyên, biên giới
phương nam nước ta chỉ đến đèo Hải Vân. Bên kia đèo này là tỉnh
Bình Thuận ngày nay, có người Hời lập quốc là nước Hồ Tôn xưa.
Người xứ này thuộc giống Mã Lai - Đa Đảo (Malayo - Polynésien),
theo chế độ mẫu hệ, chịu ánh hưởng văn hoá An Độ, theo An Độ giáo.
39
Nhóm tộc Mã Lai - Đa Đảo cư trú rải rác ở vùng ven biển
nam và đông nam châu A. Bộ phận ỏ miền trung và miền nam
Trung Việt, đã dựng thành quốc gia sơ khai, có tính cách một liên
minh bộ lạc, không chặt chẽ lắm. Đó là nước Hồ Tôn thời vua
Hùng bên ta, gồm hai bộ lạc lớn là bộ lạc Cau tại vùng từ Phú Yên
đến Bình Thuận, bộ lạc Dừa vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi và
nhiều bộ lạc nhỏ khác.
Khi nhà Hán chiếm đất thông trị nước ta, đặt nền đô hộ thì
chiếm luôn giải đất nước Hồ Tôn, lập thành huyện Tượng Lâm,
thuộc quận Nhật Nam. VSTGCM chép: Năm 102, thòi Hán Hoà
đế, người phía nam quận Nhật Nam hay sang cưốp phá quận này
nên nhà Hán mới đặt quan cai trị huyện Tượng Lâm, đề phòng giữ
sự rốì loạn.
Cực khổ dưới ách thông trị nhà Hán, dân Tượng Lâm
từng hương ứng công cuộc khởi nghĩa bà Trưng. Sau luôn luôn
nổi dậy chôKg đôl đã từng thắng lợi lớn, như năm 137, bọn
khu liên đánh quận huyện, giết trưởng lại; năm 138, đánh
vây hơn một năm quân của thự ngự sử Giả Xương. Sau đó,
người Hán, khi thì dùng mưu xảo quyệt chia rẽ các tướng
lĩnh, khi thì dùng bạo lực đàn áp, lập lại nền đô hộ. Nhưng
đến năm 190, dân Tượng Lâm thành công vững vàng, sau gồm
thu các bộ lạc cùng sắc tộc phương nam, lại quật cường đánh
chiếm luôn cả đất Việt Thường (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên ngày nay), thành lập nên một quôc gia hùng mạnh,
nước Lâm Ap.
Xứ Việt Thường xa xưa là một bộ trong 15 bộ dưới thời vua
Hùng nước ta, từ Hoành Sơn đến đèo Hải Vân. Bộ này sau ly khai,
từng giao thiệp với nhà Chu bên Trung Quốíc. Nhà Hán chiếm đất
xứ này lập ra quận Nhật Nam. Oán ghét quan lại nhà Hán tham
bạo, người Việt Thường sẵn sàng gia nhập vào với nước Lâm Ap,
rồi đồng hoá với dân nước này.
Nhà Hán suy, đành chịu bỏ. Sĩ Nhiếp, thứ sử Giao Chỉ không
can thiệp. Qua các triều đại sau, người Trung Quôc cũng không
sao lập lại được nền đô hộ trên đất Lâm Âp nữa.
Dòng dõi Khu Liên thất truyền, cháu ngoại Phạm Hùng kế
nghiệp.
Thế kỷ III, IV, người Lâm Âp thường hay sang cướp phá tại
các quận Nhật Nam và cửu Chân, lại còn muốn mở rộng đất đai
ra cả phương bắc nữa.
40
sĩ NHIẾP
Sĩ Nhiếp, người huyện Quảng Tín, quận Thương Ngô, có
gôc nước Lỗ. Cha là Sĩ Tứ, thòi Hán Hoàn đế (158 - 171) làm
thái thú Nhật Nam. Thiếu thời du học tại kinh đô Lạc Dương,
được cử hiếu liêm, bô dụng huyện thư lang, vì việc công bị miễn
chức. Hết tang cha, lại được cử mậu tài, bổ làm huyện lệnh Vũ
Dương, sau thăng thái thú Giao Chỉ, phong là Long Đỗ Đình
hầu. Lị sở tại Liên Lâu (Long Biên) nay thuộc phủ Từ Sơn, Bắc
Ninh. Bấy giờ là năm 187.
Sĩ Nhiếp sáng suốt, trí mưu, độ lượng, khoan hậu, khiêm tốn,
kính trọng kẻ sĩ, đưỢc người trong nước yêu mến, coi như vua (vương).
Hàng trăm ngríời Hán tránh loạn lạc chạy sang nương tựa.
Năm 203, thứ sử Trương Tân cùng Sĩ Nhiếp dâng biểu xin
lập bộ Giao Chỉ làm châu. Hán Hiến đê ưng cho. Tên Giao Châu
bắt đầu từ đấy. Tân bị tướng Khu Canh giết, Hán đế cho Sĩ Nhiếp
làm Tuy Nam trung lang tướng, trông coi bảy quận, lại phong làm
An Viễn tướng quân. Bây giò, thiên hạ loạn lạc, đường sá đứt
nghẽn. Sĩ Nhiếp vẫn sai người mang đồ công sang kinh đô nhà
Hán, không hề bỏ việc công hiến.
Trong châu có lắm giặc giã. Sĩ Nhiếp xin Hán đế cho các em
Sĩ Nhất làm thái thú Hợp Phố, Sĩ Vi thái thú Cửu Chân, Sĩ Vu
thái thú Nam Hải. Anh em ông giữ được đất Giao Chỉ thanh bình.
Sĩ Nhiếp có đòi sống vương giả. Khi ra vào thì đánh
chuông khánh, uy nghi đủ hết, kèn sáo thổi vang, xe ngựa đầy
đường, người Hồ (An Độ) đi sát bánh xe để đốt hương, có mấy
mươi người vỢ cả, vỢ lẽ đi xe che kín, các con em cưỡi ngựa theo
binh lính, quý trọng ỏ đương thời. Triệu Vũ vương Đà cũng
không hơn được.
Năm 210, Hán Hiến đê còn ở ngôi nhvtng miền Giang Đông,
đông nam Trung Quốc do nhà Ngô Tôn Quyền chiếm giữ. Sĩ Nhiếp
thuần phục Ngô vương, thường sai sứ sang Ngô, đem công những
thứ hương quý, vải nhỏ, kể có hàng ngàn. Các của quý như ngọc
trai, ốc lớn, lưu ly, lông trả, đồi mồi, sừng tê, ngà voi và đủ thứ
quả lạ như chuôi, dừa, nhãn, không năm nào không tiến, lại công
mấy trăm con ngựa. Ngô vương phong Sĩ Ngâm, con Sĩ Nhiếp, làm
thái thú Vũ Xương, các con khác phong làm trung lang tướng. Lại
phong Nhiếp làm Vệ tướng quân, Long Biên hầu. Sử gia Lê Văn
Hưu khen Nhiếp hiết thời cơ.
41
Sĩ Nhiếp còn là học giả lỗi lạc, học vấn sâu rộng, ham học thư
truyện và Xuân Thu Tả Thị truyện lại càng tinh vi. Sách Thượng
Thư thì nghĩa lớn kim cổ đều hiểu rõ ràng, đầy đủ.
Giới sĩ phu nước ta xưa rất tôn sùng Sĩ Nhiếp, thường gọi là
Sĩ vương, cho rằng nước ta có văn hoá khởi đầu từ ông này, tôn
ông là Nam Giao học tố’. Xét điều này không đúng hẳn. Từ ngày
thuộc Triệu, thuộc Tây Hán, chữ Hán đã được truyền bá sang ta
rồi. Trước thời Sĩ Nhiếp, dân ta đã có những người học hành, thi
đỗ hiếu liêm, mậu tài. Có sự kiện Sĩ Nhiếp có công mở mang việc
giáo dục rộng rãi trong xứ ta, đã đưa một sô" “thầy đồ” người Hoa
sang dạy chữ Hán. Tiếng Hán- Việt (người nước ta đọc chữ Hán)
gần giốhg với tiếng người Quảng Tín thuộc Quảng Tây, quê hương
Sĩ Nhiếp, đọc chữ Hán. Lòi sử gia Ngô Sĩ Liên nói: Nước ta được
thông thi thư, tập lễ nhạc, làm một nước văn hiến là bắt đầu từ Sĩ
vương, e quá đáng phần nào.
Sĩ Nhiếp là quan cai trị giỏi, ồng và các em ông có công giữ
gìn an ninh Giao Châu ta cuối đòi Đông Hán, trong khi tại Trung
Quô"c giặc cướp nổi lên khắp bô"n phương, triều đình không có uy
quyền ra đến ngoài, thiên hạ chỗ nào cũng loạn, ông là vị quan
tương đôi tô"t. Ngô Sĩ Liên, trong ĐVSKTT, chép các năm 187, 226,
thời ông cai trị xứ ta là Kỷ Sĩ vương. Nhưng tiếc thay, Sĩ Nhiếp
không p h ả i là quan thanh liêm. Như nói ở trên, ông có đòi sông
rất đê vương, lại công hiến nhà Hán trước, nhà Ngô sau, rất hậu
hĩ. Nếu không bóp nặn, bòn mót nhiều của cải của dân ta thì của
cải ấy lấy đâu ra. Cũng như mọi quan người Hán khác, ông đã vơ
vét nhiều của dân ta, nhưng có lẽ không quá thậm tệ lắm, nên
không bị oán ghét. Do cai trị luôn trong nhiều năm, tích luỹ lại,
nên có được nhiều.
Năm 226, Sĩ Nhiếp khuất, hưởng thọ 90 tuổi, cai trị xứ ta
40 năm. Tại xã Tam Á, phủ Thuận Thành (Bắc Ninh) có phần
mộ và đền thờ. Tại xã Lũng Triều huyện Gia Bình, Bắc Ninh
cũng có đền thờ.
Vua Trần Nhân Tông phong làm Thiên cảm Gia ứng Linh
Vũ đại vương.

KỶ THUỘC NGÔ
Năm 220, nhà Đông Hán mất ngôi, Trung Quốc phân ra làm
ba nước: Bắc Nguy, Tây Thục và Đông Ngô. Đất Giao Chỉ bấy giờ
thuộc về Đông Ngô. Nhà Ngô trị nước từ năm 222 đến năm 280.
42
Ngô chúa nghe tin Sĩ Nhiếp chết, thấy Giao Châu xa cách,
bèn chia làm hai: Từ Hợp Phô' trở về bắc là Quảng Châu, từ Hợp
Phô' trở về phía nam là Giao Châu, cử Lữ Đại làm thứ sử châu
Quảng, Đái Lương làm thứ sử châu Giao, Trần Thì làm thái thú
quận Giao Chỉ.
Sĩ Huy, con Sĩ Nhiếp, từ trước đã chiếm xưng làm thái thú
Hợp Phô'. Lương và Thì tiến đến Hợp Phô'. Lại viên Hoàng Lân
khuyên Huy nên đón bọn Lương. Huy đem binh người họ**' ra
chông cự. Lữ Đại vâng chiếu vua Ngô đem quân từ Quảng Châu
ngày đêm đi gấp đến HỢp Phô', cùng với Lương tiến đánh anh em
Huy. Đại sai người đến dụ Huy ra hàng. Huy thực bụng thực dạ,
anh em sáu người ra hàng, bị Đại bắt đem chém cả. Lữ Đại đã dỗ
ra hàng mà lại đem giết đi là bậy, thất tín, đáng khinh.
Nhất, Vi và con Nhất là Khuông sau mối ra hàng. Ngô chúa
tha cho cùng với con tin Ngẫm đều bị giáng làm thứ nhân. Được
vài năm, Nhất và Vi có tội phải giết, Khuông ô'm chết trước. Đến
khi Ngẫm chết, tướng của Huy là Cam Lễ và Hoàn Trị đem lại và
dân cùng đánh Đại, bị Đại đánh tan. Đại tiến đánh quận cửu
Chân, chém và bắt được hàng vạn người. Ngô chúa cho Đại kiêm
lãnh cả Giao, Quảng hai châu, làm Trấn Nam tướng quân, tước
Phiên Ngung hầu.
Quan lại nhà Ngô sang ta cũng tham bạo, có phần lại quá
tệ hơn. Dân ta bớt khố dưới thời Giả Tung (Giả Mạnh Kiên), Lý
Tiến, Sĩ Nhiếp, thì nay, ngoài sưu cao thuế nặng, còn phải bắt
đưa sang Ngô xây đắp dinh thự, thành quách nên luôn luôn có
những cuộc nổi dậy. Năm 248, người c ử u Chân nổi lên đánh
phá thành ấp, châu quận rô'i động. Thứ sử kiêm hiệu uý Lục
Dận (có sách chép Lục Thương), cháu Lục Tô'n, vừa vỗ về, vừa
đàn áp, lâu lâu mới được yên. Lại có vụ bà Triệu khởi nghĩa
(việc chép ở sau).
Sau thái thú Giao Chỉ Tôn Tự tham bạo, làm hại nhân dân.
Ngô chúa sai Đặng Tuân đến quận xem xét. Tuân bắt dân nộp
3000 chim công đưa về Kiến Nghiệp. Dân sự mưu nhau chông đô'i.
Quận lại Lữ Hưng giết Tư và Tuân, xin Tư Mã Viêm cầm quyền
nước Nguy đặt thái thú và cho binh. Các quận Nhật Nam và cửu
Chân hưởng ứng. Bấy giờ là nám 263.

Cuối đời Hán, các họ cùng nổi loạn, người miền nam hợp người họ làm lính đế tự vộ, cho
nên aọi là tône binh, lính ncười họ.

43
Năm 265, Tư Mã Viêm dứt nhà Nguỵ, xưng đế, dựng lên nhà
Tấn. Đặc cử Dương Tắc làm thái thú. Nhà Ngô không chịu bỏ Giao
Châu, năm 268, cử Lưu Tuấn làm thứ sử, đại đô đốc Tu Tắc và tướng
quân Cô" Dung ba lần trước sau đánh Giao Châu, đều bị bọn Dương
Tắc đánh bại. Tỳ tướng của Dương Tắc là Mao Linh và Đổng Nguyên
đánh quận Hợp Phô", phá tan quân Ngô, giết Lưu Tuấn và Tư Tắc.
Linh lên làm thái thú Uất Lâm. Nguyên thái thú Cửu Chân.
Năm 269, Ngô chúa lại sai giám quân Ngu Phiếm, Uy Nam
tướng quân Tiết Hũ và thái thú Thương Ngô Đào Hoàng, đi đường
Kinh Châu sang, giám quân Lý Đính, đô"c quân Từ Tôn đi đường
biến Kiến An sang, h Ợ p quân ở Hợp Phô" để đánh Dương Tắc.
Quân Ngô và quân Tấn đánh nhau nhiều trận.
Đào Hoàng, người Đan Dương, là tướng giỏi. Năm 271, cự
nhau với Dương Tắc ở Phần Thuỷ (huyện Tân Hội, Quáng Đông)
từng bị thua, lui về giữ Hợp Phô", sau đánh úp được Đông Nguyên,
bày kê khiến quân Tấn giết Giải Hệ, dũng tướng của Nguyên. Bọn
Hũ và Hoàng đánh lấy được châu, trừ đưỢc bọn thứ sử Dương Tắc,
sau lại thắng công tào quận cửu Chân Lý Tộ. Hoàng có mưu lược,
chu cấp kẻ bần cùng, thích làm ơn bô" thí, được lòng người, cho nên
ai ai cũng vui lòng giúp việc, đi đến đâu có công trạng đến đấy.
Ngô chúa lấy Hoàng làm thứ sử tri tiết đô đô"c Giao Châu chư
quân sự tiền tướng quân châu mục.
Năm 280, nhà Ngô bị diệt, đất Ngô sáp nhập vào Tấn. Hoàng
khóc mấy ngày, rồi sai sứ mang ấn thao đến Lạc Dương. Tấn đê
chiếu cho phục chức, phong là Uyển Lãng hầu, Quán quân tướng
công. Hoàng ở châu 30 năm, vẫn tỏ uy quyền ân huệ, được người
địa phương yêu mến.

BÀ TRIỆU KHỞI N(ÌHĨA


Giữa thê kỷ thứ III, quan nhà Ngô là Lục Dận (có sách chép
Lục Thương), thứ sử kiêm hiệu uý Giao Châu, là người tham bạo.
Ó quận Cửu Chân, có người đàn bà tên Triệu Thị Chinh'*’ khởi
binh đánh lại quân Ngô.
Bà người huyện Nông Công bây giò, con một vị quan lang (tù
trương Mường). Thưở nhỏ, cha mẹ mất sớm, ở với anh là Triệu

' ' Sứ cũ thường chép bà là Triệu Âu. Đây là tiếng người Hoa gọi bà. Chữ Hán Ăii có nghĩa
là Mụ, chi nsười đàn bà tầm thường, già, xấu. Triệu Âu có nghĩa là con mụ Triện, tò ý khinh
bi ngirời nữ anh hùng nước la.

44
Quốc Đạt. Năm 20 tuổi, có người chị dâu ác nghiệt, bà giết đi, rồi
vào ở trong rừng núi. Có sức mạnh, lại chí khí mưu lược, bà chiêu
mộ được hdn ngàn tráng sĩ làm thủ hạ. Người anh thấy thế, can
bà thì bà hảo rằng: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng
dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, quét sạch bò cõi, để cứu dân
ta khỏi nơi đắm đuôi, chứ không thèm bắt chước người đòi cúi đầu
còng lưng để làm tỳ thiếp người ta.”
Bấy giờ, quan lại nhà Ngô tàn ác. Dân gian cực khổ. Triệu
Quỗc Đạt khơi binh đánh cướp các huyện quận cửu Chân. Bà đem
quân sĩ ra đánh giúp anh. Quốc Đạt hy sinh. Quân sĩ thấy bà là
tướng can đảm, tôn làm minh chủ. Khi ra trận, bà cưỡi voi, mặc áo
giáp vàng, đi guốc gỗ, xưng là Nhuỵ Kiều tướng quân. Quân sĩ tôn
bà là Lệ Híii bà vương, có nghĩa bà là vua miền biến rất mạnh tỢn,
dữ dội. (Nhuỵ Kiều tướng quân có nghĩa là tướng quân đàn bà còn
ít tuoi).
Quân Ngô sỢ hcãi, có câu: H oành qua đương hô dị, đối diện bà
vương nan, nghĩa là múa giáo trước mặt ho dễ, giáp mặt bà vương
mới khó.
Lục Dận phải huy động đại binh 6000 quân đi đánh. Bà
chông chọi lại được với quân Ngô năm, sáu tháng. Nhưng vì quân
ít, thế cô, đánh mãi phải thua. Bà đem quân đến xã Bồ Điền ínay
là xã Phú Điền thuộc huyện Mỹ Hoà). Thế cùng, bà tự tử. Bấy giò
mới 23 tuổi.
Nay tại xã Phú Điền, tỉnh Thanh Hoá và xã An Hoá, tỉnh
Nghệ An còn có đền thồ bà. Vua Lý Nam đế khen bà là người
trung dũng, lập miếu thờ, phong bà là Bật Chính Anh Liệt Hùng
Tài Trinh Nhất phu nhân.

KỶ THUỘC TẤN
Bên Trung Quốc, nhà Tấn lập 265, đến năm 280 chiếm đất
Đông Ngô, cai trị toàn quổc hơn 50 năm. Sau đó phía tây bắc, có
những người nhung, địch nôi nhau chiếm giữ vùng bắc Trường
Giang, xưng đê xưng vương, dựng nên các nước Triệu, Tần, Yên,
Lương, Hạ, Hán, trước sau 16 nước, gọi là loạn Ngũ Hồ. Dòng dõi
Tư Mã chỉ còn giữ được phía đông nam, đóng đô ở thành Kiến
Nghiệp (Nam Kinh ngày nay), gọi là Đông Tấn, kéo dài đến năm
420. Đất nước ta thuộc Tấn từ nám 280 đến năm 420.
(^uan lại nhà Tấn sang cai trị, cũng như quan lại nhà Hán, nhà
Ngố, thỉnh thoảng mới được người tôt thì dân gian yên ổn. Còn đa số
45
đều tKam ác thì nhân dân lầm than khổ sở. Lại có việc quan lại
tranh quyền đánh giết lẫn nhau, khiến cho nước loạn lạc luôn.
Cuôi thế kỷ thứ III, thường hay có những cuộc nổi dậy lẻ tẻ. Triệu
Chi cùng thú binh quân cửu Chân nổi dậy, vây quận, đánh đuổi thái
thú. Quan quân nhà Tấn phải vất vả lắm mới dẹp vên được.
Đốc quân Lương Thạc chuvên quyền chiếm giữ châu, sỢ dân
tình không phục, cử Đào Uy, con Đào Hoàng, thái thú Thương
Ngô, lĩnh chức thứ sử. Uy cai trị 30 năm, được lòng dân. K ế em Uy
là Thục, con là Tuy nôi nhau làm thứ sử. Từ Cơ (ông nội hay cha
Hoàng) đến Tuy, bổh đòi giữ tiết V iệt.
Nàm 318, Tấn đê cử Đào Khản làm Giao Châu đô đốc chư
quân sự. (Khản tức Đào Sĩ Hành, cha thi sĩ Đào Tiềm). Năm 322.
lại cử Vương Lượng làm thứ sử, khiến đánh Lương Thạc. Thạc
diệt được LưỢng, giữ châu, hung bạo mâ"t lòng dân. Đào Khản sai
tham quân Cao Bảo đánh, chém chết Thạc. Tấn đế cho Khản lãnh
thứ sử Giao Châu, tiến hiệu Chinh Nam đại tưống quân. Không
bao lâu thị lang bộ lại Nguvễn Phóng xin làm thứ sử. Đến nơi,
mưu giết Bảo, bị Bảo đánh thua, chạy đến châu khát nước quá rồi
chết. Quan tướng nhà Tấn đánh giết nhau không phải chỉ cố thế.
Quốc sử chép quan nhà Tấn có thự sử Ngô Ngạn tại chức 25
năm, ân uy rõ rệt, dân yên ổn. Cô" Bi thay là người ôn hoà, nhã
nhặn, dân châu yêu mến, tiếc rằng cai trị không lâu, ô"m chết.
QUÂN LÂM ẤP SANG CƯỚP PHÁ - Lâm Âp dựng, chiếm đất Việt
Thường, quân đội hùng mạnh. Thời xứ ta thuộc Ngô, người Lâm
Âp hay sang cướp phá ở quận Nhật Nam và cửu Chân. Đến thời
thuộc Tấn, nhà cầm quyền vẫn phải dùng nhiều quân đóng đồn
phòng quân Lâm Âp của Phạm Hùng hay sang quấy nhiễu.
Phạm Hùng truyền cho con là Phạm Dật. Phạm Dật mất thì
gia nô Phạm Văn cướp ngôi. Phạm Văn truyền ngôi cho con là
Phạm Phật.
Năm 353, thứ sử Giao Châu Nguyễn Phu đánh vua Lâm
Âp Phạm Phật, phá được hơn 50 đồn luỹ. Phạm Phật truyền
ngôi lại cho con cháu là Phạm Hồ Đạt. Hồ Đạt anh hùng, năm
399, đem quân sang đánh lấy hai quận Nhật Nam và cửu
Chân, rồi lại đánh cướp Giao Chỉ. Thái thú Giao Chỉ Đỗ Viện
đánh đuổi được người Lâm Âp, lấy lại hai quận kia, được phong
làm thứ sử Giao Châu.
Năm 413, Phạm Hồ Đạt lại đem quân sang đánh phá ở quận
Cửu Chân. Thứ sử Giao Châu bấy giò là Đỗ Tuệ Độ, con Đỗ Viện,
46
đem quân vào đuổi đánh, chém được tướng Phạm Kiện và bắt
được hơn trăm người.
Người Lâm Âp hay đi cướp phá, cứ vài ha năm lại sang quấy
nhiễu. Nàm 415, lại sang, chảu tướng đánh đuổi được.
Để trừ hại về sau, Đỗ Tuệ Độ, năm 420, cất binh mã sang
đánh, chém giết tàn hại, rồi bắt người Lâm Ap hàng năm phải
công tiến voi, vàng bạc, dồi mồi.
Dòng dõi Phạm Hồ Đạt sau bị quan Lâm Âp Phạm Chư Nông
thoán ngôi. Phạm Chu Nông truyền cho con là Phạm Dương Mại.
LOẠN LẠC ở GIAO CHÂU ĐỜI NHÀ TẤN - Thòi gian cuối thế kỷ
IV sang đầu thê kỷ V, nhà Tấn suy nhược, nhiều đốc quân các nơi
có cao vọng muốn nhân dịp làm sự cát cứ một địa phương để tiến
đên sự xung bá đồ vương.
Năm 380, thái thú Cửu Chân Lý Tô"n, người có sức khoẻ và
dũng lược, chiếm giữ quận, không chịu thuần phục nhà Tấn, uy
danh chấn động cả Giao Châu. Thái thú Giao Chỉ Đỗ Viện họp
quân đánh Tôn, chém được Tôn tại trận. Tàn quân của Tôn vẫn
tiếp tục hoạt động.
Dầu thê kỷ V, Tôn y\n kêu gọi dân Chiết Giang nối dậy chông
nhà Tấn. Nghĩa quân bị đàn áp. Bộ tướng Lư Tuần, thái thú Vĩnh
Gia, tiếp tục cũng hị đánh hại. Năm 411, kéo quân chạy sang Giao
Châu, đánh Hợp Phô, tiến thang đến châu lỵ. Đỗ Tuệ Độ đem các
quan văn võ ơ châu phủ chống nhau với Tuần, phá tan được. Quân
của Tuần còn sót độ 2000 hỢp với dư đảng của Lý Tô"n là bọn Lý
Thoát kết hỢp vói 5000 dân Lái Lão ứng theo Tuần, đến Long
Biên. Đỗ Tuệ Độ dùng hoả công đốt thuyên bè của Tuần. Tuần thê
cùng, bỏ thuổc độc cho vỢ con chết trước, rồi gieo mình xuông dòng
nước mà chết.
Năm 412, cánh quân khác của Lư Tuần, do Lư Kinh Đạc chỉ
huy, chiêu tập dân vong mạng, nổi dậy đánh phá quận cửu Chân,
giết thái thú Đỗ Chương Dân, sau cũng bị Đỗ Tuệ Độ đàn áp.
Đỗ Tuệ Độ. mặc áo vải, ăn cơm rau, cấm thò nhảm, mở nhà học,
năm đói kém lấy lộc riêng chan cấp, làm việc quan chu đáo, được dân
yêu. Sau con là Hoàng Văn kê nghiệp. Ba đời mang phủ tiết.

KỶ THUỘC LƯU TỐNG


Tại Trung Quốc, năm 420, Lưu Dụ cướp ngôi nhà Đông Tấn,
dựng nhà Tông. Bắc sử chép là nhà Lưu Tốiig để phân biệt với nhà
Tống sau này. Bấy giò, ơ phía bắc, nhà Nguy gồm được các nước
47
Lương, Yên, Hạ. Trung Quốc phân ra Nam Triều và Bắc Triều. Bắc
Triều có các nhà Nguỵ, Tề, Chu. Nam Triều có các nhà Tống, Tề,
Lương, Trần nốl nhau làm vua. Đất Giao Châu thuộc vào Nam Triều.
Tuy có sự thay triều đổi họ, quan lại người Hán sang ta trước
sau vẫn thế, rất ít người tôt, nhiều người tham hạo.
VIỆC ĐÁNH LÂM ẤP - Trong thời gian thuộc Tống, xứ ta chỉ có
việc đánh Lâm Ap quan trọng.
Năm 431, vua Lâm Ap Phạm Dương Mại sang cướp quận
Cửu Chân. Quan của cháu đánh lui được.
Năm 432, Phạm Dương Mại sai sứ sang công nhà Tông, xin
lĩnh đất Giao Châu để cai tri. Vua Tông không cho.
Từ đó, người Lâm Àp lại hav sang cướp phá mạn Nhật Nam và
Cửu Chân. Năm 436, vua Tông sai thứ sử Đàn Hoà Chi sang đánh.
Có Tôn Xác, dòng dõi nhà nho thích nghề võ làm Chấn Vũ tướng quân
di tiên phong. Phạm Dương Mại xin trả lại những người Nhật Nam bị
bắt trước và nộp rất nhiều vàng bạc. Hoà Chi sai Khương Trọng Cơ
đến gặp Dương Mại. Dương Mại bắt lấv. Hoà Chi giận, tiên quân váy
đánh tướng Phạm Phù Long. Tướng Phạm Côn Sa Đạt đến cứu.
Tôn Xác đón đánh, phá tan được. Hoà Chi lấy được thành
Khu Túc, tiến vào Tương Phrí, khoảng huyện Duy Xuyên (Quảng
Nam ngày nay). Dương Mại đem toàn quân ra chôAg cự kịch liệt
nhùng không lại với quân Tôhg. c^uân Lâm Ap thua to. Hoà Chi
lấy được kinh đô Lâm Ảp. Dương Mại và con chạy thoát thân. Hoà
Chi lấy được đồ châu báu không biết là bao nhiêu mà kế. VNSL
chép có tưỢng vàng nấu đúc ra được hơn 10 vạn cân (e có quá
đáng). Tôn Xác không lấy riêjig một thứ gì. Năm 427, Đàn Hoà
Chi, vì của ấy, bị gièm pha, phái cách chức, đuổi về. Từ đấy người
Hoa biết Lâm Ap nliiều cúa, cứ chực sang lấy.

THỜI GIAN Tự TRỊ 468- 485


Năm 468, thứ sử Lưu Mục (hay Trương Mục) chết. Người
ti'ong châu Lý Thường Nhân đem quân đánh chiếm lấy châu lỵ,
giết hết quan lại từ bắc sang, tự xưng làm. thứ sử. Vua Tông cử
Lưu Bột sang làm thứ sử. Thường Nhân chống cự. Bột không vào
nhậm sở đưỢc, không bao lâu chết. Cho đến năm 478, ba lần thứ
sử sang đều bị Lý Thường Nhân đánh lui. Thương Nhân giữ vững
địa vị. Nhà TôAg không làm gì nổi, đành phải thừa nhận.
Năm 479, Lý Thường Nhân chết. Em con chú là Lý Thúc
Hiến lên thay, sai sứ sang Tông xin phong. Vua TôAg chỉ cho làm
48
thái thú hai quận Vũ Bình và Tân Cương, cử Thẩm Hoán làm thứ
sứ. Thúc Hiến được lòng người theo phục, đem quan ngăn giữ.
Hoán ở lại Uất Lâm, ỗm rồi chết.
Cùng năm ấy, nhà Tề lập thay nhà Tông. Vua Tề biết khó
khuất phục các châu xa, phong Thúc Hiến làm thứ sử Giao Châu.
Dù vậv. Thúc Hiến không chịu nộp công.
Năm 485, nhà Tề ổn định Trung Nguyên, sai Lưu Khải sang
làm thứ sử. Thúc Hiên liệu thê chông không nối, sai sứ sang bãi
binh, nộp 20 cỗ mũ đầu nicâu bằng bạc có tua lông công. Vua Tề
không chịu, thúc Lưu Khải kéo quân sang đánh. Thúc Hiến bị
đánh úp, thế cùng, phải đi đường tắt sang chầu vua Tề. Lưu Khải
vào cai trị Giao Châu, chấm dứt nền tự chủ 20 năm của anh em họ
Lý. Lý Thường Nhân và Lý Thúc Hiến mở đầu công cuộc tự cường
tự trị của dân ta.

KỶ THUỘC TỀ
Nhà Tề thav nhà Tông làm vua miền nam Trung Quốc từ
năm 479 đến năm 501, cử quan cai trị Giao Châu từ năm 485.
Lưu Khải thắng Lý Thúc Hiến, trị nhậm chức thứ sử Giao Châu.
Sau có Phòng Pháp Thặng thay. Pháp Thặng chỉ thích đọc sách, sao
nhãng việc công. Trưởng lại Phục Đăng Chí chuyên quyền, đổi thay
các tướng lại, bị Pháp Thặng bắt giam. Chạy chọt được ra, Đăng Chí
đem bộ khúc đánh úp châu trị, bắt giam Pháp Thặng giam ở nhà
riêng, tâu vua Tề rằng Pháp Thặng có bệnh tim, không thể coi việc
đưỢc. Vua Tề cho Đăng Chí làm thứ sử. Bấy giò là 490.
Sau nhà Tê' cử Lý Nguyên Khải sang thay Phục Đăng Chí.
Quôc sử không chép các thứ sử Lưu Khải, Phục Đăng Chí, Lý
Nguyên Khải tốt xấu thê nào.

KỶ THUỘC LUƠNG
Năm 502, nhà Lương thay nhà Tề cai trị miền nam Trung Quốc.
Lý Nguyên Khải, thứ sử Giao Châu, không phục nhà Lương,
gặp buổi thay triều đối họ, nước loạn lạc, có ý muôn tự lập, theo
như Triệu Đà, bèn chiếm giữ châu. Năm 505, trưởng sử Lý Tắc
đem quân sang đánh Nguvên Khai, giết được.
Năm 516, vua Lương phong Lý Tắc làm thứ sử. Tắc lại đánh
chém dư đảng Nguyên Khải là Vjỷ Tông L.ão, giết đi, bình được châu.
Người kế vị Lý Tắc là Vũ Lcâm hầu Tiêu Tư, người họ tông
thât nhà Lương, tàn ác. Dân Giao Châu nối dậy chôhg đôi.
49
KỶ NHÀ TIỀN LÝ
TIỀN LÝ NAM ĐẾ
Giữa thế kỷ Vĩ, xứ ta thuộc nhà Lương bên Trung Quốc. Thứ
sử Tiêu Tư và các thú lệnh người Hoa tàn bạo, hà khắc. Có Lý Bí‘*'
lãnh đạo nhân dân ta nôi dậy giành độc lập.
Ông người huyện Thái Bình'**\ Tổ tiên người Trung Quốc tránh
loạn Vương Mãng chạy sang ta lập nghiệp, truyền đến ông là bảy đời,
biến thành người Việt. Tài kiêm văn võ, có chí khí lớn, trước có giữ
chức quan nhỏ triều Lương, bất bình với cấp trên tham nhũng, bỏ
quan về nguyên quán. Thấy dân cực khổ dưới ách đô hộ nhà Lương,
lại hị người Lâm Âp hay sang cướp phá, ông muôn ra tay kinh tế cứu
vớt, đưa dân chúng lên cõi thanh bình, bèn chiêu mộ quân nghĩa dũng
dấy binh. Được Tinh Thiều, người giỏi từ chương, theo giúp khởi sự.
Thiều trước có đến kinh xin bổ dụng làm quan. Vua Lương chỉ cho
làm chức nhỏ. Thiều lấy làm nhục, bỏ về. Lý Bí làm giám quân ở châu
Cửu Đức, liên kết với hào kiệt các nơi, họ đều hưởng ứng. Có Triệu
Túc, tù trưởng Chu Diên, phục tài đức, đứng đầu dẫn quân theo.
Năm 541, việc tổ chức hàng ngũ nghĩa quân đã đưỢc chỉnh đốh,
uy thế hùng mạnh, đánh chiếm các địa phương huyện thành xa gần
dễ dàng, rồi tiến quân vây đánh thành Long Biên, thủ phủ Giao
Châu. Thứ sử Tiêu Tư, tên quan tham bạo ác ôn, thấy thế quân nổi
dậy rất lớn, vội vã bỏ chạy về Quảng Châu. ĐVSKTT chép Tư phải
đem nhiều của cải tặng Lý Bí mới chạy thoát thân được.
Nghĩa quân chiếm giữ được toàn cõi Giao Châu. Lý Bí sửa
sang mọi việc, định lập nên cơ nghiệp lâu dài.
Nghe tin Long Biên thất thủ, vua Lương vội sai các tướng Việt
Châu Trần Hầu, Na Châu Ninh Cự, An Châu Lí Trí, Ái Châu Nguyên
Hân cùng hỢp quân sang đánh. Đoàn quân xâm lược bị nghĩa quân Lý
Bí đánh bại. Danh tiếng lực lượng của nghĩa quân càng lên cao.
Năm 542, vua Lương lại sai các tướng Tôn Quýnh và Lư Tử
Hùng sang đánh nữa. Chúng viện cớ chướng khí mùa xuân đang
bốc, xin đợi đến mùa thu tiến quân. Thứ sử Quảng Châu Tân Dụ

Nguyên văn chữ Hán viết . Chữ này có 3 âm: Bôn, Bí và Phần, ĐNQSDC chép Phấn.
VNSL chép Bôn. Cao Huy Du dịch ĐVSKTT chép Bôn, lại chú thích gọi là Bi. Dân làng
thờ Lý Nam đẻ kiêng tiếng Bi. Vậy tướng chép tôn ông là Bí mới phải.
'**’ Huyện Thái Bình xưa, nhiều người cho là thuộc vùng Sơn Tây, Hưng Hoá. ĐVSKTT
chép Thái Bình thuộc phú Long Hưng thì đây phải là tinh Thái Bình ngày nay. Không rõ
đâu đúng. Có điều không thấy ở tinh Thái Bình đền thờ Lý Nam đế.

50
hầu Hoán không cho. Tiêu Tư cũng thúc giục. Bọn Quýnh và Tử
Hùng vừa kéo quân đến Hợp Phô", bị nghĩa quân đánh thua, 10
phần chết 6, 7. Quân tan vỡ trở về. Tư tâu vua Lương rằng bọn ấy
dùng dằng không chịu đi. Vua Lương bắt chúng phải tự tử.
Năm 543, quân Lâm Ap sang đánh phá cướp của quận Nhật
Nam. Tướng Tướng Phạm Tu dẫn nghĩa quân Cửu Đức - vùng Hà
Tĩnh - đánh chúng thua to chạy về nước.
Năm 544, sau nhiều lần đánh bại quân Lương và quân Lâm
Ap, Lý Bí vững tin ở lực lượng quân mình, chuyển sang củng cố
quyền thông trị đất nước, lên ngôi, xưng là Nam Việt đế, đặt quôh
hiệu là Vạn Xuân, cử Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều làm
tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ, đúc tiền đồng để dân tiêu dùng
trong nước.
Năm 545, vua Lương thây quân mình thua luôn và Lý Bí
xưng đế ở phương nam, tức giận, bèn dùng đại binh đi đánh, cử
Dương Phiêu làm thứ sử Giao Châu, Trần Bá Tiên làm tư mã, đem
quân sang đánh. Lại sai thứ sử Dương Châu Tiêu Bột hội với bọn
Phiêu ở Giang Tây. Bột biết tướng sĩ sỢ đi đánh xa, lại e sỢ quân
nam, mới kiếm cách nói dôi để lưu Phiêu ở lại. Phiêu hỢp tướng để
hỏi mưu kế. Trần Bá Tiên, tướng đại tài, chê bọn tông thất vô dụng,
cương quyết tiến quân. Phiêu cho Bá Tiên làm tiên phong.
Quân Lương xâm nhập bờ cõi. Lý Nam đế đem ba vạn quân
ra chông cự. Quân ta chông đôi với địch rất mạnh nhưng không lại
với quân Lương đông đúc, vóc người to lớn, có vũ khí sắc bén, lại
được chỉ huy bởi tướng tài nên bị thua ở Châu Diên, phía nam
sông Lục Đầu, khoảng lưu vực sông Thái Bình. Quân Phạm Tu ở
cửa sông Tô Lịch, khoảng Hồ Khẩu bên Hồ Tây, cũng bị giặc đánh
thua. Nghĩa quân phải rút về thành Gia Ninh (?). Quân Lương
đuổi theo vây.
Sang năm 546, Bá Tiên kéo quân đến đánh chiếm Gia Ninh.
Lý Nam đế chạy vào đất người Lão ở Tân Xương. Quân Lương
đóng ở cửa sông Gia Ninh, tiến lên đuổi đánh, chiếm thành Tân
Xương (nay thuộc Vĩnh Yên). Nam đế yếu thế, rút quân về động
Khuất Liêu (nay thuộc đất Hưng Hoá), đợi thu xếp được chỉnh đốh
lại ra đánh. Năm sau, Nam đê đem hai vạn quân ra đóng ở hồ
Điển Trạch (xã Yên Lập, huyện Lập Thạch, Vĩnh Yên ngày nay
tức xã Vạn Xuân), đóng nhiều thuyền chật cả trong hồ, Bá Tiên
dẫn quân tiến đánh. Sĩ tốt e ngại, đóng lại ở cửa hồ, không dám
tiến vào. Bá Tiên bảo các tướng: Quân ta sang đây đã lâu, mỏi
51
một, lại trd trọi một mình, không được tiếp viện. Tiến vào sâu đất
người, nếu trận đánh không thắng thì đừng có mong sông được.
Ngay đêm ấy, nước sông lên mạnh, chảv rót vào hồ, Bá Tiên thúc
quân theo dòng nước tiến vào, đánh trông reo hò. Quân ta kém
phòng bị, tan vỡ. Nam đê lại đem tàn quân về động Khuất Liêu
nay thuộc Đàm Xá, huyện Tam Nông, chỉnh đô"n lực lượng, mưu
sự đánh nữa. Nhưng đau hỏng mắt, nên uỷ cho đại tướng Triệu
Quang Phục, con Triệu Túc, giữ việc nước, điều quân chông lại Bá
Tiên. Năm 548, Nam đê khuất. Nay tại xã Đàm Xá có đền thò, gọi
là vua mù.
Lý Nam đế là người anh hùng, có chí lớn giết giặc cứu dân,
công nghiệp lớn lao mà không bền vững, do không may gặp phải
Trần Bá Tiên tài quá cao. ông làm vua được ba năm. ĐVSKTT
chép 7 năm là kê từ thời gian bắt đầu khởi nghĩa. Nước ta, đến Lý
Nam đê mới dựng nền quốíc gia độc lập. Trước có bà Trưng từng
dựng nước nhưng còn mang tính cách một liên bộ lạc.

TRẦN BÁ TIÊN
Trần Bá Tiên, tự Hưng Quốc, người Ngô Hưng Triết Giang,
cư sĩ vụ Kim Lăng, trước làm thái thú Thuỳ Hưng, có công bình
nam, được vua nhà Lương phong làm Uy Minh tướng quân, thứ sử
Giao Châu. Sử sách không chép về mặt chính trị, Bá Tiên tôt xấu
thê nào. Có thể không tham ác lắm. Không có việc dân chúng oán
giận. Có sự kiện Bá Tiên đưa một sô' người họ sang ta lập nghiệp ở
vùng Nam Sách, nay thuộc Hải Dương.
Sau Bá Tiên về nước, bình xong loạn Hầu cảnh, nhận thấy
nhà Lương hèn yêu, bèn thoán vị, lập nên nhà Trần, cai trị đất cũ
nhà Lương, không tiến lên được miền bắc do nhà Tề, nhà Chu kê
tiếp nhau làm vua. Nhà Trẩn trị vì miền nam Trung Quốc 32
năm, truyền 5 đời vua. Hậu Chủ mải chơi bời, bị nhà Tuỳ diệt.

TRIỆU VIỆT VƯƠNG


Năm 547, Triệu Quang Phục thông lĩnh nghĩa quân do Lý
Nam đế trao, cầm cự quân với Bá Tiên, đánh nhau mấy trận,
không phân đưỢc thua. Nhưng thế quân Lương lớn lắm, Quang
Phục liệu không chông lại nổi về lâu dài, lui hĩnh về giữ chầm Dạ
Trạch, thuộc huyện Châu Diên, Bãi Sậy sau này, nay thuộc phủ
Khoái Châu Hưng Yên. Chầm này, chu vi rộng lớn, cỏ cây um
tùm, bụi rộm che kín, giữa có thế đất cao có thể ở được, chung
52
quanh bùn lầy, người ngựa khó đi, chỉ có thể dùng thuyền độc mộc
nhỏ chông sào đi lướt trên cỏ nước mà đến được. Không quen
đường biết lôì thì không tài nào vào được, lỡ sa xuôKg nước sẽ bị
ran cắn chết. Quang Phục đem hai vạn quân về đóng ở nền đất
trong chầm, ngày tuyệt không để khói lửa dấu người, đêm dùng
thuyền độc mộc đem quân ra đánh quân Bá Tiên, giết và bắt được
nhiều giặc, lây được lương thực, làm kế cầm cự lâu dài. Bá Tiên
theo hút mà không đánh được. Người nước gọi Triệu Quang Phục
là Dạ Trạch vương. Trong trường hợp đặc biệt này, Quang Phục
cầm cự được khá lâu.
Năm 548, Lý Nam đế khuất, Triệu Quang Phục xưng là Nam
Việt vương. Suôd, ba năm liền, đôi bên cầm cự nhau, chiến tranh
dai dắng. Bá Tiên không sao bình được sai quân sĩ bố vây mọi
mặt, chò quân Triệu lương hết, binh mệt sẽ đánh phá.
Năm 550, Trung Quôc có loạn cảnh Hầu, triều đình nhà
Lương bất lực. Vũ đê bị hãm, phải chết đói. Giản Văn đế bị giết.
Nguyên đế phải triệu Bá Tiên về nước đế đôl phó với tình thế, cử
tướng Dương Sàn ở lại chông cự với Quang Phục.
Dương Sàn tài thường, không phải đối thủ với Quang Phục.
Quang Phục phóng quân ra đánh, thế mạnh. Sàn chông lại không
nổi, bị thua chết. Quân Lương tan vỡ, chạy về nước. Nước ta được
yên. Quang Phục kéo quân về đóng đô ở Long Biên.
Triệu Việt vương Quang Phục ở ngôi được 23 năm, giữ gìn an
ninh cho dân chúng lạc nghiệp làm ăn. Quốc sử không chép chi
tiết về công nghiệp cai trị của Việt vương.

ĐÀO LAN(Ỉ VƯƠNG


Trong khi Lý Nam đế lánh nạn ở động Khuất Liêu, có
người anh (VNSL chép là anh họ) là Lý Thiên Bảo cùng với
ngưòi họ Lý Triệu Long (Lý Phật Tử) thu thập dư binh được vài
vạn người, kéo nhau vào cửu Chân, giết quan nhà Lương là
Trần Văn Giới, rồi tiến vào vây đánh Ái Châu năm 547. Trần
Bá Tiên đem quân vào đánh dẹp. Thiên Bảo thua chạy, thu
nhặt tàn quân được vạn người, chạy sang đất Lào, đóng ở quận
Dã Năng. Nơi đây đầu nguồn Đào Giang, đất rộng màu tô"t, có
thể lập nghiệp, bèn đắp thành luỹ, xưng là Đào Lang vương, đặt
quôh hiệu là Dã Năng.
Năm 555, Đào Lang vương khuất, không con nốì. Lý Phật Tử
thôKg lĩnh quân chúng.
53
HẬU LÝ NAM ĐÊ
Năm 557, Lý Phật Tử đem quân về miền đông, đánh nhau
với quân Triệu Việt vương, năm lần giáp trận không phân được
thua. Quân Phật Tử có phần kém, phải lui. Phật Tử xin hoà và xin
kêt làm thông gia. Triệu Việt vương nghĩ tình họ Lý, ưng thuận và
chia đất cho, gả con gái cảo nương cho Nhã lang ở gửi rể.
Năm 571, Lý Phật Tử bội ước, đem quân đánh Triệu Việt
vương. Việt vương không ngờ, thế kém, thua chạy, đến cửa Đại Nha,
nay là xã Quần Liêu, Nam Định, nhảy xuống biển tự tận. Nay ở
vùng Quần Liêu, nhiều nơi có đền thờ Triệu Việt vương. Tại xã Phù
Ngọc, Nam Định và xã ứng Luật, Ninh Bình, cũng có đền thờ.

Sử gia Ngô Sĩ Liên bàn (đại ý): Lý Phật Tử đánh Triệu Việt
vương, phẩm hạnh quá xấu. Tiền Lý Nam đế ở động Khuất Liêu
đem việc quân uỷ cho Việt vương. Việt vương thu nhặt tàn quân
giữ hiển ở Dạ Trạch, đôl địch với Trần Bá Tiên là kẻ mạnh, rồi
thắng được Dương Sàn, quân bắc phải rút. Phật Tử khi ấy chỉ cầu
thoát thân. Sau đem quân đánh Việt vương, gian trá xin hoà, kết
thông gia. Việt vương lòng thành ctô'i đãi. Phật Tử đáng phải thời
thường triều chính, thê mà dùng mưu gian, làm trái đạo nhân
luân, chỉ ham lợi, tuyệt đường nhân nghĩa, đánh cướp nước. Sau
bản thân cũng không khỏi bị bắt làm tù, có lợi gì đâu?

Kiêm tính đưỢc n ư ớc, Lý Phật Tử x ư n g đ ế. Sử chép là Hậu


Lý Nam đế. ở n g ôi 32 n á m (571 - 602).
Phật Tử làm vua, đóng đô ở thành 0 Diên, sau dời sang
Châu Phong, nay thuộc Bạch Hạc (Vĩnh Yên), sai con anh là Đạo
Quyền giữ Long Biên, biệt suý Lý Phổ Đỉnh giữ thành Ò Diên.
Quôc sử không thấy chép trong thòi gian dài làm vua, Lý
Phật Tử có làm nên công nghiệp gì. 0 ngôi được lâu, không phải
có tài tế thế an bang gì. Chẳng qua thời ấy bên Trung Quôc, các
vua Trần nôl ngôi Bá Tiên hèn yếu, mải vui chơi, không nom
dòm xứ ta.
Năm 589, Tuỳ Văn đế thông nhất Trung Quốíc. Đến năm 602,
sai Lưu Phương thứ sử Qua Châu làm Giao Châu hành quân tổng
quản, thông lĩnh 27 doanh quân sang đánh. Phương tài lược, khéo
dụng binh, quân lệnh nghiêm nhưng tính nhân ái, thân đến vỗ về
nuôi nấng binh sĩ ôm đau, nên quân quận đều mến đức sỢ uy.
54
Quân Tuỳ kéo sang, thế hùng mạnh, đại thắng quân Lý ở đèo
Đô Long (?). Lưu Phương tiến quân, sai người đến dinh Lý Phật
Tử, lấy hoạ phúc dụ. Lý Phật Tử sỢ, xin hàng, bị đưa sang Bắc
quôc rồi chết.

Trước dùng mưu gian trá kiêm tính được nước, làm vua 32
năm, không có công đức gì, sau vừa thấy bóng giặc đã hàng, các
việc làm trước sau của Lý Phật Tử đều phi nghĩa (phỏng theo lời
bàn của sử gia Ngô Sĩ Liên).

KỶ THUỘC TUỲ
Năm 603, thứ sử Lưu Phương bắt được các tướng của Lý
Phật Tử, cho là gian ác đều chém cả.
Năm 605, Phương mới bình xong xứ ta.
Vua Tuỳ nghe nói nước Lâm Âp có nhiều của báu vật lạ, sai
Phương làm Hoan Châu đại hành tổng quản, cùng Ninh Thường
Châu, thứ sử Khâm Châu, đem hơn vạn quân bộ và quân kỵ, đai
tướng Trương Tôn đem thuỷ quân, cùng nam tiến. Vua Lâm Âp
chia quân đóng giữ các nơi hiểm yếu. Phương đánh bại chạy tan.
Quân Tuỳ tiến vào sâu. Lâm Âp có đoàn tượng binh bôn mặt kéo
đến, thê dũng mãnh. Phương dùng kế đào nhiều hô" sâu, phủ cỏ
lên trên, cho quân khiêu chiến, đương đánh giả thua chạy. Đàn
voi đuổi theo, nhiều con sa xuông hô, q^uân sĩ rốĩ loạn. Phương
quay lại bắn nhiều tên nỏ. Quân Lâm Âp thua to, bỏ chạy, giày
xéo lên nhau, bị giết và bị bắt hàng vạn. Phương tiến quân, mấy
trận đều thắng. Phạm Chí bỏ thành chạy ra biển. Phương vào
kinh thành Trà Kiệu (nay thuộc huyện Duy Xuyên, Quảng Nam)
lấy được 18 bộ thần chủ trong miếu, đều bằng vàng. Binh sĩ Tuỳ bị
mắc bệnh phù thũng chân, 10 phần chết 4,5. Phương cũng bị ô"m,
chết ở đường.
Quân Tuỳ không chiếm đóng đất Lâm Ảp dựng nền đô hộ.
Phạm Chí sau dâng biểu tạ tội và xin công hiến nhà Tuỳ.
Nhà Tuỳ làm vua Trung Quốc không lâu. Đến đời Đại
Nghiệp (605 - 617), chính trị thôi nát, nông dân khắp nơi nổi dậy
chống đôi. Thừa dịp, nhiều thái thú, thứ sử có binh quyền đóng
thành, cát cứ, tự trị một phương, không nộp phú công cho triều
đình. Thái thú Khâu Hoà giữ Giao Chỉ, Lê Cốc giữ cửu Chân,
Lương vương Tiêu Tiến, sở đế Lâm Sĩ Hoàng đều sai người sang
chiêu dụ. Lê Cốc theo Tiến. Khâu Hoà không theo ai. Tiến sai thứ
55
sử Khâm Châu Ninh Trường Chân đem quân sang đánh. Hoà
định hàng. Tư pháp thư tá Cao Sĩ Liêm ngàn lại. Hoà cử Sĩ Liêm
làm hành quân tư mã, đem quân thuỷ bộ ra chông cự. Quân
Lương bị đánh tan. Ninh Trường Chân chạy thoát thân, quân
Lương bị bắt gần hết. Khâu Hoà mới đắp thành nhỏ bên trong
thành Long Biên vòng quanh 900 bước để chông giữ. •
Năm 618, nhà Tuỳ đố. Nhà Đường thay thế. Khâu Hoà xin
thuần phục nhà Đường, được phong làm Giao Châu đại tổng quản,
tước Đàm quốc công. Lê Cốc chống lại một thời gian, sau thua
trận. Cửu Chân cũng thuộc vê Đường.
Khâu Hoà làm thái thú Giao Chỉ, cậy uy thế nhà Tuỳ, đi
tuần các khe động ơ biên giới, giữ việc lâu năm. Lâm Âp và các
nước tặng cho Hoà những ngọc minh châu, sừng văn tê và vàng
bạc của báu nên Hoà giầu có ngang với vương giả. Hắn Hoà đã vơ
vét nhiều của cải của nhân dân ta.

TÌNH TRẠNG XÃ HỘI x ứ TA


TỪ XA XƯA ĐẾN THẾ KỶ THÚ V, VI
Thời thượng cổ, các lãnh tụ bộ lạc và liên minh bộ lạc là Lạc
tướng, Lạc hầu thông thuộc vua Hùng, vua Thục. Đến thòi thuộc
Triệu, các quý tộc này vẫn giữ được địa vị cũ, tuy phải chịu các
điền sứ người Hoa giám sát. Sang đòi Tây Hán, lại phải xuông
thêm bậc nữa, chỉ được cai trị các huyện là cấp dưới các quận,
thuộc quyền các thái thú. Đến thời thuộc Đông Hán, vua Quang
Vũ bố dụng các huyện lệnh, huyện trương. Quý tộc bản xứ mất
quyền lợi nên khi bà TrUng khởi nghĩa thì hưởng ứng ngay. Mã
Viện sang đánh nhiều quý tộc bị đánh, nhiều quý tộc bị giết. Sau
Viện bắt hết thảy các quý tộc và cả mọi người có uy thế chính trị,
đem sang bắc, cho ở đất Hồ Nam, cách ly với nhân dân Việt, về
sau này, có những thố’ hào thì đấy là do thòi thế tạo nên, không
còn là các con cháu Lạc hầu, Lạc tướng được thế tập nữa.
Lễ giáo của Chu công, Khổng tử được truyền bá sang nước ta.
Từ thê kỷ III, đạo Phật đưỢc truyền *sang nước ta, nếu không
trước thì cũng đồng thời với Trung Quốc. Các sư tăng người An
Độ, Trung Quốc và về sau có người bản xứ, được dân chúng quý
trọng nhưng không có ảnh hưởng đến chính trị.
Thứ dân không phân biệt rành rẽ bốn hạng: Sĩ, nông, công,
thương. Dân chúng hầu hết làm ruộng, cấy lúa nước, gieo trồng
rau và cây ăn quả. Khá đông người còn giữ truyền thông đánh cá.
56
Sô ít săn bắn. v ể may mặc. có trồng bông, kéo sỢi, trồng dâu, nuôi
tằm kéo tơ. dệt vải lụa. Đời sông thấp, đơn giản. Công kỹ nghệ
không ngoài sự chê tạo các đồ dùng cần thiết hàng ngày. Nhiều
người kiêm làm thợ vẫn iríy nghề nông làm nghề chính. Các thợ
làm nhà, đóng xe thuyền được quý. Đến thế kỷ V, VI, người nước
mới hiết đên nghề rèn đúc đồ sắt. Bấy giờ, vật dụng hằng gang,
thép, sắt mua của Trung Quôc đã tích luỹ nhiều, thợ rèn đúc đem
đánh lại đồ cũ đã hư mòn. Kinh tê thấp kém nên thương mại cũng
không có gì đáng kế. Vận tái hàng hoá thường dùng thuyền. Tại
vùng rừng núi mới dùng xe đẩy hay ngựa thồ. Sô' người có học chữ
Hán rất ít, chưa tạo thành từng lớp sĩ phu. Chữ Hán đưỢc truyền
bá sang ta buổi đầu thì chỉ có CỊuý tộc theo học. Thòi thuộc Hán mở
trường lấy một sô' người ra làm lại viên (thư ký) giúp việc quan
người Hoa. Người học nhiều, thi đỗ hiếu liêm, mậu tài, không có
mấy. Từ khi đạo Phật du nhạp, những người đi tu mới học nhiều
đê hiêu biết kinh sách làm sư rao giảng cho quần chúng.
Thời Trung Quô'c có loạn Vương Mãng, Tam Quốc, hàng trăm
quý tộc chạy sang ta, được 'Pích Quang, Sĩ Nhiếp giúp đỡ lập
nghiệp, tạo thành một sô' trương mới, địa chủ bậc trung. Mã Viện
cho một số người Hán vỡ dất làm án. Trần Bá Tiên đưa một sô'
người họ sang lập nghiệp. Lại có một sô' không nhiều quan lại,
binh sĩ, người Hán sang ta rồi ở lại xứ ta. Qưa một vài thê' hệ, họ
đồng hoá với người xứ ta.

KỶ THUỘC ĐƯỜNG
Năm 618, liý Uyên dẹp yên nỗi loạn, thông nhất Trung Quốc,
dựng nên cơ nghiệp nhà Đường. Năm 621, Đường Cao Tổ phong
Khâu Hoà làm đại tống Cíuản cai trị Ciao Châu.
Từ khi nước ta sa vào vòng Bắc thuộc, nhà Đường cai trị lâu
hơn cả, chính sách dô hộ lại nghiệt hơn cả. Do quan người Hoa
tham bạo nên có nhiều cuộc nổi dậy chông đô'i của dân ta. Quần
chúng khố sơ về nỗi súu cao thuê' nặng, lại còn thêm nỗi không
mấy lúc được yên ổn, hết loạn trong lại bị người nước ngoài Lẩm
Àp và Nam Chiếu sang cướp phá.
Năm 628, đô dỗ'c Ciao Châu Lý Thọ, người tôn thất, tham
ô, phái tội. Vua Đường cử Lư Tô'Thượng, thứ sử Doanh Châu, có
tài liíỢc, sang thay. Tô'Thượng e ngại đất Lĩnh Nam lam chướng
dịch lệ, nhiều người đi không thấy về, không chịu đi nhận chức
mới. hị giết.
57
Năm 632, nhà Đường đổi Giao Châu làm An Nam tổng quán
Ịỉhủ, sau lại đổi làm An Nam đô hộ phủ. Nước ta có tên Icà An Nam
khỏi đầu từ đấy. (Đô hộ đây là một chức quan, chứ không phai
chính thể cai trị thuộc địa, như ta hiểu ng.ày nay, nhà Đường chia
nhiều hạt làm đô hộ phủ, nhif Tứ Xuyên đô hộ phủ...). Năm 679,
chia đất làm 12 châu thay các quận, là: Giao (Hà Đông, Nam
Định), Phong (Vĩnh Phúc Yôn, Phú Thọ), Dương (Tuyên Quang.
Hà Giang). Chi (Lai Châu. Sơn La, Yên Bái), Vũ Nga (Thái
Nguyên, Bắc Cạn, Cao Bằng), Vũ An (mát vào Trung Quốíc ?), Lục
(Lạng Sơn, Quảng Yên), Phúc Lộc (Sơn Tây, Hưng Hoá), Ái
(Thanh Hoa), Diễn (Nghệ An), Hoan (Hcà Tĩnh), Trường ? (Có thể
là vùng đất giải Trường Sơn), ớ phía tây b.ắc, còn có những Man
(Ihâu, dân miền núi, hàng trăm tù trưởng phải triều cô"ng.^*T)ưới
càp châu (mới) là huyện. Dưới cấp huyện là hương xã. Chính
quyền nhà Đường với tay đến tận thôn Xtã.
Năm 758, dân Nam nổi dậy, Đường Túc Tông đổi làm Trấn Nam
dô hộ phủ. Năm 768, Đường Đại Tông lại gọi là An Nam như cũ.
Suôd thời gian thuộc Đường, xứ ta là một đơn vị hành chính
thôhg nhất. Chức đỗ hộ trước gọi là đại tổng quản, rồi dồ đốc, có
quyền rộng lớn. Sau có chiên tranh, đổi lại làm kinh lược sứ. Đến
thời Cao Biền, táng thêm quyền hạn, dổi làm tiết độ sứ. Các châu
(mới) đều đặt thứ sử. Thứ sử Triều Đương, quyền hạn chi như
thái thú. Có nhiều thứ sử là dân ban địa.
Dể đảm hảo nền thông trị, có đội quân thường trú mạnh cùng
một hệ thông thành luỹ vững chắc. Chiến thuyền có 300 chiếc lớn
hảng chục vạn chiếc nhỏ.

CUỘC KHỎI N(ỈHĨA ĐINH KIÊN


Những năm 80 cuôl thê kỷ VII, đô hộ Lưu Diên Hựu tham
bạo, vơ vét của dân làm giàu. Các hộ ngươi Lái (Lý, có lẽ là người
Thái Tày) theo lệ cũ, hàng năm chỉ phái nộp nửa sô" thuế, do phải
nộp lâm sản, hương liệu. Năm 687, Diên Hựu bắt dân chúng phải
nộp đủ toàn số. Dân Lái kêu nặng nề, lòng căm giận. Có Lý Tự
Tiên chủ mưu tập hỢp dân chúng nổi dậv chông đôT Diên Hựu bắt
Tự Tiên giết đi, mong dập tắt đưỢc phong trào mới nhóm. Dư đáng
có Đinh Kiến anh hùng, lại tập hỢp nghĩa quân, rầm rộ kéo nhau

‘ ' Địa cliếm các châu chép đây là theo lời chú thích cúa Vũ Huy Chân, tác giả v /ệỉ sử thỏní’
hĩm. Ong Chân clã khảo cứu khá kỹ càng, đáng tin.

58
vây phủ thảnh. Quân lính trong thành phủ đô hộ không chông
chọi lại nổi, phải đóng cửa thành cô" thủ, chò tiếp viện. Diên Hựu
cẩu cứu Quảng Châu. Hào tộc Phùng Tử Do không đến cứu. Nghĩa
quán phá thành, hắt giết Diên Hựu.
Sau Đường Trung Tông sai tư mã Quế Châu Tào Huyền
lìn h , người có tài quân sự cao, đem hĩnh mã sang đản áp. Thủ
lĩnh Đinh Kiến bị giết. Nghĩa quân tan vỡ.

MAI HẢC ĐÊ
Năm 722,. đời Dường Huyền Tông, có Mai Thúc Loan dấy
hinh nỗi dậy chông cự (Ịuan quân đô hộ.
Mai Thúc Loan ngưòi huyện Thiên Lộc, nay là huyện Cao
Lộc, Hà Tĩnh, mặt mũi den, có sức mạnh, thây quan nhà Đường
lăm điều tàn bạo, dân gian cực khổ, nhân lúc lắm giặc giã, chiêu
mộ những người nghĩa dũng, chiếm giữ đất châu Hoan nay thuộc
huyện Nam Dương, tỉnh Nghệ An, xây thành đắp luỹ, xưng hoàng
đế, tục hiệu Mai Hắc đế.
Hắc đê trong dây quân 32 châu huyện, ngoài liên kết với các
núóc Lâm Ap, Chcân L;qn Phù Nam làm ngoại viện, giữ miền biển
phương nam, tập hỢp được sô" quân lớn (ĐVSKTT chép 30 vạn,
Đường thư chép 40 vạn, đều e quá đáng), thanh thế lừng lẫy.
()uan quân phủ đô hộ hà't lực. Đường Huyền Tông phải sai nội thư
giám môn vệ tướng quán Dương Tư Húc và đô hộ Quang sở Khách
sang đánh. Chúng mộ con em các thủ lĩnh 10 vạn ngvíời phụ với
hình mã triều đình tiến quân, xuất kỳ bâ't ý, phá được nghĩa quân.
Mai Hắc đế, thê" yêu, chông lại không nổi, phải thua chạy, được ít
lâu mất.
Nay ở núi Vệ Sơn huyện Nam Dương, Nghệ An còn có di tích
thành cũ của Mai Hắc đê và ở xã Hương Lâm huyện Nam Dương
còn có đền thò ông.

(ỉiẶC BIỂN
Năm 767, đời Đường Đại Tông, có quân nước Côn Lôn và
nước Chà Và đến cướp, đánh lấy châu thành. (Côn Lôn đây là
tiếng người Hoa chỉ các đảo Nam Hải. Người Âu theo tiếng Mã Lai
gọi là Pou Lo, tiêng ta là cù lao, không phải Côn Đảo của nước ta.
Chà Và tức đảo Java, Trảo Oa thuộc quần đảo Nam Dương).
Kinh lược sử Trifơng Bá Nghi đánh không lại, cầu cứu với đô
uý châu Vũ Định Cao Chính Bình. Quân cứu viện đến đánh tan
59
quân Côn Lôn và quân Chà Và ỏ Chu Diên. Chúng thua to, bỏ
chạy về nước.
Trương Bá Nghi bèn đắp La Thành đê phòng giữ phủ trị. La
'riìành (Hà Nội bây giờ) khơi đầu từ đấy.

KHCONÍỈ CÔN(Ỉ PHỤ, KHƯƠN(Ỉ CÔNG PHỤC


Khương Công Phụ, người cửu Chân, thi đỗ tiến sĩ, làm quan
nh*à Đường, hổ làm hiệu thư lang. Vì có hài chế sách hơn người,
đưỢc làm hữu thập di hàn lâm học sĩ, kiêm chức Kinh Triệu Hộ
tào tham quân. Từng xin Đường Đức Tông hỏ Chu Thứ, người sẽ
làm phản, lời can trước đúng, được thăng làm gián nghị đại phu.
Em là Khương Công Phục, cũng đỗ tiến sĩ, làm quan đến bắc
bộ thị lang.
Công Phụ còn đê lại bài phú Bạch Văn chiếu xuân hải, nối tiêng.
Anh em Khương Công Phụ, Khương Công Phục có tài đấy,
mà cũng như Lý Ong Trọng, Lý cầm , Trương Trọng, chỉ làm đầy
tó' cho người nước ngoài, phục vụ vua Tần, vua Hán, vua Đường,
chang làm được gì ích lợi cho nước, cho đồng bào. Gáo vàng đem
múc giếng tây, khôn ngoan cho lắm, tớ thầy người ta.

BỔ CẢI ĐAI VƯƠNCỈ


Những năm cuối thê kỷ VIỈI, đô hộ Cao Chính Bình tham
tàn, bắt dân đóng góp sưu cao thuê nặng, lòng người oán giận.
Có Phùng Hưng dấy quân chống đôì. ông người xã Đường Lâm,
huyện Phúc Lộc, nay là xã Cam Lâm huyện Phúc Thọ, Sơn Tày,
tù trương Phúc Lộc, có sức khoẻ khác thường, lại có đức tôt,,
dược mọi người trong vùng khâm phục. Em là Phùng Hải cũng
có sức mạnh lớn. Mưu đánh đố’ chính quyền đô hộ, anh em ông
tuyên mộ trai tráng, sắp xếp thành hàng ngũ, hùng cứ một
phương. Anh xưng là đô quân, em xưng là đô bảo, đem quân đi
bình định các huyện xa gẩn, đi đến đâu thì đấy được yên tĩnh.
Năm 791, Phùng Hưng kéo quân về vây đánh phủ đô hộ, lâu
chưa hạ được thành, bèn liên kết với người Lạo (có thể người
Thái), được tù trưởng Đỗ Anh Hào giúp sức và hào kiệt các châu
huyện kéo quân về đông theo phục dưới cờ. Lực lượng đã hùng
hậu, tiếp tục công thành. Cao Chính Bình chôdig lại không nổi,
lo sự, phẫn uất, thành bệnh mà chết.
Phùng Hưng chiếm giữ phủ thành đô hộ, coi việc cai trị an
dân, không bao lâu khuất. Con là Phùng An lên nốì nghiệp.
60
Dân chúng ái mộ Phùng Hưng, lập đền thồ, tôn Bô" Cái đại
vướng (tục xưa gọi cha là bô, mẹ là cái, coi ông như cha mẹ). Đền
thờ nav còn ở Thịnh Quang. Hà Nội.
Vua Đường Đức Tông, xảo quyệt, không dùng đại quân sang
đánh clẹ|), cử ngitòi có đức Triệu Xương sang làm đô hộ, dùng
chước phủ dụ dân ta. An thê kém, liệu không chông lại nổi quân
Đường, nghe theo lời sứ giả dụ khuyên, đem quân ra hàng.
ĐVSKTT chép Triệu Xương làm đô hộ 17 năm, là viên quan
tô"t, dân dược yên ổn. Xương có đắp thêm La thành cho kiên cho
kiên cô" hơn.

VIỆC ĐẢNH NƯỚC HOÀN VưONG


Khoang năm Trinh Quán đồi Đường Thái Tông (627 - 649),
vua Lâm Ap Phạm Đầu Lê mâ"t, con là Phạm Trấn Long bị người
giêt. Dân nước lập con của bà cô Phạm Đẩu Lê là Chu Cát Địa lên
làm vua. Chu Cát Địa đổi tên nước là Hoàn Vương quốc. Từ đó về
sau. người nước Hoàn Vương lại thường sang quấy nhiễu đất Giao
Châu, chiếm giữ châu Hoan và châu Ài.
Năm 808, đô hộ Trương Chu đem binh thuyền đi đánh, thắng
lớn, giêt hại người Hoàn Vương rấy nhiều. Vua nước ấy chạy lui về
phía nam, ở vào quãng Quảng Nam, Quảng Ngãi bấy giờ, đối quốc
hiệu là Champa. Chữ Hán phiên âm là . Tiếng Hán- Việt
đọc là Chiêm Bà. Người Hoa quen gọi là Chiêm Thành, coi như
một phần đâ"t của nước họ. Quốc sử cũng quen gọi là Chiêm Thành.
Đáng phải gọi là Champa mới sát với tiếng của người bản xứ. Champa
cũng là tên một thứ hoa quý của nước ấy. Người nước này, ta quen gọi
là người Chàm nhưng Chăm mới sát với tiếng bản xứ.
Đê đề phòng quân Champa lại ra đánh nữa, Trương Chu đắp
rộng thèm La Thành, đóng 300 thuyền dài, mỗi thuyền có 25
người chiến, 23 người tay chèo ngược xuôi, đi nhanh. Lại đắp hai
thành ở châu Hoan, châu Ái trước bị người Hoàn Vương phá huỷ.

KHỞI NGHĨA DƯƠNG THANH


Trong thê" kỷ IX, đô hộ Lý Tượng Cô", người tôn thất, tham
lam bạo ngược, vơ vét của dân nhiều. Quần chúng căm thù, muô"n
nổi dậy chông đôi. Dương Thanh dòng dõi tù trưởng dân thiểu sô"
có lẽ là người Thái (sử cũ chép là Man), có sức khoẻ và uy tín. Vua
Đường Nguyên Hoà phong làm thứ sử châu Hoan. TưỢng Cô" vẫn e
dè Thanh, gọi cho về làm nha tướng để tiện coi chừng. Năm 819,
61
Tượng Cô sai Thanh đi đánh người Man ở Hoàng Động (?) mạn tây
bắc (có lẽ cũng là người Thái), do dân Hoàng Động không phục
tòng chính quvền đô hộ. Thanh nhận thây lòng người ai ai cũng
oán giận Tượng Cô, ban đêm đem quân ti’ỏ về đánh úp lấy phủ
thành, giết TưỢng Cô cùng gia thuộc, chiếm giữ quyền đô hộ.
Đường Nguyên Hoà cử Quế Trọng Vũ làm An Nam đô hộ và
dụ Thanh hàng, hứa sẽ cho làm thứ sử Quỳnh Châu. Thanh không
chịu, đánh lại Quê" Trọng Vũ. Quân đội hai bên chông cự nhau lâu
ngày. Trọng Vũ dùng quỷ kê ly gián Thanh với các thủ lĩnh người
thiêu sô như dân Hoàng Động. Thanh vẫn cương quyết chông đôl
mãi, tuy có một sô" dân thiêu sô" ra hàng Trọng Vũ. Triều đình thấy
tình hình mãi chưa yên, lại cử Bùi Hành sang thay thê Trọng Vũ.
Hành đến trấn Hái Môn bị ô"m chết. Trọng Vũ vẫn tiếp tục mua
chuộc người thiếu sô, đánh mãi. Chung cuộc, Thanh hị giết cùng voi
họ hàng. Vua Đường lại cử Quế Trọng Vũ làm An Nam đô hộ.
Dương Thanh c ầ m cự trư ớ c sau đưỢc 9 năm.

NAM CHIẾU DỤN(; NƯỚC


Tại miền tây hắc nước ta, nam Vân Nam và tây Quảng Tây,
xưa có những hộ lạc người Thái (Tày) cùng sắc tộc vdi người Thái
(Thố) thượng du Bắc Việt, người Lào, người xiêm La (Thái Lan
ngày nay). Người xứ ấy gọi lãnh chúa vua là chiếu. Trước C(3 6
chiếu; Mông Huê, Việt Thắc, Lãng Khung, Đằng Đạm, Thì Láng,
Mông Xá. Chiếu Mông Xá ở về phía nam, nên gọi là Nam Chiếu.
Nửa đầu thế kỷ VỈIL vua Nam Chiếu Bì La Cáp cường thịnh
lên, nám chiếu kia suy đồi đi. Bì La Cáp đút lót cho tiêt dộ sứ
Kiếm Nam Vương Dục xin hỢp cả sáu chiếu lại làm một. Triều
đình nhà Đường ưng thuận cho và đặt tên là Quy Nghĩa. Từ đấy,
Nam Chiếu ngày càng cường thịnh lên, đem quân đi đánh Phô
Phồn (Tây Tạng?) rồi dòi đô lên đóng ở thành Thái Hoà (thành Đại
Lý hấy giờ) ở tỉnh Vân Nam.

NAM CHIẾƯ SAN(Ỉ CƯỚP PHÁ AN NAM


Thòi vãng Đường, quan lại người Hoa sang ta, chỉ vì tư lợi, ức
hiếp nhân dân quá tộ. Đô hộ Lý Trác tham hạo, vào những chỗ
dân ít ngưrứ, dân Thái, mua trâu ngựa, mỗi con chỉ trả một đấu
muôi. Tù trưởng Đỗ Tồn Thành can thiệp, hị Lý Trác giết. Dân
Thái tức giận, dụ người Nam Chiếu, cùng sắc tộc, sang đánh cướp
phá, khiến dân chúng Giao Châu khố sở.
62
Năm 846. quân Nam (^-hiếu sang cướp. Kinh lược sứ Bùi
Nguyên Dụ đem quân các đạo lân cận đánh dẹp được.
Nam Chiếu c ó Thác Đông tiết độ‘*’ d ụ đvíỢc tù trương động
Thất (ỉuán \jý Độc liên kết.
Năm 858, Đường Tuyên Tông sai Khang vương phó Vương
Thức sang làm kinh lược sứ. Vương Thức là người tài lược, trị dân
có phép tắc.
(^uân Nam Chiếu lại rầm rộ kéo sang. Thức sai người đến
phu dụ hày tỏ lợi liại, lui được chúng. Có toán giặc cướp phá, Thức
đánh đuổi được. Thức chinh đôn việc thuê khoá, khao hình sĩ. Các
nước Champa, Chân Lạp sai sứ sang thông hiếu.
Năm 860, Chiêt Đông có loạn cửu Phú, vua Đường gọi Vương
Thức về dẹp và cử Lý Hộ sang làm đô hộ.
Bấy giờ Nam Chiếu dã mạnh lắm, thủ lĩnh xưng đế, đặt quốc
hiệu là Đại Mông, rồi lại đôi là Đại Lệ'**' vắng bóng Vương Thức,
thô dân dẫn (luán Nam Chiếu cộng hơn 3 vạn người, nhân khi sơ
hơ, đánlì lấy phủ trị. Lý Hộ và giám quân thua chạy về Vũ Châu.
Năm 861, Điíừng Y Tông hạ chiếu phát quân các đạo lân cận
sang cứu, sai phòng ngự sứ Vương Khoan sang làm kinh lược sứ.
Khi ấy thì Lý Hộ ơ Vũ Châu thu nhặt binh sĩ đã đánh lấy lại được
phủ thành. Trước đó, do Hộ giết tù trưởng Đỗ Thủ Trừng nên
người Thái mới dụ người Nam Chiếu sang đánh. Vua Đường giáng
Lý Hộ làm tư bộ Đàm Châu, lấy Vương Khoan làm đô hộ.
Năm 862, quân Nam Chiếu lại sang cướp, thế khá mạnh.
Vương Khoan cáo cấp. Vua Đường sai quan sát sứ Thái Tập đem
các dạo hinh các châu, cộng 3 vạn người sang chôKg giữ, thế hung
giữ. Quân Nam Chiếu phái rút lui. Bấy giồ, tiết độ sứ Lĩnh Nam
Thái Kinh sỢ Tập lập dược công to, có ý ghen ghét, tâu về triều
rằng (,liao Chỉ đã yên nên cho quân sĩ dâu về đấy. Tập xin lưu lại
5000 quân, cũng không dược. Ngay cuôl năm ấy, Nam Chiếu huy
động 5 vạn người sang đánh cướp nữa. Tập cáo cấp. Vua Đường
sai lấy quân các nơi đến cứu. Viện binh chưa đến nơi thì phủ
thành đã bị vây. Sang năm 863, Nam Chiếu được phủ thành.
Quân sĩ Tập cô" đánh, đều chết. Tập trúng 10 cái tên nhảy xuông
nước chết cả nhà 70 người. Trong trận này, quân Đường có

' ' Thác Đòng lìi ý muốn khai thúc về phía đòng. Giao Châu ở về phía đông Nam Chiêu.
' ’ Đến thố ký X, Đoàn Tư Bình lỏn làm vua lại đổi quốc hiệu là Đại Lý. Nước này sau bị
quan Mòng cổ đánh chiếm, đốn dời Minh Hồng Vũ (1.168 - 1392) mất hắn. Nhà Minh đặt
làm Đai Lý phú thuộc tinh Víưi Nam.

63
Nguyễn Duy Đức giữ 400 ngưòi chạy ra sông, không có thuyền
sang để sang ngang, hô quân; Chạy xuông nước cũng chết, chi
bằng trở lại đánh giặc, một người đổi lấy hai, chẳng lợi lắm sao?
Chúng quay trở lại, giết đưỢc hàng 2000 quân Nam Chiếu, sau
cũng đều chết cả. Quân Nam Chiếu vào thành, giết hại nhiều
người. Sử chép: Nam Chiếu hai lần sang đánh phủ thành, giết
người Giao Châu hơn lõ vạn.
Vua Nam Chiếu Mông Thế Long cho Dương Tư Tấn quản
lĩnh 2 vạn quân giữ thành và cho Đoàn Tư Thiên làm tiết độ sứ.
Vua Đường hạ chỉ đưa An Nam đô hộ phủ về đóng ở Hải Môn
(?) rồi lấy quân các đạo ở Lĩnh Nam và đóng thuyền lớn để tải
lương thực, đợi ngày tiến binh. Năm 864, kinh lưực sứ Trương
Ngân đưỢc lệnh đem 25 ngàn người, đi đánh lấy lại phủ thành.
Nhân dùng dằng không dám tiến quân. Đường Ý Tông, theo đề
nghị của Hạ Hầu Tư, cử kiêu vệ tướng quân Cao Biền thay, làm
đô hộ tổng quản kinh lược chiêu thảo sứ. Bao nhiêu binh tướng
của Nhân đều trao lại cho cả.

CAO BIỂN
Cao Biền là tướng giỏi, vốn dòng võ tướng môn, nôi đời coi
giữ cấm binh, lại kiêm văn học thích bàn luận việc xưa nav, trong
quân đều khen ngợi, mến phục. ĐưỢc thăng dần đến chức hữu
thần sách đô ngu hậu, có công đánh bộ lạc Đảng Hạng, thăng làm
Tần châu phòng ngự sử. Nam Chiếu chiếm đất An Nam, Biền
sang thay Trương Nhân.
Năm 865, Biền trị quân ở trấn Hải Môn, chưa tiến. Giám
quân Lý Duy Chu, không tương đắc, mưu hại Biền. Biền dẫn 5000
quân, vượt biển đi trước, hẹn Duy Chu ứng viện. Duy Chu cầm
quân còn lại không đi. Tháng 9 âl, quân Nam Chiếu ở Giao Châu'*’
đang gặt lúa. Biền đến đánh câT lẻn một trận, giết dược nhiều
người, lây được thóc gạo nuôi quân.
Tháng 4 âl, năm sau 866, Nam Chiếu bổ Đoàn Tư Thiên làm
Thiện Xiên tiết độ sứ sai Trương Tráp Tư giúp Từ Thiên đánh
Giao Châu, cho Phạm Nật Tu và Triệu Nặc Mi làm dô thông.

Đ VSKTT chép là huyện Nam Định và Châu Phong. Bản dịch cùa Cao Huy Giu, Đào Duy
Anh chú thích huyện Nam Định đời Đường gồm dất phía nam ,sôna Đuông. Lụi nói Biền
dóna quân ở Giao Châu đúng hơn Phong. Trần Trọng Kim trong VNSL chú thích Phong
Chĩiu là huvện Bạch Hạc Vĩnh Yên.
' ^ ’ Thiện Xiên hà đô khác cúa Nam Chiếu, ở táy bắc Giao Châu

64
Giám trận nhà Đường sai Vi Trọng Tế đem hơn 7000 quân đến
châu Phong. Cao Biền nhân dịp mới phát binh đánh được mấy
trận, cho người đưa tin thắng trận về kinh nhưng đi đến Hát Môn,
Duy Chu giữ lại, không cho triều đình biết.
Trong triều đợi mãi không thấy tin tức gì, cho hỏi thì Duy
Chu tâu rằng Biền sang châu Phong án binh bất động, không chịu
đánh giặc. Vua Đường cử tướng Vương Yến Quyền sang thay Biền
và đòi Biền về kinh hỏi tội. Ngay tháng ấy, Biền đã chiến thắng
quân Nam Chiêu, giết chết và bắt sông nhiều giặc. Chúng thu
quân còn sót chạy sâu vào châu thành cố giữ. Biền vây châu thành
hơn mười ngày, quân Nam Chiếu rất khôn quẫn. Thành sắp bị hạ
thì vừa lúc Vương Yến Quyền đưa thư cho biết đã cùng Duy Chu
đem đại quân tiến đi. Biền đem việc quân giao cho Trọng Tế, rồi
cùng hơn 100 hộ hạ về bắc. Nhưng từ trước, Biền đã sai người lẻn
vê kinh dâng biểu tâu rõ tình trạng. Giữa đường gặp quân Duy
Chu, người mang biêu nấp ở hải đảo. Vua Đường biết rõ tình hình,
mừng lắm, thăng chức cho Biền làm kiếm hiệu công bộ thượng thư
và sai trỏ lại cầm quân đánh quân Nam Chiếu.
Yến Quyền ngu hèn, Duy Chu tham bạo, các tướng không
chịu giúp, nên mở vòng vây, người Nam Chiếu trôn đi mất quá
nửa. Biền trơ sang mới đốc quân binh đánh thành, giết được Đoàn
Tú Thiên và Chu cố’ Đạo là người Thổ dẫn đường, chém được hơn
3 vạn dầu. Quân Nam Chiếu trôn đi. Biền lại đánh phá hai động
thô dân đã theo Nam Chiếu và giết tù trưởng. Dân thiểu sô" quy
phục đến 17000 người.
Vua Đường đặt Tĩnh Hải quân ở Giao Châu, cho Biền làm
tiết độ sứ. Từ khi Lý Trác xâm nhiễu, rồi người Nam Chiếu cướp
phá, gần 10 năm, đến nay mới được yên. Từ đây, An Nam thành
Tình Hải quân tiết trâ^n.
Đề phòng quân Nam Chiếu còn sang đánh nữa, Biền xây
dựng các đồn ải nơi biên thuỳ, đắp La Thành thêm rộng lớn ở bờ
sông Tô Lịch, bô"n mặt dài 1982 trượng, cao 2 trượng 6 thước,
chân thành rộng 2 trượng 5 thước, tường nhỏ trên bôn mặt
thành cao 5 thước. Lại đắp đê vòng quanh 2125 trượng, cao 1
trượng 5 thước, chân rộng 2 trượng. Trong thành cho dân cư
làm nhà. ĐVSKTT chép hơn 40 vạn gian (?), VSL chép 5000. Đổi
gọi là thành Đại La.
Cao Biền chỉnh đôn việc công, làm sổ sưu thuế để chi dụng
việc công (có người cho rằng người nước ta phải đóng thuế sưu
65
khởi đầu từ Cao Biền), trị dân có phép tắc. Dân chúng được yên
nghiệp làm ăn. Mọi người đều kính phục, tôn là Cao vương.
Cao Biền đã dùng chất nổ (thuỷ lôi) phá những ghểnh thác ở
các sông để thuyền bè đi lại dễ dàng. Thời xưa cho là phép lạ
khiến được thiên lôi.
Trong dân gian có sự truyền tụng rằng; Cao Biền thấy xứ ta
lắm kiểu đất phát đê vương, thường cưỡi diều giấy đi yểm đất, phá
hoại nhiều long mạch. Lại thấy sứ ta có nhiều vị thần anh linh,
muôn triệt đi, phụ thần nhập vào người xử nữ ngồi đồng, bất
thình lình chém đi, thần mất thiêng. Đây là những truyện ngoa
ngôn, không đáng tin.
Năm 875, Đường Hy Tông cải bổ Biền làm tiết độ sứ Tây
Xuyên và cử người cháu họ Biền là Cao Tầm thay thế. c ả Biền và
Tầm ỏ trấn cộng 13 năm, từ 865 đến năm 878.
Cao Biền trước có công bình định xứ sở, sau lại là quan cai trị
tót. Cao Biền về bắc, sau được lệnh cử đi đánh dẹp bọn Hoàng Sào,
không chịu đi, bị tước hết binh quyền.

TÌNH HÌNH TRUNG QUỐC


VÀ XỨ TA THỜI ĐƯỜNG MẠT
Nhà Đường làm vua Trung Quốic lâu dài, từ năm 618 đến
năm 907, nhưng từ những năm 70 thế kỷ IX, chính trị thôi nát.
Nông dân khắp nơi chông đôi. Hoàng Sào, được dân chúng theo
phục, dấy quân từ 874, từng đánh chiếm kinh đô Lạc Dương. Sau
nhà Đường có khôi phục lại được nhưng bị suy yếu nhiều. Các
giám quân địa phương, khi có loạn, được rộng quyền, có dưới
trướng lực lượng quân đội mạnh, lợi dụng tình thế xưng hùng, cát
cứ một phương lớn nhỏ, mưu sự tranh bá đồ vương, đánh lẫn nhau
tranh giành ảnh hưởng, gây nên loạn lạc. Sau khi nhà Đường mất
ngôi, suôi 52 nám, là thòi Ngũ Đại Thập Quổc, còn gọi là Ngũ Quý
từ năm 907 đến năm 959: Hậu Lương 807 - 922, Hậu Đường 923 -
933, Hậu Tấn 936 - 946, Hậu Hán 937 - 950, Hậu Chu 951 - 959.
Các vua này không ai thông nhất toàn quốc. Năm 960, vua Tông
Triệu Khuông Dận mới bình xong, dựng nên cơ nghiệp nhà Tông.
Trong khi Trung Quốc loạn lạc khắp nơi, vua nhà Đường suy
yếu, uy quyền không ra khỏi kinh thành bao nhiêu, thế lực ai
mạnh thì xưng đế, xưng vương, các quan lại người Hoa ở bên ta,
do không được chính quốc tiếp viện mỗi khi cần, cũng thành ra
kém cỏi, không giữ vững an ninh trong xứ. Nhiều thô hào nhân
66
dịp mượn cớ tổ chức tự vệ, thành lập những toán quân nghĩa dũng
dưới trướng. Lại có những người có võ nghệ và tính phiêu lưu, tụ
tập đồ đảng, chiếm giữ một vùng đất lớn hay nhỏ. Thòi thế tạo
nên những' lực lượng cát cứ. Các thủ lĩnh quân phiệt này tương tự
như bọn quý tộc xưa. Chúng từng tôn phù Khúc Thừa Dụ lên nắm
quyền chính và sau quy thuận Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền.
Nhưng chính con cháu hay người nôi nghiệp chúng ta lại là Thập
Nhị Sứ Quân.
Năm 878, Tăng cổn được cử sang làm tiết độ sứ thay Cao
Tầm. Bắc sử chép cổn là quan tôt, trong châu gọi là Tăng thượng
thư, có soạn Thiên Châu ký. Trong xứ không được yên. Năm 880,
quân ở phủ đô hộ làm loạn. Tăng cổn bỏ thành chạy. Quan lại đô
hộ cô" gắng lập lại nền thông trị nhưng thế lực ngày một kém,
chẳng làm nên được gì. Trước sau năm 900, nhà Đường đã lung
lay, Đường Chiêu Tông cử Chu Toàn Dục sang làm tiết độ sứ đồng
bình chương sự. (Chu Toàn Dục là anh Chu Toàn Trung, Lương
Thái Tổ sau này). Toàn Dục chất phác, vô tài, không trấn áp được
loạn, đành chịu bó tay. Năm 905, Đường Ai đế cho Toàn Dục về
hưu- và cử thư lang Độc cổ Tồn sang thay. Có sự thay tiết độ sứ
nhưng không có binh sĩ sang tiếp viện. Quân sô" đã không được
tăng cường, mà sô" người chết và đào ngũ cũng không được thay
thế. Lực lượng của chính quyền đô hộ suy yếu. Độc cổ Tồn, trước
sức mạnh của nghĩa quân, chẳng làm được gì hơn các người trước.
Có nhiều quan lại và binh sĩ nhà Đường bỏ nhậm sở chạy trôn về
bắc quốc. Có thứ sử, huyện lệnh người bản xứ trước được vua
Đường phong, ngả theo nghĩa quân, không tuân lệnh của tiết độ
sứ. (Dưới triều Đường chia nhỏ các châu. Thứ sử bấy giờ còn chưa
bằng thái thú triều Hán cai trị một quận).

HỌ KHÚC DÂY NC.HIỆP


KHÚC THỪA DỤ - Khúc là họ lớn lâu đòi ở đất Hồng Châu (Hưng
Yên, Hải Dương). Khúc Thừa Dụ là người hào phú, tính khoan hoà,
hay thương người, được mọi người kính phục, lại có chí lớn, thu phục
lòng dân, tể chức quân đội, chông lại bọn quan đô hộ.
Đầu thê" kỷ X, Trung Quốc loạn lạc, chính quyền của tiết độ
sứ suy yếu, tại nhiều nơi trong xứ ta, các hào kiệt nổi dậy chông
đô"i. Khúc Thừa Dụ, tài trí xuất chúng, được tôn làm minh chủ,
tông chi’ huy nghĩa quân. Thừa Dụ gửi hịch đi các châu huyện kêu
gọi quan lại và binh sĩ bản xứ giở giáo chông lại cấp chỉ huy người
67
Hoa, sát cánh cùng với nhân dân đánh đuổi chúng. Nghĩa quân
chiến đấu mạnh và liên tiếp thắng lợi, sớm thu phục nhiều châu
huyện. Thế hùng mạnh, tiến quân vây đánh phủ thành. Tiết độ sứ
Chu Toàn Dục chông lại không nổi, đóng cửa thành cô" thủ. Năm
905, Độc Cố Tồn sang thay, cổ Tồn kiếm điểm quân đội thì sô người
Hoa đã không nhiều, lại có lắm người chết trận, người đào ngũ,
không đưỢc thay thế. Binh sĩ người bẳn xứ thì sô" đông đã bỏ chạy
sang hàng ngũ nghĩa quân. Sô" còn lại cũng chang đáng tin cậy. Bớt
sô" binh sĩ Hoa các châu huyện, lấy về giữ thủ phủ. Nhưng với lượng
sô" ít ỏi, lại mất tinh thần chiến đấu, cổ Tồn làm sao địch lại nổi với
quân đội Thừa Dụ uy thế đang lên như sóng cồn, vũ bão. Độc cố Tồn
đành chịu chạy về bắc quốc. Đưòng Ai đế tức giận sao không cô"
đánh, bắt phải tự tử. (Có cô" đánh thì chắc phải thua to mà thôi).
Triều đình nhà Đường hấy giờ có muôn có muôn cử người sang thay
tất phải đưa sang theo vài ba vạn quân, điều không thể thực hiện
được. Bất đắc dĩ, Đường Ai đế phải chịu phong Khúc Thừa Dụ làm
Tĩnh Hải tiết độ sứ và gia phong Đông Bình chương sự, để đổi lấy
việc cho hết thảy các quan lại binh sĩ người Hoa trở về nước.
Khúc Thừa Dụ lên nắm giữ chính quyền, sửa sang mọi việc,
cử các thủ lĩnh nghĩa quân đóng giữ các châu, huyện, phòng thủ
an ninh cho dân chúng lạc nghiệp làm ăn.
Từ năm 905, dân ta thực sự thoát ách đô hộ thô"ng trị của
nước ngoài, trở thành tự chủ, tuy chính quyền còn tổ chức theo
hình thức cũ của nhà Đường.
Năm 907, nhà Đường mất ngôi. Nhà Hâu Lương lên thay.
Lương Thái Tổ Chu Toàn Trung phong Lưu Ân tiết độ sứ Quảng
Châu làm Nam Bình vương kiêm tiết độ sứ Tĩnh Hải, có ý đế lấy
lại Giao Châu.
Khúc Thừa Dụ giữ chức được hơn một năm thì mất, giao
quyền cho con là Khúc Hạo.
KHÚC HẠO (907 - 917) - Khúc Hạo nô"i nghiệp cha làm tiết độ
sứ, là người hiền tài, có ý chí tổ chức nền độc lập, cải tô lại các địa
hạt châu huyện, cải các hương làm giáp, đặt các chức quản giáp và
phó tri giáp cai quản thu thuê". Các giáp lập sô" điền sô hộ đế việc
đánh thuê" và lấy công dịch cho được phân minh và công bằng. Lấy
thành Đại La làm trung tâm đất nước.
Đôi ngoại, Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ làm hoan hảo
sứ, sang Quảng Châu, tiếng là để kết hiếu với nhau, thực sự là để
do thám tình hình hư thực bên đó.
68
Năm 911, Nam Bình vương Lưu An chết, em là Nham, còn
gợi là Cung, lên thay. Năm 917, Lưu Nham xưng làm vua (đế), đặt
quôc hiệu là Hán (tức nhà Nam Hán), đóng đô ở Phiên Ngung.
KHÚC THỪA MỸ (917 - 923) - ỈMàm 917, Khúc Hạo mất. Con là
Khúc 'Phừa Mỹ nôi nghiệp.
Thừa Mỹ hiết rõ ý đồ vua Nam Hán muôn thôn tính đất
lìn h Hải nên muôn dựa vào nhà Lương mà chống lại, sai sứ sang
Lương xin phong. Lương Trinh Minh trao cho tiết việt (cờ tiết và
phủ việt là thứ vua trao cho đại tướng ở ngoài, tức trao quyền
đánh dẹp) năm 919. Vua Nam Hán lấy làm hận. Nám 923, nhà
Hậu Lương mất ngôi, nhà Hậu Đường thay thế. Lưu Nham (Cung)
sai tướng Lý Khác Chính (đây chép theo ĐVSKTT. Ngũ Đại sử
chép là Lý Thủ Dung và Lương Khắc Chính) đem quân sang đánh.
Không đưỢc ai CIÍII, Thừa Mỹ thua trận, hị bắt đưa về Hán. Tướng
Nam Hán Lý Tiến sang giữ châu.

DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ


(ĐVSKTT chép Đình Nghệ. Ngũ Đại sử và Tông sử chép
Diên Nghệ. Mấy tập sử quôh ngữ La tinh như VNSL chép Diên, do
chữ Đinh và chữ Diên Hán tự gần giống nhau, nên có sự
lầm lộn).
Dương Đình Nghệ, người Ái Châu, tướng của Khúc Hạo, là
người có tài thao lược lại có chí lớn. Vua Nam Hán ban cho Đình
Nghệ tước vị, cho Lý Tiến làm thứ sử Giao Châu, cùng với Lý
Khắc Chính giữ thành.
Đình Nghệ mưu việc khôi phục, chiêu binh măi mã, thu
phục tráng sĩ 3000 người. Lý Tiến biết ý, báo với vua Nam Hán.
Cuối năm 931, Dinh Nghệ đem quân vây đánh Tiến. Vua Nam
Hán sai thừa chỉ Trần Bảo đem quân sang cứu, chưa đến nơi thì
phủ thành đã mất. Tiến trôn về nước. Trần Bảo bị Đình Nghệ
đánh thua, chết.
Dương Đình Nghệ tự xưng làm tiết độ sứ, trông coi việc cháu
từ năm 931 đến nám 937. Sau khi đánh đuổi quân Nam Hán ra
khỏi bò cõi, Dương Đình Nghệ nắm quyền chính, tổ chức lại công
việc cai trị đất nước, cùng những người có tiếng tàm như Đinh
Công Trứ làm thử sử Hoan Châu, Ngô Mân làm thứ sử Ái Châu,
gả con gái cho Ngô Quyền là con Ngô Mân để thắt chặt môl thâm
tình. Một số quan lại cũ người bản xứ do nhà Lương bổ dụng trước
vẫn được giữ chức.
69
Không bao lâu, năm 937, Kiều Công Tiễn, hào trương Phong
Châu, vôn là tướng dưới trướng Đình Nghệ, giết Đình Nghệ, cướp
quyền chính. Tin này truyền đi khắp nơi, nhân dân đều oán.
Tướng sĩ cũ của Đình Nghệ họp nhau quyết tâm chuẩn bị trả thù
cho chủ cũ.

TRẬN BẠCH ĐẰNG GIANG


NGÔ QUYỂN ĐẠI PHÁ QUÂN NAM HÁN
Khi ấy, có nha tướng con rê Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền
quyết cử binh tiễu trừ kẻ bất nghĩa Kiều Công Tiễn.
Ngô Quyền, dòng dõi hào trưởng xã Đường Lâm, huyện Phúc
Thọ, Sơn Tây, nay là xã Cam Lâm, huyện Phúc Lộc, cùng xã với Bô"
Cái đại vương Phùng Hưng. (Tại xã này còn có đền thờ hai vị anh
hùng). Ngô Quyền trí dũng, có tài thao lược, bấy giò đang trấn thủ Ái
Châu (Thanh Hoa) thay cha trước đây. Được nhiều tướng tá binh sĩ
bộ hạ cũ của Dương công theo về, thê lực nghĩa quân hùng mạnh.
Tháng 10 âl năm 938, Ngô Quyền cất quân từ Ái Châu tiến ra.
Nghe tin này, Kiều Công Tiễn biết mình thế kém, sai sứ đem
hậu lễ sang Nam Hán cầu cứu. Hán chúa Lưu Cung đang muốn
đánh chiếm đất xứ ta, thấy thế, liền huy động đại binh, cho con là
Vạn vương Hoằng Tháo Lĩnh Hải quân tiết độ sứ, đổi phong Giao
vương, đem hai vạn quân sang đánh, mưỢn tiếng giúp Công Tiễn.
Lưu Cung lại tự làm tướng, đóng quân ở Hải Môn để làm thanh
viện. Có Sùng Văn hầu Tiêu ích bàn với bàn với Lưu Cung không
nên khinh suất. Đại quân đi nên phải cẩn thận chắc chắn, dùng
nhiều người hướng đạo rồi mới tiến quân. Lưu Cung không nghe,
khinh thường sai Hoằng Tháo đem thuỷ quân theo dòng sông
Bạch Đằng vào xâm phạm đất nước ta.
Quân Nam Hán chưa tới nơi thì Ngô Quyền đã từ Ái Châu
tiến ra bắc, đánh giết Kiều Công Tiễn. Đề phòng quân giặc có lợi
thế về thuyền, Ngô Quyền sai lấy gỗ tô"t, đẽo làm cọc vót nhọn, đầu
bịt sắt, đem cắm xuông dòng sông Bạch Đằng. Binh thuyền Hoằng
Tháo xâm nhập nội địa ta, không gặp nội ứng. Trong lúc nước
triều lên cao, quân ta đem thuyền ra cửa sông khiêu chiến, giả
thua chạy, lừa cho giặc đánh đuổi theo đi vào sâu, vượt qua nơi
lòng sông có gài bẫy. Đến lúc nước triều xuông thấp, đại quân ta
mới đố ra đánh cực mạnh. Giặc thua bỏ chạy, đến nơi dưới lòng
sông có cọc, thuyền giặc vướng phải cọc, nhiều chiếc bị đâm thủng,
đô nghiêng đố ngửa, giặc mất trật tự. Quân ta ra sức thừa thế
70
đánh giết. Hầu hết quân sĩ giặc đều chết chém, chết đuối trong
trận này cả vạn người. Hoằng Tháo bị bắn giết. Rất ít có kẻ chạy
đi được thoát thân. Lưu Cung ngoài biển nghe tin thất trận,
thương khóc, nhặt nhạnh tàn quân rút về nước. (Sau quốc thông
họ Lưu kéo dài được đến năm 960. Tống Thái Tổ thông nhất
Trung Quôc).
Sử gia Trần Trọng Kim bàn: Ngô Quyền trong thì giết được
nghịch thần, ngoài thì phá được cường địch, bảo toàn được nước,
thật là một người trung nghĩa lưu danh thiên cổ. Mà cũng nhờ có
tay Ngô Quyền, nước ta mới cởi được ách Bắc thuộc hơn một ngàn
năm và mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần về sau .này được tự chủ.

KẾT QUẢ THỜI ĐAI BẮC THUỘC


NGƯỜI NƯỚC TA NHIỄM VĂN MINH TRUNG QUỐC - Đời thưỢng cổ
xa xưa, dưới các triều vua Hùng, vua Thục, sự sinh hoạt của người
nước ta ăn ở thê nào, phong tục làm sao thì không biết được rành
rẽ lắm, chắc chắn đòi sôKg đơn sơ, giản dị, bấy giờ đã sớm biết
trồng cấy lúa nước, hành nghề chài cá, cũng có mục súc, săn bắn
không tiến bộ lắm.
, Trải qua mười một thế kỷ Bắc thuộc, xứ ta bị đặt dưới chính
quyền cai trị của người Hoa, cách sinh hoạt có biến đổi, do người
Hoa có trình độ văn hoá và kỹ thuật cao hơn ta. Tuy thế, người
nước ta chỉ ehấp nhận học chữ Hán, theo nghi lễ của người chiến
thắng mà không bị Hán hoá, do giữ được tiếng nói và một số tập
tục riêng, có tinh thần nghị lực bất khuất, lòng ưu ái đồng bào của
giông nòi.
Tục thờ cúng tổ tiên và các vị có công vói nước, với nhân
loại, có thê dân ta đã có từ trước, chỉ du nhập thêm nghi lễ cho
được thêm long trọng, có sự sùng tín hơn lên. Ta cũng theo chế
độ phụ hệ như người Hoa nhưng vẫn giữ tục “vô nam dụng nữ”
khác với họ.
NHO GIÁO - Người nước ta tiếp nhận sâu rộng Nho giáo. Đạo
Nho không hẳn là một tôn giáo theo nghĩa hẹp, do không có giáo
đường và tập đoàn tăng lữ hay thầy giảng, tuy có văn miếu, văn từ
thò tiên thánh và tiên hiền. Nho giáo chỉ là món đạo đức luân lý
học, dạy xử thế đời sông hiện tại, không nói rõ gì về các sự trước
sau của con người sông tại thế gian. Giáo lý đạo Nho lấy hiếu, đễ,
trung, thứ, tín, nhân, nghĩa... làm gốc. Mọi~người có thể thực
hành nổi, không cần phải siêu nhân.
71
ĐẠO GIÁO - Đạo giáo do Lão Tử Lý Đam khai Scáng, có bộ Đạo
Đức kinh lưu truyền. Đòi sau có Văn Tử, Thi Tử, Trang Tử và Liệt
Tử truyền bả tôn chỉ. Ta thường gọi là đạo Lão, ngưồi theo đạo
này là đạo sĩ. Triết lý cao siêu ít có người am hiếu. Học thuyết
biến đổi, sau biến thành ra đạo thần tiên, phù thuỷ.
ĐẠO PHẬT - Tỵ tổ đạo Phật là Thích Ca Mâu Ni, sinh tại Ân
Độ, 5, 6 hay 10 thế kỷ tr. CN.
Đạo Phật được truyền bá sang xứ ta từ cuôl đòi Hán, thế kỷ
thứ H. Các cao táng sang ta là người Ân Độ và là người Hoa. Do có
sự truyền bá đạo Phật, chữ Nôm được đặt ra.
Đạo Phật thịnh hành trong nước ta suôt từ thời thuộc Ngô,
Tấn, Tuỳ, Đường đến các triều Đinh. Lê, Lý, Trần. Các cao tăng
học vấn cao rộng rất được tôn trọng.
Theo đạo Phật, con người bị trầm luân trong bê khô luân hồi,
làm thiện được hưởng phúc, làm ác hị tai hoạ, nhân nào quả ấy,
nếu kiếp này chưa đền bù đủ thì kiếp sau còn được hưởng hay
phái chịu. Người tu hành, dứt những nhân duyên trói buộc mình ở
thế gian này, thoát được ra khỏi vùng luân hồi, không sinh không
diệt, lên cõi Niết Bàn, thành Phật. Người thường làm đư ợc lắm
việc tôt mà kiếp này chưa đưỢc hưởng đủ phúc, kiếp sau được
chuyến sang thế giới tôt đẹp hơn. Kẻ làm ác kiếp này chưa đền đủ
tội, kiếp sau sẽ bị khốn khổ.
Sự TIẾN HOÁ CỦA NGƯỜI NƯỚC TA - Nước ta xUa nội thuộc
Trung Quôc lâu dài, người mình theo học vấn, tôn giáo và kỹ
thuật, chịu ảnh hưởng sâu rộng văn hoá Trung Quôc. Dù sao, ta
cũng phải thừa nhận rằng so với thòi trước, cũng có tiến bộ. Anh
hưởng vẫn còn tồn tại mãi sau khi thu hồi dộc lập.
Vị trí nước ta, phía đông là biên, các đảo quôc Lữ Tống, Chà Và,
Mã Lai chắng hơn gì ta ngoài hàng hái. Phía tây và nam thì Lào,
Champa, Chân Lạp thua kém ta, kê cá Xiêm La xa hơn. Chỉ phía bắc
có Trung Quôc rộng lớn mà trình dộ cao hơn ta về nhiều mặt nên ta
thường cho rằng cái gì của nước này thì cũng hay cũng tốt, chỉ mong
bắt chước sao theo cho được bằng người. Nhưng Trung Quôc đâu phải
đã hay, đã tổt. Văn minh rất sớm, nhưng từ thế kỷ II tr. CN thì giẫm
chân tại chỗ, gần như không có tiến triển gì. Thòi xa xUa, trong xã hội
nông nghiệp, người ta rất ít đi xa, nhất là đến các nơi quá xa xăm.
Giao dịch với các nước Tây Âu chỉ là mây trường hợp đặc biệt. Không
có việc các nước trên thê giới va chạm, tranh đua nhau đê sinh tồn.
Trung Quốc không biết đến các nước Tây Dương, thấy mình hơn người
72
chung quanh, tự cho là theo vương hoá (ngày nay ậọi là văn minh),
cho các giông ngLíời khác là man di cả, gọi ngiíời Ân Độ, người Tây
Vực (Ba Tư) cũng là rỢ (hồ). Vì thế nên tự mãn. Do không có tranh
đua nôn không nảy ra nhu cẩu sáng tạo để tiến hộ. Người nước ta xưa
chỉ hiêt chạy theo Trung Quốc, cho nên bị lạc hậu.
Nước ta nằm trong nhiệt đới. Người nước ta làm việc dưới
ánh nắng chói chang, trong nhiệt độ cao, rất khổ cực, chóng mệt
mỏi nên nhiều người lấy sự được nhàn làm quý. Nếp sống giản dị,
chỉ cẩn sao cho khỏi đói rét là đủ, ít chịu lao tâm lao lực, cô" gắng
sáng tạo nên những gì mới mẻ, tô"t đẹp.

ĐẤT Củ CỦA NƯỚC TA


BI SẤP NHẬP VÀO TRƯN(Í Q ư ố c
Nhiều người trước đây tưởng lầm rằng Quảng Đông và
Quảng Tây là đất cũ của nước ta hị Trung Quốc chiếm đoạt. Có
những tập sử sách và gia phả chép: Nhà Hán đánh chiếm đất nước
ta, chia làm 9 quận đê cai trị. Sau người nước ta thu hồi độc lập,
chỉ lấy lại được 3 quận miền nam. sử gia xưa đã lầm cho nước
Nam Việt nhà Triệu là nước ta. Xét đất nước nhà Triệu bao gồm
các xứ Đông Việt, Tây Au Việt (Lưỡng Quảng ngày nay) và Lạc
Việt ta. Mấy sắc dân Việt kia cùng thuộc Bách Việt nhưng khác
Lạc Việt. Triệu Đà là kẻ ngoại xâm, chứ không phải là vua dựng
nước ta. Không có sự Lưỡng Quảng là đất cũ của ta.
Nhưng đất cũ của ta bị sáp nhập vào Trung Quốc là phần lớn
Hợp Phô", xưa là giang sơn họ Thục nước Àu Việt. Đất này hỢp
nhát với Lạc Việt, lạp nên nước Ảu Lạc bởi An Dương vương. Sau
Ảu Lạc thuộc Triệu, rồi thuộc Hán. Thổ dân HỢp Phô", người Âu
Việt, từng hương ứng hà Trưng khơi nghĩa. Các quan người Hoa
nhà Hán, nhà Ngô tham bạo, bắt dân Hựp Phô" lặn xuông biển mò
trai lấy ngọc, dịch vụ khó nhọc lại nguy hiểm. Nhiều người cực
khổ quá, không chịu nổi, phái bỏ xứ đi xa. Thời Hán, Đường, có
nhiều người Hoa di cư đến lập cơ nghiệp tại hắc Hợp Phô", làm ăn
thịnh vượng, lại đông đúc, át hắn ngvíòi hản thổ. Họ không Việt
hoá, mà cường tân hiếp chủ (khách mạnh hiếp chủ), lại khiến
người Việt ở đấy Hán hoá, mâ"t gôc.
Đến thòi Ngô Quyền dựng nưốc, chỉ có dân miền nam Hợp
Phò" nay là các tỉnh Hải Ninh, Quảng Yên, Lạng Sơn theo về. Còn
dân bắc Hợp Phô" biến thành người Hoa, mất gô"c, không theo về ta
nữa. Thê là nước ta mất hẳn đất này. Đáng tiếc!
73
THỜI Đ6I TỢ Chả
Thời đại nước ta tự chủ đáng phải kể từ nám 906 với Khúc
Thừa Dụ. Chi vì họ Khúc, họ Dương cầm quyền cai trị đất nước,
còn xưng là tiết độ sứ. chức quan của nhà Đường nên 32 năm tự
trị nàv coi là thời gian chuyên tiếp. Từ đồi Ngô mới kê là độc lập.

KỶ NHÀ NGÒ (939 - 965)


TIỀN NC.Ổ VƯƠNG 939 - 944 huý QUYỂN (898 - 944)
Năm 938, tiễu trừ kẻ phản nghịch Kiều Công Tiễn, phá tan
đại quân Nam Hán xâm lăng, Ngô Quyền đưỢc các hào trưởng các
nơi như họ Vũ ỏ' Mộ Trạch, họ Phạm ở Kim Thành, họ Trần ở cửa
lỉô Hải... theo phục, thấy bên Trung Quốc rôl loạn, mạnh ai xưng
vương xưng đế, bèn quyết tâm chấm dứt môi lệ thuộc phương bắc,
qua năm sau, làm lễ đăng quang, tự xưng là vua (vương), tục hiệu
Tiền Ngô vương, đóng đô ở thành c ố Loa, kinh đô cũ của An
Dương vương, nay thuộc huvện Đông Anh, Phúc Yên. Ngô vương
đặt quan chức chế triều nghi, định phục sắc, chỉnh đô"n mọi việc
chính trị trong nước, chí muôh dựng nghiệp lâu dài.
Đáng tiếc, ông không trường thọ, chỉ làm vua được có 6 năm,
khuất năm 944, hương linh 47 tuổi.
Sử gia Lô Văn Hưu bàn: Tiền Ngô vương lấy quân mới họp của
đất Việt ta mà phá đưỢc mấy vạn quân của Lưu Hoằng Tháo, mở
lurdc, xung vương, làm cho người phương hắc không dám trở sang
nữa. Có thê bảo là một cơn giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh
cũng giỏi vậy. Tuy chỉ xưng vương chưa lên ngôi hoàng đế và đổi niên
hiệu, mà chính thông của nước Việt ta ngõ hầu đã nốì lại được.
Sử gia Ngô Sĩ Liên bàn; Nhà Ngô nổi lên, không những là chi’
có công chiến thắng mà thôi. Việc đặt trám quan, chế định triều
nghi phẩm phục, có thế thay được quy mô đế vương. Thê mà ở ngôi
không đưỢc lâu, chưa thấy hiệu quả trị bình. Đáng tiếc thay!

DƯƠNÍỈ TAM KHA 945 - 950


Tiền Ngỗ vương trước lấy Dương thị, con gái Dương Đình
Nghệ, lập làm vương hậu. Trước khi khuất, vương uỷ thác con là
Ngô Xương Ngập cho Dương Tam Kha, etn Dương hậu. Nhưng
74
Tam Kha, năm 945, cướp ngôi, xưng là Bình vương. Xương Ngập
sỢ hãi, chạy trôn vào nhà Phạm Lệnh Công ở Trà Hương (Nam
Sách, Hải Dương). Tam Kha lấy con thứ hai của Ngô Xương là
Ngô Văn làm con nuôi. Các vương tử thứ Nam Hưng, Càn Hưng
còn nhỏ. Tam Kha nhiều lần sai người đem quân đi bắt Xương
Ngập đều vô hiệu. Xương Ngập ẩn hình ở trong sơn động.
Sử gia Ngô Sĩ Liên bàn (đại ý): Tam Kha là kẻ gia thần, đuổi
con đích của vua đê cướp ngôi. Việc lấv Xương Văn làm con mình,
chang qua là chuyện giả cách. Phạm Lệnh Công dám ẩn dấu
Xương Ngập, muôn cho dòng dõi họ Ngô không tuyệt tự thực là
đáng trọng.
Dương Tam Kha làm việc thoán đoạt. Các thổ hào khắp nơi
đều không phục, mầm loạn đã manh nha.
Năm 950, Tam Kha sai Xương Văn và hai sứ Dương Cát Lợi
và Đỗ Cảnh Thạc đem quân đi đánh hai thôn Đường Nguyễn ở
Thái Bình (có lẽ là phủ Quốc Oai, Sơn Tây ngày nay). Đi đến Từ
Liêm, Xương Văn bảo hai tướng: Đức của tiên vương thấm khắp
lòng dân. Phàm chính lệnh ban ra, không ai không vui lòng tuân
theo. Không may mất đi, Bình vương làm việc bất nghĩa, cướp
ngôi của anh em ta, tội không gì to bằng. Nay sai bọn ta đi đánh
ấp không có tội. May mà thắng được thì hay. Nếu họ không phục
thì làm thế nào? Hai sứ đều nói: Xin tùy ý. Xương Văn bèn quay
lại đánh úp Bình vương, khôi phục cơ nghiệp tiên vương. Chúng
bắt được Tam Kha, muôn đem giết đi. Xương Văn nghĩ tình nghĩa,
không nỡ, chỉ giáng làm Trương Dương công, cấp cho thực ấp ở
vùng Thượng Phúc, Hà Đông, sử gia Lê Văn Hưu chê Ngô vương
không giết kẻ phản nghịch cướp ngôi là lầm.
Dương Tam Kha cướp ngôi cháu, trị nước 5 năm, công nghiệp
không có gì đáng kế. Do sự thoán đạt, lòng người đều không phục,
gây nên việc đất nước bị chia cắt. 12 sứ quân cát cứ mỗi người một
phương. Dân chúng cực khổ về chiến tranh giữa các nhà quân
phiệt đánh giết lẫn nhau để tranh giành ảnh hưởng. Tội Tam Kha
to lớn lắm. May sao, sau có Đinh Tiên Hoàng anh hùng, thông
nhất được giang sơn. Nếu không, nước ta lại rơi vào vòng Bắc
thuộc lần nữa.

HẬII NGÔ VƯƠN(Ì 950 - 965 huý XƯƠNG VĂN (? - 965)


Ngô Xương Văn nôi lại chính thông, khôi phục cơ nghiệp.
Năm 951 lên ngôi vua, xưng là Nam Tấn vương, sai sứ đi đón
75
Xương Ngập về kinh sư, cùng trông coi việc nước. Xương Ngập
xưng là Thiên Sách vương.
Tình hình trong nước không đưỢc tôt đẹp. Các thổ hào, lực
lượng vũ trang khắp nơi, trước đây công nhiên chông đôì Dương
Tam Kha, nav họ Ngô khôi phục quyền chính, chỉ có một sô' quy
thuận, còn phần đông vẫn tung hoành trong khu vực của mình.
Một nước mà chia thành nhiều giang sơn. Ngay cả những người đã
chịu phục tòng cũng chỉ dâng chút phú công mà vẫn tự trị trong
cõi. Quyền hành của nhà vua không ra khỏi xa kinh thành nhiều.
Thiên Sách vương và Nam Tấn vương phải luôn luôn thân chinh
đi đánh dẹp mà thường cũng không thắng nhiều.
Thiên Sách vương sau lại chuyên giữ quyền bính. Nam Tấn
vương không dự chính sự nữa. Hai vương thành ra hiềm khích
nhau. Qua năm 954, Thiên Sách vương mất.
Sử gia Ngô Sĩ Liên bàn: Nam Tấn vương đưa Xương Ngập về
đê cùng trông coi chính trị, là biết kính anh, muôn cùng hưởng
phú quý. Nếu Xương Ngập biết mình vô công, nhường Xương Văn
thì đức ấy to lắm. Xưng là vương, trông coi chính sự, lại chuyên
quyền làm oai làm phúc, đến nỗi Nam Tấn vương không dự chính
sự nữa, bất nghĩa quá lắm.
Nam Tấn vương lại lên ngôi. Tình hình trong nước vẫn
không tiến triển.
Nam Tấn vương sai sứ sang Nam Hán xin thuần phục. Chúa
Nam Hán Lưu Thạnh phong cho làm Tĩnh Hải quận tiết độ sứ kiêm
đô hộ. Y Nam Tấn vương muôn nhò lực lượng ngoại bang giúp đỡ
trong công cuộc bình định các lực lượng không quy phục, nhưng
Nam Hán cũng chang giúp đỡ được gì. Làm sự này, Xương Văn đã đi
ngược đường lổì của tiên vương tự cường tự trị, rất đáng chê.
Nước loạn, Nam Tấn vương thường mở các cuộc hành quân luôn,
thắng lợi không đáng kê suốt trong nhiều năm. Năm 964, vương đem
quân đi đánh chi hậu cục Thái ở Thao Giang, toàn thắng, chém được
Thái. Được đà, vương tiến quân sang'đánh hai thôn Đường và Nguyễn
ở Thái Bình, nay thuộc Sơn Tây. Quân đội hai bên cầm cự nhau trong
mấy tháng. Nam Tấn vương vào sâu trong cõi, đỗ thuyền bè đánh bộ,
bị nỏ của quân phục hắn trúng chết. Bấy giờ là năm 965.
Nam Tấn vương ở ngôi trước sau 15 năm.

Sử gia có người chê Nam Tấn vưđng sính can qua, sinh ra việc
đánh dẹp, đến nỗi hị tử vong. Điều chê trách này e không hẳn là
76
phái. Làm vua, ai không muốn lutớc thái bình, thông nhất, tất nhiên
phai trừng trị kẻ chống dôì, nếu không dụ được chúng theo về.
Sử gia Lê Văn Hưu bàn (đại ý): Nam Tấn vương tha tội lỗi
cho Bình vương là nhân, dung cho Xương Ngập kiêu hơn là cung.
Đã nhân lại cung, chỉ vì không biết giữ mình cẩn thận, đến nỗi ở
ngôi không được lâu, dáng tiếc thay.

THẬP NHỊ SỨ QUÂN


Nam Tấn vương mất, ngôi vua đáng truyền cho con Thiên Sách
vương là Ngô Xương Xí. Nhưng thế lực nhà Ngô suy kém. Xương Xí
chỉ chiếm giữ được một vùng như mọi lực lượng cát cứ khác.
Từ khi Dương Tam Kha chiếm vị xưng vương, lòng người
không phục. Các thổ hào có quân đội hùng cứ mỗi người một
phương, chiếm giữ quận ấp, xung đột tranh giành ảnh hưởng, tiêu
diệt lẫn nhau. Một nưdc phân liệt chia thành nhiều giang sơn.
Quốc sử chép là Thập nhị sứ quân. Con số”12 đây là không kể các
tù trương miền rừng núi và mấy thố hào ít nổi tiếng.
Mười hai sứ quan là:
1 - N gô X ư ơ n g X í giữ Bình Kiều, nay là xã Bình Kiều phủ
Khoái Châu, Hưng Yên. Có thuyết Xương Xí chạy vào Nông CôKg,
Thanh Hoa, chiếm đất Bình Kiều, nay còn thành xưa ở xã Gia
Linh, huyện Triệu Sơn.
2 - T rần Lãm , người gôh Quảng Đông, xưng là Trần Minh
công giữ Bô' Hải khẩu, nay là xã Kỳ Bá huyện Vũ Tiên, Thái Bình.
Tại đây có đền thò, gần chợ Bo.
3 - Kiểu Công Hãn xưng là Kiều Tam Chế, giữ Phong Châu
huyện Bạch Hạc, Vĩnh Yên, cháu Kiều Công Tiễn. Nay còn dấu
thành ỏ xã Phú Lâm, huyện Bạch Hạc. Có sách chép là Kiều Trí
Hựu, thứ sử Phong Châu.
4 - Nguyên Khoan xưng là Nguyễn Thái Bình chiếm giữ
vùng Tam Đái (Bạch Hạc, Vĩnh Yên). Đất này còn gọi là Nguyễn
Gia Loan. Thành cũ còn dấu ở xã Vĩnh Mô, huyện Yên Lạc.
5 - Ngô N hật Khánh, người họ đồng tông với Ngô vương,
xưng là Ngô Lãm công, chiếm giữ Đường Lâm (Phúc Thọ, Sơn
Tây). Có sách chép giữ Giao Thuỷ, nay thuộc tỉnh Nam Định.
6 - Đô Cảnh Thạc, nguyên là nha tưống của Nam Tấn
vương, từng muôn đitợc làm vua sau khi Nam Tân vvíơng mất,
tranh quyền hành không được, chạy về giữ Đỗ Động giang, xây
thành tự thủ ở xã Bảo Đà, huyện Thanh Oai, Hà Đông.
77
7 - Lý Khuê xưng là Lý Lãng công, chiếm giữ Siêu Loại, nay
là phủ Thuận Thành, Bắc Ninh.
8 - Nguyên Thủ Tiệp xưng là Nguyễn Lệnh công, nguyên
thái thú Nhật Nam, chiếm giữ Tiên Du Bắc Ninh.
9 - L ữ Đ ư ờng xưng là Lữ Tá công chiếm giữ Tê Giang sau là
huyện Văn Giang, nay là huyện Văn Lâm, Hiíng Yên. Nay có đền
thò ỏ xã Phụng Công.
10 - Nguyển Siêu xưng là Nguyễn Hữu công, giữ Tây Phù
Liệt, nay là thôn Đông Phù, xã Đông Mỹ huyện Thanh Trì, Hà
Đông. Nay có miếu Ba Chạ thờ.
11 - Kiều Thuận xưng là Kiều Lệnh công, chiếm giữ đất Hồi
Hồ nay thuộc huyện cẩm Khê, Phú Thọ, đắp thành ở xã Trần Xá.
Nay là xã Trường Xá, ở đấy còn nền thành.
12 - Phạm B ạch Hồ xưng là Phạm Phòng Át, chiếm giữ đất
Đằng Châu, huyện Kim Động, Hưng Yên. Nay tại xã Xích Đằng
gần thị xã Hưng Yên còn có đền thò.
Ngoài ra, còn có Ngô x ử B ìn h (hay Lữ xử Bình) giữ Giao
Châu và D ương Huy giữ Vũ Ninh (Vũ Giảng) Bắc Ninh. Bọn Đỗ
Cảnh Thạc, Kiều Trí Hựu, Dương Huy và Ngô (hay Lữ) Xử Bình, đều
là tướng tá của Nam Tấn vương, tranh nhau làm vua sau khi Ngô
viíơng chết, đều không thảnh, rồi mỗi ngiíời đi chiếm giữ một nơi.
Mười hai sứ quân theo quôc sử chép ở đây không đồng thòi.
Trần Lãm đã trao binh quyền cho Đinh Bộ Lĩnh từ trước nám 951.
Ngô Xương Xí chỉ giữ Bình Kiều từ năm 966.
Các sứ quân đua nhau không chế các vùng bao quanh và
thôn tính lẫn nhau, khiến cho dân gian khổ sở. Nguyễn Thủ Tiệp
đánh Dương Huy, chiếm quận Vũ Ninh, làm chủ cả vùng đất rộng.
Lực lượng hùng mạnh nhất là sứ quân Đinh Bộ Lĩnh.

ĐINH BỔ LỈNH
THỜI CÒN NHỎ - Trong các lực lượng cát cứ, có Đinh Bộ Lĩnh
tài trí, dũng lược hơn cả. Có sách chép ông tên là Hoàn. Bộ Lĩnh là
chức Trần Minh công phong cho. Người động Hoa Lư, châu Đại
Hoàng, nay là xã Đại Hữu, huyện Gia Viễn Ninh Bình. Cha Icà
Đinh Công Trứ, thứ sử châu Hoan, mất sốm. Thuở nhỏ, về ơ quê
nhà, chăn trâu, chơi cùng lũ mục thụ, do kiến thức hơn chúng,
đưực cử làm trưởng, bắt chúng khoanh tay làm kiệu rước đi, lấy
bông lau làm cờ quân cầm đi hai bên, nghi vệ như vua. Thường
dẫn chúng đi đánh nhau với lũ trẻ làng khác, đều thắng. Đi đến
78
đâu cũng được sỢ phục. Phụ lão trong vùng thấy la, đem con em
đến theo, lập là trương sách Đào Áo. Từ nhỏ đã có chí khí hơn
người, tài trí và sức mạnh khi lớn lên càng tăng, thu phục nhiều
tráng đinh tố chức tự vệ, giữ an ninh trong vùng, trở nên một tù
trương có uy tín. Do không hoà với chú là Đinh Thúc Dự, nghe tin
Trần Minh công ở cửa Bô" Hải có đức, ông đem con là Liễn đến
nương tựa. Trần công thấy dáng mạo khôi ngô, lại có khí độ, nhận
làm con nuôi, đôi đãi rất hậu, giao cai quản binh quyền, sai đi
đánh các nơi đều thắng. Sứ quân Phạm Phòng Át đem quân về
hàng. (Sau Phòng At làm thân vệ triều Đinh).
Trần công tuổi già, thấy Bộ Lĩnh anh hùng, tất dựng nên cơ
nghiệp lớn lao, nhưòng hết thảy binh quyền cho ông, chỉ còn ơ gần
làm cỗ" vấn. (Nhiều sử sách chép Đinh Bộ Lĩnh thừa hưởng quân
đội của Trần Công Minh khi ông này khuất. Điều này e không
thật. Thần tích xã Lạc Đạo chép Minh công vẫn còn sông khi Bộ
Lĩnh xUng đê" tôn ông lăm thượng phụ. Linh mục Thanh Lãng
chép Bộ Lĩnh kê" nghiệp cha làm thứ sử châu Hoan, đánh ra chiếm
châu Ái, rồi tiến đánh Trần công chiếm Bô" Hải. Không rõ đây là
theo tài liệu nào. Có thể Đinh Bộ Lĩnh đã dùng cao kê", tôn Minh
công làm nghĩa phụ mà thừa hưởng binh quyền chăng?).
Bọn con em của Ngô chúa ở Đỗ Động Giang, cùng 500 người,
đem quân đến đánh, hị thua phải trở về. Bộ Lĩnh liền đánh lấy Đỗ
Động. Các bộ lạc đều hàng phục.
THỜI LÀM SỨ QUÂN - Sau Bộ Lĩnh đem đại quân về đóng ỏ quê
nhà Đại Hoàng, chiêu hình mãi mã, thu dụng hào kiệt, mưu dựng
nên cơ nghiệp lớn. Được nhiều anh tài Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lưu
Cơ, Trịnh Tú, Lê Hoàn về giúp. Lực lượng lớn mạnh. Triều đình
Hậu Ngỗ vương lấy làm lo. Năm 951, Bộ Lĩnh sai con là Liễn vào
triều làm con tin, mưu sự hoà hiếu. Thiên Sách vương và Nam Tấn
vương muôn dẹp yên, dem quân đến đánh. Hơn một tháng không
thắng nổi, phải hỏ về. Lực lưựng của Bộ Lĩnh càng ngày càng thêm
lớn mạnh, thu phục các trưởng hào, mở rộng vùng kiếm soát ngoài
hạt Đại Hoàng. Có thuyết Bộ Lĩnh đã làm chủ suốt từ Hoan, Diễn,
Ái trở ra, đánh đâu được đấy, xưng là Vạn Thắng vương.
Các sử quân tranh giành nhau quyền lợi, đất đai, đánh nhau
luôn. Chiến tranh kéo dài nhiều năm. Bộ Lĩnh sang Thanh Oai
đánh chiếm đất Đỗ Động do Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ, rồi tiến
đánh lấy Giao Châu của Ngô Xử Bình. Sau chia hai cánh quân
sang đánh Phong Châu và Vũ Ninh. Nguyễn Thủ Tiệp thua to
79
phải chạy, hỏ đất Tiên Du. sau chết ơ Nghệ An. Ngô Nhật Khánh
chống lại không nổi, phải xin hàng. Bộ Lĩnh vây đánh Kiều Công
Hãn ở Bạch Hạc. Công Hãn thua chạy về Trường Châu, rồi mâ"t ở
đấy. Các sứ quân khác đều lần lượt bị đánh thua năm 967.
Vạn Thắng vương thôKg nhất đất nước, thu giang sơn lại
thành một môl vững chắc. Khi ấy, hên Trung Quốic, nhà Tông mới
dứt được loạn Ngũ Đại Thập Quốc. Công lao bình định của vương
được dựng lên đúng lúc. Nếu bên nước ta còn phân liệt thì không
khỏi việc nhà TôKg được đà sẽ sai quân sang chiếm, lập lại nền đô
hộ. Người Hoa vẫn thường coi An Nam là một phần đất của chúng.

Có mấy tập sử chép như là Đinh Bộ Lĩnh chỉ đi đánh dẹp các
vỊ sứ qiiân khác sau khi Nam Tấn vướng khuất, tức là sau năm
965, chi trong vài năm toàn thắng thu phục giang sơn lại thành
một môi. Điều này e không đúng. Không lẽ ông án binh bất động
suôt lõ năm liền.
Lại xét ông đã thu phục được sứ quân Phạm Phòng At ngay
từ khi còn dưới trướng Trán Minh công. Công cuộc thỗhg nhất đất
nước phải đưỢc thi hành trong khá nhiều năm.

KỶ NHÀ ĐINH (968- 980)


ĐINH TIÊN HOÀNG 968 - 979 huý BỘ LỈNH (924 - 979)
Năm 968, ba năm sau khi Hậu Ngô vương mất, Vạn Thắng
vương hoàn thành công cuộc thông nhất đất nước, lên ngôi hoàng
đế. Quỗc sử chép là Đinh Tiên hoàng đế. Đặt quôh hiệu là Đại cồ
Việt, đóng đô ở Hoa Lư thành, nay là tổng Trường Yôn, huyện Gia
Viễn, Ninh Bình, không xa Hoa Lư động. Đắp thành, đào hào, xây
cung điện, dựng triều nghi, tỏ rõ ý chí lập quốc gia độc lập. Bày tôi
dâng tôn hiệu Đại Thắng Minh hoàng đế. Qua năm 970, đặt niên
hiệu là Thái Bình, bỏ việc dùng niên hiệu vua Trung Quốc. Nước
ta có niên hiệu vua từ đấy. Phong quan tước cho các người có công
dẹp loạn: Lê Hoàn làm Thập Đạo tướng quân, Nguyễn Bặc làm
Định Quốc công, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư. Con lớn Đinh Liễn
làm Nam Việt vương. Táng thông Ngô Chân Lưu hiệu Khuông
Việt đại sư; Huyền Quang, Sung Chân uy nghi; Trương Ma Ni,
tăng đại sĩ. Các nhà sư nhận quan tước, không thường xuyên tiến
triều, chỉ khi cần vua mới gọi đến hay sai quan đến hỏi ý kiến.
Cấp ngàn mẫu ruộng ở Sơn Nam cho thượng phụ Trần Lãm làm
80
thái âp. Nội đình đặt năm vị hoàng hậu ngang nhau. (Sau các vua
Lê, Lý theo, lập nhiều hoàng hậu, không ra thể thông gì), sử gia
chê trách nhiều về việc này.
VIỆC CAI TRỊ - Thời bấy giờ, nhiều người quen thói thòi loạn
không chịu tuân theo kỷ luật nên hình pháp rất nghiêm. Tiên
Hoàng lấy uy thế chế ngự thiên hạ, đặt vạc dầu ở sân triều, nuôi
hố’ dữ trong cũi để ở vườn, hạ lệnh ai trái phép sẽ phải chịu tội bỏ
vạc dầu hay ném cho hổ ăn thịt. Hình phạt quá tàn ngược nhưng
mọi người sỢ uy không dám trái, dân mới được yên ố’n.
QUÂN ĐỘI - Phân ra đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Mỗi đạo 10 quân,
quân 10 lữ, lữ 10 tôt, tốt 10 ngũ, ngũ 10 người, sử chép thế thì cả thảy
1 triệu binh, e quá đáng. Binh sô" thời ấy chưa chắc có đến 10 vạn.
VIỆC NGOẠI GIAO - Bên Trung Quốc, năm 960, Triệu Khuông
Dận thông nhâ"t đâ't nước, dựng nên cơ nghiệp nhà Tông. Năm
970, vua Tông sai tưống Phan Mỹ đi đánh Lĩnh Nam, diệt nhà
Nam Hán, có sự dòm ngó nước ta. Đinh Tiên Hoàng sai sứ sang
Tông để kết hảo.
Năm 972, Nam Việt vương Liễn đem đồ phương vật; Trân
châu, sừng tê, ngà voi, sang công vua Tống. Tông Khai Bảo phong
Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương và cho Đinh Liễn làm Kiêm
hiệu thái sư Tĩnh Hải tiết độ sứ An Nam đô hộ. Năm 975, Trịnh
Tú đem vàng lụa và bảo vật địa phương sang công. Tông Khai
Bảo lại sai sứ sang gia phong cho Liễn làm Khai phú nghi đồng
tam ty kiêm hiệu thái sư Giao Chỉ quận vương. Từ đấy, việc
giao dịch với nhà Tông thì lây Liễn làm chủ. Bắc sử chép khác:
Đinh Bộ Lĩnh xưng là Đại Thắng vương và cho con là Liễn
quyền chức tiết độ sứ. Được 3 năm, nhường ngôi cho Liễn. Liễn
lập, sai sứ sang công. Khảo không có sự Tiên Hoàng nhường
ngôi cho Liễn. Sở dĩ Tông sử chép thế có lẽ là do vua Tông đòi
vua ta sang chầu. Tiên Hoàng không chịu đi, sai Liễn đi thay,
bịa ra sự Liễn đã được nhường ngôi nên đôl với nhà Tông, Liễn
là vua ta. Tông sử đã chép sai là vậy.
TIÊN HOÀNG BỊ HẠI. - Năm 977, Tiên Hoàng phong con thứ
Hạng Lang làm hoàng thái tử, con thứ nữa là Toàn làm Vệ vương.
Con trưởng là Liễn từng theo vua đi đánh dẹp, lập nhiều côngTao,
khi làm con tin ở triều Ngô, khi sang sứ nhà Tông, lại từng chịu
mệnh nhận tước phong của vua Tông. Sau vua sinh con nhỏ là
Hạng Lang, yêu quý lắm, lập làm thái tử để sau nôi ngôi. Liễn vì
thế không bằng lòng, khiến người ngầm giết Hạng Lang đi.
81
Tiên Hoàng những năm về sau lại ham mê rượu chè, nay tiệc
mai yến, say sưa cùng bọn tiểu nhân.
Tháng 10 âl năm 979, Tiên Hoàng ăn yến ban đêm, say nằm
trong sân cung đình, bị chi hậu nội nhân Đỗ Thích giết, cùng với
Nam Việt vương Liễn.
Quốc sử chép: Đỗ Thích làm Đồng quan lại, đêm nằm ở trên cầu,
chợt thấy sao sa vào mồm, cho là điềm tôt, mới sinh tâm giết vua.
Việc bắt hung thủ rất ngặt. Đỗ Thích trốh nép ở trên máng
nước cung điện, qua ba ngày khát quá, gặp tròi mưa, lấy tay hứng
nước ucmg. Cung nữ trông thấy báo Nguyễn Bặc sai người bắt
chém giập nát xương và băm thịt ra từng mảnh.
Vê vụ Đỗ Thích thí cha con Tiên Hoàng có điều đáng ngò. Nói
là đê được làm vua thì vô lý: Một quan nhỏ, không có quân đội,
không có vây cánh lực lượng gì khác thì dù vua đã chết, đâu có ai
tôn mình lên thay đưực? Nếu không phải là y đã điên rồ khi làm
việc này thì tất phái là tay sai của người khác. Vậy ai là người chủ
mưu? Có thuyết Đỗ Thích là đầy tớ tay chân của Hạng Lang,
muôn báo thù cho chủ nên giết Liễn. Không may Tiên Hoàng thấy
biết đánh Thích. Thích chông đỡ mà ngộ sát vua. Theo thuyết
khác, chính người trong họ Đinh, muôL tranh quyền nên sai giết
vua. Điều này không chắc gì thật. Muôn tranh địa vỊ tất phải nắm
giữ một lực lượng mạnh có thế chông đốì với nhà đương đạo. Có
người nghi ngờ trong vụ này có tay Thập Đạo tướng quân Lê
Hoàn. Không rõ sự thật ra sao.
Tiên Hoàng không phòng bị đặt nhiều lần cửa và đặt hiệu
canh đê giữ kẻ gian phi. Vì lòng dục không cùng, việc đời không
bến. Không thể không phòng bị trước, nghĩ xa về sau. Tiên Hoàng
không giữ thân cho trọn là không làm hết nhân sự. (Phỏng theo lòi
sử gia Ngô Sĩ Liên).
Đinh Tiên Hoàng làm sứ quân 20 năm, làm vua 12 năm, thọ
56 tuổi. An táng ở sơn láng Mã Yên, thuộc Trường Yên.

PHÊ ĐẾ ĐINH TOÀN (TUỆ) (974 - 1001) làm vua 979 - 980
Định quôh công Nguyễn Bặc, ngoại giáp Đinh Điền cùng
d’hập Đạo tướng quân Lê Hoàn tôn Vệ vương Toàn (VNSL chép
Tuệ) lên làm vua, mẹ đẻ Toàn là Dương thị làm thái hậu.
Toàn nôi ngôi mới 6 tuổi. Lê Hoàn nhiếp chính, xưng là Phó
vương, nắm hết binh quyền, ra vào cung khuyết, tư thông bất
chính với Dương thị. Bọn Nguyễn Bặc, Đinh Điền và Phạm Hạp
82
(ngoại giáp cầm quân ngoài cõi) thây Hoàn lộng quyền, có ý muôn
thoán đoạt ngôi vua, cùng nhau cất quân chia làm thuỷ lục hai
đạo, tiến kinh đánh Hoàn. Hoàn chỉnh đôn binh sĩ đánh nhau với
Điền, Bặc ở Ái Châu. Điền, Bặc thua chạy, lại đem thuỷ quân ra
đánh. Hoàn nhân gió phóng hoả đô(t thuyền, chém Điền tại trận,
bắt được Bặc đem về kinh đô Hoa Lư kết tội đem chém. Phạm Hạp
rút quân về Bắc Giang bị Hoàn đem quân đuổi đánh, bắt sông
đem vê kinh giết đi.
Ngô Sĩ Liên hàn: Nguyễn Bặc giữ chức thủ tướng, Đinh Điền
là đại thần cùng họ Đinh, khơi nghĩa không phải là làm loạn, là
một lòng phò tá họ Đinh, đánh Hoàn không được mà chết, cái chết
ấy đáng chỗ.
Ngô Nhật Khánh, sứ quân Đường Lâm, người họ tôn thất
nhà Ngô, từng xưng là An vương. Tiên Hoàng dẹp yên, lấy mẹ
Nhật Khánh làm một vị hoàng hậu, em gái Nhật Khánh làm vỢ
Liễn, lại gả con gái cho Nhật Khánh, mưu sự giập hết lòng oán
vọng, nhưng Nhật Khánh vẫn bất bình, bỏ chạy sang Champa,
đuối vỢ. Khi nghe tin Tiên Hoàng mất, dẫn vua và binh thuyền
Champa hơn ngàn chiếc về muôn đánh chiếm thành Hoa Lư, qua
cửa biến Đại Ac (sau đổi là Đại An, nay thuộc xã Quần Liêu, Nam
Định. Tiểu Khanh tức Tiểu Ác cũ là Cửa Càn ở phía nam cửa Đại
An), đêm gặp gió bão lớn đánh đắm thuyền. Nhật Khánh và nhiều
người Chăm chết đuôi. Vua Champa may thoát chạy đưỢc về nước.
Bấy giò bên Trung Quôh, Tống Thái Tông nghe tin Tiên
Hoàng mất, tự quân còn trẻ dại, đại thần đánh giết nhau, muôK
thừa cơ hội sai quân sang đánh chiếm đất nước ta, theo đề nghị
của tri ưng Châu Hầu Nhân Bảo. Có Lư Đa Tốn bàn phải cấp tốc
tiến binh khi bên An Nam không ngờ mà đánh mạnh mới thắng
lợi. TôKg Thái Tông cử Hầu Nhân Bảo và các tướng Tôn Toàn
Hưng, Khích Thủ Tuấn, Trần Khâm Tộ, Thôi Lượng, Lưu Trừng,
Giả Thực, Vương Soạn, dẫn 3 vạn quân thuỷ bộ sang xâm lược.
Trấn thủ Lạng Châu nghe tin quân TôKg sắp sang, phi về
báo triều. Dương thái hậu cử Lê Hoàn chọn dũng sĩ đế chôKg cự,
cho Phạm Cự Lượng làm đại tướng. Phạm Cự Lượng, người Nam
Sách Giang, em Phạm Hạp. Khi đang bàn kế hoạch xuất quân, Cự
Lượng cùng với các tướng quân đều mặc đồ nhung phục, đi thắng
vào trong phủ, bàn với mọi người rằng: Thưởng người có công, giết
kẻ không theo mệnh lệnh và kỷ luật hành quân. Nay chúa thượng
trẻ thơ, chúng ta dù hết sức liều chết chống kẻ địch bên ngoài,
83
may lập được chút công thì ai biết cho. Chi bằng trước hãy tôn
Thập Đạo tướng quân lên làm vua, rồi sau sẽ đem quân đi đánh
giặc thì hơn. Quân sĩ nghe nói, đều hô vạn tuế. Dương thái hậu
lấy áo long cổn mặc cho Hoàn, mòi Hoàn lên ngôi.
Đinh Toàn thì lại giáng làm Vệ vương, ớ ngôi tám- tháng
trong các năm 979, 980. (Sau đến năm 1001 theo Lê Đại Hành đi
đánh giặc ở Cử Long ở Thanh Hoa, bị trúng tên chết tại trận,
hưởng linh 28 tuổi (974 - 1001). Khả nghi bị Lê Đại Hành sai
người bắn lén).
Việc nhà Lê lấy ngôi nhà Đinh chép sử đây giống như việc
bên Trung Quốc, nhà Tông lấy ngôi nhà Hậu Chu. Nhà làm sử đã
chép theo Bắc sử chăng? (Theo lời Trần Trọng Kim).

Tại Trung Quốc cũng như bên ta, các vua dựng nghiệp mở
nước hầu hết giết hại các công thần đã từng giúp đỡ đưa mình lên
ngôi báu, đế đê phòng sự thoán đoạt. Đinh Tiên Hoàng không giết,
hay chưa kịp giết Lê Hoàn nên có sự việc Đinh chuyển Lê.
Nhiều ngưòi chê trách Dương thị đáng phải gánh vác giang
sơn nhà Đinh, mà lại đem hiến cho Lê Hoàn, có tội rất lốn. Xét
Dương thị chỉ có “đi bước nữa”. Nếu thị không lấy long bào mặc cho
Hoàn thì lũ Phạm Cự Lượng cũng cướp lấy mà dâng cho Hoàn và
thị sẽ phải đuối ra khỏi cung khuyết. Lê Hoàn đã sắp đặt việc
thoán đoạt từ trước lâu rồi.

Tại tổng Trường Yên, huyện Gia Viễn, Ninh Bình có đền thò
Đinh Tiên Hoàng. Tại xã Thượng Đồng huyện Phong Doanh, Nam
Định cũng có đền thờ.
Gần đền vua Đinh ở Trường Yên, cũng có đền thờ vua Lê Đại
Hành. Tương truyền xưa giữa hai ngôi đền này, có đền thờ và
tượng Dương.hậu. Sau có quan khâm sai bắt phá đền Dương hậu,
đưa tượng sang đền vua Lê. ĐVSKTT chép: Dân làm đền thò, tô
tượng Tiên Hoàng, Đại Hành và Dương hậu cùng ngồi. Đến buổi
quốc sơ (Hậu Lê) hãy còn. Sau an phủ sứ Lê Thúc Hiển mới bỏ.

KỶ NHÀ TIỀN LÊ (980 - 1009)


ĐAI HÀNH HOÀNG ĐÊ 980 - 1005 huý HOÀN (943 - 1005)
Lê Hoàn, ĐVSKTT chép người Ái Châu, VSL chép người
Trường Châu (Ninh Bình?), VSTA của Ngô Thì Sĩ chép là người
84
Bảo Thái, huyện Thanh Liêm, Hà Nam (tại xã này còn có đền
thò). VNSL theo thuyết sau. Ngưòi phóng khoáng, có chí lớn, từng
theo Nam Việt vương Liễn dự chiến trong nhiều trận mạc. Tiên
Hoàng khen là trí dũng, giao trông coi binh sĩ, thăng dần đến chức
Thập Đạo tướng quân, điện tiền đô chỉ huy sứ. Tháng 7 âl năm
980, nhân tự quân còn nhỏ, quân Tông sang xâm, Hoàn mưu vối
các tướng tôn mình lên làm vua.
Lê Hoàn lên ngôi thay nhà Đinh, tục hiệu Lê Đại Hành, cải
nguyên niên hiệu Thiên Phúc, nạp Dương thị làm hoàng hậu,
ngang hàng với bôn hoàng hậu khác.
ĐẠI PHÁ QUÂN TỐNG XÂM LẢNG - Lê hoàng lên ngôi, cương
quyết chông đôi quân Tông, chuẩn bị kháng chiến, chỉnh đôn quân
đội đóng giữ mọi đường thuỷ bộ thông với Trung Quốc, theo kế của
Ngô vương đóng cọc ở sông Bạch Đằng. Tông đế Thái Tông gửi thư
sang, vừa dụ dỗ, vừa đe doạ. Lê hoàng sai sứ Giang Cự Vọng và
Vương Thiện Tộ sang Tông, giả thư của Đinh Toàn xin phong, có ý
đê hoãn binh. Vua Tông không cho, lại sai sứ Trương Tông Quyền
đưa thư trách sự xưng đế, đổi niên hiệu, lại nói: Họ Đinh truyền
lập đã ba đòi, vậy cho Toàn làm thống soái, Hoàn làm phó. Nếu
Toàn không có tướng tài hay còn non dại thì nên bảo mẹ con sang
quy phụ. Lê hoàng không nghe.
Tháng 3 âl năm 981, quân Tống rầm rộ kéo sang. Hầu Nhân
Bảo và Tôn Toàn Hưng dẫn quân bộ sang theo mặt Lạng Sơn. Bọn
Lưu Trừng đem thuỷ quân sang mặt sông Bạch Đằng. Lê hoàng
đem binh thuyền ra chống giữ. Thế quân Tông mạnh lắm. Quan
quân chông đối không lại, phải lùi. Trần Khâm Tộ thừa thắng kéo
quân vào sâu đến Tây Kết (phủ Khoái Châu, Hưng Yên). Có
thuyết đây là quân ta giả thua đề lừa giặc.
Hầu Nhân Bảo kéo quân theo đường sông Thương đến Chi
Lăng, chưa kịp đề phòng thì Lê hoàng sai quân trá hàng, rồi kéo
đại quân đánh úp, chém được Hầu Nhân Bảo tại trận. Đại thắng
đám lục quân rồi, Lê hoàng chuyên quân truy kích bọn Trần
Khâm Tộ. Quân Khâm Tộ hay tin chủ soái quân thua, tử trận,
mất hết tinh thần, nhôn nháo tháo chạy. Quan quân ta ra sức
đánh đuổi. Quân Tông thua to, chết quá nửa, thây nằm đầy đồng.
Hai tướng Quách Quân Biện, Triệu Phụng Huân bị bắt sông đưa
về Hoa Lư. Sô" quân tướng còn lại vội vã tháo chạy về nước.
Chuyển vận sứ Giang Nam Hứa Trọng Tuyên cấp báo tin Hầu
Nhân Bảo về triều. Vua Tông hạ chiếu rút quân. Trọng Tuyên mở
85
kho ban cấp cho lũ tàn quân, phát thuôc men cho chúng, nhằm ốn
định tinh thần.
Bọn tướng thua trận Tôn Toàn Hưng, Lưu Trừng, Giả Thực,
Vương Soạn trở về nước. Vua Tông tức giận, quở trách nặng nề,
đem chém Toàn Hưng bỏ chợ, giết Soạn ở Ung Châu. Mấy người
khác bị bắt giam, bỏ chết trong ngục. Triều đình nhà Tông thâV
quân mình đi nam chinh sớm bị thua ngay to, không dám tính đến
sự cất quân đi đánh báo thù, nhất là bấy giờ ở phương hắc có quân
Khiết Đan đang đánh phá.
Lê hoàng chiến thắng quân Tống xâm lăng, lập công nghiệp
to lớn, làm vẻ vang cho giông nòi, lòng dân phấn khởi, náo nức bảo
vệ nền độc lập nước nhà. Thái bình trở lại. Triều thần dâng tôn
hiệu: Minh Càn ứng vận, thần võ thăng bình chí nhân quảng hiếu
hoàng đế.
VIỆC BANG GIAO VỚI NHÀ TỐNG - Quân Tống thua nhưng nước
ta nhỏ, không thể đối địch mãi được với nước lớn, thế tất trước sau
gì cũng phải xưng thần nạp công cho vua Tống. Lê hoàng dù biết
vậy nhưng không vội vàng ngay. Sau hai năm chờ đợi thái độ của
triều đình phương bắc, không thấy động tĩnh gì, đến năm 983, Lê
hoàng mới sai sứ sang thông hiếu. Qua năm 985, vua Tông sai sứ
sang thám thì Lê hoàng mới sai sứ đi theo sứ Hoa về nước, dâng sớ
xin quy thuận, triều công như nhà Đinh trước và xin phong. Năm
986, Tông Thái Tông sai Lý Nhược Chuyết và Lý Giác sang chê
sách phong vua làm An Nam đô hộ Tĩnh Hải tiết độ sứ kinh Triệu
quận hầu. Lê hoàng thụ phong, cho đem trả hai tướng bị bắt năm
xưa. Năm 988, vua Tốhg lại gia phong làm Kiểm hiệu thái uý. Năm
993 làm Giao Chỉ quận vương. Nám 997 làm Nam Bình vương.
Sứ giả nhà Tông qua lại luôn. Nước ta bấy giờ chưa có nho sĩ
làm quan văn, thường dùng các thiền sư người học rộng ra ứng
tiếp. Có sư Thuận và sư Khuông Việt từng xướng hoạ thơ với sứ
nhà Tông, rất đưỢc khen phục. Có lần Lê hoàng bưng chế thư đê
lên trên điện, không lạy, nói dối rằng vừa đi đánh giặc bị ngã ngựa
đau chân. Có lần tiếp sứ Tống, hàng ngày đem những thứ châu báu
kỳ dị bày chật cả sân để khoe giầu có. Lại khi phô bày thuỷ quân và
chiến cụ ra để khoe. Trên trán lính túc vệ viết chữ thiên tử binh.
Nhưng có khi lại làm ra vẻ sỢ sệt thiên triều, kiểu áo thêu rồng,
giát vàng ngọc, lại xin phép với vua Tông. Như vậy khiến người
TôAg không rõ được tình trạng bên ta hùng cường hay suy kém.
Vua Tông tỏ vẻ ân cần, khi gia phong mỹ tự, khi ban đai ngọc.
86
Lê hoàng nhiều lần dong túng dân biên giới lấn cướp đất Tông.
Nám 995, trấn thủ Khâm Châu tâu nói: Chiến thuyền Giao
Chỉ hơn 100 chiếc vào trấn Như Hồng cưốp cư dân và lương thực
trong kho rồi đi. Lại có việc 5000 hương binh châu Tô Mậu sang
ăn cướp ở Ung Châu. Vua Tống không muốn động binh. Nám sau
996, hên ta có bọn Văn Dũng làm loạn giết, rồi trôK sang Khâm
Châu. Quan Hoa chứa giấu. Tướng Hoàng Thanh Nhã đuổi bắt
không được. Triều dinh nhà Tông bắt phải đưa trả về 113 người.
Lê hoàng ngang nhiên nói với sứ giả Lý NhvíỢc Chuyết rằng: Việc
cướp trấn Như Hồng là do bọn giặc biên ở cõi ngoài. Nếu Giao
Châu có làm phản thì đầu tiên đánh vào Phiên Ngung, rồi đánh
đến Mân Việt, há lại chỉ có trấn Như Hồng mà thôi ư?
VIỆC ĐI ĐÁNH CHAMPA - Vua Champa Phê Mị Thuế nám 979
cùng Ngô Nhật Khánh đem binh thuyền sang đánh ta, gặp bão đắm
thuyên phải trơ về, vẫn giữ thái độ thù nghịch. Lê hoàng lên ngôi sai
Từ Mục và Ngô Tử Canh sang thông hiếu. Sứ giả bị bắt giữ. Lê hoàng
giận, đóng chiến thuyền, sửa binh khí, sau khi dẹp quân Tốhg, lại tự
làm tướng sang đánh Champa, chém Phê Mị Thuế tại trận, bắt sông
rất nhiều binh sĩ, hàng trăm kỹ nữ, lấy các đồ đạc quý, vàng hạc hàng
vạn. Quản giáp Lưu Kế Tông trốn ở lại Champa, sau cướp ngôi vua,
giao dịch với Trung Quốc. Lê hoàng sai con nuôi sang đánh bắt được
đem chém. Bắc sử chép dân Champa chống lại Kê Tông.
Vua Champa sau vẫn không chịu phục tòng vua Lê. Đến
năm 994, vua mới Chê Cai mới chịu vào chầu.
VIỆC CAI TRỊ - Lê hoàng dùng Hồng Hiến, người Hoa, làm thái
sư. Hiến từng theo phò từ thòi còn làm tướng, là quân sư giúp việc
chiến trận, khuyên lên ngôi vua, mưu bàn việc nước có công.
Phong Từ Mục làm tổng quản tri quân dân sự. Phạm Cự Lượng
làm thái uý, Lý Công u ẩ n , Nguyễn Đê làm tả hữu điện tiề n chỉ
huy sứ, Ngô Tử An làm phụ quốc, Phí Sùng Đức làm nha hiệu,
Đào Can Mộc làm chi hậu.
Hầu hết các quan đều là võ tướng. Lê hoàng vẫn còn dùng
các thiền sư, những người có học vấn uyên bác thời bấy giờ, làm
quan văn thường thù tiếp sứ giả nhà Tông.
Đối các đạo làm lộ. Dưới cấp lộ, có các cấp phủ, châu, hương.
Có các chức quản giáp, trâK tường, thứ sử các châu.
Lê hoàng dùng các anh tài Từ Mục, Phạm Cự Lượng, Ngô Tử
An giụp dập, huấn luyện quân lính, sửa sang mọi việc cai trị, bình
định các nhóm chưa chịu thuần phục.
87
Năm 984, đúc tiền đồng Thiên Phúc.
Về việc công chính, ngoài việc xây cất cung điện, có vụ đào
đưòng kênh ở Thanh Hoa khiến thuyền bè đi lại được thuận tiện,
từ sông Mã vào phía nam, ngày nay còn gọi là sông nhà Lê. Lại có
việc mở đường bộ từ cửa biển Nam Giới, huyện Thạch Hà, Hà
Tĩnh đến châu Đại Lý, Quảng Bình.
Về tư pháp, thòi ấy chưa có luật thành văn. Vua quan xét xử
tuỳ nghi mà định hình phạt: Phạm tội lớn bị chém, tội khác bị
đánh trượng 1, 2, 3 chục đến 100 tuỳ nặng nhẹ. Khi vua đã xử
phạm tội nào phải chịu hình phạt ra sao thì ghi lấy, sau gặp
trường hỢp tương tự thì xử phỏng theo trước (như ngày nay toà xử
theo án lệ).
Đề phòng quân Tông có thê sang đánh nữa và đê bài trừ nạn
thổ tù cát cứ, Lê hoàng đặc biệt lo tố chức quân đội đông và mạnh,
cho kiểm điểm dân số đế lấy lính. Cách tổ chức đội ngũ các cấp
vẫn theo như dưới thòi Đinh. Không kể quân cấm vệ của nhà vua,
binh sĩ đưỢc thay phiên nhau tòng ngũ và trở về làm ruộng.
Lê hoàng bắt các con phải luyện tập võ nghệ, cho có dưới
trướng một sô" binh sĩ và cử đi trấn trị các nơi xa hay hiếm yếu.
Lần lượt phong cho các con: Thái tử Thau là Kinh Thiên đại
vương; các hoàng tử Ngân Tích làm Đông Thành vương; Việt,
Nam Phong vương; Đinh, Ngư Nam vương; Ngân, Ngư Bắc vương;
Đĩnh, Khai Minh viíơng; Tung, Định Phiên vương; Tương, Phó
vương; Kinh, Trung Quổíc vương; Mang, Nam Quổíc vương; Minh
Đề, Hành Quân vương; con nuôi (?), Phó Đái vương.
VIỆC ĐÁNH DẸP TRONG N ư ớ c - Các lực lượng cát cứ địa phương
ơ đồng bằng đều đã bị Đinh Tiên Hoàng dẹp yên nhưng còn tại các
nơi rừng núi xa xôi, nhất là vùng Thanh, Nghệ, Tĩnh, chỉ có số ít
tù trưởng quy thuận triều đình, tuy vẫn tự trị, nhiều người vẫn
cứ tung hoành trong cõi, không chịu phục trung ương, nộp phú
công. Để ổn định nền thống nhất quốc gia, Lê hoàng thường tự
làm tướng, đem quân đi đánh dẹp, luôn luôn thắng lợi.
Năm 989, quản giáp Dương Tiến Lộc được cử đi thu thuế hai
châu Ái, Hoan, kêu gọi dân hai châu ấy chống lại triều đình, quy
phụ Champa. Lê hoàng thân chinh đi đánh, bắt giết được Tiến Lộc
Vcà nhiều dân nổi loạn. Năm 996, Lê hoàng thân đi đánh lây được

4 động; Đại, Phát, Đan, Ba ở Ma Hoàng. Năm 999, dẹp 49 động


Hà Động (Thạch Thành, Thanh Hoa), phá các sứ động Nhật Tắc
và châu Định Biên (thượng lưu sông Mã). Từ đấy, các châu động
88
đêu quy phục. Năm 1000 đi đánh bọn Trịnh Hàng, Trần Lộ, Đan
Trường Ôn, chúng chạy vào núi Tản Viên. Nám 1001, đi đánh
người Cử Long (Cẩm Thuỷ, Thanh Hoa), hai bên bày trận chông
nhau hai bên hò sông. Vệ vương Đinh Toàn (vua cũ) bị trúng tên
chết. Lê hoàng thúc quân đánh, giặc tan vỡ. Năm 1003, Lê hoàng
đi tuần tiễu, diệt lũ làm phản ở vùng Hoan, Ái.
LUẬN VỀ LÊ ĐẠI HÀNH - Tháng 3 âl năm 1005, Lê Đại Hành
băng ỏ điện Trường Xuân, làm vua 24 nám, thọ 65 tuổi. An táng
tại Sơn Lăng châu Trường Yên.

Sử gia Ngô Sĩ Liên bàn: Vua đánh đâu được đấy, chém vua
Chiêm Thành (Champa) đê trả sỉ nhục phiên đi bắt giữ sứ thần,
phá tan quân Triệu Tôlìg để hẻ cái mưu vua tôi ăn chắc, có thể gọi
là bậc anh hùng nhất đời vậy. Song khi nhiếp chính tự xUng là phó
vương, lên ngôi do bọn Phạm Cự Lượng bắt hiếp bằng binh lực...
như thê đều không bằng Lý Thái Tồ biết nghe xa hơn.
Lời Ngô tiên sinh nói: Lê Hoàn “bị bắt hiếp lên làm vua” xét
không đúng, bị bắt ép chi thì phải chịu, chứ bị bắt ép lên làm vua
mà chính mình không muôh thì đố ai ép được. Chính Lê Hoàn đã
sớm có ý muôn thoán vỊ nên bọn Nguyễn Bặc, Đinh Điền mối mưu
trừ bỏ đi. Việc được các tướng tôn là do chính Lê Hoàn đã mưu vối
chúng từ trưóc rồi.
Xét Lê Đại Hành cướp ngôi nhà Đinh là có tội với tiên
triều, giao dịch bất chính với Dương thị, vỢ Tiên Hoàng, rồi lại
lấy làm vỢ, là phạm danh giáo (Hoàn có thê làm việc thoán đoạt
không cần dến Dương thị). Nhưng đôl với dân, với nước, ông là vị
anh hùng có công lớn, từng phá các đại quân bắc xâm lăng là
giặc ngoài, lại bình định được các lực lượng cát cứ trong nước,
giữ vững nền độc lập thống nhất, râ't đáng khen. Trong việc
bang giao với nhà Tôhg nưốc lón, lại tỏ vẻ cứng cỏi, ít chịu khuất
phục. Tiếc rằng ông biết bắt con luyện tập võ nghệ, nắm giữ
hình quyền đế đê phòng ngoại xâm, nội loạn, mà không phòng xa
việc các hoàng tử đánh giết lãn nhau để tranh làm vua, không
hẳn là trí như Trần Thủ Độ sau này.

LÊ TRUNÍỈ TÔN(Ỉ 1005 huý LONG VIỆT (983 - 1005)


Thái tử Tham mất năm 1000. Lê Đại Hành trước khi khuất,
lập người con thứ ha là Long Việt làm thái tử, gia phong Ngân
Tích vả Long Đĩnh làm đại vương.
89
Lê Đại Hành khuất, ngôi vua đáng thuộc về Long Việt nhưng
Đông Thành vương Ngân Tích và Trung Quốc vương Kính đều
muôn tranh. Các vương cầm cự nhau trong tám tháng, nước
không ai làm chủ. Ngân Tích thua chạy, bị giết ở cửa Kỳ La (Hà
Tĩnh). Người nước cũng quy phụ Ngự Bắc vương Ngân đóng ở trại
Phù Lan (Mỹ Hào, Hưng Yên). Long Việt lên ngôi, được ha ngày bị
em cùng mẹ Long Đĩnh giết, hưởng linh 23 tuổi, thuỵ là Trung
Tông hoàng đế.
Có thuyết Đại Hành băng, Trung Tông vâng di chiếu lên
ngôi. Long Đĩnh làm loạn. Trung Tông lấy tình cùng mẹ, không nỡ
giết, tha cho. Sau Long Đĩnh sai hung thủ đêm trèo tường vào
trong cung giết Trung Tông. Tình anh em tuy hậu nhưng đáng
phải lấy xã tắc là trọng, trị tội giết đi đứa em bất đễ. Không thế
thì đem giam cấm cho đến chết. Tha tội, bỏ lỏng, khỏi bị giết sao
được? (theo lời sử gia Ngô Sĩ Liên).

LÊ NGOẠ TRIỀU 1005 - 1009 huý LONG ĐĨNH (986 - 1009)


Long Đĩnh giết anh, cướp ngôi mùa đông năm 1005. Trong
nhà vẫn chưa yên, Ngự Bắc vương Ngân và Trung Quốc vương
Kính đóng quân ở Phù Lan làm phản. Long Đĩnh đi đánh, vây trại
vài tháng. Trong trại hết lương, Ngân bắt Kính đem nộp. Kính bị
giết, Ngân được tha. Long Đĩnh lại đi đánh Ngự Nam vương Đinh
ở châu Phong, buộc Đinh phải hàng. Hành Quân vương Minh Đề,
trấn thủ châu Hoan, trước hỏ sang Tông, thấy nước loạn không về.
Bọn Cử Long ở Ái Châu lại làm phản, cướp phá. Long Đĩnh đi
đánh, dẹp được. Năm 1008, Long Đĩnh đi đánh hai châu Đô Lương
và Vị Long vùng Tuyên Quang, bắt được nhiều người và vài trăm
ngựa. Lại đi đánh Án Động (?), rồi Hoan Châu (Hà Tĩnh) và châu
Thiên Liễu (?) đều thắng. Các tù trưởng dân thiểu số hàng phục.
Thời gian Long Đĩnh làm vua, có sự đổi lại quan chế và triều
phục cho các quan ván võ và tăng đạo theo đúng như nhà Tông.
Công sự có việc đào kênh đắp đường từ cửa quan Chi Long qua
Dinh Sơn đến sông Vũ Lung vùng Thanh Hoa. Hoàng tử Minh
Xưống đi sứ sang Tông xin được kinh Đại Tạng.
Thấy bên nước ta loạn, tri Quảng Châu Lăng Sách dâng sớ
xin vua Tông cho đem quân sang đánh, sẽ chiếm được rất dễ dàng.
Tông Chân Tông không nghe. Sau an phủ sứ Thiêu Việp, lần nữa
lại xin đưa quân thuỷ lục sang đánh. Chiến thắng của Lê Đại
Hành năm 981 đã khiến triều đình Trung Quốc e ngại, không dám
90
xua quân đi chinh nam nữa, sỢ lại thua to. Nhưng vua Tông làm
ra vẻ có đức lớn, nói; Đất Giao Chỉ nhiều chướng khí, quân sĩ sang
hay bị cảm mạo ôm chết. Đi đánh nơi này là sự không nên. Lại tỏ vẻ
hông hách, sai người đưa thư sang bày tổ uy đức: Họ Lê là phiên
thần, không thiếu trung thuận. Nay mới chết, chưa có lễ thăm viếng,
đã vội đem quân sang đánh. Như vậy không đáng là đấng vương giả.
Lại truyền anh em không được đánh giết lẫn nhau nữa. Nếu không,
quân triều đình sẽ sang hỏi tội thì không còn sót một mông nào. Bấy
giờ là năm 1006. Mấy hoàng tử trước đó vẫn còn lăm le mưu tranh
ngôi với Long Đĩnh, thấv vậy chịu im.
Năm 1007, vua Tông phong Long Đĩnh làm Giao Chỉ quận
vương lĩnh Tĩnh Hái quân tiết độ sứ và cho tên Chí Trung (!?), đúc ấn
Giao Chi' quận vương, sai Quảng Nam vận chuyển sứ đem sang cho.
Long Đĩnh hoang dâm, lại ngạo ngược quá độ, tính hay chém
giết, thích thú lấy máu người và vật, thường hay tự cầm dao chọc
tiết bò lựn, rồi mới đưa vào nhà bếp. Đi đánh giặc, bắt được kẻ
địch người miền núi, sai làV gậy đánh túi bụi, chúng quá đau kêu
gào chửi rủa, nhiều lần phạm huý vua Lê Đại Hành, mà vẫn lấy
làm thích. Phàm người bị hành hình, hoặc sai lấy cỏ gianh quấn
vào người mà đôt đê cho lửa cháy mà chết, hoặc sai tên kép hát
người Hoa Lưu Thủ Tâm lấy dao cùn xẻo từng mảnh, để cho
không chết chóng. Người bị nạn kêu gào, Thủ Tâm nói: Nó không
quen chịu chết thì lại cả cười. Đi đánh dẹp bắt được kẻ địch, đem
bỏ rọ quăng sông lúc nước triều rút, đợi khi nước triều lên cho chết
ngộp. Hoặc bắt trèo lên ngọn cây cao, rồi chặt góc cho cây đổ,
người rơi xuông chết. Thân đến xem, vui thích khi thấy sự đau
khổ của người khác, lấy làm trò chơi. Có lần qua sông thấy nhiều
rắn, sai trói người vào mạn thuyền đi lại giữa dòng muôn cho rắn
cắn chết. Từng róc mía trên đầu sư Quách Ngang, giả lỡ tay lưỡi
dao trượt xuông đầu sư cho chảy máu, rồi cả cười. Mỗi khi ra chầu,
có ai tấu sớ điều gì cho những thằng hề nói khôi hài hay là nhại
tiếng làm trò.
Vì say đắm tửu sắc, phải bệnh trĩ, không ngồi đư ợc, đ ến buổi
chầu thì cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Ngoạ Triều.
Tháng 10 âl năm 1009, Long Đĩnh chết, làm vua 4 năm,
liưởng linh 24 tuổi.
Lê Long Đĩnh đại nghịch bất đạo, giết anh cướp ngôi, lên làm
vua lại tàn ác quá độ, quân dân trong kinh ngoài cõi đều oán ghét.
Thiền sư Vạn Hạnh và chi hậu Đào Cam Mộc khuyên Lý Công
91
uẩn, người có tài đức, hiện làm Thân vệ tả điện tiền quân chỉ huy
sứ nên lên ngôi thay nhà Lê. Long Đĩnh chết, con Trường Sa đã
được phong vương còn non trẻ. Đàm Cam Mộc họp khanh sĩ các
quan tướng tá tại triều, bàn: Tiên đế hà khắc bạo ngược, trăm họ
khôn khố không chịu nổi, đều chán ghét, không còn muôn theo về
vua nối, mà đều có lòng suy tôn quan thân vệ. Bọn ta lúc này nên
thuận lòng dân, cùng nhau tôn phù Thân Vệ lên ngôi cao. Mọi
người đều hưởng ứng, hô vang vạn tuế cùng nhau dìu Công u ẩ n
lên chính điện, ngồi ngai vàng.

Quốc sử chép sự việc nhvt nói trên. Thật ra phải là một vụ


thoán vị, chứ có đâu Lý Công u ẩ n chỉ thụ động, ông đang nắm giữ
binh quyền, thấy vua tàn ác, dân chúng oán ghét, các thân vương
đóng quân ỏ xa tầm thường thì đây là cơ hội tôt đế tranh quyền
cưốp nước. Bèn thu phục nhân tâm, kết bè đảng với các quan triều,
hậu đãi tướng tá binh sĩ, khiến chúng tôn phù lên ngôi caq^
Tuy cũng là thoán vị, Lý Công u ẩ n không bị chê trách, nhất
là sau này, ông đUa nUớc nhà đến thái bình thịnh trị, Vả lại, giang
sơn đâu phải là cúa tư hữu dòng họ nào. Ai có đức lớn thì được.

TÌNH HÌNH TRONG Nước


DƯỚI THỜI NGÔ, ĐINH, LÊ THẾ KỶ THỨ X
Cuôl thế kỷ IX, nhà Đường bên Trung Quôc suy yếu. Người
nước ta thừa dịp giành quyền tự trị, rồi đi đến dựng nền độc lập.
Họ Khúc, họ Dương còn xưng là tiết độ sứ, chức quan nhà Đường,
đến họ Ngô xưng là vương, họ Đinh mới xưng hoàng đế. Trung
Quốc loạn lạc, quan người Hoa sang ta bất lực, trong nước mạnh
ai người ấy xưng hùng, nắm giữ một vùng lớn nhỏ. Ảy là những
thổ hào vùng đồng bằng, không kể những tù trưởng dân miền núi.
Chính họ Khúc, họ Dương, họ Ngô, họ Đinh cũng là thổ hào địa
phương. Những người có sức mạnh, táo bạo, tụ tập đồ đảng, thiêt
lập lực lượng cát cứ một góc tròi. Khi chính quyền trung ương
vững mạnh thì các địa phương quy phục, tuy vẫn tự trị cõi đất
riêng biệt. Đến khi Tam Dương Kha cướp ngôi vua Ngô, các địa
phương không chịu phục, gây nên nạn Thập Nhị Sứ Quân. Đinh
Bộ Lĩnh anh hùng hơn cả, thông nhất đất nước, lên làm hoàng đế.
Thực sự mới chỉ là lãnh tụ các lãnh tụ địa phương, có tính cách
một tù trưởng lớn. Quản trị liên minh bộ lạc. Đất đai nhà vua trực
tiếp cai trị chưa rộng lớn gì lắm. Đên Lê Đại Hành, anh hùng, phá
*92
Tống bình Chăm, triều đình vững mạnh, muốn tập trung quyền
hành, phong vương cho các con cử đi trấn thủ các địa phương,
giám sát chặt chẽ các thổ hào, tù trưởng. Một sô" lãnh tụ địa
phương khỗng chịu nên phải dùng binh lực đánh dẹp. Từ đấy, ít
còn chê độ phân phong có thế tập, chuyển sang chế độ trung ương
tập quvên. Quan lại địa phương do triều đình bô dụng, có sự
thăng, giáng, thuyên chuyển, cách bãi. Riêng các vùng rừng núi
xa xôi vãn còn những tù trương cẩm quyền, có thế tập.
Vua, lãnh chúa tôi cao quốc gia, là sở hữu chủ sông, núi kê cả
mọi vật trên và trong đất, nước; mọi người sông trên vương thổ
đểu là tôi con, có quyền hành vô hạn định, có thể chém giết người
không qua xét xử. Các tù trưởng Mvíờng, Thái là vua con trong địa
hạt, tuy có nộp phú cống cho triều đình.
Thiền sư nhiều người có học vấn uyên bác. Nhà vua từng
dùng mấy vỊ làm quan văn, thường đê thù tiếp sứ giả nhà Tông.
Các vị sư đưỢc mọi người tôn kính. Vài vị có làm chính trị.
Thứ dân đều làm ruộng hay đánh cá, chưa chia thành bôn
hạng. Rất ít người đi học nên chưa thành tầng lớp sĩ phu: Người
chuyên môn làm thợ hay buôn bán cũng ít. Chế tạo cùng vận
chuyên hàng hoá thường là nghề phụ của nông dân.

KỶ NHÀ LÝ (10 10 -12 2 5 )


LÝ THÁI TỔ 1010 - 1028 huý CÔNG UẨN (974 - 1028)
Niên hiệu: Thuận Thiên 1010 - 1028

Lý Công Uẩn, người làng cổ Pháp, huyện Đông Ngàn, nay là


làng Đình Bảng, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh, thuở đi học, thông minh
đức hạnh, lớn lên vào Hoa Lư cầm quân túc vệ, được thăng dần
đến chức tả điện tiền chỉ huy sứ. Vua Lê Trung Tông bị giết, ông
ôm xác mà khóc. Long Đĩnh khen là trung, gia phong làm Tứ
sương quân phó chỉ huy sứ, sau lại thăng làm Thân Vệ điện tiền
đô chỉ huy sứ. Ông là người công minh dung thứ, khoan hồng
nhân từ, được mọi người, trên từ các đồng liêu, dưới đến binh sĩ
đều phục. Lê Ngoạ Triều mất. Lòng quân dân đều oán ghét nhà
vua ngược ác. Chi hậu Đào Cam Mộc hội trám quan tướng sĩ, tôn
Công ưấn lên làm vua. Sự thay triều đối họ không gặp trở ngại gì
tại kinh thành, cũng như ngoài cõi. Các thân vương cầm quân
trấn thủ nơi xa, không có tài đức và lực lượng lớn, không dám
chông đôi.
93
Họ Lý là cự tộc hào trưởng xứ Tiên Sơn. Lên ngôi, Công uẩn
tôn cha là Hiến Khánh vương, mẹ là Minh Đức thái hậu, phong
anh là Vũ Huy vương, chú là Vũ Đạo vương, con Vũ Huy vương
Trung Hiền làm thái uý. Có thuyết ông là con hoang, làm con nuôi
sư chùa Cố’ Pháp Lý Khánh Vân nên mang ho Lý là bây.
Lên ngôi cuôl năm 1009, cải nguyên là Thuận Thiên, niên
hiệu mới kế từ năm sau 1010. Đại xá thiên hạ. Phong Đào Cam
Mộc là Nghĩa Tín hầu và gả con gái trưởng An Quôc công chúa cho
Cam Mộc. Gia phong chức cho mọi người tôn phù, lưu dụng các
quan lại khác và cho giữ chức cũ. Có việc lập sáu hoàng hậu là
điều không hay.
DỜI ĐÔ VỀ THĂNG LONG - Lý Thái Tổ thấy đất Hoa Lư chật
hẹp, không thê mở mang làm nơi đô hội trung tâm chính trị,
văn hoá và kinh tê được, bèn rời đô ra thành Đại La, Hà Nội bây
giò. Đây là thành cũ của Cao Biền, tiện hình thế núi sông sau
trước, đâT rộng mà bằng phang, chỗ cao mà sáng sủa, dân cư
không khổ vì ngập lụt, muôn vật rất thịnh mà phồn vinh; khắp
nước là nơi hơn cả. Thực là chỗ hội họp của bôn phương, là nơi
thượng đô của kinh sư muôn đồi. Theo truyền thuyết, khi
thuyên vua đến, có rồng vàng hiện lên nên vua mới đối tên Đại
La thành Thăng Long. Đây là hước tiến lớn. Kinh đô Hoa Lư
xưa chỉ là nơi hiểm trở, tiện việc phòng thủ mà thôi. Nay đưa đô
ra nơi khoáng đạt, thuận tiện cho các công cuộc phát triển to lốn
về mọi mặt xã hội nước nhà.
VIỆC CAI TRỊ - Lý lên ngôi, xã thuế khóa 3 năm. Những người
mồ côi, goá bụa, thiếu thuế đã lâu, đều cho tha cả. Phóng thích tù
binh Ngoạ Triều bắt, cấp lương thực, quần áo, thuổc men, cho đưa
về quê cũ. Khiến trong nước những người trôK tránh trở về
nguyên quán làm ăn. Cấp tiền lụa cho các bô lão.
Đổi 10 đạo làm 24 lộ, châu Hoan, châu Ái làm trại. Đổi châu
Cổ Pháp làm phủ Thiên Đức, thành Hoa Lư làm phủ Trường Yên.
Dưới cấp lộ có huyện, hương. Có hạt gọi là phủ, dưới có châu.
Năm 1013, định lệ các thứ thuế:
1 - Chầm hồ ruộng đất.
2 - Tiền thóc vê bãi dâu.
3 - Sản vật núi nguồn các phiên trấn.
4 - Mắm muổi qua các quan ải.
5 - Sừng tê, ngà voi và các hương liệu.
6 - Các thứ gỗ và hoa quả đầu nguồn.
94
VIỆC võ BỊ - Các hoàng tử phải luyện tập võ nghệ cho tinh
thông, được phong tước vương, cầm quân đi đánh giặc. Ai cũng tài
giói dụng hình.
Năm 1025, định hinh làm giáp, mỗi giáp 15 người, dùng một
người làm quản giáp. Định các loại quản giáp, đổi chức hoả đầu
(đội trương) làm chính thủ.
VIỆC SÙNG ĐẠO PHẬT - Lý Thái Tổ rất sùng Phật, lấy nhiều
tiên công ra sửa chữa các chùa chiền đổ nát, đúc chuông khánh
đồng, xây dựng nhiều chùa mới rất lớn, như chùa Chân Giáo ở
trong thành dê tiện ngự ra xem tụng kinh. Rất trọng đãi những
người đi tu, cấp cả ngàn độ điệp cho dân làm sãi. Năm 1018, sai
Nguyễn Đạo Thanh và Phạm Hạc Như sang Trung Quổc thỉnh
kinh Tam Tạng đem về để tại các các, sai người sao lại phát cho
chư tăng các chùa.
Sử gia Lê Văn Hưu chê là hao phí máu mỡ của dân vào việc
vô ích.
VIỆC BÌNH ĐỊNH TRONG Nước - Nạn cát cứ các địa phương xa
vẫn còn. Nhiều tù trưởng chưa chịu quy thuận.
Man ?(Có lẽ là người Mường) Cử Long ở cẩm Thuỷ, Thanh
Hoa từ lâu không chịu phục tòng trung ương. Dưới triều Đinh,
triều Lê, vua quan đi đánh dẹp, tuy có thắng nhưng một khi quân
triều rút, chúng lại trở về tung hoành như trước, hung hăng dữ
tỢn cướp phá. Lý Thái Tổ, ngay năm 1011, thân đem quân đi
đánh, đôt hộ lạc, hắt kẻ đầu sỏ đem về, giặc ấy mới tắt.
Năm 1012, thân đi hình định châu Diễn, giết hại nhiều.
Năm 1013, người châu VỊ Long (Chiêm Hoá, Tuyên Quang)
làm phản, liên lạc với Man (Thái, Nùng ở nước Đại Lý, Nam Chiếu
cũ), cướp phá vùng Cao Bằng, Tuyên Quang. Lý Thái Tổ lại thân
đi đánh. Tướng giặc Hà Trắc Tuấn thua chạy vào núi rừng.
Nám 1014, các tướng Man Dương Trường Huệ và Đoàn Kính
Chí đem 20 vạn người (e có quá đáng) vào cướp, đóng đồn ở bến
Kim Thoa, dàn bày quán đinh, gọi là trại Ngũ Hoa. Hoàng tử Dực
Thánh vương đi đánh, chém hơn vạn đầu, bắt được quân lính và
ngựa vô sô.
Năm 1015, lũ Hà Trắc Tuấn lại quấy phá nữa. Dực Thánh
vương và Võ Đức vương đi đánh các châu Đỗ Kim, Vị Long,
Thường Tân. Bình Nguyên (đất Cao Bằng, Hà Giang, Tuyên
Quang ngày nay), bình định đưỢc miền này, bắt sốhg thủ lĩnh
Trắc Tuấn, đem vê kinh chém.
95
Nám 1020. có người Champa sang quấy nhiễu ỏ. châu Bô"
Chính (nam Hà Tĩnh, Quảng Bình). Khai Thiên vương và Đào
Thạc Phụ đi đánh, chém được tướng Chăm Bồ Tánh, người Chăm
chết quá nửa.
Năm 1022, Dực Thánh vương đi đánh hộ lạc Đại Nguyên
Lịch người Di (Thái), quân đi vào sâu trại Như Hồng đất Tông, đôt
kho vựa rồi về.
Ngoài ra, còn có các vụ quân triều đi đánh mây tù trưởng;
Khai Thiên vương đánh châu Phong, Khai Quô"c vương đánh châu
Đỗ Kim năm 1024, Khai Thiên vương đi đánh giặc ở châu Diễn
năm 1026. Cùng Khai Thiên vương đi đánh châu Thái Nguyên,
Đông Chinh vương đi đánh châu Văn (Thất Khê) năm 1027.
I^ý Thái Tổ hình định xứ sở, khiến các tù trưởng xa gần quy
thuận triều đình, nộp phú công nhưng khi đặt quan giám trị có
hĩnh lực đê kiểm soát chúng thì đôi khi vẫn còn sự lộng hành đi
đến phản động.
VIỆC NGOẠI GIAO - I^ý Thái Tổ, ngay từ năm 1010 sai viên
ngoại lang Lương Nhậm Văn và I^ê Tái Nghiêm sang Tông giao
hảo. Bấy giờ nhà Tông đang gặp nhiều khó khăn ở phương hắc,
dân Khiết Đan thành lập nước Liêu đánh phá; dân Thát Đạt
(Tahgatch) vùng Cam Túc Ninh Hạ (nước \jý đời Đường) chông đốì
đòi ly khai (sau dựng nên nước Tây Hạ), nên không sinh sự lôi thôi
gì với nước ta về sự thav triều đối họ. Tống Chân Tông phong vua
làm Giao Chỉ quận vương lĩnh Tĩnh Hải quận Tiết độ sứ. Năm 1016.
gia phong làm Nam Bình vương. Việc hang giao với nhà Tôhg được
tô"t đẹp. Sử chép sứ giả hai hẽn đi về luôn, không nói cống phẩm gồm
những gì, mỗi thứ hao nhiêu, một hay nhiều năm dâng một lần, chỉ
nói có khi thắng giặc Man (Thái, Nùng) hắt được nhiều ngựa, cho
đem 100 con sang hiến. Vua Tông từng bắt trao trả lũ tội phạm đi
trôn. Có lẽ công phẩm đơn giản gồm những sản vật quý của ta. Nhà
Tông chang hùng mạnh gì, chắc không đòi hỏi nhiều.
Về việc hang giao với nước Champa, có sự kiện năm 1011,
nước ấy dâng sư tử (?) có lẽ là cá sâ\i. Khi ấy, kinh đô Champa đã
đưa về Phật Thệ nay là làng Nguyệt Bầu, huyện Hương Thuỷ,
Thừa Thiên. Năm 1020, có người Chăm sang cướp trại Bô" Chính,
bị đánh đuổi. Chừng như hấy giò, vua Champa không chịu phục
nhà Lý, có sự giao dịch vối nhà Tông.
Sử có chép các năm 1012, 1014, 1020, 1025, 1026 có nước
Chân Lạp sang công.
96
Thời xa XLía, ở phía nam nước ta, sau nước Hồ Tôn là tiền
thân nước Champa, có nước Phù Nam gồm cả phía tây sông Mê
Công. Khoảng thế kỷ thứ VI, ngưòi Cờ Me (Khmer) xây dựng nên
nước Chân Lạp trên đất Campuchia và xứ Nam Kỳ ta ngày nay.
Phần khác là nirớc Xích Thô, ngưòi sắc tộc Thái. Khoảng thế kỷ XI,
XII, Xích Thô’ lại chia ra làm hai: một là La Hộc, một là Xiêm
(Tiêm). Về sau nước La Hộc gồm được cả nước Xiêm (Tiêm), mới gọi
là Xiêm (Tiêm) La Hộc. Vua Trung Quốc Minh Thái Tổ phong là
nước Xiêm (Tiêm) La, nay là nước Thái Lan.

LUẬN VỀ VUA LÝ THÁI T ổ - Năm 1028, Lý Thái Tổ khuất, thọ


55 tuổi, làm vua 19 năm, an táng tai Thọ Láng.
Lý Thái Tổ thay nhà Lê trị vì thiên hạ. Tuy là vụ tranh ngôi
nhưng thay vua ngưỢc ác, lại có công đưa nước nhà tiến đến thái
bình thịnh trị, là người có nhiều tài đức nên không bị ai chê trách
về sự thoán đoạt. Cũng đáng kê là bậc vua hiền.

LÝ THÁI TÔNG 1028 - 1054


huý PHẬT MÃ (1000 - 1054)
N iên h iệu : Thiên Thành 1028 - 1033,
Thông Tuỵ 1034 - 1038,
Càn Phù Hữu Đạo 1039 - 1041,
Minh Đạo 1042 - 1043,
Thiên Cảm Thánh Vũ 1044 - 1048,
Sùng Hưng Đại Bảo 1049 - 1054.

ĐỊNH LOẠN TÂM PHÚC - Lý Thái Tổ vừa khuất, ba thân vương


Vũ Đức, Dực l ’hánh và Đông Chinh đem quân phủ về vây kinh
thành, mưu tranh ngôi đáng về thái tử Phật Mã. Nội thị Lý Nhân
Nghĩa cùng các quan xin đem quán ra đánh, giữ gìn đạo công, dứt
tình yêu riêng. Bọn vệ sí mỏ cửa thành ra đánh mạnh. Vũ vệ
tướng quân Lê Phụng Hiếu giáp chiến rứt gươm hô; “Bọn Vũ Đức
vương ngấp nghé ngôi háu, không coi tự quan vào đâu, trên quên
ơn tiên đế, dưới trại nghĩa tôi con. Phụng Hiểu x in . dâng nhát
gươm này”. Rồi xông thang đến chém Vũ Đức vương. Phủ binh ba
vuơng thua chạy, quan quân đuối đánh chém giết. Đông Chinh và
Dực Khánh chạy thoát được.
Thái tử Phật Mã, con trưởng Thái Tổ, lên ngôi vua. Ảy là vua
Lý Thái Tông. Đại xá thiên hạ, lấy tiền lụa trong kho ra ban
97
thưởng gia phong quan tước cho Phụng Hiểu và mọi người có công
trừ nghịch, cắt đặt lại các quan triều, đặt giai phẩm tăng đạo.
Đông Chinh và Dực Thánh xin về chịu tội. Vua tha, lại cho
tước như cũ. Hai vương xấu hổ, không ở lại triều, xin cấp đất
hoang để khai khẩn thành điền trang tự phụng lưu truyền con
cháu. Sau các người đi khai khẩn hoang thò hai vương này làm
thánh sư.
Khai Quốc vương đóng quân ở Trường Yên, cậy có núi sông
hiểm trở, thu nhặt những kẻ trôn tránh cướp bóc dân mọn. Đến
khi nghe tin Vũ Đức bị giết, lòng hất bình, làm phản. Thái Tông
thân đi đánh Trường Yên. Quân sĩ đều nghiêm, không xâm phạm
của ai mảy may. Khai Quốc vương xin hàng. Vua vào thành. Dân
chúng dâng trâu rượu đầy đường. Khai Quốc vương được tha tội,
đưa về Thăng Long, giữ chức cũ.
Do có sự phản nghịch, vua nhà Lý lập lệ hàng năm, tháng tư,
các quan phải đến đền Đồng cổ, xã Yên Thái, nay là làng Bưởi
ngoại thành Hà Nội, làm lễ, đọc lời thề rằng; “Làm con phải hiếu,
làm tôi phải trung. Ai bất hiếu, bất trung, xin quỷ thần tiêu diệt”.
Các quan ai trôn không thề bị phạt 50 trượng.
VIỆC ĐÁNH DẸP TRONG NƯỚC - Lý Thái Tông nhân từ, trí tuệ,
đĩnh ngộ, tinh thao lược, chăm chú việc binh bị, tổ chức quân đội
hùng mạnh. Bấy giờ, nạn phân liệt vẫn còn tại miền trung và
thượng du. Các châu mục, thổ tù, người phục ngưòi không. Họ
quản binh miền rừng núi, có quyền thế lớn, thường hay phản
nghịch. Thái Tông phải thân chinh đánh đông dẹp bắc.
Kê ra, đôi vối các tù trưởng, không phải các vua nhà Lý chỉ
dùng uy vũ mà khuất phục. Đê’ thắt buộc họ, Thái Tổ’ và Thái
Tông từng đem các công chúa, công tôn nữ, gả cho các lãnh chúa
Mường, Thái. Tuy vậy, triều dinh vẫn phải tiễu trừ lũ làm phản.
Năm 1029, dân giáp Dãn Nài, châu Ái làm phản. Thái Tông
thân đi đánh, chiến thắng rồi rồi kiến dân đào kênh nơi đây. Năm
1031, đi đánh châu Hoan. Người châu đều hàng, vua tha tội cho
các mục thú, sai sai trung thứ vỗ yên dỗ bảo nhân dân. Năm 1033,
đi đánh châu Định Nguyên và châu Chấn Đáng (miền Yên Bái,
Phú Thọ) dẹp được. Năm 1035, đi đánh châu Ái, trị tội châu mục.
Năm 1037, đi đánh đạo Lũng Tây, sai Khai Hoàng vương đi đánh
các châu Đô Kim Thường Tân Bình Nguyên, đều dẹp yên được cả.
Riêng có họ Nùng ở miền Cao Bằng quật cường, việc chép ở sau.
Năm 1041, điện tiền chỉ huy sứ Đinh Lộc và Phùng Luật mưu
98
phản, bị bắt giêt. Năm 1042, châu Văn làm phản. Khai Hoàng vương
đi đánh, không phá được. Năm 1043, Phụng Càn vương đi đánh, dẹp
yên. Đồng thời, Khai Hoàng vương đi đánh châu Ái, cũng thắng. Từ
đấy, tình thê mới yên. Năm 1050, còn có người động Vật Dương miền
tây bắc Cao Bằng làm phản, sớm bị dẹp yên.
CÁC VIỆC CHÍNH TRỊ, LINH TINH - Lý Thái Tông, tuy phải đi
đánh dẹp luôn, vẫn không bỏ việc chính trị trong nước, bao giờ
cũng đê lòng thương dân. Những năm mất mùa đói kém, đem của
kho chẩn cấp cho dân nghèo và miễn thuế cho họ. Mỗi lần thắng
lớn khi đi đánh giặc về, xá thuế hay giảm thuế hàng 2, 3 năm.
Thường sửa sang đường giao thông thuỷ bộ, đặt nhà trạm để chạy
giấy công văn. Trong cung hậu phi 13 người, ngự nữ 18, nhạc kỹ
100. Đặc biệt có việc mượn người dạy các cung nữ học dệt gấm vóc,
đem phát gấm vóc của nhà Tống trong kho may áo ban cho các
quan, tỏ lòng vua không thích dùng hàng tơ lụa Trung Quốc. (Ngô
Sĩ Liên bàn: Trong việc này, trong cái tốt, còn có cái tốt hơn nữa:
không quý của lạ, tỏ ra giữ đức kiệm ước. Ban cho các quan, tỏ ra
hậu đãi kẻ dưới).
Trước Thái Tổ thường tự mình xét xử việc kiện tụng. Thái
Tông cũng theo như thế. Từ năm 1040, giao thái tử Khai Hoàng
vương xét đoán tâu lên mà xem xét lại. Thái Tông sửa định luật
hình. Trước kia, trong nước việc kiện tụng, nhiều quan giữ việc
hình câu nệ, khắc nghiệt; thậm chí có những vị bị oan uổng, vua
lấy làm thương xót, sai trung thứ sảnh định luật lệnh châm chước
cho thích dụng với thòi bấy giò, chia ra môn loại, điều khoản, làm
ra sách Hình luật. Sách luật ban ra, dân lấy làm tiện. Bấy giờ là
nàm 1042. Đây là bộ luật đầu tiên của nưốc ta, nay không còn
truyền lại. Chừng như bộ luật này không được hoàn đầy đủ lắm
nên Thái Tông và các vua Lý sau thường hạ chiếu bô túc, như cho
người già, trẻ, được chuộc tội bằng tiền, trừ khi phạm tội thập ác;
cấm mua hoàng nam (dưới 18 tuổi) làm nô; cấm làm thịt trâu bò;
các tội ăn trộm lúa, mạ, nhất là trộm trâu bò bị trừng phạt rất
nặng đê bảo vệ nông dân sản xuất. Hình phạt thời bấy giờ, ngoài
sự đánh trượng, có tội trộm phải chặt ngón tay ngón chân. Tội
phản nghịch phải xé thịt băm xương.
Lý Thái Tông cũng tôn sùng Phật, hay xây chùa, đúc chuông
nhưng không nhiều lắm. Trong thòi gian ông làm vua, có xây
dựng chùa Diên Hựu, tức chủa Một Cột, Hà Nội, là một công trình
mỹ thuật độc đáo.
99
VIỆC NGOẠI GIAO - Việc bang giao với nhà Tông tốt đẹp. Năm
1029, sứ giả Chương Đình sang làm lễ điếu tang. Cũng năm ấy,
Tông Nhân Tông phong Thái Tông làrh Giao Chỉ quận vương.
Năm 1038, gia phong làm Nam Bình vương. Nhà Tông bấy giò đã
suy yếu. Phương bắc bị người Liêu, người Tây Hạ đánh phá. Đổì
với ta vẫn còn là nước lớn. Sử không chép về công phú ra sao
nhưng chắc chắn chỉ sơ sài thôi. ĐVSKTT có chép năm 1034,
người châu Hoan dâng con thú một sừng, vua sai Trần ứng Cơ và
Vương Văn Khánh đem biếu vua Tông; năm 1042, Đỗ Khánh và
Lương Mậu Tài đem voi sang dâng vua Tống để tiếp tục sự thông
hiếu cũ.
Nước Chân Lạp sang cống các nám 1033, 1039.
ĐVSKTT chép: Năm 1048, vua sai tướng Phùng Chí Năng đi
đánh Ai I.,ao, bắt được người và súc vật rất nhiều đem về. Sự kiện
này đáng ngờ. Tự nhiên vô cớ sang chi nước núi cao rừng rậm ấy. Có
thế đây chỉ là đi đánh quân Ai Lao sang cướp phá vùng Ái, Diễn.
VIỆC ĐI ĐÁNH NƯỚC CHĂMPA - Sau năm 1011 đòi vua Thái Tổ,
Champa không hoà hiếu với nước ta, giao dịch với nhà Tông, mưu
sự chông đôl vua Lý. Lại có sự người Chăm dùng thu 3^ền nhỏ sang
cướp phá vùng ven biển. Quốc sử chép: Năm 1039, con vua
Champa Địa Bà Lạt cùng Lạc Thuấn, Sạ Đẩu, La Kế, A Thát Lạt
năm người quy phụ nước ta. Năm 1040, người coi trạm Bố Chính
nước Champa là Bô" Linh, Bô" Kha, Lan Đà Tinh đem bộ thuộc hơn
trăm người sang quy phụ.
Thái Tông giận Champa không chịu thuần phục, nạp phú
cống từ lâu nhưng hơn mười năm sau khi lên ngôi, còn bận việc
bình định trong nước, chưa tính đến Champa. Năm 1043, mới
quyết ý đi đánh, sửa soạn binh thuyền, lương thực đi chinh nam.
Năm 1044, Thái Tông thân đem quân đi đánh. Trên đường
nam tiên gặp nhiều thuận lợi, sóng gió vên. Vua Chăm đem quân
và voi bày trận ở bờ bên nam sông Ngũ Bô" (thuộc Quảng Nam
ngày nay) chông lại quân ta. Thái Tông sai quân bỏ thuyền lên bộ,
đem quân sĩ đến bờ sông bên bắc, gặp quân Chăm đã giàn ở bên
sông. Quân ta hăng hái tắt ngang sông đánh mạnh. Quân Chăm
tan vỡ, hàng 3 vạn hình hị giết, bị bắt sông 5000 người và 30 voi.
Tướng Chăm Quách Gia Di chém quốc vương Sạ Đẩu đem dâng
nộp, xin hàng. Người Chăm bị chết hại quá nhiều. Thái Tông ra
lệnh: Kẻ nào còn giết bậy người Chăm sẽ bị giết không tha. Thái
Tông tiên quân vào thành Phật Thệ, bắt được vương phi Mỵ Ê và
100
các cung nữ, con hát đom về, sai sứ đi khắp các thôn ấp phủ dụ
nhản dân. Khi xa giá về đến hành điện Lỵ Nhân, Thái Tông cho
gọi Mỵ E sang hầu thuyển ngự. Nàng phẫn uất, lấy chăn quấn vào
mình, nhay xuông sông chết. Vua khen là trinh tiết, phong làm
Hiệp Chính Hựu Thiện phu nhân. Nay ở phủ Lý Nhân có đền thờ.
Sau cho 5000 tù hình Chăm đến ghép theo hộ thuộc từ trấn Vĩnh
Khang đến châu Đằng, vùng Nghệ An, đặt hương ấp, phỏng theo
danh hiệu cũ nước họ.
LUẬN VÊ VUA LY THÁI TÔNG - Năm 1054. Lý Thái Tông khuất,
hương thọ 55 tuổi, làm vua 27 năm.
Tài trí thao lược, Lý Thái Tông đã bình định thông nhất đất
nước, tạo nên nền trung ương tập quyền, chấm dứt nạn phân liệt,
cũng đáng kẻ là hậc vua tôt. Ngô Sĩ Liên chê ông mê hoặc thuyết
từ bi đạo Phật, tha tội cho hạn thân, lòng nhân thành ra nhu nhơ.
Người khác lại cho thê là hay.

NÌINí ; TRÍ CAO


Vùng Cao Bằng, í>ạng Sơn. thổ dân là người sắc tộc Thái
(Tày), có tù trương họ Nùng. Vua Lý Thái Tổ phong Nùng Tồn
Phúc trị nhậm châu Tháng Do, em Nùng Tồn Lộc, châu Vạn Nhai,
em vỢ Dương Đạo, châu Vù Lạc. Năm 1038, Tồn Phúc hất mãn với
nhà Lý, giết hai em, (diiếm đất, xưng là Chiêu Thánh hoàng đế,
đặt nước Trường Sinh, đắp thành, luyện quân, không nộp phú
còng cho vua Lý Thái Tông. Năm 1039, Thái Tông tự làm tướng,
thân chinh đi đánh, đến châu Quảng Nguyên. Tồn Phúc nghe tin,
đem cả bộ lạc vỢ con trôn nấp vào nơi núi thẳm. Quân Lý đuối
đánh, hắt đưực bọn Tồn Phúc, Trí Thông (Nha Nam vương, con
Tồn Phúc) 5 người, dem về kinh, làm tội chém. Sai quân san
phang thành hào, chiêu dụ người Nùng, Thái về an cư. A Nùng,
Nùng Trí Cao, vỢ con Tồn Phúc chạy thoát được.
Năm 1041, Nùng Trí Cao cùng mẹ A Nùng từ động Lôi Hoà
nay thuộc Quảng Tây, trơ về chiếm cứ châu Thảng Do. tự xưng là
vua nước Đại Lịch. Thái Tông cử quân tướng đi đánh, bắt sông
đưực Trí Cao đem về kinh sư. Thái Tông biết rõ việc cai trị người
d^hái phái dùng người Thái, mà dân Thái vùng này vẫn tôn trọng
họ Nùng nên không giết Trí Cao, lại cho về giữ châu Quảng
Nguyên, phụ thêm cho 4 động Lôi Hoả, Bình, An, Đà (thuộc Cao
Bằng) và châu Tư Lang (Trùng Khánh). (Không phải vì thương
tình cha và anh đã bị giết như sử chép).
101
Tình hình tạm yên đvíỢc ít lâu. Nàm 1044, Trí Cao về chầu
vua ỏ Thăng Long, đưỢc làm thái hảo. sử gia Lê Văn Hưu chê
Thái Tông nhân nhu, theo đạo Phật, quên nghĩa lớn của nhà vua,
thả hổ về rừng. Điều này e không đúng.
Năm 1048, Trí Cao lại làm phản, nổi dậy chiếm động Vật Ác,
tây bắc Cao Bằng. Thái Tông sai thái Quách Thịnh Dật đi đánh.
ĐVSKTT chép Trí Cao hàng. Theo truyền thuyết giữa các người
Thái thì Trí Cao xin hoà với Thịnh Dật, bảo đừng đánh, hứa sẽ
không mỏ' mang bò cõi trên đất vua nhà Lý, mà chỉ đánh chiếm
sang đất Tông.
Sau Trí Cao quay sang đánh Tông, chiếm đất An Đức, dựng
nước Nam Thiên. Được các người cùng sắc tộc Thái ở Lưỡng
(ịuảng theo phò, nhất là thổ hào cùng họ Nùng Trí Trung, Nùng
Kiến Hậu liên kết, Trí Cao tiến đánh Ung Châu.
Năm 1052, Trí Cao đem 5.000 quân đánh chiếm trại Hoành
Sơn. rồi tiến vào Ung Châu, giết tri châu Trần Cung, tự xưng là
Nhân Huệ hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Nam, niên hiệu Khải
Lịch, phá nhà tù, tha tù nhân, mở kho phát thóc cho dân, rồi đánh
thêm các châu khác ở Quảng Đông, Quảng Tây, tiến đánh thành
Quảng Châu. Riêng đánh nơi đây, vây thành 50 ngày, không hạ
đưỢc. Lại vào châu Ung, giết binh sĩ TôAg 3.000 người, bắt sống
nhân dân kẻ có hàng vạn. Đi đến đâu, đốt phá trụi. Các tướng
Tông: Dụ Tĩnh, Dương Điền, Tôn Miện đều bị đánh thua. Các
châu Hoành, Quỳ, Cung, Tầm, Đằng, Ngô, Khang, Đoan đều do
quân sĩ Trí Cao kiêm soát. Thê quân đội Trí Cao lên mạnh. Triều
đình nhà Tông lấy làm lo. Tông Nhân Tông toan sai vua Lý đem
quân sang đánh giúp. Bắc sử chép vua Giao Chỉ xin đem quân
sang tiễu trừ họ Nùng. Đại tướng Địch Thanh can: Có một Nùng
Trí Cao mà đất Lưỡng Quảng không chê được, lại phải nhò đến
quân ngoại quốc đánh giúp. Nếu ai có nhân đó mà nổi loạn thì làm
thế nào? (Sự thực, nếu nhờ quân nhà Lý đánh Trí Cao, thì dù bên
nào thắng, Trung Quôc cũng thua thiệt, mất đất). Bọn Dư Tĩnh
đánh không được. Nhân khi Nùng Trí Cao dâng biểu xin lĩnh chức
tiết độ sứ châu Ung và châu Quỳ, vua Tống nhu nhược đã toan
thuận cho. Địch Thanh không chịu, nhất định đem quân đi đánh.
Tông Nhân Tông phong Thanh làm tuyên phủ sứ đô đại đề cử, tóm
cầm tiết việt đi đánh. Năm 1053, Địch Thanh dẫn quân nam tiến,
hỢp quân vối bọn Dư Tĩnh và Tôn Miện, đóng ở Tân Châu (Liễu
Châu, Quảng Tây). Thanh là tướng giỏi, nhiều kinh nghiệm, hội
102
các tướng lại, cấm không cho ra đánh nhau với giặc. Kiểm hạt
(ỉuảng Tây Trần Như trái tướng lệnh, đi đánh bị thua, Thanh
đem chém, rồi truyền lệnh cho quân nghỉ 10 ngày. Trí Cao nghe
tin tưỏng là quân Tông không dám đánh, kém phòng giữ. Thanh
đem quân đến cửa Côn Lôn (gần phủ Nam Ninh) đánh Trí Cao.
Lúc đang đánh nhau, Thanh đem quân kỵ đánh hai bên tả hữu,
quân Trí Cao tan vỡ, tướng là bọn Hoàng Sư Mạt đều tử trận, với
thủ hạ 57 người. Quân Tông đuổi theo giết 2.200 người. Trí Cao
đ(ứ thành trôn đi đêm được thoát, sai Lương Châu xin với bên ta
cứu viện. Chỉ huy sú' Vũ Nhị đem quân đến. Trí Cao vẫn không
tiến đánh được. Thanh lại tiến đánh phá luôn. Trí Cao thất thế, chạy
sang nước Đại Lý mà dân cùng sắc tộc Thái. Vua Đại Lý phần sỢ
nhà Tông phần e ngại Trí Cao anh hùng, có thể sẽ tranh quyền cướp
nước mình nên lừa hắt giết Trí Cao. chặt đầu đóng hòm cho đem
dâng vua Tông. Đô giám Tiêu Chú đi theo đường Đặc Ma (Vân Nam)
đánh úp, bắt được mẹ Trí Cao là A Nùng đem giết.
Quôc sử cũng như Bắc sử chép Nùng Trí Cao khi bị quân
Địch Thanh đến đánh thì sớm bị thua, nhưng theo thần tích cùng
lòi truyền tụng giữa người Thái Cao Bằng, thì quân Nùng Trí Cao
từng vây khôn bọn Địch Thanh trong nhiều tháng, triều đình nhà
Tông xôn xao, phải huy dộng đại binh gần toàn lực đi cứu viện,
đưa cá những người vỢ goá tướng tá và các trẻ vị thành niên (!) đi
dự chiến. Sau nhiều quân ngoài đánh vào, quân trong đánh ra nên
Nùng Trí Cao mới thua. Việc này có thể thực. Sách truyện Ngủ Hồ
binh nam ke Trí Cao có tà thuật buộc chân quân đội Địch Thanh
bất động trong thòi gian dài cả năm.
Trong khi quân đội Trí Cao và quân đội Tông đang cầm cự
nhau, vua Lý có cho đem quân lên đóng ở gần biên giới. Đến khi
'l'rí Cao cầu viện, quân ta sang giúp thì đã muộn. Có nhiều người
Thái Cao Bằng ngày nay vẫn tiếc rằng giá bấy giò quân đội nhà
Lý tích cực giúp đỡ Trí Cao, cùng nhau chông quân Tông chang
hùng mạnh gì thì Trí Cao có thế dựng nên một nước người Thái,
làm nước đệm giữa Đại Việt và Trung Quốc.
Sau khi Trí Cao hị diệt, quan quân nhà Lý thu hồi đất cũ.
Công cuộc khỏi nghĩa của Nùng Trí Cao tuy thất bại nhưng
đã từng làm cho triều đình nhà Lý bên ta và triều đình nhà Tông
bên Trung Quôc lo ngại. Đốì với nhà Lý cũng như nhà Tông, Nùng
Trí Cao là giặc nhưng đối với các người sắc tộc Thái (Tày), ông lại
là một vị anh hùng từng làm vẻ vang cho giông nòi, có mưu đồ gây
103
dựng nên một nước người Thái, ly khai với Đại Việt, nhưng lại là
dồng minh. Điều dáng khen nhất của ông là đã không phụ Lý
Thái Tông tha chết, không dánh chiêm trên đ<ất Đại Việt, mà tá(3
bạo dám tranh cường với nước lớn Trung (ịuôc.
ơ Cao Hẳng nay còn có đền thò Nùng Trí Cao. Quốc dân sắc
tộc 'rhái (Tày) rất tôn sùng vị anh hùng này.

LÝ THẢNH TỔNG 1054 -1072 huý NHẬT TÔN (1023 - 1072)


Niên hiệu: Long Thuỵ Thái Bình 1054 - 1058,
Chương Thánh Gia Khánh 1059 - 1065,
Long Chương Thiên Tự 1059 - 1067,
Thiên Huống Bảo TưỢng 1068,
Thần Võ 1069 - 1072.

Năm 1054, thái tử Nhật Tôn, con trương Thái Tông lên ngôi,
tục hiệu vua Lý Thánh Tông.
Đổi quôc hiệu là Đại Việt, hỏ tiêng Cô nôm, dồng nghĩa với
Đại cũng là to lớn.
ĐỨC Đ ộ VUA LÝ THÁNH TÔNG - Thánh Tông là vua nhân từ. có
lòng thương dân. Năm 1055, tháng 10 âl, tròi rét lắm, Thánh Tông
báo các quan tả hữu; “Trẫm ở trong cung có lò sưởi, áo lót cừu còn
rét, nghĩ thương tù phạm giam trong ngục, chưa biết ngay gian,
cơm không no. áo không kín mình, giỗ rét khổ thân, lỡ có chết
không đáng tội, thật là thương tâm”. Vậy hạ lệnh cho hữu ty phát
chăn chiêu và mỗi ngày hai lần phát cơm. Lại một hôm, năm 1064
ra ngự xử kiện, có công chúa Động T'hiên đứng hầu hên, Thánh
'Pông chi’ vào công chúa bảo ngục lại rằng: “Lòng trẫm yêu dân
cùng như yêu con vậy. Hiềm vì dân chúng ngu dại, làm càn phải
tội. Trẫm rât thương xót. Từ nay về sau, không cứ nặng nhẹ, đều
khoan giảm”.
Vì vua nhân từ nên trăm họ đều mên phục, trong khi ngài ơ
ngôi, ít có giặc giã.
VIỆC CHÍNH TRỊ - Các vua trước chăm lo việc bình định. Đến
đời vua Thánh Tông, các thổ tù không còn ai ngang ngạnh nữa,
đều quy phục triều đình. Nước đưực thái bình. Thánh Tông mở
mang văn học, xây dựng Văn Miếu, đắp tượng Khổng tử, tứ phối
và thất thập nhị hiền, khuyên khích người đi học. Văn học nho
phát triển bắt đầu từ đấy. Việc này đư ợc các sử gia nhà nho cực
lực khen ngợi.
104
Thánh Tông cũng sùng Phật, có dựng vài ngôi chùa lớn mới,
xây đắp tháp Bầo Thiên 12 tầng, cao 20 trượng.
Thánh Tông rât chú ý đến việc hình bị, định quân hiệu, chia ra
làm tả, hữu, tiền, hậu bôh bộ, hỢp lại là 100 đội, mỗi đội có lính kỵ và
lính bắn đá. Những phiên binh thì lập ra thành đội riêng, không cho
lẫn với nhau. Binh pháp có tiếng được người Hoa khen ngợi.
Về việc hình án, hô dụng đô hộ phó sĩ sư, đối thư gia làm án ngục
lại, cấp htơng hổng hậu cho nhân Hên tư pháp để giữ thanh liêm.
Các năm mất mùa, phát thóc và tiền lụa trong kho để chẩn
cấp cho dân nghèo.
VIỆC NGOẠI GIAO - Việc bang giao với nhà Tông êm ả . Năm
1055, Tông Nhân Tông phong Thánh Tông làm Giao Chỉ quận
vương. Nám 1067, Tôhg Anh Tông gia phong Khai phủ nghi đồng
tam ty, rồi lại gia phong làm Nam Bình vương.
Các năm 1059, 1060, có sự xích mích ở biên giới. Quan quân
ta hắt lính trôA sang Trung Quốc, tràn vào đất Tông bắt quân lính
trâu ngựa đem về. Nhà Tông không kiếm chuyện lôi thôi. Việc
đưỢc dàn xếp êm đẹp.
Nước Champa các năm 1055 và 1063 sang cống. Lần sau
dâng voi trắng.
Nước Chân Lạp năm 1056 sang công.
Năm 1'066, có lái buôn Trảo Oa (Chà Và) dâng ngọc châu dạ
quang giá tiền 1 vạn quan.
Năm 1067, có nước Ngưu HôLg (?) và Ai Lao dâng vàng bạc,
trầm hương, sừng tê, ngả voi và các thứ thổ ngơi.
VIỆC ĐI ĐÁNH LẤY ĐẤT CHAMPA - Lý Thánh Tông đã nhân lại
dùng. Nước Champa có tiến công nhưng không thường xuyên, vẫn
cứ giao dịch với nhà Tông mưu chôAg lại ta, người nước ấy lại hay
sang cướp phá miền ven hiển. Năm 1069, Lý Thánh Tông thân
đem quân sang đánh. Lần đầu, đánh mãi vô công, đem quân trở
về. Đến châu Cư Liên (?) nghe người khen nguyên phi giám quốc,
trong nước được yên trị, nhân dân tôn sùng gọi bà là Phật hà
Quan Ảm, tự nghĩ người đàn bà trị nước còn được, mà mình thì đi
chinh nam không nên việc. Thế đàn ông mà hèn kém ư? Bèn đem
quân trơ lại đi đánh nữa. Lần này đại thắng, bắt được vua Chăm
Chê Củ và dân chúng 5 vạn đem về. Chê củ và quan lại Chăm xin
dâng ba châu Đại Lý, Ma Linh và Bô" Chính (Quảng Bình và bắc
Quảng Trị ngày nay) để chuộc tội. Lý Thánh Tông bằng lòng cho,
tha Chế Củ về nước. Nám 1071, dâng lễ công.
105
LUẬN VỀ VUA LÝ THÁNH TÔNG - Năm 1072, Lý Thánh Tông
băng, làm vua 17 năm, thọ 50 tuổi.
ĐVSKTT chép: Vua (Lý Thánh Tông) kế thừa, thực lòng
thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về ngưòi
xa, vên ủi người gần, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang
việc văn, phòng bị việc võ, trong nước vên tĩnh, có thể gọi là hậe
vua tốt. Song nhọc sức dân xây tháp Báo Thiên, phí của dân làm
cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém.
Ỷ LAN PHU NHÂN - Lý Thánh Tông năm 40 tuổi chưa có con
trai, đi chơi khắp các chùa quán. Xe vua đi đến đâu, trai gái xô
nhau đến xem không ngớt. Duy có một người con gái hái dâu cứ
đứng tựa vào bụi cỏ lan. Vua trông thấy lạ, cho đưa vào cung. Cô
được vua yêu quý, phong làm Y Lan phu nhân. Năm 1066, sinh
hoàng tử Càn Đức. Hôm sau lập làm thái tử, phu nhân thăng làm
thần phi. Năm 1068, sinh hoàng tử Minh Nhân vương.
Trong khi Thánh Tông đi đánh nước Champa, thần phi giám
quốc, trị nưốc có phép tắc, dân chúng thái bình, an cư lạc nghiệp,
coi bà là Phật sông.
Thần phi người hương Thố’ Lôi. Năm 1068, cải làm hương
Siêu Loại, nay thuộc phủ Thuận Thành, Bắc Ninh.

LÝ NHÂN TÔNG 1072 - 1127 huỷ CÀN ĐỨC (1066 - 1127)


N iên h iệu : Thái Ninh 1072 - 1075,
Anh Võ Chiêu Thắng 1076 - 1084,
Quảng Hửu 1085 - 1091,
Hội Phong 1092 - 1100,
Long Phù 1101 - 1109,
Hội Tường Đại Khánh 1110 - 1119,
Thiên Phù Duệ Võ 1120 - 1126,
Thiên Phù Khánh Thọ 1127.

Năm 1072, thái tử Càn Đức, con trai trương Thánh Tông, lên
ngôi, tục hiệu vua Lý Nhân Tông, mới 7 tuổi. Đích mẫu thái hậu
Dương thị buông màn nghe chính sự, sinh mẫu thái phi Ý Lan
cùng thái sư Lý Đạo Thành phù tá. Trong thời gian Nhân Tông
làm vua lâu dài hàng 56 năm, có chiên tranh với nhà Tôhg và việc
đi đánh Champa quan trọng. Ngoài ra trong nước tương đôl yên
tĩnh. Các thổ tù đều quy thuận triều đình, chỉ có mấy vụ lôi thôi
nhỏ, bị xẹp ngay. Trong triều, văn có Lý Đạo Thành, Lê Văn
106
Thịnh, Mạc Hiển Tích, võ có Lý Tlníòng Kiêt, tài giỏi giúp vua.
Cũng đáng kế là thịnh thời.
LINH NHÂN HOÀNG THÁI HẬU - Ỷ Lan thần phi, khi con nôì
ngôi, được tôn là Linh Nhân hoàng thái hậu. Linh Nhân tính ghen,
bất bình việc Dướng thái hậu nhiếp chính, bắt giam Dương thái hậu
và 76 thị nữ vào ngục tôì, rồi đem giết cả. Thực là tàn ác. (Về sau,
thấy Nhân Tông không có con, hốì hận, phát tiền kho nội phủ chuộc
những con gái nhà nghèo đã bán đợ mình, đem gả cho những người
goá vự. Lại dựng chùa thờ Phật trước sau hơn cả trăm sơ đê sám hối
và rửa oan cầu siêu cho các người bị giết ngày trước).
LÝ ĐẠO THÀNH - L ý Đ ạo T h àn h là người tôn th ấ t, tín h đoan
ch ín h , làm th á i su' phụ ch ín h N h ân T ông thời còn nhỏ, h ế t lòng lo
việc nước. N h ữ n g lúc sớ tấ u , h ay nói đến việc lợi h ại c ủ a dân.
Q u an th u ộ c th ì chọn người hiền lương c ấ t n h ắ c lên để làm việc.
Thời bấy giờ, tro n g sử a sa n g việc ch ín h trị, ngoài đ án h n h à Tôhg,
phá quân C h ăm . N hờ tôi hiền tướng giỏi nên mới th à n h đưỢc công
nghiệp th ịn h trị.
CÁC VIỆC SỬA SANG TRONG Nước - Tuy có bận về công việc
đánh dẹp, mọi việc chính trị trong nước không bị bỏ trễ.
Bấy giờ mới hắt đầu đắp đê Cơ Xá để giữ kinh thành khỏi
ngập lụt. Việc đắp đê khơi đầu từ đó.
Việc học hành mơ mang khởi thuỷ từ thòi Thánh Tông, nay
phát triển thêm nhiều. Tầng lớp nho sĩ bắt đẩu thành hình. Trong
việc kén chọn người làm quan văn, triều đình ít còn dùng các nhà sư.
Năm 1075, mở khoa thi minh kinh bác sĩ và thi nho học tam trường,
lấy người có văn học ra làm quan. Khoa thi đầu tiên này lấy được 10
người. Lê Văn Thịnh đỗ đầu, cho vào hầu vua học. Năm 1076, lập
Quốc tử giám, bổ những người có văn học vào dạy. Năm 1086, mở
khoa thi chọn người tài bổ làm quan trong Hàn Lâm viện. Mạc Hiển
Tích trúng tuyển được bố’ Hàn Lâm học sĩ. Nho học nước ta khởi đầu
thịnh lên từ thòi bấy giờ. Bản thân Lý Nhân Tông cũng hay cũng
hay làm thơ và bài minh khắc vào chuông chùa.
Lý Nhân Tông nhiều lẩn hạ chiếu định rõ thêm về hình phạt
các tội trạng. Rất chú ý đến việc bảo vệ nông nghiệp. Tội trộm
trâu phải trừng trị râT nặng, xử 100 trượng, phạt 1 thành 2. Cấm
ngặt mổ trâu bò trộm, phạm tội xử 80 trượng, đồ làm khao giáp,
vỢ xử 80 trượng, đồ đi phục dịch trong quân đội. Tổ chức 3 nhà
làm một bảo, không được giết trâu của mình ăn thịt. Ai làm trái bị
trị tội.
107
Năm 1089, đặt quan chế, các chức văn võ, tụng quan (quan
theo hầu vua) và tạp lưu, chia ra làm 9 phẩm. Đại thần có thái sư,
thái phó, thái uý và thiếu sư, thiếu phó, thiếu uý. Dưới các bậc ấy,
văn ban có thượng thư, tả hữu tham tri, tả hữu gián nghị đại phu,
trung thư thị lang, bộ thị lang. Võ han có dô thông, nguyên suý,
tổng quản khu mật sứ, kim ngô thượng tướng đại tướng, đô tướng,
chương vệ tướng quân. 0 ngoài châu quận, văn có tri phủ, phân
phủ, tri châu. Võ có chư lộ trấn trại quan.

CHIẾN TRANH VỚI NHẢ TốNG


NHÀ TỐNG CHUẨ n - Lý Nhân Tông lên ngôi
bị s a n g x â m l ă n g
năm 1072, sai sứ sang Tông cầu phong. Năm 1073, Tông Thần
Tông phong vua làm Giao Chỉ quận vương. Nhưng không vì thê
mà nước ta được yên ổn với phương bắc.
Từ giữa thê kỷ X, dân ta quật cường khôi phục độc lập, thoát
khỏi ách đô hộ của người Hoa. Chỉ vì nước nhỏ nên các vua Đinh, Lê
rồi Lý còn phải xưng thần nạp công với vua Trung Quốc, chịu phận
làm nước chư hầu. Nhưng người Hoa. nhất là triều đình Hoa thường
vẫn coi nước ta làm một qưận của họ, tuy có phong vương cho vua ta,
mà vẫn nuôi ý tưởng lập lại nền đô hộ, trực tiôp thống trị dân ta như
dưới các triều Hán, Điíờng. Gặp cơ hội thì đem quân sang đánh chiếm.
Nhà Tông hưng thịnh trong thế kỷ X. Qưa thê kỷ sau suy kém, mà
ngưòi Hoa vẫn còn mơ tưởng lập lại nền đô hộ, dù rằng đã bị Lê Đại
Hành gây cho họ nhiều lo âu. Tướng Địch Thanh, sau khi bình đưỢc
Nùng Trí Cao, muốn thừa thắng sang đánh nước ta. Tông Nhân Tông
không ưng, do đang cần dùng binh lực chống đỡ ỏ phương bắc.
Giữa thê kỷ XI, nhà Tông suy yêu. Hai nước Liêu, Hạ trỗi
dậy, hùng cường, sách nhiễu hàng năm cung đôn nhiều vàng hạc
vái lụa. Trung Quôc bị khánh kiệt, kho tàng trông rỗng. Để gõ rôi
cho tình trạng khó khăn, Tông Thần Tông mưu sự đánh Giao Chi.
Thắng nước giầu có lớn này, sẽ chiếm đoạt được nhiều của cải.
Binh sĩ lại phấn khởi, có thế chông chọi thắng lợi ở miền hắc.
Trong khi đang gặp khôn quẫn về cả quân sự, xã hội, chính
trị và kinh tế tài chính nguy ngập, tể tuớng Vương An Thạch dặt
ra phép mới mưu sự ôn định tình thế. Tân pháp có 3 phép về tài
chính và 2 phép về binh chính.
v ề tài chính, có:
1 - Phép thanh m iêu: Khi lúa còn xanh, nhà nước cho dân vav
tiền, đến khi lúa chín, dân trả lại tiền vay, lãi theo quy định.
108
2 - Phép miễn dịch: Cho người phải sưu dịch nộp tiền, chính
quyền lây tiền ấy thuê người làm.
3 - Phép thị dịch: Đặt ra sơ buôn, chính quyền thu mua của
dân những hàng hoá không hán được ngay, cho nhà buôn cầm tiền
vay tiền với lãi nhẹ.
v ề binh chính, có:
1 - Phép bảo giáp: Lấy dân làm lính. Chia 10 nhả làm một
báo, ÕOO nhà làm một đô bíio. Mỗi híio đặt hai người chánh phó
dạy dân võ nghệ.
2 - Phép hảo mã: Chính quvền giao ngựa cho các hảo phải
nuôi, đê con nào chết thì phải hồi thường bằng tiền.
Thi hành năm phép cái cách này, rất có lợi cho nhà nước về
kinh tế và quân sự, nhưng lại bất lợi cho giới dịa chủ. thương gia
lớn, người cho vay lãi nên chúng oếin giận, cho là trái với chê độ và
phong tục cũ. Thực hiện tân pháp gặp khó khăn. Trong triều có
bọn Tư Mã (ịuang phản dôi kịch liệt.
Đê gỡ rôì cho tình trạng khó khàn về mọi mặt, Vương An
Thạch nói với vua Tống sai quân sang xâm lược nước ta. Chiến
thtắng quân sự ở phương nam cổ vũ tinh thần tướng sĩ, tăng khí
thế đôi với Liêu, Hạ. Diệt được Giao Chỉ, háo cáo cho người Thiểm
Tây hiết. Quân dàn Thiêm Tây sẽ có thắng khí, nuôt tươi Tây Hạ.
Hạ thua thì còn ai dám quấy nhiễu Trung Quốc nữa. Khi tình
hình quân sự đã được giả qưyết thì khó khăn về kinh tê, tài chính,
chính trị, xã hội sẽ bớt đi. Vương An Thạch muốn lập công ở ngoài
biên thuỳ để tỏ công hiệu việc cai tổ của mình.
Tri châu Ung Tiêu Chú biết ý An Thạch, làm sớ tâu: “Nếu
không đánh lày Giao Chỉ thì về sau thành ra mọi điều lo cho
Ti ung Quôc”. Vua Tỏng sai Tiêu Chú kinh lý việc nam chinh. Chú
từ chôi, nói không kham nôi việc khó. Bày giờ có Thẩm Khởi trình
hàỵ mọi lẽ nên đánh. Vua Tông cho Khơi làm tri châu Quế, cùng
với Lưu Gi sửa soạn mọi việc tiên binh. Triều đình TôKg tổ chức
những căn cứ xâm lược, tăng cường lực lượng quân sự ơ hiên giới,
cử quan lại hiêu chiên và am hiểu tình hình nước ta đến cai trị
miền nam, tích trữ lương thực, sửa sang hinh khí, chuẩn bị
thuyền xe. ra sức nắm dân và tù trưỏng các bộ tộc miền biên giới,
sai -sứ sang dụ người Champa và Chân Lạp đánh vào miền nam
nước ta khi (lUcân Tông tiên và Chân Lạp đánh vào miền nam nước
ta khi quân T(3ng tiến vào miền bắc. Lưu Gi sai người đi biên các
khe ngòi, các động, đặc biệt mua chuộc các thổ hào tù trưởng
109
người Thái bên ta theo về chúng. Lại cấm ngưòi ở châu huyện gần
đi lại buôn bán với dân Giao Chỉ. Tình hình dư đồ nước ta, chỗ
hiểm chỗ bằng, lôì quanh, lôi thẳng, đường lôi nào gần thuận tiện,
đường lôl nào xa quanh co, chúng đều thông hiểu cả. Bấy giò là
năm 1075.
CÔNG CUỘC TẤN CÔNG VÀO ĐẤT TỐNG - Triều đình nhà Lý
thấy sự tình như thế, viết thư sang hỏi triều Tông thì Lưu Gi giữ
lại, không đệ về kinh.
Bên ta, triều đình biết rõ mưu đồ đen tôl của nhà Tông, từ
lâu đã chuẩn bị kháng chiến tự vệ, lại quyết tâm chủ động đôl phó
bằng phương pháp tích cực. Lý Thường Kiệt, tướng nắm binh
quyền, cột trụ của triều đình, hàn: “Ngồi im đợi quân giặc đến mới
đánh, không bằng ra quân trưóc, chặn thế mạnh của giặc. Đây là biện
pháp phòng ngự tích cực nhất”. Triều đình tán thành chủ trương ấy,
huy động một sô" lớn quân đội (ĐVSKTT chép 10 vạn người) cử Lý
Thường Kiệt tổng chỉ huy, tướng Tông Đản làm chức phó, đi đánh
Tốhg. Trong đạo quân này có một sô" khá quan trọng người miền núi,
do các tù trưởng sắc tộc Thái cầm đầu. Hai đạo lục thuỷ quân cùng
tiến vào đất Tống, lấy cớ Vương An Thạch đặt ra phép mới làm khố’
trăm họ. Quân Đại Việt sang để cứu nhân dân.
Cuôl thu năm 1075, toán quân đầu tiên của ta xâm nhập đất
Tông, Tông Đản và bọn Lưu Kỳ dẫn quân các châu biên giới, tràn
sang đánh vào các trại cổ Vạn, Vĩnh Bình, Thái Bình, Hoàng Sơn
chiếm các cứ điểm của Tông ở dọc biên giới, lại tiến sang các châu
Tây Bình và Lộc. Quân đóng gần biên giới Khâm Châu cũng kéo
sang đánh các trại Như Hồng, Như Tích, Đề Trạo. Câ"m quân do
Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy đi thuyền dọc bờ biển vào cửa
sông tấn công Khâm Châu, Liêm Châu, lấy luôn hai châu này
cách nhau 3 ngày. Các ngả nhằm vào ưng Châu (nay là Nam
Kinh, thủ phủ Quảng Tây). Tiến sâu vào nội địa Tông, quân ta
không gặp sức đề kháng nào đáng kể. Lý Thường Kiệt và Tông
Đản hội quân vây hãm Ung Châu. Thành này có 5 vạn dân, do
tướng Tô Giám với 2.800 quân chông giữ. Quân viện từ Quế Châu
do Trương Thủ Tiết chỉ huy bị quân ta chặn đánh ở Côn Lôn. Thủ
Tiết và nhiều tướng khác bị giết. Quân sĩ Tông bạc nhược bỏ chạy
cả. Sang năm sau (1076), vua Tông cử Triệu Tiết làm An Nam đạo
hành doanh mã bộ quân đô tổng quản chỉ huy đạo quân tiến
xuông phía nam cứu Ung Châu và đánh vào Giao Chỉ. Quân Triệu
Tiết chưa kịp lên đường thì Ung Châu đã thất thủ. Quân ta vây
110
hãm Ung Châu suốt 43 ngày. Tô Giám, tri Ung Châu cố giữ không
chịu hàng, chồng bao đất trèo lên thành. Thành bị hạ. Giám cho
gia thuộc 36 người chết trước, chôn xác vào hô", xong rồi tự đốt
chết. Người trong thành, cảm ơn nghĩa, không một ai chịu hàng,
58.000 người đành chịu chết. Cộng với số người bị giết ở các châu
Khâm, Liêm và nơi khác, có đến hơn 10 vạn người. Thành Ung Châu
là cứ điểm vững chãi mà Vương An Thạch quả quyết là bất khả xâm
phạm vẫn bị quân Lý chiếm sau hơn 40 ngày vây hăm và đánh nhau
kịch liệt. Lý Thường Kiệt sai phá thành luỹ, lấy đá lấp sông ngăn
ngàía quân 4’ông tiến xuông theo đường thuỷ. Rồi tiếp tục tiến đến
Tân Châu, đốt phá các kho lương thực vùng Tả Giang.
Sau khi các mục tiêu chiến lược của cuộc hành quân đã đạt
được, Lý Thường Kiệt cho toàn bộ quân sĩ rút về nước, mang theo
nhiêu người Hán ba châu bị bắt đưa về, trong sô" ấy có mấy chục
thợ làm đồ bát đĩa đồ sứ. (Bọn này sau được đặc biệt ưu đãi để
truyền nghê cho người bản xứ. Nhiều lò bát được dựng lên ở đất
Hà Đông và Thanh Hoá ngày nay dùng họ làm việc).
Anh hương công cuộc bắc phạt của Lý Thường Kiệt rất lớn;
Phá huỷ hết tháy các căn cứ quân sự nhà Tông ở miền biên giới,
khiến cho mọi sự sửa soạn của chúng từ trước mất hết thảy, không
còn gì. Cuộc tiến công đi xâm lược phải hoãn lại một thòi gian dài.
Lại khiến tinh thần quân đội chúng đã bạc nhược càng thêm bạc
nhược. Quân ta lại chiêm được nhiều vũ khí, lương thực. Tinh
thần quân đội phấn khơi, sau này sẵn sàng hăng hái chiến đấu
bảo vệ Tồ quô"c. Các thố tù dân thiểu sô", có người chân trong chân
ngoài từ đây quy thuận hẳn về triều đình ta. Thắng lợi quân sự
đưa đến thắng lợi chính trị, kinh tê".
Bên Tông, Vương An Thạch phải từ chức. Binh lực chúng còn
lớn nên vua quan họ chưa chịu bỏ mộng xâm lăng nước ta.
QUÂN TỐNG SANG XÂM LẢNG N ư ớ c TA - Nhà Tô"ng đang chuẩn
bị đem quân sang đánh nước ta, lại bị quân ta sang đánh phủ đầu
những trận ác liệt. Chúng muôn phục thù ngay từ khi Ung Châu
còn bị vây hăm. Tông Thần Tông sai Tuyên Phủ sứ Quảng Nam
Quách Quỳ làm Chiêu thảo sứ đô tổng quản, Triệu Tiết làm phó,
cùng 9 tướng từng dày dạn chiến đấu với quân Liêu, Hạ dẫn 10
vạn binh sĩ, 1 vạn ngựa, 20 vạn dân phu sang đánh nước ta. Một
mặt lại sai Lý Hội và La Xương Hạo mang sắc thư, thuôc, khí
dụng và lụa sang tặng vua Champa và vua Chân Lạp, dụ chúng
đem quân cùng đi đánh nước ta. Chiếu dụ có nói; Chiêm Thành
111
(Champa) và Chân Lạp từ lâu bị Giao Chỉ cướp. Nay vương sư
sang đánh Giao Chỉ để phạt tội. Champa và Chân Lạp nên thừa
cơ hội, hiệp lực mà trừ nó. Đồng thời lại sai Đào Bạt, Khúc Chân
đem bằng sắc xuôLg miền hiên giới chiêu dụ các tù trưởng dân tộc
thiểu sô" người Thái theo về Tông, để chia rẽ thê lực quân ta.
Bên ta. ĩjý Thường Kiệt, sau khi rút quân về nước, tích cực
chuẩn bị phòng ngự, tăng cường tập luyện quân sĩ, tổ chức các
phòng tuvến kháng địch, củng cô những đất mới chiếm của
Champa đề phòng việc bị tập kích nơi biên giới phía nam.
Nửa cuôl năm 1076, quân Tông xâm nhập vào đất nước ta,
chiếm trại Ngọc Sơn. Yên Đạt đánh vào châu Quảng Nguvên
(Quảng Yên, Cao Bằng), vỊ trí chiến lược quan trọng. Quách Quỳ
kéo đại quân qua Nam Quan, đánh vào ải Quyết Lý, chiếm Quảng
Lăng (Òn Châu, Lạng Sơn). Cánh quân chiêm châu Quảng
Nguyên do Khúc cầu chỉ huy đánh xuông châu Môn. Mặt dông,
quân Tông chiếm châu Tô, châu Mậu (giáp giới hai tỉnh Cao Bằng,
Lạng Sơn). Phò mã Thân cảnh Phúc giữ ải Quyết Lý bị đánh
thua, rút vào rừng hoạt động tập kích giặc.
Sang năm 1077, quân Quách Quỳ tràn xuông Phú Lương
(đáy là địa hạt nay là huyện Phú Lương thuộc tỉnh Thái Nguyên,
chứ không phải Phú Lương tức hạ lưu sông Hồng), rồi tiến xuông
đến sông Như Nguyệt (sông cầu, khúc xĩx Như Nguyệt, huyện Bắc
Ninh). Lý Thường Kiệt đem quân chặn đánh, giặc chết trong trận
hơn ngàn người. Quân Quách Quỳ đóng ở bên phía tây sông, lập
phòng tuyến dài 60 dặm (30 km) từ bến Như Nguyệt đến núi
Nham Biền. Bờ bên kia là đại quân của ta. Lý Thường Kiệt cho
đắp luỹ tre và đất đầy ở dọc sông, tạo nên chiến tuyến ngăn đường
quân giặc tiến về đồng bằng uy hiếp kinh thành Thăng Long.
Mặt biển, một đoàn thuỷ quân chuẩn bị không chế binh
thuyền giặc đi vào đất liền hỢp quân với bộ binh tấn công quân ta.
Thuỷ quân giặc do Hoà Mâu và Dương Tùng Tiên chỉ huy vừa mới
mon men đến bờ hiển nước ta đã bị Lý Kế Nguyên chặn đánh thua
nhiều trận chỉ vất vưởng ở ngoài khơi.
Không có thuyền, Quách Quỳ lúng túng về phương tiện qua
sông. Quân Tông chặt gỗ làm máy bắn đá sang như mưa. Nhiều
thuyền của ta bị thủng nát, binh sĩ chết hại tới vài ngàn. Đê giữ
vững tinh thần quân đội, Lý Thường Kiệt bí mật sai người đêm
vào trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát (tướng của Triệu
Quang Phục có đền thò ở hên sông cầu) ngâm to ràng: "'Nam quốc
112
sơìì hà. Nơm đê cư, Tiệt nhiên định phận tại thiên thư, N hư hà
nghịch lỗ lơi xâm phạm ỉ N hữ đẳng hành khan thủ hại hứ '. Dịch
nghĩa: Sông núi nước Nam. vua Nam ở, cõi hò ngàn cách tự sách
trời. Cỏ chi quân giặc sang xâm lấn? Thất bại bay xem sẽ đến nơi.
t^uân lính nghe mấy câu ấy. ai nấy đều nức lòng đánh giặc.
Quách (ịuỳ hai lần sai bắc cầu phao đóng hè cho quân sang
sông tấn công v<ào tràn tuyên của ta nhưng cả hai lần đều bị thất
bại nặng nề. Quách Quỳ thất vọng, chỉ còn giữ thê thủ. Quân ta
mớ cuộc phản công lớn. đánh sâu vào trận tuyến địch. Hai hoàng
thân Hoằng Chân và Chiêu Văn chỉ huy thuỷ quân tử trận.
Nhưng hên địch cũng bị tiêu diệt sinh lực quá lớn.
Sau đó, quân ta và quân Tông đóng ở hai bên sông cầm cự
nhau, chiến sự kéo dài hàng tháng. Bọn Quách Quỳ lâm vào cảnh
khôn đôn, đã không dánh mau, đánh mạnh được chỉ thị của vua
Tôìig. lại lọt vào tình thê lưỡng nan, tiến không được mà lui cũng
không an, không dược tiếp viện binh, lương. Sô" lương thực cạn
dần, hình sĩ rất nhiều người cam lam chướng ô"m chết. Một sô" khác
đào ngũ, chét trận. Số quân còn lại không đến một nửa. Quân đội
hên ta đóng giữ, chiến dấu lâu dài cũng thấy hất tiện. Triều đình
ta cứ biện sĩ Kiều Văn ưng sang Tô"ng điều đình xin hoãn binh.
Vua Tông thuận, ra lệnh cho Quách Quỳ lui quân, do thấy quân đi
chinh nam thất bại liên tiếp. Sau hơn 40 ngày lúng túng, Quách
Quỳ như chết đuối lại được cứu. Quân Tông rút đến đâu, quân ta
theo sát giành lại những đất đã bị đánh chiếm, lấy lại châu Quang
Lang. Bấv giờ là mùa đông năm 1077.
Quân Tông còn chiếm giữ châu Quảng Nguyên, đôi Thuận
Châu và mấv hạt nay thuộc Cao Bằng Lạng Sơn.
Cuộc chiến tranh xâm lược nhà Tông phát động thất bại
nặng nề. khi ra về chỉ còn 23.400 người, 3.174 ngựa, phí tổn 5
triệu lạng vàng. Sách Nhi trình di thư của Chính Thúc chép: 8
vạn phu vận hưmg và 11 vạn chiến binh chết vì lam chướng, còn
28.000 người sông sót về trong đó có nhiều người ô"m. Kê cả sô"
trước bị giết rnấy vạn thì có cá thảy không dưới 30 vạn.
Tốn thất nặng nề trong cuộc nam chinh khiến lực lưựng binh
bị của nhà Tông đã suy yếu càng suy yếu trầm trọng hơn. Liêu Hạ
thấy thê càng uy hiếp đòi hỏi nhiều hơn trưởc.
Còn quân ta táo bạo sang đánh Tông, phá huỷ được nhiều
căn cứ quân sự, lại cướp được nhiều vũ khí lương thực. Tinh thần
binh sĩ phấn khởi, hàng hái chông xâm lăng. Chiến thắng vẻ vang
113
nước lớn càng hun đúc thêm vững chãi ý tưởng tự cường tự trị của
dân nước, dẫn dắt đến chiến thắng của các thế hệ sau.
VIỆC BANG GIAO VỚI NHÀ TỐNG SAU CHIẾN TRANH - Năm 1078,
Đào Tông Nguyên sang sứ Tông, dâng 5 con voi nhà, xin trả các
đất đã chiếm và những ngưòi bị bắt. Bên Tông trả lại tù binh và
các châu Tư Lang, Tô Mậu, cố" giữ lại châu Quảng Nguyên có
nhiều khoáng sản quý và đòi những người bên ta đã bắt.
Đất Quảng Nguyên cải làm Thuận châu, nhà Tông lần khân
không muôn trả. Nơi đây có 3.000 quân Tông ở lại đóng giữ, không
quen phong thổ, phần nửa ô"m chết. Năm 1079, triều đình ta trả
tất cả 221 người Hoa bị bắt trước kia về nước. Nhà Tông mới chịu
trả lại Thuận Châu cho nước ta, tuy vẫn tiếc.
Năm 1084, Lý Nhân Tông sai binh bộ thị lang Lê Vàn Thịnh
sang Tông hàn việc cương giới. Lê Văn Thịnh phân giải mọi lẽ,
nhà Tông trả nốt cho ta mấy huyện còn giữ lại, trước đây tranh
chấp. Từ năm ấy, việc bang giao giữa nước ta và Tông được êm
đẹp, thường có sứ giả đi về.

BẢN Đỏ CHIỀN TRƯỜNG LÝ-TỐNG


Năm 1087, Tông Triêt Tông lên ngôi năm trước, gia phong
Nhân Tông làm Nam Bình vương.
Năm 1118, viên ngoại lang Nguyễn Bá Độ và Lý Bảo Thần
đem biếu nhà Tông hai con tê trắng, đen và 3 con voi nhà. Năm
1122, viên ngoại lang Đinh Khánh An và Viên Sĩ Minh đem voi
nhà biếu vua Tống. Nám 1126, lệnh thư gia Nghiêm Thường và
ngự khct thư gia Từ Diễn đem voi và vàng bạc, sừng tê... sang biếu
vua TôAg. Bấy giò Trung Quốc loạn, người Nữ Chân Mãn Châu
đánh chiêm miền bắc. Đường ngựa trạm và phu trạm chỗ nào
cũng ít. Đoàn sứ giả ta sang đến Quế Phủ thì ty kinh lược không
chịu cử quân lính hộ tôAg, xin sứ giả đem lễ vật về (lệ thường khi
có sứ giả sang Trung Quốc dâng lễ công thì quan Hoa các địa
phương phải cử quân lính đi hộ vệ đưa đến kinh). Nhà Tông đã
suy nhược nhưng đôi vởi ta vẫn còn là nước lớn. Triều đình nước ta
vẫn giao hảo, được tặng lại sản phẩm Hoa như lụa, chè, đồ sứ, đôl
với họ là thường mà ta rất yêu quý. Việc cống hiến gần như đổi
tặng phẩm, mà ta lại có dịp sang Trung Quổc để hiểu biết tình
trạng hên ấy.

LÝ NHÂN TÔNG (tiếp theo)


VIỆC ĐI ĐÁNH CHAMPA - Người Chăm vẫn thường hay sang
cướp phá vùng bờ biển gần biên giới. Nhà Tông trước đây nhận lễ
vật của vua Champa xin che chở đế đôl phó với nhà Lý, không
giúp đỡ được gì. Đến khi sắp sang đánh nước ta, xui Champa tiến
quân đánh ta ở miền nam. Biết thế, Lý Thường Kiệt, năm 1075,
trước khi sang đánh Tông, đã sang đánh Champa để cảnh cáo, vẽ
địa đồ ba châu Chế Củ mới nhường, đổi làm Bô" Chính, Địa Lý, Ma
Linh, chiêu mộ dân đến ở đấy.
Năm 1103, có Lý Giác, người châu Diễn, chiêu tập những kẻ
vô lại, chiếm cứ châu ấy, đắp thành làm loạn. Lý Thường Kiệt đi
đánh. Giác thua chôn sang Champa. Dư đảng bị dẹp yên. Đang lúc
ấy có người Chăm sang cướp phá biên giới. Lý Giác nói tình hình
hư thực nước ta. Năm 1004, vua Chăm Chế Ma Na đem quân sang
cướp, lấy lại ba châu đất cũ. Lý Thường Kiệt đi đánh, phá được
quân Chăm. Chế Ma Na xin nộp trở lại đất ấy.
Quốc sử chép: Champa năm 1112 dâng voi trắng, năm 1117
dâng 3 đoá hoa bằng vàng:. Các năm 1118, 1120 và 1126, sang
cống. Năm 1124, có mấy người Chăm Cụ ông, Ba Tư, Bồ Đà La
sang quy phụ.
115
VIỆC BANG GIAO VỚI NƯỚC CHÂN LẠP - Nhà Tống klii sắp sang
đánh nước ta, xui người nước Chân Lạp đem quân đánh vào miền
nam nước ta. Người Chân Lạp không theo, sử chép: Năm 1118. có
sứ nước này sang chầu. Các năm 1120, 1123, sang công. Năm
1124, có người Chân Lạp Kim Định a truyền cùng 4 gia đồng sang
quy phụ.
VIỆC ĐỐI ĐÃI CÁC TÙ TRƯỞNG DÂN THlỂu s ố - Đến đòi Lý Nhân
Tông trị vì, chính quyền trung ương mạnh mẽ, các thô hào, tù
trưởng trong nước đều quy thuận, không còn sự phân liệt nữa. Có
sự gả công chúa, tôn nữ cho các châu mục đê cơ mi họ. Trong chiến
tranh đánh sang Tông, có các thủ lĩnh dân thiểu sô" Lưu Kỳ, Vi
Thủ An. Thân cảnh Phúc, Hoàng Kim Mãn tham dự.
Biên giới nước ta và Tông có nhiêu nơi không được rõ ràng.
Tù trương dân miền núi khi quy thuận Trung Quô"c. khi quy
thuận vua ta, tuỳ theo quyền lợi riêng và tuỳ áp lực của mỗi bên.
Dưới triều Lý Thánh Tông, có sự kiện các năm 1062, 1064, lũ
Nùng Tông Đán, Nùng Trí Hội dâng đâ"t cho Tông. Bên ta sang
đòi, nhà Tông chỉ trả các động Lôi Hoà. Kê Thành, On Nhuận, còn
châu Ác, châu Vật Dương mất về Tông. Sang triều Nhân Tông,
triều đình dùng mọi cách vừa mềm dẻo. vừa cứng rắn, lôi kéo các
tù trương nơi này trung thành với ta.
Các thô tù vẫn giữ phận làm tôi, nộp phú công, Năm 1119. có
động trương Ma Sa, vùng Hoà Bình Phú Thọ, từ lâu bỏ việc công
hiến hàng nàm. Lý Nhân Tông sai quân đóng thuyền chiến, sửa
binh giáp, thân hành đi đánh, phá tan quân giặc, bắt được động
trưởng Nguỵ Hàng và vài trăm người, lấy đư ợc nhiều vàng, lụa,
trâu. dê. Sai tỳ tướng vào các động dọc biên giới chiêu dụ dân
chúng trôn tránh trơ về yên nghiệp làm án.
Năm 1124, thủ lĩnh châu Quảng Nguyên Mạc Hiền và các hộ
thuộc trốn sang động Cống đất ưng Châu bên Tống. Năm sau, quan
ưng Châu bắt bọn Mạc Hiền, khiến người đến Giang Nam để trao cho
nhận về. Nhân Tông sai trung thư gia phủ Phú Lương đến nhận lĩnh,
xử lưu Mạc Hiền ra châu Nghệ An, vỢ con sung làm quan nỗ.
Cùng nàm 1125, bọn Nùng Quỳnh và Mạc Tất Nhân ở Quáng
Nguyên làm phản. Lễ hộ thị lang Lê Bá Ngọc đi đánh. Chúng bị
đánh thua chạy sang Khâm Châu. Năm 1127, quan nhà Tông ở
Khâm Châu bắt được, đưa trá bên ta.
LÝ THƯỜNG KIỆT - Lý Thường Kiệt người phường Thái Hoà ở
Thăng Long, nhiều mùu lược, tài đại tướng. Sơ bổ làm chức hoàng
116
môn chi hậu chầu Thái Tông, thăng dần đến chức nội thị sảnh đô
tri. Thánh Tông cho làm thái hảo, xét thẩm các lại dân Thanh
Nghệ. Làm tướng tiên phong khi Thánh Tông đi đánh Champa
bắt được Chế Củ, được phong Phụ quốc thái uý Khai quốíc công.
Sau lại có công phá Tông bình Chăm, được phong thái uý. Năm
1105, sau một năm đi đánh Champa lần thứ hai, khuất. Tặng
phong Nhập nội điện đô tri kiêm hiệu thái uý, bình chương quân
quốc trọng sự Việt Quốc công. Có thuyết ông nguyên có tên là Ngô
Tuấn, sinh 1019, dòng dõi Ngô vương, cháu nội sứ quân Ngô
Xương Xí. Cha là Ngô ích Vệ, sau cải là An Ngữ, dạy học, sau làm
quan nhỏ dưới triều Lý Thái Tổ. Thuơ nhỏ theo học hoàng thân Lý
Công An, thành bạn thân với thái tử Phật Mã. Phật Mã lên ngôi,
mến đức, ban quốc tính, đổi gọi là Lý Thường Kiệt. Lại có thuyết
ông vô"n họ Quách tên Tuấn, có công lớn được phong quốc tính.
Phải chăng ông là con thái uý Quách Thịnh Đạt, tướng theo Thái
Tông đi đánh Nùng Trí Cao?
LÊ VĂN THỊNH - Lê Văn Thịnh trúng tuyển khoa thi nho học
tam trường đầu tiên mở nàm 1075, vào hầu văn học vua Nhân
Tông. Năm 1084, đến trại Vĩnh Bình cùng với người Tống bàn việc
cương giới, đòi lại đưỢc thêm đất. Nám 1085, được phong thái sư.
ĐVSKTT chép: Năm 1096, Lê Văn Thịnh mưu làm phản. Vua
ngự ra hồ Dâm Đàm, đi thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi
lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào
rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát, mây mù tan, thấy trong thuyền có con
hô, mọi người sỢ tái mặt, nói rằng nguy lắm rồi. Ngxtời đánh cá Mục
Thận quăng lưới trùm lên con hổ thì ra thái sư Lê Văn Thịnh. Nhân
Tông nghĩ Văn Thịnh là đại thần có công, không nỡ giết, đày lên trại
đầu ở sông Thao, thưởng Mục Thận quan chức và tài vật cùng thực
ấp. Văn Thịnh trước đây có gia nô người nước Đại Lý có phép thuật kỳ
dị cho nên làm ra như thế để giết vua cướp ngôi.
Sử gia Ngô Sĩ Liên bàn: Người làm tôi định cướp ngôi giết
vua được miễn tội chết, thế là sai trong việc hình, lỗi ở vua tin
sùng Phật giáo.

Xét chuyện này vô ]ý, cần phải cải chính. Người muôh thoán vỊ
cần phải nắm giữ vững bịnh quyền, lập bè đảng trong triều ngoài cõi,
không thê chỉ giêt vua mà lên thay thê được. Không thề có việc người
hoá ra hố. Cho rằng có phép lạ ấy thì dễ gì bị lưới quàng lên mình mà
phải xuâ't hiện nguyên hình. Sao không phá lưối mà thoát thân.
117
Việc này chắng qua Lê Văn Thịnh lom khom chèo thuyền.
Trong khi có gió máy, mây mù, Lý Nhân Tông trông gà hoá cuôc,
lầm Văn Thịnh là con hổ, hoảng hô"t kêu cứu. Mọi người quanh đều
sỢ sệt tưởng thật cũng kêu cứu nữa trong khi quá hoảng hô"t, Văn
Thịnh bị oan.
Lý Nhân Tông tha chết cho Văn Thịnh, chẳng phải do lòng
nhân nhu theo đạo Phật, mà chính ông cung nghi ngờ không chắc
là thật sự Văn Thịnh hoá hố hại mình. Vàn Thịnh khi bị bắt oan
tất nhiên cũng phân trần sự việc.

LUẬN VỀ VUA LÝ NHÂN TÔNG - Lý Nhân Tông khuất năm 1127,


hưởng thọ 62 tuổi, làm vua 56 năm. Khi sắp khuất, dặn lại việc tang
thì sau 3 ngày bỏ áo trỏ, thôi thương khóc, việc chôn cất phải kiện
ước, không xây lăng mộ riêng, nên chôn ngay bên tiên đế.
Trong thòi gian Lý Nhân Tông ở ngôi, có công nghiệp lớn lao
phá Tông của Lý Thường Kiệt các năm 1075, 1076, 1077. Bấy giò
Liên Nhân thái hậu (Ý Lan), thái sư Lý Đạo Thành và đại thần
giữ chính quyền, vua mới 10, 11 tuổi. Sau thực sự cầm quyền, ông
có công mở mang nho học, hảo vệ nông nghiệp. Suốt hơn nửa thế
kỷ ít có chiến tranh ngoài việc đánh TôKg, chỉ có 2 lần bình Chăm,
3 lần dẹp nội loạn, đều chóng vánh. Dân nước được hưởng thái
bình lâu dài. Thế mà Nhân Tông vẫn giữ nết kiệm ước, không hề
hoang chơi xa xỉ, kê là điều đáng quý. Lý Nhân Tông cũng là vua tốt.
Lý Nhân Tông không có con, nuôi mấy con các hầu trong tôn
thất, kén được Dương Hoán, con Sùng Hiền hầu, thông minh lanh
lợi sớm, năm 1117 lập làm thái tử.

LÝ THẦN TÔNG 1127 - 1138


huý DƯƠNG HOÁN (1116 - 1138)
N iên hiệu: Thiên Thuận 1128 - 1132,
Thiên Chương Bảo Tự 1133 - 1137.

Tháng 11 âl năm 1127, thái tử Dương Hoán lên nối ngôi, qua
năm sau đổi niên hiệu, tục hiệu vua Lý Thần Tông. Làm vua từ
năm 12 tuổi, Thần Tông được các đại thần Trương Bá Ngọc, Lưu
Khánh Đàm, Dương Anh Nhi giúp việc trị nước. Dưới triều Thần
Tông, nước được yên tĩnh: nội loạn không có. Nhà Tốhg bên Trung
Quốc bị người Kim đánh chiếm miền bắc, không có chuyện gì với
nước ta. Nước Champa, các năm 1130, 1135, có sang côhg. Năm
118
1132, có người Chăm sang cướp phá Nghệ An, bị Dương Anh Nhi
phá tan. Năm 1128, hai vạn người Chân Lạp vào cướp bến Ba Đầu
châu Nghệ An. Thái phó Lý Công Bình đi đánh, bắt được chủ
tướng và quân lính. 700 thuyền lại vào cướp hương Đỗ Gia nay là
huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, quan quân Thanh Hoa và Nghệ An
đánh phá được. Nám 1132, chúng lại sang cướp ở châu Nghệ An,
Dương Anh Nhi phá tan được. Năm 1133, nước Chân Lạp mới chịu
sang công.
Thần Tông tính nhân từ, hay ra lệnh ân xá các tù phạm, trả
lại những ruộng đất đã tịch thu của dân ngày trước. (Ngô Sĩ Liên
bàn: Kẻ có tội cần phải trị,.rộng lượng quá cũng không hay). Quân
lính thì cho đôi phiên, cứ lần lượt sáu tháng một lần, được về làm
ruộng. Như thế việc binh không làm ngăn trở việc canh nông.
Thần Tông rất ưa thích vật lạ, ban thưởng rộng rãi cho các người
đem dâng, là phí phạm tiền công. Có sự phạm tồi tệ năm 1130 hạ
chiếu con gái các quan đợi sau khi chọn vào hậu cung mà không
trúng tuyển mới được đi lấy chồng. (Lê Văn Hưu phê bình là
không xứng đáng làm cha mẹ dân).
Năm 1130, TôAg Cao Tông phong Lý Thần Tông làm Giao
Chỉ quận vương. Bấy giờ nhà Tông đã lui về đóng ở Hàng Châu
thuộc Chiết Giang, gọi là nhà Nam Tông.
Lý l'hần Tông có ý muôn lập người con thứ là Thiên Lộc nôl
ngôi. Ba phu nhân kêu khóc xin lập con đích là Thiên Tộ. Thần
Tông y theo, chỉ phong Thiên Lộc làm Minh Đạo vương.
Năm 1138, Lý Thần Tông khuất, hưởng linh 23 tuổi, làm vua
11 năm.
Lý Thần Tông là vua tầm thường, trị vì trong buổi thanh
bình chỉ được điều không hoang chơi, ít xa xỉ.

LÝ ANH TỔNG 1138 - 1175


huý THIÊN TỘ (1136- 1175)
N iên hiệu: Thiệu Minh 1138 - 1139,
Đại Minh 1140 1162,
Chính Long Bảo ứng 1163 - 1173,
Thiên Cảm Chí Bảo 1174 - 1175.

Năm 1138, thái tử Thiên Tộ lên ngôi, tục hiệu vua Lý Anh
Tông. Bấy giờ, vua mới lên ba, thái hậu Lê thị cầm quyền chấp
chính. Thời gian dài Anh Tông ở ngôi, hay có những vụ đánh dẹp,
119
chiến trận không lớn lắm, trừ đám giặc Thân Lợi. Có Đỗ Anh Vũ
ngang ngược làm xằng, may trong triều còn có tôi tài giỏi như Tô
Hiến Thành, Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Công Tín nên không có biến
chuyến gì diễn ra.
VIÊC CHÍNH TRỊ - Triều đình lưu ý nhiều về việc cai trị dân
miền núi, ân cần đôi đãi các tù trưởng, có mấy vụ gả công chúa,
tôn nữ cho thủ lĩnh Mường, Thái, như các triều vua Lý trước, để
thắt buộc chúng, Thường có quan triều đi thám hỏi dân các khe
động. Rất ít có sự làm phản muôh ly khai.
Việc vệ nông rất được quan tâm. Năm 1142, xuông chiếu cho
người cầm đợ ruộng trong vòng 20 năm được chuộc lại; tranh
giành ruộng đất trong vòng 5, 10 năm còn được tâu kiện; có ruộng
đất hoang bị ngưòi khác cày cấy trồng trọt, trong vòng một nàm
được kiện mà nhận lại. Nám 1143, cấm ngặt mổ’ trâu, bò.
Năm 1149, có thuyền buôn bán các nước Trảo Oa (Chà Và,
tức Java, nay thuộc Inđônêxia), Lộ Lạc (?), Xiêm La vào Hải Đông
(Hải Dương), xin được buôn bán. Triều đình cho lập trang ở hải
đảo Vân Đồn, đế mua bán hàng hoá quý. Vân Đồn nay là đảo Vân
Hải, còn gọi là đảo Lợn Lòi, ở ngoài khơi Quảng Yên. cảng Vân
Đồn sau rất hưng thịnh, bắt đầu từ đây.
Các năm 1156, 1172, lập miếu điện thò Khổng tử.
Anh Tông cũng sùng Phật nhưng chỉ dựng có vài chùa mới,
chỉ thường tu bổ các chùa cũ thôi.
Các năm 1171, 1172, Anh Tông đi tuần ra các cù lao ngoài
biển, xem khắp hình thể núi sông, muôn biết các phiên bang nam
bắc, sự đau khổ của nhân dân và đường đi xa gần, địa giới, vẽ bản
đồ ghi chép phong vật. Quyển địa đồ này nay không còn giữ được.
Anh Tông cũng đê ý nhiều đến việc trị an. Năm 1161, cử Tô
Hiến Thành làm đô tướng. Đỗ Yên Gi làm phó, đem 2 vạn quân đi
tuần các nơi ven biến đê giữ yên bờ cõi xa.
Anh Tông cũng ưa thích vật lạ. Có nhiều người đến dâng để
được ban thưởng hay giảm miễn tội.
GIẶC THÂN LỢI - Năm 1140, có người thầy chùa Thân Lợi tự
xúng là con vua Lý Nhân Tông, chiêu tập bè đảng trong những kẻ
trôh tránh hơn 800 người, chiếm cứ các châu Thái Nguyên, Tây
Nông, Lục Lênh, Thượng Nguyên, Hạ Nông, vùng Thái Nguyên,
Bắc Cạn ngày nay. Năm 1141, xưng là Bình vương, phong các vỢ
làm hoàng hậu, phu nhân, các con làm vương hầu, thủ hạ quan
tước. Lợi hiếp chế người miền biên giới, dân các khe động đều
120
khiêp sỢ. Triều đình cử Gián nghị đại phu Lưu Vũ Xứng dẫn quân
bộ, thái phó Hứa Viên dẫn quân thuỷ, tiến ngược lên đánh. Bị
thua, tướng sì chết quá, Vũ Xứng rút quân về. Thân Lợi tiến quân
đánh chiếm phủ Phú Lương, họp bè đảng cướp kinh sư. Thái uý
Đỗ Anh Vũ đem quân đi đánh. Giặc kéo về trạm Quảng (?), gặp
quân Anh Vũ, đánh nhau to. Quân của Lợi thua chết nhiều. Các
thủ lình châu Vạn Nhai Dương Mục, châu Kim Kê Chu Ái bị bắt.
Lợi chạy thoát được về châu Lục Lệnh. Anh Vũ đi đánh châu Lục
Lệnh, bắt dược đảng giặc hơn 2000 người. Lợi chôn sang châu
Lạng, bị thái phó Tô Hiến Thành bắt được, đóng cũi đưa về kinh
sư. Lợi và đồng mưu 20 người bị xử trảm. Các người khác xử theo
nặng nhẹ. Những kẻ bị hiếp đi theo được tha.
Theo Tông sử thì có người cung thiếp của Lý Nhân Tông sinh
con trai. Nhân Tông không nhận. Khi Thần Tông lập, người con ấy
chạy sang nước Đại Lý, lấy tên là Triệu Trí Chi, tự hiệu Nam
Bình vương. Thần Tông băng, Trí Chi về nước tranh ngôi với Anh
Tông, một mặt giao dịch với suý Quáng Tây xin với vua Tông giúp
đỡ. Vua TôAg từ chối.
Thân Lợi và Triệu Trí Chi chỉ là một người, đã mạo nhận là
con Lý Nhân Tông, ông này không có con, nếu có được củng cô"
thiếp sinh con trai thì rất quý hoá, chứ có đâu lại không nhận.
VIỆC ĐÁNH DẸP TRONG N ư ớ c - Các việc võ bị, luyện tập binh
sĩ, đưực chú ý. Các quan quản giáp và chủ đô tuyển lính phải chọn
trong những hộ nhiều người, không được lấy người cô độc. Thường
có những cuộc hành quân tuần tiễu các khe động vùng biên giới.
Năm 1145, có người Tô"ng là Đàm Hữu Lượng trôn sang
cháu Tư Lang, xưng là vâng mệnh đi sứ để dụ nước An Nam.
Các khe dộng ở hiên giới có nhiều người theo. Hữu Lượng đem
đồ đảng dến cướp châu Quảng Nguyên. Phò mã lang Dương Tự
Minh, văn thần Nguyễn Nhữ Mai, Lý Nghĩa Vinh đi đánh, lấy
được ái Long Đồ, châu Thông Nông (Thạch Lâm, Cao Bằng),
bắt được đồ dảng giặc là bọn Bá Đại 21 người, áp giải giao trả
về Tông. Hữu Lưựng chạy thoát, sau bị quan nhà Tông ở Ung
Châu lừa gọi về, hị bắt.
Năm 1154, người Lão ở Chàng Long miền tây bắc làm phản.
Đỗ Anh Vũ đi đánh, buộc họ phải hàng phục.
Cùng năm ấy, Nùng Khả Lai, thủ lĩnh bọn Sơn Lão ở Đại
Hoàng giang làm phản. Qua năm sau, Anh Tông thân chinh đi
đánh, thắng trận.
121
Năm 1159, Ngưu Hông và Ai Lao làm phản. Tô Hiến thành
đi đánh, bắt được nhiều người trâu ngựa voi vàng bạc, châu báu.
Năm 1163, có bọn lính trốn rủ nhau tập họp thành bày cướp
bóc nhân dân. Phí Công Tín đem 10 vạn quân đi đánh, dẹp yên được.
VIỆC BANG GIAO VỚI NHÀ TỐNG - Năm 1139, Tông Cao Tông
phong Lý Anh Tông làm Giao Chỉ quận vương. Năm 1161, bên ta
dâng vua Tông voi nhà. Tông Cao Tông bảo: Trẫm không ưa thú lạ
làm khó nhọc người xa. Từ nay về sau, bất tất phải đem vật quý
tiến cống.
Năm 1164, Tông Hiếu Tông lên ngôi năm trước, đổi Giao Chỉ
quận vương làm An Nam quôc vương, nước ta thành tên An Nam
bắt đầu từ đấy.
Bấy giò, nhà Tông đã thoát được nạn Liêu, Hạ, hàng năm
sách nhiễu vàng lụa, nhưng lại bị người Nữ Chân Mãn Châu
thành lập nước Kim từ năm 1115, đến năn 1125 đánh chiếm cả
miền bắc Trung Quốc. Người Khiết Đan lập nước Liêu năm 913,
đến năm 1125 bị nước Kim tiêu diệt. Người Lý (Thát Đạt
Tabgatch) lập nước Hạ nám .1032, qua thế kỷ XII vẫn tồn tại (đến
năm 1127 mới bị Mông cổ diệt).
Nhà TôAg đóng đô ở Hàng Châu, suy yếu, được nước ta vẫn
cứ giao hảo, nên rất quý mến vua ta, mỗi khi nhận quà biếu,
thường tặng lại rất hậu chè, lụa, đồ sứ. Sự đổi tên quận Giao Chỉ
làm An Nam quốc là có ý tỏ tình thân thiết.
VIỆC BANG GIAO VỚI Nước CHAMPA - Năm 1152, có người
Chăm Ung Minh Tá Diệp đến xin mệnh cho làm vua nước ấy. Triều
đình cho thượng chế Lý Mông đem 5.000 người phủ Thanh Hoa và
Nghệ An sang Champa lập Ung Minh Tá Diệp làm vua, bị vua nước
ấy là Chê Bi La Bút đánh thua. Mông và bọn Ung đều chết.
Năm 1154, Chế Bi La Bút dâng con gái. Anh Tông nhận, sử
gia Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên chê Anh Tông say nữ sắc, quên
việc lớn.
Các năm 1155, 1164, Champa sang cốhg.
Năm 1166, có người Chăm đến miền 0 , Rí, lấy quân phong
thuỷ (theo ma thuật) vượt biển sang cướp bóc nhân dân ven biển.
Năm 1167, Tô Hiến Thành đi đánh. Vua Chăm sai sứ sang dâng
trân châu và sản vật địa phưng để xin hoà. Từ đấy, giữ lễ phiên
thần, dâng côKg không thiếu.
Đ ỗ ANH VŨ - Đỗ Anh Vũ là em Đỗ thái hậu mẹ đẻ Lý Thần
Tông. Khi Lý Anh Tông mới lên ngôi, Lê thái hậu mẹ đẻ Anh Tông
122
tin dùng cho làm củng cô điện lệnh tri nội ngoại sự. Vua còn trẻ
thơ. c hình sự không cứ việc lớn nhỏ đều uỷ cho Anh Vũ. Anh Vũ
sai vỢ là Tô thị ra vào cung cấm hầu hạ Đỗ thái hậu. Do đó, Anh
Vũ có liên lạc bất chính với Lê thái hậu. Nhân thế lên mặt. ớ triều
đình, to tiếng sai bảo quan lại, ai cũng gờm. Quan triều có bọn Vũ
Đái, Lương Thượng cổ, Đồng Lợi, Đỗ Ât, Nguyễn Dương, Nguyễn
Quốc, Dương Tư Minh, thấy Anh Vũ lộng quyền quá độ, đều lo
mưu trừ đi. Việc không thành, 28 người bị chém đầu, 30 người bị
đày nơi viễn châu, mấy vương hầu bị giáng chức, còn các người dự
mưu khác đều đồ làm điền hoành khao giáp. Riêng Nguyễn Dương
đã sớm tự tử. Trong triều còn các người anh tài, nên Anh Vũ
không dám có ý khác, sau chết năm 1158.
LUẬN VỀ VUA LÝ ANH TÔNG- Năm 1175, Lý Anh Tông khuất,
làm vua 37 năm, hưởng linh 40 tuổi.
Lý Anh Tông chưa phải là vua anh tài nhưng biết chăm lo
cho dân, không hoang chơi xa xỉ, cũng đáng kế là vua khá tốt.

LÝ CAO TÔNG 1175 - 1210


huý LONG CÁN (1173 - 1210)
N iên hiệu-. Trinh Phù 1176 - 1185,
Thiên T ư Gia Thuỵ 1186 - 1201,
Thiên Gia Bảo Hữu 1202 - 1204,
Trị Bình Long ứ n g 1205 - 1210.
(Bản dịch ĐVSKTT của Cao Huy Giu chép là huý Long Trát)

Trước kia con trai lớn Anh Tông, Long Xưởng do Chiêu Linh
hoàng hậu nở sinh, sinh năm 1151, đã được lập làm thái tử. Long
Xưởng vô đạo, thông dâm với quý phi, bị phế làm thứ dân. Con bất
hiếu trị dân làm sao được? Anh Tông lập người con thứ sáu là
Long Cán (Trát) làm thái tử. Khi Anh Tông không khoẻ, hoàng
hậu cô" xin lập Long Xưởng. Anh Tông không chịu, phong Tô Hiến
Thành làm Nhập nội kiểm hiệu thái phó bình chưong quân quốc
trọng sự, tước vương giúp đỡ đông cung. (Ngô Sĩ Liên khen Anh
Tông trong việc bỏ con nọ, lập con kia, không mê hoặc bởi lòi nói
của đàn bà, ký thác được người phụ chính hiền tài). Anh Tông
băng, di chiếu cho Tô Hiến Thành giúp vầy thái tử, công việc nhà
nước nhất thiết tuân theo phép cũ. Chiêu Linh vẫn muôn lập con
mình, dùng hết mọi cách mưu sự phế lập. Dỗ dành mãi, Hiến
Thành vẫn không chịu, mới đem nhiều vàng bạc đút lót cho Lữ
123
thị, vỢ Hiến Thành. Hiến Thành nói: “Ta là đại thần, nhận mệnh
tiên đê giúp vua bé. Nay lây của đút, làm việc bất nghĩa, thì một mai
xuống suôi vàng còn mặt nào trông thấy tiên đễ”. Chiêu ĩãnh vẫn
còn cô ý dỗ dành mãi. Hiến Thành vẫn không chịu. Việc mới thôi.
Triều đình lập thái tử Long Cán (Trát) lên nôl ngôi, tục hiệu
vua Lý Cao Tông. Vua mới lên ba. Thái sư Đỗ An Thuận và thái
uý Tô Hiến Thành phụ chính.
Năm 1178, Chiêu Linh thái hậu ban yến các quan, bảo:
“Hiện nay nước nhà nhiều việc, Champa vô lễ, người Man cướp bóc
ngoài biên giới, mà vua còn thơ ấu. Kế sách không gì hằng lập thái
tử cũ đã lớn tuổi, để quôc tộ tâu được lâu. dân được yên”. Các quan
không chịu. (Sau, năm 1181, Long xừỏng tụ tập bọn gia thuộc nô
lệ, mưu làm phản, không được ai theo).
TÔ HIẾN THÀNH LÀM PHỤ CHÍNH - Tô Hiến Thành lĩnh cấm
Kinh, nghiêm hiệu lệnh, thưởng phạt công bằng, người míớc đều
quy phục.
Tô Hiến Thành làm quan, dưới triều Lý Anh Tông đi đánh
dẹp, lập nhiều công to, bắt được giặc Thân Lợi ở châu Lạng, phá
giặc Ngưu Hống và dẹp yên giặc Ai Lao. Coi giữ việc binh, luyện
tập quân sĩ, kén chọn người tài giỏi làm tướng hiệu. Giỏi việc võ,
lại chăm việc văn, khai hoá việc học hành, dựng miếu thò Khổng
tử, tỏ lòng tôn nho học. Lại đi đánh Champa, vua nước ấy phải xin
hoà. Anh Tông ký thác thái tử Long Cán, ông cương quyết không
chịu làm sự phế lập. Làm phụ chính, ông trị nước có phép tắc, dân
được yên vui. Năm 1197, mất. Khi đau, có tham tri chính sự Vũ
Tán Đường ngày đêm hầu hạ. Gián nghị đại phu Trần Trung Tá ít
đến thăm hỏi. Đỗ thái hậu - thân sinh ra Cao Tông - ra thám, hỏi
ai có thế thay được ông. ông đề nghị Trần Trung Tá. Thái hậu nói
sao không đề cử Vũ Tán Đường? ông đáp; “Nếu hỏi người hầu hạ,
thì xin cử Vũ Tấn Đường, hỏi người giúp việc nước thì xin cử Trần
Trung Tá”.
Tô Hiến Thành không những có tài thao lược, dẹp yên dân
mà thôi, cách thờ vua thực là trung thành. Người đời sau thường
ví ông với Gia Cát Lượng đời Tam Quôh bên Trung Hoa.
CÁC VIỆC CAI TRỊ VÀ LINH TINH - Tô Hiến Thành mất rồi, triều
đình không theo lồi ông dặn lại, cử Đỗ Yên Gi làm phụ chính, Lý
Kính Tu làm đê sư.
Những năm đầu triều vua Cao Tông, trong nước được yên
tĩnh. Năm 1177, có người Chăm sang cướp châu Nghệ An. Tô Hiến
124
Thành đi đánh đuổi được. Nãm 1179, có sự xét lại đức độ, tài năng
và công trạng các quan, theo thứ tự trao cho các chức vụ trị dân,
coi quân, đê cho quan chức không lạm nhũng.
Nám 1185, mỏ kỳ thi sĩ nhân, lấy đỗ bọn Bùi Quốc Thái,
Đặng Nghiêm 30 người.
Về ngoại giao, có sự năm 1186, Tông Hiếu Tông phong Cao
Tông làm An Nam quôh vương. Năm 1182, Xiêm La sang công.
Các năm 1184, 1198, Champa sang công. Năm 1191, Chân Lạp
sang công.
Năm 1184, có nhà buôn các nước Xiêm La, Tam Phật Tề
(Patembang (i Nam Dương quần đảo) vào trấn Vân Đồn, dâng vật
quý, xin ở lại buôn bán. cảng Vân Đồn đưỢc mở mang đón thuyền
buôn các nước.
Sau Đỗ Yên Gi, thái phó Ngô Lý Tín phụ chính 1188 - 1190.
Sau Đàm Dĩ Mông thay thế. Các ông Đỗ Yến Gi, Đỗ An Thuận,
Ngô Lý Tín không có công nghiệp gì lớn, tuy không phạm gì dơ.
Đến Đàm Dĩ Mông thì bàT tài, tàn bạo.
Lý Cao Tông lên làm vua từ thòi thơ ấu, lớn lên trong khi nước
nhà tương đối yên tĩnh, không phải lo âu về việc binh đao nên khi
cầm quyền trị nước, cứ hay đi sàn bắn, chơi hòi, xây cất cung điện,
hắt trăm họ phải phục dịch khổ sở. Tôn thất và triều đình không có
ai người tài giỏi, can ngăn. Nên nước loạn. Buổi đầu chỉ có mấy vụ
nhỏ, càng về sau càng to lớn. Vua tôi không ai lo nghĩ đến việc chính
trị và võ hị, chỉ nhũng lạm, mua quan hán chức, hà hiếp nhân dân,
lấv tiền tiêu xài xa X I. Cơ đồ nhà Lý đố nát.
LOẠN LẠC - Năm 11 8 1 , mất mùa, dân đói to; nhiều người chết.
Trộm cưdp nổi dậy, Ngô Lý Tín làm thượng tướng đem quân thuỷ
bộ đi tuần bắt trộm cướp.
Năm 1183, quân Ai Lao vào cướp. Ngô Lý Tín làm đốc tướng
đi đánh đuổi được.
Năm 1194, các sách Tự Nông, Trịnh, Ô Mễ làm phản. Vương
Nhân Tử đi đánh, thắng vài trận đầu, sau bị thua chết. Năm sau,
Kiến Khang vương Long ích đem 12.000 quân đi đánh họn người
Man. Thủ lĩnh Đinh Vũ, quan lang Đinh Sáng đều hàng. (Họ Đinh
này là người Mường Hoà Bình).
Năm 1192, người giáp c ổ Hoàng, Thanh Hoa làm phản, quan
quân đi dánh dẹp được.
Nán 1198, có Ngô Công Lý, người hương Cao Xá chiêu tập
những kẻ vô lại, cùng với bọn Đinh Khả, Bùi Độ, người châu Đại
125
Hoàng, xưng là con cháu Đinh Tiên Hoàng, đồng thời làm loạn.
Quan quân đi đánh chỉ dẹp được Ngô Công Lý.
Năm 1203, có người Chăm Bô" Trì xưng là vua Champa bị
chúa đuổi đi, sang xin cư ngụ ở cửa biến Kỳ La, muôn cầu cứu.
Sau y đánh giết quan quân Nghệ An, tha sức cướp bóc, rồi về.
Cùng năm ấy Phi Lang và Bảo Lương làm phản ở Đại Hoàng
giang. Trước làm quan nhò, Phi Lang tâu nói các tội mọt nước hại
dân của Đàm Dĩ Mông, bị Dĩ Mông đánh roi. Lòng căm giận, nhân
thấy dân phu bị bắt đi xây cửa Đại Thành cực khố quá, muôn làm
loạn, bèn kêu gọi họ nối dậy chông lại triều đình, ngang nhiên
đóng quân ở Đại Hoàng giang. (Đây là miền châu Đại Hoàng gồm
mấy huyện nay thuộc Nam Định, Ninh Bình, còn bọn Đinh Khả,
Bùi Độ đóng quân ở miền hắc châu này gần vùng rừng núi Nho
Quan, Hoà Bình). Chi hậu Trần Lệ Minh làm nguyên soái, cùng
thượng thư Từ Anh Nhĩ đem quân Thanh Hoa đồng thòi tiến
đánh, bị thua, đều chết cả. Năm sau, Đàm Dĩ Nông và Đỗ Kính
Tu, Đỗ Anh Doãn đi đánh, cũng không được. Năm 1205, thanh thế
Phi Lang càng lớn, đánh chiếm nhiều làng nay thuộc Ninh Bình,
Nam Định. Qua mùa thu năm ấy, Lý Cao Tông chiêu hoà. Phi
Lang chịu hàng phục, nhưng vẫn xưng hùng ở nơi đã chiếm.
Năm 1207, Nguyễn Tự người Mường ở núi Tản Viên, châu
Quốc Oai làm giặc, cướp bóc hương Thanh Oai, bè lũ rất nhiều,
không thế ngăn được.
Cùng năm ấy, Đoàn Thượng, một viên quan nhỏ, được lệnh
đi chiêu mộ người khoẻ mạnh đê bố sung vào đội quân bảo an bắt
trộm cướp, tự tiện làm uy làm phúc, bị bắt giam, vượt ngục, nhóm
họp bè đảng, đắp thành luỹ, xưng vương, đóng quân ỏ An Nhân
(nay thuộc Hưng Yên). Cao Tông sai Đàm Dĩ Mông, Phạm Bỉnh Gi
và Phan Du đi đánh. Thượng kém thế, đút lót cho Du, xin hàng.
Du tâu vua xin gọi Dĩ Mông và Bỉnh Gi về. Do đó, có sự bất bình
giữa Gi và Du.
Ngoài ra, còn có những vụ người Tông vượt biên giới, người
Chăm vào nơi ven biển, cướp phá rồi về.
Thế mà Cao Tông vẫn xây dựng không ngớt, ngao du không
chừng mực, hàng ngày cùng cung nữ vui chơi, không biết rằng dân khổ.
Năm 1208, đói to. Rất nhiều người chết. Trộm cướp nổi lên
như ong khắp nơi.
Phan Du coi việc quân ở Nghệ An làm phản, thu nạp những
kẻ vong mạng, trộm cưốp, chia đi cướp bóc các nơi. Cao Tông sai
126
Phạm Bỉnh Gi đi đánh. Năm 1209, Bỉnh Gi đánh bại Du. Du chạy
sang châu Hồng. Bỉnh Gi tịch thu nhà rồi đốt đi. Du oán hận, đút
lót quan triều tâu vua rằng Bỉnh Gi trái phép. Cao Tông gọi Bỉnh
Gi về, bắt giam cùng với người con là Phụ. Quách Bôh tỳ tưởng của
Bỉnh Gi, đem quân vào nội thành cứu Bỉnh Gi. Cao Tông giết cha
con Bỉnh Gi, rồi bỏ chạy lên mạn sông Thao, trại Quy Hoá (huyện
Tam Nông, Phú Thọ) ở nhà tù trưởng Hà Vạn.
Bọn Quách Bôc mai táng cho cha con Bỉnh Gi, rồi chiếm đóng
kinh thành, lập hoàng tử Thẩm mới 8 tuổi lên làm vua. Đàm Dĩ
Mông, Nguyễn Chính Lại chịu nguy chức.
Thái tử Văn Huệ vương Sam chạy ra vùng biển, đến ở nhà Tô
Trung Từ, thôn Lưu Gia, nay là xã Lưu Xá, huyện Hưng Nhân,
Thái Bình, gặp Trẩn thị, cháu gọi Trung Từ bằng cậu, con gái
Trần Lý xã Tức Mặc, phủ Thiên Trường, có nhan sắc, lại khôn
ngoan lanh lợi, lấy làm vỢ. Thái tử phong Trần Lý tước Minh tự,
Tô Trung Từ điện tiền chỉ huy sứ, uỷ việc về kinh dẹp loạn.
Trần Lý làm nghề đánh cá biển, nhà giàu lớn, gặp buổi loạn
lạc tô chức tự vệ trong tay có những người khoẻ mạnh (dân chài
cá) sau được nhiều người quy phục. Trần Lý cướp của nhà giàu
phán phát cho dân nghèo, nghiễm nhiên trở thành lực lượng cát
cứ vùng ven hiển.
Anh em họ Trần, họ Tô, họp hương binh, chiêu mộ thêm
quân nghĩa dũng, kéo về kinh thành đuổi bọn Quách Bốc, khôi
phục thành Thăng Long, lên Quy Hoá đón Cao Tông hồi loan. Cao
Tông trừng trị bọn làm loạn, rộng lượng xá tội cho bọn Đàm Dĩ
Mông từng theo giặc. Sai Đỗ Quảng đi đón thái tử về kinh sư.
Trần thị vê ở nhà cha Trần Lý ở Tức Mạc. (Do sự thái tử lấy con
nhà chài lưới, đưa về phong làm thái tử nguyên phi Trần thị, e
mất thể thôAg).
Kinh sư đã được yên, nhưng ngoài cõi, dư đảng giặc còn
nhiều. Cao Tông chính thức phong quan tước cho Trần Lý và Tô
Trung Từ, khiến đi dẹp giặc. Trần Lý bị giặc giết. Quân sĩ theo về
người con thứ hai là Trần Tự Khánh.
Lý Cao Tông vê kinh đư ợc một năm, phải bệnh, gọi Lý Kính
Tu vào nhận mệnh lệnh ký thác. Kính Tu vốn họ Đ ỗ, đư ợc phong
quốc tính, làm đ ế sư (thầy vua) mà công nhiệp không có gì, không
can đư ợc vua hoang chơi.
LUẬN VỂ VUA LÝ CAO TÔNG - Tháng 10 âl năm 1210, Lý Cao
Tông khuất, làm vua 35 năm, hưởng linh 38 tuổi.
127
liý Cao Tông là vua hèn, trong buổi dân đói nước loạn mà
vẫn chơi bời, xa xỉ, cầm quyền mà không biết dùng người, không
phân biệt kẻ hay người gian. Cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy kém.

LÝ HUỆ TÔN(Ỉ 1210 - 1224 huý SAM (1194 - 1226)


JViền hiêu: Kiến Gia 1211 - 1224

Thái tử Sam lên nôl ngôi, tục hiệu vua Lý Huệ Tông, qua
năm sau mới đối niên hiệu. Thái hậu Đàm thị cùng nghe chính sự.
Bấy giò, trong nước còn nhiều giặc cướp, không ngăn được
hết. Vua mới lên ngôi, giao việc nước cho thái uý Đàm Dĩ Mông. Dĩ
Mông không có học thức, lại nhu nhược không quyết doán, chính
sự ngày một đố nát. Đói kém xảy ra luôn, dân chúng cùng quẫn
khốn khô. Huệ Tông sai quan chiêu mộ những người khoẻ mạnh
sung vào đội quân bảo an, đi tuần tiễu bắt giặc cướp.
TRẦN THỊ - Ngay sau khi lên ngôi, Huệ Tông sai đem thuyền
rồng đi đón Trần thị. Tự Khánh đang hận đánh giặc, biết thái hậu
và quan triều ít có cảm tình tô"t, chưa cho đi, nói thác là đương
thòi loạn lạc.
Trần Tự Khánh, thông thuộc binh pháp, cầm quân vững
chắc, được đội ngũ mến chuộng, lại có Tô Trung Từ giúp sức, đi
tuẫn tiễu khắp ngoài cõi, đánh đâu thắng đó, không bao lâu dẹp
tan hêt dư đảng của Quách Bốic, buộc dôc quân các nộ và các tù
trương quy thuận chính quyền trung ương.
Năm 1211, Tự Khánh dẫn quân vê triều. Huệ Tông phong Tự
Khánh làm Chương Thành hầu (có sách chép Chương Tín hầu); Tô
Trung Từ làm thái uý phụ chính, tước Thuận Lưu bá; sai phụng
ngự Phạm Bô" đi đón Trần thị vào củng cố, lập làm nguyên phi.
Có công dẹp giặc yên dân, được phong chức lốn, Tự Khánh
nắm giữ quân đội, uy quyền hông hách, át cả các quan triều cũ và
tôn thất. Chúng bâ"t bình, ghen tị, xui Huệ Tông đừng dùng người
có ý muôn làm phản. Huệ Tông không nghe theo. Chúng bèn
thỉnh thác với Đàm thái hậu. Do bị bức bách, Huệ Tông giáng
Trần thị làm ngự nữ, không giải chức Tự Khánh dược. Tự Khánh
biết sự thể, tính sắp đặt lại trật tự các quan triều, định rước Huệ
Tông ra Thiên Trường, rồi lấy thế nhà vua, cắt dặt vị trí các quan,
đột nhập cung khuyết. Bị hạch làm kinh động vua, Tự Khánh
phái tội nhưng không vì thê mà thế lực suy giảm. Chúng lại xui
Huệ Tông nên dựa vào thê lực khác đê phòng Tự Khánh làm
128
phản. Huệ Tông liên lạc với Đoàn Thượng đóng quân ở An Nhân,
là con người vú nuôi vua xưa. Thượng đi đánh các tướng chân tay
của Tự Khánh ỏ ngoài cõi, khi được khi thua. Bọn tôn thất lại gọi
đốc quân các lộ đem binh về kinh sư cứu giá. Có sách chép chính
Huệ Tông bị xúc xiêm mãi, cũng nghi Tự Khánh, gọi quân các lộ
về. Quân sĩ các nơi kéo về đợi lệnh. Tự Khánh lại xin hộ giá rước
vua đi. Huệ Tông sỢ hãi, chẳng biết ai trung thành, ai phản
nghịch, đem gia quyến chạy lên Lạng Châu (Lạng Sơn) mặc cho
đôi bên cự nhau, bên nào thắng thì mình cũng được tôn phù. Tự
Khánh đuối binh sĩ các nơi về. Một mặt sai người đi tìm nhà vua,
một mặt đê ra uy với đôc quân các lộ, Tự Khánh đem quân đi
đánh đám quân cát cứ hùng mạnh nhất là Đinh Khả và Bùi Độ
đóng ơ châu Đại Hoàng từ lâu, và phá tan được bọn này.
Đoàn Thượng đi đánh Nguyễn Nộn ở Bắc Giang. Nộn nguyên
là cư sĩ chùa Phù Đống, bắt được nhiều vàng ngọc, không dâng
vua, bị bắt giam. Tự Khánh trọng sức khoẻ, xin cho đi đánh giặc
chuộc tội. Nộn đánh bại Nguyễn Tự ở Quổc Oai, về hùng cứ vùng
Bắc Giang, dâng biểu xưng thần, vẫn phục tòng Tự Khánh.
Thượng thua to. Nộn thắng thế, tự cho mình là anh hùng, lại thấy
triều đình lộn xộn, không phục tòng Tự Khánh nữa. Do Nộn phản
bội, thê lực Tự Khánh có phần sút giảm. Quân các lộ luôn luôn kéo
về đánh phá. Tự Khánh bỏ kinh thành, dẫn quân về đóng ở Lỵ
Nhân - nay là phủ Lý Nhân, Hà Nam. Huệ Tông ở Lạng Châu,
không hỢp thuỷ thổ, lui về huyện Binh HỢp (Phượng Nhãn, Bắc
Giang) lại trở về kinh sư. Các tướng cậy công, tranh giành nhau
địa vị. Tướng cũ Đỗ Sở, Đỗ Nhuế ở Cao Xá chôAg lại nhà vua.
Nguyễn Bát đi đánh, không nổi. Huệ Tông phong Trần thị làm
Thuận Trinh phu nhân và vời Tự Khánh về dẹp loạn.
Tự Khánh làm tròn nhiệm vụ. Tình hình đã được yên. Nhưng
Đàm thái hậu vẫn không ưa Tự Khánh, hành hạ Trần thị trong
cung, thường trỏ mặt gọi là bè đảng của giặc, muôA bắt vua đuổi
bỏ đi. Huệ Tông nấn ná không chịu. Đàm thái hậu sai người bắt
phu nhân phải tự sát. Huệ Tông ngán lại được. Thái hậu định
đánh thuôc độc cho chết đi, cho bỏ thuốc vào món ăn uôKg. Huệ
Tông biết ý. Đến bữa chỉ ăn một nửa, giành phần cho Trần thị.
Thái hậu cầm chén thuốc độc bắt phu nhân phải uô"ng. Huệ Tông
cũng ngăn lại được. Sau thái hậu làm ngặt nghèo quá quắt lắm,
Huệ Tông phải cùng nàng đang đêm trôA đi, lẻn đến trú ngụ tại
nhà tưống quân Lê Mịch ở huyện Yên Duyên (Thanh Trì, Hà
129
Đông). Các tướng Nguyễn Nộn, Nguyễn Bát, Hà Cao, mượn tiếng
theo lệnh thái hậu đánh phá các ấp vùng Từ Liêm.
QUYÊN VỀ HỌ TRẦN - Trần Tự Khánh và thượng tướng quân
Phan Lân xếp đặt binh ngũ, rèn đúc vũ khí, huấn luyện sĩ tốt, thê
quân phấn chấn đi đánh các nđi. Đoàn Thượng tự ý về hàng.
Nguyễn Cuộc, Đỗ Bộ, cát cứ vùng Tán Viên, bị đánh thua, củng
xin hàng. Nguyễn Bát chiếm cứ vùng Hoài Đức, không chôKg cự
lại nổi, bỏ chạy trốn. Nguyễn Nộn, thê rất hung dữ, Tự Khánh dôc
toàn lực đi đánh, Nộn thắng một trận, rồi liên tiếp thua luôn,
nhưng sau lại trở về chiếm cứ Bắc Giang. Hà Cao ở Quy Hoá, bị
đánh thua, cùng vỢ con thắt cổ chết, c ả vùng Thượng Nguyên,
Tam Đái (Thái Nguyên. Phú Thọ) đều xin quy thuận.
Trong khi Tự Khánh đi đánh các nơi, một tướng là Vương Lê
đem binh thuyền đến Yên Duyên dón Huệ Tông và phu nhân đưa
về đóng ỏ bãi Cửu Liên, một bãi lớn trên sông ĐuôKg - thòi bấy giờ
lớn lắm - ở nam Bắc Ninh và bắc Hưng Yên bấy giò.
Năm 1216, tình thế đã yên. Huệ Tông truyền cho Tự Khánh
đến chầu, đem lòng tin cậy. Do không còn Đàm thái hậu ở bên làm
khó dễ, Huệ Tông phong Trần thị làm hoàng hậu, Tự Khánh làm
thái uý phụ chính, Trần Thừa (anh Tự Khánh) làm nội thị phán
thủ. Loạn lạc đã yên, Tự Khánh rước xa giá về kinh sư. Thê lực họ
Trẩn càng nổi lớn. Tự Khánh lấy danh nghĩa nhà vua, ra lệnh sắp
đặt lại hàng ngũ quân đội các lộ thôYg thuộc triều đình. Bọn tôn
thất nhà Lý mưu hại trừ bỏ Tự Khánh thì trái lại, càng làm tăng
thêm thế lực và uy quyền cho họ Trần, từ đấy đành chịu bó tay.
Hồi loan, Huệ Tông phó thác việc nước chính trị cũng như
quân sự cho Tự Khánh. Tự Khánh nhiếp chính, lo giữ gìn an
ninh cho dán chúng, chuyên chú việc binh bị. Trong nước không
còn những cuộc hĩnh đao lớn. Tình hình có vẻ êm đẹp. Các địa
phương quy phục triều đình, chỉ còn mấy lực lượng quân phiệt
cát cứ. Việc cai trị, năm 1222, có sự chia nước là 24 lộ, lấy các
hoành nô (người có tội phải đày làm nô) thuộc lộ và quân nhân
bản lộ chia nhau làm giáp. Việc bang giao với phương bắc, thì
nhà TôKg suy yếu không hạch sách gì, dù lễ công đơn bạc và
không đều đặn. Giặc ngoài có các năm 1216, 1218, người Chăm
và người Chân Lạp vào cướp ở châu Nghệ An, châu bá Lý Bất
Nhiễm đánh phá tan được.
Nêu Huệ Tông sáng suốt, thưởng phạt công minh, tự nắm
giữ chính quyền thì cơ đồ nhà Lý không đến nỗi nào. Nhưng ch]'
130
thời thường uông rượu, .say ngủ cả ngày, hôm sau mới tỉnh. Cuô'i
năm 1220, hị trúng phong, thuôc chữa không khỏi. Tìm khắp thầy
thuốc trong nước chữa hệnh, đều không hiệu nghiệm. Bệnh ngày
càng tăng, phát chứng hênh tâm thần (xưa gọi là điên) khi tỉnh
khi mê, thường múa may đùa nghịch, đổ mồ hôi, nóng bức khát
nước, uông rượu ngủ li bì.
Cuôi năm 1223, Tự Khánh chết, được phong làm Kiến Quốc
đại vương. Trần Thừa được cử làm phụ quốc thái uý, thay thế.
Trần Thừa tiến cử người em họ Trần Thủ Độ. Huệ Tông phong
Thủ Độ làm điện tiền chỉ huy sứ, hộ vệ cấm đình. Từ đấy, mọi việc
triều chính đều do Thủ Độ cả.
Huệ Tông hệnh mcãi không khỏi, không có con trai, chỉ có hai
con gái do Trần thị sinh. Người chị Thuận Thiên công chúa đã gả
cho Trần Liễu, con Trần Thừa. Người em, Chiêu Thánh công chúa
Phật K im , Huệ Tông yêu quý lắm, tháng 10 âl năm 1224, lập làm
thái tử, hấy giò mới 7 tuổi. Huệ Tông truyền ngôi cho con gái, xuất
gia đi tu ỏ chùa Chân Ciáo trong đại nội.
Lý Huệ Tông làm vua được 14 năm.

LÝ CHIÊU HOÀNG 1224 - 1225


Niêìì hiệu: Thiên Chương Hữu Đạo 1224 - 1225.

Thái tử Chiêu Thánh công chúa Phật Kim, đổi tên là Thiên
Hình lên ngôi, tôn hiệu là Chiêu Hoàng.
Quyền hành hết thảy trong tay Trần Thủ Độ, lĩnh chức
Tri thành thị nội ngoại chư quân sự. Thủ Độ tư thông với Trần
thái hậu, mưu lây cơ nghiệp nhà Lý. Chọn con em các quan
viên sung vào các sắc dịch trong nội, ngày đêm cắt lượt nhau
chầu hầu. Trần B ất Cập, Trần Thiêm, Trần cản h đều là cháu
Thủ Độ. Trần cản h là con thứ Trần Thừa, làm Chánh thủ,
được Chiêu Hoàng ưa thích, cùng nhau nô đùa, khi nắm tóc,
khi nép vào hóng nhau, cảnh bưng thau nước, Chiêu Hoàng té
nước vào Cảnh; bưng khăn trầu, lại ném khăn vào cản h . Đêm
tôi chạy đến trêu chọc, đứng vào bóng. Thủ Độ vin vào những
trò trẻ con nô đùa ấy cho là vua bà đã yêu Cảnh, muôn lấy làm
chồng, bàn với Trần thái hậu làm lễ cưới. Thủ Độ đem gia
thuộc thân thích vào trong cung cấm, đóng cửa thành. Các
quan vào chầu không được. Thủ Độ loan báo: Bệ hạ đã có
chồng rồi. Và hẹn ngày vào chầu mừng. Ngày 11 tháng 12 năm
131
At Dậu (Tây lịch đã sang năm 1226), Chiêu Hoàng đại hội ở
điện Thiên An, ngự trên bảo sàng, trút bỏ áo ngự, khuyên mời
Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế. Tò chiếu chỉ nhường ngôi được
ban ra. Triều nhà Lý đến đây là hết.
Chiêu Hoàng ở ngôi 14 tháng, từ tháng 10 năm Giáp Thân
(1224) đến tháng 12 năm Ât Dậu.

TRẦN THỦ ĐỘ
Trần Thủ Độ là người ít học mà nhiều mưu cơ cực kỳ sâu
sắc. Thuở nhỏ từng theo Trần Lý đi dẹp giặc. Ra làm quan,
Thủ Độ củng cô" địa vị người họ Trần, lấy người trong họ nắm
giữ bộ máy chính trị và quân sự; mua chuộc quan triều theo
về. Phùng Tá Chu và Phạm Kính An ăn cánh. Đôi với các ngưòi
không phục, có thê chông đôi thì đẩy đi xa, không giết hoặc xui
Huệ Tông giết một ai. Thấy Huệ Tông ô"m yếu lại không có con
trai, tôn thất đều hèn kém, nảy ra ý muôn đưa người họ Trần
lên ngôi thay th ế họ Lý, trong lúc gặp được cơ hội thuận tiện.
Đê thoán vị, không buộc Huệ Tông hạ chiếu truyền ngôi, mà
sắp xếp ra một chương trình vô cùng sầu sắc, kỳ lạ, cổ kim
đông tây không từng có. Những việc Huệ Tông lập con gái làm
thái tử, truyền ngôi, xuất gia đi tu, vua bà lấy chồng, nhường
ngôi cho chồng, đều do Thủ Độ sắp đặt nên, có Trần thị tay
trong giúp sức.
Sau này, Thủ Độ có công lớn với nước: Thông nhất giang sơn,
phá quân Mông c ổ xâm lăng.

LUẬN VỂ CÁC VUA TRIỂU LÝ


Nhà Lý trị vì thiên hạ từ năm 1010 đến năm 1225, cộng 126
nám truyền 9 đời vua. Các vua đầu anh tài mở mang chính trị,
văn hoá, kinh tế, khiến nước nhà thái bình, thịnh vượng; dựng
nền trung ương tập quyền, chỉ nơi rừng núi xa xăm mới còn phong
kiến. Sùng đạo Phật, dựng nhiều chùa, đúc nhiều chuông khánh
(sử gia nhà nho chê điểm này). Đầu tiên lập miếu thò Khổng tử và
tiên nho. Mở khoa thi kén chọn người có văn học ra làm quan ván.
Phá Tông giữ vững nền độc lập. Bình Champa, mở rộng đất đai.
Dựng cảng Vân Đồn cho người các nước vào buôn bán.
Mấy vua sau: Thần Tông tầm thường, Cao Tông hoang chơi
lại không biết dùng người, Huệ Tông vô tài, thụ động, nên có sự
giang sơn đổi chủ.
132
KỶ NHÀ TRẦN (1225 - 1400p
TRẦN THÁI TÔNG 1225 -1258 huý CẢNH (1218 - 1277)
Niên hiệu: Kiến Trung 1225 - 1237,
Thiên ứ n g Chính Bình 1238 - 1250,
Nguyên Phong 1251 - 1258.

Ngày 11 tháng chạp năm Ât Dậu***\ Trần cảnh lên ngôi vua,
tục hiệu Trần Thái Tông. Bấy giờ mới 8 tuổi. Quốc phụ Trần Thừa
làm thái thượng hoàng cầm quyền cai trị, Trần Thủ Độ làm quốc
thượng phụ, thái sư thông quốc hành quân chính thảo sự.
VIỆC CAI TRỊ DƯỚI THỜI TRẦN s ơ - Trần Thừa định lại hình
luật, thuế ruộng, thuế thân, thể lệ tiền tệ, lây kẻ có học ra làm
việc công, mở khoa thi thái học sinh (tiến sĩ) kén chọn nhân tài bố
dụng làm quan, đắp thành Thăng Lọng cho được thêm kiên cô,
đào các sông ở Thanh Hoa và Diễn Châu trước bị úng thuỷ, xét lập
trướng tịch (kiểm tra dân số). Hàng năm mở hội thề “làm quan hết
lòng trung, ở chức giữ thanh liêm” theo như nhà Lý ở đền Đồng
Cổ, làng Yên Thái, về kinh tế, mở mang nông nghiệp, tái thiết các
làng mạc bị tàn phá trong thòi loạn, chiêu mộ lưu dân cho đi lập
nghiệp tại các nơi đinh tán điền hoang. Bắt đầu việc đắp đê ngăn
nước sông lớn.
Từ năm 1234, Trần Thừa khuất, Trần Thủ Độ nhiếp chính,
mở mang việc học hành, thi cử, tô tượng Chu công, Khổng tử,
Mạnh tử... phong tước cho các cựu thần nhà Lý có công tôn phù.
VIỆC BÌNH ĐỊNH GIẶC GIÃ TRONG Nước - Nhà Trần lên thay
nhà Lý, tại kinh sư không có sự chông đối gì nhưng ngoài cõi thì
nhiều đốc quân các lộ chưa chịu thần phục. Ke từ thòi Lý Cao
Tông thất chính, khắp nước loạn lạc, gây nên nạn cát cứ, tam
phân ngũ liệt. Trần Tự Khánh chỉ mới dẹp yên được một sô. Từ
khi nữ chúa lên ngôi, nhất là từ khi nhà Trần lập, có nhiều đám
nổi dậy, mưỢn danh “phục Lý”.
Trần Thủ Độ mở các cuộc hành quân tuần du về các lộ. Đôc
quân nhiều nơi xin quy thuận triều đình. Các thảo khấu mọi vùng*()

Về lịch sử triều đại nhà Trần, xin xem thêm trong tập sách T h u y ế t T r ầ n
(NXB Hải Phòng, 2003, 535 tr.) của Trần Xuân Sinh.
( * * ) Nãm Ât Dậu ấy Dương lịch là năm \225. Trần Thái Tông lẽn ngôi ngày 1 1 tháng chạp
năm ấy, Dương lịch đã sang nãm 1226.

133
quanh kinh thành thì việc đánh dẹp không có gì khó khăn. Bọn
Phi Lang và Bảo lương tung hoành tại Đại Hoàng Giang từ lâu,
hàng hơn 20 nám. Thủ Độ bình được. (Sử không chép rõ đã chiêu
hoà hay đánh tan được) Nguyễn Tự cầm đầu dân Mường ở Quôc
Oai, giữ đất ấy, cũng từ lâu. Nguyễn Nộn, Tự Khánh đến đánh
nhiều lần. Tự chạy vào rừng sâu. Quan quân rút, Tự lại trở về giữ
đất. Thủ Độ tiến đánh, Tự vẫn quen giữ thói cũ. Biết được việc
dân Mường từ lâu không có giao dịch với miền xuôi, thiếu thôn
nhiều thứ, nhất là muối, phải ăn than nứa cho có chất mặn, Thủ
Độ sai đem đến nhiều muôi, phân phát cho họ, dụ họ quy thuận
triều đình, hứa cho xuôi bán lâm sản và mua về vải, lụa, muôi,
nông khí. Nguyễn Tự mất chỗ dựa, giặc tan.
Đến bọn Đoàn Thượng xưng là Đông Hải đại vương ở Hồng
Châu, Nguyễn Nộn xưng là Hoài Đạo vương ở Bắc Giang, thê lực
mạnh lắm, lại liên kết với nhau chông lại nhà Trần. Đánh không
nổi, dụ hàng không được, Thủ Độ cắt đất phong vương cho hai
tướng, rồi dùng kế chia rẽ chúng, gả Ngoạn Thiền công chúa cho
Nộn, khiến Nộn đánh Thượng. Một mặt kéo quân xuông đánh. Hai
mặt bị tấn công, quân Thượng tan vỡ, Thưựng bị chém, chạy về
đến được An Nhân mới chết.
Nộn sau đó thông lĩnh toàn quân Thượng. Con Thượng là Văn
cũng theo về. Thanh thê Nộn lừng lẫy, lại xưng là Đại Thắng vương,
nhưng sau ăn chơi quá độ, biết mình không thể chông đôi mãi được,
định sẽ về chầu. Chưa hao lâu chết vào tháng 5 âl năm 1229.
Mọi địch thủ mạnh đã bị đập tan, các đốc quân còn lửng lơ
bèn xin quy thuận triều đình, lần lượt đến các thố hào, tù trưởng.
Giang sơn được thu vào một môl.
VIỆC BINH BỊ - Khắp nước đã được bình định. Nhưng phía tây
bắc người Mông cổ đã chiếm Vân Nam Quý Châu. Người nước
Champa cũng dũng mãnh tính đòi lại đất đã nhượng. Tình thế đòi
hỏi chính quyền trung ương phải có quân đội hùng cường. Thủ Độ
bắt các thanh thiếu niên trong tôn thất luyện tập võ nghệ, đào tạo
tướng tá, tuyến mộ và huấn luyện binh sĩ, rèn đúc vũ khí, đóng xe
thuyền lập đinh tịch để gọi tráng đinh ra tòng ngũ.
VIỆC NGOẠI GIAO - Thủ Độ sai sứ sang Tông báo cáo việc Trần
Cảnh được nhà Lý truyền ngôi và xin phong. Tống Lý Tông không
bắt bẻ gì, phong vua Trần làm An Nam quốc vương.
Rất có thể Thủ Độ đã giao hảo với Mông cổ. Khi nhà Trần kiến
quốc thì Mông cổ đã chiếm Vân Nam. ĐVSKTT có chép: Nám 1168,
134
sứ nhà Tống sang, sứ Thát Đát cũng sang. (Tô Hiến Thành) Đểu
thương hậu đê dụ, ngầm lấy lễ tiếp đãi cả hai sứ, không cho họ gặp
nhau. VSTGCM nói bấy giò Thát Đát còn ở mãi miền cực bắc rất xa
xôi, sửa lại là sứ Kim. Nhưng xét nước Kim không chiếm Vân Nam,
bấy giờ còn còn cách xa nước ta bởi nước Nam Tốhg. Sứ Kim không
vượt biên sang nưc3c ta làm gì. Việc làm “khi triều Tông, khi sính
Nguyên” phải là của Trần Thủ Độ, vào các năm trước sau năm 1250.
Nước Champa từ ngày nhà Lý suy đã coi thường nước ta.
Nhà Trần lên. sai sứ sang dụ. Champa có đến công, lễ vật đơn bạc.
Dân Chăm lại thường hay sang cướp phá vùng ven biển.
VỤ BỨC TỬ THƯỢNG HOÀNG LÝ HUỆ TÔNG - Lý Huệ Tông bỏ
cung điện đi tu. Buôi nọ ra chơi chợ Đông, ăn vận nâu sòng, nhiều
người thấy thương khóc. Thủ Độ sỢ lòng người còn tưởng nhớ vua
cũ, sinh ra biến loạn. Có lần Huệ Tông ngồi nhổ cỏ ở sân chùa.
Thủ Độ đi qua, nói: Nhổ cỏ phải nhổ cho hết dễ sâu. Huệ Tông nói:
Nhà ngươi nói, ta hiểu rồi. Mấy hôm sau, Thủ Độ cho người đi mòi
Huệ Tông. Huệ Tông giận lắm, tụng kinh xong, vào nhà sau thắt
cố tự tận. Bấy giò là tháng 8 âl năm 1226.
Sự việc diễn ra không phải chi’ đơn sơ có thế. Theo Nguyễn
Triệu Luật, người dòng dõi tôn thất nhà Lý thì có những chiếu chỉ
cần vương - thật hoặc giả - được tung ra. Thủ Độ bắt được, đem
chất vấn Huệ Tông. Huệ Tông chôi và sau lo sỢ trong khi thảng
thôt về bệnh tâm thần đã tự ải. Có thuyết Thủ Độ dâng bình rưỢu
quý có thuôc độc, Huệ Tông uống xong thì chết. Cũng có thể là bị
treo cổ hay chết cách nào khác.
Thủ Độ tuyên bô": Huệ Quang thiền sư đã về Niết bàn, dẫn
các quan đến khóc viếng, làm lễ hoả táng. Xá lợi đê vào tháp chùa
Bảo Quang. Thật quá tàn ác, chỉ vì tranh quyền cướp nước.
Lý Huệ Tông làm v u a 14 năm, đi tu một năm, hưởng linh 33
tuổi là v u a hèn, nghiện rưỢ u, hị bệnh tâm thần, nhưng chết thảm,
tình cũng đáng thương.
VỤ CHÔN SỐNG TÔN THẤT NHÀ LÝ - Các người trong tôn thất
nhà Lý mang hận. Thủ Độ muôn trừ bỏ nô"t đi. Năm 1232, nhân
làm lễ cúng tiên hậu nhà Lý 0 thôn Thái Đường, xã Hoà Lâm
thuộc Đông Ngàn Bắc Ninh, Thủ Độ sai người đào hầm, đổ đất
phủ cỏ, làm nhà lá ở trên. Đến khi các tôn thất nhà Lý vào tế lễ
thì giật máy cho đổ sụt xuông hô", rồi đổ đất chôn sông cả.
Sự việc nếu chỉ có thê thì vô lý. Theo Nguyễn Triệu Luật thì
phải là chính người họ Lý đào hầm định hại vua tôi nhà Trần khi
135
vào làm lễ. Nhưng Thủ Độ dò biết, lúc làm lễ, thay đổi hết vị trí
mọi người dự lễ, dồn người họ Lý vào nơi bên dưới có hầm, rồi sai
kéo sàn cho họ rơi xuống hầm. Cũng có thế rằng: Thủ Độ sai người
giả làm thuộc phe chông đốì, xui người họ Lý đào hầm, rồi sau bị
sa cả xuông đấy mà chết.
Trần thái hậu giáng làm Thiên Cực công chúa để gả cho Thủ
Độ, cung nhân nhà Lý, kê cả các tôn nữ, đem gả cho các tù trưỏng
Mường, Thái.
VỤ THAY BẬC Đổl NGÔI - Thủ Độ chỉ lo thế nào cho ngôi nhà
Trần được vững bền nên không những tàn ác với nhà Lý, đến luân
thường trong nhà cũng làm loạn cả. Năm 1237, Chiêu Thánh hoàng
hậu lấy Thái Tông đã 12 năm mà chưa có con (tuy mối 19 tuổi). Thủ
Độ bắt Thái Tông hỏ, giáng làm công chúa, đem gả cho tướng Lê Tần
tức Lê Phụ Trần, rồi đem người chị Thuận Thiên công chúa vỢ Hoài
vương Trần Liễu đã có mang ba tháng vào cung làm hoàng hậu.
Trần Liễu tức giận, đem quân làm loạn.
Thái Tông bị hiếp chế quá độ, trong lòng không yên, đêm lẻn
trôn lên ở chùa Phù Vân, trên núi Yên Tử (huyện Yên Hưng,
Quảng Yên). Thủ Độ đem quần thần đến đón về. Thái Tông không
chịu. Thủ Độ nài ép mãi không được, hèn nói; Vua ở đâu thì triều
đình ở đấy. Lập tức truyền sắp sửa xây cung điện ngay ỏ chùa Phù
Vân. Thái Tông không sao được, đành ra về.
Được ít lâu, Trần Liễu biết không làm nên được gì, nhân lúc
Thái Tông ngự thuyền, giả làm người đánh cá, lẻn xuống thuyền
ngự xin hàng. Anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Độ cầm gươm toan
giết Liễu. Thái Tông lấy mình che đỡ cho anh. Sau Thái Tông lấy
đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Bang - thuộc Hải Dương
- cho Liễu làm thái ấp và cải phong làm An Sinh vương.
Thủ Độ lại muôn mọi người không nhớ đến họ Lý nữa, nhân
tổ họ Trần là Lý, bắt trong nước họ Lý phải cải là họ Nguyễn.
TRẦN THÁI TÔNG ĐÍCH THÂN CẦM QUYỀN CHÍNH - Lên ngôi từ
năm mới 8 tuổi, Thái Tông buổi đầu chỉ giữ hư vị. Sau lớn lên mới
dần thực sự nắm giữ quyền chính. Từ năm 1238, tình hình trong
nước đã yên ổn. Thái Tông thường đi về đến tận các làng xã, xem
xét dân tình, chỉ thường mang theo một vài người hầu cận. Đôi với
dân chúng, có tình thân ái mật thiết, thông thường giải quyêt
những sự bâT đồng giữa các họ, các phe nhóm, làng xã. Nhiều khi
chỉ ở ngay dưới gốc cây lớn. Làng xã mới làm đình để khi vua đến
có chỗ ngồi tươm tất.
136
Năm 1242, Thái Tông chia nước vùng trực trị làm 12 lộ, mỗi
lộ có chánh phó ari phủ sứ cai trị, dưới có đại, tiểu tư xã, mỗi viên
cai trị hoặc 2 xã, hoặc 3,4 Xcã. Mỗi xã có xã quan là chánh sử giám.
Xã bấy giò lớn lắm. Quan lại do triều đình bố dụng, có thăng,
giáng, thuyên chuyên. Miền trung du và vùng trại, từ Nghệ An trở
vào, đặt các phủ, châu. Phủ có tri phủ, châu có tào vận sứ trên các
đại tiếu tư xã. Các xã phải làm sổ hộ khẩu, đinh tịch.
12 lộ là: Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc Giang,
Hải Đông, Trường Yên, Kiến Xương, Hồng, Khoái, Thanh Hoa,
Hoàng Giang (nam Ninh Bình), Lạng Giang.
Kinh thành Thăng Long chia làm 61 phường.
Quan lại các phủ châu cũng do triều đình bổ dụng nhưng
dùng thường người địa phương, có tính cách nửa phong kiến, nửa
trực trị.
Các vùng rừng núi xa xôi vẫn do các tù trưởng cai trị, thổ quan
trị thô dân, tuy có đặt quan giám sát mà không chặt chẽ lắm.
VIỆC THUẾ MÁ - Người nước, nam giới, phân ra từng hạng: từ
18 tuổi là tiểu hoàng nam, từ 20 là đại hoàng nam. Từ 60 trở lên
là lão hạng. Bấy giờ, có đánh thuế thân, nhiều ít tuỳ theo sô" ruộng
đất có được. Ai không có ruộng đất được miễn.
Thuế ruộng đóng bằng thóc, mỗi mẫu 100 thăng.
Thuế muối phải đóng bằng tiền.
Các loại vải, lụa, hương yến tức và tôm cá, rau quả, đều phải
chịu thuê, tòng lượng.
Tiền tiôu bằng đồng. Vàng, bạc dùng trong nước thì phân
lạng đưỢc chính quyền đúc sẵn.
VIỆC KHẨn h o a n g - Thái Tông đặc biệt chăm lo các công việc
vệ nông, khai ngòi, đắp đập, lại dùng quân lính đóng đồn khai
thác đất hoang, gọi là đồn điền. Đặt chức đồn điền chánh, phó sứ
đôn đôc công việc mở mang và quản lý.
VIỆC ĐẮP đ ê - Miền bắc nước ta thượng du nhiều núi cao, mà ở
mạn trung châu nhiều sông ngòi, hàng năm đến mùa lụt nước ngàn,
nước lũ chảy về ngập cả đồng điền. Từ xa xưa, người ta đã đắp đê
chống lụt từng khu vực nhỏ. Dưới triều Lý, công việc đắp đê đã được
mơ rộng. Sang triều Trần thực hành quy mô rộng lớn. Thái Tông sai
các lộ đắp đê giữ nước sông ở hai bên bờ sông Cái (sông Hồng khoảng
từ ngã ba Hạc trở xuống), gọi là Đỉnh Nhĩ đê. Bấy giờ là năm 1248.
Đặt quan coi việc đê, gọi là hà đê chánh phó hai viên. Chỗ nào đắp vào
ruộng của dân thì nhà nước chiếu giá bồi thường cho người có ruộng.
137
Năm 1253, sai đắp đê sông thuộc lộ Thanh Hoa.
PHÁP LUẬT - Năm 1244, Thái Tông định lại luật pháp. Bộ
hình luật này thất truyền. Theo Phan Huy Chú thì phép đặt ra
thời ấy nghiêm ngặt lắm: Phạm tội trộm cắp phải chặt tay, chặt
chân hay cho voi dày.
VIỆC HỌC HÀNH - Việc học hành được mỏ mang. Nhà Lý trước
đã mở khoa thi nho sĩ. Qua nhà Trần, năm 1232, mở khoa thi thái
học sinh (tiến sĩ), chia ra làm ba giáp cao thấp. Năm 1247, lần đầu
tiên đặt ra tam khôi: Trạng nguyên,.bảng nhãn, thám hoa. Cũng
năm ấy, mở khoa thi tam giáo: Nho, Thích, Lão đều được trọng cả.
Năm 1253, tô tượng Chu công, Khổng tử, 4 á thánh và 72 hiền.
Lập Quốc học viện giảng Nho học và các giảng võ đường huấn
luyện võ nghệ.
QUAN CHÊ - Quan chê được sửa sang lại. Có tam công, tam
thiếu, thái uý, tư mã, tư đồ, tư không, là ván võ đại thần. Tể tướng
thì có tả, hữu tướng quốc, thủ tướng, tham tri. Văn giai có các bộ
thượng thư, thị lang, lang trung, viên ngoại, ngự sử... nội chức. Võ
giai có phiêu kỵ thượng tướng quân, cẩm vệ thượng tướng quân,
kim ngô đại tướng quân, vũ vệ đại tướng quân, phó đô tướng
quân... là nội chức. Kinh lược sứ, phòng ngự sứ, thủ ngự sứ, quan
sát sứ, đô hộ, đô thống, tổng quản... ngoại chức.
Quan lại 10 nám được thăng một hàm, 15 năm một chức.
Số quan lại tuy nhiều nhưng vua quan thân cận nhau. Khi
vua đãi yến, các quan uông rượu xong, dắt tay nhau múa hát,
không giữ phép nghiêm khắc như những đòi sau.
BINH CHÊ - Việc binh mỗi ngày một chỉnh đôK thêm. Mọi
tráng binh trong nước đều phải đi lính cả. Sau khi được luyện tập
đầy đủ thì cắt phiên nhau: lớp tại ngũ, lớp về làm ruộng. Các thân
vương được quyền chiêu tập binh sĩ, có dưới trướng một sô" quân
đội. Bấy giờ, nước ta có khoảng 20 vạn quân để chông ngoại xâm.
VIỆC SÙNG ĐẠO PHẬT - Thái Tông rất sùng đạo Phật, từng đúc
350 quả chuông đồng. Sử gia nhà nho Ngô Sĩ Liên chê là phí tài
nguyên vào việc vô ích.
VIỆC ĐI ĐÁNH NUỚC CHAMPA - Vua Champa có sai sứ sang
công lễ vật đơn bạc. Người Chăm lại hay dùng thuyền nhỏ sang
cướp phá vùng Thanh, Nghệ, Tình. Triều đình Champa còn lăm le
đòi đất đã nhượng. Đe ra uy trước, nám 1252, Thái Tông cử Khâm
Thiên vương Nhật Kiểu giữ nước, thân hành đem quân sang đánh
Champa, vào tận kinh đô, thắng trận lớn, bắt được vỢ vua nước ấy
138
là Bô" Già La cùng những thần thiếp và rất nhiều quân dân đem
về. Cuộc hành quân kéo dài suô"t một năm, từ tháng giêng đến tận
tháng chạp, mới chấn chỉnh đội ngũ trở về nước.
VIỆC BANG GIAO VỚI NHÀ TỐNG - Thái Tông vẫn giao hảo với
nhà Tông, công phẩm (không hậu hĩ gì mấy) được đưa sang đều
đặn. Có mấy vụ lôi thôi ỏ biên giới, bên ta đều giữ được thắng lợi.
Năm 1240, có những người Thái, Dao hên Tốhg sang cướp phá
vùng Lạng Giang, thị thần Bùi Khâm bình được. Năm 1241,
chúng lại sang cướp. Đốc tướng Phạm Kính Ân đi đánh, lấy được
mấy động man. Thái Tông thân đi đánh vào các trại Vĩnh An,
Vĩnh Bình bên, Tông trong cuộc đi tuần tiễu biên giới, sử gia xưa
cho là làm sự mạo hiểm không cần thiết.
Năm 1242, quân Mông cổ đã chiếm Vân Nam. Đường sang
Tông hị nghẽn, thân vệ tướng quân Trần Khuê Kính đem quân đi
trấn ngữ, đánh chiếm lấy đất Bằng Tường thuộc Quảng Tây, viện
cớ lấy đường thông sang Tông. Xem sự thể ấy thì thấy rằng triều
đình ta đã coi thường nhà Tông, lễ công có thể chỉ là chiếu lệ thôi.
PHÁ QUÂN MÔNG C ổ XÂM LĂNG - Dưới triều Trần Thái Tông có
vụ phá tan quân Mông Cỗ xâm lăng quan trọng hơn cả, sẽ chép ơ sau.
LUẬN VỀ VUA TRẦN THÁI TÔNG - Năm 1258, sau khi bình xong
quân Mông cổ xâm lăng, theo lòi Trần Thủ Độ, Thái Tông nhường
ngôi cho con là thái tử Hoảng, để dạy bảo việc trị nước cho
quen, lên làm thái thượng hoàng. Nhà Trần có vua, lại có thái
thượng hoàng, mà thái thượng hoàng mới thực sự cầm quyền
chính tôi cao.
Chỉ mấy nám sau, vua Thánh Tông đã thành thạo công việc
trị dân. Thái Tông thường cùng các con múa hát làm vui, ngoài
việc đê tâm vào kinh sách nhà Phật. Từ trước, Thái Tông đã sửa
sang hương Tức Mặc, dựng cung điện, xây chùa Phổ Minh. Năm
1262, đổi hương Tức Mặc làm phủ Thiên Trường và lui về đấy ở.
Mấy năm cuôl đòi, Thái Tông vào tu ở chùa Bắc Quang, chuyên
việc hoằng pháp Phật giáo, soạn sách K hoá hư lục, Thiền Tông chỉ
nam., Lục thi sám hối khan nghi.
Năm 1277, Thái Tông khuất, làm vua 35 năm, làm thái
thượng hoàng 19 năm, hưởng thọ 60 tuổi.

Trần Thái Tông là vua hiền tài, khoan nhân đức độ, có công
mỏ mang kinh tê văn hoá. Lại đánh đuổi được quân Mông cổ xâm
lăng, giữ vững nền độc lập nước nhà.
139
Nhiêu người chê vua phụ bạc Chiêu hậu là người đã nhường
ngôi cho mình, lại lấy người chị vỢ cũng là chị dâu là phạm luân
thường. Sự này hoàn toàn do Trần Thủ Độ ép buộc. Mà Thủ Độ thì
ngoan cố, đã muôn làm thế nào thì cương quyết đến cùng, không ai
cưỡng lại được nồi.

TRLNí ; vũ VƯƠNíỉ tr ầ n th ủ độ (1194- 1264)


(tiếp theo trang 134)

Trần Thủ Độ đã dựng nên cd nghiệp nhà T rần ..lại lo giữ


vững hền lâu dài ngôi vua cho dòng họ, đặt ra những điểu lệ khiến
người trong tôn thất phải tuân theo.
Thấy tôn thất nhà Lý hèn yếu, không làm được gì khi có loạn
cũng như khi hị mất ngôi, muôn giữ vững chính quyền thì phải
nắm vững hình quyền, ông đã hắt các người trong tôn thất phải
luyện tập võ nghệ, được quyền có dưới trướng binh sĩ. Luật tận
dân vi binh, nước ta đã có sớm, chỉ sau Mông c ổ , trước cả các nước
châu Au.
Thấy các ho.àng tử thường hay đánh giết nhau đê tranh ngôi,
mà khi có quân đội riêng - như các con Lê Đại Hành xưa - thì sự
ấy càng dễ xảy ra, Thủ Độ lập ra lệ vua con được truyền ngôi ngay
từ khi vua cha còn sông. Vua cha mối thật là người nắm giữ quyền
hành tôi cao. Ngôi vua đã được yên vị, không còn có sự anh em
tranh đoạt được nữa.
Nghĩ mình vòn là ngoại thích, nhân cơ hội làm sự thoán đoạt,
Thủ Độ rất sỢ cái vạ ngoại thích nên định rằng hoàng hậu phải
lấy người trong tôn thất, dựng nên tục người trong họ nội lấy lẫn
nhau, trái với thế tục. Nếu hoàng hậu không có con trai, lập con
thứ phi thì chỉ lập người có mẹ đẻ họ tôn thất.
Trong 40 năm cầm quyền chính, Thủ Độ đã hết lòng phục vụ
đê nghiệp nhà Trần. Ngoài 70 tuổi, 5 tháng trước khi khuất, ông
còn đi tuần vùng biên giới Lạng Sơn. ông là một siêu nhân, có
quan niệm luân thường khác mọi người, đã nghĩ ra những điều
chưa ai nghĩ tới, làm những việc chưa ai đã làm.
Phê bình Trần Thủ Độ, sử gia Trần Trọng Kim viết trong
VNSL: “Thủ Độ đại gian ác đôi với nhà Lý, lại là đại công thần
nhà Ti’ần“. Việc quá rõ ràng đôl với hai dòng họ, còn đổi với dân,
với nước thì tưởng chấm dứt triều đại quá nhu nhược, đâu đã phải
là tội. Sau lại thông nhất giang sơn, đánh đuổi quân xâm lăng là
140
có công nghiệp vĩ đại vậy. Tại đền thờ ở đồi Lim, Bắc Ninh có câu
đôi: Công đ áo vu kim, bât đàn Trần g ia nhị bách tản Luận định
thiên CÓ, kỷ tại N am thiên đệ nhất lưu. (Công đức của ông để mãi
đến ngày nay, không chỉ có hẹp trong hai trăm năm nhà Trần.
Sau ngàn đòi, công luận đã định, ông đáng liệt vào bậc nhất dưới
tròi Nam).
Tuy nhiên. Thủ Độ đã phạm lầm lỗi đặt ra tục hương ẩm.
Nguyên làng xã ta xưa rất quan trọng, tựa như các buôn của
người Thượng ở miền Trung. Mỗi làng xã có những tục lệ riêng,
dân phái theo. Phép vua thua lệ làng. Nhà cầm quyền đáng phải
xoá bỏ giới hạn nhổ hẹp ấy đi thì Thủ Độ lại tăng lên, khiến mỗi
làng xã thành một triều đình nhỏ. Hương đảng tiểu triều đình.
Các quan viên trong xã có vị thứ trên dưới chặt chẽ. Người có được
chút địa vị cao trong cái tiêu triều đình thì thoả mãn, ít chịu ra
tranh đua ở cái triều đình rộng lớn nữa. Ay cũng là một cách lo
giữ vững ngôi vua. Không ngờ di hại lâu dài mãi. Chỉ vì muôn
được ăn trên ngồi trốc ở đình trong luỹ tre xanh mà nhiều người
phải khôn khổ đến khuynh gia bại sản; nhiều họ, nhiều phe đảng,
chỉ vì tranh giành nhau địa vị, sinh ra bất bình, thù hằn nhau
hàng năm, hàng đòi. Hủ tục kéo dài mãi cho đến thời gần đây. Ke
ra, dân mình chỉ hiết tòng cổ, không biết cải tiến phong tục, là sai
lầm, nhưng người đặt ra tục lệ không hay cũng đáng trách.

TRẦN THẢNH TÔN(Ỉ 1258 - 1278


huý HOẢNC, (1240- 1290)
Niên hiệu: Thiệu L o n g 1258 - 1272,
Bảo Phù 1273 1278.

Năm 1258, thái tử Hoảng lên ngôi, tục hiệu vua Trần Thánh Tông
VIỆC CHÍNH TRỊ - Trong buổi đầu, mọi công việc do thượng
hoàng Thái Tông quyết định. Thông minh, Thánh Tông sớm quen
việc cai trị thực sự nắm giữ chính quyền từ năm 1262, thượng
hoàng lui về phủ Thiên Trường. Quan triều bấy giờ, có Trần ích
Tắc, Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn, Lê Phụ Trần, đều là
người tài giỏi, giúp vua trị nước, nhất là chỉnh đốn quân đội.
Nhân từ, trung hậu, Thánh Tông ở với anh em họ hàng rất
tốt. Thường nói rằng: Thiên hạ là của ông cha để lại, nên để cho
anh em cùng hưởng phú quý chung. Cho các hoàng thân vào nội
điện, cùng nhau ăn uông vui vẻ, rất thân ái. Chỉ trong buổi chầu
141
làm việc công mới phân thứ tự theo lễ phép. Anh em là xương thịt
rất thân, gặp buổi lo thì cùng lo, gặp lúc vui thì cùng vui. Các
vương hầu ai cũng hoà mục, kính sỢ. Nhà Trần thu được nhiều
hiệu lực của người trong tôn thất công cuộc kháng Nguyên do ở
điều này.
Việc nước thì suốt trong 21 năm ở ngôi, Thánh Tông lo giữ
gìn thanh bình cho dân chúng được an cư lạc nghiệp, không có
giặc giã.
VIỆC VẢN HỌC - Việc học hành được mở mang. Hoàng đệ Trần
ích Tắc học vấn uyên bác, có tài văn chương, mở học đường bên
hữu phủ đệ, cấp cơm áo cho sĩ phu đến học tập. Danh nho Mạc
Định Chi từng học ở trường này. Bọn Bùi Phỏng 20 người đều
được dùng giúp ích cho đời.
Thánh Tông kén học trò, lấy người có tài năng bổ vào giữ việc
tại quán, các, sảnh, viện. Mở kỳ thi kén lại viên bằng cách thư toán
(giữ sổ sách), cho người hiền lương thông hiểu kinh sách làm tu
nghiệp Quốc tử giám. Chính bản thân Thánh Tông cũng là thi sĩ.
Bộ Đại Việt sử ký gồm 30 quyển do Lê Văn Hưu khởi công
soạn từ đòi vua Thái Tông, chép từ Triệu Vũ đế đến Lý Chiêu
Hoàng, năm 1272 hoàn thành. Nước ta có quốc sử khởi đầu từ đây.
Nguyên bản nay không còn lưu truyền nhưng là tài liệu cho sử gia
về sau.
VIỆC LẬP CÁC ĐIỂN TRANG - Thánh Tông cho các vương hầu,
công chúa, phò mã, cung tần, chiêu tập những người xiêu tán
không có sản nghiệp, làm nô tỳ để khai khẩn ruộng hoang lập làm
điền trang. Vương hầu có điền trang bắt đầu từ đấy - năm 1266.
Sự việc này gây cơ sở cho con cháu tôn thất, lại có công việc làm
cho người vô sản.
VIỆC NGOẠI GIAO - Nước Champa từ ngày thua trận năm
1252, sỢ uy, thường sang công, các năm 1265, 1266, 1267, 1270,
1273. Có hai lần cống voi trắng. Bấy giò có sự dễ dàng với
Champa, mưu việc liên minh chông Mông cổ.
Thánh Tông vẫn giao hảo với nhà Tông. Năm 1262, Tống Lý
Tông phong Thánh Tông làm An Nam quốc vương và gia phong
Thái Tông làm đại vương.
Sau nhà Tông bị người Nguyên đánh dồn dập, có những
người TôAg chạy sang quy phụ. Thánh Tông đều thu nạp, lại
dùng một số binh sĩ TôAg vào đội Tông binh, (sau này họ tham
chiến chông Nguyên đắc lực). Một sô" dân buôn đem các thứ
142
vóc, đoạn, vị thuôc, mở cửa hàng ở phường Nhai Tuân, giả
xưng làm người Hồi Hột.
Riêng việc bang giao với nhà Nguyên có nhiều phiền phức, sự
việc chép ở sau.
VIỆC ĐI ĐÁNH GIẶC NHẪM b à l a - Việc võ bị đưỢc đặc biệt chú
ý, đề phòng quân Mông cổ sang xâm. Trong nước không có giặc
giã. Các tù trưởng, thổ hào đều quy phục duy có động man Nhẫm
Bà La (hay ồ n Bà La) ở vùng Bố Chính (Quảng Bình) (có lẽ là
người Mọi) muôn ly khai, không chịu thuần phục trung ương.
Nhân muôn ra uy và cũng đê tôi luyện quân sĩ với chiến tranh,
năm 1277, Thánh Tông thân làm tưỏng, đem quân đi đánh dẹp
bọn này, bắt được lũ Man Lão hơn hai ngàn người đem về.
LUẬN VỀ VUA TRẦN THÁNH TÔNG - Năm 1278, một năm sau
khi Thái Tông khuất, Thánh Tông nhường ngôi cho con là thái tử
Thẩm, về phủ Thiên Trường làm thái thượng hoàng.
Quân Nguyên sang đánh, thượng hoàng cùng vua chạy giặc
long đong, cùng quân sĩ và nhân dân tân khổ. Các năm cuối đời,
thường hay ngâm vịnh. Thơ hay, tiếc rằng đều bằng chữ Hán.
Năm 1290, Thánh Tông khuất, làm vua 21 năm, làm thái
thượng hoàng 13 năm, thọ 51 tuổi.

Trán Thánh Tông là vua hiền tài, đôl với anh em họ hàng
thân mật, không phân biệt chúa tôi, lại gây cơ sở cho người họ lưu
truyền lại cho con cháu điền trang. Trị nưóc mở mang việc học
hành, chỉnh đốn việc võ bị. Ngoại giao gặp nhiều khó khăn, đã
mềm dẻo mà không nhượng bộ. Giặc xâm phạm bờ cõi, lại cùng
tướng và quân dân chiến đấu, không quản ngại gian khổ. RâT đáng
khen ngọi.

TRẦN NHÂN TÒNG 1279 - 1293


huý THẨM (1258-1308)
Niên hiệu: Thiệu Bảo 1279 - 1284,
Trùng Hưng 1285 - 1293.

Năm 1279, thái tử Thẩm lên ngôi, tục hiệu vua Trần Nhân
Tông. Buối đầu, Thánh Tông thượng hoàng coi mọi việc, Nhân
Tông lại thông minh quả quyết, quan triều trong và ngoài tôn thất
nhiều người tài giỏi, dân chúng một lòng thuận theo, nên vượt qua
đưỢc mọi khó khăn, giữ vững được nền độc lập.
143
Việc bang giao với nhà Nguyên có nhiều sự hôi rối, quân Bắc hai
lần rầm rộ kéo sang xâm lăng, đều bị thảm bại. Sự việc chép ở sau.
Lại có việc quân Ai Lao sang cướp phá cũng bị đẩy lui. Việc
này sẽ chép vào mục đánh quân Ai Lao thời vua Trần Anh Tông.
ĐỨC ĐỘ VUA TRẦN NHÂN TÔNG - Nhân Tông có đời sông rất
giản dị khi còn làm vua cũng như khi đã đi tu. Đi thăm dân tình,
thường chỉ mang theo vài người hầu cận. Rất ân cần thăm hỏi các
triều thần lớn phỏ, tướng sĩ, bô lão, đến cả những gia nô địa vỊ
thấp nhất, cấm người hầu nạt nộ họ.
VIỆC VĂN HỌC - Thòi ấy nhiều giặc giã, văn học vẫn hưng
thịnh. Xem bài hịch của Trần Quốc Tuấn, thơ Trần Quang
Khải và Phạm Ngũ Lão, thấy văn chương có khí lực mạnh mẽ.
Lại có Nguyễn Thuyên khởi đầu dùng tiếng Nòm làm thơ phú,
có bài thơ đuổi cá sấu. v ề sau người mình mới học theo, làm
thơ văn Nôm.
VIỆC BÌNH ĐỊNH XỨ s ở - Các tù trương, thố’ ty đều quy thuận.
Nhiều người lập công trong công cuộc kháng Nguyên. Duy có
Trịnh Giôc Mật tù trưởng Đà Giang, người Dao tụ tập đồ đảng,
cướp phá nhân dân. Năm 1280, Chiêu Văn vương Trần Nhật
Duật đi đánh. Gần đến nơi, Giôc Mật sai người đến nói; Mật
không dám trái mệnh. Nếu ân chủ đi ngựa một mình đến thì
Mật xin hàng ngay. Nhật Duật nhận lòi, chỉ mang theo mấy
tiêu đồng, nói: Nêu nó giáo giỏ thì triều đình sẽ cử người khác
đi đánh. Người Man vây mấy vòng, đều cầm gươm giáo. Nhật
Duật đi thẳng vào trại. Do biết tiếng Dao và phong tục họ,
Nhật Duật cùng Giôh Mật nói chuyện, ăn uông. Người Dao tích
lắm. Giôc Mật đem gia thuộc vá hộ hạ đến doanh xin hàng.
Không mất một người lính, một mũi tên, Nhật Duật bình được
Đà Giang. Giôh Mật theo vào kinh chầu vua. Nhân Tông han
thưởng khen ngợi.
NHÂN TÔNG ĐI TU - Năm 1293, Nhân Tông truyền ngôi cho
con là thái tử Thuyên, vê phủ Thiên Trường làm thái thượng
hoàng. Năm 1295, xuất gia đến tu ở chùa Vũ Lâm, nay thuộc
huyện Gia Khánh, Ninh Bình. Qua năm 1299, lại sang tu ở chùa
Ngọc Vân, núi Yên Tử, lấy hiệu là Yên Vcân đại đầu đà. Tuy sùng
Phật, thượng hoàng vẫn không sao nhãng việc nước.
Thông hiểu giáo lý nhà Phật, Nhân Tông lập ra thiền phái
Trúc Lâm, sau truyền qua Pháp Loa và Huệ Quang, đòi gọi là
Trúc Lâm tam tố.
144
LUẬN VỀ VUA TRẦN NHÂN TÔNG - Năm 1318, Nhân Tông
khuất, làm vua 14 năm, làm thái thượng hoàng 13 năm (kể cả 8
năm đi tu), thọ 51 tuổi.

'i'rần Nhân Tông là vua hiền tài, dũng lược. Bị cường lân đe
dọa biết theo lòi Hưng Đạo vương chủ chiến. Khi chạy giặc gian
truân, cùng chịu tân khổ vối quân dân. Sau lại tự làm tướng đi
đánh quân Ai Lao sang cướp phá. Đã đi tu vẫn không trễ nải việc
nước. Trưốc sau đời sông vẫn giản dị. Sự nghiệp phục hưng vẻ vang
hiển hách.

145
p \ià GIỢC m à NGUYÊN
sơ Lược LỊCH sử ĐẾ Qưổc MÒNG cổ
0 phía bắc Trung Quôh có dân tộc Mông cổ khoảng thượng
lưu Hắc Long giang (Amour) sông du mục, hung tỢn, háo chiến,
người nào cũng giỏi võ nghệ, đánh đao bắn cung tài. Lại có được
giống ngựa Hồ sức dẻo dai, ăn ít, cỏ vàng lá úa cũng đủ. Bộ đội
thường là quân kỵ, hàng ngũ sắp đặt rất khuôn phép, trật tự,
thành thạo nghề chiến đấu.
Tiền thân là nước Hung Nô. Thòi Chiến Quốc, hay sang cướp
ở các nước Triệu, Nguy. Tần Thuỷ Hoàng kiêm tính sáu nước, mà
không chiến thắng được Hung Nô, lại còn sỢ Hung Nô sang đánh,
nên mối xây Vạn Lý trường thành. Các triều Hán, Đường vẫn coi
Hung Nô là mốì lo ngại. Thế kỷ V, tướng Hung Nô A Đê Lạp
(Attila) đánh sang tận Tây Au. Nơi nào ngựa Attila đi qua, cỏ
không mọc được nữa. Thế kỷ XII, người Nữ Chân Mãn Châu diệt
nước Liêu, chiếm miền bắc Trung Quốc, lập nên nước Kim, mà
không thắng nổi Hung Nô. Tù trưởng Hợp Bất Lạc trỗi dậy, tổ
chức quân đội mạnh, khởi thuỷ dựng nên quốc gia Mông cổ. Nưốc
Mông Cố gồm 30 sắc dân, có sắc dân Thát Đát đông người và hùng
mạnh hơn cả. Nhiều người quen gọi mọi người Mông cổ là Thát
Đát (Tartare).
Cuối thế kỷ XII sang thế kỷ XIII, các sắc dân Mông cổ tôn tù
trưởng Thát Đát là Thiết Mộc Chân (Témoudjine) làm thủ lĩnh.
Thiết Mộc Chân, anh hùng siêu việt, dựng Mông cổ thành đế quốc
trung ương tập quyền hùng mạnh. Toàn dân nam giới từ lõ đến
70 tuổi đều phải tòng quân, lấy chiến tranh làm nghề nghiệp.
Chiến thuật là thần tổc, xuất kỳ bất ý. Càng đánh càng thắng,
càng thắng càng đánh nữa, chẳng bao lâu chiếm được cả vùng
Trung Á cùng Ba Tư, sang đến đông bắc châu Âu. Năm 1206,
xưng là Thành Cát Tư Hãn (Gengis Khan), tức Đại hoàng đế
Mông Cổ. Sau diệt nước Tây Hạ, đánh lui người Kim xuôAg Biện
Kinh, lại dẹp bộ lạc Nài Mãn, chiếm khu vực rộng lốn từ Altai đến
Oural, diệt nước Hồi Hồi, phá nước Khâm Sát giáp Nga, rồi tiến
vào Nga, đánh bại quân đội Nga, bắt sống các vương công, phá
146
phách, giết chóc khủng khiếp. Đến đòi con là Oa Khoát Đài
(Agotai) diệt hẳn nước Kim, xâm nhập Nga, rồi đánh Hung, Ba
Lan, Tiệp đập tan đội kị binh Tô Tông hên quân Ba Lan và Đức.
Các triều đình Tây Âu đều xôn xao. Đến đòi Mông Kha (Mongke)
cũng tài cao về chính trị và quân sự. Kinh đô đóng ở Thượng Bộ
(Chang Tou), sai em Hôd Tất Liệt (Koubilai) đi đánh Nam Tống,
em Hạt Lỗ (Houkegen) đi đánh Ba Tư và các nước Á Rập.
Trong khi Hốt Tâd Liệt chiếm xong Tứ Xuyên, kéo quân đánh
Tống ỏ Hàng Châu thì tướng của y là Ngột Lương HỢp Đài
(VVouleangotai), năm 1253, đánh chiếm nước Đại Lý (Nam Chiếu cũ).

PHÁ QUÂN MÔNG CỔ


XÂM LẢNG LẦN THỨ NHẤT 1257 - 1258
Bình định xong nước Đại Lý, Nguyên Hiến Tông Mông Kha
sai Ngột Lương Hợp Đài đem quân sang đánh nước ta, để vừa
chiếm đất, vừa lấy đường tiến đánh vào hậu cứ nhà Tông. Quân số
giặc khoảng độ 3 vạn.
Tháng 8 âl năm 1257, nghe tin quân Mông c ổ sửa soạn sang
đánh nước ta, chủ trại Quy Hoá Hà Khuất, cáo cấp về triều. Trần
Thái Tông sai tả hữu tướng quân đem quân thuỷ bộ lên ngàn giữ biên
giối tây bắc theo sự tiết chê của Trần Quốc Tuấn, đóng quân ở Thuỷ
Vĩ (Lao Cai). Một mặt truyền lệnh cho toàn quân toàn dân chuẩn bị
kháng chiến, rèn đúc vũ khí, đóng thuyền chiến, xe vận tải, chỉnh đôh
hàng ngũ binh sĩ, may quân phục, thu góp lương thảo.
Ngột Lương Hợp Đài sai sứ sang dụ triều đình ta theo phục
Mông Cố và cùng chúng đi đánh Tông. Thái Tông không chịu, bắt
giam sứ giả, luôn hai lần. Thái Tông tự làm tướng, đóng quân ở
Bình Lệ Nguyên, bến sông Hồng bên dưới ngã ba Hạc, nay là xã
Tam Canh giáp giới hai tinh Vĩnh Yên và Phúc Yên, ngăn giặc.
Không thấy sứ giả trở về, tướng Mông Cô kéo quân sang
đánh nước ta, hai đạo cùng tiến. Đông đạo vượt ải Hà Dương (Hà
Giang) theo dòng Thanh Giang (sông Lô) qua Tuyên Quang đi
xuông. Tây đạo, đông điic hơn, theo đường sông Thao (thượng lưu
sông Hồng) xâm nhập Thuỷ Vĩ, khí thế rất mãnh liệt. Trần Quốic
Tuấn ít quân, địch lại không nổi, rút quân về mạn Sơn Tây, bảo
toàn lực lượng. Giặc hỢp quân hai đạo ở Việt Trì, kéo xuống đóng ở
hữu ngại sông Hồng. Ngày 12 - 12 âl vượt sông sang đánh, thế
hung dữ. Thái Tông tự đi dẫn đầu, xông pha trận mạc. Tướng Lê
Tần tức Lê Phụ Trần lúc nào cũng theo sát bên mình hộ vệ vua.
147
Quân ta thê kém, thuỷ bộ quân phải rút lui theo dòng sông Phú
Lương (sông Hồng). Binh thuyền giặc đuổi đánh, bắn nhiều tên.
Lê Phụ Trần cầm sạp thuyền che đỡ cho vua. Tướng Phú Lương
hầu tử vong. May gặp bộ binh vừa kéo đến cứu, đám binh thuyền
tiền quân giặc không nhiều, phải bỏ cuộc.

B ản đồ kháng chiến chống quân


M ông C ổ xâm lăng lần thứ nhất 1257-1258

Ngột Lương Hợp Đài có âm mưu bắt sốhg vua Trần, truyền
lệnh cho tướng tiền phong Triệt Triệt Đô đem quân qua sông thì
không đưỢc đánh ngay, phải lừa cướp lấy các thuyền bè trước đã.
Đến khi trung quân và hậu quân sang thì cùng nhau đánh thực
mạnh. Vua Trần chạy ra sông, không có thuyền, phải chạy bộ, tất
sẽ dễ bị bắt. Tiền quân qua sông, bị đàn voi xung kích. Giặc bắn
tên vào chân voi. Voi đau lồng trở lại, dày xéo cả lên quân mình.
Hàng ngũ mất trật tự. Tiền quân giặc, chắc phần thắng, bèn tiến
đánh mạnh. Quân Trần thua nhưng vua tôi kịp thời xuông thuyền
rút lui. Triệt Triệt Đô, trái quân lệnh, sỢ tội, uông thuốc độc tự tử.
Quân Trần chạy về đóng ở một bến bên sông Phú Lương, nơi
đây không có thành quách để giữ, lại phải rút lui nữa. Quân giặc
thuỷ bộ đánh đuổi theo. Thái Tông và Lê Phụ Trần tế ngựa chạy,
148
giặc đuổi gấp. Tướng Phạm Cự Trích đem quân đến cứu giá. Vua
và Lê Phụ Trần chạy thoát. Phạm Cự Trích bị giặc giết.
Quân kỵ chạy đến Phù Lỗ, vừa qua cầu, Thái Tông sai phá
bỏ cầu đi. Giặc đuổi theo đến nơi, vướng sông, phải dò tìm chỗ
nông cho ngựa vượt qua, mất nhiều thì giò thì trong khi ấy, vua
tôi nhà Trần đã chạy đi đưỢc xa.
Quân thuỷ bộ rút về đến kinh thành Thăng Long thì tại đây
chưa kịp tập trung quân đội các nơi về mà giặc thì đuổi theo sát
đến Đông Bộ Đầu, nay là bến Hàng Than Hà Nội. Thế giặc hung
dữ, Thái Tông ra lệnh cho quân rút bỏ nơi này. Quân đội rút theo
dòng sông Hồng, đóng lại tại khúc Thiên Mạc thuộc huyện Đông
An, nay là phủ Khoái Châu, Hưng Yên.
Ngày 1 5 - 1 2 âl, quân Mông cổ kéo vào trong thành. Chúng
thấy ba sứ giả sai đi trước còn bị trói, giam trong ngục; cởi trói ra
thì một người đã chết. Chúng tức giận, xua quân ra bắt giết hết
mọi người già, trẻ, trai, gái còn ở trong thành, không kể sự cướp
bóc của cải.
Thế nưốc gặp khó khán, Thái Tông đi thuyền nhỏ đến thuyên
Trần Nhật Kiêu hỏi kế. Nhật Kiểu viết hai chữ “nhập TôKg”. Hỏi
tình hình quân đội thì đã cho chiêu tập, chưa thấy về. Thái Tông
lại dời thuyền đến hỏi thái sư Trần Thủ Độ. Thủ Độ thưa; “Đầu tôi
chưa rơi xuông đất thì bệ hạ không phải lo ngại gì”. Thái Tông
nghe nói cứng cỏi vậy, trong lòng mới yên. Thủ Độ giữ chức tham
mưu trương cương quyết, do đã sắp đặt kế hoạch phá giặc, thu góp
các đạo quân từ miền trên xuông, một mặt tập hỢp thuỷ lục quân
các lộ về, mưu khôi phục kinh thành. Chỉ trong mấy ngày, quân
đội các nơi kéo về đông, thế lực nổi to. Quân ta phản công ngay lúc
giặc không ngờ.
Ngột Lương Hợp Đài sai hai sứ giả đến chiêu an. Thái Tông
tức giận giặc tàn sát dân Thăng Long, sai trói hai sứ giả, cho trở
về, đồng thòi tiến quân phá giặc. Ngày 24 - 12 âl, quân Mông cổ
vừa mới chiếm đóng kinh thành được 9 ngày, Thái Tông cùng thái
tử Hoảng, Lê Phụ Trần, Trần Quốc Tuấn dẫn đại quân tiến đến
Đông Bộ Đầu, mở trận phản công quyết liệt. Giặc thua to, vội vã
bỏ kinh thành xuông thuyên chạy mãi ngược dòng sông trở về
nước. Giặc chạy đi quá đột ngột, quân ta không kịp bô" trí đón
đánh, mà quân đánh đuổi đằng sau cũng không bắt được gì.
Khi chúng qua trại Quy Hoá, chủ trại Hà Bống đem quân
binh người Thái ra đánh úp, giặc bị thiệt hại nhiều. Trên đường
149
tháo chạy vội vã, quân Mông cổ không cướp phá dân chúng nên
người ta gọi là giặc Bụt.
Nguyên sử chép: Quan quân (Mông cổ) chiếm đóng kinh
thành nước Nam, ở lại chín ngày, vì khí hậu nóng nực nên rút
quân về. Lại sai sứ giả đi gọi Man vương Trần Nhật cảnh về, trả
nước cho. Quân tuần tiễu không có ý chiếm đóng đất đai, đi đến
đâu lại không cướp phá dân chúng, nên dân Man gọi là giặc Bụt.

Sử gia phương bắc, quá chủ quan, không bao giò chịu thừa
nhận những cái yếu, kém của mình. Xét bấy giò là tháng chạp âm
lịch, đang mùa rét lạnh, đâu có nóng nực gì. Đi đánh nưốc người
mà không chiêm đâ't, bắt người, cướp của thì xuất quân làm gì? Sử
gia Trần Trọng Kim cũng lầm theo Bắc sử chép; quân Mông cồ ở
nước Nam không quen thuỷ thổ, xem ra bộ mỏi mệt.

Giặc l(ịi, nước ta lại phục hồi. Ngày mùng một tết Mậu Ngọ,
Thái Tông ngự triều, định công ban thưởng, phong Lê Phụ Trần
làm ngự sử đại phu, Hà Bổng tước quan nội hầu. Có thể Trần
Quốíc Tuấn được phong là Hưng Đạo vương vào dịp này.

Quôh sử không chép được kỹ về trận phản công oanh liệt này.
Chắc chắn có sự bô" trí rất chu đáo clo mưu cơ của Trần Thủ Độ, Lê
Phụ Trần và Trần Quô"c Tuấn, khiến cho chỉ sau một trận đánh,
mà Ngột Lương Hợp Đài, tưống đại tài, nhiều kinh nghiệm, đã phải
vội vã rút quân sớm, chạy mau về nước.

Ảnh hưởng chiến thắng rất lớn, nhân dân hoàn toàn tin
tưởng vào vua Trần, không còn ai mong p h ụ c L /n ữ a, lại vững tâm
bảo vệ tố quốc, từ đây không e ngại quân địch hùng mạnh.

TÌNH HÌNH ĐÊ QUỐC


MÔN(Ỉ CỔ NỬA CUỐI THẾ KỶ XIII
Đế quôh đã rộng lớn, người Mông cổ còn muôn mở mang
thêm đất đai về phương đông và đông nam, đánh chiếm nốt đất
Trung Quốc. Bấy giờ, nhà Nam Tông suy nhưỢc nhưng dân Hán
không phục lũ man di, vẫn lai rai chông đôi. Không thể đánh mau
thắng mau được, Mông cổ đổi dùng kế sâu tằm ăn lá.
Năm 1259, Nguyên Hiến Tông Mông Kha đi vây đánh thành
Điếu Ngư, trúng tên chết. Người em là A Li Bất Kha nhiếp chính,
150
chiếm quốc đô. Hô"t Tất Liệt đang vây thành Vũ Xương, bỏ về
tranh ngôi. Năm 1260, tự lập làm vua đóng ở Khai Bình, đặt quốc
hiệu là Nguyên. Ay là Nguyên Thế Tổ. A Li Bất Kha cầm cự lai
rai, đến năm 1264 mối chịu hàng. Nguyên Thế Tổ cũng anh hùng
như ông nội, rất háo chiến. Trừ được nạn tâm phúc, phong em Hốt
Kha Kích là Vân Nam vương giữ miền tây, lại tự cầm quân đi
đánh Tông, thanh thế ngày càng lớn. Năm 1267, thiên đô về Yên
Kinh - Bắc Kinh ngày nay, gọi là Đại Đô. Nám 1271, đổi quốc hiệu
là Đại Nguyên. Năm 1275, hãm Tương Dương, đánh bại quân
Tông. Lực lượng Tông tàn tạ. Năm 1276, hãm Lâm An, bắt giam
TôAg Cung đế. Năm 1279, hãm Nhai Sơn, nhà Tông mất hẳn.
Nước Triều Tiên đã sớm quy thuận Mông cố sau khi nước
Kim bị diệt, năm 1234.
Hô"t Tất Liệt chưa thoả mãn chiếm được toàn thê đất Trung
Quốc lại mưu đồ đánh chiếm Nhật Bản, Đại Việt, Champa, Chân
Lạp, Xiêm La, Miến Điện và các đảo quốc đông nam Á. Ngay sau
khi vừa thiên đô về Yên Kinh, còn đang phải bình định nhiều nơi
Trung Quốc, cơ quan chuyên việc chuẩn bị chiến tranh xâm láng
hải ngoại Trung Thư sảnh đã được thành lập, không quản tôn
công tôn của.

VIỆC BANG GIAO VỚI NHÀ NGUYÊN DƯỚI


THỜI CÁC TRIỀU THÁI TÔNG VÀ THÁNH TÔNG
Ngột Lương Hợp Đài thua trận chạy về Vân Nam đầu nàm
1258, Nguyên Hiến Tông lại sai Nạp Thích Đinh sang sứ. Thái
Tông thấy thế Mông cổ đang lên mạnh, liệu khó có thế chông lại
mãi với chúng được, sai Lê Phụ Trần và Chu Bác Lãm sang sứ,
xin ba năm một lần công. Năm 1261, Nguyên Thế Tổ sai Mạnh
Giáp và Lý Văn Tuấn mang thư sang dụ rằng: Quan lại sĩ thứ
người An Nam, phàm mũ áo, lễ nghi, đều được theo chế độ cũ của
nước mình. Vua Nguyên phong Thánh Tông làm An Nạm quốc
vương. Định lệ côAg ba năm một lần. Công phẩm rất nặng nề,
tuyển những nho sĩ, thầy thuốc, thầy tướng sô”, thầy bói và các thợ
thuyền, mỗi hạng ba người, cùng với sản vật trầm hương, qùan
quế, sừng tê, ngà voi và các vật lạ. Lại đặt quan chưởng ấn đạt lỗ
hoa xích giám sát triều đình ta. Thánh Tông chịu nhận quan giám
sát và dâng mọi sản vật quý địa phương, không tiến người. Qua
nám 1267, vua Nguyên lại đòi: Vua ta phải thân hành sang chầu,
vua phải cho con hay em sang làm con tin, kê nạp sô” dân trong
151
nước, nạp binh dịch, thuế má. Sau lại còn đòi dẫn độ mấy người
Hồi Hột, nghi là người Tôhg, đòi công voi, hỏi về cột đồng Mã Viện
dựng ngày trước. Thánh Tông dùng mọi cách thoái thác, không
chịu, lại xin bãi quan giám sát, chỉ đặt quan dẫn tiến sứ (tựa như
đại sứ ngày nay). Vua Nguyên không nghe. Năm 1268, Hôd Lung
Hải Nha sang làm đạt lỗ hoa xích, Trương Đình Trân làm chức
phó. Hai người này cực kỳ kiêu ngạo, đòi đứng trên vua ta (Bắc sử
chép đòi ngang). Thánh Tông không chịu. Hai người tức giận bỏ về
nước. Người Nguyên trách ta không dùng lễ nhân vương đốì vối sứ
giá. Giấy tờ mấy lẳn đi lại không xong. Lê Đà và Đinh củng Viên
sang Nguyên biện bạch. Quan Nguyên nói: Người của thiên tử sai
đi dù chức nhỏ, xưa Khổng tử vẫn kê trên các vua chư hầu. Sứ ta
cãi: Quả quân đã được thiên tử phong vương, há không phải cũng
là vương nhân sao? Tình thế ngày nay đổi khác: Xưa thiên tử có
dất vạn dặm. chư h(ầu chỉ có đất trăm dặm, nên mới chịu ở dưới
người của thiên tử sai đi. Nay quả quân có đất ngàn dặm, chỉ dưới
thiên tử thôi. Sứ thần ta lại phản đôl sự gọi nước ta là Nam Man.
Rồi việc cũng thôi. Người khác được cử sang thay. Vua Nguyên đòi
hổi nhiều thứ. Bên ta vẫn cứ mềm mỏng nhưng ít chịu nhượng bộ.
Một mặt chỉnh đôn quân đội, rèn đúc vũ khí, đóng thuyền xe vận
tải, tích trữ lương thảo, chuẩn bị kháng chiến. Đại xá các tù phạm
nhưng những người trước đây hàng giặc, quân cũng như dân
không đưỢc hương ân huệ này.

VIỆC BANG GIAO VỚI NHÀ


NíỉlIYÊN DƯỚI TRIỂƯ NHÂN TÔNG
Nhân Tông lên ngôi, tiếp tục lo quôh phòng, chuẩn bị kháng
chiến chông quân xâm lăng, sai thiền sư Linh Đạt đi sứ qua
Champa và Chân Lạp, giả tiếng đi truyền giáo, thực sự bàn
chuyện hỢp tác cùng chông quân nhà Nguyên đang muôh mở rộng
đất đai... Có thể có giao dịch với Xiêm La, Miến Điện và các đảo
quổc bàn việc chông kẻ thù chung, sử chép: Có sứ giả Sách Mã
Tích (Mã Lai?) sang ta. Việc bang giao với nhà Nguyên gặp nhiều
K h ó khăn, phức tạp hơn trước.
Nhân Tông lên ngôi, sai Lê Khắc Phục sang Nguyên xin
phong. Nguyên Thế Tổ sai Sài Xuân sang bắt lỗi lập vua không
xin phép. Sài Xuân cực kỳ kiêu ngạo, không giữ lễ phép, cưỡi ngựa
vào thắng Dương Minh. Lính canh ngăn lại. Y lấy roi ngựa đánh
vào đầu. Tướng quổc Trần Quang Khải đến sứ quán tiếp kiến,
152
Xuân nằm yên khôn^ thèm ra. (ịuang Khải đi thẳng vào trong, y
cũng không chịu dậy. Hitng Đạo vương hoá trang làm nhà sư'
Trung Quôc đến sứ quán. Xuân đứng dậy, vái chào mời ngồi, pha
trà cùng uông (Tục ngiíời Mông cố rất trọng vọng các vị thiền sư).
Xuân sai người dua thư trách Nhân Tông dám tự lập, không
xin phép ra chất vấn. dòi sang chầu thiên tử tạ tội. Nhân Tông
theo lệ cũ, dặt yến ỏ' hành lang tiếp đãi, Xuân không thèm dự,
giận dỗi hổ ra về. Nhân Tông sai người đem thư xin lỗi, đặt yến
tiệc ở điện Tập Hiền, cho mòi ha bôn lần, Xuân mới chịu đến dự.
Nhạc công tài hoa hoà tấu bản nhạc Thái Thường hiến sứ giả làm
vui. Nhân Tông nói: “Vì sinh trưởng trong cung cấm, không quen
nắng gió, không đi sang chầu được”. Xuân nói; “Sao chúa nhà
Tông, cũng sinh trưởng trong thâm cung, còn đến kinh sư được?”
(Chúa nhà Tôhig mâT nước, bị Ccầm tù, lại là trẻ con. Người Nguyên
hành hạ thê nào mà chẳng phải chịu). Xuân đem ví với vua ta là
khinh mạn tột hực. Nhân Tông phải cô" nhịn làm như không nghe
thấy gì.
Xuân về nước, Nhân Tông sai Trịnh Đình Toản và Đỗ Quô"c
Kế sang Nguyên dâng con voi dạy đã thuần. Quan nhà Nguyên
cho ]’ằng trang sức có lỗ che tội lỗi, bàn nôn tiến quân sang đánh.
Vua Nguyên chưa quyết, do bấy giò đang sửa soạn gấp đi dánh
Nhật Bản, háo thù trận thua năm 1274, tạm giữ Đình Toản lại.
Tháng 11 âl cùng năm ấy (1279) lại sai Sài Xuân đi sứ lần thứ hai,
cùng với ha viên phó sứ nữa, đem theo Đỗ Quôc Kế, mang chiếu
chỉ dụ rằng: Nếu vua nước Nam không sang chầu được thì phải
lấv vàng đúc hình người thay thân, hai hạt châu thay mắt, cho đệ
sang. Thêm vào dấy phải nộp nho sĩ và các phương kỹ, cùng con
trai, con gái mỗi'hạng hai người. Nếu không thì hãy tu sửa thành
quách mà đợi xét xử.
Tình thế rất gay go. (r^ua năm 1280, Nhân Tông sai chú họ
Trần Di Ái cùng các quan Lê Tuân, Lê Mục sang Nguyên thay
mình. Nguyên chúa không hằng lòng nhưng chưa thực hiện ngay
đưực lòi đe doạ, vì đồng thòi không thế cử hai đoàn quân cùng đi
viễn chinh. Nguyên chúa ý muôn nắm chặt quyền thông trị nước
ta, hạ chỉ đặt An Nam tuyên uý ty, bổ dụng các quan liêu thuộc,
đế cho đi quản trị dến các cấp châu huyện. Như vậy, các cấp hành
chính dù thấp cũng do quan nhà Nguyên kiểm soát.
Bọn Trần Di Ái sang Nguyên, chẳng rõ ăn nói với Nguyên
chúa ra sao mà Nguyên chúa lại phong cho Di Ai làm An Nam
153
vương, Lê Mục làm hàn lâm học sĩ. Lê Tuân làm thượng thư
( ị ik Í c
lệnh. Bấy giờ là năm 1281. Làm vậy, Nguyên chúa không phai cỏ
ý lập ngay chính quyển tay sai, mà thâm ý chỉ muôn dò xem vua
Trần chủ chiến hay chủ hoà. Di Ai, ít tài đức, lại không có lực
lượng gì. hị mê hoặc tương có thể nhờ thí' nhà Nguyên nên ra thì
hương phú quý, không nên việc thì nói là hị vua Nguyên ép. Nhân
Tông nhân từ lại sùng Phật, chắc không nỡ gia hình người họ.
Năm 1282, Nguyên chúa phong Sài Xuân làm An Nam tuyên
uý sứ, đô nguyên suý, đem 1.000 quân đưa họn Di Ai về nước,
cùng với các quan liêu thuộc tuyên uý ty, lại đưa chiêu chỉ huấn
dụ mọi người trong hoàng tộc và quan lại hên ta.
Sài Xuân dưa họn Di Ai đến gần hién giới. Trấn hiên đưa tin
phi háo về kinh đô. Nhân Tông sai tướng dem quân đón đánh lũ
nghịch thần. Binh sĩ Nguyên thấy quân hên ta đông, hốt hoảng hỏ
chạy. Sài Xuân được “rước” về Thăng Long. Nhân Tông và Trần
Quang Khải giá dạng cung kính, ân cán tiếp đãi, sai người trang
trọng đưa vê nước. (VSTGCM chép Xuân hị trúng tên chết. VNSli
chép hị hỏng một mắt). Bọn Di Ái. Tuân, Mục trôn về nước. Nhân
Tông không nỡ giết, chỉ đày làm lính.
Sài Xuân nhục nhã trơ về nước. Nguyên chúa quyết tâm
dùng đại hình đi đánh thôn tính nước ta nhưng việc chưa thể
thi hành ngay được do đám quân di đánh Nhật Bản lần sau,
năm 1281, lại hị đại hại. Nay miuín mơ cuộc chinh nam, phải
sửa soạn trong vài năm nữa. Ti'ong khi chò đợi, năm 1282,
Nguyên chúa lại sai Lương Tăng, sang dụ vua ta sang chầu. Sứ
giả lần này không hách dịch, Nhân Tông vẫn thoái thác không
chịu đi, sai Hoàng ư Lệnh và Nguyễn Chương theo sứ giả sang
giao thiệp với Nguyên triều.

QUẢN NHÀ NÍỈUYÊN


SỬA SOAN SANG ĐÁNH TA
Nguyên chúa Hôt Tất Liệt vẫn muôn trực tiếp thông trị nước
ta, còn đê vua quan hản xứ thì chỉ dùng làm tay sai cho quan nhà
Nguyên. Trong suốt 20 năm, dùng đủ mọi cách, vừa dụ dỗ, vừa đe
dọa không đi đến đâu, hèn quyết tâm dùng quân sự đánh chiếm.
Champa cũng là nơi chúng muôn chiếm, rồi từ đấy sẽ tiến quân ra
đánh lấy Chân Lạp, Xiêm La ,và các đảo quốic miền nam và đông
nam A. Không đánh An Nam trước rồi nam tiến, giặc giảo quyệt
tính sự đánh Champa trước, rồi sẽ dùng người Chăm phụ với
154
chúng đánh ra nước ta, (lo biêt rằng người Chăm, tuy là thu()c
C}U(ÌC, vẫn thường không quý gì người Việt.
Tháng 11 âl năm 1281, hành trang sảnh Chiêm Thành
(Cliampa), cơ quan trực tiêp chỉ đạo cuộc xâm lược nước này được
lập ơ Kinh Hồ. Nguyên chúa cử Toa Đô (Sogotu) làm chánh tướng,
Đưílng Ngột Ngãi làm ph('), sửa soạn viễn chinh.
Đê đi đánh ta, Nguyên chúa cử con trai thứ chín Thoát Hoan
(Togan). người đã lớn lên trên mình ngựa, làm Trcấn Nam vương,
tổng chí huy; A Lý Híii Nha (A Ric Kha Ya) danh tướng tàn hạo,
làm chức phó, các tiídng khác; 0 Mã Nhi (Omar), Phàn Tiêp, A
Hát Xích, Lý Hằng, Lý Quán, Khoan Triệt... đều từng dày dạn
trong chiến trưclng. (ịiiân sf/ trên dư(Si 30 vạn nhưng chúng phao
lên rằng 50 vạn, đế áp đảo tinh thần quân dân ta.
Thoát Hoan cùng các trong đặt hành trung thư sảnh (ỉ Hồ Quảng.
Huấn luyện quân đ()i, chinh d(')n hàng ngũ, đợi ngày xuất chinh.
Vân Nam vương Hôt Kha Kích được lệnh cử híin vạn quân
Vân Nam. Quý Châu, sẵn sàng tham chiến, đột nhập An Nam
phía tây bắc. Tướng N ọ Ị ) 1\tc L<ạt Đinh (Narirutdin) chỉ huy đạo
quân này.
Nhà Nguyên sửa soạn viễn chinh khá chu đáo: Quân sĩ
nhiều và mạnh, vũ khí sắc bén nhưng phạm lỗi lầm quen thói cũ
dùng chiến tranh nucii chiến tranh, không mang đi theo nhiều
lương thực đủ nuôi quân lâu dài.

HÔI N(ỈHI HÌNH THAN


3'háng 8 âl năm 1282, .thú thần châu Lạng Lương Uất dò
được tin, báo cáo về triều: Hữu Thừa Toa Đô sắp sửa đem 50
vạn quân sang đánh ta, nói i’cằng mưỢn đường đi đánh nước
(hiampa. Nhân Ttmg phong Trần Quang Khải làm thưcỊng
tướng thái sư, hội viiơng háu tôn thất bách quan tại Bình Than
hàn kế chống giữ. Xã Bình Than thuộc tổng Vạn Ty, huyện Gia
Bình, Bắc Ninh, chỗ síUTg Đuống nôl với sông Thái Bình, bên
kia là xã Trầm Xá, huyện Chí Linh, Hải Dương. Hội nghị họp
tháng 10 âl.
Tuy rằng bên ta đã hiết rằng chiến tranh sớm muộn tất sẽ
diễn ra và đã đề phcmg kháng chiến, điều không ngờ là giặc huy
dộng sô" quân quá lỏn nên các vương hầu nhiều người cũng núng.
Người hàn đưa công Ịihẩm sang xin hoãn binh. Người bàn tạm cho
mùỢn đường, rồi sau sẽ liệu. Duy có Trần Quổc Tuấn và Trần
155
Khánh Dư có ý kiến cương quyết chống giữ: Giặc đông thì thành
phần phức tạp. dễ chia rẽ, lương thực lại cần nhiều, ta dùng kế
triệt lương chúng. Nhân Tông nghe theo, chủ chiến, chia quân
dóng giữ các nơi hiểm yếu. Lê Phụ Trần cử hí mật đem 1 vạn quân
thuỷ với 100 chiến thuyền đi giúp Champa. Vương hầu nức lòng
chiêu mộ và huấn luyện gia tướng, gia binh, rèn đúc vũ khí, đóng
thuyên, xe vạn tải.
Với sự đồng ý của thượng hoàng, Nhân Tông cử Hưng Đạo
vương Trần Quôh Tuấn làm tiết chế thông lĩnh chư quân chông
giữ quân Nguvên. Lại hội các vương hầu điều động quân thuỷ hộ,
mở cuộc duyệt binh lổn. điểm quân Sf) có được 20 vạn, thâv đủ đế
chông giặc dông hơn. Chia quân Trần Khánh Dư giữ Vân Đồn
phòng thuỷ quân giặc, Trần Nhật Duật trân thủ Tuyên Quang
chống quân Vân Nam, Trần Bình Trọng đóng quân ở Bình Than
giữ vùng trung châu, Trần Quang Khái vào giữ bơ biển Nghệ,
dinh. Bô" Chính. Hưng Đạo vương đóng dại quân ở Vạn Kiếp, khi
cán sẽ tiến giữ mặt Lạng Châu.
Tôn thất có thượng vị hầu Trần Lãơ cho rằng kháng Nguyên
là điên rồ, bị phạt 1.000 quan tiền và đồ làm lính.

TOA ĐỔ ĐI ĐÁNH CHAMPA


Tháng 11 âl năm 1282, Toa Đô dẫn 15 vạn quân ra Quảng
Châu, vượt biến sang đánh nước Champa, tiến binh vào cửa Thi
Nại - nay là Qui Nhơn, đánh mạnh, lấy đư ợc thành này, thừa
thắng kéo quân Vcào chiếm kinh đô Chà Bàn. Vua Champa bỏ
chạy, rồi đê hocãn binh, sai sứ trá hàng. Một mặt chỉnh đôn hàng
ngũ quân đội, tháng 2 âl năm sau kéo đại quân về đánh vào doanh
trại quân Nguyên. Giặc bị đánh không ngờ thua to, bỏ chạv ra
biển, xuông thuyền.
Sau mấy lẩn tấn công thâ"t bại, Toa Đô đem quân trở ra đánh
chiêm hai châu 0 và Rí - nay là Quảng Trị, Thừa Thiên - ỏ bên
ngoài đèo Hải Vân, sai quân sĩ vỡ đât trồng trọt cày cấy để lấy
lương ăn, tính kê lâu dài.
Tướng giỏi đem nhiều quân đi đánh nước nhỏ mà khỗng nên
việc, phần vì người Chăm có người Việt giúp sức, hăng hái quyết
để kháng, phần Toa Đô không cô" gắng hết sức mình, do sự xuất
quân có mục đích đánh chiếm An Nam, một khi bình xong An
Nam thì lấy Champa dễ dàng, nên tạm đóng quân, chò lệnh sẽ
tiến ra bắc.
156
THOÁT HOAN XIIẪT QUÂN ĐI CHINH NAM
Toa Đô đem binh đi rồi, trung thư sánh tiếp tục ráo riết ngàv
đèm làm việc dê Thoát Hoan tiến hĩnh đi chinh nam.
Nãm 1283, Nguyên chúa tha cho về nước họn Trịnh Đình
Toán và tước minh tự họ Phạm sang sứ năm 1279 hị giữ lại và sai
Đào Đình Trực đem tỷ thư (quóc thư có đóng dấu ngọc tỷ) sang dụ
bên ta cho mượn diíờng quản thiôn triều đi qua tiến đánh
Champa, giúp binh hícỉng cùng đi đánh nước này. Đầu năm 1284,
lại yéu sẩch vận luìing đến Champa giúp vào việc quân.
Nhân 'rông sai 'Prần Đức Quán và Trần Tự Tông sang
Nguyên, nói; Từ biin quốc đến Champa, đường thuỷ đường bộ đều
không tiện và xin tuỳ sức mà cung quân lương. Nhà Nguyên vẫn
yêu sách ta phái dọn dường và giúp lương.
Nửa CLiôi năm 1284, mọi công việc chuẩn hị hoàn tất,
Thoát Hoan cùng các tướng đem quân hai đạo thuỷ bộ nam
tiến. Nguyên chúa căn dặn Thoát Hoan chớ thâV Giao Chỉ nước
nhỏ mà khinh thường.
Nghe tin quân Nguyôn rầm rộ nam tiến, Nhân Tông sai Trần
Phú sang Kinh Hồ hành sảnh xin hoãn binh, dâng thư xin đừng
đánh Champa nữa. Nước này là thuộc quốc của An Nam thì cũng
là tôi con của thiên tử. Việc nước Champa xin dàn xếp êm đẹp mà
thương nghị lại. Nguyên chúa không nghe, sai Thoát Hoan cứ tiến
binh, lại sai quan bảo với sứ thần ta rằng: Thiên triều không có ý
thôn tính An Nam, cũng không thôn tính Champa. sở dì đem
nhiều quân qua đó, mục dích thiết lập căn cứ quân sự, để tiện việc
xuất binh đi đánh các đảo quốc chưa thần phục. An Nam đừng lo
ngại gì. nên mở đường cho quân thiên triều đi.

HỔI NGHỊ DIÊN HổNG


Thượng hoàng và Nhân Tông thấy rõ chiến tranh không còn
trì hoãn được nữa, lập tức cho triệu các bô lão nhân gian, hội tại
điện Diên Hồng, bàn xem nên hoà hay nên đánh. Các hô lão đồng
thanh p h ả i đán h, không một ai nói khác. Vua thấy lòng dân như
vậy, cương quyết kháng cự. Tổ chức hội nghị này có tính cách dân
chủ, động viên được toàn dân kháng chiến. Các bô lão xưa nay chỉ
quanh quất trong lảng xã, được vua mòi đi bàn việc nước, là hân
hạnh lớn, khi trơ về thành lập các toán dân quân nghĩa dũng
tham dự kháng chiến, giúp đỡ quân nhà vua.
157
QUÂN Ní.UYÊN SANC;
ĐẢNH NƯỚC TA LẨN THỨ HAI 1284 - 1285
QUÂN NGUYÊN XÂM NHẬP ĐẤT Nước TA - Mùa thu năin .1284,
Thoát Hoan dẫn đại quân đến Quảng Tây đê tiến sang nước ta.
qua nẻo r^ạng Sờn. Một đạo quân nữa do tướng Nạp Tốc ljạt Đinh
chỉ huv, từ Vân Nam tiến sang theo dòng sông Thao (sông Hồng)
và sông Lô.
Hưng Đạo vương dẫn quân lên mạn biên thuỳ dôi phó, đóng
giữ các ái Khả Ly, Kỳ Cấp và Lộc Châu, chiến thuyền thuỷ quân
đóng ở bến Bãi trên sông Lục Nam. Lộc Châu nay là lỵ sỏ châu
Lộc Bình. Kỳ Cấp hay Khâu Cấp, còn gọi là Khâu Khúc là tên núi
thuộc hạt Lộc Bình. Khả Ly thuộc vùng l^ạng Sơn, không rõ đích
nơi nào.
Gần đến ải quan, Thoát Hoan sai người đưa thư sang nhắc việc
mưỢn đường đi đánh Champa và đòi giúp lương thực. Nhân Tông trả
lời không có đường nào thuận tiện. Còn việc giúp lương thì tuy nước
nghèo, dân bữa no bữa đói, cũng không dám trái, xin đến dịa đầu
châu Vĩnh An đợi góp nộp. Thoát Hoan thúc quân tiến đến biên giới
Lộc Châu, lại đưa thư sang, vừa dỗ dành, vừa dọa nạt: Kháng cự
thiên binh, hản suý sẽ không dong tình, phá tan hờ cõi.
Từ Trung Quốc dến Champa, dùng thuyền vượt hiến thuận
lợi, cớ chi lại dùng đường bộ qua An Nam xa xôi, lại nhiều đồi núi
gập ghềnh. Rõ ràng là sự vô lý. Người Nguyên hèn hạ hịa đặt
rằng: Toa Đô hiện hị khôK ở Champa, vừa rồi hai vạn quân đi
thuyền đến cứu viện, gặp hão thuyền đắm, người chết ca (!).
Một lán nữa, A Lý Hải Nha đến trại quân ta, ta lệnh cho
Hưng Đạo vương: bắt quân dân sửa sang đường sá cầu công cho
quân thiên triều sử dụng đi đánh Champa, sắp sửa lu'0'ng thực
đầy đủ suôd dọc đường để quân thiên triều dùng trong khi đi
qua, vua Trần phải thân đến nghênh tiếp Trấn Nam vương, cử 2
vạn quân (có sách nói 5 vạn) tinh nhuệ phụ lực với quân thiên
triều đi đánh Champa.
Hưng Đạo vương nén giận, lựa lòi từ chôì. Tướng Nguyên
giận dữ ra về, đe doạ sẽ san bằng toàn thể nước Nam trong vòng
ba tháng.
Ngày 21 - 12 năm Giáp Thân (dương lịch đã sang năm 1285),
quân Thoát Hoan vượt biên giới, xâm phạm hờ cõi nước ta. Tây
đạo từ hạt Bằng Tường qua Nam Quan Đồng Đăng, tiến vào Khâu
158
On (l^ạn^ Sơn). Động đạo từ châu Tư Minh đột nhập Lộc Châu.
Đại quân Thoát Hoan dẫn đòng đạo.
Ciặc đánh mạnh vào các đồn ải. Quân Trần cự lại kịch liệt,
luôn nhiều trộn hai hên cùng thiệt hại lớn mà không thắng hại.
'Phế giặc vừa đông mạnh, quân ta mấy nơi phải rút để giữ gìn lực
hựing. Riông dồn Kỳ Cấp, quân Nguyên đến đánh mấy lần đều hị
thua chạy. Nhưng các dồn ải khác đã mất. Hưng Đạo vương đành
phải rút quân vế chi giữ ải Nội Bàng. Ai này nay không rõ đích
thực nơi nào, chỉ hiết là thuộc vùng Bắc Giang, Lạng Sơn, chỗ
chặn đưòng vào lưu vực sông Lục Nam.
Thoát Hoan chiếm Kỳ Cấp, tiến cpiân xuông, sai người đến
dụ Hưng Đạo vương giải binh, mơ dường bái yết quân Nguyên.
Vương không chịu. Thoát Hoan tiến quân đến bến Trù, cho đòi
vương ra nghe huấn từ. Vvíơng lại không chịu. Thoát Hoan chia
hình sáu đường tấn công. Thế giặc hung dữ. Hưng Đạo vương ra
lệnh cho toàn thê quân thuỷ hộ bí mật rút hết về Vạn Kiếp.
Tây dạo giặc kéo dên Khâu On, tiến vào ải Chi Lăng thì chỉ
còn thành không.
HƯNG ĐẠO VƯƠNG RÚT QUÂN VỀ VẠN KlẾP - Các toán quân ta ở
vùng biên giới Lạng Sơn chạy giặc, dần dần cùng kéo cả về Vạn
Kiếp. Vương kiểm diêm lại quân đội, thấy sô" thiệt hại không nhiều,
ra lệnh diều động quân các lộ tụ tập lại cả ỏ đấy, mưu phá giặc.
Nhàn Tông thây quân ta thua luôn, lo ngại, tỏ ý muôn hàng.
Vương cương quyết không chịu, nói: Nếu bệ hạ muôn hàng, xin
trước hãy chém đầu tôi đi đã, rồi sau sẽ hàng cũng không muộn.
t^uân sĩ các nơi tuân lệnh, lục tục kéo nhau về họp. Quân số
tông cộng đưực 20 vạn, thê lại nổi to. Vương soạn sách Binh Thư
Yếu Lưực, truyền hịch khuyên răn các tướng sĩ: noi gương nghĩa sĩ
thời xưa và thòi gần dây. hết lòng vì vua vì nước, để lại tiếng tô"t.
Nay gặp buổi gian nan, nguy sứ bắt bẻ vua, khinh tể tướng, giặc
mạnh đòi vàng hạc ngọc lụa, ta không thể thoả mãn lũ hổ đói
đưỢc. Làm tướng phải lo diệt giặc. Thua, bây giờ chịu nhục, lại để
tiêng xấu về sau. Thắng, bản thân được vinh hiển, lại lưu tiếng tốt
trên đời, gia quyến hưởng bổng lộc. Nay cần dạy bảo binh sĩ luyện
tập cung tên, chuyên cần học tập binh thư, theo lời dạy bảo, mới
phải đạo thần tử.
Các tướng sĩ, được lời khuyên răn, ai nấy đều nức lòng quyết
chí đánh giặc, lấy chàm thích vào cánh tay hai chữ “Sát Đát”
nghĩa là giêt quân Đát, người Mông cổ. Việc này còn dụng ý chia
159
rẽ hàng ngũ Mông cổ: Ta chỉ giết người Mông cổ. chứ không giết
người Hán, ngầm xui người Hán giở giáo chông lại kẻ thù chung.
Lòng quân đã được khích động. Vương lại ra lệnh cho dân
chúng không được hàng giặc. Giặc đôn phải đánh. Không đánh
đưỢc thì chạy mang theo hết lương thực. Các thứ không mang theo
được thì phải đem đốt bỏ hết, không được đê lại một chút gì ăn
được lọt vào tay giặc.
ĐỔN VẠN KIẾP THẤT THỦ - Thoát Hoan hội quân hai đạo, kéo
xuôKg đánh Vạn Kiếp. Trên đường đi, giặc thường bị trúng tên từ
trên núi cao hai bên bắn vào, lại hay gặp những toán quân nhẹ
nhàng, lưu động, bất chợt kéo ra đánh tỉa, rồi vội vàng bỏ chạy vào
rừng. Chúng không thiệt hại nhiều nhưng rất bực mình, hước tiến
phải thận trọng, nên không sao đi được mau.
Thuỷ quân giặc cũng xâm nhập đất liền. Ngày 6 - 1 âl năm
1285. Ô Mã Nhi kéo đánh Phả Lại.
Hưng Đạo vương tập hỢp các chiến thuyền, huy động 10 vạn
quân thuỷ bộ, dàn binh cách Vạn Kiếp 10 dặm, định mở chiến
trận lớn, trận Dục Thuỷ (tắm nước), quyết liệt phá giặc. Thoát
Hoan liên lạc được với thuỷ quân của o Mã Nhi, tung quân đánh
mạnh. Quân ta chông trả kịch liệt, không kém. Nhưng thuyền

cánh tay cũng thích chữ Sát Đát, giặc tức giận, đem chém hêt.
Trận này diễn ra 9 - 1 âl tại Bãi Than (có lẽ là Bình Than). Vạn
Kiếp thất thủ, bên ta mất mát nhiều. Vạn Kiếp gần Lục Đầu
Giang có đường thuỷ thông đi các ngả và ra biển, lại là cửa ngõ
vào kinh thành Thăng Long. Mất Vạn Kiếp, Thăng Long khó giữ
nổi được.
Ngày 1 1 - 1 , Thoát Hoan kéo quân sang Kinh Bắc, cướp phá
các vùng Vũ Ninh (Võ Giàng), Đông Ngàn (Từ Sơn), Gia Lâm,
chiếm lấy được một số^ lương thực. Do giặc tiến quá mạnh, dân
chúng vội bỏ chạy, không kịp tiêu huỷ hết lương thực theo huấn
thị của Hưng Đạo vương.
Sau đó, Thoát Hoan tiến quân đóng ở Gia Lâm, ngay hên kia
sông là Đông Bộ Đầu.
THÀNH THĂNG LONG THẤT THỦ - Quân ta lập đồn trại trên hờ
sông phòng ngự. Thoát Hoan sai lấy súng lớn bắn sang, phá tan.
Quân sĩ khiếp sỢ, bỏ chạy cả.
160
Giặc có víu thế về quân dội và vũ khí, không có gì ngăn cản
nổi bước tiến mạnh mẽ của chúng. Hưng Đạo vương rước xa giá
thượng hoàng và vua ra ngoài kinh thành, ra lệnh cho dân chúng
Thăng Long rút chạy khỏi thành sau khi huỷ bỏ hết thảy lương
thực không mang đi theo đvtợc.
Giặc làm cầu phao qua sông, đóng doanh trại sát bên thành.
Đến khi chúng kéo nhau vào thành thì nơi đây không người,
không lương thực. Chúng đánh chiếm các vùng chung quanh, lập
các tiền đồn báo vệ bộ chỉ huy. Chúng tưởng như sắp chiếm được
toàn cõi đất nvíớc ta, làm chủ đvíỢc dân ta.
Thượng hoàng, Nhân Tông, hoàng gia cùng tôn thất ròi bỏ cung
điện chạy giặc, long đong vất vả, nay đây mai đó, cùng sĩ tốt và nhân
dân chịu tân khổ, có khi cả ngàv chỉ ăn một bữa cơm gạo hẩm.
MẶT TRẬN TÂY BĂC - Đạo quân Vân Nam do Nạp Tổíc Nạt
Đinh chỉ huy đột nhập nước ta qua biên thuỳ tây bắc theo dòng
sông Thao (sông Hồng) và sông Thanh Giang (sông Lô). Chiêu Văn
vương Trần Nhật Duật đánh không lại chúng ở Thu Vật, gần lỵ sở
Tuyên Quang ngày nay, rút quân về giữ Bạch Hạc, làm lễ tuyên
thệ, nguyện một lòng phá giặc, đền ơn vua nỢ nước. Giặc hỢp quân
ở gần Việt Trì, đánh xuông vùng dưới. Thế kém, quân ta lại phải
lui nữa nhvtng đặt phục binh đố ra đánh chẹn, gây cho chúng tổn
thất ít nhiều tại Bình Lệ Nguyên, xã Tam Canh giáp giới hai tỉnh
Vĩnh Yên, Phúc Yên và tại Cự Đà, gần núi Thắm và Quảng Nạp,
trên quôc lộ 2 ngày nay. Bấy giờ, Thoát Hoan đã chiếm Thăng
Long. Hai mặt thụ địch, Nhật Duật đành sang sông, kéo quân
theo đường nhỏ về với triều đình.
CHIẾN TRẬN DỌC SÔNG HỔNG - Đại quân và triều đình bỏ kinh
thành, kéo về đóng ở Trường Yên, kinh đô cũ thời Đinh, Lê nay
thuộc Ninh Bình. Thiên Trường đất rộng người nhiều nhưng lại
trông trải khó giữ.
Đại quân Thoát Hoan chiếm đóng Thăng Long, lạĩ được đạo
quân Vân Nam tăng cường, khí thế hung hãn. Nguyên chúa, khi
Thoát Hoan xâm nhập nước ta, cử đại tướng Giảo Kỳ vào Champa,
ra lệnh cho Toa Đô kéo quân trở ra, đánh vào hậu cứ quân Trần.
Thoát Hoan hay tin lại sai Ô Mã Nhi đem binh thuyền vào phụ
giúp Toa Đô đánh ra.
Thăng Long đã được củng cô" vững chãi, Thoát Hoan sai các
tưỏng theo dòng sông Hồng đánh trở xuông, chiếm các đồn bên
sông. Quân ta thê kém, hổ chạy xa, kéo theo dân chúng.
161
Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng đóng quân ở bãi Đà Mạc
thuộc khúc sông Thiên Mạc, huyện Đông An, nay là phủ Khoái
Châu, Hưng Yên. Quân Nguyên tiến đánh. Chúng vừa đông, vừa
thiện chiến, vây vòng trong vòng ngoài. Bình Trọng hết sức chông
cự không nổi, quân ta thua to. Bình Trọng chẳng may bị bắt, đem
về nộp Thoát Hoan. Thoát Hoan thấy người khẻo mạnh, sức vóc to
lớn, khuyên dụ về hàng, thiết đãi cho ăn uô"ng, Bình Trọng không
ăn. Dỗ dành hỏi việc nước, Bình Trọng không nói. Sau Thoát Hoan
lại hỏi: Có muôn nhận tước vương đất bắc không? Bình Trọng quát
lên rằng: Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương
đất Bắc. Nay ta đã bị bắt thì chỉ có một chết mà thôi. Thoát Hoan
dỗ dành mãi không được, sai quân đem chém ngày 21 — 1 âl, năm
1285. Thượng hoàng, Nhân Tông, Hưng Đạo vương và các tướng
nghe tin Bình Trọng trọng nghĩa tử tiết, ai nấy đều động lòng
thương tiếc, vật vã khóc lóc.
QUÂN TOA ĐÔ TỪCHAMPA ĐÁNH RA - Toa Đô đóng quân ở ồ , Rí,
được Giảo Kỳ đem lệnh chỉ của Nguyên chúa, lại được Ô Mã Nhi vào
giúp, bèn tiến quân ra bắc đánh quân Trần. Tháng giêng âl năm
1285, Toa Đô, Ô Mã Nhi dẫn quân bộ. Đường cổ Đới (có lẽ cùng là
Đường Ngột Ngải) theo Giảo Kỳ dẫn quân thuỷ, hai đạo cùng tiến,
hỗ trỢ lẫn nhau. Trong bước tiến của giặc vào châu Bô" Chính (Quảng
Bình), Trần Quang Khải không ngăn nổi chúng, phải thua chạy.
Chúng ra đến châu Hoan (Hà Tĩnh), Chiêu Hiền vương tử trận, bọn
Tống binh Trần Nghi Trọng và Triệu Mạnh Tín, 400 người bị bắt
giêt. Chúng ra đến Nghệ An, Trần Nhật Duật và Trịnh Đình Toản
cũng thua luôn, phải chạy vào sâu. Chúng ra đến Thanh Hoa,
Chương Hiến hầu Trần Kiện đem hai vạn quân ra chông giữ, thấy
thế giặc mạnh hẹn xin hàng. Ngày 1 - 2 âl, Kiện cùng mạc tân Lê
Trắc đem gia quyến và bộ hạ ra hàng Toa Đô. Ngày 2 - 2 âl, Giảo Kỳ
đánh phá kinh Vệ Bô", hai tướng Đinh Xa và Nguyễn Tất Dũng tử
trận. Ngày 6 - 2, lũ phản quốc Kiện, Trắc thèo lệnh Giảo Kỳ đánh
phá bến Phú Tân, quân ta hơn ngàn người tử trận.
Sau đó, Giảo Kỳ và Đường cổ Đới dẫn binh thuyền đi đường
biến ra bắc hội quân với Thoát Hoan, đem theo lũ Kiện, Trắc. Toa
Đô, 0 Mã Nhi dẫn bộ binh vượt Nghệ An, Thanh Hoa, tiến ra nẻo
Trường Yên mưu đánh vào đại quân Trần.
Quang Khải đóng quân ở miền Nghệ An, thu thập những tàn
quân trước đây chạy giặc, chiêu mộ thêm binh sĩ mới, huấn luyện
quân đội, rèn đúc vũ khí, đóng thuyền xe, thê" lại nôi.
162
MẶT TRẬN TRUNG CHÂU BĂC VIỆT - Thua trận Đà Mạc, quân ta
lui giữ Hải Thị. Quân Nguyên thuỷ bộ đến đánh, lại bị thua luôn.
Ngày 3 - 2 âl, giặc tiến đánh đồn Đại Hoàng thuộc huyện Nam
Sang nay lả phủ Lý Nhân, Văn Nghĩa hầu Trần Tú Viên và Văn
Chiêu hầu Trần Ván Lộng đem gia thuộc ra hàng giặc. Quân Trần
chỉ còn giữ được Trường Yên và Thiên Trường.
Nghe tin Toa Đô, 0 Mã Nhi kéo quân ra, các tướng Nguyên
bỏ sông Hồng, kéo lên mạn bắc Trường Yên.
Hai mặt thụ địch, triều đình phải bỏ Trường Yên. Hưng Đạo
vương rước xa giá thượng hoàng và vua chạy sang Thiên Trưòng.
Đến Trường Yên, Toa Đô, 0 Mã Nhi thấy chỉ còn thành
không, bèn hỢp quân với quân Thoát Hoan đánh đuổi vua Trần.
Hưng Đạo vương hộ giá vượt qua các lộ Long Hưng (Thái Bình),
Hồng Châu (Hưng Yên), chạy ngược lên đóng quân ở Hải Đông
(Hải Dương). Bấy giò là trung tuần tháng 2 âl.
Giảo Kỳ dẫn thuỷ quân ra Thăng Long với Thoát Hoa, tiến
dẫn Trần Kiện, Lê Trác. Thoát Hoan khen ngợi, sai minh lý Bích
Ban làm bạn đường, đưa về Yên Kinh. Hưng Đạo vương nghe tin
sai quân theo đường tắt đuổi đánh hắt. Khi chúng đi đến địa phận
Lạng Sơn, qua trại Ma Lục, thổ hào Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn
Lĩnh đem dân binh ra đánh, vừa gặp quan quân đuổi đánh đến nơi,
đám quân Nguyên hộ tôhg bỏ chạy. Kiện bị gia tướng của Hưng
Đạo vương là Nguyễn Địa Lô bắn chết. Thuôc hạ Lê Trắc cướp được
xác, cõng trên mình ngựa, đương đêm chạy chôn, đưỢc vài mươi
dặm, đến Khâu ôn, mai táng Kiện ở đấy, rồi chạy trốn sang Trung
Quốc. Lê Trắc sau này có viết tập sách An N am chí lược.
Bấy giò, tình thế nguy cấp. Quân Nguyên chiếm đóng gần
hết vùng châu thố miền bắc. Nhân Tông kinh hãi. Thượng hoàng
lo sỢ. Nhà nước ngất ngưởng như trứng chồng. Hưng Đạo vương
vẫn vững tâm kháng chiến. Để tháo gỡ phần nào nạn nước, Hưng
Đạo vương bày kế với vua viết thư sai Trung Hiếu hầu Trần
Dương đi thương thuyết với Thoát Hoan xin hoà. Lại sai quan hầu
cận Đào Kiên đem An Tư công chứa con gái út Trần Thái Tông
dâng Thoát Hoan, mưu sự hoãn binh. Thoát Hoan bảo muôK hoà
thì nhà vua phải thân đến thương nghị.
HUNG ĐẠO VUƠNG HỘ GIÁ VÀO THANH HOA - Sang tháng 3 âl,
hai tướng Lý Hằng và Khoan Triệt đem quân đến đánh. Toa Đô, Ò
Mã Nhi cũng dẫn quân theo. Hưng Đạo vương liệu thế giặc lớn,
rước xa giá chạy vào Quảng Yên, định xuông thuyền chạy vào
163
Thanh Hoa. Ngày 9 - 3 âl, trận thuỷ chiến ác liệt diễn ra ở ngoài
khơi Quảng Yên giữa quân ta và quân Lý Hằng, Khoan Triệt. Hai
bên cầm cự nhau kịch liệt, không phân được thua. Bỗng bên giặc
được tăng cường do Giảo Kỳ và Đường cổ Đới đem chu sư ra biên,
bổ vây quân ta. Bên ta thế kém. Thượng hoàng và vua suýt bị bắt,
ngầm sang chiếc thuyền nhỏ, tướng Nguyễn Cường hộ vệ, chạy về
phía sông Tam Trĩ (Ba Chẽ). Hưng Đạo vương sai một tướng dẫn
thuyền rồng chạy ra cửa Ngọc Sơn làm nghi tình quân giặc.
Chúng vô tình đua nhau cứ đuổi theo riết. Trong khi ấy thì Hưng
Đạo vương rước xa giá lên bộ, đi đến làng Thuỷ Chú, rồi lại xuông
thuyền ra sông Nam Triệu (Bạch Đằng) vượt qua cửa biển Đại
Bàng (thuộc huyện Nghi Dương, Kiến An), rồi đi vào Thanh Hoa.
Các chiến thuyền của ta, chạy thoát được ra khơi, lục tục cũng kéo
nhau vào cả đấy. Trong trận này, bên ta thiệt hại lớn. Giặc lấy
đưỢc nhiều vàng, lụa và bắt một số nam nữ.
Giặc chia quân đóng khắp nơi miền bắc, kiểm soát mọi đường
giao thông thuỷ bộ. Giảo Kỳ, Đường cổ Đới ở lại dưới trưống
Thoát Hoan. Toa Đô, Ô Mã Nhi, khó nhọc ra bắc, không đánh bắt
được cha con vua Trần, lại được lệnh đem binh thuyền vào miền
trong đánh vào đại quân ta.
TRẦN ÍCH TẮC hàng giặc - Đất nước lâm nguy. Triều đình
chạy vào Thanh Hoa. Nhiều toán quân trước chạy giặc tản mác
khắp nơi ngoài bắc, cũng lần lượt kéo nhau chạy vào với triều
đình. Trong khi ấy thì hoàng thúc Chiêu Quốc vương Trần ích
Tắc, ngày 15 - 3 âl, cùng với thuộc hạ Phạm Cự Địa, Lê Diễn,
Trịnh Long, Lại Tứ Quý đem gia quyến ra hàng quân Nguyên.
MuôK cơ mi ích Tắc, Thoát Hoan lập y làm An Nam quôc vương.
Khi giặc vào Lạng Sơn, có bọn người dòng dõi tôn thất nhà Lý ra
hàng, mưu sự phục Lý. Thoát Hoan biết lòng dân ta không còn
tương nhớ nhà Lý nữa nên chỉ dùng bọn này chỉ điểm đường lôi.
Đến khi ích Tắc hàng thì lập ngay chính quyền tay sai, lại lừa dôl
dân ta rằng chúng không có ý tưởng chiếm cứ đất nước ta chia làm
quận huyện như thòi Hán, Đường. Lũ ích Tắc dụ dỗ dân ta cung
đôn lương thực cho giặc nhưng chẳng đưỢc mấy ai theo.
TÌNH HÌNH QUÂN NGUYÊN TẠI BĂC VIỆT - Miền Bắc bị quân nhà
Nguyên chiếm trọn. Giặc lấy đưỢc đất, nhưng không thu được
nhân tâm, đi đến đâu cũng chỉ thấy ‘Vườn không nhà trôAg”.
Chúng dựng các đồn binh dọc các đường giao thông thuỷ hộ. Đóng
dầy, kiểm soát được chặt chẽ nhưng mỗi đồn ít quân, rất dễ bị dân
164
quân ta kéo về đánh phá. Đóng thưa, mỗi đồn nhiều lính thì khó
kiêm soát được những nơi xa ở giữa hai đồn. Dù sao cũng thỉnh
thoáng hị dân quân ta từ xa tập trung kéo về đánh phá, rồi vội vã
rút đi.
Giặc lại gặp khó khăn về vấn đê lương thực, do không được
dân ta cung cấp. Xua quân đi đến các nơi xa xôi ăn cướp thóc lúa
trâu lợn thì khó nhọc nhiều mà không nhặt nhạnh được mấy.
TRIỀU ĐÌNH TA lẠ P CẢN cứ TẠI THANH HOA - Vua tôi và quân
đội vào Thanh Hoa, tiếp thu ngay được nhiều đoàn quân do Quang
Khải và Nhật Duật đã chỉnh đôn lại. Binh thuyền ngoài khơi miền
bắc chạy cả về. Binh sĩ các nơi cũng cùng nhau về .đến với triều
đình, mỗi ngày một đông. Nhân Tông thấy lồng dân vẫn trung
thành, trong lòng mới yên, quyết tâm đế kháng.
Hưng Đạo vương và các tướng tuyển mộ và huấn luyện thêm
binh sĩ, tô chức lại đội ngũ trở nên hùng mạnh. Thế lại nổi to.
Các đoàn quân của Toa Đô, 0 Mã Nhi, khó nhọc nhiều,
không làm nên công trạng gì, không còn uy thế mạnh liệt. Binh
thuyên trơ vào miền trong, mấy lần đem quân đổ bộ vào Thanh
Hoa, Nghệ An, đều thất hại nặng nề, phải sớm rút xuống thuyền.
Quang Khái giữ vững các nơi này. Đây là lần đầu tiên quân ta
không bị đán h thua.
Bấy giờ, giặc đã chiếm được Thiên Trường và Trường Yên,
thê quân đáng phải đánh vào mặt bắc Thanh Hoa trong khi thuỷ
quân Toa Đô từ biển đánh lên. Thế mà không thấy bộ sử nào chép
bộ hĩnh giặc đánh vào mặt bắc Thanh Hoa. Hoặc giả có, nhưng
chiến trận không lớn lắm mà quân ta, trên bước đường cùng cô" sức
tiêu diệt chúng. Hoặc giả chúng thiếu thôn lương thực nên không
dám tiến công chàng?
Toa Đô, 0 Mã Nhi tiếp tục cô" gắng đánh nữa, vẫn vô công,
không sao lên chiếm được đất liền, lương thực ngày một cạn, tình
thê" khôn quẫn, chúng phải dẫn binh thuyền trở ra bắc để hội
quân với Thoát Hoan. Bấy giò là tháng 4 âl năm 1285.
Vua tôi ta bàn nhau: Thê giặc đáng phải dùng quân thuỷ bộ
hai mặt đánh vào đại quân ta, thê" mà nay chúng lại bỏ cuộc, tức
lực lượng đã suy yếu lắm rồi. Đây là lúc quân ta tổng phản công,
tất sẽ thắng lợi.
TRẬN HÀM TỬ QUAN - TRẦN NHẬT DUẬT ĐẠI PHÁ QUÂN TOA ĐÔ -
Đạo quân thứ nhất gồm 5 vạn người, do Chiêu Văn vương Trần
Nhật Duật, cùng Chiêu Thành vương (?) và các tướng Nguyễn
165
Khoái, Trần Quốc Toản chi’ huy, vượt biển ra bắc, đuổi đánh Toa
Đô, tấn công vào các cứ điểm bên sông Hồng, hạ đồn A Lỗ (?), vạn
hộ Lưu Thế Anh bỏ chạy. Trung Thành vương đánh giết thiên hộ
Mã Vinh ở đồn Giang Khẩu (?) Nguyễn Khoái và Trần Quốc Toản
dồn giặc trên bãi Mạn Trù cũng thắng lợi. Nhật Duật tiến quân,
gặp chiến thuyền Toa Đô ở bến Hàm Tử thuộc huyện Đông An,
nay là phủ Khoái Châu, Hưng Yên, phân binh ra đánh. Hai bên
giao phong kịch liệt. Trong đạo quân của Nhật Duật có bọn Triệu
Trung (người tôn thất nhà Tông chạy sang ta, Nhật Duật thu
dụng với toán quân TôYg) mặc áo đeo cung như quân Tống xưa.
Giáp trận, lính Mông cổ đi đánh xa từ lâu, thấy đám quân Tông,
sỢ hãi. tưởng nhà Tông đã khôi phục lại Trung Quổíc, đem quân
sang cứu An Nam. Binh sĩ người Hán trong hàng ngũ Nguvên thì
động lòng cố quốc. Không ai ham gì đánh. Bọn Triệu Trung lại hô
hào chúng giở giáo đánh lại quân Mông cổ. Có một s ố người Hán
chạy sang với ta. Quân Nguyên bỗng thua to. Toa Đô lui quân về
đóng ở Thiên Trường. Trần Hàm Tử quan này là trận quân ta
chiến thắng lần đầu.
TRẬN CHƯƠNG DƯƠNG ĐỘ - TRẦN QUANG KHẢI k h ô i p h ụ c
THĂNG LONG - Đạo quân thứ hai do thượng tướng Trần Quang
Khải chỉ huy, Phạm Ngũ Lão giữ chức phó, tiến quân ra bắc theo
đường bộ. Trên đường đi gặp được nhiều toán quân ở lại trước đến
tăng cường, lại được bọn thổ hào Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp,
Nguyễn Truyền đem quân các lộ đến phụ thuộc. Các đồn binh giặc
bên đường đều quy hàng hay bị đánh tan.
Bấy giò, đại quân Thoát Hoan đóng ở Thăng Long, các chiến
thuyền thì đóng ở bến Chương Dương thuộc huvện Thượng Phúc,
nay là phủ Thường Tín, Hà Đông. Quân ta sấn vào đánh chiến
thuyền giặc hăng quá. Giặc không ngờ bị đánh, chống lại không
nổi, phải bỏ chạy. Thuyền giặc, phần bị đốt phá, phần bị đánh
đắm, sô còn lại quân ta chiêm được. Quan quân lên bộ đánh đuổi
giặc về đên chân thành Thăng Long hạ trại. Quân trong thành
kéo ra, bị phục binh ta đánh úp lại, thua to. Thoát Hoan đành bỏ
kinh thành, vượt sông Hồng, sang mặt Kinh Bắc. Giảo Kỳ chỉ huy
quân đội chúng rút lui, phục trong cung điện, bắn tên nỏ ra,
chúng mới chạy thoát được mà qua sông. Bây giờ là ngày 5 - 5 âl.
Giặc đến bấy giờ chưa bị sứt mẻ nhiều, sở dĩ phái sớm bỏ Thăng
Long, do không tích trữ được nhiều lương thực đủ dùng lâu dài
cho số quân đông đúc.
166
Khôi phục được kinh thành Tháng Long, Quang Khải kéo
quân vào thành, mở tiệc khao quân.
Thoát Hoan dẫn quân từ Gia Lâm chạy ngược theo đường cái
lớn, nay là quốc lộ số 1, Trần Quốc Toản cô' tình đánh đuổi theo.
Khi chúng lúng túng qua sông Như Nguyệt (sông cầu), nhiều tên
bị quân ta giết.
TRẬN PHÙ NINH - Đạo quân Vân Nam đóng nhiều đông dọc
sông Thao, sông Chảy và sông Lô. Đồn Phù Ninh bên sông Chảy,
nay thuộc Phú Thọ có toán đi tuần tiễu. Phụ đạo Hà Đặc hăng hái
phá giặc, bị tử trận. Em Đặc là Chương bị bắt. Nhân khi chúng sơ
hở, lấy được cờ xí và y phục giặc trở về với quân ta. Bèn dùng quân
trang ấy giả làm giặc, vào trại chúng. Giặc không ngò, Chương
thừa thê đánh mạnh, quân giặc tan vỡ. Trận này diễn ra ngày 5 -
5 âl. Ngày ấy, Thoát Hoan phải bỏ Thăng Long chạy đi rồi, các
toán quân đóng đồn ở xa chưa biết nên vẫn còn hông hách.
Cùng ngày này, quân ta thiệt mất tướng Nghĩa Dũng hầu
Trần Thiệu, người họ tôn thất, trên Nam Sách giang, trong một
trận thuỷ chiên.
TRẬN TRƯỜNG YÊN - Hai đạo quân Nhật Duật và Quang Khải
lên đường rồi, Hưng Đạo vương đem đại quân rước thượng hoàng
và Nhân Tông ra Trường Yên. Ngày 3 - 5 âl, đánh tan đồn giặc,
rất nhiều quân Móng c ổ bị chém giết. Triều đình lại tạm đóng ở
kinh đô cũ Đinh, Lê.
Nghe tin Quang Khải đã khôi phục Thăng Long, Hưng Đạo
vương xin tự dẫn quân đi đánh Toa Đô ở Thiên Trường, rồi sẽ
tiến đánh Thoát Hoan sau. Nhân Tông cho tuỳ ý sai khiến. Một
toán quân tiến đóng ở hến Đại Mang trên sông Hồng (có lẽ là
Đại Hoàng), tổng quản nhà Nguyên Trương Hiến, người Hán
xin hàng.
TRẬN TÂY KẾT- TƯỚNG NHÀ TRẦN CHÉM ĐẦU TOA Đ ỏ - Toa Đô
đóng quân ở Thiên Trường, bị cô lập, không rõ tin Thoát Hoan đã
bó Thăng Long, dẫn quân ngược dòng sông Hồng, tính tìm về hỢp
quân với Thoát Hoan, tạm dừng ỏ bến Tây Kết, bên sông Hồng, có
lẽ thuộc phủ Khoái Châu ngày nay, chừng như đã bị lở xuống sông
hết. Vương chia quân đánh vào các trại giặc và đặt phục binh để
bắt Toa Đô. Quân ta đánh hăng quá, quân Nguyên địch lại không
nổi. Toa Đô, 0 Mã Nhi đem quân lên bộ, chạy ra mặt biển. Quân
ta đánh đuổi theo riết. Toa Đô bị trúng tên chết. (Có thuyết bị
chém, lại có thuyết bị bắt sông không chịu nhục, đã tự tử). 0 Mã
167
Nhi chạy thoát được ra cửa sông Chính Đại, cùng vạn hộ Lưu
Khuê, dùng thuyền nhỏ trôn thoát được về bắc quốc.

Các tướng đem đầu Toa Đô về nộp. Nhân Tông thấy người
dũng kiên, hết lòng vì chúa, than rằng: Làm bề tôi nên như người
này. Rồi lấy áo ngự bào đắp lên đầu, sai người mai táng tử tế.
Trận Tây Kết diễn ra ngày 20 - 5 âl. Quân ta bắt được 3 vạn
giặc cùng chiến thuyền, khí giới rất nhiều. Hưng Đạo vương toàn
168
thắng, khao thương ba quân, rồi tiến lên đánh ra mặt bắc, tiễu trừ
quân Thoát Hoan.
TRẬN SÔNG SÁCH - THOÁT HOAN B ỏ CHẠY VỂ N ư ớ c - (Quốc sử
chép là trận Vạn Kiếp. Xét nơi đây là thượng lựu sông Thương
chảy về Vạn Kiếp). Thoát Hoan bỏ Thăng Long, chạy về Vạn Kiếp
đóng quân, có ý đợi được chính quốc tiếp viện lương thực sẽ trở lại
đánh nữa, do từ trước đã cáo cấp về triều. Hưng Đạo vương tiến
quân lên đóng ở bên kia sông đồn giặc thuộc Bắc Giang. Một sô"
quân khác đóng ở Chí Linh, kèm bên nách giặc, ngăn giặc xua
binh đi cướp lúa gạo trâu lợn của dân chúng. Vương không dùng
đại quân đánh lớn, do quân sô" giặc hãy còn đông đúc, chỉ thỉnh
thoảng đột kích quấy phá chúng. Chiến sự kéo dài rất không có lợi
cho giặc. Lương thực ngày một hao mòn. Đã thê", chúng lại khó
chịu về thời tiêt oi hức xứ ta. Tin Toa Đô thất trận khiến binh sĩ
chúng xôn xao, chỉ mong sớm được trở về nước. Thoát Hoan tính
rút quân về châu Tư Minh, đợi có được đầy đủ lương thực mới
quay lại tấn công nữa.
Vương biết thê" giặc tất phải chạy, sai Nguyễn Khoái và Phạm
Ngũ Lão đem 3 vạn quân lên đường núi phục sẵn trong rừng lau sậy
hai bên sông, chờ chúng chạy đến thì đổ ra đánh. Lại sai hai con trai
là Hưng Võ vương Nghiễn và Hưng Hiếu vương ưý dẫn 3 vạn quân
đi đường Hải Dương ra mặt Quảng Yên, chặn đường về châu Tư
Minh. Vương tự dẫn đại quân đánh vào Vạn Kiếp. Giặc chỉ chông đỡ
cầm chừng, sửa soạn rút lui. Chúng chia hai đạo thuỷ bộ cùng lên
đường, hẹn gặp nhau ở bến sông Sách, nơi tụ điểm. Binh thuyền giặc
thường bị quân ta hai bên sông bắn tên xuông, bị thiệt hại mà không
đánh lại được. Đến bến đò sông Sách, nhiều toán bộ binh chưa kịp
sang sông. Phục binh Nguyễn Khoái và Phạm Ngũ Lão đố ra đánh
cực mạnh, giặc chết nhiều, cầu phao đứt, nhiều tên bị chết đuối. Có
đến phẩn nửa bị tổn hại trong trận này.
Thoát khỏi nơi đây, chúng tiếp tục chạy theo đường cái lớn (nay
là quô"c lộ 1). Quân ta đánh đuổi theo. Tướng Lý Hằng bị trúng tên
chết. Các tướng sĩ liều chết chông cự bảo vệ Thoát Hoan, vừa đánh
vừa chạy. Quân ta đuổi kíp quá, bắn ra nhiều tên đạn. Thoát Hoan
phải chui vào trong ông đồng để lên xe, bắt quân kéo chạy.
Bọn Phàn Tiếp, A Bát Xích, Lý Quán cô" đánh lại, lấy'đường
mà chạy.
Về gần đến biên giới, giặc lại gặp quân Quốc Nghiễn và Quô"c
Uý đổ ra đánh bồi thêm trận lớn nữa. Lý Quán trúng tên cũng
169
chết. Thoát Hoan, A Bát Xích và Phàn Tiếp khôn khổ lắm mới
chạy thoát được về châu Tư Minh.
Thế là quân Thoát Hoan lúc mới sang lừng lẫy bao nhiêu,
hấy giờ tan tác, lại lắm tên bị thương, nhiều tên ô"m đau. Trong
sáu tháng, quân ta đánh đuổi hơn 30 vạn hùng binh Mông cổ ra
khỏi bò cõi, chỉnh đôn giang sơn lại như cũ.
Có thuyết: Thoát Hoan khi rút quân khỏi cõi Thăng Long thì
chạy thảng về nước, không đóng quân lại ỏ Vạn Kiếp gần một
tháng. Quốc sử cũng như Bắc sử không chép rành mạch việc này.
Như vậy, Thoát Hoan đã bỏ rơi bọn Toa Đô và các tướng tá giữ
đồn tại nhiều nơi. Bấy giờ đại quân ta còn đóng ở Trường Yên xa
xôi. Rút sớm thì chỉ bị ít quân đánh đuối sau và ít quân đón đường
bổ ra đánh, đỡ bị tổn hại. Như thế, Hưng Đạo vương chưa kịp cử
tướng đặt phục binh. Nhưng trận sông Sách vẫn có thể diễn ra, do
Quang Khải sai tướng đi đánh đồn Vạn Kiếp. Đến nơi, giặc bỏ
chạy, quân ta đuổi theo sau đến bến đò này thì có trận kịch chiến.
Còn sự phục binh đón đánh giặc ở gần biên giói thì giặc rút lui vẫn
phải chống đỡ quân ta đuổi theo, nên tiến bưốc rất chậm, Quốc
Nghiễn và Quốíc ưý có đủ thời gian đi đường vòng đến gần biên
giới được.
VIỆC THẢ TÙ BINH - Quân ta tuy thắng, Nhân Tông muốh hoà
bình để dân chúng yên nghiệp làm ăn, sai sứ sang Nguyên trần tạ
xin hoà, tiến cống như trước. Nguyên chúa không cho. Tuy vậy,
qua nám 1286, vẫn thả cho 5 vạn tù binh người Hán về nước.
Những người này đã được tuyên truyền phản chiến và chống đốì
lại quân Mông cổ.
SỬA SANG VIỆC NƯỚC ĐÊ PHÒNG QUÂN NGUYÊN SANG ĐÁNH
BÁO THÙ - Nhân Tông sai Đặng Du Chi đem bọn Bá Lậu Kê Na
Liên 30 người tế thần Chăm theo hàng Toa Đô bị quân ta bắt
trong các trận Hàm Tử và Tây Kết, trả về vua Champa.
Triều đình lo hàn gắn nỗi đau thương giặc đã gieo rắc, một
mặt ra lệnh cho các vương hầu tôn thất cùng hào trưởng địa
phương tăng cường và chỉnh đôn đội ngũ, tích luỹ lương thực, đề
phòng quân Nguyên lại sang đánh nữa.

QUÂN NGUYÊN SANG ĐÁNH


NƯỚC TA LẦN THỨ BA 1287 - 1288
NGUYÊN CHÚA ĐBsỉH KHỞI BINH PHỤC THÙ - Thoát Hoan thua
chạy về nước, kiểm điểm lại binh sĩ, thấy sô" thiệt hại quá nhiều,
170
nghĩ lại xấu hổ, định xin vua cha cấp cho thêm binh mã và lương
thực, sẽ trở sang đánh báo thù.
Nguyên Thế Tổ thấy bọn Thoát Hoan đem nhiều quân đi
đánh nước nhỏ mà hao binh tổn tướng thảm bại trở về thì giận
lắm, muôn bắt đem chém bỏ cả. Quần thần can ngăn mãi mới thôi.
Bấy giò, nhà Nguyên đang sắp sửa cất quân đi đánh Nhật
Bản, bèn lập tức đình việc ấy lại, sai đóng 300 chiến thuyền,
truyền lệnh cho ba tỉnh Giang Hoài, Hồ Quảng, Giang Tây tụ tập
quân sĩ, định ngay tháng 8 cất quân sang đánh nước ta báo thù.
Trung thư sảnh muôn chiều theo ý vua nhưng các quan trong
triều và ngoài cõi can ngăn. Quân thua trận mới về, kể dấu vết
chưa khỏi, đau yếu chưa dậy, cần phải cho nghỉ ngơi dưỡng sức.
Dụng binh luôn mấy nám, quân sĩ mâd mát nhiều, dân chúng bỏ
nghề nghiệp, mà nay lại động dụng đến quân trăm vạn, không
phải là đạo thương yêu sĩ dân. Nguyên chúa hoãn việc chinh nam,
chi Trần ích Tắc theo Thoát Hoan về ra ở Ngạc Châu. Thực sự
Nguyên chúa chẳng thương gì quân dân, sở dĩ phải đình việc xuất
quân lại là do thấy vừa qua quân thua chỉ vì thiếu lương thực.
Nay đi đánh nữa tất phải lo có sô' lổn lương thực đủ nuôi lâu dài sô'
quân đông đúc. Việc thu góp lúa gạo đòi hỏi nhiều thòi gian. Dân
Hoa nghèo, lại không sẵn lòng đóng góp cho lũ man di. Nhưng vua
đã muôn thì quan lại phải cô' gắng. Nguyên chúa ra lệnh điều động
thêm 6 vạn. quân tập trung tại Chiết Giang (Quảng Tây) cùng 300
chiến thuyền, đợi đến tháng 7 âl năm sau (1286) xuất chinh. Quân
Vân Nam cũng được lệnh chuẩn bị xâm nhập An Nam. Nguyên chúa
lập bộ máy chính quyền tai sai, phong Trần ích Tắc làm An Nam
quốc vương, bọn Trần Văn Lộng, Trần Tú Viên quan tước, đợi đưa về
nước. Đáo hạn do sô' lương thực thu góp chưa được đủ nên lại phải
hoãn việc ra quân lần nữa, qua năm sau.
Bên ta, Nhân Tông nghe tin Nguyên triều sắp sửa cất quân
sang đánh nữa, vời Hưng Đạo vương đến hỏi: Thoát Hoan bại trận
trở về, căm tức định sang báo thù, thê' quân hẳn to hơn trước. Ta
nên dùng kế gì mà chông lại? Vương tâu: Nước ta xưa kia quen
hưởng thái bình đã lâu, không tập chiến trận, cho nên năm trước,
quân Nguyên vào cướp, còn có kẻ trôn tránh theo hàng giặc. May
nhò uy linh tổ tông và thần vũ bệ hạ, đi đến đâu đánh tan được
đến đấy, mới quét sạch được bờ cõi. Còn như bây giờ, quân ta đã
quen việc chinh chiến, mà quân địch thì phải đi xa mỏi mệt, lại
thấy Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán tử trận, tất cũng chột dạ. Quân
171
lính đã sinh nghi sỢ, hẳn không hết sức mà đánh. Cứ như ý tôi,
chuyên này dù có trăm vạn quân Nguyên sang đây, ta phá còn dễ
hơn lần trước. Nhân Tông mừng rỡ, sai vương dôc xuất các vương
hầu mộ thêm sĩ tốt, sửa sang khí giới, đề phòng việc công thủ.
THOÁT HOAN SANG ĐÁNH LẦN s a u - Sang nám 1287, nhà
Nguyên lại gấp rút điều động, ngoài sô" chiến đấu, cử thêm 7 vạn
quân ba tỉnh Giang Hoài, Hồ Quảng, Giang Tây, 500 chiến
thuyền, 1 vạn 5 ngàn quân giông người Lê ở bô"n châu Nhai,
Quỳnh, Đàm, Vạn thuộc Quảng Đông rất thành thạo thuỷ chiến.
Sai Thoát Hoan làm đại nguyên suý, A Bát Xích (A Ba Tri) làm
hành tỉnh tả thừa, Áo Lỗ Xích (A Gu»Ruc Tri), bình chương chính
sự, 0 Mã Nhi, Phàn Tiếp làm tham tri chính sự, đem 30 vạn quân
sang đánh nước ta, mượn tiếng đưa An Nam quốc vương Trần ích
T^ắc về nước. Lại sai vạn hộ Trương Văn Hổ theo đường biển vận
tải một sô" lớn lương thực sang cấp cho quân sĩ. (ĐVSKTT chép 70
vạn hộc, VNSL theo VSTGCM sửa lại là 17 vạn. Xét nếu là thóc
thì 70 vạn không phải là quá lớn, 17 vạn thì lại ít). Đạo quân Vân
Nam phỏng 4 vạn người, do tướng A Lỗ (A Rúc) chỉ huy, được lệnh
tiến vào biên giới tây bắc nước ta.
Mọi công việc chuẩn bị chu tất, mùa thu năm 1287, Thoát
Hoan dẫn quân lên đường đi chinh nam. Hai đạo thuỷ lục quân
cùng tiến. Thoát Hoan trực tiếp chỉ huy bộ binh noi theo đường
châu Khâm, châu Liêm, đến châu Tư Minh, tiến quân vào nẻo
Lạng Sơn. Ò Mã Nhi, Phàn Tiếp dùng 500 chiến thuyền, 70
thuyền vận tải, chuyên chở thuỷ quân từ Khâm Châu tiến theo
đường biển. Chương trình tiến quân đánh vào vùng Thanh, Nghệ,
rồi ngược trở ra sau. Vạn hộ Trương Văn Hổ đốc xuất các thuyền
vận tải lớn trở lương thực, binh khí và quân trang phục đi sau.
Đồng thời, quân Vân Nam do hữu thừa A Lỗ chỉ huy kéo quân
theo dòng sông Thao xâm nhập miền tây bắc.
Trấn thủ biên thuỳ hay tin có giặc, phi báo về triều, các quan
xin tuyển mộ thêm binh. Hưng Đạo vương nói: Binh cô"t giỏi,
không cần nhiều. Nhiều mà không giỏi thì dù có hàng trăm vạn,
cũng không ích gì.
Hưng Đạo vương thô"ng lĩnh các vương hầu, chia phòng giữ
các nơi: Trần Nhật Duật, Nguyễn Khoái đem 3 vạn quân lên giữ
mặt Lạng Sơn, Trần Quốic Toản, Lê Phụ Trần dẫn 3 vạn quân vào
giữ mặt Nghệ An, vương tự mình thông đại quân giữ mặt Quảng
Yên. Tiền quân lên gần châu Tư Minh, chia ra đóng ba đồn: Sa,
172
Từ, Trúc chống giặc xâm nhập. Một tướng chặn cửa sông Đại
Than thuộc Hải Đông, gần Bình Than. Đại quân đóng ở Phù Sơn.
Tháng 11 âl, Thoát Hoan đên châu Tư Minh, lưu tại đấy
2.500 người, sai vạn hộ Hạ Chi thống lĩnh giữ xe vận tải thuốc
đạn, lương thực và binh phục. Bọn Trình Bằng Phi, do trại Vĩnh
Bình, tiến theo đường phía tây. Áo Lỗ Xích theo Thoát Hoan do
đường phía đông, A Bát Xích đi tiên phong, ngày 23 - 11 âl xâm
nhập Lộc Châu. Thoát Hoan theo ải Khả Ly tràn vào. Trình Bằng
Phi kéo quân qua Khâu ôn xuôhg ải Lão Thử (Chi Lăng).
Tuy tại khắp nơi, quân ta chông giữ mãnh liệt nhưng không lại
với quân Nguyên đông và mạnh hơn, lần lượt phải bỏ các đồn ải vùng
biên thuỳ. Nguyên sử chép giặc thắng luôn 17 trận tại Lão Thử, Hãm
Sa (cát sụt) và Tư Trúc (tre gai), có lẽ là các đồn Sa, Từ, Trúc.
Thuỷ quân Nguyên không đánh vào vùng Thanh, Nghệ như
đã định trước. Ngày 11 - 11 âl, chu sư tiến vào cửa Vạn Ninh
(Móng Cái) rồi vào cửa An Bang thuộc Quảng Yên, tiến đánh, giết
vài trăm người, cướp Vcài chục thuyền. Ô Mã Nhi ruổi đi trước,
không đoái đến thuyền lương ở sau. Tưống Nhân Đức hầu Trần
Gia nỗ lực chỉnh đôA quân đội cố đánh lại. Giặc chết nhiều, quân
ta cướp lại đưỢc các thuyền đã mất, lại chiếm luôn được mấy
thuyền lương của giặc. Ngày 2 8 - 1 1 âl, phán thủ thượng vị hầu
Toàn lại thắng giặc ở vịnh Đa Mỗ (?), bắt được 40 tên và thuyền,
ngựa, khí giới.
Ngày 3 - 12, Thoát Hoan dẫn bộ binh đến Từ Thập Nguyên
(?), nghe tin lương bị hãm, sai các tướng thúc quân cướp hết lương
thực của quân ta. Phần thê thua kém, phần thiếu lương thực,
quân đội ta phải rút về Vạn Kiếp.
ĐỔN VẠN KIẾP THẤT THỦ - Chiếm xong các đồn ải vùng Lạng
Sơn, quân Nguyên kéo xuôAg vùng dưới. Ngày 23 - 12, Thoát
Hoan chia quân tiến đánh núi Phả Lại và núi Chí Linh. Trình
Bằng Phi đem quân đánh trại Phù Sơn. Quân ta bắn nhiều tên
thuôc độc, giặc đã phải lui, sau có tiếp viện, chúng lại tiến
đánh nữa.
Về mặt thuỷ, quân ta có thắng được tiền quân giặc mấy trận
nhỏ. Đoàn chiến thuyền chúng vẫn theo dòng sông Bạch Đằng đi
vào phía Vạn Kiếp, cùng ngày 23 - 12, chu sư của Phàn Tiếp đánh
vào Bắc Giang, hội quân được với bộ binh. Trình Bằng Phi, A Bát
Xích và Lưu Giang đem 10 vạn quân đánh vào đồn Vạn Kiếp.
Trước thê giặc hung dữ, Hưng Đạo vương phải lui quân bỏ Phù
173
Sơn, rồi Vạn Kiếp. Ngày 30 - 12, giặc vào được Vạn Kiếp thì chỉ
còn đồn không.
Thoát Hoan định lập căn cứ đóng quân lâu dài ở Vạn Kiếp,
chủ trương chiến thắng hoàn toàn quân ta. Được thì tiến lên đánh
các nơi. Thua thì về đấy cô" thủ, đợi chính quốc tiếp viện binh
lương rồi lại đánh nữa cho đến toàn thắng mới thôi. Giặc củng cố
đồn này rất bền chặt, xây dựng kho tàng, dinh thự, trại quân,
nhiều kiến trúc vững chắc, đào hào sâu, đắp luỹ cao, sai quân lên
rừng lấy nhiều gỗ tô"t đê dùng vào công việc này. Đồn Vạn Kiếp lại
hên lạc với Chí Linh và Phù Sơn, tạo thành khu tam giác, hỗ trỢ
lẫn nhau.
Ò Mã Nhi và A Bát Xích dẫn binh thuyền từ Lục Đầu Giang
đánh xuông thuỷ quân ta. Trong thế yếu, quân ta lần lượt phải bỏ
Đại Than rồi Đông Bộ Đầu, kéo xuông miền dưới. Ngày 29 - 12, A
Bát Xích xuôi dòng sông Hồng đánh phá Hàm Tử quan. Quân ta
lui giữ Hải Thị, cũng bị giặc đánh, lại phải lui nữa.
Đại quân Thoát Hoan kéo về Gia Lâm, Đông Bộ Đầu, qua
sông Hồng, đóng quân bên thành Thăng Long. Quân ta chông lại
không đánh đuổi được chúng.
MẶT TRẬN CAO LẠNG - Trong khi quân Thoát Hoan đánh vào
Bắc Giang, Vạn Kiếp thì bọn ĩ.,ê Trắc, phò Trần Dục, con ích Tắc,
theo gót giặc Bắc về nưóc, chiếm đóng vùng Bình Giang (sông
Bằng) thuộc Cao Bằng. Chúng gồm 5.000 quân với sảnh Đô Sự,
Hầu Sự Đạt, vạn hộ Đạt, thiên hộ Tiêu ngoảnh lưng về phía ta
bày trận. Quân ta đánh đuổi ngày đêm, nhà cửa cháy, tên thuốc
độc bắn ra như mưa. Giặc kiệt sức, đến canh nám tan vỡ. Hầu Sự
Đạt chết trận. Chúng tháo chạy, bị vây hãm. Lê Yến con Lô Trắc,
mang theo Trần Dục, suýt bị bắt. Chúng nheo nhóc, chật vật, một
ngày chạy được trăm dặm, từ nửa đêm đến sáng, mới thoát được
về ải Châu Liêm thuộc đất Nguyên.
MẶT TRẬN TÂY BĂC - Đạo quân Vân Nam do A Lỗ chi’ huy xâm
nhập biên thuỳ tây bắc. Trần Nhật Duật, sau khi rút quân từ
Lạng Sơn, kéo về giữ Bạch Hạc. Hai bên giao chiến mấy trận kịch
liệt, dều có hị thiệt hại. Bên ta có hai tướng Lê Thạch và Hcò ương
(có sách chép Hả Anh) bị giặc bắt ở Tam Đái giang, đem giết đi.
Thế giặc mạnh, sau trận Mộc Hoàn, tiến quán đánh cửa quan Phú
Lương, rồi tiến vào Thăng Long, hội quân với Thoát Hoan, nhưng
không giúp được gì cho chủ tướng, chỉ tuần tiễu trên sông Hồng,
sông Cháy và sông Lô.
174
THOÁT HOAN VÂY ĐÁNH THÀNH THẢNG LONG - Hưng Đạo
vương rút quân từ Vạn Kiếp về Thăng Long, sai tướng rước xa giá
thượng hoàng và Nhân Tông ra Hám Nam (huyện Nghi Dương,
Kiến An). Sau bị 0 Mã Nhi đánh đuổi ngặt, xa giá phải chạy vào
Thanh Hoa. 0 Mã Nhi thâm thù trận thua năm trước, cô" tình đuổi
bắt vua Trần nhưng vì ít binh thuyên lại chứa không nhiều lương
thực, không dám đi sâu vào miền trong, đem quân trở về, qua
Long Hưng (Tiên Hưng, Thái Bình) sai quân đập phá, đào bới lăng
vua Trần Thái Tông nhưng không tìm được tử cung, o Mã Nhi
gian liệt quá, đi đến đâu giết hại dân chúng đó rất nhiều, thường
nói với người nưốc ta rằng; Chúa chúng mày lên trời hay xuông
biển, ta cũng theo lên trời xuông biển mà bắt cho được. Nên người
nước ta oán hận y lắm.
Thoát Hoan vây thành Thăng Long. Quân ta cô" thủ trong
thành, bắn tên đạn ra. Mỗi lần giặc tấn công là một lần thất bại.
Vây mãi, không hạ được thành. Bấy giò, quân đội ta vẫn còn gần
nguyên vẹn. do các lần rút lui có kế hoạch, không thiệt hại gì mấy
nhưng chưa đủ mạnh để đánh lớn tiêu diệt được giặc. Thường chỉ
mở những trận nhỏ ban đêm đô"t phá lương thực chúng. Chiến
trận không rộng lớn diễn ra luôn quanh kinh thành, nhất là ở
vùng Hồ Tây. Tướng thanh niên Trần Quốc Ngạc có thuyết là con
thứ Hưng Đạo vương trúng tên chết.
Giặc có lần đã lọt vào được trong thành nhưng bị quân ta
đánh mạnh chết nhiều, phải rút lui. Chúng đô"t phá cung điện và
mấy phô" sá.
Vây hãm cả tháng không nên công trạng gì, chúng gặp
khó khăn vì thiếu lương thực, chò đợi thuyền lương của Trương
Văn Hổ mãi không thấy đến. Xua quân vào sâu ăn cướp thì
khó nhọc nhiều mà không thu nhặt được mấy. Thoát Hoan lui
quân về Vạn Kiếp chờ cơ hội, sai 0 Mã Nhi đem binh ra biển
để đi đón thuyền lương.
QUÂN NGUYÊN VÀ QUÂN TRẦN CẦM c ự NHAU QUANH VÙNG
VẠN KIẾP - Đồn này, binh sĩ Nguyên đã củng cô" vững chãi. Mọi việc
đã hoàn thành, duy có kho lương thực vẫn vơi. Sô" lương Hạ Chỉ
đưa sang không nhiều lại một phần bị mất cướp trên đường. Thoát
Hoan trở về, sai A Bát Xích, Áo Lỗ Xích chia quân liều chết vào
sâu ăn cướp, cực nhọc lắm, chúng lấy được 4 vạn hộc đem chia cho
các đội. Sô" lượng nhiều nhưng quân sĩ quá đông nên mỗi người
chang được mấy.
175
Giặc lùi thì Hưng Đạo vương lại tiến quân lập trại chống lại
chúng, lại rước thượng hoàng và vua ra bắc. Quân Nguyên và quân
Trẩn đánh nhau luôn nhiều trận nhỏ, không phân được thua. Tình
trạng kéo dài, rất bất lợi cho chúng, do phải lo thiếu ăn.
Chúng cũng có tiến quân ra xa, đánh vào các đồn Chúc Động,
An Bang... đều bị đánh thua, phải rút lui, không ăn cướp được gì.
TRẬN VÂN ĐỔN - TRẦN KHÁNH Dư CƯỚP LƯƠNG QUÂN NGUYÊN -
Tháng 12 âl năm 1287, trong khi Thoát Hoan đánh vào Lạng Sơn
thì một đoàn thuỷ thủ quân giặc tiến đánh vào Vân Đồn (hải cảng
Vân Đồn nay là đảo Vân Hải thuộc huyện Hoành Bồ, Quảng
Ninh). Trần Khánh Dư trấn thủ nơi này, thua trận. Thượng hoàng
Thánh Tông, khi ấy còn ở Thăng Long hay tin, sai trung sứ ra bắt về
hỏi tội. Khánh Dư thưa: Lấy quân luật mà xử, tôi xin chịu tội.
Nhưng xin thư hoãn cho tôi ít ngày để may ra tôi lập được chút công
chuộc tội, phần nào chăng. Khánh Dư bèn thu nhặt thuyền bè, quân
sĩ, chò đợi đánh vào thuyền chơ lương của giặc tất sẽ đến sau.
Trần Quốc Toản ỏ Thanh Hoa được lệnh kéo 1 vạn 5 ngàn
quân ra Vân Đồn, phụ tá Khánh Dư.
Ngày 8 - 1 âl năm 1288, có đOíàn thuyền nhẹ tiến vào cửa Đại
Bàng, quản ta đánh bại chúng, giết được nhiều giặc, cưốp được
300 thuyền nhỏ, kiêu thuyền dùng đê thao luyện lính thuỷ hoặc đi
tuần tiễu bắt cướp.
Mấy hôm sau, đoàn thuyên chở lương của Trương Văn Hổ
kéo đên, vừa gặp toán tiền quân của Trần Quốíc Toản cũng mối tối.
Khánh Dư tung quân ra đánh cực mạnh. Thuyền lương giặc chở
nặng nề lại chỉ có ít quân hộ tông, nhiều chiếc bị quân ta đô"t phá,
đánh chìm xuông hiển. Văn Hổ cô" gắng tiến vào cửa Lục Thuỷ
Dương, phía đông huyện Hoành Bồ. Quân ta cố đánh để ngăn cản,
hai bên đố: địch nhau hăng hái. Thuyền giặc có tiến đvíỢc, nhưng
rất chậm. Một sô" đã vào được đất liền. Chiến sự đang găng thì hên
ta đưỢc tăng cường do chiến thuyền trung quân và hậu quân Quô"c
Toản vừa tới, đánh mạnh vào giặc. Chúng đang lúng túng thì chợt
nước triều xuô"ng, thuyền lương giặc nặng nề bị mắc cạn, tiến vào
không được, mà chạy lui cũng không được. Chúng thua to, bỏ chạy
lấy người, xuống thuyền nhỏ rút ra biển. Quân ta đuổi đánh. Chỉ
một sô" chạy thoát, còn bị giết, bị bắt hay xin hàng. Những thuyền
đi sau, còn ỏ ngoài biển, thấy thê" nguy, đều bỏ chạy. Do chở nặng
không đi được nhanh đang lúc bị đuổi gấp, chúng vội vã ném lúa
gạo xuống biển cho nhẹ mà chạy gấp về Quỳnh Châu. Trong trận
176
này, bên ta thu được nhiều thuyền lớn với đầy đủ lương thực, khí
giới vô sô. Trận Vân Đồn này diễn ra 11 - 1 âl năm 1288, là chiến
thắng quan trọng, mở đường cho chiến thắng Bạch Đằng Giang
sau này. Trần Khánh Dư lập công trạng to lớn. Toàn thể sô" lượng
lớn lương thực của giặc đem đi chinh nam tiêu tan, phần bị quân
ta lấy được, phần bị chìm xuông nước hết cả.

B ản đồ kháng chiến chống


quân M ông Cô xâm lăng lần th ứ ba 1287 - 1288

Bấy giò, Thoát Hoan đang vây thành Thăng Long, không biết
tin dữ, sai Ô Mã Nhi ra biển đón thuyền lương. 0 Mã Nhi do cửa
Đại Bàng ra Tháp Sơn (Đồ Sơn?), gặp binh thuyền ta, hung hăng
đánh, quân ta thua chạy tan tác ngoài khơi. Ra đến An Bang, hay
tin lương thực đã bị mất trắng, 0 Mã Nhi điên cuồng đánh vào
trai Vân Đồn, mong gỡ gạc đưỢc chút gì chăng. Khánh Dư giữ
vững thế trận, Quôc Toản hăng hái đẩy lui giặc, không may bị
trọng thương, qua đời ngày 2 - 2 âl. Mấy lần cố đánh nữa, vẫn vô
177
công, Ô Mã Nhi đem quân đi cướp các làng xóm ven biến. Dân
chài lưới ít có thóc lúa trâu lợn, nên chúng chẳng nhặt nhạnh được
mấy. Ngày 19 - 2, 0 Mã Nhi phá trại An Hưng, cướp của, đôt nhà,
rồi trở về Vạn Kiếp.
Khánh Dư thắng trận lớn, đưa thư về báo tiệp. Thượng
hoàng mừng rỡ, ban khen. Lại bàn với Hưng Đạo vương: Giặc
trông cậy ở lương thực, khí giới. Chưa biết đã mất hết, chúng còn
đac chí. Nay ta thả ít quân bị bắt cho về báo tin, ắt chúng sẽ nản
lòng. Bọn tù binh đưỢc thả về Vạn Kiếp báo tin. Thế là quân sĩ
giặc xôn xao. Bấy giò lại là cuôl xuân sang hè, thời tiết nóng nực
nên chỉ mong được sớm trở về nước. Lương thực mất hết. Chương
trình đóng quân lâu dài đánh mãi không thi hành được. Cáo cấp
về nước xin tiếp viện thì người mang tin về nước dễ gì đã về thoát
được, mọi ngả đường sang Bắc quốc bị cấm qua lại. Mà có được
đưa sang cũng chẳng chắc gì đến nơi được, hay lại bị cướp trên
đường đi. Thoát Hoan không làm gì được khác, ngoài việc rút
quân về nước, chỉ mong sao được an toàn tôl đa. Chúng sắp xếp
chương trình rút quân: 0 Mã Nhi, Phàn Tiếp dẫn thuỷ quân theo
đường sông Bạch Đằng về trước. Kế đó, quân sĩ theo đường bộ về
sau. Trình Bằng Phi, Trương Quân dẫn quân khoẻ mạnh đi đoạn
hậu. Quân sĩ sửa soạn kéo nhau về.
TRẬN BẠCH ĐẰNG GIANG - ồ MÃ NHI BỊ BĂT - Sau trận Vân Đồn,
Hưng Đạo vương biết thế quân Nguyên tất phải chạy. Dự đoán
cũng như tin tình báo cho biết chương trình rút quân của giặc,
vương sai Nguyễn Khoái dẫn quân qua đường tắt đến mé thượng
lưu sông Bạch Đằng, kiếm gỗ tốt, đẽo cọc bịt sắt nhọn, đóng khắp
giữa lòng sông rồi phục kích chò sẵn. Khi nước triều lên thì đem
quân ra khiêu chiến, chờ khi nước triều xuống thì giả thua chạy,
nhử thuyền giặc đuổi theo qua chỗ bên dưới có cọc, thuyền giặc
vướng cọc, sẽ trở lại hết sức mà đánh.
Về mặt bộ, sai Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa đem quân
lên phục ở ải Nội Bàng, chờ quân Nguyên qua đổ ra đánh mạnh,
các tướng sĩ khác cũng được lệnh đem binh sĩ lên vùng Bắc Giang,
Lạng Sơn đóng quân mai phục tại nơi hiểm yếu hai bên mọi đường
sang Trung Quốc, phá giặc khi chúng qua.
Bạch Đằng là sông lớn thuộc huyện Thuỷ Nguyên, Kiến An,
do các sông Đà Bạc và sông Gia cùng nhiều nhánh sông khác đổ
vào, lòng rộng mênh mông, bên phải là dãy núi Tràng Kênh, bên
trái có rừng lau sậy um tùm.
178
Ngày 28 - 2 âl, đoàn thuyền của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp lên
đường. Tiền quân dò đường tiến theo dòng sông Giá, ngày 7 - 3
đến Chúc Động bị quân ta chặn đánh phải lui. Giặc chỉ có thế đi
theo sông Đà Bạc qua Bạch Đằng, nơi dưới có gài bẫy.
Hưng Đạo vương nghe tin 0 Mã Nhi đã kéo quân ra Bạch
Đằng,* dẫn đại quân đi theo sông Hoá (ngọn sông thuộc Thái
Bình), hô quân sĩ cầm gươm trỏ dòng sông, thề rằng: Trận này
không phá xong giặc thì không trở về sông này nữa. Quân sĩ cảm
khích, quyết chiến, kéo một mạch ra đến cửa sông Bach Đằng.
Các thuyền của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đi trên sông Bạch
Đằng, bỗng thấy Nguyễn Khoái đem binh thuyền đến khiêu chiến.
Ô Mã Nhi xông vào đánh. Bấy giờ nước triều cao, mặt sông mênh
mông. Đôi bên giao chiến hồi lâu, đến lúc thuỷ triều xuông,
Nguyễn Khoái giả thua chạy. Thuyền của tá nhẹ nhàng lướt trên
dòng sông bên dưới có cọc bình yên. 0 Mã Nhi vô tình thúc quân
đánh đuổi theo. Thuyền giặc nặng nề đi đến quãng sông dưới có
gài bẫy, vướng cọc, đổ nghiêng, đổ ngả. Hàng ngũ giặc mất trật tự.
Nguyễn Khoái quay thuyền trở lại, đánh cực mạnh, giặc chêt vô
sô". Chiến trận đang háng thì Hưng Đạo vương vừa đến, đóng quân
chắn ngang cửa sông, tầng tầng lớp lớp. 0 Mã Nhi, Phàn Tiêp cô
179
gắng sắp xếp lại hàng ngũ. Có những đội quân ta ở các lạch sông
thả những bè lửa xuông đốt thuyền giặc. Quân phục hai bên sông
bắn tên đạn xuông. Giặc như bị nhô"t trong túi, tiến ra biển bị
chặn, lùi trở lại vướng cọc, bỏ chạy lên bò bị bắt giết. Quân đội ta
thâm thù 0 Mã Nhi tàn ác, nay được dịp trả oán, hăng hái đánh
trận quá sức mình. Các đội xung kích giặc liều chết xông vào đánh
quân ta, tìm đường ra biển, bị quân ta tiêu diệt. Có toán qua được
lớp này thì cũng lớp sau hay lớp sau nữa đánh chết. Chiến trận ác
liệt diễn ra suôt từ sáng đến chiều tôi, máu giặc loang đỏ cả một
khúc sông. Chung cuộc, toàn thể thuỷ quân 3 vạn người tan vỡ
hết; số lớn chết tại trận, sô" còn lại bị bắt sông hay xin hàng cả.
Các tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ... đều bị bắt. Quân ta
thu được 400 chiến thuyền. Trận đại thắng này diễn ra ngày 8 - 3
năm Mậu Tý (9 - 4? năm 1288).
TRẬN NỘI BÀNG - Thoát Hoan ỏ Vạn Kiếp nghe tin thuỷ quân
tan vỡ, bèn cùng bọn Trình Bằng Phi, A Bát Xích, Áo Lỗ Xích,
Trương Quân, Trương Ngọc phân công dẫn quân đi đường bộ trở
về nước. Trên đường tháo chạy, chúng không những phải chông lại
quân ta đánh đuôi theo sau, lại thường bị trúng tên cung nỏ từ hai
bên đường, khi lại bị đội quân lưu động đột kích bên hông. Vừa
đến ải Nội Bàng thì phục binh của Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế
Nghĩa đố ra đánh. Chiến trận này cũng rất kịch liệt. Thấy thuỷ
quân luôn hai lần lập được công trạng lớn lao nên bộ quân cũng
trô hết tài năng, hăng hái giết giặc cho bằng anh em. Quân giặc
thấy đồng bọn chết nhiều, quá thất vọng khiến chúng sinh ra liều
lĩnh, cô" đi vào chỗ chết để tìm đường sông. Bên ta có hai tướng
Phạm Trù và Nguyễn Ky hy sinh. Tướng sĩ giặc hết sức giữ gìn
Thoát Hoan, vừa đánh vừa chạy. Trương Quân cô" đánh lấy đường
chạy, bị Phạm Ngũ Lão chém chết. Trong trận này, quân Nguyên
chết rất nhiều, còn hơn cả trận sông Sách năm trước nữa.
Ra khỏi cửa ải, Thoát Hoan lại nghe tin trên các đường sang
Trung Quốc, chỗ nào có quân Trần đóng giữ, chặn đvtòng về. Quân
sĩ xôn xao sỢ hãi, mà mé sau lại nghe tiếng có quân đuối theo.
Thoát Hoan vội vã sai A Bát Xích, Trương Ngọc dẫn quân đi trước
mơ đường, Áo Lỗ Xích đi đoạn hậu. Chúng khôn ngoan đi thẳng
đến Lộc Châu, cũng không đi theo đường lớn qua Lạng Sơn, lại
theo đường nhỏ đi ngoặt sang phía đông theo lốỉ đi Vạn Ninh, để
tránh phục binh ta. Chúng không bị quân ta đổ ra đánh lớn nhưng
Hưng Đạo vương cao khiến đã đặt trên núi hai bên đường này
180
những đội quân thiện xạ bắn tên cung nỏ xuống giặc. A Bát Xích,
Trương Ngọc trúng tên thuốc độc. Quân sĩ giặc cũng chết ngổn
ngang đầy đường. Trình Bằng Phi hộ vệ Thoát Hoan chạy ra Đan
Kỷ, châu lỵ Định Lập, rồi ngoặt trở lại đi theo đường tắt về châu
Tư Minh, nhờ sự chỉ dần của châu mục Hoàng Liên mới thoát
thân về nước được. A Bát Xích đi sau, nhặt nhạnh tàn quân đưa
về bắc. Toán quân Nguyên cuôi cùng rút khỏi nước ta ngày 18 - 3
âl (tức 1 7 - 4 ? năm 1288).
Quốc sử và Bắc sử đều không chép về đạo quân Vân Nam lần
này cũng như lần trước, rút về nước ra sao. Theo thần tích, Trần
Nhật Duật thù những trận chúng đánh thua khi mới sang, cả hai
lần, đều đem binh thuyền đánh đuổi, bắn nhiều tên cung nỏ sang
thuyền chúng, gây thiệt hại. Lần sau, bắn trúng chủ suý A Lỗ.
Bắc sử chép A Lỗ mắc bệnh chết.
Thoát Hoan vê nưỏc. Nguyên chúa giận hai lần đi chinh nam
hao binh tổn tướng, mua lấy cái nhục bại trận, không muôn nhìn
mặt cử đi trấn thủ Dương Châu, phải ra đi nhận việc ngay, không
đưỢc về triều kiến.
Hưng Đạo vương chuyên này thực sự đã trừ hết quân Mông
Cô xâm lăng, hội các tướng, dẫn quân rước xa giá thượng hoàng và
Nhân Tông về kinh sư. Đi đến Long Hưng, Nhân Tông đem các
tướng Nguyên bị bắt vào làm lễ hiến phù trước Chiêu lăng (lăng
vua Trần Thái Tông), về đến Thăng Long, vua sai mở tiệc khao
thưởng tướng sĩ, cho dân chúng mở hội ăn mừng vui vẻ ba ngày,
gọi là thái bình diên yến.
Cung khuyết bị giặc đô"t phá. Thượng hoàng và vua ngự
trong giải vũ, hạ chiếu đại xá tù phạm, trừng trị những người
hàng giặc, an ủi gia đình binh sĩ trận vong.
SỨ ĐẠI VIỆT SANG NGUYÊN XIN HOÀ - Quân Nguyên sang đánh
ta, tuy thua hai phen nhưng nhà Nguyên còn mạnh lắm, mà nước
ta so với Trung Quốc là nhỏ mọn, nếu cứ chiến tranh mãi thì dân
chúng phải lầm than khổ sỗ. Tháng 10 âl năm 1288, Nhân Tông
sai Đỗ Thiên Thứ sang sứ Nguyên xin theo lệ côAg hiến xưa.
Nguyên Thế Tổ thấy quân mình thua luôn, không nản, vẫn ngoan
cố muốn xua quân sang đánh ta nữa. Nhưng dụng đại binh phải
sửa soạn trong vài năm nữa nên cũng tạm thời cho thông hoà.
Tháng 2 âl năm 1289, Nhân Tông sai Nguyễn Thịnh đem bọn
tướng bị bắt Tích Lệ Cơ vê nước. Phàn Tiếp vì đau buồn, phải
bệnh chết, đã được hoả táng, vỢ con được cấp người ngựa đem hài
181
cốt về. Các đầu mục và binh sĩ cũng đưỢc tha cho về cả. Riêng
những người Hán quy hàng xin ở lại làm dân Việt được cấp
phương tiện làm ăn. Quốc sử chép duy có 0 Mã Nhi tàn ác giết hại
quá nhiều người, vua ta căm lắm, không muôn tha, nhưng lại ngại
đường hoà hiếu, nên dùng kế Hưng Đạo vương, sai người đưa đi
đến giữa biển, đục thuyền cho mà đắm mà chết đuối. Đây là theo
sách Thiên Jlam hàn h ký của Tư Minh Thiên nhà Nguyên. Việc
không chắc có thật, sử cũ chép o Mã Nhi chết trận tại sông Bạch
Đằng. Trong bài Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết: o Mã Nhi
hựu ế tại Bạch Đằng hải (ế là chết đuối). Mà sự có thật chăng nữa
cũng là chuyện báo thù thường tình, chẳng có chi là “phi nhân bất
nghĩa” như Tự Đức phê bình. Ngô Thì Sĩ chê là không tín. Nhà
nho câu nệ chữ trung tín, nhưng lừa thắng gian được khen là trí,
thì giết đứa ác đâu đã phải là tội.
ĐỊNH CÔNG PHẠT TỘI - Tháng 4 âl năm 1289 mới định công
phạt tội. Các vương hầu đi đánh giặc có công đều được thăng trật,
các tướng sĩ khác họ có công to được phong quốíc tính. Nguyễn
Khoái được phong tước hầu, cho án lộc hương Khoái Lộ (phủ
Khoái Châu ngày nay), Phạm Ngũ Lão đưỢc thưởng hàm Quảng
Thánh Dực quân. Các tù trưởng có công cũng được phong hầu.
Vua lại sai văn thần chép công trạng các tướng hỢp thành sách
Trung Hưng thực lục, lại sai thợ vẽ tranh các tướng treo ở Gác
công thần. Tiến phong Hưng Đạo vương làm Đại vương; Hưng Vộ
vương, Khai Quôc công; Hưng Nhượng vương, tiết độ sứ; Đỗ Hành,
quan nội hầu; Lương Uất, trại chủ Quy Hoá; Hà Tất Năng, quan
phục hầu.
Định công xong rồi, mới xét đến tội những người hàng giặc.
Trong khi quân Nguyên cường thịnh, quan lại lắm kẻ hai lòng,
có giấy má đi lại với giặc. Sau giặc thua chạy, quân ta có bắt
đưỢc một tráp biểu hàng. Đình thần muôn lục ra trị tội. Thượng
hoàng nghĩ rằng làm tội những đồ tiểu nhân cũng vô ích, sai
đem đô"t đi cho yên lòng mọi người. Duy những người quả thực
đã hàng giặc mới trị tội, hoặc đem đày, hoặc xử tử. Trần Kiện,
Trần Văn Lộng, tuy đã chết, con cháu phải tước họ tôn thất, đôi
ra họ Mai. Riêng Trần ích Tắc, vua nghĩ tình thần không nỡ
nhưng phải gọi là Ả Trần, nghĩa là bảo nhút nhát như đàn bà.
Quân dân được thứ tội chết, chỉ bắt đi cày ruộng công hay bắt đi
chở gỗ đá vể làm cung điện, dinh thự. Duy có hai xã Bàng Hà và
Ba Điểm, trước hết hàng giặc, cả làng phải đồ làm lính, không
182
bao giò được đi thi ra làm quan (hai xã này gồm nhiều con cháu
nhà Lý).
Trong việc này, nhà Trần phạm lỗi lầm: Các gia nô có công
dù lớn, chỉ đưỢc thưởng tiền, vải, nhiều lắm là ruộng đất, chứ
không được chức quan cấp chỉ huy binh sĩ, dù chỉ là hư hàm.
Phẩm tước han thưởng không được rộng rãi. Thượng hoàng
bảo quân Nguyên còn sang đánh nữa, ta phải dành chức tước để
thưởng cho người có công sau này.
ĐỊNH CUỘC HOÀ HIẾU - Nguyên Thế Tổ trước nhận cho hoà,
vẫn muôn cử binh sang đánh nữa. Trung thư viện vẫn ngày đêm
làm việc chuẩn bị công cuộc viễn chinh. Các quan triều biết rõ
tình thế tìm hết mọi cách đế ngăn ngừa. Năm 1291, Bảo Quả Mật
(Bất Hô"t Truật) xin sai sứ sang dụ vua Trần vào chầu. Trương
Lập Đạo sang du thuyết, vô công. Nhân Tông sai Nguyễn Đại
Phạp sang khất qua năm sau. Năm 1292, công việc sửa soạn viễn
chinh đã hoàn tất. Nguyên chúa muôn cất quân. Triều thần thấy
đi đánh Nhật Bản hay An Nam đều không lợi, bàn tính nên đi
đánh nước khác. Quân Nguyên tiến đánh Trảo Oa (Java, Chà Và),
nhưng cũng thất bại luôn. Cùng năm 1292, Lương Tăng và Trần
Phu sang giục. Bấy giờ, Nhân Tông đã nhường ngôi cho Anh Tông,
không xin phép Nguyên triều. Anh Tông cũng không chịu cho
chầu. Nguyên chúa quyết định khởi binh sang đánh, sai Lưu Quốc
Kiệt cùng các tướng Y Lặc, Cát Đại chỉnh binh lương, một ngàn
chiến thuyên, sắp sửa cất quân, gọi Trần ích Tắc về hội ở Trường
Sa. Bấy giò là năm 1293.
Trong khi còn đang sửa soạn, bỗng Nguyên Thế Tổ Hốt Tất
Liệt chết. Nguyên Thành Tông lên nôi ngôi, có nhiều việc phải lo
lắng: Người trong tôn thất tranh giành nhau địa vị, có sự lủng
ọủng giữa các sắc tộc Mông cổ , người các nước bị chiếm, kể cả
người Hán, rục rịch nổi dậy chông đối. Lại thấy các cuộc viễn
chinh từ hơn 20 năm đều thất bại, vả không có nhiều tham vọng
như cha, lại thấy vua Trần đã chịu xưng thần nạp công, nên bãi
binh, nhưng làm ra vẻ có lượng, tờ dụ nói: Thiên tử mới lên ngôi,
ra ân đại xá, đã hạ lệnh cho các quan có trách nhiệm phải bãi
binh. Vậy từ nay về sau nên nhớ kỹ đạo: Sợ uy Tròi, thờ nước lớn
(uý Thiên, sự đại). Từ đấy, hai nước thông hoà, không có chiến
tranh nữa.
TẠI SAO QUÂN DÂN TA ĐÁNH BẠI Được QUÂN NGUYÊN - Nửa
cuối thế kỷ XIII, quân dân ta, một nước nhỏ, dưới quyền lãnh đạo
183
của vua tôi nhà Trần, đã đánh bại quân xâm lăng Mông cổ, đế
quốíc hùng mạnh lừng lẫy khắp trời Àu, biển Á.
Sử gia Trần Trọng Kim viết: Nước ta thòi bấy giờ, vua tôi hoà
mục, lòng người như một. Nhân tài lũ lượt kéo ra. Lại được Hưng
Đạo vương là đại tướng tài cao, giỏi dụng binh, biết đợi thòi, biết
thừa thế tiến thoái, cầm quân vững chãi, gan bền tựa sắt, vả lại
khéo dùng lòi khuyên dỗ, khiến cho mọi người cảm động, sinh lòng
trung nghĩa, tướng sĩ hết lòng giúp nước.
Quân Mông cổ hơn hẳn ta về vóc người khoẻ mạnh và tài nghệ
chiến đấu, lại có vũ khí sắc bén, quen thuộc với trận mạc, từ lâu đều
là những chiến sĩ chuyên nghiệp. Quân sô" lại đông, tưởng chừng có
thế đè bẹp được quân dân ta dễ dàng. Nhưng chúng phải đi xa khó
nhọc, đã không có chính nghĩa, lại không thông thuộc đường lốĩ địa lý.
Người phương bắc xứ lạnh rất khó chịu khí hậu nóng nực bên ta, dễ bị
mệt mỏi mắc bệnh. Quân sô" đông nhiều người là giông Hán, dân vong
quốc, không ham gì đánh. Hơn nữa, nhu cầu lương thực phải nhiều.
Giặc quen thói lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, gặp phải bên ta dùng
kê thanh dã (vườn không nhà trông) triệt lương địch, khiến chúng chỉ
vì thiếu ăn mà phải sớm rút quân chạy về nước.
Bên ta thì người chông giữ đất nước mình, quen phong thổ,
thuộc đường lốỉ, lại là chiến tranh tự vệ nên mọi người đều hăng hái
bảo vệ giang sơn tổ quôc, đoàn kết nỗ lực vào công cuộc phá giặc.
Trong trận bình Nguyên, bên ta lại có lợi thế mà mọi cuộc
kháng chiến khác đều không có, là có mấy đoàn Tông binh được
dịp trả oán quân Mông cổ, lại dụ được người Hán trong hàng ngũ
giặc theo về ta.
Đánh đuổi được giặc mạnh tất phải có binh hùng tướng dũng
thì từ lâu, Trần Thủ Độ đã sớm tổ chức quân đội, toàn dân vi binh,
gây cơ sở vững chãi cho Hưng Đạo vương có đủ lực lượng chông
quân xâm lăng.
Vì vậy, quân Nguyên sang đánh ta, chỉ hông hách được lúc
ban đầu, sau phải khốn đôn thua chạy về nước.

KỶ NHÀ TRẦN (t iế p th e o )

TRẨN ANH TÔNG 1293 - 1320 huý THUYÊN (1276 - 1320)


Niên hiệu: Hưng Long.

Thái tử Thuyên lên ngôi năm 1293, tục hiệu vua Trần Anh Tông.
184
ĐỨC ĐỘ VUA ANH TÔNG - Khâm Từ thái hậu thân sinh ra vua
Anh Tông khuất năm vua vừa lên ngôi. Năm sau, thượng hoàng
thân đi đánh quân Ai Lao. Tuyên Từ thái hậu, em Khâm Từ, làm
chủ trong cung cấm, tính khó khăn nóng nảy, dậy vua rất nghiêm,
vua vẫn kính cẩn vâng theo. Anh Tông buổi đầu hay uông rượu và
đêm thường hay lẻn ra ngoài đi chơi, có khi gặp kẻ vô lại phạm
đến. Một lần uông rượu say đến nỗi thượng hoàng ở phủ về mà
vua vẫn nằm ngủ. Thượng hoàng giận lắm, truyền xa giá lập tức
về Thiên Trường, đòi bách quan về đấy hội nghị. Anh Tông tỉnh
rượu, sỢ hãi quá, vội vàng ra ngoài cung, gặp người học trò Đoàn
Nhữ Hài, mưỢn thảo bài biểu tạ tội, rồi cùng Nhữ Hài xuông
thuyền đi suốt đêm về Thiên Trường. Thượng hoàng xem biểu,
quở mắng rồi tha tội. Từ đấy, Anh Tông không còn uô"ng rượu nữa.
Xưa vua ta có tục lấy chàm vẽ rồng vào đùi. Anh Tông không
múô"n theo tục ấy. Thượng hoàng bảo dòng dõi nhà ta vẫn vẽ mình
để nhớ gốc ngày xưa, nay quan gia phải theo tục ấy. Anh Tông tuy
vâng mệnh, nhưng lúc thượng hoàng bận việc khác, lẩn đi, không
chịu vẽ. Từ đấy, vua nước ta không vẽ mình nữa.
Anh Tông trước có phong thưởng quan tước rộng rãi. Thượng
hoàng xem số phê sao triều ban nhiều đến thế này. Anh Tông từ
đấy dè dặt sự ban tước thưởng.
VIỆC CAI TRỊ - Anh Tông hiếu thảo, thông minh. Việc chính trị
bấy giờ có kỷ cương lắm. Trong triều có những người tài trí, văn
như Trương Hán Siêu, võ như Phạm Ngũ Lão, hết lòng giúp nước,
phép tắc nghiêm trang, thưỏng phạt phân minh. Việc học hành
được mở mang rộng rãi. Người có văn học như Mạc Đĩnh Chi,
Nguyễn Trung Ngạn được thi đỗ làm quan, giúp vua trị nước.
Đoàn Nhữ Hài, người học trò có tài, không hiểm cất lên mau
chóng, thăng đến chức tri khu mật viện. Học sĩ Nguyễn Sĩ Cô" hay
làm thơ phú quốc âm. nhiều người học theo đua nhau làm văn
quô"c âm hắt đầu từ đấy.
Sử chép: Dưới triều Anh Tông, quan viên đánh bạc phải xử
phạt rất nặng. Thượng phẩm Nguyễn Hưng phạm pháp cố ý, phải
đánh bằng trượng đến chết.
Anh Tông cũng sùng Phật. Năm 1295, sai Phạm Khắc Dụng
và Phạm Thảo sang Nguyên, thu được bộ kinh Đại Tạng đem về,
in các bản phó lưu hành. Năm 1299, in sách P hật g iáo p h á p sư,
Đạo tràng tản văn, ban bô" cho thiên hạ. Anh Tông thường họp các
nhà sư ở núi Yên Tử đàm đạo Phật pháp, lại làm các Anh Văn.
185
Anh Tông tính khiêm tô"n, đôl với ngưòi họ rất hoà thuận,
thò cha kính cẩn. Lúc rảnh lưu tâm đến văn mặc, rất tài viết
chữ và vẽ, có tập Thuỷ Vân tuỳ bút. Khi sắp khuất, bắt đem
đôh cả đi.
VIỆC BANG GIAO VỚI NHÀ NGUYÊN - Năm 1293, sứ nhà Nguyên
Lương Tăng và Trần Phu sang. Triều đình ta trả miếng thái độ
kiêu ngạo của các sứ Nguyên ngày trước, để cho đi vào triều theo
cửa bên. Sứ giả không chịu, đàm phán đến ba lần, mới được đi vào
theo cửa giữa. Việc nhỏ này chứng tỏ vua Trần đã cứng rắn lắm.
Nguyên Thế Tô thấy vua ta nhất định không chịu sang chầu sửa
soạn cho đem quân sang đánh nữa, bỗng chết. Nguyên Thành
Tông nối ngôi, bãi binh, hai bên thông hoà.
Năm 1299, có sự kiện Đặng Nhữ Lâm sang sứ Nguyên, dấu
mình trong bản đồ địa dư và sách bị cấm ghi chép rừng núi và
tình hình quân sự phương bắc. Nhà Nguyên trách triều đình ta về
việc ấy, nhưng sau cũng tha cho Nhữ Lâm về nước.
Năm 1313, có sự kiện tri châu Triệu Giác bắt người châu Tư
Lang nước ta, lấy vàng và lấn ngàn khoảnh ruộng. Quan quân ta
sang đánh châu Quy Thuận và châu Dưỡng Lợi phục thù. Nhà
Nguyên có lòi trách nhưng giữ vẻ ôn tồn. Chung cuộc, đôi bên định
lại bờ cõi cho được rõ ràng, tránh sự xâm phạm lẫn nhau. Xem vụ
này, thấy nhà Trần không còn e sỢ gì vua Nguyên nữa. Vậy việc
công nạp cũng qua loa, chiếu lệ.
VIỆC ĐI ĐÁNH QUÂN AI LAO SANG CUỚP PHÁ - Giữa thế kỷ XIII,
trước sự bành trướng của quân Mông cổ, người Ai Lao cũng tổ
chức quân đội mạnh để chông giữ. Nước này được những đội tượng
binh rất lợi hại. Không bị quân Nguyên đánh, quân Ai Lao hùng
cường, bèn sang cướp phá vùng Thanh, Nghệ nưốc ta. Năm 1290,
chúng sang cướp, quan quân địa phương không đánh nổi. Nhân
Tông khi ấy còn đang làm vua, huy động đại binh đi đánh. Giặc
rút lui về nưốc.
Năm 1294, người Ai Lao lại xâm phạm, chiếm giữ châu
Chàng Long. Phạm Ngũ Lão đi đánh. Giặc thua chạy, tan vỡ.
Năm 1301, người Ai Lao lại cướp phá ở Đà Giang. Phạm Ngũ
Lão đi đánh bại được chúng ở động Mương Mai (nay thuộc Hoà
Bình) bắt được nhiều tù binh.
Thời bấy giò, quân Ai Lao thường hay sang cướp phá, bị đánh
thua thì rút về nước, nhưng hễ bên ta kém phòng thủ thì lại sang
quẫy nhiễu.
186
Quô'c sử xưa chép là đi đánh Ai Lao. Xét các chiến trận dù
được dù thua, đều diễn ra trên đất nước ta, không có việc người
nưốc ta xâm nhập đánh Ai Lao. Đây là chiến tranh tự vệ, có chính
nghĩa, đáng khen. Có mấy sử gia xưa và nay, lầm cho rằng vua
Trần háo chiến, có tham vọng đất đai, xua quân đi xâm lược lân
quôh, gây thù oán, đã chê trách, là không đúng. V í phỏng quân đội
ta có xâm nhập nước núi cao rừng rậm ấy thì không khỏi bị các đội
tượng binh đánh hại.

HUYỂN TRÂN CÔNG CHÚA - Dưới các triều vua Trần Thánh
Tông và Nhân Tông, việc bang giao giữa nước ta với nước Champa
tô"t đẹp, do liên minh chông nhà Nguyên. Sau Nhân Tông thượng
hoàng đi tu, thường du ngoạn khắp nơi núi sông trong nước. Năm
1301, sang chơi nước Champa xem phong cảnh, có hứa gả con gái
Huyền Trân công chúa cho vua Chăm Chế Mân. ít lâu sau, Chế
Mân sai người đem vàng bạc và sản phẩm lạ sang công và xin
cưới. Triều thần có nhiều người không tán thành. Chế Mân lại xin
dâng đất châu o và châu Kí làm lễ cưới. Anh Tông mới quyết ý
thuận gả. Tháng 6 ál năm 1306, nhả vua cho công chúa về
Champa. Sang năm 1307, Anh Tông thu nhận hai châu này, đổi là
Thuận Châu và Hoá Châu, sai Đoàn Nhữ Hài vào kinh lý và đặt
quan cai trị.
Về việc này, có mấy văn nhân mượn chuyện nhà Hán gả con
gái cho Hung Nô và 0 Tôn, l(àm thơ chế giễu.
Huyền Trân công chúa về với Chê Mân chưa được một năm
thì Chê Mân mất vào tháng 9 âl năm 1307. Theo tục lệ của người
Chăm, hễ khi vua chết thì các hậu phi phải lên đàn hoả thiêu chết
theo. Anh Tông sai Trần Khắc Chung, giả tiếng vào thăm viếng,
cướp lấy công chúa dưa về.

Sự việc’ gii công chúa dối lấy hai cháu, mọi người phê
bình, ý kiến khác nhau đến tr.ái ngược nhan. Kẻ cho là khôn
ngoan tài tình, không mâd gì m.ấv mà lấy được đất. Người bảo
là l.àm một việc không dứng đ<ắn. Nhiều người mạt sát Chê Mân
ham vợ dẹp, cắt đất hiến cho Lân bang, có tội với non sông.
1'hực sự, xét đây chí là một cách giàn xếp chính trị đê nưốc ta
lây dất díỉi hai châu hên trong đèo llả i Vân, đất xa xưa là bộ
Việt Thưdng dưổi triều vua Hùng. Champa khó giữ nổi. Không
có việc Chế Mân dại dột ham nữ sắc.
187
VIỆC ĐI ĐÁNH NƯỚC CHAMPA - Chế Mân mất rồi, Chế Chí nối
ngôi, hay phản trắc, không giữ những điều giao ưốc trước nên nám
1311, Anh Tông cùng em là Trần Quốc Chấn và Nhân Huệ vương
Trần Khánh Dư, phân hình làm ba đạo sang đánh Champa. Quân
Quôc Chấn đi theo đưòng núi; quân Khánh Dư, đường biển: quân
Anh Tông, đường bộ. Đoàn Nhữ Hài sung chức chiêu dụ sứ, đi
trước đến trại Câu Chiêm. Chủ trại khuyên Chê Chí ra hàng. Chê
Chí đem gia thuộc đi theo đường hiển ra hàng. Anh Tông đi tuần
tiễu các bộ lạc. Người Chăm tụ họp chực xâm phạm ngự dinh.
Quân Quốc Chấn kéo đến đánh tan được. Anh Tông bắt Chê Chí
đem về, phong người em Chế Đồ A Bà Liên làm á hầu, trấn giữ
đất Champa.
Thấy Champa thường hay bị người Xiêm La sang cướp, năm
1313, Anh Tông sai an phủ sứ Đỗ Thiên Thứ đi kinh lược hai lộ
Nghệ An và Lâm Bình để cứu viện.
Chế Chí được phong làm Hiếu Thuận vương, sau chết ở Gia
Lâm. Anh Tông sai đem hoả táng. Từ đấy, ta và Champa sinh
điều thù oán.
LUẬN VỀ VUA TRẦN ANH TÔNG - Năm 1314, Anh Tông truyền
ngôi cho con là thái tử Mạnh, về phủ Thiên Trường làm thái
thượng hoàng, vẫn tự quyết mọi công việc, kính can noi theo điển
chương cũ. Có tuổi càng thận trọng, nhất là về hình phạt. Năm
1320 khuất, làm vua 21 năm, làm thái thượng hoàng 6 năm,
hương linh 43 tuổi.
Trần Anh Tông là vua hiền tài, suô"t thòi gian trị vì, dân nước
được thái bình, thịnh vượng, duy phạm sai lầm đi đánh Champa,
việc làm không cần thiết. Rất tiếc ông không thọ.

HƯNG ĐẠO VUONG


TRẤN QUỐC TUÂN (1229 (?) - 1300)
Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn là con An Sinh vương
Liễu. Thông minh sớm, thuộc thư, kinh sử, nhất là các binh thư,
đặc biệt lưu ý đến các phương pháp kháng chiến, yếu chống mạnh,
ít chọi nhiều, mềm địch cứng, từng đi xem xét địa hình địa vật các
quan ải vùng biên thuỳ, cùng các cửa sông biển, khảo sát các
chiến trận của những anh hùng tiền bôi: Triệu Quang Phục, Ngô
Quyền, Lý Thường Kiệt.
An Sinh vương xưa làm loạn, không bị tội, lòng vẫn oán hậrí,
khi sắp khuất, cầm tay vương dặn lại rằng; Nếu con không vì cha
188
lấy được thiên hạ thì cha nằm dưới đất không nhắm mắt được
đâu. Vương không chịu nghe theo điều ấy, lấy trung làm hiếu, mà
người đòi vẫn khen ngợi là hiếu lớn.
Năm 1257, quân Mông cổ từ Vân Nam sang đánh nước ta.
Vương được phong làm tiết chê đem quân lên giữ biên thuỳ tây
bắc, hạt Thuỷ Vĩ. Trước thế giặc quá mạnh, vương ít quân, không
địch lại nối, bèn rút quân về mạn Sơn Tây, để bảo toàn lực lượng.
Hội nghị Bình Than, các vương hầu thấy quân số giặc đông,
cũng núng. Vương cương quyết kháng chiến. Số" đông gồm nhiều là
người Hán còn mang hận Mông cổ cướp nước, ta sẽ chia rẽ chúng.
Quân đông thì lương thực phải nhiều. Ta có cách triệt lương
chúng. Năm 1284, Thoát Hoan rầm rộ kéo quân sang, đánh chiếm
các đồn ải vùng biên giới, tới ải Nội Bàng. Trần Nhân Tông có ý
muôh hàng. Vương cương quyết không chịu. Nói: “Bệ hạ muôn
hàng thì trước hãy chém đầu tôi đi đã”. Lời này, người sau thêm
đầu thêm đuôi cho dịu bớt đi. Vương tổ chức trận đánh lớn thuỷ bộ
Vạn Kiêp, không ngờ giặc có súng lớn là khí giới mới có sức công
phá dữ dội. Quân ta thua chạy. Vạn Kiếp thất thủ, kinh thành
khó giữ. Vương hộ giá thượng hoàng và vua chạy vào Trường Yên,
rồi Thiên Trường, lại lên Hải Đông. Thế nước lâm nguy. Vương
vẫn vững tâm để kháng. Trong trận thuỷ chiến kịch liệt ngoài
khơi Quảng Yên, vương lừa cho giặc đuổi về phía đông bắc, rước
xa giá chạy vào Thanh Hoa. Binh thuyền và tàn quân các nơi lần
lượt kéo về cả đấy. Vương chiêu mộ thêm binh sĩ, rèn đúc khí giới,
đóng thuyền xe, chỉnh đô"n hàng ngũ quân đội, thế lại nổi to. Toa
Đô ra bắc, không bắt được vua Trần, lại đánh vào vùng trong.
Quân ta giữ vững được tình thế, giặc đổ bộ nhiều lần vào Thanh,
Nghệ, đều bị đẩy lui. Cạn lương, Toa Đô bỏ cuộc kéo quân ra bắc
hội vào với Thoát Hoan. Quân ta tổng phản công. Trần Nhật Duật
đi đường biển, đánh hại chúng trong trận Hàm Tử quan hãm Toa
Đô ở Thiên Trường. Trần Quang Khải thắng trận Chương Dương,
khôi phục kinh thành Thăng Long. Đại quân triều đình kéo ra
Trường Yên, chém Toa Đô tại trận Tây Kết. Thoát Hoan lui quân
về nước, qua bến đò sông Sách (nay thuộc Bắc Giang) bị Nguyễn
Khoái và Phạm Ngũ Lão phục quân đánh lớn, chết hại nhiều.
Thoát thân về hắc, Thoát Hoan thấy quân sô" mất hàng phần nửa,
mà còn toàn những người tàn tật, đau ôm thê thảm.
Quân Nguyên sang lần sau, năm 1287, mang theo nhiều
lương thực, định đánh lâu dài đến toàn thắng. Ban đầu, quân
189
Thoát Hoan cũng chiếm được vùn biên thuỳ, rồi đồn Vạn Kiêp, kéo
xuông vây đánh kinh thành, lâu klỉông hạ nổi, gặp khó khán vì
thiếu lương thực. Đoàn thuyên lương do Trương Văn Hổ chỉ huy bị
Trần Khánh Dư trấn thủ Vân Đồn, đánh bại, lương thực mất
trắng. Không có đủ cái ăn, giặc lại phải rút về nước. Vương sai
đóng cọc bịt sắt nhọn trên lòng sông Bạch Đằng, lừa thuyền giặc
lúc nước triều xuông vướng cọc đổ nghiêng ngả thì quân ta đánh
mạnh. Vương lại đóng quân trên sông chặn lôi giặc chạy ra biển.
Quân ta toàn thắng lớn hết thảy thuỷ quân giặc đều bị giết, bị
bắt. Sô’ còn lại đều xin hàng cả. Bộ binh giặc rút lui cũng bị Phạm
Ngũ Lão và Nguyễn Chế Nghĩa phục binh giết hại đa số ở ải Nội
Bàng. Thoát Hoan khôn ngoan dẫn quân đi đường vòng sang nẻo
đông, không bị phục kích, lại bị tên cung nỏ từ trên núi bắn
xuông, quân giặc cũng bị giết chết hại nhiều. Thoát Hoan khôn
khổ lắm mới về được châu Tư Minh.
Hai lần phá đại quân nhà Nguyên hàng ba bôn, mươi vạn
người sang xâm lăng, là chiến công vĩ đại hiển hách của vương.
Vua Nhân Tông tôn là Thượng phụ, coi như đạo cha.
Vương về già, vua Anh Tông đến thăm, hỏi một khi quân bắc
lại sang thì làm thế nào? Vương thưa:... Nên kén dùng tướng giỏi,
liệu xem quyền biến, ví như đánh cờ, phải tuỳ cơ ứng biến dùng
binh phải đồng lòng như con một nhà thì mối có thế đánh được.
Cách ấy côt phải tự lúc binh thi khoan sức cho dân, đê làm kế sâu
rễ bền gốc, đó là thuật giữ nước hay hơn cả.
Vương tài kiêm văn võ, là đại tướng cực gỏi, biết dùng người
dùng các phương pháp kẻ yếu chông mạnh, lại kiên gan bền chí,
từng giữ vững nền độc lập nước nhà. Vương lại còn là nhà chính
trị siêu việt nữa.

NHÂN HUỆ VƯƠNG TRAN KHÁNH Dư


Trần Khánh Dư, người Chí Linh, Hải Đông, là con thượng
tướng quân Trần Phó Duyệt. Quân Mông cổ sang xâm lăng,
Khánh Dư nhân chỗ giặc sơ hở, đánh úp. Trần Thái Tông khen trí
lược, nhận làm thiên tử nghĩa nam. Có công dẹp giặc man được
phong làm phiêu kỵ đại tướng quân. Vì tư thông với một công
chúa, bị cách chức, trở về Chí Linh buôn than. Trần Nhân Tông
họp hội nghị Bình Than, bắt gặp thuyền chở qua, gọi vào cho phục
chức và dự hội nghị. Các vương hầu trù trừ, chỉ Hưng Đạo vương
cương quyết để kháng. Khánh Dư cực lực tán thành nên mới có sự
190
chủ chiến. Quân Nguyên sang đánh, Khánh Dư được cử làm phó
đô tướng quân, trấn thủ mặt Vân Đồn, chặn đường thuỷ giặc, giữ
hết thảy công việc ngoài biên giối. Giặc sang đánh lần sau, có
Trương Văn Hổ chỉ huy đoàn thuyền chỏ rất nhiều lương thực.
Quân thuỷ tiến phong đánh mạnh. Khánh Dư không cản nổi, bị
thua. Thượng hoàng nghe tin bại trận, sai sứ ra hắt về hỏi tội.
Khánh Dư xin khất đê lập công chuộc tội, nghĩ kê phục thù, nhặt
nhạnh thuyền bè phục quân đón đánh đoàn thuyền lương. Quân ta
đánh mạnh, đôt phá đánh đắm được một số thuyền. Văn Hổ khó
nhọc đưa được nhiều thuyền vào cửa Lục Thuỷ Dương. Chiến trận
kịch liệt diễn ra, thuyền giặc nặng nề tiến không được mà lui cũng
khó. Bên ta lại được nhiều binh thuyền táng cường. Giặc thua bỏ hết
thuyền lốn sang thuyền nhỏ mà chạy. Khánh Dư cướp được nhiều
thuyền còn đầy đủ lương thực và khí gidi. Những thuyền đi sau còn ơ
ngoài khơi cũng bị quân ta đuổi ngặt. Chở nặng nề, thuyền đi rất'
chậm, giặc liền đem vứt bỏ hết lương thực Xuống biển để chạy được
nhanh về Quỳnh Châu. Thế là số lớn lương thực đưa đi đều mất
trắng. Thiếu cái ăn, quân Nguyên lại phải bỏ cuộc, rút về nước.
Khánh Dư lập công to lớn. Năm 1312, Khánh Dư lại có công cùng
Trần Anh Tông và Trần Quốc Chấn đi đánh Champa.
Sử chép Khánh Dư tham, lợi dụng việc công, kinh doanh
buôn bán, nói tướng là chim ưng, quân dân là vịt, lấy vịt nuôi
chim ưng là thường. Vua Trần không ưng, nhưng tiếc là tướng tài,
nên vẫn dùng.

HOÀI VĂN HẤU TRẦN QUỐC TOẢN (1267 - 1288)


Trần Quốc Toản, người họ tôn thất, cha mất sớm, năm 15, 16
tuổi, theo các vương hầu ra họp hội nghị Bình Than. Bị hạch là
vào quấy phá nhưng Nhân Tông khen là sớm có khí phách, cho
vào nghe song không được dự hàn. Quốc Toản khi nghe nói chủ
hoà, căm tức vô cùng, tay cầm quả cam bóp vỡ nát lúc riàc không
biết. Đến khi thấy Hưng Đạo vương và Nhân Huệ vương bàn chủ
chiến thì vui vẻ. Tan hội, ai nấy về chỉnh đôK binh thuyền, Quốc
Toản vê cũng chiêu mộ được một ngàn binh sĩ tại nơi quê nhà,
làng Trang Liệt (điền trang của đức ông Trần Bà Liệt) và các
hương chung quanh (có thuyết 5.000 e quá đáng) đem tập luyện,
sắm khí giới, may lá cò, đề sáu chữ “Phá cường địch, báo hoàng
ân”, rồi đem quân theo Hưng Dạo vương. Đánh chỗ nào quân giặc
cũng phải lui.
191
Quốc Toản từng giúp Nhật Duật chiến thắng trận Hàm Tử
quan, đánh bại Toa Đô. Sau khi Quang Khải khôi phục Thảng
Long. Thoát Hoan bỏ chạy sang Kinh Bắc, Quốc Toản đánh đuổi
theo, giết được nhiều giặc, nhất là khi chúng vượt qua sông cầu.
Quân Nguyên sang lần sau, Quốic Toản giữ miền Thanh, Nghệ,
giặc không đánh vào đấy, lại ra Vân Đồn giúp Trần Khánh Dư.
Quốc Toản dự chiến trận Vân Đồn, cướp lương thực đoàn thuyền
Trương Văn Hổ. 0 Mã Nhi ra Vân Đồn, cô" báo thù, Quốc Toản
cùng Khánh Dư giữ vững được. Quốc Toản háng hái cự địch, bị
trọng thương, qua ngày 2 - 2 âl bỏ mình.
Quốc Toản là biểu tượng của những người tuổi còn non trẻ
mà đã sớm có khí phách, biết lo toan dẹp giặc xâm lăng, cứu dân
cứu nước.

TRẦN MINH TÔN(Ì 1314 - 1329


huý MẠNH (1300-1357)
N iên h iệu : Đ ại K h án h 1314 - 1323,
K h ai T h ái 1324 - 1 3 2 9

Năm 1314, thái tử Mạnh lên nối ngôi, tục hiệu vua Trần
Minh Tông. Minh Tông là con thứ phi Huy Từ sở sinh. Trước con
các hậu phi vua Anh Tông đều không đậu, đến khi sinh con thứ tư
là Mạnh, Anh Tông ký thác bà ngoại Thuỵ Bảo công chúa, vỢ Trần
Bình Trọng nuôi hộ. Thuỵ Bảo trong lúc ách vận lại nhò anh
Chiêu Văn vương Nhật Duật nuôi. Chiêu Văn chăm nom nuôi
nấng như con đẻ.
VIỆC CAI TRỊ TRONG NƯỚC - Thòi bấy giò, văn có Trương Hán
Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Đoàn Nhữ Hài, võ có
Phạm Ngũ Lão, Trần Quôd ưý, đều là những người có tài cán,
giúp vua trị nước được thanh bình.
Gặp năm nước to, Minh Tông thân đi hộ đê, nói cha mẹ dân
phải lo cho dân trước hết, không coi đó là việc nhỏ mọn. Các việc
chính trị, có đặt lệ các người trong họ không được đi thưa kiện lẫn
nhau... Định cấp bậc các quan văn võ. Mở khoa thi thái học sinh.
Bỏ tục xăm mình. Năm 1327, theo ý kiến Nguyễn Trung Ngạn,
lập kho tào thương tại các lộ chứa thóc để chẩn cấp cho dấn nghèo.
Lại đặt quan khuyến nông khuyên khích việc khai thác đất hoang,
dùng binh lính vào công việc này, dựng nên các đồn điền. Quân
đội có đạo chuyên về việc bắt trộm cướp (đội bảo an). Đặt quan
192
trấn thủ ở Vân Đồn kiểm soát thương thuyền các nước đi lại. Minh
Tông noi gương các vua Trần trước, cũng thường về tận các làng
xã xét dân tình, phân xử công việc. Rất lưu tâm việc đê điều giữ
đồng điển khỏi bị lụt, đắp đê thêm vững vàng, gọi là thạch đê.
Về khoa học, có Đặng Lộ chê ra được dụng cụ xem thiên văn,
gọi là lung linh nghi, khảo nghiệm khí tượng trên trời, không việc
gì là không đúng. Dụng cụ ncày bị thất truyền.
VỤ TRẦN QUỐC CHẤN BỊ HÀM OAN - năm 1328, Minh Tông làm
vua đã 15 năm (tuy mới 29 tuổi) muôn lập hoàng tử Vượng, con
thứ phi họ Lỗ, làm thái tử. Cìuốc phụ thượng tể Huệ Võ vương
Trần Quôc Chấn thân sinh ra Lệ Thánh hoàng hậu, không phục,
tự cho mình là cố mệnh đại thần, viện lẽ theo điển lệ của thái sư
Thủ Độ, thì mẹ đẻ vua phái họ Trần đê tránh hoạ ngoại thích, xin
chò ho.àng hậu sinh con trai sẽ lập làm thái tử. (Hoàng hậu mới
vào cung bôL năm). Trong triều có Văn Hiến hầu (?) muôn chiều
theo ý vua, lại có Trần Khắc Chung, người Giáp Sơn đồng hương
với mẹ đẻ Vượng, lại từng là sư phó dạy Vượng, vào hùa. Thành ra
có hai đảng chông đôi nhau. Vàn Hiến hầu dem 100 lạng vàng cho
tên Trần Phẫu (VNSL chép Trần Nhạc), gia thần Quốíc Chấn, xui
hắn vu cáo Quốc Chấn mưu phản. Minh Tông bắt giam ở chùa Tư
Phúc. Trần Khắc Chung xui vua trừ Quốc Chấn đi, phóng hổ di
hoạ. Minh Tông không gia hình nhúng cấm tuyệt mọi người đưa
đồ ăn uôRg cho. Quốc Chấn khát nước quá, hoàng hậu lấy áo
dúng nước mặc vào đên thăm, vắt ra cho uông. Quôh Chấn
uôKg xong thì chết. Đồng đảng hơn trăm người bị hắt đều keu
oan. Vài năm sau, người vỢ lẽ Phẫu ghen với vỢ cả, tố cáo việc
Phẫu lấy vàng. Vua giao Lê Duy xét hỏi mới rõ tình oan của
người trung thẳn. Phẫu bị tội lăng trì, chưa kịp hành hình thì
gia nô của nhà Thiệu Võ (em hay con Quôh Chấn) xẻo thịt ăn
sôRg. Vua nê mặt cha nuôi Nhật Duật, không trị tội con Ván
Hiến hầu, chỉ tước họ tôn thất, giáng làm thứ dân. Trần Khắc
Chung khỗng hị trách phạt nhưng sau khi chết đưa về chôn tại
quán Giáp Sơn, gia nô nhà Thiệu Võ đào mả, băm vằm xác ra
(Văn Hiến hầu là con Chiêu Văn đại vương).
TRẦN HIẾN TÔNG - Vượng đưực lộp làm thối tử. Năm 1329, lên
ngôi, tục hiệu vua Trán Hiến Tông. Lên ngôi năm mới 11 tuoi, chỉ
giữ hư vỊ. ơ ngôi 13 năm, khuất năm 1341, hưởng linh 23 tuổi,
không con. Suôt thòi gian niên hiệu K hai Hữu, mọi công việc đều
do Minh Tông thượng hoàng cá.
193
TRẦN DỤ TÔNG - Các năm Thiệu Phong 1341 — 1357- Sau khi
Hiến Tông lên ngôi rồi, bà đích mẫu Huệ Từ (có sách chép Hiến
Từ) sinh con trai, trưởng Cung Túc vương Dục, tính ngông cuồng,
không gánh vác nổi việc nước, thứ Hạo, thông minh. Hiến Tông
khuất, Minh Tông thượng hoàng lập Hạo làm vua, bấy giò mới 6
tuổi. Việc nước vẫn do thượng hoàng quyết định.
VIỆC BANG GIAO VỚI TRUNG QUỐC - Vua Nguyên, sau Thế Tổ,
không còn tham vọng mở mang đất đai nữa nên giao hảo với nước
ta, thường đôi bên có sứ giả đi về mỗi khi có vua mới lên ngôi hay
có đại lễ.
Năm 1322, có người Nguyên tranh bò cõi. Việc phân định địa
giới sau cũng được giàn xếp êm đẹp.
Năm 1345, sử chép có việc sứ Nguyên Vương Sĩ Hành sang
hỏi về cột đồng. Phạm Sư Mạnh biện bạch. (Điều này đáng ngờ,
bấy giò bên Nguyên chỗ nào cũng có loạn).
VIỆC ĐI ĐÁNH NƯỚC CHAMPA - Người Chăm thường hay sang
'cướp phá, cho nên phải dùng đến can qua. Năm 1318, Trần Quốc
Chấn và Phạm Ngũ Lão đem quân đi đánh. Hiến Túc hầu Lý Tất
Kiến bị quân Champa đánh thua, tử trận. Phạm Ngũ Lão đem
quân đánh úp tập hậu thắng lớn. Vua Chăm Chế Năng chạy sang
Qua Oa (Chà Và?). Quôc Châ"n lập tù trưởng A Nan làm Hiệu
Thánh Á vương.
Năm 1324, Minh Tông sai Huệ Túc vương Trần Đại Niên
sang đánh Champa. Đại Niên chưa phải là tướng tài và quân đội
ta cũng không dũng mãnh lắm, đánh không nổi, phải rút quân về.
Minh Tông tự trách không thân chinh, để lỡ việc.
GIẶC NGƯU HỐNG - Miền Đà Giang có tù trưởng xứ Ngưu Hống,
trước đã quy thuận triều đình, sang thê kỷ XIV lại rông rỡ cướp bóc.
Năm 1329, Minh Tông thân đi đánh, không quản ngại nơi lam
chướng. Tiền quân Phu Minh bị người trại Chiêm Chiêu đánh thua,
tướng Vũ Tử Hoành chêt trận. Phu Minh cũng chết đuối. Đại quân
không đuổi bắt được. Minh Tông đành dẫn quân về. ^
Mãi đên năm 1337, tướng Hưng Hiếu vương Trần Quốc Uý
đên Trịnh Kỳ, đánh tan được quân man, chém được tưống Xa
Phần. Giặc Ngưu HôKg từ đấy mới yên.
VIỆC ĐI ĐÁNH QUÂN AI LAO XÂM PHẠM - Trong khi Ngưu Hông
đang quấy nhiễu thì quân Ai Lao lại sang đánh, cướp phá. Minh
Tông thư ợng h oàn g th â n đi tiễu trừ . Năm 1335, sắp r a q u ân , hỗng
bị đau mắt, không chịu hoãn lại. Kinh lược sứ Nghệ An Đoàn Nhữ
194
Hài khinh địch, bị đánh thua ở sông Tiết La. Tiền quân nhiều
người cùng chết đuối với Nhữ Hài. Đến khi đại quân Minh Tông
rầm rộ đi đến, quân Ai Lao vội vã rút lui về nước. Trong trận này,
có tướng Đỗ Thiện Thứ cũng đang đau ô"m, cô" xin đi hộ giá, bị chết
tại trận như lòi nguyên. Minh Tông sai Nguyễn Trung Ngạn làm
làm văn bia, khắc trên núi Trầm Hương, tĩnh Nghệ An.
Năm 1348, ngưồi Ai Lao lại sang cướp nữa. Lần này bị Bảo
Uy vương Hoàn (hay Hiến) đánh thua.
LUẬN VỀ VUA TRẦN MINH TÔNG - Nám 1357, Minh Tông khuất,
làm vua 15 năm, làm thái thượng hoàng 28 năm, hưởng thọ 58 tuôi,
vẫn năm giữ quyền chính suốt thời gian làm thái thượng hoàng.

Trần Minh Tông là vua có thiện chí, biết giữ bổn phận lo nước
thương dân nhưng không phải là vua giỏi, đã không minh giết oan
Huệ Võ vưcíng, lại không sáng suôt trong việc dùng người, cử người ít
tài năng đi đánh Champa, làm tổn thương uy tín và tiềm lực quốc gia,
dùng một thư sinh làm tướng tiên phong đi đánh giặc đê đến nỗi thất
trận. Nhiêu sử gia chồ ông háo chiến và háo danh. Trách ông háo
chiến chỉ đúng một phẳn nhỏ là việc sai đi đánh nước Champa. Còn
việc đi đánh tù trưởng muôn biệt lập, giữ nền thôhg nhất quốc gia,
không có gì sai trái. Đến như đi đánh quân Ai Lao xâm phạm đất nưốc
thì lại đáng khen. Còn tật háo danh tuy không phải là lỗi nặng nhưng
cái háo danh của Minh Tông thì quá đáng. Việc đánh đuổi quần Ai
Lao có chi là to lớn, mà đục núi ghi công. Sự sốm lập vua con cũng là
do háo danh. Dưới triều Trần, vua chưa được quý trọng bằng thái
thượng hoàng. Ngay cả việc sai đi đánh Champa cũng là do háo danh.
Ông lại không biết chiêu hiền để làm việc nước. Triều đình thiếu người
tài đến nỗi khi biên giới đa đoan, phải gọi ông già 80 tuổi đã nghỉ hưu
Trương Hán Siêu đi trấn thủ Hoá Châu. Thế mà sau cũng không tìm
những người anh tài để làm việc nước. Khi ông khuất, cả triều chỉ có
Chu Văn An hiên tài.

TÌNH HÌNH NHÀ NGUYÊN BÊN TRUNG QUỐC


Quân Mông cổ xưa, cả ngày trên mình ngựa, đêm đến ngủ
trong lều, thì anh hùng vô địch. Sau khi đánh chiếm Trung Quốc,
ăn phải bả quý ngồi trên nhung lụa, ngủ trong cung điện, sinh hủ
hoá, ngày một suy kém đi. Các người tài giỏi lởp trước qua đời, lớp
sau thua kém. Đến cả những con ngựa hồ, đưỢc nuôi ăn đầy đủ, có
mập ra, nhưng sức dẻo không bằng trước.
195
Ngưòi Mông Cổ đánh chiếm cai trị Trung Quốc nhưng ván
hoá, kỹ thuật thua kém người Hán nên bị Hán hoá, đến nỗi có
người trong tôn thất gọi đồng hào mình là thằng rỢ (hồ nhi).
Các nước phương tâv lần lượt nổi dậy chông đôì thu hồi độc
lập. Dân Hán cũng theo đà này. Năm 1348, Phùng Quốc Chưng
nổi dậy ở Chiết Giang. Năm 1351, có Bạch Liên giáo dấy quân
khắp mọi nơi. ơ Dĩnh Châu, có Lưu Phúc Thông, ở Tần Thuỷ có họ
Từ Thọ Huv. Đáng kê hơn cả là Quách Tử Hưng ở Hào Châu, Chu
Nguyên Chương phụ theo; Trương Sĩ Thành ở Cao Bưu. Năm
1356, Chu Nguyên Chương lấy Kim Láng. Năm 1360, Trần Hữu
Lượng lấy Giang Châu (Nam Kinh). Khắp Trung Quốc loạn lạc.
Nhà Nguyên không chê ngự được. Các hào kiệt lại tranh giành
nhau anh hướng, đánh lẫn nhau. Chu Nguyên Chương trong 15
năm dứt được nhà Nguyên, đại định thiên hạ, dựng nên cơ nghiệp
nhà Minh, lên ngôi hoàng đế năm 1368.
Tập đoàn thông trị Nguyên Mông lui về xứ sở cũ. Sau có tên Yên
vương Tĩnh Nan (Tamerlan, Timour Lank) anh hùng mưu toan đánh
chiếm lại Trung Quôc, niâd năm 1405 trong khi tiến quân. Mông cố
sau trở thành một xứ thuộc Đại Minh. Dân xứ này hiến thành nông
dân và dân du mục, không còn là những chiến sĩ chuyên nghiệp nữa.

IRẨN h Cl L ượng
Trần Hữu Lượng là nhân vật lịch sử Trung Quốc nhưng là
người Việt, con Trần ích Tắc dược vua Nguyên phong làm bình
chương chính sự tỉnh Hồ Quảng ở Ngạc Châu. Bắc sử chép Hữu
Lượng người Cái Dương, dòng dõi nhà đánh cá, không nói là gốc
An Nam. Giữa thế kỷ XIV, nhà Nguyên suy yếu, người Hoa nổi
dậy khắp nơi. Hữu LưỢng, cũng như cha, có tham vọng làm vua,
không có dịp trở về nước, lãnh đạo một sô" người Hoa chông đôi lại
ân nhân của cha con mình. Năm 1360 xưng đế ở Thái Trạch,
chiêm cứ các tỉnh Giang T.ây, Hồ Quảng, lấy ứng Thiên (Nam
Kinh) lập kinh đô, đặt quốc hiệu là Hán, nhắc nhở người Hoa
giông Hán theo về mình, niên hiệu là Đại Nghĩa.
Trong bôn năm làm vua ở ững Thiên, Hữu Lượng có công với
dân Hoa, xây dựng xã hội giầu mạnh, làm thuỷ lợi khai sông đắp
đê, khiến dân chúng được no ấm hơn các nơi khác, trật tự an ninh
được đảm bảo, ít có trộm cướp, lễ độ ky luật được duy trì.
Năm 1354, Hữu Lượng dấy quân, sai sứ sang ta xin hoà
thân. Bấy giờ Minh Tông thượng hoàng cầm quyền.
196
Năm 1361, Chu Nguyên Chương đánh Giang Châu, Hữu
LưỢng lui giữ Vũ Xương, sai người sang nưóc ta xin cứu viện. Dụ
Tông không cho. Năm 1363, Hữu LưỢng bị Chu Nguyên Chương
đánh thua. Qua năm 1364, chạy về Giang Châu. Bọn tỳ tướng ra
hàng Chu. Hữu Lượng dùng long thuyền đánh quân Chu ở Phiên
Dương Hồ, bị tên bắn lén mà chết, kết thúc đòi một người Việt
từng làm hoàng đế Trung Quốc.
Nếu Hữu Lượng thành công, thông nhất Trung Quốc, tất sẽ
đem Trung Quôc sáp nhập vào nước ta, thực sự thì sáp nhập nvíớc
ta vào Trung Quốc. Người nước ta có dịp cai trị người Hán. Nhưng
việc này chẳng đáng tiếc: Người Hán đông đúc hơn, lại có trình độ
văn hoá và kỹ thuật cao hơn ta, sau một thời gian, lại sẽ phục
quốc, mà nước ta sẽ biến thành một phần đất Trung Quốíc như
Mông Cổ, Mãn Châu. Nhà Nguyên trị vì Trung Quốc một trăm
năm, nhà Thanh hơn 300 năm nhưng sau sau đất nước lại mất về
Trung Quốc.

TRẨN DỤ TÔNG 1341 - 1369


huý HẠO (1336- 1369)
N iên h iệ u : T h iệ u P h o n g 1341 - 1 3 5 7 ,
Đ ại T rị 1 3 5 8 - 1369.

Trần Dụ Tông làm vua 28 năm, có hai thời kỳ; Các năm Thiệu
Phong, Minh Tông thượng hoàng nắm giữ quyền chính, việc cai trị
còn có thứ tự; các năm Đại Trị, Dụ Tông mới thực sự trị nước.
Dụ Tông làm vua, lớn lên trong lúc nước nhà được thái bình,
không phải lo ngại ngoại xâm, chỉ mải mê chơi bời. Sau khi
thượng hoàng khuất, các hiền thần lương đông qua đời, việc chính
trị bỏ trễ nải, kẻ gian mỗi ngày một đắc chí. Chu An, danh nho
đang làm quan triều, thấy chính trị bại hoại, dâng sớ xin chém
bảy quyền thần, không được chuẩn y, từ quan về đi ẩn ở Chí Linh.
L ỗl LẦM CỦA DỤ TÔNG - Dụ Tông rưỢu chè, chơi bời, dâm đãng,
ham mê đàn hát, bắt các vương hầu, công chúa, đặt chuyện hát
tuồng để mua vui‘*\ Lại chiêu tập các nhà giầu vào cung đánh bạc,
mỗi tiếng ăn thua cả 300 quan tiền. Tính nghiện rượu, thường

Quán Nguyên sang đánh nước ta lần sau, bên ta có bắt đưực trưởng ban hát bội Lý
Nguyên Cát. Nguyên Cát sau ò lại nước ta, lấy truyện cố đặt thành bài tuồng, dạy cho người
mình hát. Con hát ra trò, mặc áo gấm vóc, theo dịp đàn trống mà ca hát. Nô tỳ nhà quyền
quý đua nhau hát theo lối bác. Ta có hát luồng từ đấy.

197
cùng các quan thi nhau uông rượu. Bùi Khoan giả uổng hết trăm
thăng, được thưởng tước hai tư để dự thăng trật (!). Buông tuồng
không còn thê thông gì. Có lần say rượu, ra ngoài tắm sông, suýt
bị chết đuôi.
Lại còn đào hồ. đắp núi, chỏ nước mặn vào nuôi đồi mồi, cá
sâu, ha ba, cùng các loại chim muông lạ. Còn làm thêm cung điện,
nay xây cất, mai tu tạo, không lúc nào ngơi việc, lãng phí tiền của.
Lại vớ vẩn sai tư nô cày đất trồng hành tỏi rau dưa, cùng làm
quạt, đặt giá bán cho dân (!).
Thời ấy, luôn luôn mất mùa do nước lụt, hoàng trùng, dân
đói khổ. Dụ Tông quyên nhà giàu tiền thóc phát chẩn, rồi ban
phẩm hàm cho họ, vá víu tạm thòi, không lo chống đỡ đói lâu dài,
khai sông, đắp đê, khẩn hoang.
LOẠN LẠC TRONG N ư ớ c - Vua chơi bời, xa xỉ. Triều thần
không người cương trực can ngăn. Dân phải sưu cao thuế nặng,
gặp những năm mất mùa, đói kém, giặc cướp khắp nơi nổi dậy
như ong giấy. Nhiều đám nhỏ, sớm đánh dẹp được. Mấy đám khác
hùng cứ lâu lâu tại các địa phương, vùng Thái, Lạng.
Có người tên Tề xưng là cháu ngoại Hưng Đạo vương, tụ tập
những kẻ trôn tránh trong đám gia nô các vương hầu, nối lên cướp
hóc ỏ Nam Sách và Lạng Châu.
Ngô Bệ, người Trà Hương tập họp người núi Yên Phụ. Nám
1344, bị đánh tan rã. Sau thu phục những kẻ du đãng, yết bảng
“chẩn cấp dân nghèo”. Nàm 1356. Mãi đến năm 1360 mới bị bắt,
đồ đảng 30 người phải chết chém.
VIỆC BANG GIAO VỚI CHAMPA - Năm 1341, chúa Chăm Chế A
Nam mất. Con rê là Trà Hoa Bồ Đề, từ trước gây bè đảng mua
chuộc người trong nước, lên nôl ngôi, không sang cống. Sứ thần ta
sang đòi. Bồ Đề chịu công, lễ rất đơn bạc. Con trai Chế A Nan là
Chê Mộ, năm 1352 chạy sang nước ta cầu cứu. Năm 1353, quân
đội ta đem Chế Mộ về nước. Bộ binh và thuỷ binh tải lương cách
xa nhau, đi đến Cố Luỹ (Quảng Ngãi) bị quân Champa đánh thua,
phải trở về. Chế Mộ ở bên ta, buồn rầu, rồi chết. Bồ Đề thấy quân
đội ta tầm thường, lại càng kiêu rộng, ngang nhiên vào lấn cướp
Hoá Châu. Quân đội ta đi đánh, thất bại. Sau Trương Hán Siêu
vào trấn thủ, Hoá Châu mới được yên. Nám 1361, người Chăm
vượt biển đến cướp cửa Đại Lý. Tri phủ Lâm Bình Phạm A Song
phá được. Năm sau, ta phải đắp thành Hoá Châu, đặt quân đội
giữ phòng sự hị cướp nữa. Năm 1363, người Chăm lại sang cướp
198
nữa, bắt đi nhiều dân Hoá Châu đang mở hội đầu năm. Năm
1366, chúng sang cướp Lâm Bình. Phạm A Song đánh đuổi được.
Năm 1367, Dụ Tông sai Trần Thế Hưng và Đỗ Tử Bình đi
đánh Champa, bị thua, quân tan vỡ.
Bấy giờ, Dụ Tông hoang chơi, không lo gì đến việc võ bị, mà
bên Champa có Chê Bồng Nga là vua anh hùng, có ý định đánh
bại nước ta đê rửa những oán thù xưa, hết sức tập trận, luyện
binh, bắt quân lính chịu khó nhọc cho quen, dàn trận voi cho tiện
đường lui tới, thắng thì cho đi trước đê xung đột, bại thì cho voi đi
sau đê trấn giữ ngán dịch. Nhò cách xếp đặt có thứ tự, dụng binh
có kỷ luật như thê nên quân đội Champa mạnh hắn lên, sau đánh
phá Thăng Long mấy lần, khiến vua tôi nhà Trần phải kinh sỢ.
VIỆC BANG GIAO VỚI TRUNG QUỐC - Giữa thế kỷ XIV, Trung
Quốc loạn lạc. Nám 1350, có những người Nguyên chạy sang quy
phục nước ta, trong đó có người phường trò Đinh Bàng Đức. Nước
ta có trò leo dây bắt dầu từ đấy.
Năm 1355, Dụ Tông sai Lê Kính Phu sang Trung Quốc thăm
dò tin tức bôn đó.
Trần Hữu Lượng 0 Giang Châu và Chu Nguyên Chương ở Kim
Lăng, đều có sai sứ sang thông hoà. Dụ Tông lấy lễ tiếp đãi nhưng
không thuần phục ai cá. Việc triều công vua Nguyên bò luôn. Biên
giới hoang mang. Năm 1365, Dụ Tông sai Thiều Thốn lên Lạng
Giang đem quân ])hòng giữ nghiêm ngặt, dân được yên ổn.
Năm 1368, Chu Nguyên Chương thôdig nhất thiên hạ, xưng
đế, tức Minh Thái Tổ, sai Địch Thế Dân sang dụ nước ta quy phục.
Dụ Tông sai Đào Văn Đích sang công. Sau đó, năm 1369, vua
Minh sai Trương Di Hinh và Ngưu Lượng sang phong vương cho
Dụ Tông. Khi đến nơi thì Dụ Tông khuất, sứ giả vào làm thơ
viếng, rồi về nước.
Bây giờ, nưóc ta suy nhược nhưng nhà Minh mới lên, còn bận
sửa sang việc nước, chưa dòm ngó nước ta, nên chưa có những việc
quan việc quan trọng xảy ra.
LUẬN VỀ VUA TRẦN DỤ TÔNG - Dụ Tông khuất năm 1369, làm
vua 28 năm, thực sự cầm quyền 12 năm, hưởng linh 34 tuổi.
Trần Dụ Tông là vua hèn, không có tài đức công nghiệp gì,
hoang chơi, xa xỉ, lại không biết dùng người hiền tài trị nước, đã
đưa nước nhà từ thái bình thịnh trị đến suy nhược, loạn lạc,
không xứng đáng là con cháu Hưng Đạo vương (lòi sử gia Trần
Trọng Kim).
199
TRẤN NHẬT LÊ
N iên h iệu : Đ ại Đ ịnh 1 3 6 9 - 1 3 7 0

Quốic sử chép Dương Nhật Lễ, do coi Nhật Lễ là con của


Dương Khương, người phường hát bội. Khương diễn tích Tây
vương mẫu dâng quả bàn đào. Vợ cũng là con hát, đóng vai Tây
vương mẫu. Cung Túc vương Nguyên Dục cảm nàng đẹp, tranh
lấy làm vỢ. Khi ấy nàng đã có mang, sau sinh ra Nhật Lễ. Nguyên
Dục nhận làm con mình. Điều này đáng ngờ. Nhật Lễ vô tài, vô
hạnh, đại nghịch hất đạo, bị truất phế rồi bị giết là đáng. Nhưng
không phải vì thế mà bảo rằng y không phải chính là con của
Nguyên Dục. ồng này nhận là con. Dụ Tông trước khi khuất để đi
chiêu lập y nôi ngôi. Huệ (Hiến) Từ thái hậu đòi lập y thuộc dòng
đích. Người tôn thất Trần Nhật Hạnh trước sau vẫn theo phò.
Không lẽ cả bằng này người đều lầm cả.
Hơn nữa, khi thái hậu muôh lập y, nếu là người khác dòng
họ, tất mọi người trong tôn thất đã nhao nhao lên phản đôi rồi.
Chỉ vì mẹ đẻ Nhật Lễ trước lấy Dương Khương nên người ta mới
bày đặt ra sự ấy. Chuyện này cũng giôKg như truyện nói Tần
vương Chính là con Lã Bất Vi. Việc mang thai 12 tháng là không
có thực, bào thai loài người không thể sông trong bụng mẹ được
quá 300 ngày. Người nước ta xưa hễ trong nhà, trong họ có đứa
con hư, đôn mạt thì lấy làm xấu hổ, tìm mọi cách nói thác đi là
người ngoài đã lộn sòng vào, không phải chính là con cháu nhà.

Nhật Lễ chỉ là đứa nghịch tử trong hoàng gia nhà Trần. Con
một người cuồng (bệnh tâm thần) và một con hát hội thì hư đôh,
chẳng có chi lạ. Còn sự bảo Nhật Lễ mưu hại nhiều người trong họ
Trần thì chẳng qua vì những người này muốn giết bỏ nó. Có thể
rằng Nguyên Trác, người đã từng bị cáo có âm mưu chực hại Dụ
Tông, muôn tranh ngôi nên bày ra việc này.
Dù Nhật Lễ có thực là con Dương Khương nhưng vẫn mang
họ Trần, không thấy hay chưa thấy có sự đổi họ, nên vẫn đáng chép
là Trần.

Dụ Tông không có con, không chọn sẵn ai người trong họ làm


con nuôi, lập làm thái tử. Đến khi sắp khuất để di chiếu lập Nhật
Lễ nôi ngôi. Bấy giò là năm 1369. Tôn thất và triều thần muôn lập
Gung Định vương Phủ. Huệ Từ (Hiến Từ) thái hậu nhất định đòi
200
lập Nhật Lễ, nói: Nguyên Dục là con trưởng, không được làm vua
và lại mất sớm. Nay phải lập Nhật Lễ, con Nguyên Dục, thuộc
dòng dích.
Nhật Lễ lên ngôi, phong Cung Tĩnh vương Nguyên Trác làm
thuợng tưống quân thái tể, Cung Định vương Phủ, thái sư tả
tướng quân, Cung Tuyên vương Kính, hữu tướng quân.
Trong thòi gian Nhật Lễ làm vua, nám 1370, có việc Minh
Thái Tổ thân làm bài chúc văn, sai đạo sĩ Diêm Nguyên Phục đem
lê vật (trâu và lụa) sang tế thần núi Tản Viên và các thuỷ thần
sông Lô (có lẽ sông Hồng).
Vua Trung Quốc can chi phải lễ thần núi, thần sông bên
nước Nam? Tế lễ sao không sai văn võ quan liêu? Như thế lòng đã
không thẳng ngay rồi. Chẳng qua chỉ là sự do thám mà thôi.
Nhật Lễ làm vua rưỢu chè, chơi bời, dâm dật, quen thói h ư
nhà con hát. Trăm quan ai nấy đều thất vọng. Bà thái hoàng thái
hậu Huệ (Hiến) Từ có ý hôl đã lập y. Nhật Lễ ngầm đầu độc cho
chết đi.
Nhật Lễ tính hư tật xấu, hay bày trò tạp kỹ, thân mật suồng
sã vối bọn tiểu nhân, sử chép y muốn đổi lại họ Dương, mưu trừ
những người họ Trần có danh vọng.
Tháng 9 âl 1370, Nguyên Trác và con là Nguyên Tiết, cùng
hai con Thiên Ninh công chúa, đêm đến đem người họ tôn thất vào
thành, định bắt giết Nhật Lễ. Nhật Lễ trèo tường ra ngoài. Mọi
người sục sạo không bắt được gì, ra về. Đến sáng, Nhật Lễ trở vào
cung, chia quân lùng bắt các người mưu việc này. Bọn Nguyên
Trác 18 ngưòi đều bị hại.
Ngô Sĩ Liên bàn đại ý: Nhật Lễ giết tổ mẫu, phạm tội đại
nghịch bất đạo, sao người họ Trần không họp tôn thất và trăm
quan, đường hoàng mở phiên đình nghị kể tội, truất phế, giết đi.
Có chi lại dùng chước sơ xuất vụng về để đến nỗi bị giết hại.
Cung Định vương Phủ sỢ tai vạ, lánh lên ở Đà Giang, nơi ông
trấn thủ cũ.
Cung Tuyên vương Kính, Chương Tín hầu Nguyên Đán và
Thiên Ninh công chúa Ngọc Thà (con đẻ Huệ Từ) hội họp ở Đại Lại
Giang, khởi binh trừ bỏ Nhật Lễ. Trăm qua, tôn thất chiêu tập
quân lính các lộ đón Cung Định vương về dẹp yên nội nạn. Vương
từ tạ. Mọi người cố mòi mãi mới chịu ra khỏi núi. Khi về phủ Kiến
Hưng nay là phủ Nghĩa Hưng, Nam Định xa gần kéo đến, tiếng hô
vang trời. Mọi người xin phế Nhật Lễ, mời vương lên ngôi. Ngự giá
201
đến Đông Bộ Đầu. Nhật Lễ ra nghênh tiếp, tạ tội lạy xuống. Vua
còn ôm lấy mà khóc. Cung Tuyên vương tuốt gươm thét bắt Nhật
Lễ, giam ở phường Giang Khẩu, rồi giết đi.

TRẤN N(ỈHỆ TÔNG 1370 - 1372


huý PHỦ (1321 - 1394)
Niên hiêu: Thiệu Khánh

Tháng 11 âl năm 1370, tôn thất và trăm quan Cung Định


vương Phủ lên làm vua, tục hiệu vua Trần Nghệ Tông.
Lên ngôi, Nghệ Tông đại xá tù phạm, ban thưởng cho các người
có công nối lại quốc tộ, bắt giết Trần Nhật Hạnh tùng đảng với Nhật
Lễ. Nghệ Tông tính hoà nhã, có đời sổhg đơn giản, tự ý giảm bỏ cao
sang, chỉ dùng đồ sơn đen, không trang hoàng vàng son màu đỏ, có
phạm lầm tin dùng gian thần Đỗ Tử Bình, nhất là Lê Quý Ly. v ề
chính trị, theo điều lệ Khai Thái (1324 - 1328) của Minh Tông, bỏ các
sự thay đổi của Dụ Tông, chính sự tệ hại do bọn bày tôi tu liêm (ráo
riết bắt dân chúng đóng góp để có lợi cho người trên) bày ra, bãi phép
sa châu tiệt cước (chiếm đất mới bồi ban cho tôn thất và công thần).
CHẾ BỒNG NGA XÂM PHẠM KINH THÀNH - Năm 1368, vua
Champa Chê Bồng Nga sai sứ sang đòi đất Hoá Châu. Khi Nhật
Lễ bị giết, người mẹ đẻ chạy thoát sang Champa, xui Chế Bồng
Nga đem quân sang đánh. Bấy giò việc võ bị bỏ sơ khoáng từ lâu,
biên giới kém phòng bị, quân Champa vượt biển vào cửa Đại An,
kéo đến kinh thành. Vua tôi chạy sang Đông Ngàn. Người Chăm
vào thành, bắt con trai con gái, cướp của ngọc lụa, đốt cung điện.
Đây là lần đầu quân Champa vào được Thăng Long và từ đấy
thường một vài năm lại sang cướp phá.
Khi trở về, cung khuyết bị tàn phá. Nghệ Tông lấy người
trong tôn thất sửa sang xây dựng lại qua loa, đơn giản, không
phiền đến sức quân dân.
Đỗ TỬ BÌNH - LÊ QUÝ LY - Nghệ Tông vô tài, nhu nhược, không
quyêt đoán được gì, lại kém sáng suôd, tin dùng mù quáng kẻ gian
nịnh Đỗ Tử Bình, nhâd là người ngoại thích Lê Quý Ly.
Tử Bình ít tài năng, tham lam, chỉ khéo đón chiều ý các vua
mà lĩnh chức lớn. Do chức ngự tiền học sinh nàm 1348, được bổ
dụng thị giảng. Năm 1367, làm phó thống quản đi đánh Champa
bị thua. Nghệ Tông cử làm hành khiển, tham mưu quân sự. Y làm
hại nhà Trần không ít.
202
Lê Quý Ly có hai người cô lấy vua Minh Tông: Minh Từ sinh
Hiến Tông và Nghệ Tông; Đôn Từ sinh Duệ Tông. Nghệ Tông tin
dùng, phong làm xu mật đại sứ, lại gả Huy Ninh công chúa cho,
ban tước Trung Tuyến quốc thượng hầu.
VIỆC NHƯỜNG NGÔI CHO CUNG TUYÊN VƯƠNG - Lên ngôi đưỢc 6
tháng, Nghệ Tông sách lập em Cung Tuyên vương Kính làm thái
tử. Sau hai năm, nhường ngôi, về phủ Thiên Trường làm thái
thượng hoàng, không lập con, lại lập em, được khen là sáng nghĩa
thế thứ trao truyền. VSTGCM cho là chẳng qua trước nhò em mới
được nưốc nên nhớ công ấv, muôn cùng hưởng phú quý.

TRẤN DUỆ TÔN(Ỉ 1373 - 1377 huý KÍNH (1337 - 1377)


Niên hiệu: Long Khánh

Năm 1373, thái tử Kính lên ngôi, tục hiệu Trần Duệ Tông.
VIỆC CHÍNH TRỊ - Duệ Tông tinh quyết đoán. Bấy giò quân
Champa thường hay sang cướp phá mãi. Duệ Tông quyết tâm
đi đánh phục thù, hạ chiếu luyện tập quân lính, đóng chiến
thuyền, đặt thêm quân hiệu, tích trữ lương thảo phòng chinh
chiến, cử Lê Quý Ly làm tham mưu quân sự. Bắt dân sửa sang
đường xá từ Cửu Chân (Thanh Hoa) đến huyện Trà Hoa (Kỳ
Anh, Hà Tĩnh).
Đôi châu Diễn làm lộ; châu Hoan làm các lộ Nhật Nam, Nghệ
An nam, bắc, trung; phủ Lâm Bình làm phủ Tân Bình.
VIỆC THI CỬ - Tuy lo nhiều về võ bị, Duệ Tông không quên việc
văn học. Năm 1374, mở khoa thi tiến sĩ, lấy 30 người đỗ.
VIỆC ĐI ĐÁNH NƯỚC CHAMPA - Năm 1376, quân Champa
lại sang cướp phá Hoá Châu. Duệ Tông quyết định thân
chinh sang đánh nước ấy. Triều thần nhiều người can ngăn.
Trung tán đại phu Lê Mịch tâu: Viễn chinh là việc lớn và
nguy hiểm. Vua không nên vì giận riêng, tướng suý không
nên vì lập công mà khởi binh. Nội nạn mối bình, thương tích
chưa lành, không nên hưng sư. Ngự sử đại phu Trương Đỗ
cũng can, ba lần dâng số, bị Duệ Tông gạt đi, bèn treo mũ bỏ
về. Duệ Tông sai quân dân Nghệ An, Thanh Hoa vận tải 5
vạn hộc lương vào Hoá Châu, rồi rước thượng hoàng lên
duyệt binh ở Bạch Hạc.
Sử chép: Năm 1376, Chế Bồng Nga đem công 15 cân vàng.
Trấn thủ Hoá Châu Đỗ Tử Bình lấy đi, dâng sớ nói dôi rằng Chế
203
Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, xin cử binh sang đánh. (Xét điều này
khó tin, dù Đỗ Tử Bình chẳng phải là người tốt. Một vua kiêu
dũng từng đánh vào kinh thành nưốc ta, khiến vua ta phải bỏ
chạy cả, dễ gì lại chịu dâng lễ hậu hĩ khi nghe tin Duệ Tông muốn
cất quân sang đánh).
Duệ Tông quyêt đi đánh, sai Quý Ly đốc vận thuỷ lương thảo
đên cửa biển Di Luân (Quảng Bình), tự lĩnh 12 vạn quân thuỷ bộ
cùng tiên. Đi đên cửa Nhật Lệ (Quảng Bình), dừng lại luyện tập sĩ
tốt một tháng.
Tháng giêng âl năm 1377, tiến quân vào cửa Thi Nại (Quy
Nhơn), đánh lấy đồn Đập Đá và động Kỳ Mang (núi Kỳ Sơn), rồi
kéo quân vào thành Chà Bàn, kinh đô Champa, nay thuộc huyện
Tuy Viễn, Khánh Hoà.
Người Chăm lập đồn luỹ ở ngoài thành, nơi đường núi
hẹp, tứ vi đều rừng rậm. Quân Chăm phục trong rừng. Chê
Bồng Nga sai người đem thư trá hàng, nói rằng chúa Chăm đã
bỏ thành chạy trôn. Tướng Đỗ Lễ xin cho người dò xét tình
hình. Duệ Tông không nghe, vẫy quân tiến vào thành. Quan
quân nối nhau kéo đi, đội trước đội sau xa cách nhau. Khi đến
gần Chà Bàn, phục binh Champa đổ ra đánh mạnh. Quân ta
thua to, tan vỡ. Duệ Tông bị vây hãm, trúng tên chết tại trận.
Các tướng Đỗ Lễ, Nguyên Hợp Hoà và hành khiển Phạm
Nguyện Kính cũng đều tử trận. Quân sĩ mười phần thiệt hại 7,
8. Ngự Câu vương Trần Húc hàng, được Chê Bồng Nga gả con
gái cho. Đỗ Tử Bình lĩnh hậu quân không ứng cứu. Lê Quý Ly
bỏ chạy về. Thê mà Nghệ hoàng chỉ giáng Tử Bình làm lính,
rồi mấy tháng sau lại cho phục chức. Còn Quý Ly không bị
trách phạt gì. VSTGCM cho là chính sự không có kỷ cương gì,
nên sau bị bại vong.
LUẬN VỀ VUA TRẦN DUỆ TÔNG - Trần Duệ Tông làm vua
được 4 năm, hưởng linh 41 tuổi, có dũng cảm, nhưng không
biết nghe lòi nói phải, lại không biết mình, biết người, không
thận trọng trong việc dụng binh, không phải là tướng tài, thế
mà hung hăng đem nhiều quân đi chinh phạt nưóc người, đến
nỗi bị bại vong, chết thảm, làm thương tổn nặng nề uy tín và
tiềm lực quôh gia. Sử gia nhiều người thương ông có khí
phách, không nỡ buộc tội ông, nhưng khách quan thấy rõ rằng
sự lầm lỗi của ông khiến cho cơ nghiệp nhà Trần phải suy
nhược, rồi đi đến bại vong.
204
TRẨN PHẾ ĐẾ 1377 - 1388
huý HIỄN (1361 - 1388)
N iên hiệu : X ư ơ n g P h ù

Nghệ Tông thượng hoàng nghe tin dữ, lập người con Duệ
Tông là Kiến Đức đại vương Hiễn lên nốĩ ngôi. Nghệ hoàng giữ
quyền chính. Bà mẹ đẻ Gia Từ cố tình từ chôi cho con, không được,
cắt tóc làm sư ni. Nghệ hoàng không lập con, lại lập cháu, có thể
vì cảm Duệ Tông bỏ mình vì nước, nhưng tiếc thay, đế Hiễn lại
không tài giỏi.
Quân đội ta, trong trận thua ở Champa mất mát quá nhiều.
Nghệ hoàng mộ binh, tuyển tướng, chỉnh đốn hàng ngũ quân quốíc
phòng, rèn đúc vũ khí, đóng thuyền xe, nhưng lực lượng võ bị chưa
được hùng mạnh mấy.
QUÂN CHAMPA SANG CƯỚP PHÁ - Quân Champa đại thắng ỏ
quốc đô, qua tháng sau, thừa thê kéo sang đánh vào Thăng Long.
Cung Chính vương Sư Hiền giữ cửa Đại La. Người Chăm thấy có
phòng bị, lại đi vào theo cửa sông Đại Chính thuộc huyện Yên Mô,
Ninh Bình (cửa sông này nay đã bị lấp) xâm phạm kinh thành,
không ai ngăn giữ nổi. Chúng tha hồ vơ vét của cải. Chúng ở lại một
ngày, rồi rút về. Qua cửa khẩu, gặp bão, chết đuối mất nhiều quân.
Tháng 3 âl năm sau (1378), chúng đánh Nghệ An, đưa Trần
Húc về, tiếm xưng tôn hiệu, chiêu dụ quân ta. Cũng có được một
sô người theo. Giặc lại đi vào sông Đại Hoàng, đánh bại Đỗ Tử
Bình, tiến vào kinh sư cướp của, bắt người. Kinh doãn Lê Giác bị
bắt, không chịu lạy Chê Bồng Nga, bị giết.
Người Chăm thấy nưốc ta suy nhược, cứ hay sang cướp Nghệ
An, chúng sang dụ dân Tân Bình và Thuận Hoá, rồi lấn cướp
Nghệ An, bắt người đem đi. Tiếp lại phá Thanh Hoa. Nghệ hoàng
cử Lê Quý Ly quản lĩnh thuỷ quân, Đỗ Tử Bình, bộ quân đi đánh.
Đến Ngu Giang, huyện Hoằng Hoá, cầm cự với quân Champa,
đánh lui được chúng thua chạy. Lần này, Chế Bồng Nga thất bại,
hao binh tổn tướng, bỏ về nước. Quý Ly chuyên giữ binh nhung,
lĩnh chức Hải Tây đô thông chế.
Năm 1382, chúng lại sang cưóp Thanh Hoa. Lê Quý Ly và
Nguyễn Đa Phương giữ bến Thần Đầu (Ninh Bình), phá được giặc,
thắng lớn. Chúng chạy vào rừng núi bị đói, bị bắt nhiều. Nguyễn
Đa Phương được phong làm Kim Ngô vệ đại tướng quân. (Đa
205
Phương là con Sư Tề. Quý Ly trước học võ Sư Tề, tiến cử Đa
Phương. Đa Phương từng bị quân Chăm bắt, trôn về được, là
tướng tài).
Sau hai trận thắng ở Ngu Giang và Thần Đầu, thế quân ta
đã hơi nổi. Năm 1383, Nghệ hoàng sai Quý Ly đem chiến thuyền
mới đóng đi đánh Champa, đi đến Nương Loan (Hà Tĩnh) gặp bão,
nhiều thuyền bị hư, quân đội phải rút về.
Tháng 8 âl năm ấy (1383), Chế Bồng Nga cùng tướng La
Khải (La Ngai) đem quân đi đường bộ ra xã Khổng Mục trấn
Quảng Oai (Hà Tĩnh) đánh bại tướng Mật ồ n ở Tam Kỳ. Nghệ
hoàng sỢ hãi, sai Nguyễn Đa Phương ở lại giữ kinh thành, cùng đế
Hiễn chạy sang Đông Ngàn. Có người giữ thuyền lại, xin thượng
hoàng ở lại chống giặc. Nghệ hoàng không chịu.
Quân đội Chăm xưa hèn kém. Từ khi Chê Bồng Nga làm vua,
dậy dỗ tập rèn, thành mạnh tỢn, chịu được gian khổ. Bấy giờ chúng
ra vào nước ta như đi vào chỗ không người. Trong mấy năm vào phá
kinh thành ba lần. Thê mà khi giặc rút đi rồi, Nghệ hoàng cũng
không sửa sang gì để phòng bị về sau. Thật là hèn kém quá.
TÌNH THÊ TRONG N ư ớ c - Bấy giờ trong nước, dân tình đói khổ.
Đê Hiễn sỢ giặc, đem tiền của đi chôn dấu ở chân núi Thiên Kiện
(Thiện Khê, huyện Thanh Liêm, Hà Nam) và ỏ dưới tháp Khả
Lăng thuộc Lạng Giang. (Sau đào núi lấy tiền, núi bị lở, cửa động
lấp kín, không đào được).
Đế Hiễn lại cho rước thần tượng các lăng vùng Thái Bình đưa
cả về An Sinh, phòng quân Chăm xâm phạm.
Nhà nước ngày một hèn yếu. Giặc nay đánh chỗ này, mai
đánh chỗ khác. Quân số thiếu thốn đến nỗi phải sai thiền sư Đại
Than lấy các người khoẻ mạnh trong các nhà sư không có độ điệp,
sung làm lính để đi đánh giặc.
Thuế má thì ngày một nặng. Trước thì chỉ những người có
ruộng đất mới phải đóng tiền, không có gì được miễn. Khi có binh
sự thì có ruộng, bãi dâu, đầm cá, phải nộp thóc, vải cho quân
dùng. Nay kho tàng trống rỗng, Đỗ Tử Bình xin bắt mỗi nam đinh
mỗi năm đóng ba quan tiền thuế. Thuê đinh đồng đều, bất công,
sinh ra từ đấy. May chỉ có ít năm mất mùa nên chưa có nhiều loạn
lạc. Ó Bắc Giang có Nguyễn Bộ xưng là Đường Lang Tử Y tiếm
hiệu xưng vương. Quan quân dẹp được. Nhưng mầm loạn manh
nha nên chỉ mấy năm sau, khắp nước chỗ nào cũng có những cuộc
nổi dậy chông đốì triều đình.
206
NHÀ MINH SÁCH NHIÊU - Bấy giò nhà Minh đã bình định
Trung Quốc. Minh Thái Tổ có ý dòm ngó nước ra, thường sai sứ
sang sách nhiễu. Năm 1384, đòi cấp 5.000 hộc lương cho quân Vân
Nam. Quan quân vận tải có nhiều người chết vì lam chướng. Năm
1385, lại đòi 20 tăng nhân đưa về Kim Lăng. Nghệ hoàng phải
dâng Tuệ Tĩnh thiền sư Nguyễn Bá Tình thánh tổ thuốc nam.
Năm 1386, đòi các cây quý: cau, vải, nhãn, mít. Các cây này không
chịu được rét, chết cả.
NGHỆ HOÀNG THÂT CHÍNH - Nghệ hoàng giữ quyền chính
nhưng việc gì cũng do Lê Quý Ly. Triều thần thì những kẻ xu
nịnh, ai lo thân nấy. Việc nước lâm nguy không ai nghĩ đến. Trần
Nguyên Đán, người tôn thất, thấy quốíc chính rã ròi, cáo quan về
nghỉ. (Nguyên Đán là chắt thượng tướng Quang Khải, có tài làm
văn thơ, thông lịch pháp). Nghệ hoàng một hôm đến thăm, hỏi
hậu sự. Nguyên Đán tâu: Xin bệ hạ thò nhà Minh như cha, yêu nước
Chăm như con thì quốc gia sẽ không việc gì, mà lão thần chết cũng
không hẩm. Ây là chỉ bàn những chuyện làm đầy tớ mà thôi, chứ
không có chí muốn cho nưóc mình cường thịnh. Nguyên Đán biết
rằng Quý Ly rồi tất sẽ cướp ngôi nhà Trần, bèn xin kết thông gia, để
tránh tai vạ. Quý Ly đem người con riêng vỢ gả cho Mộng Dữ, con
trai Nguyên Đán. Vì thê nên sau nhiều người họ Trần bị hại, mà con
cái Nguyên Đán vẫn hưởng phú quý, làm quan.
Nghệ hoàng mò mịt, không biết ai trung ai nịnh, vẫn tin
tưởng Quý Ly hết lòng. Năm 1381, ban cho gươm và cò, có đề chữ:
Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức. Quý Ly làm thơ Nôm, tạ ơn.
ĐẾ HIÊN BỊ HẠI - Năm 1 3 8 1 , đê Hiễn dụ quan Phục hầu đại
vương Húc (con trưởng hoàng thượng) đến, đem giết, không kể tội.
Năm 1388, thấy Quý Ly chỉ thắng được vài trận nhỏ mà lên
mặt kiêu ngạo, Nghệ hoàng lại cứ tin tưởng, nên lo ngại, muốn trừ
bỏ đi đế khỏi gây hoạ về sau, bàn mưu với thái uý Ngạc (con thứ
thượng hoàng) và Lê A Phụ. Vương Nhữ Mai hầu vua đọc sách tiết lộ
việc ấy. Quý Ly vào khóc vối Nghệ hoàng: cổ lai chỉ có bỏ cháu nuôi
con, không ai bỏ con nuôi cháu. Nghệ hoàng hạ chiếu trách tính trẻ
con, có ý hại công thần làm nguy xã tắc, giáng làm Linh Đức đại
vương, đem giam ở chùa Tư Phúc. Tờ chiếu ban ra, có mấy tướng
Nguyễn Khản, Nguyễn Văn Nhi, Nguyễn Na, Lê Lặc, Nguyễn Bát
Sách toan đem quân vào nhà giam cướp vua ra. Nhưng đế Hiễn viết
hai chữ “giải giáp” và không cho được trái mệnh thượng hoàng. Sau
đế Hiễn bị thắt cổ chết. Bọn Lê Á Phu đều bị giết cả.
207
LUẬN VỀ VUA TRẦN HIÊN - Đê Hiễn đem tiền đi chôn dấu, rước
thần tượng các lăng về An Sinh, chí biển tiểu, tự tiện giết Quan
Phục hầu là kém suy xét, 11 năm ở ngôi không làm nên được sự
nghiệp gì, lại làm vua có nhiều phương tiện mà trong việc mưu giết
Quý Ly kém thận trọng kín đáo, để tiết lộ, không phải là trí, nhưng
chết thảm, tình cũng có phàn nào đáng thương. Vua hèn này nếu có
trừ được Quý Ly thì cũng chẳng làm nên trò trốing gì. Không có Quý
Ly ấy thì cũng có Quý Ly khác tranh quyền cướp nước.

TRẤN THUẬN TÔN(Ỉ 1388 - 1398


huý N(ỈUNG (1378 - 1399)
N iên hiệu : Q u an g T h á i

Năm 1388, Nghệ hoàng truất phế và giết đế Hiễn, lập người
con út Chiêu Định vương Ngung lên thay, tục hiệu vua Trần
Thuận Tông.
Nghệ hoàng có nhiều con lớn, không lập ai, lại lập người con
út mới 11 tuổi trong khi mình đã già, u mê nghe theo Quý Ly. Giết
đê Hiễn đã là ngu tối, đến việc lập trẻ con thì thực không còn trí
khòn nữa.
LOẠN LẠC TRONG N ư ớ c - Bấy giờ tình hình nước nhà rất bi
thảm. Nhà Minh phương bắc sách nhiễu hết điều nọ đến điều kia.
Người Champa phương nam thường hay sang cướp phá. Trong
triều, Quý Ly chuyên quyền, lấy chân tay cho cai quản quân đội
để vây cánh. Ngoài cõi, nhiều đám giặc nổi lên.
0 Thanh Hoa có Nguyễn Thanh mạo xưng là Linh Đức vương
(đê Hiễn) đi lánh nạn, tụ tập nhiều người ở Lương Giang (sông
Chu), được một sô" dân chúng tin theo.
Lại có Nguyên Kỵ ở Nông Công, xưng là Lô vương, kéo bè lũ
đi cướp phá.
ỏ Quốc Oai (Sơn Tây), người thầy chùa Phạm Sư ồn nổi lên,
xưng danh hiệu lón, cùng Nguyễn Mại, Nguyễn Khả Hành, đem
quân xâm phạm kinh sư năm 1389. Nghệ hoàng và Thuận Tông
bỏ chạy sang Bắc Giang. Bọn Phạm Sư ô n vào được Thăng Long,
ở ba ngày rồi rút về Quốc Oai. Thống tướng Hoàng Phụng Thế
đang đóng quân ở Hoàng Giang chống nhau vói quân Champa,
nghe tin Phạm Sư ồn phạm kinh sư, đem quân vể đánh, bắt được
bọn ấy, giết đi, tha những người bắt hiếp theo giặc khỏi tội.
208
QUÂN CHAMPA XÂM PHẠM - CHẾ BỔNG NGA TỬ TRẬN - Năm
1389, Chế Bồng Nga lại đem quân sang đánh vào Thanh Hoa. Lê
Quý Ly chống giữ được hơn 20 ngày, Giặc phục binh, giả tảng rút
quân về. Quý Ly đem quân thuỷ bộ đánh đuổi, bị phục binh giặc,
có đội tượng binh đỗ ra đánh. Quân ta thua hết, chết hại nhiều.
Quý Ly bỏ kinh xin thêm thuyền bình, không được, xin trả lại
binh quyền. Các tướng Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương
chống nhau với giặc ở Ngu Giang. Thê kém, bày cờ giàn thuyền ra,
rồi đêm đến rút quân về.
Nguyễn Đa Phương là tướng giỏi, do Quý Ly tiến cử nhưng
không phục Quý Ly. Quý Ly sỢ Đa Phương lập công được Nghệ
hoàng tin dùng sẽ có hại cho mình, xui Nghệ hoàng giết đi.
Tháng 11 âl năm 1389, quân Champa kéo vào Hoàng Giang.
Nghệ hoàng sai đô tướng Trần Khát Chân đem binh ra chống giữ.
Khát Chân khóc lạy ra đi. Nghệ hoàng cũng khóc (!). Trần Nguyên
Diệu, em đê Hiễn, mưu báo thù, lấy con Nguyên Trác là Nguyên
Đĩnh làm tư đồ, hàn lâm học sĩ Trần Đôn làm thiếu bảo, có Trần
Khang giúp đỡ. Nguyên Diệu và bè lũ đến hàng Chế Bồng Nga.
Khát Chân đem quân đến Hoàng Giang, xem không có chỗ nào
đóng quân tiện lợi, rút về đóng ở Hải Triều, tức khúc sông Luộc, giữa
huyện Hưng Nhân, Thái Bình và huyện Tiên Lữ, Hưng Yên. Tháng
giêng âl nám 1390, Chê Bồng Nga đi thuyền đến xem tình hình quân
Khát Chân. Bấy giờ có tên tiểu hiệu của Chế Bồng Nga có tội sỢ bị
giết chạy sang hàng Khát Chân. Khi Chế Bồng Nga đem 100 chiến
thuyền đến gần, chỉ thuyền Chê Bồng Nga cho Khát Chân biết. Khát
Chân truyền bắn súng lốn vào thuyền ấy. Chê Bồng Nga trúng đạn
chết. Quan quân đổ ra đánh. Quân lính Chăm thấy quốc vương đã
chết, tan vỡ bỏ chạy. Nguyên Diệu cắt lấy đầu Chê Bồng Nga, chạy
về với quân ta, bị đại đội phó Phạm Khả Lặc và đầu ngũ Dương
Ngang giết, cướp lấy thủ cấp Chê Bồng Nga đem về kinh dâng nộp.
Nghệ hoàng vui vẻ, tự ví như Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ.
Nghệ hoàng định công phong Trần Khát Chân làm nội vệ
thượng tướng quân, tưốc Võ Tiết quan nội hầu, Phạm Khả Vĩnh,
xa kỵ thượng tướng quân, tưốc Quan Phục hầu. Trần Nguyên
Đĩnh và Trần Tôn sỢ tội nhảy xuôhg nưốc chết. Gia thần Trần
Khang chạy trôn sang Lão Qua.
Dân chúng Nghệ An, Tân Bình, trước có nhiều người theo
giặc. Thổ hào Phan Mãnh và Phạm Thế Căng không theo. Nghệ
hoàng khen ngợi, cử quản lĩnh các hạt ấy.
209
Chế Bồng Nga đôl vói người nước ta là giặc, nhiều lần
sang đánh cướp nhưng đôi với người Chăm là vị anh hùng đã
rửa nhục cho nước. Nhưng xét thấy Chế Bồng Nga chỉ có đại
tài của một tướng cướp lớn, chưa phải là anh hùng cứu quôc.
Giỏi giang ra, phải đòi đất, rồi kiến thiết lại quôc gia. Thế mà
chỉ cứ một vài năm lại sang cướp của, bắt người bên ta, rồi vội
vã rút quân về. Chuyên môn đi ăn cưóp thì chết vì nghiệp ấy,
cũng là sự thường.
Tướng Chăm La Khải thu nhặt tàn quân, hoả táng Chế Bồng
Nga, rồi trở về nưóc, chiếm ngôi làm vua. Hai con Chế Bồng Nga,
chạy sang ta. Ma Nô Dã Nan được phong làm Hiệu Chính hầu,
Sơn Na, làm Á hầu.
Năm 1391, Quý Ly đi tuần tiễu đất Hoá Châu, xây dựng
thành quách, đào hào đắp luỹ. Tướng Hoàng Phụng Thế đi tuần
tiễu biên giới Champa, bị người Chăm bắt, sau trốn về nưóc được.
Người anh hùng cuối cùng mất rồi. Champa nước nhỏ không
người tài giỏi lãnh đạo, bước vào thòi kỳ suy yếu.
LÊ QUÝ LY CHUYÊN QUYỀN - Từ khi giặc Chăm yên, Quý Ly
càng ngày càng kiêu hãnh. Những người không ăn cánh, Quý Ly
xui Nghệ hoàng giết đi, dù là thân vương. Mà Nghệ hoàng thì mù
quáng, quá tin gian thần quái lạ lùng. Có sĩ phu dâng số tâu Quý
Ly có ý dòm ngó ngôi cao, thời Nghệ hoàng lại đưa cho Quý Ly
xem nên không còn ai dám nói năng gì nữa.
Khi đê Hiễn bị phế, Nghệ hoàng không lập Trang Định
vương Ngạc. Nên Ngạc và Quý Ly có hiềm khích, nhiều khi Ngạc
bị Quý Ly gièm pha. Năm 1391, Ngạc lo sợ, chạy ra Vạn Ninh
(Móng Cái). Nghệ hoàng sai Nguyễn Nhân Liệt gọi trở về. Quý Ly
sai Nhân Liệt đánh chết Ngạc. Nhân Liệt về kinh nói Ngạc bạo
ngược với dân Vạn Ninh nên bị họ giết. Sau Nghệ hoàng hỏi lại.
Nhân Liệt sỢ, tự tử. Quý Ly vẫn không bị nghi ngờ gì (!). Hai
tướng Hoá Châu Phan Mãnh và Chu Bỉnh Khuê không đồng đảng,
bị Quý Ly giết hại. Năm 1392, tôn thất Trần Nhật Chương mưu
giêt Quý Ly, Nghệ hoàng cho là phản bội, đem giết đi.
Uy quyền quý Ly ngày một to, vây cánh ngày một nhiều. Sau
Nghệ hoàng cũng tỉnh ngộ lại thì đã quá muộn, thế không làm sao
được nữa, mới dùng cách vỗ về, mua chuộc mong Quý Ly có hồi
tâm chăng, sai người vẽ tranh Tứ Phụ tặng cho Quý Ly. Tranh vẽ
Chu công giúp Thành vương, Hoắc Quang giúp Chiêu đế, Gia Cát
Lượng giúp Hán Hậu Chủ, Tô Hiến Thành giúp Lý Cao Tông, bảo
210
Quý Ly rằng: Nhà ngươi giúp con trẫm cũng như thế. Bấy giò là
tháng 12 năm 1394.
Sang tháng 4, sau cuộc tuyên thệ, Nghệ hoàng gọi Quý Ly
vào điện, bảo rằng: “Nhà ngươi là thân thuộc, bao nhiêu việc nước,
trẫm đều phó thác cho cả. Nay thế nước suy nhược. Trẫm thì già
rồi. Ngày sau con trẫm có nên giúp thì giúp, không thì nhà ngươi
tự làm lấy”. Nghệ hoàng theo lòi Lưu Bị ký thác con côi cho Gia
Cát LưỢng, mong lung lạc được lòng Quý Ly chăng. Quý Ly cởi
mũ, khấu đầu khóc lóc mà thề rằng: Nếu thần không hết lòng hết
sức giúp vua thì tròi chu đất diệt. Ngày trước Linh Đức vương có
lòng làm hại. Nếu không nhờ uy linh của bệ hạ thì đã ngậm cười
dưới đất, đâu còn ngày nay mà mài thân nghiền côt để báo đền
vạn nhất. Vậy hạ thần đâu có ý gì khác. Xin bệ hạ tỏ lòng ấy cho
và đừng lo ngại gì.
TRẦN NGHỆ TÔNG KHUẤT - Tháng chạp âl năm Nhâm Tuất
(dương lịch đã sang năm 1395), Nghệ hoàng khuất, làm vua 2
năm, làm thái thượng hoàng 22 năm, hưởng thọ 74 tuổi, táng ở
Nguyên lăng xã An Sinh.

Trần Trọng Kim phê bình: Nghệ Tông là vua rất tầm thường,
chí khí đã không có, trí lực cũng kém hàn, để cho kẻ gian thần lừa
đảo, giết hại cả con cháu họ hàng, xa bỏ trung thần nghĩa sĩ, chỉ
yêu dùng một Quý Ly, cho được quyền thế, đến nỗi làm xiêu đô cơ
nghiệp nhà Trần... Vì Nghệ Tông mà nhà Trần mới mất về tay Quý
Ly, mà cũng vì sự rối loạn ấy nên nhà Minh mới sang cưóp phá
nước ta trong 20 năm.
Xét Nghệ Tông chỉ được điều là tính hoà nhã, có đòi sôhg
giản dị, không xa xỉ, nhưng kém tài đức, không biết dùng người, tin
tưởng mù quáng Đỗ Tử Bình, nhất là Lê Quý Ly, uỷ thác Thuận
Tông cho Quý Ly.

LÊ QUÝ LY, HỌC GIẢ


Về phương diện văn học, Lê Quý Ly là học giả uyên bác, hay
làm thơ chữ Hán và chữ Nôm, lại có tư tưởng tiến bộ. Quý Ly có
soạn sách Minh Đạo 14 thiên, tôn Chu công làm tiên thánh,
Khổng tử làm tiên sư, cho sách Luận Ngữ có bốh chỗ ngờ, chê Hàn
Dũ là đạo nho (nhà nho ăn trộm), cho bọn Trình Chu học rộng,
nhưng tài kém, không quán thiết đến sự tình, chuyên lấy cắp văn
chương của người xưa.
211
Năm 1392, sách dâng lên Nghệ hoàng, được khen ngợi. Quý
Ly lại soạn sách Thi N ghĩa (nghĩa kinh Thi) bằng quốc âm cùng
bài tựa, ụăm 1396 sai nữ sư dậy các hậu phi và cung nhân học
tập. Quý Ly giải nghĩa theo ý mình, không theo tập truyện của
Chu Tử.
Thòi xa xưa chưa có giấy, văn tự rất hàm súc, ý nhiều mà lòi
ít. Các tác phẩm của Khổng Mạnh rất cô đúc. Học giả các đời Hán,
Đường giải thích rộng rãi, mỗi người một ý, khác nhau, đôi khi
trái ngược ý nhau. Đến đời Tốhg, bọn Trình Chu giải thích lệch lạc
để có lợì cho chê độ quân chủ chuyên chê và cho giới sĩ phu. Cuối
thế kỷ XVII sang thê kỷ XVIII, có những học giả châu Âu, các giáo
sĩ, khảo sát tinh tường văn hoá Hán, các bài Tôhg nho, giải thích
lại Thư, Kinh theo đường lối khác, lối này không có lợi cho chính
quyền dân chủ nên bị triều đình Mãn Thanh cấm. ớ nước ta, mãi
đến năm .1930, nhà nho tiến bộ Phan Khôi mới nói lên việc Tông
nho đã phản bội Khổng Mạnh. Thê mà thê kỷ XIV, Lê Quý Ly đã
có tư tưởng tiến bộ. Tiếc rằng các sách của Quý Ly không còn lưu
truyền lại đòi sau. Nhiều nhà nho đương thòi và sau chỉ tin tưởng
Trình Chu, đã đả kích Quý Ly.
Cuối triều Trần, nưốc ta, trước Quý Ly có Chu Văn An viết
Tứ Thư thuyết ước, sách này cũng bị thất truyền, không rõ đã theo
đà hay nói khác Tống nho.

LÊ QUÝ LY MUU SựTHOÁN ĐOẠT


Nghệ hoàng mất rồi, Quý Ly lên làm phụ chính thái sư, vào ở
trong cung điện. Năm 1395, giết người tôn thất Nguyên Uyên và
Nguyên Dận cùng sĩ nhân Nguyễn Phu. Từ đấy chuyên làm mọi
việc để mưu sự thoán đoạt, sắp đặt lại cả để mua chuộc vây cánh.
VIỆC CAI TRỊ - Quý Ly đặt ra cách làm tiền giấy để thu tiền
đồng của nhân dân. Có những tò giấy 1 quan, 1, 2, 3, 5 tiền và 30
đồng. Ai làm tiền giây giả phải tội chém. Ai giấu tiền đồng cũng
cùng tội;
Ruộng đất thì xưa các tôn thất sai gia nô ra chỗ đất bồi bò
biển đắp đê một vài năm cho hết nước mặn rồi thành ruộng tư
trang. Quý Ly hạn chế thứ dân không được có hơn 10 mẫu, trừ đại
vương, công chúa không hạn định. Ai có thừa phải xung công. Ai
có tội được nộp ruộng chuộc tộ i.
Quý Ly định lại phép thi, đặt tứ trường văn thể: nhất trường,
kinh nghĩa; nhị trường, thơ phú; tam trường, chiếu, chế, biểu; tứ
212
trường, văn sách. Năm trước thi hương thì năm sau thi hội. Trúng
hội được vào làm văn sách nữa để định cao thấp.
Quý Ly cũng mở mang việc học hành, đặt chức đốíc học ở các
lộ, giáo thụ ở các phủ châu, cấp cho học quan ruộng từ 10 đến 15
mẫu. Hàng năm lựa chọn học sinh ưu tú công vào triều.
Quý Ly cải các lộ làm trấn và đặt thêm quan chức. Có những
trấn Thanh Đô (Thanh Hoa), Qucảng Oai (Quốc Oai), Thiên Hưng
(Đà Giang), Lâm An (Nghệ An), Thiên Quan (Trường An), Vọng
Giang (Diễn Châu), Lạng Sơn trước là phủ, Tây Bình (phủ Tân
Bình). Bỏ các ty xã, chỉ để quản giáp. Quan chức các hạt thì lộ đặt
chánh phó an phủ sứ; phủ, chánh phó trấn phủ sứ; châu, thông
phán, thiêm phán; huyện lĩnh sự, chủ hạ. Lộ coi phủ, phủ coi
châu, châu coi huyện. Quý Ly lại phân nước ra từng hạt, đặt chức
đô đốc, đô hộ, đô thông, tổng quản, thái thú, để phong cho những
người vây cánh.
LẬP TÂY ĐÔ - Quý Ly xây thành Tây Đô ở Thanh Hoa để thiên
kinh đô về ở đó, sai thượng thư Đỗ Tính xem xét và đo đạc động
Yên Tôn (nay là xã Yên Tôn, huyện Vĩnh Lộc) đắp thành đào hào,
lập nhà tôn miếu, đền thờ xã tắc, mở phô" xá, đường ngõ. Nơi này,
bên tả và bên hữu thành đều sát với núi đá, hai con sông; sông
Lương và sông Mã hỢp lưu ở đằng trưốc, địa thê nhỏ hẹp, có tính
cách hiểm trở. Quý Ly định thiên đô về đây đê cho dễ đường thoán
đoạt. Các quan nhiều người can ngăn, bàn không nên thiên đố.
Quý Lv không nghe.
Năm 1397, Quý Ly ép Thuận Tông rời đô. Các cung điện bị
dỡ rồi đem trở gạch ngói gỗ về kinh đô mới. Cung nhân Trần Ngọc
Ky và Trần Ngọc Kiêm nói thiên đô tất có việc cướp ngôi. Quý Ly
cho rằng miếu lệnh Lê HỢp và phụ đạo Cô Lũng Lương Ong đồng
mưu, nên giết cả.

Sự PHÊ LẬP TRẤN THIẾU ĐÊ 1398 - 1400


Niên hiêu: Kiến Tân

Tháng 3 âl năm 1397, Quý Ly sai đạo sĩ Nguyễn Khánh


vào cung khuyên Thuận Tông nhường ngôi cho con mà đi tu
tiên. Thuận Tông y lời. Quý Ly dựng cung Bảo Thanh ở tây
nam cửa Đại Lại, rước vua ra ở. Thuận Tông hạ chiếu truyền
ngôi cho thái tử An, rồi trai khiết ra cung Bảo Thanh thuộc
Thanh Hoa.
213
Thái tử An, mới lên ba tuổi, lên nối ngôi. Quỵ Ly làm phụ
chính, tự xưng là Khâm Đức Hưng Liệt đại vương, nhiếp chính cai
giáo hoàng đế.
THUẬN TÔNG BỊ HẠI - Thuận Tông sau dời ra ở quán Ngọc
Thanh thôn Đạm Thuỷ, huyện Đông Triều. Quý Ly cho đem thư
đến, bảo nên tự tử, đừng để mệt sức người khác. Sau lại sai nội
tâm học sinh Nguyễn cẩn đầu độc. Thuận Tông không chết. Quý
Ly lại sai người đem thắt cổ năm 1399.
Trần Thuận Tông làm vua 11 năm, hưởng linh 22 tuổi, công
nghiệp không có gì. Việc nước trước sau đều do Quý Ly định đoạt cả.
VỤ MƯU SÁT QUÝ LY - Bọn thái bảo Trần Nguyên Hãng, trụ
quốc Trần Khắc Đôn, thượng tưóng Trần Khát Chân, âm mưu vói
nhau đến ngày hội họp tuyên thệ ở Đốn Sơn, quê hương KLát
Chân sẽ giết Quý Ly. Ngày hội thề, Quý Ly lên lầu nhà Khát
Chân để xem, nghi vệ y như thiên tử đi tuần du. Lúc ấy, Phạm Tổ
Thu và thích khách Phạm Ngưu Tất cầm kiếm xông lên. Khát
Chân trừng mắt nhìn, hai người lại thôi. Việc mưu sát bị bại lộ.
Nguyên Hãng, Khắc Đôn, Khát Chân, Quan phục hầu Phạm Khả
Vĩnh, thượng thư Hà Khắc Lân, hành khiển Lương Nguyên Bưu
và bọn Phạm ổng Thiện, Phạm Tổ Thu cùng các thân thích liên
can 370 đều bị hại, gia sản tịch thu. Các người bị bắt, hàng năm
chưa xong. Ngoài đường người ta chỉ nhìn nhau, không dám nói
chuyện. Quý Ly muốn trừ hết mọi người nghi ngờ chông đối.
Trần Khát Chân là dòng dõi Trần Bình Trọng. Bình Trọng
tuẫn quốc, con cháu được tập ấm, ba đời làm thượng tướng quân.
Đến đòi Khát Chân làm đô tướng, từng chiến thắng Chế Bồng Nga,
hết lòng trung thành với nhà Trần, chí dẫu đáng khen nhưng cách tổ
chức quá kém, gây chết thê thảm cho bao nhiêu người (!).
ĐVSKTT chép: Khi bị hành hình, sau ba ngày, sắc mặt Khát
Chân vẫn như lúc còn sông.
VỤ NGUYỄN NHỮ CÁI N ổl DẬY - ở Bắc Giang, có Nguyễn Nhữ
Cái chiêu dụ dân lành được hơn vạn người, nổi lên ở vùng sông
Đáy, sông Đà, núi Tản, núi Lịch (Sơn Tây, Phú Thọ, Vĩnh Yên,
Tuyên Quang). Quân đội địa phương chống cự không nổi. Nguyễn
Nhữ Cái giữ được 6 tháng. Sau bị an phủ sứ Đông Đô Nguyễn
Bàng Cử đánh bại.
VIỆC BANG GIAO VỚI TRUNG QUỐC - Năm 1395, vua Minh đòi
giúp 5 vạn quân, 50 con voi, 50 vạn hộc lương, đưa đến địa đầu
cung cấp cho quân. Bấy giờ, người Man làm phản ở Long Châu và
214
châu Phụng Nghị ở Quảng Tây. Quý Ly không nộp lính và voi, chỉ
cấp 8 vạn hộc lương đưa đến Đồng Đăng. Người Minh lại đòi tăng
nhân, đàn bà xoa bóp và người thiến. Quý Ly đưa mấy người.
Minh Thái Tổ mất. Huệ đê lên nốì ngôi, bị Yên vương tranh.
Các năm 1398 đến 1402, Trung Quốc loạn, nước ta không còn bị
sách nhiễu.
VIỆC BANG GIAO VỚI N ư ớ c CHAMPA - Năm 1398, Quý Ly sai
tướng Trần Tùng đi đánh nước Champa, buộc nước này phải tiến
công. Thắng lợi không lớn gì lắm.
LÊ QUÝ LY THOÁN VỊ - Tháng 6 âl năm 1399, Quý Ly tự xưng là
Quốc tô Chương hoàng đế, ra vào dùng 12 cây lọng vàng, như nghi
trượng thiên tử.
Sau khi diệt hết các lực lượng có thể chống đôi, tháng 2 âl
năm 1400, Quý Ly bỏ Thiếu đế, tự xưng làm vua thay nhà Trần,
giáng Thiếu đế làm Bảo Minh đại vương. Sử chép thương tình
cháu ngoại không giết, thực sự thì để sông không nguy hại gì.
Quý Ly làm sự thoán đoạt, trong nước tại kinh cũng như
ngoài cõi, không gặp trỏ ngại gì.
Quý Ly có tố là Hồ Hưng Dật, người Chiết Giang, đòi Ngũ
Quý sang làm thái thú Diễn Châu, sau nhà ở hương Bảo Đôi châu
ấy rồi làm trại chủ. Đòi Lý lấy công chúa Nguyệt Đích. Đến đòi
cháu thứ 12 Hồ Liêm đến ở hương Đại Lại, phủ Thanh Hoa, làm
con nuôi tuy uý Lê Huấn, đổi làm họ Lê. Quý Ly là cháu bốn đời
cháu bốn đời của Liêm. Lên ngôi, Quý Ly lấy trở lại họ Hồ.
Quý Ly nhận tổ họ Hồ là Hồ Công Mãn, dòng dõi vua Ngu
Thuấn, đổi quốc hiệu là Đại Ngu, để tỏ mình là miêu duệ của vị
thánh đê Trung Quốc.

Xét sự việc này, Quý Ly đã nhận chằng. Khảo sử ký Tư Mã


Thiên thì Hồ Công Mãn, được phong tước công, giữ đất Trần, lấy
Trần làm họ, gọi là Trần Hồ công. Hồ là tên hiệu, chứ không phải
họ. Ông là thuỷ tồ họ Trần, con là Trần Thân công huý Tê Hầu,
Trần Tương công huý Cao Dương, cháu là Trần Hiếu công huý Đột.
Con cháu không ai mang họ Hồ cả.

CÔN(Ỉ NGHIỆP NHÀ TRẦN


Nhà Trần trị nước từ Thái Tông đến Thiếu đế 12 vua từ năm
1225 đến năm 1400, cộng 125 năm, công việc nước sửa sang được
nhiều, chính trị luật lệ đều chỉnh đô"n, văn trị võ công rực rỡ. Đất
215
nước được thông nhất, bò cõi mở rộng thêm. Công nghiệp oanh liệt
nhất là đã chiến thắng vẻ vang ba lần quân Mông c ổ , đê quốc
hùng mạnh từng lừng lẫy khắp tròi Âu biển Á, giữ vững nền độc lập
nước nhà. Văn học được mở mang rộng rãi, từng lớp sĩ phu mới thực
sự thành hình, đào tạo nên nhiều văn thần lương đông, mỏ khoa thi
kén chọn nhân tài Nho, Thích, Lão. Ngủyễn Thuyên và Nguyễn Sĩ
Cố khởi sự làm thơ văn quốc âm. Chu An viết Tứ Thư thuyết ước. Lê
Quý Ly viết sách Minh Đạo và Thi Nghĩa có tư tương tiến bộ. Văn
chương đòi Trần cứng cỏi và thiết thực, không có sự lòi kêu mà ý
rỗng như các đòi sau. Yên Vân đại đầu (Trần Nhân Tông) và Pháp
Loa, Huyền Quang dựng nên phái thiền Trúc Lâm.
Kinh tế cũng được khuếch trương. Triều đình rất chăm nom
việc vệ nông: đắp đê, khai sông, khẩn hoang. Đời sống nông dân
được nâng cao, kéo theo công, thương nhân. Thợ thuyền thường
thành lập nên các phường, làng, chuyên sản xuất một thứ hàng.
Về ngoại thương, ở cảng Vân Đồn có nhiều thương thuyền các
nước đến mua bán.
Mấy vị đầu là các vị anh quân, nước nhà được thái bình,
thịnh vượng. Mấy vua sau hèn kém, hoang chơi, nhu nhược, khiến
nước yếu dân suy, cơ đồ đô nát.
Theo Trần Trọng Kim: Dụ Tông hoang chơi, không lo việc
nước, lại làm loạn cả cương kỷ, Nghệ Tông không biết phân biệt
hiền gian đê kẻ quyền thần được làm loạn, tự hại nhà mình.
Ngoài ra, còn có nguyên nhân khác khiến nhà Trần suy vong.
Các vua sau không còn thân dân, lấy dân làm gốc, theo kê sâu rễ
bền gốc. Người trong tôn thất bỏ nghề võ, không nắm vững binh
quyền, lại không đoàn kết giữ nước. Huấn thị của Thủ Độ, Thánh
Tông và Hưng Đạo vương không được tuân theo.
Còn có nguyên nhân xa nữa là không có quôc kế dân sinh
rộng lớn đại quy mô khiến nước giầu dân mạnh như Thái Tông,
Thánh Tông đã làm. Minh Tông có lập đồn điền, dựng kho nghĩa
sương nhưng chưa đủ, người sau lại không tiếp tục. Dân nghèo
không thờ được vua. Đã thế, còn vì háo danh, kiêu hãnh hơn là vì
tham vọng đất đai, nhiều lần đi đánh Champa. Trận thắng nhỏ
không lợi lộc gì. Những trận thua sau, hao binh tổn tướng, làm
suy yêu uy tín, nhất là tiềm lực quốc gia. Chúa hèn lại gặp tôi
gian thì cơ đồ phải đổ.

216
KỶ NHÀ HÕ (1400 - 1407)
HỔ QUÝ LY
Niên hiệu: Thánh Nguyên 1400

Tháng 2 âl năm 1400, Quý Ly lên ngôi, đổi quốc hiệu là Đại
Ngu. Đặt chức liêm phóng sứ ở các lộ, mở khoa thi thái học sinh
(Nguyễn Trãi và Bùi ưng Đẩu đỗ khoa này), đặt ra kho thương
bình, cấp tiền giấy cho các lộ đóng thóc chứa vào kho. Đe ra uy, sai
Đỗ Mẫn và Hồ Tùng đem thuỷ lục quân 15 vạn đi đánh Champa.
HỔ HÁN THƯONG 1401 -1407
Niên hiệu: Thiệu Thành 1401 - 1402,
Khai Đại 1403 - 1407

Làm vua được mấy tháng, Quý Ly truyền ngôi cho con là Hồ
Hán Thương, lên làm thái thượng hoàng, vẫn giữ quyền chính.
Quý Ly không lập người con lớn Hồ Nguyên Trừng có tài cán hơn,
mà lại lập con thứ, do Hán Thương là con Huy Ninh công chúa,
cháu ngoại Trần Minh Tông, để tiện trình bày với nhà Minh rằng
cháu ngoại lên cầm quyển thay thê nhà Trần.
VIÊC CAI TRI TRONG N ư ớ c - Quý Ly đặc biệt sửa sang việc võ bị,
định sô" quân nam, bắc ban, chia ra làm 12 vệ, mỗi vệ 18 đội, mỗi đội
18 người. Đại quân có 30 đội; trung quân, 20; doanh, 15; đoàn, 10 đội.
Đặt đại tướng thống Bnh các quân. Quý Ly hằng mong có được trăm
vạn quân để’ đánh giặc bắc. Sai lập sổ hộ tịch để tiện việc bắt lính, về
mặt thuỷ, đóng những thuyền lớn, trên có sàn đi, dưới để cho người
chèo chống, tiện cho việc chiến đấu. ơ các cửa biển và những chỗ yếu
trong sông lớn, đều bắt lấy gỗ đóng cọc để giữ giặc. Quý Ly chỉnh đốh
hàng ngũ quân đội, chê tạo vũ khí, lập kho chứa lương thực. Lại cấm
dân uổng rượu, dành gạo dùng nuôi quân.
Về tài chính, có việc đánh thuế vào các thuyền buôn bán,
tăng thuê điền, định lại thuê thân nhiều ít tuỳ theo sô ruộng đất
có đưỢc. Người không có tài sản và cô nhi quả phụ được miễn.
Về việc học hành, thi cử, đặt thêm kỳ thi toán pháp.
Về y tế, đặt ra y tỳ coi việc nước thuốc thang.
Quý Ly định quan chế và hình luật Đại Ngu, sửa sang đường
xá từ Tây Đô đến Hoá Châu, dọc theo đường đặt các trạm, gọj là
đường thiên lý.
217
Đề phòng sự nổi dậy chống đổĩ, nhà Hồ đặt ra phép hạn chế
dừng gia nô, ít nhiều tuỳ theo cấp bậc. Sô" gia nô thừa đem sung quân.
VIỆC GIAO THIỆP VỚI NƯỚC CHAMPA - Năm 1400, vua Champa
La Ngai chết. Quý Ly sai Đỗ Mẫn dẫn thuỷ quân, Hồ Tùng dẫn bộ
quân đi đánh Champa. Quân thuỷ và quân bộ không tiếp ứng
nhau. Quân bộ thiếu lương phải rút về.
Năm 1402, Đỗ Mẫn đi đánh Champa, vua Champa Ba Địch
Lại dâng đất Chiêm Động và c ổ Luỹ (Quảng Nam và Quảng
Ngãi). Quý Ly đặt quan cai trị và cho người vào lập nghiệp, cử Dã
Nan, con Chê Bồng Nga làm quận vương, vỗ về người Chăm.
Năm 1403, nhà Hồ muốn chiêm đất phía nam, sai Phạm
Nguyên Khôi và Đỗ Mẫn đi đánh nữa. Nước Champa, từ trước, bị
áp bức quá, dâng lễ vật xin với nhà Minh bảo hộ. Một vạn quân
Minh được đưa sang giúp. Nhưng chúng không chông nổi vói quân
nhà Hồ đông đúc. Thành Chà Bàn sắp bị hạ thì chợt có binh
thuyền quân Minh đến cứu viện. Nguyên Khôi không muốn dây
với quân Minh, điều đình hai nước đều rút quân về. Quý Ly trách
sao không đánh bại quân Minh đi. Bắc sử chép quân Giao Chỉ sỢ
uy phải rút.
VIỆC BANG GIAO VỚI TRUNG QUỐC - Hồ Hán Thương lên ngôi,
sai sứ sang Minh nói rằng: Dòng dõi nhà Trần không còn ai, xin
lấy danh nghĩa cháu ngoại tạm giữ việc nước. Minh Thành Tổ sai
Dương Bật sang xét. Quý Ly bắt quan viên phụ lão làm tờ khai nói
y như lòi sứ. Hán Thương được phong làm An Nam quốc vương.
Bấy giờ, sứ nhà Minh đi lại liền, khi trưng cầu, khi sách hỏi.
Hán Thương sai người cứu giải, vất vả về ứng đối.
Năm 1405, vua Minh đòi đất Lộc Châu thuộc Lạng Sơn, nói
là đất cũ của châu Tư Minh thuộc Quảng Tây. Quý Ly sai Hoàng
Hôi Khanh cắt 55 thôn c ổ Lâu dâng nhà Minh.

QUẢN MINH SANG


ĐÁNH N ư ớ c TA LẨN THỨNHÂT
TRẦN THIÊM BÌNH - Năm 1404, có Trần Khang (hay Nguyễn
Khang) ở mạn Lão Qua, đi đường Vân Nam, sang Kim Láng, đổi
tên là Trần Thiêm Bình, xưng là con vua Trần Nghệ Tông, kể rõ
tình trạng nhà Hồ thoán nghịch với vua Minh.
Khang nguyên là.gia đồng nhà Trần Nguyên Huy, đồng đảng
với Trần Nguyên Dĩnh, tư thông với Chê Bồng Nga. Huy và Dĩnh sỢ
tội, tự tử. Khang chạy sang Lão Qua. Tông tích Khang không ai rõ.
218
Minh Thành Tổ sai Lý Kỳ sang xem xét. Lý Kỳ sang sứ, làm
uy làm phúc, xem khắp tình thế. Khi ra về, Quý Ly sai Phạm Lục
Tài đuổi theo giết đi nhưng không kịp. Lý Kỳ về tâu sự thật. Minh
Thành Tổ đang muôn đánh chiếm đất nước, gặp Thiêm Bình cầu
cứu thì đây là dịp tốt để động binh, mưỢn cớ điếu phạt kẻ thoán
nghịch, đưa người họ Trần về phục quốc. Quý Ly sai Phạm Canh
và Lưu Quang Đĩnh sang Minh trình bày việc Thiêm Bình giả
mạo. Vua Minh giữ Canh lại và cho Quang Đĩnh về bảo họ Hồ tạ
tội và sắp sửa nghênh đón vua Trần về nước.
Quý Ly thấy quân Minh sửa soạn sang đánh, hội các quan
triều và các lộ, bàn nên hoà hay nên đánh. Có kẻ bàn nên hoà, có
người xin đánh. Hồ Nguyên Trừng nói: “Không sỢ đánh, chỉ sỢ
lòng dân không phục”. Quý Ly quyết chiến, nghĩ dân chúng đâu có
ưa gì người bắc.
NHÀ HỔ ĐỀ PHÒNG KHÁNG CHIẾN - Ngay từ khi mối lên ngôi,
Quý Ly đã thấy rằng quân Minh sớm muộn cũng sang đánh, nên
đã đề phòng, ra lệnh cho các nơi đầu nguồn các trấn nộp gỗ làm
cọc tải đến đóng ở cửa biển và các nơi hiểm yếu trên sông Cái,
chặn cửa sông Bạch Hạc, chắn giặc từ Tuyên Quang đến, đắp
thành Đa Bang thuộc xã cổ Pháp, Sơn Tây, nơi này lập đồn liên
tiếp ở phía nam con sông.
QUÂN M INH XÂM NHẬP ĐẤT NƯỚC TA - Tháng 4 âl năm 1406,
vua Minh sai đô đốic Hàn Quan và đô đốc Hoàng Trung đem 10
vạn quân từ Quảng Tây sang: xâm, mưỢn tiếng đưa Trần Thiêm
Bình về làm quốc vương.
Quý Ly ra lệnh cho nhâ;n dân các xứ lạng Châu, Vũ Ninh,
Bắc Giang, Tam Đái phải bỏ hết các lúa má, cắt đặt các tướng đem
quân lên phòng thủ các đồn tại biên giới Lạng Sơn.
Quân Minh xâm nhập đất nước ta, thế hung dữ, đánh chiêm
các đồn ải. Các tướng Phạm Nguyên Khôi, Chu Bỉnh Trung, Trần
Nguyên Huyên, Trần Thái Bộc đều bị đánh thua, tử trận. Hồ
Nguyên Trừng suýt bị vây bắt.
Ngày 8 - 4 âl, giặc kéo đến cửa Lãnh Kinh, bắc thị xã Bắc
Ninh ngày nay, sắp sửa tiến đánh Đông Đô. Trần Thiêm Bình
theo gót quân Minh về nước nhưng không có vây cánh trong nước,
không được ai hưởng ứng theo phục cả.
Tưóng Hồ Vấn đem quân từ Vu Cao, mạn Bắc Giang, về
đánh úp. Quân Minh thua: Các tưống Hồ Xạ, Trần Đĩnh đóng
chẹn cửa Chi Lăng. Hoàng Trung liệu th ế địch không lại, xin đem
219
Thiêm Bình giao nộp để được bình yên đưa quân về nước, nói
thiên triều không biết Thiêm Bình xưng bậy. Hộ Xạ ưng cho.
Quý Ly trách sao không đánh bắt cho được Hoàng Trung,
sau chỉ thưởng qua loa tuy có công to.
Thiêm Bình bị đem xử tội lăng trì, còn mấy ngưòi tuỳ tùng cho
đưa vào Nghệ An làm ruộng, hoặc đem cho nhà quan làm gia nô.
Quý Ly lại sai Trần Cung Túc, Mai Tú Phu và Tương Tu
sang Minh biện bạch sự Thiêm Bình giả mạo. Vua Minh giữ các sứ
giá lại và cử đại binh sang đánh nữa.
Quý Ly tăng cường việc phòng thủ, bổ thêm hương quân,
chiêu mộ người vong mệnh làm quân dũng hãn, sai các lộ đóng rào
sách ở bò nam sông Cái từ thành Đa Bang đến sông Lô và từ châu
Lạng đến sông Chú, làm kế phòng thủ.

QUÂN MINH SANÍỈ ĐÁNH NƯỚC TA LẦN THỨ HAI


Đã từ lâu, nhà Minh vẫn có ý muôn đánh chiếm đất nước ta.
Chúng đã do thám sơn, xuyên, đường thuỷ đường bộ, các nơi hiểm
yếu, tình trạng văn hoá, chính trị, kinh tế, quân sự, để tính sự
đánh chiếm. Khi được Trần Thiêm Bình, Minh Thành Tổ không
cần biết thật giả là con vua Trần, tưởng có thể là dịp tốt để can
thiệp vào việc nước ta, đỡ mất nhiều công sức quân đội mà lập
được chính quyền tay sai đắc lực. Không ngờ lại thất bại, vua
Minh bèn quyết tâm dùng đại binh đánh chiếm nước ta cho bằng
được. Lần này huy động lực lượng lốn lao, gồm 30 vạn quân lính,
10 vạn dân phu vận tải. (ĐVSKTT chép tất cả 80 vạn, e có quá
đáng). Tháng 9 âl năm 1406, Minh Thành Tổ cử Thành Quốc công
Chu Năng làm tổng binh chinh di tướng quân, Tân Thành hầu
Trương Phụ, Tây Bình hầu Mộc Thạnh làm tả hữu phó tướng;
Phong Thành hầu Lý Bân, Vân Dương bá Trần Húc làm tả hữu
tham tướng. Chu Năng ôm chết khi đi đến Long Châu. Phó tướng
Trương Phụ lên thay. Đoàn quân của Phụ từ Quảng Tây đánh vào
cửa Pha Luỹ (Nam Quan). Đoàn quân của Mộc Thạnh từ Vân
Nam đánh vào cửa Phú Lệnh (Hà Giang).
Giặc Minh xâm nhập đất nước ta, mượn tiếng điếu phạt nhà
Hồ, phục Trần. Đạo quân Trương Phụ, tháng 10 âl đánh bại quân
nhà Hồ ở các ải Lưu Quang và Kê Lăng. Quân Mộc Thanh cũng
đánh qua nhiều ải, chặt gỗ đóng bè theo dòng sông tiến xuông.
Trước đây, Chu Năng làm bảng ván kể tội họ Hồ thoán
nghịch, lại nói quân Minh nhân nghĩa sang hỏi tội kẻ phản bạo,
220 .
lập lại nhà Trần, cứu vớt dân An Nam khỏi khổ sở. Phụ, Thạnh
cho khắc lại lòi bảng văn ấy ra nhiều mảnh gỗ, đem thả xuông
sông cho trôi xuôi. Người nước ta thấy, một sô tin là thực, không
chịu đánh giặc, lại theo hàng chúng, do oán ghét dòng vua mói tàn
bạo, vẫn sưu cao thuê nặng, lại bắt hết tráng đinh, cột trụ của gia
đình, phải tòng ngũ đi đánh Champa.
TH À N H ĐA BANG THẤT THỦ - Tháng 11 âl, hai đạo giặc hội
quân ở Bạch Hạc, đóng doanh trại ở bò phái bắc sông Cái. Ngày 2 -
12, chúng đánh bại tướng Hồ Xạ ỏ Việt Trì, tập trung lực lượng
đánh thành Đa Bang. Trước hết, đánh vào các tiền đồn. Ngày 6 -
2, giặc đánh vào một đồn phía nam sông Cái, quan quân nhà Hồ
do tướng Trần Đĩnh chỉ huy hăng hái đánh cực mạnh, quân giặc
chết nhiều, hoảng sỢ bỏ chạy. Trương Phụ đem những người chạy
trước thi hành quân lệnh, quân lính đều xin cô" sức liều chết, tự
nguyện lập công. Đêm 9 - 12, giặc đánh úp toán quân của Nguyễn
Công Khôi ở bãi sông Mộc Hoàn, thuyền bị đốt, quân chết nhiều.
Sáng sóm ngày 12 - 12, Trương Phụ đem đô đốc Hoàng Trung, đô
chỉ huy Thái Phúc đánh vào phía tây bắc thành. Quan quân nhà
Hồ chông cự rất hăng (ĐVSKTT chép; “xác giặc chết chất cao
ngang thành”) mà không một ai dám rút lui, quân vẫn tiến đánh.
Bọn Nguyễn Tông Độ cho voi ra. Quân Minh lấy tên lửa bắn. Voi
lùi lại. Giặc theo voi tiến vào, lấy được thành. Các quân thuyền
đóng ở dọc sông lui theo dòng về giữ Hoàng Giang.
Thừa thắng, mấy ngày sau, giặc tiến vào chiếm Đông Đô
(Thăng Long).
Bọn Mạc Địch, Mạc Thuý, Mạc Viễn (cháu Mạc Đĩnh Chi) và
Nguyễn Huân, đều là những người bất mãn, đón hàng quân Minh.
Tướng Minh đều phong cho làm quan: Mạc Thuý làm đến chức tham
chính; Địch, chỉ huy sứ; Viễn, diêm vận sứ; Huân, bô chánh sứ.

Có những tập sử, có lẽ vì tác giả không ưa cha con họ Hồ, đã


chép sự việc không hẳn là thực, như nói nhà Hồ dâng biểu tạ tội lên
vua Minh và xin rước Trần Thiêm Bình về làm vua, rồi lừa đón bắt
Thiêm Bình được đưa trở về. Lại nói: Người nưốc ta tin lòi quân Minh
nói sang mưu việc p h ụ c Trần là thật nên không chịu đánh giặc mà vội
vã xin hàng. Nhiều nơi giặc chưa đến đánh đã sớm hàng phục ngay.
Những điều này khác đến trái ngược vối ĐVSKTT và cả Bắc sử. Quân
đội nhà Hồ cũng thực sự cố chôbg chọi hăng hái với quân nhà Minh.
Sỏ dĩ bị thua là do giặc đông và thiện chiến hơn.
221
Trong những người ra hàng giặc chỉ có rất ít mưu phục Trần.
Phần đông là bọn cd hội, cặn bã xã hội, theo giặc kiếm cơm áo,
mưỢn tiếng p h ụ c T rần để khỏi mang tiếng xấu.
Dù sao cũng phải thừa nhận rằng: Bấy giờ lệnh tiêu thổ kháng
chiến không được dân chúng thi hành triệt để, người tuân theo, người
không nên giặc tiến quân đưỢc khá mau chóng, nhất là chúng không
bị những toán quân du kích nhẹ nhàng lanh lợi quấy phá.

TRẬN MỘC PHÀM GIANG - Thua trận ở Đa Bang, Hồ Nguyên


Trừng rút binh thuyền về theo dòng sông Hồng, đóng quân ở
Hoàng Giang, khúc sông thuộc huyện Nam Xang, nay là phủ Lý
Nhân. Tháng 2 âl năm 1407, Mộc Thạnh đem thuỷ lục quân cùng
tiến lên đến hạ trại ở sông Mộc Phàm (ở làng Mộc Phàm, huyện
Phú Xuyên, tiếp vói Hoàng Giang). Hồ Nguyên Trừng đem 300
chiến thuyền ra đánh. Quân Mộc Thạnh ỏ hai bên bờ sông đánh
úp lại. Nguyên Trừng thua chạy, lui về giữ cửa biển Muộn Hải
(cửa sông Hồng thuộc huyện Giao Thuỷ, Nam Định, nay đã bị
lấp). Quý Ly, Hán Thương đều rút về Thanh Hoa. Bọn Hồ Đỗ, Hồ
Xạ cũng bỏ bến Bình Than, qua cửa Thái Bình và cửa Đại Toàn,
chạy cả về Muộn Hải, gom sức với Nguyên Trừng đắp luỹ, đúc
súng, đóng chiến thuyền để chông giặc. Quân Minh kéo theo đến,
đánh mạnh. Quan quân nhà Hồ chạy sang giữ cửa Đại An (nay
thuộc phủ Nghĩa Hưng, Nam Định). Giặc đóng quân ở cửa Muộn
Hải, vì nắng mưa sinh ôm đau, dịch lệ, lại bùn lầy ẩm ướt khó ở,
chúng bèn dời lên đóng ỏ bến Hàm Tử, lập trại nghiêm phòng. Bọn
Nguyên Trừng, Đỗ, Xạ cũng dời quân đến Hoàng Giang, đón Quý
Ly và Hán Thương ở Thanh Hoa ra. Bấy giò, có những người trước
đã ở lại Kinh Lộ (Thăng Long) bị người Minh sai khiến và mất cả
gia thuộc, mang lòng oán giận, các quân nhân và đinh nam đều
đến quân môn tự nguyện gắng sức lập công.
TRẬN HÀM TỬ - Vua tôi nhà Hồ muôn mở trận chiến to lón
mong phá tan đám giặc ở Hàm Tử. Cuôl tháng 3 âl, Hồ
Nguyên Trừng, Hồ Đỗ, Đỗ Mãn tiến quân vào cửa này, Hồ Xạ
và Trần Đĩnh lãnh quân bộ từ bờ sông phía nam; Đỗ Nhân
Giám và Trần Khắc Trang lãnh quân bộ từ bờ sông phía bắc;
Nguyễn Công Chửng đem 100 chiến thuyền làm tiên phong:
Trừng và Đỗ ở trung doanh; bọn Đỗ Mãn, Hồ Vấn lãnh quân
thuỷ. Quân thuỷ bộ cộng 7 vạn người, nói tăng lên là 21 vạn
đều tiến đánh.
222
Người Minh chia ra hai mặt thuỷ bộ đánh lại. Quân Hồ thua
to. Cuộc phản công thất bại nặng nề. Quân sĩ chết quá nhiều,
thuyền chiến và thuyền lương bị đánh đắm không ít. An phủ sứ
Bắc Giang Nguyễn Hy Chu bị Trương Phụ bắt, chửi Phụ là gian
ác, bị Phụ giết.
Vua tôi nhà Hồ cùng liêu thuộc và tàn quân chạy ra biển, rồi
vào Thanh Hoa, giữ Tây Đô.
Tháng 4 âl, Trương Phụ và Mộc Thạnh, Lý Bân đem quân kỵ
và quân bộ, phôi hỢp với quân thuỷ do Liễu Thăng và bọn phản
quốc Mạc Thuý chỉ huy tiến đánh Tây Đô. Ngày 23, quân Minh
đánh vào sông Lỗi Giang, dòng chính sông Mã, thuộc huyện c ẩ m
Thuỷ. Ngày 25, chúng đánh vào cửa biển Điền Canh, thuộc huyện
Tĩnh Gia. Quân thuỷ bỏ thuyền tự tan vở. Quý Ly và Hán Thương
chạy vào Nghệ An.
CH A CON HỌ H ổ BỊ BĂT - Phụ, Thạnh biết cha con Quý Ly chạy
vào vùng Nghệ, Tĩnh. Tháng 5 âl, đem đại quân vào đánh đuổi.
Chúng sai các tưóng lĩnh tung quân khắp nơi để lùng bắt. Ngày 5,
chúng đánh vào cửa biển Kỳ La thuộc Hà Tĩnh. Nguyễn Đại,
tưống nhà Hồ đã hàng Minh, bắt được tướng Quốc Tỳ (em Quý Ly)
và con là Nguyên Cửu. Ngày 11, giặc đánh Vĩnh Ninh, bọn Vương
Sài Hồ bắt được Quý Ly ở ghềnh Chầy Chẩy. Lý Bân bắt được
Nguyên Trừng ở cửa Kỳ La. Ngày 12, Nguyễn Như Khanh, bộ hạ
của Mạc Thuý, bắt được Hán Thương và thái tử Nhuê ở núi Cao
Vọng. Bọn Hồ Đỗ, Phạm Lục Hải, Nguyễn Ngạn Giang, Đoàn
Hồng cũng lần lượt bị bắt. Còn bọn Trần Nhật Chiêu, Nguyễn Phi
Khanh, Nguyễn cẩn, Đỗ Mãn đều hàng giặc. Hành khiển Ngô
Miễn và trực trưởng Kiều Biểu nhảy xuống nước chết. Vợ Miễn
Nguyễn thị cũng nhảy xuống nước chết theo chồng. Hồ Xạ, Đỗ
Xuân Giám chết tại trận. Lê cảnh Kỳ bị bắt không chịu ăn mà
chết. Bấy giờ là tháng 6 âl năm 1407.
Vua quan nhà Hồ bị bắt giải sang Kim Lăng. Quý Ly bị giam
ít lâu, sau phải đày ra Quảng Tây. Còn con cháu và tướng tá đều
khỏi tội. Hồ Nguyên Trừng tinh nghề chế binh khí, dâng phép chế
súng lên vua Minh nên được dùng.
Khi tiến quân sang nước ta, người Minh có sai Dương Tiến
Bảo và Lý Kỳ sang dụ vua Champa tấn công biên giới phía nam
nưóc ta. Vua Champa không hành động gì, chỉ khi nhà Hồ bị đánh
thua, quan quân ta ở Nam Ngãi rút về thì người Chăm nổi dậy
giết Ma Nô Dã Nan, giành lại đất cũ.
223
QUÂN MINH CHIẾM GIỮ ĐẤT N ư ớ c TA - Người Minh mưỢn
tiếng Phục Trần đem quân sang đánh nước ra điếu phạt nhà
Hồ, nhưng từ lâu vẫn muôn chiếm đất nưốc ta lập thành quận
huvện trực thuộc Trung Quô"c. Khi vào Đông Đô (Thăng Long)
đổi gọi là Đông Quan, chúng có treo bảng gọi con cháu vua
Trần là giả dôl. Biết th ế nên không ai chịu ra. Trương Phụ bắt
các quan lại và kỳ lão làm tò khai rằng: Con cháu nhà Trần
đều bị giặc Lê (Quý Ly) giết hết cả. mà An Nam vôn là đất
Giao Châu cũ, muôn trở lại làm quận huyện như xưa, cho dân
được đổi mới, theo vương hoá. Nhà Minh chia đất đặt quan cai
trị, chính sách tàn ngược, lại bắt dân ta phải theo phong tục và
cách ăn mặc của người Hoa. Chúng cướp của báu, tiền đồng,
thu nhặt đồ đồng cho trạm đưa về Kim Lăng. Lại bắt đàn bà
con gái, nhất là thợ thuyền khéo đưa cả về bắc quốc. Dân ta
phải chịu khổ cực hơn 20 năm.
LUẬN VỀ H ổ QUỶ LY - Quý Ly về phương diện văn hoá, có tư
tưởng về nho học khác vối Tống nho, mở khoa thi thì thêm món
toán pháp, là học giả tiến bộ. về chính trị, kinh tế, phát hành tiền
giấy, hạn chê sô" ruộng đất nhà giàu, đánh thuê thân nhiều ít theo
tài sản có được, đặt sở y tế, đóng chiến thuyền trên có sàn đi, dưới
có người chèo... kể ra không phải tầm thường, về võ bị thì tài kinh
luân thao lược chưa được cao lắm. Thời còn nhà Trần đi đánh
Champa không nổi thì sau làm sao chống chọi lại được với quân
nhà Minh.
Thế mà dục vọng quá lón, giết hại rất nhiều người để làm
sự thoán đoạt, rồi không giữ nổi cơ đồ, khiến dân ta lại sa vào
vòng bắc thuộc. Làm tôi nhà Trần lại cướp ngôi nhà Trần là tội
riêng đôi với một dòng họ. Đôi với dân tộc, Quý Ly để quô"c gia
sa vào ách thông trị tàn ngược của người nhà Minh là tội trạng
quá lớn.

Có ngưòi chê Quý Ly chỉ dùng trưòng trận, không biết dùng
đoản binh. Xét Quý Ly đã biết dùng kế thanh dã (vườn không nhà
trôbg), đóng cọc dưối lòng sông ngăn giặc... không thê không biết tô
chức những đội dân quân du kích. Nhưng đã không dám tạo nên
loại quân đội có thể biến thành lực lượng chông đôd chính quyền.
Vả lại những toán quân nhẹ nhàng, lanh lợi, khi xuất hiện, chỉ có
thê quấy rối, tiêu hao phần nào địch, giúp đỡ quân đội chính quy
chứ không diệt được giặc.
224
KỶ HẬU TRẦN
Quân Minh sang đánh nước ta, diệt nhà Hồ, đặt nền đô hộ.
Kẻ tiểu nhân bèn xô ra làm quan với giặc. Nhân sĩ biết giữ liêm sỉ
như Bùi Ung Đẩu, Lê Tư cầu, trốh tránh không chịu theo. Nhân
dân ta không phục quân cưốp nước. Các hào kiệt lãnh đạo quần
chúng khởi nghĩa chôLg đốì ngay từ mùa thu năm 1407.
Con cháu nhà Trần còn có anh tài nổi dậy mưu khôi phục độc
lập nưốc nhà. Ngoài Trần Nguyệt Hồ, Trần Quỹ, Trần Quý
Khoách còn có Trần Nguyên Thôi, năm 1408, dấy quân ở châu
Tam Đái, Trần Nguyên Khang ở châu Thái Nguyên. Nguyên Khôi
và Nguyên Khang hoạt động trong phạm vi không lốn lắm, lại
không cầm cự được lâu dài nên ít được sử sách nói đến. Trần Quỹ,
Trần Quý Khoách có xưng đế, đặt niên hiệu, quốc sử chép là nhà
Hậu Trần, kê ra có vẻ gượng gạo, thực sự chỉ là những tướng chỉ
huy nghĩa quân chông lại quân nhà Minh.

(ỈIẢN ĐỊNH ĐÊ TRẤN QUỸ


N iên hiệu: Hưng Khánh 1407 - 1409

Giản Định vương Trần Quỹ (có sách chép Ngỗi?) là con
thứ vua Nghệ Tông, lẩn lút ở Mô Độ (bến Yên Mô, Ninh Bình),
biết việc Trương Phụ yết bảng gọi con cháu nhà Trần là giả dối
nên không chịu ra. Có thuyết ông đã ra nhận nhưng thấy thái độ
của Trương Phụ đáng ngờ nên bỏ trổn cùng với Trần Hy Cát.
Tháng 10 âl năm 1407, cô Trần Thiện Cơ, người Thiên Trường,
xin lập danh hiệu cũ. Trần Quỹ xưng là Giản Định hoàng đế, đặt niên
hiệu Hưng Khánh. Quân Minh đến đánh. Quân sĩ mối chiêu tập
không địch lại nổi, phải thua chạy vào Nghệ An. Đại tri châu Hoá
Đặng Tất, quan cũ nhà Trần, giết quan nhà Minh, cùng tuỳ tướng
Nguyễn Cảnh Chân, dẫn quân sĩ đến họp, mưu việc khởi nghĩa. Giản
Định phong Tất hàm quốc công, cùng nhau mưu việc lớn. Tất và cảnh
Chân trở thành thủ hnh chủ chốt của nghĩa quân.
Cũng năm 1407, có Trần Nguyệt Hồ nổi dậy ở Bình Than,
được thổ hào Đông Triều Phạm Chấn giúp đỡ, gọi là Trung Nghĩa
quân. Quân Minh đến đánh. Trần Nguyệt Hồ bị bắt giết. Phạm
Chấn chạy trốn. Giản Định sai Trần Nguyên Tôn, Trần Dương
Đính, Trần Ngạn Chiêu đến cùng với Phạm Chấn thu nhặt tàn
quân lại đến đóng ở Bình Than. Quân Minh lại đến đánh tan rã.
225
Các thủ lĩnh bèn cùng nhau kéo quân về cả Nghệ An, dưới cò Giản
Định, Nghĩa quân đã tập hỢp được lực lượng khá lớn. Đầu năm
1408, Trương Phụ đem nhiều quân đến đàn áp. Nghĩa quân p h ả i
rút lui vào Hoá Châu. Phụ dùng thổ hào Phạm Thế Căng làm tri
châu Tân Bình, rồi trở ra Đông Quan.
Tháng 4 âl, nghĩa quân trỏ ra tiến đánh lấy Nghệ An, Thanh
Hoa. Lũ Trần Thúc Dao giữ Diễn Châu, Trần Nhật Chiêu giữ
Nghệ An, nhận quan chức nhà Minh, không ngả theo, bị bắt giết
cùng gia quyến và thuộc hạ hơn 600 người. Giản Định tàn ác,
đáng chỉ giết ít người cầm đầu thôi.
Tháng 6 âl, Đặng Tất đánh phá được hàng tưóng Phạm Thế
Căng ở cửa Nhật Lệ, bắt được Thế Căng giết đi.
Nghĩa quân đã làm chủ được khu vực rộng lớn, suốt từ
Thanh Hoa trở vào. Nhân dân các nơi hưởng ứng, đua nhau theo
về càng ngày càng đông. Quan nhà Minh, giả nhân giả nghĩa để
mua chuộc lòng dân, tha hết những người nổi dậy bị bắt, nói là thể
theo lòng chí nhân của vua Minh, không nỡ trị tội những kẻ ngu
dốt, bị dụ dỗ hay ép buộc theo quân phiến loạn.
TRẬN BÔ CÔ - QUỐC CÔNG ĐẶNG TẤT ĐẠI PHÁ QUÂN M INH -
Nghĩa quân thắng lớn, quan nhà Minh ở Đông Quan cáo cấp về
triều. Vua Minh sai Mộc Thạnh đem 4 vạn quân từ Vân Nam tiến
sang. Đồng thời sai sứ mang sắc chiêu hàng, nếu thuận theo thì
cho làm quan đòi đòi. Có thể rằng dụ Giản Định nộp đất nưóc ta
vào bản đồ Trung Quốc, giữ chức quan to phụ tá cho quan người
Hoa, đặc biệt được thế tập. Giản Định không chịu.
Mộc Thạnh đến Đông Quan, hỢp quân với đô tỳ Lữ Nghị,
cộng 6 vạn quân nam tiến đánh quân Trần.
Bấy giờ, Giản Định, Tất và cảnh Chân điều động quân sĩ các
lộ Thuận Hoá, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hoa, bắc
tiến mưu khôi phục Đông Đô. Công cuộc tiến quân gặp được nhiều
thuận lợi qua Trường Yên (Ninh Bình), quan cũ và hào kiệt hưởng
ứng theo nhiều. Tất chọn những người tài năng bổ dụng. Lòng
người phấn chấn. Thế quân mạnh mẽ.
Đạo nghĩa quân nghiêm chỉnh tiến ra, chợt có tin báo quân
Mộc Thạnh kéo xuống, bèn dàn quân ở Bô Cô chống giặc. (Bô Cô
nay là xã cầu cổ huyện Phong Doanh, Nam Định, bên kia bến đò
tỉnh lỵ Ninh Bình), sử chép sông này là sông Thanh Quyết. Quân
Trần đóng cọc giữa sông và đắp luỹ hai bên bờ sông. Quân đôi bên
gặp nhau giữa buổi nước triều lên và gió thổi mạnh. Chiến trận vô
226
cùng kịch liệt diễn ra. Giản Định tự tay cầm dùi trông, tưóng tá sĩ
tôt hết sức hăng hái xung đột từ giò Tỵ đến giờ Thân (9 đến 16
giò). Quân Minh đại bại. Đô ty Lữ Nghị, thượng thư Lưu Tuy (hay
Tuấn) và nhiều tướng tá Minh chết tại trận. Binh sĩ Minh chết
vãn. (ĐVSKTT chép 10 vạn, e có quá đáng). Mộc Thạnh đem được
ít tàn quân chạy thoát được về thành cổ Lộng, thành quân Minh
mối xây ở xã Bình Cách, huyện Ý Yên, Nam Định. Trận này diễn
ra ngày 14 - 12 âl. Minh sử thừa nhận Mộc Thạnh có thua to ở
sông Thanh Quyết.

B ả n đ ồ q u â n H ậu T rần ch ốn g q u a n q u â n M in h
c h iế m đ ó n g l4 0 7 -1 4 1 3 đ ê xem vị trí c á c nơi có ch iến trận
227
Giản Định muốn thừa thắng, tiến quân lên đánh lấy lại Đông
Đô ngay. Đặng Tất ngăn lại, muổh bắt hết bọn giặc sông sót,
không để lo ngại về sau. Vua tôi tính dùng dằng không quả quyết.
Quân Minh ở Đông Quan kéo đến giải thoát Mộc Thạnh. Tất chia
quân vây các thành ở châu, p h ủ , đưa tờ hịch đi các lộ hội hỢp binh
sĩ tính việc đánh quân Minh.
Phê bình sự việc này, các sử gia ý kiến khác nhau. Nhiều
người cho rằng đã để mất cơ hội tôt lúc thê đang hăng và giặc
trong lúc không ngờ, có thể khôi phục kinh đô cũ. Người khác cho
rằng Tất thận trọng cũng phải: Nơi trung tâm giặc đóng quân, dễ
gì đánh thắng ngay được. Xét tiến công sớm ngay thì may có thê
thắng được nhưng không phải là chắc chắn được. Nhưng thế quân
Trần bấy giờ đáng phải nên táo bạo cầu may. Do sự không đồng ý
trong việc tiến quân này nên vua tôi không được hoà thuận.
LẦM LỖI CỦA GIẢN ĐỊNH - Tháng 2 âl năm 1409, Giản Định
đóng quân ở Hoàng Giang. Có vài người tâu Tất và cản h Chân
chuyên quyền, bổ dụng người này, cất nhắc người kia, nếu không
tính sớm, sau này khó lòng kiềm chê được. Giản Định cho gọi hai
ông đến, đem giết đi.
Giản Định tàn ác lại ngu dốt, giết hại người có công lớn và lỗi
nhỏ, tự mình chặt chân tay mình. Do vụ này, có tưống bỏ đi, nhiều
hào kiệt đang sẵn đến phò tá, thấy thê lại thôi. Các toán quân nổi
dậy chống đối nhỏ e ngại không muốn hỢp tác. Cuộc khởi nghĩa
đang phát triển mạnh mẽ thì bị ngưng lại.
Có sử gia phê bình Giản Định vô tài bất đức, tuy có nặng nề
nhưng không phải là sai. Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân là quan
cũ nhà Trần, từng theo nhà Hồ, rồi lại theo giặc Minh nhưng sau
biết cải tà quy chính, giết quan nhà Minh về với Giản Định khởi
nghĩa, lập nhiều công lớn, chỉ vì tự chuyên, làm việc không thỉnh ý
vua, bị giết oan uổng, tình rất đáng thương.

TRÙNG QUANG ĐẾ TRẦN QUÝ KHOÁCH


N iên hiệu: Trùng Quang 1409 - 1413.

Đặng Tất và Nguyễn cảnh Chân bị giết. Các con hai ông là
Đặng Dung và Nguyễn cảnh Dị đem quân bản bộ vào Thanh Hoa,
đón Trần Quý Khoách đến Nghệ An, lập làm vua. Quý Khoách là
con Mẫn vương Ngạc, cháu Nghệ Tông, tháng 3 âl năm 1409, lên
ngôi ở huyện Chi An nay là huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh, dùng
228
Nguyễn Suý làm thái phó, Nguyễn Cảnh Dị làm thái bảo, Đặng
Dung làm bình chương sự, Nguyễn Chương làm tư đồ, cùng nhau
chiến đấu chống quan quân nhà Minh.
Bấy giờ, Giản Định đóng quân ở thành Ngự Thiên huyện
Hưng Nhân, Thái Bình ngày nay. Trùng Quang (Quý Khoách) sai
Nguyễn Suý hỢp quân đánh lừa bắt được, đưa về Nghệ An. Trùng
Quang ra đón rước, tôn làm thái thượng hoàng, cùng mưu việc
phục quôc. Đây là hành động sáng suốt, thống nhất nghĩa quân
thành một khôi mạnh mẽ. Không hiểu ý tốt ấy, tháng 4 âl, Lê
Triệt và Lê Nguyên Dĩnh, tuỳ tướng của Giản Định, dấy quân
mưu đánh ú p Trùng Quang, bị Trùng Quang bắt được, đem giết
đi, binh sĩ thì tha.
Quân Trần đã làm chủ được từ Thiên Trường, Trường Yên
trở vào hoạt động mạnh mẽ, tiếp tục bắc tiến. Giản Định đóng
quân ở Hạ Hồng, Ninh Giang. Trùng Quang ở Bình Than. Thanh
thê nổi lốn. Hào kiệt các nơi hưởng ứng, uy hiếp Đông Quan. Quan
quân Minh đóng cửa thành cô" thủ, chò viện binh. Sau trận thua ở
Bô Cô, Mộc Thạnh cáo cấp về triều xin cứu viện binh lương.
Các năm 1408, 1409, song song vói Giản Định, Trùng Quang,
tại nhiều nơi ở Bắc Việt, có những toán nghĩa quân cùng nổi dậy.
Đáng kê hơn có cả Hoàng Cứ Liêm ở Quảng Oai, Hoàng Thiêm
Hữu và Ong Nguyện ở phủ Lạng Giang. Lại có tưống Nguyễn Sư
Coì ở Nghi Dương, Kiến An xưng vương, dưói trưóng có tướng Đỗ
Nguyên Thô" cùng hai vạn quân, lực lượng hùng hậu.
Mùa thu năm 1409, Trương Phụ và Vương Hữu đem 47 ngàn
quân sang cứu viện. Phụ phốĩ hỢp với quân Thạnh tấn công vũ
bão càn quét các đám nghĩa quân ở vùng Từ Liêm và Quảng Oai,
rồi đánh xuống miền dưới, chiếm trở lại nhiều thành trì.
Tháng 7 âl, Giản Định ở Hạ Hồng bị đại quân Minh hung dữ đến
đánh. Giản Định thua, bỏ thuyền, dẫn quân bộ chạy vào Diễn Châu.
Đặng Dung giữ cửa Hàm Tử, lực lượng có 2 vạn quân, 600
thuyền. Quân đội thiếu lương ăn, phải gặt lúa non. Tháng 8 âl,
Phụ đem thuỷ sư đến đánh mạnh. Các tướng Minh Trần Húc, Chu
Quảng, Dư Nhượng, Phương Chính, binh thuyền cùng tiến. Quân
Dung kịch liệt chông cự. Giặc khó nhọc nhiều mối thắng, giết
3.000 quân, bắt sông 200, cướp 400 thuyền.
Hàm Tử thất thủ. Trùng Quang thê không giữ nổi miền bắc,
rút quân vào Nghệ An. Quân Minh thu hồi các đồn trại vùng
trung châu bắc Việt, đặt quan chức cai trị. Trương Phụ phong
229
quan cho những người chiêu dụ được dân theo chúng, đi đến đâu
cũng giết hại quân dân, làm những điều tàn bạo dã man ghê gớm,
sắp xác người thành núi, rút ruột người treo lên cây, rán thịt
người lấy mỡ, mổ bụng đàn bà chửa.
Tháng 10 âl, Phụ, Thạnh đem đại binh thuỷ lục vào đánh
Thanh Hoa. Các tưống Đặng Dung, Nguyễn Suý, Hồ Bôl,
Nguyễn Cảnh Dị chông cự kịch liệt nhưng không lại, phải thua
chạy cả.
Bấy giò, Giản Định ở Diễn Châu bí mật dẫn quân đi đường
rừng núi định ra Thiên Quan (Ninh Bình), nơi đó có nghĩa quân
nằm vùng, mưu sự chông lại địch. Phụ biết được, cô" tình truy tìm
bắt cho kỳ được, chia 24.000 quân làm ba đạo, tự mình giữ một;
Thạnh đạo thứ hai; đô đôíc Chu Vinh và chỉ huy La Vân, đạo thứ
ba. Chúng bủa quân đi khắp nơi tìm bắt Giản Định, không ngại
rừng sâu. Tháng 11 âl, Phụ bắt được Giản Định và các tướng văn
võ Trần Hy Cát, Nguyễn Nhữ Lê, Nguyễn Án ở huyện Mỹ Lương,
giáp giới Sơn Tây và phủ Nho Quan. Chúng đã vừa dụ dỗ, vừa đe
doạ, lại mua chuộc bằng tiền bạc dân bản địa người Mường để
được chỉ dẫn nơi vua tôi Giản Định ẩn náu.
Phụ nói là đem Giản Định giải vê Kim Lăng nhưng sai người
giết ngầm đi. Bấy giò là tháng 11 âl năm 1409.
Giản Định đế Trần Quỹ (Ngỗi) có được khí phách, tài không
cao lắm, đức kém, tàn ác lại thiếu sáng suốt, nhưng chết thảm,
tình có phần nào đáng thương.
Giản Định bị bắt rồi, Trùng Quang còn giữ được Nghệ An,
Diễn Châu trở vào. Phụ không tiến đánh ngay, do tình hình ngoài
bắc không yên.
Vắng bóng Phụ, Thạnh, nhiều đám nghĩa quân hoạt động trở
lại ngay cả cạnh nách Đông Quan... Phụ ra chia binh tuần tiễu các
hạt nghiêm ngặt, đóng thêm nhiều đồn trại.
Tháng 1 âl năm 1410, Phụ dùng đại binh tiến đánh quân
Nguyễn Sư Cốĩ và Nguyên Thô" ở Đông Triều, thế hung dữ. Nghĩa
quân chông chọi mạnh nhưng không lại với quân Minh thiện
chiến. 4.500 binh sĩ bị giết. Các tưống Phạm Chí, Trần Nguyên
Khánh, Nguyễn Huân Trụ, cùng 2.000 binh sĩ bị bắt sông. Phụ
đem chém cả, rồi đắp mộ chung.
Bên Trung Quôé có người Thát Đát nổi dậy. Vua Minh triệu Phụ
về nước. Thời cơ thuận tiện cho nghĩa quân Trùng Quang hoạt động
mạnh mẽ trở lại. Tháng 5 âl, Trùng Quang đưa bọn cảnh Dị tiến quân
230
ra bắc, đến bên La Châu Hồng, phá được quân của đô đốc Giang Hạo,
thừa thắng kéo quân đên Bình Than, đôt phá gần hết thuyền trại của
quân Minh. Các hào kiệt nghe tin đều hưởng ứng. Đồng Mạc ở Thanh
Hoa, tự xưng là Lỗ Lược tưóng quân, chiêu tập quân nghĩa dũng, đánh
giết được nhiều giặc, bắt được chỉ huy Tả Dịch; Vương Tuyên (Đán) thế
cùng, tự vẫn. Trùng Quang phong Mạc làm thủ quản Thanh Hoa. Lại
có Nguyễn Ngân Hà cũng là người giỏi trong đám hào kiệt.
Các toán nghĩa quân nhỏ quanh thành Đông Quan, năm
trước xẹp đi, lại dấy lên. Lê Nhị ở Thanh Oai giết cha con đô ty Lữ
Vượng, chiếm giữ Từ Liêm. Lê Khang, Đỗ Cốĩ, Nguyễn Hiệu cũng
đem quân chông giặc dẻo dai. Do không thống nhất chỉ huy, liên
lạc vối nhau hay với Trùng Quang không chặt chẽ nên không lập
được chiến công lớn. Quân Minh kéo đến đánh thì tan chạy, rồi
khi giặc rút, lại tập hỢp trở lại.
Đại quân Trùng Quang đóng ở Bình Than. Mộc Thạnh tiết sứ
đem quân đến đánh, đều bị đẩy lui. Nhưng Thạnh không thể để
yên quân Trần đóng ngay gần Đông Quan được nên cố tình đi
đánh mãi. Trùng Quang bị quấy rôi nhiều, đành phải rút quân về
miền trong. Quân Thạnh đuổi theo đến Ngu Giang, bắt mất tưống
Lê Long và nhiều binh sĩ.
Quan quân nhà Minh rất khô tâm về các toán nghĩa quân
nhỏ hoạt động khắp nơi, bình được chỗ này thì chỗ khác nổi dậy.
Đi đánh luôn, khó nhọc nhiều mà không sao bình định được.
Chúng bèn đổi phương pháp, dùng người Việt trị người Việt,
thưởng quan cho các người đánh bắt được bọn phiến loạn và cả cho
những ai chiêu dụ được loạn quân về hàng. Tự ý về hàng không bị
trách phạt, lại còn được ban thưởng. Minh Thành Tổ lại giả nhân
giả nghĩa hạ chiếu tha tội cho những quân sĩ ta bị bắt, chỉ trị tội
những người cầm đầu, ban sắc chỉ thưởng công cho lũ phản quốc,
khen ngợi chúng, hứa cho ăn lộc lâu dài.
Nhưng người nưóc ta chẳng mấy ai nghe theo. Quân lính
Minh ngơi tay thì nghĩa quân lại hoạt động ráo riết. Chẳng đâu
được yên ổn. Bọn Mộc Thạnh mệt mỏi, bất lực, lại cáo cấp về triều,
xin Trương Phụ đem nhiều quân sang đối phó tình thê khó khăn.
Tháng 6 âl năm 1411, Trương Phụ lại đem 24.000 quân sang.
Phụ, Thạnh chia quân mở những cuộc tuần tiễu, đàn áp các quân
nghĩa dũng khắp nơi miền trung châu. Qua mùa thu, Phụ, Thạnh
đem đại quân vào đánh Thanh Hoa. Lần này, quân Trần phòng thủ
cẩn mật, đóng cọc hơn 40 trướng sông Nguyệt Thường (khúc sông
231
Mã phía dưói Hàm Rồng), dựng rào hai bên bò: 3 dặm, bày hơn 300
thuyền. Các tướng Suý, Bôi, cảnh Dị, Dung cùng quân sĩ hăng hái
cự địch nhưng không lại với lũ Chu Quảng, Phương Chính, thế hung
dữ. Quân Trần thua, tan vỡ, các tướng Đặng Tông Tắc, Lê Khắc Di,
Nguyễn Trung, Nguyễn Hiệu bị giặc bắt vối 120 thuyền.
Trong klỊíi địch tập trung lực lượng vào miền trung thì nghĩa
quân Lê Nhị, Phạm Khang đánh mạnh ngay vào quanh thành
Đông Quan, phá cầu phao sông Nhuệ, chiếm giữ miền Thạch
Thất, Sơn Tây, Phúc Yên, Thường Tín. Nông Văn Lịch hoạt động
giữ đất Lạng Giang, chẹn đường người Minh về nưốc. Nguyễn
Liêu chiêu tập người các huyện Lục Na, Vũ Lê (Bắc Giang) đánh
cướp quân Minh, ơ Tuyên Hoá (Định Hoá, Thái Nguyên) và Lạng
Châu, Ông Lão và các toán quân Áo Đỏ tiếp tục hoạt động. Phong
trào lên mạnh, cứ đà này chẳng mấy lúc tràn ra khắp nước. Phụ,
Thạnh, vội vã rút quân về Đông Quan, mưu bình định xứ sở.
Phụ đánh mạnh vào quân của Nhị, Khang. Nhị bị trúng tên
chết. Tướng Nguyễn Đà bị chém, Dương Nhữ Mai, Phùng Hấp bị
bắt. 1.500 binh sĩ tử trận. Khảng cùng các tướng Đỗ Cả Đán,
Nguyễn Tư Châm cũng đều bị bắt. Phụ bảo vệ được thành Đông
Quan, ổn định miền ngoại vi nhưng không sao dẹp yên được
những đám xa xôi, một phần vì nghĩa quân có tai mắt tại Đông
Quan, biết ngay được khi giặc sắp sửa tiến quân, bỏ chạy vào rừng
sâu. Chúng đến nơi chẳng bắt được gì.
Khi mới lên ngôi, Trùng Quang sai Trần Nguyên Nhật và Lê
Ngân sang sứ nhà Minh xin phong. Minh Thành Tổ bắt giam cả
sứ giả, rồi giết đi. Năm 1411, lại sai Hồ Ngạn Thần và Bùi Đột
Ngồn mang sản vật địa phương cùng hình người vàng và bạc đến
Kim Lăng cầu phong lần nữa. Vua Minh giả dối phong Trùng
Quang làm bô" chánh sứ Giao Chỉ và quan tước cho mấy tướng
nhưng một mặt sai Trương Phụ cứ đánh.
Mùa thu năm 1411, khi Phụ, Thạnh ròi Thanh Hoa ra bắc,
Trùng Quang và bọn Nguyễn Suý chia đường tiến ra cửa biển, bắt
giết thô quan Nguyễn Chính ở Bãi Lâm, đánh lấy lại các thành trì
Thanh Hoa và các huyện bò biển vùng này. Sang năm 1412, lợi
dụng lúc quân Minh phân tán đi đánh quân nghĩa dũng các nơi,
Trùng Quang và các tưống tiến ra bắc, lấy lại Trường Yên, Thiên
Quan, đóng quân ở Mô Độ.
Phụ là tướng giỏi, nhiều mưu trí, không những chỉ quen
đánh trường trận, lại dùng nhiều phương pháp c ố ý diệt trừ cho
232
bằng được mọi đoàn nghĩa quân lớn nhỏ. Sau vụ mạc thuý đột
nhập vùng đất Nông Văn Lịch bị trúng tên, người bản xứ không ai
chịu đi tiễu phạt nữa. Phụ không quản ngại khó nhọc, kiên trì đánh
mãi. Mỗi khi đi đánh một toán dù nhỏ, cũng dùng nhiều quân, đem
đi bủa vây rộng rãi, rồi thu hẹp vòng vây lại, lùng bắt cho được người
trôn tránh. Một hai lần không xong thì tiếp tục nhiều lần nữa. Dù
mất nhiều công sức và thòi gian, vẫn không chịu bỏ. Vì thế, các toán
quân nghĩa dũng tan dần, khó tập hỢp trở lại.
Tháng 6 âl năm 1412, bớt lo lắng về tình hình bất ổn ngoài
bắc, Phụ, Thạnh lại tiến quân đánh quân Trần. Đến Trường Yên,
gặp quân Nguyễn Suý, Nguyễn cảnh Dị, Đặng Dung ở Mô Độ.
Trận giao chiến dữ dội diễn ra. Dung cố liều chết cự nhau với Phụ,
rất hăng hái,- Thê quân Minh lốn mạnh hơn quân ta nhiều, giặc
đằng sau cứ tiến mãi. Trong khi Dung cự nhau với Phụ, chưa
phân đưỢc thua, quân Minh ồ ạt kéo đến càng đông. Suý và cảnh
Dị chạy ra biến. Dung cô quân không viện, phải dùng thuyền nhỏ
trốn chạy. Quân Trần trong trận này bị thiệt hại nhiều.
Phụ, Thạnh có thắng nhưng vì không có được dồi dào lương
thục nên chưa đánh ngay vào miền trong. Người Minh rất lưu
tâm đến vấn đề lương thực. Do thu thóc không được nhiều của
dân ta, vua Minh sai tổng binh Hàn Quan vận tải 5 vạn hộc
lương sang tiếp tế cho quân, lại hạ chiếu phủ dụ dân ta: Giao
Chỉ là đất cũ Trung Quốc, nay trở về như xưa. Người Giao Chỉ
được giáo dục theo vương hoá (như thực dân thế kỷ XIX, XX, nói
dìu dắt lên đường vàn minh). Thực tế người Minh không những
chỉ chiếm đất nước ta, còn muôn dân ta theo phong tục và y
phục người Hoa, tức Hán hoá.
Phụ sai các lộ đóng nhiều chiến thuyền. Cuối năm 1412, có
được đủ lương thực và phương tiện vận tải, giặc lại vào miền trung
lần lượt đánh chiếm Thanh Hoa, Nghệ An, Diễn Châu. Vua tôi
Trùng Quang phải chạy vào Tân Bình, Thuận Hoá đóng quân.
Phụ có thói quen đi đánh thành nào, nếu quân đội chịu hàng
ngay thì đôi đãi tử tế, khen thưởng, cho ăn uống, cấp tiền bạc; nếu
chông cự lại bị thua thì chém chết đến người cuối cùng, lại còn
hành hạ cả xác chết nữa. Nên khi chúng đánh vào Thanh, Nghệ,
quân Trần Liệu không địch lại nổi, mà hàng thì không chịu nên
sớm bỏ chạy vào xa. Đến khi giặc ra đi, chỉ để lại không nhiều
quân giữ thành mới chiếm thì trở về đánh lấy lại, cho nên có việc
nhiều thành quách mất đi lấy lại mấy lần.
233
Ngoài bắc, vắng bóng Phụ, phong trào chống đôl từng xẹp
đi, lại trỗi dậy nữa. Phụ phải trở ra đôi phó vối tình thế. Rất
bực tức với những đám đoản binh bất trị này, từng dùng mấy
phương pháp đều vô hiệu, Phụ cô" tình kiên trì đánh mãi, tiêu
diệt cho bằng được. Giặc ra lệnh cho các làng xã, khi có loạn
qu ân tới hay đi qua, phải phi báo ngay, sẽ được khen thưởng;
không trình báo sẽ bị nghiêm trị. Phụ từng làm cỏ nhiều làng
xóm (giết hết già trẻ, trai gái) chứa chấp nghĩa quân. Thế mà
nhân dân vẫn không chịu bỏ quân nghĩa dũng, lâm sự bỏ chạy
trôn mà thôi.
Phụ đánh mãi, ráo riết quá. Phụ đạo Đại Từ Thái Nguyên
Nguyễn Nhuệ nôi quân, đi về núi Tam Đảo, bị Phụ bắt giết. Lưu
Bổng ở Quảng Oai, từng khiến quân Minh phải khó nhọc nhiều,
cũng không cầm cự được lâu dài. Nông Văn Lịch, lừng lẫy một thời
ở Lạng Giang, vì không đứng đắn, bị thủ hạ giết. Quân sĩ không
người tài giỏi cầm đầu, tự giải tán. Nguyễn Liêu ở Bắc Giang,
trước vẫn liên lạc với Trùng Quang, bị tham chính Nguyễn Huân
lừa, xin kết thông gia, dụ đến, đem giết chết. Duy chỉ còn những
toán quân Ao Đỏ, người miền núi, vẫn cầm cự dai dắng, khi ẩn khi
hiện, thường nấp trong rừng sâu, sau theo giúp Bình Định vương
phục quôc.
Sau trận Mô Độ, lực lượng quân Trần sút kém. Trùng
Quang muốn gây lại uy tín vối quần chúng nhân dân, đầu năm
1413, theo lời nghĩa quân ẩn náu ở miền bắc đợi thời, nhân lúc
đại nhân quân Minh chiếm giữ Thanh Nghệ, đem quân ra bắc,
đóng ở Vân Đồn, thu thập lại những tàn quân của Nguyễn Sĩ
Côi, Nguyễn Liêu... cùng nhau cô" gắng đánh chiếm lấy mấy
thành trì, quản trị được khu đất rộng. Nhưng sô" quân đưa ra
không nhiều, sô" chiến sĩ nhặt nhạnh lại được không lớn, mà
đồn trại giặc đóng được canh giữ nghiêm ngặt. Thê chưa mở
cuộc tấn công được ngay. Trong khi còn đang trù trừ, lại được
tin quân Minh đánh vào phía nam, uy hiếp châu Hoan. Trùng
Quang cùng các tướng đành phải bỏ cuộc, chỉ đi tuần tiễu các
vùng Hải Đông, Quảng Yên, Đông Triều, các bãi biển, đánh
vào các đồn lính thú lẻ tẻ người Minh đóng giữ, cướp lấy lương
thực, rồi vội vã đem quân trở về giữ cơ sở.
Tháng 3 âl, quân Trần chiến thắng quân Minh, lấy lại thành
Nghệ An. Thành này mất đi chiếm lại nhiều lần. Giữ được một
tháng Phụ lại tiến đánh. Quân Trần không còn mạnh mẽ gì lắm,
234
phải lui chạy vào Hoá Châu. Thiếu bảo Phan Quý Hựu'*^ hàng
giặc, đem thuộc hạ 17 người tìm đến yết kiến Phụ. Phụ cho Quý
Hựu làm án sát sứ giữ Nghệ An. Được mươi ngày, Quý Hựu ô"m
chết. Phụ cho người con là Liêu làm tri châu. Liêu đem hết tình
hình quân sự, tướng văn tướng võ, giỏi kém thế nào, kể rõ cho Phụ
biết. Phụ quyết đánh vào Hoá Châu.
Tướng Minh Phương Chính đánh bại thuỷ quân Trần ở cửa
biển Thần Đầu. Các tướng Trần Lỗi và Đặng Nhữ Hy bị giặc bắt.
Nguyễn Suý chạy thoát được.
Vào Hoá Châu, Trùng Quang kiểm điểm lại quân đội, thấy sa
sút quá nhiều, thê không còn có thê chông đối bằng trường trận
được nữa, sai Nguyễn Biểu đi sứ, mang sản vật địa phương ra
Nghệ An dâng Phụ, xin phong. Biểu người Bình Hồ, Hà Tình, đỗ
thái học sinh, Phụ bắt giữ Biểu lại. Biểu tức mình luôn mồm chửi
mắng Phụ là giặc cưóp tàn ngược, bị Phụ giết.
Tháng 6 âl, Phụ, Thạnh đem thuỷ lục quân cùng nam tiến,
lần lượt đánh chiếm các đồn binh ở cửa biển, bắt đầu từ của Nhật
Lệ (Đông Hải, Quảng Bình).
Tháng 9 âl, giặc tiến vào Thuận Châu, bắc Quảng Trị. Quân
Trần do các tướng Dung và Suý chỉ huy, giữ sông Thái Già, tức
sông Ái Tử, đặt phục binh mà giữ hiểm ở núi Côn Truyền, bày
trận voi đón đánh địch. Dung ban đêm đánh úp vào dinh của Phụ.
Quân sĩ đôi bên cầm cự nhau kịch liệt trên sông. Dung đã nhảy
được vào thuyền Phụ, muốn bắt sông Phụ mà không nhận ra
người, do đêm tối, ánh đèn không rõ. Phụ vội vàng sang thuyền
nhỏ trôn thoát. Giặc thua, nhiều thuyền ghe bị đốt. Khi ấy quân
của Suý chưa kịp tiếp ứng ngay để hỢp sức mà đánh. Phụ thấy
quân Dung ít, quay quân đánh quật trở lại. Dung thua trận, quân
tan vỡ, bỏ chạy. Trận này quân Trần bị thiệt hại lớn, nhiều tướng
tá bị giặc bắt.
Bị thua trận liên tiếp, lực lượng quân Trần hao mòn nhiều,
không chông chọi lại nổi với giặc mạnh, vua tôi bàn nhau chỉ còn
cách hành thích giết được Phụ, hoạ chăng mới xoay ngược lại được

'*’ Phan Quý Hựu xưa làm trấn thủ dưới triều Trần. Hậu Trần dấy quân, Hựu mưu hoạch
giúp, được phong chức thiếu bảo. Con là Liêu nhận chức quan nhà Minh. Sau thấy quân
Minh gập khó khăn do Bình Định vưcmg khới nghĩa, có ý muốn xưng bá đổ vương, giở giáo
chông lại quản Minh, hên lạc với thiên hộ Trần Đài, chiếm giữ miền thượng du Hà Tĩnh
Nghệ An, được một năm. Sau bị đánh thua, chạy ra Tlianh Hoa, theo phò Bình Định vưcmg.
Chung cuộc bị giết như mấy công thần khác. Đọc ,sử đến chỗ công thần bị hại. ai cũng
thương cảm. Duy trường hợp Liêu thì cho là đáng đời đứa phản trắc quá quắt.

235
tình thế. Tháng 10 âl, Phụ đem chu sư vào vào đánh Hoá Châu, đô
đốc Hoàng Trung đi tiên phong. Suý sai thích khách đội cỏ, thuận
theo dòng nưóc xuống đến thuyền của Phụ. Phụ biết, bắt được,
đem chém. Hôm sau, Hoàng Trung bàn việc, không hỢp ý Phụ,
Phụ giận, kể tội không cẩn mật, đem Trung ra chém.
Mưu sát Phụ thất bại, thê quá yếu, không còn cách gì đánh
lại quân Minh, vua tôi đành chịu bỏ mảnh đất cuối cùng, ra lệnh
g^ải tán quân đội, tìm ẩn náu nơi núi cao rừng rậm xa xăm, đợi
thời cơ may chăng có đến. Nhiều binh sĩ vẫn tòng vong, chịu gian
khổ. Quan chức và các người lánh nạn vào Hoá Châu theo Trùng
Quang trước đây bỏ đi, người sang Champa, người sang Lào.
Phụ đem quân vào Hoá Châu, không gặp sự chống đôl nào.
Công cuộc đáng kể là xong. Nhưng Phụ cô tình bắt quân sĩ bủa đi
khắp nơi, lùng bắt cho được vua tôi Trùng Quang, không quản khó
nhọc trèo núi, băng rừng, vượt sông, đi vào dãy Trường Sơn, sang
cả đất Lào. Lại dụ dỗ, doạ nạt và mua chuộc các thổ dân để chúng
chỉ bảo nơi trú ẩn của người đi trốn. Trong rừng sâu, lôi đi chật
hẹp, thường vướng cành cây có gai, bản thân Phụ xuống ngựa, đi
bộ. Tướng còn thế, quân đâu dám ngại khổ.
Mùa xuân năm 1414, Phụ và Phương Chính theo đuôi đi
sâu vào đất Lào, bắt được Nguyễn cảnh Dị, Đặng Dung và em
Dung là Doãn, cảnh Dị chỉ mặt Phụ, luôn mồm chửi mắng. Phụ
giận, mổ bụng lấy gan án. Nơi đây là sách Chu Bồ Cán, thượng
lưu sông Gianh.
Biệt tưóng Minh Chu Quảng đuổi Suý cũng trên đất Lào, bắt
được gia thuộc của Trùng Quang và của Suý. Suý chạy sang châu
Minh Linh, nương nhò thổ quan Trà Vịnh. Chỉ huy Tiết Tu sang
bắt được Suý, giết Trà Vịnh.
Trùng Quang trốn vào núi Trục Bài ở Nghệ An, bị đô chỉ huy
Sư Hựu đánh úp, chạy sang Lào. Sư Hựu đuổi sâu, vượt ba cửa
quan bắt được ở sách Cập Mông, nay thuộc tỉnh Thakhet.
Tháng 4 âl năm 1414, Trương Phụ đưa Trùng Quang, Suý,
Dung về Đông Quan, rồi sai người giải sang Kim Lăng. Trùng
Quang nhảy xuông sông tự tử. Dung nhảy theo. Mấy ngày sau,
Suý cũng nhảy xuống sông chết.
Vua tôi biết chết theo xã tắc, làm sáng tỏ đến ngàn đời (lòi
phê bình VSTGCM).
Sau khi Hoá Châu thuộc về giặc, người em Trùng Quang là
Trần Quý Tám thu nhặt binh sĩ tản mát khắp vùng Nghệ, Tĩnh,
236
Bô" Chính tập hợp được sô" một đông, chiêu mộ thêm quân nghĩa
dũng, tổ chức đội ngũ, đánh lại quan quân nhà Minh. Đồng thòi có
Nguyễn Tông Biệt, Hoàng Thiêm Hữu cũng nổi dậy. Các toán quân
này cầm cự được dăm bảy thcáng, rồi tan vỡ. Năm 1415, lại có Trần
Nguyệt Hồ (trùng tên với thủ lĩnh nghĩa quân Đông Triều năm
1407) cũng nổi dậy, nhưng cũng không chông đốì được lâu dài.

Công cuộc khởi nghĩa của Trần Quỹ và Trần Quý Khoách
mưu phục quốc và phục Trần không thành, cũng là nghĩa cử đáng
khen. Người lãnh đạo không phải là hèn kém, nhưng tài cán chưa
đủ cao để làm việc vá trời lấp biển. Cha con Đặng Dung, Nguyễn
Cánh DỊ, cùng Nguyễn Suý, Hồ Bôl, các tướng hết lòng phò vua
giúp nước, dũng có thừa, mà tài chưa hẳn đã cao siêư lắm. Binh sĩ
chưa đủ đông đúc, lại mới được tuyến mộ, chưa được huấn luvện kỹ
càng, lại ít kinh nghiệm chiến đấu. Bên Minh, quân đội tinh nhuệ
lại đông đúc, đầy kinh nghiệm chiến đấu, chỉ huy bởi các tướng tài,
đặc biệt được chính quôc tiếp viện binh lương mỗi khi cần. Chiến
đâu trong tình trạng này mà quân khởi nghĩa đã khiến cho quan
quân nhà Minh phải lao đao, triều đình Trung Quôc phải ba lần
tiếp viện quân đội, một lần lương thực. Chông chọi dai dẳng được
dến 7 năm, đáng kế là kỳ công vậy. Lại đóng quân giữ đất được từ
Thanh Hoa trở vào miền trong, trong thời gian dài, khiến cho giặc
không dựng được cơ sở ở vùng này, còn nuôi dưỡng ý chí quật cường
cho nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa của Bình
Định vương sau này.
Có điếm đáng tiếc là mấy vua hèn cuôl triều Trần, nhất là vụ
Ciản Dinh giết Đặng Tất và Nguyễn cảnh Chân, khiến nhân dân
ta bấy giờ mất tin tưởng ở người họ Trần. Toàn quốc nơi nào cũng
có những toán quân nghĩa dũng nổi lên chông đôi quân cướp nước,
mà Trùng Quang không tập hỢp được dưới trướng thành một khôi
lớn. mạnh mẽ, thôlig thâ’t. Nếu được thế, chưa chắc đã bị bại vong.

KỶ THUỘC MINH
Quân Minh sang đánh nước ta, diệt nhà Hồ năm 1407, lấy 48
phủ châu, 168 huyện, 3.120.500 hộ, 112 voi, 420 ngựa, 35.750 trâu
bò, 8.865 thuyền. Trương Phụ trỏ về nước tâu trình thành tích nửa
năm tiến quân, cưóp được 235.900 voi ngựa trâu bò. 13.600.000 hộc
thóc, 8.670 thuyền, 2.539.800 vũ khí. Quân chiến thắng không
dựng lại nhà Trần như lời tuyên bô" trước, lại đặt nưóc ta dưối ách
237
đô hộ. Quan nhà Minh cũng tham bạo, độc ác như quan thòi Hán,
Đường. Nhân dân ta cực khổ về sưu cao thuê nặng, lại còn phải
lên rừng kiếm sừng tê, ngà voi, gỗ quý, xuống biển mò ngọc trai,
đồi mồi.
Nhà Minh đặt Giao Chi’ đô chỉ huy sứ ty, thừa tuyên Bô"
Chánh sứ ty, đề hình Án Sát sứ ty và các nha môn phủ châu
huyện. Buổi đầu cử Lữ Nghị giữ đô ty, Hoàng Phúc giữ hai ty Bô"
Chánh và Án Sát. Toàn cõi có 17 phủ, 5 châu, 181 huyện. Huyện
là cấp hành chính dưới phủ châu. Dưới nữa là lý, giáp. Lý có lý
trương, giáp có giáp thủ. ớ thành phô" thì gọi là phường, chung
quanh thành phô" gọi là tương. Một lý thường gồm 110 hộ. Sô"
lượng cơ quan thông trị rất nhiều, như ty thuê khoá huyện nào
cũng có. Đứng đầu mỗi ty lớn là quan người Hoa, chúng dùng
người bản sứ giữ chức phó và chỉ huy cấp dưới.
Người Minh cầu những sĩ phu có tài đức ra làm quan hỢp tác
với chúng. Văn thân, người còn có sĩ khí, không chịu. Bùi ưng Đấu
từ chối, lấy cớ đau mắt. Lý Tử cầu trôn tránh đi ẩn nơi xa. Lê
Cảnh Tuân viết Vạn ngôn thư cho Bùi Bá Kỳ, khuyên về với hàng
ngũ nhân dân chông giặc. Lũ Nguyễn Huân, Lương Nhữ Hốt, Đỗ
Duv Trung, Đỗ Hy Vọng, Lương Sĩ Vĩnh, Dương Cự Giác theo giặc,
khéo xu nịnh, được làm quan to nhỏ, lại ỷ thê người Minh, tàn bạo
với dân lành, vô liêm sỉ. Những kẻ nhận chức quan của giặc,
không phải ai cũng được hưởng phú quý. Trần Thúc Dao, Trần
Nhật Chiêu, Phạm Thê" Căng, Nguyễn Chính bị nghĩa quân giết.
Mạc Thuý bị trúng tên chết. Trần Quốc Kiệt, sau hốì hận, bỏ trô"n
vào rừng, tiếc sao không giở giáo đánh lại quân Minh. Nguyễn
Nhật Kiên, Nguyễn Đại kiêu căng, làm điều trái phép, lại bị giặc
giết đi.
Đê có đủ người làm việc cho chúng sai khiến, quan nhà Minh
lại tìm những người biết chữ, mặt mũi khôi ngô, nói năng hoạt
bát, mạnh khoẻ, kể cả thầy cúng, thầy tướng sô"... đưa về Kim
Lăng, cho theo học lớp huấn luyện một thòi gian, rồi cấp bằng cho
về giữ chức quan nhỏ.
VIỆC THUẾ MÁ - Phép nhà Minh đánh thuê ruộng đất trên
danh nghĩa mỗi mẫu 5 tháng thóc như thời nhà Hồ, bãi dâu mỗi
mẫu một lạng tơ nhưng thực tế dân phải nặng nộp gấp ba, vì mỗi
mẫu chúng bắt ghi thành ba. Những nghề thủ công, người buôn
bán, người khai thác tài nguyên sản vật đểu bị đánh thuê bằng
tiền hoặc bằng hiện vật. Năm 1417, chúng đã thu được 73.549 hộc
238
thóc, 1.229 cân tơ, 573 lạng vàng, 1.072 lạng bạc, 1 vạn quạt giấy,
3.315 cân sơn sông, 500 cân phèn chua.
Chính quyền đô hộ giữ độc quyền buôn bán muối. Mỗi huyện
đều có ty Diêm khoá. Muối sản xuât ra phải nộp quan. Nấu lậu
hay bán lậu phải tội rất ncặng. Người đi đường chỉ được phép mang
nhiều nhất ba bát muôi, một lọ mắm. Thời có quân nghĩa dũng nổi
dậy, lo có đủ lương thực nuôi quân, người Minh không bán muôi
bằng tiền, dù giá đất, mà chi’ đổi lấy thóc, gạo.
VIỆC SƯU DỊCH - Ngưòi Minh lập ra Kim trường cục khai thác
vàng bạc, thái liệu sứ lâm thô sản, châu trường cục, ngọc trai dưới
biến, bắt dân đi khai mỏ quý kim, lên rừng tìm sừng tê, ngà voi,
gỗ quý, xuông biển mò trai kiếm ngọc. Thổ sản như hồ tiêu, hương
liệu phải nộp cống. Thợ khéo bị bắt đưa sang Trung Quốc. Nàm
1407, Trương Phụ bắt đưa sang hơn 7.700 thợ các nghề. Đàn bà,
con gái và trẻ con bị bắt đưa đi làm nô, tỳ. c ả đến những con hát,
phường nhạc, thầy thuốíc cũng chịu chung sô" phận. Dân phu và
thợ thuyền sang làm việc tại các công trường bị bóc lột tàn khốc.
Người khác phải làm nô tỳ các nhà quyển quý. Rất ít người sau
được trở về quê hương. Những thợ thủ công khéo tav, nhất là thợ
đóng thuyền xe, người Minh đưa đi, muôn bắt ở lại hẳn Trung
Quôc nên được phép mang theo vợ con.
PHÉP H ộ THIẾP VÀ HOÀNG SÁCH - Việc điền hộ phải theo như
bên Trung Quốc. Ai cũng phải có giấy biên tên tuổi hương quán đưa
trình mỗi khi có khám hỏi. Giấy này biên theo như trong sổ quan
giữ. Hễ giấy trình ra không hỢp thì người mang phải bắt đi lính.
Các lý, phường, tương phải làm sổ biên tất cả sô" đinh, sô"
điền. Những người tàn tật, cô quả thì biên riêng ra ỏ sau, gọi là kỷ
linh. Sô biên thành 4 bán: Tcập bìa vàng gọi là hoàng sách, dê gửi
về bộ hộ. Ba bản bìa xanh dể ỏ các cấp hành chính.
VỂ BINH LÍNH - Về việc cai trị, người Minh phải cần dùng
nhiều người bản xứ làm quan lại giúp đỡ thì về việc võ bị, chúng
cần lấy nhiều người bản xứ sung vào quân đội. Đe sẵn sàng trấn
áp mọi phản kháng, hệ thông tổ chức quân sự to lốn được dựng
lên. Nhiều đồn luỹ mọc lên khắp nơi, 39 thành luỹ lốn được xây
dựng. Ngay từ năm 1407, lực lượng võ bị gồm 14 vệ và 4 thiên hộ.
Mỗi vệ có 5.600 quân; mỗi thiên hộ 1.120 quân. Việc bắt lính thì
cứ theo sô hộ. Chính quyền đô hộ xét duyệt danh sô quân bản xứ,
lấy một phần ba sô" hộ khẩu, chia lệ vào các vệ sở, mỗi hộ định
mức là 3 đinh. Từ Thanh Hoa trở, vào nam, vì sô" dân đinh ít, định
239
mức mỗi hộ là hai đinh. Chỗ nào không phải là vệ sở mà là nơi
quan yếu thì cũng lập đồn luỹ, lấy dân binh canh giữ.
VIỆC TRẠM DỊCH - Từ thành Đông Quan đi các nơi, trên mọi
đường giao thông thuỷ bộ quan trọng, cứ 10 dặm lại đặt một trạm
dịch. Toàn quõc có đến 374 trạm đảm bảo thông tin và tiếp ứng
quân sự giữa các trung tâm hành chính, các đồn luỹ, vệ sở và cả
vối chính quôc.
VIỆC TẾ Tự - Quan nhà Minh Hoảng Phúc truyền bảo các phủ,
châu, huyện dựng văn miếu và các đàn thò xã tắc, phong vân, sơn
xuyên, cùng bách thần, bôn mùa tế tự. Trong nước có nhiều đàn
trường, chùa, miếu, đền. Chính quyền dô hộ còn lập ra những ty
âm dương học, tăng cương, tăng chính, đạo hội.
VIỆC NGƯỜI MINH MƯU HÁN HOÁ DÂN TỘC TA - Tộ hại hơn Hán,'
Đường, quan nhà Minh còn mưu sự làm cho dán tộc ta mất gốc, đồng
hoá với người Hán. Chúng miệt thị phong tục tập quán ta là man
tục, di tục, cần phải xoá bỏ mà theo vương hoá (văn minh) như người
phương bắc. Chúng muôn xoá bỏ hết tháy những gì là di sản văn hoá
nước ta, phá huỷ hết các bia dá ghi cô]ig đức các anh hùng vĩ nhân
hòng ta quên những văn trị võ c' Ig của tiền bốỉ, không còn nhớ quá
khứ hào hùng, không còn tm tướng ỏ tương lai. Nhiều lần có lệnh đốt
hết các sách vở của nhân dân, kế cả sách học của trẻ em, rồi ban cấp
Tứ thư Ngủ kinh và bộ Tinh lý đại toàn in ở Trung Quôc. Nám 1418,
người Minh vơ vét thu hết thảy các tác phẩm có giá trị về vàn hoá,
nghệ thuật, lịch sử, quân sự của người nước ta, từ triều Trần trở về
trước, đem về Kim Lăng. Sách có nhiều bản thì đem tiêu huỷ đốt bớt
đi. Các sách quý của ta: Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, Binh thư
yểu lược và Vạn Kiếp bí truyền của Trần Quốc Tuấn, Tứ thư thuyết
ước của Chu An, Việt sử cương mục của Hồ Tôn Thốc, các bộ hình
thư, hình luật triều Lý, triều Trần, bộ Việt Nam thê chí, v.v... ngày
nay không còn biết mất đâu cả gần hết, không còn quyến nào, thật là
điều thiệt hại to lớn cho người mình.
Quan nhà Minh bắt nhân dân ta theo như người Hán về
phong tục và cách ăn mặc. Năm 1414, cấm con trai, con gái cắt tóc
ngắn, nhuộm răng đen; phụ nữ phải mặc áo ngắn, quần dài như
người Hoa. Thực tê chính sách đồng hoá chỉ được thực hiện ở vùng
tỉnh thành, các nơi có quan, quân Minh đóng, còn những nơi xa
xôi vẫn giữ tục cũ.
VIỆC HỌC HÀNH - Năm 1414, quan nhà Minh mở học hiệu tại
các phủ châu huyện, theo lời bàn của tham nghị Bành Đạo Tường.
240
Tuyển giáo quan không phải chỉ lấy những nho sĩ, mà dùng cả các
thầy thuốc, thầy tướng sô, thầy tăng đạo, ai giỏi nghề gì thì cho
dạy nghề ấy. Quan lại hành chính các cấp phải lấy lễ đôi đãi học
quan. Các thầy tăng và đạo sĩ ở tăng đạo ty (cơ quan coi việc thuộc
về đạo Phật và đạo Lão) đi truyền giảng đạo.
Mỗi năm, các phủ châu huyện cử mấy học sinh khá cho vào
học tại Quổíc tử giám để bổ dụng làm quan.
Như vậy, việc giáo dục thòi thuộc Minh không phải có mục
đích mỏ mang dân trí gì.
Học quan bấy giò có Lê cảnh Tuân, người Mộ Trạch, đỗ thái
học sinh năm 1400 triều Hồ, sung chức đại học sĩ, là người có khí
tiết. Sau ra làm giáo thụ khi nhà Minh mở trường học, mong phổ
biến giáo lý Khổng Mạnh, duy trì thế đạo, nhất là truyền bá tư
tương phục quốc. Người Minh nhận biết là tác giả Vạn Ngôn thư,
bắt giải sang Trung Quốc. BỊ quan nhà Minh hạch, ông khảng
khái nói: Tôi là người nưốc Nam nên phải quyết chí bảo tồn nưóc
Nam. Bị giam ở Kim Lăng, sau cùng con là Thái Diên chết bệnh
trong ngục.
C Á C VIỆC LIN H TIN H - Quan nhà Minh rất chú trọng vấn đề
lương thực nuôi quân. Ngoài thóc thu thuế, chúng còn tước đoạt
ruộng đất của dân ta quanh đồn trại làm đồn điền, khiến quân
lính cày cấy lấy hoa lợi nhập kho. Khắp mọi nơi trong nưóc, trừ
Đông Quan, các vệ sở đóng quân đều có việc này.
Tất cả mọi thứ vũ khí đều bị tịch thu. Đóng chiến thuyền,
chê tạo và tàng trữ vũ khí bị kết tội phản nghịch. Đi xa làm ăn
buôn bán phải xin giấy thông hành có ghi rõ nơi đến và thời hạn đi
về. Công nghiệp và thương nghiệp sa sút. Thợ thủ công người khéo
bị đưa sang bắc quổc, thợ còn lại phải chịu thuế nặng. Việc buôn
bán trong nước bị hạn chế, ngoại thương cấm hẳn.
Quan nhà Minh buổi đầu có Hoàng Phúc còn do khả.
ĐVSKTT khen là thông minh, ứng biến, tài cai trị giỏi. Sau Lý
Bân, Mã Kỳ tham bạo quá quắt, sử sách chỉ ghi chép được về
những của cải chính quyền nhà Minh cướp của dân ta, còn những
thứ quan lại, tướng tá, quân sĩ nhà Minh lấy riêng cho bản thân
thì vô sô", không kể xiết được. Quân cưóp nước áp bức bóc lột đã
đành, lũ quan bản xứ vô liêm sỉ, dựa vào thế giặc, còn tham tàn
gian ác, nhiều đứa còn tệ hơn người Minh.
Cực khổ dưới ách thống trị bạo ngược, người dân hiền lành
cũng sẵn sàng theo hào kiệt nổi dậy chống đốì chính quyền. Suõt
241
thòi gian hơn 20 năm giặc chiếm đóng, không năm nào được yên
ổn. Ngay cả các năm 1414 đến 1417, Trùng Quang đã bại vong,
Bình Định vương chưa nổi dậy, cũng lác đác có mấy toán quân
nghĩa dũng hoạt động. Quân sĩ Hoa phải đi đánh dẹp. Xông pha
mũi tên hòn đạn, đâu phải là điều thích thú. Chiến trận dù có
thắng thì cũng vẫn có ít người bị chết.
Tham nghị Giải Tấn tâu vua Minh: Giao Chỉ đặt quận huyện,
không bằng để nguyên như cũ, phong cho các thô hào cai trị dân
nam. Túng sử có sở đắc cũng không bù được sở thất, cái lợi không
chữa được cái hại. Giải Tấn vì thê bị vua Minh bắt giam, sau ô"m chết
trong ngục. Xâm chiếm nước ta, vua quan Minh được hưởng chút ít
lợi lộc, dân Hoa đâu có được gì. Trước sau có đến hơn chục vạn binh
sĩ bỏ mình. Sự tham vọng đất đai của Minh Thành Tổ khiến dân ta
khổ cực, mà cũng khiến cả dân Hoa bị thiệt thòi tai hại.

TÌNH HÌNH NƯỚC TA DƯỚI CÁC


TRIỀU LÝ, TRẦN THẾ KỶ XI ĐẾN XIV
V IỆC C A I TRỊ - Thế kỷ X, các vua Ngô, Đinh xưng vương,
xưng đê nhưng thực sự chỉ là lãnh tụ các tù trưởng, thổ hào.
Vùng đất nhà vua trực tiếp cai trị không rộng lớn xa kinh đô
bao nhiêu. Đến đời Lê Đại Hành cử các con trấn thủ các địa
phương, mở rộng vùng triều đình trực trị. Sang triều Lý, th ế kỷ
XI, có sự tiến triển chê độ trung ương tập quyền. Chỉ các nơi
rừng núi xa xôi mới dùng các quan lang, tù trưởng cai trị các
dân thiểu sô. Thê kỷ XIII, triều Trần tiến thêm nữa, đặt quan
giám sát các lãnh chúa nhỏ địa phương, buổi đầu không chặt
chẽ mấy. Vùng trung du thì dùng chính sách nửa phân phong,
nửa trực trị: Quan lại do triều đình cử nhưng dùng người địa
phương, thố quan trị thổ dân. Nửa cuôl thê kỷ XIV, các xứ
Nghệ, Tĩnh chuyển sang trực trị. Như vậy, chính thê cai trị dưới
thời Lý, Trần là quân chủ chuyên chế, trung ương tập quyền,
tuy vẫn còn một sô" tù trưởng có thế tập.
TÌNH H ÌN H XÃ HỘI
Quý tộ c - Trên nhất là vua, lãnh chúa tôi cao quốc gia, có
quyền hành vô hạn định, là con tròi, cha mẹ dân,chủ sở hữu hết
thảy ruộng đất, sông núi, kể cả mọi vật ti-ong lòng đất, dưới nước.
Mọi người sống trên vương thổ đều là tôi con, nhà vua có quyền
sinh, sát.
242
Các hoàng tử, phò mã và người trong tôn thất có tài được dùng
làm quan lớn, nhỏ thường được cấp đất hoang hoặc bãi tân bồi bò
sông, biển để khai thác làm trang hộ, lưu truyền cho con cháu.
Các thổ tù địa phương nộp phú công lên nhà vua, thường là
vua con trong hạt mình.
Các quan to có đòi sông tương tự như nhà quý tộc nhưng
không có thế tập nên chỉ xếp vào tầng lớp sĩ phu. Chỉ những vị có
công lớn hay bỏ mình vì nước, con cháu mới được tập ấm, mà chỉ
giữ chức nhỏ thôi.
Tăng lữ - Đạo Nho không có tăng lữ chuyên giảng kinh sách
và nắm tinh thần đạo hữu. Đạo Lão có mấy đạo sĩ, mấy người tu
tiên, không hẳn tăng lữ. Chỉ đạo Phật mới có những thiền sư.
Thòi xa xưa, văn học chưa phát triển rộng rãi, chỉ các nhà
sư có học vấn sâu rộng. Các vua Đinh, Lê và mấy vua đầu
triều Lý dùng nhà sư làm quan văn. Vài vị sư có tham gia
chính trị. Các vua Lý, Trần đều sùng Phật nên các nhà sư
được tôn quý. Các chùa thường có một s ố ruộng đất do tín đồ
cung tiên, làng xã cũng dành một phần cho nhà chùa. Có hoa
lợi này, nhà tu hành đỡ thiếu thốn, nhiều vị vẫn sông khổ
hạnh, vẫn lao động sản xuất. Ngoài sự được miễn sưu dịch, các
thiền sư không được hưởng quyền lợi gì đặc biệt, không có thế
lực chính trị gì, khác hẳn với tập đoàn tăng lữ (clergé) bên
châu Au thời trung cổ.
Từ nửa CUỐI thế kỷ XIV, có sự suy thoái trong từng lớp sư sãi,
nhiều người đi tu không vì sùng đạo, mà để trôn công sưu, binh
dịch. Nghệ hoàng bắt những nhà sư không có độ diệp hoàn lương
và đi tòng quân.
Thứ dân - Do tình hình chung xã hội có tiến bộ, kể từ thế kỷ
XI, các thứ dân nước ta cũng phân hạng sĩ, nông, công, thương
như bên Trung Quốíc.
S ĩ - Từ dưới triều Lý, việc học hành được mở mang. Số" người
đi học ngày một tăng, tạo thành tầng lón sĩ phu. Triều đình mở
khoa thi cử kén chọn người hay chữ ra làm quan, làm lại viên. Sĩ
phu không phải chỉ gồm con cháu quan lại, tướng sĩ, mà con cháu
các nông công thương gia có học cũng gia nhập giối này. Có tài thi
đỗ ra làm quan, có được nếp sống khá giả, đôi người thành giầu có
lớn, gọi là hiển sĩ. Nhiều người khác làm nghề dạy học, thầy thuốíc,
đều được mọi người quý trọng. Còn có nhà nho làm thầy tướng số",
thầy bói, thầy kham dư (phong thuỷ, địa lý), có cả người làm thầy
243
cúng nữa. Sĩ phu nghèo gọi là hàn sĩ, thường sống thiếu thôn mà
vẫn giữ vẻ phong lưu giả tạo.
Cũng xếp vào giới sĩ phu các người chuyên theo học nghề võ,
luyện tập cung kiếm, thi đỗ võ cử ra giữ cấp chỉ huy trong quân
đội tài cao làm đến võ quan tướng tá.
N ôn g - Thòi Lý, Trần xã hội nông nghiệp, chỉ ruộng đất mới
là tài sản quý giá.
Dân ta thòi ấy, hầu hết, có đến hơn 90% đều làm nghề nông,
ngay cả vỢ con quan lại, tướng tá, sĩ phu và cả thợ thuyền cũng có
trồng trọt, cày cấy vườn ruộng. Một số binh sĩ tại ngũ cũng làm
việc ở đồn điền.
Địa chủ không nhiều, thường là vương hầu, tôn thất, tướng
lĩnh, hay con cháu họ, đem ruộng đất phát canh thu tô, hoặc nuôi
trong nhà nhiều nô tỳ làm công việc canh tác. Sô" địa chủ có trên
trăm mẫu ruộng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Phú nông thương
thường chỉ có được một vài chục mẫu, thực tế chỉ là khá vậy, tự
mình và vỢ con làm lấy mọi công việc canh tác: Cày bừa, cấy gặt,
làm cỏ, tát nước, chỉ mưỢn thêm người ngoài trong thời vụ gặt hái
và cày bừa.
Hầu hết mọi người làm ruộng là nông dân tự do, gọi là trung
nông có vẻ gượng gạo. Mọi người lớn bé trong gia đình làm lấy mọi
công việc, canh tác một sô" ít ruộng đất tư hữu và nếu có phần
ruộng đất công làng xã cấp cho, rất ít thuê mưón nhân công người
ngoài, thường đổi công với nhau.
Bần nông không có hay có rất ít ruộng tư, hàng sào, trồng
cấy phần đất này, có chăng thêm khẩu phần ruộng công. Do có sức
khoẻ, họ nhận lĩnh canh ruộng của địa chủ nộp tô, gọi là tá điền.
Mấy người khá giả hơn chút mua màu một vài ba năm của chủ
điền cần tiền mà làm ăn, hết hạn trả lại ruộng chủ cũ.
Loại chót là cô" nông, có sức làm việc mà không có ruộng đất,
có thể tạm gọi là thợ nông nghiệp, đi làm thuê cho các phú, trung
nông. Thời vụ, việc nhiều mà người làm ít, họ được trả công cũng
khá nhưng không có việc gần quanh năm. Còn nhận làm thuê
năm thì công xá rất thấp.
Từ triều Lý, bớt loạn lạc, đồi sông đơn giản của nông dân ta
có sự khấm khá hơn, sang triều Trần, do có sự khai sông, đắp đê
nên tiến triển bước nữa. Nhưng thực sự ra vẫn chưa được sung
túc, dễ bị thiếu thốn trong những năm mất mùa. Khi mất mùa
liên tiếp thì có nhiều người đói.
244
C ông - Theo đà tiên hoá chung, có những người tách ra khỏi
đám nông dân, chuyên chú hành nghề tiểu thủ công nghiệp.
Lý Thường Kiệt sang đánh Tông có bắt đem về một sô" thợ
làm nghề gôm sứ. Được ưu đãi, họ truyền nghề làm bát đĩa cho
dân ta. Sô' thợ thuyền chuyên môn không nhiều lắm. Thợ khéo
kiếm ăn cũng tương đốì khá nhưng không phải ai cũng có việc làm
quanh năm. Có nhiều nông dân làm nghề phụ, chế tạo đồ dùng.
Dưới triều Trần, thợ thuyền tập hỢp lại thành những phường, xã,
chuyên môn làm một thứ nghề nghiệp.
T hư ơn g - Thương nghiệp chưa phát triển được mấy. Sô' người
hành nghề buôn bán không nhiều. Ai có được căn phô' hay một vài
thuyền đinh lốn đã kể là giầu có. Việc buôn bán nhỏ phần lớn do đàn
bà con gái đảm nhận, cảng Vân Đồn được mở cho thương thuyền
ngoại quốc đến mua bán. Người nước thu nhặt hàng hoá bán cho
người ngoại quốc cũng đến mua bán. Người trong nước thu nhặt
hàng hoá bán cho người ngoại quốc củng ở đấy, chứ chưa ai đem
thương thuyền chở hàng ra bán ơ nước ngoài. Thương nhân, dù giàu
có, ít được tôn trọng và không có ảnh hưởng đến chính trị.
Nói chung, công nghiệp và thương nghiệp nước ta thòi Lý,
Trần còn lạc hậu, tuy có hơn thời trước phần nào.
V ăn hoá - v ề văn học thì dưới triều Lý, việc học hành mở
mang, sang triều Trần đã thịnh. Tác phẩm văn chương triều Lý
không truyền lại được gì, ngoài bài thơ của Lý Thường Kiệt đuổi
giặc. Thơ văn triều Trần thiết thực và rắn rỏi, không có việc lời
kêu mà ý rỗng. Cũng từ triều Trần, quốc âm được dùng vào văn
chương. Rất tiếc Tứ thư thuyết ước của Chu An và sách Minh đạo
và Thi nghĩa của Lê Quý Ly không còn lưu truyền lại.
Hầu hết các tác phẩm văn học đã bị quan nhà Minh thu hêt,
người mình không còn giấu giếm giữ lại được mấy, nay chỉ còn lưu
truyền ít văn thơ chép trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn và
Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích.
Các thơ của Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Quang
Khải, Phạm Ngũ Lão, Đặng Dung, Hịch tướng sĩ văn, sách Binh thư
yếu lược, Vạn Kiếp bí truyền của Trần Quốc Tuấn, bài phú Bạch
Đằng giang của Trương Hán Siêu, v.v... đều bằng chữ Hán.
Về sử có Lê Văn Hưu viết Đại Việt sử ký, Lê Trắc, An Nam
chí lược, Hồ Tôn Thốc (Xác), Việt Nam thế chí và Việt s ử cương
mục. Còn có hai nhà vô danh viết Việt sử lược và Thiền Uyên tập
anh cũng gọi là Đại Nam thiền uyên đăng tập lục.
245
Khoa học - về khoa học, nước ta xưa không có gì mấy đáng kể.
Sử chép dưới triều Trần Hiến Tông (1329 - 1341) có Đặng
Lộ, người Sơn Nam, chế ra dụng xét nghiệm khí tượng, gọi là
Lung linh nghi, đê xem thiên văn, khảo nghiệm rất đúng. Dụng
cụ này bị thất truyền.
Về y học, có Nguyễn Bá Tĩnh, hiệu Tuệ Tĩnh thiền sư, người
Cẩm Giàng, Hải Dương, sổng vào nửa cuối thế kỷ xrv, đỗ thái học
sinh, không ra làm quan, đi tu, chuyên nghiên cứu về thuốc nam chữa
bệnh. Ông có viết sách Nam dược thần hiệu, nghiên cứu sáu trăm vị
thuốc và hàng ba ngàn phương thuốc trị gần hai trăm bệnh, kế cả
bệnh gia súc. ông được coi là thánh sư nghề thuốc nam.
Mỹ th u ậ t - Về nghệ thuật, người nước ta xưa không ghi
chép, lâu ngày bị lãng quên đi, nay còn thấy được mấy công trình
kiến trúc đáng kể: Chùa Diên Hựu (chùa Một Cột) ở Hà Nội; chùa
Keo ở xã Dũng Nghĩa, Thái Bình, dựng dưới triều Lý; chùa Phô
Minh tại xã Tức Mặc, Nam Định; chùa Thái Lạc ở Hưng Yên; chùa
Dâu trăm gian xã Khương Tự, Bắc Ninh.

BÙI BÁ KỲ VÀ LÊ CẢNH TUÂN


Bùi Bá Kỳ, người Phù Nội, Hải Dương, là tỳ tướng của
Trần Khát Chân. Sau vụ mưu sát Lê Quý Ly thất bại, Bá Kỳ
trôn thoát được, không bị giết. Sau chạy sang Trung Quôh, xưng
là quan ngũ phẩm nhà Trần, báo cáo nạn nưóc xin vua Minh
cứu viện lập lại nhà Trần. Vua Minh phong chức hữu tham
nghị, cho theo Trương Phụ về nưốc. Bá Kỳ không dự với đồng
liêu bàn tính công việc, chỉ thu nạp nhiều quan lại cũ nhà Trần.
Đến khi Trần Nguyệt Hồ và Trần Quỹ khởi nghĩa, người Minh
nghi Bá Kỳ, bắt đưa sang Kim Lăng.
Lê Cảnh Tuân, học trò Bùi Bá Kỳ, cùng chí hướng. Khi Bá
Kỳ mới về nước, cản h Tuân gửi bức Vạn ngôn thư, khuyên Bá
Kỳ lập lại dòng dõi nhà Trần là nhất, không thì nên từ quan,
trở về phụng sự tôn miếu nhà Trần, chứ đừng tham tước lộc
nhà Minh.
Sau ông bị quan nhà Minh bắt giải về Kim Lăng giam giữ,
rồi ô"m chết trong ngục.
Hai con thứ của ông là Thiếu Dĩnh và Thiếu Hiền sau ra phò
Bình Định vương kháng Minh.
Bùi Bá Kỳ và Lê Cảnh Tuân là người có nghĩa khí nhưng xét
sự đi cầu viện nhà Minh phục Trần không phải là hay.
246
KHỞI NGHĨA LAM SƠN
MLÍÒI NĂM ĐÁNH QUÂN MINH 1418 -1427
LÊ LỢI KHỞI NGHĨA ở LAM SƠN - Dưới ách đô hộ nhà Minh,
quan lại người Hán và người bản xứ theo giặc tham tàn bạo ngược,
nhân dân ta lầm than cực khổ, tức giận ngấm ngầm trong tâm
can, nên hễ có hào kiệt nổi dậy chông đổi thì ùa theo ngay. Sau
Trùng Quang, lãnh tụ người họ Trần cũng lần lượt bị bại vong:
Trần Quý Tám năm 1414, Trần Nguyệt Hồ năm 1415. Sau có
Nguyễn Trinh nổi dậy ở Lục Na (Bắc Giang), Nguyễn Chính ở
Nông Công (Thanh Hoa), Xa Tam (người Thái) ở Sơn La, Lê Hách
và Phan Cường ở Thuận Châu, đều không chống chọi lại được lâu
dài. Riêng đoàn nghĩa quân Lam Sơn, do người anh hùng Lê Lỵ
(quen gọi là Lê Lợi) *** cầm đầu, hoạt động quy mô rộng lớn, kiên
trì chống giặc suổt mười năm, khôi phục được giang sơn, xây dựng
lại nền độc lập nước nhà.
Lê Lỵ (Lợi) người làng Lam Giang, huyện Lương Giang, phủ
Thanh Hoa, nay là huyện Thuỵ Nguyên, mấy đời làm canh nông
giầu có lón, kiếm chức phụ đạo (thổ hào) trong vùng, gia nô trong
nhà có hàng ngàn, tính hào phóng, hay giúp đỡ những kẻ nghèo
khó nên được mọi người theo phục. Người Minh nghe tiếng dụ dỗ
ra làm quan, ông khảng khái không chịu, nói; “Làm trai sinh ở
trên đời, nên giúp nạn lớn, lập công to, để tiếng muôn đời, chứ sao
lại chịu bo bo làm đầy tớ người ta”. Dấu tiếng ở chôn sơn lâm,
ngầm có chí lớn khôi phục non sông, hạ mình đón mòi các hào
kiệt, tung tiền của nuôi binh sĩ, chiêu nạp những kẻ mắc lỗi trôn
tránh, sô' người theo phục mỗi ngày một đông. Mưu đồ việc to lớn
cần phải sửa nhiều và lâu dài.
Trong thời gian còn ẩn trong bóng tôl, không tiện kinh
động, ông thường đem bảo vật dâng bọn Trương Phụ, Trần Tri,
Sơn Thọ để chúng không nghi ngờ trong lúc còn phải nuôi thêm
sức lực, chờ thời cơ. Hào kiệt bô'n phương đua nhau đến .quy
phục, có cả những người từ Ai Lao sang. Ày là bọn Trịnh Đồ,
Trịnh Khả, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quôc Hưng, Lưu
Nhân Chú, Trịnh Võ, Vũ Uy, Lê Liễu, Lê Xa Lôi, cùng nhau bí
mật mUu việc khởi nghĩa.

Nguyên vàn chữ H á n ^ 'J , tiếng Quan hoá là Lih. âm Hán - Việt là Lỵ. Người nước kiêng
tiếng Ly. phú Lỵ Nhân dổi làm Lý Nhân, dọc chệch là Uri. làu thành quen.

247
Công việc sửa soạn chưa hoàn tất thì tên Việt gian Lương
Nhữ Hôt giữ chức tham chính, xui quan nhà Minh nên sốm trừ
chủ trại Lam Sơn đi, để khỏi lo về sau. Thế không tiện trì hoãn
được nữa, ngày 2 - 1 âl năm 1418, Lê Lỵ (Lợi) dựng cò khởi
nghĩa ở Lam Sơn, tự xưng là Bình Định vương, phong chức cho
các tướng, chia nhau đốc xuất quân đội, truyền hịch khắp bô"n
phương kể tội quân nhà Minh, kêu gọi mọi người cùng hỢp sức
nổi dậy đánh kẻ thù, giải phóng đất nước. Lực lượng nghĩa quân
bấy giờ mới gồm có 200 quân thiết kỵ, 200 nghĩa sĩ, 200 dũng sĩ,
14 voi, sô" quân và phu vận tải 2.000 người, còn rất ít ỏi so với
quân Minh 45.000 người, voi hàng trăm con, Nhưng nổi dậy
chiến đấu mưu tiêu diệt quân cướp nước là có chính nghĩa,
thuận lòng người, hỢp lẽ phải nên mọi người đều có tinh thần
cao, quyết chí hăng hái trừ bạo ngược. Đội quân tiền phong này
tuy phải nguy cấp mấy phen, lại là mẫm mông đầu tiên của lực
lượng nghĩa quân đông đảo và hùng mạnh đánh hàng chục vạn
giặc mười năm về sau.
VỀ C H Í LIN H LẦN THỨ NHẤT - Mã Kỳ ở Tây Đô nghe tin quân
Lam Sơn dựng cò khởi nghĩa, chỉ mấy ngày sau, liền đem quân
đến đàn áp. Nghĩa quân ròi căn cứ rút lên đóng ở núi Lạc Thuỷ,
phủ Quảng Hoá, bô" trí chông giặc. Quân Mã Kỳ kéo theo đến, bị
phục binh đổ ra đánh, hàng ngàn giặc bị tiêu diệt. Ba ngày sau,
được lũ phản bội dẫn đường, quân giặc đông đúc theo lốì tắt, tập
kích vào phía sau. Nghĩa quân bị tổn thất nhiều, phải rút lui về
đóng ở núi Chí Linh^*’. Vợ con Bình Định vương bị giặc bắt. Nghĩa
quân sông những ngày gian khô vối măng và cây cỏ rừng.
Sau đó, nghĩa quân lại trở về Lam Sơn xây dựng lại căn cứ,
bổ sung lực lượng. Khi mới trở về chỉ còn khoảng trăm người.
Mùa thu năm 1418, tổng binh Lý Bân điều quân từ Đông
Quan đến vây quét vùng Lam Sơn. Nghĩa quân lui tổ chức trận
địa phục kích ở Mường Một. Quân Minh chết và bị thương phần
nửa, phải rút về.
VỀ CH Í LIN H LẦN THỨ H A I - Tháng 4 âl năm 1419, Bình Định
vương kéo quân ra đánh lấy đồn Nga Lạc, huyện Nga Sơn, giết
đưỢc tướng Minh Nguyễn Sao, nhưng ngay sau đó, quân địch kéo

' ’ Núi Chí Linh dây không phải là huyện Chí Linh, tinh Hải Dương. VSTGCM chú thích là
ớ phú Trấn Định thuộc Nghệ An, giáp Hà Tĩnh. Sử gia Trần Trọng Kim viết: Lúc â’y nghĩa
quân vần lui tới quanh vùng Nga Sơn. Núi Chí Linh chi ở trong vùng Thanh Hoa.

248
đến đông, quân vương ít không đánh lại được lâu, phải rút lui trỏ
về núi Chí Linh lần thứ hai.
Quan nhà Minh biết rõ Chí Linh là chỗ vương lui tói, đem đại
binh đến vây đánh, quyết tâm tiêu diệt lực lượng nghĩa quân.
Vương lâm vào tình thê nguy cấp lắm. Bấy giò có tưống Lê Lai,
người thôn Động Tú, khảng khái liều mình, tự nguyện thay mặc
áo bào của vương, giả danh là vương, cưỡi voi ra trận đánh nhau
với giặc. Quân Minh dồn lại vây chặt. Lê Lai chốhg cự đến kiệt sức
thì bị bắt đưa về Đông Quan giết chết.
Nhò có Lê Lai bỏ mình cứu chúa, Bình Định vương thoát
được nạn lớn. Quân Minh lầm tưởng diệt trừ được vương bèn lui
về. Vương đem bộ chỉ huy cùng lực lượng đã được cứu thoát lại trở
về Lam Sơn.
BÌNH ĐỊNH VƯƠNG VỂ ĐÓNG ở Lư SƠN - Tướng Minh Phương
Chính lại đem quân đến đàn áp, chiếm đóng thành Khả Lam ở
vùng Lam Sơn. Sau mấy trận tập kích tiêu hao lực lượng địch,
nghĩa quân rút lên đóng ở Lư Sơn (hay Lỗ Sơn) phía tây châu
Quan Hoá, rồi lên đóng ở Mường Thôi, giáp biên giói Ai Lao, tiếp
tục xây dựng lại lực lượng, ơ đây, nghĩa quân được người Ai Lao
giúp đỡ.
Năm ấy, tri phủ Nghệ An Phan Liêu làm phản nhà Minh. 0
Hạ Hồng có Trịnh Công Chứng, Lê Hành; ở Khoái Châu, có
Nguyễn Đạc; ở Hoàng Giang, có Nguyễn Đa Cấu, Trần Nhuế; ở
Thuỷ Đường, có Lê Ngã nổi lên. Quân Minh phải đi đánh dẹp các
nơi, nên Bình Định vương ỏ vùng Thanh Hoa, được nhân dịp
dưỡng uy sức nhuệ.
BÌNH ĐỊNH VƯƠNG VỀ ĐÓNG QUÂN ở L ỗ i GIANG - Tháng 10 âl
năm 1420, Bình Định vương đem quân về đóng ỏ làng Thôi, định
xuống đánh Tâv Đô. Tướng Minh Lý Bân hay tin, đem quân đến
đánh. Vương đặt phục binh ở Bông Tân (bến Bông) đón đánh.
Quân Minh vừa tràn đến đó, bôn mặt phục binh đều trỗi dậy xông
đánh rất dữ, quân địch tan vỡ. Quân ta giết chết và bắt sống được
nhiều giặc, thu được hàng trăm ngựa, phóng hoả đôt hết khí giới
của chúng. Hôm sau, các tướng tưởng thừa thắng đánh vào trại
giặc, bị tổn thương nhiều. Chúng huy động lực lượng lớn tấn công
nữa, lần này cũng bị thiệt hại nặng ở trận địa phục kích tại Thi
Lang, phải rút lui vào các đồn trại cô" thủ. Cuối năm 1420, nghĩa
quân tập kích ở trại Quan Du, địch bị tiêu diệt hàng ngàn tên,
phải lui về cô" thủ Tây Đô. Bình Định vương đem quân về đóng ở
249
Lỗi Giang, khúc sông Mã ở vùng trên huyện cẩm Thuỷ và ở đồn
Ba Lâm, mở rộng hoạt động ra khắp vùng tây bắc Thanh Hoa. Thế
ngày một mạnh. Nhân dân mọi nơi trong nước, không nơi nào
không hướng về vương,
NGUYỄN TRÃI - Khi Bình Định vương về đóng quân ở Lỗi
Giang, có Nguyễn Trãi vào yết kiến, dâng bài sách B inh Ngô.
Vương xem lấy làm hay, dùng làm tham quan.
Nguyễn Trãi là con bảng nhãn Nguyễn Phi Khanh, đỗ tiên sĩ
triều Hồ năm 1400. Khi Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt đưa
về bắc quốc, ông theo khóc lóc đến Nam Quan, không chịu trở lại.
Phi Khanh bảo rằng: Con phải về mà lo trả thù cho cha, rửa thẹn
cho nước, chứ đi theo khóc lóc làm gì??Ông trở lại, ngày đêm lo
việc phục thù. Sau ra giúp Bình Định vương bày mưu định kế lo
việc khôi phục non sông.
Nguyễn Trãi là cháu ngoại Trần Nguyên Đán, đôi với Trần
Nguyên Hãn có tình thân qua cát (con cô con cậu). Hai ông đều là
đại công thần khai quốc nhà Lê, sau đều bị giết hại.
CÁ C CUỘC KHỞI NGHĨA KHÁC - Đồng thời với cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn, còn có nhiều cuộc khởi nghĩa chống đối quan quân nhà
Minh lớn nhỏ khác. Đáng kể có Phan Liêu ở Nghệ An, Phạm Ngọc
ở Đồ Sơn (Kiến An) và Lê Nga ở Đường Thuỷ (Kiến An), có quy mô
rộng lớn.
P h a n L iê u - Năm 1419 Phan Liêu, tri phủ Nghệ An, được
mấy tù trưởng phục tòng, phản nhà Minh, liên lạc vói thiên hộ
Trần Đài nổi dậy ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh, đốt phá các châu huyện,
đánh úp Nghệ An. Tổng binh Lý Bân vào đánh, Liêu thua chạy,
rút quân lên miền thượng du lập căn cứ. Cùng với Lộ Văn Luật,
Liêu cầm cự đưỢc với quân Minh hai lần tấn công năm 1420. Sau
bị đánh thua, Liêu và Lộ Văn Luật đem tàn quân ra Thanh Hoa
giúp Bình Định vương.
Liêu là con thiếu bảo Phan Quý Hựu. Cha con phản vua
Trần Trùng Quang. Liêu được Trương Phụ phong làm tri phủ.
Quân Lam Sơn khởi nghĩa, quan nhà Minh gặp khó khăn. Liêu
giở giáo chống lại người Minh với mưu đồ xưng bá đồ vương, chứ
không phải vì thương dân cứu nước. Sau con người giỏ giáo này
theo phò Bình Định vương, chỉ vì không làm gì khác được. Chung
cuộc bị hại như mấy công thần khác.
P h ạ m N g oe - Phạm Ngọc nguyên là sư chùa Đồ Sơn, huyện
An Lão, Kiến An tự xưng là La Bình vương, tập hỢp được nhiều
250
toán quân khởi nghĩa của Đoàn Thừa, Phạm Thiện, Lê Hành, Ngô
Trung, hoạt động mạnh khắp vùng Kiến An. Hai lần tổng binh Lý
Bân đem quân đến đàn áp, nghĩa quân bị thiệt hại, phải phân tán,
chông chọi lai rai đến mùa thu năm 1420.
L ê N g ã - Lê Ngã người huyện Thuỷ Đường (Thuỷ Nguyên,
Kiến An) sau đổi tên là Dương Cung, dấy quân các năm 1419,
1420, tự xưng là con cháu vua Trần Duệ Tông, tự Lão Qua trở về,
kêu gọi quần chúng nông dân nổi dậy tiêu diệt lũ quan quân nhà
Minh đô hộ, được nhiều dân nghèo hưởng ứng, chỉ trong một
tháng, sô^ nghĩa quân lên đến vài vạn người.
Dư đảng của Trịnh Công Chứng và Phạm Ngọc đều quy phụ.
Phụ đạo Đan Bạ (châu Định Lập, Hải Ninh) Bế Thuấn theo phò.
Lê Ngã tự xưng là Thiên Thượng hoàng đế, đặt niên hiệu Vĩnh
Thiên, phong quan chức cho các tưỏng, đúc tiền riêng tiêu dùng,
chiếm cứ miền An Bang, làm chủ khu vực rộng lớn nay là tỉnh
Quảng Yên, Hải Ninh, Bắc Giang. Nghĩa quân nhiều lần tấn công
các thành luỹ quân Minh, đốt phá thành Xương Giang (Bắc
Giang), tập kích đồn Bình Than, uy hiếp nhà quý tộc Trần Thiên
Lại. Lại tổ chức chốhg đốì, bị nghĩa quân giết.
Tổng binh Lý Bân dùng đại binh, mở cuộc tấn công to lớn. Lê
Ngă cùng Bế Thuấn thua trận, ban đêm chạy trôh không biết đi đâu.
Đồng thời, tại gần khắp mọi nơi ở Bắc Việt, còn có những
toán quân nghĩa dũng khác nổi dậy chôYg đốì quan quân nhà
Minh, tiếc rằng không cầm cự được lâu dài. Ây là Trần Mộc Quả ở
châu Vũ Định, Ngô Cự Lại ở huyện Thiên Khê, Đào Cường ở
huyện Thiên Tài, Đinh Tốn Lão ở huyện Đại Loan, Nguyễn Thuật
ở phủ Kiến Xương, Lê Diệt ở huyện Duyên Hà, Nguyễn Đa ở
huyện Thạch ThâT, Phạm Hi ở vùng Tân Minh, Nguyễn Tri ở
Khoái Châu, Nguyễn Câu ở vùng Hoàng Giang. Lại có Nguyễn
Thuật cũng nổi dậy ở vùng Hoàng Giang, giết được tham chính
Hầu Bao.
BÌNH ĐỊN H VƯƠNG PHÁ QUÂN TRẦN TRÍ VÀ QUÂN AI LAO - Nghĩa
quân Lam Sơn tiến triển ngày thêm mạnh. Vua Minh cử Vĩnh
Xương bá Trần Trí đem nhiều quân sang giữ Đông Quan. Tháng
11 âl năm 1421, Trần Trí đem đại binh (Đại Việt thông sử chép
hơn 10 vạn vệ quân) đến đánh trại Ba Lâm ở ải Kinh Lộng, lại đốc
hẹn vối người Ai Lao sang cùng đánh hai mặt. Bình Định vương
hỢp các tướng, bàn quân Minh nhiều, nhưng ở xa đến, còn đương
mỏi mệt, ta đưa quân ra đón đánh ngay tất phải được. Ngay đêm
251
ấy, vương chia quân đánh úp các ngả, phá được 4 trại, chém được
hơn ngàn quân địch, thu được rất nhiều chiến lợi phẩm. Trần Trí
tức giận, ngay sáng hôm sau, kéo toan quân tiên đánh. Vương đã
ngầm đặt phục binh các nơi hiểm ở Đèo Ong để đợi. Khi quân
Trần Trí do đường núi tới, bị hai cánh quân ta đánh vào hai bên.
Trần Trí thua trận, phải rút quân về.
Trong khi quân ta đang chống cự với quân Minh, chưa phân
được thua, bỗng người Ai Lao đem 5 vạn quân và 100 voi đến đóng
ơ phía trước trại quân ta, nói là lại giúp. Bình Định vương không
ngờ là trí trá, hẹn cùng hỢp sức đánh quân Minh. Đến nửa đêm, ta
bị quân Ai Lao đánh úp. Bình Định vương tự đôc chiến, quân ta
đánh rất hàng hái từ nửa đêm đến sáng, phá tan quân Ai Lao,
chém đầu hơn vạn tên, thu 14 voi và hàng vạn chiến lợi phẩm. Tù
trưởng Man Sát xin hoà, ta không nghe. Bên ta có tướng Lê Thạch
bị trúng tên chết.
Thời ấy, nước Ai Lao cường thịnh. Bình Định vương giao
thiệp thân thiện, thỉnh thoảng có đưa quân sang giúp ta. Chỉ vì
thổ quan Lộ Ván Luật trốn sang đấy, đem lòi gièm pha nên vua Ai
Lao sinh lòng oán hận, nghe theo quan nhà Minh sai quân đến
đánh ta.
VỀ CH Í LINH LẦN THỨ BA - Sang năm 1422, Bình Định vương
từ đồn Ba Lâm, tiến quân đánh đồn Quan Du. Bấy giờ tổng binh
Lý Bân đã chết. Tướng Minh Mã Kỳ ước hạn với quân Ai Lao cùng
đánh quân ta. Thê giặc rất hung dữ. Quân ta giao chiến nhiều
ti'ậi^> thường bị tổn thất, bèn lui quân về đóng giữ ở Sách Khối
(sau đổi là huyện Khôi, nằm giữa Nho Quan và Thạch Thành
ngày nay). Vương uý lạo quân sĩ, tu sửa khí giới, được 7 ngày thì
quân Minh và quân Ai Lao lại rầm rộ kéo đến, vây kín bôA mặt.
Quân ta không còn lối thoát ra khỏi nơi “tử địa” này. Tình hình
rất nguy ngập. Vương bàn với các tướng: Giặc vây kín rồi, nếu
không liều sôAg chết mà đánh tháo lấy đường chạy ra thì chết cả.
Quân sĩ đều hăng hái cô" đánh, xông vào chỗ chết để tìm đường
sông, các tướng Lê Linh, Lê Văn, Lê Hào, Lê Triện đích thân xông
ra hãm trận, chém đầu tham tướng Phùng Quý và hơn ngàn quân
cùng hơn trăm ngựa. Mã Kỳ và Trần Trí lui quân, quân Ai Lao
cũng bỏ về nước. Bên ta cũng bị thiệt hại nặng. Vương thu tàn
quân, lại lui về đóng ở núi Chí Linh.
ơ đây, lương thực thiếu thôn. Trong hai tháng quân sĩ toàn
ăn rau cỏ và măng tre. Phải giết 4 con voi và một sô ngựa nuôi
252
quân. Từng trải nhiều phen nguy nan, tướng sĩ mỏi mệt, đều
muôn được nghỉ ngơi, xin vương hãy tạm hoà với giặc. Vương bất
đắc dĩ sai hai thân thần Lê Vận và Lê Trân, đưa thư đến Mã Kỳ
và Sơn Thọ xin hoà. Quan nhà Minh bấy giờ thấy đánh mãi không
lợi, cũng thuận cho hoà.
Quân Minh sau hai nám hao binh tổn tướng, vẫn không dập tắt
được quân khởi nghĩa, muôn chuyên sang dùng biện pháp chính trị
làm tan rã nghĩa quân, theo đúng tinh thần hoà hoãn với thuộc quốc
của triều đình, ý muôn phong quan chức lớn cho vương, gọi về triều
đình Trung Quôc, an trí ở đấy, không cho liên lạc với thuộc hạ nữa.
Nghĩa quân mất người tài giỏi cầm đầu, sẽ tan dần. vả lại, nhà
Minh lại bận tập trung lực lượng đánh quân Thát Đát phương bắc,
không thê tiếp viện thêm quân sang ta, cho nên đề nghị của Bình
Định vương được nhanh chóng chấp thuận ngay.
THỜI GIAN HOÀ HOÃN - Quan nhà Minh thuận cho hoà. Tháng
4 âl năm 1423, Bình Định vương đem quân trở về Lam Sơn, bên
ngoài giả thác hoà thân, bên trong vẫn lo rèn đúc chiến cụ, quyên
tiền, mộ lính, tích súc lực híỢng. Trần Trí và Sơn Thọ hay đem
tặng trâu, bò, muối, cá, nông cụ và thóc giông. Vương cũng sai bọn
Lê Trân đem vàng bạc tặng đáp.
Thòi gian hoà hoãn không kéo dài đưỢc lâu. Trần Trí biết rõ
vương vẫn chuẩn bị chiến đấu, xin hoà chỉ là tạm thời, để nuôi
dưỡng lực lượng ngày thêm hùng mạnh, đợi thời tổng tấn công. Trí
bèn bắt giữ Lê Trân lại, không cho về. Vì vậy, vương tuyệt giao
không đi lại nữa, rồi đem quân về đóng ở núi Lư Sơn. Quan nhà
Minh thì muốn vương đầu hàng, giải tán quân đội. Vương đâu có
chịu nghe theo sự đòi hỏi ấy. Hơn một năm dưỡng sức, nghĩa quân
đã đủ mạnh đê ngang nhiên chốhg đối lại quan quân nhà Minh.
BÌNH ĐỰ4H VƯƠNG LẤY ĐẤT NGHỆ AN - Năm 1424, Minh Thành
Tô chết. Minh Nhân Tông nôi ngôi, giả nhân giả nghĩa, ban chiếu
đình chỉ việc kiếm vàng bạc và các thứ hương liệu ở Giao Chỉ ta,
triệt hồi các giám đôc về công tác trên. Nhưng người nước ta chẳng
ai tin theo mà sao nhãng việc chông đôi.
Tháng 9 âl năm 1424, lực lượng nghĩa quân đã đủ lớn mạnh
đê mở cuộc phản công lớn. Bình Định vương hội các tướng bàn kế
tiến binh. Thiếu uý, Nguyễn Chích người Nông Cống, từng nổi dậy
chống Minh từ năm 1417, sau đem toàn bộ lực lượng gia nhập vào
nghĩa quân Lam Sơn, đổi mang họ Lê bàn; Nghệ An là đất hiểm
yếu, đất rộng người nhiều, nên đánh lấy trước làm căn bản, nhiên
253
hậu sẽ từ từ quay trở ra tính việc lấy lại Đông Đô, như vậy thiên
hạ có thể bình được. Nghệ An là nơi Trùng Quang đã từng làm
chủ lâu dài, xa những trung tâm hành chính và quân sự của địch,
lại là nơi địch mới chiếm, chưa củng cô" vững chắc. Đất này sẽ là
chỗ có đủ điều kiện kinh tế, chính trị, quân sự thuận lợi đê phát
triển lực lượng tiến lên giành thế chủ động.
Bình Định vương chia quân đánh úp thành Đa Căng (huyện
Thọ Xuân, Thanh Hoa), tiêu diệt hơn ngàn quân địch, thu nhiều
lương thực, khí giới. Nguy tham chính Lương Nhữ Hôt chỉ kịp
chạy thoát thân. Tướng của cẩm Bình và Hoà Ánh đem quân đến
cứu, bị đánh thua, chạy vào Tây Đô. Thắng trận, vương ở đấy,
tuyển mộ binh sĩ, tu sửa khí giới, chỉnh đốh hàng ngũ, chứa đủ
lương thực, rồi đem quân thẳng tới Nghệ An do đường châu Trà
Long, vượt qua núi Bồ Lập thuộc châu Quỳ. Trong trận Bồ Lập,
còn gọi là Bồ Đằng, tướng chỉ huy quân Minh đồng tri Sư Hựu
cùng tri phủ Trà Long cầm Bành dẫn 5.000 quân đến đánh vào
mặt tiền. Các tướng Minh là Trần Trí, Lý An, Phương Chính và
Thái Phúc dẫn quân đánh vào mặt hậu quân ta, áp lực cả hai mặt
trước sau. Vương đặt phục binh ở các ngả chờ đợi. Trần Trí dẫn
quân đến, phục binh ta nổi dậy xông đánh, quân địch tan vỡ.
Quân ta chém đầu đô ty Trần Quý (hay Trần Trung) và hơn 2.000
sĩ tốt, thu đưỢc 100 ngựa. Trần Trí và Phương Chính thua chạy.
Hôm sau, quân ta tiến đến trang Trịnh Sơn, đánh phá quân
của Sư Hựu, chém được thiên hộ Trương Ban và hơn ngàn binh sĩ.
Sư Hựu chạy thoát thân.
Vương bèn đóng quân ở Mộc Sách. Trần Trí thu quân về
Nghệ An. Nghĩa quân tiến lên tấn công thành Trà Lân, trụ sở
châu Trà Long, miền huyện Tương Dương, Con Cuông (Nghệ An),
cứ điểm quan trọng của địch khống chế vùng rừng núi miền tây
Nghệ An, án ngữ đường từ miền tây xuống thành Nghệ An và từ
bắc vào nam. Thành này có trên 1.000 quân do tri phủ cẩm Bành,
người bản thổ, chỉ huy đóng giữ. Vương sai sứ giả chiêu hàng,
Bành không chịu, lập doanh trại trên đỉnh núi, chò cứu viện.
Nghĩa quân vây chặt nơi đây.
Quân nhà Minh đóng ở Nghệ An thấy cầm Bành bị vây,
muốn cứu nhưng sỢ không dám tiến quân. Tháng 12, Sơn Thọ sai
người đưa Lê Trân trở về ta, cầu hoà, xin giải vây. Vương thấy
chúng có ý nhát sỢ, hãy vò bằng lòng hoà, viết thư nói muốh trở về
Thanh Hoa, bị cầm Bằng ngăn chặn. Xin cho người tối hoà giải,
254
để thông lối về. Cầm Bành bị vây hãm, chò lâu không được cứu
viện, mở cửa thành ra hàng. (Sau Bành mưu toan trôn đi, bị bắt
giêt). Chiêm được thành Trà Lân, căn cứ nghĩa quân mở rộng,
thanh thê lên cao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bổ sung lực
lượng. Nguyễn Vĩnh Lộc ở Đông Thành tự chiêu tập quân nghĩa
dũng kéo đến xin theo. Phan Liêu và Lộ Văn Luật ở châu Ngọc Ma
cũng về xin gia nhập. Nhiều tù trưởng Ai Lao vùng biên giới lại
giúp đỡ nghĩa quân. Vương ra lệnh cho quân không được xâm
phạm mảy may của dân, xá tội cho những người trưởc đã lầm lỗi
theo giặc, vỗ về các bộ lạc, khen thưởng các tù trưởng, thanh thế
lừng lẫy.
Vua Minh Nhân Tông từ khi mói lên ngôi, sai Sơn Thọ phủ
dụ Bình Định vương hàng. Vương đâu có chịu từ bỏ mưu đồ phục
quốc, nhưng cũng cho sứ giả qua lại. Sơn Thọ biết rõ kê dụ hàng
không ăn thua gì, lại tuyệt hoà nghị.
Bấy giò, Hoàng Phúc đã trở về nước. Vua Minh sai binh bộ
thượng thư Trần Hiệp sang thay. Trần Hiệp thấy Bình Định
vương đã lấy được thành Trà Lân, khí thê lớn, làm sớ tâu về triều.
Vua Minh hạ chiếu trách mắng bọn Trần Trí, Phương Chính, bắt
phải đánh dẹp ngay cho yên.
Bọn Trần Trí sỢ hãi, huy động toàn lực quân thuỷ bộ, cùng
tiến đánh Bình Định vương, về phần vương, sau khi lấy được châu
Trà Long, tiếp tục lấy lại mấy huyện nữa, đang trù tính tiến quân
đi đánh giải phóng thành Nghệ An thì hay tin giặc kéo đại quân
đến đánh. Vương nói hiện địch rất nhiều quân mà ta ít. Bên ít
quân đánh nhiều, có cách giữ lấy các chỗ hiểm yếu trước, bèn chia
hơn ngàn quân cho Đinh Liệt dẫn đi trước theo đường nhỏ chiếm
lấy huyện Đỗ Gia, gần đồn Linh cảm, nay là huyện Hương Sơn
thuộc Hà Tĩnh, cướp lấy nơi địa lợi. Vương thân đốc đại quân
chiếm đóng các chỗ hiểm yếu mạn thượng du đất Khả Lưu ở mạn
sông Lam, nay thuộc An Sơn, Lương Sơn, Nghệ An. Địch kéo đại
quân đến cửa ải Lậu Thư (Quán Lậu) và Khả Lưu, đóng doanh
trại ở phía dưới dòng nước. Nghĩa quân đóng ở phía trên, ban ngày
kéo cò đánh trốhg ầm ầm, ban đêm đôt đèn đuốc sáng rực trong
trại đế làm nghi binh. Vương sai quân ngầm sang bên kia sông
phục sẵn ở nơi hiểm yếu. Địch dẫn quân đánh vào trại ta. Vương
giả thua chạy lui, dẫn địch đuổi theo vào ổ phục kích. Bôn mặt
phục binh đều trỗi dậy xông pha. Hàng vạn quân Minh bị giết và
chết đuối.
255
Thua trận này, giặc lập trại dựa vào thế núi đóng quân.
Quân sô" chúng còn đông, lương thực còn dồi dào. Vương sai tự đô"t
hết các doanh trại, giả nhií đi trốh tránh, rồi ngầm ra lôi tắt. Địch
thấy vậy, kéo quân đóng vào doanh trại cũ của ta và đắp thêm đồn
luỹ trên núi. Vương ngầm đặt phục binh ở Bồ Ái , sai đội khinh kỵ
đến khiêu chiên. Địch ứng chiến, đến Bồ Á i‘trúng ổ phục kích,
quân sĩ nổi dậy, các tương tranh đua nhau xông trận, đánh phá
quân địch, chém giết vô kể giặc, thâv đầy sông, khí giới đầy
đường, thuyền bè trôi ngang. Quân ta chém được tướng tiên phong
Hoàng Thành, bắt sông đô ty Chu Kiệt và chừng ngàn quân. Trần
Trí và Sơn Thọ chạy thoát được về Nghệ An, cố thủ trong thành.
Sang xuân năm 1425, uy tín Bình Định vương lên cao sau
chiến thắng Khả Lưu và Bồ Ái. Thừa thế, nghĩa quân tiến xuông
giải phóng các châu huyện, vây hãm thành Nghệ An. Thô quân
nhiều nơi không dám chống cự, xin hàng ngay từ đầu. Tri phủ
Ngọc Ma Cầm Quý tự đem 8.000 quân của mình cùng 10 thớt voi
đi theo nghĩa quân. Toàn thể miền đất rộng, người nhiều, giầu có,
trừ thành Nghệ An cô lập, đều do nghĩa quân kiểm soát. Đại quân
đóng ở làng Mỹ Lỗi, huyện Thổ Du, nay là huyện Thiên Lộc, thuộc
Hà Tĩnh. Nhân dân già trẻ các nơi đem rượu thịt đến khao quân,
đón mừng tướng sĩ, bàn nhau không ngờ ngày nay chúng ta lại
đưỢc trông thấy uy nghi nước nhà. Vương cho xây dựng hệ thống
thành luỹ ở núi Thiên Nhãn, phía hữu ngọn sông Lam, đặt tên là
thành Lục Niên để làm căn cứ chính.
Vương hạ lệnh: Nhân dân ta lâu nay đã khổ về chính trị bạo
tàn của người Minh, vậy quân sĩ đi đến châu huyện nào cũng
không đưỢc xâm phạm mảy may của dân. Nếu không phải trâu bò
thóc gạo của nguy quan thì dù có thiếu thốn cũng không được lấy.
Lệnh được thi hành nghiêm chỉnh, về phía nhân dân, ai nấy cũng
đem những trâu bò thóc gạo người Minh đã chứa tích ra tiếp tế
quân sĩ.
Nghĩa quân vây hãm thành Nghệ An nhiều tháng. Quan nhà
Minh cố thủ trong thành không dám ra giao chiến, chỉ chờ đợi cứu
viện. Trong khi ấy, Bình Định vương huấn luyện tương sĩ, tu sửa
khí giới, chiến cụ. Đội ngũ nghiêm chỉnh, thvíởng phạt công minh,
quân sĩ đều hăng hái, nhân dân các vùng đều quy phục.
Tháng 4 âl năm 1425, tham tướng An Bình bá Lý An trấn
thủ Đông Quan đem thuỷ binh đi theo đường ven biển vào cửa
Hội, ngược sông Lam, lên cứu nguy Nghệ An. Vương tính Trần Trí
256
bị vây đã lâu ngày, có viện binh tới tất ra đánh, bèn dời quân đóng
tại cửa sông Quật thuộc huyện Đỗ Gia, sai Lê Ninh dẫn binh phục
nơi bò sông. Trần Trí dẫn hầu hết quân trong thành ra phối hỢp
phản công. Chúng vừa mói tói qua sông nửa sĩ quân, bị phục binh
trỗi dậy đánh phá, mươi thủ cấp bị chém, địch bị chết đuối rất
nhiều. Trần Trí rút quân về Đông Quan, để Lý An, Phương Chính
giữ thành. Từ đó, quân Minh dựa vào thành luỹ kiên cố, nép mình
cố thủ lâu dài, không dám ra giao chiến cùng nghĩa quân nữa.
GIẢI PHÓNG DIỄN CHÂU - VÂY THÀNH TÂY ĐÔ -Trong khi vẫn
tiếp tục vây hãm Nghệ An, tháng 5 âl năm 1425, Bình Định vương
sai tư không Đinh Lễ đem binh ra tấn công thành Diễn Châu, cả
miền đất ba huyện Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu được giải
phóng. Đinh Lễ lại gặp tướng Minh đô ty Trương Hùng đem 300
thuyền lương từ Đông Quan vào tiếp tế cho thành Diễn Châu.
Lương thực vừa đến, quân trong thành ra đón thì lọt vào trận địa
phục kích của nghĩa quân. Địch bị đánh thua tan tác, hàng trăm
tên chết. Đinh Lễ cưốp được toàn bộ thuyền lương, đánh đuổi
Trương Hùng ra đến Tây Đô. Bình Định vương được tin sai các
tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Thiện, Bùi Bị đem quân theo
đường tắt ra Thanh Hoa, phối hỢp với quân Đinh Lễ, đánh úp
thành Tây Đô, chém hơn 300 quân địch, thu nhiều chiến lợi phẩm.
Tướng Minh đóng chặt cửa thành cố thủ. Nhân dân các châu
huyện đều nổi dậy hưởng ứng. Vùng đất Thanh Hoa được giải
phóng. Thành Tây Đô bị nghĩa quân vây chặt. Sau 9 tháng phản
công, nghĩa quân đã làm chủ được đất Thanh, Nghệ, trừ hai thành
Tây Đô và Nghệ An, thì cũng đang bị nghĩa quân vây hãm.
LẤY TÂN BÌNH VÀ THUẬN HOÁ - Lực lượng nghĩa quân lớn
mạnh mau chóng, như diều gặp gió. Bình Định vương xét thấy
Tân Bình và Thuận Hoá, sào huyệt của Trùng Quang xưa, quân
Minh mói chiếm được từ năm 1414, ở đấy lực lượng giặc không
nhiều, lại không liên hệ được với Nghệ An, Tây Đô và Đông Đô,
nơi cơ sở của địch là chỗ yếu, có thể đánh lấy đưỢc dễ dàng. Tháng
7 âl năm 1425, vương sai tư đồ Trần Nguyên Hãn, thượng tưóng
quân Lê Nô, chấp lệnh Lê Đa Bồ, đem hơn ngàn quân đi kinh lược
hai xứ Tân Bình và Thuận Hoá, để chiêu phủ nhân dân, tiến quân
theo đường núi. Lại sai các tướng Lê Ngân, Lê Văn An, Phạm Bối
chỉ huy thuỷ quân gồm 70 chiến thuyền từ Nghệ An theo đường
biển tiến vào. Bội binh đánh phá tướng Minh Nhiệm Năng ở sông
Bô" Chính (sông Gianh, Quảng Bình) án giữ đất Hà Khương. Hai
257
đạo quân thuỷ bộ phối hợp đánh vào thành hai phủ này. Địch lui
vào trong thành cô" thủ. Quân dân toàn vùng xin quy thuận. Ta
thu lục đưỢc vài vạn quân tinh nhuệ sung vào binh sô", thanh thê
càng lớn. Các tướng tôn vương là Thê thiên hành hoá. Từ đấy,
trong những tờ bảng bô cáo cho thiên hạ hoặc những tò dụ đều
nêu bốn chữ này, có nghĩa là thay Tròi làm mọi việc.

B ản đổ quân Lam Sơn đánh quân M inh

Từ Thanh Hoa trở vào đến đèo Hải Vân, đất nưốc đã trở về ta.
Chính quyền đô hộ của quân Minh tan rã, sa vào thế bị vây hãm, cô
lập trong mấy thành luỹ lớn, lực lượng bị phân tán, không liên lạc
được vói nhau và với trung tâm của chúng là thành Đông Quan.
Bên Trung Quôc, năm 1425, Minh Nhân Tông chêt. Minh
Tuyên Tông nối ngôi có ban tò chiếu: “Tha tội bạn nghịch cho các
quan lại và quân dân Giao Chỉ và bãi bỏ hết thay các thứ thuê
trung thâu buôn bán các loại: vàng, bạc, đồng, thiếc, sắt, muôi,
hương và cá, cho người bản xứ tự do mua bán, các quan không
được cấm”.
258
Người Minh biết rõ chê độ đô hộ hà khắc, nhân tình không
ưa nên ban ra tờ chiếu mệnh này, dụ dỗ dân ta theo phục. Nhưng
lòng oán ghét đã sâu, không ai còn tin tưởng lòi giả nhân giả
nghĩa. Đại thể không thể kéo ngược trở lại được.
BÌNH ĐỊNH VƯƠNG TIẾN RA ĐÔNG ĐÔ - Trong khi nghĩa quân
Lam Sơn hoạt động ở vùng Thanh, Nghệ thì ở miền bắc, các toán
nghĩa dũng Áo Đỏ, dân tộc miền núi, từ lâu vẫn ráo riết tung
hoành từ Tuyên Quang đến Gia Hưng (miền Hoà Bình, Sơn La,
Phú Thọ), lan cả sang vùng Vân Nam. Chu Văn Trang khởi nghĩa
ỏ phủ Tuyên Hoá, nay là Định Hoá, Thái Nguyên, đôt phá các
châu huyện. Hoàng An nổi dậy ở châu Quy Hoá (Yên Bái, Lao
Cai). Lực lượng quân đội ở Đông Đô không đủ sức đế đàn áp các
cuộc khởi nghĩa. Trần Trí rút hết quân người Minh và người bản
xứ đang làm đồn điền về bổ sung hàng ngũ quân chiến đấu, lại cáo
cấp về triều xin tiếp viện binh lương, gọi Lý An, Phương Chính
đang giữ Nghệ An, Đông Đô. Minh Tuyên Tông sai thái tử thiếu
bảo Thanh Sơn hầu Vương Thông lĩnh chức Chinh Di tưống quân,
cùng vói đô đốc Mã Anh làm tham tướng, đem 5 vạn sang cứu. Lại
sai Mộc Thạnh đem 15.000 quân bộ và 3.000 quân cung nỏ, từ Vân
Nam sang phói hỢp, ra lệnh tuyển thêm 30.000 quân người bản
thổ để bổ sung.
Đạo quân Vân Nam cùng với quân Trần Trí và Đèo Cát Hãn
tri châu Ninh Viễn mở cuộc hành quân lớn ở vùng tây bắc đàn áp
nghĩa quân Ao Đỏ, nhưng những toán quân này chỉ bất thần xuất
hiện đánh tỉa giặc, rồi lẩn trốn trong rừng sâu. Quân Minh dù
đông cũng không sao tiêu diệt được.
Ngay từ cuối năm 1424, Bình Định vương đã phái một đội
quân ra đánh Lạng Sơn đê phân tán sự chú ý của địch. Trấn thủ
Lạng Sơn Địch Diên bị giết chết. Cuối năm 1425, lại phái Phan
Liêu và Lộ Văn Luật ra hoạt động thăm dò ở vùng Gia Hưng,
Quôh Oai.
Sang năm 1426, nghĩa quân đang vây hãm mấy thành lớn
miền trong, lực lượng quân đội nhà Minh trước đây kéo đông vào
đánh thì một sô' bị tiêu diệt, sô' còn lại thì đang bị cô lập trong vài
thành còn giữ được. Quân đội địch các xứ thuộc Đông Đô yếu kém,
cả vê chất và lượng.
Sau thời gian chuẩn bị kỹ càng, đào tạo được những đoàn
quân hùng mạnh, tháng 8 năm 1426, Bình Định vương sai các
tướng dẫn quân tiến công ra bắc tranh thủ thòi cơ khi quân cứu
259
viện từ chính quôc chưa kịp sang tới nơi. Nghĩa quân ba đạo
cùng tiến.
Đạo thứ nhất, Phạm Văn xảo, Lý Triệq, Trịnh Khả, Đỗ Bí,
Lê Như Thuận dẫn 3.000 quân, 1 voi, đi theo đường Thiên Quan
(Nho Quan) tiến ra đóng ở phía tây, chiêu phủ nhân dân các xứ
Quảng Qpi, Quốc Oai, Gia Hưng, Quy Hoá, Đà Giang, Tam Đái và
Tuyên Quang, chặn đường viện binh từ Vân Nam sang.
Đạo thứ hai, các tướng Lưu Nhân Chú, Bùi Bí, Lê Khuyên
(Trương Văn), Lê Ninh (Nanh) dẫn 2.000 quân, 1 voi, tiến ra phía
đông, đóng giữ vùng hạ lưu sông Hồng. Thiên Trưòng, Tân Hưng,
Kiến Xương, Thượng Hồng (Bình Giang), Hạ Hồng (Ninh Giang),
chặn đường chạy trở về của quân Phương Chính, Lý An từ Nghệ
An nếu thua trận.
Hai đạo quân này, sau khi chiếm được đất, lại chia quân ra
đóng giữ các nơi: Nhân Chú, Bùi Bí cùng Lê Bồi, Lê Vị Tất dẫn
2.000 quân, 1 voi, đi chiêu mộ nhân dân các xứ Khoái Châu, Bắc
Giang, Lạng Giang, đóng giữ các nơi hiểm yếu, ngăn chặn quân
cứu viện từ Lưỡng Quảng tới.
Đạo quân thứ ba, do Đinh Lễ, Nguyễn Trắc (Xí) và Lê Bì dẫn
quân tinh nhuệ tiến thẳng ra thành Đông Đô.
Quân bắc tiến giữ kỷ luật rất nghiêm, đi đến đâu cũng không
xâm phạm tơ hào của dân. Các trấn, các lộ hết thảy đều hoan
nghênh, đua nhau đem thịt trâu, thịt dê, cơm rượu ra khao lạo
quân sĩ.
Bọn Lý Triện lấy được Quốc Oai và Tam Đái, rồi quân về
cùng đánh Đông Đô,
CHIẾN THẮNG NINH KIỀU, NHẤN MỤC - Ngày 12 - 8 âl, Lý Triện
đem 3.000 quân xuống uy hiếp thành Đông Quan. Trần Trí đem
quân ra đóng ở Ninh Kiều'*^ và ở ứng Thiên**^ để chống giữ. Lý
Triện, Lê Khả và Đỗ Bí hết sức chiến đấu. Quân Minh thua to, ta
chém được 2.000 quân địch, đuổi đánh giặc chạy đến phía tây sông
Ninh^*\ Trần Trí thua trận, chạy về Đông Quan, đào hào đắp luỹ
thêm, làm kế cố thủ. Chiến thắng Ninh Kiều không lớn lắm
nhưng rất quan trọng, mở đầu cho một chuỗi chiến thắng khác
trong thòi kỳ nghĩa quân chuyển ra bắc.

Ninh Kiều, Ninh Giang, úhg Thiẽn chắc là vùng huyện Từ Liêm, huyện Thanh Oai, về
những quãng sông Nhuệ Giang và sông Đáy. Mà Ninh Giang có lẽ là khúc sông Đáy ớ vào
quãng Từ Liêm hay Thanh Oai gì đó (theo Trần Trọng Kim trong VNSL).

260
Khi đang đuổi đánh Trần Trí thua chạy, Lý Triện chợt nghe
tin báo có hơn vạn quân Vân Nam kéo sang, sỢ để hai đạo quân
Minh hỢp lại thì khó khó đánh, bèn báo Phạm Văn x ả o đem hơn
ngàn quân bô" trí chặn địch, còn mình vẫn tiếp tục uy hiếp Đông
Quan. Ngày 20 - 9 âl, đô ty Viên LưỢng từ trong thành kéo quân
ra đánh nghĩa quân, lại bị đánh thua tan tác trong trận phục kích
ở cầu Nhân Mục, huyện Hoàn Long, nay thuộc Hà Nội. Viên
Lượng thua to, bị bắt sôhg.
CHIẾN THĂNG XA LỘC - Cùng ngày 20 - 9, trên vùng Tam
Giang, ở cầu Xa Lộc, quân của Phạm Văn x ả o và Trịnh Khả đánh
bại đạo quân cứu viện của địch gồm hơn vạn người do đô ty Vân
Nam vương An Lão chỉ huy. Địch bị giết và chết đuối hơn ngàn
quân. Sô" còn lại chạy vào thành Tam Giang miền Việt Trì, ngã ba
Hạc cô" thủ, không tiến xuông cứu nguy Đông Quan được.
Các đạo quân bắc tiến, sô" lượng không lớn lắm, nhưng có tác
động như chất men, đi đến đâu kích thích phong trào đấu tranh của
nhân dân bấy lâu cực khô dưới ách đô hộ của người Minh đang
ngóng đợi nghĩa quân để nổi lên hưởng ứng, phối hỢp và thực sự trở
thành quân chủ lực nòng cô"t cho lực lượng chiến đấu đông hơn gấp
bội (lời Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Đức Nghinh trong LSVN).
Nghĩa quân đi đến đâu cũng được dân chúng hoan hô. Các
toán nghĩa dũng trước kia còn sông sót, mà chưa kịp vào miền
trong đầu quân, nay hô"i hả gia nhập hàng ngũ nghĩa quân. Có cả
những người bị giặc bắt đi lính cho chúng, thấy chúng tàn ác, đã
đào ngũ, nay xung phong đi theo, không kế những tráng đinh thi
đua nhau hăng hái đi tòng quân. Nghĩa quân càng đánh, quân
càng tăng, mặc dầu trong chiến trận, dù có thắng, không sao khỏi
có một sô" người phải bỏ mình.
Ngày 17 - 9 âl, Lý An và Phương Chính theo lời gọi của Trần
Trí, giao chỉ huy Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, xuống
thuyền ra biển lúc ban đêm. Quan quân ta phục sẵn chặn đường
về bắc của chúng, bọn ấy cứ đi loanh quanh ở biên. Quân ta ít
thuyền, khó đuổi đánh cho nên chúng sau cũng chạy thoát được.
Bình Định vương để Lê Ngân và một sô" tướng tá ỏ lại vây thành
Nghệ An, đốc xuất thuỷ lục quân đuổi theo Lý An và Phương
Chính ra bắc. Ra đến Thanh Hoa, vương đem binh đánh thành
Tây Đô, nhưng quân Minh còn giữ vững được thành trì, không hạ
được. Vương đem quân đến đóng ở Lỗi Giang, uỷ lạo tướng sĩ, ban
thưởng các phụ lão. Nhiều người trong các châu huyện nghe thấy
261
vương tới, đến cửa quân tình nguyện theo vương xông pha ra trận.
Vương tuỳ tài cho ghép vào các đội quân.
CHIẾN THẮNG TUY ĐỘNG - Tháng 10 âl năm 1426, viện binh
Vương Thông theo đường Lạng Sơn xuông đến Đông Quan. Trần
Trí và Phương Chính phải cách hết cả quan tưóc, bắt phải theo
quân tham chiến. Vương Thông nắm quyền chỉ huy toàn bộ quân
địch, lực lượng gồm 10 vạn binh sĩ. Trần Hiệp giữ chức tham tán
quân vụ. Thông ỷ thế quân đông, quyết mở trận tấn công to lớn,
mưu diệt nghĩa quân, giành lại thế chủ động. Ngày 6 - 10 âl, chia
quân làm ba đạo cùng tiến vào vùng kiểm soát của nghĩa quân ở
phía tây nam Đông Quan.
Đạo thứ nhất do Thông trực tiếp chỉ huy, tiến về phía tây, đóng ở
bến Cổ Sở (bến đò Phùng thuộc huyện Thạch Thất, Sơn Tây).
Đạo thứ hai do Phương Chính, Lý An chỉ huy, tiến vào cầu
Yên Quyết, đến đóng ở Sa Thôi trên sông Nhuệ, huyện Từ Liêm.
Đạo thứ ba do Sơn Thọ, Mã Kỳ chỉ huy, tiến qua cầu Nhân
Mục, đến đóng ở Thanh Oai.
Các đồn luỹ liên tiếp nhau dãy dài hơn mười dặm.
Ngay buổi chiều ngày hôm ấy 6 - 1 0 , bọn Lý Triện, Đỗ Bí ở
Ninh Kiều đem quân và voi đến phục ở cổ Lãm, cho quân đến
đánh nhử Mã Kỳ. Kỳ đem quân đuổi đến cầu Tam La, giữa ba
làng La Khê, La cả, La Nội, giáp giới hai huyện Thanh Oai và Từ
Liêm. Phục binh của Lê Triện đổ ra đánh, quân Minh thua chạy,
nhiều người xuống đồng lầy chạy không được, bị chém hơn 1.000.
Mã Kỳ chạy thoát được về Đông Quan.
Thừa thắng, Lý Triện tiến quân lên đánh đạo quân Phương
Chính. Chính thấy Mã Kỳ đã thua, cảm thấy bị uy hiếp, vội vã rút
quân về Đông Quan, rồi ngay đêm đó, Kỳ và Chính cùng đem
quân về hội với Vương Thông ở cổ sở.
Vương Thông liệu thế tất nghĩa quân đến đánh, liệu phục
binh và phòng bị trước cả. Chợt có quân đội của Lý Triện đến.
Quân Minh giả ra đánh, rồi bỏ chạy, nhử quân ta vào chỗ hiểm có
chông sắt. Đi đến đấy, voi xéo phải chông, đi không được, rồi lại có
phục binh ra đánh. Lý Triện thua chạy về giữ Cao Bộ ở vùng
Chương Đức, Mỹ Lương và cho người về Thanh Đàm, nay là huyện
Thanh Trì, gọi bọn Đinh Lễ và Nguyễn Trắc (Xí) đến cứu. Đinh Lễ
và Nguyễn Trắc đem 3.000 quân và 2 con voi lập tức đêm hôm ấy
đến Cao Bộ, rồi phân binh ra phục ở Tuy Động, xã Tuy An, huyện
Chương Mỹ. Hai nơi này ở vào quãng huyện Chương Đức (sau là
262
Chương Mỹ), phía đông có sông Đáy, phía tây có sông con gọi là
sông Bùi chảy vào sông Đáy, chỗ ngã ba Thá. Cao Bộ thuộc xã
Trung Hoà, huyện Chương Mỹ.
Quan quân chợt bắt được tên thám tử giặc, tra hỏi được biết
rằng: Quân Vương Thông đóng ở Ninh Kiều, có một đạo quân lẻn
ra đường sau quân Lý Triện để đánh tập hậu, đại quân sang dò
chỉ chò lúc nào nghe tiếng súng thì hai mặt đổ lại cùng đánh. Biết
mưu ấy, đến canh năm đêm hôm ấy, Đinh Lễ sai người bắn súng
làm hiệu đánh lừa quân giặc. Quả nhiên, giặc nghe tiếng súng đều
kéo ùa đến đánh. Bấy giò phải độ tròi mưa, đường lầy, quân Minh
vừa đến Tuy Động thì bị quân ta bốn mặt cùng đổ ra đánh. Chiến
trận kịch liệt vô cùng. Quân Minh phần bị giết, phần giày xéo lên
nhau mà chết, phần ngã xuống sông chết đuối, cả thảy 50.000
người (?!); sông Ninh bị tắc nghẽn vì xác địch. Số bị bắt sông hơn
vạn người. Quân ta thu được đồ đạc, khí giới không biết bao nhiêu
mà kê. Thượng thư Trần Hiệp và nội quan Lý Lương bị giết tại
trận. Vương Thông bị trúng thương cùng tàn quân chạy về Đông
Quan. Bắc sử cũng phải thừa nhận trận này đại bại, tan vỡ, số"
chết hàng vạn.
Trận Tuy Động đánh vào tháng 10 năm Bính Ngọ (1426) là
chiến thắng lớn nhất từ 8 năm khởi binh. Quân Minh từ đây càng
ngày càng lún sâu vào thế bị động.
Phương Chính và Mã Kỳ cũng chạy thoát được về Đông
Quan, cùng Vương Thông cô^ thủ thành này. Đinh Lễ thừa thắng
kéo quân về vây thành, quân uy lừng lẫy như sấm vang. Sau
chiến thắng Tuy Động, công cuộc phục quốic mười phần đã được
bảy, tám.
Sử gia Trần Trọng Kim nghi ngờ người chép quốc sử về trận
này đã chủ quan: Quân của Lý Triện và Đinh Lễ chưa đầy vạn
người làm sao đánh giết được 5 vạn và bắt sống được 1 vạn quân
Minh. Chúng đâu có hèn kém quá! Dù sao thì chiến thắng này vẫn
to lớn và sau đó nghĩa quân đã nắm vững sự thành công. Rất có
thê quân Vương Thông đưa sang không nhiều lắm và sô" bị chết và
bị bắt sông chừng 1 vạn.
VÂY HÃM THÀNH ĐÔNG QUAN - Bình Định vương ở Lỗi Giang
hay tin thắng trận, thân xuất đại quân và 20 con voi tiến ra bắc,
đóng quân ở Thanh Đàm (Thanh Trì). Sai Trần Nguyên Hãn đem
100 chiến thuyền đi theo Lung Giang (sông Đáy?), tiến theo cửa
Hát Giang (cửa sông Đáy thông vối sông Hồng), thuận dòng sông
263
Hồng tiến đóng ở Đông Bộ Đầu. Bùi Bị, Đinh Lễ đem 1 vạn quân
đi lên đóng ở cầu Tây Dương (?). Vương tự dẫn đại quân hạ trại
ngay gần thành Đông Quan. Đêm 22 - 10 âl quân ta đánh cả bốn
mặt, phóng lửa, đốt những nhà bên ngoài thành. Binh tướng của
Phương Chính ở doanh ngoài vội vàng chạy vào trong thành, bị
chết ngổn ngang. Ta giải phóng hết những người bản xứ từng bị
uy hiếp phải theo giặc, thu nhặt được hơn trăm chiến thuyền,
cùng rất nhiều khí giới, đồ đạc. Bè lũ Vương Thông c ố chết giữ
thành. Bình Định vương đóng dinh tại đông Phù Liệt uy hiếp.
Quân Minh trong thành không ra đánh, khí giới mất mát nhiều,
chúng phá các chuông khánh và đỉnh các đền chùa đúc đạn. Việc
này càng khiến dân ta thêm oán ghét.

Về các tướng nghĩa quân Lam Sơn, nhiều tập sử chép hầu
hết là họ Lê: Nguyễn Trãi, Nguyễn Trắc (Xí), Lý Thiện, Định Khả,
Trần Lịch, Đinh Lễ, Phạm Vấn... Theo Bình Định vương khởi
nghĩa, xưng là họ Lê, cùng họ với thủ lĩnh, để người Minh không
truy những bà con trong họ nhà mình mà bắt tội. Cũng có nhiều
người có công sau được ban quôh tính họ Lê, nhưng rồi ra cho thế là
quên gôc, lại được lấy lại họ cũ.

Từ khi Bình Định vương ra bắc, hào kiệt các nơi nô nức về
theo, nguyện hết sức phá giặc. Vương dùng lòi phủ dụ, tuỳ tài cao
thấp từng người, cho liệt vào các chức vụ.
Thành Đông Quan bị vây hãm, hệ thông chính quyền người
Minh tan rã. Quân khởi nghĩa hỢp tác với nhân dân đánh chiếm
các đồn luỹ địa phương. Quân Minh phải rút bỏ các đồn luỹ nhỏ
kéo về tập trung tại mấy thành luỹ lớn. Cuối năm 1426, quân
Minh, ngoài Đông Quan, chỉ còn đóng giữ các thành: Diêu Diêu
(Gia Lâm), Thị cầu thuộc Bắc Ninh, Xương Giang (Bắc Giang),
Khâu Ôn (Lạng Sơn), Tam Giang (Vĩnh Yên), c ổ Lộng (Nam
Định) và Tây Đô, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá. Nghĩa quân đã
kiểm soát đưỢc hầu hết đất nước. Các tù trưởng miền núi xa xôi
cũng về xin quy thuận, kể cả người trước đấy cộng tác với địch như
Đèo Cát Hãn. Tri châu Bình Chánh Hà Hoan không chịu hàng, bị
bắt giết.
T ổ CHỨC CAI TRỊ - Nhân dân khắp nưóc đã thoát khỏi ách
thống trị của người Minh. Bình Định vương dựng chính quyền độc
lập cai trị các địa phương. Miền bắc chia làm bốh đạo: những trấn
264
Tam Giang, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Gia Hưng thuộc Tây đạo;
Thượng Hồng, Hạ Hồng, Thượng Sách, Hạ Sách cùng với An
Hưng, thuộc Đông đạo; Bắc Giang, Thái Nguyên thuộc Bắc đạo;
Khoái Châu, Lý Nhân, Tân Hưng, Kiến Xương, Thiên Trường
thuộc Nam đạo. Dưới đạo có trấn hay lộ. Cử các quan văn, võ tại
trung ương và ngoài đạo coi việc chính trị, đặt chức tuần kiểm các
cửa biển khám xét người qua lại, bắt kẻ gian làm việc cho người
Minh. Vương lại khuyên khích các người có tài, có tâm huyết ra
giúp sức cứu nước, tịch thu sản nghiệp, vỢ con, tôi tớ lũ nguy quan
theo người Minh, lấy thóc lúa sung vào kho dự trữ cung cấp quân
nhu. Cấm ngặt quân sĩ không được chặt phá cây cối, hoa quả, cướp
bóc tài sản của nhân dân.
Đầu năm 1427, trong khi còn đang chiến đấu, một khoa thi
đã được mở ở Bồ Đê với đầu đề “Hiệu dụ thành Đông Quan”. Khoa
này lấy được 36 người đỗ, bô dụng vào bộ máy chính quyền trung
ương và địa phương.
Quân đội được tăng cường mau chóng về cả chất lượng và số
lượng. Đầu năm 1427, tổng sô" có được 35 vạn đều được rèn luyện
chu đáo, không còn là ít so vối quân sô" địch nữa.
VƯƠNG THÔNG XIN HOÀ LẦN THỨ NHẤT - nghĩa quân từ khi
tiến ra bắc, thắng luôn lớn, nhỏ nhiều trận. Quân Minh thua luôn
không còn giữ được thê chủ động, bị hãm vào trong mấy thành trì
lốn, thê" không tồn tại được lâu dài nữa. Vương Thông ở Đông
Quan bị khôn đôn, không còn có đủ lực lượng đánh ra được nữa.
Bình Định vương sai ngưòi vào trong thành du thuyết tướng
tá trong đó mở cửa thành ra hàng, hoặc xin giảng hoà đê được
bình yên đem quân về nước. Vương Thông cũng rất muôn hoà
nhưng còn muôn giữ thể diện nước lớn, sai người ra nói với vương
nên tìm người dòng họ Trần lập nên làm vua thì sẽ chịu bãi binh.
Vương nghĩ đánh nhau mãi trong nước tàn hại, dân tình khô sở.
Vả không đánh mà đô"i phương phải khuất phục là thượng sách của
nhà binh nên y theo Thông. Bấy giờ có người tên là Hồ Ong, xưng là
cháu ba đòi vua Nghệ Tông, lánh nạn đến châu Ngọc Ma. Vương bèn
sai người đi đón Hồ ồng về, đổi tên là Trần cảo (có tập sử chép Cao)
dựng lên làm vua, lấy niên hiệu là Thiên Khánh. Vương tự mình xưng
là Kiêm hiệu thái sư bình chương quân quốc trọng sự, đại thiên hành
hoá, tứ kim ngư, đại kim hố phù, trung vũ vệ quốc công. Bấy giờ là
tháng 11 âl năm 1426. Vương làm việc này đê tiện sự cầu phong với
vua Minh, dập tắt chiến tranh, chóng thu hồi độc lập.
265
Vương Thông cho người đưa thư ra xin hoà và xin cho được đem
toàn quân về nước. Nguyễn Trãi thương lượng đi đến sự thoả thuận:
Vương Thông nhận rút quân, trao trả các thành trì, tập trung quân
các thành từ Thanh Hoa trở vào về cả Đông Quan, rồi từ Đông Quan
trỏ về nước. Nghĩa quân nhận sửa sang đường sá, cầu công, cung cấp
lương thực và phương tiện cho quân Minh rút về, lập con cháu nhà
Trần làm vua, cử sứ giả sang nhà Minh quy hàng phục tội.
Bình Định vương cử sứ giả cùng với quan nhà Minh đem biểu
cầu phong sang triều đình Minh xin lập Trần cảo. Trong khi chờ
đợi, để tỏ thiện chí, vương cho phép quân Minh được đi lại mua
bán. Vương Thông cho gọi quân các nơi về hội tại Đông Quan.
Việc đã định như thé’, nhưng có mấy người nước ta theo giặc
là bọn đô ty Trần Phong, tham chính Lương Nhữ Hô"t, đô chỉ huy
Trần An Vinh sỢ khi quân Minh về rồi thì mình phải tội bị giêt,
lấy chuyện 0 Mã Nhi bị ám hại trên đường về nước, xui Vương
Thông đừng rút quân, cho người về chính quốíc cáo cấp xin viện
binh. Vương Thông nghe theo, bề ngoài vẫn nói hoà, nhưng lại sai
người đào hào, rắc chông cô" thủ, đợi được cứu viện. Bình Định
vương biết được việc Vương Thông tráo trở, sai đặt phục binh bốh
mặt ngoài thành, bắt các người trong thành ra vào, bắt được hơn
3.000 lính và hàng trăm ngựa. Vương lại sai tướng dẫn quân đánh
vào các đồn: Bùi Quốc Hưng đánh vào Diêu Diêu (Gia Lâm) và Thị
Cầu (Bắc Ninh). Lê Kliả và Lê Ván đánh Tam Giang (Bạch Hạc). Lê
Sát, Lê Thọ, Lê Lý và Lê Lãnh đánh Xương Giang (Bắc Giang). Trần
Lưu và Phạm Bôi đánh Khâu ôn (Lạng Sơn). Trong khi đôi bên còn
đánh giữ nhau, Nguyễn Trãi vẫn biên thư, lời lẽ sắc bén, khuyên
Vương Thông và các tướng Minh nên hoà, con đường trọn vẹn lui
quân, chúng đang lúc suy bại, không thể nào làm gì được khác.
Bình Định vương lại sai bách hộ Hà Vương, người Minh đã
đầu hàng, vào thành dụ Vương Thông ra hàng. Nguyễn Trãi cũng
biên thư gửi các tướng giữ các thành đang bị vây hãm khuyên
chúng hàng.
BÌNH ĐỊNH VƯƠNG ĐỐNG QUÂN ở B ồ ĐÊ - Sang nán 1 4 2 7 , Bình
Định vương tiến quân lên đóng 0 Bồ Đề, phía bắc sông Hồng, chia
quân vây chặt thành Đông Quan, cử Trịnh Khả đóng quân giữ vây
cửa đông, Đinh Lễ cửa nam, Lê Chứng (Lê Cực) cửa tây, Lý Triện
cửa bắc.
Trong thòi gian vây hãm Đông Quan, Bình Định vương chấn
chỉnh bộ máy cai trị, đặt sáu bộ tại trung ương; an phủ sứ các lộ,
266
quan văn; cử hà thủ quân, quan võ; bổ dụng người có tài năng giữ
quan chức, dùng 515 người vào làm thuộc lại các bộ, viện, đạo, lộ.
Ra lệnh cho các địa phương dò hỏi tìm tòi các người có tài ba trí dũng,
kêu gọi người hiền lương ra giúp nước, tu bổ hay xây dựng lại đền thờ
Hưng Đạo vương và các vỊ công thần đòi trước đã bị quân Minh tàn
phá. Quân lệnh của vương rất nghiêm; Tướng tá cậy có chiến công
khinh nhờn, hoặc lấy trộm muốĩ, của công đem đi bán, khiếm khuyết
khí giói đội ngũ không chỉnh tề, đều bị chém.
Trong khi nghĩa quân vây hãm thành Đông Quan thì ở ngoài
cõi cũng thu được nhiều thắng lợi. Tháng riêng âl năm 1427, đô
đôc Thái Phúc, chỉ huy uân giữ thành Nghệ An, nơi này từng bị
hãm trong gần hai năm, mở cửa thành ra xin hàng. Đồng thòi
tướng Tiết Tụ ở thành Diễn Châu cũng hàng.
Tổng quản việc quân dân các xứ Lạng Sơn và An Bang, thiếu
bảo Trần Lưu, xuất quân đánh thành Khâu ôn, chia quân đóng
giữ các chỗ hiểm yếu. Thành này trên đường sang Trung Quốc có
vị trí quan trọng. Trần Lưu và tướng Phạm Bôi vây hãm ráo riết.
Nhiều quân sĩ người Minh đang đêm bỏ trại trốn đi. Ngày 1 3 - 1
âl, nghĩa quân hạ thành này, tiêu diệt sô”quân còn lại.
Bình Định vương sai Cao Ngự tư mã tổng đốc trấn Thiên Quan
dẫn quân đi đánh thành cổ Lộng, nay thuộc huyện Y Yên, Nam Định,
tăng cường việc bô vây uy hiếp thành Đông Quan, cử Phạm Yến đóng
đồn tại cửa đông; phụ với Trịnh Khả, Lê Sát, Lê Lý, Chích; cửa
nam, phụ với Đinh Lễ, Đỗ Dị, Lê Nguyên; cửa tây, phụ với Lê Cực (Lê
Chứng), Lê Văn An; cửa bắc, phụ với Lý Triện.
Lê Chích hỢp quân với Bùi Quốc Hưng đánh chiếm được
thành Diêu Diêu (Dao Kê). Chỉ huy Trương Lân và tri p h ủ Trần
Văn ra đầu hàng.
Sau trận Tuy Động, phần thắng đã nghiêng hẳn về quân ta. Quân
Minh thế yếu. Nghĩa quân có phần nào khinh địch. Hai đại tướng Lý
Triện và Đinh Lễ dũng cảm và có nhiều công lao phải bỏ mình.
Ngày 7-2 âl, Phương Chính bất thần từ trong thành kéo
quân ra đánh vào trại quân ta ở Tảo Động, vùng Nhật Tảo huyện
Từ Liêm. Lý Triện không cẩn thận, bị giặc đánh lén, giết mất. Đỗ
Bị bị giặc bắt.
Ngày 18 - 2 âl, một toán quân Minh đánh vào đồn bãi Sa Đôi,
huyện Từ Liêm. Quân ta cố sức chống cự đến hết đạn, lấy cả vò, lọ,
gạch liệng ra quân địch. Thê kém, phải dỡ nhà phóng hoả đổt theo
chiều gió, rồi bỏ chạy bơi lội qua sông. Có một sô” bị chết đuốĩ.
267
Toán quân Thiên Quan và nhiều người không biết bơi, lâm vào thế
cùng, liều lĩnh cố chết chiến đấu. Giặc thua phải bỏ chạy.
Ngày 8 - 3 âl, Vương Thông đem quân ra đánh trại Tây Phù
Liệt huyện Thanh Oai. Tư không Đinh Lễ và thượng tướng quân
Nguyễn Trắc (Xí) đem 500 quân đến cứu, đi đến Mỹ Động, xã
Hoàng Mai huyện Thanh Trì, gặp giặc. Hai bên đánh nhau mạnh.
Đinh Lễ và Nguyễn Trắc (Xí) thua trận, bị bắt. Nguyễn Trắc (Xí)
trốn về được. Đinh Lễ bị giặc giết.
Lê Chích dẫn quân vây đánh thành Thị Kiều (Thị Cầu, Bắc
Ninh). Tướng Minh Vương Đường và Bảo Thanh ra hàng ngày 10 -
3 âl.
Nguyễn Trãi cùng đi với người Minh đã hàng chỉ huy họ
Tăng đến Tam Giang, thành này Trịnh Khả đang vây đánh, chưa
hạ được, chiêu dụ người Minh ra hàng. Ngày 6 - 3 âl, chỉ huy sứ
Lưu Thanh xin hàng.
Có sự lũ hàng binh người Minh tụ họp nhau hơn người làm
phản, việc vỡ lở, bị giết cả. Riêng binh sĩ Tam Giang không dự,
được thoát. Do sự phản bội này, Bình Định vương bô( trí những
quan nhà Minh đã đầu hàng vào các sứ Lam Ap (Lam Sơn, Thanh
Hoa), Nghệ An, Tân Bình, Hoá Châu.
Thành Xương Giang rất kiên cố, lại có vị trí quan trọng. Chỉ
huy Kim Dận cố thủ. Các tướng tư mã Lê Sát, thiếu uý Lê Lý vây
đánh mãi, suôd hơn 9 tháng, không hạ được. Bình Định vương sai
thái uý Trần Nguyên Hãn dẫn quân lên đánh phá. Ngày 3 - 9 âl,
hạ được thành này. Tri phủ Lưu Tử Phụ, chỉ huy Kim Dận cùng
tướng Lý Nhậm đều bị tử trận. Ta thu được nhiều chiến lợi phẩm,
khao quân sĩ. Thành Xương Giang bị hạ mười ngày trước khi quân
Liễu Thăng sang cứu viện Vương Thông tiến vào biên giới, làm
cho viện binh mất chỗ đóng quân quan trọng.
Sau trận Mỹ Động, quân Minh trong thành Đông Quan có
mấy lần ra đánh trận nhỏ nữa. Chúng phá tan được đồn ở bãi Cơ
Xá mới đắp, nhùng bị thua một trận ỏ huyện Từ Liêm, một lần ở
hạt Thổ Khối thuộc Gia Lâm, tả ngạn sông Hồng.
BÌNH ĐỊNH VƯƠNG ĐẶT PHÁP LUẬT đ Ể t r ị q u â n d â n - Trong
khi vây đánh thành Đông Quan và mấy thành lớn, Bình Định
vương cũng lo việc cai trị, đặt ra các điều lệ đê cho việc binh có kỷ
luật và cho lòng dân được yên.
Vương ân cần kêư gọi các vị hào kiệt gắng sức ra giúp, lời dụ
rất khẩn thiết. Dù cao khiết muôn giữ tiết tháo, không ham công
268
danh phú quý thì hiện nay thiên hạ phải chịu cảnh khổ sở lầm
than, cũng nên gắng sức cứu vãn nhân dân, vì nước vì dân hãy ra
sức cứu nạn trong lúc này, sau này thành công sẽ về ẩn. Vương
ban thưởng tước hầu cho mấy tù trưởng về quy thuận, khuyên
khích họ đem dân binh miền núi về tham chiến chống quân Minh.
Nghiêm cấm tả đạo, các người đồng côt không được hành nghề giả
xưng tà ma quỷ thần, đem những lời phù phiếm mê hoặc lòng
người, trái lệnh phải tội nặng. Ra lệnh cho dân lưu tán đi chỗ khác
trở về nguyên quán làm ăn. Kẻ chăm chỉ cày cấy ruộng nương cho
được giao dịch mua bán. Hoang phế việc nông bị tội. Vợ con gia
quyến các người ra làm quan với giặc được phép theo lệ lấy tiền
chuộc: vỢ con quan bô' chính 70 quan, vỢ con sinh viên và thổ quan
10 quan, con trai con gái đầy tớ đứa ở 5 quan. Tiền phạt thu được
sung quỹ nuôi quân. Nhân dân dâng thóc đê cấp phát cho qUcân sẽ
được phong chức. Các quan bô'n lộ; Thiên Trường, Kiến Xương, Lý
Nhân, Tân Hưng phải cấp dưỡng binh sĩ Minh đã ra hàng, gồm
hơn 600 người, không được để cho họ phải lưu ly thất sở. Ban 3
điều răn các quan văn, võ;
1 - Không được vô tình.
2 - Không được dõì trá, khinh nhờn.
3 - Không được gian tham.
Lại đặt ra 10 điều làm kỷ luật cho các tướng sĩ, nghiêm cấm
làm ồn ào trong quân; đặt chuyện làm cho mọi người sỢ hãi khi
không có việc gì; chùng chình không tiến lúc lâm trận nghe trông
đánh; không dừng khi thấy cờ kéo dừng; không lùi khi nghe tiếng
chuông lui quân; phòng giữ cẩn thận đế mất thứ ngũ; bỏ việc
quân, lo việc vỢ con; tha binh để làm tiền, làm sổ sách mập mờ;
làm mất công quả của người khác tuỳ theo lòng yêu ghét của
mình: gian dâm, trộm cắp. Quân lính ngày thường có tội, không
được giết càn, phải chờ xét xử, trừ khi lâm trận trái quân lệnh.
Lại đặt ra những hiệu lệnh thê nào phải tiến đến dinh, chấp lệnh
phải nhập hàng ngũ nghe lệnh. Lâm trận mà lùi, bỏ người sau
không cứu thì phải tội chém. Đại khái luật trong quân nghiêm
như thê nên dân gian kính phục lắm.
Trong thời gian chông chọi với quan quân nhà Minh, Bình
Định vương giao hảo vối các nước Ai Lao và Champa. Sau trận
thua năm 1422, người Ai Lao lại hoà vói ta, mấy lần tặng vương
voi. Champa cũng dâng sản phẩm địa phương. Vương ân cần tặng
lại vải, lụa và ngựa.
269
NHÀ MINH CỨU VIỆN VƯƠNG THÔNG - Quân Minh bị thua lớn
trận Tuv Động, Chúc Động, Trần Hiệp bị giết. Vương Thông sai
người vê triều cáo cấp, xin thêm binh sang cứu viện. Minh Tuyên
Tông kinh hoảng, tháng 3 âl năm 1427, cử thái tử thiếu phó An
Viễn hầu Liễu Thăng lĩnh chức Chinh lỗ phó tướng quân, tham
tướng Bảo Định bá Lương Minh, đô đốc Thôi Tụ, thượng thư binh
bộ Lý Khánh giữ chức tham tán quân vụ, thượng thư bộ công
Hoàng Phúc (người giữ chức lớn lâu năm bên ta) và hữu bô chánh
sứ Nguyễn Đức Huân, dẫn 10 vạn quân trong các tỉnh Kinh Hồ,
Chiết Giang và Phúc Kiến, cùng 2 vạn ngựa, do đường Quảng Tây
sang đánh nước ta. Lại sai thái phó Kiềm quốic công Mộc Thạnh
lĩnh chức Chinh nam đại tưống quân, tham tưống An Hưng bá Từ
Hanh và Tây Ninh bá Đàm Trung, đem 5 vạn quân Vân Nam do
đường Vân Nam, cùng sang đánh. (Lê Quý Đôn, trong Đại Việt
thông sử chép quân Liễu Thăng 7 vạn, Mộc Thạnh 5 vạn, gần với
sô" quân Minh sử chép tất cả 11 vạn 5 ngàn không kê phu vận tải.
Lam Sơn thực lục chép tổng sô" 20 vạn quân, 3 vạn ngựa).
Ngày 10 - 6 âl, đạo tiền quân nhà Minh Trần Viễn hầu Cao
Hưng Tổ dẫn 5 vạn quân (e có quá đáng, chỉ độ 1, 2 vạn), 5 ngàn
ngựa, đánh vào cửa ải Phá Luỹ (Nam Quan), bị các tướng Trần
Lực và Lê Bôi đánh thua. Hưng Tổ phải chạy về Quỳ Châu.
Nghe tin đại binh nhà Mmh sắp ồ ạt kéo sang, nhiều tướng
xin Bình Định vương gấp rút đánh chiếm lấy ngay thành Đông
Quan để tuyệt nội ứng của chúng. Vương phán: Việc đánh lấy
thành lúc này là hạ sách. Thành kiên cô", phải cô" gắng đánh mấy
tháng hoặc hàng năm chưa chắc hạ nổi. Binh sĩ tất mỏi mệt. Khi
ấy, viện binh địch kéo đến thì khó đánh dược nổi. Chi bằng ta hãy
cứ dưỡng sức. Viện binh kéo đến, chúng tất phải đi xa mau, khó
nhọc, ta đánh phá được chúng thì tất nhiên quân trong thành phải
hàng. Thê có phải làm một việc mà có được cả hai không. Vương
sai các nơi canh gác nghiêm ngặt, tuần phòng ngày đêm, lại ra
lệnh cho nhân dân các lộ Lạng Giang, Bắc Giang, Tam Đái, Tuyên
Quang, Quy Hoá, phải dời đi nơi khác, bỏ đồng không nhà trông,
đê tránh quân giặc tới. Từ khi nghĩa quân kéo ra bắc, tráng đinh
khắp nơi đua nhau xin nhập ngũ đầu quân. Tổng sô" binh sĩ tăng
cao lên tới 35 vạn người. Bình Định vương đã cho bớt hơn phần
nửa về làm ruộng. Nay viện binh giặc sắp tói, phải gọi thêm quân
ra phòng ngự việc nước, cứ nhà nào 3 người thì lấy một người ra
làm lính. Vương hỢp các tướng bàn: Quân giặc cậy khoẻ, khinh
270
yếu, lấy nhiều bắt nạt ít chỉ côt đánh cho được, không tương đến
điều khác. Sự khoẻ lấn yếu, nhiều thắng ít là thông thường.
Nhưng chúng dẫn quân đi cứu nguy, tất phải mau lẹ. Cứu binh
như hoả. Đường xa ngàn dặm, binh sĩ chúng mỏi mệt. Ta đem
quân đã được thảnh thơi đánh chúng, tất phải thắng. Bèn sai
Trần Nguyên Hãn, Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Ninh, Đinh Liệt, Lê
Thụ đem 1 vạn quân, 5 con voi, lên đóng giữ các nơi hiểm yếu,
phục binh tại quan ải Chi Lăng, chờ giặc kéo đến đón đánh ngay
tại biên cảnh, đừng để chúng vào được Bình Thành. Lại sai Phạm
Văn Xảo và Trịnh Khả dẫn binh tưỢng lên đóng giữ ải Lê Hoa,
phía bắc Lào Cai thuộc Mông Tự đất nước ta xưa (nay thuộc
Trung Quổic), chông giữ đạo binh Vân Nam. Mặt trận miền đông
quan trọng, lại sai Lê Lý, Lê Văn An đem thêm 3 vạn quân lục tục
kéo lên.
TRẬN CHI LĂNG - LIÊU THẢNG B ỏ MÌNH - Ngày 18 - 9 âl, quân
Liễu Thăng kéo đến cửa ải Phá Luỹ. Tưống giữ quan ải Trần Lựu
kéo quân lui về đóng tại Ai Lưu. Đến khi giặc đến đánh Ai Lưu,
Trần Lựu lại lui về Chi Lăng. Cứ cách từng đoạn, chỗ nào cũng có
đồn, quân giặc đi đến đâu, không có ai chông giữ, phá luôn ngay
mấy đồn. Liễu Thăng đắc ý đuổi tràn đi. Bình Định vương làm ra
bộ khiếp sỢ, sai người đưa thư nói với Liễu Thăng xin lập Trần
Cảo làm vua và xin bãi binh. Liễu Thăng không mở thư xem, cứ
tiến quân lên đánh.
Ngày 20 - 9 âl, Liễu Thăng tiến đến gần cửa Chi Lăng với
thái độ chủ quan, thân đốc quân tiền phong tiến vào thung lũng.
Lê Sát và Trần Lực dẫn quân ra đánh, giả thua bỏ chạy. Liễu
Thăng đem 100 quân kỵ đuổi theo, bỏ đại đội ở lại sau. Đuổi được
một quãng, phải chỗ bùn lầy đi không được. Phục binh ta bôn mặt
đổ ra đánh, chém được Liễu Tháng ở núi Đào Mã Pha, nay là Mã
Yên Sơn, làng Mai Sơn thuộc On Châu, tiêu diệt toán kỵ binh.
Hàng ngũ quân Minh hoang mang, rôi loạn. Lê Sát, Trần Lực
thừa thắng tiếp tục tiến công, truy kích. Hàng vạn giặc bị giết.
Giao chiến buổi đầu, quân cứu viện đã bị trận đòn chí mạng.
Ngày 25 - 9, quân Lê Lý và Lê Văn An hội cùng quân Lê Sát
đánh phá quân Minh, chém Lương Minh tại trận. Ngày 28 - 9,
tham tán quân vụ Lý Khánh chết bệnh trong quân. Có thuyết y đã
tự tử. Thôi Tụ và Hoàng Phúc thu thập sô" còn lại cô" mở đường
chạy về thành Xương Giang, nửa đường bị quân Lê Sát đuổi đánh
phá giết hại nhiều. Thôi Tụ cô" đánh lấy đường chạy về Xương
271
Giang, không ngờ thành này đã bị Trần Nguyên Hãn đánh lấy
mất rồi. Quân Minh sỢ hãi lập trại đắp luỹ ở giữa đồng chông giữ.
Thôi Tụ xin hoà. Bình Định vương không cho, sai quân thuỷ bộ
vây đánh, chặn hết các ngả đường tiếp tế lương thực, không cho
địch liên hệ được với thành Đông Quan và các thành khác, chuẩn
bị tổng công kích. Trần Nguyên Hãn dẫn quân đánh úp vào quân
vận lương thực của địch. Phạm Vấn, Lê Khôi, Nguyễn Trắc (Xí)
đem quân thiết đội tiến đánh. Hai bên đánh nhau trong 15 ngày,
quân ta toàn thắng, phá tan quân Minh, chém chết 5 vạn quân (có
sách chép 3 vạn), bắt sông được Hoàng Phúc, Thôi Tụ và 100 võ
tướng, hơn vạn binh sĩ, thu chiến lợi phẩm nhiều vô kể. Thôi Tụ
sau được đưa về Đông Quan, phải bệnh chết.
Các trận chiến thắng Chi Lăng vả Xương Giang đánh đại bại
10 (hay 7) vạn quân Minh, lớn nhất của nghĩa quân Lam Sơn, hơn
cả chiến thắng Tuy Động, Chúc Động, đã khiến cho vua quan nhà
Minh không còn dám cô" công theo đuổi việc đánh chiếm đê thống
trị nước ta nữa.
MẶT TRẬN TÂY BĂC - Trong khi nghĩa quân tiến đánh đạo
quân Minh từ Quảng Tây tiến sang thì tại ải quan Lê Hoa, 5 vạn
quân Mộc Thạnh giữ nhau với quân Phạm Văn xảo và Trịnh Khả.
Bình Định vương biết Mộc Thạnh là viên lão tướng đã từng dự
nhiều chiến trận bên ta, từng trải việc quân, tất thận trọng không
tiến binh bừa bãi, đã mật báo cho hai viên tướng này phải cô" thủ,
chớ có giao chiến. Chắc Thạnh phải chờ xem quân Liễu Thăng tiến
thoái thê nào, rồi mới hành động. Đến khi Liễu Thăng thua trận,
vương mới sai bôn tỳ tướng đã bị bắt làm tù binh mang các sắc
thư, phù tín, ấn chương của Liễu Thăng đưa đến cho Mộc Thạnh.
Quân sĩ của Thạnh kinh hãi, tự tan rã. Phạm Văn xảo và Trịnh
Khả tung quân đuổi đánh ráo riết, đến Lãnh Thuỳ và Đan Xá,
chém hàng vạn người, bắt được người và ngựa mỗi thứ hơn ngàn
và nhiều chiến lợi phẩm.
VƯƠNG THÔNG XIN HOÀ LẦN THỨ HAI - Trong khi Liễu Thăng
mới đột nhập đất nước ta thì ở Đông Quan, quân Vương Thông có
vài lần kéo nhau ra đánh vào trại quân ta, đều bị đẩy lui.
Vương Thông cô" gắng mở một trận lớn. Quân tưống ta đặt
phục binh rồi giả thua chạy. Quân Minh đuổi theo tới ổ phục kích,
quân ta vùng lên đánh tới tấp, địch thua chạy tơi bời. Vương
Thông ngã ngựa, suýt bị bắt, may chạy kịp vào thành được thoát.
Từ đấy chỉ ở trong thành, không dám ra nữa.
272
Bình Định vương sai thông sự Đặng Hiếu Lộc dẫn Hoàng
Phúc do ta bắt được, cùng với ấn tín cờ trông đến Đông Quan hiểu
thị. Bọn Vương Thông thấy thế, cả sỢ trong lúc lại đang bị vây
khôn đốn, bèn xin hoà lần nữa. Tướng Nguyễn Lôi đem thư đến
các thành cố Lộng và Tây Đô dụ hàng binh tướng hai thành này.
Chúng đều nghe theo ra hàng. Dân chúng cực khổ nhiều về chính
sách bạo ngược của nhà Minh, có nhiều người kéo đến xin vương
đánh gấp và giết cho bằng hết để hả giận. Vương phán: Việc binh
lấy sự toàn quân là hơn. Nay để Vương Thông nói với vua Minh
trả lại nưốc cho ta, không còn xâm lấn thì còn gì hơn nữa (Thực sự
thì khi địch đã lâm vào thê mười phần chắc chết, mà mở đường
sống cho chúng được ơn, có đức rộng lượng lớn. Cô" tình giết cho
hết thì chúng c ố tình liều lĩnh hăng hái chông cự lại, dù không thủ
thắng, cũng sát hại được nhiều quân sĩ của mình).
Bình Định vương ưng cho hoà, ra lệnh cho các lộ Bắc Giang,
Lạng Giang tu bổ đường sá cầu cống, sắm đủ ghe thành cho quân
Minh trở về nước. Lại sai Nguyễn Trãi soạn tờ biểu đứng tên Trần
Cảo xin phong, lời lẽ khiêm tô"n, đưa tờ biểu nhờ tướng ơ Quảng
Tây Cô" Hưng Tổ’ chuyển đệ về triều Minh. Lại sai Lê Thiếu Đĩnh,
Lê Quang cảnh và Lê Đức Huy đem phương vật, gồm hai người
bằng vàng thay mình: Trần cảo và Lê Lỵ (Lợi), có một lư hương
bằng bạc, đôi bình hoa bằng bạc, 30 tấm lượt, 14 đôi ngà voi, 12
bình hương trầm, 2 vạn nén hương duyến, 24 cây hương trầm. Lại
đem 2 dấu dài ngân, đôi hổ phù của Chinh lỗ phó tướng quân cùng
với sô kê quan quân nhân mã đã bị bắt đem trả lại triều Minh.
Đồng thời sai lính hộ tốhg Hoàng Phúc về Quảng Tây.
Ngày 22 - 10 âl, Bình Định vương cùng các tưống Minh:
Vương Thông, Mã Anh, Sơn Thọ, Mã Kỳ, Trần Trí, Lý An,
Phương Chính... hội ở cửa nam thành Đông Quan. Vương ra
lệnh cho các tướng giải vây thành này kéo quân lui về. Lại sai
đi giải vây các thành c ổ Lộng, Tây Đô và Chí Linh, truyền
quân hộ tông các tướng ba thành này về cả Đông Quan để sẽ
cùng nhau trở về nước.
Tháng 12 âl, vương ra lệnh cho các tướng coi đường thuỷ cấp
500 thành cho người Minh, giao Phương Chính và Mã Kỳ lĩnh; các
tướng coi đường bộ cấp lương thảo giao cho Sơn Thọ nhận lĩnh,
đưa về hơn 2 vạn quân cả đầu hàng và bị bắt, cùng 2 vạn con
ngựa, giao Mã Kỳ nhận lĩnh; chưởng đô ty sự chinh nam tướng
quân Trần Tuyền dẫn quân trâ"n thủ đi hộ tốhg. Vương lại hậu
273
tặng trâu, dê, màn trướng và phẩm vật cho các tướng Minh khi tói
dinh cáo biệt.
Bấy giò, tướng sĩ và nhân dân thâm thù sự tàn bạo của người
Minh xin vương nhân dịp nên đem giết cả đi. Vương dụ: Phục thù
trả oán là thường tình nhưng bản tâm người nhân đức không
muôn giết người, v ả lại người ta đã hàng mà giết đi để thoả cơn
giận một lúc, cũng không hay. Đe cho ức vạn người được sốhg,
khỏi đưỢc sự trả oán, dứt mối chiến tranh về sau, lại được tiếng tốt
lưu truyền sử xanh. Mọi người đều ái phục độ lượng khoan hồng
của vương.
Biểu hàng xin phong đệ sang Trung Quốc. Vua tôi nhà Minh
biết rõ là giả dối, triều đình bàn cách đốì phó. Chỉ mấy người còn
hung hăng chủ chiến, giữ thế thống nước lớn. Quần thần phần
đông thấy rằng luôn hai lần đem đại đại quân đi cứu viện đều bị
thất bại; nay đi đánh nữa vận dụng đến 30, 40 vạn binh sĩ và số
rất lớn lương thực đủ nuôi đám quân này lâu dài, đổ người đổ của
vào việc không chắc han đã thành công, v á lại như vậy lại còn cần
phải sửa soạn hàng năm mới xong. Đánh nữa, dù có thắng thì
cũng khó lòng giữ mãi được lâu. Người Nam “ưa làm loạn”. Cho
hoà, rút quân là hay hơn hết. Minh Tuyên Tông nghe theo, phong
Trần Cảo làm An Nam quôc vương, bãi binh, bãi bỏ toà bô" chính
và ra lệnh cho Vương Thông rút toán quân về nước,
Bọn Lý Kỳ, La Nhữ Kính, Từ Vinh Đạt mang sắc thư sang
đến nơi thì Vương Thông đã lên đường rồi, dẫn 86.000 người Minh
về nước. Bấy giờ là chạp năm định vị, dương lịch là đầu năm 1428,
chấm dứt 21 năm đô hộ và nạn binh đao.
Giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của người Minh là công
lao của nghĩa quân Lam Sơn dưới sự lãnh đạo của Bình Định
vương Lê Lỵ (Lợi). Trần cảo không có công đức gì, nghĩ mình
không xứng đáng giữ địa vị nguyên thủ quốc gia, tự áy náy không
yên, đang ở thành cổ Lộng, dùng thuyền nhỏ lẻn ra biển để chạy
ra về châu Ngọc Ma thuộc phủ Trấn Ninh. Quan quân đuổi bắt
được, dẫn trở về, bắt phải uống thuốc độc mà chết. Được làm lễ
hậu táng hậu. Trần cảo được đón về làm vua hò, không có tội gì,
bị giết, tình cũng đáng thương.

Về nhân vật Hồ ông, ĐVSKTT và ĐNQSDC chép cảo, Đại


Việt thông sử, VSTGCM, VNSL chép Cao. sở dĩ có sự lầm lộn này
do chữ Hán Cao rs3 với gần giống nhau. Nhiều sử
274
gia chép Hồ Ong là Cảo, còn người nổi dậy chông vua Lê Tương Dực
là Cao.
Tưống Minh Lý Khánh có tập sử chép là chết bệnh trong
quân, tập khác chép tự tử.
Tướng Thôi Tụ có sách chép do bị bắt không chịu hàng, phái
giết. Đại Việt thông sử chép y được đưa vê Đông Quan, sau phải
bệnh chết.
Không rõ đâu là đúng.

KỶ NHÀ LÊ
LÊ THÁI TỔ 1428 - 1433
huý LỴ (LỢI) (1385- 1433)
Niên hiệu: Thuận Thiên

BÌNH ĐỊNH VƯƠNG LÊN NGÔI TÔN - Giặc tan, nước nhà đưỢc
thanh bình, quần thần dâng biểu tôn Bình Định vương Lê Lỵ (Lợi)
lên làm vua. Tháng 4 ầl năm 1428, vương lên ngôi, tục hiệu vua
Lê Thái Tổ theo tên miếu hiệu. Lê Thái Tổ nhũn nhặn, không
xứng là hoàng đế, chi xưng là Thuận Thiên thừa vận duệ văn anh
vũ đại vương.
THƯỞNG CÔNG, PHẠT TỘI - Lê Thái Tổ lên ngôi, phong thưởng
cho các công thần hơn 200 người, đều được đổi sang quổc tính họ
Lê, 52 người hạng công đệ nhất chức Thượng Trí tự, 72 người
hạng công thứ hai tước Đại Trí tự, 94 người công thứ ba tước Trí
tự. Thừa chỉ Nguyễn Trãi tước Quan Phục hầu; tư đồ Trần
Nguyên Hãn tưóc Tả tướng quốc; cơ mật đại sứ Phạm Văn xảo
chức thái bảo.
Các nguy quan theo giặc đều bị trị tội: Lương Nhữ Hốt, Trần
Phong, An Vinh, Đỗ Duy Trừng và các tên Tôn, Sĩ Văn, Sùng Lễ,
Súc đều bị giết.
VIỆC NGOẠI GIAO - Các nưóc Ai Lao, Champa giao hảo với ta
ngay từ khi còn chiến tranh chôAg quan quân nhà Minh, sau vẫn
tiếp tục tốt đẹp, không có việc gì lôi thôi.
Lê Thái Tổ lên ngôi, sai sứ sang Trung Quốc xin phong.
Triều đình nhà Minh nấn ná mãi không chịu. Các năm 1428,
1429. Minh Tuyên Tông sai sứ sang lại đòi hỏi tìm dòng dõi vua
Trần để lập và đòi trao trả hết những quân nhân người Hoa còn
lại cùng các khí giới đã bắt. Lê Thái Tô bắt các quan viên và phụ
275
lão trong nước làm tờ khai rằng con cháu nhà Trần thật không còn
ai nữa và xin phong cho Lê Lỵ (Lợi) làm vua nước Nam. Sứ giả đôi
bên đi về nhiều lần, mãi đến tháng 11 âl năm 1431, vua Minh mới
chịu ba'n mệnh cho tạm quyền coi việc nưốc. Sứ thần ta sang Minh
tạ ơn 5 vạn lạng vàng bạc. Mãi về sau lâu mới phong các vua Lê
sau làm An Nam quổc vương.
Từ đấy, cứ ba năm phải sang công nhà Minh một lần mà lần
nào cũng phải đúc hai người bằng vàng, gọi là đại thân kim nhân,
do lúc đánh trận Chi Lăng đã giết hai tướng Liễu Thăng và Dương
Minh, cho nên phải dâng hai người vàng thế mạng. Nước ta vẫn
phải nộp hai ngươi vàng suốt thòi gian nhà Minh còn cầm quyền
Trung Quôc. Tục ngữ có câu; Trả nỢ như trả nỢ Liễu Thăng.
Quân đội ta đã chiến thắng quân Minh mấy trận lớn mà vua
ta vẫn phải chịu xưng thần nạp cống với vua Minh là sự vạn bất
đắc dĩ, vì nước ta đôi với Trung Quốc lón nhỏ khác nhau nhiều, vả
lại nước ta lẻ loi ở phía nam, không có vây cánh mạnh liên minh,
cứ cố kháng cự không chịu kém thì không bao giò được yên, dân
chúng phải cơ cực lầm than. Bề ngoài có chịu lép vê nhưng kỳ thực
vẫn tự chủ, người Hoa không phạm đến việc nước mình. Thế cũng
là khôn khéo trong việc ngoại giao để cho nước yên trị (theo lòi
của sử gia Trần Trọng Kim).
VIỆC CAI TRỊ - Thái Tổ lên ngôi ban chiếu miễn thuế trong hai
năm các ruộng đất, đầm ao, bãi dâu và trưng thâu vàng bạc, người
từ 70 tuổi trở lên được miễn dịch. Có người con hiếu, vỢ thủ tiết
thì quan đầu lộ tâu lên để ban khen thưởng; nhà có ba người tòng
quân thì cho miễn một; huyện có lăng mộ, miếu thờ các vị đế
vương hoặc công thần tiền triều thì quan huyện phải tâu lên đế
cấp lương cho phu trông coi. Bỏ sự tiêu tiền giấy. Tiền đồng cũ bị
người Minh thu đem về nưóc quá nhiều, nên đúc ra nhiều đồng
tiền Thuận Thiên thông bảo lưu hành thuận tiện việc mua bán.
Tổ chức hành chính, để nguyên bốh đạo miền bắc, thêm đạo
thứ năm Hải Tây gồm đất Thanh Hoa trở vào đèo Hải Vân. Mỗi
đạo có quan hành khiến. Dưới cấp đạo có lộ, phủ, châu, huyện trên
các xã. Việc bổ dụng quan cai trị thì dùng những người có đức.
•Thái Tổ luôn luôn nhắc các địa phương tiến cử người anh tài, lại
kêu gọi loại người này ra làm việc nước.
PHÉP QUÂN ĐIỀN - Thái Tổ có những con em các chiến sĩ đã
từng chiến đấu ngoài trận, không có một thước đất để ở, mà
những phường du thủ du thực, không có chút công lao gì với nưóc
276
nhà lại có rất nhiều ruộng đất. Ai cũng chuộng làm giầu mà không
có người tận tâm việc nước. Vì thê nên định ra phép quân điền lấy
công điền công thổ và ruộng đất tịch thu của quan lại tướng sĩ đã
theo hàng giặc Minh, đem cấp phát cho quân dân, từ quan đại
thần trở xuống đến hạng già yếu, mồ côi, góa bụa, ai cũng có được
một phần ruộng. Xã nào nhiều ruộng ít người, có ruộng bỏ hoang
thì quan bản hạt đem cấp sô" ruộng ấy cho những người xã khác
không có ruộng cày cấy. Chủ điền không được chiếm giữ. Như vậy
khiến cho sự giàu nghèo không chênh lệch lắm.
VIỆC HỌC HÀNH - Thái Tổ mở mang việc học hành, đặt trường
Quốc tử giám ở kinh đô, oho con cháu các quan viên và những
người thường dân tuấn tú vào học tập, mở nhà trường và đặt thầy
dạy nho học ở các lộ, phủ, châu. Bắt các quan từ tứ phẩm trở
xuốhg phải vào thi khoa Minh Kinh. Ban văn thì thi về kinh sử,
ban võ về võ kinh và pháp lệnh kỳ thư. 0 các lộ cũng mở khoa thi
Minh Kinh cho những người ẩn dật ứng thí để chọn nhân tài ra
làm quan. Các nhà tu theo đạo Phật, đạo Lão cũng phải dự thi
kinh điển các đạo ấy. Trúng tuyển mói được phép làm tăng, làm
đạo sĩ. Ai hỏng phải hoàn tục làm ăn, chịu sưu dịch.
LUẬT LỆ - Đặt ra luật lệ mới phỏng theo hình luật ríhà Đường,
có các tội suy, trượng, đồ, lưu và tội tử. Tội suy chia làm 5 bậc, từ
10 đến 50 roi. Tội trượng cũng chia l.àm 5 bậc từ 60 đến 100
trượng. Tội đồ 3 bậc: Làm dịch đinh, làm lính chuồng voi, làm lính
đồn điền. Tội lưu 3 bậc: Lưu đi châu gần Nghệ An, lưu châu xa Bô"
Chính, lưu đi ngoại châu Tân Bình. Tội tử cũng 3 bậc: Thắt cổ và
chém, chém bêu đầu và lăng trì.
Trong nước bấy giò có nhiều người du đãng, cứ rượu chè, cò
bạc, không chịu làm ăn, nên đặt ra phép nghiêm trị để trừng trị.
Đánh đổ bác phải chặt ngón tay 3 phân, đánh cò 1 phân. Không có
việc gì quần tụ uống rưỢu phải đánh 100 trượng. Người dung chứa
những kẻ ấy cũng phải tội mà được giảm một bậc.
Người có công lao lớn phạm tội được giảm khinh hoặc chuộc
tội bằng tiền. Các người già cả, trẻ con, tật nguyền cũng vậy.
Sự nghiêm phạt tội như thê" có phần thái quá, vì làm tàn hại
đến thân thể người ta, nhưng có công hiệu khiến cho bớt sô" người
cả đời không chịu làm ăn gì, chỉ chuyên đi đánh lừa người mà
kiếm chác.
VIỆC BINH LÍNH - Khi tiếp thu thành Đông Quan, quân sô" là
25 vạn. Thái Tô cho 15 vạn trở về nguyên quán làm ruộng. Tháng
277
12 âl năm 1429 tập trận cả thuỷ và bộ binh các vệ trong nám đạo.
Sau chia sô" quân sĩ làm 5 phiên, lưu lại 4 phiên, còn cho về theo
nghiệp nông. (VNSL chép 1 phiên lưu ban, 4 phiên cho về làm
ruộng, e có sai chăng).
VIỆC ĐÁNH DẸP LOẠN TRONG N ư ớ c - Quân Minh bị đánh thua.
Nước nhà đưỢc thanh bình nhưng có việc mấy thô tù chống đổi nhà
vua. Trong thòi gian còn chiến tranh, nhiều tù trưởng dân miền núi đã
quy phục, giúp đỡ phần nào trong công cuộc bình Ngô. Vua Thái Tổ lên
ngôi phong thưởng hậu cho các người này, các chức nhập nội tư không,
bình chương sự, thượng tưống quân, đại tướng quân... và vẫn dùng
thổ quan trị thổ dân, nhưng muổii giữ trung ương tập quyền, đặt quan
triều giám trị chúng. Các thổ tù chỉ chịu nộp một sô" phú công mà vẫn
muôn giữ trọn quyền hành trong hạt mình, theo chê độ địa phương
phân quyền. Vì thê nên có mấy người không chịu. Năm 1430, Bê Khắc
Thiệu ở châu Thạch Lâm, Thái Nguyên và Nông Đức Thái châu
Thượng Lang (nay thuộc Cao Bằng) làm phản. Tháng 2 âl năm 1431,
vua thân chinh đi đánh. Bê Khắc Thiệu thua chạy, rồi chết. Nông Đức
Thái bị bắt. Cuô"i năm 1431, Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ, nay là vùng
Lai Châu, Sơn La, liên kết vói Kha Đô"n (Kha Lại) xâm lấn đất Mang
Mỗi. Lê Sát và Tư Tề (con lớn Thái Tố) đi đánh không nổi. Vua lại
thân chinh. Tháng giêng âl năm sau 1432, quan quân đánh vào
Mường Lễ, giết Khả Lại. Đèo Cát Hãn chạy trôn. Quan quân vào sâu
lục soát, bắt đưỢc vỢ con Cát Hãn cùng đồ đảng hơn 3 vạn (?!) người,
hơn 100 voi và nhiều khí giới, đồ vật, thuyền bè, đổi châu Mường Lễ
làm châu Phục Lễ, chia từng huyện, cử quan cai trị phần lón là người
bản xứ. Đèo Cát Hãn lai rai chông đô"i mãi đến tháng 11 âl mới chịu ra
hàng, được tha tội và phong chức tư mã. Con là Mạnh Vượng được
phong chức đại tưóng quân, vẫn được giữ đất cũ, tuy phải nhận quan
triều đình giám sát và các quan cấp dưới do triều đình bô dụng.
CÔNG THẦN BỊ GIẾr HẠI - Trong khi còn chiến tranh thì lãnh tụ
cùng các tưống tá cùng nhau chia sẻ ngọt bùi cũng như cay đắng.
Nhưng khi công thành, nước yên thì công thần không còn cần thiết
cho nhà vua, mà lại là mốì lo: Tài năng và uy tín họ xâm phạm quyền
hành người cầm đầu quốc gia, có thể đi đến sự thay triều đổi họ. Nên
có việc Lê Thái Tổ, cũng như các vua mở nưốc khác bên Trung Quốc,
giết hại công thần là các người đã đưa mình lên ngôi báu.
Trần Nguyên Hãn, dòng dõi thượng tướng Trần Quang Khải, lập
nhiều công lớn trong công cuộc bình Minh, được phong đến chức Tả
tướng quốc. Ông biết mình người họ Trần địa vỊ không vững bền được,
278
sóm đã xin về nghỉ. Trở về vưòn cũ xã Sđn Đông, huyện Lập Thạch,
Vinh Yên, lại xây phủ đệ lốn, đóng thuyền to, bị cáo lộng hành, vua
sai lực sĩ đến bắt. Ra đến sông, ông tự trẫm mình mà chết. Bấy giò là
năm 1429, chưa đầy một năm sau khi Thái Tổ lên ngôi.
Sang năm 1431 đến lượt thái uý Phạm Văn xảo bị giết, khép
vào tội tư thông vói Đèo Cát Hãn, tù trưởng Gia Hưng. Phạm Văn
Xảo cũng có nhiều chiến công gần như Nguyên Hãn.
Lần lư ợ t đến Trần Nguyên Bồi, Phan Liêu... cũng chịu cùng
sô phận.
Nguyễn Trãi, Lê Sát, Trịnh Khả... qua các triều vua Lê sau
cũng bị hại.
Nguyễn Trắc (Xí) trước đã có nhiều công bình Minh, sau lại
có công trừ Nghi Dân đưa Thành Tông lên ngôi, trước sau không
bị giết hại nhưng 5 con trai đều bị chết một cách bí mật, có sách
chép là tự nhiên chết (?) do mả tổ đứt long mạch.
Nghĩ mà buồn thay cho mấy công thần đời xưa, chỉ lầm về hai chữ
công danh, đem tấm lòng son sắt phù tá quân vương trong lúc nguy nan,
mong đưỢc chút hiển vinh, thoả chí trượng phu, nào ngò: chim bay đã
hết, cung tôt cất đi; thỏ nhanh chết rồi, chó săn phải mổ. Đến khi công
việc xong rồi thì không những thân mình không được trọn vẹn, mà cả họ
hàng cũng bị vạ lây (lòi Trần Trọng Kim trong VNSL).
LUẬN VỀ VUA LÊ THÁI Tổ - Lê Thái Tổ khuất ngày 22 tháng 8
nhuận âl năm 1433, cầm quân chống quan quân nhà Minh 10
năm, làm vua 6 năm, hưởng linh 49 tuổi.
Lê Thái Tổ trước là tướng anh tài, kiên nhẫn, từng khôi phục
non sông, xây dựng nền thái bình đất nước, sau làm vua mở mang
việc học hành, định luật lệnh, quân kỷ, thi hành chính sự rộng lớn
và chu đáo, đặc biệt đặt phép quân điền rất đáng khen. Nhưng xử
tệ với công thần quá đáng. Tự Đức phê bình là đa nghi và đa sát.

LÊ THÁI TÔNG 1434 - 1442


huý NGUYÊN LONG (1424 - 1442)

N iên hiệu: Thiệu Bình 1434 - 1439,


Đại Bảo 1440 - 1442

Ngày 24 - 8 nhuận âl năm 1433, thái tử Nguyên Long, con


thứ hai Thái Tổ, lên nốì ngôi, tục hiệu vua Lê Thái Tông. Bấy giò
mới 11 tuổi. Đại tư đồ Lê Sát nhiếp chính, quyết định mọi việc.
279
Lê Sát có công to trong công cuộc bình Minh, ít học, làm phụ
chính, thường hay cậy quyền trái phép, làm nhiều điều kiêu hãnh,
triều thần ai không phục tòng thì tìm cách làm hại.
Thái Tông còn trẻ tuổi, vốh thông minh, ít lâu sau, ra thân chính
lấy, giết Lê Sát, thu lấy quyền, nhưng vì ít tuổi, không có hiền thần
phụ tá nên say đắm tửu sắc, làm lắm điều không được chính đính.
Phải mấy năm đại hạn, nước lụt và hoàng trùng làm hại mùa màng,
dân đói khổ. Miền thượng du có đôi ba đám giặc thổ tù nổi lên làm loạn.
Có lần Thái Tông đi đánh, có lần sai quan đi tiễu trừ, cũng dẹp được yên.
Việc ngoại giao với lân bang thì các nước Xiêm La, Ai Lao và
Champa đều có sứ thần đi lại và thường có tiến cốhg.
Việc thi cử được chỉnh đốn, 5 năm một lần thi hương. Phép thi
thì kỳ nhất làm bài kinh nghĩa, bôn bài tứ thư nghĩa; kỳ hai, làm
chiếu, chế, biểu; kỳ ba, thơ phú; kỳ bốn: văn sách, bài làm phải 1.000
chữ trở lên. Năm 1442, mở khoa thi tiến sĩ. Người thi đỗ được khắc
tên vào bia đá ở Văn Miếu để phấn chấn lòng người văn học. Các tiến
sĩ được khắc tên vào bia ở Ván Miếu bắt đầu từ đấy.
Cách thức tiêu dụng tiền và vải lụa định 60 đồng một tiền, 10
tiền một quan, lụa cứ dài 30 thưóc, rộng 1 thước 5 tấc trở lên là một
tấm; các thứ vải dài 22, 24 thước là một tấm; giấy 100 tò một tập.
Tháng 7 âl năm 1442, Thái Tông đi duyệt binh ở huyện Chí
Linh, vào thăm nhà Nguyễn Trãi khi ấy về trí sĩ ở trại Côn Sơn, thấy
người nàng hầu ông là Nguyễn Thị Lộ có nhan sắc, bắt đi theo hầu. Đi
đến huyện Gia Định, nay là huyện Gia Bình, Bắc Ninh thì vua mất ở
vườn Lệ Chi (vườn vải). Triều đình đổ tội cho Thị Lộ giết vua do
Nguyễn Trãi xui, bắt tội Nguyễn Trãi tru di tam tộc.
Lê Thái Tông hoang dâm, không đứng đắn, chết vì chứng
thượng mã phong. Triều đình che cái xấu của nhà vua, làm tội oan
họ hàng Nguyễn Trãi, bày đặt ra truyện rắn báo oán (sang triều
Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi mới được phục hồi danh dự).
Lê Thái Tông làm vua 9 nám, hưởng linh 20 tuổi.

LÊ NHÂN TÔNG 1443 - 1459


huý BANG Cơ (1441 - 1459)
N iên hiệu-. Đại Hoà 1443 - 1453,
DỈên Ninh 1454 - 1459

Lê Thái Tông mất, đại thần Lê Khả, Nguyễn Trắc (Xí) lấp
thái tử Bang Cơ mới 2 tuổi lên nối ngôi, tục hiệu vua Lê Nhân
Tông. Hoàng thái hậu ra thính chính.
280
Trong mấy năm thái hậu cầm quyền, có mấy việc quan
trọng như đặt ra 14 điều hộ luật về tư điền, đổi cách thi lấy
người làm lại, bỏ thi ám tả và thi kinh nghĩa, chỉ thi viết và thi
tính; đào sông Bình Lỗ ở châu Thái Nguyên để tiện việc vận
tải. (VSTGCM chép sông này chảy từ Thái Nguyên về Phù Lỗ,
có lẽ là sông Cà Lồ).
Người Chăm thường hay sang cướp phá Hoá Châu. Quan
quân đánh bại, nhưng vẫn khống chừa. Năm 1446, triều đình
sai Lê Khả, Lê Thu đem quân sang đánh nước Champa, lâ"y
được thành Chà Bàn, .bắt được vua Chăm là Bí Cát và cả phi
tần đem về Đông Kinh, lập người cháu Bồ Đê là Mã Kha Quv
Lai lên làm vua.
Năm 1448, có xứ Bồn Man xin nội thuộc, đặt làm châu Quy
Hợp. Đất này đông nam giáp Nghệ An, Quảng Bình, tây bắc giáp
Hung Hoá, Thanh Hoa.
Thái hậu hay nghe lời gièm pha, giết hại cựu thần Lê Khả,
Lê Khắc Phục, khiến nhiều người không phục.
Năm 1453, Nhân Tông bắt đầu thân chính, truy tặng các
công thần và lấy ruộng công cấp cho con cháu Lê Sát, Lê Ngân, Lê
Khắc Phục.
Dưới triều vua Lê Nhân Tông có việc Phan Phu Tiên viết
bộ quôc sử chép từ Trần Thái Tông đến thòi thuộc Minh, cả
thảy 10 quyển.
Trước các vương hầu và quan văn võ theo phẩm hàm
được ăn lộc lấy thuế 50 hay 100 hộ. Nhân Tông cho thêm tiền
tuế bổng.
Lê Nhân Tông có thế nên được vua hiền nhưng chang may có
người anh là Lạng Sơn vương Nghi Dân, trước được lập làm thái
tử, sau vì người mẹ đẻ phạm tội nên phải bỏ. Năm 1459, Nghi Dân
đồng mưu với bọn Lê Đức Ninh, Phạm Đồn, Phan Ban và Trần
Lăng, nửa đêm trèo tường vào giết Nhân Tông và bà thái hậu, tự
xUng làm vua, sai sứ sang Minh cầu phong.
Lê Nhân Tông làm vua 17 năm, hưởng linh 19 tuổi.
Nghi Dân cướp ngôi, làm vua được 8 tháng, vì hay nghe lời
dua nịnh, chém giết cựu thần nên lòng người không ai phục.
Tháng 6 âl năm 1460, Cíác đại thần Nguyễn Trắc (Xí), Đinh Liệt
mưu chém Phạm Đồn, Phan Ban ở giữa nghị trường, rồi đóng cửa
thành bắt Nghi Dân giết đi, rước con thứ tư Thái Tông là Bình
Nguyên vương Tư Thành lên làm vua.
281
LÊ THÁNH TÔNG 1460 - 1497
huỷ Tư THÀNH (1442 - 1497)
N iên hiệu\ Quang Thuận 1460 - 1469,
Hồng Đức 1470 - 1497.

Bình Nguyên vương Tư Thành lên nốĩ ngôi. Ấy là vua Lê


Thánh Tông, tục gọi theo miếu hiệu.
Thánh Tông lên ngôi phong thưởng và cấp quan điền cho các
công thần, truy tặng các công thần bị giết oan ngày trước, cho tìm con
cháu Nguyễn Trãi về cấp cho 100 mẫu ruộng để thò phụng tổ tiên.
VIỆC CAI TRỊ - Từ trước triều chính vẫn theo lốì cũ nhà Trần,
trên có tả hữu tướng quốc, rồi đến lễ bộ, lại bộ, nội các viện, trung
thư, hoàng môn và 3 sở môn hạ, sau thêm hành khiển 5 đạo. Nghi
Dân cướp ngôi, đặt ra 6 bộ: Lại, hộ, lễ, hình, công, binh; 6 khoa
cũng thế. Quan lục bộ có thượng thư là đầu, rồi đến thị lang, lang
trung, viên ngoại lang, tư vụ. Thánh Tông đặt thêm 6 tự: Đại lý,
thái thường, quang lộc, thái bộc, hồng lô, thượng bảo. Quan 6 tự
có tự khanh, thiếu khanh, tự thừa.
Quan chế và lễ nghi theo Trung Quốc. Quan văn võ có phần
ruộng đất và tuế bổng. Làm điều nhũng lạm thì đều phải nghiêm trị.
Thánh Tông chia lại nước làm 12 đạo, sau có thêm đất Quảng
Nam lấy của Champa, lại đặt làm 13 xứ là Thanh Hoa, Nghệ An, Sơn
Nam (trước là Thiên Trường), Sơn Tây (Quốc Oai), Kinh Bắc (Bắc
Giang), Hải Dương (Nam Sách), Thái Nguyên, Tuyên Qung, Hưng
Hoá, Lạng Sơn, An Bang, Thuận Hoá, Quảng Nam, nhiều xứ hiểm
yếu đặt chức thủ ngự kinh lược sứ phòng giữ. 13 xứ ấy chia làm 52
phủ, 172 huyện và 50 châu. Dưới phủ, huvện có hương, phường, xã,
thôn, trang, sách, động, nguyên, trưởng cả thảy 8.006.
Lại đặt ra chức giám sát ngự sử để đi xem xét công việc ở các
hạt cho khỏi sự nhũng nhiễu.
VIỆC THUẾ LỆ - Thuế đinh mỗi người đồng niên đóng 8 tiền,
còn thuê ruộng, thuế đất, thuế đất bồi trồng dâu thì cứ kể mẫu mà
đóng thuế. Thuế ruộng đất nào cũng chia ra làm 3 hạng.
Việc làm sô hộ thì cứ 6 năm một kỳ. Quan phủ huyện phải
dẫn các xã trưởng về kinh khai sô hộ khẩu các xã.
VIỆC CANH NÔNG - Thánh Tông lấy nông tang làm trọng nên
chú ý về việc ấy lắm. Thường sắc cho phủ huyện phải hết sức
khuyên bảo dân làm việc cày ruộng trồng dâu.
282
Đặt quan hà đê và quan khuyên nông coi việc cày cấy trong
nước. Đặt quan hộ bộ và quan thừa chính ở các xứ phải tâu về
những đất bỏ hoang để phủ huyện đốc dân phu khai khẩn làm
ruộng. Lập ra 42 sở đồn điền, đặt quan trông nom việc khai khẩn,
khiến cho dân khỏi phải đói khổ.
VIỆC TẾ SINH - Thánh Tông lại lo đến các chứng bệnh làm hại
dân, lập nhà tê sinh nuôi những người đau yếu và khi nào ở đấy có
dịch tễ thì sai quan đem thuổc đi chữa bệnh.
VIỆC SỬA SANG PHONG TỤC - Thánh Tông cấm làm chùa mổi
đê tiền của và công phu vào việc thực tê có ích. Cấm nhà có tang lễ
bày cuộc hát xưống vui chơi. Việc hôn thì khi đã nhận lễ hỏi rồi,
phải sốm chọn ngày cho rước dâu. Lệ cứ cưới rồi, ngày hôm sau đi
chào cha mẹ, ba ngày đi lễ từ đường.
Lại đặt ra 24 điều răn, sức cho dân xã thường thường giảng
đọc đê giữ lấy thói tôt. Cha mẹ dạy con phép tắc, nghề nghiệp,
không được rượu chè, cờ bạc, hát xưóng. Gia trưởng phải giữ lễ
phép để cho cả nhà bắt chước. Vợ chồng cần kiệm làm ăn, không
được dẫy vỢ trừ khi phạm tội thất xuất. Tử đệ nên yêu mến anh
em, hoà thuận với hương đảng. Hoạn nạn giúp đỡ lẫn nhau trong
hương đảng, tông tộc. Đàn bà phải theo chồng, không được cậy của
khinh nhà chồng, có lỗi bị bề trên trừng phạt phải đổi lỗi, không
được trôn đi; goá chồng không được chiếm đoạt gia tài làm của
riêng mình; không được tà dâm. Sĩ phu nên giữ phép, quý phẩm
hạnh, không được xu nịnh kẻ quyền quý cậy thê làm càn. Điển lại
làm điên đảo án từ phải trừng trị nặng. Quan dân đều phải hiếu
đễ, chăm chỉ làm ruộng, giúp đỡ lẫn nhau. Kẻ làm nghề buôn bán
phải tuỳ thời giá, không được thay đổi thưng đấu, tụ tập đồ đảng
đi trộm cướp phải trị tội nặng. Việc hôn giá phải giữ lễ phép. Dân
gian mở trường du hí hay cúng tế, trai, gái đến xem không được
lẫn lộn. Phụ nữ đi xa trọ tại hàng quán thì chủ nhà hàng phải
phòng giữ; nếu để bị hiếp ô nhục thì người phạm tội cùng chủ nhà
đều phải trị cả. Trai gái không được tắm cùng bến. Các xã thôn
phải chọn người già cả đạo đức là trưởng, ngày thong thả ra đình
luyện giảng lời dụ, bắt chước điều thiện, thành ra mỹ tục. Trong
hạt có cường hào xâm chiếm ruộng đất, ức hiếp kẻ hèn yếu thì xã
thôn phải cáo giác đê quan xử trí. Vương công đại thần dong túng
người nhà ức hiếp dân gian, mua rẻ đồ vật, dân được đầu cáo để
trừng trị. Các quan phủ huyện biết khuyên bảo dân lễ nghĩa kiêm
nhượng, được xếp vào hạng tốt; nếu không thì không xứng chức. Các
283
huynh trưởng xã thôn phường biết dạy bảo con em nên phong tục tốt
thì quan bẩm lên vua đế ban khen. Các dân Mường, Mán nên giữ lòi
di huấn, trọng luân thường. Cha anh chú bác chết, con em không
đưỢc chiếm lấy thê thiếp. Nếu trái phép phải trị tội rất nặng.
ĐẠI VIỆT SỬ KÝ - Thánh Tông sai Ngô Sĩ Liên soạn soạn bộ Đại
Việt sử ký. Bộ sách này chia làm hai bản. Một bản kể từ Hồng
Bàng đến Thập Nhị Sứ Quân. Một bản từ Đinh Tiên Hoàng đến
Lê Thái Tổ. Cả thảy 15 quyển.
VIỆC HỌC HÀNH - Thánh Tông định phép thi hương, sửa phép
thi hội, chọn nhân tài. Thường làm chủ các kỳ thi đình, lập ra lệ
xướng danh các tiến sĩ và lệ cho về vinh quy. Mỏ rộng nhà Thái học,
phía trước làm nhà Văn Miếu, phía sau làm nhà Thái học, làm ra
các phòng ôc cho sinh viên ở học. Làm kho bí thư chứa sách.
Thánh Tông hay ngâm thơ, đặt ra Quỳnh Uyển cửu ca, xưng
là Tao đàn nguyên suý, cùng với triều thần là bọn Nhân Trung,
Đỗ Nhuận 28 người xướng hoạ với nhau. Non xanh nước biếc chỗ
nào cũng có thơ ông.

Thơ quô"c âm của Lê Thánh Tông, dù vịnh người dệt vải,


người ăn mày, bù nhìn, thằng mõ, mà lời lẽ vẫn là khí tượng ông
vua, do ông muôh tỏ ra mình xứng đáng giữ ngôi thiên tử. Bà mẹ
sinh không phải là hậu phi có địa vị lớn trong cung.

Thánh Tông sai Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận làm bộ


Thiên Nam dư hạ tập 100 quyển nói về việc chính trị và tình hình
luật đời Hồng Đức. Ông viết quyển Nhân chính ký sự kể việc đi
đánh Champa, Lão Qua và các mường.
LUẬT HỔNG ĐỨC - Năm 1483, Thcánh Tông sai triều thần tập
hỢp những điều lệ đã ban hành trong các đời vua Lê trước, tham
khảo pháp luật thòi Lý, Trần, pháp luật nhà Tuỳ, nhà Đường, căn
cứ tình hình mói trong nước, soạn ra bộ luật mới; Lê triều hình
luật, tục gọi là Luật Hồng Đức, 721 điều, 6 quyển, 16 chương.
Luật định bất cứ ai phạm tội thập ác không được miễn, giảm
khinh, chuộc tội, dù gặp khi có ân xá. Nghiêm cấm hành vi chiếm
đoạt ruộng đất công. Bổn phận đi lính, đi phu, đóng thuế. Quan
lại không được biến thần dân làm nô tỳ. Định rõ quyền sở hữu
ruộng đất, nguyên tắc mua bán, cầm cố, việc thừa kê ruộng đất tư
hữu. Bảo vệ quyền tộc trưởng, cha, con trai trưởng, trọng phụ
quyền. Nô tỳ bị coi là thấp kém, phạm tội bị trừng trị nặng hơn
284
dân thường. Phụ nữ bị nhiều thiệt thòi, không có con bị chồng bỏ,
lấy chồng khi còn tang chồng hay cha mẹ phải tội đồ; tự tiện bỏ
nhà chồng đi bị xử phạt làm nô tỳ; tái giá mất quyền làm mẹ các
con chồng cũ. Nhưng lại được bảo vệ về mặt kinh tế: con gái được
hưởng gia tài như con trai; gia đình không có con trai thì con gái
trưởng đưỢc thừa kế phần hương hoả... Điểm vô nam dụng nữ này
phù hỢp với phong tục người nước ta, tiến bộ hơn luật Trung Quổic.
VIỆC VÕ BỊ - Tuy Thánh Tông hết lòng sửa sang mọi việc trong
nước, ông cũng hiểu rằng phàm nưóc cường thịnh tất phải có võ bị
nên bắt các tổng binh phải chăm giảng tập trận đồ, luyện tập sĩ
tôt, phòng khi có việc.
Đổi 5 vệ quân làm 5 phủ: trung quân, nam, bắc, đông, tây
quân phủ. Mỗi phủ có 6 vệ. Mỗi vệ có 5 hay 6 sở. Mỗi sở có số quân
độ 400 người. Quân cả 5 phủ ước chừng 6, 7 vạn người. Thường có
tập thuỷ trận, tượng trận, mã trận và bộ trận.
Ba năm mở một kỳ thi võ. Tướng sĩ đậu thì thương, hỏng thì
phạt, khiến mọi người đều vui lòng về việc võ bị.
Trong thời gian Thánh Tông làm vua, mấy năm trước được
yên, mấy năm về sau phải chinh chiến nhiều lần.
VIỆC ĐI ĐÁNH CHAMPA - Năm 1470, vua Champa là Trà Toàn
sinh sự với ta, một mặt cầu viện binh nhà Minh, một mặt đem quân
đánh phá đất Hoá Châu. Thánh Tông sai sứ sang Trung Quốc kể
truyện Trà Toàn làm nhiễu, tự làm tướng cử đại binh 20 vạn sang
đánh. Vào Thuận Hoá đóng quân, sai người lẻn sang vẽ địa đồ cho rõ
những chỗ hiểm, chỗ không, rồi tiến đánh lấy cửa Thi Nại (Quy
Nhơn ngày nay). Trà Toàn thua trận, chạy về giữ kinh thành Chà
Bàn. Quân ta tiến đánh, phá được thành, bắt được Trà Toàn.
Có tướng Chăm là Bô Trì Trì chạy về đất Phan Rang, sai sứ
sang công và xin xưng thần. Thánh Tông muôn cho nước Champa
yếu thế đi, chia đất ra làm ba nước, phong cho ba người làm vua
Champa, Hoà Anh và Nam Phan.
Còn đất Chà Bàn, Đại Chiêm và cổ Luỹ, Thánh Tông lấy lập
thêm đạo Quảng Nam, có 3 phủ, 9 huyện, đặt cai trị, chọn dân
đinh từ 15 tuổi trở lên ai người thông minh ham học cho làm sinh
đồ đê dạy cho học hành và lễ nghi.
Em Trà Toàn là Trà Toại trôn vào núi, sai người sang kêu với
vua Minh phong làm vua. Thánh Tông sai Lê Niệm đem 3 vạn
quân vào bắt được Trà Toại giải về kinh sư. Vua Minh sai sứ sang
bảo ta trả đất Champa, nhưng Thánh Tông không chịu.
285
VIỆC ĐI ĐÁNH LÃO QUA - Qua năm 1479, có tù trưởng xứ Bồn
Man Cầm Công có ý làm phản, xui người Lão Qua, đất thượng Lào
tây bắc, bắc Việt, còn gọi là nước Nam Chưởng, nay là Louang
Prabang, đem binh quấy nhiễu miền tây nước ta. Thánh Tông sai
thái uý Lê Trọng Vực cùng các tướng Lê Đình Ngạn, Trịnh Công
Lộ. Lê Lộng và Lê Nhân Hiếu chia làm 5 đạo đi từ Nghệ An,
Thanh Hoa và Hưng Hoá sang đánh đuổi vua Lão Quan đến Kim
Sa, khúc trên sông Mê Công. Trần ấy quân ta toàn thắng.
VIỆC ĐI ĐÁNH BỒN MAN - Gây nên sự đi đánh Lão Qua là vì
họ Cầm ở Bồn Man muôA làm điều phản nghịch. Nguyên đất
Bồn Man trước đã nội thuộc, đổi làm châu Quy Hợp, vẫn đê họ
Cầm làm phụ đạo. Sau đổi làm phủ Trấn Ninh có 7 huyện và
đặt quan phủ, huyện giám trị. cầm Công cậy có người Lão
Quan giúp đỡ, đuổi quan ta đi, chiếm lấy đất, rồi đem quân
chông giữ vời quan quân.
Thánh Tông thân chinh đi đến Phù Liệt, được tin quân đi
đánh Lão Qua đã thắng trận trở về, sai Lê Niệm đem quân đi
đánh Cầm Công, cầm Công thua chết, các người Bồn Man xin
hàng. Thánh Tông phong cho người họ cầm là cầm Đông làm
tuyên uý đại sứ và đặt lại quan cai trị như trước.
VIỆC BANG GIAO VỚI TRUNG QUỐC - Nước ta tuy phải xưng
thần nhà Minh nhưng Thánh Tông vẫn hết lòng phòng bị mặt bắc.
Thỉnh thoảng có những thổ dân sang quẫy nhiễu thì lập tức cho
quan quân lên tiễu trừ và sai sứ sang bắc quốc phân giải mọi sự
cho minh bạch. Có lần được tin người nhà Minh đem binh đi khác
địa giới, Thánh Tông liền cho người lên do thám thực hư, bảo với
triều thần rằng: Ta phải giữ gìn cho cẩn thận, đừng để cho ai lấy
một phân núi, một tấc sông của vua Thái Tổ để lại. ông có lòng vì
nưốc vì dân như thế, nên dầu Trung Quổc có ý dòm ngó cũng
không dám làm gì. v ả lại quân ta bấy lâu giò đi đánh Lào, dẹp
Champa, thanh thế lừng lẫy, nhà Minh cũng phải lấy lễ nghĩa mà
đãi nên sự giao thiệp hai nưóc vẫn được hoà bình.
LUẬN VỀ VUA LÊ THÁNH TÔNG - Lê Thánh Tông khuất năm
1497, làm vua 38 năm, hưởng thọ 56 tuổi.
Lê Thánh Tông là vua anh tài, văn trị võ công rực rỡ. Thòi
Quang Thuận và Hồng Đức thịnh vượng vẻ vang hơn cả.
Nhò có Lê Thái Tổ, giang sơn nước ta mới còn. Lại nhò có Lê
Thánh Tông, văn hoá nước ta mối thịnh. Công đức hai vua này rất
lớn vậy.
286
CÁC VUA NỐI NGHIỆP VUA LÊ THÁNH TÔNG
Các vua Lê sau Lê Thánh Tông, không ai ở vị được lâu dài là;
- Lê H iến Tông huý Tăng 1461 - 1504. Niên hiệu cảnh
Thống 1497 - 1504.
- Lê Túc Tông huý Thuần ? - 1504. Niên hiệu Thái Trinh 1504.
- Lê Uy M ục huý Tuấn ? - 1509. Niên hiệu Đoan Khánh
1505 - 1509.
- Lê Tương Dực huý Oanh 1509 - 1516. Niên hiệu Hồng
Nhuận 1510 - 1516.
- Lê Q uang T rị 1509 - 1516 chỉ làm vua 3 ngày.
- Lê Chiêu Tông huý Ỷ 1503 - 1526. Niên hiệu Quang
Thiệu 1516 - 1522.
- Lê Cung H oàng huý Xuân ? - 1527. Niên hiệu Thống
Nguyên 1522 - 1527.
LÊ HIẾN TÔNG - Năm 1497, thái tử Tăng nối ngôi, tục hiệu vua
Lê Hiến Tông.
Hiến Tông thông minh, hoà nhã, việc chính trị theo nề nếp
của các vua Thái Tổ, Thánh Tông. Đặc biệt chăm lo việc cày
ruộng, trồng dâu, lưu tâm khuyên nhủ quan dân đào sông, khai
ngòi, đắp đê, đê cho tiện việc vệ nông. Việc văn học cũng không
sao nhãng.
Lê Hiến Tông khuất năm 1504, làm vua 7 năm, hưởng linh
44 tuổi, là vua tô"t, tiếc không thọ.
LÊ TÚC TÔNG - Hiến Tông truyền ngôi cho con thứ ba là
Thuần, tục hiệu vua Lê Túc Tông.
Lê Túc Tông làm vua mối được 6 tháng, chưa làm được việc
gì đáng kể thì mất.
LÊ UY MỤC - Túc Tông khuất, triều đình lập người anh thứ
hai là Tuấn lên làm vua, ấy là vua Lê Uy Mục.
Bấy giò trong nước yên bình, không phải lo ngoại nội
loạn. Vua tôi chỉ vui chơi hưởng thụ. Từ đây, cơ nghiệp nhà Lê
suy. Vua không nhân chính, lại hay say đắm tửu sắc, làm điều tàn
ác. Triều thần lại không có người hiền tài trị dân nên nước loạn,
dẫn đến việc nhà Mạc thoán đoạt.
Uy Mục vừa lên ngôi, giết bà tô mẫu và thượng thư bộ lễ
Đàm Văn Lễ, đô ngự sử Nguyễn Quang Bật, vì không chịu lập
ngay y khi Hiến Tông vừa mất. Làm điều đại nghịch bất đạo, lại
say đắm tửu sắc, thường cùng cung nhân uống rượu, khi say thì
287
giết đi. Lại bắt quân sĩ đánh nhau bằng gậy đế làm trò chơi. Tính
hung ác và phản trắc. Sứ Trung Quốc gọi là quỷ vương.
Uy Mục hay dùng người khoẻ mạnh làm túc vệ nên Mạc
Đăng Dung có dịp tiến thân mau chóng. Lại xa bỏ tôn thất và công
thần. Dân chúng bị hà hiếp, lòng người ta oán, triều thần nhiều
người bỏ quan mà đi trôn.
Cuôi năm 1509, có Giản Tu công Oanh, cháu vua Thánh
Tông, bị bắt giam, đút tiền cho người ngục được ra, trõn vào Tây
Đô, hội các cựu thần, đem binh ra đánh, bắt được Uy Mục và
hoàng hậu Trần thị, giết đi.
Lê Uy Mục làm vua được 5 năm.
LÊ TƯƠNG Dực - Giản Tu Công Oanh tự lập lên làm vua, ấy
là vua Lê Tương Dực.
Tương Dực cũng hay chơi bời, dâm dục, lại xa xỉ, bắt người
thợ khéo Vũ Như Tô làm điện 100 nóc, gọi là Cửu Trùng đài, quân
dân phải phục dịch luôn mấy năm, hao tổn rất nhiều nhân lực, vật
lực, nhiều người phải chết. Hoang dâm vô độ, tư thông vối cả cung
nhân tiền triều, còn bắt đàn bà con gái cởi truồng chèo thuyền ỏ
Hồ Tây xem chơi. Sứ nhà Minh bảo có tướng lợn. Sự nguy vong
sắp tới nơi.
Thuế má rất nặng nề. Hàng năm trước thu được: vàng mười
thứ tốt gọi là kiêm kim 480 lạng; vàng mười 2.883 lạng; bạc 4.930
lạng. Vàng bạc ấy nội vào kho đê cho vua tiêu dùng.
Thời bấy giờ có thượng thư bộ binh Vũ Quyền làm xong bộ sử
Đại Việt thông giám , chia từ Hồng Bàng đến Thập Nhị Sứ Quân
làm ngoại kỷ, từ Đinh Tiên Hoàng đến Lê Thái Tổ làm bản kỷ. Cả
thảy 26 quyển,
LOẠN LẠC TRONG N ư ớ c - Vua bạo ngược hoang chơi. Triều
thần lương đống Nguyễn Văn Lang, Lê Tung, Lương Đắc Bằng,
người già chết, người thôi quan về. Không người anh tài can ngăn
vua và kinh doanh việc nước nên có những cuộc nối dậv khắp mọi
nơi: Thân Duy Nhạc, Nguyễn Văn Tông ở Kinh Bắc, Trần Tuân ở
Sơn Tây, Phùng Chương ở Tam Đảo, Trần Công Ninh ỏ An Lãng
nay thuộc Phúc Yên, Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê Văn Triệt ở Nghệ An.
Lại có Trần Cao ở Đông Triều mạnh hơn cả.
TRẦN TUÂN - Con tiến sĩ Trần Cận làm quan dưới triều vua
Thánh Tông, dòng dõi Hưng Đạo vương, bị quyền thần chiếm đoạt
ruộng đất ở làng Quảng Bị, Sơn Tây, thấy triều đình thối nát: vua
ngược ác, triều thần cũng theo đà ấy, áp bức lương dân, quần
288
chúng đều oán hận, lại có cô là vỢ vua Uy Mục bị Tương Dực giết,
bèn tụ tập dân nghèo hàng vạn người, năm 1511, nổi dậy ở Sơn
Tây, Hưng Hoá, chông đôi nhà Lê, liên lạc với người họ Trần Cao
và Trần Công Ninh, mưu phục Trần. Tiến quân xuông Từ Liêm,
uy hiếp Đông Đô. Triều đình đưa vua vào Thanh Hoa, huy động
quân lính, bắt cả thợ công xưởng ra ứng phó. Tướng Trịnh Duy
Sản đánh vào doanh trại lúc tròi gần tối. Trần Tuân sơ hở đề
phòng, bị Duy sản xông vào đâm chết. Quân sĩ tan vỡ.
TRẦN CAO - Trần Cao người huyện Thuỷ Đường, nay là Thuỷ
Nguyên, Hải Phòng, nguyên là viên quan nhỏ, bất mãn, xưng là
dòng dõi vua Trần Thái Tông, tụ tập đồ đảng hàng vạn người,
chiếm giữ đất Thuỷ Đường và Đông Triều. Năm 1515, kéo quân về
đóng ở Bồ Đề, rắp sang đánh lấy Đông Đô. Quan quân nhà Lê
sang đánh, lui về đóng ở Trâu Sơn (Từ Sơn, Bắc Ninh). Nhiều trận
giao tranh ác liệt diễn ra quanh vùng Gia Lâm, Từ Sơn. Tướng
triều đình Phùng Trân và Trịnh Khổng Chiêu tử trận. Lê Tương
Dực sai An Hoà hầu Nguyễn Hoằng Dụ sang đánh. Hoằng Dụ
không dám tiến quân, chỉ đóng quân ở Bồ Đề chống giữ.
TRẦN CÔNG NINH - Trần Công Ninh chiếm giữ nơi quê nhà
huyện An Lãng, Phúc Yên, thế lực khá lớn. Vua Tương Dực phải
tự dẫn quân đi đàn áp, năm 1516.
CÁC VỤ N ổ l DẬY KHÁC - Bọn Lê Hy, Trịnh Hưng, Lê Văn Tiệt
khởi binh ở Nghệ An, tiến ra Thanh Hoa, bị Trịnh Duy sản tập
trung lực lượng đánh tan, năm 1512.
Năm 1515, Phùng Chương nổi dậy ở Sơn Tây, chiếm núi Tam
Đảo, Đặng Hân, Lê Cát ở Thanh Hoa, sau cũng lần lượt bị đánh
tan rã.
Nước loạn như thế mà Tương Dực vẫn hoang chơi, không lo
sửa sang việc gì cả, lại khinh rẻ triều thần. Nguyên quân công
Trịnh Duy sản, từng có công lao đánh dẹp, chỉ vì hay can vua mà
phải đánh. Duy sản tức giận, mưu với Lê Quảng Độ và Trình Chí
Sâm, giả mưỢn tiếng đi đánh giặc, đem quân vào giết Tương Dực.
Bấy giò là năm 1516.
Lê Tương Dực làm vua 7 nám, hưởng linh 24 tuổi.
LÊ QUANG TRỊ - Trịnh Duy sản giết vua Tương Dực, hội triều
đình lại, lập con Mục Ý vương là Quang Trị, mới có 8 tuổi. Võ tá
hầu Phùng Mại bàn nên lập cẩm Giang vương là Ý đã 14 tuổi.
Đảng Duy sản bắt Phùng Mại chém ngay ở chỗ nghị sự, rồi lập
Quang Trị làm vua. Quang Trị vừa lên ngôi được ba ngày thì
289
Trịnh Duy Đại, anh Duy Sản đem vào Tây Kinh. Quang Trị vào
đấy được mấy ngày, lại bị giết.
Trong triều lúc còn đang rốĩ loạn thì Nguyễn Hoằng Dụ ở bên
Bồ Đề đưỢc tin Tương Dực bị giết, đem quân về đốt phá kinh thành
và bắt Vũ Như Tô, người đốc việc làm cửu Trùng đài đem chém.
LÊ CHIÊU TÔNG - Bọn Trịnh Duy sản lại lập con cẩm Giang
vương là Ý lên làm vua, tục hiệu vua Lê Chiêu Tông.
Đông Kinh bị tàn phá, Trịnh Duy sản rước vua vào Tây Kinh.
Trần Cao ở Trâu Sơn thấy triều đình bỏ Đông Đô, đem quân
sang chiếm lấy, tự xưng là vua, lấy niên hiệu là Thiên ưng. Bấy
giờ còn là năm 1516. Triều đình vào Tây Kinh, truyền hịch đi các
nơi, lấy binh về đánh. Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hoằng Dụ, Trịnh
Tuy, Trần Chân và các cựu thần phân binh ra vây đánh Đông
Kinh. Trần Cao bỏ chạy lên Lạng Nguyên, có lẽ là Lạng Giang.
Trịnh Duy sản kéo quân đuổi đánh, khinh địch bị giết. Trần Cao
lại đem quân về đóng ở Bồ Đề. Sau bị Thiết Sơn bá Trần Chân
đánh thua, lại chạy lên Lạng Nguyên. Thấy sự nghiệp không
thành, giao binh quyền cho con là Trần Thăng (có sách chép là
Trần Cung), rồi cắt tóc đi tu. Trần Thăng giữ Lạng Nguyên, cầm
cự lai rai được đến năm 1521 mới bị Mạc Đáng Dung diệt.
Thòi bấy giờ, Chiêu Tông hãy còn trẻ tuổi, chưa quyết đoán
đưỢc gì. Ngoài cõi nhiều nơi còn loạn, mà trong triều không người
hiền tài hết lòng vì nước, vì dân. Đình thần vì quyền lợi riêng, chia
bè cánh, hiềm thù, đem quân đánh lẫn nhau. Nguyễn Hoằng Dụ
và Trịnh Tuy, hai người đi đánh giặc về, mỗi người đóng quân một
nơi chông cự với nhau. Vua can ngẩn cũng không được.
Bọn Trịnh Duy Đại mưu sự làm phản, có người tô" giác, bị
giết cả đảng.
Nguyễn Hoằng Dụ và Trịnh Tuy cứ đánh nhau mãi. Sau
Trần Chân bênh Trịnh Tuy đem quân đánh Hoằng Dụ. Hoằng Dụ
bỏ chạy vào giữ Thanh Hoa.
Thiết Sơn bá Trần Chân, dòng dõi vua nhà Trần, vẫn trung
thành với nhà Lê, do có công lớn dẹp loạn Trần Cao, uy quyền
hông hách, nắm giữ binh quyền. Vua Chiêu Tông nghe lòi dèm
pha Trần Chân có ý làm phản, gọi Trần Chân vào thành, bắt giết
đi. Bọn tỳ tướng của Trần Chân là lũ Hoàng Duy Nhạc, Nguyễn
Kính, Nguyễn Áng đem quân vào đánh phá kinh thành. Chiêu
Tông lánh sang Gia Lâm, sai người vào Thanh Hoa vòi Nguyễn
Hoằng Dụ ra giúp. Hoằng Dụ không ra. Chiêu Tông không biết
290
trông cậy vào ai, sai người sang Hải Dương vòi Vũ Xuyên hầu Mạc
Đăng Dung về giúp. Mầm thoán đoạt gây ra từ đấy, năir 1518.
MẠC ĐĂNG DUNG - Mạc Đăng Dung người làng cổ Trai, huyện
Nghi Dương, Hải Phòng, dòng dõi Mạc Hiển Tích, cháu bảy đời
Mạc Đĩnh Chi, cháu năm đòi Mạc Thuý, sinh năm 1483, ít tuổi đã
dũng hãn, nhà nghèo, làm nghề đánh cá. Thòi vua Uy Mục, cầu
dũng sĩ, năm 1508, thi đỗ đô lực sĩ xuất thân, sung vào túc vệ. Sau
thăng bổ chức đô chỉ huy sứ. Năm 1511, vua Tương Dực phong tước
Vũ Xuyên bá. Năm 1518, vua Chiêu Tông thăng làm Vũ Xuyên hầu,
cử đi trấn thủ Hải Dương, chức phó tướng tả đô đốc. Tại đây, Đăng
Dung thu thập quân, chỉnh đốn đội ngũ, binh sô" ngày thêm nhiều.
Đăng Dung rất mưu lược, thấy trong triều chỉ có Thiết Sơn
bá Trần Chân nắm quyền bính, bèn xin kết thông gia, cưới con gái
Chân cho con là Doanh.
Sau khi Trần Chân bị giết, bọn Nguyễn Kính làm phản,
Chiêu Tông gọi Đăng Dung về đánh dẹp, nhất thiết trao cả quyền
bính cho. Thấy triều đình rôl loạn, Đăng Dung nảy ra mưu đồ
khác, đưa vua về Thuần Mỹ đường Bồ Đề, rồi cho người đi dụ bọn
Kính, Ang, Duy Nhạc hàng. Đăng Dung muôn mượn thế giặc giết
đại thần vây cánh nhà vua, mạo lời chúng yêu sách giết các người
đã gièm pha Trần Chân là Đoan quận công Ngô Bính, Thọ quận
công Trịnh Hữu và bọn Chử Khai thì sẽ xin về hàng. Chiêu Tông
bắt bọn này giết đi.
Đăng Dung lại định đưa vua về Bảo Châu. Có đô ngự sử Đỗ
Nhạc và phó đô ngự sử Nguyễn Dự không đồng ý. Đăng Dung sai
người trong đảng là Đình Mông bắt hai quan này giết đi. Quần
thần đều run sỢ. Từ đấy đại quyền trong triều ngoài quận đều
thuộc về tay Đặng Dung.
Thế giặc vẫn mạnh, lại có Nguyễn Sư làm phản, thông đồng
với bọn Kính, lập Lê Do làm vua, đóng hành điện ở Từ Liêm.
Chiêu Tông lại vòi Nguyễn Hoằng Dụ lần nữa. Hoằng Dụ đem
quân từ Thanh Hoa ra, cùng với Đăng Dung đi đánh bọn Kính, Áng ở
Sơn Tây. Hoằng Dụ tiến đánh trước, bị thua trận. Đăng Dung án binh
không tiến, được toàn quân. Hoằng Dụ trở về Thanh Hoa, ít lâu sau
chết. Đăng Dung giữ hết binh quyền, lại càng tung hoành, đưỢc phong
chức đô thống các doanh thuỷ bộ.
Sang năm 1519, Đăng Dung thông lĩnh các quân đánh phá
đưỢc Lê Do ở Từ Liêm, bắt được Lê Do, lại chiêu dụ được Nguyễn
Kính, Nguyễn Áng, Hoàng Duy Nhạc về hàng. Binh lực ngày càng
291
nhiều, uy danh ngày càng thịnh, triều đình ai cũng phục, tiến
phong tước Minh quận công.
Năm 1520, Phạm Gia Mô, thượng thư bộ Lễ, thông gia với
Đăng Dung, cùng bè phái dâng sớ xin cho Đăng Dung làm tiết chế,
nắm trọn binh quyền để đánh dẹp giặc cướp. Chiêu Tông phong
Đăng Dung làm tiết chế 13 đạo thuỷ lục quân; Gia Mô chức tán lý
quân vụ. Thế là toàn thể binh mã trong nước đều thuộc quyền
Đăng Dung.
Năm 1521, Đăng Dung tự phong lên tước Nhân quốc công,
quyền thế hống hách. Các quan có vì nhà vua can gián điều gì thì
Đăng Dung tìm cách giết đi. Triều thần thấy quyền thê về cả họ
Mạc, nhiều người cũng bỏ vua mà theo Mạc. Chiêu Tông cũng biết
họ Mạc chuyên quyền, nhưng còn trông mong lòng trung nghĩa
của Đăng Dung, hy vọng thu công sau này nên thân đến phủ,
phong thêm cho chức thái phó và cử Đăng Dung đem quân lên Bắc
Giang đánh Trần Thăng, rồi ban tò sắc khen ngợi.
Năm 1522, Đăng Dung hai lần xuất quân, phá được bọn Lê
Bá Hiếu nổi dậy ở Đông Ngàn.
Đăng Dung một mình giữ binh quyền, từng đánh được nhiều
đám giặc lớn, uy quyền càng ngày càng thịnh, kiêu ngạo, đi đường
thuỷ bộ dùng nghi vệ như vua, tự do vào cung cấm, sai em là Mạc
Quyết giữ đạo binh túc vệ, con Dục Mỹ hầu Đăng Doanh giữ điện
Kim Quang, giết hết người tâm phúc của nhà vua: thị vệ Nguyễn
Cầu, đô lực sĩ Nguyễn Thọ và Đàm Cử.
Chiêu Tông thấy tình thế ngày một bức bách, mưu ngầm với
bọn Nguyễn Hiến, Phạm Thứ, hiệu triệu các tướng bô"n phương về
đánh hỏi tội Đăng Dung, sai người đem mật chiếu đến Tây Kinh
dụ cựu thần Trịnh Tuy đem binh cứu giá. Đêm 27 - 7 âl nám 1522,
Nguyễn Hiến, Phạm Thứ vào cung cùng dự yến, canh hai đón
Chiêu Tông ra đi đến Mộng Sơn (có sách chép Ôc Sơn) nay thuộc
huyện Tùng Thiện, Sơn Tây, để thu xếp binh mã đánh Mạc.
Sáng hôm sau, Đăng Dung mới biết vua đã xuất ngoại, sai
Hoàng Duy Nhạc đem quân đuổi theo. Duy Nhạc đến Thạch Thất,
bị quân sở tại bắt được, giết đi. Đăng Dung hội -các đại thần Lê
Phụ, Lê Diêu (Chu) lập người em Chiêu Tông là Lê Xuân.
LÊ CUNG HOÀNG - Lê Xuân lên ngôi, ấy là vua Lê Cung
Hoàng. Chiêu Tông ở Sơn Tây. Các tướng và hào kiệt bốn phương
nhận được mật chiếu, theo về nhiều. Riêng có Vũ Hộ được triệu,
lại làm phản, dẫn 3.000 quân quy phụ Đăng Dung. Bọn Nghiêm
292
Bá Kỳ, Nguyễn Xí. Phạm Tại đem người vùng Bắc Giang đến đóng
ở phía tây Đông Ngàn cùng với tướng Hà Phi Ô (Phi Chuẩn, Phi
Phụ?) chông nhau với quân Đăng Dung.
ơ kinh thành, sỢ Chiêu Tông viện quân về đánh, Đăng Dung
rước Cung Hoàng về đất Gia Phúc, nay là Gia Lộc, Hải Dương, vận tải
hết báu vật trong thành và phong quan tiến tước cho vây cánh.
Chiêu Tông trưng tập đưỢc khá nhiều binh, dẫn quân về ngự
tại hành điện Thuỵ Quang, trăm quan tới triều, bôn phương
hưỏng ứng. Các tướng chia làm 4 đạo quân, đóng tại các huyện
Gia Lâm, Văn Giang, Đường Hào, cẩm Giàng, Lang Tài, Gia Định
(Gia Bình), đánh quân Đăng Dung, chống nhau một tháng, không
phân được thua.
Lúc này, ba mặt tây, nam, bắc đều thuộc về Chiêu Tông.
Đăng Dung tuy mượn tiếng Cung Hoàng chỉ giữ được một xứ Hải
Dương. Sau đấy, Đăng Dung chia quân hai đường thuỷ bộ tiến
đánh các xứ Đông Hà. Các tướng Lại Thúc Mậu, Nguyễn Dư
Hoan, Nguyễn Định và Đàm Khắc Nhượng chia đóng các doanh
chống giữ. Hai bên đang cầm cự, Đăng Dung dùng thuỷ quân
đánh úp ban đêm, phá tan các doanh. Thúc Mậu và Dư Hoan thua
chạy. Chiêu Tông may thoát nạn, chạy lánh đến dinh xã Nhân
Mục. Sau đó, Chiêu Tông lại đốic quân về kinh. Đăng Dung còn
vướng các tướng ở miền Bắc Giang nên không ngó tới đô thành.
Tiếc rằng Chiêu Tông nghe lòi những hoạn quan là bọn
Phạm Điền, không theo lời bàn các tướng, nên lòng người ly tán,
mọi việc hỏng cả.
Mùa đông nám ấy (1522), Trịnh Tuy cùng với Trịnh Duy
Tuấn đem toàn bộ quân tam phủ Thanh Hoa gồm hơn một vạn
quân ra cứu giá thì Chiêu Tông lại nghe lòi ly gián của bọn Phạm
Điền, bắt Nguyễn Bá Kỷ là thuộc tướng của Trịnh Tuy đem giết
đi. Trịnh Tuy tức giận ép Chiêu Tông bỏ Đông Kinh về Thanh
Hoa. Các đạo quân cần vương, không người tài giỏi cầm đầu, tự
giải tán. Thiên hạ thất vọng. Các tướng khởi nghĩạ bỏ đi ẩn.
Trong khi Chiêu Tông bôn ba thì quân đội Đăng Dung ngày
càng mạnh, bình định xứ Kinh Bắc, đánh phá Giang Vàn Dụ ở
Thanh Oai.
Năm 1524, Đăng Dung sai em là Đông Sơn hầu Mạc Quyết
và các tướng Vũ Hộ, Nguyễn Như Quế phái quân đi đánh Trịnh
Tuy. Quân Mạc đánh vào đầu nguồn Tây Kinh, chiếm được các
huyện châu. Trịnh Tuy thua trận, buồn rầu rồi chết bệnh.
293
Đăng Dung mạo chiếu giáng Chiêu Tông tước Đà Dương
vương, tự thăng mình làm Bình Chương quân quốic trọng sự, thái
phó Nhân quốíc công.
Tháng 10 âl năm 1525, Đăng Dung tự làm đô tưống, dẫn tất
cả thuỷ quân và bộ binh các doanh vào Thanh Hoa. Chiêu Tông
chạy vào động An Nhân, núi Cao Trí, châu Lương Chánh. Đăng
Dung bắt Chiêu Tông đem về ở Đông Hà, huyện Thọ Xương. Qua
năm sau, sai Bùi Khê bá Phạm Kim Bảng đến giết đi.
Vua Lê Chiêu Tông thực sự làm vua 7 năm, lưu vong bôn ba
4 nám, hưởng linh 24 tuổi, là vua tầm thường, không biết dùng
người anh tài, chết thảm, tình cũng đáng thương.
MẠC ĐĂNG DUNG THOÁN VỊ - Các tướng đóng quân ở Bắc
Giang là bọn Hà Phi Ô (Chuẩn) lần lượt tan rã, đều bị giết. Đăng
Dung lại giết luôn hết cả thảy các quan văn võ đã theo Chiêu
Tông, không theo mình, kể cả em rể là Nguyễn Lĩnh.
Đăng Dung giữ hết quyền thưởng phạt thăng giáng các quan
lại cùng tướng sĩ. Cung Hoàng chỉ giữ hư vị, đổi niên hiệu là
Thốhg Nguyên.
Sang năm 1527, Đăng Dung tự tháng lên tước thái sư An
Hưng vương, gia cửu tích.
Tháng 6 âl năm ấy (1527), Đăng Dung ép Cung Hoàng
nhường ngôi. Ngày 15 - 6, Cung Hoàng ban tò chiếu chỉ nhường
ngôi báu cho người có đức.
Cung Hoàng cùng thái hậu bị bắt giam ở cung Tây Nội, sau
bị giết cả.
Lê Cung Hoàng đế Xuân làm vua 5 năm, từ năm 1522 đến
1527 hoàn toàn chỉ có hư vị, do Đăng Dung đưa lên ngôi, lại bị
Đăng Dung giết.
Mạc Đăng Dung thu phục các triều thần vào bè cánh, mưu
sự thoán đoạt, được nhiều người tùng đảng, hầu hết là võ
quan. Cũng có những người phản kháng kịch liệt. Thượng thư
bộ lễ Lê Tuấn Mậu bị cưởng ép vào chầu, dấu hòn đá trong tay
áo, ném vào đầu Đăng Dung, rồi đành chịu giết chết. Đô ngự
sử Vũ Duệ, tham chính sứ Nguyễn Huy Tưởng, quan sát sứ
Nguyễn Tự Cường, đô ngự sử Kim Bảng, Ngô Hoan, thượng
thượng thư bộ hộ Nguyễn Thiệu Tri, phó đô ngự sử Nguyễn
Hữu Nghiêm, thị lang bộ lễ Lê Vô Cương, đều không chịu
khuất, chửi vào mặt Đăng Dung, rồi nhảy xuông sông mà chết,
hoặc hướng về Lam Sơn lạy rồi tự tử.
294
Nhà Lê từ Thái Tổ đến Cung Hoàng trị vì 100 năm (1428 -
1527), truyền được 10 đòi vua đến đây coi như chấm dứt, sau có trung
hưng thì chỉ còn hư vị.
Lê Thái Tổ có công đánh đuổi quân nhà Minh, khôi phục đất
nước. Lê Thánh Tông văn trị võ công rực rỡ, lại mỏ rộng thêm đất
nước. Mấy vua sau Uy Mục, Tương Dực hèn kém, lại hoang dâm,
xa xỉ, bạo ngưỢc, chính trị thối nát, quyền thần cũng theo đà ấy,
dân chúng bị ức hiếp bóc lột. Chiêu Tông không biết dùng người,
trên đường lưu vong còn giết hại người ngay nên cơ đồ phải đổ nát.
Trong tình trạng như vậy thì nếu không có Mạc Đăng Dung ấy thì
cũng có Mạc Đăng Dung khác tranh quyền cướp ngôi mà thôi.

TÌNH HÌNH CHÍNH TRỊ, XÃ HỘI


VÀ VĂN HOÁ DƯỚI TRlỂu NHÀ LÊ
Người Minh chiếm đất cai trị dân ta, vơ vét rất nhiều tài nguyên,
bắt đi nhiều thợ khéo, đàn bà, con gái và cả trẻ con, khiến nừớc ta mất
đi lắm nhân lực, vật lực. Mặt khác, nhà Minh lại muốh người nước ta
Hán hoá quên gổc nên chủ trương thu vét thư tịch Việt Nam, phá huỷ
các bia và đền miếu thò danh nhân, thu vét thư tịch, cấm nhuộm răng,
y phục phải theo như người Hoa. Sau khi độc lập được thu hồi, nước
nhà kiến thiết lại như cũ, có tiến triển tuy không nhiều.
Nền chính trị nhà Lê là trung ương tập quyền. Triều đình trực
tiếp cai trị miền xuôi, vẫn để các tù trưởng trị thổ dân miền núi
nhưng đặt quan giám sát có phần chặt chẽ hơn dưới triều Trần.
Về ngoại giao, nước ta vẫn theo lệ xưng thần với nhà Minh,
nhưng vẫn hết lòng phòng bị mặt bắc. Lịch sử còn lưu truyền câu nói
nổi tiếng của vua Lê Thánh Tông: “Ta phải giữ gin cho cẩn thận,
đừng đê cho ai lấy mất một phân núi, một tấc sông của vua Thái tổ
để lại." Đốì với các nước láng giềng phía tây và phía nam thì nhà Lê
thực hiện chính sách hoà hiếu và phòng vệ là chủ yếu.
Nho giáo đưỢc tôn sùng hơn trước. Vua quan không còn sùng
đạo Phật. Không có mấy cao táng hoằng pháp giáo lý. Ngưòi đi lễ
Phật chỉ là cầu phúc. Đạo Lão bị biến thể, chỉ có những phù thuỷ,
thầy cúng trừ tà ma (!). Táng lữ ít uy tín và không dự chính trị.
Thứ dân thì giới sĩ phu phát triển nhiều. Sô" người đi học
ngày thêm đông. Con em các phú nông, phú thương, đều theo học
và nhiều người trở thành sĩ nhân. Triều đình kén chọn quan lại
bằng các khoa thi, kén chọn nhân tài trong giới này. Các hiển sĩ có
đòi sông sung túc, giông như quý tộc.
295
Hơn hai mươi năm thuộc Minh, kinh tế nước ta bị suy sụp do
ngoại bang bóc lột và chiến tranh liên miên. Sang triều Lê, nước
nhà đưỢc thái bình. Hầu hết dân chúng đều làm nghề nông, được
yên nghiệp làm ăn. Chính quyền chịu chăm lo nâng đỡ nông
nghiệp. Lê Thái Tổ ban hành chế độ quân điền cho binh sĩ nghèo.
Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông chăm lo việc vệ nông. Dân nghèo
đưỢc chẩn cấp trong mấy năm mất mùa. Đòi sốhg nông dân, dù là
bậc trung, cũng giản dị.
Tiểu thủ công nghiệp có phần phát đạt do tình hình kinh tế
chung. Thợ chuyên môn cùng nghề thưòng quy tụ thành phường
hay làng, sản xuất cùng thứ hàng. Các xưởng của nhà nước đúc
tiền, chế tạo vũ khí, đóng thuyền, xe, ngoài công binh, có dùng
nhiều thợ chuyên môn. Đời sông thợ thuyền thường khá hơn người
làm ruộng. Người có tay nghề dễ được khấm khá.
Thương mại tiến triển không nhiều lắm. Ngoài cảng Vân Đồn,
thương thuyền ngoại quốc còn đến cửa Còn, cửa Hội, cửa Triều thuộc
Thanh Hoa, Nghệ An. Vận tải hàng hoá thường dùng thuyền đi
đường thuỷ, ít dùng đường bộ bằng xe ngựa, bò kéo, hay sức người
đẩy. Miền núi dùng ngựa thồ. Thương nhân giầu có không nhiều, ít
được tôn trọng và không có ảnh hưởng đến chính trị. Tiểu thương
hầu hết do đàn bà, con gái vận chuyển hàng bằng gánh.
Nói về văn hoá thì ván học triều Lê thịnh, nhất là vào
thời Hồng Đức với Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Lương Thế
Vinh, Tao đàn nhị thập bát tú. Việc công và thi cử vẫn dùng
chữ Hán, nhưng quôc âm đưỢc chú ý nhiều. Hàng loạt tác
phẩm thơ, ca, truyện bằng quôc âm xuất hiện, tiêu biểu là G ia
H uấn ca của Nguyễn Trãi.
Về sử, có Ngô Sĩ Liên soạn Đ ại Việt sử ký toàn thư, Vũ
Quỳnh soạn Đại Việt thông giám .
Kỹ thuật không có gì đáng kể.
Mỹ thuật do ít được chú ý nên bị lãng quên. Ngôi điện một
trám nóc gọi là cửu trùng đài do Vũ Như Tô dựng có thể là một
kiến trúc mỹ thuật, tiếc rằng bị phá huỷ ngay.

296
THỜI KỲ NHM BHC PHHN TRflNH 1528 -18 0 2

LỊCH TRIỂU LƯỢC KỶ

Nước ta, từ khi Ngô Quyền thu hồi độc lập, Đinh Bộ Lĩnh dẹp
yên loạn Thập Nhị Sứ Quân, dưới các triều Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê
trong 6 thế kỷ, từ năm 939 đến năm 1527, là nước tự chủ thống
nhất. Đến thế kỷ XVII, nhà Lê suy yếu, nước loạn lạc, có những
cuộc nổi dậy chông đối chính quyền trung ương, quan triều nắm
giữ binh quyền lại chia phe đảng đánh lẫn nhau, tranh địa vỊ và
quyền lợi. Sau có Mạc Đăng Dung chiến thắng được những đám
quân phiệt, rồi làm sự thoán đoạt. Lòng người còn tưỏng nhớ công
đức Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông cho nên Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm
lại phò con cháu nhà Lê phục quốc, đóng quân giữ Thanh Hoa trở
vào đến đèo Hải Vân. Ngoài bắc, nhà Mạc còn làm vua thành ra có
sự phân chia Nam triều và Bắc triều. Họ Trịnh sau diệt được nhà
Mạc nhưng rồi ra nước nhà vẫn bị chia cắt, do họ Nguyễn xưng
hùng ở miền nam, nơi đây gọi là Đàng Trong. Họ Trịnh xưng hùng
ở miền bắc, gọi là Đàng Ngoài. Giang sơn chia rẽ, nam bắc phân
tranh. Tuy vậy, họ Trịnh và họ Nguyễn chỉ xưng chúa, chứ không
xưng vua. Bề ngoài vẫn tôn sùng nhà Lê, thực sự các vua Hậu Lê
chỉ có hư vị, mọi quyền chính trị, quân sự ỏ các chúa.
Thời gian đất nước bị chia cắt kéo dài suôt gần 300 năm. Sau
có nhà Nguyễn Tây Sơn nổi dậy ỏ Đàng Trong, từng đánh ra bắc
mưu sự thông nhất nước nhà nhưng dòng họ Nguyễn có Nguyễn
Ánh kiên trì chống trả hàng 25 năm, đến năm 1802 mới thu giang
sơn lại một nhà.

297
KỶ NHÀ MẠC (1527-1592)
MẠC THÁI TỔ huý ĐẢNG DUNG (1483 - 1541)
N iên hiệu\ Minh Đức 1527 - 1529

CH ÍN H TRỊ - Tháng 6 âl năm 1527, Mạc Đăng Dung thoán vị


nhà Lê, lên làm vua, dựng nên nhà Mạc. Lên ngôi, Đăng Dung
phong thưởng cho các anh em, họ hàng và người trong vây cánh có
công tôn phù. Đăng Dung đưỢc nưốc do nhờ sức quân đội mà nổi
cơ đồ nên hậu đãi tướng lĩnh và quân sĩ, nhưng vẫn muốh giới sĩ
phu cũng theo về mình nên gọi các quan cùng con cháu các quan
tiền triều xuất sĩ, lại truy phong các vị đã tuẫn tiết, kể cả những
người đã chốhg đối. Mở khoa thi văn ngay từ năm 1529. Mọi việc
chính trị đều theo phép cũ của nhà Lê, không cải cách gì mấy, vẫn
long trọng phụng sự tôn miếu nhà Lê, lại tu sửa các đền miếu thờ
các vua và công thần các triều Ngô, Đinh, Lý, Trần.
Đăng Dung theo lối nhà Trần, năm 1530, nhường ngôi cho
con là Đăng Doanh, về nguyên quán làng cổ Trai làm thái thượng
hoàng, vẫn giữ quyền chính.
CÁ C TOÁN NỔI DẬY CHỐNG ĐỐI - Dân chúng từ lâu khổ sở về
loạn lạc. Đăng Dung lên ngôi, dân chúng vẫn còn nhớ thòi Hồng
Đức thanh bình thịnh vượng, oán họ Mạc, nên khi có hào kiệt nổi
dậy chống đối thì nhiều người ùa theo.
Năm 1528, có Bích Khê hầu Lê Công Uyên cùng với Nguyễn
Ngã, Nguyễn Thọ Trường khởi nghĩa, bị đánh thua, chạy vào Thanh
Hoa, chiêu tập dân chúng, nhưng thế lực không đưỢc hùng mạnh
lắm, bị tướng Mạc Lê Thiệu đánh bại. Uyên bị giết, quân sĩ tan vỡ.
Nám 1529, lại có Lê Ý, con công chúa An Thái, khởi binh ở
châu Quan Gia, đất sông Mã, thuộc Thanh Hoa. Dân chúng hưởng
ứng nhiều. Đăng Dung đích thân dẫn hàng vạn quân thuỷ bộ vào
đánh, mấy trận đều bị thua. Sau Đăng Doanh tiến đánh nữa, cũng
lại thua to luôn. Sau có tướng Mạc Quốc Trinh dò biết Lê Ý thắng
trận luôn, kém phòng bị, tiến quân đánh úp, phá tan doanh trại,
bắt được Lê Ý đem về Đông Kinh giết chết.
Tiếp theo có công cuộc khỏi nghĩa của Nguyễn Kim quy mô
rộng lớn.
298
VIỆC GIAO THIỆP VỚI NHÀ MINH - Mạc Đăng Dung thoán vị lên
làm vua, sỢ nhà Minh bên Trung Quốc mUỢn tiếng hỏi tội, cất
quân sang đánh nước ta, sai sứ sang Yên Kinh, dâng biểu nói:
“Con cháu nhà Lê không còn ai thừa tự nên chúc thác đại thần họ
Mạc tạm quản việc nước, để yên nhân dân.”
Năm 1529, có cựu thần nhà Lê là anh em Trịnh Ngung,
Trịnh Ngang sang Minh báo cáo Đăng Dung cưóp ngôi và xin binh
để dẹp. Người Minh sai quan sang thăm dò tin tức, gạn hỏi căn do.
Đăng Dung cùng bày tôi đặt lòi lẽ đôi đáp, lại dùng vàng bạc đút
lót quan nhà Minh giữ biên thuỳ để nhờ che chở nên vẫn chưa có
sự gì diễn ra. Sau Nguyễn Kim lập Lê Duy Ninh, sai Trịnh Duy
Liệu sang Minh cáo tội trạng Đăng Dung và xin đánh dẹp. Duy
Liệu giỏi văn chương, trình bày sự việc, lòi lẽ rất lâm li bi đát.
Minh Thế Tông, niên hiệu Gia Tĩnh, muốh lợi dụng cơ hội này sal
quân sang đánh chiếm đất nước ta, lập thành quận huyện. Song
triều thần Trung Quốc vẫn e ngại lại có sự Vương Thông, Liễu
Thăng nữa. Thượng thư bộ binh Mao Bá ô n tâu: “An Nam phong
tục mọi rỢ, khí hậu chướng độc, không thích hỢp với Trung Quốc.
Dân Man sính làm loạn, liên kết bè đảng, vây hãm đánh giết. Xưa
Trương Phụ đem hơn 10 vạn quân sang, lấy được đất nhưng rồi ra
không giữ đưỢc lâu. Vậy chỉ nên để ngoài, không nên cho nội
thuộc.” Triều đình nhà Minh, tuy biết thế nhưng muốn tỏ uy
quyền nưốc lớn, làm ra bộ hung hăng sẽ điếu phạt họ Mạc, phô
trương thanh thế, cử Cừu Loan làm tông đốc quân vụ, Mao Bá ôn
làm tán lý quân vụ, xuốhg miền Lưỡng Quảng, Vân Nam, điều
động quân lính đóng trên biên giới nước ta, nhằm uy hiếp nhà
Mạc. Người Minh lại truyền hịch đi các nơi kể tội Đăng Dung và
treo thưởng quan tước và 1, 2 vạn lạng bạc cho ai bắt sổhg hay
chém được cha con Đăng Dung. Bấy giò là năm 1537.
Một mặt, Đăng Dung sai Phan Chính Nghị đưa thư đến Vân
Nam, đại ý nói ba vua Lê CUỐI cùng thì một người bị giặc giết, hai
người sau lần lượt chết bệnh. Họ Lê không có con nối. Khi vua
cuôl cùng sắp mất, có bàn với quần thần: “Đăng Dung và con trai,
đều có công với nước, vậy giao ấn tín cho y để giữ nước”. Còn Duy
Ninh là con của loạn thần. Mặt khác, Đáng Dung chỉnh đốh quân
đội, sửa soạn vũ khí sẵn sàng kháng chiến.
Người Minh lại sai sứ sang dụ Đăng Dung nên tự trói mình
đền tội và thành khẩn dâng nộp sổ sách ruộng đất, nhân dân thì
được tha cho khỏi chết. Đăng Dung sai bọn Nguyễn Văn Thái sang
299
sứ Minh xin hàng, một mặt sai người bí mật giao dịch với Trương
Nhạc, tướng giữ châu Liêm, từng nhận nhiều hối lộ, vốn đã che
chở cho y, vận động tướng này thu xếp sao cho y được trọn vẹn.
Quan quân nhà Minh được lệnh đi chinh nam, nấn ná sửa
soạn hàng hơn hai năm mới tiến quân đến gần biên thuỳ nước ta,
rồi cũng không dẫn quân xâm nhập, cũng không hống hách đòi
Đăng Dung đến nghe hiệu lệnh. Để giải quyết tình thế căng thẳng
trong quan hệ Trung - Việt này đòi hỏi nhà Mậc phải biết phát
huy truyền thốhg ngoại giao giữ nước của dân tộc, sáng suốt giữ
thể diện trong điều đình, dù phải mềm mỏng nhưng ít phải
nhượng bộ.
Tuy nhiên, quan tướng nhà Minh vẫn ngang ngược đòi hỏi
quá đáng cắt đất dâng nộp, đòi Đáng Dung đích thân đến cửa
quan dựng mốc, từ bỏ đế hiệu, vâng lĩnh lịch theo ngày tháng
niên hiệu vua Trung Quốíc.
Tháng 11 âl năm 1540, Đăng Dung để Phúc Hải ở lại giữ
nước, cùng với con cháu người họ và bầy tôi hơn 40 người đến Nam
Quan dâng tờ biểu hàng và sổ sách ghi chép thổ địa quân dân
trong nước, tình nguyện nộp bốh động Tư Lẫm, Kim Lạc, c ổ Sâm
và Liêu Cát đổi lấy việc xin ban cho niên lịch và ấn tín. Lửa chiến
tranh đưỢc rút ngòi. Tướng Minh thu quân về. Đăng Dung đem
nhiều vàng bạc tặng riêng, sai Mạc Văn Minh cùng tiểu mục
tòng nhân 28 người theo tuỳ viên của tướng Minh tới Yên Kinh
dâng tò biểu cầu hoà. Lại sai tiểu mục Nguyễn Như Quế, kỳ
nhân Lê Thuyên và sĩ nhân Nguyễn Kính Tế dâng tò biểu lên
vua Minh ca tụng công đức dẹp loạn yên dân của cha con Đặng
Dung và xin phong cho nhà Mạc.
Bọn Cừu Loan, Mạo Bá ôn không phải khó nhọc đánh chác
gì, được Đăng Dung xin hàng, dâng đất có công, lại còn được Đăng
Dung hối lộ riêng, cực lực xin vua Minh phong cho Đăng Dung.
Năm 1541, Minh Thế Tông ban chiếu xá tội cho cha con Đăng
Dung, đổi An Nam quốc làm An Nam đô thống sứ, trao cho Mạc
Đăng Dung làm đô thống sứ, cho hàm nhị phẩm và quả ấn bằng
bạc và đưỢc đời đòi truyền nốì.
Sứ giả mang sắc phong sang tới nơi thì Đáng Dung đã chết.
Sau bọn Mao Bá ô n xin cho Mạc Phúc Hải lĩnh chế mệnh. Minh
Thế Tông ưng cho.
Ngày 27 - 8 âl năm 1541, Mạc Đăng Dung chết, làm vua 3
năm, làm thái thượng hoàng 12 năm, thọ 59 tuổi.
300
CÁC VUA NHÀ MẠC SAU ĐÃNG DUNG
1530 1592

Đăng Doanh tại vị từ năm 1530 đến năm 1540, Phúc Hải
1541 - 1546, Phúc Nguyên 1546 - 1561, Mậu Hợp 1562 - 1592. Sau
năm 1592, họ Mạc chỉ còn giữ được một phần nhỏ đất nước tại xứ
Cao Bằng.
Các vua Mạc trị vì miền bắc, sử chép là Bắc triều.
Các công việc cai trị trong nước, nhà Mạc nhất nhất đều theo
phép tắc nhà Lê cũ. Suốt thòi gian họ Mạc làm vua là những năm
có chiến tranh liên miên. Triều đình trọng võ. Gia đình binh sĩ đưỢc
cấp hai phần ruộng, mà binh điền lại phải là ruộng tốt hạng nhất.
Các tướng tá đưcíc phong chức tước cao quý, đồng thòi có đến 5, 7
quốc công và quận công. Nhưng vàn học cũng được trọng. Các khoa
thi được mở đều đặn ba năm một kỳ. Dưới triều đại này có nhiều
người thi đỗ trạng nguyên, bảng nhãn.
Mạc Đăng Doanh chết năm 1540, trước cha. Đăng Dung lập
người con trưởng của Doanh là Phúc Hải kế vị.
Thòi kỳ Đăng Doanh làm vua, có Trịnh Ngung, Trịnh Ngang
chiếm cứ xứ Thái Nguyên; Vũ Văn Uyên (Văn Mật) chiếm cứ xứ
Tuyên Quang, không theo hiệu lệnh họ Mạc. Nguyễn Kim nổi dậy
ở Thanh Hoa, Nghệ An. Các nhóm này đều cầu cứu nhà Minh.
Thời Phúc Hải, có việc năm 1541, Minh Thế Tông phong làm
đô thống sứ. Phúc Hải lên đến cửa quan lĩnh tò sắc, quả ấn và
1000 quyển lịch, sau tạ ơn vua Minh 209 lạng vàng, 800 lạng bạc
và 20 sừng tê giác, 30 ngà voi.
Năm 1545, các miền Hoan, Diễn, 0 , Rí, Quảng đều đua nhau đến
cửa quân nhà Hậu Lê xin hiệu lực. Thê nhà Mạc ngày càng xuốhg.
Ngày 8 - 5 âl năm 1546, Phúc Hải chết, ở ngôi 6 năm.
Con trưởng Phúc Hải là Phúc Nguyên hãy còn trẻ tuổi.
Trong triều có Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi bàn: Hiện trong
nước đang lúc nhiễu loạn nên phải lập vua lớn tuổi. Con thứ
hai Thái Tổ (Đăng Dung) là Hoằng vương Chánh Trung đã
nhiều phen cầm quân, thường thắng trận. Vậy nên dựng lên
nôl ngôi. Các tôn vương họ Mạc và các tướng Nguyễn Kính,
Trần Phỉ, Lê Bá Ly, không theo, bàn định dựng Phúc Nguyên.
301
Phạm Tử Nghi cùng tỳ tướng khỏi loạn, đem Chánh Trung
chiếm cứ Ngự Thiên ở Hoa Dương, tiếm xưng tôn hiệu. Các
quan có nhiều người theo, Phúc Nguyên phải chạy sang Đông.
Khiêm vương Mạc Kính Điển và bọn Nguyễn Kính phát binh
đánh Tử Nghi, buổi đầu có thua nhiều trận nhưng sau tập hỢp
được nhiều tướng tá, họp các đạo quân thuỷ bộ cùng tiến, phá
được quân của Chánh Trung. Tử Nghi đem bọn Chánh Trung
chạy, chiếm cứ xứ An Quảng. Chánh Trung cùng mấy người họ
Mạc thất thế, đem gia quyến hơn trăm người, chạy sang Khâm
Châu. Tử Nghi giữ đất An Quảng, lại vào địa phận Trung
Quôh, khua dụ dân Man ở ven biên nổi loạn cướp phá, làm tao
nhiễu Khâm Châu và tỉnh Quảng Đông. Nhà Minh tỏ ra lúng
túng, không chế ngự được các cuộc nổi dậy này. Sau họ ép
Kính Điển sai người dụ bắt được Tử Nghi, đem chém. Bấy giờ
là năm 1548.
Trong thời gian Phúc Nguyên còn nhỏ tuổi chưa quyết định
được gì, mọi công việc lớn nhỏ đều do người chú Khiêm vương Mạc
Kính Điển định đoạt.
Năm 1549, vua Minh tập phong cho Phúc Nguyên.
Trong triều bấy giờ có Phụng quận công Lê Bá Ly chức
thái tể là vị lão tướng trọng thần, nguyên là quan triều Lê,
theo làm bày tôi họ Mạc, thò bô"n triều vua, chuyên giữ binh
quyền, tham dự triều chính, mọi người đều phục. Sau khi
đánh Phạm Tử Nghi, uy danh lừng lẫy. Con trai trưởng Phó
quận công Khắc Thận lấy công chúa, quyền tiết chế lộ Sơn
Nam. Con trai thứ Thuần Lương hầu quản đôh đội cấm binh.
Con rể, thông gia đều là quan văn, võ. Lại cỏ Vĩnh quận công
Phạm Quỳnh và con là Phó Xuyên hầu Phạm Giao, không có
công gì, chỉ do vỢ Phạm Quỳnh xưa là vú sữa nuôi Kính Điển
mà được phong. Bị khinh khi, Phạm Quỳnh gièm với Kính
Điển và nói với Phúc Nguyên là Khắc Thận có dị mưu (phản
nghịch), rồi tự ý sai quân đến vây nhà Bá Ly. Bá Ly c ố thủ,
gọi con em đến cứu viện. 3.000 cấm binh hộ vệ, đánh bại bọn
Quỳnh, Giao. Phúc Nguyên hoảng sỢ, chạy qua sông, sai
người xin Bá Ly bãi binh. Bá Ly đòi phải bắt cha con Phạm
Quỳnh giải đến. Phúc Nguyên không chịu, sai bọn tướng Sơn
302
Tây hỢp binh đánh. Bá Ly được nhiều toán quân cứu viện,
đánh bại quân Phúc Nguyên, mà Phúc Nguyên vẫn không
chịu nộp cha con Quỳnh, Giao. Bá Ly tức giận, bàn với các
tướng: Vua nhà Lê đã chính vị ở Thanh Hoa, bôn phương quy
phục, thực là vị chúa trung hưng. Nay nên dẫn quân quy
thuận, dựng nên nghiệp lớn. Mọi người đồng thanh nghe theo.
Lê Bá Ly cùng con trai Khắc Đôn, Khắc Thận xuất 14.000
quân các đạo tây nam, cùng với Nguyễn Thiến, Nguyễn Quyện
tới bái yết vua Lê đóng ở sách Vạn Lại. Thái uý Đoan quận
công Nguyễn Khải Khang cũng đem 3.000 quân vào quy
thuận. Cháu rể Bá Ly là Khổng Lý và Đặng Huấn cũng theo
vào. Bây giò là năm 1551. Do sự việc này, thanh th ế của nhà
Mạc bị suy giảm nhiều. Phúc Nguyên lo sỢ, binh quyền uỷ hết
cho Kính Điển tính kế bảo thủ.
Trong thòi gian Phúc Nguyên làm vua, quân Mạc nhiều lần
đánh vào Thanh, Nghệ không được. Quân Trịnh cũng có đánh ra
bắc (sự việc chép kỹ ở sau).
Mạc Phúc Nguyên làm vua 15 năm, mất năm 1561. Có
thuyết mất năm 1564.
Phúc Nguyên mất, con là Mậu HỢp nôl ngôi. Đ ại Việt
thông sử chép Mậu Hợp sinh năm 1563, lên ngôi 1564. Vua
mối lên hai tuổi, các công việc đều do ông chú Mạc Kính Điển
và Mạc Đôn Nhượng (con Đăng Doanh). Mậu Hợp làm vua
được 30 năm, thời gian này chỉ toàn những năm có chiến
tranh. Buổi đầu còn có những trận quân nhà Mạc đánh vào
miền trong, quân Trịnh đánh ra. Thế quân Trịnh ngày càng
mạnh, từ năm 1583 chiến thắng luôn. Thế mà Mậu Hợp lớn
lên lại hoang chơi, say mê tửu sắc. Trọng thần già chết. Các
quan văn võ nhiều ngưòi dâng thư xin tu tỉnh, sửa đức, chỉnh
đốn việc cai trị, nhất là võ bị. Mậu Hợp khen phải nhưng
chẳng chịu theo. Họ chán nản, nhiều người bỏ quan về, hoặc đi
ẩn, hoặc vào hàng họ Trịnh, Thế quân ngày một suy kém.
Tháng 12 năm Mậu Thìn (1592), Mậu Hợp thua trận, chạy
trôn, bị bắt, chém.
Nhà Mạc mất ngôi từ đấy. Sau con cháu nhò nhà Minh bênh
vực, còn giữ đất Cao Bằng ba đời nữa, đến năm 1677 mới dứt hẳn.
303
NGUYỄN KIM
Tên chữ Hán viết , tiếng Quan hoả là Jin, đồng âm với các
chữ . Ta quen đọc là Kim, / r t là Cân. Sách Đại Việt
thông sử của Lê Quý Đôn chép là Cam. Tiếng Kim thông dụng hơn.

Nguyễn Kim thuộc dòng họ Nguyễn Tốhg Sơn Thanh Hoa,


một lệnh tộc, dòng dõi Nguyễn Bặc, công thần triều Đinh. Truyền
đến Nguyễn Văn Lang làm quan dưới triều Hồng Đức. Đến
Nguyễn Hoằng Dụ làm quan dưới triều Lê Chiêu Tông, tước An
Hoà hầu. Nguyễn Kim, con Nguyễn Hoằng Dụ {Đại Việt thông sử
chép em) lĩnh chức hậu vệ điện tiền tướng quân, tước An Thanh
hầu. Sách Việt N am kh ai quốc ch í truyện chép Nguyễn Hoàng
Kim là con Nguyễn Hoằng Dụ, cháu Nguyễn Văn Lang, đều làm
quan nhà Lê.
Mạc Đáng Dung thoán vị, Nguyễn Kim không phục, đeni
con em chạy sang Ai Lao, mưu đồ khôi phục, lánh loạn ở sầm
Châu, chiêu binh mãi mã, kêu gọi các người trung nghĩa. Cuôl
năm 1530, có sô" binh tướng hơn ngàn người, 30 con voi, 300
con ngựa, về kinh lược xứ Thanh Hoa, đóng quân ở Lôi Dương.
Năm 1531, tướng Mạc Nguyễn Kính vào đánh. Nguyễn Kim
đánh phá được, rồi chia tướng sĩ đóng ở các huyện. Nguyễn
Kính đánh nữa, vẫn bị thua. Sang thu, mưa nhiều, quân Mạc
dùng chiến thuyền tiến đánh, quân dân tán loạn. Nguyễn Kim
phải rút quân về sầm Châu.
Sau tìm được con trai Lê Chiêu Tông là Lê Duy Ninh. Cuối
năm 1532, Nguyễn Kim cùng các cựu thần nhà Lê: Lý quốc công
Trịnh Duy Thoan (Nõn, Thuận), Phúc Hưng hầu Trịnh Duy Duyệt,
tả đô đốc Trịnh Duy Liệu dựng Duy Ninh lên làm vua, tục hiệu vua
Lê Trang Tông, đóng ở sầm Châuv miền tây bắc Thanh Hoa, biên
giới Ai Lao. Cử Trịnh Duy Liệu sang Minh nhò giúp đỡ. Hào kiệt các
nơi theo về nhiều. Năm 1537, Tây An hầu Lê Phi Thừa, trấn thủ
Thanh Hoa, sang quy thuận. Thanh thế ngày một nổi lớn.
Năm 1539, mang danh nghĩa theo lệnh vua Lê Trang Tông,
Nguyễn Kim cùng các tướng dẫn binh chia đường tiến quân, thế
lừng lẫy, đánh vào vùng Lôi Dương, nơi nào quân Mạc Đăng
Doanh cũng thua. Năm 1540, đánh vào các huyện ở Nghệ An.
304
Nhiều hào kiệt hưỏng ứng quy phụ. Quân của Phúc Hải thua
trận luôn luôn. Năm 1542, Lê Trang Tông tự cầm quân đi kinh
lược Thanh Hoa, Nguyễn Kim đánh vào Nghệ An. Năm 1543,
Trang Tông thân chinh lấy được Tây Đô. Tướng Mạc Trung Hậu
hầu Dương Chấp Nhất, tổng trấn Thanh Hoa xin hàng. Thế lực
nghĩa quân càng ngày càng mạnh mẽ. Năm 1545, tiến quân ra
đóng ở hạt Yên Mô, thái sư Hưng Quôh công Nguyễn Kim bị
hàng tướng Dương Chấp Nhất đầu độc chết. Chấp Nhất về với
Phúc Hải.
Nguyễn Kim là thuỷ tổ các chúa, vua nhà Nguyễn, sử sách
gọi ông là Triệu Tổ.
Tướng Mạc thái tế Ninh Quốc công Phúc Tư em Phúc Hải, thừa
cơ vào đánh cướp doanh trại Trang Tông, bị đề thống ngự doanh
Trịnh Kiểm đánh phá. Quân Mạc chết nhiều vô kể. Nguyễn Kim
khuất, nghĩa quân có tướng tài Trịnh Kiểm nốĩ nghiệp. Quốc thể
ngày thêm thịnh vượng. Châu Ái đã yên. Các hào trưởng bốn châu
Hoan, Diễn, Ô, Quảng đều đua nhau theo về. Cơ nghiệp hoàng gia
(Lê) bắt đầu tiến mạnh, còn thê nhà Mạc ngày càng xuống.

TRỊNH KIỂM
Trịnh Kiểm người làng Sóc Sơn, huyện Vinh Phúc (nay là Vĩnh
Lộc), phủ Quảng Hoá, là tướng giỏi, theo thái sư Hưng quốc công
Nguyễn Kim đi đánh dẹp, lập được nhiều chiến công. Nguyễn Kim
gả con gái là Ngọc Bảo cho. Lê Trang Tông phong là Dực Nghĩa hầu;
năm 1539 lại thăng tước công, coi là đại tướng tầm phúc.
Nguyễn Kim khuất, Trịnh Kiểm thay thế, nắm giữ binh
quyền. Lê Trang Tông phong chức làm tiết chế các xứ thuỷ bộ chư
doanh, tước Lương quốc công, được đặc quyền giữ việc binh và
tổng tài chính sự trị dân.
Trịnh Kiểm rút quân về Thanh Hoa, lập hành điện ở đồn
Vạn Lại thuộc Thuỵ Nguyên để vua ở, rồi chiêu mộ hào kiệt,
luyện tập quân sĩ, tích trữ lương thực, để lo việc đánh họ Mạc.
Danh sĩ miền bắc như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh
đều vào giúp. Bấy giờ giang sơn chia làm hai: từ Thanh Hoa trỏ
vào thuộc nhà Lê, là Nam triều, từ Sơn Nam trở ra thuộc họ
Mạc, gọi là Bắc triều.
305
LÊ ANH TÔNG
Bấy giờ, tại Nam triều, vua Lê Trang Tông không thọ lâu, khuất
năm 1548. Con là thái tử Lê Duy Huyên kế vỊ, ấy là vua Lê Trung
Tông. Lê Trung Tông yểu mệnh, khuất năm 1556, không có con. Con
cháu trai các vua nhà Lê không còn ai.
Trịnh Kiểm từ trước đến nay vẫn hành động với danh nghĩa
phục Lê diệt Mạc không tiện tự lập, e không có chính nghĩa. Họ
Mạc còn khá mạnh, lại sỢ nhà Minh bên Trung Quốc can thiệp vào
việc nước ta, đành giữ phận “thò Phật ăn oản” theo lòi khuyên của
Nguyễn Bỉnh Khiêm (trạng Trình). Sau tìm được ngưòi cháu
huyền tôn của Lê Trừ, anh Lê Thái Tổ là Lê Duy Bang ở làng Bố
Vệ, huyện Đông Sơn, rước về lập làm vua năm 1557, tục hiệu vua
Lê Anh Tông.
Lê Anh Tông không có công đức gì, chỉ là người cháu họ xa
với các vua Lê tiền triều mà được lập, do không nắm giữ được binh
quyền nên chỉ giữ hư vị.
Nhà Lê có trung hưng nhưng mới đóng tại Tây Đô, chưa thu
phục lại được giang sơn như cũ. Nhà Mạc có làm vua nhưng chỉ
giữ đưỢc có miền bắc. Ây là thòi phân Nam triều và Bắc triều.

CHIẾN TRANH TRỊNH - MẠC


Giữa th ế kỷ XVI, quân do Trịnh Kiểm chỉ huy lo đánh họ
Mạc, khôi phục Đông Đô. Nên họ Mạc muôn trừ đối thủ thông
nhất giang sơn, có tưống Khiêm đại vương Mạc Kính Điển
cũng anh tài, tính nhân hậu, minh mẫn, dũng cảm có thừa,
giữ chức tổng soái trung doanh, cầm quyền chính trị trong
triều ngoài quận, mười phen cầm quân vào đánh Thanh Hoa.
Trịnh Kiểm cũng 6 lần tiến quân ra bắc, mà tình hình chưa
biến chuyển gì mấy.
Từ khi Nguyễn Kim khuất, Trịnh Kiểm kế nghiệp, trong
những năm đầu còn giữ thế thủ, làm mọi việc để tăng cường
lực lượng lớn mạnh đợi ngày ra đánh họ Mạc. Năm 1551, được
bọn Lê Bá Ly, Nguyễn Thiến, Nguyễn Khải Khang bỏ nhà Mạc
vào quy thuận, đem theo gần 2 vạn quân. Thế Mạc Phúc
Nguyên suy yếu, Trịnh Kiểm thừa cơ xuất quân tiến đánh. Lê
Bá Ly ra đường Sơn Nam, Nguyễn Khải Khang đường Sơn Tây,
306
Vũ Văn M ật tại Tuyên Quang xuông hội đồng tại Đông Kinh.
Bá Ly đặt giấy chiêu dụ các tướng nhà Mạc theo về phò Lê.
Trịnh Kiểm xuất quân tại Hưng Hoá cùng với Vũ Ván Mật
đánh phá quân Kính Điển, thắng luôn khôi phục lại Đông
Kinh. Họ Trịnh muôn rước vua Lê ra bắc, nhân tâm tất hưỏng
ứng, hào kiệt quy phụ, giữ trung châu hiệu lệnh bô"n phương,
quét hết phe cánh Mạc. Trịnh Kiểm suy tính phe đảng Mạc còn
nhiều, chưa nên kinh động. Tướng Mạc Khánh quốc công dẫn
thuỷ quân ngược dòng sông tiến đánh ngang vào hậu quân.
Trịnh Kiểm phá được, rồi cùng bọn Bá Ly về Thanh Hoa. Văn
Mật về Tuyên Quang.
Năm 1554, Trịnh Kiểm sai các tướng kinh lược Hoá Châu,
bình định các huyện. Các thổ hào và các quan tự Đông Kinh bổ
nhậm đều hàng phục. Có mấy người chốhg lại: Đàm Bá, Phạm
Khắc Khoan, bị đánh thua, chết trận. Trịnh Kiểm thu thập hào
mục, bổ nhậm chức cai trị. Phương này được yên.
Năm 1555, Mạc Kính Điển đem quân vào đánh phá Thanh
Hoa. Thọ quận công dẫn 300 chiến thuyền là tiền phong, thẳng tới
cửa biển Thần Phù. Kính Điển hội quân ở sông Đại Nại. Thọ quận
công tiến quân đóng tại Kim Sơn. Trịnh Kiểm đặt phục binh trước
ở núi Bạch Thạch phía bắc sông, lại tuyển binh tượng mạnh mai
phục dưới Kim Sơn sai Đinh Công, Lê Bá Ly và Nguyễn Khải
Khang phục binh ở phía nam sông. Phạm Đốc và Nguyễn Quyện
dẫn thuỷ quân làm thế ỷ dốc. Binh thuyền quân Mạc đi qua, cậy
mạnh không đề phòng, bị quân Trịnh bốh mặt dồn đánh phá tan.
Thọ quân công phải bắt, 10 tướng bị chết đuối. Kính Điển thu
thập tàn binh chạy về kinh sư.
Năm 1557, Kính Điển lại vào đánh Thanh Hoa. Phạm
Quỳnh, Phạm Giao đánh Nghệ An. Kính Điển đến Tốhg Sơn, Nam
Sơn nơi sông Thần Phù, đốt phá các nơi. Trịnh Kiểm sai Thanh
quận công đóng quân tại Nga Sơn, thân đốc xuất binh tượng tối
cửa biển đánh vào lưng địch. Vũ Lang hầu Phạm Đức Kỳ vượt
thuyền xung kích trước, gặp thuyền Kính Điển, nhảy vọt sang,
Kính Điển nhảy xuốhg sông trốh. Quân đều tan rã chạy vào rừng
núi. Quan quân bắt được nhiều thuyền và khí giới. Kính Điển ẩn
núp tại hang núi Dân Sơn, đói khổ, ba tháng sau mới trỏ về được
307
Đông Kinh. Trịnh Kiểm dùng chiến thuyền bắt được, cắm cồ hiệu
quân Mạc, sai Phạm Đốic dẫn vào cửa bi.ển Đan Nhai. Phạm
Quỳnh, Phạm Giao thấy, lầm tưởng là quân tiếp ứng, không đề
phòng. Phạm Đốc thẳng tới đánh úp, phá tan quân Phạm Quỳnh.
Trịnh Kiểm đem 5 vạn quân thuỷ lục ra đánh họ Mạc, tiến
binh ra Sơn Nam, tạo cầu nổi qua sông, đánh phá bắt được Khánh
quốc công, giết đi. Bên họ Mạc có tướng Nguyễn Quyện ra sức
chông cự (Quyện là con Thư quận công Nguyễn Thiến, cha con đã
về hàng. Sau khi Thiến chết, hai con là Quyện và Miễn lại trở về
vối nhà Mạc). Quân Trịnh có thắng, nhưng cũng trở về Thanh
Hoa, bị giặc chặn lôl, hơn chục tướng tá bị chết, nhiều thuyền
mang khí giới phải bỏ lại. Thế quân nhà Mạc còn khá mạnh.
Năm 1558, Trịnh Kiểm dẫn quân ra trung lộ xứ Sơn Nam, bất
thình lình tập kích bắt giết tướng Anh Nhuệ hầu, lược định mấy
huyện, giao Nguyễn Khải Khang trấn thủ, rồi về. Khải Khang sau bị
người cháu gọi bằng cậu là Mạc Ngọc Liễn mưu bắt đưa về Đông
Kinh. Mạc Phúc Nguyên xử Khải Khang cực hình, dùng xe kéo xé
xác (Mạc Ngọc Liễn là con Nguyễn Kính. Nguyễn Kính xưa là tỳ
tướng của Thiết Sơn bá Trần Chân, sau theo Mạc Đăng Dung. Cha
con có công, Ngọc Liễn được phong quốc tính).
Hai xứ Thuận, Quảng ở xa nơi đại quân đóng. Quân Mạc có
thể dùng thuyền vượt biển vào đánh chiếm. Trịnh Kiểm xin cử
Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hoá để trị an nơi biên thuỳ,
cùng với Trấn quận công xứ Quảng Nam cùng làm binh cứu viện
lẫn nhau. Lê Anh Tông y theo. Hai xứ Thuận, Quảng đưỢc yên.
Quân Mạc từ đấy không dám ngó tới.
Thòi kỳ này, Trịnh Kiểm đã trị an nhân dân, luyện tập quân
sĩ, thu dụng nhân tài, tích trữ đầy đủ khí giới, lương thực, muôA
mở trận tấn công đại quy mô ra bắc, khôi phục cơ đồ.
Con đường xứ Sơn Nam, nơi tiến quân, nhà Mạc đặt nhiều
tinh binh trấn giữ. Thượng lộ xứ Sơn Tây và các xứ Tuyên Quang,
Hưng Hoá, Thái Nguyên rừng rậm bao la, đường hẻm quanh quất,
họ Mạc không để ý phòng bị. Nơi đây lại có tướng Gia quận công
trấn thủ Đại Đồng vẫn trung thành với vua Lê, quan quân tới hội
họp. Xuất quân lốĩ Thiên Quan đi qua Hưng Hoá, hội họp với Gia
quận công, thu dụng các phiên mục, thổ tù, rồi theo đường chân
308
núi, lược định Thái Nguyên và Lạng Sơn, chiêu tập hào kiệt, sau
sẽ dẫn quân xuông Kinh Bắc, chia quân đánh vào Hải Dương, Sơn
Nam, thiên hạ dao động, thế họ Mạc xuông. Lúc ấy đem quân ba
mặt đánh vào Đông Kinh, sẽ toàn thắng dễ dàng. Các xứ Tuyên
Quang, Hưng Hoá, Thái Nguyên, Lạng Sơn nhân dân giàu có, tiền
thóc dư thừa, không lo thiếu ăn.
Trịnh Kiểm cử tướng trân giữ các cửa biển và đường đi vào
Thanh Hoa, rồi qua mùa đông năm ấy (1559), cùng tướng sĩ dẫn
6 vạn quân bắc phạt, trương thanh thế là 12 vạn. Dùng Hoàng
Đình Ái làm tướng tiên phong, do Thiên Quan tiến ra Sơn Tây.
Quân đi đến đâu đều không lấy của dân mảy may. Tới Hưng
Hoá, tây đạo Đinh quận công dẫn binh lại hội. Các đồn quân
Mạc đều bị phá và ra hàng. Đến Tuyên Quang, Vũ Văn Mật ra
đón. Quân Trịnh lược định các đạo Thái Nguyên, Lạng Sơn và
Kinh Bắc. Tháng 11 âl, quân Trịnh đánh các phủ Siêu Loại,
Văn Giang và Khoái, Hồng, nay thuộc Bắc Ninh và Hưng Yên.
Tháng 12, đánh phá các phủ huyện Khoái Châu và Nam Sách,
nay thuộc Hưng Yên và Hải Dương. Đi đến đâu, quân Mạc đều
thua chạy. Sang xuân năm sau (1560), đánh xuông Tiên Hưng,
sang Kinh Môn, Đông Triều, Chí Linh.
Mạc Kính Điển đóng đồn tại Kinh Bắc để chống cự. Các
tướng chia giữ Đông Kinh và các đồn ngoại thành, các doanh trại
trên sông từ Bạch Hạc xuống đến Nam Xang. Trịnh Kiểm cử
Hoàng Đình Ái trấn thủ Lạng Sơn; Lê Khắc Thận, Thái Nguyên;
Vũ Văn Mật, Tuyên Quang; Định quận công, Hưng Hoá. Các trấn
liên lạc, cứu viện lẫn nhau, đánh phá các châu, huyện và cung cấp
lương thực cho quân lính. Từ Thiên Quan đến Kinh Bắc đóng
nhiều đồn binh liên tiếp. Binh uy lừng lẫy. Trịnh Kiểm đóng đại
quân tại Lâm Sơn, sai tướng đánh phá các huyện Đường An,
Đường Hào, Thanh Miện, Gia Phúc. Năm này gặp vụ lúa được
mùa, thổ dân quy thuận cung cấp lúa mùa để thêm quân nhu.
Sang năm 1561, Mạc Kính Điển đem binh thuyền đánh vào các
cửa biển Thanh Hoa. Các tướng trấn thủ không phòng bị phải lui
quân về giữ sách Vạn Lại. Trịnh Kiểm nghe tin, gấp truyền lệnh cho
Hoàng Đình Ái ngầm dẫn quân về Thanh Hoa.
309
Kính Điển đánh vào cửa quan An Tràng, tiến tới Vạn Lại.
Sách sắp bị hãm thì binh của Sư Thước trỗi dậy, cố' sức chiến đấu,
đảnh bại đưỢc quân địch. Kính Điển được tin viện binh của Đình
Ái sắp đến bèn lui quân về Kinh Âp.
Tháng 2 âl năm 1562, Lộc quận công và Thân Khê hầu đem
quân lược định mười châu xứ Hưng Hoá.
Tháng 9 âl, Trịnh Kiểm xuất binh ra Sờn Nam, đi tuần các
địa phương hạt Thanh Trì và Thượng Phúc, lập đại doanh tại Sơn
Minh. Tháng 11, rút quân trở về.
Năm 1564, Đặng Huấn ra núi Hoài An, thôi đốc dân hạt
Trường Yên và Thiên Quan đã hàng, tu sửa đường từ Phô' Cát đến
Bình Lương để tiện sự vận tải lương thảo. Các huyện về phía tây
sông Xương Giang đều bình.
Tháng 9 âl, Trịnh Kiểm lại xuất quân ra trung lộ xứ Sơn Nam,
đánh các huyện thuộc Trường Yên. Đến tháng 11 rút quân về.
Tháng 4 âl năm 1565, Trịnh Kiểm xuất quân ra đánh phủ
Trường Yên, phá hết các huyện trong phủ. Tháng 9, lại đốc đại
binh đánh thượng lộ xứ Sơn Nam, đánh nơi nào thảy đều thắng.
Tháng 11, Kính Điển xuất chiến thuyền vượt biển đánh
vào cửa Linh Tràng (Lạch Trường) đánh phá các huyện Thuần
Hựu (Hậu Lộc) và Hoằng Hoá thuộc Thanh Hoa. Lộc quận
công đem quân về cứu, bị đánh thua, tử trận. Trịnh Kiểm
nghe tin báo bại trận, dẫn quân về. Kính Điển cũng lui quâọ
về Đông Kinh.
Các năm 1566, 1567, năm nào quân Trịnh cũng ra bắc, đánh
vào Sơn Nam, Sơn Tây, Trường Yên, thu thóc lúa các nơi này, rồi
dẫn quân về.
Tháng 2 âl nám 1569, Lê Anh Tông gia phong Trịnh Kiểm
làm Thượng phụ thượng tướng Thái quô'c công. Lúc này, Trịnh
Kiểm đau bệnh đã lâu, xin trao binh quyền cho con. Lê Anh
Tông phong con trai lớn của ông là Tuấn Đức hầu Trịnh Cô'i
đô'c lĩnh quân thuỷ bộ các doanh, con trai thứ là Phú Lương
hầu Trịnh Tùng lĩnh chức Bình Đông đại tướng quân, nô'i trọng
nhậm của cha.
Tháng 2 âl năm 1570, Trịnh Kiểm chết. Trịnh Cối lo việc
đánh dẹp nhưng say đắm tửu sắc, làm nhiều sự thất nhân tâm,
310
tướng sĩ không mấy người phục. Em là Tùng có ý muôn cướp
quyền của anh, cùng với bọn Lê Cập Đệ, Trịnh Hách kể tội Côl với
vua Anh Tông, rước vua về đồn Vạn Lại, rồi chia quân ra đánh
nhau với Cốì. Cỗi lui quân về Biện Thượng và đóng doanh tại Bô"
Chính. Tướng giữ Bổ" Chính thấy tướng sĩ không hoà, dẫn con em
đầu hàng họ Mạc. Mạc Kính Điển thấy Trịnh Kiểm chết, anh em
Trịnh Côi, Trịnh Tùng đánh lẫn nhau, huy động 10 vạn quân, 700
chiến thuyền, tháng 8 âl, vượt biển vào đánh miền trong. Mạc Đô
Nhượng, Mạc Đình Khoan giữ cửa biển Thần Phù. Tướng bắc đạo
.Hoàng quận công làm đội quân thứ nhất, nam đạo Thạch quận
công Nguyễn Quyện, đội quân thứ nhì; tây, sầm quận công Mạc
Ngọc Liễn, thứ ba; đông, Hoa quận công thứ tư; Kính Điển thân tự
đô"c quân làm đội thứ năm; các tôn vương, đội thứ sáu, chia các
ngả vào các cửa biển Linh Tràng, Chí Long và Hội Triều, hội đồng
đóng doanh trại hai bên bờ sông Hà Trung, khói lửa các trại bô"c
nghi ngút khắp trên mưòi dặm. Trtịnh Côi liệu không thể đương
nổi, dẫn hơn vạn quân cùng các bộ tướng Lại Thế Mỹ, Nguyễn Sư
Doãn, Trương Quốc Hoa, Vương Trân và Vũ Sư Thước cùng gia
quyến ra hàng họ Mạc. Kính Điển thu nạp phong tước lớn cho bọn
này và sai dẫn quân thuộc của mình tiến đánh. Kính Điển tổng
động binh, các đạo cùng tiến trên sông Mã, sông Lam. Nhân dân
Thanh Hoa cõng già trẻ chạy trô"n lưu ly. Kính Điển đánh vào luỹ
An Tràng rất gấp, ngày đêm không ngừng.
Lê Anh Tông phong Trịnh Tùng lamg Trưởng quận công,
trọn quyền điều khiển tất cả các doanh. Trịnh Tùng họp các quan
ván võ dung hoà, ngày đêm bàn định kê" sách, chia quân giữ các
đồn trại, đào hào đắp luỹ kế cô" thủ.
Kính Điển thân đốc tướng sĩ ngày đêm tiến đánh. Các huyện
Lôi Dương, Nông Cổhg đều thành chiến trường, nhân dân đều
chạy trốn, có nhiều người chết đói. Quân đội hai bên chông nhau ỏ
sông Long Sùng. Quân Trịnh ban ngày cô" thủ trong thành, ban
đêm ra cướp trại, làm cho quân Mạc không được yên nghỉ. Kính
Điển đánh mãi không lợi, lui quân về đóng tại Hà Trung. Lê Anh
Tông chia quân: Lại Thế Khanh xuất quân ra đường bên tả, tiến
về huyện An Định, đánh vào huyện Tông Sơn; Hoàng Đình Ái, bên
hữu tiến về huyện Lôi Dương, đánh vào huyện Quảng Xương;
311
Trịnh Tùng làm tả tướng điều khiển thuỷ lục quân các xứ. Anh
Tông tự làm đô tướng tiến đại quân về huyện Thuỵ Nguyên,
huyện An Định. Tướng Vũ Sư Thước trước theo Trịnh Côi hàng họ
Mạc, dẫn 500 quân trở về. Quan quân thu phục các huyện Lôi
Trạch, Tống Sơn, và Nga Sơn. Quân Mạc cô" đánh. Quân Trịnh cô"
giữ. Chiến tranh kéo dài. Qua tháng 12, Kính Điển đánh mãi
không được, lương thực ngày một cạn, nên bỏ các trại sách, thu
quân về Đông Kinh, mang theo bọn Trịnh Cốì, Lại Thê" Mỹ,
Trương Quốc Hoa và Nguyễn Sư Doãn.
Quân Mạc rút rồi, vua phong Trịnh Tùng làm thái uý, thăng
thưởng các tướng sĩ có công, uỷ Phùng Khắc Khoan đi chiêu tập
hoang dân về yên nghiệp làm ăn, chỉnh đôn việc chính trị.
Tháng 10 âl năm 1571, Kính Điển dẫn quân vào đánh phá
xứ Nghệ An, chiếm cứ khu từ sông Cả trở về phương nam. Thổ
tướng Nguyên quận công Nguyễn Bá Quỳnh bỏ chạy. Các xứ
Thuận Hoá và Quảng Nam dao động. Tướng trấn thủ Nguyễn
Hoàng mUu lược quyền biến giữ yên được. Tân quận công Trịnh
Mô và Lại quận công Phan Công Tích đến cứu Nghệ An. Kính
Điển phải lui quân.
Mùa thu năm 1572, Kính Điển lại xuất quân đánh Thanh Hoa
và Nghệ An, phá các huyện ven sông. Nhân dân các nơi này lưu tán,
xóm làng trô"ng không. Tướng Mạc Lập quận công và Tiền quận công
do đường biển đánh Thuận Hoá và Quảng Nam, thổ dân nhiều người
hàng. Trấn thủ Nguyễn Hoàng lập kê" dụ Lập quận công tới, chém
ngay giữa sông. Quân Mạc tan vỡ chạy trở về, nhiều người bị chết
đuốỉ. Thái phó Vị quận công Lê Khắc Thận vượt luỹ ra hàng quân
Mạc. Các tướng Lại Thế Khanh, Lê (Trịnh) Mô và Phan Công Tích
dẫn binh ra giữ Nghệ An. Binh sĩ họ Mạc bèn rút về.
Bấy giờ, công việc gì cũng do ở Trịnh Tùng quyết đoán cả, uy
quyền hốhg hách, vua cũng lấy làm lo. Lê Cập Đệ thấy vậy, mưu
với vua trừ họ Trịnh. Trịnh Tùng biết ý, dùng mưu giết Cập Đệ.
Anh Tông biết sự không thành, lo sỢ, cùng với bô"n con chạy vào
Nghệ An. Trịnh Tùng thấy vua xuất ngoại, cho người đi rước
hoàng tử thứ năm là Duy Đàm ở làng Quảng Thi, huyện Thuỵ
Nguyên về lập làm vua, ấy là vua Lê Thế Tông, rồi sai Nguyễn
Hữu Liêu đi đánh đuổi theo vua. Anh Tông vào Nghệ An, thấy
quân đuổi đến ẩn vào trong vườn mía, bị Hữu Liêu tìm thấy đưa
312
về, đến huyện Lôi Dương, Trịnh Tùng sai người đến giết đi, rồi nói
rằng vua tự thắt cổ chết.
Lê Anh Tông làm vua 7 năm, hương linh 47 tuổi.
Trịnh Tùng hại vua Anh Tông rồi thăng thưởng cho những
người đồng đảng và chia quân ra phòng giữ các nơi để chông nhau
với quân nhà Mạc.
Tháng 7 âl năm 1573, Kính Điển lại dẫn quân vào đánh cưâp
Thanh Hoa. Khi đánh vào doanh An Tràng, quan quân rút vào
bên trong luỹ. Chúng tiến vào luỹ Phúc Bồi, sắp qua sông Đoạn
Trạch thì tiết chế Trịnh Tùng đốc xuất thuỷ quân cưỡi chiến
thuyền chia đánh các ngả, phá tan quân Mạc. Kính Điển dẫn
quân rút lui.
Tháng 6 âl năm 1574, Nguyễn Quyện dẫn quân vào đánh
cướp Nghệ An, hạ các thành phía bắc sông Cả, bắt được trấn thủ
Hoàng quận công. Tháng 7, Phan Công Tích và Trịnh Mô dẫn
quân cứu viện Nghệ An. Nguyễn Quyện chống cự với các tướng vài
tháng, không thắng nổi, thu quân trở về.
Tháng giêng âl năm 1575, Kính Điên đem quân đánh cướp
Thanh Hoa, Nguyễn Quyện đánh cướp Nghệ An. Lúc này, thế
mạnh kéo đến đâu, nhân dân đều như cỏ lướt. Kính Điển đánh
đồn Thuỵ Nguyên, huyện An Định. Mạc Ngọc Liễn đánh núi Đông
Sơn, huyện Lôi Dương. Tiết chế sai Hoàng Đình Ai đến cứu Lôi
Dương, tự mình thống lĩnh đại quân đóng ở núi Chiêu Sơn, chống
nhau với Kính Điên. Khi Kính Điên giao chiến với quan quân, Vũ Sư
Thước và Nguyễn Hữu Liêu xuất các đạo kỳ binh đánh cho Kính
Điển phải chạy. Lại Thê Khanh, Trịnh Mô và Phan Công Tích đến
cứu Nghệ An, cầm cự với Nguyễn Quyện chừng vài tháng. Nguyễn
Quyện đặt phục binh, thắng trận, bắt được Phan Công Tích giải về
kinh sư giết chết. Mùa đông, Kính Điên kéo quân trở về.
Tháng 7 âl năm 1576, Kính Điển lại dẫn quân vào cướp
Thanh Hoa, đánh vào huyện Thuỵ Nguyên, sai Ngọc Liễn đánh
vào huyện An Định, Nguyễn Quyện vào cướp Nghệ An. Quyện
đánh nhau với Trịnh Mô ở đây chừng vài tháng. Trịnh Mô thua
mấy trận, định trôA về Thanh Hoa. Quyện đuổi theo bắt được.
Năm 1577, nhà Mạc dự bị vào xâm lược với quy mô rộng lớn,
sai thu binh các huyện, người nào cũng phải dự bị lương thực đủ
ăn ba tháng. .
Trịnh Tùng biết họ Mạc sở trường về thuỷ quân, mùa thu tất
vào đánh, ra lệnh tản cư các dân nơi ven sông, đem hết tài vật đã
313
tích trữ vào nơi rừng núi, đế chò nghênh chiến. Tháng 7 âl, Kính
Điển dẫn quân vào. Tháng 8, đánh vào hạt Đồng cổ. Trịnh Tùng
thân xuất đại quân ra cửa luỹ Khoái Lạc chôKg cự. Kính Điển
đánh phá doanh Hội Thương. Hoàng Đình Ái xuất quân khiêu
chiến. Nguyễn Hữu Liêu dẫn quân đánh chận ngang. Quân Kính
Điển phải chạy lui. Kính Điển lại tiến quân đến sông Hà Đô, sai
Nguyễn Quyện phục binh bên ngoài đê bên bờ sông. Hoàng quận
công cùng hàng tướng Lại Thế Mỹ làm đội quân tiên phong đánh
vào luỹ Khoái Lạc. Quan quân dùng súng bắn chết Thế Mỹ trước
trận. Quân họ Mạc tan vỡ. Tháng 9, Kính Điển dẫn quân trở về.
Sang năm 1578, Trịnh Tùng giữ binh quyền, chàm lo tiến
thủ, chính sự chỉnh đô"n, quân sĩ tinh nhuệ, khí thê đang lên. Mạc
Mậu Hợp mới lớn lên, chỉ ham chơi bời, say đắm tửu sắc, không để
ý tới việc nước.
Tháng 7, Kính Điển lĩnh quân vào đánh các huvện men sông
xứ Thanh Hoa, giao chiến ở cầu Phụng Công, huyện Vĩnh Lộc, gặp
Ồphục kích, bị thua trận phải kéo về.
Tháng 10, Mạc Ngọc Liễn dẫn quân đánh vào châu Thu Vật
trong Tuyên Quang cũng bị trấn thủ Nhân quốíc công Vũ Công Kỳ
đánh thua (Vũ Công Kỳ là con Gia quôc công Vũ Văn Mật, trấn
thủ vùng Tuyên Quang, vẫn không phục nhà Mạc. Cha con đều
nhận quan tưóc của vua Lê).
Năm 1579, Kính Điển vào cướp Thanh Hoa, phá nhiều huyện
men sông đi đến Tông Sơn, gặp Diễn quận công Trịnh Văn Hai
xuất quân giao chiến tại núi Kim Ẩu. Thái phó Đặng Huấn dẫn
quân đi tới Hoà Bình, Mục Sơn đánh tập hậu, phá tan. Kính Điển
dẫn quân trở về.
Năm 1580, cũng tháng 7 âl, Nguyễn Quyện và Mạc Ngọc
Liễn và hàng tướng Hoàng quận công vào Thanh Hoa cướp bóc tài
sản của dân ven sông rồi kéo qucân về.
Tháng 10 âl năm 1580, Mạc Kính Điển chết. Kính Điển là
ông chú Mậu Hợp, gồm chức tướng văn và tướng võ, giữ binh
quyền hơn 20 năm, tiếp đãi quan liêu có lễ độ, đôl với quân sĩ có
ân nghĩa, trải qua bao gian truân, vẫn cần lao trung thành.
Mạc Mậu Hợp cử ứng vương Mạc Đôn Nhượng thav thế, lĩnh
chức Trung Doanh đôc suý. Đôn Nhượng là em Kính Điển, có địa
vị cao trong họ Mạc, nhưng tài đức tầm thường, chẳng làm được gì
hay. Họ Mạc suy vi từ đây. Tướng Mạc bấy giờ chỉ còn Nguyễn
Quyện và Mạc Ngọc Liễn là đáng kể. Các quan nhà Mạc cũng có
314
nhiều người hiền lương thường khuyên dụ Mậu Hợp tu đức, chỉnh
đô"n việc cai trị, nhất là việc võ bị, bớt hoang chơi, xa xỉ. Sách Đại
Việt thông sử của Lê Quý Đôn chép lại những bài biểu, tờ só của
Giáp Trung, Lại Mẫn, Đặng Vũ Canh, Trần Văn Tuyên, Nguvễn
Văn Nhuận, Trần Thòi Tham dâng lên Mậu HỢp, lồi lẽ rất khẩn
thiết. Mậu Hợp có khen phải nhưng không tu tỉnh gì, hoặc bảo là
chưa thi hành ngay được. Mấy người chán nản, xin từ chức. Mậu
Hợp không cho. Mậu Hợp lại còn xây dựng cung điện, kiến trúc vĩ
đại, tổn phí nhiều nhân lực tài lực, trong khi nước nhà mọi sự
chang tôt đẹp gì. Mậu Hợp xây ngôi điện, gọi là điện Giảng Học,
kỳ thực là nơi yến tiệc chơi bời. Vừa mới hoàn thành thì tối hôm
ấy bị hoả hoạn cháy tiêu, do dân chúng tức giận phóng hoả đốt.
Đình thần có người già chết, người bỏ đi ẩn. Phú Nghĩa hầu
Nguyễn Đình Luân, Kỳ quận công Nguyễn Việt Kính, Nam Dương
hầu họ Trần (?) bỏ họ Mạc vào Thanh Hoa quy thuận.
Tháng 9 âl năm 1581, Mạc Đôn Nhượng hỢp quân các đạo
vào đánh Thanh Hoa, vượt biển vào tới núi Dương Năng, bị Hoàng
Đình Ai đón đánh thua nặng nề p h ả i trốn về. Trận này quân Mạc
tổn thất rất nhiều tướng sĩ.
Tháng 7 âl năm 1583, quân Mạc lại xâm lược Thanh Hoa lần
nữa. Trịnh Tùng điều động quân sĩ đánh phá ở nơi cửa biển, quân
Mạc thua chạy. Sau trận nàv, quân Mạc không còn Tây xâm nữa.
Thanh Hoa, Nghệ An được thảnh thơi, yên ổn.
Suốt từ năm 1570 đến đây, quân Mạc thường cứmùa thu kéo
vào đánh Thanh Hoa, Nghệ An, ban đầu có thắng luôn, nhưng sau
hoặc bị đánh thua, hoặc không thua nhưng hết lương thực, phải
bỏ về. Cũng có lần chỉ vào cướp của cải và lương thực, rồi về sớm.
Chúng có chiếm được đất, nhưng không chiếm được nhân tâm. Đi
đến đâu thì dân chúng đó bỏ chạy hết, mang theo mọi của cải,
theo đúng lệnh của Trịnh Tùng. Vì thê quân Mạc hao binh tổn
tướng mà chẳng thủ lợi được gì.
Trịnh Côd từ khi ra hàng họ Mạc, được trao tước Trung
Lương hầu rồi Trung quận công. Năm 1584 chết. Mậu HỢp sai
người tới phúng tế, rồi sai quân hộ tôKg bà mẹ và vỢ con đưa linh
cữu về Thanh Hoa, để tỏ thiện ý thông hảo. Trịnh Tùng sai người
ra Nga Sơn tiếp đón.
Trịnh Tùng từ khi cầm quyền chính, chỉnh ầốn quân đội,
tăng cường lực lượng, rèn đúc vũ khí, đóng thuyền xe, thê quân
mỗi ngày một thêm lớn. Quân Mạc đến đánh thường bị thua luôn.
315
Các năm 1583, 1584, 1585 mới tiến quân ra bắc nhưng chỉ mới là
đê thăm dò. về sau mới đánh lớn khi thế nhà Mạc suy kém.
Năm 1583, Trịnh Tùng xuất quân ra Sơn Nam, đánh vào các
huyện Yên Mô, Yên Khang (nay là Yên Khánh) thu thóc lúa, rồi
về. Tháng giêng âl năm 1584, đánh vào phủ Trường Yên và các xứ
Thiên Quan (nay là Nho Quan), Hưng Hoá. Tháng giêng âl năm
1585, lại ra Thiên Quan đánh vào các hạt Mỹ Lương, Thạch Thất
và An Sơn, lần này Chiêu quận công bị quân Mạc bắt với một con
voi. Nhưng cuôi năm này, quân Trịnh lại ra Sơn Nam, đánh vào
các huyện Gia Viễn và Phụng Hoá.
Họ Mạc lo phòng thủ, sai quân dân đắp thêm ba bức luỹ, đào
thêm ba lần hào bên ngoài thành Đại La, trồng chông gai dài vài
chục dặm bao chung quanh, rất kiên cô.
Năm 1587, Trịnh Tùng thấy thê quân đã đủ mạnh, ra mở
những chiến trận quy mô rộng lớn. Tháng 10 âl, xuất quân ra
đánh phá các phủ Trường Yên và Thiên Quan. Quân đến hạt Mỹ
Lương thì Mạc Ngọc Liễn dẫn binh từ Ninh Sơn đánh vào cánh
quân'bên tả, Nguyễn Quyện dẫn binh từ Chương Đức đánh vào
cánh quân bên hữu. Trịnh Tùng dự phòng trước, sai Hà Thọ Lộc
và Ngô Cảnh Hựu bảo vệ đạo quân lương, Hoàng Đình Ái dẫn
quân về Thanh Hoa. Nguyễn Hữu Liêu xuất quân cầm cự với Mạc
Ngọc Liễn, tự mình đốíc đại quân giao chiến với Nguyễn Quyện.
Quân Trịnh hăng hái xung đột. Quân Quyện thua to, tan vỡ, qua
sông nhiều người chết đuôi, mấy trám bị giết. Mạc Ngọc Liễn thấy
Nguyễn Quyện bại, cũng dẫn quân trôh xa. Quân Trịnh tiến lên
Hoàng Sơn, đánh phá các hạt An Sơn và Thạch Thất, bắt sông
được nhiều người. Đến tháng 12, rút về.
Tháng 3 âl năm 1588, quỂin Trịnh ra các huyện Yên Mô và
Yên Khang, lược định nhân dân rồi trở về. Tháng 11 lại xuất quân
ra lôi Ph(3 Cát, đánh vào Trường Yên và Thiên Quan, thu được
nhiều tài vật, qua sông Chính Đại đóng doanh trại, rồi giả bộ kéo
về. Tân quận công và Quỳnh quận công đánh đuổi, bị phục binh
đánh thua tơi bời. Mấy trăm ngưòi chết trận. Vương sư trở về.
Tháng 10 âl năm 1589, Tiậnh Tùng xuất quân đánh vào
huyện Yên Khang. Mạc Đôn Nhượng thông lĩnh đại quân đánh
một trận quyêt liệt. Trịnh Tùng l?.ũ binh dụ địch, ngầm đặt phục
binh đánh tập hậu, sai Nguyễn Hữu Liêu bbục quân tinh nhuệ
vào chân núi, Ngô cảnh Hựu hộ vè quân vận lương lui vào núi
Tam Điệp, đích thân dẫn đại binh từ từ lui. Mạc Đôn Nhượng
316
tưởng quân Trịnh ít, bỏ về thật, xua quân đuối đánh theo rất
hăng, bị phục binh trỗi dậy, bôn mắt đánh ập vào, hơn ngàn quân
bị chém, 600 bị bắt sông. Đôn Nhượng thua chạy về Đông Kinh.
Quân Trịnh cũng trở về Thanh Hoa.
Sang năm 1591, chính trị triều đình nhà Mạc nát bét, binh
lực suy yếu, nhân tâm' đều lấy làm nguy ngập. Đến đây, Trịnh
Tùng nắm chắc phần thắng lớn, mới huy động đại binh ra đánh
quyết liệt, không còn như những lần đánh ra trước chỉ có tính
cách dò dẫm.
Trịnh Tùng sai Trịnh Văn Hải, Nguyễn Tất Lý trấn thủ các
cửa biển và các nơi hiểm yếu, Lê Hoa ở lại giữ ngự dinh và địa hạt
Thanh Hoa, đem hơn 5 vạn quân chia làm 5 đội, sai Nguyễn Hữu
Liêu, Hoàng Đình Ái, Hà Thế Lộc, Ngô cảnh Hữu mỗi người lĩnh
một đội. Tự mình lĩnh 2 vạn quân, tháng 12, xuất phát từ Tây Đô ra
cửa Thiên Quan, qua núi Mã Yên, huyện An Sơn, lược định các
huyện Thạch Thất, Phúc Lộc, Tân Phong, đóng quân tại Tốt Lâm (?).
Thấy quân Trịnh tiến đánh lớn, Mạc Mậu Hợp cử đại binh
đánh trận quyết liệt đê định được thua, điều động binh mã các
trấn, vệ, phủ cộng 10 vạn quân; ra lệnh cho Mạc Ngọc Liễn đôh
binh mã tướng sĩ Tây đạo; Nguyễn Quyện, Nam đạo; Ngân quận
công và Thuỳ quận công Đông đạo; Phú quận công và Xuyên quận
công Bắc đạo; Khuông quận công và Tân quận công, 4 vệ. Mậu
Hợp đích thân đốc binh mã Chánh Doanh, các tôn vương và tướng
túc vệ đôc quân hậu đội chia đường cùng tiến.
Quân Mậu Hợp đi đến Phấn Thượng, nay là huyện Tùng
Thiện, dàn mặt trận: Khuông quận công và Tân quận công đốc
binh bôn vệ làm đội tiên phong; Mạc Ngọc Liễn, đội hữu dực;
Nguyễn Quận, đội tả dực; binh mã hai đạo đông và bắc kế tiếp
theo sau, tất cả đều tiến. Mậu HỢp đích thân đổc chiến.
Trịnh Tùng thấy quân Mạc đã đến, sai Nguyễn Hữu Liêu
tiến lên trước khiêu chiến, tự mình đôn đốc tưống sĩ đanh trận cực
hăng. Chiến tranh rộng lớn và vô cùng kịch liệt diễn ra. Quân
.Trịnh đánh hăng quá, chém đầu Khuông quận còng và Tân quận
công ngay tại trận. Tỳ tướng Hoàng Nghĩa Cước tử trận. Quân
Mạc có vẻ uể oải. Trịnh Tùng thừa thế đốc thúc quân A đáriK dấn,
các tướng tá xung đột vào trận. Mạc Mậu HỢp hoảng sậỉ chạy lui.
Cánh quân bên tả không ngó tới cánh quân bên hữu, đạớ tịuấn sau
không kịp ngó tới đạo quân trước, cờ trận sai lạc, hàng ngũ rôi
loạn, xô nhau mà chạy. Quân Trịnh thừa thắng đuổi dài, chém
317
đầu hơn vạn địch, bắt được lừa, ngựa và khí giới vô sô. Đám tàn
quân qua sông tranh nhau xuông thuyền bị chết đucYi phần nửa.
Riêng quân của Nguyễn Quyện đã xa lánh được trọn vẹn.
Trịnh Tùng tiến quân gần thành Thăng Long. Bấy giò vừa
tết Nguyên đán, cho quân sĩ nghỉ ngơi ăn tết. Qua tháng giêng lập
đàn tế trời đất và các vua Lê, đặt ba điều ước cấm quân sĩ không
đưỢc vào nhà dân lấy đồ ăn và củi đuốc, không được cướp của cải
và chặt cây cối, không được hãm hiếp đàn hà con gái và không được
vì tư thù mà giết người. Rồi tiến quân đánh thành ban đêm. Nguyễn
Hữu Liêu dẫn 5000 quân và voi ngựa, đánh vào phía tây bắc, bắn
súng lửa, đốt cháy nhiều nhà cửa, khói bốc mù trời, trong thành hỗn
loạn. Mạc Mậu Hợp sỢ hãi, sai Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê,
Nguyễn Quyện và Trần Bách Niên ỏ lại giữ thành, đem quân sang
sông về đóng ơ làng Thố Khôi. Dân trong thành già trẻ trai gái tranh
nhau xuổhg thuyền qua sông, bị chết đuối có ngàn người.
Các tướng Mạc chia nhau giữ các cửa thành. Nguyễn Quyện
đặt phục binh ở hên ngoài cầu Dền để nhử quân Trịnh, lại dàn
hảng trăm súng lớn đế đề phòng. Mậu Hợp giữ thuỷ quân ở sông
Hồng, dàn hàng trăm chiến thuyền.
Ngày 6 - 1 âl năm 1592, Trịnh Tùng bày trận chia công, ra
lệnh: hẹn trong ngày hôm nay phải đánh phá thành Thăng Long
cho bằng được, cử các tướng đánh vào các cửa, thân đốc đại quân
kế tiép đằng sau. Các tướng tiến đánh kịch liệt, từ giò Tỵ đến giờ
VỊ (11 đến 15 giò) chưa phân thắng phụ. Trịnh Tùng đích thân
cầm cò lệnh, xung đột, liền phá cửa luỹ. Bùi Văn Khuê và Trần
Bách Niên không đủ sức chông cự, quân sĩ tan vỡ hỏ chạy tán
loạn. Mạc Ngọc Liễn cũng bỏ luỹ chạy trốn. Quan quân thừa
thắng đuổi dài, phóng lửa đôd các cung điện. Quan phòng thủ bôn
mặt đều tan vỡ. Trịnh Tùng dẫn binh từ cầu Dền tiến thẳng vào,
phục binh của Nguyễn Quyện đặt trước không kịp trỗi dậy, đều bị
loạn quân giết chết. Nguyễn Quyện kiệt sức bị bắt. Hai con y là
Bảo Trung và Nghĩa Trạch cùng thủ hạ đều tử trận. Trong kinh
thành xác chết chồng lên nhau, tướng chết chừng vài chục viên, sĩ
tôt hơn ngàn người, khí giới bỏ ngổn ngang, cao như núi.
Mạc Mậu Hợp sỢ hãi, thu nhập tàn quân, chiếm cứ sông Cái
(sông Hồng) để tự bảo vệ.
Trịnh Tùng đóng quân lại tại chính doanh, sai san phang các
bức luỹ bằng đất ở chung quanh thành Đại La và lấp các hào
rãnh, san thành bình địa.
318
Sang tháng 3, Trịnh Tùng hạ lệnh kéo quân trở về, đi đến
Chương Đức, chia quân đi tuần các huyện Thanh Trì, Thượng
Phúc, Phú Xuyên lược định các huyện Từ Liêm, Đan Phượng, Ma
Nghĩa (Tùng Thiện), An Sơn và Thạch Thất, rồi do Thanh Quan
trở về Thanh Hoa
Quân Trịnh đã thắng lớn, đánh chiếm đưực Đông Kinh, có
thê đánh dấn đi thì sớm thông nhất giang sơn, mà lại còn bỏ về, do
thấy căn bản nhà Mạc ở phương đông bắc, lực lượng các nơi hãy
còn nhiều, mà thuyền bè của mình lại ít, đánh mãi chưa chắc gì đã
toàn thắng.
Quân Trịnh rút, Mậu Hợp trở lại thu nhập tro tàn, cử các
tướng chia giữ những nơi hiểm yếu. Đáng phải sửa sang việc võ bị,
chỉnh đôn việc cai trị, thế mà vẫn mải vui chơi, say đắm tửu sắc,
bạc đãi tướng sĩ, đến nỗi công việc hỏng nát. Bấy giờ có Sơn quận
công Bùi Văn Khuê có vỢ là Nguyễn Thị Miên, con Nguyễn Quyện
em hoàng hậu, thường ra vào trong cung. Mậu Hợp thấy nàng có
nhan sắc, muôn chiêm lây, ngầm tính kế giết Văn Khuê. Văn
Khuê biết được, dẫn quân Nam đạo về giữ hạt Gia Viễn. Mậu Hợp
mấy lần gọi, không về. Quân triều đến đánh, Văn Khuê chông giữ,
sai con liên lạc với Trịnh Tùng, xin hàng.
Mùa đông năm ấy (1592), Trịnh Tùng dùng đại binh bắc
phạt, sai Hoàng Đình Ai đi trước, ra đón Văn Khuê, rồi đem đi
làm tiền đội, tự mình dẫn quân ra Trường Yên, đóng giữ sông
Đàm Giang (đò Điềm, Ninh Bình).
Tướng Mạc tôn thất Nghĩa quốc công quyền tiết chê Nam
đạo, dẫn quân đến sông Thiên Phái, giữ bến đò Đoan Vĩ, bắt dân
Đại An và Ý Yên đắp luỹ đất chạy theo bờ sông, trồng chông gai
trên mặt luỹ, để chống cự.
Trịnh Tùng sai Văn Khuê đem thuỷ quân ra cửa sông
đánh vào thượng lưu, có súng tả hữu bắn theo dọc sông, đánh
vào hạ lưu, đích thân sang dò đánh vào trung lưu. Chiến trận
kịch liệt diễn ra. Quân Mạc thua chạy, bỏ lại 70 chiến thuyền
và rất nhiều khí giới. Tướng Mạc Định quận công Trần Bách
Niên sang hàng, được trọng dụng. Tiếp sau có 10 tướng Nam
đạo cũng sang hàng.
Quân Trịnh kéo ra Bình Lục, sang Thanh Oai đóng ở bãi
Tinh Thần, nay là xã Thanh Thần, rồi tiến lên sông Hát Giang,
cửa sông Đáy ra sông Hồng. Tại nơi đây, Mạc Ngọc Liễn đã trồng
cột gỗ dưới sông và đắp luỹ đất trên bò, dàn chiến thuyên cô" giữ.
319
Quân Trịnh tiến đánh mạnh. Quân Mạc thua to, tan vỡ, bỏ chạy.
Quân Trịnh đánh đuổi, thu được chiến thuyền hàng ngàn chiếc.
Mậu Hợp thấy quân thua to luôn, bỏ kinh thành, chạy sang
Hải Dương, đóng ở Kim Thành. Tôn tộc tìm đường trôn tránh,
tướng sĩ nôi tiếp nhau ra hàng, hết phần chiến đấu.
Trịnh Tùng tiến quân lên xứ Hải Dương, sai Nguyễn Thất
Lý, Bùi Văn Khuê và Trần Bách Niên đánh vào huyện Kim
Thành. Mậu Hợp trốn chạy. Quan quân thu đưỢc nhiều vàng bạc,
của cải, đồ dùng. Thái hậu, mẹ Mậu HỢp, bị bắt đưa về kinh sư, vì
quá sỢ mà chết.
Mậu HỢp giao quyền chính cho con là Mạc Toàn, lập làm
vua, tự mình làm tướng cầm quân.
Trịnh Tùng chia quân đánh các ngả, phá quân Mạc Kính Chỉ
ở xứ Thanh Hà, thu được 50 chiến thuyền và rất nhiều khí giới,
lừa ngựa. Các quan triều nhà Mạc, bọn Đỗ Uông, Ngô Tạo 17
người, đến cửa quân xin hàng, được giữ chức cũ. Cũng có người bỏ
trôh đi ẩn.
Trịnh Tùng sang đóng quân ở huyện Vĩnh Lại, sai người đuổi
đánh Mậu HỢp ở huyện Yên Dũng và huyện Vũ Ninh, nay là Vũ
Giàng. Mậu Hợp bỏ thuyền chạy hộ vào ẩn trong một ngôi chùa ở
huyện Phượng Nhãn, giả làm sư. Nguyễn Đình Luận và Lưu Chân
dẫn quân đi tìm bắt. Dân địa phương chỉ cho biết, tìm được đem
về Đông Kinh. Mậu HỢp bị làm tội sống ba ngày, rồi bị chém đầu
đem vào Thanh Hoa.
Mạc Mậu Hợp làm vua 30 năm, hưởng linh 31 tuổi (Có
thuyết sinh năm 1563, lên ngôi năm 1564, tức làm vua 29 nám,
hưởng linh 30 tuổi, theo Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử).
Họ Mạc chiếm ngôi vua làm đến đây là hết. Sau còn có mấy
người xưng làm vua, đặt niên hiệu nhưng chỉ giữ được một phần
đất nhỏ.
Mạc Kính Chỉ con Kính Điển ơ Đông Triều, hay tin 'Mậu Hợp
đã bị bắt, bèn tự xưng làm vua, đóng ỏ huyện Thanh Lâm. Con cháu
họ Mạc hơn trăm người và nhiều quan văn võ về đấy, rồi treo bảng
chiêu mộ quân sĩ, chang bao lâu được 6, 7 vạn người. Mạc Toàn
không giữ được nhân tâm quy phụ, thế cô, cũng theo về Kính Chỉ.
Trịnh Tùng thấy Kính Chỉ lại nổi lên, thanh thế to. Quan
quân đánh mãi không được, hèn đem quân sang đánh ở huyện
Cẩm Giàng và huyện Thanh Lâm, bắt được Kính Chỉ và người họ
Mạc cùng các quan cả thảy 60 người.
320
Năm sau, Mạc Ngọc Liễn tìm được người con khác của Kính
Điển là Mạc Kính Cung, lập lên làm vua, chiếm giữ châu Yên Bắc ở
Lạng Sơn làm căn bản. Chẳng bao lâu, Hoàng Đình Ái lên đánh. Kính
Cung và Ngọc Liễn phải chạy sang Long Châu. Ngọc Liễn ô"m chết, có
để thư lại dặn Kính Cung: “Nay họ Lê lại dấy lên được, ấy là sô" Trời
đã định. Còn dân ta có tội gì mà lại nỡ đế khố sỏ mãi vê việc chiến
tranh? Vậy ta nên đành phận lánh mình ỏ nước ngoài, chứ đừng cô"
đem lòng cạnh tranh mà lại mòi ngLíòi Hoa sang làm hại dân mình”.
Trung hậu thay mấy lời dặn lại của Mạc Ngọc Liễn. Thê" mà
người họ Mạc không ai chịu theo. Mạc Kính Cung nhờ nhà Minh
bênh vực về ở đất Cao Bằng, giữ chỗ biên thuỳ nhỏ mọn. Con cháu
họ Mạc hãy còn nhiều, nay xưng vương chỗ này, mai khơi loạn chỗ
khác. Trịnh Tùng một mặt dùng trí mà giữ cho nhà Minh khỏi
quấy nhiễu, một mặt dùng lực đánh dẹp dư đảng họ Mạc.
Mạc Kính Chương xưng là Trang vương, chiếm giữ huyện
Đông Triều đến đất Yên Quảng. Năm 1596, trấn thủ Hải Dương
Phan Ngạn đánh hắt điíỢc Kính Chương.
Mạc Kính Dụng con Kính Chỉ, chiếm giữ đất Yên Bắc (Lạng
Sơn) xưng Là Uy vương, chẳng hao lâu bị quân Trịnh bắt được.
Còn Mạc Kính Cung chạy sang Trung Quôc, lại về cùng đảng
mình đánh phá Cao Bằng và Lạng Sơn. Quan quân đánh đuối
nhưng Kính Cung sang kêu với nhà Minh. Vua Minh cho đưa thư
sang bắt nhà Lê phải để đất Cao Bằng cho con cháu họ Mạc. Trịnh
Tùng bất đắc dĩ phải theo.
Năm 1599, có bọn Ngô Đình Hàm, Phan Ngạn, Bùi Văn
Khuê nổi loạn, Trịnh Tùng ở Thăng Long rước vua Lê Kính Tông
vào Thanh Hoa. Đảng họ Mạc đón Kính Cung yề. Ngô Đình Hàm
theo giúp họ Mạc. Trịnh Tùng đem thuỷ bộ đại quân ra đánh, bắt
được quốc mẫu Bùi thị, thứ mẫu Mậu Hợp, giết đi. Kính Cung
chạy sang Kim Thành, Hải Dương, sau thấy đảng mình thua cả,
lại trở về Cao Bằng. Các tướng Trịnh đi tiễu trừ đảng họ Mạc ở
Thái Nguyên, Lạng Sơn và Yên Quảng.
Năm 1623, Mạc Kính Khoan, cháu Kính Cung, xưng là
Khang vương, giữ đất Thái Nguyên, từng bị quân Trịnh đánh
thua mấy lần, thấy sự anh em Trịnh Xuân, Trịnh Tráng lục đục,
đem quân về đóng ỏ làng Thổ Khô"i, huyện Gia Lâm, chẳng hao lâu
bị Trịnh Tráng đánh thua, phải chạy lên Cao Bằng.
Năm 1625, tướng Trịnh là Trịnh Kiều lên đánh Cao Bằng,
bắt được Kính Cung đem giết đi. Kính Khoan chạy sang Trung
321
Quôc, rồi cho người về dâng biểu xin hàng. Triều đình phong
Kính Khoan làm thái uý Thông quôc công và cho giữ đất Cao
Bằng, theo lệ công hiến.
Họ Mạc đáng nên giữ phận phiên thuộc, chỉ làm một tù trưởng
lớn, có thê tập, như các tù trưởng dân thiểu sô", thì cũng được lâu dài.
Nhưng năm 1638, Kính Khoan chết. Con là Mạc Kính Vũ (có sách
chép Kính Hoàn, do chữ Hán Vũ ỹ và Hoàn ^ gần giông nhau, nên
có sự lầm lộn) lại không nhận chức và không chịu cống, tự xưng làm
vua, thỉnh thoảng còn đem quân về cướp phá ở hạt Thái Nguyên.
Quan quân đi đánh nhiều lần nhưng không trừ hẳn đưỢc.
Năm 1667, Trịnh Tạc đem đại binh cùng các tướng Đinh Văn
Tả, Lê Châu, Lê Hiến lên đánh lấy đất Cao Bằng. Kính Vũ bỏ
chạy sang bắc quốc. Trịnh Tạc chiêu tập dân sự vê làm ăn và đặt
quan cai trị: Vũ Ninh làm đốc trấn Cao Bằng, Đinh Văn Tả làm
trấn thủ Thất Tuyền, nay là Thất Khê.
Kính Vũ sang Trung Quốc, lây vàng bạc đút lót cho cho quan
nhà Thanh tâu xin với vua Thanh bắt họ Trịnh trả đất Cao Bằng
cho họ Mạc. Vua Thanh cho Kính Vũ về Nam Ninh, rồi sai sứ sang
thương nghị với Nam triều. Trịnh Tạc phải chịu trả cho họ Mạc
bô"n châu: Thạch Lâm, Quảng Yên, ThvfỢng Lang, Hạ Lang, với
điều kiện xưng thần nạp phú công cho nhà Lê.
Sau Ngô Tam Quế phản nhà Thanh ở Vân Nam và Quảng
Tây. Kính Vũ tòng đảng Tam Quế. Đến khi Tam Quế chết, nhà
Thanh lấy lại đất Quảng Tây, họ Trịnh muôn nhân dịp trừ họ Mạc
cho xong, sai Đinh Văn Tả và Nguyễn Hữu Đăng lên đánh Kính
Vũ. Đến tháng 8 âl năm 1677, Đinh Văn Tả lấy được thành Cao
Bằng. Kính Vũ cùng họ hàng chạy sang Long Châu, bị quan nhà
Thanh bắt giải sang ta.
Từ khi Mậu Hợp phải bắt, họ Mạc thất thủ Thăng Long, chạy
lên mạn ngược, nhò thê Trung Quốc, được giữ đâ"t Cao Bằng,
truyền được ba đời: Kính Cung, Kính Khoan, Kính Vũ, đến đây
mất hắn. Dòng dõi họ Mạc hoặc bị bắt, hoặc về hàng, có mấv người
được tha cho ra làm quan, không ke nhiều người đi tản cư sang
Trung Quốc.

CÁC VUA LÊ TRUNG HUNG (HẬU LÊ)


Nhà Mạc thoán ngôi nhà Lê. Nguyễn Kim lập Lê Duy Ninh,
con Lê Chiêu Tông lên làm vua, đóng ở sầm Châu. Ây là vua Lê
Trang Tông. Làm vua 16 năm, khuất năm 1548, hưởng linh 31 tuổi.
322
Trịnh Kiểm, người kế nghiệp Nguyễn Kim, lập Lê Duy
Huyên, con Trang Tông. Ây là vua Lê Trung Tông. Trung Tông ở
ngôi 8 năm, khuất năm 1556, hưởng linh 28 tuổi.
Trung Tông không có con. Các con cháu trực hệ Lê Thái Tổ
không còn ai. Trịnh Kiểm lập Lê Duy Bang, cháu huyền tôn ngưòi
anh Thái Tổ làm vua. Ây là vua Lê Anh Tông. Anh Tông thấy
Trịnh Tùng, con Trịnh Kiểm, thắng đưỢc quân Mạc nhiều trận,
chuyên quyền hông hách, muôn trừ bỏ đi, bị Trịnh Tùng hại, năm
1573. Anh Tông ở ngôi 17 năm, hưởng linh 42 tuổi.
Trịnh Tùng lập người con thứ năm Anh Tông là Lê Duy Đàm
làm vua. Ây là vua Lê Thê Tông.
Năm 1592, Trịnh Tùng diệt được Mạc Mậu Hợp, Mạc Kính
Chỉ, khôi phục miền bắc, rước Thế Tông ra Đông Kinh mở triều
nghi, thăng thưởng các tướng sĩ.
Nhà Mạc mất ngôi, người họ Mạc sang kêu với vua Minh
rằng họ Trịnh nổi lên tranh ngôi, chứ không phải con cháu nhà
Lê. Vua Minh sai quan đến Nam Quan xét hỏi. Năm 1596, sứ
thần ta Đỗ ưông, Phùng Khắc Khoan cùng với hoàng thân Lê
Cánh, Lê Lựu đem theo 10 kỳ mục, 100 cân vàng, 1.000 cân bạc,
ấn An Nam đô thôKg sứ của nhà Mạc và ấn An Nam quốc vương
của nhà Lê trước đem trình. Quan nhà Minh đòi nhà vua phải
đích thân sang hội. Thế Tông đến thì quan nhà Minh lại đòi người
vàng như cũ, rồi không chịu đến hội. Năm sau, sứ Minh lại sang
mời Thế Tông lên hội ở Nam Quan. Hoàng Đình Ái hộ tông vua đi
phó hội. Năm sau nữa, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Nhân
Thiệm đem đồ lễ sang Yên Kinh dâng vua Minh, xin phong. Vua
Minh Thần Tông (Vạn Lịch) chỉ phong Thê Tông làm An Nam đô
thống sứ. Phùng Khắc Khoan tâu Đô thông sứ là chức cũ nhà Mạc.
Nay vua nước Nam là dòng dõi nhà Lê chức ấy không xứng. Vua
Minh nói lúc đầu tạm phong vậy, vê sau sẽ phong vương. Từ đó,
nhà Minh với nhà Lê lại thông sứ như cũ. (Sau nhà Minh suy, Quế
vương năm 1647, xưng đế ở Quảng Tây, muôn nhờ bên ta cứu
viện, mới phong vua Lê Chân Tông làm An Nam quốc vương).
Năm 1599, Thế Tông khuất, làm vua 27 năm, hưởng linh 33
tuổi. Trịnh Tùng hội triều thần tôn hoàng tử Duy Tân lên làm
vua. Ây là vua Lê Kính Tông. Kính Tông bấy giờ còn là trẻ con,
mới 13 tuổi. Trịnh Tùng đặt lên để dễ hề sai khiến.
Công nghiệp diệt trừ họ Mạc thoán vị, sau Nguyễn Kim là
cha con Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng. Có công lớn, họ Trịnh nắm binh
323
quyền rồi nắm luôn cả chính quyền, cai trị thiên hạ. Các vua Lê
sau, không có công đức gì, được lập chỉ vì là dòng dõi nhà vua
chính thông. Lê Anh Tông lại chỉ là một địa chủ, con cháu người
anh Thái Tổ mà được lập. Không có công lao, tài đức, cũng
không nắm giữ quân đội, có được lực lượng gì mà được giữ địa vị
cao quý, kể cũng là tốt đẹp. Ngôi vua phải nương nhờ vào chúa
có thực lực, giữ binh quyền, mới vững chãi. Nhà chúa phải
mượn tiếng phò vua mới có chính nghĩa, dễ ăn nói với quôh dân
và với triều đình Trung Quốc. Hai hên dựa vào nhau đê tồn tại
lâu dài. Chỉ vì người làm vua, có địa vị suông, lại cũng muôn có
thực quyền nên mới có những chuyện không hay. Kê ra thì các
chúa, đôl với nhà vua, cũng quá tệ, thường chỉ dựng những
người quá trẻ để tiện sai khiến, ưng thì để, không ưng thì phế
truất, nói là vua tự thoái vị. Trịnh Tùng trước sau giết hai vua
(!). Chỉ có Lê Thần Tông và Lê Hiến Tông an phận, thuận theo
nhà chúa, mới được lâu dài. Các vua Lê khác không mấy ai thọ,
ở ngôi được lâu hết.
Trịnh Tùng nắm giữ mọi quyền hành, càng ngày càng kiêu
hãnh. Kính Tông thấy khó chịu. Năm 1619, nhân người con thứ
của Tùng là Xuân muôn tranh quyền với anh là Tráng, Kính Tông
mưu trừ Tùng đi. Việc không thành, Tùng bức vua thắt cổ chết.
Kính Tông ở ngôi 20 năm, hưởng linh 32 tuổi.
Năm 1620, Trịnh Tùng lập con Kính Tông là Lê Duy Kĩ lên
làm vua. Ây là vua Lê Thần Tông, bấy giờ 13 tuổi. Thẩn Tông ở
ngôi được 23 năm, đến năm 1642, Trịnh Tráng thấy ông này đã
nhiều tuổi, e khó khiến, chẳng sao cả bảo ông thoái vị, nhường
ngôi cho con, lên làm thái thượng hoàng. Không như các thái
thượng hoàng nhà Trần, ông này không có quyền hành gì hết.
Thái tử Lê Duy Hữu, 14 tuổi được dựng lên làm vua. Ay là
vua Lê Chân Tông, Chân Tông ở ngôi 6 nám, mất năm 1649,
hưởng linh 20 tuổi, không có con.
Trịnh Tráng lại rước thái thượng hoàng Thần Tông về làm
vua. Lần thứ hai này, ngài ở ngôi được 13 năm, khuât năm 1662,
thọ 56 tuổi.
Con thứ hai Thần Tông là Lê Duy Vũ, 10 tuổi, được lập. Ay là
vua Lê Huyền Tông. Huyền Tông cũng không thọ, mất năm 1671,
ở ngôi 9 năm, hưởng linh 18 tuổi.
Nôl ngôi Huyền Tông là Lê Duy Hội, con thứ ba Thần Tông.
Ay là vua Lê Gia Tông, ông này khi mới 2 tuồi thì Thần Tông
324
khuất, Trịnh Tạc đem về nuôi. Năm 1672, dựng lên làm vua. Gia
Tông cũng lại chết yếu, ỏ ngôi 4 năm, khuất năm 15 tuổi.
Kế vị Gia Tông là người em Lê Duy Hợp, con thứ tư Thần
Tông. Ây là vua Lê Hy Tông. Khi Thần Tông mất, Trịnh thị mới có
thai. Trịnh Tạc đưa về phủ nuôi. Trịnh thị sinh Duy HỢp. Hy
Tông lên ngôi năm 1678, khi mới 14 tuổi, giữ ngôi 29 năm. Đến
năm 1706, nhường ngôi cho thái tử, làm thái thượng hoàng 11
năm, hưởng thọ 54 tuổi.
Thái tử Lê Duy Đường, con Hy Tông, lên ngôi. Ây là vua Lê Dụ
Tông 0 ngôi 24 năm. Năm 1729, chúa Tiịnh Cương bắt nhường ngôi cho
con là thái tử Duy Phương, ồng khuất năm 1731, hưởng thọ 52 tuổi.
Lê Duy Phương, con Dụ Tông nôi ngôi cha làm vua 3 năm.
Đến năm 1732, bị Trịnh Giang truất phế, vu cho tội tư thông với
vỢ Trịnh Cương, phải giáng làm Hôn Đức công, chết năm 1736,
hưởng linh 28 tuổi.
Duy Phương bị phế. Duy Tường, con lớn Dụ Tông lập. Ay là
vua Lê Thuần Tông, ổng này trước đã được lập làm thái tử, bị
Trịnh Cương bỏ. Năm 1732, Trịnh Giang lại lập làm vua. Thuần
Tông ỏ ngôi 4 năm, khuất năm 1735, hưởng linh 37 tuổi.
Thuần Tông khuất, Trịnh Giang không lập con ông này, mà lập
em là Lê Duy Thìn, con thứ Dụ Tông. Ấy là vua Lê Ý Tông. Ý Tông
làm vua được 6 năm. Đến 1740, Trịnh Doanh bắt ông nhường ngôi cho
con Thuần Tông. Ý Tông khuất năm 1759, hưởng linh 41 tuổi.
Trịnh Doanh thấy Lê Duy Diêu, con Thuần Tông, có tướng
thái bình, năm 1740 lập nên làm vua. Ây là vua Lê Hiển Tông.
Ong này an phận nên làm vua được lâu dài và trường thọ. Hiến
Tông giữ ngôi 47 năm, khuất năm 1786, hưởng thọ 70 tuổi.
Cháu đích tôn Hiển Tông là Lê Duy Kỳ nôl ngôi. Ay là vua
Lê Mẫn đế, thường gọi theo niên hiệu là Chiêu ThôAg. Làm vua
các năm 1787, 1788, không giữ được nước, chạy sang Trung Quốíc.
Sử chép là Lê Xuất Đế. Khuất năm 1793, hưởng linh 28 tuổi.
Nhà Lê trung hưng (Hậu Lê) làm vua trước sau 255 năm, chỉ
ở ngôi làm vì. Các chúa Trịnh mới nắm hết mọi quyền hành quân
sự và chính trị. Ngôi vua phải dựa vào lực lượng của nhà chúa mới
vững. Đến khi nghiệp chúa đổ thì ngôi vua cũng đố theo.

HỌ TRỊNH XUNG CHÚA


Trịnh Tùng diệt Mạc Mậu HỢp, lấy được đất miền bắc, có
công nghiệp lớn, nắm hết binh quyền và chính quyền, hông hách,
325
coi thường nhà vua. Năm 1599, sau khi thu xếp xong việc bang
giao với nhà Minh và nhường đất Cao Bằng cho họ Mạc, tình hình
trong nước đã yên, Trịnh Tùng tự xưng (tuy nói là vua Lê Thế
Tông phong) là đô nguyên suý, tổng quốc chính thượng phụ Bình
An vương. Rồi định lệ cấp bổng cho vua được thu thuế 1.000 xã gọi
là lộc thượng tiến, cấp 5.000 lính làm quân túc vệ. Mọi công việc
đặt quan, thu thuế, bắt lính, trị dân đều thuộc quyền họ Trịnh cả.
Chỉ khi thiết triều hay tiếp sứ, mới cần đến vua. Từ đó, họ Trịnh
có th ế tập làm vương tục gọi là chúa.
Bấy giò, Trịnh Tùng thế lực rất lớn mà không xưng làm
hoàng đế là do trước đây đánh họ Mạc với chiêu bài phục Lê, nay
lại chiếm ngôi thì không khác gì họ Mạc thoán nghịch. Quân dân
sẽ không phục, chông đôi với danh nghĩa phù Lê. Lại cũng còn sỢ
nhà Minh can thiệp làm khó dễ, nhất là nhà Nguyễn ở phương
nam, thế lực không nhỏ, vẫn có ý tranh quyền. Chi bằng giữ địa vị
thứ hai trong nước nhưng thực tế quyền hành còn hơn cả vua.
Trịnh Tùng lại đặt lệ chọn thê tử nôl nghiệp. Con cháu sau đều
theo lệ xưng vương, tự để cao uy thế buộc vua cho phép bỏ các
nghi lễ quân thần như lạy, xưng tên, triều yến. Năm 1664, Trịnh
Tạc còn tiến thêm bước nữa: Đặt sập ngồi bên trái ngai vua trong
các buổi chầu. Chúa không còn là tôi nữa mà là vua thứ hai, lại có
uy quyền hơn cả vua.
Trịnh Tùng xưng chúa, quan triều có nhiều người không
phục. Năm 1600, bọn Phan Ngạn, Ngô Đình Hàm, Bùi Văn Khuê
khỏi binh chông cự lại ở cửa Đại An, nay thuộc Nam Định. Sau
Phan Ngạn và Bùi Văn Khuê lại nghi ngờ nhau, rồi giết lẫn nhau.
Ngơ Đình Hàm về giúp họ Mạc.
Các chúa Trịnh là:
- Trịnh Tùng xưng là Bình An vương, cầm quyền các năm
1599 - 1623, thực sự ngay từ năm 1570.
- Trịnh T rán g Thanh Đô vương 1623 -1657, con Trịnh Tùng.
- Trịnh T ạc Tây vương 1657 - 1682 con Trịnh Tráng.
- Trịnh Căn Định vương 1682 - 1709 con Trịnh Tạc.
- Trịnh C ư ơ n g An Đô vương 1709 - 1729 cháu Trịnh Căn.
- Trịnh Giang Uy Nam vương 1729 - 1740 con Trịnh Cương
Trịnh Giang làm chúa xa xỉ, hung ác quá độ, giặc cướp nổi lên
nhiều, năm 1740 bị phế .
- Trịnh Doanh Minh Đô vương 1740 - 1767, em Trịnh Giang.
- Trịnh Sâm Tĩnh Đô vương 1767 - 1782 con Trịnh Doanh.
326
- Trịnh Cán Tôn Đô vương, con thứ Trịnh Sâm, làm chúa 2
tháng, năm 1782 bị phế.
- Trinh Khải Đoan Nam vương 1783 - 1786 con trưởng
Trịnh Sâm.
Trịnh Bồng Án Đô vương 1787.
Suô"t thế kỷ XVII và XVIII, nước ta có vua, lại có chúa. Vua
chỉ giữ hư vị, chúa mới thực sự là người lãnh đạo quốc gia, nắm
giữ hết mọi quyền chính trị và quân sự, tuy trong nước vẫn dùng
niên hiệu hoàng triều. Nhà chúa cũng có đòi sôhg huy hoàng như
vua: phủ đệ lộng lẫy như cung điện. Chúa cũng có nhiều phi, dùng
quan thị hầu hạ. Do có thực quyền, nhà chúa được phần hầu hết
tướng tá và binh sĩ tận tâm phò tá. Các quan văn thì thường tôn
trọng cả vua lẫn chúa. Chỉ phe chông đốì chính quyền trung
ương mới dùng khẩu hiệu: “phù Lê diệt Trịnh”. Các vua Lê không
nắm đưỢc quân đội nên mỗi khi không thoả thuận với chúa thì
phải chịu thiệt thòi. Lê Chiêu Thông được nhàTây Sơn diệt Trịnh,
trả quyền chính cho, mà chẳng làm nên trò trông gì.

NGUYỄN HOÀNG
Nguyễn Kim, người khởi binh chông nhà Mạc, có hai con trai:
Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng, một gái là Ngọc Bảo gả cho
Trịnh Kiểm. Nguyễn Kim chết, Trịnh Kiểm là tướng tài nắm giữ
binh quyền. Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng làm thuộc tướng, lập
được nhiều công. Người anh được phong là Lang quận công, người
em gái thái uý Đoan quận công. Nguyễn Uông chết một cách bí
mật khả nghi. Nguyễn Hoàng sỢ bị hại, xin vào trấn thủ miền xa
xôi phía nam.
Năm 1558, ông được cử làm trấn thủ đất Thuận Hoá. Nơi đây
là trọng địa có nhiều nguồn lợi trên rừng núi dưới biển sông.
Nhưng lại là nơi cùng với xứ Quảng Nam, sung yếu. Quân nhà
Mạc có thể dùng chiến thuyền vượt biển đánh thẳng vào. ông có
bổn phận trấn giữ vùng này, cùng với Trấn quận công Nguyễn Bá
Quýnh ở Quảng Nam, cứu viện lẫn nhau.
Bấy giò, có nhiều những người họ hàng ở huyện Tông Sơn
cùng quân lính đâT Thanh, Nghệ, đem cả vỢ con theo đi. Vào đóng
ở xứ Ai Tử, sau gọi là kho Cây Khế, thuộc huyện Đăng Xương,
Quảng Trị ngày nay.
Nguyễn Hoàng là người khôn ngoan, lại có lòng nhân đức,
thu dụng hào kiệti yêu sĩ nhân, nên được lòng người mến phục.
327
Nàm 1569, ông ra chầu vua ở An Tràng. Qua năm 1570, Trịnh
Kiểm gọi Nguyễn Bá Quýnh tổng binh Quáng Nam về trấn thủ đất
Nghệ An và cho ông kiêm luôn chức trấn thủ cả hai xứ Thuận,
Quảng. Lệ mỗi năm phải nộp thuế 400 cân bạc, 500 tấm lụa.
Năm 1571, quân Mạc Kính Điển vào cướp, chiếm khu từ sông
Cả trở vào nam. Xứ Thuận, Quảng giao động. Nguyễn Hoàng sẵn
có danh vọng và uy tín, lại nhiều mưu lược quyền biến, không chế
trong hạt, quân luật rất nghiêm, bắt giết bộ tướng định hàng giặc.
Quân Mạc không thế phạm tới hai xứ này.
Năm 1572, tướng Mạc Quận công Lập Đạo xuất thuỷ quân
nhiều chiến thuyền do đường biển tiến đánh vào Thuận Quảng.
Thô dân nhiều người ra hàng. Nguyễn Hoàng sai Ngô thị, người
con gái đẹp, giả làm cách đưa vàng bạc sang nói với Lập Đạo xin
cầu hoà. Lập đạo không phòng giữ gì, hị quân Nguyễn đánh lén,
bắt được, giết đi. Quân Mạc bị đánh tan.
Năm 1593, Trịnh Tùng đã lấy được Đông Kinh, bắt được Mạc
Mậu Hợp nhưng đảng Mạc còn nhiều, phải đánh dẹp nhiều nơi.
Nguyễn Hoàng đem quân lính súng ôAg ra giúp, lập được nhiều
công to. ơ lại 8 năm. Trịnh Tùng vẫn ghen ghét, không muốn cho
ông trở về Thuận Hoá. Năm 1600, nhân có bọn Phan Ngạn khởi
binh ở cửa Đại An (Nam Định), ông đem bản bộ tướng sĩ, nói là đi
đánh giặc, rồi theo đường biển vào Thuận Hoá. Vào đó rồi, sỢ
Trịnh Tùng nghi ngờ, đem con gái là Ngọc Tú gả cho Trịnh Tráng
là con Trịnh Tùng, ông ở giữ đất Thuận Hoá, cho người con thứ
sáu vào đất Quảng Nam, dựng kho tàng tích trữ lương thực.
Nước nhà vừa thông nhất chưa bao lâu, từ đó lại phân liệt
nam bắc, bề ngoài hoà hiếu, nhưng hề trong vẫn lo việc phòng bị
chống cự với nhau.

HỌ NGUYỄN xu n g c h ú a MIỂN nam


Nguyễn Hoàng có ý muôn độc lập, chông lại họ Trịnh. Năm
1613, dận lại Phúc Nguyên: “Đất Thuận Quảng này bên bắc có núi
Hoành Sơn, sông Linh Giang, bên nam có núi Hải Vân và núi Bi
Sơn, thật là nơi Tròi để cho người anh hùng dụng võ. Vậv ta phải
thương yêu nhân dân, luyện tập quân sĩ, để gây dựng cơ nghiệp về
muôn đời”.
Thuỵ quận công Nguyễn Phúc Nguyên, tục hiệu chúa Sãi, kế
nghiệp Nguyễn Hoàng, ngay từ năm 1614, cải tổ chính quyền, bổ
dụng quan lại, xây dựng thành một nhà nước, tuy vẫn còn để một sô"
328
quan lại cũ do triều đình cử vào từ trước và vẫn còn nộp thuê cho triều
đình nhưng tách khỏi dần mọi quan hệ lệ thuộc họ Trịnh.
Năm 1623, Trịnh Tùng mất, Phúc Nguyên muôn nhân dịp ra
đánh họ Trịnh, nhưng vì công việc sửa soạn chưa xong nên sai
người ra phúng điếu, gọi là cho phải nghĩa hôn nhân với nhau,
cũng đế nhân thể xem xét tình ý người bắc ra thê nào.
Bấy giờ, miên nam có được mây bày tôi giỏi, đều là người
Thanh Hoa, không phục nhà Trịnh vào giúp. Nguyễn Hữu Dật,
người Tông Sơn, học rộng tài cao, lại hùng biện, đánh giặc giỏi,
văn võ kiêm toàn. Đào Duy Từ cũng người Tông Sơn, vì là con hát
xướng, không được đi thi, phẫn chí vào nam lập công danh, đưỢc
Trần Đức Hoà gả con gái cho và dâng lên chúa Sãi. ồng lập đồn
Trường Dục và xây luỹ ở cửa Nhật Lệ (Quảng Bình), tục gọi là luỹ
Thầy. Nguyễn Hữu Tiến, người huyện Ngọc Sơn, là tướng tài, tinh
thông võ nghệ, dùng binh rất có kỷ luật. Những vị này giúp chúa
Nguyễn, bày mưu định kế, luyện tập quân lính, xây đắp đồn luỹ
để chông nhau với quân họ Trịnh.
Một khi các đồn luỹ đã được kiên cố, binh lương đã đầy đủ rồi,
chúa Sãi mới ra mặt không thuần phục họ Trịnh nữa, không nộp thuế
hàng năm, đuối các quan lại cũ của triều đình về bắc, sai tướng ra
chiếm giữ đất nam Bô Chính ở phía nam sông Linh Giang (sông
Gianh) đê làm chỗ chông giữ. Từ đó, năm 1627, Trịnh Nguyễn đánh
nhau tai hại trong khoảng 45 năm ở Quảng Bình, Hà Tĩnh bây giờ.
Các chúa Nguyễn là;
- Nguyển Hoàng - Đoan quận công 1600 - 1613 tục hiệu
Chúa Tiên.
- Nguyễn Ph ú c Nguyên - Thuỵ quận công 1613 - 1635
Chúa Sãi, con thứ sáu Nguyễn Hoàng.
- Nguyễn Phúc Lan - Nhân quận công 1635 - 1648, chúa
Thượng, con thứ chúa Sãi.
- Nguyến Ph ú c Tần - Dũng quận công 1648 - 1687 chúa
Hiền, con chúa Thượng.
- Nguyển Phúc T rán - Hoàng quốc công 1687 - 1691 chúa
Nghĩa, con chúa Hiền.
- Nguyến Phúc Chu - Tộ quốc công 1691 - 1725 gọi là Quốc
chúa, con chúa Nghĩa.
- Nguyễn Phúc Chú - Đình quốc công 1725 - 1738 con Phúc Chu.
- Nguyến Phúc Khoát - Võ vương 1738 - 1765 xưng vương
hiệu con Phúc Chú.
329
- Nguyển Phúc Thuần - Định vương 1765 - 1777 con thứ
Phúc Khoát.
- Nguyễn Phúc Anh con Phúc Chương, cháu Phúc Khoát.
Các chúa Nguyễn giữ miền nam tổ chức chính trị như một
triều đình riêng biệt, tuy không xưng là hoàng đế và đặt quốc
hiệu, vẫn dùng niên hiệu của nhà Lê. Ngoài ra vua Lê không có
quyền hành gì dù chỉ là danh nghĩa suông.

CHIẾN TRANH TRỊNH - NGUYỄN


Chúa Nguyễn Phúc Nguyên, một khi đã xây dựng nên cơ sở
vững chãi, bèn ra mặt chống đối họ Trịnh. Năm 1627, đã ba năm họ
Nguyễn không nộp thuế cống, Trịnh Tráng sai quan vào Thuận Hoá
giả tiếng nhà vua vào đòi. Chúa Sãi (Phúc Nguyên) tiếp sứ nhưng
không chịu nộp thuế. Trịnh Tráng sai sứ mang sắc vua Lô Thần
Tông phong Phúc Nguyên làm thái phó quốc công. Chúa Sãi nhận,
nhưng ngav sau đó cho người đưa trả lại, bỏ tò sắc vào giữa mâm
đồng hai đáy, kèm theo sản phẩm quý địa phương, nói là tạ ơn, mặt
mâm để mấy chữ có nghĩa là “ta không nhận sắc”. Trước đó, Trịnh
Tráng còn đòi 30 con voi, 30 chiến thuyền. Chũa Sãi không chịu.
ĐÁNH NHAU LẦN THỨ NHẤT - Bấy giờ, tình hình trong nước đã
yên. Việc bang giao với nhà Minh êm đẹp. Họ Mạc đã yên phận
làm một phiên thần. Trịnh Tráng quyết tâm đi đánh miền nam,
sai tướng Nguyễn Khải và Nguyễn Danh Thế đem 5.000 quân đi
tiên phong, vào đóng ở Hà Trung (Cầu Doanh), rồi đem đại binh,
rước vua Thần Tông đi chinh nam.
Phúc Nguyên sai Nguyễn Phúc Vệ làm tiết chế cùng với
Nguyễn Hữu Dật đem hình mã ra giữ các nơi hiểm yếu. Quân
Trịnh đến đánh, chết hại nhiều. Nguyễn Hữu Dật đặt kế khiến
quân Trịnh rút về; phao lên rằng ngoài bắc có Trịnh Gi và Trịnh
Nhạc sắp làm loạn. Có thuyết họ Mạc kéo quân vê đánh Đông
Kinh. Trịnh Tráng nghe tin, sinh nghi, không rõ hư thực, bèn rước
vua và rút quân về.
ĐÁNH NHAU LẦN THỨ HAI - Năm 1630, chúa Sãi nghe lồi Đào
Duy Từ, sai người đem các sắc dụ ra trả vua Lê, rồi sai tướng ra
đánh lấy phía nam ngạn sông Gianh, đế chông nhau với quân
Trịnh. Đây là đất nam Bô" Chính, nay thuộc tỉnh Quảng Bình. Còn
Hà Trung thì thuộc Hà Tĩnh.
Năm 1633, có người con thứ ba chúa Sãi là Ánh trấn thủ
Quảng Nam, muôn tranh quyền, sai người đưa thư ra Đông Kinh
330
xin chúa Trịnh đem quân vào đánh, bắn súng làm hiệu thì sẽ làm
nội ứng. Anh xin với chúa Sãi ra trấn thủ Quảng Bình cho tiện
mưu gian. Chúa Sãi ngờ, không cho. Trịnh Tráng đem đại binh
vào đóng ở cửa Nhật Lệ (Đông Hải nay đọc trệch là Đồng Hới,
thuộc Quảng Bình). Đợi hdn 10 ngày, không thấy tin tức gì của
Anh, hèn lui ra đế chò. Quân lính đợi lâu, sinh lười biếng. Tướng
Nguyễn Văn Thắng và Nguyễn Hữu Dật xuất kỳ bất ý đổ ra đánh
đuổi. Trịnh Tráng thấy sự không thành, rút quân về.
ĐÁNH NHAU LẦN THỨ BA - Năm 1635, Phúc Nguyên mất, con
trai thứ hai là Phúc Lan nôi nghiệp chúa, tục hiệu chúa Thượng.
Em là Ánh ở Quảng Nam phát binh làm phản, tranh quyền, bị
Nguyễn Phúc Khê giúp chúa Thượng quân vào đánh, hắt giết đi.
Trịnh Tráng thây anh em họ Nguyễn tranh đánh nhau, sai tướng
vào đánh lấy đất nam Bô" Chính, giết được tướng Bùi Công Thắng,
rồi tiến lên đánh cửa Nhật Lệ.
Năm 1643, Trịnh Tráng đem đại binh và rước vua vào đất
bắc Bô Chính. Lần này có trang bị ha chiếc thuyền và súng đạn
của người Hà Lan. Gặp thòi tiết tháng tư, khí tròi nóng nực, quân
sĩ bị dịch tả chết hại nhiều. Trịnh Tráng phải rút về hắc.
ĐÁNH NHAU LẦN THỨ Tư - Năm 1648, Trịnh Tráng lại sai đô đốc
Tiến quận công Lê Văn Hiếu (có sách chép là Trịnh Đào hay Hàn
Tiến) đem quân thuỷ bộ vào đánh miền nam. Bộ binh tiến đóng ở nam
Bô" Chính, thuỷ quân vào đánh cửa Nhật Lệ. Chiến trận kịch liệt. Cha
con Trương Phúc Phấn cô" sức giữ luỹ Trường Dục. Quân Trịnh đánh
mãi không tiến lên đưỢc. Chúa Thượng sai con là Phúc Tần ra chông
giữ ở Quảng Bình. Phúc Tần biết quân Trịnh tuy nhiều, nhưng ít
người tài giỏi, một mặt cho thuỷ quân đi phục sẵn ở của sông Cam La,
chặn đường quân Trịnh về, một mặt sai Nguyễn Hữu Tiến đem 100
con voi canh năm đánh vào đại quân Trịnh. Quân bộ tiếp sau vào
đánh phá. Trận này quân Trịnh thua to, rút chạy, lại gặp thuỷ quân
Nguyễn đuổi đành mãi đến sông Lam Giang. Mấy tướng và 3.000
quân bị quân Nguyễn bắt. Trịnh Tráng thấy quân mình thua sai Lê
Văn Hiểu và Trần Ngọc Hậu lĩnh một vạn quân giữ Hà Trung, Lê
Hữu Đức và Vũ Lương đóng ở Hoành Sơn, Phạm Tất Toàn đóng ở bắc
Bô" Chính, đề phòng quân Nguyễn đánh ra.
Bấy giò, năm 1648, chúa Thượng mất, con là Dũng quận công
Phúc Tần nô"i nghiệp, tục hiệu chúa Hiền.
Ngoài bắc, nám 1649, Lê Chân Tông mất, không con. Thái
thượng hoàng Thần Tông trở lại làm vua lần nữa.
331
Họ Trịnh đem quân đi chinh nam mấy phen, hao binh tổn
tướng, không nên công trạng gì. Thế mà vẫn không chịu thôi việc
chiến tranh.
ĐÁNH NHAU LẦN THỨ NĂM - Năm 1655, Trịnh Tráng lại cử
binh vào đất nam Bô" Chính. Chúa Hiền quyết dùng đại quân
đánh lớn. Những lần trước chỉ giữ thế thủ, nay mới mở thế công.
Sai Thuận Nghĩa hầu Nguyễn Hữu Tiến, Chiêu Vũ hầu Nguyễn
Hữu Dật đem quân qua sông Gianh đánh vào đất bắc Bô" Chính.
Tướng Trịnh là Phạm Tất Toàn về hàng. Quân Nguyễn tiến đến
Hoành Sơn, đánh đuối Lê Hữu Đức, thừa thắng đánh đến đồn Hà
Trung. Lê Văn Hiểu chông lại không nổi, phải cùng Lê Hữu Đức
rút quân về giữ Nghệ An. Nguyễn Hữu Tiến đem binh đến đóng ở
huyện Thạch Hà. Lê Văn Hiểu và Lê Hữu Đức lại sang đóng ở xã
Đại Nại. Trịnh Tráng sai Trịnh Trượng vào làm thông lĩnh kinh
lược đất Nghệ An và triệu các tướng kia về. Lê Văn Hiểu bị đạn
sau chết ở nửa đường. Lê Hữu Đức và Vũ Lương phải giáng chức.
Trịnh Trượng tiến binh đóng ở huyện Kỳ Hoà, cho thuỷ binh
đóng ở cửa Kỳ La. Nguyễn Hữu Tiến rút quân về sông Gianh để nhử
địch. Trịnh Trượng không đuổi, đóng quân ở lại Lạc Xuyên, cho một
sô" đóng ở đồn Hà Trung. Nguyễn Hữu Tiến đánh quân Trịnh ở Lạc
Xuyên. Nguyễn Hữu Dật dùng thuỷ binh đánh vào cửa Kỳ La đều
thắng, rồi chiếm luôn bảy huyện phía nam sông Cả.
Trịnh Tráng sai con là Trịnh Tạc vào Nghệ An thông lĩnh.
Nguyễn Hữu Tiến lui quân về Hà Trung. Ngoài bắc lắm việc,
Trịnh Tạc trở về, để các tướng là bọn Đào Quang Nhiêu ở lại giữ
đất Nghệ An.
Năm 1656, quân Nguyễn hai mặt tiến đánh vào các đồn
quân Trịnh. Quân Trịnh mấy nơi đều bị thua chạy. Quân của
Đào Quang Nhiêu đánh lại một trận râ"t dữ nhưng rồi cũng
thua chạy.
Trịnh Tráng sai người con út Ninh quận công Trịnh Toàn
(tục gọi ông Ninh) vào thống lĩnh. Trịnh Toàn vào Nghệ An, đô"c
chư quân tiến đến Thạch Hà, sai các tướng đô"c quân ở Hưng Bộc,
Đại Nại, Nam Giới (?) và Châu Nhai. Quân Nguyễn tiến đánh
Nam Giới lấy được 30 chiếc thuyền, rồi tràn xuông sông c ả đánh
vào Châu Nhai. Trịnh Toàn nghe tin Đào Quang Nhiêu bị vây ở
Hương Bộc, đem quân đến cứu. Hai bên đánh nhau ỏ làng Đại
Nại. Quân Nguyễn chạy vào Hà Trung. Quân Trịnh đánh đuổi đến
Tam Lộng, bị đón đánh thua, phải chạy về Nghệ An.
332
Trịnh Toàn trấn thủ Nghệ An, hậu đãi tướng sĩ. yêu mến nhân
dân, lòng người đều phục. Trịnh Tráng chết. Trịnh Tạc lên thay,
nghi kỵ em, cho con là Trịnh Căn vào trấn thủ Nghệ An, gọi Trịnh
Toàn về, hạch tội không về chịu tang, bắt bỏ ngục giam chết.
Năm 1657, Trịnh Căn chia quân ba đạo tiến đánh quân
Nguyễn ở bên kia sông Cả. Nguyễn Hữu Tiến được người báo trước
đã phòng bị. Quân Trịnh đến, mắc kế phải thua, may có Trịnh
Cán tiếp ứng nên mới rút được êm.
Từ đó, hai bên giữ nhau ỏ sông cả. thỉnh thoảng đánh nhau
một trận. Tháng chạp âl năm 1658, đánh ở Hương Sơn, quân
Nguyễn phải lui. Tháng 8 năm 1660, đánh ở Nghi Xuân, quân Trịnh
thua bỏ thuyền chạy. Qua tháng 9, quân Nguyễn còn đóng ở Hoa
Viên. Trịnh Căn định sang lấy núi Lận Sơn đế giữ trận thế, chia hai
đạo quân cùng tiến. Đạo quân của Đào Nghĩa Giao đến Lận Sơn, bị
quân Nguyễn Hữu Dật đánh, vây ngặt lắm. Trịnh Căn sang cứu và
truyền thuỷ quân bắn lên. Quân Nguyễn phải lui. Đạo quân của Lê
Thì Hiến và Mẫn Văn Liêu sang đến làng Tả Ao, gặp quân Nguyễn.
Hai bên đánh nhau. Mẫn Vàn Liêu tử trận. Nhưng quân Nguyễn
phải bỏ Hoa Viên, lui về đóng ở Nghi Xuân. Quân Nguyễn Hữu Tiến
đóng ở Nghi Xuân. Quân Nguyễn Hữu Dật ở Khu Độc.
Chúa Hiền cũng đem binh đến tiễp ứng, đóng ỏ làng Phù Lộ
nay thuộc Quảng Bình. Nguyễn Hữu Dật lẻn về ra mắt, kể việc
đánh lấy thê nào, được ban bảo kiếm vàng. Nguyễn Hữu Tiến thấy
vậy. không bằng lòng, nhân có các sĩ tốt mới hàng ở đất Nghệ An
thường hay bỏ trôn. Hữu Tiến hội chư tướng, bàn nên đánh hay
nên về. Mọi ngvíòi đều muốn lui về, duy Hữu Dật không chịu.
Bấy giờ, quân Trịnh Lê Thì Hiến đi men bờ biển đánh vào
Cương Gian. Hoàng Nghĩa Giao đến Lũng Trâu, Mãn Trường, rồi
tiến đánh An Điền và Phù Lưu. Quân Nguyễn thua. Được tin ấy,
Hữu Tiến quyết đem quân về, bề ngoài truyền lệnh các đạo sang tiến
đánh Nghệ An. Hữu Dật đem binh đi hậu tiếp, dặn riêng các tướng
đến nửa đêm rút quân về nam Bô Chính, không cho Hữu Dật biết.
Quân Trịnh sang sông đánh vào đồn Khu Độc. Hữu Dật dùng kế
nghi binh đê cho quân Trịnh không dám tiến, rồi đem quân chạy về,
đến Hoành Sơn mới gặp quân Hữu Tiến. Bấy giờ, quân Trịnh Căn
vừa đuôi đến, hai bên đánh nhau một trận, cùng chết hại nhiều.
Trịnh Căn lui về đóng ỏ Kỳ Hoà. Còn bên kia, Hữu Tiến đóng ở
Nhật Ijệ. Hữu Dật ở Đông Cao, giữ các chỗ hiểm yếu. Từ đấy, bảy
huyện vùng sông Lam (sông cả) đất bắc Bô" Chính lại thuộc về Trịnh.
333
Trịnh Căn thấy quân Nguyên giữ gìn mọi nơi rất chắc chắn,
liệu thế đánh không được, sai Đào Quang Nhiêu ở lại trấn thủ
Nghệ An hiệu lĩnh cả đất bắc Bô" Chính để phòng giữ mọi nơi, rồi
trở về Đông Kinh.
ĐÁNH NHAU LẦN THỨ SÁU - Tháng 10 âl năm 1661. Trịnh Tạc
cử đại binh và đem vua Lê Thần Tông vào đánh chúa Nguyễn, sai
Trịnh Căn làm thông lĩnh, Đào Quang Nhiêu làm tổng xuất, Lê
Thì Hiến và Hoàng Nghĩa Giao làm đốc xuất, Lê Sĩ Triệt và Trịnh
Tế làm đốc thị, đem binh sang Linh Giang (sông Gianh), đến đóng
ở làng Phục Tự.
Trấn thủ nam Bô" Chính là Nguyễn Hữu Dật đóng ở làng
Phúc Lộc, chia quân ra đắp luỹ, giữ vững mọi nơi. Quân Trịnh
đánh mãi mấy tháng không được. Đến tháng 3 âl năm 1662, quân
mệt, lương hết. Trịnh Tạc phải thu quân rước vua về bắc. Nguyễn
Hữu Tiến đem quân đuổi đánh đến sông Gianh mới thôi.
ĐÁNH NHAU LẦN THỨ BẢY - Từ năm 1661, trở về bắc, Trịnh
Tạc phải lo việc nước, đánh dẹp họ Mạc ở Cao Bằng, cho nên
không ngó tới phía nam. Mãi đến năm 1672, Trịnh Tạc lại đem
mấy vạn quân và rước vua Lê Gia Tông vào đất hắc Bô" Chính để
đánh họ Nguyễn, sai Trịnh Căn làm thuỷ quân nguyên suý, Lê
Thì Hiến làm bộ quân thông suất.
Chúa Hiền cũng sai em thứ tư là Hiệp làm nguyên suý đem
binh ra cùng Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Mỹ Đức giữ các nơi
hiểm yếu để ngự địch. Chúa Hiền đem đại binh đi tiếp ứng.
Quân Trịnh tiến đánh luỹ Trấn Ninh rất hăng, đã 2, 3 phen
sắp phá được luỹ nhưng Hữu Dật hết sức chông giữ. Quân Trịnh
đánh mãi không được, phải lui về bắc Bô" Chính. Đến tháng Chạp,
trời mưa rét, lại nghe tin Trịnh Căn đi đến sông Gianh phải bệnh
nặng, Trịnh Tạc sai Lê Thì Hiến ở lại trấn thủ Nghệ An, Lê Sĩ
Triệt làm đô đốc đóng ở Hà Trung để giữ các yếu lộ, lấy Linh
Giang (sông Gianh) phân giới hạn nam bắc, rồi rút quân về.
Từ đó, nam bắc thôi việc chiến tranh, mãi đến khi Tây Sơn
khởi binh, họ Trịnh mới nhân dịp vào đánh lấy đất Thuận Hoá.
Từ năm 1627 đến năm 1672, Trịnh - Nguyễn đánh nhau 7
lần. Chúa Nguyễn chỉ ra đánh một lần, lấy được 7 huyện ở phía
nam sông Lam (sông cả), vì các tướng không đồng lộng nên lại
phải bỏ về giữ đất cũ.
Lực lượng quân bên Trịnh mạnh hơn nhưng phải đi xa, vận
tải khó nhọc, mà người nam thì giữ đất mình, có đồn luỹ chắc
334
chắn, tướng sĩ hêt lòng cho nên hai bên đôi địch vẫn không làm gì
đưỢc nhau, biên giới lại như cũ, chỉ khổ binh sĩ bị chết hại, bị
thương tích rất nhiều, dân chúng bị sưu dịch vất vá, lại còn nhà
cửa, mùa màng bị đốt phá, công việc san xuất bị đình trệ.
Chiên tranh Trịnh - Nguyễn thì thòi gian ngắn hơn, sô" trận
đánh ít hơn chiên tranh Trịnh - Mạc nhưng sô" thiệt hại không
kém, do những trận đánh nhau rộng lớn và kịch liệt. Bọn quân
phiệt tranh nhau quyền lợi làm khổ nhân dân.
B.ÁNC T H Ờ I (ỈI.\N NAM BẮC PHÂN TRANH

LÊ MẠC TRỊNH NGUYỀN


TliANC/rô.NO DUY NINH T'H.-\I TXJ DÁNG DUNG
Nguyên Hcà 1533-1548 Minh Đúc 1527-1529
TRU.NG TÒNG DUY HUYÊN TTỈÁI 'lỦNC i ĐÃNG D( )AN11
TbỉênHuli 1549-1556 Đai Chinh 1530-1540
.ANH 'IỦN( J DUY RAMG HIÉNTO.NG PHÚC HAI
Thiên Hụli 1557 Quang Hoa 1541 -15 4 6 Thái quốc công KIẾM TriêuTổKIM
ChinhTrị 1558-1571 TUYÊN TONG PHÌK' Huhg quốc công
Hống Phúc 1572-1573 ■ NGUYỈIN
TT-lẾTừNGDUYĐÀ.M Vĩnh Định 1547

GiaThái 1573-1577 Cảnh Lịch 1548-1553


Quang HUhg 1578-1599 Quang Bảo 1554 -1561

MẬU HỘP
Thuần Phúc 1562-1565

Sùng Khang 1566 -1577

Diên Thành 1578 -1585

Đông Thái 1586-1587

Hung Tri 1588-1590

Hổng Ninh 1591 -1592

KÍNH'rô.NG DUY TÂN TX)ẢN


Thận Đúc 1600 Vũ An 1592-1593

HoàngĐịnh 1601-1619 KÍNH CHÍ


Bảo Định 1592

Khánh Hũu 1593

TTTẮNTONGDUYKÝ KÍNH GU.NG Binh An vuong TỦNG Thái tổ HOÀNG


Vĩnh Tộ 1620-1628 Kiến Thống 1599-1623 Đoan quận công

EXiCLong 1629 1634 1593-1625 Thành tổ Triết vuong 1600-1613

DuOng Hoà 1635 -1643 KLNH KHOAN Chúa Tên

Long Thái

1623-1625

335
LÊ MẠC TRỊNH NGUYỄN
CHÁN TONG DUY Hửu K IN H VŨ Thanh E)ô vuong TRÁNG Hy Tồng PHÚC
PhúcThái 1643-1649 Thuấn Đúc 1623-1657 NGUYÊN
TH ẨN TONG 1638-1677 Vãn tổ Nghi vuOng Thuỵ quận còng
KhánhĐúC 1649-1652 1613-1635
Thịnh Đúc 1653-1657 Chúa Sãi
Vĩnh Thọ 1658-1661
Van Khánh 1662
H U Y Ề N 'lỦ N G DUY VŨ Tây vuOngTẠC Thần Tông PHÚC LAN
CảnhTri 1663-1671 1657-1682 Nhãn quận còng
G IA T Ú N G D U Y H Ộ I Hoang tổ Duong vucing 1635-1648
Duờng ĐÚC 1672 -1673 Chua Thuọng
Đúc Nguyên 1674 -1675 Thái Tòng PHÚC TẨN
Dũng quận oòng
1648-1687
HYTO N G D U 'YH Ộ H 0 n h Vuơng CÂN Anh Tông PHÚC TRÂN
VĩnhTri 1676-1680 1682-1709 Hoàng quốc cõng
Chính Hoà 1680-1705 Chiêu tổ Khang vudng 1687-1691
Chúa Nghĩa
DỤ TONG DUY ĐƯỜNG An Đó vuong CƯƠNG Hiếu Tông PHÚC CHU
Vĩnh Thịnh 1705-1719 1709-1729 Tộ quốc cõng
Hoà Thái 1720-1729 Hy tổ Nhân vuong 1691-1725

LẺ ĐẾ DUY PHƯƠNG Uy Nam vuOng GIANG Túc Tỏng PHÚC CHÚ


Vĩnh Khánh 1729-1740 Đỉnh quốc công
1729-1732 Thái thượngvucing 1725-1738
'PHUẨN lỨ N G DLIY Minh Đô vuOng DOANH Thế Tòng PHÚC
'IƯỜNG 1740-1767 KHOÁT
Long E)úc 1732 -17 3 5 Nghị tổ An vuờng Vồ vuong 1738-1765
Ý T O N G D U Y 'ra L N Tĩnh Đò vuơng SÂM Diệu Tòng PHÚC
Vĩnh Hụu 1735-1740 1762-1782 THUẦN
H IE N IỮ N G DUY DIÊU Thành tổ Thinh vuOng Định vuOng 1765-1777
Cảnh Huhg 1740-1786 TònĐôvuOngCÁN 1782
M ẪN ĐẾ DUY KỲ Đoan Nam vuDng KHẢI PHÚC ANH
Cheu Thống 1782-1786 xung vuong từ 1780
1787-1788 Án Đõ vuơng BÓNG 1787
N G U Y Ễ N T Â Y SƠ N

NHAC
Thái ĐÚC 1778-1793

HUỆ
CXJang Trung
1788-1792
QUANG TOẢN
Cảnh Thịnh
1793-1801
BảoHưhg
1801 -1802

336
TÌNH HÌNH TRUNG QUỐC
THẾ KỶ XVII NHÀ THANH DẤY n g h iệ p
Phía bắc Trung Quốc có xứ Mãn Châu, giông người Nữ Chân,
cũng mạnh tỢn như người Mông cổ. Đòi Tông đã từng chiếm miền
hắc Trung Quốc dựng nên nước Kim được 120 năm, bị Mông cổ
diệt. Nhà Nguyên đặt Vạn Hộ phủ để cai trị. Nhà Minh đặt vệ địa.
Nhưng người xứ ấy vẫn tự trị. Đất Mãn Châu chia làm 4 bộ: Mãn
Châu, Trường Bạch (đều thuộc Kiến Châu vệ địa), Đông Hải
(thuộc Dạ Nhân vệ địa), Hồ Luân (thuộc Hải Tây vệ địa).
Năm 1616, Nỗ Nhĩ Cáp Xích người bộ Trườn^ĩ Bạch đánh lấy
cả bô"n bộ, xưng làm vua. Ây là Thanh Thái Tổ.
Đên đời con Thanh Thái Tông, nhân được Truyền quổc tỷ của
Trung Quốc, cải quốc hiệu là Đại Thanh.
Con Thái Tông là Lâm lên làm vua, Thanh Thế Tổ, đánh lấy
được cả đất Liêu Tây của nhà Minh.
Sang thê kỷ XVII. nhà Minh bên Trung Quốc suy vếu, chính
trị thôi nát. Nông dân khắp nơi nổi dậy chông đôl. Vào những năm
40, phong trào mạnh mẽ tập trung dưới sự lãnh đạo của Lý Tự
Thành, chiến đấu anh dũng. Năm 1644, vây hãm Yên Kinh.
Tướng Minh Ngô Tam Quê đang chông nhau với quân Thanh ở
Sơn Hải quan, về cứu viện, không kịp. Vua Trang Liệt đã bị giết.
Tam Quế trơ về Sơn Hải quan. Lý Tự Thành sai người dụ Tam
Quế về hàng. Tam Quế không chịu. Lý Tự Thành đem quân đến
đánh Sơn Hải quan. Tam Quế xin hàng nhà Thanh đế lấy binh
đánh Tự Thành. Tự Thành thua, bỏ Yên Kinh mà chạy. Quân
Thanh vào chiếm giữ Yên Kinh, rồi dời kinh sư về đó.
Quan nhà Minh lần lượt năm 1645 lập Phủc vương tại Nam
Kinh, năm 1646 lập Đường vương tại Phúc Châu, năm 1648 lập Quế
vương tại Triều Khánh (Quảng Tây). Phúc vương, Đường vương đều
bị đánh thua. Quế vương chống giữ được 13 năm, rồi cũng bị thua,
chạy sang Miến Điện. Vua Miến Điện bắt nộp cho Ngô Tam Quế,
Tam Quê đem giết đi. Ngô Tam Quế đóng quân giữ Vân Nam và một
phần Quảng Tây, từ năm 1658. Sau phản lại nhà Thanh, không bao
lâu chết. Nhà Thanh thống nhất Trung Quốc.
Năm 1663, nhà Minh mất hẳn rồi, vua Thanh Thánh Tổ
Khang Hy sai sứ sang nước ta, đòi triều công.
Khác với nhà Nguyên, nhà Minh, vua nhà Thanh sau khi
làm chủ Trung Quốic, không có ý muôK đánh chiếm đất nước ta đế
337
lập làm quận huyện, có thể vì thấy các tiền triều đều đã thất bại
trong công cuộc này.

CỎNG VIỆC HỌ TRỊNH LÀM ở MIỂN BẤC


VIỆC BANG GIAO VỚI TRUNG QUỐC - Sau vụ Minh Vạn Lịch
năm 1599 phong Lê Thế Tông làm An Nam Đô Thông Sứ, triều
đình Lê Trịnh vẫn nạp công đều đặn cho nhà Minh, mặc dầu bên
Minh sang thế kỷ XVII đã loạn lạc. Năm 1647, Bắc Kinh và Nam
Kinh đã bị nhà Thanh chiếm, triều đình ta còn nạp cống cho Minh
Vĩnh Lịch ỏ Quảng Tây. Vua Minh phong Lê Chân Tông (có sách
chép phong thái thượng hoàng Thần Tông) làm An Nam quốc
vương và phong chúa Trịnh Tráng làm phó quốc vương.
Năm 1663, nhà Thanh đã thống nhất hoàn toàn Trung Quốc, sai
sứ sang dụ vua ta triều cống. Chúa Trịnh Tạc sai sứ đem đồ cống sang
Yên Kinh, cầu phong cho vua Lê. Nám 1667, Thanh Thánh Tông
Khang Hy phong Lê Huyền Tông làm An Nam quốc vương.
Từ đấy hai nước thông hoà. v ề sau có mấy vụ lôi thôi về biên
giới, cũng được trang trải xong xuôi. (Có vụ họ Vũ ở Tuyên Quang
nạp đất Vân Nam, bên ta xin lại, sẽ nói ở sau).
VIỆC BANG GIAO VỚI Nước AI LAO - Xưa Nguyễn Kim lập vua
Lê Trang Tông ở nước Lan Xang, từng đóng quân nhiều năm ở đấy
nên có sự quan hệ tốt đẹp giữa nước ta và Ai Lao. Từng bị Miến
Điện xâm chiếm, Lan Xang sang thế kỷ XVII giành lại được độc
lập. Dưới vương triều Xu li nha Vong Xa, Lan Xang hưng thịnh.
Chúa Trịnh Tạc đặt quan hệ ngoại giao tô"t. Vua Lê gả con gái cho
vua Lan Xang để thắt chặt mối quan hệ giữa hai nước.
Sau cuộc chính biến tại Viên Chăn, thủ đô Lan Xang, năm
1700, chúìa Trịnh Căn đưa ông Lô (Triệu Phúc) vốn cư trú chính
trị bên ta về nước và yểm hộ cho lên làm vua. ông Lô thần thuộc
nước ta. Ba năm sang công một lần.
Say này, Lan Xang bị chia cắt làm 4 tiểu quốc: Luang
Prabang, Viêng Chăn, Bát sắc và Trấn Ninh. Các tiểu vương dựa
vào ta (Đàng Ngoài) hay Xiêm La.
VIỆC TIÊU TRỪ TÀN TÍCH HỌ MẠC - Đã chép ở mục chiến tranh
Trịnh Mạc trên.
QUAN CHẾ - Thòi Lê Trung hưng, còn gọi là Hậu Lê, nước ta
có vua lại có chúa. Vua chỉ giữ hư vị, chúa mới thực sự nắm hết
mọi quyền chính trị và quân sự. Mệnh lệnh do sắc chỉ nhà vua
truyền ra, nhưng mọi việc đều do nhà chúa sắp đặt cả. Vua cũng
338
không có cả quyền phủ quyết. Bên nhà vua gọi là triều đình, bên
nhà chúa là phủ liêu. Mọi công việc đều do bên phụ chúa định
đoạt cả nên người ta thường chỉ dùng chữ phủ liêu, ít biết đến
triều đình.
Triều đình vẫn giữ hệ thông quan lại cũ, trên có 3 chức thái,
3 chức thiêu, đến 6 bộ: lại, hộ, lễ, binh, hình, công. Triều đình chỉ
là hình thức.
Bên phủ chúa có đặt ra các chức tham tụng và bồi tụng.
Tham tụng ngang với tể tướng hồi trước. Bồi tụng đứng sau tham
tụng. Năm 1718, chúa Trịnh Cương lại đặt ra 6 phiên bên phủ
chúa, cũng như 6 bộ, đế coi mọi việc chính trị.
Về việc võ bị, có ngũ phủ: trung, đông, tây, nam, bắc quân
phủ. Mỗi phủ có đặt đô đốc phủ, có quan tả hữu đô đốc coi việc
quân. Năm 1664, chúa Trịnh Tạc đặt thêm chức chưởng phủ sự và
thự phủ sự coi hết các quân.
Họ Trịnh đổi các đạo làm trấn. Đàng Ngoài có 11 trấn: Nghệ
An, Thanh Hoa, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Thái
Nguyên, Hưng Hoá, An Quảng, Tuyên Quang, Lạng Sơn và phủ
Phụng Thiên (gồm vùng chung quanh Tháng Long và Tháng Long
gồm hai huyện Thọ Xương và Quảng Đức).
ơ cấp trấn, 3 ty: trấn, thừa, hiến kiêm giữ mọi việc. Đứng
đầu trấn có chức trấn thủ. Riêng Cao Bằng, Lạng Sơn, Nghệ An,
vì việc biên giới quan trọng nên đặt chức đốc trấn, còn Thanh Hoa
thì đặt chức lưu thủ. Trấn thủ đều là đại thần. Trịnh Tráng cử các
con đi trâ"n thủ 4 nội trấn: Sơn Nam, Sơn Tây, Hải Dương, Kinh
Bắc. Các trấn khác là ngoại trấn.
Dưới cấp trấn có phủ, huyện, châu và xã.
Quan lại được tuyển dụng bằng cách thi cử. Người đỗ đạt
được cất nhắc tuỳ tài năng và thái độ đôl với nhà chúa. Người
được phép đi thi hương đều phải qua những đợt xét duyệt lý lịch
và trình độ văn hoá từ xã, huyện. Hạt nào có nhiều người xin đi
thi thì bị hạn chế hớt, như xã không quá 20 người. Sô" người đỗ
tiến sĩ không nhiều. Năm 1670 nhiều nhất 31 người, còn thường
chỉ 4, 5 người.
Ngoài ra có chế độ tiến cử. Phàm người có học hành chính
thuật, có thể làm được chức thư lệnh thì các quan tiến cử kê tên
dâng lên bộ lại thuyên bố’ nhậm chức. Ai cử được người giỏi được
khen thưởng, nếu là người không xứng đáng, làm việc tham ô mà
không bày tỏ ra ngay thì phải tội lây.
339
Những lúc thiếu tiên, thóc, nhà chúa lại bán tước. Năm 1658,
Tiậnh Tạc cho ai nộp thóc thì tuỳ theo nhiều ít mà bố’ quan chức theo
thứ bậc khác nhau. Trịnh Giang (1729 - 1740) đặt ra lệ từ tu phẩm
trở xuống nộp 600 quan được thăng chức một bậc. Người chân trắng
nộp 2.800 quan được bổ tri phủ, 1.800 quan tri huyện. (Việc bán
phẩm hàm đã có từ thòi Trần Dụ Tông, Lê Thánh Tông nhưng chỉ có
hư hàm, không có thực chức. Đến đây, ai có nhiều tiền thì có quyền
trị dân (?). Với cách tuyển dụng này, sô" quan lại tăng lên quá lớn.
Nàm 1674, Trịnh Tạc bổ nhậm 1.239 viên. Viên chức thừa thãi, nạn
nhũng lạm đầy rẫy, phẩm giá người làm quan mất dần đi.
Cũng được bổ dụng là con các quan bỏ mình vì nước hay có
đặc công, với chức tước nhỏ hơn cha.
Sô" lượng quan lại nhiều, chúa vẫn ban cho họ nhiều đặc
quyền. Quan cao cấp đưỢc cấp ruộng lộc, ruộng huệ dưỡng, ruộng
dưỡng liêm. Bên cạnh ruộng đất, quan lại còn được cấp bông lộc
bằng tiền tuỳ theo khoa bảng xuất thân, như tiến sĩ 35 xuất tuỳ
hành dân, trạng nguyên 55 xuất, mỗi xuất nộp 3 quan. Từ năm
1720, cấp huệ lộc dân nhất nhị phẩm 1 xã, 60 quan, 150 bát gạo,
hữu ty giảng 1 xã, 40 quan, 250 bát gạo. Quan về hưu cũng được
cấp dân lộc hưu dưỡng: nhất phẩm 400 quan tiền dân lộc của 4, 5
xã, ngũ phẩm 100 quan tiẹn, dân lộc 1 xã. Đòi bấy giò, đòi sông
đơn giản, được cấp như thê" đã là hậu hĩ.
Con các quan lớn còn được tập ấm. Sô" ấm thụ tuỳ theo chức
vụ cao của cha. Các người này được miễn mọi giao dịch, chức
phong theo nguyên tắc chỉ là hư hàm nhưng phần đông được các
quan đồng liêu hay quan địa phương bảo cử ra làm quan thực sự.
Có điều khả thủ là sự kén chọn quan lại, lệ cứ mấy năm lại
khảo hạch một lần, ai không xứng chức phải giáng. Lại đặt ra
phép rất hay: cấm không cho quan viên lập trang trại ở chỗ làm
quan, bởi vì thường có nhiều người ỷ quyền thê hà hiếp lấy ruộng
đất của dân, nuôi những đồ gian ác làm tôi tớ, để quấy nhiễu mọi
người, đến nỗi có nhiều nơi dân phải xiêu tán. Ay cũng là việc đỡ
hại cho dân chúng vậy.
BINH CHÊ - Ban đầu, họ Trịnh vẫn giữ 5 phủ, đặt 5 đô đốc.
Sau đặt 5 quân doanh, gọi là khuông trang: trung, tả, hữu, tiền,
hậu. Doanh chia ra cơ, đội. Buổi đầu, quân lính đều lấy người
Thanh, Nghệ. Quân sô" năm 1593 có khoảng 12 vạn.
Từ năm 1600, chúa Trịnh quy định lính túc vệ ở kinh thành
thì lấy người Thanh, Nghệ. Đây là bộ phận quân chủ yếư, loại
340
quân nhà nghề chuyên phục vụ nhà chúa, được ưu đãi, cấp ruộng
tiền nhiều. Lệ cứ 3 đinh lấy 1 lính, người ta gọi là lính tam phủ,
hay ưu hình.
Bên cạnh quân túc vệ, có ngoại binh hay nhất binh, lấy đinh
tráng ỏ 4 nội trấn và 2 phủ Trường Yên và Thiên Quan. Lệ cứ 5
suất đinh lấy một lính, nhưng chỉ giới hạn trong số tình nguyện
và chỉ gọi ra khi có việc. Hết việc họ lại trỏ về quê S íín xuất.
ưu hĩnh đóng ỏ kinh thành, kén vào làm quân túc vệ canh
giữ đền vua phủ chúa. Nhất binh giữ các trấn. Năm 1740, chúa
Tiựnh Doanh cho các địa phương đặt thêm hương binh để tự vệ
chôYg lại dân nổi dậy.
Binh chủng có bộ binh, kỵ binh, thuỷ binh, pháo binh. Thuỷ
hình Trịnh thuộc loại mạnh: 200 chiến thuyền đóng rất tinh xảo,
mỗi thuyền đặt khẩu đại bác, 1 đằng trước, 2 đằng sau.
Binh khí có kiếm, kích, giáo, mộc, đao, nỏ bắn đá, súng bằng
gỗ, súng hằng da, tên lửa, thuốc lửa, đạn lửa, thuốc mù, đại bác.
Đê đào tạo tướng giỏi, chúa Trịnh lập trường giảng võ dạy
binh pháp và mở các kỳ thi. Trịnh Cương đặt giáo thụ dạy cho con
cháu các quan vào học võ kinh, chiến lược. Mỗi tháng một lẩn tiểu
tập, ba tháng một lần đại tập. Mùa xuân, mùa thu, thi tập võ
nghệ, mùa đông, mùa hạ thi tập võ kinh. Lại định lệ thi võ 3 năm
một lần thi sở cử ỏ tríủi và một lẩn thi hác cử ở kinh thành. Mỗi
khoa có 3 kì chính. Nội dung là binh pháp, đấu các han võ nghệ
(múa đầu nâu, thi hắn cung, dùng khiên, đâu kích...), làm văn
sách về phương lược. Người đỗ cả 3 kỳ khoa bác cử dược gọi là tạo
sĩ, đưỢc ngang với tiến sĩ. Người chi’ trúng một hay hai kì mà có
sức khoẻ hơn người cũng được bổ dụng. Quan võ cũng được hưởng
đặc quyền như quan văn.
Các chúa Trịnh do tuyển lựa, luyện tập và ưu đãi tướng tá và
binh sĩ tạo được đạo quân thường trực mạnh, đánh trận dẻo dai,
rất trung thành với nhà chúa. Tước phong cho các tướng võ khá
rộng rãi, ngay thòi bình, trong triều có đến 5, 7 quôh công và quận
công. Nhà chúa phải nắm vững quân đội mới tồn tại điíỢc lâu dài.
Năm 1740, Trịnh Doanh lập võ miếu, thờ Võ Thành vương,
Khương Thái công, Tôn Vũ tử, Quản tử, Quan Vũ, Hưng Đạo
vương. Hàng năm xuân thu hai kỳ tê lễ.
VIỆC HỌC HÀNH - Thòi Hậu Lê cũng như thời Tiền Lê, trong
nước đâu cũng lấy Nho học làm trọng. Do có chiến tranh loạn lạc
liên riiiên nên việc học hành không phát triển được thịnh lắm. ơ
341
Quốc Tử Giám có đặt quan tế tửu và quan tu nghiệp làm giảng
quan, mỗi tháng một lần tiểu tập, 3 tháng một lần đại tập. Nhà
nước mở khoa thi để tuyển nhân tài ra làm việc công, đòi nào cũng
thế. Ngay từ năm 1560, còn ỏ Tây Đô. đã mở khoa thi hội. Từ đó
vê sau, cứ 3 năm một kì thi nhưng cách thức còn sơ lược. Từ năm
1664, Trịnh Tạc định lại quy thức thi hội. Thi hương thì đến năm
1678 mới định các thế rõ ràng. Cứ 3 năm một kỳ thi hương mở ở
các trấn. Nhưng thi hương bấy giờ hồ đồ lắm, không nghiêm túc
như đời Hồng Đức. Thế kỷ XVIII, người đi thi phải nộp tiền minh
kinh đê lấy tiền làm nhà trường và khoản đô"n quan trường. Đến
năm 1750, nhà nước thiếu tiền lại đặt ra lệ thu tiền thông kinh. Ai
nộp 3 quan được đi thi hương, không phải hảo hạch; thành ra có
những người làm ruộng, đi buôn, đi bán thịt, cũng được nộp quyển
vào thi, tranh nhau vào trường, xéo đạp lẫn nhau, có người chết.
Vào trong trường, người thì dùng sách, kẻ đi thuê người làm hài,
sĩ tử với quan trường thông nhau, thành ra cái chợ thi. Phép thi
cử bấy giờ thật là bậy.
VIẾT QUỐC SỬ - Từ khi Vũ Quỳnh viễt sách Đại Việt thông
giám , mãi đến đời vua Lê Huyền Tông (1663 - 1671), chúa Trịnh
Tạc mới sai Phạm Công Trứ soạn sách Việt sử toàn thư kê từ vua
Trang Tông nhà Hậu Lê đến vua Thẩn Tông, chia làm 23 quyển.
Bộ ấy không in. Đến năm 1676, đòi vua Hy Tông sai Hồ Sĩ Dương
xét lại bộ quốc sử. Chang bao lâu, ông mất, lại sai Lê Hy và
Nguyễn Quý Đức chép nôi từ vua Huyền Tông cho đến vua Gia
Tông, thêm vào 13 quyển, gọi là Quốc sử thực lục.
Năm 1779, đòi cảnh Hưng, chúa Trịnh Sâm sai Ngưyễn Hoãn,
Lô (ịuý Đôn, Lê Thì Sĩ, Nguyễn Du soạn quốc sử. chép thêm từ đòi Hy
Tông đến Y Tông, gọi là Quốc sử tục biên, cá thảy là 6 quyển.
VIỆC IN SÁCH - Người nước ta học chữ Hán đế lâu mà những
sách học như Tứ Thư, Ngủ Kinh, tOcàn thị dùng sách in của người
Trung Quốc cả. Đến năm 1734, đời vua Thuần Tông, chúa Trịnh
Giang mới bắt khắc bản in, in các sách phát ra mọi nơi và cấm
mua sách in của Trung Quôc, ấy cũng là sự có lợi cho nền tài
chính nước ta. (Sách Hồng nghĩa g iác tu y thư nói về thuôc nam
của vị thánh sư thuốc nam Tuệ Tĩnh thiền sư Nguyễn Bá Tĩnh
(1330 - 1413) đến đòi hấy giò (300 năm sau) mới dược khắc in).
LUẬT PHÁP - Về luật pháp, chúa Trịnh thực hiện luật Hồng
Đức, được gọi chung là L ê triều hình luật. Có phụ thêm các nghi
thức xét kiện. Hình luật đời ấy đại khái cũng như đời Tiền Lê.
342
Hình pháp chia ra làm 5 thứ gọi là ngũ hình: suy. trượng, đồ, lưu,
tử. Trước kẻ phạm tội được phép chuộc bằng tiền. Đến đòi vua Lê
Huyền Tông (1663 - 1671), chúa Trịnh Tạc định lại. Trừ những ai
đưỢc dự vào bát nghị (8 trường hỢp được giảm tội), người nào
phạm tội thì cứ chiểu theo tội nặng nhẹ luật hình, chứ không cho
chuộc nữa. Đến đòi Dụ Tông (1705 - 1729), chúa Trịnh Cương bỏ
luật chặt tay thay vào lưu đồ trung thân, 12 hoặc 6 năm. Phạm tội
trộm cướp không được kê vào lệ ấy.
Trịnh Tạc định ra hai phép xử kiện: Những việc mưu sát,
đạo, kiếp gọi là đại tụng; những việc hộ, hôn, ẩu đả gọi là tiếu
tụng. Quan xử kiện không hỢp phải phạt tiền. Những việc đã được
xử phải lẽ rồi mà người đi kiện còn kiện nữa cũng phải phạt tiền.
Việc án mạng thì quan phủ, huyện xét, đệ lên thừa ty và
hiến ty hội đồng xét lại. ớ các trân do trấn thủ xử lại. Nhiều việc ở
huyện phủ hay thừa ty, trấn ty xử không xong thì đến hiến ty xét
lại. ớ hiến ti không xong thì đến giám sát xét lại. ơ giám sát và đề
lĩnh không xong thì đến ngự sử đài xét lại.
Những việc nhân mạng thì hạn 4 tháng, việc trộm cướp, điền
thổ 3 tháng, việc hôn nhân, ẩu đả 2 tháng, chứ lệ không cho để
lâu, làm mất công việc của dân.
THUẾ ĐINH, THUẾ ĐIỂN VÀ suu DỊCH - Trước cứ 6 nám làm sổ
hộ tịch, lấy số^ dân đinh đánh thuế, gọi là quý. Đồng niên mỗi đinh
tuỳ hạng đóng 1 quan hay 1 quan 8 tiền, tức là thuế thân. Năm
1669, tham tụng Phạm Công Trứ đặt phép bình lệ, làm sô đinh
nhất định một lần, xã nào phải đóng hao nhiêu suất đinh, cứ thê
mãi, thêm không kể, chết không trừ. Phép này khỏi phải làm sổ
mà quan khỏi tra xét nhưng bất tiện không biết được sô" đinh về
sau hơn kém bao nhiêu.
Về thuế điền thì năm 1719, Trịnh Cương sai các quan làm
việc đạc điền đê chia tiền thuê cho các dân xã. Cứ do công điền
công thổ mà đánh thuế, chia làm 3 hạng; nhất mỗi năm mỗi mẫu
1 quan, nhì 8 tiền, ba 6 tiền.
Sưu dịch như việc tế tự trong đền vua phủ chúa, việc đắp
đường sá, giữ đê điều, sửa sang cầu công... thì cứ tuỳ nghi mà bô
cho các suất đinh cung ứng cho đủ.
Đến năm 1723, tham tụng Nguyễn Công Hãng theo phép tô,
phép dung, phép điệu của nhà Đường châm chước;
- Phép tô là phép đánh thuê điền thổ mỗi mẫu công điền phải
nộp ở tiền thuế. Ruộng nào cây hai mùa thì chia ba, quan lấy một
343
phần thuế. Đất hãi dâu mỗi mẫu nộp thuê 1 quan 2 tiền, chỗ trồng
dâu nộp một nửa hằng tơ.
Các tư điền trước không đánh thuê, hây giờ ruộng hai mùa
phải nộp mỗi mẫu 3 tiền, ruộng một mùa 2 tiền.
- Phép dung thuê thân, mỗi xuất mỗi nám 1 quan 2 tiền.
Sinh đồ, lão hạng, hoàng đinh đóng thuê một nửa.
- Phép điệu lả phép bắt dân đóng tiền sưu dịch mỗi suất đinh
mỗi năm: hạ 6 tiền, đông 6 tiền. Quan thu tiền âV làm các việc,
không phiền đến dân nữa.
CÁC THỨ THUÊ KHÁC - Thời hây giờ, đánh thuê các thứ thố’
sản, thuê mỏ, thuê đò, thuê chợ... Khi đánh, khi không, không
nhất định.
- T h u ế tuần ty: Các thuyền bè chỏ hàng hoá đi buôn bán
trong sông phải chịu thuế. Trong nước lập ra 23 sở tuần ty thu
thuế tre, gỗ, 10 phần nộp thuế một phần, tạp hoá 40 phần đánh
thuế một phần.
- Thuê m uối: Năm 1721 Trịnh Giang đặt quan giám đường
đánh thuê muôi; 10 phần lấy 2 phần. Người buôn muôi cũng phải
lĩnh thẻ, phải mua muối của quan, rồi sau mới được mua của
những người làm muôi. Vì thuê nặng, giá muôi lên cao đến một
tiền một đấu. Dân oán. Năm 1732, Trịnh Giang phải bỏ không
đánh nữa. Năm 1746, Trịnhh Doanh lập lại phép đánh thuế; Chia
50 mẫu ruộng muôi làm một hếp, mỗi bếp phai nộp 40 hộc muôi
thuế, mồi hộc đánh giá 3 tiền.
- T hu ế thổ sản : Nám 1724, Trịnh Cương định lệ đánh thuế thổ
sán như vàng, bạc, đồng, kẽm, sơn, diêm tiêu, than gỗ, than đá, tre,
gỗ, tơ lụa, quế, cá mắm, các đồ dùng như rưỢu, mật, dẩu và các đồ
thập vật như giấy, chiếu, vải, v.v... đều phải chịu thuế tòng lượng.
VIỆC KHAI THÁC CÁC HẦM M ỏ - Kế tục việc khai thác các mỏ
của các triều đại trước, trong các thế kỷ XVI đến XVIII, thủ công
nghiệp khai mỏ phát triến mạnh mẽ và đạt thành tựu đáng kể.
Nước ta thòi bấy giờ có các mỏ;
- Đồng ở Tụ Long (Tuyên Quang), Tống Ninh, Vụ Nông, Bảng
Mộc, Liêm Tuyền (Thái Nguyên), Trình Lang, Ngọc Uyển (Hưng
Hoá), Hoài Viễn (Lạng Sơn).
- Bạc ỏ Nam Xưởng, Long Sinh (Tuyên Quang).
- Vàng ở Kim Mã, Tam Lộng (Thái Nguyên).
- Kẽm ở Cân Minh (Thái Nguyên).
- Thiếc ở Vụ Nỗng.
344
Các chúa Trịnh chú ý nhiều đến việc khai mỏ. Việc khai thác
thường giao cho các tù trưởng miền núi. Các tù trương lại cho
thương nhân Trung Quôh thầu và thuê người khai thác. Quyền lợi
về tay người Hoa. Của 10 phần nhả nước không thu được một. Phu
mỏ người Hoa sang lại hay quấy nhiễu dân sự. Chúa Trịnh Cương
năm 1717 định lệ người Hoa sang khai mỏ đông lắm chỉ được 300
người, chỗ vừa 200, chỗ ít 100 mà thôi. Thế mà về sau có nơi phu
khách có đên sô vạn, sinh sự đánh nhau, thường phải dùng binh
lính đánh dẹp mãi mới xong.
Nhà Thanh lại lợi dụng tình thê lấn mất của ta nhiều mỏ
quan trọng ở biên giới. Qua nhiều lần thương lượng, họ mới chịu
trả xưởng chì ở châu VỊ Xuyên và mỏ đồng Tụ Long.
Người nước ta có Hoàng Văn Kỳ, Nguyễn Đình Huấn,
Nguyễn Danh Thường xin chiêu mộ người đi khai thác mỏ và nộp
thuế. Có người thuê nhân công Hoa khai thác trộm hị tội. Chúa
Trịnh Doanh giao cho các trọng thần và trấn quan, mỗi người
quản lý một hai khu mỏ, xuất vôn riêng tuỳ tiện chiêu tập người
làm, miễn thuế cho 5 nám. Vì của cải ơ đấy, công tư đều có lợi: kẻ
đứng ra mộ người làm không ngại khó nhọc phí tổn, mỏ này mỏ
khác nhộn nhịp, mà của rừng núi đều được lấy ra hết.
Thời bấy giờ, kỹ thuật khai thác thấp kém nên lợi lộc không
nhiều. Các hầm mỏ do người Hoa thầu thì sản phẩm thu được họ
chơ về Trung Quôc. Người Bắc lấy được hạc thì mang về nước họ.
Bạc đã đem về nước họ thì không phải là bạc của ta nữa.
VIỆC ĐÚC TIỂN - Thời Hậu Lê vẫn tiêu tiền Hồng Đức và ở các
trấn nào cũng có sở đúc tiền. Vì có những sự nhũng lạm nên đến năm
1755, Trịnh Doanh bỏ sỏ đúc tiền ở các trân mà chỉ để hai sở gần đất
kinh sư. Năm 1776, sau khi họ Trịnh lấy được đất Thuận Hoá, lại mở
lò đúc tiền ở Phú Xuân, đúc ra 3 vạn quan tiền cảnh Hưng nữa.
Cũng có đúc ra bạc lạng đê tiêu dùng. Mỗi lạng là 10 đồng,
mỗi đồng giá 2 tiền. Bạc ấy chặt ra mà tiêu cũng được.
Sự ĐONG LƯỜNG - Trước vẫn theo lôl cũ, cứ 6 hạp là một
thăng. Từ năm 1664, Phạm Công Trứ định lại, lấy một cái ô"ng gọi
là hoàng chung quản làm chừng, ông ấy đựng được 1.200 hột thóc
đen, gọi là một thược, rồi cứ 10 thược là một hạp, 10 hạp là một
thăng, 10 thăng là một đấu, 10 đấu là một hộc.
VIỆC ĐÁNH DẸP CÁC TOÁN QUÂN N ổl DẬY TRONG N ư ớ c - Những
năm cuôl thế kỷ XVI, chiến tranh Trịnh Mạc gây rất nhiều thiệt
hại cho sản xuất, lại gặp luôn mấy năm nước lụt, đại hạn, mất
345
mùa. Dân chúng đói chết đến 1/3. Gặp có người phiêu híu cầm đầu
thì dân đói khắp nơi ùa theo, chông đôl chính quyền, cướp phá các
nhà giàu.
Năm 1596, nhiều toán lớn 700, 800 người, toán nhỏ một vài
trăm người đánh phá các nơi. Phạm Hồng, người Đại An (Nam
Định) xưng là Thiên Nam chiêu thảo đô nguyên SLiý, tụ tập hàng
vạn quân ỏ núi Đan Khê, huyện Yên Mô, dân Trường Yên, Lý
Nhân và tướng cũ nhà Mạc hưởng ứng. Tưống Bùi Văn Khuê hỢp
binh với thổ quan Nguyễn Thể dẹp được.
Năm 1597, Nguyễn Dương Minh, người Yên l’hong, xưng
vương hiệu Phúc Đức, mộ quân nôi dậy dánh phá các huyện lân
cận. Tướng Hoàng Đình Ai chỉ huy dốc sức đánh tan đưỢc.
Lại có Nguyễn Minh Trí tự xưng là Đại Đức, chiêm giữ vùng
Từ Liên. Không bao lâu cha con đều bị quân Trịnh bắt giết.
Năm 1598, còn có mấy đám khác nôi dậy xưng là Lâm Tuyền
hầu, Lễ quận công, An quôc công, Trung quận công ơ Hà Đông,
Sơn Tây, Hải Dương, không cầm cự được lâu dài.
Sang thế kỷ XVII, tình thình trong nước đã được ổn định. Các
chúa Trịnh Tùng, Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Căn biết lo việc
trị dân, lại nhờ có những tôi giỏi như í^hạm Công Trứ, Nguyễn
Công Hãng hết lòng phò tá, sửa sang nhiều việc, nước được yên.
Chỉ có tù trưởng họ Vũ làm phán, ngoài vụ con cháu họ Mạc còn
chôhg đổi. Nhưng sang thê kỷ XVIIĨ, Trịnh Cương xảy dựng chùa
chiền, cung điện, tổ chức những cuộc tuẩn du tôn kém. Trịnh Giang
tiến hành xây dựng nhiều công trình hoang phí hơn nữa trong khi
dân chúng đói khô luôn luôn, cho nên có những cuộc nổi dậy khắp
nơi, nhiều toán có quy mô rộng lớn.
Trịnh Giang đã tàn ngược, lại xa xỉ, thuê má ngày một cao,
sưu dịch ngày một nặng, lại là người hôn ám, nhu nhưỢc, hoang
dâm vô độ. Có lẩn bị sét đánh gần chết, nên sỢ sấm, sai đào hầm ở
dưới đất mà trú ấn. Việc chính trị để cho những hoạn thần là bọn
Hoàng Công Phu chuyên quyền làm bậy. Các quan phủ liêu
Nguyễn Quý cảnh, Nguyễn Công Thái, Vũ Công Tế bèn truất
Trịnh Giang mà lập em là Trịnh Doanh lên làm chúa để lo dẹp
yên các toán nổi dậy chông đôi.
ĐÁNH DẸP TÙ TKƯỞNG HỌ v ũ ở TUYÊN QUANG - Khi Mạc Đăng
Dung thoán vị, Gia quốc công Vũ Văn Mật (còn gọi là Uyên) không
phục, dấy quân giữ xứ Tuyên Quang (xưa gồm cá H<à Giang và
miền tả ngạn sông Hồng các hạt Lao Cai, Yên Bcái, Phú Thọ),
346
không theo hiệu lệnh, liên lạc với Trịnh Kiếm, năm 1552 hội quân
với quân Trịnh đánh ra bắc. Năm 1578, con Văn Mật là Nhân
quận công Vũ Công Kỳ đánh hại tướng Mạc Ngọc Liễn. Con Kỳ là
Vũ Đức Cung sau được phong là Hoa quận công giữ đất Tuyên
Quang nhưng rồi ra xưng vương phan hội họ Trịnh, truyền đên
con Vũ Công Huệ. Sau Vũ Công Đức, Vũ Công Tuấn nỗi nghiệp.
Vũ Công Tuấn đã được triều đình phong là Khoan quận công,
nhưng rồi lại làm phíín, muốn ly khai lập quôc gia riêng biệt, cấu
kết với Mạc Kính Vũ ở Cao Bằng, sang Vân Nam nhò quan nhà
Thanh giúp đỡ. Thô ty Nùng Tiên Lai tụ tập người Xạ Phang và
người Nùng theo Công Tuấn sang bên ta. Chúng cướp bóc vùng
Tuyên Quang và Hưng Hoá các năm 1685, 1686. Lợi dụng thòi cơ,
thố quan thời cơ, thô quan phủ Khai Hoả, Vân Nam xâm chiếm
các động Ngưu Dương, Hồ Diệp, Phổ Viên 7 xã thuộc ba châu Vị
Xuyên, Bảo Lạc, Thuỷ Vĩ, đặt tuần ty, thu thuê buôn. Các quan ta
đòi hiệu chính về biên giới, lại hiếu dụ dân các động quay về với
ta. Nhưng quan nhà Thanh không chịu rút lui và trả đất'*’.
Biên giới bị quấy rôi. triều đình cử Nguyễn Công Triều đôc
xuất quan quân đi đánh. Đô đốic Trịnh Cấp (Trịnh Công Thuyên)
năm 1686 đánh phá được bọn giặc Nùng. Nám 1689, Nguyễn Công
Triều kêt hiêu với Lý Thê Bình ỏ huyện Mông tự, thanh tra các
địa phận biên giới ước hẹn với tướng giữ đồn Nông Khê La Vàn
Cương, hội quân nơi biên cảnh, bắt được Vũ Công Tuấn. Dư đảng
giặc tan rã.
Sau bên ta nhiều lần giao dịch với Thanh Triều đòi lại đất 7
xã hị mất. nhưng vua quan nhà Thanh vẫn không chịu trả.
Hành vi của Vũ Công Tuấn mưu sự tranh bá đồ vương, khiến
nước ta mất đất ba động 7 xã ở biên thuỳ, rõ ràng là của một tên giặc,
tàn dân hại nước, không phải là “khỏi nghĩa” như có sử gia đã lầm.
C Á C ĐÁM N ổ l DẬY KH ÁC - Cuối thế kỷ XVIĨ, còn có các cuộc
nổi dậy của ngưòi huyện Thanh Lâm, tên là Trác, năm 1681, xUng
là Bắc vương, đánh phá các nhà giàu. Trấn thủ Hái Dương Đào
Quang Thì (Tích Đặc) và đánh dẹp yên dư đảng.
Sang thế kỷ XVIll thì ha mươi năm đầu đỡ loạn, tuy dân cũng
hay bị đói. Năm 1712, có mấy cuộc bạo động (í vùng Hưng Hoá,

'Năm 1689 có sự kiện nlià Thanh Ira lại cho nước la 8 thôn ứ chân Tư l,ãng, vùng Lạng
Sơn, trước bị chiếm, sau nliiều vụ diều dinh. Nơi dây có thôn Na Oa dấi rộng người dông,
lơi ích khá lớn. Còn dât 1 dộng Ngưu Dưtrng. Hồ Diệp và Phơ Viên, nơi dây có mỏ thiếc
bên ta không dời lại dược, nay thuộc tinh Vân Nam.

347
Tuyên Quang. Năm 1715, dân nghèo đói nổi dậy cướp phá các trấn
Kinh Bắc, Sơn Tây. Từ khi Trịnh Giang (Khương) làm chúa hoang
dâm, xa xỉ, chính trị thổi nát thì gần khắp mọi nơi đều có những
cuộc nổi dậy chống đôl, đám đông hàng vạn người, đám nhỏ 5, 7
trăm. Dân đói chỉ ăn rau, cỏ, thịt rắn, chuột, hễ gặp người táo bạo
xướng xuất thì vác dao, húa, gậy gộc đi theo liền ăn cướp thóc lúa
nhà giẳu. Các toán loạn quân nhiều như ong. dường xá trạm dịch
không đi được. Nhà chúa phải sai các trân lập đồn hoá thiêu trên
núi, đêm ngày canh gác đê kịp thời đôt lửa báo hiệu cho nhau.
Các toán nổi dậy thường mang chiêu bài “Phù Lê diệt Trịnh”
rất đông đúc. Thế mà nhà Trịnh vẫn không đổ, do các hoạt động
nổi dậy thường riêng rẽ, ít khi hỗ trỢ lẫn nhau, không tập hỢp
thành một khôi mạnh mẽ, thiếu bộ chỉ huy thông nhất. Các chúa
lại rất cưng chiều quân, hậu đãi tướng, có những tướng tài như
Phạm Đình Trọng, Hoàng Ngũ Phúc. Quân ưu binh dánh trận
giỏi, lại trung thành với nhà chúa (nhưng sau này chúng quá kiêu
lộng, làm hại chúa).
Năm 1737, nhà sư Nguyễn Dương Hưng (hay Đăng Hưng)
tập hỢp vài ngàn, người phần đông là dân lưu vong, nổi dậy ở Sơn
Tây, lấy núi Tam Đáo làm căn cứ họp đồ đáng, đi lại trong dân
gian, được nhiều người hưởng ứng, xvíng hiệu, dặt quan liêu, xa
gần đều kinh sỢ. Sang tháng giêng âl nám sau mới bị đàn áp.
Năm 1738 có vụ mấy hoàng thân định đô"t kinh thành, trừ họ
Trịnh không thành. Sau đó, rất nhiều cuộc nối dậy chông đối
chính quyền nhà Trịnh. Dưói đây chỉ kể những đoàn quân chống
cự lại được lâu dài.
ĐOÀN QUÂN NGÂN G IÀ - Năm 1740, ở đất Sơn Nam, làng Ngân
Già, huyện Nam Chân (nay là xã Nam Trực) có Vũ Đình Dung,
Đoàn Đình Chấn, Tú Cao nổi dậy, cướp phá rất dữ, giết quan đốc
lĩnh Hoàng Kim Qua. Thê mạnh lắm. Trịnh Doanh phái tự làm
tướng, đem quân đi đánh, hắt được Vũ Đình Hưng đem chém, đổi
tên xã Ngân Già làm Lai Cách, nay là xã Gia Hoà.
ĐOÀN QUÂN N IN H XÁ - Đồng thời vói quân Ngân Cià, ở Hải
Dương, anh em Nguyễn Tuyên, Nguyễn Cừ khởi binh ơ xã Ninh
Xá, huyện Chí Linh, Vũ Trác Oánh khởi ở xã Mộ Trạch, huyện
Đường An (Bình Giang). Tuyên vòn là viên quan nhỏ ở kinh
thành, bất mãn, từ quan, trở về quê nhà, kêu gọi nhân dân nổi
dậy chông triều đình, tự xưng là minh chủ, phôi hỢp với Vũ Trác
Oánh và Nguyễn Diên giây binh từ năm 1739, nêu khẩu hiệu “phù
348
Lê diệt Trịnh”, cầm đầu đám nông dân đấu tranh ở vùng đông bắc,
thanh thê mạnh, làm chấn động cá một phương, vẫy vùng khắp
miền Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Đông, Hưng Yên ngày nay. Năm
1740, các tướng Trịnh Nguyễn Trọng Uông, Nguyễn Hữu Nhuận,
Phạm Hữu Tá kéo quân đến đánh Tuyến ở Binh Ngô (Gia Bình) bị
thua to. Bọn Nhuận bỏ chạy (sau trở về hị tội). Nguyễn Trọng
Uông c ố đánh, tử trận. Nguyễn Tuyên thừa thắng kéo quân xuông
đánh các huyện Thượng Phúc, Phú Xuyên, nhưng không lợi. Chia
quân đóng tại mọi căn cứ, Nguyễn Tuyển đóng quân ở Phao Sơn
thuộc Chí Linh. Cừ ở Đỗ Lâm, huyện Cia Phúc (nay là Gia Lộc)
làm đồn luỹ liên lạc với nhau. Mỗi người đều có đến hàng vạn
quân. Thế lực ngày càng mạnh. Tuyển, Cừ đánh thẳng xuốhg
Hồng Châu, Khoái Châu. Quan quân Trịnh mấy lần tiến đánh,
đều không nổi. Nhiều người bị bắt.
Mãi đến năm 1745, thôKg lĩnh Hải Dương Hoàng Nghĩa Bá
mới phá được các đồn Phao Sơn, Ninh Xá và Gia Phúc. Tuyển
thua chạy rồi chết. Vũ Trác Oánh đi đâu không ai hiết. Cừ chạy
lên Lạng Sơn, mấy tháng sau trở về Đông Triều, hết lương, vào
nấp ở núi Ngoạ Vân, bị Phạm Đình Trọng đem về kinh làm tội.
NGUYỄN DAN H PHƯƠNG - Năm 1740, Tế và Bồng nổi dậy ở Sơn
Tây (xưa gồm cả Vĩnh, Phúc Yên), lực lượng khá lớn. Tướng Vũ Tá
Lý đi đánh cả hai ở huyện Yên Lạc. Thủ hạ có Nguyễn Danh
Phương, tục gọi là Quận Hẻo, nguyên là nhà nho nghèo, đem dư
đảng về giữ núi Tam Đảo, chiêu mộ quân, tích trữ lương, một mặt
sai người về kinh xin hàng. Trịnh Doanh biết giả dôi, nhưng bấy
giò có Cầu và Chất đang quấy rôl ở miền đông và miền nam, lại
liên lạc với nhau, nên cũng tạm cho hàng. Danh Phương rảnh tay
xây đắp thành luỹ, rèn đúc khí giới tăng cường lực lượng. Năm
1744, số^ quân lên đến vạn người, Danh Phương về giữ vùng Việt
Trì, lấy huyện Bạch Hạc. Đốc xuất Sơn Tây Văn Đình ú c đem
quân đến vây đánh. Danh Phương chạy sang giữ làng Thanh
Linh, huyện Bình Xuyên, lập đại đồn ơ núi Ngọc Nội, giáp hai
huyện Bình Xuyên và Tam Dương, trung đồn ở đất Hương Canh,
ngoại đồn ở đất Uc Kỳ tự xưng là Thuận Thiên khải vận đại nhân,
dựng cung điện, đặt quan thuộc, thu các thứ thuế ở đất Sơn Tây
và Tuyên Quang, như một triều đình. Thanh thế lừng lẫy trong
non 10 năm.
Năm 1750, sau khi bình được cầu và Chất, Trịnh Doanh cùng
Hoàng Ngũ Phúc, Nguyễn Nghiễm, Đoàn Chú chỉ huy bổh đạo
349
quân tiến đánh Danh Phướng, đi vòng đường Thái Nguyên, đánh
phá đồn ưc Kỳ. Khi quân tiến lên đồn Hương Canh, bị trong đồn
bắn súng đạn ra như mưa, quan quân không tiên lên được. Trịnh
Doanh lấy gươm trao cho tướng Nguyễn Phan báo rằng: Đồn này
phá không được thì lấy quân pháp mà trị. Nguyễn Phan hộ quân
sĩ, bảo các thủ hạ: Việc binh có quân pháp. Nay là buôi các ngươi
cùng ta phái liều một trận sôhg chết đê báo đền ơn nước, cho khỏi
phụ tiếng râu mày. Thủ hạ háng hái xông pha, kbông ai lui, phá
đưỢc đồn Hương Canh. Danh Phương phái lui quân vê núi Ngọc
Hội cầm cự. Quân Trịnh tiến lên đánh đuổi, Nguyễn Phan sai thủ
hạ cầm đồ đoản binh tự tiện đi trước mà vào, đcỢÌ quân theo sau.
Quân Danh Phương cầm cự ác liệt, nhưng không nổi, bỏ chạy tan
cả. Danh Phương rút về núi Độc Tôn, huyện Tam Dvíơng, phá hết
đồn trại rồi bỏ trôn, đi đến xã Tịnh Luyện, huyện Lập Thạch thì bị
bắt. Trịnh Doanh khải hoàn về kinh đô đến làng Xuân Hy, huyện
Kim Anh gặp người của Phạm Đình Trọng giải Nguyễn Hữu cầu
đến, mở tiệc khao quân.
NGUYÊN HỬU CẦU - Nguyễn Hữu cầu tục gọi Quận He, người
xã Lôi Dương, huyện Thanh Hà, Hải Dương, từ năm 1740 tham
gia cuộc nối dậy, là bộ tướng xuất sắc và là con rê Nguyễn Cừ. Sau
khi Cừ thất bại, Hữu cẩu duy trì và phát triến lực híỢng ỏ vùng Hải
Dương. Trong các lãnh tụ quân nổi dậy chôhg họ Trịnh thê kỷ XVIII,
Hữu Cầu kiệt hiệt hơn cả.
Năm 1742, Hữu cầu chiếm giữ Đồ Sơn làm cán cứ, làm chủ
vùng bờ biển Vân Đồn và các hải đảo chung quanh, tự xưng là
Đông đạo tống quốc bảo dân đại tướng quân, ý nói mục đích dấy
quân là bảo vệ quyền lợi dân nghèo. Hữu cầu thường cướp của
nhà giàu, đón đánh thuyền buôn của phú thương, lấy của chia cho
dân nghèo đói, lưu vong theo về. Sô" lượng quân phát triến nhanh
chóng, mở rộng phạm vi hoạt động khắp vùng đông bắc.
Nàm 1743, thuỷ đạo đốc lĩnh Trịnh Bằng đến đánh Hữu cầu ở
vùng Kiến Thuỵ, bị thua chết trận, quân tan vỡ. Trịnh Doanh sai
Hoàng Công Kỳ, Trần cảnh, đem lực lượng lớn quân đội đi đàn áp.
Ban đầu, Hữu cầu thua, phải bỏ Đồ Sơn, nhưng sau sắp xếp lại
quân đội đánh thẳng vào doanh trại Công Kỳ ở Thanh Hà, vây hãm
Công Kỳ hàng tuần. Tin về kinh đô, Hoàng Ngũ Phúc kéo đại quân
đến giải vây, lại bị chặn lại ở vùng Ninh Giang, Vĩnh Bảo. Hoàng
Công Kỳ phải liều chết mở đường máu đem tàn quân rút về sông
Tranh, hội quân cùng với quân Hoàng Ngũ Phúc đe phan công.
350
Năm 1744, Hoànpr Ngũ Phúc dồn lực lượng tấn công vào căn
cứ Đồ Sơn. Hữu Cầu phá vòng vây tiến vê mặt Kinh Bắc, chiếm
vùng sông Thọ Xương, huyện Lạng Giang. Trân thủ Kinh Bắc
Trần Đình cẩm đem quân lên phá, hị đánh thua. Được đà, Hữu
Cầu chiếm được thành Kinh Bắc. Nghe tin, triều đình, hoảng hốt,
tưởng chừng quân nối dậy sắp tiến đánh kinh thành, vội vã huy
động vệ hĩnh phòng giữ. Hoàng Ngũ Phúc kịp thòi kéo quân về
đóng ở Vũ Giàng. Trịnh Doanh cử Trương Khuông phối hỢp vói
Ngũ Phúc lấy lại được thành Kinh Bắc. Trịnh Doanh huy động
12.700 quân với 16 đại tướng bao vây quân Hữu cầu. Các nhà
thầu nộp thóc gạo cho quân triều. Nhưng cuố’i năm 1744, Hữu cầu
phá tan dược thê hao vây, chiến thắng trận Ngọc Lâm, huyện Yên
Dũng, rồi trở lại vảy Kinh Bắc lần nữa. Các tướng Hoàng Ngũ
Phúc, Đàm Xuân Vực, Nguyễn Danh Lê chỉ huy phải hỢp sức lại
mới giải vây đưỢc thành này. Hữu cầu lại lẽn Xương Giang,
huyện Fỉảo Lộc đánh đuổi quân cúa thống lĩnh Đinh Văn Giai.
Trịnh Doanh sai Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng đi đánh
Hữu Cẩu ở Xương Giang. Trận này, quân Hữu cầu thua to, tướng
tên là Thông hị giết. Quan quân lấy được nhiều quân nhu, chiến
mã, nhưng Hữu cáu vẫn thoát thân.
Hữu Cầu kiệt hiệt lại quỷ quyệt, ra vào bất trắc, có khi bị
vây hàng mấy vòng mà chỉ một mình một ngựa phá vây ra, rồi chỉ
trong mấy ngày lại có hàng vạn người di theo, do ngày thường
cướp được thóc gạo đem cho dân nghèo, nên di đến đâu cũng có
người theo, muôn lấy hao nhiêu quân híơng cũng có.
Mùa thu năm 1745, Hữu cầu trơ về Hái Dương hoạt dộng
quanh vùng ven biến, có khi tập kích vào Sơn Nam. (^uân Trịnh
luôn luôn theo dõi, Phạm Đình Trọng mấy phen đánh bại, nhưng
lần nào Hữu cầu cũng chạy thoát được, rồi chi mấy ngày sau đã
tập hỢp được mấy ngàn hình sĩ, lại chiến đấu, như là có phép lạ.
Năm 1748, sau trận thua lớn ở cẩm Giàng, Hải Dương, Hữu
Cầu đồ chừng quan quân ở kinh thành không phòng thủ ráo riết
mà binh hùng tướng dũng đều đỏng ở ngoài xa. táo bạo mơ cuộc
hành quân cấp tổc: về Bồ Đề, tấn công thíành Thăng Long. Quân
vừa sang sông thì tròi sáng. Quân Trịnh kịp dồn hết lực lượng ra
chông cự. Quân Hữu cầu bị tổn hại nhiều trong trận ncày, phải rút
về Sơn Nam, phốỉ hỢp với quân Hoàng Công Chất. Phạm Đình
Trọng tập hỢp lực lượng về Sơn Nam, mở cuộc tấn công quyết liệt,
nhiều cuộc giao chiến diễn ra ỏ vùng Bình Lục. nay thuộc Hà Nam.
351
Từ năm 1749, Hữu cầu thua quân luôn, không còn oanh liệt
như hồi trước nữa. sai người đem vàng về đút lót cho quan triều
Đỗ Thế Giai và nội Giám Nguyễn Phương Đĩnh đê xin hàng. Trịnh
Doanh thuận cho và phong là Hướng Nghĩa Hấu. Phạm Đình
Trọng cô thù Hữu cầu đã đào mả mẹ đem đố xuống sông, không
chịu, cứ đánh. “Tướng ngoài biên, dẫu có mệnh vua cũng có điều
không nên chịu”. Trịnh Doanh vẫn tin cấn Đình Trọng. Phạm
Đình Trọng chiêu mộ người các huyện Thanh Hà. Tứ Kỳ, Vĩnh
Lại, Thượng Nông, đặt làm 4 cơ, giao cho thủ hạ cai quán, cố tình
tiêu diệt cho hằng được đôl thủ. Hữu cầu đã xin vê hàng mà cứ
cướp phá các nơi huyện Thần Khê và Thanh Quan cùng với Hoàng
Công Chất Phạm Đình Trọng và Hoàng Ngũ Phúc đem đại binh
xuông đánh đuối.
Sang năm 1751, sau mấy trận thua luôn, Hoàng Công Chất
chạy vào Thanh Hoa, Hữu cầu chạy vào Nghệ An, hỢp đảng vối
Nguyễn Diên, bạn chiến đấu cũ dưới trướng Nguyễn Tuyến, ở
Hương Lẫm, huyện Nam Dương. Chắng hao lâu. Phạm Đình
Trọng lại đem quân vào vây đánh. Hữu cầu cùng một S (í hộ tướng
và binh sĩ vượt biển định trở về Hải Dương, chưa qua khỏi vùng
hiển Nghệ An, gặp bão phải bỏ thuyền lên bộ. (ịudn Trịnh đánh
đuổi theo, hắt được Hữu cầu ỏ núi Hoàng Mai, huyện (Ai.ỷnh Lưu,
đóng cũi đem về nộp chúa Trịnh Doanh. Nguyễn Hữu cầu và
Nguyễn Danh Phương đều phải chém ư Thăng Long, tháng 3 âl
năm 1751.
Dân các xã tống Đồ Sơn vẫn sùng bái Nguyễn Hữu cầu, lập
đền tôn thò. Các vua nhà Nguyễn sắc phong cầu làm phúc thần.
HOÀNG CÔNG CH Ấ T - Cùng với Nguyễn Tuyển. Nguyễn Cừ,
Hoàng Công Chất nôi dậy đánh phá ở đất Sơn Nam về hạt Khoái
Châu và Thiên Trường. Quân sĩ của Công Châ't giỏi thuỷ chiến, sở
trường lôl đánh du kích, chiến đấu linh hoạt, khi tan khi hỢp và
thường không xây dựng căn cứ cố định tại một nơi. (ịuân Trịnh
nhiều lần đến đánh, không dẹp nổi. Năm 1745. trấn thủ Sơn Nam
Hoàng Công Kỳ đem quân đàn áp hị mai phục bắt giết. Năm 1746,
quân Công Chất phôi hỢp với quân Nguyễn Hữu cầu. Bị Phạm
Đình Trọng và Hoàng Ngũ Phúc đánh thua dồn dập mấy trận.
Năm 1751, Công Chất chạy vào Thanh Hoa. Các doàn quân nổi
dậy ở đồng bằng lần lượt tan dã, Công Chất rút lên miền thượng
du, dựa vào miền núi hoạt động, tiến vào vùng Hưng Hoá. liên kêt
với thủ lĩnh người Thái tên là Thành. Nám 1761, Thành bị quân
352
Trịnh tấn công, bắt được. Công Chất chạy lên châu Ninh Biên
(nay là Lai Châu), chiếm giữ các hạt lân cận bắc Hưng Hoá (Điện
Biên, Sơn La), tụ tập đồ đảng có hàng vạn người. Hoàng Công
Chất gắn bó với dân xứ àV, giông người Thái, được họ mến chuông,
nhưng lại là cái gai của triều đình. Năm 1769, Trịnh Sâm sai
thông lĩnh Đoàn Nguyên Thục đem quân lên đánh. Quan quân
đến nơi thì Công Chất đã chết. Con là Hoàng Công Toán không
giữ nổi, bỏ chạy sang Vân Nam, đồ đáng tan rã.
LÊ DUY MẬT - Tháng 10 âl năm 1738, dưới triều vua Ý Tông,
các hoàng thân Lê Duy Mật, Lê Duy Quy (con vua Dụ Tông) và Lô
Duy Chúc (con vua Hy Tông) cùng với các triều thần Phạm Công
Thô, Vũ Thước, Lại Thê Tế, định dốt kinh thành, trừ họ Trịnh.
Việc tiết lộ, phải bỏ chạy. Thước bị bắt giết. Duy Chúc và Duy Quy
sau (ấn chết. Duy Mật chạy ra huyện Nghi Dương, được thố hào
Ngô Hưng Tạo đưa vượt biên vào Thanh Hoa, trôn phần đất huyện
Thạch Thành. Dựa vào sự căm oán của nhân dân, ông tập hỢp lực
lượng dân nghèo, chông lại họ Trịnh, kêu gọi quần chúng nổi dậy
“diệt Trịnh phù Lê”. Duy Mật giữ đất thượng du phiá tây nam,
chiêu tập binh sĩ theo vê ngày một đông. Từ năm 1740, Duy Mật
thường tiến đánh Hưng Hoá, Sơn Tây, Sơn Nam. Sau phcíi hỢp với
thủ lĩnh Tượng nổi dậy ở Sơn Tây, giữ đồn Ngọc Lâu, huyện Thạch
Thành. Quân Trịnh đánh phá được đồn Ngọc Lâu. Tưcthg tử trận.
Duy Mật phải bỏ căn cứ, rút lên miền thượng du, năm 1752. Duy
Mật chạy vào Nghệ An. rồi sang Trấn Ninh, giữ núi Trình Quang
làm căn bản. Trong khoảng những năm 1752 - 1783, van làm chủ
miền thượng du Thanh Hoa, Nghệ An, xây đồn luỹ hao vệ, đồng
thời cũng chăm lo cái thiện đ(ứ sông của nhân dân địa phương,
làm các việc đào kênh, họp chợ, dựng lò rèn đúc nông cụ. luôn tiện
cá vũ khí.
Duy Mật có giao dịch vối chúa Nguyễn Võ vương ơ Đàng
Trong mong sự giúp đỡ. Võ vương không muôn gây sự với họ
Trịnh, nên không giúp.
Năm 1764, căn cứ Trình Quang được xây dựng xong, có hào
luỹ kiên cô", không chế cả vùng thượng du Thanh, Nghệ và một
phần Hưng Hoá. Lực lượng bấy giờ đã khá mạnh mẽ.
Năm 1767, Trịnh Doanh mất, Duy Mật định m(i cuộc tấn
công ra bắc, kéo quân xuông vùng Hương Sơn (Hà Tình), Thanh
Sơn (Nghệ An) bị quân Trịnh cản lại, phải rút về Trân Ninh.
Trịnh Sâm nôi nghiệp chúa cho đưa thư sang vỗ về không được,
353
quyết dùng đại binh dứt môì loạn. Sau khi chuẩn bị kế hoạch và
lương thảo, năm 1769 mơ cuộc tấn công quy mô vào núi Trình
Quang, sai Bùi Thế Đạt thông lĩnh đâ't Nghệ An. Nguvễn Phan
Chánh đốc lĩnh đất Thanh Hoa, Hoàng Đình Thê đốc binh đất
Hưng Hoá, cả ba đạo cùng tiến sang đánh Trấn Ninh. Khi quân
Trịnh đến vây, Lê Duy Mật định cứ giữ hiểm không ra đánh,
không ngờ người con rể là Lại Thế Chiêu phản bội, mở cửa luỹ cho
quân Trịnh vào đặt đại bác bắn vào thành trong và khép chặt
vòng vây. Lê Duy Mật không sao thay đổi được tình thê, bèn cùng
vỢ con tự đôt mà chết, kết thúc 30 năm chống đôi họ IVỊnh.
MẤY CUỘC N ổ l DẬY KHÁC - Thời Trịnh Sâm làm chúa, còn có
mấy cuộc nổi dậy khác.
Năm 1778, các thủ lĩnh Thúc Toại, Nguyễn Kim Phẩm, Trần
Xuân Trạch cầm đầu hàng vạn dân vùng đồng bằng ven biển,
đánh phá vùng Yên Quảng, lại vượt biên đánh vào huyện Giao
Thuỷ, bắt đưỢc quan trấn Yên Quảng Đặng Đình Việt, phá quân
trấn Sơn Nam của Ngỗ Đình Hoành. Trịnh Sâm phải sai mấy viên
tướng đem quân thuỷ bộ đến đàn áp. Chúng rút lui về phía bò
biển, hoạt động trong một thời gian nữa.
Năm 1785, ở Yên Quảng lại nổ ra cuộc nổi dậy lớn của Thiêm
Liêm có đến hàng chiếc thuyền hoạt động vùng ven biển. Sau lại
có thủ lĩnh là Sơn đem quân sáp nhập, thanh thế mạnh mẽ, kéo
dài cho đến khi quân Tây Sơn ra hắc.
Ó Thái Bình, có thủ lĩnh tên là Du hội họp lực híựng nối dậy
đánh bại quân Trịnh ở Trà Lý, tuyên b(): “không đôt phá làng mạc,
chỉ cướp của nhà giàu đem nuôi dân đói”, được dân nghèo hưởng
ứng rất đông. Quân Trịnh đàn áp không nổi, phải dùng mưu cho
người thân thuộc của Du nhập vào hàng ngũ ám hại thủ lĩnh.

CÔNG NGHIỆP HỌ NGUYỄN () MIỀN nam


Trong khi họ Trịnh làm chúa Đàng Ngoài thì họ Nguyễn
cũng làm chúa Đàng Trong, tuy không xưng là hoàng đế. nhưng tô
chức chính quyền như triều đình riêng hiệt. Có sự chia cắt đất
nước, nhưng các chúa Nguyễn có công lao mơ rộng bò cõi từ Phú
Yên đến Cà Mâu, Hà Tiên.
LẬP DINH ĐỊNH PHỦ - Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn thủ
Thuận Hoá, đóng dinh ở làng Ai Tử, huyện Đăng Xương, quảng
Trị. Năm 1570, dời vào làng Trà Bát cùng huyện, tức là Cát Dinh.
Năm 1626, chúa Sãi dời về làng l’húc An, huyện Quảng Điển, cách
354
Huê 15 km. Năm 1636, chúa Thượng dời về làng Kim Long, huyện
Hương Trà. Đến năm 1687, chúa Nghĩa mới dời thủ phủ về làng
Phú Xuân (Huê ngày nay).
Đất đai miền nam khá rộng lớn từ phía nam sông Gianh đến
mũi Cà Mâu. Chúa Nguyễn chia làm 12 dinh. Đất Thuận, Quảng
cũ gồm 6 dinh: Bô" Chính, Vũ Xá, Quáng Bình, Cựu Dinh (Ai Tử),
Chính Dinh (Phú Xuân), Quảng Nam. Đất mới chiếm của Champa
chia làm 3 dinh: Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận. Đất chiếm
của Thuỷ Chân Lạp, 3 dinh: Trấn Biên, Phiên Trấn (Gia Định),
Long Hồ (Vĩnh Long). Ngoài ra có trấn Hà Tiên phụ thuộc. Mỗi
dinh quản hạt một phủ. Riêng Quảng Nam 3 phủ: Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Quy Nhơn.
Dưới câ"p phủ có huyện, tống, xã như ngoài bắc.
QU A N CHÊ - ơ c h í n h d i n h c h ỗ n h à c h ú a đ ó n g , đ ặ t t a m t y g iú p
c h ú a p h ụ t r á c h t ấ t c ả m ọ i v iệ c c h ín h trị:
- Xá sai ty giữ việc giấy tò tô" tụng văn án, có đô ty và ký lục
đứng đầu.
- Tướng thần lại ty giữ việc thu thuê và phát lương bổng
quan lại, quân lính các dinh, có cai bạ đứng đẩu.
- Lệnh sử ty giữ việc tế tự, lễ tiết và việc chi cấp lương bổng
cho quân lính ở chính dinh, có nha lý đứng đẳu.
Mỗi ty còn có 3 câu kê, 7 cai hỢp, 10 thủ hỢp và cá 10 ty lại.
Ngoài ra còn có đặt nội lệnh sứ coi chung toàn hộ các thứ thuê", tả
hữu lệnh sứ chuyên thu thuê" sai dư (thuế dinh).
Khi Phúc Khoát xưng vương, đặt 6 bộ: lại, lễ, hộ, hình, công,
binh như triều đình, thay thê các ty. Trên bộ có 4 đại thẩn (tứ trụ),
tả nội, hữu nội, tả ngoại, hữu ngoại đại thần. Đặc điểm có hệ thông
quan lại chuyên việc thu thuê" cho nhà chúa, gọi là bản đường quan,
gồm các chức đê đôc, đề lĩnh, ký lục, ký phủ, cai phủ, cai tri.
ơ địa phương, đứng đầu các dinh là trân thủ, rồi đến cai bạ,
ký lục. Sô" ty ở các dinh không nhất dinh. Có nơi chỉ đặt môt lệnh
sử ty kiêm cả các việc, có nơi đặt xá sai ty và lệnh sử ty coi việc
quân dân tô" tụng, dinh điền, sổ sách, thuế khoá, v.v... tiiỳ nơi
quan trọng hay không mà thêm bớt quan viên.
Đứng đầu phủ, huyện có tri phủ, tri huyện. Riêng Quảng
Ngãi, Quy Nhơn, đặt chức tuần phủ trông coi mọi việc. Thuộc
hạ có đề lại, thông lại giúp việc tô" tụng, khám xét các vụ kiện
cáo; huấn đạo, lễ sinh chuyên việc tê tự. Việc thu thuê có đăt
quan khác.
355
ở cấp xã, đặt hai loại quan: tướng thần và xã trương. Sô"
quan viên này nhiều ít tuỳ theo xã to nhỏ. Xã 70 người, một tướng
thần hay xã trưởng. Xã rất lớn trên 1.000 người, 18 tướng thẩn và
xã trưởng.
VIỆC THI CỨ - Ban đầu, tuyển cử quan lại theo tiến cử. Con cháu
công thcần, quý tộc thường được cất nhắc. Có những người học giỏi, đức
hạnh tốt, quan địa phương tiến cử lên nhà chúa ho dụng.
Đê gây dựng hộ máy quan lại có học thức, năm 1046, chúa
Phúc Lan mở khoa thi đầu tiên. Có hai khoa thi; chính đồ và hoa
văn. Thi chính đồ chia 3 kỳ: tứ lục, thơ phú, văn sách. Quyên đậu có 3
hạng: hạng nhất gọi là giám sinh được hổ tri phủ, tri huyện; hạng hai;
được bố huấn đạo; hạng ba cũng gọi là sinh đồ. được bô làm lễ sinh,
nhiêu học. Thi hoa văn phải ba ngàv, mộĩ ngày làm một bài thơ.
Người đậu được bổ vào làm ơ tam ty. Các khoa thi du'Ợc md tương đối
đều đặn: ở Phú Xuân 3 năm một kỳ, (í các dinh, 5 năm.
Ngoài ra, còn mở các kỳ thi thăm phỏng để cất nhắc, kén
chọn quan lại, gọi là thi văn chức Vcà thi tam ty. Năm 1695, chúa
Phúc Chu mỏ khoa thi đình khảo hạch các quan tại chức.
Năm 1740, chúa Phúc Khoát định lại phép thi: người đậu kỳ thi
đệ nhất gọi là nhiêu học, được miễn sai 5 năm; đậu kỳ hai và kỳ ba,
miễn sai suổt đòi; đậu kỳ bôn, gọi là hương công, đưỢc ho tri huyện.
Sự thi cử ở Đàng Trong thòi bấy giờ còn sơ lược, cũng là hước
tiến đáng kể trong việc phát triển chính trị và văn học. Chưa có
mơ kỳ thi tiến sĩ.
VIỆC VÕ BỊ - Phải chông nhau với họ Trịnh ỏ miền hắc và mơ
mang bồ cõi ỏ miền nam, các chúa Nguyễn rất chăm lo dôn việc võ
bị. Quân đội gồm 5 cơ; Trung, tả, hữu, tiền, hậu. Sô" quân độ chừng
3 vạn người.
Có 3 loại quân:
- Quân túc vệ hay thân quản chuyên bảo vệ nhà chúa và
thành Phú Xuân. Còn gọi là Đức Lâm quân. Quân sĩ chọn trong
con cháu võ quan người Tông Sơn (Thanh Hoa) trước theo Nguyễn
Hoàng vào Nam.
- Quân các dinh tức quân chính quy là bộ phận chủ lực của
nhà chúa. Mỗi dinh có nhiều cơ, dưới cơ có đội, dưới đội là thuyền.
Mỗi thuyền có từ 30 đến 60 người, do cai thuyền chỉ huy. Mỗi đội
có từ 2 đến 5, 6 thuyền, do cai đội chi huy. Sô" quân các cơ khác
nhau, từ 2.000 đến 4.000 người. Võ quan có các chức chương dinh,
chưởng cơ, cai cơ, cai đội coi việc binh.
356
- Quân địa phương gọi là thố binh hay tạm binh, thuộc binh,
đóng rải rác các dinh phía nam.
Trong việc tuyến binh, có chính sách cưỡng bách đầu quân.
Tất cả đinh nam từ 18 đến 50 tuổi đều phải ghi tỗn vào sổ đinh để
lấy lính, trừ những người ôhi vếu, tàng tật hay con một.
Quân đội gồm nhiều binh chủng; Bộ binh, thuỷ binh, pháo
binh và tượng binh. Vũ khí bên cạnh gươm giáo cung tên, có súng
lớn mua của lái buôn phương tây. Chiến thuyền khá lớn, mỗi chiếc
có 30 chèo, 3 khẩu đại bác ở mũi và 2 khẩu hai bên.
VIỆC THUÊ KHOẤ - Ruộng đất quy ba hạng;
- Hạng nhất n ộ p 40 thăng thóc và 8 hỢp gạo.
- Hạng nhì nộp 30 thăng thóc và 6 hỢp gạo.
- Hạng ha nộp 20 thăng thóc và 4 hỢp gạo.
Ruộng đất xấu (thu điền khô thổ) phái nộp mỗi mẫu 3 tiền.
Ruộng hoang mới khai thác cùng 3 tiền.
Quan đồn điền thì hoặc cho thuê với giá từ 3 tiền đến 1 quan,
hoặc thu tô từ 1 quan 3 tiền 30 đồng đến 1 quan 9 tiền.
Ngoài số chính này, Cvòn thu mấy khoán phụ nữa.
Chúa Nguyễn chia dân làm nhiều hạng: Tráng dân, cố, cùng,
đào, lão, bất cụ, lại chia 2 loại: Chính hộ và khách hộ.
Thuế dinh chia ra 4 loại; Sai dư, cước mễ, thường tân, tiết
liệu. Tất cả mọi người đều phải nộp thuế sai dư (phụ dịch) từ 3
tiền đến 2 quan.
Ngoài ra, tất cả các sản phẩm thủ công, thổ sản v.v... đều
phải nộp thuê hiện vật hoặc tiền. Dân ven biển làm muối phải nộp
thuê muối khá cao.
Các bến sông, đầu nguồn, đặt sở tuần tv để thu thuế.
Dân Đàng Trong phải chịu các sắc thuế nặng nề mà thiên tai
thất bát lại thường xẩy ra, miền ven biển rất hay có bão lụt. Nông
dân đói khổ phải hỏ làng xã đi lưu tán, thế mà không hay nôi loạn
như ở Đàng Ngoài, là do được chiêu mộ đi khai khẩn đất hoang
mới chiếm được.
THUÊ M ỏ - ở đât Quảng Nam, Thuận Hoá có mỏ vàng, ở đất
Quảng Ngãi có mỏ bạc. Đất Bố Chính, mỏ sắt. Các mỏ ấy đều phải
đánh thuê cả.
THUẾ XUẤT CẢNG, NHẬP CẢNG - Lệ cứ những tàu ở Thượng Hải
và ở Quảng Đông lại, phải nộp 3.000 quan, đến lúc đi phải nộp 300
quan, tàu ở Mã Cao, ỏ Nhật Bản lại phải nộp 4.000 quan, đến lúc
đi 400 quan. Từ ở Xiêm La và ở Lữ Tông lại nộp 2.000 quan, lúc đi
357
200 quan. Tàu ở các nước phương tây lại phải nộp 8.000 quan, lúc
về 800 quan.
Thuế ấy chia làm 10 thành, 6 đem vào kho, còn 4 nộp cho
quan lại, binh lính đã coi việc thu thuế.
THÔN TÍNH ĐẤT CHAMPA - Sau khi ốn định quyền thông trị miền
Thuận Quảng, thế không thề đánh lên phía bắc, Nguyễn Hoàng và
con cháu đánh lẫn vào phía nam mỏ mang lãnh thổ cai trị.
Nước Champa sau cuộc xâm lược của quân đội Lê Thánh
Tông năm 1471, bị chia làm 3 nước nhỏ: Charnpa, Nam Bàn và
Hoa Anh, càng ngày càng suy yếu.
Viện cớ người Chăm thường hav sang cưỏp phá miền ven
biển Thuận Quảng, năm 1611, Nguyễn Hoàng sai tướng đánh
xuôAg chiếm vùng đất rộng, đặt làm phủ Phú Yên, chia làm hai
huyện Đồng Xuân và Tuyên Hoa.
Năm 1653, trong khi quân Nguyễn đang phải chông lại quân
Trịnh vào đánh, vua Champa Bà Thấm kéo quân sang đánh Phú
Yên. Chúa Hiền Phúc Tần sai cai cơ Hùng Lộc đem 3.000 quân
vào đánh. Quân Nguyễn kéo vào sâu đôt. phá kinh thành và truy
đuổi quân Chăm đến tận sông Phan Rang. Bà Thấm xin hàng,
được giữ đất phía nam Phan Rang. Chúa Hiền chia đất mới chiếm
thêm làm 2 phủ: Thái Khang và Diên Ninh, sau đổi là Diên
Khánh, Khánh Hoà ngày nay.
Năm 1639, vua Chăm là Bà Tranh bỏ không tiến công. Chúa
Phúc Chu sai tống binh Nguyễn Hữu Kính đi đánh, hắt được Bà
Tranh đưa về Phú Xuân, chiếm nốt phần đất còn lại của Champa.
Chúa Nguyễn đổi đất mới chiếm làm Thuận Phủ, cử mấy viên quan
người Chăm làm Khâm Lý, đề đôc giữ phủ này, hắt phái đối y phục
theo như người Việt, để phủ dụ ngrtòi bản xứ. Qua năm sau, lại đổi là
Thuận Thành trấn. Năm 1697, đặt phủ Bình Thuận, lấy đất Phan Rí,
Phan Rang làm huyện lệnh Yên Phúc và huyện Hoà Đa.
Từ đấy, nước Champa mâT hẳn, người Chăm trỏ thành một
sắc dân thiểu sô" Việt Nam.
CÔNG CUỘC MỞ RỘNG NAM VIỆT VÀ VIỆC BANG GIAO VỚI Nước
CHÂN LẠP - Nước Chân Lạp nằm ở phía nam và tây nam nước
Champa, ở vào quãng dưới sông Mê Công, lắm sông, nhiều ngòi,
ruộng đất phì nhiêu. Từ thê kỷ VIII đã chia làm hai; Lục Chân
Lạp và Thuỷ Chân Lạp. Từ thê kỷ IX đến XII, thông nhất, mở giai
đoạn hưng thịnh dài với nền văn hoá phát đạt. Đến thê kỷ XIV,
Chân Lạp suy yếu dần. Đất đai mới được khai thác một phần.
358
Các chúa Nguyễn đã sớm có ý dòm ngó đất nước màu mỡ
này, trong khi Đàng Trong xứ ta thì đất khô cằn lại hay mưa bão
mất mùa, dân tình đói khổ luôn, nên có nhiều người chạy vào
khẩn đất làm ruộng ở Mô Xoài (Bà Rịa) và Đồng Nai (nay thuộc
Biên Hoà).
Năm 1620, chúa Phúc Nguyên gả con gái cho vua Chân Lạp
là Chày Chít Ta và yêu cầu cho người nước ta sang làm ăn buôn
bán ở vùng đồng bằng Thuỷ Chân Lạp.
Năm 1658, có sự tranh chấp nối ngôi vua. Chúa Hiền sai
quan đem 3.000 quân sang đánh Mỗi Xuy (nay thuộc Biên Hoà)
bắt vua Nặc Ông Chân đưa về Quảng Bình. Sau lại cho đưa về
nước làm vua, xưng thần nạp cống chúa Nguvễn và báo vệ dân
Việt sang làm án bên ây. Dựng được cơ sở vừng chắc rồi, chúa
Nguyễn chuẩn bị những bước tiến sau này.
Năm 1674, có Nặc Ong Đài đi cầu viện nước Xiêm La đế
đánh Nặc Ong Nộn. Nặc Ong Nộn bỏ chạy sang cầu cứu chúa
Phúc Tần. Chúa sai cai cơ Dương Lâm và Nguyễn Đình Phái sang
đánh Nặc Ông Đài, phá đồn Sài Côn (Sài Gòn) rồi tiến quân lấy
thủ phủ Phnôm Pênh. Nặc Ong Đài hở chạy, sau chết ở trong
rừng. Nặc Ong Thu, chính dòng trưởng ra hàng, được lập làm quốc
vương Chân Lạp, đóng ơ Long ú c (U Đông). Nặc ồng Nộn được lập
làm đệ nhị quốc vương, đóng ở Sài Côn. Chân Lạp chia làm hai và
đều nộp công cho chúa Nguyễn.
Năm 1679, có quan nhà Minh tổng binh trấn thủ Long Môn
(Quảng Tây) Dương Ngạn Địch, phó tướng Hoàng Tiến, tổng binh
châu Cao, châu Lôi và châu Liêm (Quảng Đông), Trần Thượng
Xuyên, phó tướng Trần An Bình, không phục nhà Mãn Thanh,
dẫn 5.000 quân cùng 50 chiếc thuyên sang cập bến cửa Hàn (Đà
Nằng) xin nương nhờ. Đe tránh hậu hoạ lại mong sử dụng lực
lượng này, chúa Phúc Tẩn cho vảo đât Đồng Nai (Gia Định) khai
khẩn xứ Chân Lạp, khiến Nặc Ong Nộn cho họ vào làm ăn lập nghiệp.
Bọn Ngạn Địch chia nhau ỏ đất Lộc Dã (Đồng Nai, Biên Hoà), ở Mỹ
Tho (Định Tường), 0 Ban Lán (thuộc Biên Hoà) cày ruộng, lập ra làng
mạc, sản xuất buôn bán, lập ra phô" xá sầm uất, cùng các người
phương tây, người Nhật Bản, người Chà Và đông lắm.
Năm 1688, Hoàng Tiên ở Mỹ Tho làm loạn, giết Dương Ngạn
Địch, rồi đem quàn đóng đồn ở Nam Khê, đóng tàu đúc súng, uy
hiếp Chân L<ạp và có ý chông lại chúa Nguyễn. ThâV vậy, vua
Xiêm La xui Nặc Ong Thu bỏ lệ cốhg và đào hào đắp luỹ làm kế cô"
359
thủ. Nặc Ông Nộn ở thê giữa hai gọng kim, sai người ra nhò chúa
Nguyễn giúp. Chúa Phúc Trăn cử Mai Văn Long làm thông lãnh
quân sĩ tiến vào đánh Hoàng Tiến, còn Trần Thượng Xuyên tiến
binh đi đánh Nặc Ong Thu. Bọn Mai Văn Long dùng mưu giết
được Hoàng Tiến và bắt vua Chân Lạp phải theo lệ triều công.
Năm 1698, chúa Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Kính làm kinh
lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phô" làm dinh, làm huyện, lấy
Đồng Nai làm huyện Phúc Long và Sài Côn làm huyện Tân Bình.
Đặt trấn biên dinh (Biên Hoà) và phân trấn dinh (Gia Định), cử
quan vào cai trị. Lại chiêu mộ lưu dân từ Quảng Bình trở vào đê
lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất. Còn những người Hoa ở
đất Trấn Biên (Biên Hoà) thì lập làm xã Thanh Hà, những người ở
đất Phiên Trấn (Gia Định) thì lập làm xã Minh Hương. Những
người ấy đều thuộc về hộ dân nước ta.
Khoảng năm 1680, có người khách Quảng Đông Mạc cửu
cùng gia đình họ hàng, không phục nhà Mãn Thanh cướp ngôi nhà
Minh, bỏ sang Chân Lạp. Vua Chân Lạp phong làm ôc nha và cho
khai khẩn đất Sài Mạt. Nơi đây có nhiều người các nước đến buôn
bán thịnh vượng, bèn mở sòng bạc, rồi lấy tiền chiêu mộ lưu dân,
lập ra 7 xã gọi là Hà Tiên. Lại khai thác vùng Phú Quốc, Lũng Kỳ,
Cần Bột, Vũng Thôn. Rạch Giá và Cà Mâu. Năm 1708, Mạc Cửu
đê được yên ổn thần phục chúa Nguyễn, được phong làm thong
binh trấn Hà Tiên. Vì thê chúa Nguyễn được thêm vùng đát mới.
Đến khi Mạc cửu chết, chúa Nguyễn phong cho con cửu là
Mạc Thiên Tứ chức đô đốc. Mạc Thiên Tứ đắp thành, xáy luỹ, mở
chợ, làm đường và rước thầy về dạy nho học khai hóa đất Hà Tiên.
Nước Chân Lạp loạn lạc luôn. Năm 1699, Nặc ổng Thu đem
quân chống lại chúa Nguyễn. Nguyễn Hữu Kính sang đánh thành
Phnôm Pênh. Nặc óng Thu bỏ chạy. Con Nặc ông Nộn là Nặc
Ong Yêm xin hàng. Sau Nặc Ong Thu cùng về hàng, xin theo lệ
cống như cũ.
Nặc Ông Nộn mất. Nặc ỏng Thu phong Nặc ỏng Yên làm
quan và gả con gái cho. Sau Nặc Ong Thu già yếu, truyền ngôi cho
con là Nặc Ồng Thâm. Năm 1705, Nặc ông Thâm nghi Nặc ông
Yêm phán, khơi binh đánh, lại đem quân Xiêm La về giúp. Nặc
Ong Yêm chạy sang Gia Định cẳu cứu. Chúa Phúc Chu sai cai cơ
Nguyễn Cửu Vân sang đánh, cửu Vân sang phá dược quân Xiêm
La, đem Nặc ông Yêm vê thành La Bích. Nặc ông Thâm chạy
sang Xiêm La, thỉnh thoảng đem quân về đánh lại. Năm 1714,
360
Nặc ỏng Thâm về lấy thành La Bích và vây đánh Nặc ông Yêm
nguy cấp. Nặc ông Yêm cầu giúp. Đô đốc Phiên Trấn Trần
Thượng Xuyên và phó tướng Trấn Biên Nguyễn Cửu Phú phát
binh sang đánh. Nặc ông Thu và Nặc ông Thâm thua chạy sang
Xiêm La. Nặc Ong Yêm lên làm vua Chân Lạp.
Năm 1736, Nặc Ong Yêm mất, con là Nặc ồng Tha nối ngôi.
Năm 1747, Nặc óng Thâm ỏ Xiêm La về, cử binh đánh đuổi Nặc
Ông Tha, tranh ngôi. Được ít lâu, Nặc ồng Thâm mất, các con Nặc
Đôn, Nặc Hiên và Nặc Yến tran]i nhau. Chúa Nguyễn sai điều
khiển Nguyễn Hữu Doãn đưa Nặc ông Tha về nước. ĐưỢc mấy
tháng, người con thứ của Nặc ông Thâm là Nặc Nguyên đưa quân
Xiêm La về đánh đuối Nặc ông Tha chạy sang Gia Định, sau chết
ở đó.
Nặc Nguyên làm vua Chân Lạp, thường hay hà hiếp rỢ Côn
Man (có lẽ là người Chăm), lại thông sứ với chúa Trịnh ngoài bắc.
Năm 1753, chúa Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh.
Nám 1755, Nặc Nguyên thua bỏ Phnôm Pênh sang Hà Tiên nương
nhò Mạc Thiên Tứ. Năm sau, Mạc Thiên Tứ dâng thví nói Nặc
Nguyên xin dâng đất hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp chuộc tội và
xin cho về nước. Chúa Phúc Khoát chưa muốn cho, nhưng sau
nghe theo Cư Trinh dùng kế sâu tằm ăn lá, nhận cho Nặc Nguyên
về Chân Lạp làm vua.
Năm 1759, Nặc Nguyên mất. Chú họ Nặc Nhuận làm giám
quốc, đợi chúa Nguyễn phong thì bị con rể là Nặc Hinh giết, cướp
ngôi vua. Tống xuất Trương Phúc Du thừa thế sang đánh. Nặc
Hĩnh thua chạy, bị thuộc hạ giết. Con Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy
sang Hà Tiên, nương nhò Mạc Thiên Tứ. Thiên Tứ xin chúa
Nguyễn cho Nặc Tôn làm vua Chân Lạp. Chúa thuận cho, sai Mạc
Thiên Tứ đưa Nặc Tôn về nước. Nặc Tôn dâng đât Tầm Phong
Long để tạ ơn. Chúa sai Trương Phúc Du và Nguyễn Cư Trinh
đem binh Long Hồ -về xứ Tầm Bào, tỉnh lỵ Vĩnh Long bây giờ và
lại đặt ra 3 đạo: Đông Khẩu ở Sa Đéc, Tân Châu ở Tiền Giang và
Châu Đôc ở Hậu Giang.
Nặc Tôn lại dâng 5 phủ: Hương úc, cần Bột, Trực Sâm, Sài
Mạt và Linh Quỳnh để tạ ơn Mạc Thiên Tứ. Mạc Thiên Tứ lại đem
những đất ấy dâng chúa Nguyễn. Chúa cho thuộc vào trấn Hà
Tiên cai quản.
Vậy đất Nam Bộ, xưa gọi là Nam Kỳ Lục Tỉnh, là đất lấy của
nước Chân Lạp, mà người Việt khai thác ra.
361
VIỆC BANG GIAO VỚI XIÊM LA - Xiêm La là nước ở phía tây sông
Mê Công. Dân là giông người Thái sang ở đấy. Theo sử ta và sử
Trung Quốc, thì thoạt tiên gọi là nước Phù Nam. Thê kỷ thứ VI và
VII, đất Phù Nam chia làm hai: Nửa về đông có dân tộc khác, dân
Cơ Me (Khmer) đến lập ra nước Chân Lạp; nửa về tây thì người
Phù Nam ở, gọi là nước Xích Thổ. Thê kỷ XI, XII, nước Xích Thổ
lại chia ra làm hai: Một gọi là La Hộc, một nước gọi là Xiêm. Thòi
nhà Nguyên làm chủ Trung Quôc, hai nước ấy có sang công. Sau
nước La Hộc gồm được cả Xiêm, mới gọi là Xiêm La Hộc. Cuôi thế
kỷ XVI, nước này cầu phong hên Trung Quổc. Minh Thái Tổ phong
là nước Xiêm La. Ngày nay gọi là nước Thái Lan.
Nước Xiêm La trước nhỏ yếu, thường bị người Chân Lạp áp
chế, sau cường thịnh dẩn. Khoảng năm Vạn Lịch nhà Minh (1573
- 1620), Xiêm La đánh Chân Lạp, hùng bá cả phương ấy. Năm
1620 có sứ thần Xiêm La sang yết kiến vua Pháp Louis XIV.
Thòi bấy giờ, chúa Nguyễn còn đang khai sáng Phú Yên,
Khánh Hoà, nhưng vê sau lấy xong đất nước Champa, lại lấn sang
đất Chân Lạp. Người Xiêm La muôn ngăn trở để giữ đất Chân
Lạp làm của mình. Thế chúa Nguyễn mạnh hơn nên phải chịu đế
chúa Nguyễn bảo hộ Chân Lạp. Tuy vậy, thường hay dùng những
người chông đối vua Chân Lạp, giúp binh lực cho họ về làm loạn
trong nước. Nhiều khi quân chúa Nguyễn phải sang giúp vua
Chân Lạp đánh đánh đuổi quân Xiêm La. Cũng có khi quân Xiêm
La xâm phạm đất Hà Tiên. Năm 1715, Nặc Ong Thâm đem quân
Xiêm La sang cướp phá, tổng binh Mạc cửu phải bỏ thành chạy.
Quân ta và quân Xiêm La giao chiến nhiều lần, hai bên
không thông sứ với nhau. Đến năm 1750 mới có việc Vũ vương
Nguyễn Phúc Khoát sai quan đem thư sang trách nước Xiêm La
dong túng kẻ nghịch thần làm loạn Chân Lạp.
Năm 1755, Xiêm La sai sứ sang xin đừng đánh thuế những
thuyền nước ấy sang buôn bán. Chúa Nguyễn đáp thư lại rằng
thuế ây là quôc lệ đã đặt ra, không thể bỏ đi được.
Năm 1767, Diên Điện sang đánh Xiêm La, bắt quốc vương và
con cùng mấy vạn người đem về. Người cháu vua là Chiêu Thuý chạy
sang Hà Tiên. Chức phi mã (Phya tức xã trưởng) đất Mang Tát là
Trịnh Quốc Anh, người Triều Châu, khởi binh tự lâp làm vua.
Trình Quôc Anh đòi vua Chân Lạp Nặc Tôn triều công. Nặc
Tôn không chịu. Người Xiêm La đưa Nặc Non về đánh Nặc Tôn,
nhưng không làm gì đưỢc, phải rút về.
362
Trình Quốc Anh e ngại Chiêu Thuý ở Hà Tiên biến loạn.
Nám 1771, đem binh thuyền sang đánh Hà Tiên. Mặc Thiên Tứ bỏ
thành chạy. Lại sang đánh Chân Lạp, đuổi Nặc Tôn. lập Nặc Non
làm vua. Năm 1772, chúa Nguyễn sai tổng binh Nguyễn c ử u Đàm
sang Chân Lạp đánh quân Xiêm La, đặt lại Nặc Tôn làm vua.
Trình Quôh Anh về Hà Tiên, bắt Chiêu Thuý và con gái Mạc
Thiên Tứ đưa về nước, cử tướng Trần Liên giữ đất Hà Tiên. Nám
1773, Mạc Thiên Tứ xin hoà. Vua Xiêm La gọi Trần Liên về, trả
con cho Mạc Thiên Tứ và đem giết Chiêu-Thuý. Từ đó Mạc Thiên
Tứ lại giữ đất Hà Tiên.
CÔNG CUỘC KHAI THÁC ĐẤT ĐAI - Việc họ Nguyễn làm quan ở
miền nam nước ta vĩ đại hơn cả là mở mang bò cõi rộng lớn hơn
nhiều và một khi lấy được thêm đất thì di dân khai thác vùng
hoang dã tạo thành những đồng điền trù phú.
Nguyễn Hoàng ngay từ khi mới vào trâA thủ Thuận Hoá đã
dẫn người Thanh Hoa vào khai thác đất đai nơi đây còn nhiều
hoang vu. Năm 1572, đại binh Mạc vào đánh Thanh. Nghệ, tướng
Mạc quận công Lập Đạo đem hơn vạn quân vào đánh Thuận Hoá.
Lập Đạo bị giết. Quân sĩ phần đông bị bắt hay xin hàng. Nguyễn
Hoàng dùng những người này đi khẩn hoang xứ Quảng Nam,
Ngãi, dựng đồn điền lập ra 36 phường. Năm 1648, quân Trịnh vào
đánh bị thua, 3 vạn binh sĩ phải bắt. Chúa Phúc Tần đưa đám tù
binh này vào Quảng Nam khẩn hoang, phiên chế thành đội ngũ,
50 người lập thành một ấp, cấp cho lương thực, nông cụ và trâu
cày. Năm 1655, quân Nguyễn tiến ra bắc Bô" Chính, có bắt về
nhiều nông dân Nghệ An, cũng dùng vào việc khẩn hoang. Lợi
dụng chiến tranh, chúa Nguyễn kiếm được nhân lực dồi dào, mau
chóng biến xứ Thuận, Quảng thành phồn thịnh, giàu có. Nông dân
cực khố’ lao động, lập làng, lập âp, cày cấy ruộng đất công nộp tô
thuế. Ruộng đất tư rơi dần vào các địa chủ lớn.
Đến khi lấy được đất Thuỷ Chân Lạp thì nơi đây đồng ruộng
phì nhiêu, lại rộng rãi bao la, mà dân bản xứ người Khơ Me và ít
người Chăm rất thưa thớt. Miền Thuận Quảng thì ruộng đất kém
màu mỡ, lại hay gặp mưa bão mất mùa, dân chúng hỏ xứ chạy vào
miền nam lập nghiệp, càng ngày càng nhiều, dựng xã ấp, phát
triến sản xuất. Chúa Nguyễn khuyên khích các tướng tá, quan lại,
nhà giàu khẩn hoang, cho phép biến tất cả ruộng đất khai khẩn
được làm của tư. Hàng mấy ngàn kiều dân Hoa do Dương Ngạn
Địch, Trần Thượng Xuyên chỉ huy lập làng, phô" ở Gia Định, Biên
363
Hoà, Mỹ Tho. Bọn họ hàng tôi tố Mạc Cửu khai khẩn vùng Hà
Tiên, Rạch Giá. Một số^ Hoa Kiều cũng mộ dân lưu vong khai thác
đất hoang tạo thành trang trại. Chúa Nguyễn còn sử dụng quân sĩ
(khi không còn chiến tranh) đi lập đồn điền cho nhà nước. Lại cho
phép quan lại, địa chủ nuôi nô tỳ, dùng vào việc canh tác, khấn
hoang. Lực lượng này góp phần đáng kể vào việc khai thác đất đai
Đàng Trong. Đất Thuỷ Chân Lạp cũ đã biến thành vựa thóc. Điều
đáng tiếc là trong công việc này, họ Nguyễn chỉ đào tạo nên một sô"
đại địa chủ, còn nông nô khó nhọc nhiều vẫn hoàn kiếp nông nô.
Đáng nhẽ ra chỉ cho người bỏ tiền được hưởng số ít đất khai khẩn
đưỢc làm của tư hữu, còn phần lớn phải lấy làm ruộng công, phân
cấp cho nông nô có công, biến họ thành những tiếu nông, như thê
kỷ sau Nguyễn Công Trứ thi hành ở Kim Sơn, Tiền Hái.

N(ỈƯỜI Âư CHÂU SANG NƯỚC TA


Sự ĐI TÌM ĐẤT- NGƯỜI Â u CHÂU SANG Á ĐÔNG - Mãi đến thế kỷ
XVIII, XIX tại Trung Quốc và nước ta, nền táng kinh tê vẫn là
nông nghiệp, công kỹ nghệ chỉ là tiểu thủ công đơn giản. Bên Âu
châu ngay từ thế kỷ XV, do khoa học tiến bộ kéo theo kỹ thuật.
Một sô" thị dân kinh doanh, do bóc lột công nhân, trở nên giầu có
lớn. Có tiền nhiều thì có uy thê" chính trị, lấn át luôn bọn quý tộc
có nhiều đất đai. Tầng lớp mới này là giai cấp tư sản, có thê" lực
lớn, nắm hết mọi công kỹ nghệ, càng ngày càng tiến bộ. Hàng hoá
sản xuất ra nhiều, thị trường trong nước tiêu thụ không hết, họ
tính đến sự buôn bán với các nước xa xôi.
Thời Trung Cô, người Au châu rất chuộng tơ lụa, chè của
Trung Quốc, các đồ gia vị (épices) của Ân Độ. Sang Á châu, dùng
thuyền vượt Địa Trung Hải, rồi phải qua đường bộ trên các nước
Hồi giáo, đường đi lâu lại khó khăn, nguy hiểm. Nửa cuô"i thê" kỷ
XIII, Marco Polo, người Ý, sang ở triều Nguyên Thế Tố’ 17 năm,
sau có qua nước Champa, về nước viết sách “T/ỉê giới kỳ quaiỉ\
Cuô"i thê" kỷ XV, Christophe Colomb định sang Ân Độ theo
đường biển phương tây, vượt Đại Tây Dương, tình cờ tìm ra Mỹ
Châu. Năm 1479, Vasco de Gama, người Bồ Đào Nha, đi vòng qua
Hảo Vọng Giác thuộc châu Phi sang Ân Độ Dương, vào đất Ân Độ.
Năm 1521, lại có Magellan, cũng người Bồ Đào Nha, đi qua An Độ
Dương sang Thái Bình Dương, vào đất Phi Luật Tân. Từ đó, người
Au châu mới sang Á Đông ngày một nhiều. Thương thuyền các
nước ấy đua nhau sang buôn bán, nhưng bị chính quyền bản xứ
364
đánh thuế nặng nề; Tàu đến bến phải nộp thuê bến, hàng hoá bán
ra phải chịu thuế bán, hàng mua vào đem đi cũng phái chịu thuế
mua. Để thu được nhiều chiến lợi hơn, các nước tư bản vôn được
vũ trang mạnh mẽ, đánh chiếm các nước yếu kém, lập làm thuộc
địa, vừa được mua rẻ bán đắt, vừa được khai thác tài nguyên. Thế
là chê độ thuộc địa phát sinh. Năm 1563, người Bồ Đào Nha chiếm
đất Ao Môn (Ma Cao) lập thành căn cứ thương mãi lớn ỏ Trung
Quốc. Năm 1568, người Tây Ban Nha lấy đất nước Phi Luật Tân
làm thuộc địa. Năm 1596, người Hà Lan đất Chà Và (Nam Dương)
làm thuộc địa. v ề sau, người Pháp, ngưòi Anh, người Bồ Đào Nha
đến đất Ân Độ.
NHỮNG NGƯỜI ÂU CHÂU SANG NƯỚC TA - Những người Âu
châu đầu tiên sang buôn bán ở nước ta có người Bồ Đào Nha, Hà
Lan, Anh và Pháp.
NGƯỜI Bồ ĐÀO NHA - Sau khi lập căn cứ Ma Cao. người Bồ
Đào Nha bắt đầu đặt quan hệ buôn bán với Đàng Trong. Họ không
đặt thương điếm, chỉ hàng năm, đến tháng chạp và tháng giêng,
dong thuyên đến Hội An (Quảng Nam) mua bán. Bán cho ta các
loại hàng: Chì, diêm sinh, cánh kiến, đồ sành, hỢp kim kẽm đồng,
cả chè của Trung Quôc và mua của ta tơ lụa, đường, hồ tiêu, kỳ
nam, trầm hương. Nàm 1614, Jean de la Croix giúp chúa Sãi mở
xương đúc tàu và đúc súng ở đất Thuận Hoá, nơi dây ngày nay còn
gọi là phường Đúc. Có những giáo sĩ kiêm thương lái hav thương
lái giả dạng giáo sĩ, vừa truyền đạo, vừa di khắp mọi nơi tìm mua
rẻ các thứ hàng như tơ, lụa, đường, tích cóp lại, chừ có thương
thuyên đến thì giao hàng, nhận tiền.
Người Bồ Đào Nha cũng cho thương thuyền cập bến Đàng
Ngoài, đưỢc vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng tiếp đãi tôt,
cho buôn bán ở Phô" Hiến. Nhưng nơi đây, người Hà Lan có ưu thế
hơn. Từ đó thỉnh thoảng qua lại cả trong ngoài.
Sang thê kỷ XVIH, do sự cạnh tranh của các nước khác,
người Bồ Đào Nha rút lui.
NGƯỜI HÀ LAN - Năm 1602, Công ty Đông Ân Hà Lan thành
lập. Người Hà Lan sớm giao dịch với chúa Nguyễn ơ Đàng Trong.
Nơi đây người Bồ Đào Nha đến trước, nắm được ưu thê hơn.
Năm 1637, tàu Hà Lan Grôm đến Đàng Ngoài. Thuyền
trưởng Hac Xinh dâng chúa Trịnh Tráng: khắu đại bác và nhiều
đạn dược, làm lễ buôn bán. Chúa nhận Hac Xinh làm con nuôi và
cho phép người Hà Lan lập thương điếm ở Phô Hiên, được tự do
365
buôn bán với Đàng Ngoài, được phép đi sâu khắp nơi inua hàng, có
ý mong muôn người nước này giúp đỡ đế đánh Đàng Trong. Thông
đốic Hà Lan ở Nam Dương (Inđônêxia) gửi binh thuyền súng đạn
sang giúp chúa Trịnh đi đánh chúa Nguyễn lần thứ ha, năm 1643.
Trong chiến trận này. quân Trịnh không tiến đánh được, do quân
Nguvễn cô' thủ vững chãi đất mình, tuy phải vất vá nhiều mới
đánh đuối được chiến hạm Hà Lan. Trịnh Tráng lại yêu cầu người
Hà Lan giúp 200 chiến thuyền và 5 vạn binh sĩ, nếu không thì lui
tới buôn bán phải theo lệ cũ nộp 25.000 lạng bạc thuế. Khó lòng
can thiệp quân sự, người Hà Lan đành chịu nộp thuê cao. Họ
thường tặng nhà chúa vài khâu súng, đạn diíỢc, len dạ, vái lanh,
xa xỉ phẩm như gương khung vàng. Hàng mua đi chủ yếu là tơ.
Người Hà Lan cũng giao dịch với Đàng Trong, được lập
thương điếm ơ Hội An. Chúa Nguyễn nghi ngờ có người Đàng
Ngoài trong tàu Hà Lan, nên đuôi họ vê Nam Dương.
Suôt nửa cuô'i thê kỷ XVII, việc người Hà Lan buôn bán ở
Đàng Ngoài hưng thịnh. Nhưng đến cuôì thê kỷ này, do có sự cạnh
tranh với nhiều nước, mà tơ lụa của ta chất lượng thua hàng của
Trung Quốc và Nhật Bản, nên thưa thớt dẩn. Sang thế kỷ XVIII,
thỉnh thoáng mới có tàu Hà Lan vào mua bán. rồi vắng bóng dần.
NGƯỜI ANH - Năm 1600, Công ty Đông Ấn Anh thành lập.
Nám 1613, có phái đoàn Cáccaođen và Pi Cóc đến Hội An xin
buôn bán, có thái độ ngang ngược hỗn xược, chúa Nguvễn bắt xử
tử và tịch thu hàng hoá.
Năm 1616, người Anh đến buôn bán vối Dàng Ngoài. Do có
sự cạnh tranh vối người Hoa, người Nhật, nên lợi lộc chắng được
mấy. Năm 1672, tàu Đăng chơ thương đoàn Anh do Cip Pho cầm
đầu đến Đàng Ngoài xin buôn bán. Chúa Trịnh Tạc cho mơ thương
điếm ở Phố Hiến. Gip Pho tô chức buỗn bán chu đáo 4 năm rồi về.
Năm 1679, một người Anh khác đút tiền cho bà phi chúa Trịnh, được
mơ thương điếm ngay tại Kẻ Chợ. Việc buôn bán bấy giờ đã sút kém.
Năm 1697, thương điếm đóng cửa. Từ đó đến năm 1720, thỉnh
thoảng mới có thương thuyền Anh qua lại Đàng Ngoài.
Năm 1695, thương thuyền Anh của Bao La cập bến Hội An,
xin với chúa Nguyễn buôn bán. Bấv giờ. Hội An đã gần hết thòi
thịnh vượng, lại có sự cạnh tranh với người Nhật Ban ơ dấy, nên
bất lợi.
Với ý định cướp nước, Công ty Đông Ân Anh quyết tìm cách
bám lấy Đàng Trong. Năm 1702, chúng tràng trỢn xâm lược đảo
366
Côn Lôn, biến thành căn cứ chiến lược giữa Ản Độ Dương và Thái
Bình Dương, xây pháo đài có 200 quân Mã Lai canh giữ. Chúa
Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Phúc Phan đi đánh lấy lại. Phúc
Phan mộ được 15 người Mã Lai, cho trá hàng và vận động binh sĩ Mã
Lai làm nội ứng. Nhân dân bán địa và binh sĩ Mã Lai đồn trú nổi
dậy giêt hết người Anh trên đảo Côn Lôn lại trở về với chúa Nguyễn.
Năm 1764, tàu Anh Pê Cóc cập bến Đàng Trong mua đường và
hương liệu rồi đi. Năm 1777, thông đôh Anh ở Ản Độ cử Chapman
liên hệ và buôn bán với Đàng Trong. Khi ấy , quân Tây Sơn đã nối.
Chapman yết kiến Nguyễn Nhạc, bán một sô"hàng rồi di.
NGƯỜI PHÁP - Năm 1669, tàu đáu tiên của Công ty Đỏng An
Pháp đến Đàng Ngoài, đưọc chúa Trịnh Tạc cho phép md thương
điếm ơ phô" Hiến. Trong chuyên đi này có nhiêu giáo sĩ khoác áo
thương nhân.
Năm 1680, tàu Pháp từ An Độ đến Đàng Ngoài, thuyền
trương Chapelain dâng nhiều lễ vật cho chúa Trịnh, h<àng lại rẻ
nên bán được, lại rnơ thương điếm 0 Phô Hiến, mua tơ lụa, xạ
hương chở về. Nám 1682, lại sang dâng thơ của vua Pháp Louis
XIV xin thông thương. Chúa Trịnh Căn mới lên không niềm nở
lắm. Bấy j 5ÌỜ chiếc tàu Tonkin lại vừa bị đắm ở Mã Đảo, nên Công
ty Đông An ngừng hoạt động.
Tại Đàng Trong, người Pháp không buôn bán gì mấy, chỉ
thường qua lại dòm ngó đất Côn Lôn.
Năm 1740, thương nhân kiêm giáo sĩ Pièrre Poivre được
cử sang Đông Du tìm hiểu tình hình. Poivre đã đi qua Trung
Quốc vào Đàng Trong. Năm 1744, gửi về nước báo cáo tỷ mỉ
hoàn cánh địa lý, thuê khoá, phong tục, tôn giáo, sản xuất và
điều kiện buôn bán (í Đàng Trong. Tháng 6 năm 1748, Poivre
trơ về Pháp, đưỢc bộ hải quân giao nhiệm vụ liên lạc buôn bán
với Đàng Trong. Năm 1749, Poivre chi’ huy tàu Sumatra chở
160 tấn hàng hoá mang bán. Chuyên buôn này không may
mắn, bị nhà chúci và quan lại mua rẻ một sô, bán chạy sô" còn
lại, mua đường, tơ rồi vê nước. Tuy vậy, Poivre vẫn kiên nhẫn
qua lại buôn bán cho đến năm 1757, y bị người Anh bắt rồi
được trở về Pháp. Sự cạnh tranh thuộc địa gay gắt giữa Anh và
Pháp dẫn đến chiến tranh. Năm 1763, Pháp thất bại. Công ty
Đông Ân Pháp sa sút dần, đến năm 1765 chết hắn. Nhưng
người Pháp đê lại trên đất nước ta các giáo sĩ chuẩn bị cho cuộc
xâm lược sau này.
367
sự ĐI TRUYỂN BÁ ĐẠO GIA TÔ - Toả thánh Rô Ma (La Mã) nhận
thấy các thưdng thuyền đi được đến các xứ xa xăm (i phương Đông,
muôn lợi dụng đê truyền há rộng rãi tôn giáo Gia Tô, cử các giáo sĩ
đi theo thương nhân mà truyền đạo. Thương nhân lại lợi dụng các
giáo sĩ đi sâu vào các nước tìm hiếu, dò xét tình hình kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội, đê thuận tiện cho việc kinh doanh. Các
giáo sĩ cũng nhờ thương nhân cung cấp tiền bạc, dồ dùng và
phương tiện vận chuyến đê đi đến xứ người mua chuộc dân chúng
bán địa. Hai tập đoàn nương tựa vào nhau, lợi dụng nhau, cùng
làm việc, kẻ kiếm lời, người truyền đạo.
ĐẠO GIA TÔ - Thời đại cổ xua, người Âu châu không có
chung một tôn giáo nào, thường thờ cúng các lực lượng hoạt
động của tạo hoá mà tưởng tượng ra các vị thần, lập dền miếu
thờ cúng. Dân Hy Lạp và La Mã thờ các thần dupiter. Apollon
và các thần khác, dân Do Thái (Juifs) ỏ' đất Tiểu A, nay là xứ
Palestine, chỉ thờ một vỊ déhovah ở thành dérusalem. Họ tin
rằng déhovah (chúa Trời) sinh ra trời đất, vạn vạt và loài
người, nên chỉ thờ có một vị ấy thôi.
Cách đây khoảng 2.000 nám, thòi đê quốc- La Mã, ông désus
(Gia Tô) nhân đạo Do Thái, lập ra tôn giáo mới, dạy người ta lấy
sự yêu mến và tôn kính Thiên Chúa làm gốc, lấy lòng từ hi. nhân
thứ, với mọi người như anh em làm cốt. Sau môn đồ Pièrre sang
Lập giáo đường ơ kinh thành La Mã, Paul đi truyền đạo khắp
nước. Lúc đầu các vua La Mã nghiêm cấm, giết hại giáo sĩ và
người theo đạo mới. Nhưng dù nguy nan. các môn đồ vẫn kiên trì
đi truyền đạo khắp bôn phương. Sang đầu thê kỷ IV, tôn giáo này
thịnh hành, chang bao lâu toàn thế Au cháu đều theo.
Có thuyết ông Jésus có cha là doseph, mẹ là Marie. còn có cả
anh em nữa, nguyên là một người thợ hồ. vì chông đôi chính quyền
đô hộ La Mã và muôn cải Ccách tôn giáo Do Thái nên bị bắt giết.
Theo các người có đạo thì ông là ngôi Chúa Trời thứ hai (Thiên
chúa có ba ngôi; Chúa Cha, chúa Con và chúa Thánh Thần) giáng
sinh cứu vớt loài người. Điều này tín đồ Do Thái không tin.
Đạo Gia Tô ngày nay có ba phái chính. Một là phái Catôlích
(catholique) thống thuộc Toà thánh La Mã. tự xiíng là Công giáo,
đông đúc và có nhiều thê lực hơn cá. Phái thứ hai do Luther và
Calvin thế kỷ thứ XVI cải cách, ngiíời Catôlích gọi là đạo Cãi Lại
(Protestantisme), ta quen gọi là Đạo Tin Lành. Phái thứ ba thịnh
hành ở nước Nga, xưng là đạo Chính Thông (Orthođoxe).
368
Khi nói đên đạo Gia Tô***, người nước ta xưa thường tưởng
tượng đến đạo Catôlích.
VIỆC CÁC GIÁO Sĩ ĐẠO GIA TÔ SANG N ư ớ c TA - Từ khi có người
Au Chân sang buôn bán bên nước ta, thì có luôn những giáo sĩ
đạo Gia Tô sang truyền giảng đạo. Trong các người này, có một
sô* thực tâm đi truyền đạo, chịu đựng khố sở, khó nhọc, nguy
hiểm nữa, chỉ mong dìu dắt lũ con chiên lạc đàn vê với chúa.
Nhưng cũng có những kẻ chang biết đích thân là giáo sĩ hay
thương lái, mượn tiếng truyền đạo, tìm mua rẻ hàng hoá, tích
luỹ, đến khi có thương thuyền người Àu đến thì đem bán đắt, thu
lợi nhuận nhiều. Tệ hơn nữa. có giáo sĩ đã bán linh hồn cho quỷ,
phục vụ thương lái, tư bản thực dân, làm gián điệp, chuyên dò
xét tình hình binh bị, kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội nước ta,
mơ đường cho lũ thực dân quân phiệt tính cuộc xâm lăng.
Alexandre de Rhodes mà nhiều người lầm là đã tạo nên chữ quốíc
ngữ mẫu tự La tinh, từng đi khắp Đàng Trong và Đàng Ngoài, đã
viết thư gửi lên chính quyền nước Pháp nên sớm đánh chiếm lấy
đất nước ta làm thuộc địa rất có nhiều lợi. Do việc này, tôn giáo
Gia Tô bị mang tiếng xấu là đã làm đội quân tiền phong của lũ
thực dân cướp nước.
Trong công việc truyền giáo, cần phải dùng tiếng nói bản xứ.
Người nước ta dùng chữ Nôm để ghi âm. Thứ chữ này bất tiện,
nhất là phải thông chữ Hán mới đọc viết đưỢc chữ Nôm. Gác giáo
sĩ người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Y, Pháp đã dùng mẳu tự La
tinh ghép vần để ghi tiếng nói của ta, dựng nên chữ quô*c ngữ mẫu
tự La tinh, rất tiện lợi. Đây là một công trình rát hay, dáng được
tôn trọng. Các giấy tờ, sách vở viết bằng thứ chữ này, có tập sách
kinh của Alexandre de Rhodes là cũ hơn hết còn thấv được, nên
nhiều người lầm là Rhodes đã đặt nên thứ chữ này.
Các giáo sĩ truyền đạo có đưa sang ta giông cây khoai lang và
lúa ngô (bắp) có gốc gác châu Mỹ, cả giông cây manioc (sắn Đồng

Người nước ta thường gọi tôn giáo này Icỉ dạo Thiên Chúa do chi thờ có Tliiên Chúa, chứ
không thừ các vị thần thánh linh tinh khác. Gọi thế e không dược dúní>. vì nhióLi tôn giáo
khác cũng thờ chúa Trời; léhovah dạo Do Thái, Allah dạo llổi, l^hạn riiiẽn dạo An Độ,
Ngọc hoàng đạo Lão, Yang cùa người Mọi cũng déu là Trời. Gia rỏ là tiêng Hán - Việt
người nước ta dọc chữ Hán viết tên Giáo Chú. Có người còn gọi lỏn giáo này ITi Cơ Đốc, do
chữ Chrisl (cứu thế) nhưng tiêng Gia Tô giáo dược thông dụng hơn. Cùng là Gia Tô Cơ Đốc
giáo (Christanisme) người Catỏlích (phái Calholicisme) gọi phái dạo mình là Cóng giáo (tòn
giáo cúa mọi người) gọi dạo Tin Lành là đạo Cãi Lại (l^rotcstantismc), dầy vé chủ quan, chí
coi mình là thật, là đúng. Người khác tôn giáo không ưng dùng những liống ây.

369
Nai hay khoai mì). Mấy loại lương thực này được trồng trọt nhiều
khắp nơi, thường dùng trong bữa ăn bình dân.
Người nước ta xưa chịu ảnh hưởng văn hoá Trung Quôh, lễ
nghi theo Chu Công, Khổng Tử, thờ cúng tố’ tiên và các vị có công
với nước, với loài người. Trước kia, đạo Phật truyền bá không gặp
trở ngại gì, người theo đạo Phật vẫn thò cúng ông vải và các thần
thánh. Đạo Gia Tô truyền bá sang nước ta, có những người nước ta
theo, lễ nghi có khác, nên bị coi là phá hoại phong hoá, lễ giáo cô
truyền rất hay. Người đã có tín ngưỡng thì chỉ cho đạo mình là
thật, là đúng, coi đạo khác là tà đạo, đạo dôi. Thòi xvfa, người nước
ta chưa biết đến sự bao dung (tolérance), nên nhà cẳm quyền cấm
dân chúng theo đạo mới và đuổi các người giảng đạo. Người đã tin
tưởng không dễ gì bỏ. Cấm đoán không được, nên có sự việc giết
các giáo sĩ và giáo đồ, rất đáng tiếc.
Năm 1533, có người phương tây là Inêkhu đi đường biến vào
giảng đạo ơ các xã Ninh Cường nay thuộc huyện Trực Ninh, Quần Anh
(Hải Hậu) và Trà Lũ (Giao Thuỷ) đều là miền hiển tính Nam Định.
Năm 1598, giáo sĩ Tây Ban Nha Diego Adverte đến giảng đạo
ở miền Thuận, Quảng. Trấn thủ Nguyễn Hoàng thấy có mấy tàu
nước này cùng đến, sỢ có ý quấy nhiễu gì chăng, nên đuối đi.
Năm 1615, giáo sĩ Busomi, năm 1624, giáo sĩ Jean Rhodes, người
Pháp đến giảng đạo ở Phú Xuân, lập giáo điíờng, thời chúa Sãi.
Năm 1626, giáo sĩ Badinoti đến giang đạo (í Đàng Ngoài.
Chúa Trịnh Tráng không cho, phải bỏ di. It lâu sau, Jean Rhodes
ra bắc yết kiến chúa Trịnh, dâng đồng hồ quá lắc. Chúa cho phép
giảng đạo ở kinh đô.
Từ đấy về sau, các giáo sĩ cứ dần dần vào nước ta giảng đạo.
Có nhiều người mình tin theo. Nhưng về sau, nhận thấy người
theo đạo mới bỏ phong tục cũ, không còn thò cúng thẳn thánh tiên
tố’ nữa, cho thế là phá hoại lễ giáo, nên các chúa ra lệnh cấm đoán
và hắt tội những người không tuân. Năm 1631, chúa Thượng ở
Đàng Trong cấm không cho người phương tây vào giảng đạo. Năm
1663, ở Đàng Ngoài, chúa Trịnh Tạc bắt đuổi các giáo sĩ ngoại
quốc và cấm người trong nước theo đạo Gia Tô. Năm 1664, chúa
Hiền giết những người đi giảng đạo ở cửa Hàn (Đà Nẳng). Năm
1696, chúa Trịnh Căn bắt đôt phá hết cả những sách đạo và nhà
thò đạo ở các nơi và đuổi những người giảng đạo ra khỏi nước.
Năm 1712, chúa Trịnh Cương bắt những người theo đạo phải cạo
trán, khắc hôn chữ “theo đạo Hoà Lan”. Năm 1754, chúa Trịnh
370
Doanh cấm nghiêm ngặt hơn, không cho người trong nước theo
đạo, lại giết cả các đạo trưởng và đạo đồ.
Việc cấm đạo râ"t nghiêm, mà người đi giảng đạo vẫn không
sỢ luật nước, cứ cô sức dụ cho được nhiều người theo đạo. Rồi dần
dần người trong nước phân ra bên lương vả bên giáu, ghen ghét
nhau như người thù địch. Các chúa thấy dùng phép thương không
cấm được, mới dùng đến cực hình đê trừng trị, giết hại nhiều
người vô tội.
Ví phỏng người phương tây sang buôn bán bên nước ta không
mang theo giáo sĩ truyền đạo Gia Tô hay vua chúa và người nước
ta xưa biết hao dung dán chúng tin theo tôn giáo này thì sự trao
đổi hàng hoá sẽ tôd đẹp, cả đôi bên cùng có lợi. Có người vạch ra
mặt trái của việc truyền đạo là đạo quân tiền phong của tư bản
thực dân, mở đường cho chúng cướp nước thì cũng không đúng;
Chỉ một sô" ít chứ không phải tất cả giáo sĩ truyền đạo đều ăn
lương, làm tay sai phục vụ cho lũ tư bản thực d<ân cướp nước.
Thương thuyền các nước Au châu sang buôn bán bên Trung
Quốc, bên nước ta và các nước khác, nếu chỉ có những sự mua bán
theo thoả thuận đỗi bên, là điều hay. Vì chúng phải chịu chính
quyền bản xứ đánh thuế, nên lợi nhuận không dược nhiều lắm,
nên xảy ra điều rất đáng phàn nàn như bọn tư bán, nhân chính
quốc có lực lượng quân sự mạnh, tính đến sự đánh chiếm nước yếu
kém, lập làm thuộc địa, thì tha hồ mua rẻ, bán đắt. Chúng lại
chiếm đoạt khai thác các tài nguyên, bắt dân bản xứ làm nô lệ làm
cho chính quốic có được rất nhiều lợi lộc.

TÌNH HÌNH XÃ HỘI VÀ


VĂN HOẢ THẾ KỶ XV ĐẾN THÊ KỶ XVIII
Nền tảng kinh tê vẫn là nông nghiệp. Tình hình chung so với
trước có sự tiến triến, nhưng không nhiều, trừ ngoại thương.
Thế kỷ thứ XV, không kể những năm đầu đen tôl dưới triều
nhà Hồ và thời thuộc Minh, dưới các triều vua Lê Thái Tố và Lê
Thánh Tông, nước ta cường thịnh.
Nhưng sang thế kỷ XVI, các vua Lê hèn yếu, hoang dâm, xa
xỉ, nước loạn lạc. Triều thần có binh quyền tranh giành quyền lợi,
địa vị, đánh lẫn nhau. Mạc Đăng Dung quỷ quyệt diệt trừ được
các lực lượng quân phiệt, thoán vị. Nguyễn Kim, Trịnh Kiêm nổi
dậy chông họ Mạc. Trịnh, Mạc đánh nhau, Trịnh diệt được Mạc
cuổi thế kỷ XVI, nhưng họ Nguyễn xưng hùng ở phương nam.
371
Giang sơn chia ra Đàng Ngoài, Đàng Trong, mãi đến gần cuô"i thế
kỷ XVIII. Ngoài bắc, có vua lại có chúa, mà chúa mới thực sự giữ
mọi quyền chính trị và quân sự. Trong nam, chúa Nguyễn không
xưng là vua, nhưng lập triều đình riêng biệt.
Các chúa có đòi sông huy hoàng như vua các tiền triều, còn
cao hơn vua đồng thòi là khác.
Các tù trưởng dân miền núi tự trị ơ địa phương, có nộp triều
đình phú công, có thể không cao giá lắm, chỉ để đổi lại sự giao lưu
hàng hoá giữa hai miền.
Do có nhiều người theo học chữ Hán, đạo Nho có tiến vê hình
thức, nhiều vàn từ, văn chỉ được xây dựng nên.
Đạo Phật và đạo Lão suy kém, chang mấy ai lưu tâm đến
giáo lý. Đi chùa chỉ là lễ bái, cầu phúc. Có những người đi tu chỉ
đê tránh trôn sưu dịch. Lại có những tăng, ni coi đi tu là làm một
nghề đê sinh sống, do nhà chúa thường có ruộng đất.
Từ thê kỷ XVI, có đạo Gia Tô truyền bá sang nước ta. Chẳng
hao lâu bị nghiêm cấm, nhưng vẫn còn có những giáo sĩ truyền
đạo gan lì, chịu khổ cực, bí mật hành động.
Giới sĩ p h u vẫn đưỢc quý trọng. Các vua Lê. Mạc và các
chúa Trịnh, Nguyễn thường mở khoa thi đều đặn đê tuyên người
ra làm quan. Không có những khoa thi đặc biệt dành riêng cho các
con quan. Sô" người con quan lại làm quan chi ít. Con các quan hay
tướng tá bỏ mình vì nước hay có đặc công lớn, được tập ấm, nhưng
chỉ được nhận chức nhỏ thôi.
v ể nôrtg n g h iệ p , sự trồng cấy cây lúa mfdc là chính,
không tiến triển gì mấy. Thòi loạn lạc, việc chính trị không
nghiêm, có việc những quyền thần, cường hào, chiếm làm của tư
hữu ruộng đất công hàng xã, còn cả của những người yếu kém
thế lực. Sô" bần nông và cỗ" nông tăng lên nhiều. Những năm mất
mùa đói kém, họ sẵn sàng theo người phiêu kíu nổi dậy chông
đô"i chính quyền. Tại Đàng Trong, các chúa Nguyễn mơ rộng bờ
cõi, khai thác đất mới, dùng đám dân nghèo đói này vào việc
khẩn hoang, nên ít có loạn lạc. Điều đáng tiếc là nhà chúa cấp
làm của tư hữu cho những người bỏ tiền thuê nhân công khai
khẩn, chứ không lấy làm công điền quân cấp cho dân nghèo có
công khó nhọc, thành ra người giàu càng giàu thêm, người
nghèo từng cung cấp sức lực không được gì, nghèo vẫn hoàn
nghèo, tô"t lắm thì cũng chi biến thành những tá điền cây ruộng
nộp tô cho địa chủ.
372
Từ thời Hậu Lê, người nước ta mới trồng cây lúa ngô (bắp),
khoai lang và sắn Đồng Nai (khoai mì) đại trà làm lương thực
phụ. Mấy thứ cây này có nguồn gốc châu Mỹ, do các giáo sĩ sang
giảng đạo, đem giốhg sang nước ta. Khoai lang được trồng lần đầu
tiên ở làng Lang (Lương Xá), tỉnh Thanh Hoa‘*\
Công nghiêp có tiến triển nhưng không nhiều gì lắm, vẫn
chỉ là tiêu thủ công nghệ. Chính quyền Đàng Ngoài cũng như
Đàng Trong, lập những công xương đúc súng, vũ khí, đúc tiền,
đóng thuyên xe dùng nhiều công binh. Thợ thuyền cùng nghề
thường tụ tập thảnh phường, xã chuyên sản xuất một loại hàng.
Do có người phương tây chuộng mua nhiều, công nghệ mía đường
và tơ tằm phát triển. Người nước ta dệt được đoạn, lĩnh và các thứ
hàng tơ lụa vải rất khéo. P.Poivre - giáo sĩ hay lái huôn người
Pháp - xin với chúa Nguyễn Phúc Khoát cho phép thuê một số thợ
khéo biết nuôi tằm, giỏi đan đồ tre nứa đưa sang các thuộc địa
Pháp, chúa không cho.
Có những nhóm thợ làm những đồ gôm, sứ, sành, gạch ngói,
các thợ sắt, đồng, bạc, thợ mộc, thợ hồ, thợ may. Những người
khéo tay thường có đời sông khá giả. Phần đông là phường, bạn,
rất ít có cách biệt giữa chủ và thợ bạn.
T h ư ơ n g n g h iệp từ khi có thương thuyền Àu châu sang,
phát triển nhiều, tuy người nưốc ta chưa có ai đem thuyền hàng đi
bán xa ra ngoại quốc. Tại các địa phương, các chợ được dựng nên
tại mỗi xã hay một nhóm xã, để tiện việc mua hán, giao lưu hàng
hoá. Việc vận tải hàng thường dùng là thuyền trên sông ngòi.
Trên đường bộ, dùng xe đẩy. Miền núi, nhiều dốic, dùng ngựa thồ.
Công việc buôn bán nhỏ thường chỉ do đàn hà, con gái đám đương.
Cảng Vân Đồn xưa là nơi thuận tiện cho thương thuyền các
nước ra vào, nhưng cách xa vùng dân cư đông đúc, nên các chúa
Trịnh cho người ngoại quốic đến buôn bán tại Phô" Hiến, phía bắc
tỉnh lỵ Hưng Yên bây giờ, cũng ngại cho họ lập nghiệp ở Đông
Kinh. Người Hoà Lan trước hết mở thương điếm ở Phô" Hiến, sau
có các người Hoa, Nhật Bản, Xiêm La, cũng có người Anh, người
Pháp đến mở cửa hàng buôn bán. Lại có những thương thuyền chỉ

Nhiều người nước ta thường tin lầm rằng: Hạt giống lúa ngỏ (báp) mà người nước đã
trồng dại trà làm thức ản phụ thay gạo là do Phùng Khăc Khoan sang sứ Trung Quốc, láy
cắp được,giấu đem về. Sự này không thực. Chính ra các giáo sT đạo Gia Tỏ sang giáng đạo
đã đem giống các cây lúa ngô và khoai lang, có gốc gác châu Mỹ, truyền bá cho người nước
ta trồng làm lương thực. Việc này có chép trong sách lưu trữ tại Toà Thánh La Mã.

373
đến đậu ở hến. Phô" Hiến thành nơi đô hội sầm uất; Thứ nhất Kinh
kỳ, thứ nhì Phô" Hiến.
Đàng Trong thì chúa Nguyễn mở cửa Hội An (Quảng Nam)
cho các người ngoại quôc: Bồ Đào Nha, Hoa, Nhật lạp thương
điếm. Thương thuyền các nưởc Au châu khác đi đến mua bán cũng
nhiều. Người Âu gọi Đàng Trong là nước Quảng Nam.
Do mua bán nhiều hàng hoá với người ngoại quốc, nhiều nhà
buôn khôn khéo trở nên giàu có lớn, gia tư hàng vạn lạng hạc,
không còn bị coi thường nữa. Họ cũng đóng vai trò quan trọng
trong xã hội. Chúa Trịnh Doanh phát biêu; Hiện nay sau cơn binh
lửa, tài lực của dân thiếu thôn thì còn trông vào các nhà giàu buôn
bán chuyên vận chỗ có đến chỗ không. Các nhà buôn giàu có và
khá giả có nếp sông quan cách, người ta gọi là nếp sông hàng phô".
Văn hoá. Văn học tiến triến nhiều. Bài Bìn Ngô đ ại cáo
của Nguyễn Trãi là áng văn chương tuyệt tác. Văn chiíơng triều
Lê rất chải chuôt, lòi mài giũa tinh vi. Thịnh thời có Tao Đàn nhị
thập bát tú dưới triều Hồng Đức, nhưng hầu hết là chữ Hán. Lê
Thánh Tông có làm thơ quốc âm, nói vê cái gì cũng thấy có khí
tưỢng nhà vua. Các bài ca: Lòi khuyên học trò, dạy con ăn ở cho có
đức, nữ huấn của Nguyễn Trãi bằng quốc âm được truyền tụng
rộng rãi.
Nhiều quyển truyện văn vần quốc âm được soạn ra, không rõ
tên tác giả; N hị độ mai, Phan Trần, Lý Công, Trương Chi, Tông
Trân, P hạm Công Cúc H oa...
Thế kỷ XVIIl, Đặng Trần Côn soạn Chinh phụ ngâm khúc
bằng Hán văn, lòi rất trau truôt, học giả người Hoa khen tài
thanh nghị luật. Sách được nhiều người dịch ra quốc âm. Bản dịch
hay nhất của Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Chú (?) được lưu
truyền rộng rãi.
Về sử học, có Phan Phu Tiên, dưới triều Lô Nhân Tông (1443
- 1459) viết quốc sử kế từ Trần Thái Tông đến hêt thòi thuộc
Minh. Ngô Sĩ Liên, dưới triều Lê Thánh Tông (1460 - 1497) viết bộ
Đại Việt sử kí. Sau có Vũ Quỳnh viết Đại Việt thông giám . Phạm
Công Trứ viết Việt sử toàn thư. Lê Hy và Nguyễn Quý Đức viết
Quốc sử thực lục. Đến triều Cảnh Hưng (1740 - 1786), có Lê Quý
Đôn viết Đại Việt thông sử và Ngô Thì Sĩ viết Việt sử tiêu án.
Về y học, dưới triều cảnh Hưng, có Lê Hữu Trác hiệu Hải
Thượng Lãn ông tinh thông thuốc bắc, viết bộ sách thuốc lớn,
đưỢc truyền tụng, có giá trị rất cao.

374
Ngoài ra, khoa học không có gì khác đáng kể, còn mỹ thuật
thì bị quên lãng.

VẬN TRIJN(Ỉ SUY CỦA CÁC CHÚA NGUYỄN


CÁC CHÚA NGUYỄN ở ĐÀNG TRONG - Nguyễn Hoàng từ khi vào
trấn thủ Thuận Hoá, có ý chí xây dựng nên một giang sơn riêng
biệt. Mấy chúa sau: Phúc Nguyên, Phúc Lan, Phúc Tần, Phúc
Trăn tài giỏi, chông cự lại họ Trịnh ngoài bắc, mỏ mang bờ cõi vào
phương nam, chiếm đất nưóc Champa và Thuỷ Chcân Lạp, dựng
nên cơ nghiệp hưng thịnh. Từ khi hưu chiến với Đàng Ngoài, các
chúa Nguyễn rảnh tay tận hương phú quý, công hành xa xỉ, nhất
là từ đầu thế kỷ XVIII. Các chúa Nguyễn truyền đến Phúc Chu,
Phúc Chú, có đòi sông huy hoàng rất đế vương, nhưng chỉ xưng là
công. Phúc Chu có đời sông truy lạc quá quắt, có đến 146 con trai
và gái, từng sai người sang Trung Quốc xin vua nhà Thanh phong
vương nhưng việc không thành. Đến Phúc Khoát lại càng truy lạc,
xây dựng nhiều lâu đài, cung điện nguy nga. Phúc Khoát tự xưng
vương, tổ chức quan lại như một triều đình, tuy chưa đặt quốíc
hiệu và niên hiệu, yến tiệc xướng ca quanh năm suôt tháng. Lại có
âm mưu biến Đàng Trong thành quốc gia riêng biệt, đôi lập với
Đàng Ngoài. Đê gây tâm lý chia cắt trong nhân dân, bắt người
Đàng Trong phải thay dổi phong tục tập quán, phải ăn mặc theo
lôi người Hán Thanh (có việc cấm đàn bà mặc váy, dàn ông đóng
khố) nhằm phục vụ giang sơn riêng lâu dài.
Nhà chúa hoang ch(ữ thì quý tộc, tướng tá, quan lụi cũng đua
nhau ăn chơi hưởng lạc. Điên hình đời sôKg xa hoa vô độ là quốc
phó Trương Phúc Loan ăn lộc 5 cửa nguồn, hàng năm thu lợi 4, 5
vạn quan tiền, nắm giữ thuê các thương thuyền ngoại quốíc tham ô
3, 4 vạn quan nữa (thòi hấy giò số tiền này là quá lớn), chưa kể
việc ăn của đút. củ a cải đẩy nhà, sô nỗ bộc. trâu, ngựa không biết
bao nhiêu mà kế.
Chính trị thô) nát. Đe đổ vào các khoản chi to lớn cho sự ăn
chơi vô độ, nhà chúa hày ra sự mua bán quan chức, nộp tiền nhiều
ít được nhận chức quan to nhỏ. Trong một xã. đơn vị hành chính
nhỏ nhất, cũng có đến 16, 17 tướng thần và hơn 20 xã trương.
Các người cám quyền lớn nhỏ xa xỉ, ăn chơi quá độ, tất tham
ác, quần chúng nông dân phải sưu cao thuế nặng, dem lòng oán,
nước phải loạn nhất là khi gặp phải thiên tai mất mùa. Đàng
Trong ít có những cuộc nối dậy hơn Đàng Ngoài, do nhiều dân
375
nghèo đói đ ư ợc chiêu mộ đi khẩn hoang. Chỉ có cuộc khởi nghĩa
Tây Sơn là to lớn.
Năm 1747, có thương nhân Hoa kiều Lý Văn Quang nổi dậy
ở Gia Định, tập hỢp 300 người, chiếm hãi Đông Ph(7. xưng là Đông
Phô" đại vương, chống lại chính quyền họ Nguyễn, giết khâm sai
Nguyễn Cư Cận, định chiếm dinh Trấn Biên. Đây là toán giặc
khách, có mưu sự xưng bá đồ vương trên đất nước ta. Do không
đưỢc người nước ta theo nên chỉ sau một thời gian ngắn cầm cự,
bọn Lý Văn Quang 57 người bị quan quân ta bắt giêt.
Ngoài ra, có mấy vụ nổi dậy của dân thiểu sô" ở dãy núi Trường
Sơn và vùng Tây Nguyên, của người Chăm và người Khư Me. Quan
trọng có sự kiện năm 1746, người Chăm nổi dậy ỏ Thuận Thành,
người Chăm Rê ở miền núi Quảng Ngãi. Quân Nguyễn phải lập 6
đạo binh phòng giữ. Năm 1770, người Chăm Rê lụi nổi dậy mãnh
liệt, đánh xuống đồng bằng. Chúa Nguyễn phải điều động thêm
quân lính hai phủ Quy Nhơn và Phú Yên mới đàn áp được yên.
Giữa thê kỷ XVIII, có những cuộc bạo động lẻ tẻ. Năm 1769,
có cuộc nổi dậy của Lía ở Quy Nhơn quy mô khá to lớn. Lía còn có
tên là Đoan, là một nông dân nghèo có sức khoẻ. giỏi võ nghệ, tính
khí khái, thuở nhỏ đi ở bị địa chủ cường hào hành hạ, sau vào
rừng, tập hỢp dân nghèo đói nối dậy, cướp của nhà giàu phân chia
cho kẻ nghèo đói. Từ căn cứ Truông Mây, Lía từng đem quân đánh
giết lũ cường hào gian ác, được dân chúng Quảng Ngãi, Quy Nhơn
mến phục. Chúa Nguyễn phải dùng đại quân mới dàn áp nối.
TRƯƠNG PHÚC LOAN CHUYÊN QUYỀN - Năm 1765. Võ vương
Phúc Khoát mất, trước đã lập người con thứ, 9 là Kiêu (Hiệu) làm thế
tử nôi nghiệp. Bấy giờ, thê" tử đã mất trước rồi, người con thê tử là
Phúc Dương còn nhỏ. Người con trưởng Võ vương cũng mất rồi. Võ
vương để di chiếu lập người con thứ hai là Chương (thân sinh ra Phúc
Ánh tức Gia Long sau này) kê" vỊ. Nhưng quyền thần Trương Phúc
Loan, ý muôn chuyên quyền làm bậy, đổi tò di chiếu, lập người con
thứ 16 là Phúc Thuần mới 12 tuổi lên làm chúa, gọi là Định vương.
Trương Phúc Loan nắm giữ mọi quyền chính, tham lam, tàn
ác, vơ vét mọi tài nguyên quốc gia không chừng mực nào, giết hại
nhiều quan văn võ không theo bè đảng mình, lại kiêu ngạo quá độ,
không còn coi ai ra gì, cho nên dân chúng oán ghét, các người tôn
tộc họ Nguyễn cũng không ưa. Các quan, các tướng của họ Nguyễn
cũng đều không phục cả. Vì thê nên có việc quân Tâv Sơn nôi dậy
và quân chúa Trịnh Đàng Ngoài vào đánh chiếm Phú Xuân.
376
QUÂN TRỊNH VÀO ĐÁNH LẤY ĐẤT PHÚ XUÂN - Sau khi quân
Trịnh Doanh tO càn t h ắ n g Nguyễn Hữu cầu và Nguyễn Đình
Phương, nhất là t ừ khi Trịnh Sâm bình được Hoàng Công Chất
cùng Lê Duy Mật. thế quân họ Trịnh lên cao, lừng lẫy một thòi.
Trịnh Sâm thấy Đảng Trong Trương Phúc Loan chuyên quyền, tham
ác, quân dân đều oán ghét, lại có quân Tây Sơn nối dậy chiếm
Quảng Nam, Quảng Ngãi (sự việc này sẽ nói ở sau) thì trong tình
trạng khôn đôn nàv, thế chúa Nguyễn suv kém, không dứng vững
được lâu dài, bèn mưu tính sai quân đi đánh miền nam mong muôn
thông nhất giang sơn. Đại tướng Hoàng Ngũ Phúc dược lệnh đem
quân thuỷ hộ 3 vạn người, cùng với Hoàng Phùng C(í. Hoàng Đình
Thể, Hoàng Đình Rảo Vcào đất Bô" Chính đánh họ Nguyễn, giả tiếng
là vào hỏi tội Trương Phúc Loan giúp họ Nguvễn.
Tháng 10 âl năm 1774, quân Trịnh vượt sông Gianh, đánh
lấy luỹ Trấn Ninh, do có nội ứng nên lấy dược dễ dàng. dVịnh Sâm
được tin quyết kế đem dại hình vào tiếp ứng. Tháng chtỌp. quân
Ngũ Phúc tiến đóng ơ Hồ Xá, huyện Minh Tánh, (^uáng Trị,
truyền hịch nói quân bắc chỉ vào đánh Trương Phúc Loan mà thôi.
Các quan nhà Nguyễn bèn mưu hắt Trương Phúc Loan đem nộp.
Hoàng Ngũ Phúc lại tiến binh đến huyện Đăng Xương, sai
người đưa thư đến Phú Xuân nói tuy Phúc Loan đã trừ nhưng
quân Tây Sơn hcãy còn, xin đem binh vào hỏi tội để cùng tiễu giặc.
Chúa Nguyễn hiết là mẹo lừa đê lấy kinh thành, sai Tôn Thất
Tiệp cùng chương cơ Nguyễn Văn Chính đem quân thuỷ bộ ra án
ngữ ò sông Bái Đáp, nay là Phu Lộ ơ huyện Quáng Diển. Ngũ
Phúc sai Hoàng Đình Thê đem đại binh đi lên đường núi, rồi tiến
binh hai mặt đánh úp lại. Quân Nguyễn tan vỡ bổ chạy Cíi. Quân
bắc tiến vào lấy thcành Phú Xuân. Chúa Nguyễn và các quan chạy
vào Quáng Nam. Trịnh Sâm ở Hà Trung dược tin đã hây được
thành Phú Xuân, sai người đem vàng bạc thương cho Ngũ Phúc và
các tướng sĩ. Lại phong Ngũ Phúc làm dại trấn phu đất Thuận
Hoá để lo việc dánh lấy đất Quảng Nam.

NHÀ NGUYỄN TÂY SƠN


TÂY SƠN DẤY BINH
Nửa cuô"i thê kỷ XVIII, chính quyền Đàng Trong thổi nát.
Dân chúng cực khô dưới ách thông trị của chúa, quan hoang chơi,
xa xí, tham bạo, nhíít là từ năm 1765, Trương Phúc Loan làm quốíc
377
phó tham lam tàn ác. íỉấy giờ, ở huyện Phù Li, piui Quy Nhờn, có
anh em Nguyễn Nhạc người đất Tây Sơn, giỏi võ nghệ, nhiều cao
vọng, khởi hình chông đôl.
Nguyễn Nhạc có tổ tiên họ Hồ, cùng tổ vcíi Hồ Quý 1ạ' ỏ Nghệ
An. Trong chiến tranh Trịnh Nguyễn lần thứ nám, (ịuán Nguyễn
vượt sông Gianh, ra đánh bắc Bô" Chính, năm 1657. có hắt đưa về
miền nam một sô đông người Nghệ, "Rnh cho đi khân (lât mới chiêm
cúa người Chăm. Trong số này có Hồ Phi Khang vào Tây Sơn lập ấp,
nay thuộc Công Tum. Họ Hồ làm ăn thịnh vượng, truyền đên Hồ Phi
Phúc trở thành gia đình nông dân giàu có, dời nhà về ấp Kiến
Thành, nay thuộc làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn, sinh ba trai: Nhạc,
Huệ, Lữ. Dấy quân, anh em Nhạc đổi mang họ mẹ là Nguyễn đế thu
phục nhân tâm. Nhạc có sức mạnh, dũng cám và nhiều mưu trí. Huệ
ít học (có nhưng không được sâu rộng, không phái vô học. mù chữ) có
tài kinh luân thao lược dụng binh rất cao.
Nguyễn Nhạc từng đi về buôn bán với ngiíòi Thượng, dân
thiểu sô" miền núi, xuôi ngược vùng này, am hiểu dịa thê và tỉnh
cảnh của quần chúng. Sau ra làm hiện lại, thu thuê tuần ti 0 Vân
Đồn. thường bị cấp trên ức hiếp. Bâ"t mãn, Nguyễn Nhạc đem tiền
thuê" thu đưỢc cấp phát cho người nghèo dói. rồi l)<) vào rừng chiêu
mộ hào kiệt, kêu gọi dân chúng nổi dậy tiễu trừ lũ 'riatơng Phúc
Loan tham ác, được nhiều người theo về ngày một dông. Gó sách
chép Nhạc hay đánh bạc, tiêu mâ"t tiền thuê", sợ tội, bỏ trôn vào
rừng làm loạn.
Năm 1771, lập đồn trại ở đất Tây Sơn, Nguyễn Nhạc cùng
hai em dựng cờ khỏi binh, xưng là đoàn quân nghĩa dũng của
vương tôn Nguyễn Phúc Dương nổi dậy chông đô"i bọn gian thần
tàn ác tham nhũng Trương Phúc Loan (Phúc Dương con của thê"
tử Phúc Kiểu (Hiệu), cháu Võ vương). Nghĩa quân thường lấy tiền
thóc của các nhà giàu đem phân phát cho dân nghèo dói nên được
nhiều người theo phục, trong đám quân sĩ có cá người Chăm,
người Thượng.
Bấy giò, lại có hai người khách thương Hoa kiều Tập Đình và
Lý Tài chiêu tập dân nghèo người Việt hỢp người Hoa, cũng hương
ứng nối dậy. Quân của Tập Đình xưng là Trung Nghĩa quân, quân
của Lý Tài xưng là Hoà Nghĩa quân.
Khí thê" mỗi ngày một mạnh, nghĩa quân thường mcí những
cuộc tuần hành về các lảng, các chợ vùng đồng bằng, không tơ hào
tý gì của ai, không đốt phá nhà cửa làng mạc. Các nhà giàu và khá
378
giả đua nhau đem tiền, thóc cung đôn, nhiều nhà thực tâm hâm
mộ, cũng có kẻ chỉ vì sỢ hãi. Quan quân của Trương Phúc Loan
hèn yếu không dám hành động gì. Thố hào nào chông cự hoặc
không chịu cung đôn thì hị cướp tiền bạc, lúa gạo và các đồ quý
giá, đem câ’p ngay cho người nghèo. Người ta gọi là giặc nhân
nghĩa đôi với dân nghèo.
Người theo về càng ngày càng đông, thê lực càng ngày càng
lớn mạnh. Mùa thu năm 1773, Nguyễn Nhạc đã có được vài vạn
quân, tiên hình đánh chiếm phủ Quy Nhơn. Tuần phủ Nguyễn
Khắc Tuyên và toàn bộ quân sĩ nơi này bỏ chạv trốn cá. Có thuyết
Nguyễn Nhạc lập mưu ngồi vào trong cũi, cho người khiêng vào
nộp cho tuắn phủ, nói là đã bắt được tên tiêu thất tiên thuế và
làm giặc. Tuần phủ tương thật, cho đưa vào thành. Nhạc tháo cũi
ra, mở rộng cửa thành cho quân vào đánh đuối quan quân, chiếm
lấy thành Quy Nhơn làm căn bản.
Nguyễn Nhạc tiếp tục đánh lấy các huyện Bồng Sơn, Phù Ly,
Tuy Viễn, Huyên Khê, phá các kho thóc Kiều Dương, Đạm Thuỷ
rồi tiến quân ra Quảng Ngãi. Đi dến đâu, nghĩa quân cũng được
nhân dân nhiệt liệt hương ứng. Tập Đình và Lý Tài đem quân
mình theo.
Tin quân Tây Sơn đánh chiếm Quy Nhơn và dang tiến ra
mặt bắc đưa về Phú Xuân, Trương Phúc Loan sai các tướng
Nguyễn Cửu Thống, Nguyễn cửu Sách, Tông Sùng và Đỗ Văn
Hoàng đem đại quân vào Quy Nhơn. Bấy giò, nghĩa quân đã
chiếm được Quíìng Ngãi và đang tiến ra Quáng Nam. Cỉuán nhà
chúa kéơ vào hến Ván, giữa Quáng Nam và Quảng Ngãi. Nghĩa
quân rút về bến Đá, phủ Tháng Bình, bô" trí phục. Quân chúa
Nguyễn đuối theo đến nơi, bị phục binh đánh bại. Ba tướng
Nguyễn chết trận, chỉ còn có cửu Sách thu tàn quân chạy trôn.
Chiến thắng bến Đá càng nâng cao thanh thế nghĩa quân.
Cuôi năm 1773, chúa Nguyễn lại sai Tôn Thất Hương làm
tiết chê đem nội quân và thân hĩnh vào đánh. Đoàn quân này bị
Lý Tài và Tập Đình đánh bại. J'ôn Thất Hương tử trận.
ơ phía nam, nghĩa quán cũng thừa thắng đánh chiêín các
phủ Diên Khánh, Bình Khang. Thê là chỉ trong vòng một năm,
quân Tây Sơn đã kiểm soát được khu vực rộng lớn, từ Cịuáng Ngãi
đến Bình Thuận.
Sang năm 1774, chúa Nguyễn lại sai Tôn Thâd Thắng vào
đánh. Thắng không dám đánh. Mùa hạ năm ấy, lưu thú Long Hồ
379
là Tông Phúc Hiệp huy động quân lính ở Gia Định tiến đánh
nghĩa quân, chiếm lại được cả ba phủ Bình Thuận, Diên Khánh,
Bình Khang và sau đó chiếm cả Phú Yên. Nguyễn Nhạc chỉ còn
giữ được căn cứ Quy Nhơn và vùng đất Quảng Ngãi.
VIỆC GIAO THIỆP VỚI HỌ TRỊNH - Mùa thu năm 17 7 5 , quân
Trịnh lấy Phú Xuân. Định vương Phúc Thuần đưa gia quyến cùng
hơn trăm thân binh vượt đèo Hải Vân chạy vào Quang Nam, đóng
ỏ bến Ván, lập cháu Phúc Dương làm đông cung. DiiỢc mấy tháng,
quân Tây Sơn từ Quy Nhơn kéo ra. Quân chúa Nguyễn đánh
không nối, chạy về đóng ở Trà Sơn. Liệu thê không chông giữ
được, Định vương cùng người cháu Phúc Anh (Gia Long sau này)
xuôYg thuyền chạy vào Gia Định. Đông cung ở lại (:)uang Nam,
đóng đồn ỏ làng Câu Đễ, huyện Hoà Vang.
Quân Trịnh do Hoàng Ngũ Phúc chỉ huy, qua đèo Hái Vân,
vào lấv đồn Trung Sơn. Quân Tây Sơn. do Nguyễn Nhạc, Lý Tài
và Tập Đình chỉ huy, đón đánh ỏ c ầ u Sa thuộc huyện Hoà Vang.
Quân của Tập Đình, người Quảng Đông, sức vóc to lớn, cầm
phạng, đeo khiên đánh rất hăng. Tiền đội của Ngũ Phúc đương
không nổi. Ngũ Phúc mới sai Hoàng Đình l^hể và Hoàng Phụng
Cơ đem kỵ binh xông vào trận, rồi bộ binh đánh tràn vào. Tập
Đình thua chạy. Nguyễn Nhạc và Lý Tài phải lui quân về giữ bến
Bản. Nguyễn Nhạc đón Đông Cung đưa về Quy Nhơn. 'Pập Đình
giỏi võ nghệ nhưng là người bạo ngược, Nguyễn Nhạc muôn nhân
cớ bỏ chạy hắt giết đi. Tập Đình biết ý bỏ trôn về Cỉuiíng Đông bị
quân nhà Thanh bắt được đem chém.
Tình trạng quân Tây Sơn bấy giờ bíít lợi, bị kẹt giữa hai thế
lực thù địch: bắc có quân Trịnh, nam có quân Tcmg Phúc Hợp
chiếm giữ từ Phú Yên trở vảo. Trong hoàn canh nguy hiếm,
Nguyễn Nhạc tạm hoà hoãn với quân Trịnh, tập trung lực lượng
tấn công quân Nguyễn, sai Phan Văn Tuế đem thư V rì vàng lụa ra
nói với Hoàng Ngũ Phúc xin hàng, nộp ba phủ Quy Nhơn, Quảng
Ngãi và Phú Yên, xin làm tiền khu đi đánh quân Nguyễn. Hoàng
Ngũ Phúc là tướng giỏi, biết rõ lực lượng quân Tây Sơn đang bột
phát mạnh, điều xin hàng chỉ là giả dôl, lập kế hoãn binh. Nhưng
hấy giò đang là mùa hè, quân Trịnh bị dịch tễ, nhiều người chết.
Số còn lại cũng lắm kẻ ô"m đau, không còn nhiều người có tinh
thần chiến đấu. Lại củng muôn đê quân Tây Sơn đánh vào Gia
Định, rồi sau sẽ liệu nên chấp thuận, xin với chúa Trịnh Sâm
phong cho Nguyễn Nhạc làm Tiền phong tướng quân, Tây Sơn
380
Hiệu trưởng, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem cò và ấn kiếm vào cho
Nguyễn Nhạc.
Không còn phải lo về mặt hắc nữa, Nguyễn Nhạc lập mưu
đánh lấy đất miền nam, đem con gái là Thợ Nương dâng Đông
Cung, khoán đãi cực kỳ tôn kính, sai người đến vòi Tông Phúc
Hợp xin về hàng, nói quân nghĩa dũng khơi sự là vì vương tôn
Phúc Dương, nay là Đông Cung, tiễu trừ quốc phó Trương Phúc
Loan. Nay quốc phó không còn, ta nên hỢp lực tôn phò Đông Cung
lên làm chúa, lo việc khôi phục đất Phú Xuân. Tông Phúc Hợp sai
sứ đến xem hư thực, Nguyễn Nhạc đưa Đông Cung ra tiếp, viết
thư cho sứ đem về nói lấy nghĩa phù lập Đông Cung, điện an xã
tắc. Tông Phúc Hợp tin là thực nên không phòng hị. Nắm được sơ
hở ấy, Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đem đại hĩnh vào đánh úp
Phú Yên. Tông Phúc Hợp thua to, phải bỏ chạy. Lý Tài được cử
làm trấn thủ Phú Yên (sau làm phản).
Chiếm được Phú Yên, Nguyễn Nhạc sai người vào báo tin
này với Hoàng Ngũ Phúc và xin phong cho Nguyễn Huệ. Nguyễn
Huệ đưỢc phong làm Tây Sơn hiệu tiên phong tướng quân.
Quân Hoàng Ngũ Phúc hị dịch tễ, chết quá phẩn nửa. Tháng
chạp âl năm ấy (1775), Hoàng Ngũ Phúc rút quân về giữ Thuận
Hoá, Ngũ Phúc về đến Phú Xuân, hị ôm chết. Chúa Trịnh Sâm cử
Bùi Thê Đạt vào thay và sai Lê Quý Đôn vào làm tham tri cùng
giữ Thuận Hoá.
Quân Trịnh rút khỏi Quảng Nam, có hai người họ chúa
Nguyễn là Quyền và Xuân, được Hoa kiều phú thương Tắc giúp
đỡ, mộ lính chiếm được hai phủ Thăng Hoa và Điện Bàn. Do
không được dân chúng ủng hộ, quân của Quyền và Xuân sớm bị
quân Tây Sơn đánh tan. Nguyễn Nhạc giao Quảng Nam cho tướng
Nguyễn Văn Duệ đóng giữ, trở về Quy Nhơn chuẩn hị đánh quân
Nguyễn ở phía nam.

CHIẾN TRANH TẠI MIỂN c ự c NAM


ĐÁNH GIA ĐỊNH LAN THỨ NHẤT - Năm 1776, Nguyễn Nhạc sai
em Nguyễn Lữ đem thuỷ quân vượt biển vào đánh Gia Định,
chiếm được thành Sài Côn, nay là Sài Gòn và các dinh Trấn Biên,
Phiên Trấn, Long Hồ. Chúa Định vương phải chạy về Bà Rịa.
Bấy giờ có thổ hào ở Đông Sơn, Mỹ Tho là Đỗ Thành Nhân,
người gốíc Thuận Hoá, tự lập bè đảng chừng 3.000 người, lập ra
quân Đông Sơn, nêu danh nghĩa phù Nguyễn chông lại quân Tây
381
Sơn. Thuỷ quân địch từ các ngả kéo vê Gia Định. Nguyễn Lữ tịch
thu của cải lương thực của chúa Nguyễn, rồi rút quân về Quy
Nhơn. Quân Nguyễn lấy lại được Gia Định nhưng phải hỏ mất các
phủ Diên Khánh, Bình Khang. Bình Thuận.
Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn vương, xây lại thành Chà
Bàn, kinh đô nước Champa, phong Huệ làm phụ chính, Lữ làm
thiếu phó.
Đông Cung Phúc Dương bị Nguyễn Nhạc an trí ỏ chùa Thập
Pháp thuộc Quy Nhơn. Cuối năm 1776, Phúc Dương được Lý Tài
đang trấn thủ Phú Yên, phản lại chúa Tây Sơn, giúp đỡ đưa vào
Gia Định, tôn làm Tân Chính vương. Định vương lên làm thái
thượng vương. Lý Tài được phong làm Bảo Gia đại tướng quân.
Tài trước đây thấy Nguyễn Nhạc không ưa Tập Đình, biết mình
cùng chung cảnh ngộ, khó có thể đưỢc lâu dài nên làm phản, chạy
theo chúa Nguyễn. Quân Tài tàn bạo, cướp hóc của nhân dân, lại
hay xung đột với quân Đông Sơn của Đỗ Thành Nhân.
Năm 1777, Nguyễn Nhạc sai người ra bắc, xin chúa Trịnh
Sâm cho cai trị đất Quảng Nam. Chúa phong Nhạc làm Quảng
Nam trấn thủ tước Cung quốc công.
ĐÁNH GIA ĐỊNH LAN THỨ HAI - Nguyễn Nhạc được phong, khỏi
lo phòng giữ mặt bắc, lại sai Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đem đại
quân thuỷ bộ vào đánh Gia Định. Quân Lý Tài hung hăng vẫn bị
đánh tan. Tân Chính vương chạy về Bến Chè (Định Tường), rồi lại
về Ba Vạc (Vĩnh Long). Thái thượng vương chạy về Long Xuyên.
Chẳng bao lâu, Nguyễn Huệ đem quân đánh đuổi bắt được cả,
đem giết đi. Duy có Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát được.
Sau lấy xong đất Gia Định, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ cử tổng
đốíc Chu ở lại trấn thủ, rồi rút về Quy Nhơn.
Năm 1778, Nguyễn Nhạc tự xưng đế hiệu, lấy niên hiệu là
Thái Đức, đóng đô ở thành Chà Bàn cũ gọi là hoàng đế thành,
phong Nguyễn Huệ làm Long Nhương tướng quân, Nguyễn Lữ
làm tiết chế.
NGUYỄN PHÚC ÁNH KHỞI BINH ĐÁNH LẠI QUÀN TÂY SƠN -
Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát đư ợc, tụ tập những đầy tớ cũ, khởi
binh từ Long Xuyên, tiến lên đến Sa Đéc, cùng chưởng dinh Đỗ
Thành Nhân, cai đội Lê Văn Câu và các tướng Nguyễn Văn
Hoàng, Tông Phưốc Khuông, TôYg Phước Lương về đánh đuổi tổng
đốc Chu, lấy lại thành Sài Côn. Bấy giò Phúc Ánh mới 17 tuổi, các
tướng tôn làm đại nguyên suý, nhiếp quôc chính.
382
Được ít lâu, vua Tây Sơn cử tổng đốc Chu, tư khấu Uy và hộ
giá Nguyễn Ngạn đem thuỷ quân vào đánh Trấn Biên và Phan
Trấn cùng các miền ở mặt biển. Đỗ Thanh Nhân đem quân Đông
Sơn đánh chém được tư khấu Uy, đuổi quân Tây Sơn đi. Phúc Ánh
sai Lê Văn Quân đem binh ra đánh lấy thành Bình Thuận và
thành Diên Khánh.
Khôi phục đư ợc đâT Gia Định, Phúc Ánh sai sứ sang thông
với Xiêm La, lại sai Đỗ Thanh Nhân, Hồ Văn Lân đem binh đi
đánh Chân Lạp, lập con Nặc Tôn là Nặc In lên làm vua, để Hồ
Văn Lân ở lại bảo hộ. ớ Gia Định, Phúc Ánh sửa sang mọi việc,
đặt quan cai trị các dinh, định lệ thu thuế, đóng chiến thuyền, tập
binh mã, phòng bị việc chiến tranh.
Năm 1780, Nguyễn Phúc Ánh xưng vương hiệu, phong Đỗ
Thanh Nhân làm ngoại hầu phụ chính, thượng tướng công. Sau vì
Thanh Nhân cậy công lộng quyền, Phúc Ánh giết đi. Do việc này,
quân Đông Sơn trước hết lòng giúp, sau đều bỏ, lại phản lại, thành
ra phải đánh dẹp mãi.
Năm 1781, vua Xiêm La Trình Quốc Anh sai tướng anh em
Chất Tri (Chakkri) và Sôsi sang đánh Chân Lạp. Phúc Ánh sai
chưởng cơ Nguyễn Hữu Thoại và Hồ Văn Lân đem 3.000 quân
sang cứu. Trong khi quân Nam và quân Xiêm La chống giữ nhau ở
Chân Lạp thì ở Vọng Các, vua Xiêm La bắt giam cả vỢ con hai anh
em Chất Tri. Bởi vậy, hai tướng ấy mới giao kết với Nguyễn Hữu
Thoại, thề phải cứu nhau trong lúc hoạn nạn. Chất Tri đem quân
về nước. Lúc ấy có giặc nổi lên, vua Xiêm La bị Phan Nha Văn sản
đuôi cướp ngôi. ChâT Tri về Vọng Các, hắt giết cả quốc vương
Trình Quốc Anh và Phan Nha Văn sản, tự lập làm vua Xiêm La.
Họ Chất Tri đến nay vẫn ở ngôi xưng là Rama.
ĐÁNH GIA ĐỊNH LẦN THỨ BA - Sau vụ giết Đỗ Thanh Nhân, lực
lượng Phúc Ánh có phần suy yếu. Năm 1782, Nguyễn Nhạc và
Nguyễn Huệ đem hơn trám chiến thuyền vào cửa cần Giờ, đánii
bại quân Phúc Ánh ở Ngã Bảy. Trận này quân Nguyễn thua to, có
người Pháp là Mạn Hoè (Manuel) chủ một chiếc tàu, phải đôt tàu
mà chết. Phúc Ánh phải hỏ thành Sài Côn, chạy ra đất Ba Giồng
(Tam Phụ). Thành Gia Định lại thuộc về quân Tây Sơn. Đại quân
Nguyễn Huệ đánh đuổi Phúc Ánh rất ngặt, buộc Phúc Ánh phải
trôn chạy ra đảo Phú Quốc. Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ bình xong
đất Gia Định, rút quân về Quy Nhơn, để hàng tướng Đỗ Nhân
Trập ở lại giữ thành Sài Côn.
383
Bô"n tháng sau, các tướng Nguyễn lại nổi lên. Chu Văn Tiếp,
tướng từng theo Định vương từ ngày còn ỏ Phú Xuân, họp quân
các đạo, đánh đuổi quân Tây Sơn, lấy lại thành Sài Côn, cho người
ra Phú Quôh đón Phúc Anh về. Phúc Anh sửa sang quân đội đê
chông giữ.
ĐÁNH GIA ĐỊNH LẦN THỨ T ư - Sang năm 1783, Nguyễn Huệ và
Nguyễn Lữ lại đem quân vào đánh Gia Định. Quân Chu Văn Tiếp
tan vỡ. Phúc Anh phải đem cung quyến ra Ba Giồng. BỊ đánh đuổi
nữa, lại trở về Phú Quôc. Tháng 6 âl, Nguyễn Huệ ra đánh Phú
Quốc. Phúc Ánh chạy trôn ra đảo Côn Lôn. Phò mã Tây Sơn
Trương Văn Đa đem thuỷ binh đánh đuổi theo, suýt bắt đưỢc. Vì
tròi giông bão, Phúc Anh thoát thân được ra khỏi trùng vi, chạy về
đảo Cố Cô"t rồi lại trở về Phú Quôh. Nguyễn Huệ cử Trương Văn
Đa ỏ lại giữ Gia Định, dẫn quân trơ vê Quy Nhơn.
NGUYỄN PHÚC ÁNH ĐỊNH CẦU cứu Nước PHÁP - Khi còn phải
chạy loạn long đong năm 1777, Phúc Ánh được một giám mục
người Pháp giúp đỡ, là Pièrre doseph Géorge Pigneau de Béhaine,
Evêque dAdran. Nhân quen thân Pigneau (người nước ta quen gọi
là Bá Đa Lộc) xưa học ở chủng viện Hội Truyền giáo ngoại quổc,
được cử sang chủng viện Hòn Đất thuộc mũi Hà Tiên, đưỢc trấn
thủ Mạc Thiên Tứ che chở, đi lại dễ dàng truyền đạo trên đất Gia
Định và Chân Lạp, am hiểu tình thế nước ta, muốn dựa vào Phúc
Anh để mở rộng việc truyền đạo và cũng mở đường cho tư bản
thực dân Pháp xâm lược.
Chạy về Phú Quốíc, lần sau năm 1783, lương thực cạn sạch,
Phúc Anh và những người tuỳ tùng phải hái rau cơ, đào củ chuối
và măng tre mà ăn. Tình cảnh nguy nan quá. l^igenau bấy giò
đang ở Chantaboun (Xiêm La). Phúc Ánh sai người đến bàn việc.
Pigneau khuyên nên cầu cứu nưdc Pháp, cho vương tử đi theo làm
tin. Phúc Anh theo lời, giao vương tử cảnh và quôh thư cho
Pigneau được quyền tự tiện sang thương thuyết với chính phủ
Pháp xin viện binh. Tò quốc thư đại lược xin nước Pháp giúp cho
1.500 quân và tàu bè, súng ôAg, thuốc đạn mọi thứ. Đối lại xin
nhường cho nước Pháp cửa Hội An và quần đảo Côn Lôn. Phúc
Anh sai phó vệ uý Phạm Văn Nhân và sai cơ Nguyễn Văn Liêm hộ
vệ vương tử Cảnh bấy giò mới 4 tuổi. Mọi việc thu xếp cả rồi
nhưng còn trái mùa gió, Pigneau chưa khởi hành đvíỢc ngay.
Tuy đã theo Pigneau cầu cứu nước Pháp, Phúc Ánh còn chưa
quyết hắn, còn có ý muôn cậy nước Xiêm La, do nước Pháp quá xa xôi.
384
NGUYỄN HUỆ ĐẠI PHÁ QUÂN XIÊM LA - Khi bị đánh thua ở Sài
Côn, Chu Văn Tiếp chạy sang Xiêm La cầu cứu. Tháng 1 âl nám
1784, vua Xiêm La sai tướng Châ't Si Đa đem thuỷ quân đến Hà
Tiên tìm Phúc Ánh mòi sang Băng Cốc bàn việc. Vua Xiêm La tiếp
đãi Phúc Anh rất hậu, sai hai tướng Chiêu Tăng, Chiêu Dương
đem hai vạn quân cùng 300 chiến thuyền sang giúp. Phúc Ánh,
Vàn Tiếp dẫn quân Xiêm La về nước. Trước đó, Xiêm vương đã
phái Chiêu Thuỳ Biên đem 3 vạn bộ binh sang đóng ở Chân Lạp,
rồi từ đó tiến xuông phối hỢp tấn công quân Tây Sơn ơ Gia Định
(tiếng Gia Định bấy giờ chỉ chung cả Nam phần ngày nay) Quân
Xiêm kéo sang, chiếm được Kiên Giang (Rạch Giá) tiến đánh cần
Thơ, chiếm các miền Ba Thắc, Trà ôn, Sa Đéc, rồi tiến lên Man
Thít thuộc Vĩnh Long. Quân Tây Sơn chông cự mãnh hệt. Chu
Văn Tiếp bị thương nặng rồi‘itịch. Tất cả chiến thuyền địch đều bị
đánh tan. Quân địch bị tiêu diệt gần hết. Quân sĩ Xiêm chỉ còn vài
ngàn sông sót chạy theo đường bộ qua Chân Lạp về nưốc.
Phá được quân Xiêm rồi, Nguyễn Huệ đem binh đánh đuổi
tàn quân Phúc Ánh chạy về Trấn Giang, bấy giò hết cả lương
thực, rồi ra đảo Thổ Chu, đảo c ổ Cốt. Sau Phúc Ánh chạy sang
sông lưu vong tại nước Xiêm La, cùng cung quyến và một sô" người
tòng vong, nương nhờ vua Xiêm La, giao vương tử cảnh cho Bá Đa
Lộc sang Pháp cầu cứu.
Đánh dẹp xong, Nguyễn Huệ cử đô đốíc Đặng Văn Chân ở lại
trấn đất Gia Định, rồi đem quân về Quy Nhơn.
Trận Rạch Gầm Xoài Mút là chiến thắng oanh liệt rực rỡ của
quân Tây Sơn, quét sạch 5 vạn quân Xiêm La.

QUÂN TÂY SƠN PHẮT TRIỂN ra BẮC


NGUYỄN HUỆ RA ĐÁNH LẤY THUẬN HOÁ - Sau khi phá tan
quân đội Xiêm La, thê quân Tây Sơn càng nổi to lớn. Bình định
được miền nam rồi, năm 1786, Thái Đức sai Nguyễn Huệ làm tiết
chế, rể Vũ Văn Nhậm làm tả quân đô đốc, tướng Nguyễn Hữu
Chỉnh làm hữu quân đô đốc, dẫn quân thuỷ bộ ra đánh lấy thành
Phú Xuân.
Tướng giữ thành này trấn thủ đất Thuận Hoá bấy giò là
Phạm Ngô cầu, người thay thế Bùi Thế Đạt. cầu nhu nhược vô
mưu, tính tham lam, lại mê tín dị đoạn. Phó đô đốic Nguyễn Lịnh
Tân khải với Trịnh Sâm mọi lẽ, xin tướng khác vào thay. Trịnh
Sâm lại đòi Lịnh Tân về.
385
Nguyễn Huệ sai thuật sĩ người Hoa đến bầo cầu rằng; Hậu
vận phúc lộc nhiều lắm nhưng nay có nạn nhỏ, có lẽ phải đau ô"m
nên lập đàn làm chay, mới được yên lành, cầu lập đàn cùng lễ 7
đêm 7 ngày, hắt quân sĩ phục dịch khó nhọc. Nguyễn Huệ lại sai
Nguyễn Hữu Chỉnh viết thư cho phó tướng Hoàng Đình Thê lấy
tình cũ khuyênThể ra hàng Tâv Sơn, nhưng lại đưa thư ấy cho
Cầu. Cầu ngờ Thể nhị tâm. Chợt nghe tin quân Tây Sơn đã lấy
đồn Hải Vân, tướng Hoàng Nghĩa Hồ tử trận, lại thấy tin háo thuỷ
quân Tây Sơn đã vào cửa biển, thuỷ lục hai mặt kéo tiến đánh.
Cầu hốt hoảng từ đàn chạj^ chạy về dinh, gọi binh tướng ra chốhg
giữ nhưng quân lính đã mỏi mệt cả, không ai có lòng muôn đánh.
Hoàng Đình Thê cùng hai con đem quân hản hộ ra đối địch,
đánh rất hăng hái nhưng sau khi hễt thuốc đạn, cầu không tiếp
ứng. Đình Thế cùng hai con và tướng Vũ Tá Kiên cô" đánh nhưng
đều chết tại trận. Quân Tây Sơn vào thành, cầu kéo cò trắng xin
hàng. Quân Trịnh bỏ chạy tan cả. cầu hị bát giải vê (ịuv Nhơn.
Thái Đức đem chém.
Hạ xong Phú Xuân, Nguyễn Huệ tiến binh ra chiếm nốt các
đồn Cát Doanh, Đông Hải. Tướng tá quân Trịnh bỏ chạy cả. Chỉ
trong mấy ngày, đất Thuận Hoá từ sông Gianh trơ vào đều thuộc
về Tây Sơn. Thế là toàn thể đất cũ chúa Nguyễn, anh em vua Thái
Đức đã thu phục được cả. Bấy giờ là tháng 3 âl năm 1786.
TÌNH HÌNH BẮC HÀ (ĐÀNG NGOÀI) - Nhà Trịnh đánh bại nhà
Mạc lập lại vua Lê nhưng nắm giữ hết thảy mọi quyền chính.
Trong suốt gần hai trám năm, nước ta có vua lại có chúa, mà chúa
mới thực sự lãnh đạo quôh gia. Trịnh Tùng, Trịnh Tráng bận việc
chiến tranh đánh Mạc ở phía bắc, rồi chông với Nguyễn ở phía
nam, công việc trong nước không sửa sang được mấy. Đến các
chúa Trịnh Tạc, Trịnh Căn, Trịnh Cương, chiến tranh đã yên,
trong nước bình trị, mới sửa sang và chỉnh đôh lại phép tắc, luật
lệ, việc thuê khoá, sự học hành thi cử, v.v... Trịnh Cương công
hành xa xỉ, có đời sông huy hoàng lộng lẫy, xây nhiều chùa, điện
và hành cung. Trịnh Giang (có sách chép Khương) lại quá tệ, sao
nhãng chính sự, loạn dâm, hoang phí tài vật, du hành vô độ. Dân
chúng phải sưu dịch cao, thuế má nặng nên oán, khắp nơi trong
nước đều loạn lạc. Bị sét đánh suýt chết, sỢ sấm, chỉ ẩn mình
trong hang. Công việc đê cho nội giám Hoàng Công Phụ làm bậy:
giết, bắt, đuổi quan lại trái ý, không còn thể thông gì. Các quan
phủ liêu Nguyễn Quý Kính, Nguvễn Công Thái, Trịnh Đạc, Vũ
386
Tất Thấn truất phế, đưa người em là Trịnh Doanh lên thay. Sau
Trịnh Doanh, Trịnh Sâm, nhờ có những người tướng tài như
Phạm Đình Trọng, Hoàng Ngũ Phúc, bình định được xứ sỏ. Giặc
yên, nhà chúa lại càng kiêu hãnh, nhất là Trịnh Sâm sau khi lấy
được đất Thuận Hoá. Bất bình với thái tử Lê Duy Vĩ, Trịnh Sâm
liền bắt giết ông này. Trịnh Sâm lại có ý muôh lên làm hoàng đế.
Việc bắt vua Hiến Tông nhiíờng ngôi không khó khăn gì nhưng e
ngại nhà Thanh bên Trung Quốc làm khó dễ. Trịnh Sâm sai thị
lang Vũ Trần Thiệu dâng biểu nói rằng con cháu họ Lô không còn
có ai đáng làm vua nữa, xin phong cho mình. Nhưng sang đến
Động Đình Hồ, Vũ Trần Thiệu đem đốt tò biểu đi, rồi uỗng thuốc
độc tự tử nên việc cầu phong phải bỏ.
TRỊNH SÂM B ỏ TRƯỞNG LẬP THỨ - Sau khi Trịnh Sâm say đắm
nàng Đặng Thị Huệ, bỏ con trưởng là Trịnh Tông (sau đổi tên là
Khải) lập con thứ là Trịnh Cán do thị Huệ sơ sinh. Cán còn nhỏ và
suô"t từ khi sinh ra vẫn ô"m yếu, được Trịnh Sâm yêu quý lắm, lập
làm thế tử. Trịnh Khải bị bd, tư thông với các trân thủ ngoại trấn,
hẹn khi chúa băng thì quân các nơi kéo về kinh thành, bỏ Cán lập
Khải. Mưu cơ tiết lộ. Trịnh Sâm gọi các trân thủ về Tháng Long,
bắt giam hỏi tội. Ngô Thì Sĩ trấn thủ Lạng Sơn là một danh sĩ, do
vụ này, đã tự tử khi bị bắt giam trong ngục.
Trịnh Sâm mất năm 1782, để di chiếu lập Cán nôì nghiệp, cử
ban phụ chính gồm bảy người. Đứng đầu là Trịnh Kiều (chú Sâm)
chỉ giữ hư vị, rồi đến Đặng Thị Huệ và Huy quận công Hoàng
Đình Bảo. Bô"n người tiếp không có danh vọng lớn chỉ là tay sai. Di
chiếu lại nói; Nếu sau này Cán “bất khởi” không khỏi thì phải lập
Trịnh Bồng thuộc dòng đích, chứ không được lập Khải (bấy giờ
vẫn bị bắt giam). Trịnh Cán được lập làm Tôn Đô vương, vẫn ô"m
yếu, trăm quan nhiều người than phiền.
Đặng Thị Huệ và Hoàng Đình Bảo cầm quyền được ba tháng
thì quân Tam Phủ, lính ba phủ thuộc Thanh Hoa, Nghệ An túc vệ
phủ chúa; thường gọi là ưu binh, do biện lại Nguyễn Bằng cầm
đầu, kéo đến vây phủ chúa, giết Hoàng Đình Bảo, phê Trịnh Cán,
rước Trịnh Khải trong ngục, lập làm Đoan Nam vương. Cán vẫn
được ở trong phủ, tháng sau chết. Trịnh Khải phong quan tước cho
Nguyễn Bằng và trọng thưởng ưu binh.
LOẠN KIÊU BINH - Họ Trịnh khởi đầu lấy binh người Thanh,
Nghệ. Từ khi lên làm chúa quy định túc vệ ở kinh thành chi’ lấy
người ở ba phủ Thanh Hoa (Hà Trung, Thiệu Thiên, Tĩnh Gia) và
387
12 huyện Nghệ An (6 thuộc phủ Đức Quang, 3 phủ Diễn Châu,
Anh Đỗ, Hà Hoa mỗi phủ hai huyện). Đó là bộ phận quân chủ yếu,
loại quân nhà nghề chuyên phục vụ nhà chúa. Đội quân này rất
được ưu đãi, cấp ruộng tiền nhiêu. Thanh Nghệ là ấp thang mộc
và ứng nghĩa, dân được giảm thuế nên người ta gọi chúng là lính
Tam Phủ hay ưu binh.
ưu binh đánh trận giỏi, từng lập được nhiều công với nhà
chúa nhưng sau này hay cậy công làm lắm điều trái phép. Năm
1674, đời Trịnh Tạc, chúng giết tham tụng Nguyễn Quôh Trinh,
phá nhà Phạm Công Trứ. Nám 1741, phá nhà và chực giết tham
tụng Nguyễn Quý cảnh. Nhà chúa có bắt thủ xướng làm tội
nhưng chúng quen thói về sau hễ có điều gì bất bình thì lại nối lên
làm loạn. Từ ngày có công lớn đưa người tù lên làm chúa thì
chúng mỗi ngày một kiêu căng quá độ, đi cướp phá các nhà, không
ai kiềm chế được. Đến chúa Trịnh Khải cũng ngán, muôn trừ bỏ
chúng đi. Các quan bàn viện cớ bật bảy tên đem chém, chúng bảo
nhau đến vây nhà ba viên quan đã bày kế hại chúng. Nguyễn Ly
chạy thoát được. Dương Khuông, em thái phi, chạy vào phủ chúa.
Chúng xông vào định bắt giết. Thái phi và Trịnh Khải phải kêu
van và nộp chúng 1.000 lạng bạc, 3 vạn quan tiền chuộc mạng,
chúng mới thôi. Hầu tước Nguyễn Triêm đã chạy vào phủ chúa,
chúng phá cửa phủ xông vào bắt, Nguyễn Triêm phải ra nộp
mình. Thật không còn có trật tự thể thông gì nữa. Nguyễn Ly chạy
lên Sơn Tây, cùng với em là Nguyễn Điều bàn rước Trịnh Khải ra
ngoài, rồi gọi binh các trấn về kinh thành tiễu trừ lũ kiêu binh (do
vô kỷ luật, làm loạn nên dân chúng gọi bọn đó là kiêu binh).
Nhưng kiêu binh biết, canh giữ phủ chúa, không đê Trịnh Khải
trôn thoát. Các trấn đành hãi binh. Từ đó, kiêu binh càng hoành
hành dữ dội, bảo nhau hàng trăm hàng ngàn đi cướp phá các nơi.
Hễ có đứa đi lẻ thì dân bắt giết, thành ra quân với dân như cừu
địch, mà các quan văn thần võ tướng cũng bó tay, không làm sao
được. Sau có tham tụng Bùi Huy Bích dùng lòi nói khéo khuyên dỗ
và bày các trò chơi (trong đó có hát trông quân) cho chúng mua vui
nên dần dần cũng bớt đưỢc phần nào.
Có thuyết kiêu binh sau khi rước Trịnh Khải lập làm chúa, lại
kéo vào nhà giam thả mấy người con của thái tử Duy Vĩ (trong đó
có Duy Kỳ) bị Trịnh Sâm giam giữ. Vua Lê Hiển Tông mời chúng
vào cung đãi yến. Do đó, chúng coi thường cả vua lẫn chúa, càng
lộng hành hơn. Vua Hiển Tông muôn lập Sùng Nhượng công Duy
388
c ấ n làm thái tử. ưu binh đòi lập hoàng tôn Duy Kỳ thuộc dòng
đích. Chúa đã do chúng dựng nên, vua cũng lại sắp do chúng dựng
nên nôt, nên chúng không còn coi ai ra gì nữa.
Trong lúc ỏ kinh thành, kiêu binh đang làm loạn thì quân
Tây Sơn tiến đánh nên cơ nghiệp nhà Trịnh phải đổ nát.
NGUYỄN HỮU CHỈNH - Hoàng Đình Bảo khi trấn thủ Nghệ An
có nhiều thủ hạ giỏi, trong đó có Nguyễn Hữu Chỉnh, ngvròi huyện
Chân Lộc, Nghệ An, con một thương gia giàu có lớn, thi đỗ hương
công năm 16 tuổi, tính hào hoa, lắm cơ trí, nhiều can dảm, lại có
tài biện bác. Trước theo Hoàng Ngũ Phúc, thường đi đánh giặc
biến, giặc sỢ lắm, gọi là chim dữ, từng đem cừ và ấn kiếm cho
Nguyễn Nhạc. Ngũ Phúc mất, Hữu Chỉnh theo Hoàng Đình Bảo,
cháu và là con nuôi Ngũ Phúc. Hoàng Đình Bảo bị kiêu binh giết.
Hữu Chỉnh vào bàn với trấn thủ Nghệ An Vũ Tá Giao tự lập xứ
Nghệ. Tá Giao không dám làm. Hữu Chính bỏ vào Quy Nhơn theo
vua Thái Đức. Thái Đức tin dùng, đãi làm thượng tân. Hữu Chỉnh
bàn mưu định kế ra đánh lấy Thuận Hoá và đất Bắc Hà.
QUÂN TÂY SƠN RA ĐÁNH BẢC HÀ LẦN t h ứ n h ấ t - Nguyễn Huệ
lấy được Thuận Hoá, hội quân tướng bàn sai người sửa sang đồn
Đông Hải và định giữ địa giới cũ ở sông La Hà. Nguyễn Hữu
Chỉnh bàn nên thừa thắng tiến đánh ra Đàng Ngoài (Bắc Hà).
Nói: Ong phụng mệnh ra đánh một trận bình ngay được đất
Thuận Hoá, uy linh cả chôn Bắc Hà. Phép dùng binh, một là Thời,
hai là Thế, ba là Cơ. Có ba điều đó thì đánh đâu được đấy. Nay
Bắc Hà tướng lười, quân kiêu, triều đình không kỷ cương. Nay
nhân lấy huy thanh này đem binh ra đánh, làm gì mà không
được? Dịp tổt không nên bỏ. Bắc Hà hiện không có ai là nhân tài,
có vua lại có chúa. Họ Trịnh tiếng rằng phù Lê, thực sự hiếp chế.
Người nước không phục. Nay “phù Lê diệt Trịnh” thì thiên hạ ai
chẳng theo. Không có lệnh trên thì kiêu mệnh là lỗi nhỏ. Tướng ở
ngoài có thê hành động không phải theo mệnh vua. Dịp tốt lập
nên công nghiệp to lớn không nên bỏ.
Nguyễn Huệ sai Nguyễn Lữ ở lại giữ Thuận Hoá và sai người
về Quy Nhơn báo tin đi chinh bắc. Thái Đức tự thoả mãn với đất
cũ chúa Nguyễn, không có chí muôn thông nhất giang sơn nước
nhà, vội sai người ra ngàn lại, nhưng không kịp.
Nguyễn Huệ sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem thuỷ hình đi tiên
phong vào cửa Đại An, đánh lấy kho lương thực ở hên sông VỊ
Hoàng. Nguyễn Huệ tự đem binh đi sau, ước với Hữu Chỉnh đến
389
sông Vị Hoàng đô"t lửa làm hiệu. Quân Hữu Chinh đi qua Nghệ
An, Thanh Hoa, trấn thủ Bùi Thế Toại, Tạ Danh Thuỷ không ai
dám ra cự địch. Khi đến Vị Hoàng, người coi đồn bỏ chạy. Hữu
Chỉnh lấy đưỢc hơn trăm vạn hộc thóc (?!), rồi đôt lửa làm hiệu.
Quân Nguyễn Huệ kéo đến đóng ở đấy.
Triều đình Đàng Ngoài nhu nhược, khi nghe tin Thuận Hoá
thất thủ, các quan bảo nhau rằng đất xứ ấy không phải là đất cũ,
nay mất cũng không thiệt hại gì. Trịnh Khải chỉ sai Trịnh Tự
Quyền đem 27 cơ vào giữ Nghệ An. Trịnh Tự Quyền thu xếp hơn
mười ngày chưa xong, đến khi vừa lên đường thì đã có tin báo
quân Tây Sơn đến đóng ở sông Vị Hoàng rồi. Tự Quyền đem bộ
binh xuông giữ Sơn Nam, hỢp sức với quân trấn thủ Sơn Nam Đỗ
Thê Dận và thuỷ binh Đinh Tích Nhưỡng ở cửa Luộc. Rây giờ, gió
đông nam thổi to, đến đêm Nguyễn Huệ sai lấy tượng gỗ đế lên
mấy chiếc thuyền, rồi cho đánh trông kéo cờ thả thuyền cho trôi
đi. Đinh Tích Nhưỡng lầm tưởng quân Tây Sơn đến đánh, giàn
thuyền ra thành trận chữ nhất, truyền lấy súng bắn. Bắn mãi,
sau mới biết người trên thuyền là tượng gỗ. Lúc quân Tây Sơn tiến
lên đánh thì Đinh Tích Nhưỡng hết cả thuốc đạn, phái bỏ thuyền
chạy. Quân của Bùi Thế Dận và Trịnh Tự Quyền cũng hị đánh
thua ta vỡ cả. Nguyễn Huệ hạ được thành Sơn Nam, rồi một mặt
truyền hịch đi các lộ, nói lấy nghĩa phù Lê diệt Trịnh, một mặt
kéo quân lên Thăng Long.
Bấy giờ, ở kinh thành, kiêu binh không sai khiến được. Trịnh
Khải cho gọi lão tướng Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây về đóng quân ở
hồ Vạn Xuân (Thanh Trì), còn thuỷ binh thì đóng ỏ bến Tây Long
(Thọ Xương) đê phòng giữ. Quân Tây Sơn tiến đánh tan thuỷ quân
và cả bộ quân. Hoàng Phùng Cơ thua chạy. Trịnh Khải thân ra
trận, mặc nhung y, cầm cờ lên voi thúc ưu binh vào đánh. Thế
quân Tây Sơn mạnh lắm, lại dùng ống phun lửa tấn công. Trịnh
Khải thua trận phải bỏ chạy lên Sơn Tây. Đi đến làng Hạ Lôi,
huyện Yên Lãng, bị Nguyễn Trang đánh lừa, bắt đem nộp cho
quân Tây Sơn. Trên đường, Trịnh Khải lấy gươm cắt cô tự tận.
Bấy giờ là tháng 6 âl nám 1786. Nguyễn Huệ sai lấy vương lễ tông
táng, rồi vào thành yết kiến vua Lê.

Họ Trịnh lập nghiệp chúa, lưu truyền từ Trịnh Tùng đến


Trịnh Khải 10 đòi từ năm 1570 đến năm 1786 được 216 năm. Sau
có An Đô vưdng Trịnh Bồng trở lại cầm quyền, chi được ít ngày,
390
không đáng kể. (Trịnh Tùng chỉ xưng chúa năm 1599, nhưng thực
sự từ năm 1570).
Xưa người ta nói vê họ Trịnh “danh vi Lê thẩn, thực vi Lê
tặc” (tiếng là tôi nhà Lê, thực sự là giặc nhà Lô). Dán trong nước
thì nhà Lê cam C|uyổn, làm dân nhà Lỗ. Nhà Mạc cầm quvên, làm
dân nhcà Mạc. Họ Trịnh giữ quyền chính thì lại phục tòng nhà
Trịnh, thòi nào thì củng phải cung sưu dịch, nộp thuê má. Gặp
được vua chúa hiền thì cũng đõ, gặp vua chúa tồi, tham ác thì cực
khổ. Khi mất mùa đói kém thì ùa theo người phiêu lưu nổi dậy làm
loạn. Dân đói không thò dưọc vua chúa. Cớ nghiệp nhà Trịnh đổ
nát, người nước không mấy ai luyến tiếc.

NGUYỄN HUỆ TRAO TRẢ QUYỀN VUA LÊ - Nguyễn Huệ diệt đưỢc
họ Trịnh, vào thành Thăng Long, hạ lệnh cấm quân lính cướp phá
dân gian, định ngày xin yết kiến vua Lê Hiển Tông ở đền Vạn
Thọ. Bấy giờ, vua Lê Hiển Tông đang đau yếu, không ngồi dậy
đưỢc, mòi Nguyễn Huệ vào ngồi gần sập ngự, lấy lời ôn tồn phủ
dụ. Nguyễn Huệ tâu hày mọi lẽ đem binh ra phù Lê diệt Trịnh,
chứ không có ý dòm ngó gì. Vua mừng rỡ tạ Nguyễn Huệ.
Khi quân Tây Sơn ra đến Thăng Long, các triều thần chạy
trôn cả, chỉ còn Trần Công Xán và mấy người nội giám ở lại bên
cạnh vua hầu hạ. Nguyễn Hữu Chỉnh xin vua hạ chiếu tuyên
triệu các quan về triều. ĐưỢc mấy hôm có mươi người lục tục kéo
về. Vua định ngày lập đại triều mùng 7 tháng 7 ở diện Kính
Thiên. Nguyễn Huệ đem các tướng vào lạy, dâng sô' quân sĩ, dân
đinh, tỏ rõ nghĩa tôn phù nhất thông, từ đó về sau nhà Lê có
quyền tự chủ, phế họ Trịnh. Vua phong Nguyễn Huệ làm Nguyên
soái Uy quốc công, gả cho con gái Ngọc Hân công chúa và cắt đất
Nghệ An nhường cho Tây Sơn làm lễ khao quân. Chẳng hao lâu,
vua Lê Hiển Tông khuất. Hoàng tôn Duy Kỳ lên nối ngôi đặt niên
hiệu là Chiêu Thông.
Vua Thái Đức vô'n không có ý đánh lấy đất Bắc Hà. Khi tiếp
đưỢc tin Nguyễn Huệ nói sắp ra đánh ngoài bắc thì vội sai người
ra Phú Xuân ngăn lại. Sứ giả tới nơi thì Nguyễn Huệ đã tiến binh
rồi. Đến khi tiếp thư nói quân đã lấy được Thăng Long và Nguyễn
Huệ còn ỏ lại đó để giúp nhà Lê. Thái Đức e ngại sẽ khó kiềm chế
ông em anh hùng và sỢ Nguyễn Huệ ở lại lâu tại Bắc Hà có sự
biến chăng, đem 500 quân ra Thuận Hoá, lấy thêm 2.000 quân
nữa, đi không kỳ ngày đêm ra thẳng Thăng Long.
391
Vua Chiêu Thông được tin, đem bách quan ra đón ngoài Nam
Giao. Thái Đức đi thẳng, cho người đến nói xin để ngày khác hội
kiến. Mấy hôm sau, Thái Đức mòi Chiêu Thông sang phủ đường
(phủ chúa Trịnh cũ) làm lễ tương kiến. Thái Đức ngồi giữa, Chiêu
Thông ngồi bên tả, Nguyễn Huệ ngồi bên hữu, các quan văn võ
đứng hầu.
Chiêu Thống xin nhường mấy quận đê khao quân. Thái Đức
nói: Vì họ Trịnh hiếp chế nên chúng tôi ra giúp nhà vua. Nêu bằng
đất nước họ Trịnh thì một tấc cũng không để lại, nhưng mà của
nhà Lê thì một tấc cũng không dám lấy. Mong nhà vua gắng sức
làm việc, giữ gìn cõi đất, để đời đòi giao hiếu với nhau. Ay là phúc
của hai nước.
Bấy giờ, Hoàng Phùng Cơ thu nhặt tàn quân, truyền hịch đi
các nơi kêu gọi cần vương đánh đuổi quân Tây Sơn về Đàng Trong.
Anh em vua Tây Sơn không e ngại chiến tranh nhưng thấy ở lại
lâu cũng chẳng ích gì, bèn vơ vét kho tàng chúa Trịnh, rút quân
trở về nam. Do không ưa Nguyễn Hữu Chỉnh là người giảo quyệt,
định bỏ ở lại Bắc Hà, mật truyền cho các tướng tá thu xếp quân
thủy bộ kho tàng thu lấy hết, đêm ngày 17-8 âl rút quản. Sáng
hôm sau, Nguyễn Hữu Chỉnh thấy quân Tây Sơn về rồi, sỢ hãi,
hoảng hốt bỏ cả đồ đạc chạy xuông thuyền huôn vào Nghệ An.
Thái Đức thấy Hữu Chỉnh theo về, không tiện hỏ, cho (ì lại cùng
với Nguyễn Duệ giữ đất Nghệ An. Tướng Vũ Văn Nhậm đóng
quân giữ cửa Đông Hải (nay đọc trệch lả Đồng Hới, tỉnh lỵ Quảng
Bình). Nguyễn Huệ không tin cẩn Hữu Chỉnh, đồ chừng y sẽ làm
phản, bảo Văn Nhậm và Văn Duệ phòng giừ.
Nguyễn Hữu Chỉnh về Nghệ An, chiêu mộ dũng sĩ, ngày đêm
luyện tập, ra sức xây dựng thế lực riêng, đợi thòi cơ.

TÌNH HÌNH NỘI BỘ ANH EM VDA TÂY SƠN


Sau khi ở Thăng Long về, Nguyễn Huệ đóng quân ở Thuận Hoá,
Thái Đức trở về đóng quân ở Quy Nhơn, thành Chà Bàn kinh đô cũ
nước Champa, tự xưng là Trung ương hoàng đế, phong Nguyễn Lữ
làm Đông Định vương giữ đất Gia Định (Nam Bộ ngày nay), phong
Nguyễn Huệ làm Bắc Bình vương, giữ đất từ đèo Hải Vận trở ra Nghệ
An, tự mình trực trị từ Quảng Nam đến Bình Thuận.
Bắc Bình vương, anh hùng xuất chúng, có chí lốn thống nhất
đất nước, lập nên công nghiệp vĩ đại. Thái Đức thì sau khi quân
lấy được Thuận Hoá, toàn thể đất cũ chúa Nguyễn thì hoài bão
392
thoả mãn, tự cho mình đã hoàn thành công nghiệp, mái vui chơi
hưởng thụ. Sau khi lên ngôi rồi, không làm được gì ích quốc lợi
dân to lớn. Chừng như quân đội cũng chưa được chú ý đúng mức,
thao luyện công phu đê thành hùng mạnh cao cường.
Đông Định vương Nguyễn Lữ không phái là tướng thật giỏi,
nhiều lần đã thắng trận là do cùng đi với các anh, giữ thành thì
nhiều lần hị địch tấn công, đã phải sớm rút lui. Lại cũng không
phải là quan cai trị giỏi. Miền nam đất phì nhiêu lại còn nhiều nơi
hoang phế mà không cử doanh điền sứ chiêu mộ dân công đi khai
thác. Không kén được người anh tài trấn thủ các dinh, dùng nhiều
ít quan cũ của chúa Nguyễn không trung thành, chúng không
ngăn nổi hoạt động của tôi tớ Phúc Anh. Đông Định vương không
thọ, cuôl năm 1787, về Quy Nhơn ôm chết.
Sau vụ phong vương chia đất không lâu có sự hất hoà giữa
anh em Nhạc và Huệ. Bắc Bình vương đem nhiều quân vào vây
đánh Quy Nhơn. Quân đôi bên đánh nhau ròng rã ba tháng kịch
liệt, cùng có nhiều người chết. Bắc Bình vương phải bắt thêm dân
đi lính. Thái Đức phải gọi trấn thủ Gia Định là tưống Đinh Văn
Chân về giúp. Bị đánh ngặt quá, Thái Đức phải thân lên thành
kêu khóc, gọi em hảo rằng: Nỡ lòng nào nồi da nấu thịt như thế.
(Tục người Bình Định đi săn được hươu, nai gì thì lột da ra làm
nồi mà nấu thịt ngay đấy). Nguyễn Nhạc có ý bảo rằng cùng da
cùng thịt, nỡ nào hại lẫn nhau vậy. Bắc Bình vương động lòng,
giải vây, rút quân về Phú Xuân. Sau vụ này, có sự phân chia lại
đất Quảng Nam, lấy bến Ván (nay giáp giới hai tỉnh Quáng Nam,
Quảng Ngãi) làm ranh giới.

NHÀ HẬU LÊ MẤT NÍỈÒI VUA


LẼ CHIÊU THỐNG LÊN NGÔI - Chúa Trịnh Khải bị diệt, quân
Tây Sơn đã rút vê nam trao quyền bính vê vua nhà Lê. Tiếc rằng
Chiêu Thông không nắm giữ được quân đội, không có tài quyết
đoán, mà đình thần không có ngưòi kinh luân, thấy có giặc thì bỏ
chạy, giặc đi rồi thì kéo nhau ra, bàn ngược bàn xuôi, người định
lập lại nghiệp chúa, kẻ muôn tôn phù vua Lê. Bán thân Chiêu
Thống muôn nắm giữ hoàn toàn quyền chính, bãi bỏ nhà chúa,
nhưng thiếu tài đức để làm việc lớn, lại không có lực lượng gì hùng
mạnh đế sai khiến được quần chúng.
Đảng Trịnh lại nổ lên gồm một sô quan võ. Một nhóm tôn
phù Trịnh Lệ, nhóm khác tôn phù Trịnh Bồng, tranh giành nhau.
393
Phe Trịnh Bồng thắng thế, kéo vào thành chiếm phủ chúa cũ.
Chiêu Thông không trị nối phe đảng Trịnh, hất đắc dĩ phái phong
Trịnh Bồng làm An Đô vương. Trịnh Lệ thất thế, sau ra hàng
Chiêu Thông, lĩnh một chức quan nhỏ.
Đảng Trịnh nổi lớn. Trịnh Bồng được nhiều võ quan làm vây
cánh đòi nắm giữ hết thảy mọi quyền trị nước như các chúa Trịnh
trước. Chiêu Thông chỉ chịu nhượng hộ phẩn nào. Giữa vua và
chúa có sự xích mích. Có những quan võ phe Trịnh khinh thường
cả vua, thậm chí mưu sự truất phê Chiêu Thống lập vua Lê khác.
Trần Công Xán cố gắng khuyên giải mọi người tôn trọng nhà vua.
Bị Trịnh hiếp chê quá độ, Chiêu Thông hạ chiếu vời Nguyễn Hữu
Chỉnh ở Nghệ An ra giúp.
NGUYỄN HỮU CHỈNH CHUYÊN QUYỀN ở BĂC HÀ - Nguyễn Hữu
Chỉnh từ ngày về Nghệ An chiêu binh mãi mã, gây được lực
lượng khá mạnh hàng vạn quân. Nghe hiết họ Trịnh lại nối, bắn
tin đê vua Lê gọi mình. Nhân được chiếu chỉ, Hữu Chỉnh đê một
sô" tay chân của mình ở lại Nghệ An vói Nguyễn Văn Duệ, mang
quân ra bắc liên tiếp đánh các phe cánh họ Trịnh. Trịnh Bồng
đem quân ra bắc liên tiếp đánh các phe cánh họ Trịnh. Trịnh
Bồng đem quân ra phòng giữ. đánh thua phải bỏ chạy. Hữu
Chỉnh vào yết kiến Chiêu Thông và chuyên giữ binh quyền.
Trịnh Bồng mấy lần khởi binh toan sự khôi phục, nhưng không
thành công nên chán đòi hỏ đi tu, về sau không ai biết ra sao. Họ
Trịnh mất hắn quyền từ đây.
Trừ được họ Trịnh, vua phong Hữu Chỉnh chức đại tư đồ
Bằng quận công. Hữu Chỉnh về đóng ở phủ chúa, cậy công khinh
người, tự ý giải quyết mọi việc, không cần đến vua, làm lắm điều
trái phép. Chiêu Thông cũng lấy làm lo, muôn trừ bỏ đi nhưng
không biết trông cậy vào ai.
Hữu Chỉnh lại mưu với Nguyễn Văn Duệ chiếm Nghệ An.
Nguyễn Huệ hay biết, sai Vũ Văn Nhậm ra Nghệ An bắt Văn Duệ.
Văn Duệ trôn theo đường núi chạy về Quy Nhơn với Thái Đức.
(Văn Duệ là tướng cũ của Thái Đức).
Hữu Chỉnh nhân thấy anh em vua Tây Sơn bất hoà, xin Chiêu
Thống cử Lê Duy Yên và Trần Công Xán vào Phú Xuân đòi đất Nghệ
An. Bấy giò là năm 1787. Mưu đồ sự diễn lại tình trạng phân liệt thời
Trịnh. Bắc Bình vương còn muốn chiếm cá Bắc Hà, khi nào chịu trả
xứ Nghệ An. Vương khi ra bắc có lần tiếp kiến Công Xán, biết Công
Xán là người anh tai, muốn dụ về hàng, sai người nói vối Công Xán
394
rằng: Thế nhà Lê không còn tồn tại được nữa, khuyên Công Xán theo
về nhà Tây Sơn. Công Xán không chịu. Phái đoàn sứ bộ ra về, qua
biến Nghệ An bị đắm thuyền, chết cả. Có mấy tập sử sách chép do
Bắc Bình vương sai đục thuyền giết sứ giả để khỏi về báo cáo tình
hình không hay miền trong. Điều này không chắc g1 đúng thực, một
người kiệt hiệt như Bắc Bình vương đâu có cần làm sự ám muội như
thế. Có thế đây chỉ là một tai nạn.
QUÂN TÂY SƠN RA ĐÁNH BẢC HÀ LAN THỨ HAI - Bắc Bình
vương ở Phú Xuân thííy Hữu Chỉnh lừng lẫy ỏ dất Bác, lại mưu
lấy lại Nghệ An thì không thể tha thứ. Sau khi anh em giảng hoà
rồi, sai Vũ Văn Nhậm ra đánh Bắc Hà, tháng 11 âl năm 1787, Ngô
Văn Sỏ và Phan Văn Lân đem quân ra Nghệ An phôi hỢp với Văn
Nhậm. Quân Tây Sơn ra đến Thanh Hoa, bộ hạ của Hữu Chỉnh là
Lê Duật bỏ chạy bị giết. Nguyễn Như Thái và Ninh Tốn vào chông
giữ. Sau một trận kịch chiến ở núi Tam Điệp giáp giới Ninh Bình,
Thanh Hoa, Thái hị bắn chết, Tôn chạy thoát thân. Hữu Chỉnh và
con là Hữu Du mang đại quân ra chông cự, bị Vũ Văn Nhậm phá ở
sông Thanh Quyết huyện Gia Viễn và ở Châu cầu phủ Lý Nhân.
Cha con thu tàn quân về Thăng Long.
Chiêu Thông bỏ kinh thành, chạy sang Kinh Bắc, sai Lê
Quýnh cùng 30 người tôn thất đưa hoàng gia lên Cao Bàng. Vua
cùng Hữu Chỉnh vê đóng ỏ núi Mục Sơn đất Yên Thế. Quân lính
bỏ trôn gần hết. Hữu Chỉnh vượt sông cầu đến vùng núi huvện
Việt Yên thì bị bao vây. Hữu Du bị bắt chém. Hữu Chỉnh chạy
ngược hướng bắc, ngựa bị thương, rồi bị bắt đóng cũi đưa về
Tháng Long. Vũ Văn Nhậm kể tội. sai xé xác.
Văn Nhậm sai người đi tìm Chiêu Thông không đưực, tôn Sùng
Nhượng công Lê Duy cấn lên làm giám quốc đê thu phục lòng người.
Bấy giờ, các quan không ai theo, Sùng Nhượng công ỏ trong điện, chỉ
có vài hoàng thân và mấy viên võ tướng, sớm tốì hầu hạ, còn thì
không ai tâu hỏi việc gì. Ngày ngày đi bộ sang dinh Văn Nhậm chầu
chực. Văn Nhậm cũng không biết xử trí ra sao. Người kinh thành
thấy vậy gọi Sùng Nhượng cỗng là thầy đề lại giám quốc.
Vũ Văn Nhậm vôA là tướng của chúa Nguyễn, bị quân Tây
Sơn bắt ở Gia Định năm 1786. Văn Nhậm xin hàng và được Thái
Đức mến tài gả con gái cho và phong tước. Khi Bắc Bình vương cử
Văn Nhậm đi đánh Nguyễn Hữu Chỉnh thì đã có lòng ngờ Văn
Nhậm nên sai Ngô Vàn sở và Phan Văn Lân làm thám tán quân
vụ để chia bớt binh quyền. Sau khi lấy được Thăng Long và bắt
395
được Hữu Chỉnh, Văn Nhậm cậy tài, ra bộ kiêu ngạo, có mưu đồ
gây dựng riêng cho mình một giang sơn. Càng ngày càng tỏ vẻ
hông hách, tự ý lập Lê Duy c ẩ n làm giám quốc, thực tê chỉ có hư
vị. Ngô Văn Sơ đem ý ấy viết thư về nói Văn Nhậm muôn làm phản.
Bắc Bình vương kéo quân kỵ ngày đêm đi gấp đường ra Thăng Long
giữa canh tư, vào thắng dinh của Văn Nhậm, sai võ sĩ giết ngay tại
chỗ, rồi truyền gọi các quan văn võ nhà Lê cho vào yết kiến, đặt
quan lục bộ và các quan trấn thủ, vẫn đê Lê Duy c ẩ n làm giám
quốc, chủ trương việc tế lễ, cử Ngô Văn Sơ lên thay Vũ Văn Nhậm,
dùng Ngô Thì Nhậm làm lại hộ tả thị lang. Các quan nhà Lê có Ngô
Thì Nhậm, Phan Huy ích, Nguyễn Thế Lịch, Vũ Văn Tấn... ở lại
nhận chức, có người trốn đi, cũng có người tuẫn tiết.
Bắc Bình vương đối đặt quan quân, chỉnh đốn mọi việc, để
bọn Ngô Văn Sở ở lại giữ đất Bắc Hà, rồi trở về Phú Xuân. Từ đấy,
Bắc Hà thuộc vùng đất do Bắc Bình vương cai quán.
Có thuyết Bắc Bình vương đã định hội bô lão quan viên
khiến họ tôn mình lên làm vua, nhưng khi xem xét lại kỹ dân tình
thấy lòng người Bắc Hà vẫn còn tưởng nhớ nhà Lê nên sau lại thôi
công nhận Lê Duy c ấ n làm giám quốíc.
Khi quân Tây Sơn chiếm kinh thành, Chiêu Thống chạy sang
Kinh Bắc, trấn thủ Nguyễn cảnh Thước đóng cửa thành không ra
đón tiếp, lại còn dung túng thủ hạ cướp bóc những người di theo vua,
chúng còn tước cả áo bào của vua. Sau khi Hữu Chỉnh bị bắt rồi,
Chiêu Thông đến nương nhờ các thổ hào, chiêu mộ (|uân cần vương ở
vùng Hải Dương. Nhưng Ngô Văn Sơ sớm dẹp tan dược những toán
cần vương yếu ớt này. Chiêu Thôhg chạy trôh nay đây mai đó, khi
Hải Dương, khi Sơn Nam, khi Thanh Hoa, cùng với mấy người trung
nghĩa lo sự khôi phục, thế lực ngày một suy kém. Bề tôi như bọn
Đinh Tích Nhưỡng giơ mặt làm phản, còn thì trôh tránh. Sau lại trở
về Kinh Bắc ẩn náu ở vùng Từ Sơn, Phượng Nhăn.
Trong bước được cùng, Chiêu Thông sai Lê Duy Dán và Trần
Danh An mang quốc thư sang cầu nhà Thanh bên Trung Quốc.
Bọn Lê Quýnh đưa thái hậu và hoàng gia lên Cao Bằng, rồi vượt
biên giới sang Quảng Tây cầu xin quan nhà Thanh che chở.

QUÂN MÃN THANH XÂM LƯỢC


ÂM MƯU ĐEN TỐI CỦA NHÀ THANH - Không còn hy vọng người
nước “cẩn vương”, Chiêu Thông chỉ còn trông chờ quân đội nhà
Thanh sang cứu viện. Bọn Lê Quýnh đưa thái hậu vào hoàng gia
396
sang Quảng Tây được tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh đôi xử tô"t. Thái
hậu xin với quan nhà Thanh giúp đỡ, tâu xin vua Thanh cử binh
tướng sang quân Tây Sdn. Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị bàn
với liêu thuộc: Nuớc Nam xưa thuộc Hán, Đường. Nay thòi thế đổi
thay, người nước không giữ nối. Đây là cơ hội tốt cho ta chiếm lấy
làm quận huyện. Tôn Vĩnh Thanh dè dặt hơn nói: Đem quân ra
ngoài biên giới là việc lớn, lợi hại không phải nhỏ. Nguyễn Huệ lại là
người anh tài. Chi bằng đóng quân không đánh, đợi Lê và Tây Sơn
đánh nhau, cả hai hên mỏi mệt, bấy giờ sẽ thừa cơ chiếm lấy.
Tôn Sĩ Nghị dâng biểu lên vua Thanh Cao Tông, niên hiệu
Càn Long: An Nam là đất cũ của Trung Quốc. Nếu phục hưng nhà
Lê rồi, đặt thú hĩnh giữ lấy nước, thê là vừa phục tồn nhà Lê, vừa
được đất An Nam, cả hai việc.
Càn Long tán thành, điều động binh sĩ bôn tinh Quảng
Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu, tất cả 29 vạn người, kế cả
chiến binh và dân phu, chia làm bôn đạo, do Tôn Sĩ Nghị tổng chỉ
huy, tiến vào xâm lược nước ta. Đạo quân thứ nhất do Tôn Sĩ Nghị
và đề đốc Hứa Thế Hanh chỉ huy theo đường Lạng Sơn tiến vào
Thăng Long. Đạo thứ hai do tri phủ sầm Nghi Đông chỉ huy, theo
đường Cao Bằng tiến xuôLg. Đạo thứ ba do đề đôc 0 Đại Kính chỉ
huy, theo đường Tuyên Quang tiến xuông, đóng ơ Sơn Tây. Đạo
thứ tư quan vùng Vạn Ninh, Quảng Yên tiến vào đóng Hải Dương.
Càn Long vạch phương hướng chiến lược, triệt để lợi dụng
mâu thuận giữa nhà Lê và Tây Sơn, để chiếm nước ta dễ dàng,
bảo Tôn Sĩ Nghị: Việc quân không nên hấp tấp. Hãy đưa hịch
truyền thanh thế khiến vua quan nhà Lê hỢp nghĩa binh đi đánh
trước, thử xem sự thề thế nào. Nếu ngvíời Nam thuận theo Lê tất
gắng sức đánh Nguyễn Huệ. Đại binh đến sau, không khó nhọc
mấy mà nên công. Nếu người Nam nửa theo đằng nọ, nửa theo
đằng kia, Nguyễn Huệ không chịu lui thì hãy dụ Nguyễn Huệ quy
thuận, ta làm ơn cả cho hai bên, phong đất bắc cho tự quân, đất
nam cho Nguyễn Huệ. Đóng đại binh kiềm chế cả hai bên, rồi sẽ
xử trí sau.
QUÂN NHÀ THANH XÂM NHẬP ĐẤT N ư ớ c TA - Mùa dông năm
1788, bôn đạo bộ hình nhà Thanh rầm rộ kéo sang nưỏc ta, không
gặp ngăn trở gì. Tướng giữ Lạng Sơn Phan Khải Đức hàng giặc.
Nguyễn Văn Diệm rút quân về Kinh Bắc. Ngô Văn Sơ ở Thăng
Long viết thư đứng tên giám quốc Lê Duy cẩn xin với Tôn Sĩ Nghị
hoãn binh. Giặc ào ạt kéo xuông tựa như nước vỡ bờ. Các tướng
397
bàn đặt phục binh nơi hiểm yếu đón đánh quân Thanh từ xa đến
đang mệt mỏi. Ngô Thì Nhậm bác bổ, nói: Hiện bộ thần nhà Lê
đâu cũng còn, họ sẽ báo cho giặc biết, chúng sẽ nhân kô của mình
làm kế của chúng đánh bại ta.
Thê giặc mạnh, liệu đánh lại không nổi, giữ cũng không
xong. Ngô Văn sở theo chủ trương của Ngô Thì Nhậm cho gọi
quân các nơi Sơn Tây, Hải Dương... về họp ở Thăng Long, mở cuộc
duyệt binh lớn ở bãi sông, rồi bí mật rút quân cá vê núi Tam Điệp.
Thuỷ quân chở các thuyền lương ra cửa biển Biện Sơn. Chia quân
phòng giữ các mặt thuỷ bộ thành phòng tuyến dài dọc theo núi
Tam Điệp đến Biện Sơn, có thể ngăn bước tiến của địch, lại làm
căn cứ xuất phát cho cuộc phản công sau này. Tạm thời đóng giữ
nơi đây đợi chờ Bắc Bình vương đem quân Thuận Hoá ra cứu.
Quân nhà Thanh xầm nhập bờ cõi nước ta như đi vào chỗ
không người, chỉ khi qua Phượng Nhãn gặp 1.000 quân của Phan
Văn Lân tập kích ở sông Nguyệt Đức. Toán quân này bị giặc đánh
bại, người chết tại trận, người bơi qua sông mùa dông giá lạnh bị
chết cóng, chết đuôi. Phan Văn lân cùng tàn quân phải chạy về
Thăng Long.
Ngay khi chúng vừa đột nhập đất nước, Chiêu Thông đã sai
người lên biên giới đón, nộp trâu, bò và rưỢu khao (Ịuân. Tôn Sĩ
Nghị kéo quân đến Kinh Bắc, Chiêu ThôKg ra chào mừng, rồi đi
theo quân Thanh. Ngày 20 - 11 âl năm 1788. Tôn Sĩ Nghị đưa
Chiêu Thông vào thành TJiăng Long. Sĩ Nghị đóng đồn ơ giữa hãi
về mé,nam sông Hồng, hắc cầu phao giữa sông đê tiện đi lại và
chia quân ra đóng giữ các nơi.
Ngày hôm sau, Sĩ Nghị làm lễ tuyên đọc tờ sắc của vua
Thanh Càn Long phong vua Chiêu Thông là An Nam quốc vương.
Chiêu Thông tuy đã thụ phong nhưng các tò văn thư đều
phải đề hiệu Càn Long. Chiêu Thông mời Sĩ Nghị vào đóng ở điện
Kính Thiên. Sĩ Nghị cho rằng nơi đó bất tiện cho việc hành binh,
nên đóng ở cung Tây Long gần bờ sông Hồng có cấu ])hao. Mỗi
buổi chầu xong rồi, Chiêu Thôhg đến dinh Sĩ Nghị chầu chực việc
cơ mật quân quốc. Vua cưỡi ngựa đi với mươi người lính hầu mà
thôi. Sĩ Nghị ngạo nghễ tự đắc, ý tứ đối xử với vua rất khinh bạc.
Có khi Chiêu Thông lại, không cho vào yết kiến, chỉ sai người
đứng dưới gác chiêng truyền ra: Không có việc quân quốc gì, xin
ngài hãy về cung nghỉ. Người bấy giò bảo riêng với nhau rằng;
Nước ta từ khi có đế vương đến giò, không thấy vua nào hèn hạ
398
đên thế. Tiếng rằng làm vua mà phái theo niên hiệu Trung Quốic
hoàng đế, việc gì cũng phải bấm với quan tổng đốc, thì có khác gì
nội thuộc rồi không?
Vua và triều thần bấy giò việc gì cũng trông cậy cả vào Tôn
Sĩ Nghị, ngày đêm chỉ lo việc báo ân báo oán, giêt hại những người
trước đã đi theo Tây Sơn.
Tôn Sĩ Nghị từ ngày kéo quân vào Thăng Long được dễ dàng,
càng ngày càng chủ quan, kiêu ngạo. Nhân dân mấy năm bị thiên
tai và chiên tranh liên tiếp, nay lại bị quân Thanh kéo vào cướp
phá càng thêm điêu đứng. Hàng ngày, nhân dân Thăng Long và
các vùng phụ cận phái nộp bò, lợn, gà vịt, thóc gạo, ti’e nứa. Đã
thế, quân Thanh còn ra cướp phá dân gian, làm lắm diều nhũng
nhiễu. Vì thế mất cả lòng ngưòi tin cậy.
Chiêm đóng Thăng Long cả tháng. Tôn Sĩ Nghị vần án binh
hất động. Các quan nhà Lê sôt ruột, xin xuất quân. Sĩ Nghị còn
muôn nghỉ ngơi, ăn tết, cần gì phải hấp tấp dánh vội. Đến ngày 23
- 12 âl, nghe tin quân Tây Sơn đã tiến ra Nghệ An, Thanh Hoa,
mới vội vã cho quân đi đóng giữ các nơi hiểm vếu trên các ngả
đường, đại quân sáng chiều tập dượt chuẩn bị tác chiến.

VUA TÂY SƠN

NÍỈIIYỄN THẢI TỔ 1789 - 1792


huý HỔ THOM, HUỆ (1753 - 1792)
N iên h iệu : Quang Trung

BẮC BÌNH VƯƠNG XƯNG ĐẾ - Nguyễn Huệ, trước cỏ tên là Hồ


Thơm, sinh nàm 1753, tại Kiến Thành ấp Tây Sơn, phủ Quy Nhơn.
Nám 1771, khởi binh cùng anh Nguyễn Nhạc chông dôl chúa Nguyễn
và quôc phó Trương Phúc Loan. Năm 1755, đánh hại Tông Phúc Hợp
chiêm lại phủ Phú Yên, được chúa Trịnh Sâm phong là Tây Sơn hiệu
tiền phong tướng quân. Năm 1776, Tây Sơn vương phong làm phụ
chính. Năm 1777, vào dánh Gia Định lần thứ hai (đánh Gia Định lần
thứ nhất do Nguyễn Lữ cầm đầu năm 1776). Năm 1778, vua Thái
Đức phong làm Long Nhượng tướng quân. Năm 1782, vào đánh Gia
Định lần thứ ba. Năm 1783, đánh Gia Định lần thứ tư. Đầu năm
1785 đại phá quân Xiêm La tại Rạch Gầm Xoài Mút. Năjn 1786, hạ
thành Phú Xuân rồi kéo quân ra hắc diệt họ Trịnh. Trung ương hoàng
đê Thái Đức, năm 1786, gia phong làm Bắc Bình vương.
399
Năm 1788, quân Thanh xâm nhập đất nước ta. Nqcàv 2 4 - 1 1
âl, Bắc Bình vương nhận được tin Ngỗ Văn sỏ cáo câ'p quân Tôn Sĩ
Nghị đã chiếm đóng Thăng Long, hội các tướng sĩ bàn việc đem
binh ra đánh, sai đắp đàn ở núi Bàn Sơn (Ngự Bình). Ngày hôm
sau, 2 5 - 1 1 âl, làm lễ tế trời đất, đăng quang lên ngôi hoàng đế,
lấy niên hiệu là Quang Trung, rồi tự mình thông lĩnh thảy bộ đại
binh tiến ra bắc đánh quân Thanh. (Tờ chiếu ban ra nói có hoàng
huynh tự nhún mình làm Tây vương).
QUANG TRUNG ĐẠI PHÁ QUÂN NHÀ THANH - Đại (Ịuân rầm rộ
bắc tiến, ngày 2 9 -1 1 tới Nghệ An, nghỉ lại 10 ngày, tuyển thêm lính
mới. Người nước đua nhau ra tòng quân. Quân số được đến 10 vạn,
có hơn 100 thớt voi. Quang Trung mở cuộc duyệt binh lón, tuyên dụ
nhủ bảo mọi người phải cô" gắng đánh giặc cứu nưỏc, cho vời ẩn sĩ
Nguyễn Thiếp ở núi Thiên Nhận, giáp giới hai tỉnh Nghệ An và Hà
Tĩnh, ra hỏi ý kiến. Nguyễn Thiếp thưa: Nay trong nước trông
không, nhân tâm tan nát. Quân Thanh từ xa đến. không rõ tình
hình quân ta yếu mạnh thế nào, nên tiến, thủ ra sao. Chúng cậy
đông, khinh địch. Nếu đánh gấp đi thì không ngoài 10 ngày sẽ phá
tan. Nếu trì hoãn, sẽ gặp khó khăn. Quang Trung hỢp ý, khen phải.
Qua Thanh Hoa, cũng tuyển thêm lính mới, ngày 20 - 12 âl,
tới núi Tam Điệp, hỢp binh với quân Ngô Văn sở. Quang Trung
tán thành kế hoạch của Ngô Thì Nhậm không đặt phục binh đón
đánh giặc và rút lui tránh thế mạnh của giặc là đúng, tuyên bô":
Bè lũ quân nhà Thanh sang phen này là mua lấy cái chết mà thôi.
Ta thân ra coi việc quân đánh giữ đã định mẹo rồi, dánh đuôi
chúng chẳng qua mười ngày là xong việc. Truyền mỏ tiệc khao
quân, cho ăn tết nguyên đán trước, hẹn ngày khai hạ 7 - âl sẽ ăn
mừng chiến thắng trong thành Thăng Long.
Bấy giờ đạo binh của tri phủ Điền Châu sầm Nghi Đông
cũng đã đến Thăng Long hội quân. Đại bán doanh của Sĩ Nghị
đóng ở cung Tây Long. Đạo quân chủ lực đóng trại ở bãi cát hai
bên bờ sông Hồng và bắc cầu phao qua lại. Quân sầm Nghi
Đông đóng tại Khương Thượng, khu gò Đông Đa (Hà Nội ngày
nay). Trên con đường chính từ phía nam vào thành, quân
Thanh lập nhiều đồn luỹ kiên cô", như Thanh Quyết, Nhân Tảo,
Hạ Hồi, Ngọc Hồi, Văn Điển. Chung quanh thành Thăng Long
có nhiều đồn luỹ hảo vệ như Khương Thượng, Yên Quyêt, Nam
Đồng, Nhân Mục... Tôn Sĩ Nghị chủ quan, khinh địch, thả lỏng
cho quân sĩ nghỉ ngơi, ăn tết.
400
Đạo quân Vân Nam do đô đôc ỏ Đại Kính chỉ huy đến sau,
đóng ở mạn Phú Thọ, Vĩnh Yên ngày nay, xưa thuộc Sơn Tây.
Đe giặc thêm kiêu, ngay trước khi xuất quân, Quang Trung
sai Trần Danh Bính mang bẩm văn đến Tôn Sĩ Nghị, nhân danh
giám quốc Lê Duy cẩn và quần thần văn võ, xin Tôn hãy cho đóng
quân ở trấn Nam Quan, đê tra xét tình hình nhà Lê và Tây Sơn.
Sĩ Nghị xé bẩm văn, tuyên bố sẽ đánh thắng vào Quáng Nam.
Trong khi quân Thanh mải mê vui chơi ăn tết thì quân Tây
Sơn sửa soạn đế đến hôm trừ tịch xuất quân đánh mạnh. Quang
Trung ra lệnh điều khiển:
Đạo quân chủ lực gồm bộ binh, tưỢng binh, kỵ binh, đánh
thẳng ra phía nam thành Thăng Long. Đại tư mã Ngô Văn sở, nội
hầu Phan Ván Lân chỉ huy tiền quân, Hám Hổ’ hầu đem hậu quân
đi đốc chiến. Trung quân do Quang Trung trực tiếp đíim nhiệm.
Đô Đốc Lộc, đô đổc Tuyết đem thuỷ quân vượt biên vào sông
Lục Đầu. Tuyết sẽ kinh lược mặt Hái Dương, tiếp ứng đường mé
đông Thăng Long. Lộc kéo quân vê vùng Lạng Giang, Phượng
Nhỡn, Yên Thế, chặn đường giặc chạy về.
Đô đổc Bảo, đô đốíc Mưu đem quân voi, ngựa đi tắt đường núi
ra đánh phía tây. Mưu xuyên qua huyện Chương Đức (nay là
Chương Mỹ), tiến đến làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, uy hiếp
mặt tây Thăng Long, tấn công đồn Khương Thượng. Đô đốc Bảo
thông xuất quân tượng mã theo đường huyện Sơn Lăng ra làng
Đại Ang, huyện Thanh Trì, tiếp ứng mặt tả đại quân.
Các đạo quân được lệnh thu xếp đâu đấy, đến ngày trừ địch
(30 tháng chạp âl) rầm rộ bắc tiến. Đại quân do Quang Trung trực
tiếp chỉ huy qua bến đò Gián Khẩu (thuộc Ninh Bình), giáp Hà
Nam, quân nhà Lê do Hoàng Phùng Nghĩa chỉ huy tan vỡ bỏ chạy
vê sông Thanh Quyết, khúc sông Đáy thuộc huyện Thanh Liêm.
Quân Tây Sơn đuổi theo đến huyện Phú Xuyên, bắt dược hết toán
quân Thanh. Vì thế, do không ai báo nên quân Thanh các đồn
phía ngoài không hay biết gì hết.
Đêm mùng 3 tết (28 - 1 - 1789), đại quân đến Hà Hồi, vây kín
đồn giặc trong lúc chúng còn đang mải mê vui chơi ăn tết. Quân ta
reo hò ầm ĩ, giặc hoảng sỢ tướng đông lắm nên khi vừa nghe tiếng
loa kêu gọi chúng quy hàng thì vội vã xin hàng ngay. ()uân ta thu
được nhiều lương thực và khí giới.
Hạ đồn Hà Hồi không mất một viên đạn khích động lòng
quân háng hái tiến thẳng ra công đồn Ngọc Hồi. Đồn này nằm
401
trên đại lộ ra Thăng Long, nay là giữa phô" Quán Gánh và ga Văn
Điển, là vị trí bảo vệ Thăng Long. Tôn Sĩ Nghị cử phó tướng Hứa
Thế Hanh trấn giữ với số quân lớn. Chung quanh đồn có cắm
nhiều chông sắt và chôn nhiều địa lôi, mặt thành dặt nhiều súng
lớn. Nhận rõ tầm quan trọng của đồn, Quang Trung tập trung lực
lượng to lớn, quyết tấn công diệt giặc. Hứa Thê Hanh hay tin Hà
Hồi thất thủ và quân Tây Sơn đang tiến, cho kỵ binh di đón đánh.
Ngựa của giặc thấy voi của ta, hoảng sỢ chạy trở về. Quân ta thừa
thế đánh bừa lên, chúng rối loạn bị chết nhiều. Quân ta truy kích sát
đồn thì trời vừa sáng. Hôm ấy là ngàv mùng 5 tết. Giặc trong đồn
bắn súng ra dữ dội. Quanh Trung sai lấy những mảnh ván, ghép ba
mảnh làm một, phủ rơm cỏ xấp nước ở ngoài, thành những lá chắn,
sai quân khiêu dũng 20 người một mảnh, mỗi người giắt một dao
nhọn, lại có 20 người cầm khí giới theo sau. Giặc bắn riết nhưng đạn
vào lá chắn vô hiệu. Quang Trung cưỡi voi đi sau đốc chiến. Quân ta
vào đến gần đồn, bỏ ván xuốhg đất, rút dao ra, xông vào chém giết
giặc. Quân đi sau cũng tới, ùa nhau xung kích rất hăng hái. Quân
Thanh địch lại không nổi, hoảng sỢ bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên
nhau, nhảy cả vào chỗ chôn địa lôi, bị chết và bị thương rất nhiều. Sô"
tàn quân sống sót bỏ chạy, đồn Ngọc Hồi hạ xong.
Trong khi đại quân đang đánh đồn Ngọc Hồi thì hai cánh
quân của đô đốc Bảo và đô đốíc Mưu (LSVN 1977 chép đô đổíc
Đông) cũng đã tiến vào bao vây các đồn giặc ơ phía tây. Quân
Thanh đồn Ngọc Hồi thua chạy trên đê Yên Ninh, gặp toán quân
ta mở cờ gióng trông tiến ngược lại làm kê nghi binh. Chúng sỢ
hãi, chạy về phía làng Đại Áng, lại gặp cánh quân của đỗ đốc Bảo
dồn về phía Đầm Mực, làng Quỳnh Đô, Thanh Trì thúc voi dày
xéo, chết hại hàng vạn người.
Đồng thời, cánh quân của đô đốc Mưu (Đông) kép đến làng
Nhân Mục, chọc thẳng vào đồn Khương Thượng. Trận chiến vô
cùng kịch liệt diễn ra ở nơi đây. Quân ta vừa thắng luôn mấy trận
trước, càng hăng hái xung kích. Quân Thanh không đường thoát,
bị giết chết vô kể, thây nằm ngổn ngang đầy đường. Các tướng
nhà Thanh đô đốc Hứa Thế Hanh, tiền phong Trương Sĩ Long, tả
dực Thượng Duy Thăng đều tử trận. Tri phủ sầm Nghi Đông đóng
ở Đông Đa bị vây đánh ngặt, thế cùng, thắt cổ’ tự tử. Sau khi hạ
các đồn Ngọc Hồi, Khương Thượng cùng lúc, quân ta thừa thắng
tiêu diệt các đồn Văn Điển, Yên Quyết, rầm rộ kéo thắng vào
Thăng Long.
402
Đán d ó
Q U À N T À Y S Ơ N ĐẠI P H A QUÀN THANH

Ngày mùng 5 tết, Tôn Sĩ Nghị nghe tin quân Tây Sơn đánh
đồn Ngọc Hồi, sai Dương Hùng Nghiệp đem kỵ hinh đi cứu viện.
Chúng vừa ra khỏi thành thì nghe tiếng nổ liên hồi ở phía tây bắc.
Liền đó lại hay tin các đồn Ngọc Hồi, Khương Thượng đều bị hạ,
các tướng đã chêt, Tôn Sĩ Nghị hoảng hô"t, không kịp mặc áo giáp,
thắng yên ngựa, cùng một số kỵ binh chạy vọi ra bờ sông Hồng,
vượt qua cầu phao. Quân Thanh thấy chủ tướng bỏ chạy cũng
nhôn nháo chạy theo trôn tránh, xô đẩy nhau tranh sang cầu. cầu
đổ, chúng sa cả xuông sông, chết đuôi vô sôl
Chiêu Thông và gia quyến chạy ra bờ sông, cướp thuyền
đánh cá, chèo qua sông theo Tôn Sĩ Nghị.

Nhà Lê ỏ ngôi vua đến đây là hết.


Dòng Hậu Lê (Lê trung hưng) gồm 16 vua, giủ ngôi 256 năm.
Các vị này đều không có tài đức, công nghiệp gì. Trang Tông và Trung
Tông được dựng lên ngôi do là con cháu vua Lè tiền triều, đến các vị
403
sau lại là người họ xa (dòng dõi ông anh vua Ivê Thái Tổ). Không có
riêng lực lượng gì, không nắm được quán đội, các vua Hậu Lê trước
sau hoàn toàn chi’ có hư vị. Mọi quyền hành trị nước đều do nhà chúa.
Đến vua Chiêu Thống được nhà Tây Sơn trả lại quyền chính thì lại vô
tài bất đức không giữ được quyền, sau lại đi cầu viện nhà Thanh bên
Trung Quốc, rước voi về giày mồ. May nước nhà còn có người anh
hùng Quang Trung ra tay kinh tế, giữ vững được nền độc lập, khỏi bị
sa vào vòng nội thuộc nhà Mãn Thanh.

Đoàn quân Vân Nam, Quý Châu do ô Đại Kính chỉ huy đóng ở
mạn Vĩnh Yên nghe tin đại quân Than tan vỡ bỏ chạy, cũng vội vã rút
lui về nước, ngược dòng sông Hồng. Quân ta không kịp đánh đuổi theo.
Chiều mùng 5 tết, Quang Trung áo bào đen xạm khói thuốc
súng dẫn đại binh cùng 80 thớt voi vào thành Thăng Long. Sang
ngày khai hạ, mùng 7, làm lễ ăn mừng chiến thắng.
Tôn Sĩ Nghị dẫn tàn quân chạy về nước, đến Phượng Nhỡn
(Bắc Giang) bị cánh quân của đô đôc Lộc đón đường chặn đánh. Sĩ
Nghị vội quang cả sắc thư, ấn tín, cò hiệu bản đồ, cùng hộ hạ luồn
rừng chạy về biên giới.
Chỉ trong 5 ngày đêm, từ 30 đến mùng 5 tết, quân dân ta
dưới sự chỉ huy của người anh hùng áo vải Quang Trung đã quét
sạch 29 vạn quân Thanh ra khỏi bò cõi. Đâv là chiến công oanh
liệt vào bậc nhất trong lịch sử chông ngoại xâm. <
Vua Quang Trung Nguyễn Huệ trong 4 năm hai lần đại
thắng quân xâm IvíỢc Xiêm La và Mãn Thanh, làm vẻ vang cho
giống nòi, thật là một vị anh hùng kiệt xuất, tiếng thơm để lại
muôn thuở về sau.
VIỆC BANG GIAO VỚI NHÀ THANH BÊN TRUNG QUỐC - Quang
Trung toàn thắng quân Thanh, vào Thăng Long hạ lệnh chiêu an,
gọi những người Hoa trôn tránh ra thú, đều cấp cho áo mặc, lương
ăn. Quân ta có bắt được ấn tín của Tôn Sĩ Nghị bỏ lại. trong các
giấy má, có tờ mật dụ của Càn Long căn dặn Sĩ Nghị. Xem tờ
chiếu này thấy rõ vua Thanh chang vị gì nhà Lê, chang qua chỉ
mượn tiếng để lấy nước ta. Quang Trung bảo với Ngô Thì Nhậm:
Nay quân Thanh bị ta đánh thua, tất lấy làm xấu hổ, chắc không
chịu để yên. Hai nước đánh nhau thì chỉ khổ dân. Vậy nên dùng
lời nói khéo, để khiến cho khỏi sự binh đao. Đợi mươi năm nữa,
nước ta dưỡng sứ c được phú cường rồi thì ta không cần phải sỢ
chúng nữa.
404
Ngô Thì Nhậm vâng lệnh làm tò biểu đại khái nói ràng: Nước
Nam vôn không dám chông cự với nước lớn nhưng chỉ vì Tôn Sĩ
Nghị làm lỡ việc nên phải thua. Nay xin tạ tội và xin giáng hoà.
Khác hắn với bài biếu của Bình Định vương đứng tên quốc
vương Trần Cảo đệ lên vua Minh do Nguvễn Trãi soạn lời lẽ cực
kỳ mềm mỏng, bài biểu của vua Quang Trung gửi lên vua Thanh
do Ngô Thì Nhậm soạn, lời lẽ rất cứng cỏi, trong có đoạn: ôi,
đường đường là thiên triều lại đi tranh hơn thua với tiểu di, thì tất
phải chiến tranh liên miên để thoả lòng tham, cuộc binh đao lại
diễn, dân chúng hị khố hại, thì dó là điều mà tấm lòng của bậc
thánh nhân không nỡ làm. Trong thư gửi Thang Hùng Nghiệp,
tướng nhà Thanh ỏ Quảng Tây, người mà Quang Trung nhờ
chuyên tờ biểu lên vua Càn Long, cũng tỏ thái độ kiên quyết: Nếu
thiên triều không khoan dung cho phần nào, cứ muôn tranh
chiếm, muôn một xẩy ra binh đao kéo dài tình thê vỡ lơ, nước nhỏ
không được hết lòng thò nước lớn thì chúng tôi cũng đành phải
theo mệnh tròi mà thôi.
Quang Trung sai sứ sang Trung (ìuôc, lại sai đưa những
quân Thanh bị bắt và đầu hàng để ỏ một nơi, cấp cho lương thực,
đợi ngày cho trở về nước.
Bên Trung Quôh, Càn Long nghe tin Tôn Sĩ Nghị bại binh,
sai quan nội các Phúc Khang An, người Mãn Châu thân tín, ra
thay Tôn Sĩ Nghị làm tổng đốc Lưỡng Quảng, đem binh mã 9 tỉnh
sang kinh lý việc An Nam.
Phúc Khang An ra đến Quảng Tây, nghe tiếng thê quân Tây
Sơn mạnh lắm và tài dụng binh của Quang Trung rất cao nên lòng
cũng lo ngại, có ý muôh hoà, sai người mang thư nói việc lợi hại và
bảo nên làm biểu tạ tội đê tránh việc binh đao. (Trong sách Lịch
sử Việt N am 1977, Nguyễn Phan Quang viết: Chính Càn Long tự
hiến kế hoạch giảng hoà, chỉ thị cho Phúc Khang An dụ Quang
Trung quy thuận, không phải dùng đến binh lực là hay hơn cẳ).
Quang Trung sai người đem vàng bạc đút lót cho Phúc
Khang An, rồi sai Nguyễn Quang Hiền và Vũ Huy Tấn đem đồ
công phẩm sang Yên Kinh, vào chầu vua Thanh và dâng biểu
xin phong. Lại đem tiền bạc đút lót cho Hoà Thân, quan coi việc
biên viễn. Bấy giò, ngoài có Phúc Khang An, trong có Hoà Thân,
dùng lòi nói khéo với Càn Long hỢp ý. Càn Long phong Quang
Trung làm An Nam quôh vương, lại giáng chỉ vòi quôh vương
sang chầu.
405
Để vớt vát thể diện, nhà Thanh đòi bên ta phái lập đền thò
ba tướng thiệt mạng nơi sa trường là đề đôc Hứa Thê Hanh và hai
tổng binh Trương Triều Long và Trương Duy Thăng. Quang
Trung đành nhượng bộ, không quá cứng rắn. Hoa kiều ở Thăng
Long lập đền thò thái thú sầm Nghi Đông, nay là ngõ sầm Công,
sau Hàng Buồm, Hà Nội.
Phúc Khang An khỏi phải động binh, việc rất nguy hiếm,
đang lo sỢ phải chịu sô phận của Liễu Thăng, Tôn Sĩ Nghị, lại
được đút lót vàng bạc, e ngại Quang Trung không chịu sang
chầu, hiên thư khuyên nên dùng người hình dung giôAg mình đi
thay. Quang Trung chọn Phạm Công Trị trá làm quôc vương,
sai Ngô Văn sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy ích, Vũ Huy Tấn
đưa sang Yên Kinh, vào chầu vua Thanh. Ngoài những phẩm
vật phải công, lại thêm đôi voi đực, khiến cho các cu ne trạm dọc
đường phải phục dịch đưa đón vất vả. Tổng đôc Lưỡng Quảng và
tuần phủ Quảng Tây phải đưa quôh vương An Nam giả vào
kinh. Đến nơi, Càn Long vời vào chầu ở Nhiệt Hà, cho vào làm
lễ ôm gôl như cha con một nhà và cho án yến với các thân
vương. Đến lúc về nước, lại sai thợ vẽ bức truyền thần ban cho
ân lễ thật hậu.
Bắc sử có chép về việc đón tiếp nàv, nhà Thanh phái tiêu hết
800.000 lạng bạc, do mỗi ngày 4.000 lạng (Rất có thể quan lại Hoa
đã bớt xén).
Cũng có thế Càn Long thừa biết sự giả mạo nhưng cứ làm lơ
đi. Vua này là người Mãn Thanh chỉ cần lấy le với quốc dân người
Hán rằng có quốc vương An Nam sang chầu.
Trong việc bang giao với nhà Thanh, năm sau Quang Trung
có đòi đất 7 xã châu Thuỷ Vĩ, trấn Hiíng Hoá trước kia bị xâm lấn
(Xã thời xưa nhất là 0 miền thượng du lớn lắm. bằng cả một
huyện). Mấy lần viết thư sai sứ bộ sang thương lượng với tổng đốíc
Lưỡng Quảng. Quan nhà Thanh nấn ná không chịu.
Đên khi Quang Trung khuất, Càn Long đặt tên thuỵ cho là
Trung Thuần, ngự chế bài thơ viếng, sai Thanh Lâm án sát
Quảng Tây sang tế.
LÊ CHIÊU THỐNG BỊ NHỤC BÊN TRUNG QUỐC - Chiêu Thống cùng
gia quyến theo tàn quân Tôn Sĩ Nghị vào thành Nam Ninh
(Quảng Tây). Phúc Khang An thay Tôn Sĩ Nghị, đã giảng hoà với
Quang Trung, mòi Chiêu ThôAg về Quế Lâm. Các hoàng thân và
cựu thần lục tục sang theo. Khang An dùng mấy người làm chức
406
thủ bị, đô tư, còn an trí mỗi người một nơi, chỉ để Lê Duy Án, Trần
Huy Lâm, Lê Doãn, Lê Dĩnh theo vua.
Vua tôi nhà Lê xin với Phúc Khang An tiến binh đi chinh
nam Khang. An nói đang hè nóng bức chưa tiện, hãy đợi sang thu
sẽ khởi binh. Khang An dụ Chiêu Thông nên gọt đầu thay áo làm
như người Hoa để khi về nước, địch không nhận được mặt. việc
binh cần phải biến trá. Chiêu Thông không ngờ l)ị đánh lừa, cùng
các quan gọt đẳu gióc tóc và đổi y phục. An Khang biểu tâu với
vua Thanh rằng: Vua cũ nước Nam Lê Duy Kỳ không có ý xin viện
binh nữa, vua tôi đã gióc tóc thay áo, xin yên tâm ỏ lại Trung
Quôc. Vậy xin bãi binh đánh An Nam. Hoà Thân cũng tán thành.
Càn Long liền giáng chỉ bãi binh.
Năm 1790, Chiêu Thông và các quan tòng vong vào Yên
Kinh. Càn Long cho Chiêu Thông cùng thái hậu, hoàng tử ỏ ngõ
Hồ Đồng, cửa Tây Định, ngoài cửa đề Tây An Nam dinh. Các quan
đi theo thì cho ở Dương Phô, cửa Đông Trực, ngoài cửa đề Đông An
Nam dinh. Vua Thanh phong xuất đê Chiêu Thông chức Tá Lĩnh
và ban áo mũ quan tam phẩm.
Chiêu Thống giận bị người Thanh đánh lừa, họp bày tôi ăn
thề sôKg chết thê nào thì cũng dâng biểu xin binh cứu viện. Quan
nhà Thanh Kim Giản thày các quan nhà Lê xin mãi. kêu khóc
thảm thiết, bèn mưu với Hoà Thân phân trí đi ỏ mỗi người một nơi
để khỏi kêu ca khó chịu, chỉ để vài người ở lại hầu hạ vua Lê.
Các người tòng vong này có Lê Quýnh không chịu gióc tóc
mặc áo quần như người Mãn Thanh, được khen là trung nhưng bị
bắt giam mãi. Lại có Nguyễn Văn Quyên theo háu Chiêu Thông
khi Chiêu Thống đi vào vườn Viên Minh bị lính canh ngăn cấm vô
lễ, liền nối giận mắng chửi chúng bị chúng xúm nhau đánh, về
thành bệnh mà chết.
Chiêu Thống buồn.bã, rầu rĩ, không còn xin viện binh nữa.
Tháng 3 âl năm 1792, hoàng tử lên đậu chết. Càng thôKg khổ,
Chiêu Thông phải bệnh đau ngày một nặng, đến tháng 10 âl năm
1793 mất, hưởng linh 28 tuổi.
Càn Long sai theo lễ tước công táng ở ngoài cửa Đông Trực.
Đến năm 1802, vua triều đại mới Gia Long sai sứ sang
Thanh cầu phong. Các quan nhà Lê tòng vong nhân dịp xin
đem hài côt cố quân, thái hậu và hoàng tử về nước. Vua Thanh
Nhân Tông, niên hiệu Gia Khánh cho mọi người tòng vong trở
về nước.
407
sử chép khi cải táng cố quân thấy da thịt nát cả, chỉ còn quả
tim không nát, vẫn đỏ như thường. Ai trông thấy cũng động lòng
thương xót.
Khi đem mả thái hậu, vua và hoàng tử về nước thì hoàng phi
Nguyễn Thị Kim, trước đi theo vua không kịp, ẩn núp ở đất Kinh
Bắc, nay lên đến ải quan đón rước, về Thăng Long, nhịn ăn mà tự tử.
Ngày 21 - 11 âl, rước mả "cô" quân, thái hậu, hoàng phi và
hoàng tử về táng (í làng Hàm Trạch thuộc Thanh Hoa.
Quang Trung đã phá tan quân xâm lăng mượn tiếng phù Lê,
trong nước vẫn còn một sô" cựư thần mưu sự phục Lê. Lê Duy Chí,
em ruột Chiêu Thông, đưỢc thố tù giúp đỡ, chiếm cứ châu Bảo Lạc
(Cao Bằng) đánh phá vùng Cao Bằng, Tuyên Quang, năm 1789,
đắp đồn luỹ, tích trữ lương thực, khéo lẩn lút nơi rừng núi khi
nhiều lần quân đội tiến đánh. Năm 1790. Duy Chí liên kết với các
lãnh chúa Vạn Tượng, Trấn Ninh, Quy Hợp mưu đánh úp Nghệ
An. Năm 1791, đô"c trấn Nghệ An Trần Quang Diệu tiến đánh vào
vùng Trân Ninh, tiến sâu vào đất Vạn Tượng. Đạo khác kéo lên
tiêu diệt căn cứ Bảo L<ạc. Lê Duy Chí bị bắt sông với một sô thô tù.
Các toán phục Lê khác: Lê Ban ở Nghệ An, Trần Quang
Châu, Dương Đình Tuấn ở Hải Dương, Bắc Giang, anh em Phạm
Đình Đạt ở Lạng Giang cũng đều lần lượt bị trấn áp.
ĐỨC ĐỘ VUA QUANG TRUNG - Quang Trung là vua anh dũng,
lấy vũ lược dựng nghiệp, có biệt tài dụng binh, kén chọn võ tướng
giỏi, lại có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, trọng dụng những
người hiền tài văn học. Khi ra bắc, nhiều sĩ phu Ngô Thì Nhậm,
Phan Huy ích, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Thế Lịch. Trẩn Bá Lãm,
Nguyễn Bá Lân... được trọng dụng. Thái độ cầu hiền của Quang
Trung rõ rệt nhất trong việc mòi Nguyễn Thiếp ra giúp việc.
Nguyễn Thiếp, danh sĩ đất Nghệ An, từng đậu giải nguyên, làm
huấn đạo rồi tri huyện dưới thời Lê, Trịnh. Bất mãn, từ quan về
ẩn trên núi Bùi Phong, huyện La Sơn, Hà dTnh, chuyên việc dạy
học, nổi tiếng học vấn uyên bác, người ta gọi là La Sơn phu tử.
Quang Trung biết tiếng, nhiều lần sai người mang thư và lễ vật
đến mòi ra giúp việc nước. Lời trong thư vòi, rất nhũn nhặn, tha
thiết. Ông không nhận lễ, từ chô"i không ra. Đến khi đăng cực, lại
mấy lần ân cần mòi nữa. cảm lòng thành thực của nhà vua, ông
có đến bái yết, khuyên vua nên lấy nhân nghĩa trị dân trị nước.
Quang Trung tôn kính ông như bậc thầy và việc chính trị thường
theo ý ông đã trình bày. Năm 1791, ông nhận chức viện trưởng
408
viện Sùng Chính, dịch các sách Hán ra chữ Nôm và góp nhiều ý
kiến về chính sách văn hoá giáo dục.
VIỆC CHÍNH TRỊ - Sau khi đánh đuối xong quân Thanh, Quang
Trung xếp đặt mọi việc rồi, đem đại quân về Phú Xuân, lưu Ngô
Văn Sỏ và Phan Văn Lân ở lại Bắc Hà tổng thông các việc quân
quôc. Những việc tư lệnh giao thiệp với Trung Quôc uỷ thác cho
Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích. Lấy thành Nghệ An là đất giữa
nước và lại là đất tô xưa ỏ đó sai thợ thưyền tái vận đá, gỗ, gạch,
ngói, sửa sang đền đài, cung điện, sai quân các đạo lấy đá ong về
xây thành Phượng Hoàng trung đô, định sẽ đưa triều dinh về ở
đấy. Cải thành Thăng Long là Bắc thành, chia đất Sơn Nam làm
hai trấn: Sơn Nam ThiỉỢng trấn lỵ sơ ơ Châu cầu (Phủ Lý ngày
nay), Sơn Nam Hạ trấn ly sỏ ỏ Vị Hoàng (Nam Định).
Mỗi trân đặt quán trân thủ là võ quan và hiệp trấn văn
quan. Mỗi huyện văn có chức phân tri đê xét việc kiện cáo, võ thì
đặt quan chức phân xuất đê coi việc binh lương. Các tổng có tổng
trương, xfx có xã trương phụ trách việc hành chính. Tại triều,
ngoài các trọng chức văn võ tam công, tam thiếu, đại chương tể,
đại tư đồ, dại tư khĩíu, đại tư mã, dại tư không, đại tổng quíìn, đại
đống lý... còn có các chức thượng thư trông coi bộ cùng với các viện
hàn lâm, viện ngự sử, v.v...
Dôi với quan lại cao cấp, thực hiện chê độ bổng lộc theo lôl
câp cho một sô xã, một sô đinh đê thu thuế. Chê dộ lộc điền không
còn nữa.
VIỆC VÕ BỊ - Quang Trung ra sức xây dựng quân đội mạnh mẽ
dế đối phó với tình thế, nhất là vì Nguyễn Phúc Anh đã chiếm lại
Gia Định. Đỗi với nhà Thanh, mối quan hệ bang giao trên cơ sở
giữ vững chủ quyển chỉ cỏ thể duy trì với lực lượng tự vệ hùng
mạnh. Khi đánh giặc Thanh, quân đội Quang Trung chia làm 5
cánh: trung, tiền, hậu, tả, hữu với quân số trên 10 vạn và vài trăm
voi chiến. Sau lập thêm nhiều quân hiệu mới như tả bật, hữu bật,
kiên thành, thiên cán. Các quân đội phiên chê theo đạo, rồi đến cơ
và đội. Chức trấn thủ ở trấn và võ phân xuất ở huyện là những tô
trưởng chỉ huy quân đội địa phương.
Năm 1790, Quang Trung sai lập lại sổ hộ khẩu quy định rõ
chê độ trưng tập quân lính. Dân chia làm 4 hạng theo tuối tá c :
hạng vị cập cách từ 9 đến 17 tuổi, hạng tráng từ 18 đến 55 tuôi,
hạng lão từ 56 đến 60 tuổi, hạng lão nhiêu trên 60 tuổi. Chính
quyền căn cứ sổ hộ khẩu, 3 suất đinh lấy một lính..Dân đinh được
409
cấp mỗi người một thẻ bài, khắc bôn chữ thiên hạ dại tín, thẻ ghi
tên họ, quê quán vả điểm chỉ làm tin (tựa như thẻ căn cước ngày
nay). Người nào cũng phải đeo thẻ ấy, gọi là tín hài. Ai không có
thẻ này là dân lậu, hắt xung vào quân phòng. Không phân biệt
giàu nghèo, sang hèn, việc lập hộ khẩu chỉ phân hiệt theo tuôi tác
là biện pháp tiến bộ cần thiết về mật quân sự, mà cá vể mặt kinh
tế, tài chính, ổn định trật tự xã hội.
Tố chức quân đội gồm thuỷ binh, bộ binh, kỵ binh, tượng
binh, pháo binh. Chiến thuyên có nhiều loại, loại lớn được voi
chiến, trang bị từ 50 đến 60 đại bác và chở được từ 500 đên 700
binh sĩ. Vũ khí, ngoài giáo, mác. cung tên... còn có súng trường,
đại bác gắn vào thuyền đặt trên mình voi và hoả hô là loại ông
phun lửa rất lợi hại.
VIỆC THUẾ KHOÁ - Chính sách thuê khoá đ(Jn gián. Ruộng
công chia làm ba hạng: hạng nhất mỗi mẫu phái nộp 150 bát thóc
(mỗi bát chừng 0,5 lít), hạng nhì 80 bát, hạng ba 50 bát. Lại thu
tiền thập vật mỗi mẫu một tiền và tiền khoán khô" mỗi mẫu 50
đồng. Ruộng tư cũng đánh thuế, hạng nhất 40 hát thóc, hạng nhì
30, hạng ba 20. Tiền thập vật cũng theo như ruộng công, còn tiền
khoán khô" 30 đồng.
Thuế nhân định thòi Lê, Trịnh mỗi xuất 1 quan 2 tiền và 4
bát gạo, thêm 6 tiền thuế điệu. Quang Trung bãi bỏ thuê điệu.
Dân Thanh Nghệ trước đây được miễn hay giám nhiều sắc
thuê do phải cung cấp lính túc vệ. Quang Trung thi hành thông
nhất mọi miền trong nước về thuế khoá.
Về thuế thổ sản và công thương nghiệp, Quang Trung cũng
bãi bỏ một sô" thuế nặng nề đô tạo điều kiện sản xuâ"t và kinh
doanh dễ dàng cho giới công thương. Việc thông thương vơi Trung
Quốc qua biên giới được miễn thuê".
VIỆC KHUYẾN NÔNG- Do loạn lạc kéo dài, nội chiên phân liệt
và kháng chiến chô"ng ngoại xâm, ruộng đất bị bỏ hoang rất nhiều.
Nông dân bị bần cùng, xiêu tán, nhiều xóm làng trd nên hoang
vắng. Mất mùa, đói kém, dân gian trôi dạt lưu ly. Quang Trung
ban bô" chiếu khuyên nông, đề ra biện pháp giải quyết nạn lưu
vong và tình trạng ruộng đất hỏ hoang, tận dụng sức lao động và
sản xuất nông nghiệp.
Dân phiêu tán đều phải trở vê quê quán nhận ruộng cày cấy.
Bọn lưu mạnh trôn sưu dịch ẩn núp trong các chùa phải hoàn tục,
trở về quê quán làm ăn lương thiện. Dân lưu tán trơ về quê được
410
cấp ruộng công cày cấy. Ruộng tư hỏ hoang phái tịch thu làm
ruộng công, cấp cho những người có sức lao động.
Nhờ đó, chỉ trong mấy năm, sản xuât nông nghiệp được phục
hồi nhanh chóng, mùa màng trở lại phong đăng, công thương
nghiệp phát triển.
VIỆC VĂN HỌC - Văn hoá, giáo dục phát triển. Quang Trung
đặc hiệt khác với các vua chúa tiền triều, hiết tôn trọng tiếng nói
của người nước nhà, trọng dụng chữ Nôm. Thứ chữ này xây dựng
trên cơ sớ chữ Hán, đã trơ thành văn tự dân tộc, ghi lại trung
thành tiếng nói của dân ta. Trong công việc cai trị, giấy tò thường
hay dùng chữ Nôm. Người Việt phái dùng tiếng Việt, đê gây thành
tinh thần nước nhà, văn chương đặc hiệt, không phải đi mượn
tiếng chữ của người Hán. Các chiếu chỉ, mệnh lệnh, cho đến văn tế
trời đất viết bằng chữ Nôm. Trong khoa thi, đáu dê ra và văn bài
của sĩ tử đều dùng chữ Nôm. Đây là bưức tiến hộ lớn vê văn hoá
dân tộc. Thòi bấy giờ, nhiều sĩ phu quá say mê văn học chữ Hán,
không hiếu rõ ý nghĩa hay ấy, cho nôm na là mách qué. Có người
, đã đến trường rồi mà lại bỏ không chịu vào dự thi.
Ngay từ năm 1789, đã mở kỳ thi hương (i Nghệ An để kén
chọn người có văn học ra làm quan. Giải nguyên Trần Văn Kỳ trở
thành bí thư đắc lực của nhà vua.
Việc học phổ hiến đến tận thôn xã. Trong chiếu Tập Học, Quang
Trung ra lệnh cho các xã lập nhà xã học, chọn người hay chữ và có đức
hạnh ra giảng dạy. Phủ huyện có chức huấn đạo phụ trách việc học.
Các địa phương sử dụng một số đền chùa làm ti’ường học.
Thòi bấy giờ, các giáo sĩ truyền dạo Gia Tô người Âu đã dùng
mẫu tự La tinh ghép vẩn để viết tiếng nước ta, tạo thành chữ quốc
ngữ ngày nay. Thứ chữ này, người học chóng biết đọc và viết. Còn
chữ Nôm thì phải thông chữ Hán mới học đọc học viết được mất
rất nhiều công phu, trong lâu năm học tập. Tiếc rằng xưa Quang
Trung không hiết đến thứ chữ quốc ngữ mẫu tự La tinh để bắt
buộc dân ta học ngay từ thời đó.
VIỆC LÀM CHÙA CHIỀN - Quang Trung thấy xã thôn nào cũng
có chùa chiền, mà những người đi tu thì ngu dôt, không mấy người
đạt được đạo cao siêu của nhà Phật, chỉ dùng lễ bái đánh lừa dân
ngu, ra lệnh bắt bỏ những chùa nhỏ, đem gạch gỗ làm ít chùa rất
to, rất đẹp, thường là ở các phủ huyện, đón những cao tăng có học
thức, đạo đức ỏ coi chùa thò Phật giảng kinh. Còn những thầy
chùa không xứng đáng thì hắt về hoàn tục lao động sản xuất. Y
411
Quang Trung muôn chỗ thờ Phật phai tôn nghiêm, ngiàii tu hành
phải là chân tu mộ đạo mới được.
Việc cải cách rất có ý nghĩa này không có đưỢc Iiìấv còng hiệu do
Quang Trung không thọ vả nhà Tây Sờn không t,i-ị vì dirợc lâu dài.
VIỆC MƯU ĐỊNH ĐANH TRUNG QUỐC - (ỉuang 'Pru ng d.ã cầu hoà
với Trung Quốic và chịu xưng thần nạp công, nhưng thâm tâm vẫn
muôn đánh lại và có cao vọng chiếm đất Lưỡng Quíing (Người
nước ta xưa nhiều người lầm tưởng Lưỡng Quẳng là dât cũ của ta,
do sự cùng thuộc đất nước Nam Việt nhà Triệu). Chịu phong,
nhưng Quang Trung một mặt vẫn trù tính việc chiến tranh, tổ
chức quân đội hùng mạnh. Rèn dúc vũ khí, dóng chiên thuyền, xe
vận tải, đợi ngày có đủ sức sẽ thực hiện mưu dồ.
Đe tiện sự bắt lính, việc lập sổ’ hộ khẩu, phát thé tín bài phải thi
hành ráo riết. Người nào cũng phải đeo thẻ này. Ai không có là dân lậu,
phải xung vào quân phòng. Xã trưởng, tống trưdng dung túng hay sơ
xuất là phạm lỗi nặng. Lại dịch thường xuyên đi lại hổi thé hắt nguừi ẩn
lậu. Nôn có sự nhũng nhiễu, có ngiíời phải trôn tránh vào trong rừng.
Số đinh làm xong, cứ ba đinh kén lây một lính.
Quân chia ra làm đạo, cơ, đội. Đạo thímg các C(). Cư thông các
đội. Cơ đội nào theo về cơ đội ấy, hắt phai diễn tập luôn luôn.
Thòi bấy giờ có những giặc Tàu 0 quấy nhiễu vùng biển
Trung Quốc, bị quân nhà Thanh đánh đuối, chạy sang xin phụ
thuộc bên ta. Quang Trung thu nạp, phong tướng Tàu o làm tổng
binh. Chting thường lại trở về cướp phá miền biên Trung Quổíc, bị
đánh lại chạy về ta. Có đến 100 chiến thuyền với 12 tổng binh
đưỢc phong ấn tín và bàng sắc. Lại có những ngitời thuộc đảng
Thiên Đại Hội nổi dậy ở Tứ Xuyên, Quang Trung cũng thu dụng
làm tướng quây phá và xem xét tình hình nhà Thanh.
Trong việc sửa soạn đánh Trung Quôc, Quang Trung có đem
phá huỷ một sô" chuông, khánh, chiêng và dồ thờ hằng dồng của
các đền chùa đem ra đúc tiền và đạn. Việc làm nàv không phải là
sai trái, nhưng phạm tín ngưỡng của dân chúng (Cho đến giừa thế
kỷ XX, nhiều ngôi chùa ở Bắc Việt còn truyền tụng việc triều Tây
Sơn đã đem phá chuông, khánh).
Năm 1792, Quang Trung sai sứ sang Trung Cịuôc xin cầu
hôn và xin trả lại cho nước ta đất Lưỡng Quảng. Việc không phải
bản ý, chỉ mưỢn chuyện thử ý vua Thanh. Không ngờ, Quang
Trung phải bệnh mất. Các quan dìm việc này đi, không đê cho
triều Thanh biết.
412
Vua Quang Trung Nguyễn Huệ là tướng tài. anh hùng kiệt
xuất, suô"t hai mươi năm cẩm quân, dự bao nhiêu chiến trận đều
thắng lừng lẫy, trận tiêu diệt 3 vạn quân Xiêm La trong một trận
chỉ như một cuộc hành binh tảo thanh. Oanh liệt nhất là .sự đánh
đuối 29 vạn quân Thanh chỉ trong năm ngày, làm vé vang cho
giông nòi. Say sưa men chiến thắng, Quang Trung có cao vọng đi
đánh Trung Quôc, lấy đất Lưỡng Quảng về nước ta nôn dã ráo riết
chuẩn bị chiến tranh.
Bình tĩnh và khách quan mà xét thì phải thừa nhận rằng việc
làm này của người anh hùng vào bậc nhất nước ta là sự điên rồ.
Quang Trung chỉ có thể nên mưu toan công cuộc này nếu cư dân
Lưỡng Quảng là người Kinh gốc Lạc Việt bị người Hán, người Mãn
thốiig trị áp bức, hằng mong đợi có người anh hùng đồng chủng đồng
bang đến giải phóng, cứu vớt khỏi vòng nô lệ, khi ây sẽ đua nhau ùa
theo mà chông lại chính quyền Trung Quốc. Nhưng dân Lưỡng
Quảng là người Hoa, những người Bách Việt xua dã bị hoàn toàn
Hoa hoá dưới các triều Hán, Đưòng, kê cả người Au Việt, bắc Hợp
Phô. Chúng coi người nước ta là lũ man di, xâm phạm díít thì chúng
hỢp tác với quân đội mà chông cự lại, chứ đâu có theo vể ta.
Kháng chiến chông quân đội ngoại quôc bùng mạnh xâm
lăng, tuy là việc nhỏ, nhưng không khó lắm. Nguời mình trên đất
nước mình, thuộc đường lôi, quen thủy thô, lại là cbién tranh tự
vệ, dân chúng nức lòng ủng hộ, nên vượt qua dược mọi khó khăn,
đưa đến thành công được. Đem quân di xâm dat nước người,
đường xá xa xôi, đi lại khó nhọc, lạ cảnh thô, không (Ịuen khí hậu,
chông chọi không phải chỉ với quân đội địa phương mà còn cả với
dân chúng địa phương nữa, họ sẵn sàng nổi dậy giúp quân đội của
chính quyền giữ nhà, giữ nước.
Chiếm được đất nước người đã khó. Đến khi đã đánh chiếm
được rồi thì quân đội trung ương và nơi khác sẽ đên cứu viện, liệu
có thế nào giữ vững mãi được không? Một vài lẩn không xong, bên
bị thua vẫn còn cố gắng trá thù theo đuổi mãi công cuộc đánh lấy
lại đất đã mất.
Cho rằng địch hèn yếu mấy chăng nữa thì cũng líhông thê nào
giữ vững vĩnh viễn được. Sớm muộn thì quân dân bán xứ cũng đánh
lấy lại đưỢc đất cũ. Mông, Mãn từng chiếm toàn thê Trung Quốc,
hùng mạnh là thế, mà rồi ra lại bị phụ thuộc vào 'rrung Quôc.
Xưa Lý Thường Kiệt sang đánh Tông, vây thảnh Ung Châu
42 ngày. Tri Ung Châu Tô Giám thất thế cho gia thuộc 36 người
413
chết trước, chôn xác vào hô xong rồi tự đcứ chết. Quân sĩ cảm
nghĩa không một ai chịu hàng. Lòng người như thê thì quân ta cố
đánh sao đưỢc.
Còn đât 7 xã bắc Hưng Hoá của ta. cuôl thê ký XVII bị quan
nhà Thanh lấn chiếm khi tù trưởng Vũ ('ông 'l'uàn ò 'ru\'ôn Quang
muôn Iv khai thì dân bản địa là người 'l'hái và ngiícii Dao, chứ
không phải người Kinh thông thuộc Trung (.ịuôc hay Dại Việt thì
đàng nào cũng phải chịu sưu dịch thuê má. (ịuân đội ta có sang
đánh lấy lại đất này thì dân chúng sẽ không lioan nghênh mà
cũng không chông đốl. Quang Trung nếu ctu' đòi lấy lại đất này thì
không cần đến lực lượng to lớn lắm. Nhiíng tiêc tha>'. ông dã mưu
chức quân đội hùng cưòng không quan sử flụng (|ua nhiều nhân
lực, vật lực quôc gia đê mưu đánh nước lớn. một việc khó thành
công tôt đẹp, khiến có điều nhân dân ta oán hận.
VIỆC CH U Ẩ N BỊ ĐÁN H NGUYÊN PHÚC ÁNH ở GIA ĐỊNH - Trong
khi Quang Trung tập trung lực lượng vào miền bắc thì Nguyễn Phúc
Anh ở Xiêm La trở về chiếm lại Gia Định. Hiếu r õ nguy C() phục hồi
của Phúc Anh, Quang Trung coi là quôc thù và quyêt tám tiêu diệt.
Sau khi dàn xếp xong việc hang giao vói nhà 'rhanh. (^uang
Trung định mỏ cuộc tấn công lớn vào Gia DỊnh. Dộ binh theo
đường núi qua Chân Lạp đánh vào Sài Côn. 'rhuỷ binh vúỢt biển
vào đáo Côn Lôn, rồi đổ bộ lên Hà Tiên, theo duừng Long Xuyên,
Kiên Giang đánh vào mặt trưức Sài Côn. (^uan cua 'l’hái Đức ở
(ịuy Nhơn đánh thắng xuông Biên Hoà. Với lực lượng quân
khoang 30 vạn người và kế hoạch tân công manh liệt, Quang
Trung sẽ tiêu diệt toàn hộ lực lượng của Phúc Anh.
Đầu năm 1792, 40 chiên thuyên tàu ó vào hoạt ilộng o' vùng
biến Bình Khang, Bình Thuận và (lánh phá vùng ven biến Gia
Định. Quang Trung gửi hịch cho quân dân Quang Ngãi, Quy
Nhơn, khuyên không nên sỢ hãi bọn Phúc Ánh với những người
Au châu mà sẵn sàng tiến đánh vào Gia Định.
Tiếc rằng kế hoạch chưa được thực hiện thì (ỉuang Trung ôm
chêt. Nêu ông còn sông thêm đ iíỢ c mày năm nữa thì tình hình
nước nhà có biến chuyên khác nhiều.
LUẬN VỂ VUA QUANG TRUNG - Tháng cS năm Nhâm Tý (16 - 9 -
1792), Quang Trung khuất, làm vua 4 năm, hưỏng linh 40 tuổi,
miếu hiệu Thái Tổ Võ hoàng đế.
Vua Quang Trung Nguyễn Huệ. sau cai là Nguyễn Quang
Bình, là vua hiền tài mơ nước, anh hùng xuất chúng, uy vũ oanh
414
liệt, đánh trăm trộn trăm thắng, (liệt quân Xiêm l.a và đại phá
quân Thanh xâm lư(Jc. Việc cai trị thì phát triển kinh tẻ va văn học,
chấn hưng nông nghiệp, mở trường h()c tại các xã, tôn tipng sĩ nhân,
đặc hiệt khác người hiêt quý tiêng nói cua người nước nhà, dùng chữ
Nôm trong giấy tờ việc công cũng nhif trong thi cử. Ong rất đáng được
quý trọng nhưng không phải việc làm nào của ông cũng hay, cũng tốt.
Xét ông đã phạm mấy điểu đáng trách. Đã đem đại quán Phú Xuân
vảo vây Quy Nhơn, đánh vua Thái Đức là anh ru()t. ('hiên sự kéo dài
đến ha tháng, quân sĩ cả đ()i hên chết hại rất nhiều, làm suy kém tiềm
lực quốc gia, lại đế cho Nguyễn Phúc Anh trỏ về lấy lại xú (iia Định.
Điều thứ hai là xưng đế. M()t nước mà có hai vua cam (]uyền không
phải là hay. Chính quyền không thtmg nhất chia rẽ không những
quân đ()i mà cả trong dân chúng nữa. Ong có thô cứ (té 'Fhái Đức ở hư
vị, mà nắm giữ hêt moi quyền quân sự và chính trị, kh(')ng làm vua
nhưng lại có rộng quyền hơn vua. Như thê có V(3 (lẹỊi đẽ hơn. Điều lầm
thứ ba rất to lớn là ông có dục vọng quá cao, muíìn múu (lánh nước lớn
người đỗng lại có trình độ văn hoá, kỹ thuật cao h(in luũic la. Đây là
sự kh() có thê thành công mà dù có thắng chiếm dưoc dất cùng không
thể nào giữ vĩnh viễn được. Ngay trong việc sửa soạn, lập số hộ khẩu,
phát tín bài để tiện bắt lính, phá đồ thò tự để (lúc tiền phạm tín
ngưỡng, khiến dân oán.
(ịuang Trung đã dựng nên cơ nghiệp nhà l'áy Sơn, sửa sang
việc nước C(í sự tiến hộ mọi mặt nhưng mấy d i ề u s a i t r á i của ông
cũng bất l(ứ cho nhà Tây Sơn.
VUA NGUYỄN QUANG TOẢN 1793 - 1802 - Niên hiệu: cảnh Thịnh
1793 - 1800, Bảo Hưng 1801 - 1802
(^uang Trung khuất. Thái tử Nguyễn (^uang Toan mối lên 10
tuổi, triều đình tôn lên làm vua. dật niên hiệu (kinh Thịnh. Sau
thành Phú Xuân thất thủ, vua t(")i nhà Tây Sơn chạy ra hắc, đổi
niên hiệu là Báo Hưng.
Cảnh Thịnh lên ngôi, còn nhỏ tuổi. Moi việc do thái sư Bùi
Đắc Tuyên quyết đoán. Đắc Tuyên là anh ru()t thái hậu, uy quyền
hống hách. Các quan văn võ nhiều ngưìứ không phục nên về sau
trong triều phân ra bè đảng, các dại thần giết hại lẫn nhau. Cơ
nghiệp nhà Tây Sơn không bao lâu đ(')’ nát.

NtỉCYỄN PHÚC ÁNH TH(')N(; NHẢ i (HANG SƠN


PHÚC ÁN H LUU v o n g ở x iê m l a - B ị (lánh duôi ráo riết sau
trận đại bại vối quân đội Xiêm La, Phúc Anh cùng nhóm tướng
415
sĩ và tàn quân khoáng 200 người chạy sang Xiêm La, được vua
nước này giúp đỡ. Nhiều tướng sĩ xiêu bạt hay được tin này
cũng lục tục kéo nhau sang theo. Có Lê Văn Câu (còn gọi là
Quân hay Duân) là quan cũ. đem 600 người sang giúp. Vua
Xiêm La cho được đóng quân ở riêng một chỗ, gọi là Long Kỳ,
ngoại thành Báng Côc (Vọng Các). Nơi này nay là làng Gia
Long. Phúc Ánh phân tri mọi người đi lăm các việc: Người đi
làm ruộng đê lấy thóc gạo nuôi quân, người di ra c;ác đao đóng
chiến thuyền, người lén vê (Ba Định chiêu tập quân nghĩa
dũng đợi ngày phản công. Bấy giờ có quân Diên Điện sang
Xiêm La, Phúc Ánh cùng Lê Văn Câu. Nguvễn Văn Thành đem
quân hản bộ đi đánh giúp nước Xiêm La. (:ịuàn Phuc Anh lại có
cỗng tiễu trừ những giặc Mã Lai thường hay quày nhiều ỏ mặt
biển. Bởi vậy. vua Xiêm La rất trọng dãi chúa tói Phúc Anh, lại
tỏ ý cho quân đội sang đánh Gia Định giúp. Nhung Phúc Anh
biết người nước ta căm thù quân Xiêm La trước dây đã quẫy
nhiễu, cướp phá dân lành quá tệ nên không dám nhd lần nữa.
Năm 1787, có người Bồ Đào Nha muôn giúp l^húc Anh, xin đem
hĩnh thuyền ở thành Goa, thuộc địa Bồ ỏ An Độ. tiến sang. Vua tôi
Xiêm La không bằng lòng, Phúc Anh phải từ chôi người Bồ.
PHÚC ÁNH VỀ CHIẾM LẠI ĐẤT GIA ĐỊNH - d'rong khi Phúc Ánh
còn phải nương náu ở đất Xiêm La thì anh em vua Tây Sơn bất
hoà. Thái Đức phải gọi Đặng Văn Chân ỏ Gia Định vè ()uy Nhơn.
Quân thế Tây Sơn ỏ miền cực nam không hùng mạnh lám, nay
càng suy kém. Bọn Tông Phúc Đạm, Nguvễn Văn Thiêm đên Băng
Cốc nói rõ tình hình, xin kéo quân vê có thê dánh lay lại dược Gia
Định. Tháng 2 âl năm 1787, Phúc Anh bí mật han dêm dem gia
thuộc cùng bọn tuỳ tùng xuống thuyền chạy nhanh ra biến trở về
nước, viết thư đê lại từ tạ vua Xiêm La. do sỢ bị ngan trơ. cũng e
ngại vua Xiêm La đòi cho quân đội theo sang giúp.
Xưa các chúa Nguyễn lấy được miền Thuỷ Chân Lạp. đất phì
nhiêu lại rộng rãi bao la mà phần lớn còn hoang phế do dân thưa
thớt, đã cho các quan lại, tướng tá Vtà nhà giàu chiêu mộ nhân
công khai thác thành ruộng vườn, tạo nên một S (/ dông đại điền
chủ. Có nhiều của cái thì có thế lực, có uy tín chínb trị, loại người
này là những thố’ hào. Họ chịu ơn nên van trung thành với nhà
chúa, cho nên khi Phúc Anh bị đánh thua, chạy long đong khắp
nơi mà không ai bắt đem nộp cho quan quân Tây Sơn. Không
những thế, chúng còn giúp đỡ Phúc Anh và liọn tôi tớ Phúc Anh
416
hoạt động chông lại nhà Tây Sơn nữa. Phúc Ánh hồi được thế lực
một phần cũng là nhờ các thổ hào địa chủ lớn này.
Trên đường về, Phúc Ánh gặp được nhiều sự may mắn. Qua
đảo Cố’ Côt, có bọn Hà Hỉ Văn, người Hoa thuộc Thiên Địa hội, đến
xin theo giúp. Kéo quân về đóng ở Long Xuyên thì các bọn chân
tay cũ bấy lâu hoạt động bí mật vội vã công khai ra theo phò rất
nhiều. Tướng Tây Sơn Nguyễn Văn Trương đem 300 quân, 15
chiếc thuyền ra hàng. Phúc Ánh đánh phá đồn Trà ôn, Nguyễn
Văn Nghĩa đem cả bộ thuộc về hàng. Qua tháng 6 tiến quân vào
cửa Cần Giờ, đi đến đâu cũng được bọn thổ hào đại địa chủ hưởng
ứng, thanh thế rất lớn.
Đông Định vương Nguyễn Lữ sỢ hãi, bỏ thành Sài Côn cho
thái phó Phạm Văn Tham chông giữ, lui về đóng ơ Lang Phụ
thuộc Biên Hoà. Phúc Ánh sai người trá Icàm th ư Thái Đức gửi
Đông Định vương bảo giết Phạm Văn Tham, sai người giả tảng
đưa lầm cho Văn Tham. Văn Tham bắt được th ư , sỢ hãi vê Lang
Phụ phân giải tình oan. Nguyễn Lữ thấy Văn Tham tự nhiên kéo
quân đến, lại có cờ trắng đi trước tưởng Văn Tham đã hàng nhà
Nguyễn, vội vã bỏ thành chạy về Quy Nhơn. ít lâu sau ô"m chết.
Đông Định vương Nguyễn Lữ ít tài năng quân sự và chính
trị, công nghiệp không có gì đáng kể.
Phạm Văn Tham cố thủ thành Gia Định, phá được quân
Phúc Ánh đến đánh, luôn vài lần. Phúc Ánh phái lui về miền
Mỹ Tho, th ế lực đã núng. Nhò mộ thêm được mây ngàn quân
Lục Chân Lạp, lại được tướng Tây Sơn Nguyễn Kê Nhuận đem
10 chiến thuyền ra hàng nên quân thế mới vững, đánh bại được
tướng Tây Sơn Nguyễn Vàn. Lại được tướng giỏi Võ Tính ra
giúp, tiến lên đánh Nước Xoáy. Phạm Văn Tham lui quân về
đóng ở Ba Thắc.
Võ Tính người Biên Hoà, có anh là Võ Nhân thuộc tướng Đỗ
Thanh Nhân. Khi Thanh Nhân bị giết, Võ Nhân tụ quân Đông
Sơn chông lại, chang bao lâu bị bắt giết. Võ Tính đem dư đảng về
giữ Vườn Trầu (Gia Định), rồi lại về đóng ở Gò Công, thủ hạ có
mấy vạn người. Quân Tây Sơn bị đánh phá nhiều lần. Khi ở Xiêm
La về, Phúc Ánh sai Nguyễn Đức Xuyên đến dụ về giúp. Tháng 4
âl năm 1788, Võ Tính đem bọn Võ Văn LưỢng, Nguyễn Văn Hiếu,
Mạc Văn Tô, Trần Văn Tín đến hành tại bái yết Phúc Ánh. Phúc
Ánh phong cho làm tiền phong dinh chưởng cơ và gả em gái là
Ngọc Du cho. Bọn Võ Văn Lượng đều được phong làm cai cơ.
417
Qua tháng 7 âl năm ấy (1788), Phúc Ánh đem quân về đóng ở
Ba Giồng, chia quân đánh Bát Tiên thuộc Vĩnh Long, Trấn Định
và Thân Lung, sai Tôn Thất Hội và Võ Tính đánh đôc chiến Tây
Sơn Lê Văn Minh ở đồn Ngũ Kiều, đốt phá cả đồn trại, bắt được
tướng sĩ rất nhiều. Lại có tướng Nguyễn Văn Nghĩa phá được
quân Tây Sơn ở Lộc Dã (Đồng Nai). Chuấn hị tấn công thành Gia
Định, Phúc Anh bô" trí quân lực ở các nơi rồi tiên quân đên Nghi
Giang. Phạm Ván Tham lập đồn luỹ chông lại, nhưng thế cố, bị
đánh mặt trước và chẹn lôi sau, phải trôn tránh chạy về cửa biến
Cần Giờ. Tháng 8, Phúc Anh chiếm lại được thành Gia Định, vào
thành chiêu an trăm họ phong thưởng tướng sĩ, sai tướng đi đánh
Văn Tham. Bấy giờ, Văn Tham dựa vào người Chân Lạp đê ẩn
náu. Dụ hàng Văn Tham không được, Phúc Anh ra lệnh đóng giữ
các cửa biển để chặn đường. Sang nám 1789, Văn 'Pham ở Ba Thắc
đem binh xuông thuyền, định chạy ra biển (ịuy Nhơn nhưng bị Lê
Văn Câu, Tôn Thất Hội, Võ Tính, Nguyễn Văn Trương hỢp binh
lại đánh ở Hồ Châu. Ván Tham không phá được vây, lại phải lui
về Ba Thắc. Văn Tham chờ đợi mãi, không thấy vua Tây Sơn cứu
viện, liệu thế giữ không nổi, lại vì có kẻ phản bội nên cùng thế
phải đem binh ra hàng. Được ít lâu, bị tội phái giết.
Từ đó, toàn bộ đất Gia Định thuộc về Phúc Anh.
Nhà Tây Sơn đánh lấy và cai trị miền nam (,xứ Gia Định) chỉ
trong thòi gian ngắn, không lập được công nghiệp to lớn có ảnh
hương đến chính trị, ngoài vụ Nguyễn đại phá quân Xiêm La,
không được lòng dân chúng khâm phục. Đông Định vương Nguyễn
Lữ cầm quyền thì ngoài thành Sài Côn, các dinh đều không có đủ
tướng giỏi quân nhiều để bảo vệ. Việc hành chính lại dùng nhiều
người cũ đa sô" bọn này còn tưởng nhớ nhà chúa, dung túng các
người phe đảng Phúc Anh hoạt động ngầm trong xứ, thậm chí còn
tùng đảng với họ. Trong tình trạng này, Phúc Anh về nước đánh
chiếm lại toàn bộ miền nam quá dễ dàng, chỉ trong thời gian ngắn
lăm.
vài năm.
PHÚC ÁNH XÂY DựNG L ự c LƯỢNG ở GIA ĐỊNH - Thu phục đưỢc
đất Gia Định rồi, Phúc Ánh xây dựng lực lượng, biến vùng Gia
Định thành căn cứ tiến hành phản công lật đố Tây Sơn, thi hành
mọi biện pháp về hành chính, quân sự, kinh tế, xã hội.
Về mặt hành chính, Phúc Ánh tiến quân đến dau lập chính
quyền, đặt quan cai trị, chia địa giới 3 dinh Trấn Biên, Phiên
Trấn, Long Hồ. ơ giữa là dinh Trưởng Đồn (Định Tường) vói các
418

1
chức lưu thủ, cai bạ, ký lục cai trị. Nơi xung yếu đặt thêm đạo,
đồn thủ ngự. Chính quyền được tổ chức quy mô một quốc gia.
Về mặt quân sự, do có cơ sở gây từ trước, Phúc Ánh khi về
nước đã có ngay lực lượng đáng kể, sau tiếp tục bắt các thôn kê
dân số, chọn một nửa lập thành ngạch phủ binh, luyện tập để
sung quân. Năm 1790, quân sô"có tới 3 vạn người.
Năm 1790, xây thành Gia. Định theo kiểu bát giác. Các thành
luỹ ở phiên trấn được đắp thêm kiên cô".
Về kinh tê", Phúc Anh rất chú ý lo phát triển nông nghiệp.
Ngay từ khi về Gia Định lần trước, trong các năm 1778, 1779,
1780 khi Đỗ Thanh Nhân chông bọn tổng đốc Chu đánh Trấn
Biên, Phiên Trấn và Lê Văn Câu đi đánh Bình Thuận và Diên
Khánh, Phúc Anh đã lo việc vệ nông, đưa lưu dân trở vê khai thác
lại ruộng đất bỏ hoang phế, cấp phương tiện cho họ làm ăn.
Từ Xiêm La trở về được lần sau, do nhu cầu tích trữ lương
thực chuẩn bị phản công lâu dài, Phúc Ánh càng chăm lo việc
khuyên nông. Bấy giờ, dân chúng không được no đủ mà ruộng đất
bỏ hoang lại nhiều, Phúc Ánh sai văn thần Trịnh Hoài Đức, Lê
Quang Định, Ngô Tòng Chu, Hoàng Minh Khánh, 12 ngưòi làm
điền tuấn quan khuyên nhủ nhân dân nỗ lực làm ruộng. Từ lính
phủ binh đến người cùng cô" đều bắt phái làm ruộng cả. Ai không
chịu làm ruộng thì bắt phải làm lính đê thay cho phủ binh. Địa
phương phải lập sổ sách kê rõ kết quả thu hoạch. Ai thu hoạch
đưỢc nhiều đưỢc miễn lao dịch. Lại mộ dân các nơi đến làm ruộng,
gọi là điền tô"t. Quan điền tuấn lấy ruộng đất bỏ hoang cấp cho cày
cấy. Ai không có trâu bò cày bừa thì quan cung cấp cho, đến mùa
trả bằng thóc. Lại phát trâu bò điền khí cho quân dân, bắt đi khai
khẩn những nơi rừng núi đế làm ruộng, gọi là đồn điền. Đến mùa
lấy thóc đề vào kho, gọi là đồn điền khô". Có sự khuyến khích các
quan và nhà giàu chiêu mộ người lập các đồn điền đội. Dân ai mộ
đưỢc 10 người trở lên thì cho làm cai trại và được trừ sưu dịch.
Việc Phúc Ánh khai khẩn đất Gia Định là công nghiệp lớn. .
Đô"i với thương thuyền các nước vào buôn bán, Phúc Ánh quy
định: Nếu có mang theo sắt, gang, chì, lưu hoàng và những hàng
có liên quan đến việc binh như đồng, diêm tiêu đều phải nộp bán
cho chính quyền, cho phép căn cứ theo sô" hàng nhiều ít, được chở
gạo về nưốc. Bởi vậy, khách thương vui lòng đem hàng đến bán.
Phúc Ánh lại sai quan mua đường theo giá chợ, tích lại để đổi cho
người Tây dương lấy binh khí.
419
v ề mặt xã hội, Phúc Ánh dùng thủ đoạn mị dân, mở rộng
đường ngôn luận. Lòi nói đúng sẽ được dùng ngay và có ban
thưởng. Lòi nói không hỢp lý thì bỏ đi, không bắt tội. Lại đặt hòm
thơ để nhân dân tiện việc kêu oan.
Phúc Ánh chú ý đào tạo đội ngũ quan liêu mới. Năm 1788
đặt viện hàn lâm. Năm 1791, mở khoa thi đầu tiên, lấy đỗ 12
người bổ dụng làm quan.
Phúc Ánh còn lập ra pháp luật, cấm cò bạc, nghiêm cấm phù
thuỷ và đồng bóng để giữ gìn phong tục cho khỏi mê hoặc. Việc
thuế khoá đưỢc chỉnh đốn. Đặt ra sở cộng đồng cho các quan văn
võ hội nghị mọi việc quân quốc quan trọng.
Sự GIÚP Đ ỡ CỦA BÁ ĐA LỘC CHO PHÚC ÁNH - Việc nhờ Bá Đa Lộc
sang cầu cứu nước Pháp giúp đỡ đã đưỢc xếp đặt đủ từ năm 1783
nhưng vì còn trái mùa gió nên Bá Đa Lộc chưa khởi hành được. Sau
khi đưa quân Xiêm La vê nước bị đánh thua tơi hời, Phúc Anh giục Bá
Đa Lộc đem vương tử cảnh cùng với Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn
Khiêm, xuốhg tàu sang Tây, đi qua An Độ Dương vào thành
Pondichéry ở lại gần 20 tháng. Bá Đa Lộc vận động các nhà cầm quyền
Pháp ở Ân Độ, lại gửi thư về bộ trưởng hải quân Pháp yêu cầu giúp
Phúc Ánh. Đầu mùa xuân năm 1787, Bá Đa Lộc về đến Pháp. Thòi
gian ở Paris, Bá Đa Lộc ra sức tuyên truyền về những lợi ích buôn bán
với Đông Dương. Dựa vào thê lực của mấy giám mục thành Toulouse
và xứ Narbonne, vương tử cảnh được vào yết kiến Pháp hoàng Louis
XVI và bộ trương hải quân De Castries. Louis XVI lấy vương lễ đãi
vương tử Cảnh (mới 4 tuổi), giao bộ trưởng ngoại giao De Montmorin
bá tước thương nghị việc giúp Phúc Anh. Ngày 26 - 11 - 1787, tại
Versailles, Bá Đa Lộc và De Montmorin ký hiệp ước đại lược rằng:
Vua nước P háp giúp vua G iao Chỉ (nguyên văn là
Cochinchine tức G iao Chỉ Chi Na, thời xưa tiếng này người Ảu
dùng ch ỉ nước ta, sau khi lập đô hộ, người P háp mới dùng tiếng
Cochinckịne này chỉ xứ N am Kỳ) khôi phục đ ất đ a i 4 tàu chiến và
đạo binh 1.200 lục quân, 200 p h á o binh, 250 h ắc binh P hi châu
(Cafres) và đủ các thứ súng ống thuốc đạn;
Vua G iao C hỉ nhường đứt cho nước P háp h ả i cảng Hội An và
quần đ ảo Côn Lôn;
Người P háp đưỢc ra vào buôn hán trong nước. N goại giả
không cho người nước châu Ảu nào khác sang buôn bán;
K hi nước P háp có cần đến lính thuỷ, lính bộ, lương thực, tàu
bè ở phương đông thi p h ả i đưỢc ứng biện đủ giúp nước P háp;
420
K hi đ ã khôi phục nước đưỢc rồi thi vua Giao Chỉ p h ả i mỗi
năm làm một chiếc tàu y như tàu của nước P háp đ ã cho sang giúp
đê đem sang trả cho P háp hoàng.
Hiệp ước được ký nhưng bấy giờ nước Pháp gập nhiều khó
khăn: ngân sách thiếu hụt, cách mạng rục rịch nổi dậy. Louis XVI
hạ chiếu giao tổng trấn thành Pondichéry, tổng chỉ huy các lực
lượng Pháp ở Ân Độ, là De Conway bá tước thi hành tô chức đoàn
quân viễn chinh nhưng lại nói phải xét nếu nên hãy làm, nếu
không tiện lợi thì thôi. Ngày 8 - 12 - 1787, Bá Đa Lộc trơ lại nưóc
ta. Qua Pondichéry De Conway nói việc đem binh sang cứu Phúc
Ánh là rất khó và không lợi gì, làm sớ tâu Pháp hoàng xin bãi việc
ấy đi. Louis XVI nghe theo.
Về việc này, sau có nhiều người Pháp lấy làm tiếc rằng giá
bấy giò chính quyền Pháp cô gắng hết lòng giúp Phúc Anh thì có
phải nước Pháp đã sớm có đưỢc thuộc địa ở Viễn Đông ngay từ
cuối thế kỷ XVIII và sau này khỏi mất công đánh chác.
Hiệp ước Versailles không được bên người Pháp thực hiện,
Bá Đa Lộc vẫn kiên trì mưu sự giúp Phúc Ánh, không chịu từ bỏ
cơ hội để thực hiện mục đích của mình, đứng ra vận động các nhà
tư bản quyên tiền mua tàu chiến, sắm súng đạn và chiêu mộ
người sang giúp Phúc Ánh. Tháng 9 năm 1788, tàu Dryade chở
đến Côn Lôn 1.000 súng. Mấy tháng sau, tàu Cook, tàu Moyse chở
đến các loại quân trang quân dụng. Tháng 6 âl năm 1789, Bá Đa
Lộc đi tàu chiến Méduse về đến Gia Định, các tàu buôn chơ súng
ôAg, thuốic đạn lục tục sang sau. Có 18 sĩ quan người Pháp và 5 sĩ
quan Au châu nước khác và khoảng 80 binh sĩ sang giúp. Mấy
người quan trọng là Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng), Vannier
(Nguyễn Văn Chấn), De Porẹant (Lê Ván Lăng), Dayot, Despiau,
Victor Ollivier (ông Tín), De Pumanel. Phúc Ánh phong quan tư ố c
cho họ. Chaigneau là chúa tàu Long, Vannier chúa tàu Phụng.
Những người Pháp này đóng vai trò đáng kể trong quân đội họ
Nguyễn, chủ yếu trong việc huấn luyện kỹ thuật chiến đấu, sử
dụng vũ khí, xây thành luỹ, đóng tàu, đúc súng, chỉnh đôA mọi
việc võ bị, giúp đỡ trong việc mua vũ khí của các công ty tư bản
phương tây ở Macao, Inđônêxia, Mã Lai, An Độ. Victor Ollivier
xây thành Gia Định theo kiểu Vauban.
Phúc Ánh còn dùng người Âu nưốc khác nữa. Năm 1796 có
hai người Anh là Ba Lăng Hy và Ba La Di tập hỢp thuyên buôn
chở 5.000 lính Chân Lạp để dự chiến. Năm 1791, có lái buôn người
421
Bồ Đào Nha là Chudinônhi đi mua 1 vạn khẩu súng săn, 2.000 cỗ
đại bác bằng gang, 2.000 viên đạn lửa cho Phúc Anh.
Các người Pháp sang giúp này được Phúc Anh biệt đãi, công
việc không nặng nhọc gì mấy, có tham chiến thì thắng trận không
khó khăn nhưng họ không quen khí hậu nóng bức, ăn uôhg không
đưỢc tươm tất lắm. nhất là không được trả lương cao, lại không được
tướng lĩnh bản xứ trọng đãi, còn bị ghen ghét là khác nên chỉ ơ lại
trong một thời gian ngắn rồi lại đi, mỗi khi có tàu Au cháu trở về
nước. Không bao lâu lần lượt bỏ về cả. Riêng có Chaigneau và
Vannier lấy vỢ Việt, ở lại lâu dài, sau làm quan dưới triều Gia Long.

Có nhiều người nước ta, không thòng siuVt (loạn sử này, lầm
tưởng rằng: Nguyễn Phúc Anh tiết thứ bị (Ịuân Tây Sun đánh thua,
nhò được Bá Đa Lộc xin nước Pháp cứu viện, cáp cho (luân đội, tàu
chiến, súng đạn nhiều nên sau mới chiến thắng. Sự thực thì hiệp
ước Versailles 1787 không được bôn nưỏc ]’háp thi hành do chính
quyền bấy giờ đang gặp nhiều khó khăn. Hai chiếc tàu và súng đạn
Bá Đa Lộc đưa sang là do y quyên tiền tư bản J’háp mà mua được.
Bọn Dayot, Chaigneau... không phải là sĩ quan quân đội Pháp do
chính quyền Pháp cử sang giúp mà là do Bá Đa L()C chiêu mộ sang,
tức là những “chí nguyện quân” (volontaires), ngày nay goi là lính
đánh thuê. Trvtớc sau, chính quyền nước Pháp kh(")ng có giúp đõ gì
cho Phúc Ánh cả. Cho nên năm 1817, khi ngưcá Pháp trO tráo sang
đòi nhận cảng Hội An và đảo Côn Lôn, Cia Long dã cự tuyệt rất có
lý, phải rút về.
Các chí nguyện quân Pháp có giúp dỡ dác lực Phúc Anh
nhưng không phải chi' vì nhờ có chúng, Phúc Anh mói thắng nổi
quân Tây Sơn. Khi Bá Đa Lộc dưa bon này sang dên má là tháng 6
âl năm 1789, Phúc Ánh đ<ã ờ Xiêm La vê từ nám 1787, (lên năm
1789 đã bình định xong xứ Gia Định.'
Lại xét nếu không có sự giúp đỡ của Bá Đa Lộc v.à chí nguyện
quân người Pháp thì Nguyễn Phúc Ánh cũng vẫn có thê thông nhất
được đất nưóc do bên Tây Sơn lực lượng quân sự suy kém bởi anh
em vua đánh lẫn nhau, vua Quang Trung tài giỏi lại không thọ và
các tướng lĩnh không hoà thuận, còn hại nhau.

CUỘC PHẢN CÔNG CỦA NGUYÊN PHÚC ÁNH - ĐÁNH QUY NHƠN
LẦN THỨ NHẤT - Kiến thiết miền nam vững chãi, lại được Bá Đa
Lộc đưa về cho súng đạn dồi dào, lực lượng của Phúc Anh mỗi
422
ngày một mạnh, tướng tá ngày một đông, lương thực nhiều, quân
sĩ giỏi. Năm 1790, Phúc Anh mở cuộc tấn công ra vùng đất thuộc
Tây Sơn.
Tháng 4 âl, sai tướng tiền quân Lê Văn Câu đem 5.000 quân
thuỷ bộ ra đánh Bình Thuận; Võ Tính và Nguyễn Văn Thành đem
quân đi làm tiền phong. Quân Nguyễn đánh chiếm được Phan Rí
và Bình Thuận. Văn Câu và Võ Tính không đồng ý với nhau. Phúc
Ánh gọi Võ Tính và Nguyễn Ván Thành về Gia Định. Văn Câu
đem quân ra Phan Rang, bị quân Tây Sơn đến vây đánh ngặt,
phải cho người về Gia Định cáo cấp. Nguyễn Văn Thành ra giải
vây, cùng Lê Ván Câu về giữ Phan Rí. Văn Câu bại binh, thẹn
xưng bệnh không coi việc binh nữa. về Gia Định bị nghị tội, phải
cách hết chức. Ván Câu uông thuốc độc tự tử: Tướng đầu tiên đem
quân về với Phúc Ánh khi còn cùng khôn chạy sang Xiêm La nay
bất đác kỳ tử. Cuộc tấn công lần đầu tiên ra miền trung thât bại
do tại đây không có những thổ hào đại điền chủ chịu ơn chúa
Nguyễn xưa hương ứng, vả lại thê lực quân Tây Sơn còn khá
mạnh. Liệu không thể đánh chiếm đất đai mau chóng như khi
đánh lấy đất miền nam, Phúc Ánh đối kế hoạch tấn công, lợi dụng
gió mùa hàng năm đánh ra lấn đất dần dần, dùng mẹo khiến cho
địch hồ nghi, tiến đánh luôn luôn làm cho địch mệt mỏi. Hàng
năm nhân mùa có gió nam, thuỷ binh do đường biển tiến, bộ binh
theo đường Bình Thuận, Bình Khang tiến ra, lấy được dến đâu thì
đắp thành đóng đồn đê làm phên dậu cho Gia Định. Dần dần sức
địch suy kém, sẽ tranh lấy được thiên hạ.
Tháng 7 âl năm 1790, do gió bắc thổi mạnh, quân Nguyễn
rút về Gia Định, đợi mùa gió thuận lại đem quân ra đánh, cho nên
người ta gọi là g iặc m ùa. Từ đó, hàng năm, cứ đến tháng tư tháng
năm là mùa gió nam thổi mạnh, quân Nguyễn ra đánh và đến
mùa gió đông bắc lại rút về.
Năm 1792, Phúc Anh cùng Nguyễn Văn Trương, Nguyễn
Vàn Thành, Dayot và Vannier đem 128 chiến thuyền ra cửa cần
Giò, tiến ra đánh vào cửa Thi Nại (cửa Quy Nhơn), đô't thuỷ trại,
bắt được 80 chiếc thuyền và nhiều khí giới, lương thực, rồi rút
quân về.
Năm 1793, quân Nguyễn mở cuộc tấn công lớn ra Quy Nhơn.
Tôn Thất Hội, Nguyễn Hoàng Đức, Nguyễn Văn Thành đem bộ
binh ra đánh Phan Rí. Phúc Ánh cùng Nguyễn Văn Trương, Võ
Tính đem thuỷ sư ra cửa biển Nha Trang, lần lượt chiếm các phủ
423
Diên Khánh, Bình Khang, Phú Yên, rồi tiến quân ra cửa biển Thi
Nại. Cánh quân của Tôn Thâ't Hội chiếm được Bình Thuận, cũng
được lệnh tiến binh lên hội với thuỷ sư, hai mặt cùng ra đánh Quy
Nhơn. Thái Đức sai thái tử Nguyễn Bảo đem binh ra chông cự, giữ
được hơn một tháng, nhưng thế quân Nguyễn mạnh lắm. Thái
Đức phải sai người ra cầu cứu Phú Xuân. Cánh Thịnh sai thái uý
Phạm Công Hưng, hộ giá Nguyễn Văn Huân, đại tư đồ Lê Trung
và đại tư mã Ngô Văn Sở đem 17.000 qu<ân bộ và 8 thớt voi đi
đường bộ, cùng đại thông lĩnh Đặng Văn Chân đem 30 chiến
thuyền đi đường biển, hai đạo cùng tiến vào cứu Quy Nhơn. Phúc
Ánh thấy viện binh đến, lại gặp mùa mưa, liệu thế chông không
nổi, rút quân về Diên Khánh (Khánh Hoà), rồi về Gia Định, để
Nguyễn Văn Thành ở lại giữ Diên Khánh, Nguyễn Hoàng Đức giữ
Bình Thuận. Sau lại sai đông cung Cảnh và Bá Đa Lộc, Phạm Văn
Nhân, Tống Phúc Khê ra giữ thành Diên Khánh.
TÌNH HÌNH NHÀ TÂY SƠN - Bọn Phạm Công Hưng giải đưỢc
V tây rồi quân vào thành Quy Nhơn, chiếm giữ lâV thành trì, rồi
tịch thu các kho tàng. Thái Đức tức giận, thổ huyết mà chết, làm
vua 16 năm.
Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc là người anh hùng lãnh đạo
quân Tây Sơn nổi dậy chông chính quyền Trương Phúc Loan và
chúa Nguyễn, từng thắng nhiều trận lừng lẫy. Nhưng hoài bão
sớm thoả mãn sau khi đánh lấy được phần giang sơn cũ của chúa
Nguyễn. Công nghiệp chính trị những gì không được sử sách chép
đến. Ong đã sai lầm trong sự cùng các em chia cắt đất nước mà cai
trị, nhat là cử Đông Định vương ít tài năng trấn giữ miền nam.
Những năm về sau mải hưởng thụ vui chơi, ít lưu tâm đến việc
nước. Ngay đến quân đội mà cũng không chỉnh đôn đủ đê trở nên
hùng mạnh trong khi Phúc Anh ráo riết lo việc chiến tranh.
Nhưng chết thảm, tình cũng phần nào đáng thương.
Cảnh Thịnh cho Nguyễn Bảo làm Hiến công, ăn lộc một
huyện, gọi là Tiểu triều, để Lã Trung và Nguyễn Văn Huấn ở lại
giữ thành Quy Nhơn.
Tháng 3 âl nám 1794, Nguyễn Văn Hưng đem bộ binh vào
đánh Phú Yên, Trần Quang Diệu vào vây thành Diên Khánh.
Đông củng Cảnh cho người vê' Gia Định cáo cấp. Phúc Anh đem
đại binh ra giải vây. Quang Diệu rút quân về. Phúc Anh thấy thế
Tây Sơn còn mạnh, lại đến mùa gió bắc, đem Đông cung về Võ
Tính ở lại giữ Diên Khánh. Sang năm 1795, Quang Diệu lại vào
424
đánh Diên Khánh. Võ Tính hết sức chông giữ, Phúc Ánh đem thuỷ
hinh ra cứu.
Trong khi hai hên còn đang chông giữ nhau thì 0 Phú Xuân,
các đại thần giết hại lẫn nhau, gcâv thành nổi loạn. Từ khi Quang
Trung khuất, Cảnh Thịnh nôl ngôi mỏi 10 tuôi. Mọi quyền về cả
thái sư Bùi Cảnh Tuyên. Các quan nhiêu người oán giận. Năm
1795, Vũ Vàn Dũng nghe theo Trần Văn Kỷ, mưu vói Phạm Công
Hưng và Nguyễn Văn Huấn vây hắt Bùi Đắc Tuyên hổ ngục.
Nguyễn Văn Huấn vào Quy Nhơn hắt Bùi Dắc Trụ. con Dắc Tuyên
và cho người đưa thư ra Bắc Hả truyền tiết chế Nguyễn Quang
Thuỳ, em Cảnh Thịnh hắt giải Ngô Văn Sơ về Phú Xuân. Bọn Vũ
Văn Dũng đặt chuyện vu cho những người này làm phán, đem dìm
xuông sông cho chết đi. cảnh Thịnh không ngăn giữ được, chỉ
khóc thầm. Quang Diệu đang vây đánh thành Diên Khánh, làm
cho chúa tôi Phúc Anh gặp khó khăn, nghe tin trong triều có biến,
thất kinh nói: Chúa thượng không cứng cỏi, đại thần giết lẫn
nhau. Trong không yên thì ngoài đánh ngvíời ta sao dược? Bèn vội
vàng rút quân vê gấp sắp đặt lại triều chính. Nguvễn Văn Huấn
tạ tội. Vũ Văn Dũng định cự lại. cánh Thịnh đứng ra hoà giải.
Quang Diệu là ngưòi có lượng cảm hoá được Văn Dùng, cùng nhau
chôAg đỡ cơ nghiệp nhà Tây Sơn đang lung lay. 'rư dó, Trần
Quang Diệu lảm thiếu phó, Nguyễn Văn Huấn làm thiêu hảo, Vũ
Văn Dũng làm đại tư đồ, Nguyễn Văn Danh (hay Tứ) làm dại tư
mã, gọi là tứ trụ đại thần. Nhưng tủ' dáy, thê lực nhà Tây Sơn
ngày một kém, vua còn nhỏ, không có dủ uy quvển dê sai khiến
các quan, tướng tá vì lòng ghen ghét mưu hại lẫn nhau. Bơi vậy
khi quân Nguyễn từ trong nam ra đánh, không phái mất nhiều
công phu mà chiến thắng được.
QUÂN NGUYỄN RA ĐÁNH QUY NHƠN LẦN THỨ HAI. - Từ khi
Quang Diệu giải vây Diên Khánh, Phúc Ánh cũng trỏ về Gia
Định, sửa soạn quân lương, chiêu mộ thêm binh sĩ. Năm 1797, lại
cùng đông cung cảnh đem hĩnh thuyền ra đánh Quy Nhơn.
Nguyễn Văn Thành và Võ Tính ra đánh Phú Yên. (ịuân thuỷ của
Phúc Anh ra đến Quy Nhơn, thấy có phòng bị, liệu dánh không đổ
được, Phúc Anh bèn ra đánh Quảng Nam. Được vài tháng, quân
nhu không đủ, phải dem quân trơ về Gia Định, sai Nguyễn Văn
Thành và Dăng Trần Thường ỏ lại giữ thành Diên Khánh.
Trơ về Gia Định, Phúc Anh sai người sang Xiêm La xin vua
nước ấy sai quân đi đường Vạn Tượng sang đánh Thuận Hoá hoặc
425
Nghệ An, đê chặn đường quân Bắc Hà vào, lại .sai người sang sứ
Thanh, do thám mọi việc.
QUÂN NGUYỄN RA ĐÁNH QUY NHƠN LẦN THỨ BA - Quôc sử
chép: năm 1798, Tiểu triều Nguyễn Bảo căm tức Cảnh Thịnh
chiếm giữ Quy Nhdn, định bỏ về hàng Phúc Anh, bị bắt đem dìm
sông chết đi. Có người gièm trấn thủ Lô Trung xui Tiểu triều làm
loạn. Lê Trung bị bắt chém đi. Thiếu phó Nguyễn Văn Huấn cũng
bị giết. Tướng tá Tây Sơn nản chí, người bổ đi ân. người sang theo
Phúc Ánh. Lê Chất đánh trận giỏi, làm đến chức đại tư đồ. b() đem
200 quân đi sang hàng nhà Nguyễn.
Phúc Ánh thấv rõ tình thế Tây Sờn suy nluíỢc, năm 1799, cử
đại binh ra đánh Quy Nhơn. Thuỷ quân vào cửa Thi Nại. Võ Tính
và Nguyễn Hoàng Đức đem quân lên đóng ở Phúc Khê. Nguyễn
Văn Thành đem bộ binh ra đánh lấy Phú Yên, rồi tiến lên tiếp
ứng quân Võ Tính.
Quân Nguyễn đến vây thành Quy Nh(ín. Tran Quang Diệu
và Vũ Ván Dũng ở Phú Xuân đem quân vào cứu. đến Quảng Ngãi
gặp quân Nguyễn Văn Thành chặn lại ơ Thạch Tân (Bến Đá).
Trấn thủ Quy Nhơn Lê Văn Thanh không thấy viện binh đến,
lương thực cạn, cùng các tướng tá và một vạn quân, mở cửa thành
ra hàng. Phúc Ánh chiếm được Quy Nhơn, đổi tên là Bình Định,
giao Võ Tính và Ngô Tòng Chu ở lại trán t h ủ . c ả n h ' r h ị n h cử đại
binh vào đánh quân Nguyễn nhưng vì phái độ trái mùa gió, thuỷ
chiến không tiện.
QUÂN TÂY SƠN VÂY THÀNH BÌNH ĐỊNH - Trong khi quân Nguyễn
còn vây đánh Quy Nhơn, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng dem quân
vào cứu. Vì Văn Dũng quân lệnh không nghiêm, không bị đánh mà
tan, đến nỗi bại hĩnh. Văn Dũng nhờ có Quang Diệu che trờ nên
không bị tội. Cảm ơn ấy nên kết nghĩa sinh tử voi Quang Diệu, ơ Phú
Xuân, có nhiều người không ưa Quang Diệu khiến Canh Thịnh sai
người đưa mật thư cho Văn Dũng giết Quang Diệu. Văn Dùng lại đưa
thư ấy cho Quang Diệu xem. Quang Diệu sỢ hãi, đem quân về triều
hắt lũ loạn thần, cảnh Thịnh phải bắt mấy người đem nộp. Quang
Diệu mới vào chầu, cảnh Thịnh giảng dụ, khuyên nên hết sức giúp đỡ
nhà nước. Quang Diệu khóc lạy, xin cùng Vũ Văn Dũng đem quân
thuỷ bộ vào đánh lấy lại thành Qụỹ Nhơn.
Tháng giêng âl năm 1800,- quân Tây Sơn tiến dến gần thành
Quy Nhơn. Võ Tính giữ vững không ra đánh. Quang Diệu sai đắp
luỹ chung quanh thành và chia quân ra vây hôA mặt. Văn Dũng
426
đưa tàu chiến lớn và 100 chiến thuyền ra đóng' giữ cửa Thi Nại,
xây đồn và đặt đại bác 0 hai bên cửa biên đề phòng quân Nguyễn.
Phúc Anh hay tin Bình Định bị vây, cử đại binh ra cứu viện,
sai Nguyễn Văn Thành, Lô Chất, Nguyễn Đình Đắc. Trương Tiến
Bảo, chia làm ba đạo đánh lấy đồn Hội ở Phú Yên, rồi kéo ra đánh
Thị Dã thuộc Bình Định. Phúc Anh thân đem thuỷ binh ra đóng
thuyền ở cửa Thi Nại. Quân thuỷ và quân bộ không thông được với
nhau nên sự cứu viện không công hiệu gì.
Tháng giêng âl năm sau 1801, tướng Nguyễn Văn Trương và
Tông Phúc Lương đánh vào đồn thuỷ quân Tây Sơn, Lê Ván
Duyệt, Võ Di Nguy đánh vào cửa Thi Nại. Võ Di Nguy trúng đạn
chết. Lê Văn Duyệt ra sức xung đột, đôt được tàu thuyền Tây Sơn.
Vũ Văn Dũng phải bỏ cửa Thi Nại đem quân vê hỢp với Quang
Diệu. Phúc Anh lấy được cửa Thi Nại. Nguyễn Văn Trương đem
thuỷ quân ra đánh Quáng Nam, Quảng Ngãi.
NGUYỄN PHÚC ÁNH THU PHỤC PHÚ XUÂN - Phuc Ánh thấy
quân Tây Sơn vây thành Quy Nhơn cẩn mật lắm, đánh phá không
được, lại thấy quân tinh nhuệ Tây Sơn ỏ cá đấy, thành Phú Xuân
kém phòng bị, bèn bỏ rơi Võ Tánh, kéo đại quân thuỷ bộ ra đánh
Phú Xuân, đê Nguyễn Văn Thành ở lại chông giữ với Quang Diệu.
Tình trạng nhà Tây Sơn bấy giò bôi rôi lắm. ơ Nghệ An có
tưống Nguyễn là Nguyễn Văn Thuỵ và Lưu Phúc Tường đem quân
Vạn Tượng sang đánh phá. ơ Thanh Hoa phiên thần Hà Công
Thái khởi binh giúp Nguyễn, ơ Hưng Hoá, thổ ty Phan Bá Phụng
nôi dậy quấy nhiễu. Các trấn Bắc Hà thì rôi vì việc tôn giáo, đạo
trương, đạo đồ Gia Tô cũng nối dậy. Dân tình hị quan quân nhũng
lạm có lòng oán giận. Trong triều thì vua hèn, đại thần ghen ghét
giết hại lẫn nhau.
Thuỷ sư Phúc Ánh vào cửa Tư Dung. Tướng Tây Sơn phò mã
Nguyễn Văn Trị đem quân ra lập dồn giữ ơ núi Quy Sơn. Tiền
quân Nguyễn đánh không được. Lê Văn Duyệt và Lô Chất đem
thuỷ binh đánh tập hậu. Nguyễn Văn Trị thua chạy. Quân
Nguyễn vào cửa Nguyễn Hải (Thuận An), kéo lên đánh thành Phú
Xuân. Cảnh Thịnh thân đem quân ra chông giữ. Hai bên đánh
nhau đến giữa trưa, quân Tây Sơn tan vỡ. Phúc Ánh tiến quân lên
đuối đánh, thu phục được đô thành, ngày 3 - 5 âl nám 1801.
Lê Chất đem bộ binh đuổi đánh quân Tây Sơn. Nguyễn Văn
Trương đem thuỷ binh ra chặn ở Linh Giang. Phạm Văn Nhân giữ
cửa Nguyễn Hải. Lưu Văn Trường đem quân đi đường Cam Lộ
427
sang Vạn TưỢng, bảo các Mường giữ đường yếu lộ không cho quân
Tây Sơn chạy tràn sang.
TRẦN QUANG DIỆU LẤY LẠI THÀNH QUY NHƠN - v õ TÍNH TỬ TIẾT
- Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đang vây đánh Quy Nhơn,
nghe tin quân Nguyễn đánh ra Phú Xuân, sai tướng đem quân ra
cứu viện. Đám quân này hị Lê Văn Duyệt chặn lại ở Quảng Nam,
phải lùi trỏ lại. Quang Diệu ngày đêm hết sức đốc quân đánh
thành. Quân Nguyễn trong thành hết cả lương thực, không thể
chôhg giữ được nữa. Trấn thủ Võ Tính viết thư gửi sang Quang
Diệu nói phận sự ta là chủ tướng, đành liều chết dưới cờ. Còn các
tướng sĩ không có tội gì, xin đừng giết hại. Đoạn lấy rơm cỏ chất
dưới lầu bát giác, đổ thuốc súng vào tự đốt mà chết. Hiệp trấn Ngô
Tòng Chu uôhg thuốc độc tự tử.
Quang Diệu vào thành, tha cả bọn tướng tá, sai làm lẽ táng Võ
Tính và Ngô Tòng Chu, sai đô đốc Trương Phúc Phượng và tư khấu
Định đi đường thượng đạo ra đánh Phú Xuân. Đi nửa đường, quân
hết lương. Trương Phúc Phượng ra hàng nhà Nguyễn. Tư khấu Định
đánh thua chạy vào chết trong Mường. Quang Diệu lại sai Lê Văn
Điềm vào đánh Phú Yên, cũng không lợi. Tuy lấy được thành nhưng
có quân Lê Văn Duyệt và Lê Chất ở Quảng Nam, Quảng Ngãi đánh
vào, Nguyễn Văn Thành ở cửa Thi Nại đánh lên, lại có quân Tốhg
Viết Phúc và Nguyễn Văn Tính ở Phú Yên đánh ra. Quân Tây Sơn
phải hết sức chống giữ, chờ quân Bắc Hà vào cứu viện.
LUỸ TRẤN NINH - Thất thủ Phú Xuân, cảnh Thịnh ngày đêm
kíp ra Bắc Hà, đổi niên hiệu là Bảo Hưng, truyền hịch đi các nơi lấy
viện binh. Tháng 11 âl, thu thập được hơn 3 vạn người sang sông
Gianh. Thuỷ quân gồm 100 chiến thuyền giữ cửa Nhật Lệ tức Đông
Hải (Đồng Hới, tỉnh lỵ Quảng Bình). Các tướng Nguyễn là Nguyễn
Văn Trương, Tốhg Phúc Lương, Đặng Trần Thường phải lui. Phúc
Ánh thân đem đại quân ra tiếp ứng, sai Phạm Văn Nhân và Đặng
Trần Thường giữ mặt bộ, Nguyễn Văn Trương mặt thuỷ.
Tháng riêng âl năm 1802, Nguyễn Quang Thuỳ, em Bảo Hưng
tiến quân đánh luỹ Trấn Ninh, đánh mãi không đưỢc, toan rút quân
nhưng Bùi Thị Xuân, vỢ Trần Quang Diệu, không chịu, đốc thúc quân
lính đánh tràn. (Bùi Thị Xuân đem 5.000 thủ hạ tòng chinh trong
trận này). Đánh nhau suốt từ sáng sớm đến chiều tối, không phân
được thua. Bỗng có tin thuỷ quân bị Nguyễn Văn Trương phá vỡ ở cửa
Nhật Lệ, quân Tây Sơn khiếp sỢ bỏ chạy. Tướng Nguyễn Văn Kiên về
hàng nhà Nguyễn. Bảo Hưng đem quân chạy về bắc.
428
Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng ở Quy Nhơn, các mặt bị quân
Nguyễn bô vây tấn công ráo riết, liệu chông lại không nổi, lại nghe tin
quân thua ỗ Trấn Ninh, tháng 3 âl nhân đêm mưa tốĩ, bỏ thành Quy
Nhơn, đem 1.000 quân sĩ và 150 thớt voi đi đường thượng đạo qua Ai
Lao ra Nghệ An để hội với Bảo Hưng lo sự chông giữ.
NGUYỄN PHÚC ÁNH LÊN NGÔI TÔN - Nguyễn Phúc Ánh dấy
nghiệp xưng vương như các chúa trước. Từ khi thu phục Phú
Xuân, thanh thế lừng lẫy. Sau khi lấy được đất đến sông Gianh,
làm chủ toàn thể giang sơn cũ chúa Nguyễn, ngày 2 - 5 âl năm
1802, xưng làm vua (hoàng để), lấy niên hiệu là Gia Long.
QUÂN NGLAT n r a l ấ y đ ấ t b ẮC h à - Lên ngôi, Gia Long lại thân
chinh ra đánh Bắc Hà, sai Nguyễn Văn Trương lĩnh thuỷ binh, Lê
Vàn Duyệt và Lê Chất bộ hình, hai đạo cùng tiến. Tháng 6 âl, bộ binh
sang sông Gianh, tiến lên đóng ở Hà Trung. Thuỷ binh vào cửa Hội
Thông đánh vào các đồn luỹ. Trấn thủ Nghệ An Nguyễn Ván Thận bỏ
thành lui giữ Diễn Châu. Đại quân của Gia Long từ Phú Xuân kéo ra.
Các căn cứ Hoành Sơn, Hà Trung, Đại Nài, Vĩnh Định, Thanh Hoa
lần lượt rơi vào tay quân Nguyễn. Bấy giờ, Trần Quang Diệu do
đường Ai Lao ra đến châu Quy Hợp , xuông huyện Hương Sơn, thấy
quân Gia Long đã lấy được Nghệ An rồi, cùng Bùi Thị Xuân về huvện
Thanh Chương, quân sĩ đều hỏ cả, được mấy ngày vỢ chồng bị bắt.
Tướng Vũ Văn Dũng cũng bị bắt ở Nông Công, Thanh Hoa.
Chiếm xong Nghệ, Thanh, quân Nguyễn thuỷ bộ tiếp tục kéo
ra bắc. Đi đến đâu, quân Tây Sơn chưa đánh đã tan, chỉ trong một
tháng đã ra đến Thăng Long.
Bảo Hưng thấy thế không chông giữ được, cùng các em
Quang Thuỳ, Quang Thiệu và mây bề tôi đô đốc Tú, Nguyễn Văn
Tứ sang sông chạy về phía bắc, đến Phượng Nhãn đều bị bắt.
Quang Thuỳ tự tử. Đô đôc Tú và vỢ cũng tự vẫn. Vua tôi mấy
người bị đóng cũi đưa về Tháng Long.
Nhà Tây Sơn 1778 - 1802 làm vua 25 năm, nhưng Thái Đức
chỉ giữ Quy Nhơn và các hạt lân cận. Đến Quang Trung 1788 -
1792 đuổi quân Thanh, lấy Bắc Hà, mới đáng kể thì miền nam đã
bị Nguyễn Phúc Anh lấy lại rồi.
Do bận chiến tranh, nhà Tây Sơn không sửa sang được mấy
về kinh tế và văn hoá. Công nghiệp của Quang Trung làm vua chỉ
trong bốh năm chưa có ảnh hưởng lớn đến quần chúng nhân dân.
Sau khi Quang Trung khuất, vua trẻ lại hèn, đại thần ghen ghét
giết hại lẫn nhau, quan lại các địa phương tham nhũng, chính trị thôi
nát, lòng dân oán hận nên dòng vua này không tồn tại được lâu dài.
429
THỜI ĐỢI CỢN KIM
KỶ NHÀ NGUYỄN (1802 - 1945)
NGUYÊN THẾ Tổ 1802 - 1819
huý PHÚC ÁNH (1761 - 1819)
Niên hiệu: Gia Long

NGUYỄN PHÚC ÁNH XƯNG ĐẾ HIỆU - Ngày 2 - 5 âl năm 1802,


Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long,
đổi tên nước là Nam Việt, đóng đô ở Huế hiện nay. (Đây là xã Phú
Xuân cũ, thành gọi là Thuận Hoá, tên hạt gồm châu Thuận và
châu Hoá, xưa là o, Rí nước Champa, nay là Quảng Trị và Thừa
Thiên. Thòi thuộc Pháp, thực dân đọc trệch Thuận Hoá ra Huế,
sau người trong nước gọi theo).
Lên ngôi, ra lấy Bắc Hà, Gia Long phong tước cho con cháu
nhà Lê, nhà Trịnh, cấp ruộng đất và trừ giao dịch cho dòng dõi hai
họ ấy đê giữ việc thò phụng tổ tiên.
Gia Long thăng thưởng cho các tướng sĩ, tha một vụ thuế cho
dân, đổi miền bắc là Bắc Thành, cử Nguyễn Văn Thành làm tống
trấn, Nguyễn Văn Khiêm, Đặng Trần Thường và Phạm Ván Đăng
coi các tào hộ, binh, hình giúp Thành.
Gia Long biết vỢ chồng Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân có
tài lớn, sai người dụ về hàng, hứa phong quan tước lớn. Quang
Diệu không chịu nói: Nếu nhà vua tha tôi, không bắt tội thì tôi xin
về cày ruộng, nộp thuê như người dân thường. Chứ nhận quan
tước của thiên triều đại mới thì không phải là người trượng phu.
Tháng 7 âl năm 1802, Gia Long về kinh, đem vua tôi nhà
Tây Sơn làm lễ hiến phu ở Thái Miếu, rồi đem ra pháp trường xử
trị cực kỳ tàn khốc. Các tập sử chép khác nhau. Có sách nói đem
cho voi dày, xé xác, chém ngang lưng. Có sách chép đem lột da
nhồi trấu. (Riêng về Bùi Thị Xuân đem cho voi dày, con voi nhận
thấy chủ cũ, quỳ lạy. Kế đó bà bị quấn rẻ tẩm dầu, đốt như cây
đuôc). Lại sai quật mả vua Thái Đức và Quang Trung, vứt bỏ thây
đi, lấy đầu đem bỏ hòm gỗ, giam trong ngục tôi. Văn thần Ngô Thì
430
Nhậm và Phan Huy ích bị đánh 100 hèo trước Văn Miếu. Thì
Nhậm yếu, đau đòn chết.
Gia Long cho xây điện cần Chính, điện Thái Hoà tráng lệ, để
thường lập đại triều, bắt quân dân xây thành kinh đô và hoàng
thành, cùng các thành trì các doanh trấn.
Gia Long vừa lên ngôi, sai Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân
Tĩnh đem các phẩm vật, ấn sách nhà Thanh phong cho Tây Sơn
sang nộp Thanh triều và xin phong. Đến năm 1804, Thanh Nhân
Tông Gia Khánh mói sai sứ sang phong. Nhà Thanh đổi lại quốc
hiệu nước ta là Việt Nam, có lẽ vì thấy Nam Việt là tên nước của
nhà Triệu xưa gồm cả đất Lưỡng Quảng. Đến năm 1806, tức năm
Gia Long thứ 5, Gia Long mới làm lễ đăng quang, xưng đế hiệu
long trọng ở điện Thái Hoà.
Sau những năm loạn lạc, Gia Long lên ngôi, sửa sang mọi
việc, chỉnh đô"n pháp luật và việc cai trị, cải hoá phong tục, cấm
dân gian lấy việc thần, Phật bày ra rượu chè, ăn uôKg, nghiêm
cấm quan lại sách nhiễu dân, giao hảo với Trung Quốc, Xiêm La,
Chân Lạp.
VIỆC TRIỀU CHÍNH - Gia Long bỏ các chức tham tụng, bồi tụng
tựa như tể tướng. Mọi việc đều do các bộ: lại, hộ, lễ, binh, hình, công
chủ trương. Mỗi bộ có thượng thư, tả hữu tham tri, tả hữu thị lang
và thuộc viên: viên ngoại, lang trung, chủ sự, thư lại. Lại có Đô Sát
viện giữ việc can gián vua, đàn hạch các quan. Cấp sự trung các
khoa và giám sát ngự sử thông quốc. Trong viện có tả hữu đô ngự sử
và tả hữu phó ngự sử. Lại đặt Tào Chính coi việc vận tải cùng thuế
má tàu bè. Có tào chánh sứ và tào phó sứ làm đầu.
Các địa phương thì từ Thanh Hoa ngoại (Ninh Bình) trở ra,
gọi là Bắc Thành, thông 11 trấn, 5 trấn nội là: Sơn Nam thượng,
Sơn Nam hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc và Hải Dương. 6 ngoại trấn:
Tuyên Quang, Hưng Hoá, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên,
Quảng Yên. Từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Định thành, thống
cả 5 trâK: Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Hoà, Vĩnh Thanh
(Vĩnh Long, An Giang), Vĩnh Tường và Hà Tiên, ớ quãng giữa
nước, đặt các trấn: Thanh Hoa, Nghệ An, Quảng Ngãi, Bình Định,
Phú Yên, Bình Hoà (Khánh Hoà) và Bình Thuận. Đất kinh kỳ
thống 4 doanh: Trực Lệ, Quáng Đức (Thừa Thiên), Quảng Trị,
Quản^ Bình, Quảng Nam.
ớ Bắc Thành và Gia Định Thành, đặt chức tổng trấn và phó
tổng trấn coi mọi việc, ớ trấn, đặt lưu trấn hay trấn thủ, cai bạ và
431
ký lục cai trị. Trấn chia ra phủ, huyện, châu, đặt tri phủ, tri
huyện, tri châu cai trị.
Các trấn Nghệ An, Thanh Hoa và 5 nội trấn Bắc Thành dùng
cựu thần nhà Lê cai trị. 6 trân ngoại Bắc Thành, giao quyền cai
trị cho các thổ hào, tù trưởng.
Sang triều Gia Long, vẫn còn có những chức vị thiếu, thái,
bảo, phó, sư được phong cho các quan to những chỉ là hư vị, không
có thực quyền gì hết.
BINH CHÊ - Gia Long đặt phép giản binh, lệ định các trấn từ
Quảng Bình đến Bình Thuận, cứ 3 đinh kén lấy 1 lính; từ Biên
Hoà trở vào, 5 đinh lấy 1 lính; từ Hà Tĩnh trở ra đến 5 nội trấn
Bắc Thành, 7 đinh lấy một lính; các ngoại trấn 10 đinh lấy 1 lính.
ở kinh thành đăt ra thân binh, cấm binh, tinh binh. Thân
binh mỗi vệ 500 người, cử 50 người tập quân nhạc, ơ các trấn, đặt
ra lính cơ, lính mộ. Lại đặt ra biền binh ban lệ: Các binh lính chia
ra làm 3 phiên, 2 phiên về quán, 1 phiên tại ban. luân lưu thay
đổi cho nhau.
Binh khí dùng gươm, giáo, mã tấu, đại hác (súng lớn bằng
đồng), súng thạch cơ điểu thương (súng nhỏ, cò máy đá, bắn thì
mở bằng máy đá lửa).
Ó các cửa biển đềú làm đồn đặt súng phòng giữ và xem xét
tàu bè ngoại quốc đi lại. Nvíớc ta có nhiều bờ biển phải giữ gìn. Gia
Long lưu tâm chỉnh đôn binh thuyền, lấy người ở gần biến về
doanh Quảng Đức, doanh Quảng Nam làm 6 vệ thuỷ quân đóng
tại kinh thành. Các cửa khẩu, mỗi nơi có một cơ lính thuv coi giữ.
Nhà vua dùng thuyền lớn bọc đồng đi lại tuần phòng miền biển.
VIỆC TÀI CHÍNH - Thuế đinh, thuế điền đều định lại. Thuế điền
chia làm 3 hạng; hạng nhất mỗi năm mỗi mẫu nộp 20 thăng thóc,
hạng nhì 15, hạng ba 10. Các thứ ruộng mùa 10 thăng.
Thuế đinh mỗi xuất mỗi năm phải chịu 1 quan 2 tiền. Đinh
ngoại trấn Bắc Thành chỉ phải chịu 6 tiền. Ngoài ra còn phải
chịu mân tiền 1 tiền, điện tiền (tạp dịch) 6 hay 3 tiền (dân
Thanh, Nghệ chịu tạp dịch không phải nộp khoản này), cước mễ
2 hay 1 bát.
Những năm mất mùa thì nhà nước chiếu theo sự thiệt hại
nhiều ít mà giảm thuế cho dân.
S ổ đ in h . - Lệ định 5 năm một lần làm sổ đinh, trong làng từ
chức sắc đến quân dân đều phải vào số. Kê từ 18 trở lên, 50 trở
xuôhg, đều phải khai vào sổ.
432
sổ đ iể n . - Các làng ruộng mùa, ruộng chiêm, ruộng hai mùa,
hoặc đất hoang, bao nhiêu mẫu sào thước, toạ lạc tại đâu phải làm
sổ chua cho rõ ràng, lập thành 3 quyển, cứ 5 năm làm một lần, đệ
vào bộ đóng dấu kiểm, một quyển lưu tại bộ, một tại trấn, một
trao trả xã bảo thủ. Địa bạ Gia Long được lưu truyền dài về sau.
THUẾ CÁC SẢN VẬT - Các quế hộ Nghệ An đồng niên phải nộp
các hạng quế 120 cân, Thanh Hoa 70 cân; đều được miễn trừ thuế
thân. Người tìm được cây quế phải trình quan, đẵn xong phải nộp
quan một nửa, được thưởng một nửa. Người đi lấy yến sào ở
Quảng Nam mỗi nám phải nộp thuế 8 lạng, được tha việc binh
lính. Các thứ hương, sâm, chiếu, gỗ có lệ riêng, cho nộp thuế Ếằng
tiền hay bằng sản vật. Thuyền các nước vào buôn bán, sô" thuế
định theo thuyền lớn nhỏ. Những mỏ đồng, thiếc, kẽm cho người
Trung Quốíc khai, đánh thuế.
CẤM BÁN CÔNG ĐIỀN - Từ khi nhà Lê mất ngôi, dân xã có nơi
đem công điền đổi ra tư điền, nơi đem cố bán đi. Gia Long cấm
mua bán công điền công thổ. Lúc có công dụng, mới được điền cô"
bán. Hết 3 năm phải trả lại. Ai giữ quá hạn phải tội.
VIỆC ĐÚC TIỀN. - Gia Long mở sở đúc tiền đồng kẽm, mỗi đồng
nặng 7 phân. Lại đúc vàng, bạc ra nén, lạng, để cho tiện việc buôn bán
giao thông trong nước. Định mỗi lạng vàng đổi lấy 10 lạng bạc.
Có lò đúc tiền ở Bắc Thành, Gia Định thành và các trấn.
PHÉP ĐO, CÂN - Gia Long chê" tạo kiểu thước đồng đo ruộng,
cân thiên bình cân đồng, sắt, chì, thiếc và sản vật; cân trung bình
cân vàng, bạc, cấp mẫu cho các doanh, các trấn.
CÔNG VỤ - Gia Long sai sửa sang đường sá, xoi đào sông ngòi,
đắp đê điều để cho việc làm ăn của nông dân được tiện lợi. Các
doanh, trấn phải sửa sang quan lộ, đắp đường, làm cầu. Từ cửa
nam Quan đến Bình Thuận, cứ 4.000 trượng (16km) làm một nhà
trạm. Từ Bình Thuận trở vào Hà Tiên thì đi đường thuỷ. Đê điều
phải giữ gìn cẩn thận. Đào nhiều sông ngòi tiêu nước úng thuỷ,
nhất là ở miền bắc. Tại các trấn, đặt kho chứa thóc gạo phòng khi
mất mùa đói kém lấy phát cho dân.
PHÁP LUẬT - Nguyễn Văn Thành được cử làm tổng tài soạn ra-
sách luật mới. Bộ luật Gia Long này gồm 22 quyển, 398 điều, ban
hành năm 1815, chép lại hầu hết bộ luật nhà Thanh, không theo
luật Hồng Đức xưa phù hỢp với phong tục người nước ta.
VIỆC HỌC HÀNH - Gia Long nhờ có võ công mà dựng nghiệp.
Quan triều hầu hết là võ, sau khi lên ngôi cũng trọng văn, lưu ý
433
đến việc học hành thi cử, lập văn miếu ỏ các doanh, các trấn, đặt
Quôh tử giám ở kinh thành, mở khoa thi hương tuyển người có học
ra làm quan, đặt chức đôh học ở các trấn, cũng lo đến địa dư và
quốc sử. Lê Quang Định soạn sách N hất thống đ ịa dư ch í gồm 10
quyển năm 1806. Năm 1811, sai quan tìm dã sử sửa lại quốc sử.
Ván quôh âm thời ấy thịnh. Bài Văn t ế tướng sĩ trận vong khi
Nguyễn Văn Thành chủ tế, không rõ ai soạn, là áng văn chương
đại bút. Truyện H oa Tiên của Nguyễn Huy Tự và Truyện Kiều
của Nguyễn Du xuất hiện thòi bấy giò.
VIỆC BANG GIAO VỚI TRUNG QUỐC - Năm 1804, Thanh Nhân
Tông Gia Khánh sai Tô" Bô" Sâm, án sát Quảng Tây, sang tuyên
phong Gia Long làm Việt Nam quốc vương. Từ đó, chiếu lệ ba nám
một lần sang công vua Thanh. Đồ công phẩm là 200 lạng vàng,
l.óoo lạng bạc, lụa và cấp mỗi thứ 100 câv, 2 bộ sừng tê, ngà voi
và quan quê" mỗi thứ 100 cân.
Bấy giờ, nhà Thanh không còn hùng mạnh như xưa nữa mà
đã có sự suy nhược. Thê" mà vua tôi Gia Long không biết điều đó,
phí phạm tài nguyên qiiôc gia đem cung phụng vua Trung Quốc.
VIỆC BANG GIAO VỚI NUỚC c h â n l ạ p v à NUỚC x iê m l a - Các
chúa Nguyễn xưa vẫn giữ quyển bảo hộ nước Chân Lạp. Nặc ông
Tôn được chúa Nguvễn dựng làm vua Chân Lạp các năm 1760 -
1770, sau bị anh em hiếp chế, phải chia quyền làm ba: Nặc ông
Vinh làm vua đầu, mình làm vua thứ hai, em Nặc ông Tham vua
thứ ba. Sau Nặc ồng Vinh giết hai em làm vua một mình. Phúc
Ánh ở Gia Định sai Đỗ Thanh Nhân sang đánh Nặc ồng Vinh, lập
con Nặc Tôn là Nặc Ong Ân mới 8 tuổi lên làm vua. Hồ Văn Lân ở
lại bảo hộ. Đến khi Gia Định thất thủ, quyền bảo hộ Chân Lạp
thuộc về Xiêm La. Năm 1796, Nặc ông Ân mất, con là Nặc ông
Chân lên thay, thần phục vua Xiêm La. Năm 1807, Nặc ông Chân
bỏ Xiêm La, thần phục nước ta, theo lệ công hiến ba năm một lần.
Công phẩm là 2 con voi, 2 ngà voi, sa nhân, đậu khấu, hoàng lạp,
cánh kiến, mỗi thứ 50 cân và sơn đen 20 lọ.
Nặc Ông Chân có ba người em là Nặc ông Nguyên, Nặc ông
Lem và Nặc Ong Đôn muôn tranh quyền, sang cầu cứu Xiêm La.
Xiêm La bắt Nặc ông Chân chia đất cho các em. Nặc ông Chân
không chịu. Quân Xiêm La sang đánh thành La Bích. Nặc Ong
Chân chạy sang Tân Châu cầu cứu. Năm 1811, Gia Long sai đưa
thư sang trách nước Xiêm La. Vua Xiêm La thuận để cho nước ta
xử trị. Năm 1813, Gia Long sai Lê Văn Duyệt đem hơn 1 vạn
434
quân, hội đồng với sứ Xiêm La đưa Nặc ông Chân về nước. Xiêm
La vẫn lưu quâh giữ Battanbang, nói để phong cho các em Nặc
Ông Chân. Lê Văn Duyệt viết thư trách, quân Xiêm La mới rút về.
Lê Vàn Duyệt xây thành Nam Vang (Phnôm Pênh) và thành La
Lem. Gia Long cử Nguyễn Văn Thuỵ đem 1.000 quân bảo hộ Chân
Lạp. Nước ta lại bảo hộ nước này.
VIỆC BANG GIAO VỚI NƯỚC ANH - Năm 1803, có sứ nước Anh
Robert đem phương vật sang dâng và xin dâng vào mở cửa hàng
buôn bán ở Trà Sơn thuộc Quảng Nam. Gia Long không nhận lễ,
không cho mở cửa hàng. Sau người Anh còn 2, 3 lần đưa thư sang
nữa, Gia Long vẫn từ chcíi.
Về việc này, Gia Long đã lầm lỗi lớn. Đã từng ở bên nước
Xiêm La mà không biết nên theo vua Xiêm La cho các người Âu
châu vào mở cửa hàng buôn bán. Vì quyền lợi, họ sẽ giữ miếng
nhau, không đê cho riêng một nước nào giữ độc quyền chiếm làm
thuộc địa.
VIỆC BANG GIAO VỚI N ư ớ c PHÁP - Gia Long biệt nhãn với người
Pháp, do Bá Đa Lộc và mấy sĩ quan Pháp có nhiều công lao giúp
đỡ lập nghiệp. Bá Đa Lộc chết năm 1799 khi tòng chinh ỏ cửa Thi
Nại, được đưa về Sài Côn làm lễ an táng long trọng, truy phong
tước quận công. Các sĩ quan và binh sĩ Pháp, không được trả lương
hậu, lần lượt bỏ cả về nước. Chỉ còn Chaigneau (có tên Việt là
Nguyễn Văn Thắng), Vannier (Nguyễn Văn Chấn) ở lại lâu, làm
quan dưới triều Gia Long. Despiau ở lâu, nhưng rồi cũng bỏ về.
Gia Long trọng đãi, cho mỗi người 50 lính hầu và miễn lạy.
Đầu thế kỷ XIX, thòi vua Gia Long mới lên ngôi, thì ỏ nước
Pháp, Napoléon I cẩm quyítn, bận nhiều về việc chiến tranh với
các nước Âu châu, không giao dịch với nước ta. Sau dòng Bourbons
phục hưng mới có tàu Pháp sang buôn bán ở Viễn Đông. Năm
1817, tàu La Paix chở hàng sang bán bên ta, do hàng ấy người ta
không quen dùng, không bán được. Gia Long tha thuế. Năm 1819,
tàu Rose và tàu Le Henri vào cửa Đà Nang, bán được hàng, chở
chè và lụa về. Chaigneau xin phép nghỉ 3 nărn về Pháp.
Cũng năm 1817, tàu binh Cybèle vào cửa Đà Nang. Thuyền
trưởng là bá tước De Kergarion nói vua Pháp Louis XVIII sai sang
nhận cửa Hội An và đảo Côn Lôn, thi hành điều ước Versailles
1787. Gia Long trả lòi rằng: Những điều ước ấy, nước Pháp trước
đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa. Thế nước Pháp
bấy giò chưa mạnh gì lắm., nên không xảy ra chuyện lôi thôi.
435
sự GIẾT H Ạ I CÔNG THẦN - Cũng như mấy vua khai quốc khác,
Gia Long giết hại công thần.
Nguyễn Văn Thành, người gốc Thừa Thiên ở Gia Định sớm
theo phò, lập nhiều công lớn, đứng đầu hàng công thần, từng làm
tổng trấn Bắc Thành giữ miền này yên trị. Có học thức, lại từng
làm tổng tài soạn sách luật và quôh sử. ông có người con là
Nguyễn Văn Thuyên, đỗ cử nhân, hay làm thơ giao du với các văn
sĩ. Nghe nói Thanh Hoa có Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức
Nhân có văn tài, làm thơ gửi ra, có câu: “Thư hồi nhược đắc sơn
trung tể, tá ngã kinh luân chuyển hoá ky” dịch Nôm là; Sơn tể
phen này dù gặp gở, giúp nhau xoay chuyển hội cơ này. Đây là lời
người thiếu niên ngông nghênh. Thế mà bị kết tội làm phản. Triều
thần kể tội Văn Thành. Một hôm bãi triều, ông chạy theo bám áo
Gia Long xin cứu. Gia Long giật áo ra đi. Văn Thành phải uôLg
thuốc tự tử. Người con phải tội chém.
Đặng Trần Thường người Chương Đức (Chương Mỹ, Hà
Đông), có tài văn học, vào Gia Định lập công, được phong đến chức
thượng thư bộ binh. Làm sắc phong cho Hoàng Ngũ Phúc, tướng
nhà Trịnh, làm phúc thần nên phải tội chém. Được tha, sau bị bới
những việc khi ra coi tào binh ở Bắc Thành, đã chiếm giữ đầm ao
và ân lậu đinh điền, v.v... lại bị bắt phải tội giảo. Khi bị giam
trong ngục, Đặng Trần Thường có làm bài H án vương tôn phú
bằng quốc âm, tự ví mình như Hàn Tín.
LOẠN LẠ C TRONG Nước: - Ngay từ khi Gia Long vừa mới lên
ngôi, dân chúng không được hưởng thanh bình, có những vụ nổi
dậy ở vùng đồng bằng Bắc Thành, rồi lan rộng ra. Trong 18 năm
triều Gia Long, có đến 50 cuộc nông dân nổi dậy. Riêng 5 năm
đầu, tổng trấn Bắc Thành phải mở trên 30 cuộc tiễu phạt, ở vùng
Sơn Nam và Hải Dương. Từ những năm 1807, 1808, có nhiều cuộc
nôi dậy có quy mô lớn. Những năm CUỐI triều Gia Long đã manh
nha mấy vụ nổi dậy to lốn, sang triều Minh Mệnh mới bùng nổ
mạnh mẽ.
LUẬN VỀ yU A G IA LONG - Gia Long khuất năm 1819, thọ 59
tuổi, làm vua 18 năm, miếu hiệu Thế Tổ Cao hoàng đế.
Gia Long tài trí, khôn ngoan, rất bền chí, suô"t 25 năm chiến
đấu gặp nhiều tai nạn mà không ngã lòng, lại biết dùng người anh
tài giúp việc dựng lại nghiệp cũ, lại thông nhất được đất nước từng
bị chia cắt gần 300 năm. Phải thừa nhận công cuộc thống nhất đất
nước là sự nghiệp lớn lao đáng khen.
436
Sử gia Trần Trọng Kim chê Gia Long khi công việc xong rồi,
không hảo toàn cho các công thần, đem giết hại những người có
công, khiến cho hậu thê ai xem đến những chuyện ấy cũng nhớ
đến Hán Cao Tổ mà thương tiếc cho người ham mê công danh đòi
áp chế ngày xưa.
Sách Việt N am sử lược viết thòi Pháp thuộc và dòng họ
Nguyễn còn ở ngôi nên không thể kể tội lỗi của vua sáng nghiệp
họ này.
Ke ra thì Lê Thái Tổ cũng giết hại công thần hơn vậy. Thời
quân chủ chuyên chế, nhà vua muôn giữ vững ngôi báu cho mình
và truyền cho con cháu nên tàn ác quá độ giết hại nhiều người đã
có nhiều công đưa mình lên ngôi cao.
Nguyễn Phúc Ánh khi còn long đong, vẫn kiên trì muôn được
làm vua, chỉ biết đến quyền lợi cá nhân riêng mình, trước đã rước
quân ngoại quốc Xiêm La về dày xéo đất nước, cướp phá dân mình
là hành động “rước voi về giày mồ”, sau lại cầu cứu nước Pháp,
định cắt đất nước nhượng cho Tây ngoại dương. Nước nhà còn may
có Nguyễn Huệ anh hùng diệt quân Xiêm La. Chính quyền Pháp
lại đang gặp khó khăn không giúp đỡ gì, nếu không thì nước ta đã
sớm thành thuộc địa hay ít ra là bán thuộc địa của Pháp rồi.
Khi đã làm vua lại không mở hải cảng cho các người Âu châu
vào buôn bán như vua Xiêm La đã làm, điều đã thấy khi còn
nương nhờ bên đó. Liệt cường vì quyền lợi sẽ giữ miếng nhau,
không để một nước độc quyền, thì nền độc lập khỏi bị đe doạ.
Đã biết người Âu châu th ế mạnh, kỹ thuật cơ khí cao, mà
Gia Long chỉ biết mua súng đạn, mượn người Tây xây thành
kiểu Vauban, không dùng kỹ sư họ xây cầu côKg, khai thác mỏ
kim khí. Đáng trách hơn nữa là không cho người trong nước đi
ra nước ngoài học về khoa học kỹ thuật tiên bộ của nền văn
minh vật chất.

NGUYỄN THÁNH Tổ 1820 - 1840


huý ĐẢM (1791- 1840)
N iên hiêu\ Minh Mênh

ĐỨC Đ ộ VU A M INH MỆNH - Gia Long lập người con thứ tư là


Đảm kế nghiệp. Đông cung cảnh lên đậu chết năm 1801, tháng
sau người con thứ hai là Hi cũng chết. Thái tử Đảm lên ngôi tháng
giêng âl năm 1820, đặt niên hiệu là Minh Mệnh.
437
Minh Mệnh thông minh, thâm nho học, tài văn chương, tôn
sùng đạo Khổng Mạnh, rất chăm chỉ làm việc, tiếc rằng không am
hiểu thời thế, không có lượng khoan dung, nên tuy không hẳn là
vua tàn ác, mà chang phải là vua hiền tài.
Minh Mệnh lên ngôi năm 30 tuổi, am hiểu việc triều chính,
việc gì cũng muốn biết, thường thức khuya xem văn chương, sớ. ồ
triều đặt thêm ra các tự và viện. Có nội các tựa như phòng bí thư
và Cơ Mật viện dùng đại thần coi các việc quân quốc cơ yếu. Tôn
nhân phủ coi mọi việc trong hoàng tộc. Các phẩm cấp quan chế có
từ nhất phẩm đến cửu phẩm, mỗi phẩm chia làm chính và tòng
hai bậc. Năm 1831, Minh Mệnh theo lôl nhà Thanh đổi các trấn
làm tỉnh. Trước có 27 trấn đổi thành 31 tỉnh, thêm các tỉnh Hưng
Yên, Ninh Bình, Hà Tĩnh, An Giang. Mỗi tỉnh đặt chức tổng đôc,
tuần phủ, bô chính sứ, án sát sứ và lãnh binh.
Lương bổng quan lại đồng niên và tiền xuân phục định
chánh nhất phẩm tiền 400 quan, gạo 300 phương, tiền xuân phục
70 quan,... tùng cửu phẩm tiền 18 quan, gạo 16 phương, tiền xuân
phục 4 quan.
Lương tổng quan viên ít ỏi, nhưng đồi sông thời bây giò đơn
giản. Các tri phủ, tri huyện, tri châu còn được thêm tiền dưỡng
liêm đồng niên từ 20 đến 50 quan.
V IỆC HỌC H À N H - Đạo trị nước trước hết cần phải gây lấy
nhân tài. Minh Mệnh yêu dùng những người có văn học, mở Quôc
Tử Giám, cấp học bổng cho các giám sinh. Năm 1822 bắt đầu mở
kỳ thi hội, thi đình, lấy người đỗ tiến sĩ, phó bảng. Cứ 3 năm mở
kỳ thi hương, năm trước thi hương thì năm sau thi hội, thi đình.
Đổi hương công làm cử nhân, sinh đồ làm tú tài. Phép thi hương
có 4 kỳ: đệ nhất kinh nghĩa, đệ nhị tứ lục, đệ tam thi phú, đệ tứ
văn sách.
Trần Trọng Kim trong sách Việt Nam sử lược có nói: Minh
Mệnh cũng nhận xét lôi học thi cử nghiệp là sai, nhưng lại không
biết nên phải cải cách thế nào, nên sự học của mình vẫn giữ
nguyên như cũ.
Minh Mệnh lo việc làm sách vỏ, đặt ra quốc sử quán, ban
thưởng cho những ai tìm được sách cũ làm ra sách mới.
V IỆC SỬA SANG PHONG TỤC - Những năm lắm giặc giã, phong
tục thành ra kiêu bạc, dân lắm người cờ bạc, rượu chè, hay mê
hoặc tà giáo. Minh Mệnh soạn ra 10 điều huấn dụ;
- Đôn nhân luân, trọng cương thường.
438
- Chính tâm thuật giữ bụng trong sạch.
- Vụ bản nghiệp.
- Huấn tử đệ.
- Sùng chính học.
- Giới dâm thác, rán giữ gian tà, dâm dục.
- Thận pháp thủ, cẩn thận giữ pháp luật.
- Quảng thiện hạnh rộng sự làm điều lành.
Lại nghiêm cấm sự biếng nhác, rong chơi, cờ bạc, rưỢu chè,
trừng trị cường hào bắt nạt hình dân, các việc tế lễ, ma chay phải
theo phép tắc của bộ lễ, không được bày ra ăn uống xa xỉ.
LẬP N H À DƯỜNG TẾ - Minh Mệnh thương kẻ nghèo, truyền cho
các trấn Bắc Thành lấy tiền kho lập sở dưỡng tế. Những kẻ quan,
quả, cô, độc và tàng tật không nơi nương tựa đến ở đó thì mỗi ngày
cấp cho mỗi người 20 đồng tiền và nửa bát quan đồng gạo.
V IỆC Đ IN H ĐIỀN V À THUẾ MÁ - Thuế đinh, điền đại khái theo
như thòi Gia Long đã định. Nám 1836, đất Nam Kỳ đạc điền xong,
tính ra được 630.075 mẫu.
Dân Hoa sang lập hương ấp Minh Hương mỗi đinh đồng niên
phải nộp 2 lạng bạc, lão hạng và người tàn tật chịu một nửa.
Người Thanh sang buôn bán có vật lực phải nộp 6 quan tiền,
không có vật lực nộp một nửa hạn cho 3 nám chiếu lệ thu cả thuế.
Thuế muôi thì mỗi ruộng muôi phải nộp đồng niên từ 6 đến
10 phương muôi.
Còn các thứ thuế mỏ, sản vật, theo lệ thòi Gia Long .
V IỆC DO ANH ĐIỀN - Năm 1828, Nguyễn Công Trứ đề xuất chủ
trương khai hoang đại quy mô: Đồn điền, doanh điền, khai khẩn
ruộng đất bỏ hoang, được Minh Mệnh cho thi hành.
Đồn điền tiên hành bằng cách mộ dân nghèo và sử dụng
phạm nhân tô chức thành đội ngũ đưa đi khẩn hoang nhiều nhất ở
vùng Gia Định và miền nam Trung Bộ. Sau thời gian khai khẩn 6
đến 10 năm, ruộng đất đã thành thục thì chuyển thành thôn ấp
tông xã.
Doanh điền thực tế là việc di dân lập ấp. Nguyễn Công Trứ
được cử làm doanh điền sứ. Kê hoạch ai mộ được 50 người lập
thành một lý được làm lý trưởng; mộ được 30 người lập thành một
ấp, được làm ấp trưởng. Sau ba năm khai khẩn thành ruộng bắt
đầu thu thuế. Bấy giò, Nguyễn Công Trứ chiêu mộ được nhiều dân
lưu vong đi khai phá miền bãi biển hoang rậm lập ra hai huyện
Tiền Hải nay thuộc Thái Bình và Kim Sơn nay thuộc Ninh Bình
439
và 1 tổng 2 xã thuộc Hải Hậu, 1 tổng nay thuộc huyện Giao Thuỷ,
tỉnh Nam Định. Hệ thông thuỷ lợi được xây dựng trên vùng đất
mới khai hoang. Đặt các kho thóc tại các làng ấp đề phòng khi mất
mùa đói kém, gọi là xã thương.
Công cuộc doanh điền này không tạo nên một sô" ít đại địa
chủ như thời chúa Nguyễn xưa ở miền nam, mà tạo nên nên nhiều
trung nông và nhất là nhiều tiểu nông: Ruộng đất khai thác được
chỉ một phần cấp làm tư điền, còn phần lớn thành công điền quân
cấp cho các người đã có công lao.
Thấy việc làm của Nguyễn Công Trứ kết quả tốt đẹp, Minh
Mệnh cho mở rộng doanh điền ở các tỉnh, nhất là ở Nam kỳ. Tổng
đốc An Giang Trương Minh Giảng lập được 41 xã thôn và phường
phô". (Sang đòi Tự Đức, Nguyễn Tri Phương lập được 124 ấp trong
các tỉnh Gia Định, Vĩnh Long, An Giang, Định Tường).
VIỆC V Õ BỊ - Minh Mệnh thường d ụ truyền bảo các quan phải
luyện tập binh mã đề phòng khi hữu sự. Nơi hiểm yếu lập đồn ải,
cửa biển và các đảo lập pháo đài.
Binh chế có bộ binh, thuỷ binh, tượng binh, kỵ binh và pháo
thủ binh. Bộ binh có kinh binh và cơ binh. Kinh binh đóng giữ
kinh thành hợc sai đi các tỉnh, chia làm doanh, vệ, đội. Mỗi doanh
5 vệ, mỗi vệ 10 đội, mỗi đội 50 người, có xuất đội và đội trưởng cao
quản. Binh khí có súng thần công, súng điểu thương. Cơ binh là
lính riêng của từng tỉnh, cũng chia cơ, đội.
Tượng binh chia thành đội, mỗi đội 40 con voi. Sô" voi ở kinh
thành 150 con, Bắc Thành 110, Gia Định thành 75, Quảng Nam
35, Bình Định 30, Nghệ An 21, các tỉnh khác miền trung từ 7 đến
15 con.
Thuỷ quân có 15 vệ, chia ra làm 3 doanh, mỗi doanh có
chưởng vệ quản lĩnh. Đô thông coi cả 3 doanh.
Các toán giáo dưỡng binh được lập cho con quan võ vào học,
được hưởng học bổng.
Tuy nhà vua lưu ý đến việc binh lính, nhưng người trong
nước bấy giờ trọng văn khinh võ, ngày thường ít chăm lo đến việc
binh, chỉ khi lâm sự mới rô"i lên. Quân sô" trong sổ sách thì nhiều
mà. thực sự thường không có đủ.
S ự GIẶ C G IÃ - Dưới thời Minh Mệnh trong nước lắm giặc giã
do lòngíngưòi miền bắc còn tưởng nhớ nhà Lê, quan lại nhũng
nhiễu, nhà vua lại hẹp hòi không bao dung công thần, người Xiêm
La I muôn tranh quyền bảo hộ Chân Lạp và Ai Lao, tù trưởng
440
Mường, Thái bất mãn do triều đình đặt lưu quan. May có những
hiền tướng Trương Minh Giảng, Tạ Quang Cự, Lê Văn Đức,
Nguyễn Công Trứ đánh dẹp được, lại mở mang thêm bồ cõi.
ơ Băc Thành, thỉnh thoảng có những vụ nổi dậy lớn nhỏ,
thanh thê to có Phan Bá Vành, Lê Duy Lương và Nông Văn Vân.
ở Gia Định thành có Lê Văn Khôi.
PHAN BÁ V À N H - Năm 1826, ở vùng Nam Định có Vũ Đức Các
cùng Phan Bá Vành, Nguyễn Hạnh khởi binh ở phủ Trà Lý và
Lân Hải, giết thủ ngự Đặng Đình Miễn và Nguyễn Trung Diễn
cùng trấn thủ Lê Mậu Cúc. Quan quân các trấn về tiễu trừ, bắt
được Vũ Đức Các. Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh chạy ra biển,
thông với giặc khách, đánh phá huyện Tiền Minh và huyện Nghi
Dương ỏ Hải Dương.
Tham biện Thanh Hoa Nguyễn Công Trứ, tham biện Nghệ
An Nguyễn Đức Nhuận đem quân Thanh, Nghệ hỢp với hiệp trấn
Bắc Thành Nguyễn Hữu Thận đi đánh.
Đầu năm 1827, Phan Bá Vành lại về đánh lấy phủ Thiên
Trường và phủ Kiến Xương, lại về vây quan quân ở Chợ Quán.
Nguyễn Công Trứ và Phạm Văn Lý đến đánh vây. Bá Vành thua
chạy về giữ Trà Lũ. Thế lực mạnh. Triều đình phải huy động thêm
quân đội Thanh, Nghệ và kinh thành ra đốì phó, trang bị nhiều
thuyền và súng đạn chia làm nhiều đạo tấn công các mặt, vây bắt
được Bá Vành và đồng đảng 765 người.
Xét đám quân này chỉ là nông dân nghèo đói đi theo Bá Vành
chống đôl nên chỉ một sô" người cầm đầu bị đem hành hình, còn thì
Nguyễn Công Trứ dùng làm nhân công khai thác vùng bãi biển
lập ra hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải.
LÊ DLÍY LƯƠNG - Gia Long lấy Bắc Hà, mua chuộc con cháu nhà
Lê, ngán ngừa mưu đồ nổi dậy, phong Lê Duy Hoán, cháu vua Lê
Hiển Tông, tước Diên Tự công, cấp cho 1 vạn mẫu ruộng ở Thanh Hoa
dùng vào việc thờ tự vua Lê. Năm 1816, Duy Hoán bị bắt giết. Sang
thòi Minh Mệnh, Lê Duy Lương, con thứ hai Duy Hoán, trốh tránh ở
vùng Ninh Bình, Hoà Bình, dựa vào các lang đạo họ Đinh, họ Quách,
năm 1833, khởi binh chống lại triều đình, xưng là Đại Lê hoàng tôn,
cùng với các thố’ ti Quách Tất Công, Quách Tất Tế, Đinh Thế Đức,
Đinh Công Trinh, đánh phá các phủ huyện, chiếm giữ 3 châu huyện
Lạc Thổ, Phụng Hoá và Yên Hoá. Lại sai quân vây thành Hưng Hoá.
Minh Mệnh sai tổng đốc Nghệ Tĩnh Tạ Quang Cự và tổng đốc Thanh
Hoa Nguyễn Văn Trọng đem quân ra đánh Ninh Bình.
441
Có Trần Trí và Đỗ Bảo chỉ huy đội lính Ninh Thiện ở phủ
Trần Ninh giết cai đội, cướp khí giới, đi đường thượng đạo về hỢp
tác với Lê Duy Lương, bị quân triều đón bắt. Quan quân các đạo
kéo đánh thẳng vào Sơn Ảm, Xích Thổ. Lê Duy Lương thê cô, chỉ
đương đầu lại được ba tháng. Đến tháng 6, căn cứ bị phá, Duy
'Lương và Duy Nhiên bị bắt giải về kinh, bị xử lăng trì.
Năm 1836, dư đảng Quách Tất Công và Quách Tất Tại vẫn
còn chông cự lai rai. Triều đình phải cử Trương Đăng Quế làm
kinh lược đại sứ hỢp binh với tổng đốc An ITnh Phạm Văn Điển
ráo riết tấn công các mặt. Giữa năm 1838, Lê Duy Hiên cùng các
thủ lĩnh lần lượt bị bắt, nghĩa quân mới tan rã.
Vì có việc Lê Duy Lương dấy binh, Minh Mệnh truyền bắt
các người dòng dõi nhà Lê đem đày vào Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định, chia 15 người một huyện, phát cho 10 quan tiền và 2
mẫu ruộng đê làm án.
LÊ VĂ N KHÔI - Lê Văn Khôi gốc họ Nguyễn ở Thanh Hoa, tổ
tiên di cư lên Cao Bằng, đổi mang họ Bế. Khởi binh làm loạn, bị
quan quân truy nã. Khôi ra đầu thú đưực Lê Văn Duyệt mến tài,
nhận làm con nuôi, nên gọi là Lê Văn Khôi.
Năm 1832, Lê Văn Duyệt tổng trấn Gia Định thành mất.
Minh Mệnh bãi chức tổng trấn, đặt tổng đốc, tuần phủ... như các
tỉnh ngoài bắc. Thành Phiên An (Gia Định) có Nguyễn Văn Quế
làm tổng đốc, Bạch Xuân Nguyên, bô" chính, Nguyễn Chương Đạt,
án sát. Bạch Xuân Nguyên tham ác, nói phụng mật chỉ truy xét
việc riêng của Lê Văn Duyệt, bắt tội bọn tôi tớ của Văn Duyệt. Phó
vệ uý Lê Ván Khôi bị bắt giam, mưu với người đảng và những
người bắc bị đày làm lính hồi lương, dây binh. Đêm 18 - 5 âl năm
1833, Lê Văn Khôi cùng 27 người vào dinh giết cả nhà Bạch Xuân
Nguyên, tổng đốc Nguyễn Văn Quế đến cứu cũng bị giết. Quân nổi
dậy chiếm thành Phiên An, mở cửa nhà tù thả phạm nhân, phát
khí giới cho họ. Quân thành Phiên An phần nhiều theo về. Khôi tự
xưng là đại nguyên suý, chia quân ngũ làm trung, tiền, hậu, tả
hữu, đặt quan chức cho người đồng dảng là bọn Thái Công Triều,
Lê Đắc Lực, Nguyễn Văn Đà, Nguyễn Văn Tòng, Dương Văn Nhã,
Hoàng Nghĩa Thư, Võ Vĩnh Tiền, Võ Vĩnh Tài, Võ Vĩnh Lộc,
Nguyễn Văn Bột, Lưu Tín, Trần Văn Chân, đặt quan chức như
một triều đình riêng.
Bon Thái Công Triều đem quân đi lấy các tỉnh thành, chỉ
trong một tháng, toàn 6 tỉnh miền nam đểu thuộc về Lê Vàn Khôi.
442
Minh Mệnh cử Tông Phúc Lương, Nguyễn Xuân, Phan Vàn
Thuý, Trương Minh Giảng, Trần Văn Năng đem thuỷ bộ hinh
tưỢng vào đánh. Thái Công Triều trở về với triều đình, xin đoái tội
lập công. Quan quân đi đánh lấy lại được các tỉnh. Biết thế không
chông nổi, Khôi rút quân về đóng giữ thành Phiên An, sai người
sang Xiêm La cầu cứu.
Thành Phiên An do Lê Văn Duyệt xây năm 1830, toàn bằng
đá ong cao rộng, hào sâu, trong thành có đủ lương thực khí giới.
Quan quân đánh thành nhiều lần, quân đội chết hại nhiều mà
không sao hạ được. Lê Văn Khôi hết sức chống giữ. Cuối năm ấy
(1833), Khôi phải bệnh chết. Dư đảng vẫn chông giữ được mãi sau
ba nám. Nhưng bị vây hãm lâu ngày, quân đội trong thành mệt
mỏi, thiếu thôn. Trong tình trạng nguy ngập nhiều người lần lượt
trèo thành ra đầu thú. Lại có một sô" bị bệnh dịch tả chết. Mãi đến
tháng 7 âl năm 1835, các tướng Nguyễn Xuân và Nguyễn Văn
Trọng sau trận kịch chiến ác liệt mới hạ được thành, vào bắt 1.831
người đem giết đi cả, chôn vào một chỗ gọi là mả nguy. Lại đóng
cũi đem về kinh những thủ phạm là Lê Văn Cù con Khôi, mới 7, 8
tuổi, một linh mục người Pháp Marchand (cô" Du), một người Hoa
là Mạc Tấn Giai và bọn Nguyễn Hoành, Nguyễn Vàn Trấn,
Nguyễn Văn Bột, 6 người này bị xử tội lăng trì. Không rõ cố
Marchand có ý muôn làm như Bá Đa Lộc xưa hay không.
NÔNG VĂ N VÂ N - Nông Văn Vân là dòng dõi tù trưởng người
Thái vùng Cao Bằng, Tuyên Quang, dưới thời Minh Mệnh làm tri
châu Bảo Lạc, có người em gái là vỢ Lê Văn Khôi. Khôi nổi dậy ở
Gia Định, triều đình bắt bà con họ hàng của Khôi ở Tuyên Quang,
Cao Bằng làm tội. Nông Văn Vân sỢ quan bắt bớ, liền phát động
công cuộc nổi dậy chôlig đôl. Được nhiều thổ tù trong vùng hưởng
ứng, mùa thu năm 1833, khởi binh đánh chiếm các tỉnh thành
Tuyên Quang, Cao Bằng, uy hiếp các tỉnh Thái Nguyên, Lạng
Sơn, Quảng Yên, xưng là Tiết Chế thượng tướng quân, dai dẳng
chiếm giữ mạn thượng du miền bắc hơn hai năm. Được đông đúc
nhân dân ủng hộ, thế lực mỗi ngày một thêm hùng mạnh. Quan
quân địa phương chống lại không nổi. Minh Mệnh phải điều động
quân các tỉnh miền bắc và miền trung tiến đánh từ nhiều hướng:
tổng đốic Sơn Hưng Tuyên Lê Văn Đức và thự tổng đổc Hải An
Nguyễn Công Trứ đem quân từ kinh thành đánh vào phía Tuyên
Quang; tổng đốic Ninh Thái Phạm Đình Phô đánh lên mặt Thái
Nguyên; tổng đốc An Tĩnh Tạ Quang Cự đem quân từ kinh thành
443
đánh thẳng lên Cao Bằng, Lạng Sơn. Vân sai Lê Văn Liêm, em
Khôi chia quân đi chặn đánh các mặt Bắc Ninh, Quảng Yên, Lạng
Sơn. Quân triều tiến binh rất vất vả. Cuối năm 1833 sang năm
1834, Tạ Quang Cự giải vây tỉnh Lạng Sơn và lấy lại thành Cao
Bằng. Phạm Đình Phổ đánh lui đám quân ở Thái Nguyên. Lê Văn
Đức và Nguyễn Công Trứ vào đến Vân Trung (Bảo Lạc) sào huyệt
của Vân. Vân phải chạy trôn sang Trung Quốc, nhưng khi quan
quân rút lui lại trở về hoạt động như cũ. Triều đình lại sai các đạo
quân tiến đánh. Tháng 9 âl năm 1834, Lê Văn Đức và Phạm Văn
Điển từ Sơn Tây đánh lên Tuyên Quang; Tạ Quang Cự, Nguyễn
Tiến Lâm, Hồ Hữu từ Cao Bằng; Nguyễn Đình Phổ, Nguyễn Công
Trứ từ Thái Nguyên, ba mặt quân cùng tiến. Đường sá khó khăn,
lương thực vận tải không tiện, quân sĩ triều đình phải cô" hết sức
đi đến đâu phá được đến đấy. Tháng chạp âl, cả ba đạo cùng đến
hội ở Vân Trung. Vân chạy sang Trung Quô"c bị quan nhà Thanh
đánh đuổi, lại trở về Tuyên Quang.
Tháng 3 âl năm 1835 được tin biết chỗ Văn Vân trú, quân
triều đi đuôi. Văn Vân chạy vào ẩn trong rừng. Phạm Đình Điển
bao vây 4 mặt, phóng hoả đốt rừng. Vàn Vân bị chết cháy và bị
chặt đầu đưa về kinh.
Cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi, nhất là Nông Văn Vân diễn
ra chỉ tại việc cai trị hà khắc của quyền quân chủ chuyên chế; anh
vỢ người chông đốì thì có làm gì mà muôn bắt tội.
G IẶ C XIÊM LA - Từ khi mất quyền bảo hộ Chân Lạp, nước Xiêm
La vẫn hận nhưng chưa sinh sự, vì còn e thế lực triều Nguyễn, chỉ
thỉnh thoảng có chuyện với những tiểu quốc ở Ai Lao. Quan quân ta
phòng giữ biên thuỳ và sang cứu viện những nước bị Xiêm La bắt
nạt. Năm 1827, người Xiêm La đánh lấy nước Vạn TưỢng
(Vientiane), quốc trưởng A Nỗ chạy sang ta cầu cứu. Năm 1828,
Minh Mệnh sai Phạm Văn Thuỵ đem 3.000 quân và 24 con voi đưa
An Nỗ về Trấn Ninh. A Nỗ đem quân về Vạn Tượng, nhưng bất tài,
không thắng nổi quân Xiêm La. Quân ta không sang cứu.
Thắng trận ở Vạn Tượng, quân Xiêm La lại xâm phạm đến
các châu phụ thuôc nước ta ở mạn gần Quảng Trị. Phạm Văn Điển
và quân các đạo ở Lào đi tiễu trừ. Quân Xiêm La phải rút nhưng
vẫn ngấm ngầm quấy nhiễu nước ta, dung túng những người phản
nghịch Chân Lạp và cứ hà hiếp các tiểu quốc Lào.
Năm 1833, nhân có Lê Văn Khôi khởi binh ở Gia Định sai
người sang cầu cứu, vua Xiêm La sai quân thuỷ bộ chia 5 đạo sang
444
đánh nước ta. Đạo thứ nhất thuỷ quân 100 chiếc thuyền vào đánh
Hà Tiên; đạo thứ hai quân bộ đánh vào Phnôm Pênh rồi tiến đánh
Châu Đôh, An Giang; đạp thứ ba đánh mặt Cam Lộ; đạo thứ tư
đánh mặt Cam Cát; đạo thứ năm đánh Trấn Ninh. Chúng cô"t
đánh Chân Lạp và miền nam nước ta, ba đạo khác đế phân quân
lực ta.
Minh Mệnh sai quan quân phòng ngự các nơi. Lê Văn Thuỵ
giữ mặt Cam Lộ thuộc Quảng Trị, Phạm Văn Điển, mặt Nghệ An,
Nguyễn Văn Xuân đi tiễu trừ vùng Trấn Ninh.
Đám quan quân vào đánh Lê Văn Khôi phải chông chọi với
quân Xiêm La. Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân đại phá giặc
ở sông Cổ’ cắng. Giặc vào Chân Lạp cũng bị quân bản xứ đánh
phá, chỗ nào cũng thua to, chết hại nhiều. Quan quân lấy lại hà
Tiên, Châu Đốc, đuổi quân Xiêm La ra khỏi bờ cõi, rồi tiến lên
đánh lấy lại Phnôm Pênh, đưa vua Chân Lạp Nặc ông Chân về
nước. Từ thủ đô Chân Lạp, quan quân tiến đánh dẹp các nơi, chém
tướng bắt binh, lây được nhiều khí giới. Tướng giặc Phi Mã Chất
Tri đem bại binh về nước, quan quân ta đuổi đánh, lấy lại thành
Pursat, rồi cho người Chân Lạp giữ các nơi hiểm yếu, đắp đồn luỹ
phòng ngự quân giặc.
Những đạo quân Xiêm La và Lào sang đánh mặt Quảng Trị,
Nghệ An và Trấn Ninh đều bị tướng quân ta Nguyễn Văn Xuân,
Phạm Văn Điển và Lê Văn Thuỵ đánh đuổi, nơi nào quan quân
cũng toàn thắng, giữ được bờ cõi nguyên như cũ.
Quân Xiêm La sang đánh từ tháng giêng âl năm 1834 đến
tháng 5 năm ấy, quan quân ta đã bình xong cả mọi nơi.
VIỆC AI LA O - Thời Minh Mệnh, nước ta rộng lớn. Vì bị quân
Xiêm La hay sang đánh phá, các tiểu vương các xứ Lào xin nội
thuộc nước ta. Năm 1827, người Man Chưởng (Louang Prabang)
thông với Xiêm La, đem quân đánh đất Trấn Ninh. Tù trưởng
Trấn Ninh Chiêu Nội xin nội thuộc ta. Minh Mệnh phong làm
Trấn Ninh phòng ngự sứ, cai quản 7 huyện. Lại phong các thổ
mục làm tri huyện, huyện thừa.
Lại có đất Tam Động và Lạc Phàn trước thuộc Vạn Tượng cũng
xin nội thuộc. Minh Mệnh chia đất ấy làm 2 phủ Trấn Tĩnh và Lạc
Biên. Các xứ Xa Hố’ (?), sầm Tộ (Sam Teu), Mường Soạn (?), Mang
Lan (Mường Lam), Trình Cô" (Xiêng íChọ), sầm Nứa (Sam Neua), Cam
Môn và Cam Linh (?), cũng đều xin về nội thuộc. Minh Mệnh chia các
đất ấy làm 3 phủ: Trấn Biên, Trấn Định, Trấn Man.
445
Miền Cam Lộ thuộc Quảng Trị có những mường Mang Vang
(?), Na Bí (?), Thượng Kế (?), Tả Bang (?), Xương Thịnh (?), Lâm
Bô"n (?), Ba Lan (?), Mang Bổng (?), Lan Thoi (?) cũng nội thuộc,
chia làm 9 châu cho chiếu lệ triều công. Đại khái các đất sầm
Nưa, Trấn Ninh, Cam Môn và Savănnakhét bây giờ, thòi ấy đều
thuộc về nước ta.
V IỆC NƯỚC CH ÂN LẠP - Sau khi phá quân Xiêm La, Trương
Minh Giảng và Lê Đại Cương lập đồn bảo hộ nước Chân Lạp, đổi
gọi xứ này là Cao Man. Sau vì dân bản xứ không chịu mới đổi lại
là Cao Miên, thủ đô Phnôm Pênh đổi gọi là Nam Vang. Các tỉnh
cũng mang tên chữ Hán như bên nước ta. Năm 1834, Nặc ông
Chân mất, không có con trai. Quyền cai trị thuộc mấy người phiên
liêu là Trà Long và La Kiên, người Chân Lạp nhận chức quan
chức Việt. Năm 1835, Trương Minh Giảng lập con gái Nặc ông
Chân là Ang May làm công chúa, gọi là Ngọc Vân công chúa, đổi
đất nước này làm Tây Trấn Thành, chia ra làm 32 phủ, 2 huyện,
đặt tham tán đại thần, đô đốíc, hiệp tán và 4 chánh phó lãnh binh
coi mọi việc quân, dân. 0 các nơi trọng yếu, đặt chức tuyển phủ,
an phủ để phòng ngự.
Năm 1840, Minh Mệnh sai Lê Văn Đức làm khâm sai, Doãn
Uẩn làm phó cùng với Trương Minh Giảng kinh lý mọi việc, kiểm
soát việc buôn bán, đo ruộng đất, đánh thuế đinh, thuế thuyền bè,
coi đất nước này như một bộ phận nước ta. Lại đưa những người
nghèo đói, tù phạm và đông đúc người Chăm sang lập nghiệp.
Quan lại bản xứ hỢp tác phải ăn mặc quần áo như người Việt. Bắt
Ngọc Vân công chúa đưa vê Gia Định, đày bọn Trà Long và La
Kiên ra Bắc Hà.
Thòi bấy giờ, bò cõi nước ta rộng rãi, bao gồm cả Chân Lạp
(Campuchia) và nhiều tiểu quôc Ai lao, có vẻ cường thịnh lắm. Minh
Mệnh tự đắc về điều này, đổi quốc hiệu là Đại Nam. Thực sự, có vẻ giả
tạo. Những năm cuối thời Minh Mệnh, dân Khơ Me (Campuchia) bất
bình đã lục tục nổi dậy khắp nơi, kể cả Gia Định thành.
VIỆC BANG GIAO VỚI TRUNG QUỐC - Thòi Minh Mệnh làm vua
thì bên Trung Quôc, nhà Thanh không còn hùng mạnh nữa, đã
suy nhược, từng phải nhượng bộ mấy nước Âu châu, nhất là nước
Anh. Người nước ta không biết điều ấy. Minh Mệnh vẫn đều đặn
ba năm một lần nộp lễ công, phí phạm tài nguyên quốc gia.
VIỆC GIAO THIỆP VỚI CÁ C Nước NGOẠI DƯƠNG - Việc giao thiệp
giữa nước ta với các nước ngoại dương có sự trở ngại, do: 1 - sự
446
cấm đạo Gia Tô, 2 - người nước mình không hiểu thời thế, không
theo đường tiến hộ khoa học và kỹ thuật, văn minh vật chất.
Thê kỷ XVII, XVIII, có những người Âu châu ra vào buôn bán
ỏ Phô" Hiến, Hội An. Sang thế kỷ XIX, không còn người ngoại
dương lập cửa hàng buôn bán nữa. Người Pháp có Chaigneau và
Vannier trước giúp Gia Long, ở lại làm quan triều. Nếu các nước
ngoại dương chỉ cho tàu đem hàng vào bán, nộp thuế, rồi mua về
sản phẩm của ta thôi thì tất không có việc gì không hay xảy ra.
Nhưng mỗi khi có tàu buôn đi vào thì có một sô" giáo sĩ đạo Gia Tô
vào giảng đạo, ngán cấm không được. Lại e ngại có sự do thám
nên triều đình nghi ngờ không muôn cho phép, lầm tưởng bế quan
toả cảng, người Âu châu không sang thì dân nước ta sông riêng
biệt sẽ được yên ổn.
Chaigneau năm 1819 xin về Pháp nghỉ 3 năm. Nám 1821 trở
sang thì lại nhận chức lãnh sự khâm sai của Pháp hoàng Louis
XVIII, đem phẩm vật và quốc thư sang điều đình việc thông
thương. Gia Long đã mất. Minh Mệnh cũng tiếp đãi tử tế nhưng
trả lời rằng nước Đại Nam và nước Pháp không việc gì phải làm
điều ước thương mại. Việc buôn bán thì cứ theo luật bản quốc,
không điều gì ngàn trở cả.
Năm 1822, Courson de la Ville Héllio, quản tàu Cléopâtre
nhò Chaigneau xin vào yết kiến. Minh Mệnh không tiếp. Tháng 7
âl cùng năm ấy, có tàu Anh vào Đà Nẵng xin thông thương. Minh
Mệnh cũng không cho.
Chaigneau thấy vua mới nhạt nhẽo, cùng với Vannier xin từ
chức. Năm 1824 xuô"ng Gia Định đem vỢ con Việt lai về nước.
Nàm 1825, lại có thuỷ quân đại tá Pháp Bougainville đem
hai tàu chiến Thétis và Espérance vào Đà Nẵng, đem phẩm vật và
quốc thư xin vào yết kiến. Minh Mệnh nói nước ta không tiếp sứ
Anh, mà Anh với Pháp là thù địch, nay không lẽ lại tiếp sứ Pháp,
chỉ sai quan đem đồ vật ban thưởng cho sứ Pháp.
Năm 1826, chính phủ Pháp cử người cháu Chaigneau sang
làm lãnh sự. Minh Mệnh không nhận.
Từ đó, đến 10 năm sau có sự tuyệt giao với nước Pháp. Trong
nước, trừ mấy giáo sĩ giảng đạo ở thôn dã, không có người ngoại
dương nào ở cả.
VỤ ÁN LÊ VẢ N DUYỆT VÀ LÊ CH Ấ T - Sau khi bình xong loạn Lê
Văn Khai, Minh Mệnh sai phá thành Phiên An, xây lại chỗ khác
và hạ chiếu truy tội Lô Văn Duyệt và Lê Chất.
447
Án L ê V ăn D uyệt. - Lê Ván Duyệt là đại công thần khai
quốc triều Nguyễn, từng lập đưỢc nhiều chiến công lớn. Gia Long
phong làm tổng trấn Gia Định thành. Dự bàn về việc chọn người
nôl ngôi. Lê Văn Duyệt xin lập con đông cung c ả n h thuộc dòng
đích. Khi Gia Long khuất, Minh Mệnh được lập, ông đang ở kinh,
bỏ về Gia Định, không dự lễ vua mới đáng quang. Minh Mệnh
không tin ông.

Dưới thòi quân chủ chuyên chế, khi vua muôh gì thì đình
thần ùa theo đón chiều ý vua. Vua không ưa ai thì người ấy bị kết
án phạm tràm thứ tội. Trần Trọng Kim trong VNSL chép theo Đại
Nam chính biên liệt truyện viết dài dòng về các điều buộc tội Lê
Văn Duyệt và Lê Chất, toàn là những sự vố vẩn không ra sao.

Lê Văn Duyệt làm tổng trấn là quan cai trị tài, được dân
chúng tính phục, tuy có hống hách, ông tự chuyên, từng tiếp
người ngoại dương và cho thương thuyền của họ vào mua bán.
Ông bị nghị án, trích ra các lòi nói, việc làm bội nghịch, có 7
tội nên trảm, 2 tội nên giảo, 1 tội nên phát phân, phải san bằng
phần mộ, dựng bia có các chữ: Chỗ này là nơi quyền yếm Lê Văn
Duyệt phục pháp.
Án L ê C h ất. - Lê Chất nguyên là tướng giỏi triều Tây Sơn,
do Cảnh Thịnh giết oan đại thần, bỏ sang theo Phúc Ánh, lập được
nhiều chiến công, sau làm quan to có phần hách dịch. Đồng liêu
không ưa. Sau án Lê Văn Duyệt, có Lê Bá Tú thị lang bộ lại, truy
tham tội bất thần của Lê Chất. 6 tội nên chết, lại có 10 tội tiếm
lạm. Đình thần nghị Lê Chất bất phát, bất trung, đại gian, đại ác,
phạm 6 tội nên lăng trì, 8 tội nên trảm, 2 tội nên giảo.
Lê Chất cũng bị san bằng mả. Vợ và con c ẩ n Cương, Thường,
Kỷ đều phải trảm giam hậu. Tịch biên gia sản 12.000 quan tiền
sung công.
Đến năm 1847, dưới triều Tự Đức, đông các đại học sĩ Vũ
Xuân Cẩn có sớ tâu xin gia ân cho con cháu Nguyễn Văn Thành,
Lê Văn Duyệt và Lê Chất, tuy có tội nhưng trước có công. Ba ông
này mới được phục hồi danh dự.
V IỆC PHÁ C Â C ĐỀN MIẾU THỜ CÁ C CHÚA TRỊNH - Gia Long thâm
thù báo oán các vua Tây Sơn nhưng không báo thù các chúa
Trịnh, tuy từng bị tướng nhà Trịnh Hoàng Ngũ Phúc đánh đuổi ra
khỏi thành Phú Xuân. Sang thời Minh Mệnh có triều thần dâng
448
biểu kể tội các chúa Trịnh: Danh vi Lê thần, thực vi Lê tặc. Minh
Mệnh ra lệnh phá huỷ các đền phủ thò họ Trịnh, lấy các ruộng
trước dùng vào việc thò cúng các đền phủ này làm ruộng công
hàng xã. Thực sự một số ruộng này bị cường hào chiếm lấy làm
của tư. Dân chúng những nơi này vẫn tôn thò, chỉ không linh đình
như trước.
V IỆC CẤM ĐẠO GIA TÔ - Thời Minh Mệnh trị vì, việc cấm đạo
Gia Tô và giết giáo sĩ cùng tín đồ đạo này là quan trọng.
Người nước ta xưa, hơn ngàn năm Bắc thuộc, chịu ảnh
hưởng nặng nề văn hoá Trung Quốc, lễ nghi theo Chu công,
Khổng tử gọi là đạo Nho. Đến khi đạo Phật truyền bá sang không
gặp trở ngại gì: Người đi chùa lễ phật vẫn thò cúng tố’ tiên, lễ bái
Văn Miếu và đền thò các vị có công với nhân loại hay với quốc
gia. Đến khi có đạo Gia Tô truyền bá sang thì xảy ra lắm chuyện
lôi thôi. Đạo Gia Tô dạy người yêu kính Thiên Chúa, lấy lòng
nhân thứ coi mọi người như anh em ruột thịt, về nguyên tắc,
không có chi dở. Nhưng người nước ta xưa, nhất là các sĩ phu,
không tin những điều tín đồ đạo Gia Tô tin, lại thâ"y lễ nghi c,ó
khác: không còn tôn thờ tố tiên, thần thánh thì cho là tà đạo, phá
hoại thuần phong mỹ tục, nên đả kích. Các nhà cầm quyền chính
chúa Trịnh, chúa Nguyễn xưa đã cấm đoán, nhưng không kịch
liệt lắm. Đến khi Minh Mệnh vua chuyên chê rất tôn sùng Khổng
Mạnh lên ngôi, muôn dân nước giữ chính nghĩa, không theo tả
đạo nên ra lệnh cấm ngặt. Cấm không được thì đem chém giết
các ngưòi truyền đạo và dân chúng theo đạo. Nhưng nhiều giáo
đồ không sỢ chết, cho sự tử vì đạo là vinh dự, được phong thánh,
hồn được lên thiên đường. Thành ra sự cấm đoán ngặt nghèo
cũng chang đi đến đâu hết.
Người tin theo đạo G'ia Tô, cũng như những người tin mọi tôn
giáo khác, cho điều mình tin tưởng là hay, là đúng, không gì làm
lay chuyển được, thậm chí coi người theo tôn giáo khác như thù
địch. Qua nhiều thế kỷ, người ta bàn cãi mãi, không một ai chứng
minh được đâu đúng, đâu sai lầm. Đê tránh những sự xung đột về
tôn giáo, người thức giả nêu ra sự bao dung (tolérance): Ai tin tôn
giáo nào có quyền cứ việc tin, nhưng phải để mặc những người
khác tin thế khác, không đươc bắt ho phải tin theo mình. Như
vậy, những người khác tôn giáo mới có the sôhg chung hoà bình
với nhau được. Tiếc rằng Minh Mệnh và các quan triều thòi ấy
không hiểu biết đến điều này nên đã có sự rất không hay diễn ra.
449
Minh Mệnh từ khi mới lên ngôi đã có ý không muôn cho
người ngoại quốc vào giảng đạo trong nước. Năm 1825, khi tàu
Thétis vào Đà Nang, có giáo sĩ Rogorot ở lại giảng đạo các nơi.
Minh Mệnh mới có dụ cấm đạo, truyền các quan phải khám xét
tàu bè ngoại quổic ra vào cửa biển. Trong dụ có nói: Đạo phương
tây là tả đạo, làm mê hoặc lòng người và huỷ hoại thuần phong
mỹ tục, cho nên phải cấm để khiến mọi người nước theo chính đạo.
Lại tìm những giáo sĩ trong nước đưa cả về kinh đê dịch các sách
tây ra chữ Việt, chủ ý không vì việc dịch sách, mà để khỏi đi giảng
đạo ở các nơi hương thôn.
Không phải chỉ riêng Minh Mệnh mới ghét đạo, các quan triều
hầu hết cũng đều một ý nên sự cấm càng nghiệt thêm. Nhưng cấm
thế nào, trong nước vẫn có những người đi giảng đạo. Nhà vua thấy
sự trái phép lại có dụ ra bắt các giáo dân phải bỏ đạo. Ai bắt được
giáo sĩ đem nộp thì có thưởng. Năm ấy ở Huế có một giáo sĩ phải xử
giảo và các nơi rối loạn vì sự bắt đạo và giết đạo.
Trong nước có giặc giã nổi lên, nhà vua ngờ giáo dân giúp các
toán nổi dậy, lại càng cấm nghiệt. Từ năm 1834 đến năm 1838, có
nhiều giáo sĩ và đạo đồ bị giết, nhất là từ khi bắt được cô" Du
(Marchand) giúp Lê Văn Khôi, sự cấm giết lại dữ tợn hơn trước.
Minh Mệnh cấm tả đạo, ban ra những huấn điều khuyên dân
giữ đạo chính. Nhưng dù dùng uy quyền giết hại thì dân khổ, chứ
lòng tin tưởng của người ta không lay chuyển được. Có những giáo
sĩ một niềm liều sông chết đi truyền giáo cho đưỢc. Có người đào
hầm ở dưới đất hàng mấy tháng để dậy đạo. Ý chí bền chặt như
vậy, hình phạt cũng vô ích.
Năm 1838, Minh Mệnh sai sứ sang Pháp điều đình với chính
quyền Pháp về việc ấy nhưng Hội truyền đạo ngoại quốc xin vua
Pháp Louis Philippe đừng tiếp.
Về sau, việc cấm đạo cứ dai dẳng mãi đến khi quân Pháp
sang xâm.

Không thể cho việc Minh Mệnh giết hại giáo sĩ và giáo đồ là
tàn bạo, ngược ác. ông làm việc này vẫn tưởng mình làm việc hay,
việc tôt, trừ tiệt những kẻ gian tà để giữ gìn chính đạo, thuần
phong mỹ tục của dân trong nưốc. Cũng như Louis XIV nưốc Pháp,
Philippe II nước Tây Ban Nha giết hại bao nhiêu người theo đạo
Tin lành, đâu có biết mình làm điều trái lẽ. Ngày nay, sự bao dung
đã được truyền, thế mà tại Inđônêxia và mấy nưốc châu Phi, người

450
ta còn đánh giết nhau chỉ vì không tin tưởng như nhau, Ân Độ và
Pakixtan cùng giông nòi chỉ vì khác tôn giáo mà chia thành hai
nưóc thì nói chi về sự việc hằng hai thế kỷ trưốc.
Có những ngưòi nước ta nông nổi tin rằng: Chỉ vì Minh Mệnh
và hai vua sau cấm đạo, giết giáo sĩ và người theo đạo Gia Tô nên
mới có việc người nước Pháp sang đánh chiếm đà’t nước ta làm
thuộc địa, báo thù cho các giáo sĩ bị giết (!) và bảo vệ giáo dân bản
xứ (!). Đây là theo lòi người Pháp thực dân nói vậy để che đậy sự
tham tàn của chúng. Sự thực thì dù chẳng có sự cấm đạo, giữa thế
kỷ XIX, nước ta vếu kém về binh bị lại vụng về ngoại giao với các
cường quổíc Âu châu, tư bản thực dân Pháp cũng viện cớ nào khác
đánh chiêm nước ta lập nên đô hộ. (Chúng cũng đã Jừng nói đế trị
lỗi vua quan ta khinh rẻ bạc đãi các người dại diện vua Pháp là sứ
giả sai sang). Nếu tư bản thực dân Pháp không đánh chiếm thì
cũng có người nước khác hành động tương tự.
Lại có những người cho rằng mặt trái của sự truyền bá đạo
Gia Tô là đi mơ đường tiên phong cho lũ tư bản thực dân đánh
chiếm nước xa xôi làm thưộc địa. Sự thực chỉ có một sô' ít giáo sĩ
làm đầy tớ tay sai của tư bản sang ta chỉ Icà đế do thám, lại có mấv
lái buôn giả danh giáo sĩ nữa nên đạo Catôlích bị mang tiếng xấu
oan. Không phải giáo sĩ nào cũng xâu. Phần đông chỉ biết phụng sự
Chúa, chịu khổ cực, chịu chết, đế truyền đạo.
Sự cấm đạo xâm phạm đến đức tin của người khíác vẫn là
không hay.

CÁ C Sự V IỆC KH Á C - Minh Mệnh đã xây dựng nhiều cung điện


to lớn, tráng lệ tại kinh đô, xây đắp cao rộng nội và ngoại thành
như hiện nay còn. Cũng xây nhiều hành cung ở các tỉnh, dựng
lăng tẩm đồ sộ. Nội cung có đến cả trăm phi, tần chia ra làm 9 bậc
và rất nhiều cung nữa. Có đến 142 con: 78 nam, 64 nữ.
Minh Mệnh đã sát hại chị dâu và cháu, vỢ, con đông cung
Cảnh, huộc phạm tội loạn luân ghê tởm (không chắc chắn có thật).
Đại N am thực lục chính biên chép không rành mạch. Hậu thế tha
hồ bàn cãi nhiều. Có thế làm việc này là do lo lắng cho sự an nguy
của ngôi cửu trùng.
LUẬN VỀ VUA MINH MỆNH - năm 1840, Minh Mệnh khuất làm
vua 21 năm, hưởng thọ 50 tuổi, miếu hiệu Thánh Tổ Nhân hoàng đế.
Minh Mệnh thông minh, học vấn uyên bác (về Nho học), tôn
sùng Khống Mạnh, tài làm thơ văn, quả cảm, chăm làm việc, sửa
451
sang việc cai trị, tu chỉnh pháp luật, mở mang kinh tế, ván hoá,
lại có uy vũ mở mang bò cõi đất nước, biết trọng dụng nhân tài
(Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tri Phương, Trương Minh Giảng),
khiến nước ta có cương kỷ, đầy vẻ cường thịnh một thời; tuy có sự
hẹp hòi với công thần (Lê Văn Duyệt, Lê Chất) và dùng cực hình
man rỢ trị tội những kẻ chông đôi. Nếu sinh vào 5, 3 thế kỷ trước
thì kể ra không đến nỗi nào. Nhân loại đã tiến bộ nhiều, thòi thế
đã thay đôi mà ông chỉ biết tòng cổ, không trông xa thấy rộng biết
đến nền văn minh cơ khí của người Âu châu, đã phạm sai lầm
đáng tiếc: vụng về trong việc giao dịch với các người ngoại dương,
lại không có độ lượng khoan dung đem giết giết hại giáo sĩ và giáo
đồ đạo Gia Tô. Hai vua sau lại cứ theo lầm lỗi ấy nên đã xảy ra
những việc không hay lớn.
Sử gia Trần Trọng Kim phê bình Minh Mệnh; Chính trị có
nhiều điều hay, nhưng cũng có nhiều điều dở, biết cương mà
không biết nhu, có uy quyền mà ít độ lượng, biết có dân có nước
mà không biết thời thế tiến hoá. Cho nên gọi là anh quân thì quá
đáng, gọi là bạo ngược thì không công bằng.
Phạm những điều lầm lỗi nói trên không phải chỉ riêng nhà
vua mà trách nhiệm chung cả triều đình và cả bọn sĩ phu trong
nước thời bấy giờ không có được người sáng suốt hiểu biết thời thế.

NGUYỄN HIẾN TỔ 1841 - 1847


huý MIÊN TÔNG (1811 - 1847)
N iên h iêu : Thiệu Trị

ĐỨC ĐỘ VU A THIỆU TRỊ - Tháng giêng âl năm 1841, hoàng thái


tử Miên Tông lên ngôi, đặt niên hiệu là Thiệu Trị.
Thiệu Trị tính thuần hoà, không được quả cảm như cha. Mọi
việc học hiệu, chế độ, thuế má, điều gì cũng theo như triều trước.
Quan triều bấy giờ có Trương Đáng Quế, Lê Ván Đức, Doãn u ẩ n , Võ
Văn Giai, Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Tiếp trong ngoài giúp việc,
ở miền nam, dân Khơ Me (người Chân Lạp) nổi loạn, quân Xiêm La
sang đánh phá, nhà vua phải dùng binh đánh dẹp mãi mối xong.
V IỆC NƯỚC CH Â N LẠP - Dưới thời Minh Mệnh, Trương Minh
Giảng và Nguyễn Xuân đại phá quân Xiêm La, bảo hộ nước Cao
Miên (Chân Lạp, Campuchia), đổi làm Trấn Tây thành, cai trị,
thu thuế, coi như một miền đất nước ta. Nhưng quan lại người
nước ta sang bên ấy không khôn khéo đối xử với người bản xứ, hầu
452
hết tham nhũng, nhiều người lại độc ác và tệ hđn nữa khinh rẻ
miệt thị người Khơ Me. Vì tự ái dân tộc, người Khđ Me không
phục, khắp nước không chịu hỢp tác, không nộp thuế, nhiều nơi vũ
trang chống đôi. Không những chỉ dân ở bên nước ấy, mà cả dân
người Khơ Me ỏ miền nam nước ta (được coi là công dân Việt) cũng
ruc rịch làm phản. Lại có Lâm Sâm cùng với bọn thầy chùa làm
loạn ỏ Trà Vinh. Trương Minh Giảng cùng các tướng Nguyễn Tiến
Lâm, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ đem quân đi tiễu trừ, đánh
được chỗ này thì chỗ kia nổi dậy. Lại có Nặc Ong Đồn, em Nặc
Óng Chân, sang cầu cứu người Xiêm La, đem quân Xiêm La về
đánh lấy lại đất. Quân đội ta ở Campuchia khó nhọc nhiều mà
chang làm nên được gì. Thiệu Trị nghe theo lời tâu của Tạ Quang
Cự hạ chiếu cho quan quân bỏ đất Campuchia, rút về nước chống
giữ người Khơ Me bên ta nôi loạn. Quân đội và quan lại ta rút,
thường dân ta sang làm ăn bên đó cũng bị đánh đuổi. Những đám
ngưòi Chăm trước được đưa sang lập nghiệp cũng phải chịu chung
sô" phận, vượt biên giới về cư trú tại Tây Ninh và Châu Đốc.
Trương Minh Giảng rút quân về An Giang, thấy công nghiệp
của mình không đi đến đâu, buồn rầu thành bệnh mà chết. Bấy
giờ là năm 1841.
V IỆC NƯỚC XIÊM LA - Khi quân Nguyễn Tiến Lâm và Nguyễn
Công Trứ đánh dẹp xong bọn Lâm Sâm thì quân Xiêm La lại đem
binh thuyền sang cùng với quân người Khơ Me nổi dậy đánh phá.
Thiệu Trị sai Lê Văn Đức làm tổng thổng quân vụ đi tiễu trừ.
Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Tiến Lâm giữ mặt Tiền Giang,
Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Công Nhân giữ mặt Vĩnh Tế, Phạm
Văn Điển và Nguyễn Vàn Nhàn giữ mặt Hậu Giang. Ba mặt cùng
tiến đánh, đuôi được quân Xiêm La ra ngoài bờ cõi, đặt quân giữ
các. mặt hiểm yếu, đàn áp các cuộc nổi dậy của người Khơ Me.
Nặc Ồng Đôn được người Xiêm La giúp đỡ, đem quân về
nước, xưng làm vua. Nhưng quân Xiêm La tàn bạo quá tệ, người
Khơ Me không phục, lại có người sang cầu cứu bên ta. Thiệu Trị
sai Võ Văn Giai sang kinh lý việc Campuchia. Năm 1845, Võ
Văn Giai vào Gia Định, cùng với Nguyễn Tri Phương, Doãn
Uẩn, Tôn Thất Nghị, tiến binh sang đánh, phá được đồn Dây
Sát, rồi lấy lại kinh thành (Phnôm Pênh). Người Khơ Me về
hàng hơn 23.000 người.
Nguyễn Tri Phương và Doãn uẩn đem quân đuổi đánh quân
Xiêm La và quân Khơ Me, vây Nặc Òng Đôn và tướng Xiêm La
453
Chất Trì ở ư Đông. Tháng 9 âl, Chất Trì sai người sang xin hoà.
Đôi bên thoả thuận đều giải binh.
Tháng chạp âl năm 1846, Nặc ông Đôn dâng biểu tạ tội, sai
sứ đem phẩm vật triều công. Tháng 2 âl năm sau (1847), Thiệu
Trị phong Nặc Ong Đôn làm Cao Miên quốc vương và phong Mỹ
Lâm quận chúa làm Cao Miên quận chúa, hạ chiếu cho quân thứ ở
Trấn Tây rút về An Giang. Từ đấy, Campuchia (Chân Lạp) lại có
vua và việc ở miền nam nước ta mới được yên.
V IỆC GIAO THIỆP VỚI NƯỚC PHÁP - Từ khi Thiệu Trị lên ngôi,
việc cấm đạo có nguôi một chút. Nhưng triều đình vẫn ghét đạo.
Có mấy giáo sĩ người ngoại quốc phải giam ở Huế. Có người đem
tin cho trung tá Pháp Pavin Levêque coi tàu Héroine. Levêque
đem tàu vào Đà Nang xin cho 5 giáo sĩ được tha.
Năm 1845, có giám mục Leíèbre phải án xử tử. Quản tàu Mỹ
ở Đà Nang xin không được, báo tin cho thiếu tướng Pháp Cécile.
Cécile sai quân đem tàu Alemène vào Đà Nang lĩnh giám mục ra.
Năm 1847, quan Pháp được tin ở Huế không còn có giáo sĩ
phải giam, sai đại tá De Lapierre và trung tá Rigault de Genouilly
đem chiến thuyền vào Đà Nang xin bỏ chỉ dụ cấm đạo và cho
người trong nước được tự do theo đạo mới. Hai bên còn đang
thương nghị thì quan binh Pháp thấy thuyền của ta đóng gần
Pháp và ỏ trên bờ lại thấy quân ta sắp sửa đồn luỹ, mới nghi có sự
phản trắc nên chúng bắn chìm cả những thuyền ấy, rồi nhổ neo
kéo buồm ra biển. Thiệu Trị tức giận, lại ra dụ ra cấm ngặt người
ngoại quốc vào giảng đạo và trị tội người trong nước theo đạo.
LUẬN VỀ VUA THIỆU TRỊ - Tháng 9 âl nám 1847, Thiệu Trị phải
bệnh mất, làm vua vua 7 năm, hưởng linh 37 tuổi, miếu hiệu là
Hiến TỔ Chương hoàng đế.
Thiệu Trị là vua tầm thường, không có gì đáng chê lắm nhưng
cũng chẳng có gì đáng khen ngợi, không đến nỗi hèn, mà chẳng phải
là tài giỏi. Thòi bấy giờ, nước ta cần phải có lãnh tụ anh minh, am
hiểu thời thế mà biết cách đôi phó với người ngoại dương.
NGUYỄN D ự c TÔNG 1848 - 1883
huý HỔNG NHẬM (1828 - 1883)
N iên h iêu : Tự Đức

đUc độ v u a Tự
ĐỦC - Thiệu Trị truyền ngôi cho con thứ hai
Hồng Nhậm. Tháng 10 âl năm 1847, vua mới lên ngôi, lấy niên
hiệu là Tự Đức; năm đầu kể từ năm Mậu Thân (1848).
454
Tự Đức lên ngôi năm 19 tuổi, học hành thông thái, thờ mẹ
rất có hiếu, tính điềm đạm, chăm làm việc, ham đọc sách, giỏi văn
thơ Hán và Nôm. Những bản châu phê lòi văn rất hay, chữ tốt.
Nhưng kiến thức không vượt trên các nhà nho cổ hủ, chỉ biết theo
lễ nghi Khổng Mạnh, trị dân theo Đường, Ngu, Tam đại, lấy việc
làm của người xu’a hàng mấy ngàn năm trước làm khuôn vàng
thước ngọc cho muôn đòi, không biết đến thòi thế đã đổi khác, sinh
hoạt học thuật đã tiến bộ nhiều, tòng cổ không còn thích hỢp với
thời đại mối nữa. Lại thừa hưởng cơ nghiệp không mấy tốt đẹp của
các vua trước không thức thời, đã phạm sai lầm khiến nước yếu
dân hèn. Nếu Tự Đức sáng suốt, trông xa thấy rộng, cải tiến chính
trị thì cũng còn cần phải nhiều năm khó khăn, chưa chắc gì đã kịp
cứu thoát nước nhà suy vong. Huốhg chi lại đi theo nền nếp hỏng
455
cũ mà trong thòi đại cạnh tranh quyền lợi ráo riết, đầy mưu cơ
quỷ quyệt, trí thuật gian trá thì tránh sao khỏi tai hoạ.

Xưa có lòi truyển khẩu trong dân gian rằng Tự Đức không
phải là con ruột Triệu Trị. Bà Từ Dụ sinh con gái, đổi con cho người
em lấy con trai vê nuôi. Việc này có thế là do họn Đoàn Trưng,
Đoàn Tư Trực mưu đảo chính, lập hoàng tôn đạo, con Hồng Bảo,
bịa dặt ra, Các người trong tôn thâ't không tin thế. Xét nám Tự Đức
sinh 1828 thì cha Miên Tông chưa đưọc phong làm thái tử, mà
Minh Mệnh lại có đến 78 con trai. Xét việc â'y không có thực.
Xưa (thời nửa đầu thế kỷ XX) người ta thương thấv bức tranh
vẽ một người to béo, vạm vỡ, mặt mũi dữ tỢn, mặc áo đội mũ lỗ lăng
không ra chế phục gì, dưới đề chữ chân dung vua Tự Đức.
Sử gia Trần Trọng Kim, trong sách VNSL, bác bỏ nói chân
dung Tự Đức không thế. Theo lòi tổng đôc Thân Trọng Huề, người
từng thấy dung nhan vua này thì Ngài hình dung như một nho sĩ,
trạc người bậc trung, hơi gầy, hai con mắt tinh mà lành.
Thuở trước, chỉ trừ những quan đại thần và hoàng tộc, cùng
những người vào hầu cận, vua không cho ai trông thấy mặt mà
cũng không bao giò có hình ảnh gì cả.
Tự Đức không phải người to béo, vạm vỡ, mà cũng không tàn
ác bạo ngược như người ta thường lầm.

TRIỀU THẦN - Các quan triều giúp việc tuy có những người tô"t,
thanh liêm, mà ít người giỏi nhưng đều lạc hậu, không một ai hiểu
biết rõ thòi thế, hàn những việc cải cách chính trị, mưu đồ dân
giàu nước mạnh binh cường. Trong nước cũng có được mấy người
đã đi ra ngoài, trông thấy cảnh tượng thiên hạ, về nói lại thì cho
rằng nói bậy, làm huỷ hoại mất kỷ cương (!).
Nguyễn Trường Tộ làm điều trần kể hết tình thế nước nhà và
cảnh tượng các nước, xin vua mau mau cải cách mọi việc, không
thì mất nước. Đình thần duyệt nghị, đều lấy làm sự nói càn,
không ai chịu nghe.
Đinh Văn Điền dâng điều trần nói nên đặt doanh điền, khai
mỏ, làm tàu hoả, cho mọi người phương tây vào buôn bán, luyện
tập sĩ tốt, những điều ích quốc lợi dân cả mà đình thần cho là
không hỢp thời, rồi bỏ không dùng. Sứ giả đi các nơi về tâu mọi sự,
đình thần cũng bác bỏ. Nguyễn Hiệp đi sứ Xiêm La về bàn việc
cho các nước Âu Mỹ sang thông thương. Lê Dĩnh rồi Phan Liêm
456
xin mở mang viẹc buôn bán. Triều thần đều cho là việc không
thuận tiện, không ai muôn thay đổi thói cũ chút gì cả.
Tự Đức khuyên các quan xét việc, nên cẩn thận, suy nghĩ cho
chín, nhưng cũng nên làm thế nào cho tiến bộ, chứ không tiến thì
tức là thoái vậy.
Như thế, Tự Đức cũng không cầu tiến mà các quan triều lại
bàn chỉ cần lấy nhân nghĩa trị dân, theo đạo thánh hiền làm việc
nước. Cơ khí là sáng tạo của quỷ dữ. Các người Nhật Bản, Xiêm
La, theo đòi người ngoại dương, dùng đồ vật cơ xảo, tuy nhất thời
có khâ'm khá nhưng rồi ra cũng suy. Dùng đồ cơ xảo phải vận
dụng trí óc cơ xảo. Cơ trí sẽ sinh cơ tâm, không hay ho gì.
Tình thế đã nguy ngập mà còn cứ khư khư giữ lấy thói cổ, hễ
ai nói đến điều gì thì lại bác đi. Như thế thì làm thế nào mà chẳng
hỏng việc được.
Trong khi lũ tư bản thực dân, với vũ khí tân tiến chỉ nhăm
nhăm ăn cướp, mà nước ta thì quân đội yếu hèn, vũ khí cổ lỗ đơn
sơ, ban lãnh đạo quốc gia mờ tôi, vua như thế, quần thần như thế
thì đứng vững sao nổi.
Dưới thời Tự Đức, có việc người Pháp đánh chiếm đất nước
ta, lập nền đô hộ (sự việc chép ở sau).
Phạm lầm lỗi đế mất nền tự chủ nước nhà, không phải chỉ là
tội một mình vua Tự Đức mà là tội chung của các triều thần đời
bây giò, cũng còn là của vua tôi mấy triều trước đó nữa.
V IỆC CA I TRỊ - Quan chê thòi Tự Đức vẫn giữ như trước. Các hạt
hành chính trực thuộc triều đình là tỉnh. Đặt 5 tống đốc cai trị các
tỉnh Bắc Kỳ, gọi là ngũ tỉnh. Đàng Ngoài; Hà Ninh (Hà Nội, Ninh
Bình), Định An (Nam Định, Hưng Yên), Ninh Thái (Bắc Ninh, Thái
Nguyên), Hải An (Hái Dương, Quảng Yên), Sơn Hưng Tuyên (Sơn
Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang). Thêm tuần phủ Cao Lạng (Cao
Bằng, Lạng Sơn) nguyên tắc thống thuộc tổng đốc Ninh Thái.
Trung Kỳ có các tỉnh Thánh Hoá (trước là Thanh Hoa, kỵ
huý thái hậu Từ Dũ đổi là Thanh Hoá), Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên (Thuận Hoá), Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Thuận.
Miền nam gọi là Nam Kỳ lục tỉnh, gồm các tỉnh; Gia Định,
Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
V IỆC BANG GIAO VỚI TRUNG QUỐC - Người nước ta xưa chỉ biết
Trung Quốc là văn minh, cường thịnh, coi khinh người Âu châu là
lũ bạch quỷ, người da đen là dạ xoa. Sang thế kỷ XIX, nhà Thanh
457
suy nhược rồi mà các vua triều Nguyễn mù quáng vẫn thuần
phục, ba năm một lần công hiến vàng bạc, td lụa, ngọc ngà, sừng
tê, quan quế. Trung Quốc thất bại nặng nề trong trận Nha Phiến
chiến tranh 1839 - 1842. Khi Tự Đức lên ngôi thì triều đình nhà
Thanh đang ở trong tình trạng khủng hoảng mà bên ta không
biết. Tự Đức sai sứ sang Thanh nạp công, xin phong. Từ trước, sứ
giả nhà Thanh không vào tận Huế. Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu
Trị phải thân hành ra Hà Nội làm lễ nhận phong. Năm 1849, do
sự khẩn khoản của triều đình ta, sứ giả nhà Thanh chịu vào đến
Huế tuyên phong cho Tự Đức. Triều đình cho đây là thắng lợi
ngoại giao (!).
V IỆC BANG GIAO VỚI CÁ C N ư ớ c  u, MỸ - Tự Đức nhất thiết
không cho người ngoại quôc vào buôn bán. Năm 1850, có tàu Mỹ
vào cửa Đà Nang, đem quốc thư sang xin thông thương. Nhà vua
không tiếp thư. Năm 1855 đến năm 1877, tàu Anh ra vào mấy lần
cửa Đà Nang, cửa Thi Nại (Quy Nhơn) và ỏ Quảng Yên, xin buôn
bán, cũng không được. Người Tây Ban Nha và người Pháp cũng có
xin thông thương đều không được.
Sau khi đất Gia Định đã mất, việc ngoại giao mỗi ngày
một khó khán. Tự Đức mới đặt ty Bình Chuẩn coi việc buôn
bán và viện Thương Bạc coi việc giao thiệp với người ngoại
dương. Tuy vậy, cũng không thấy ai hiểu việc buôn bán và biết
cách giao thiệp.
V IỆC CẤM ĐẠO - Năm 1848, Tự Đức nguyên niên, Tự Đức mới
lên ngôi cuổi năm trước, đã có dụ cấm đạo. Lần ấy, trong dụ nói
rằng: Những người ngoại quốc vào giảng đạo thì phải tội chết,
những đạo trưởng trong nước không chịu bỏ đạo, phải khắc chữ
vào mặt, rồi đày đi ở chỗ nước độc. Còn ngu dân thì các quan phải
ngăn cấm, đừng để cho đi theo tà đạo mà bỏ sự thò cúng cha ông
chứ đừng có giết hại.
Nám 1851, lại có dụ cấm đạo. Lần này cấm nghiệt hơn trước.
Có mấy giáo sĩ ngoại quôh phải giết.
Có những người Pháp và Tây Ban Nha làm giáo sĩ vào giảng
đạo bị giết. Bọn tư bản thực dân Pháp viện cớ này, đem quân đội
sang đánh chiếm nước ta.
VIỆC THUÊ MÁ - Thuế má vẫn thu như dưới thòi mấy đời vua
trước. Có thêm việc cho người khách Hầu Lợi Trịnh trưng thuế
bán thuốc phiện từ Quảng Bình ra đến Bắc Kỳ, mỗi năm thu được
302.200 quan tiền.
458
Lại định lệ cho quyên từ 1.000 quan trở lên thì được hàm cửu
phẩm, lên đến 10.000 quan thì đưọc ban lục phẩm, dùng lôl đòi
trước bán quan để lấy tiền.
V IỆC VĂ N HỌ C - Tự Đức hav chữ, trọng Nho học, chăm việc
khoa giáp, sửa sang việc thi cử, đặt ra Nhã Sĩ khoa và Cát Sĩ
khoa, chọn người có văn học ra làm quan. Lại đặt ra Tập Hiền
viện và Khai Kinh Diên cùng các quan bàn sách vở, làm thơ phú,
nói chuyện chính trị. Bản thân nhà vua cũng là thi sĩ, có 3 tập thơ
Ngự c h ế thi văn được in, lại làm sách chữ Nôm Thập điều, Tự học
diễn ca, Lu ận ngữ diễn ca đế dạy dân cho dễ hiểu.
Tự Đức sai các quan trong Quốc sử quán soạn bộ sử Việt sử
thông g iám cương mục, chép từ đời thượng cổ đến hết đòi Hậu Lê.
Bộ sách này, người ta quen gọi là K hăm định Việt sử.
V IỆC BINH CH Ê - Thòi Tự Đức lắm giặc giã, nhà vua cần đến
việc võ. Nám 1861, truyền cho các tỉnh chọn lấy những người khoẻ
mạnh làm lính võ sinh. Năm 1865, lại mở khoa thi võ tiến sĩ.
Tuy nước ta bấy giờ có lính võ sinh, có quan võ tiến sĩ nhưng
thời thế đã đổi khác. Người ta đánh bằng súng nạp hậu, bằng đạn
trái phá, chứ không còn bằng gươm giáo như trước nữa. Mà quân
lính ta mỗi đội 50 người, chỉ có 5 người cầm súng điểu thương cũ,
phải châm ngòi mới bắn được, mà lại ít đưỢc luyện tập, cả năm
mới có một lần tập bắn, mỗi người chỉ được bắn có 6 phát đạn.
Quân lính như thế, hĩnh khí như thế, mà quan lại cho lính về
phòng, mội đội chỉ để chừng 20 người tại ngũ. Vậy nên khi có sự,
không lấy gì mà chông giữ được.
G IẶ C G IÃ TRONG N ư ớ c - Tự Đức chăm lo việc trị an. Năm 1850
sai Nguyễn Tri Phương làm kinh lược đại sứ sáu tỉnh Nam Kỳ;
Phan Thanh Giản kinh lược Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà,
Bình Thuận; Nguyễn Đăng Giai kinh lược Hà Tĩnh, Nghệ An,
Thanh Hoá, khám xét công việc các quan lại và sự làm ăn của dân
gian, hay dở tâu về vua biết.
Tuy vậy, thòi Tự Đức có lắm giặc giã. ĐỐI với dân Bắc Kỳ, họ
Nguyễn không có công ơn như dân Nam Kỳ. (Các chúa Nguyễn
xưa khai thác đất đai mới chiếm, tạo nên nhiều đại điền chủ,
chúng trung thành với họ Nguyễn, giúp đỡ mỗi khi cần), lòng
người còn tưởng nhớ nhà Lê. Luôn luôn có những thiên tai; hạn
hán, nước lụt, hoàng trùng, đê Văn Giang, Hưng Yên vỡ 18 năm
liền. Mất mùa, dân đói nên làm loạn. Do có loạn, việc cày cấy sản
xuất lương thực càng kém sút. Lại có sự Trung Quốic, bọn Thái
459
Bình nổi lên bị nhà Thanh, có người Âu châu giúp đỡ, đánh thua,
dư đảng bỏ chạy sang nước ta cướp phá. Nào giặc khách, nào giặc
ta, quan quân phải đi đánh dẹp luôn.
G IẶ C TAM ĐƯỜNG - Năm 1851, có bọn giặc khách Quảng
Nghĩa Đường, Lục Thắng Đường, Đức Thắng Đường, tục gọi là
Tam Đường, quấy nhiễu vùng Thái Nguyên. Kinh lược Nguyễn
Đăng Giai khôn khéo dụ được chúng về hàng. Trong hạt được yên
một độ cuõì nàm 1854, Đăng Giai mất, đất Bắc Kỳ lại có loạn.
CUỘC N ổ l DẬY CỦA LÊ DUY c ự V À CAO BÁ QUÁT - Năm 1854 ở
tỉnh Sơn Tây, có người lập Lê Duy Cự, dòng dõi vua Lê làm minh
chủ, khởi sự chông đôi nhà Nguyễn. Cao Bá Quát, người làng Phú
Thuỵ, huyện Gia Lâm, có tài văn học, thi hương đỗ á nguyên, làm
hành tẩu bộ lễ chức quan nhỏ, tính ngang tàng, cậy văn tài coi
thường các quan triều, bị đổi ra làm giáo thụ phủ Quốc Oai. Bất
mãn, bỏ quan ra theo phò Lê Duy Cự, xưng là quốc sư. Bấy giò, ở
vùng Bắc Ninh, Sơn Tây, có nạn hoàng trùng (châu chấu) phá
hoại mùa màng nên quan triều gọi bọn Lê Duy Cự, Cao Bá Quát
nổi dậy là g iặc châu chấu. Có mấy tù trưởng dân miền núi ở Sơn
Tây, Hưng Hoá tham gia công cuộc phục Lê. Cao Bá Quát lập kế
hoạch đánh Hà Nội, rồi từ Hà Nội phát triển lực lượng sang các
tỉnh khác. Nhưng kế hoạch bị lộ, quân triều đình lùng bắt ráo riết
các thủ lĩnh. Công cuộc nổi dậy chỉ diễn ra ở vùng Mỹ Đức (Hà
Đông), rồi tiến ra ưng Hoà và Thanh Oai. Quân triều các tỉnh
chung quanh dồn dập tiến đánh. Qua mấy trận giao chiến, nghĩa
quân bị thất bại.
Sang đầu nàm 1855, Cao Bá Quát hoạt động ở vùng An Sơn
(Sơn Tây), quân triều lên vây đánh. Trong trận giao chiến ác liệt,
quân thua. Cao Bá Quát bị chém (ông bị chém tại trận, đầu bị cắt
đưa về bêu tại làng Phú Thuỵ nguyên quán. Không phải bị bắt
sống như có mấy tập sử, kể cả VNLS đã lầm).
Cao Bá Quát chết rồi, bè đảng Lê Duy Cự còn chông đối lai
rai cho mãi đến năm 1856. Đồ đảng thủ lĩnh Mường ở Hoà Bình
đến tháng 10 nám ấy bị bắt, nghĩa quân mới tan rã. Nhưng từ
đấy, không năm nào là không có giặc.
TẠ VĂ N PHỤNG - Tạ Văn Phụng theo đạo Gia Tô, từng theo
giáo sĩ ra ngoại quốc đi học đạo, làm lính mộ theo trung tướng
Charner khi quân Pháp đánh vào Quảng Nam Đà Nang. Năm
1861, Phụng ra bắc, mạo nhận là Lê Duy Minh, dòng dõi vua Lê,
tự xưng làm minh chủ, cùng với đạo trưởng (trùm họ đạo) Trương
460
mưu chủ, đạo đồ ước, Độ giấy binh ở Quảng Yên. Phụng đem
quân giặc khách ở ngoài biển vào đánh lấy phủ Hải Ninh, rồi lại
thông với giặc khách, giặc ta ở các tỉnh, làm loạn ở Bắc Kỳ. Năm
1862, Phụng đem quân làm chủ vùng Hải Ninh, kéo quân về bao
vây thành Hải Dương. Triều đình sai Trương Quốc Dụng làm tổng
thông quân vụ Hải An (Hải Dương, Quảng Yên), cùng vói Phan
Tam Tỉnh, Đặng Hanh, Lê Xuân đem quân Kinh và quân Thanh
Nghệ ra tiến tiễu, Đào Trí làm tham tán, Nguyễn Bá Nghị làm
Sơn Hưng Tuyên tổng đốic, cùng Trương Quốc Dụng đánh giặc.
Bấy giờ, Thái Nguyên có giặc Nông và giặc Khách đánh phá;
Tuyên Quang có bọn u ẩ n , Nông Hùng Thạc; Cao Bằng có giặc khách
Lý Hồng Thắng; Bắc Ninh có cai tổng Vàng, nơi nào cũng có loạn. Tự
Đức sai Nguyễn Tri Phương ra làm Tây Bắc tổng thốhg quân vụ
cùng với Phạm Đình Tuyển, Tôn Thất Tuệ. Năm 1863, lãnh binh Vũ
Tảo đánh lấy lại Tuyên Quang, bắt được u ẩ n . Nguyễn Tri Phương
dẹp xong Bắc Ninh, rồi tiến lấy lại Thái Nguyên, ó mặt đông Trương
Quốc Dụng và Đào Trì giải vây Hải Dương, nhưng thế của Phụng
còn mạnh ở mặt biển. Tự Đức sai Nguyễn Tri Phương hiệp đồng với
Trương Quốc Dụng ra đánh mặt ấy.
Phụng có sai người vào Nam cầu viện thiếu tướng Bonard,
ước hễ lấy được Bắc Kỳ thì để nước Pháp bảo hộ. Bonard không
nhận. Đảng phụng vẫn chiếm giữ đất Quảng Yên và các đảo ngoài
biển, cho binh thuyền đi cưốp phá các nơi. Quan quân đi đánh,
nhiều người bị hại.
Cuối năm 1863, phụng họp hơn 500 chiếc thuyền ở đảo Cát
Bà và núi Đồ Sơn, mưu sự đem quân vào đánh đất kinh kỳ Huế,
nhưng gặp bão, thuyền bị đắm mất nhiều. Đề đốc Lê Quang Tiến
và hộ phủ Bùi Huy Phan ra đánh, bị đánh tập hậu, quân sĩ bỏ
chạy, phải nhảy xuống biển tự tận.
Năm 1864, hiệp thống Trương Quốc Dụng, tán lý Văn Đức
Khuê, tán tương Trần Huy Sách, chưởng vệ Hồ Thiện đem quân ra
đánh Quảng Yên bị giết cả. Quân triều thua to, thiệt hại nặng nề.
Năm 1865, Phụng đem 300 chiếc thuyền, phân ra làm 3 đạo,
đánh vào mạn Hải Dương. Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Văn Vĩ
đón đánh, bắt được và chém được nhiều giặc. Đô đốc Mai Thiện,
tán lý Đặng Trần Chuyên, đổc binh ông ích Khiêm phá được hơn
10 trận. Phụng lui về giữ mặt Hải Ninh. Đặng Trần Chuyên, ông
ích Khiêm đánh ra Quảng Yên, ước với quan quân nhà Thanh ở
Khâm Châu, đánh lấy lại Hải Ninh. Quân Phụng thua to, đem 70
461
thuyền chạy ra biển. Quan quân đánh đuổi. Phụng và ước chạy
vào mạn Quảng Bình, Quảng Trị. Đồ đảng người bị bắt. ngưòi
chạy trôn. Quan triều lợi dụng tình hình, vây đánh ráo riết, bắt
được Phụng và ước, đem về kinh trị tội lăng trì.
Tạ Văn Phụng khởi binh từ cuôi năm 1861, đến CUỐI năm 1865
mới bị đánh thua. Suốt trong 4 năm, nhà nước tôn hại rất nhiều.
Mạn Quảng Yên dẹp xong thì mạn Cao Bằng có giặc khách
đánh lấy tỉnh thành. Kinh lược Võ Trọng Bình, tuần phủ Phạm
Chi Hương đem binh lên lạng Sơn, chia quân đi đánh các nơi, từ
tháng 9 âl năm 1865 đến tháng 3 âl năm sau, tướng giặc Trương
Cận Bang mới xin về hàng.
NGUYỄN VĂ N TH ỊN H TỨC C A I VÀN G - Trong khi Tạ Văn Phụng
tung hoành tại vùng biển thì tháng 4 âl năm 1862, ở Bắc Ninh có
cai tổng Nguyễn Văn Thịnh, tục hiệu Cai Vàng, xưng làm nguyên
suý, lập người xưng là con cháu vua nhà Lê (Uẩn hay Mẫn) làm
minh chủ, chiêu tập dân nghèo đói, nổi dậy nhập đảng với Phụng,
đánh chiếm phủ Lạng Giang và huyện Yên Dũng, rồi tiếp tục vây
đánh thành Bắc Ninh.
Bô" chính Hà Nội Nguyễn Khắc Thuật, bô" chính Sơn Tây Lê
Dụ và lãnh binh Hưng Yên (Hưng Hoá?) Vũ Tảo, ba đạo quân
cùng kéo lên giải vây Bắc Ninh. Vũ Tảo đánh nhau với quân Cai
Vàng hơn 10 trận, phá được. Cuô"i năm 1862, Cai Vàng lại đem
quân về đánh Bắc Ninh lần nữa. Quan quân đã lấy làm lo, dùng
đại binh đi đánh. Tổng đốc quân vụ Tôn Thất Hân (hay Tuệ) chỉ
huy các đạo quân đến đánh tan. Vũ Tảo chém được Cai Vàng. Sau
người vỢ ba Cai Vàng đánh úp bắt được lãnh Tảo, đem tẩm dầu
vào quần áo mà đốt, làm lễ tê" chồng, rồi giải tán quân.
VỤ CHỐ NG ĐỐI ở KIN H TH ÀN H - Nguyên Tự Đức là con thứ
được nô"i ngôi, người anh là Hồng Bảo vì phóng đãng, không chịu
học hành, nên không được lập. Hồng Bảo lấy điều đó bất bình, vẫn
âm mưu tranh giành ngôi. Năm 1854, cùng mấy người trong
hoàng tộc, tư thông với người ngoại quốc, tổ chức đảo chính. Sự
việc bị tiết lộ, Hồng Bảo phải bắt bỏ ngục. Sử chép uô"ng thuốc độc
chết trong tù. Con là ưng Đạo phải đổi mang họ mẹ là Đinh, gọi là
Đinh Đạo.
Năm 1866, ở kinh thành Huê", có một sô" người bất mãn với
vua Tự Đức, nhân thấy nhà vua bấy giò dâng xây Vạn Niên Cơ tức
Khiêm Lăng, quân lính và dân phu phải làm lụng khó nhọc quá
độ, đem lòng oán hận, mưu sự đảo chính đưa Đinh Đạo, hoàng tôn
462
thuộc dòng đích, lên ngôi. Đứng đầu là Đoàn Trưng, một người học
trò giỏi, được đức ông Tùng Thiện vương mến tài, gả con gái cho.
Đoàn Trưng cùng các em là Đoàn Hữu Ái, Đoàn Tư Trực và bọn
Trương Trọng Hoà, Phạm Lương kết làm Sơn Đông thi tửu hội
mưu đại sự, chiêu dụ quân lính và dân phu xây lăng tẩm ở công
trường Dương Xuân và cùng với quan hữu quân Tôn Thất Cúc và
mây người cầm quyền chỉ huy làm nội ứng.
Đêm 8 - 8 âl năm 1866, đảng Đoàn Trưng đem quân vào cửa tả
dịch, chực xông vào giết Tự Đức. Có chưởng vệ Hồ Oai đóng được cửa
điện lại, hô quân bắt được Trưng, Trực và đồng đảng. Do đoàn quân
này phần lớn không có súng ống, gươm giáo, mà chỉ mang có cái chày
giã vôi là khí giới, nên người ta gọi là giặc chày vôi.
Đinh Đạo phải xử giảo. Tôn Thất Cúc tự vẫn chết. Các quan
có trách nhiệm phải chiếu tội nặng nhẹ, phải đánh, phải giáng.
Đồng thòi, ở vùng Quảng Ngãi hay có những người Đá Vách
xuông cướp phá, quấy nhiễu dân gian. Tuần phủ Nguyễn Tấn ra
sức đánh dẹp mãi mới yên.
G IẶ C K H Á CH ở BẮC k ỳ - Thê kỷ XIX, bên Trung Quôc nhà mãn
Thanh cũng lạc hậu, suy yếu, bị các cường'quốc Anh, Pháp đánh
thua. Dân chúng người Hán nổi dậy, mưu phục quốc, tiêu diệt lũ
man di. Năm 1849, ở Quảng Tây có Hồng Tú Toàn cùng với Dương
Tú Thanh, Tiêu Triều Quý, Lý Tú Thành nổi lên xưng là Thái
Bình Thiên Quốc, chiếm giữ đất Kim Lăng và các tỉnh phía nam
Trường Giang. Họ bản chất là những nông dân bị áp chế chôKg đốì
lại chính quyền Mãn Thanh. Bọn Tăng Quốc Phiên, Tả Tôn
Đường, Lý Hồng Chương hết sức đánh dẹp, lại nhờ thế ngoại quốc
tư giúp, mãi đến nám 1863 mới bắt được các tướng Thái Bình.
Hồng Tú Toàn uôKg thuốc độc tự tử. Nhà Thanh thu phục các tỉnh
miền nam. Dư đảng Thái Bình là bọn Ngô Côn chạy sang nước ta,
trước nói xin hàng, sau biến chất, chỉ còn là lũ giặc hung dữ đi
cướp phá các tỉnh. Quan quân ta phải đánh mãi.
Năm 1868, Ngô Côn chiếm giữ tỉnh thành Cao Bằng. Tổng
đốc Phạm Chi Hương viết thư xin quan nhà Thanh sang cùng tiễu
trừ. Phó tướng Thanh Tạ Kế Quý cùng với tiễu phủ ông ích
Khiêm, đê đốc Nguyễn Viết Thành đánh phá quân giặc ở Thất
Khê. Quan quân ta thua ở Lạng Sơn. Nguyễn Viết Thành cùng
tham tán Nguyễn Lệ tử trận. Phạm Chi Hương bị giặc bắt. Triều
đình cử Hà Ninh tổng đốc Vũ Trọng Bình kiêm Tuyên Thái Lạng
quân thứ khâm sai hội vồi đề đốc Quảng Tây Phùng Tử Tài đánh
463
Ngô Côn. Quân hai nước cùng đánh dẹp, tháng 5 âl năm 1869 mới
khôi phục được Cao Bằng. Cuôl năm 1870, Ngô Côn đem quân vây
đánh Bắc Ninh. Tiễu phủ ông ích Khiêm bắn chết Ngô Côn, phá
tan quân giặc.
Ngô Côn tuy chết, đồng đảng là Hoàng Sùng Anh, hiệu Cờ
Vàng; Lưu Vĩnh Phúc hiệu Cò Đen; Bàn Văn Nhị, Lương Văn Lợi
hiệu Cò Trắng, vẫn quẫy nhiễu mạn Tuyên Quang, Thái Nguyên.
Quan quân chống giữ vất vả. Triều đình lại cử trung quân Đoàn
Thọ làm tổng thốhg quân vụ. Đoàn Thọ kéo quân ra đóng ở Lạng
Sơn. Giặc khách Tô Tứ nửa đêm vào lấy thành bắt giết ông. Còn
Vũ Trọng Bình vượt thành chạy thoát được. Triều đình lại cử
Hoàng Kế Viêm (có sách chép Hoàng Tá Viêm) làm Lạng Bình
Ninh Thái tổng đốc quân vụ, cùng với tán tương Tôn Thất Thuyết
làm khâm sai thị sự cùng lo việc đánh dẹp.
Tháng 11 âl năm 1871, ở Quảng Yên lại có Hoàng Tề nổi lên,
thông với Tô Tứ và giặc Tàu 0 ngoài biển đem binh thuyền đi
cướp phá các nơi. Hoàng Kế Viêm giữ mạn Sơn Tây, Lê Tưấn cùng
tỉnh thần Hải Dương đi đánh Hoàng Tề. Được ít lâu, quân thứ Hải
Dương bắn chết Tề ở huyện Thanh Lâm. Dư đảng giặc đều tan cả.
Đảng Cờ Đerí và Cờ Vàng quấy nhiễu Tuyên Quang. Bao
nhiêu thuế má mạn ấy, chúng thu cả. Sau hai đảng ấy thù kích
đánh lẫn nhau tàn hại. Lưu Vĩnh Phúc sau về hàng với quan bên
ta, được giữ đất Lão Nhai (Lào Cai) thu cả quyền lợi chỗ â"y, để
chông giữ với đảng Cờ Vàng đóng ở mạn Hà Giang.
Đất Bắc Kỳ giặc giã mãi, quan quân đánh dẹp tổn hại mà
không yên được. Tháng 7 âl năm 1872, triều đình lại sai Nguyễn
Tri Phương làm Tuyên sát đông sức xem xét việc đánh dẹp ở Bắc
Kỳ. Bấy giờ lại có sự quân Pháp sinh sự lắm nỗi khó khăn, việc
nước càng rối ren thêm nhiều.
Trong khi quân Pháp ra đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất thì đảng
Cờ Vàng vẫn nhũng nhiễu mạn Tuyên Quang. Quan quân đánh
mãi không được. Tháng 8 âl năm 1875, Hoàng Sùng Anh đem
quân về đóng ỏ làng Châu Thượng, phủ Vĩnh Tường. Tân tương
quân vụ Sơn Tây Tôn Thất Thuyết về đánh, bắt đưỢc Hoàng Sùng
Anh và giết quân Cờ Vàng rất nhiều. Giặc tan.
Năm 1878, ở Lạng Sơn lại có giặc khách Lý Dương Tài nổi
lên. Tài trước làm hiệp trấn Tầm Châu Quảng Tây, bị cách quan,
nổi lên làm giặc, tràn sang đánh chiếm tỉnh Lạng Sơn. Quan ta
báo quan nhà Thanh. Đề đốic Quảng Tây Phùng Tử Tài đem quân
464
20 doanh sang cùng với quan quân ta hội tiễu. Tháng 9 âl năm
1879, quan quân ta bắt được Lý Dương Tài ở núi Nghiêm Hậu
thuộc Thái Nguyên, đem giải sang Trung Quốc. Giặc tan.
C Á C H À N H V I KH ÁC CỦA Tự ĐỨC - Tự Đức thông minh, học vấn
sâu rộng, có tài làm thơ, văn Hán và Nôm, ham đọc sách đến
khuya mà sáng vẫn dậy sớm, thường cùng các quan triều nói
chuyện về văn học. Tính không ưa trang sức, cũng không cho nội
cung đeo nữ trang. Hiền lành, không ưa quở mắng đánh đập người
hầu cận khi chúng nhỡ vô ý. Không lấy nhiều phi, tần (xưa lên
đậu hư hỏng cơ quan sinh dục), thị nữ hầu hạ cũng ít. Thò mẹ (bà
Từ Dụ) rất có hiếu, lệ thường cứ ngày lẻ chầu cung, ngày chẵn lâm
triều trong suốt 36 năm. (Từ Dụ thông hiểu sử sách và việc đòi,
mỗi khi ban lòi hay thì ghi chép lại trong Từ huấn lục). Rất chăm
lo đến công việc. Hàng ngày xem xét các bản sớ tâu, lưu ý đến mọi
việc lớn nhỏ, châu phê chữ rất tốt và văn cũng hay. Nhưng Tự Đức
cũng phạm nhiều điều dở như cũng xây dựng nhiều cung điện, đền
đài. Yến tiệc, diễn tuồng quanh năm suốt tháng. Bốh mươi năm
tuổi thì đâu phải đã thọ mà làm lễ lớn tứ, ngũ tuần đại khánh.
Cũng hay đi săn bắn, du ngoạn, quân dân phải phục dịch nhiều,
không kể hao phí tiền lụa thưởng cho quan, lính đi hầu. Tệ hai
nhất là xây dựng lăng tẩm Vạn Niên Cơ, gọi là Khiêm Lăng, một
công trình vĩ đại, huy động hàng mấy vạn lính và dân phu làm
việc ngày đêm, năm này sang nám khác, trong khi Nam Kỳ đã bị
người Pháp chiếm, Bắc Kỳ mất mùa luôn lại bị giặc ta, giặc khách
đánh phá. “Vạn Niên là vạn niên nào, thành xây xương lính, hào
đào máu dân”. Thân Văn Nhiếp tâu xin bãi bỏ việc xây dựng cung
điện và giảm bớt du ngoạn, bị trách là chỉ bàn sáo. Xin thu hẹp
quy mô Vạn Niên Cơ và bớt mua xa xỉ phẩm của nước ngoài, lời lẽ
rất thôKg thiết thì lại nói; Nếu câu thúc quá chặt thì thân bệnh
này không chịu nổi, không làm nổi việc nữa.
LUẬN VỀ VU A Tự ĐỨC - Tự Đức khuất ngày 16 - 6 năm Quý Vỵ
(19-7-1883), làm vua 36 năm, thọ 55 tuổi, miếu hiệu là Dực Tông
Anh hoàng đế.
Tự Đức làm vua trong lúc nước nhà gặp nhiều khó khăn,
không sáng suốt thức thòi, làm việc theo y đường lôl của các triều
trước cấm đạo và bế quan toả cảng, tưởng như thế thì nước mình
được yên, không ngờ lũ hùm heo thực dân tư bản cướp quyền tự
chủ, đặt nền đô hộ. Tuy lỗi không phải chỉ riêng ông mà là của cả
các quan triều, kể cả vua tồi triều đại trước. Mấy nết tốt của ông,
465
trừ sự chăm làm việc, không phải là những nết cần thiết phải có
của người lãnh đạo quốc gia. Xa xỉ, hoang chơi, không hay gì
nhưng nhiều vua khác cũng phạm. Đến việc xây lăng tẩm đồ sộ,
hao tổn quá nhiều nhân lực, tài lực thì ngay thòi thịnh vưỢng
cũng không nên, huông chi là khi vận nước đã lâm nguy. Vua hiền
đâu có thế.

QUÂN PHÁP SANG ĐÁNH CHIẾM ĐẤT Nước TA


ÂM MƯU XÂM LƯỢC NƯỚC TA CỦA THựC DÂN PHÁP
Ngay từ đầu thế kỷ XVII, bọn tư bản thực dân Pháp đã sớm
dòm ngó nước ta, âm mưu sự đánh chiếm làm thuộc địa. Không
lâu sau khi có giáo sĩ sang truyền bá đạo Gia Tô và mấy thương
thuyền đầu tiên cập bến đất nước ta, năm 1624, Alexandre de
Rhodes về Pháp mang theo địa đồ Việt Nam trình bày với triều
đình đây là vị trí cần chiếm lấy, nguồn lợi nhiều, tài nguyên dồi
dào. Năm 1686, Verret từng được chúa Nguyễn cho mở cửa hàng ở
đảo Côn Lôn, xin với chính phủ Pháp chiếm lấy đảo này. Năm
1737, thông đốc Pondichéry là Dumas trình vua Louis XV dự án
xâm nhập miền bắc nước ta. Năm 1748, Dumont chủ nhiệm công
ty Đông An đề nghị chiếm Cù Lao Chàm (gần Hội An). Năm 1749,
lại buôn mang áo giáo sĩ Pièrre Poivre báo cáo cần có thiết bị chắc
chắn ở Đàng Trong. Năm 1753, Saint Phalles, giáo sĩ lái buôn,
trình thư triều đình Pháp xin lập cán cứ ở miền bắc nước ta.
Sang thế kỷ XVIII, có sự tranh giành gay gắt thuộc địa giữa
các cường quốc. Thua trận trong chiến tranh 1756 - 1763, Pháp
phải nhường lại cho Anh thuộc địa ở châu Mỹ và xứ Ân Độ, chỉ còn
được giữ lại 5 cửa khẩu. Thực dân Pháp ra sức tìm thuộc địa mới
để đối phó với sự cạnh tranh mạnh liệt của tư bản Anh ở Viễn
Đông. Thì đấy là Việt Nam, nơi mà người Anh chưa đế ý đên
nhiều. Năm 1778, người Anh có cử Chapman sang Đàng Trong
mưu sự đặt lại quan hệ thương mại thì bấy giò chúa Nguyễn đã
thua, nhà Tây Sơn mới nổi, còn đang có chiến tranh.
Trong lúc người Pháp đang muôn giao dịch với nước ta thì
vừa gặp khi Nguyễn Phúc Ánh cầu viện quân đội ngoại quốc đế
đánh lại nhà Tây Sơn. Thực dân châu Âu đua nhau sai phái viên
đến liên lạc. Phúc Ánh muôn nhò người Bồ Đào Nha ở Goa (Àn
Độ), hay người Hoà Lan ở Nam Dương thì có giám mục Pigneau de
Béhaine (Bá Đa Lộc) người Pháp khuyên nên nhờ cậy người Pháp,
466
nước mạnh hơn, Phúc Ánh uỷ quyền Pigneau ký hiệp ước không
được thi hành việc giúp quân đội và khí giới. Sau đó, cách mạng
1789 bùng nổ, rồi chiến tranh kéo dài cho mãi đến năm 1815. Tuy
vậy, tư bản Pháp vẫn không bỏ ý định ăn cướp đất nước ta làm
thuộc địa. Năm 1797, đại uý Larcher đệ chính phủ giác thư trình
bày kê hoạch đặt cơ sỏ thương mại và quân sự ở Phi Luật Tân
(Philippin) và ở Việt Nam. Năm 1801, viên trấn thủ Pondichéry là
Charpentier de Cossigny gửi lên Bonaparte giác thư nhắc lại kế
hoạch xâm lược của Pigneau và yêu cầu gửi ngay quân sang Việt
Nam. Năm 1812, Napoléon I giao triều thần nghiên cứu việc đặt
quan hệ với Việt Nam, tìm cớ hỢp pháp xâm chiếm.
Năm 1814, dòng Bourbons phục hưng. Louis XVIII lên ngôi.
Chiến thuyền Pháp đến các cửa biển nước ta phô trương lực lượng,
cô" ý làm cho nước ta phải ký những điều ước bất bình đẳng. Năm
1817, chiến thuyền Cybèle cập bến Đà Nang, De Kergarion đòi
nhận đất theo hiệp ước 1784. Gia Long không chịu, nói hiệp ước
trước đây đã không được thi hành thì nay bỏ đi. De Kergarion nhờ
Chaigneau, Vannier xin vào tiếp kiến. Gia Long không tiếp, nói
không có quốc thư. De Kergarion đành ra về sau khi vẽ bản đồ bờ
biển nước ta và kiêm tra lại những bản đồ Dayot vẽ trước kia.
Năm 1819, Chaigneau xin nghỉ 3 nám, về Pháp, trình bày với
chính phủ Pháp tường tận tình hình nước ta về cả mọi mặt, mong
sự đặt quan hệ mật thiết với Việt Nam sẽ mang lại nhiều lợi to
lớn. Chaigneau trở lại với danh nghĩa là lãnh sự của triều đình
Louis XVIII thương lượng cho nước Pháp đưỢc hưởng đặc quyền
thương mại và vận động vua Việt Nam dùng chuyên viên người
Pháp trong các ngành quân sự, kiến trúc, kinh tế. Nhưng khi
Chaigneau trở lại đến nơi thì Gia Long đã chết, gặp nhiều khó
khăn trong việc tiếp xúc với vua mới. Các năm 1822 và 1825, có
tàu chiến Pháp vào Đà Nang, chủ tàu xin vào yết kiến nhà vua.
Cả hai lần, Minh Mệnh đều không tiếp. Năm 1825 và năm 1830,
nưốc Pháp cử Eugène Chaigneau (cháu Chaigneau) sang làm lãnh
sự, đều không kết quả.
Trong nửa đầu thế kỷ XIX, tư bản Anh và Mỹ cũng đều
muốn lập quan hệ buôn bán với nước ta. Người Pháp đã dùng kế
hoạch mềm dẻo can thiệp rồi mưu lấn dần, vẫn bị cự tuyệt.
Thòi bấy giờ, tình hình kinh tê Pháp phát triển nhanh chóng.
Nhiều nhà máy, lò đúc được dựng lên. Đại tư bản cần mở rông thị
trường và tìm nguyên liệu. Quân đội Pháp được chỉnh đô"n mạnh
467
mẽ. Chính quyền Pháp vẫn còn dè dặt, e ngại va chạm với các
cường quốc Au Mỹ, nhất là Anh nên không vội động binh. Do các
lái buôn và sĩ quan thôi thúc, nhà cầm quyền vẫn theo đuổi ý đồ
xâm lược thuộc địa. Các năm 1840, 1841, nhiều tàu chiến Pháp
sang đóng tại vùng biển Trung Quốc, uy hiếp triều Thanh và triều
Nguyễn. Thủ tướng Guizot nói: Nước Pháp không thể vắng mặt ỏ
Viễn Đông trong lúc các nước Àu châu khác đều đã có căn cứ ở đó.
Từ năm 1843 đến năm 1847, nhiều tàu chiến Pháp thị uy 3 lần ở
Đà Nang. Năm 1847, Rigault de Genouilly thấy thuyền của ta đến
gần và quân đội ta trên bồ rộn rịp liền đốt phá hết các thuyền của
ta ở đấy, rồi bỏ đi. Năm 1851, các thuyền chiến Pháp lại cập bến ở
vịnh Bắc Kỳ và các cửa biển Phú Yên, Cam Ranh, 0 Cấp.
Trong khi ấy, vua nước ta cấm đạo Gia Tô vì cho là tả đạo,
một phần cũng e ngại bọn gián điệp mặc áo thầy tu hoạt động.
Nhưng đó là biện pháp trái đạo lý và thất sách, đẩy giáo dân đôi
lập với triều đình. Giáo hoàng Grégoire XVII gửi thư cho giáo đồ
khích động mối bất ibình của họ đôl với nhà vua. Thực dân Pháp
vin vào cớ đó xúc tiến âm mưu xâm lược.
Năm 1852, Napoléon III lập lại nền đê chế, ráo riết đẩy
mạnh công cuộc chiếm thuộc địa. Bấy giờ, Pháp và Anh không còn
kình địch, lại sát cánh với nhau trên chiến thắng Nga và Trung
Quốíc. Đây là thời cơ thuận tiện để đưa quân do đánh chiếm đất
nước ta yếu kém. Thượng quốc thì nhà Thanh cũng suy nhược,
từng bị lép vế với nước Anh, chắc chắn chẳng dám can thiệp. Các
giáo sĩ ở Việt Nam gửi thư về nước nói rõ tình hình suy đôA cực độ
của triều đình Huế, đề nghị can thiệp bằng vũ lực. Năm 1857,
Napoléon III thành lập Hội đồng Giao Chỉ (tiếng Cochinchine xưa
người Âu chỉ nước ta: Giao Chỉ, sau khi người Pháp chiếm đất nước
ta mới lấy tiếng này chỉ xứ Nam Kỳ) nhằm xét lại hiệp ước
Versailles 1787 mà hỢp pháp hoá việc mang quân sang chiém nước
ta, chỉ để tiếp tục truyền thông và trung thành với quốc sách đã được
theo đuổi từ chế độ này sang chế độ khác. Tháng 7 năm 1875,
Napoléon III thông qua quyết định vũ trang xâm lược Giao Chỉ.
Trần Trọng Kim trong VNSL viết: Nguyên từ năm 1851 khi
có chỉ dụ cấm đạo lần thứ hai, ở Bắc Kỳ có mấy giáo sĩ là Bonard,
Charbonnier, Matheron và giám mục Iphanho (Tây Ban Nha)
Diaz bị giết, còn những giáo sĩ khác phải đào hầm hoặc trôn tránh
trong rừng núi để giảng đạo. Những tin tức ấy về bên Tây, các báo
chí ngày ngày kể những thảm trạng của những giáo sĩ đi truyền
468
đạo ở nước ta, lòng người náo động cả lên. Chính phủ Pháp bèn sai
Leheurde Ville sur Arc đem chiến thuyền Catinat vào cửa Đà
Nang, cho người đem thư trách triều đình Việt Nam về việc giết
đạo. Thấy quan ta lôi thôi không trả lòi, quân Pháp bắn phá các
đồn luỹ ở Đà Nang, rồi bỏ đi. Bấy giò là ngày 18 - 8 âl năm 1856.
Khi tàu Catinat vào Đà Nang, có giám mục Pellerin trốn được xuôhg
tàu về bệ kiến vua Pháp, kể rõ tình hình các người giảng đạo ở Việt
Nam. Bấy giờ có nhiều người quyền thế như giáo chủ Rouen là Mgr.
De Bonnechose và hoàng hậu “sùng tín đạo” nói giúp cho Pellerin
nên Pháp hoàng mới quyết định sai quân đem chiến thuyền sang
đánh nước ta. Lại nhân vì những giáo sĩ nước Iphanho cũng bị giết
nên chính phủ hai nước mới cùng nhau trù tính việc sang đánh Việt
Nam. Ay cũng vì vua quan ta làm điều trái đạo, giết hại những
người theo đạo Gia Tô nên mới có tai biến như vậy.

Sách VNSL của Trần Trọng Kim xuất bản thời Pháp thuộc
nên không nói hết sự thực.
Những điều trên đây chỉ là theo lòi của người Pháp muôn che
đậy dã tâm bỉ ổi của lũ ăn cướp thuộc địa, chứ thực sự thì chẳng có
sự cấm giết đạo thì tư bản thực dân Pháp cũng kiếm cớ khác đánh
chiếm đất nước ta, để;
- Mỏ mang thị trường bán đắt sản phẩm.
- Tìm nguyên liệu mua rẻ.
- Nô lệ hoá dân ta, bắt sưu cao thuế nặng.
- Lập căn cứ quân sự để tiện việc giao thiệp buôn bán với
Trung Quô'c và các nưốc Đông Nam Á châu.
- Chiếm đoạt đất làm đồn điền.
- Khai thác các hầm mỏ dùng nhân công rẻ mạt, tuyển mộ
người bản xứ sung vào quân đội...
Chứ đâu có phải để;
- Bảo vệ các người bản xứ theo đạo.
- Báo thù cho các giáo sĩ bị giết.
- Rửa nhục cho người Pháp vì triều đình nưốc ta nhiều lần
không chịu tiếp sứ giả và nhận quốc thư của chính phủ Pháp.

TÌNH THÊ TRONG Nước


Giữa thê kỷ XIX, trong khi bên Âu châu, văn minh cơ khí đã
phát triển mạnh mẽ thì ở nước ta, tập đoàn thống trị vua quan là
những nhà nho học, tôn sùng đạo Khổng Mạnh, trị nước theo lối cổ
469
xưa, theo Hạ, Thương, Chu thời ba, bô"n ngàn năm về trước, không
trông xa thấy rộng, không biết đến sự tiến hoá của loài người.
Thời đại mới, sinh hoạt học thuật đã khác, mà chính trị lại khư
khư tòng cổ, không theo kịp đà chung nên bị lạc hậu, thua kém
ngoại quốc, nước yếu dân nghèo.
Nhà vua lại công hành xa xỉ, quanh năm yến tiệc, đổ công đổ
của vào việc xây cất cung điện, lăng tẩm. Triều thần cũng theo đà
ấy ăn chơi, tốt lắm thì cũng chỉ xướng hoạ thơ văn. Chẳng mấy ai
lo đến sự phú quốc cường dân. Quan văn xuất thân nho sĩ, thông
thuộc thư kinh và bắc sử, đã tưởng là thông kim bác cổ, trong khi
vì mù quáng không biết thời thế đã biến chuyển, người ta vì cạnh
tranh quyền lợi, mưu gian xảo quyệt, tà thuật xảo trá.
Quan võ được tuyển trong những người thi đỗ võ cử, có các môn
cử tạ, múa thương, bắn súng, sau đó ai biết chữ vào làm bài thi văn,
sử, chiến thuật, chiến lược đã là tài giỏi, thông suốt binh thư.
Quân lính ít được luyện tập, vũ khí toàn dùng gươm, giáo,
dao, kiếm. Chỉ 1/10 sô" lính mới có được khẩu súng tay điểu
thương, bắn phải châm ngòi. Đại bác bằng đồng hay gang, rất
nặng nề, bắn phải nhồi thuôc đạn vào đàng trước, đạn không đi
được xa, ít trúng đích. Thuôc đạn lại hay bị ẩm ướt, bắn không nổ.
Có sự phong thần cho các đại bác. Quan võ phải làm lễ mỗi khi
dùng đến (!). Tinh thần quân lính bạc nhược. Cấp chỉ huy nhiều
người vô tài, được giữ chức vụ là do tuyển mộ được nhiều lính theo
về. Quân đội và binh khí như thế, chỉ có thể dùng đi đánh các
quân dân nổi dậy trong nước, hay đi đánh Miên, Lào là cùng, chứ
địch sao lại với quân đội Âu châu được huấn luyện tô"t, lại trang bị
súng ô"ng tân tiến.
Đại chúng nhân dân vẫn còn sông trong xã hội nông nghiệp.
Công thương thì so với 5, 3 thế kỷ trước, có tiến nhưng không
nhiều. Nông thương vẫn làm ăn với con trâu, cái cày như xưa.
Nông nghiệp và công nghiệp vẫn chỉ dùng sức người và sức vật.
Thương nghiệp có sự vận tải bằng thuyền có lợi dụng sức gió và
dòng nước chảy. Tuy vẫn kể là có bôn hạng dân nhưng hầu hết
đều hành nghề nông. Sĩ phu, thợ thuyền, nhà buôn, thường vẫn
kiêm làm ruộng, vườn. Nhiều người làm thợ chỉ là nghề phụ, nghề
chính vẫn là làm ruộng.
Công nghệ vẫn là tiểu thủ công nghiệp. Thợ thuyền cùng loại
thường tụ hỢp thành phường hay làng chuyên sản xuất một thứ
hàng riêng biệt. Rất ít có những xưởng lớn đông thợ cùng làm việc.
470
Có nghề thì kiếm tiền không khó nhưng không phải lúc nào cũng
sẵn có công việc làm.
Thương nghiệp thì từ khi có thuyền buôn người châu Âu ra
vào thì có phần rộn rịp hơn xưa. Người nưốc có giao dịch với người
ngoại quốc cũng chỉ quanh trong xứ. Triều đình có cử quan bình
chuẩn đem thuyền đi ra ngoài mua hàng cần dùng của Trung
Quốc, Ma Ní (Phi Luật Tân), Chà Và, Ân Độ, cũng có đưa tơ lụa,
đường và vài thứ hàng khác đi bán nhưng không nhiều. Ngưòi
nước ít ham chuộng sự buôn bán. Nhà buôn nào có được một vài
thuyền đinh, cửa hàng, vôn liếng 5, 3 vạn đã kể là cự phú. Thương
nhân giàu có vẫn ít được quý trọng như sĩ phu, không mấy có ảnh
hưởng đến chính trị.
Đời sông của thứ dân đơn giản, thấp. Hầu hết đều lấy sự
được ăn no mặc ấm đầy đủ là tôt rồi. Vui chơi, ăn ngon, mặc đẹp
coi là xa xỉ phẩm. Nhà cửa phần nhiều bằng tre, lợp rạ hay lá,
tranh, tường vách đất. Khá giả mới có nhà cột kèo gỗ. Phải là giàu
có mới có nhà gỗ lim, tường xây gạch, mái lợp ngói. Y phục thì
thương dùng vải nhuộm nâu, người nghèo đàn ông thường chỉ
đóng khô. Phải là giàu có mới có quần áo bằng tơ lụa. Người khá
vậy chỉ mang áo tơ lụa vào những ngày hội, ngày tết.
Tình trạng chung thì cho đến thế kỷ XIX, dân ta rất nghèo,
quanh năm làm lụng vất vả, mà chỉ những năm được mùa lúa mới
được no đủ, khấm khá đôi chút. Mỗi khi mất mùa thì đã bị ăn đói.
Đồng thời có nhiều nơi cũng bị mất mùa thì có những người bị
chết đói. Khi bị đói khô thì dễ liều lĩnh đi theo người phiêu lưu
làm loạn.
Về chính trị tại miền đông nam Á châu, Phi Luật Tân sớm bị
người Tây Ban Nha chiếm, Nam Dương (Indonesia) thì người Hoà
Lan, cửa khẩu Áo Môn (Mã Cao) thuộc Trung Quốc, cửa khẩu Goa
thuộc Ân Độ người Bồ Đào Nha lấy. Diên Điện và Ấn Độ rộng lớn
thuộc về người Anh. Trung Quốc bị các cường quốc Anh, Pháp,
Mỹ... xâu xé cũng là bán thuộc địa. Riêng Nhật Bản có nền kinh
tế phát triển, lại khôn khéo việc ngoại giao, đã giữ được hoàn toàn
độc lập. Xiêm La sớm cho các nước ngoại dương vào thông thương,
liệt quốc giữ miếng nhau nên vẫn còn giữ được chủ quyền, tuy có
phải ký điều ước hâh bình đẳng. Nước Pháp trong thế kỷ XVII đã
chiếm được xứ An Độ rộng lớn nên bấy giờ ít chú ý dòm ngó nước
ta. Nhưng sau các trận thua người Anh các năm 1756, 1763, Pháp
phải nhường hầu hết thuộc địa cho Anh, mất uy thế ở Viễn Đông
471
nhiều nên cố gỡ gạc bằng cách đánh chiếm nước ta. Chỉ vì trong
nước luôn luôn có những biến chuyển chính trị, thay đổi chế độ
nên mới trì hoãn lâu lâu. Đến Napoléon III mới khởi sự.

QUÂN PHÁP ĐÁNH ĐÀ NĂNG


Giữa thế kỷ XIX, Pháp liên minh với Anh trong cuộc chiến
tranh xâu xé Trung Quôc giành được một sô" quyền lợi kinh tế ở
nước lớn này, vẫn giữ tham vọng đánh chiếm đất nưốc ta làm
thuộc địa. Nám 1851, sau khi Leheur de Ville sur Arc bắn phá các
pháo đài của ta ở Đà Nẵng, phá huỷ 66 khẩu súng thần công, lại
có chiếm hạm do Collier chỉ huy tới thị uy. Collier trực tiếp gửi
thư hăm doạ quan đầu tỉnh Quảng Nam. Kế đó, sứ thần Pháp
Montigny ở Xiêm La sang điều đình mọi việc. Tàu của Montignv
vào đóng ở cửa Đà Nang, cho người đưa thư nói xin cho người nước
Pháp được tự do vào thông thương, đặt lãnh sự ở Huế, mở cửa
hàng buôn bán ở Đà Nang và cho giáo sĩ được tự do đi truyền đạo.
Triều đình ta không chịu.
Từ trước đến bây giờ, người Pháp vẫn tưởng chỉ dùng cách
hăm doạ rồi triều đình sẽ có thê đặt chân được vào trong nước ta,
rồi lấn dần dà tiến đến sự biến nước ta thành thuộc địa, hay ít ra
cũng là bán thuộc địa của chúng, đỡ mất công đánh. Nhưng thấy
vô hiệu quả nên phải động binh, viện cớ để bảo vệ đạo đồ Gia Tô.
Do Tây Ban Nha cũng có giáo sĩ bị giết, Pháp liên minh với Tây
Ban Nha cùng tham chiến. Bè lũ “ăn cướp” cho là sự có mặt của
binh sĩ Tây Ban Nha trong đạo. quân viễn chinh chứng tỏ chúng
hành động vì đạo.
Nhiều giáo sĩ Pháp bỏ việc “rao giảng kinh Phúc Am cho
thiên hạ” biến thành kẻ phục vụ tư bản thực dân, làm công việc
thám báo, vạch ra chương trình kế hoạch xâm lược Việt Nam trực
tiếp giúp đỡ quân đội viễn chinh. Giáo sĩ Huc đệ lên Pháp hoàng
kế hoạch thành lập công ty thương mại ở Ân Độ, nhằm khai thác
Triều Tiên và Việt Nam, Madagascar, sau lại trình bày một kế
hoạch đánh chiếm Việt Nam. Pellerin theo sứ bộ Montigny về
Pháp đặt vấn đề chính thức xâm lược, trình bày tỉ mỉ tình trạng
suy yếu mọi mặt của triều đình, quân đội và quần chúng nhân
dân nước ta, lại nói hiện người Anh đang có ý định mua cửa biến
Đà Nẳng. ưỷ ban Giao Chỉ thành lập năm 1857 họp ròng rã suốt
ba tuần lễ, quyết định kế hoạch xâm lược cần gấp rút điều động
quân lực chiếm ngay ba đô thị: Đà Nẳng, Sài Gòn, Kẻ Chợ (Hà
472

i
Nội). Hội đồng này xác định luôn đường lối cai trị là duy trì triều
đại nhà Nguyễn, rồi biến họ thành ra tay sai, đặt Việt Nam dưới
sự bảo hộ của Pháp.
Tháng 7 năm 1857, Napoléon III chuyển giao bộ Hải quân
thực hiện kế hoạch xâm lược, lại kêu gọi Tây Ban Nha phối hđp.
Theo lệnh nữ hoàng, quân đội Tây Ban Nha đang đóng ở Ma Ní
(Phi Luật Tân) cử một bộ phận tham gia xâm lược. Ngày 27 - 6 -
1858, chỉ huy hạm đội Viễn Đông Rigault de Genouilly được lệnh
của bộ trưởng Hải quân tìm cách kéo quân vào đánh chiếm Đà
Nang. Quân đội Tây Ban Nha cùng tham chiến.
Người Pháp chọn Đà Nang (cửa Hàn) nổ súng xâm lược theo
kê hoạch đánh mau thắng chóng. Đà Nang là vị trí quan trọng về
quân sự và về thương mại, có hậu phương trù phú Nam Ngãi, cách
kinh thành Huế 100 km qua đèo Hải Vân. Tàu lớn không vào được
cửa Thuận của Huế, chỉ có thể vào Đà Nang. Chúng tưỏng chiếm
lấy vị trí này, rồi tiến vào nội địa Quảng Nam, hành binh cấp tốc
qua đèo Hải Vân, tiến đánh mạnh vào Huế buộc triều đình phải
thừa nhận nước Pháp bảo hộ, giải quyết mau chóng việc xâm lược.
Sau khi tham chiến ở Trung Quốc buộc nhà Thanh ký hoà
ước Thiên Tân, trung tướng hải quân chỉ huy hạm đội Pháp tại
Viễn Đông mở cuộc xâm lược nước ta. Trung tướng phôi hỢp với
đại tá Tây Ban Nha Palanca kéo theo quân vào Đà Nang ngày 31 -
8 - 1858. Lực lượng của giặc gồm 14 chiến thuyền chở 3.000 binh
sĩ hai nước. Liên quân Pháp và Tây Ban Nha dàn trận ở trước cửa
biển ngay chiều tôl. Tổng đốc Nam Ngãi Trần Hoàng án binh bất
động. Hôm sau 1 - 9, từ mò sáng, chiến thư cho Trần Hoàng vừa
được gửi thì đại bác giặc từ các tàu chiến đã bắn tới tấp, mở màn
cho cuộc xâm lăng. Bị tấn công, quân ta mới bắn trả lại. Với súng
ống thô sơ, bên ta địch sao nổi với khí giới tân tiến của giặc. Bộ
phận thứ nhất của chúng tập trung hoả lực bắn vào các đồn Sơn
Trà. Bộ phận thứ hai tiến vào gần cửa sông Hàn, bắn xối xả vào
đồn Đông và đồn Tây án ngữ cửa sông. Đồn Đông bị vỡ và ngày
hôm sau 2 - 9 đồn Tây cũng vỡ. Lính thuỷ đánh bộ giặc đổ bộ lên
đất liền, chiếm đồn An Hải, đồn Điền Hải và bán đảo Sơn Trà.
Quân triều đình lui ra phía nam cửa sông lập phòng tuyến
Liên Trì trước huyện lỵ Hoà Vang. Nhân dân bỏ đi mang theo
lương thực và thi hành kế thanh dã, đốt bỏ hết mọi thứ ăn được
mà không thể mang đi theo. Triều đình cử tướng Đào Trí vào giúp
Trần Hoàng tiễu ngự. Đào Trí đến nơi thì hai hải thành đã mất.
473
Triều đình lại cử hữu quân Lê Đình Lý đem 2.000 cấm binh vào
án ngự. Lê Đình Lý đánh nhau với quân Pháp ở c ẩ m Lệ, bị trúng
đạn, chết. Tự Đức cách chức Trần Hoàng, cử kinh lược Nguyễn Tri
Phương vào tổng thông quân vụ, Chu Phúc Minh làm đề đốc cùng
với Đào Trí chông giữ.
Nguyễn Tri Phương một mặt ra lệnh cho nhân dân triệt để
bất hỢp tác với giặc, một mặt đắp luỹ đất dài từ hải khẩu ngoài mé
biển vào tới Phúc Ninh, chia quân phòng giữ Phước Luỹ, đào hô"
chữ phẩm cắm chông nhọn dưới hô", phủ cỏ rác lên trên.
Giặc bị cô lập, chiếm được đất mà không chiếm được dân, mọi
người bỏ đi, trừ vài nhà đánh cá nghèo khô"n. Chúng tấn công vào
luỹ từ ba mặt, bị phục kích phải dừng lại, bị rơi xuông hô", bị bắt bị
giết khá nhiều. Một vài lần, giặc cô" sức tiến sâu vào nội địa, đều
không kết quả. Quan quân ta phòng giữ cũng rát.
Đến tháng 1 năm 1859, giặc chiếm giữ được bán đảo Sơn Trà
và đồn Đông, án ngữ phía nam sông Hàn. Lòng sông cạn, tàu
chiến không vào được, mà giặc không dám rời xa tầm đại bác của
chúng. Kế đổ bộ lên đất liền để cô" sức tiến sâu vào nội địa không
thi hành được. Mà kê" hoạch triệt để phòng ngự của Nguyễn Tri
Phương giữ được quân giặc tiến nhưng không tiêu diệt được
chúng. Luôn ba bôn tháng dừng chân tại chỗ, tuy không bị đánh
thua nhưng tiến không nổi, giặc gặp khó khăn, chỗ ăn chỗ ở không
có, lại phải bệnh dịch tả chết hại nhiều. Khi trước các giáo sĩ đều
nói rằng hễ quân Pháp sang đánh thì giáo dân tức khắc nổi lên
đánh giúp, đến nay không thấy tin tức gì. De Genouilly lấy làm
phiền, trách giám mục Pellerin đánh lừa mình. Pellerin ở dưới tàu
Ménésis trở về nhà tu dạy đạo thành Pénang bên Mã Lai. Trung
tướng liệu thê" không thể nào vượt nổi đèo Hải Vân được phòng
thủ vững chắc để tiến lên đánh kinh thành Huê được. Mưu đồ
đánh mau đánh mạnh thất bại. Trung tướng thay đổi chương
trình, đánh voà vị trí khác là Gia Định, nơi đây trô"ng trải, lại là
miền trù phú nhất nước ta. Ngày 2 - 2 - 1859, đại quân của giặc lũ
lượt kéo nhau vào Gia Định, chỉ để lại ở Đà Nằng một ít tàu bè và
quân lính, do đại tá Toyon chỉ huy.

QUÂN PHÁP ĐÁNH LẤY ĐÂT NAM KỲ


QUÂN PHÁP ĐÁN H VÀO GIA ĐỊN H - De Genouilly đóng quân ỏ
cửa Hàn (Đà Nắng) không tiến binh đánh thẳng lên kinh đô Huế
được. Có giáo sĩ bàn ra đánh Bắc Kỳ, nơi đây có 40 vạn người đi
474
dạo, lại có đảng theo nhà Lê, có thể giúp dân Pháp được thành
công. Tin do thám được thấy rằng đất Nam Kỳ dễ lây hơn, lại là
nơi giầu có, nhiều thóc gạo. Ngày 2 - 2 - 1859, De Genouilly kéo
2.200 quân vào Gia Định. Ngày 9 - 2 tập trung ở Vũng Tàu 16 tàu
chiến và 4 tàu chở lương thực, sẵn sàng tấn công chiếm toàn xứ
Nam Kỳ, rồi ngược lên đánh chiếm Campuchia.
Ngày 1 0 - 2 , De Genouilly theo đường sông Bến Nghé tiến
thẳng vào Gia Định. Sau một ngày phá vỡ được những pháo đài
phòng vệ. Ngày 11 - 2, 20 tàu chiến kéo vào sông c ầ n Giờ. Ngày
1 5 - 2 , chúng đến trước 2 pháo đài canh giữ Gia Định. Đôi bên bắn
nhau dữ dội. Ngày 16 - 2, 7 tàu chiến giặc dàn trận, bắn phá ngav
trước thành. Cố đạo Pèhre ở làng Tam Hội tới bộ chỉ huy giặc mật
báo với De Genouilly về tình hình trong thành.
Thành Gia Định bấy giờ có nhiều quân lính, nhưng ít luyện
tập, nhiều vũ khí những cô lỗ, việc võ bị bỏ trễ nải. Đô đốc Vũ Duy
Ninh nghe tin giặc Pháp đánh tới, tự đi các tỉnh lấy binh về cứu
viện. Ngày 17-2, tàu chiến giặc tập trung hoả lực bắn vào thành,
yểm hộ cho quân đổ bộ chiếm thành từ cửa Đông Nam, chỉ trong 2
ngày thành vỡ, Vũ Duv Ninh ra lệnh rút quân, rồi tử tận. Đô đốc
Trần Trí, bô" chính Vũ Thực, lãnh binh Tôn Thất Năng, chạy về
đóng ở thành Tây Thới.
Quân Pháp và Tây Ban Nha vào thành lấy đư ợc 200 khẩu
đại bác, 8 vạn kilô thuốc súng và độ chừng 18 vạn írancs cả tiền
lẫn bạc, binh khí và thóc gạo rất nhiều, cùng 9 tàu chiến đã và
đang đóng.
Tổng đốc Định Tường Vĩnh Long Trương Văn Uyển đưa
1.800 quân cùng với 800 quân của tuần phủ Định Tường Lê Đình
Đức kéo lên Gia Định ứng viện, bị giặc đột kích. Uyển bị thương
lui quân. Đức tháo chạy về Vĩnh Long.
Ngay từ khi quân giặc từ Vũng Tàu tiến vào, nhân dân lục
tỉnh tổ chức những đoàn quân ứng nghĩa chông giặc, phòng vệ các
thôn xã. Tiêu biểu là đoàn nghĩa dũng do Lê Huy và Trần Thiện
Chính chỉ huy.
Triều đình cử thượng thư bộ hộ Tôn Thất Cáp và bô" chính
Nam Ngãi Phan Tĩnh vào Gia Định tiễu giặc, lấy quân các tỉnh
Bình Định, Khánh Hoà, Bình Thuận mỗi tỉnh 500 người vào Biên
Hoà. Quân triều ở quanh Gia Định lúc này chỉ còn khoảng một
ngàn. Giặc chiếm được thành nhưng chỉ ở trong đó. Các toán dân
quân ứng nghĩa chông giặc còn hơn cả quân triều, ban đêm đột
475
kích vào trong thành, ban ngày hễ chúng hành binh vào thôn xã
là lập tức bị nghĩa quân phục kích chặn lại. Nhân dân tự tiêu huỷ,
đốt phá nhà cửa, bỏ sang vùng khác, hoặc đi theo quân ứng nghĩa.
Nơi trước kia có 40 làng chỉ còn có một là Chợ Quán. Các giáo sĩ
Pháp ra sức giúp giặc chiếm dân, ảnh hưởng không có mấy.
Ngày 8 - 3 - 1859, De Genouilly san phẳng thành trì làm
bình địa, chỉ để một đồn phía nam, đốt hết kho tàng lúa gạo trong
thành. Giặc vẫn bị nghĩa quân đột kích luôn. Quân lính phải rút
xuông các tàu chiến và đóng ụ ỏ Hữu Bình làm căn cứ trên bộ.
Cuốĩ tháng 3, để lại 3 trung đội đóng ở ụ Hữu Bình bảo vệ 4 tàu
chiến do trung tá thuỷ quân dauréguiberry chỉ huy để chống giữ
với quân Tôn Thất Hợp ở Biên Hoà, De Genouilly đem toàn bộ
quân kéo trở ra Đà Nang ứng cứu cho số quân đang bị khôn.
Tôn Thất Cáp và Trương Văn Uyển đem 2.000 quân vào
Gia Định. Lực lượng của giặc ở đây còn rất ít nhưng quân ta
không mở thê công, chĩ xây dựng các đồn phòng vệ ở phía tây
Sài Gòn, giặc có đến đánh thì mới đánh lại. Giặc luôn luôn bị
các đoàn dân quân nghĩa dũng quấy rôl nên cũng không dám
tấn công. Đen cuối tháng 4, được tàu Marne tiếp viện 550 lính,
chúng mở cuộc tấn công vào đồn Phú Thọ do Tôn Thất Cáp vừa
đắp, nhưng đã thất lợi.
Tại Đà Nẵng, từ khi đại quân rút vào miền trong, sô" quân
giặc ở lại rất ít, nhưng quân ta cũng không đánh đuổi chúng đi.
Đến khi De Genouilly trở lại thì ngày 8 - 5, giặc chia thành nhiều
cánh tấn công các vị trí Đức Hoà, Thanh Giản, Hải Châu, Phúc
Ninh. Cánh quân thứ nhất bị toán quân ứng nghĩa do Phạm Gia
Vĩnh chỉ huy phối hỢp với quân triều đình do Nguyễn Song Thanh
và Đào Thị chỉ huy đánh bại, phải chạy về bán đảo Sơn Trà. Cánh
quân tấn công vào Diện Hải và Phúc Ninh, tiến được vào Duy
Xuyên, quân triều phải rút lui vào vị trí Nại Biên và phòng tuyến
Liên Trì nhưng địch cũng bị tổn thất nhiều, rồi lại phải trỏ về vị
trí cũ. Trận này lớn nhất ở Đà Nang.
Sau 9 tháng xâm lược, quân Pháp chiếm được bán đảo Sơn
Trà và đồn Đông ở Đà Nắng, còn ở Gia Định, chúng lấy được ụ
Hữu Bình trên sông Bến Nghé, không mở mặt trận thêm rộng lớn
đưỢc. Quân triều đông đúc hơn nhiều lần chỉ giữ thế thủ, không
hề mở thê tấn công. Chiến tranh tiếp tục kiểu này thì sẽ kéo dài
mãi. Giặc vẫn giữ vững ý đồ xâm lược thuộc địa: Sài Gòn là nơi có
thể trở thành trung tâm thương mại lớn một khi thương cảng được
476
mở ra cho người Âu châu lui tới. Xứ này rất giàu có. mọi sản vật,
tài nguyên vô cùng phong phú.
Kế hoạch tốc chiến tốc thắng không thực hiện được, lũ tư bản
thực dân chuyến sang dùng kế xâm lược lâu dài, ta gọi là kế sâu
tằm ăn lá dâu , chúng mệnh danh là “sự chinh phục bằng những
gói nhỏ” (conquôte en petits paquets). Bộ hải quân ra lệnh cho De
Genouilly chủ động xin hoà nghị với Tự Đức.
Triều đình đem việc ra bàn cãi, ngưòi thì bàn nên hoà, kẻ thì
bàn nên đánh, cuối cùng chủ trương “lấy chủ đợi khách, dùng kế
trì cửu, đợi cho họ mỏi, hay còn gọi là chủ trương: chủ đề hoà,
không chủ động tấn công mà cứ giữ thế thủ để chờ địch chủ động
xin hoà”, đã thắng thế, hỢp ý Tự Đức. Chủ trương này thât sách,
không tấn công, chỉ giữ thế thủ mãi thì sao giữ nổi một khi dịch có
hoả lực mạnh.
Nguyễn Tri Phương được cử ra lo việc nghị hoà. Tháng 7 -
1859, De Genouilly phái tàu chiến đi bắn phá bãi Cam ở Bình
Định và pháo đài Hồ Cứ, tiêu huỷ tàu thuyền của triều đình và
của dân ở vùng biển Quảng Bình, Quảng Trị, nhất diện đưa ra ba
yêu sách nghị hoà: - Tự do truyền đạo, - Tự do buôn bán, - Mở
nhượng địa. Triều đình do dự, không ra hoà, không ra chiến.
Tháng 9 - 1859, ở mặt trận Đà Nằng, Quảng Nam, De Genouilly
mở cuộc tấn công vào Nại Biên. Quân triều thiệt hại khá nặng,
nhưng sau đó, giặc lại phải rút lui về vị trí cũ.
Quân Pháp ở Đà Nang bấy giò khổ sở lắm, thiếu tiện nghi,
không quen thuỷ thố, nhiều người mang bệnh tật. De Genouilly
phải triệt hồi. Chính phủ Pháp cử thiếu tướng hải quân Le Page
sang thay thể và nhân thê cô" chủ việc giảng hoà cho xong.
Tư ban thực dân Pháp có âm mưu chiếm nước ta làm thuộc
địa, dùng cách tô"c chién tô"c thắng không được, thì đối sang dùng
cách tiến dần từng bước, buổi đẳu không đòi hỏi nhiều lắm, nhưng
một khi đã đặt được chân vào nước ta rồi, thì được đằng chân, lân
đằng đầu, áp bức dần dần cũng có thê biến nước ta thành thuộc
địa được, hoặc ít ra cũng thành bán thuộc địa, mà lại đỡ phải mất
công lao đánh chiếm.
Ngày 1 - 11 - 1859, Le Page tới Đà Nang. Để gây sức ép cho
cuộc hoà nghị, Le Page mớ cuộc tấn công lớn phía bắc Đà Nang
trên đưòng về Huế, huy động hầu hết quân với 9 tàu chiến, ngày
1 8 - 1 1 chiếm cứ vị trí Chân Sàng, định làm chủ đèo Hải Vân,
nhưng rồi giặc không tiến được qua đèo Hải Vân quan. Trung tá
477
Dupré Déroulède trúng đạn chết. Sau trận này, Le Page đem
nhiều quân vào Gia Định tính kê lâu dài, chỉnh bị hàng ngũ quân
xâm lược. Le page gửi thư hoà nghị cho Tôn Thất Cáp chỉ huy mặt
trận Gia Định, gồm 12 khoản, chủ yếu do thông thương, tự do
giảng đạo, lập lãnh sự và cửa hàng ở bến, thả giáo sĩ, không truy
nã người theo đạo, khoan thứ kẻ cộng tác với Pháp. Cuộc hoà nghị
giữa Tôn Thất Cáp và đại diện Le Page được mở trên tàu chiến
Primauguet. Bên ta khước từ điều khoản tự do thông thương,
truyền đạo, lập lãnh sự và mở cửa hàng ở bến.
Trong khi quân đội ta án binh bất động, giữ thế thủ sau các
đồn kuỹ, thì giặc một khi đã chiếm xong được thành Gia Định,
ngang nhiên mở rộng và củng cô" cán cứ xâm lược chung quanh,
chiếm cứ các chùa Mai Sơn, Khai Tường, dựng đồn trại, biến chùa
thành pháo đài của chúng.
Sang năm 1860, quân Anh và quân Pháp đánh Trung Quôh
ở mạn Hoàng Hải. Tháng 2, bộ hải quân Pháp truyền cho Le
Page phải rút quân ở Đà Nang, chỉ để ít quân giữ Gia Định, còn
bao nhiêu binh thuyền phải đem sang theo trung tướng hai
quân Charner đi đánh Trung Quốc. Quân Pháp đô"t bỏ dinh trại
Sơn Trà. Le Page để đại tá d’Arlès ở lại giữ Gia Định, còn bao
nhiêu binh thuyền đem lên phía bắc hội quân với quân Anh,
xâu xé nhà Thanh. Thê là tất cả lực lượng Pháp và Tây Ban
Nha xâm lược nước ta từ tháng 2 - 1860 đến tháng 2 - 1861 chỉ
còn 800 quân.
Tự Đức thấy quân Pháp bỏ Đà Nang đi, sai Nguyễn Tri
Phương, Phạm Thê Hiển vào nam để cùng với Tôn Thất Cáp (HỢp)
sung Gia Định quân thứ, để Phan Thanh Giản và Nguyễn Bá
Nghi cáng đáng mặt Quảng Nam.
Trong khi quân ta trì cửu thì 800 quân giặc vẫn mở rộng và
củng cô" các vị trí chiếm đóng, tạo điều kiện đê xâm lược lâu dài.
Chúng xây dựng đồn bô"t nô"i liền Sài Gòn với Chợ Lớn qua các
chùa Khai Tường, Hiếu Trung, Kiến Phước vào đến chùa Cây Mai
ở Chợ Lớn, làm chủ “phòng tuyến các chùa” dài 10 km từ Thị
Nghè đến Mai Sơn.
Nhân dân Lục Tỉnh quyết tâm đánh giặc. Các đoàn quân ứng
nghĩa, dân dũng vô danh hoạt động ở nhiều nơi. Tháng 6 - 1860,
địch vừa chiếm Chợ Rẫy thì 2.000 “dân ấp dân lân” đêm mùng 3
rạng mùng 4 tháng 7 đánh vào nơi này là vị trí quan trọng. Quân
giặc ở Sài Gòn hay bị đột kích. Nhiều lính Pháp ra khỏi vị trí bị bỏ
478
mạng. Đại uý Barbot một tôi đi tuần bằng ngựa bị một toán dân
dũng vô danh giết chết.
Tháng 8 - 1860, Nguyễn Tri Phương vào nhận thức, huy động
bằng hết sức lực của hàng vạn dân phu Lục Tỉnh xây đắp hệ
thông phòng ngự cố thủ. Phòng tuyến dài ôm lấy Sài Gòn Chợ
Lớn, lấy lại Đại Đồn ở Kỳ Hoà (nay gọi là Chí Hoà) làm trung tâm.
Đại đồn dài 3 km, rộng 1 km là đồn lớn nhất của ta trước đến đó,
chia làm 5 khu vực, vách bằng đá ong Biên Hoà, gai góc dầy đặc,
ngoài hàng trám mét có rào tre, hố chứ phẩm căm chông chi chít,
có ụ đất, có đào hào sâu đầy nước. Trong đồn có nhiều khí giới,
đạn dược, lương thực với hàng vạn quân cùng 150 đại bác, chỉ cách
đồn giặc 500 mét. Trước mặt, phía tây nam, là một hệ thông đồn
gác dầy đặc, hai bên tả hữu là hai dãy đồn nhỏ nối tiếp nhau như
hai cánh tay choàng lấy phòng tuyến các chùa của giặc. Phía sau,
cách chừng 2 km trên đưòng đi Hóc Môn - Tây Ninh, có đồn Thuận
Kiều là nơi tích trữ lương thực. Đại Đồn là một kiến trúc phòng
thủ kỳ xảo nếu chiến tranh chỉ diễn ra theo lôl cổ xưa.
Hàng vạn dân công Lục Tỉnh không quản ngày đêm, mưa gió,
xây đắp Đại Đồn nhanh chóng. Nguyễn Tri Phương lại chiêu mộ
thêm quân mới và tập trung quân các đồn điền về đây phòng thủ.
Quân đội của d’Arlès từng bị đánh vào đồn Kỳ Hoà vài ba
trận, không được. Hai bên đều có thiệt hại cả.
Quân Pháp và Tây Ban Nha ở Sài Gòn bấy giờ có ít mà quân ta
đông đúc hơn hàng vạn ngLíời, nhưng quân sĩ ít luyện tập sơ, lạc hậu.
Đem những quân lính ấy với khí giới ấy chông chọi với quân lính giặc
được huấn luyện tôt, có vũ khí tân tiến thì thắng trận làm sao được?
Tưởng không nên chê việc quan quân ta bấy giò không nhân khi địch
thưa người mà mở những cuộc phản công, vì làm việc ấy trong tình
trạng kém hoả lực thì chi’ có thua. Nếu cậy sô" đông thí quân cố đánh
thì cũng rất khó lòng thắng nổi. Nếu đem toàn lực hàng van người
dùng chiến thuật biên người hy sinh cô" đánh giết 800 địch thì một lần
có thể diệt được chúng đấy. Nhưng rồi ra, giặc trở lại với sô" quân đông
đúc thì làm sao có thể diễn lại được những trận biển người to lớn
được? Giặc trở lại còn báo thù, tàn sát đến cả quần chúng thường dân.
Kê ra thì đáng phải tô chức những đội quân mỏng lưu động lanh lợi,
luôn luôn bất thình lình đổ ra, đánh giết giặc chớp nhoáng, rồi biến đi.
Giặc bị tiêu hao chút mà luôn luôn phải lo đề phòng, không được yên
ổn. Công việc này được các toán quân ứng nghĩa thực hiện. Loại quân
đội này quâ"y phá được địch mà không tiêu diệt được chúng.
479
Đ e giữ n ư ớc trư ớ c q u ân x â m lă n g h ù n g m ạ n h , p h ả i có n h ữ n g
k ế h o ạ c h tin h vi c ủ a kẻ y ế u k é m ; h ấ t hỢp tá c , c ấ m h ắ n d â n c h ú n g
h à n g v à hỢp t á c với g iặ c ; th a n h d ã là m v ư ờ n k h ô n g n h à tr ố n g
k h iế n đ ịch k h ô n g lấ y chtợc lư ơ n g th ự c c ủ a t a m à đ á n h r a , tổ ch ứ c
n h ữ n g to á n q u â n du k ích lu ô n lu ô n th e o dõi q u ấ y p h á đ ịch . T ro n g
k h i ấ y th ì to à n d â n , to à n quôc, trư ờ n g kỳ k h á n g c h iế n . N h ư v ậ y ,
p h ả i có c h ín h q u y ề n v à b in h q u y ền tà i giỏi, đưỢc q u ầ n c h ú n g m ế n
p h ụ c v à đ ại đ a s ố n h â n d â n tr o n g nư ớc có tr ìn h độ k iế n th ứ c ca o ,
m ới th ự c h iệ n noi đ e có được th ắ n g lợi cu ố i cù n g .
Tháng 10 - 1860, nhà Thanh ký hoà ước với Anh, Pháp, hai
bên bãi chiến tranh. Bộ hải quân Pháp chuyển hạm đội Viễn Đông
về tấn công đánh chiêm đất nước ta. Trung tướng Charner lĩnh
chức tổng chỉ huy quân lực Pháp, đại sứ đặc mệnh chính phủ
Pháp, có toàn quyền chỉ huy tấn công xâm lược Lục Tỉnh.
Ngày 7 - 2 - 1861, Charner tập trung ỏ Bến Nghé 150 tàu
chiên các loại. Sô" quân dịch có 4.000 tên và 600 phu mộ người
Quí^ng Đông. Sau hai tuần chuẩn bị, ngày 24 - 2, giặc chia thành
ba bộ phận mở cuộc tấn công lớn vào Đồn Đại, trung tâm hệ thống
phòng thủ của ta. Hai bên đánh nhau rất dữ dội trong 2 ngày, 4 sĩ
quan địch bị thương trong đó có một thiếu tướng Pháp Vassoigne
và đại tá Tây Ban Nha Palanca. Quân địch chết hơn 300 người.
Súng của Tây bắn hăng quá, quan quân ta vẫn chống cự suốt ngày
24, thế kém, phải rút về trong Đại Đồn. Ngày 25 - 2, giặc tiếp tục
tấn công. Đại bác trong đồn bắn ra, nhiều người ngựa giặc chết tại
chỗ gần vách thành. Giặc gặp nhiều cạm hẫy, hô" chông, hào ụ, nên
tiến rất chậm. Chúng dùng thang tre hoặc đứng lên vai nhau để
lọt vào trong thành, nhiều đứa bị bắn chết hoặc rơi xuông hô"
chông. Những đứa lọt được vào thành lại hị quân trong thành
dùng giáo mác xỉa từng tên. Chúng phải dùng lựu đạn công phá
mới mở lôi lọt vào thành điíỢc. Quan quân rút gọn vào các đồn
nhỏ. Hai bẽn đánh giáp lá cà, nhiểu quân giặc, cả sĩ quan, bỏ
mạng. Giữa lúc ấy, hai mũi tập hậu của giặc vượt qua được vách
thành Đại Đồn. Nguyễn Tri Phương bị thương, em ông là Nguyễn
Duy tử trận. Tham tán Phạm Thê Hiển về Biên Hoà được mấy
hôm cũng mất. Còn binh sĩ chết hại rất nhiều.
Các đồn án ngự trên sông Đồng Nai lần lượt bị tàu chiến và bộ
binh phá vỡ. Ngày 28 - 2, hơn 3.000 giặc tấn công Thuận Kiều, trung
tá Crouda hị thương. Quan quân bỏ các đồn Thuận Kiều và Tân
Thới, chạy về Biên Hoà, mất hẩu hết khí giới và lương thực. Ngày 3 -
480
3 - 1861, bộ binh giặc tiến lên chiếm đóng Tràng Bảng, đồng thòi tàu
chiến của chúng theo sông Vàm c ỏ Đông lên chiếm đóng huyện Tây
Ninh. Thế là giặc hầu như làm chủ Gia Định tỉnh thành.
MẤT TỈNH ĐỊNH TƯỜNG - Phá được đồn Kỳ Hoà, lấy đưỢc đồn
Thuận Kiều, Thủ Dầu Một và Tây Ninh, Charner sai người đưa
thư sang cho vua Campuchia Norodom (Nặc ông Lân) nói chủ ý
của Pháp định lấy đất Lục Tỉnh làm thuộc địa, nay mai sẽ đánh
lấy Mỹ Tho để tiện đường giao thông với Campuchia.

B ả n đ ồ N a m K ỳ thời q u â n P h á p đ á n h ch iếm

Sau khi thám thính, Charner chia làm hai cánh quân thuỷ
bộ phối hỢp tấn công Định Tường gồm Mỹ Tho, Tân An và Gò
Công ngày nay, tỉnh lỵ ở Mỹ Tho. Ngày 1 - 4 - 1861, chúng bắt đầu
tấn công hệ thông phòng ngự trên sông. Ngày 12 - 4, cả hai đội
thuộc cánh quân bộ giặc tiến sát thành Mỹ Tho, chuẩn bị đánh
thành. Cùng ngày, cánh quân thuỷ do Le Page chỉ huy đã theo
cửa Tiền Giang vào đậu trước thành này. Hộ đốc Nguyễn Công
Nhuận bỏ chạy. Tuần phủ Nguyễn Hữu Thành thiêu huỷ kho
tàng, dinh thự, cùng với đề đốc Đặng Đức rút về Cái Bè. Mấy
481
tướng khác dẫn quân chạy về Vĩnh Long. Thành Mỹ Tho ngỏ. Giặc
chiếm gọn hồi 2 giò chiều ngày 12 - 4 - 1861. Trận này bên giặc có
trung tá Bourdais bỏ mạng khi vừa đánh vào hệ thống phòng ngự.
Hạ xong thành Mỹ Tho, Charner đặt đồn luỹ ở các nơi hiểm
yếu. Do có việc dân chúng khắp nơi nổ dậy chông đôi, giặc có ý
hoãn việc binh, không đánh sang các tỉnh khác, để sửa sang việc
cai trị trong địa hạt đã chiếm được.
Triều đình nghe tin Đại Đồn Kỳ Hoà thất thủ, thành Mỹ Tho
cũng mất, sai thượng thư bộ hộ Nguyễn Bá Nghi làm khâm sai
vào kinh lý việc Nam Kỳ. Bá Nghi biết thế không chống lại nổi với
quân Pháp, dâng sớ xin giảng hoà. Trong triều có bọn Trương Đăng
Quế đòi tìm kế chốhg giữ. Bá Nghi muốh giảng hoà nhưng không
chịu nhường đất, lấy lý cãi mãi, không biết rằng thời buổi cạnh
tranh, hễ sức mà không đủ thì không có lý gì phải cả. Bon tư bản
thực dân sang đánh chiếm đất nước ta làm thuộc địa, đâu có chịu trả
lại đất đã lấy đưỢc. Việc giảng hoà lôi thôi mãi không xong.
Giặc chiếm được đất nhưng không chiếm được lòng dân.
Quần chúng hai tỉnh Gia Định, Định Tưồng chống đôi. Các hạt,
các xã nổi dậy tổ chức kháng chiến. Giặc chỉ đóng quân ba đồn:
Gia Thạnh, Chợ Gạo và Gò Công trong cả tỉnh Định Tường rộng
lớn. Charner được tiếp viện thêm một tiểu đoàn và tổ chức được 4
trung đội Mã Tà, lính mộ trong dám cặn bã dân ta nhưng vẫn
không đủ để chiếm đóng các huyện lỵ, phải dùng bọn quan cai trị
theo kiểu quân sự. Các toán quân ứng nghĩa chốhg giặc xuất
hiện và phát triển. Tri huyện Đỗ Đình Toại, với 600 quân, ngày
22 - 6, tấn công Gò Công. Phó quản cơ Trương Định ở mấy tổng
phía nam Gò Công có sô" quân ứng nghĩa đông đúc 6.000 ngưồi.
Vùng Rạch Chanh (Mỹ Tho) có phủ Cận. Vùng tây bắc định
Tường là địa bàn hoạt động của thiên hộ Dương. Người chỉ huy
liên đội điền ở Kỳ Hoà và bắn chết Bourdais là Quản Tu vẫn
chông giặc ở hữu ngạn sông Vàm cỏ Tây. Các toán quân ứng
nghĩa gồm chủ yếu là; 1 - quân đồn điền cùng vối người chỉ huy
của họ, 2 - quân triều tan rã ngũ hoặc thất tán, 3 - trai tráng
trong vùng. Bên cạnh các đoàn quân ứng nghĩa là các toán dân
dũng vô danh. Quân nghĩa dũng luôn luôn đánh phá giặc. Chúng
phải nhò tăng viện và xây dựng được lực lượng nguy binh mới
khỏi công đánh chiếm thêm nữa.
Charner thấy mình bất lực, xin từ chức. Chính phủ Pháp cử
thiếu tướng hải quân Bonard sang thay từ 30 - 11 - 1861.
482
Bonard tiếp tục thực hiện mưu đồ xâm lược lâu dài nhằm
mang lại cho nưóc Pháp một thuộc địa tốt đẹp. Giặc vẫn tô chức
lính nguỵ mã tà lên tới hàng tiểu đoàn, tổ chức kỵ binh mã tà,
thay thế võ quan cai trị người Pháp bằng bọn quan phủ, huyện
người Việt đặt dưới quyền kiểm soát của thanh tra người Pháp,
rút bớt căn cứ chiếm đóng như Gò Công, Chợ Gạo, để tập trung
binh lực càn quét từng vùng một. Nhiều căn cứ khi quân Pháp lui
bị nhân dân vũ trang chiếm lại. Quân khởi nghĩa càng hoạt động
mạnh, uyn hiếp các vị trí Tây Ninh, Tràng Bảng, Thủ Dầu Một.
Ngày 10 - 12 - 1861, đoàn quân Nguyễn Trung Trực đại thắng
trận sông Nhật Tảo, đốt cháy tàu Espérance, nhiều giặc bỏ mạng.
Nhiều nơi giặc phải lấy tàu chiến làm lỵ sỏ, vì trên bộ không còn
an toàn.
MẤT CÁC TỈNH BIÊN HOÀ VÀ VĨNH LONG - Sau một tháng chuẩn
bị, Bonard một cuộc tấn công. Ngày 9 - 12 - 1861, cho quân đi
chiếm đảo Côn Lôn, rồi tập trung binh lực ở Sài Gòn đi đánh Biên
Hoà. Tỉnh này gồm cả Thủ Dầu Một và Bà Rịa ngày nay. Từ Sài
Gòn lên tỉnh lỵ Biên Hoà có cả đường thuỷ bộ. Trên đường bộ có 2
căn cứ án ngự là Mỹ Hoà và Gò Trao Trảo. Đường thuỷ có 8 cản và
1 kè đá ngăn giữ. Ngày 14 - 12 - 1861, quân giặc tiến đánh bằng
cả hai đường thuỷ bộ. Ngay sáng’hôm ấy, đại tá Compteur chiếm
đồn Gò Trao Trảo. Hôm sau, y cùng Diego tiến lên Mỹ Hoà. Quan
quân triều bỏ chạy. Cánh quân thuỷ do trung tá Harel chỉ huy
tiến theo sông Đồng Nai phá cản vài pháo đài trên triền sông.
Đồng thời một cánh thuỷ quân khác do đại tá Lebrit chỉ huy cũng
đánh vào sau các pháo đài. Quân giữ pháo đài bỏ trốh. Ngày 16 -
12, thuỷ bộ quân giặc kéo đến trước tỉnh thành. Tuần phủ Nguyễn
Đức Hoan bỏ ngỏ Biên Hoà với 15 tàu chiến. Khâm sai Nguyễn Bá
Nghi mang quân chạy ra Bình Thuận. Giặc chiếm thành rồi xuôi
dòng Đồng Nai chiếm luôn Bà Rịa (7 - 2 - 1862).
Được đà, giặc thừa th ế lan rộng ra miền tây Lục Tỉnh,
tiến đánh Vĩnh Long mà trước đây thuyền máy của chúng đi
vào các nhánh sông Mê Công do thám không bị cản trở gì.
Ngày 20 - 3 - 1862, 11 chiến thuyền giặc tiến sát thành Vĩnh
Long. Ngày 22, các đồn ngự bị vỡ. Tôl 23, tỉnh trưởng Trương
Văn Uyển cho đôT các kho tàng, dinh thự, rút quân chạy về Thị
Bảo, rồi lên Duy Minh. Sáng 24, giặc vào chiếm thành đã bỏ
ngỏ. Lấy đưỢc Vĩnh Long rồi chúng chia quân đi các ngả càn
quét bao vây các đạo nghĩa quân.
483
Đến cuôl tháng 3 - 1862, quân Pháp chiếm được 4 tỉnh: Gia
Định, Định Tường, Biên Hoà, Vĩnh Long, nhưng chưa tổ chức cai
trị được các tĩnh này. Phong trào chống giặc của nhân dân lên cao.
Phía bắc sông Vàm c ỏ có 4 trung tâm kháng chiến: c ầ n
Giuộc, Thủ Dầu Một, Tràng Bảng và Tây Ninh. Quản Là với “dân
ấp dân lân” c ầ n Giuộc bất chấp tàu to, súng lớn, đạn chì. Giặc
không ra khỏi được Chợ Lớn và từ Chợ Lớn xuông Gò Công, chúng
dùng đường thuỷ với tàu chiến hay thuyền máy có yểm hộ.
Vùng Tân An, Tháp Mười, giặc bị nghĩa quân Nguyễn Duy
Phương uy hiếp. Trung tâm kháng chiến Tháp Mười gần như bất
khả xâm phạm. Chúng chỉ chiếm được đến Gia Thạnh.
Đáng chú ý nhất là chiến thuật đánh phá pháo thuyền,
phương tiện chiến tranh xâm lược lợi hại của giặc. Sau trận đánh
chìm tàu Espérance thì tháng 3 - 1862, pháo thuyền sô" 25 lại bị
phá huỷ khi ròi bến Mỹ Tho, tàu nổ, 52 tên giặc bị chết và bị
thương. Pháo thuyền số 3 ở Tây Ninh bị nghĩa quân vây đánh, chỉ
huy giặc bị thương. Một tàu giặc ở Bến Lức bị nghĩa quân Nguyễn
Trung Trực đánh phá. Nguyễn Trung Trực là anh hùng áo vải có
mưu trí đương đầu với chiến thuyền giặc.
Trong tỉnh Biên Hoà, giặc chỉ đóng quân ở 4 nơi: Biên Hoà,
Bà Rịa, Vũng Tàu, Thủ Dầu Một. Các đồn trên đường tây nam
Chợ Lớn cũng bị nghĩa quân thường xuyên đánh úp hoặc phục
kích. Tân An, Gò Công do nghĩa quân làm chủ với nhiều vị trí
chiến đấu. Đó là trung tâm kháng chiến mạnh nhất do Trương
Định chỉ huy. Các đồn giặc trong tỉnh Định Tường và Gia Định bị
bao vây ngặt. Đường bộ không đi được, đường thuỷ cũng bị nghẽn,
trừ sông lớn. Giặc phải rút bỏ các đồn Gò Công, Chợ Gạo, Gia Thạnh,
Tân An, Cái Bè, cần Giuộc. Ngay tại Sài Gòn, Chợ Lớn, giặc cũng
thường bị nghĩa quân vô danh đánh phá. Ngày 15-4-1862, nghĩa
quân đốt cơ sở địch ở Chợ Lớn và tấn công địch ở Xóm Cuối.
Chính giặc đã thú nhận rằng nhân dân ta chiến đấu với vũ
khí thô sơ địch lại súng carabine, chứng tỏ họ can đảm và quyết
tâm phi thường.
Đê “chinh phục lại những vùng đã chinh phục”, bộ chỉ huy
giặc điện cho phó đô đốc daurès đến với một đoàn quân Algérie và
một tiểu đoàn bộ binh.
HOÀ ƯỚC NHÂM TUẤT 1862 - Năm 1862, tình hình nước ta rô'i
loạn. Trong nam thì quân Pháp chiếm 4 trong 6 tỉnh, ngoài bắc thì
có Tạ Văn Phụng đánh phá Quảng Yên và Hải Dương rất ngặt, lại
484
có Nguyễn Văn Thịnh tức Cai Vàng quấy nhiễu ở Bắc Ninh. Dân
chúng mâ't mùa đói khổ, triều đình rất lo sỢ, muôn hoà với giặc
ngoài để tiễu trừ giặc trong. Tự Đức cử Phan Thanh Giản và Lâm
Duy Tiếp và Gia Định nghị hoà. Bấy giò, Bonard đang lúng túng,
không sao bình định được đất đã chiếm, mà Pháp hoàng thì lại
muôn dùng hết lực lượng quân sự đánh Mexique, không tha thiết
vùng Á Đông xa xôi (thòi ấy chưa đào sông Suez, tàu bè từ châu
Ảu sang phải đi vòng qua châu Phi). Được tin bất ngờ, Bonard rất
mừng, cử trung tá Simon đem tàu Porbin ra đón sứ thần ta vào
thương thuyết. (Theo sách LSVN của Hoàng Văn Lân và Ngô Thị
Chính thì quân viễn chinh Pháp bị sa lầy trong cao trào kháng
chiến của nhân dân ta thì Tự Đức lại xin hoà chúng).
Ngày 5 - 6 - 1862, hoà ước được ký kết trên tàu Dupré của
Pháp đậu ở bến Sài Gòn, giữa một bên là nước Pháp do Adolphe
Bonard, đô đốc tổng chỉ huy liên quân Pháp - Tây Ban Nha, cùng
Don Carilot Palanca, đại tá chỉ huy trưởng đoàn quân Tây Ban
Nha ở Nam Kỳ và một bên là nhà Nguyễn do Phan Thanh Giản và
Lâm Duy Tiếp, toàn quyền khâm sai của vua Tự Đức. Hoà ước này
thường gọi là hoà ước Nhâm Tuất, gồm 12 khoản, đại lược là:

- Nước N am p h ả i đ ể cho các g iáo sĩ P háp và Tây B an


N ha tự do vào giản g đạo và đ ể cho dân gian được tự do
theo đạo.
- Nước N am ph ải nhường đứt cho Pháp các tỉnh Gia
Định, Biên H oà và Định Tường, cùng quần đảo Côn Lôn và
p h ải đ ể cho chiến thuyền Pháp ra vào tự do sông Mê Công,
- H ễ nước N am có g iao thiệp với nước nào kh ác thi p h ải
cho chính phủ P háp biết và khi nào muốn nhường đất
cho nước nào thi p h ả i tuỳ nước P háp có thuận mới đưỢc.
- Người P háp và người Tây B an N ha được ra vào buôn
bán tự do ở các cửa Đà Nang, cửa B a L ạt và cửa biển ở
Quảng Yên.
- Nước N am p h ả i trả tiền binh p h í 4 triệu nguyên, chia
làm 10 năm, mỗi năm 400.000.
- Nước P háp trả tỉnh Vinh Long cho nước Nam.

Giảng hoà xong, triều đình cử Phan Thanh Giản làm tổng
đôh Vĩnh Long, Lâm Duy Tiếp làm tuần phủ Khánh Thuận để
giao thiệp với quan Pháp ở Gia Định.
485
Bấy giò, nước Tây Ban Nha nhường quyền lấy đất làm thuộc
địa cho nước Pháp, chỉ nhận tiền chiến phí và quyền được cho giáo
sĩ đi giảng đạo mà thôi.
Tháng 3 - 1862, Bonard và Palanca ra Huế triều yết Tự Đức
để công nhận sự giảng hoà giữa ba nước. Sau đó, Bonard về Pháp
nghỉ. Thiếu tướng hải quân De la Grandière sang thay.
Ký hoà ước Nhâm Tuất, triều đình đã đầu hàng quân xâm
lược, lại lầm tưởng rằng chúng sẽ dừng lại, sau không đánh chiếm
thêm đất nữa, còn bè lũ thực dân Pháp thì lấy đây làm bậc thang
thứ nhất, rồi dần dà tiến đánh chiếm nữa, cướp lấy toàn cõi đất
nước ta làm thuộc theo chương trình chúng đã vạch ra từ trước
“chinh phục bằng những gói nhỏ”, sau khi tốc chiến tốc thắng
không xong.
PHONG TRÀO CHỐNG XÂM Lược ở BA TỈNH MlỀN ĐÔNG - Hoà với
quân xâm lược, Tự Đức ra lệnh giải tán các đoàn thể chông đối
giặc. Hàng chục thuyền máy chạy đi khắp nơi truyền sĩ dân Lục
Tỉnh hạ khí giới, trở về làng làm ăn. Nhưng lệnh này, nghĩa quân
không nghe theo, một mực dẻo dai theo đuổi công cuộc kháng
chiến chông quân cướp.
CĂN CỨ KHÁNG CHIẾN GÒ CÔNG - TRƯƠNG ĐỊNH - Trương Định
người Quảng Ngãi, theo cha vào lập nghiệp ở Tân An, chiêu mộ
nhiều người lập ấp khai khẩn hoang, giữ chức quản cơ chỉ huy và
luyện tập trai tráng trong ấp thành quân đồn điền. Năm 1861 đưa
quân lên vị trí Thuận Kiều, hỢp cùng biền binh của Nguyễn Tri
Phương giữ phòng tuyến Kỳ Hoà từng thắng mấy trận. Đại Đồn
thất thủ, đem quân mình về Gò Công, lập vị trí chiến lược, hỢp với
Lưu Tiến Thiện và Lê Quang Quyền, dồn lương, đúc súng, khởi
đầu có hơn ngàn ngưòi. Triều đình phong chức phó lãnh binh. Vây
đánh ráo riết giặc, chúng phải rút khỏi Gò Công. Chiếm đồn, xây
dựng thành trung tâm chông giặc quan trọng. Quy tụ các lực
lưựng ngăn giặc từ vùng Bến Nghé đến Hậu Giang, xây dựng công
sự chiến đấu trên các đường giao thông, quân sô" lên tới 10.800
người. Liên hệ với các lực lượng chông Pháp Đỗ Đình Thoại, tri
huyện An Dương Lâu, phủ Cận, thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, cử
nhân Phan Văn Đạt, Phan Văn Trị, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu,
thiên hộ Võ Duy Dương, Hồ Huân Nghiệp. Trong năm 1861, nhiều
vỊ chỉ huy chông giặc tử trận, bị bắt giết hay đem đi đày: Phan
Văn Đạt, Lê Cao Dũng, Trần Xuân Hoà. Sô" nghĩa quân của họ lại
quy tụ về với Trương Định. Lực lượng càng lốn mạnh thêm. Địa
486
bàn hoạt động của nghĩa quân Trương Định bao gồm các vùng Gò
Công, Tân An, Mỹ Tho, lan rộng tới cả Chợ Lốn, Sài Gòn, Đồng
Tháp Mười, hai bên nhánh sông Vàm cỏ từ biển Đông lên tận biên
giối Campuchia. Giặc không còn hung hăng tấn công và ngày 1 - 3
- 1862 rút nhiều vị trí chiếm đóng. Lần lượt các vùng Tân An, .Chợ
Gạo, Cái Bè, Gia Thạnh và Phước Lộc do nghĩa quân làm chủ. c ả
vùng đất Tiền Giang lên Chợ Lớn được giải phóng.
Triều đình hoà với Pháp. Trường Định được lệnh giải tán
toàn bộ phong trào chông giặc, thăng chức lãnh binh tĩnh An
Giang. Nhưng nghĩa quân không chịu giải tán, bàn nhau góp sức
giữ lấy một khoảng tròi để bảo toàn tụ họp, kháng mệnh lệnh
triều đình, chẳng nghe thiên tử chiếu, yêu cầu ông ỏ lại làm tổng
chỉ huy. Một đêm hè năm 1862, dân chúng cùng nghĩa quân tôn
Trương Định làm Bình Tây đại nguyên suý, Lê Quang Quyền
tham tán quân vụ, điều động tướng sĩ.
Đại bản doanh của nguyên suý đặt ở Gò Công, ớ vùng Hắc
Khẩu (Tân An) có đoàn quân của Phan Tuấn Phát, ở cần Đước có
quân Bùi Huy Diệu, ở Tân Thành có quân Nguyễn Văn Trung, án
ngự Gò Công. Trương Định chỉ đạo phong trào chông giặc rộng
lớn, từ Gò Công, Mỹ Tho, Tân An đến Chợ Lớn, Gia Định, Biên
Hoà, Bà Rịa, các nơi nương tựa, yểm hộ lẫn nhau, có lúc cùng một
lượt đánh giặc.
Phan Thanh Giản ba lần lệnh cho Trương Định theo chủ
trương của triều đình bãi binh, ông vẫn nhất quyết cầm quân
chông giặc, sẵn sàng tử chiến. Bonard cũng nhiều lần phái người
đến dụ ông hạ khí giới. Phan Thanh Giản làm môi giới, bốh lần
chuyển thư của Bonard, đều bị từ chối. Sau đích thân Tự Đức hạ
chiếu buộc ông giải giáp, đi làm lãnh binh Phú Yên, cũng vô hiệu.
Tháng 12 - 1862, Bonard huy động tàu chiến bao vây căn cứ
nghĩa quân, chuẩn bị mở cuộc hành quân tấn công lớn. Nhưng
ngày 16 - 12, Trương Định ra lệnh cho các đạo tông công kích các
vị trí chiếm đóng của giặc khắp ba tỉnh. Căn cứ Rạch Tra gần Sài
Gòn và các pháo thuyền giặc bị nghĩa quân đánh úp. Lính mã tà ở
Đông Môn bị đánh tan. Bốn năm ngàn người tụ tập quanh Chợ
Lớn và Cần Giuộc do Hàn Lâm Phu và Quản Là chỉ huy, chiếm
đóng vỊ trí Gò Đen, cắt đường giao thông đi Bến Lức, Biên Hoà.
Dân chúng đánh vào tỉnh thuyền và bao vây hầu hết đồn bốt.
Khắp ba tỉnh, nơi nào nghĩa quân cũng trấn áp. Bộ chỉ huy giặc
lúng túng, không sao ổn định nổi tình thế.
487
Mãi đến tháng 2-1863, khi đưỢc hàng ngàn quân cứu viện từ
hạm đội ở Thượng Hải kéo về và từ Phi Luật Tân qua, giặc mới có
thể chủ trương phản công để thoát khỏi tình thế bị áp đảo. Chúng
càn quét Biên Hoà, chiếm lại các tuyến giao thông Chợ Lớn, Bến
Lức. Bị thua lớn ở Quy Sơn, giặc huy động đánh Gô Công, chia
quân làm 3 đạo cùng tiến, chỉ huy bởi các tướng tá, có nhiều chiến
hạm yểm hộ, lại dùng 30 thuyền bọc sắt nhỏ đi theo. Lực lượng
còn lớn hơn cả khi đi đánh Định Tường, Biên Hoà. Ngày 25-2-
1863, giặc tấn công, nghĩa quân mãnh liệt cbống cự suốt ba ngày,
tướng Đặng Kim Chung và Lâm Bảo Đường tử trận. Nghĩa quân
các nơi nhất loạt tấn công các đồn Mai Sơn, Thuận Kiều, Tây
Thái, Phước Trung, Bình An và Long Thành... Ngày 26-2, thấy
thế không thể cô" thủ, Trương Định rút đại quân sang vùng Phước
Lộc, một sô" về Biên Hoà và một sô nữa vào các vùng đồng lầy rậm
rạp ở cửa sông Xoài Rạp để củng cô" tổ chức lại lực lượng, vẫn tiếp
tục thu lương trưng binh.
Tháng 9-1863, lực lượng Trương Định lại phục hồi, đóng ở
vùng Lý Nhân. La Grandière sang thay Bonard, huy động hai đạo
quân tạo thành hai gọng kìm từ Gò Công và c ầ n Giuộc đánh vào
Lý Nhân, chỉ bắt được vỢ ông và một sô" tuỳ tòng.
Trương Định rút quân về Tân Phước, ven sông Xoài Rạp, nơi
hai sông Vàm c ỏ chung nvíớc đổ ra biển, binh sĩ còn 1 vạn người,
chuẩn bị đánh lấy hạt Tân Hoà. Bấy giò, Lục Tỉnh đang bị nạn đói
đe doạ. Thực dân lợi dụng mua chuộc tay sai khá nhiều, tung ra
lùng bắt ông. Ngày 20 - 8 - 1864, quân giặc do tên đội Huỳnh Công
Tấn, trước là thủ hạ của ông, dắt đường bao vây ông và 25 tuỳ
tùng ở làng Tân Phước. Nghĩa quân đã chông trả dữ dội lực lượng
giặc đông gấp bội. Bị trúng đạn gẫy xương sô"ng, ông rút gươm tự
sát, hưởng linh 44 tuổi.
Trương Định là người có cơ trí, biết quyền nghi, hiệu lệnh
nghiêm minh, tưóng sĩ mến phuc. Người Pháp ví ông với Abd el
Kader, thủ lính nghĩa quân Á Rập chông Pháp.
Sau khi Trương Định chết, các đoàn nghĩa quân lại sáp nhập
vào căn cứ Đồng Tháp Mười do Võ Duy Dương chỉ đạo, một sô" theo
Trương Quyền, con ông về lập căn cứ Giao Loan và Tây Ninh.
CẢN CỨ KHÁNG CHIẾN ĐồNG THÁP MƯỜI - võ DUY DƯƠNG -
Dồng Tháp Mười là vùng đồng lầy quanh năm, làng xóm thưa thớt,
vị trí lại quan trọng, là trung tâm hiểm yếu, liên lạc với Châu Đốc,
Long Xuyên, Sa Đéc, Mỹ Tho, Tân An, Chợ Lớn, Tây Ninh và nước
488
Campuchia. Đường bộ rất ít, đường thuỷ nhiều, nhưng tàu lớn
không vào được. Đây là căn cứ kháng chiến rộng lớn.
Sau Trương Định, Võ Duy Tường tức thiên hộ Dương chỉ đạo
phong trào chông Pháp vùng Tiền Giang, lấy đây làm căn cứ.
Võ Duy Dương khởi lên chông Pháp từ khi chúng lấy thành
Mỹ Tho, sau quy tụ quanh bản doanh của Trương Định, xây dựng
các vị trí quân sự Mỹ Quý, Bình Cát, Thuộc Nhiêu, Cái Lậy, dựng
thành hệ thống đồn, yểm trỢ lẫn nhau. Đoàn nghĩa quân của thiên
hộ Dương đã giam chân giặc không đánh chiếm ra các huvện, các
làng xã thuộc Định Tường. Sau nhiều lần kịch chiến với giặc, cuối
năm 1863, thiên hộ Dương rút quân về Đồng Tháp, vẫn kiểm soát
các vùng quanh thu lương, trưng binh. Từ nơi hiểm trở này, nghĩa
quân thường phát binh đánh phá các vị trí giặc; Đồn Mỹ Trù
tháng 7-1863 chiếm lại Cái Nứa; tháng 3-1866, giành đất mấy lần.
Căn cứ Đồng Tháp Mười gần như bất khả xâm phạm.
Mãi đến tháng 4-1866, quân đội Pháp mới mở cuộc tấn công
lớn vào nơi này. Ba cánh quân giặc xuất phát từ sông Vàm cỏ Tây
đánh vào. Cánh thứ nhất chiếm đồn Sa Tiền nhưng bị tổn thất
khá nặng. Cánh thứ hai chiếm đồn Áp Lý, vào tới đồn điền thì bị
chặn đứng lại. Cánh thứ ba chiếm đồn Gò Bắc Chiêu, bị tổn thất
nặng, phải xin chiến thuyền đem quân cứu viện tới tấn công vào
đồn tả. Ngày 16-4-1866, diễn ra trận đánh quyết liệt. Hai tiểu đội
giặc bị giết và bị thương. Tới khi hộ chỉ huy giặc có tri huyện Chô
tiến vào đưỢc trung tâm Đồng Tháp Mười thì nghĩa quân đã rút đi
hết. Giặc không dám vào sâu hơn nữa, cũng không ở lại đóng đồn.
Thiên hộ Dương cùng nghĩa quân còn hoạt động trong đồng
lầy rậm rạp một thòi gian nữa, rồi mới từ trần.
Đồng Tháp Mười có địa hình địa vật thuận tiện cho cách lấy
ít đánh nhiều, lấy yếu chông mạnh, luôn luôn là nơi tụ họp của các
sĩ phu yêu nước và nghĩa quân chông Pháp.
CĂN CỨ GIAO LOAN TÂY NINH - TRƯƠNG QUYỀN - Ngoài Gò Công
và Đồng Tháp Mười, còn có căn cứ kháng chiến Giao Loan Tây
Ninh là đáng kể. Trương Quyền, con Trương Định sau khi cha
chết ngày 22-8-1864, chỉ đạo một đoàn quân đến p h ố i hỢp vối
Phan Chinh ở Giao Loan, giữa Bà Rịa và Bình Thuận, tiế p tục
kháng chiến chông Pháp. Nhưng Phan Chinh sau bị dụ dỗ ra hàng
Pháp. Khi Pháp chiếm Campuchia thì dân nước này do thân
vương Pu Com Bô chỉ đạo, tổ chức lực lượng chông đối. Khi Pháp
tấn công Pu Com Bô ở Tây Ninh, Trương Quyền tấn công Thuận
489
Kiều, Tràng Bảng để chia lực lượng của chúng. Sau khi phôi hỢp
chặt chẽ với Pu Com Bô, Trương Quyền xây dựng cán cứ kháng
chiến Tây Ninh, gây cho Pháp nhiều tổn thất. Pu Com Bô bị bắt
giết ngày 3-12-1867. Trương Quyền vẫn hoạt động khi ở Hậu
Giang, khi ở Tây Ninh. Không bao vây bắt được Trương Quyền,
giặc thuê người ám sát ông. Năm 1870, Trvíơng Quyền bị tay sai
giặc ám hại.
VIỆC VẬN ĐỘNG CHUỘC ĐẤT - Tự Đức bất đắc dĩ duyệt hoà ước
Nhâm Tuất nhường đất cho Pháp nhưng trong lòng vẫn muôn cô"
gắng chuộc lại, vì đất Gia Định là đất khai nghiệp của nhà
Nguyễn, Định Tường lại là quê quán của thái hậu Từ Dụ (bà
người Gò Công, xưa thuộc Định Tường), ba tỉnh miền tây còn lại
thì cách biệt với bờ cõi miền trung. Trong khi ấy thì bọn tư bản
thực dân quân phiệt Pháp đang muốn mở mang thêm, đánh chiếm
nôt miền tây Nam Kỳ, rồi Trung, Bắc Kỳ làm thuộc địa, đâu có
chịu trả lại đất cho ta. Tự Đức không hiểu sự thể này, cử sứ bộ
sang Pháp, danh nghĩa là đáp lễ vua Pháp, thực sự là vận động
xin chuộc lại ba tỉnh đã nhường. Sứ bộ gồm có hiệp biện đại học sĩ
Phan Thanh Giản làm chánh sứ, tham tri bộ lại Phạm Phú Thứ,
phó sứ, án sát Nguy Khắc Đản, bồi sứ, cùng Trương Vĩnh Ký, Tôn
Thọ Tường, cộng 12 vị, cùng 50 tuỳ tùng, đem phẩm vật sang
Pháp và Tây Ban Nha. Tháng 7-1863, sứ bộ xuông tàu Echo vào
Gia Định, rồi sang tàu Européen cùng với các quan Pháp và Tây
Ban Nha sang Tây. Tháng 11, phái đoàn Phan Thanh Giản tiếp
kiến Pháp hoàng Napoléon III, tâu bày mọi lẽ xin chuộc ba tỉnh
Nam Kỳ. Bấy giò quân đội Pháp vừa thất trận trong cuộc đi đánh
Mexique, lại có việc quân đội Phổ (Đức) mới được tổ chức lại rất
hùng mạnh, đang chuẩn bị chiến tranh lớn, mà bên nước ta thì
nhân dân các tỉnh bị chiếm vẫn chông đôl lại. Napoléon III có ý
muốn giữ thuận cho chuộc, chỉ giữ lại quần đảo Côn Lôn và quyền
đóng quân tại Sài Gòn và mấy cửa biển, ngỏ lời với phái đoàn ta,
tỏ vẻ rộng lượng, rồi cử trung tá hải quân Aubaret điều đình sửa
lại hoà ước đã ký trước, xoá bỏ khoản chi phí cho cuộc xâm láng
Giao Chỉ trong ngân sách năm 1864.
Phái đoàn Phan Thanh Giản đi sang Tây Ban Nha, rồi đến
cuối năm xuông tàu Japan về nước.

Khi phái đoàn Phan Thanh Giản vào triều kiến dâng quốc
thư, Pháp hoàng Napoléon III bèn phán; “Nước Pháp rộng lượng
490
với mọi quô’c gia và che chở các nước yếu kém. Nhưng những kẻ nào
cản trở bưốc tiến (của nó) thì phải sỢ hãi sự nghiềín n'gặt đó”.
Thật đúng là giọng kẻ cả của quân cướp!
Nguyên văn tiếng Pháp: "La P rance est bienveiliante pour
toutes ỉes nations et protectríce des faibles, m ais ceux qui
ưentraven t d a n s sa m a rch e ont à cra in d re sa sévérité".
Phái đoàn đã thất vọng quá sức. Nhưng về sau, Napoléon III
cũng hứa hẹn vài lời có độ lượng dễ dãi.
Tôn Thọ Tường và Trương Vĩnh Ký là người của chính quyền
Pháp ở Sài Gòn bấy giờ cử gia nhập vào phái đoàn.

Tháng 5-1864, Aubaret, sau khi công cán ở Xiêm La, tới Sài
Gòn, rồi tới Huế ngày 11-6-1864 điều đình về việc cho chuộc đất. Tự
Đức sai Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành và Phan Huy Vĩnh
thương nghị với sứ thần Pháp. Sau một tháng, Aubaret và Phan
Thanh Giản tiến hành điều đình trên cơ bản đề án mà Aubaret đã
trình lên Pháp hoàng. Hai bên ký bản tạm ước ngày 15-7-1864 gồm
21 điều khoản với nội dung chủ yếu: Nước Pháp trao trả ba tỉnh
Gia Định, Định Tường, Biên Hoà và đảo Côn Lôn cho triều đình Tự
Đức; người Pháp sẽ làm chủ Sài Gòn, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho và đất
phụ cận các nơi này và một sô" vị trí trên ba tỉnh nọ. Triều đình
thừa nhận sự bảo hộ của Pháp trên cả Lục Tỉnh.
Theo tạm ước này, Pháp được làm chủ một sô" địa điểm quan
trọng cả về kinh tê", chính trị và quân sự, vẫn không chế cả Lục
Tỉnh. Các quyền lợi về thương mại, truyền giáo vẫn giữ nguyên.
Ay thế mà lại được trả sô" tiền chuộc khá lớn.
Về phần triều đình, chỉ có danh nghĩa đã chuộc được đất
đai nhưng phải cam chịu nhiều điều khoản nặng nề hơn, tai
hại hơn trước.
Nhưng giới tư bản quân phiệt Pháp, đứng đầu là bộ trưởng
hải quân thuộc địa Chasseloup Laubat, đô đốc Rigault de
Genouilly, đô đô"c Bonard, đang trù tính chiếm nốt 3 tỉnh miền tây
không chịu, cực lực vận động chông lại nên Napoléon III quyết
định huỷ bỏ tạm ước Aubaret - Phan Thanh Giản.
Việc chuộc đất không thành. Tự Đức cử Phan Thanh Giản vào
làm khâm sai đại thần ở ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
THựC DÂN PHÁP XÂM Lược VƯƠNG QUỐC CAMPUCHIA - Trong
khi bọn tư bản thực dân Pháp dòm ngó nước ta thì đồng thòi
chúng cũng mưu toan chiếm đoạt nước Campuchia.
491
Năm 1859, vua Campuchia An Dương (Nặc Ong Tôn) mất.
Con trưởng Norodom (Nặc ông Lân) nôl ngôi. Qua năm 1861, bị
người em Si Vattha tranh, phải chạy sang Xiêm La. Năm 1862,
vua Xiêm La sai quân đưa Norodom về nước, đặt quan ở u Đông
bảo hộ. Dân Campuchia thường bị người Xiêm La áp bức.
Sau khi chiếm ba tỉnh miền đông Nam Kỳ của Việt Nam,
thực dân Pháp tính đến việc chiếm đoạt nước Campuchia, mưu sự
làm chủ lưu vực trù phú sông Mê Công. Tháng 9-1862, Bonard
đem chiến thuyền đi theo dòng sông Mê Công, ngược lên tận
Phnôm Pênh thăm vua Norodom. Tháng 5-1863, De la Grandière
đặt đội chiến thuyền lớn, cử Doudard de Lagré làm đại diện cho
Pháp ở Campuchia, chuẩn bị vũ trang xâm lược. Doudard de
Lagré đi khắp những vùng sung vếu xứ sở, do thám tình hình.
Đồng thòi với việc vũ trang xâm lược, giám mục Miche ở
Campuchia lợi dụng danh nghĩa tôn giáo khuyên Norodom công nhận
quyền bảo hộ của nước Pháp thì Xiêm La không còn dám bắt nạt. Lại
nói: Như thế, nước Pháp sẽ đòi Xiêm La trả lại cho Campuchia đất
miền tây đã nhượng cho Xiêm La. De la Grandière đích thân chỉ huy
chiến thuyền lên tận u Đông, hội đàm với Miche. Dưới áp lực quân sự
và chính trị của Pháp, quy ước giữa Pháp và Norodom ký ngày 11-8-
1863 tại Phnôm Pênh. Nước Pháp có quyền đặt đại diện tại
Campuchia. Mỗi khi có nưốc nào đặt lãnh sự ở Campuchia thì phái
được Pháp đồng ý. Pháp có quyền tự do thương mại, tự do mua tài
sản, đi lại, truyền giáo và điều tra khoa học, khai thác gỗ trong rừng
để đóng tàu, lập kho than và kho vật liệu cho tàu thuyền Pháp.
Thực dân Pháp đã xâm phạm nghiêm trọng quyền độc lập tự
chủ của Campuchia, chà đạp lên lợi ích của nhân dân Khơ Me.
Dân chúng kịch liệt phản đối. Thái độ ngang ngược của thực dân
Pháp ở u Đông cũng làm cho Norodom suy nghĩ lại. Nước Xiêm La
thấy dã tâm của Pháp nên tháng 12-1863 ký kết với Norodom hiệp
ước thủ tiêu quy ước nọ. Trong khi Norodom rời u Đông sang
Băng Côc làm lễ tấn tôn thì Doudard de Lagrée đem quân chiếm
đóng hoàng cung. De la Grandière lại phái chiến thuyền lên tiếp
ứng. Norodom trở lại kinh thành thì từ đó nhà vua, hoàng gia
cùng nhân dân Campuchia đã sa vào vòng thôhg trị của thực dân
Pháp. Xiêm La phải rút quân về nước nhường quyền cho Pháp.

Có người Pháp nói; Nếu không có sự đánh chiếm Nam Kỳ thì


khi nước Pháp bảo hộ nước Campuchia sẽ vì Campuchia đòi Việt
492
Nam trả lại cho Campuchia toàn xứ Nam Kỳ lục tỉnh (Thuỷ Chân
Lạp), như đã đòi được nước Xiêm La trả lại cho nưốc ấy ba tỉnh
miền tây đã nhường trước kia.

A SOA - NGUYỄN HỮU HUÂN LẬP CẢN c ứ CHỐNG PHÁP ở THẤT


SƠN (1864 - 1866) - Thực dân Pháp đặt nền đô hộ trên đất
Campuchia. Hoàng thân A Soa lánh sang nước ta, ở vùng Thất
Sơn (Châu Đốc) cùng những người Khơ Me yêu nước, lập căn cứ
chông Pháp. Người Việt có Nguyễn Hữu Huân (thủ khoa Huân)
từng chỉ đạo chông Pháp ở Đồng Tháp, chức đề đôh, cộng tác với A
Soa, xây dựng cán cứ Thất Sơn, toả rộng ra cả vùng Châu Đốc - Ta
Keo, dọc biên giới Việt Nam - Campuchia. Chính quyền Pháp ở
Sài Gòn yêu cầu triều đình Huê bắt giữ Nguyễn Hữu Huân giao
cho chúng. Ong bị bắt ở Châu Đốc. (Sau ông lại còn chôAg đối
Pháp nữa, việc sẽ nói ở sau). A Soa đưỢc nhân dân ba tỉnh miền
tây Nam Kỳ hết sức ủng hộ. Trong đoàn quân của ông, có rất
nhiều người Việt tham gia. Nhiều lần quân đội Pháp ở Sài Gòn,
Doudard và triều đình u Đông tiến vào căn cứ lùng bắt hoàng
thân, nhưng chúng thất bại.
Sang năm 1864, nghĩa quân Khơ Me làm chủ khắp vùng
đông nam vương quôc, nhất là ở tỉnh Pak Nhum. Thực dân Pháp
mua chuộc dụ dỗ tay sai ám hại A Soa. ông bị kẻ phản bội vô"n là
bộ hạ cũ bắn bị thương, giải về Sài Gòn. Lực lượng của ông lại quy
tụ dưới sự chỉ huy thông nhất của thân vương Pu Com Bô.
PU COM BÔ, TRUƠNG q u y ề n l iê n m in h c h ố n g p h á p (1866 - 1868)
- Thân vương Pu Com Bô xưa do cuộc tranh quyền ở triều đình u
Đông, phải đi lánh nạn 17 năm ở hạ Lào. Khi nghe tin quân Pháp
xâm lược, thân vương phẫn uất. Tháng 4-1865, một sô" nhà yêu
nước cùng chí hướng giành lại độc lập tự chủ cho nước liên lạc với
thân vương, coi ông là minh chủ, gương cao ngọn cờ chông Pháp.
Tháng 5-1866, Pu Com Bô liên lac với Trương Quyền và lực lượng
chông Pháp còn lại của thiên hộ Dương, xây dựng cán cứ Tây Ninh
và Giao Loan. Liên minh chiến đấu chông kẻ thù chung giữa nhân
dân hai nước, hình thành chiến trường khởi nghĩa rộng lớn bao
gồm các tỉnh, từ Sài Gòn, Gia Định lên tới kinh đô u Đông, từ
vịnh Xiêm La đến biên giới Campuchia. Từ ngày 5 đến 7 tháng 6-
1866, nghĩa quân mở cuộc tấn công vào thành Tây Ninh. Tên tỉnh
trưởng và một sĩ quan Pháp bị giết tại trận. Đêm 23 rạng 24
tháng 6, quân Việt cùng lúc tấn công các vị trí quanh Sài Gòn;
493
Thuận Kiều, Tràng Bảng, đồng thòi đánh thẳng vào căn cứ đóng
quân của giặc ở chung quanh Chợ Lớn, trong khi giặc tập trung
lực lượng lên Tây Ninh. Khắp vùng Tây Ninh diễn ra nhiều trận
giáp chiến lớn.
Được tàn quân của A Soa và Nguyễn Hữu Huân kéo về hỢp
nhất trung tâm hoạt động của Pu Com Bô rồi khỏi Tây Ninh về
cắm sâu trong nội địa Campuchia. Tình đoàn kết nhân dân hai
nước thêm gắn bó. Lực lượng của Võ Duy Dương từng vận tải
lương thực, khí giới từ ven Tiền Giang lên Tây Ninh cung cấp cho
quân Pu Com Bô, nhân dân vùng kháng chiến Đồng Tháp Mười,
các tỉnh An Giang, Hà Tiên lại trực tiếp trỢ lực với Pu Com Bô.
Trên đường di chuyển về nước, đánh tan đoàn quân của triều
đình được Pháp vũ trang, nghĩa quân tiến về hướng Phnôm Pênh ư
Đông, xây dựng căn cứ Pak Nam, được dân chúng yêu nước yếm hộ,
nhiều người theo về, trong đó có cả binh sĩ trước theo triều đình.
Thanh thế Pu Com Bô rất lớn, chiếm những làng quan trọng, thu
lương, tuyển binh. Nghĩa quân vây đánh u Đông và Phnôm Pênh.
Giặc phải sai Brière de risle lên đôi phó, huy động lực lượng lớn, phốĩ
hỢp với tàu chiến yểm hộ, mới giải vây được hai nơi này.
Đầu năm 1867, nghĩa quân Pu Com Bô lại xuất hiện ở vùng hai
sông Vàm cỏ, từ Xoài Riêng đến Tràng Bảng, quét sạch hệ thống mã
tà của phủ Sóc. Chiến thuyền giặc phải ngày đêm tuần hành để
ngăn cản liên quân Việt - Campuchia lọt vào tĩnh Gia Định.
Tháng 6-1867, quân Pháp chiếm ba tỉnh miền tây Nam Kỳ,
chúng vũ trang cho phái Krakeopha, em Norodom, liên tiếp tấn
công vào vùng giữa hai sông Vàm cỏ, buộc nghĩa quân phải rút về
Tây Ninh, rồi về phía Stung Treng và Xam Bốc gần biên giới Lào.
Ngày 28-7-1867, căn cứ Suôi Giây bị giặc phá, nghĩa quân người
Việt rút lui từng toán nhỏ về xa dưới vùng Hậu Giang. Tháng 11-
1867, Pu Com Bô hạ lệnh vượt quan bên kia sông Mê Công, đánh
vào Kong Pong Soai (nay là tỉnh Kom Pong Thom) phía bắc Biển
Hồ. Ngày 3-12-1867, sau trận kịch chiến, Pu Com Bô bị trọng
thương và bị bắt chặt đầu đem về bêu ở Phnôm Pênh. Thân vương
Pu Com Bô là nhà yêu nước vĩ đại của dân tộc Khơ Me.
QUÂN PHÁP CHIẾM BA TỈNH MlỀN TÂY NAM KỲ - Quân đội thuỷ
sư Pháp chiếm ba tỉnh miền đông Nam Kỳ sau hoà ước 1862, đánh
dẹp mọi nơi, xếp đặt việc cai trị. Giặc lấy đất, nhiều yêu nước khắp
nơi nổi dậy chông đôl quân cướp nhưng cũng có những phần tử
cặn bã theo quân thù chông đôl lại đồng bào. Nhờ có được khí giới
494
tân tiến, nhất là nhò được lũ mã tà chỉ bảo, dẫn đường, giúp sức,
quân xâm lăng dần dà ổn định được tình thế. Đồng thòi, chúng tổ
chức chính quyền cai trị, trung tướng De la Grandière kiêm luôn
chức thống đốc igouverneur), cử sĩ quan hải quân làm tỉnh trưởng,
dùng người bản xứ hỢp tác với chúng giữ chức phủ, huyện (sau
chúng chia nhỏ các tỉnh, bỏ phủ huyện, lấy tổng thuộc thẳng tỉnh).
Hạ tầng, có tông xã, dùng người địa phương. Chúng quỷ quyệt
dành chút quyền lợi cho các chức dịch tổng, xã, khiến bọn này dễ
dàng trung thành với chúng mà xa đồng bào. Thuế khoá định ra
được bọn này thu góp cho chúng. Thực dân còn mở trường học dạy
chữ Pháp và chữ quốc ngữ mẫu tự La tinh.

Thòi xưa, thực dân Pháp thường kể lể những công nghiệp to


lốn chúng đã khai hoá dân ta, thực sự chẳng có gì mấy. Công bằng,
khách quan mà nói, phải thừa nhận sự chúng đem phổ biến chữ
quôc ngữ mẫu tự La tinh rất đáng kể, có lợi nhiều cho ta, dù cũng
có lợi cả cho chúng.
Người nưốc ta thòi xa xưa có tiếng nói riêng nhưng không có
chữ viết riêng. Học hành, văn chương, án từ, mọi việc đều dùng chữ
Hán. Sau người nước nhân chữ Hán đặt ra chữ Nôm để ghi âm tiếng
ta. Thứ chữ này bất tiện, phải biết chữ Hán mối đọc được, viết được
chữ Nôm. Trong việc truyền bá đạo Gia Tô sang nưâc ta, các giáo sĩ
người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Ý Đại Lợi, có thể cả người Pháp,
mưỢn mẫu tự La tinh, ghép vần, đặt ra thứ chữ quốc ngữ như ngày
nay, đê tiện giảng dạy. Nhò đó người nước ta có được lối chữ viết riêng
rất thuận tiện. Chỉ cần học vài ba tháng đã đọc, viết được rồi. Đọc, viết
được chữ Nôm đòi hỏi phải học hàng 5, 7, 10 năm. Vua Quang Trung
xưa muôb dùng tiếng ta trong giấy tờ việc công, tư, cũng như trong
việc thi cử, vì không biết đến thứ chữ mới này nên chỉ dùng chữ Nôm.
Sau, Nguyễn Trường Tộ xin vua Tự Đức mở nhiều trường dạy chữ
quốc ngữ La tinh, phổ biến tiếng nói trong dân chúng nhung bọn hủ
nho chỉ biết trọng chữ Hán, vuông vắn, đẹp đẽ, là thứ chữ của thánh
hiền. Còn chữ quốc ngữ La tinh kéo dây lằng nhằng như xích chó, là
sáng tạo của quỷ dữ, chứ của người theo tả đạo, của người ngoại dương
thù địch với dân ta, ương ngạnh không thuận (!). Đến thời thuộc Pháp,
thứ chữ này mới được phổ biến rộng rãi.

Sau khi chiếm Campuchia và tạm ổn định ba tỉnh miền đông


Nam Kỳ, thực dân Pháp tính đến việc đánh chiếm nô"t ba tỉnh
495
miền tây, làm chủ toàn bộ lưu vực trù phú sông Mê Công. Bộ
trưởng hải quân thuộc địa Pháp Chasseloup Laubat đồng ý với
trung tướng hải quân thông đốíc De la Grandière, cùng bè lũ tư
bản thực dân ở Pháp cũng như ở Sài Gòn, nhất trí đánh chiếm ba
tỉnh Vĩnh, An, Hà. Riêng Napoléon III ngần ngại do e sỢ quân đội
nước Phổ (Đức) hùng mạnh, đang lăm le muôA gây chiến, chưa
muôn mở mang thuộc địa ngay. De la Grandière trình bày việc sẽ
thành công dễ dàng, chỉ với quân đội ở Nam Kỳ, không cần chính
quốc cấp thêm binh thuyền, khí giới, lương thực.
Tháng 10-1866, De la Grandière phái Vial ra Huê đòi triều
đình để cho Pháp cai trị tất cả ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà
Tiên. Được vậy, Pháp đình chỉ hết mọi khoản bổi thường chiến phí
và sẽ giúp triều đình trừ hết mọi đám giặc (bấy giờ Bắc Kỳ loạn
lạc lớn với giặc ta, giặc khách). Tự Đức chỉ biết ra lệnh cho Phan
Thanh Giản liệu cách nói phải trái thương thuyết cho Pháp đừng
đánh. Tháng 2-1867, Monet de Lamarque đem chiến thuyền ra
Huế thị uy, đòi chiến phí trả chậm, đòi luôn quyền làm chủ ba
tỉnh nọ. Tự Đức giao việc cho Phan Thanh Giản tự liệu. Chỉ
thương thuyết thì làm sao lay chuyển được lòng tham vô độ của
quân cướp tàn bạo bỏ dục vọng chiếm đoạt đất nước người.
0 Pháp, Rigault de Genouilly lên làm bộ trưởng hải quân
kiêm thuộc địa, ra sức tán thành việc mở rộng thuộc địa, giục Suý
phủ Sài Gòn khởi sự.
De la Grandière lập kê hoạch đánh chiếm nổt ba tỉnh miền
tây, viện cớ người miền tây giúp đỡ nhiều quân nổi dậy ỏ miền
đông chông Pháp, lại còn ra sức giúp cả bọn Pu Com Bô làm loạn ở
Campuchia. Ngày 18-6-1867, quân Pháp gồm 1.200 tên vả 400 mã
tà và bọn cai trị người Việt tập hỢp ở Mỹ Tho. Ngày 19, De la
Grandière chỉ huy 16 tàu chiến tới nơi. Ngay đêm hôm ấy dàn
trận. Sáng 21, tới trước thành Vĩnh Long, cho quân đổ bộ, đưa thư
đòi Phan Thanh Giản nộp thành. Phan chịu, chỉ xin đừng quẫy
nhiễu dân chúng và để kho tàng tiền bạc cho ông tạm quản lý lấy
trả chiến phí. De la Grandière thuận nhưng cho bộ binh chia làm
4 mặt đánh úp vào thành, chia quân chiếm đóng. Tướng Pháp lại
yêu cầu Phan viết thư khuyên quan quân triều đình hai tỉnh An
Giang và Hà Tiên hạ khí giới. Ngày 21, quân Pháp lấy thành An
Giang, ngày 24, chúng lấy thành Hà Tiên. Thế là chỉ trong mấy
ngày, thực dân Pháp chiếm đóng ba tỉnh, không mất một viên
đạn. Bộ máy thông trị được tổ chức ngay theo kế hoạch đã định
496
sẵn. Cô" đạo Legrand được bộ chỉ huy phái về Huế báo tin Pháp đã
làm chủ toàn bộ Lục Tỉnh. Tự Đức và triều thần không có phản
ứng gì, chỉ xin lại vũ khí, đạn dưỢc của ba tỉnh thành và xin trả
lại Biên Hoà. Thực dân chỉ chấp thuận khoản trên.
Ngày 3-7-1867, Phan Thanh Giản uống thuốc phiện dấm
thanh mà chết, ông người Nam Kỳ, thi đậu tiến sĩ, làm quan
thanh liêm, trung thành cúc cung tận tuy thò ba triều vua, chẳng
may gặp phải khi nước nhà có biến, biết thế mình không làm được
gì, đem lòng son sắt báo đền ơn nước cho hết bổn phận người làm
tôi. Ông thọ 74 tuổi.
Giặc chiếm thêm đất, mở rộng thuộc địa, lập bộ máy cai trị
ngay. Chúng bắt tất cả các quan lại của triều đình tại ba tỉnh
Vĩnh, An, Hà, cho đưa về Huế, thay thế bằng người của chúng đã
dự bị sẵn. Nguyên từ trước, chúng đã chiêu mộ nguy binh - mã tà -
càng ngày càng nhiều, khoảng 4.000 người, bổ sung vào đoàn
quân viễn chinh. Lũ thực dân quỷ quyệt tạo ra những người có
quyền lợi gắn bó với chúng, lại dựa vào chúng làm hại đồng bào.
Bọn bán nước Trần Tử Cao, đốic phủ Lộc, Huỳnh Văn Tấn, Đỗ Hữu
Phương, Tôn Thọ Tường... ra hỢp tác với chúng, mưu đồ phú quý.
Đất Nam Kỳ biến thành đất thuộc Pháp, người Nam Kỳ trở
thành dân của nước Pháp (sujet tranẹais), thuế má, luật lệ, điều gì
cũng do chính quyền Pháp ở Sài Gòn (ta xưa quen gọi là Suý phủ)
quyết định.
NHÂN DÂN BA TỈNH MlỀN TÂY NAM KỲ TIẾP TỤC KHÁNG CHIẾN -
Bọn sĩ quan thực dân, đày tớ của tư bản Pháp chiếm đoạt đất nước
ta ngày một thêm nhiều. Quan quân triều đình, thế yếu kém,
không chống cự lại chúng. Nhưng nhân dân ta khắp ba tỉnh Vĩnh,
An, Hà (ngoài những đứa tiểu nhân vô sỉ chạy ra hỢp tác với quân
thù kiếm miếng cơm thừa canh cặn) nặng lòng yêu nước đều
không phục. Có nhiều sĩ phu không chịu ở lại với giặc, tị địa ra
Bình Thuận bằng đường thuỷ mang theo hài cô"t ông cha, cũng
như nhiều sĩ phu miền đông năm trước. Những người ở lại tham
gia phong trào nhân dân nổi dậy chông Pháp ở khắp mọi nơi, mặc
dầu đến thời bấy giờ gặp nhiều khó khăn do giặc đã sớm thiết lập
đưỢc nền đô hộ thống trị. Họ táo bạo dùng vũ khí đơn sơ, lạc hậu,
chông chọi lại với súng đạn và chiến thuyền tân tiến ngay từ khi
chúng vừa mới lấn chiếm thêm đất đai.
PHONG TRÀO KHỞI NGHĨA ở CÁC VỪNG DỌC THEO Lưu vực
SÔNG MÊ CÔNG - Giặc vừa chiếm đóng Vĩnh, An, Hà thì lập tức
497
xuất hiện ở khắp các tỉnh dọc theo lưu vực sông Mê Công ngày
nay, từ Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sóc Trăng, đến Châu Đổíc,
có những tô chức chông Pháp. Quân sô" các đoàn có tới 4 vạn người.
Anh em Phan Tôn, Phan Liêm, con Phan Thanh Giản, được nhân
dân mòi ra cầm đầu phong trào.
Cuộc khởi nghĩa đầu tiên nổ ra đầu tháng 6-1867 ở cù lao
Minh Bến Tre, các quận Mỏ Cày, Thạnh Phú.
ơ Sóc Trăng, ngày 5-8-1867, một ngàn nghĩa quân do
Chương chỉ đạo tập trung ở Duy Hoà, đánh bại quân của
Berthelot Vilin cai trị tỉnh, gây nhiều thiệt hại, rồi rút vào rừng.
0 Trà Vinh, ngày 26-8, quân khởi nghĩa đánh bại và truy
kích giặc do Dulieu chỉ huy. Vial dùng thuyền chở lính Pháp và
mã tà đi càn quét. Ngày 2-9, giặc được tiếp viện đem pháo thuyền
vào rạch cầu Ngang, lại bị nhân dân ở đây cùng nghĩa quân vây
đánh trong hai giò.
Mùa thu nám 1867 có lụt lớn, không nơi nào tàu giặc không
đi tới được. Nhưng phong trào khởi nghĩa vẫn tiếp tục. Hầu hết
vùng lưu vực sông Mê Công đều do nghĩa quân làm chủ. Lực lượng
chính đóng trong Hương Điềm gần Bến Tre. Một đoàn đóng ở rạch
Trà Ôn thuộc Vĩnh Long, ven sông Bassac.
Tháng 11-1867, giặc tập trung lực lượng đánh vào Hương
Điềm. Trong đêm mưa bão, nghĩa quân tấn công dữ dội, đâm tên
chỉ huy Champeaux trọng thương. Bên giặc được Vial đem quân
từ các nơi đến ứng cứu. Trận đánh kịch liệt diễn ra. Giặc tiến được
tới Hương Điềm tàn sát, đốt phá nhưng nghĩa quân đã rút khỏi.
Ngay đêm trở lại tấn công và sáng hôm sau, chiến trận lại tiếp
diễn ác liệt.
Quân Pháp dùng pháo thuyền truy lùng nghĩa quân đến An
Thới đổ bộ, đóng quân trên giồng cát gần làng Ba Trì. Đêm 15
rạng 16-11, nghĩa quân ập tới, tấn công hết đợt này đến đợt khác.
Giữa hai đợt, dùng loa kêu gọi mã tà bỏ hàng ngũ giặc. Nghĩa
quân tiến sát giặc, tấn công bằng giáo mác. Trận Ba Trì là trận
cận chiến lớn nhất từ trước đến đó. Chính Vial, sĩ quan Pháp có
mặt trong trận nàv, thừa nhận rằng: Quân (khởi nghĩa) đã cầm
giáo, cầm gậy đến chụp lấy lưỡi lê. Không thể phủ nhận sự ca đảm
phi thường của những người cận chiến, không sỢ chêt, chông lại
binh lính thiện chiến có vũ khí đáng sỢ.
Sáng 16-11, quân Pháp phản công chiếm Ba Trì, Bảo Thạnh.
Nghĩa quân phải rút khỏi, đi xa.
498

1
Cuối tháng 11, nghĩa quân lại tập trung hoạt động khắp
vùng Hậu Giang, từ Cần Thơ, Thốt Nôt đến Châu Đốc. Giặc phải
dùng nhiều thuyền máy cho quân chạy dọc các con rạch để bắn
phá mới giữ nổi Châu Đổic. Bộ binh giặc đánh chiếm vùng Thất
Sơn, hành binh liên miên, bắt giết và đưa đi đày ra Côn Đảo rất
nhiều người yêu nước.
Đê chông lại các lực lượng khỏi nghĩa, người Pháp chia Nam
Kỳ ra làm 28 tỉnh, mỗi tỉnh do sĩ quan Pháp làm chủ với đội quân
lưu động, chia nhau đóng giữ rất nhiều đồn bốt. Thế nhưng tháng
3-1868, cuộc khởi nghĩa khác nổ ra ở Trà Vinh, Sóc Trăng. Ngày 1-
5-1868, Thái Văn Nhíp tức Quản Chân chỉ huy lực lượng nghĩa
quân tấn công thành Mỹ Tho. Tôi đến, nghĩa quân trèo thành lọt
vào đánh úp, giết được một sổ" quân giặc. Chúng chông trả mạnh.
Đến gần sáng, nghĩa quân phải rút. Sau đó, Quản Chân đưa lực
lượng rút về Hậu Giang phối hỢp với Nguyễn Trung Trực.
Phan Tôn, Phan Liêm sau ra Huế, rồi Hà Nội theo Nguyễn
Tri Phương.
CUỘC KHỞI NGHĨA NGUYÊN TRUNG TRựC - Nguyễn Trung Trực,
trước có tên là Nguyễn Văn Lịch, người Tân An, làm ruộng và chài
lưới, đã lập nhiều công lớn. ông là người chỉ huy trận đốt cháy tàu
Espérance trên sông Nhật Tảo năm 1861, đưỢc phong chức thành
thủ uý, trấn nhậm vùng Hà Tiên. Giặc chiếm miền tây Nam Kỳ,
triều đình cử ông làm lãnh binh Phú Yên. ồng ở lại cùng dân Hà
Tiên lập căn cứ ở Hòn Chông, dọc theo ven biển từ Hà Tiên đến
phần cực nam, kê cả đảo Phú Quốc. Lực lượng khởi nghĩa bao gồm
nhiều nông dân và dân chài lưới.
Sau khi chiếm đóng Hà Tiên, quân Pháp lập vị trí quân sự
kiêm cai trị đồn Rạch Giá, còn gọi là đồn Kiên Giang. Nguyễn
Trung Trực tìm cách vận động lính nguy quay về với chính nghĩa.
Chủ tỉnh bắt được một người cộng tác với nghĩa quân, ông nhận
định rằng nếu không chủ động tấn công trước thì giặc có thể phá
vỡ hệ thống nội ứng ở ngay đồn và chúng sẽ đánh vào Hòn Chông
nữa, bèn lập kế hoạch đánh chiếm lại đồn Rạch Giá bằng lốì đánh
cận chiến mà nghĩa quân vốh sở trường. Trung Trực bí mật kéo
quân về Rạch Giá. Trong tay quân khởi nghĩa chỉ có giáo mác. 4
giờ sáng ngày 16-6-1868, hai lính đồn bị giết, lập tức nghĩa quân
vượt tường xông vào cận chiến. Chủ tỉnh và đồn trưởng và hầu hết
quân giặc đều bị giết ngay tại chỗ bằng giáo mác. Nghĩa quân
hoàn toàn làm chủ tỉnh lỵ Rạch Giá từ sáng ngày 16-6-1868.
499
Quân Pháp ở Vĩnh Long hay tin, huy động toàn bộ lực lượng
trong vùng đế đánh lấy lại. Sau mấy lần giáp chiến trên đường
hành quân và sau một trận hỗn chiến quanh đồn, tới ngày 21-6,
quân giặc lấy lại đồn Rạch Giá. Trung Trực rút quân về Hòn
Chông. Giặc từ Châu Đổíc càn quét vùng Hà Tiên, rồi đánh thẳng
vào Hòn Chông. Quân Trung Trực đã rút ra đảo Phú Quốc với 40
chiến thuyền.
Tháng 9-1868, chiến thuyền Groenland chở một đội lính
Pháp do Boucher Rivière chỉ huy và 125 mã tà do tên quản Huỳnh
Công Tấn cầm đầu ra Phú Quốc đánh quân của Trung Trực.
Nghĩa quân đóng ở làng Hàm Ninh. Quản Tấn dụ dỗ và đe doạ kỳ
hào làng này, chúng phản bội bắt nộp giặc một sô" nghĩa quân và
chỉ đường cho giặc tấn công. Sau hai trận huyết chiến, giặc bắt
được hết quân khởi nghĩa, kể cả Nguyễn Trung Trực. Chúng đưa
ông về Sài Gòn. Thôhg đô"c Nam Kỳ nhiều lần thân hành gặp ông,
dụ dỗ đầu hàng. Ong không chịu. Ngày 17-10-1868, giặc đem ông
ra xử tử tại Rạch Giá. Ra đến pháp trường, Nguyễn Trung Trực đã
tuyên bô" quyết tâm chông giặc ngoại xâm của nhân dân ta: “Bao
giò hết cỏ Tháp Mười thì mới hết ngưòi đánh Tây”.
CUỘC KHỞI NGHĨA LONG TRÌ - NGUYÊN HỮU HUÂN - Từ năm
1872, điều kiện càng ngày càng khó khăn, ở Lục Tỉnh vẫn còn nổ
ra mấy cuộc khởi nghĩa mới, nổi bật là cuộc khởi nghĩa Long Trì
(Mỹ Tho) do Nguyễn Hữu Huân lãnh đạo.
Nguyễn Hữu Huân từng tham dự phong trào chông Pháp ở 3
tỉnh miền đông từ 1862 đến 1864, bị giặc bắt. Chúng biết dân ta
tôn trọng các nhà khoa mặc nên không giết ông. Dụ dỗ theo hàng
không được, chúng đem đày ông ra đảo Réunion. Năm 1868 tha
về, giao đô"c phủ Đỗ Hữu Phương quản chê". Phương mở trường chữ
Hán khiến ông dạy học. ông vẫn mưu đồ chông Pháp, liên lạc với
những người yêu nước gây lực lượng có tới 3.000 người, ông trốn
sang Mỹ Tho, dựng cờ khởi nghĩa, lập bản doanh ở Long Trì. Nhân
dân Mỹ Tho và Tân An ứng nghĩa rất đông, hoạt động mạnh.
Thực dân huy động lực lượng lớn đàn áp, sai đốc phủ Trần Bá
Lộc từ Vĩnh Long sang Mỹ Tho, hỢp quân Pháp tiêu diệt nghĩa quân
Long Trì. Chúng chia nhiều ngã vây đánh. Trong một trận giáp
chiến, giặc bao vây rất ngặt đội quân do đích thân Nguyễn Hữu
Huân chỉ huy. Sau nửa tháng vây đánh, chúng lùng bắt được hầu
hết những người chỉ huy. Nguyễn Hữu Huân cũng bị bắt ở Chợ Gạo.
Ồng bị giặc xử tử ở chợ Bến Tranh ngày 15-5 âl năm 1875.
500
Cho đến năm 1880, ỏ Lục Tỉnh vẫn còn những cuộc nổi dậy
khác nhưng không lớn lắm. Triều đình Huế thì không chống đốì gì.
Sau trận thua ở Đại Đồn Kỳ Hoà, quân đội triều đình, dù còn
đông, không từng đánh nhau với Tây nữa, không những không hề
mở thế công diệt giặc, mà mỗi khi bị đánh, cũng không hề chôhg
trả lại, chỉ rút lui hay quy hàng. Nhiều người cho thê là hèn nhát,
nhiều người khác lại cho thế là phải, vì yếu kém, đánh lại tất bị
thua, có ích gì? Tưỏng dù biết chắc là thua cũng phải đánh trả lại, vì
danh dự nhà binh, nhất là đế treo gương anh dũng cho con em ngày
sau noi theo chông giặc. Nếu lần nào giặc đến cũng không đánh lại,
tự cho mình là yếu kém thì con em sau yên trí mình hèn kém, đâu
còn dám quật cường nổi dậy chôhg đối giặc mạnh được nữa.
Nhưng nhân dân ta còn có lắm anh hùng yêu nước táo bạo
khởi nghĩa đánh giặc, tuy không thành công ngay nhưng còn có
được tiếng thơm để lại đời sau và con em sau này noi gương sáng
lo toan sự phục quốc.
Giặc đã thắng vì có khí giới tân tiến nhưng phần lớn lại là do
có được lũ người mình bán nước theo giúp. Không có người bản xứ
hỢp tác thì giặc dù có tài giỏi và hùng mạnh cho mấy, cũng rất khó
lòng thắng nối được nghĩa quân, nhất là không sao lập nên nổi bộ
máy thông trị dân ta.

QUÂN PHÁP ĐÁNH LÂY BẮC KỲ LAN THỨNHÂT


QUÂN PHÁP SỬA SOẠN BĂC TIẾN - Chiếm đoạt đưỢc toàn thể các
tỉnh Nam Kỳ, quân đội Pháp ở Sài Gòn liền tổ chức chính quyền thực
dân, chia nhỏ các tỉnh, đặt sĩ quan cai trị, bỏ cấp phủ, huyện; sai phó
tổng trực thuộc tỉnh. Dưới tổng là hương, có ban kỳ hào quản trị.
Chúng lo đánh dẹp các lực lượng nổi dậy chống đối, gọi là xây dựng
nền trị an. Thực dân độc quyền việc buôn bán, mở rộng cảng Sài Gòn.
Chúng thu các thứ thuê cũ, lại đặt ra thêm nhiều thứ thuế mới. Dân
chúng phải đóng góp nặng nề. Điều tệ hại nhất là chúng trắng trỢn
cướp nhiều ruộng đất: những ruộng đất nào không có người nhận nộp
thuế mà phần nhiều là tài sản của các người bỏ đi “tị địa”, chúng tịch
thu rồi đem bán rẻ cho những người Pháp hay Việt gian cộng tác với
chúng, tạo nên nhiều đại địa chủ và giảm bớt sô" nông dân tự do.
Ngay từ nám 1866, đoàn thăm dò sông Mê Công do Đouđard
de Lagrée và đại uý Prancis Garnier cầm đầu, ngược dòng sông đi
lên Vân Nam, nhận thấy con sông này có nhiều ghềnh thác, không
thuận tiện cho tàu bè lớn đi lại.
501
Có sách của ngưòi Pháp nói đại ý rằng; Sau khi làm chủ được
vùng hạ lưu sông Mê Công (xứ Nam Kỳ và nước Campuchia), người
Pháp đã tưởng có thế dùng con sông lớn này mỏ đường từ bò biển ngược
lên Côn Minh, thủ phủ Vân Nam, giao lưu hàng hoá với miền tây nam
Trung Quốc và xứ Tây Tạng, gồm hàng vài chục triệu dân. Nhiing sông
Mê Công lại không thuận tiện cho tàu lớn đi lại. Lại nhận xét thấy có
sông Hồng qua Bắc Kỳ thuận tiện nên mới tính đến sự khai thông con
sông này. (Y muôn nói là sông Mê Công không thuận lợi, nên mối tính
đến sự đánh chiếm Bắc Kỳ, để tiện sự giao dịch buôn bán vối Vân Nam).
Đây là lời thực dân muốn che đậy bốt tham vọng vô độ của chúng.

Thực sự thì một khi tình trạng tại Lục Tỉnh đã tạm ổn định,
bè lũ thực dân toan tính ngay đến sự mở rộng thêm thuộc địa,
đánh chiếm Bắc, Trung Kỳ, tiếp tục thi hành chương trình đã sốm
định từ trước “đánh chiếm từng gói nhỏ”, đâu có chịu dừng lại ở
miền nam mà thôi. Ví phỏng sông Mê Công thuận tiện thì bọn “ăn
cướp” cũng không tha miền bắc nước ta.
Năm 1870, nước Pháp bị quân đội Phổ (Đức) đánh thua to, phải
nhường đất Alsace và Lorraine. Tự Đức gửi thư cho Suý phủ Sài Gòn
chia buồn việc nước Pháp lâm nguy, Pháp hoàng bị phế, đồng thòi
nhắc lại việc xin trả đất. Đô đốc chỉ đáp tạ lời hỏi thăm. Triều đình
ta không hành động đòi đất gì. Quân đội Pháp vẫn nắm giữ vững
Lục Tỉnh và Campuchia. Lúc ấy, hệ thống tư bản Pháp đang lao đao
bới chiến tranh Pháp - Phổ và công xã Paris, chính quyền đệ tam
Cộng hoà De Thiers cầm đầu đang lung lay. Tình thế chưa ổn định
về đốì nội và đốì ngoại nên chúng không mơ tưởng gì đến việc mở
mang thuộc địa. Nhưng bè lũ thực dân ỏ Sài Gòn, thấy rõ quân đội
ta yếu kém, vẫn cứ tiếp tục sửa soạn chiến tranh xâm lược mới.
Bấy giờ triều đình chỉ lo toan việc bình định loạn lạc ỏ Bắc
Kỳ, vẫn còn dùng những khí giới cổ lỗ, không được cải tiến gì. Đã
mất Nam Kỳ rồi mà vua tôi vẫn chưa mở mắt cho người châu Ảu
vào lập cơ sở buôn bán. Tàu Anh đến Quy Nhơn xin thông thương,
bị bỏ qua. Năm 1870, sứ giả Tây Ban Nha đến kinh đô, trình quốc
thư xin thông thương, không được trả lời. Năm 1872, lãnh sự Phổ
ở Hồng Công liên lạc đặt giao hảo buôn bán, Tự Đức sai người
mua môt chiếc tàu.

Vua tôi, những nhà hủ nho, chỉ nói sự lấy nhân nghĩa trị
dân, không biết quý trọng vàn minh vật chất tiến bộ, khinh thường
502
nghệ thuật cơ xảo mối, vẫn cho rằng dùng khí cụ cơ xảo, phải có trí
não cơ xảo, cơ trí sinh tâm trạng cơ xảo, không hay ho gì.

VỤ JEAN DUPUIS - Năm 1868, Prancis Garnier đến Côn Minh


lỵ sở tỉnh Vân Nam, phát hiện ra sông Hồng chảy qua Bắc Kỳ ra
biển Đồng là thuỷ đạo tốt cho người ngoại dương giao dịch với
miền tây nam Trung Quốc. Trở về Sài Gòn, Krancis Garnier bàn
tính với lũ sĩ quan thực dân nên sớm đánh chiếm Bắc Kỳ. Để
chậm e tư bản Anh hay nước khác đánh chiếm thì quyền lợi của
người Pháp ỏ Viễn Đông sẽ mất mát nhiều. Dupré ra sức chuẩn bị
ngay. Chính quyền Paris, chưa lành vết thương chiến tranh năm
1870 nên chưa muốh động binh. Nhưng các sĩ quan ở Sài Gòn, tin
tưởng có thể lấy đưỢc Bắc Kỳ dễ dàng như khi lấy ba tỉnh miền
tây Nam Kỳ năm trước, chỉ xin cấp trên làm ngơ cho chúng hành
động. Viện cớ vì tình hữu nghị giúp việc đánh dẹp giặc biển, đầu
năm 1872, Dupré sai trung tá Sénès đem tàu Bourayne ra Huế
báo tin, rồi tiến thẳng ra vịnh Bắc Kỳ, vào cửa Cấm. Cuối năm ấy,
Sénès lại đem chiến hạm ra Bắc Kỳ lần thứ hai, đi vào khắp
Quảng Yên, Hải Dương, Hà Nội, Bắc Ninh, coi thường lệnh của
các quan tỉnh ta.
Thuở ấy, có người lái buôn Pháp Jean Dupuis (ta quen gọi là
Đồ Phô Nghĩa) từng đi du lịch các tĩnh Trung Quốc, tìm cách buôn
bán có lợi lớn. Biết sông Hồng có thể nối liền 90 triệu người Tạng,
Hồi và tây nam Trung Quốc với văn minh châu Âu, Dupuis quyết
dùng đường thuỷ này chở đồ binh khí sang bán tại Vân Nam. Việc
này rất được các quan nhà Thanh tán đồng. Dupuis trù tính công
việc với Millot, lái buôn Pháp ở Thượng Hải, rồi về Pháp mua
hàng. Khi trở sang, Dupuis vào Sài Gòn xin Suý phủ giúp thanh
thế. Thống đốíc d’Arhaud hứa cho tàu Bourayne đi theo. Dupuis
sang Hương Cảng cùng Millot chuẩn bị thương đội gồm ba chiếc
tàu mang tên Việt Nam là Hồng Giang, Lao Kay, Sơn Tâv, chở
đầy súng đạn và hàng hoá vào Quảng Yên, gặp ngay chiến hạm
của Sénès. Quan ta không có lệnh trường về việc thông thương
không dám tự tiện cho vãng qua, nói xin đợi lệnh nhà vua. Dupuis
và Millot cứ đem tàu vào đóng ở Hà Nội. Bấy giờ dòng sông cạn,
tàu máy khó ngược, chúng thuê thuyền chở đồ lên Vân Nam. Các
thuyền này đi quan các đồn quan ta, của giặc Cồ Vàng và Cò Đen
đều vô sự. Tháng 3 năm 1873, tới Mạn Hảo, Dupuis gặp ngay
quan lại nhà Thanh ở Vân Nam tiếp đón niềm nở. Dupuis bán
503
được binh khí giá đắt. Lại mua được nhiều quặng kim khí giá rẻ
mạt. Quan nhà Thanh còn ký với Dupuis giao kèo trao đổi hàng
hoá trị giá 6 triệu francs, cấp giấy thông hành cho Dupuis qua Bắc
Kỳ, cấp 150 quân đi hộ tông. Dupuis còn mộ được lính trong bọn
Cò Vàng bị đánh thua và cả những lính nhà Thanh đào ngũ tới
600 người, súng đạn đầy đủ, lũ lượt kéo về Hà Nội.
Millot ngang nhiên mua gạo Bắc Kỳ, dùng tàu Lao Kay chở
về Hồng Công cùng với mẫu kim loại mua được ở Vân Nam đem
bán, rồi vào Sài Gòn trình bày với Suý phủ tình hình Bắc Kỳ và
xin giúp đõ Dupuis.
Còn Dupuis thì ở lại Hà Nội, đóng ở Phô" Mới bây giò, cùng
mấy ngưồi khách Bành Lợi Ký và Quan Tá Đình, mua nhiều gạo,
muôi để trở lên Vân Nam bán. Luật nước ta cấm trở muôi sang
Trung Quốc, mà việc thông thương trên sông Hồng chưa định rõ
thê nào nhưng Jean Dupuis tự xưng là có lệnh của quan nhà
Thanh cho, không cần phải xin phép riêng triều đình nước Nam
nữa, vì nước Nam là chư hầu của Trung Quốc. Dupuis không hiểu
hay cô" ý làm ra vẻ không hiểu việc nước ta thần phục Trung Quốc
chỉ là ngoại giao, khi có việc gì thì phải có sứ giả hai nước thương
nghị mới được thi hành. Tuy vậy, quan lại ta không đụng chạm
đến người Pháp, e gây ra lôi thôi to. Dupuis biết thế, càng ỷ mình,
làm điều trái với luật nước. Bên ta quan lại nói ngọt không được,
nhò giám mục Puginier ở Kẻ Sặt lên can cũng không được.
Sau quan ta bắt mấy tên khách Bành Lợi Ký và Quan Tá
Đình về việc đem thuyền trở muôi và gạo lên Vân Nam. Dupuis
liền đem người bắt quan phòng thành Hà Nội và quan huyện Thọ
Xương đem xuô"ng thuyền giam lại, cô" tình sinh sự. Q u a ^ ta thì
ngơ ngác không biết nên làm thê" nào. Kiều dân ngoại qììôc mà
dám bắt giam nhà chức trách quốc gia thì còn ra thể thông gì nữa?
Thực là vô lý đến cùng cực. Nhưng một khi không có lực lượng gì ở
trên xét định trị tội kẻ làm sự trái phép thì việc đòi, mạnh được
yếu thua, chẳng còn có lý lẽ nào hết.
Nguyễn Tri Phương muôn thu xếp cho yên chuyện, sai bô"
chính Vũ Đường định ngày mòi Dupuis đến hội quán Quảng Đông
để hội nghị. Khi hai bên hội đồng, quan ta trình bày mọi lẽ phải
trái nhưng Dupuis vẫn ngang ngạnh, nói có lệnh của quan nhà
Thanh là đủ, không cần phải xin phép gì nữa, rồi bỏ ra về.
Dupuis vẫn xâm phạm chủ quyển đất nước ta, tự tiện lập đồn
luỹ ở bờ sông Hồng với khoảng 600 quân vũ trang đầy đủ, tuyên
504
bô' Hà Nội - thương mại đã về tay hắn, dán bô' cáo, cho quân bắt
lính và dân ta đem xuô'ng tàu, liên lạc với bọn cướp biển và bọn
đội lốt cô' đạo lấy tin tức, mộ ngưòi... thậm chí dẫn quân khiêu
khích cả khâm sai Nguyễn Tri Phương khi ông ra bờ sông xem xét
tình thế.
QUÂN PHÁP RA ĐÁNH BĂC KỲ LẦN t h ứ n h ấ t - Jean Dupuis
ngang ngược quá quắt, quan quân ta ở Hà Nội không dám va
chạm đến người Pháp, không dùng võ lực trục xuất hắn đi đưỢc.
Việc lôi thôi mãi, để lâu thànb ra nhiễu sự, triều đình gọi Suý phủ
Sài Gòn phân xử. Dupuis cử phái viên ra Bắc Kỳ cùng với phái
viên của triều đình điều tra tại chỗ mà giải quyết vụ Dupuis. Bấy
giờ là tháng 10-1873. Prancis Garnier xuất phát từ Sài Gòn với
hạm đội gồm 2 tàu chiến cỡ nhỏ trang bị 11 đại bác với chừng 100
lính Pháp và 20 tàu chiến vào Đà Nang, rồi cùng với phái viên của
triều đình ra Hà Nội, không gặp ngăn trở gì. (Thật là gọi giặc vào
nhà, rước voi dày mồ. Nhưng không gọi thì rồi ra bè lũ thực dân
cũng kéo quân ra bắc, viện cớ bênh vực quyền lợi của kiều dân).
Bè lũ thuyền ở Sài Gòn đã bàn nhau lập kê' hoạch đánh
chiếm Bắc Kỳ, mà bên ta lại không biết thế. Quan lại ở Huế cũng
như ở Hà Nội, ân cần tiếp đãi bọn Prancis Garnier. Còn Jean
Dupuis hay tin đem tàu Mạn Hảo đi đón đại uý.
Ngày 5-11-1873, Garnier tói Hà Nội, đem một sô' quân đột
nhập vào thành, tới thẳng dinh tổng đô'c, ra mắt Nguyễn Tri
Phương, đòi đem quân trong thành. Quan ta nói mãi mới chịu
đóng quân ở Trường Thi, triệu giám mục Puginier ở Kẻ sỏ lên nhờ
làm thông ngôn.
Ngày 6-11, hai bên bàn công việc. Garnier tuyên bô' nhiệm vụ
là bàn vấn đề khai phóng sông Hồng, mở mang việc buôn bán. Bên
ta đòi trước hết phải bàn về vụ Dupuis. Có sự bất đồng ý kiến,
tình hình căng thẳng. Garnier làm tờ hiếu dụ cho dân ta rằng:
Bản chức ra Bắc Kỳ để đánh dẹp cho yên giặc giã (bấy giò ngoài
bắc có nhiều loạn lạc) và để mở mang sự buôn bán. Lại tự tiện bố
cáo: Các thương nhân chỉ tuỳ thuộc vào Pháp, chứ không tuỳ
thuộc nhà chức trách nước Nam, thuế quan sẽ tính 1 hay 2% giá
hàng... Cùng Puginier tuyển mộ người để dùng vào việc cại trị sau
này và chiêu mộ nguy quân. Quan ta trách Garnier làm không
đúng phận sự giải quyết vụ Dupuis. Garnier vẫn ngang nhiên làm
tờ tuyên bô' mở sông Hồng cho người Pháp, người Tây Ban Nha và
người Hoa được ra vào buôn bán, được quyền mua đất mua nhà ở
505
Hà Nội. Quan ta thấy thế, lấy làm lo, ra lệnh cho dân bất hỢp tác
và tìm cách phòng bị.
Garnier viết thư cho Nguyễn Trị Phương trách quan ta làm
ngăn trỏ công việc buôn bán của Jean Dupuis. Vậy vì sự văn m inh
và quyền lợi của nước Pháp, cho nên Suý phủ ở Sài Gòn sai đại uý
ra mở sự buôn bán ở Bắc Kỳ. Dẫu quan nước Nam có thuận hay
không cũng mặc, đại uý cứ theo lệnh của Suý phủ mà thi hành.
Một mặt, đại uý bàn với Dupuis định việc đánh thành, bắt
Nguyễn Tri Phương.
Ngày 19-11-1873, Garnier gửi tôl hậu thư cho Nguyễn Tri
Phương đòi phải trao thành, ra lệnh cho các quan lại phải phục
tòng người Pháp, cho Dupuis được tự do xuôi ngược Vân Nam. Bên
ta không chịu, tăng cường giữ thành.
Mò sáng ngày 20-11, với lực lượng gồm 212 lính vừa Pháp vừa
nguy, trạng bị súng tay và 11 khẩn đại bác đặt trên tàu chiến đậu ở
sông Hồng (chưa kể lực lượng vũ trang của Dupuis), Garnier bắt đầu
tấn công thành Hà Nội do 7.000 quân đóng giữ trong thành xây theo
kiểu Vauban. Nguyễn Tri Phương bị trọng thương ở bụng. Con là
Nguyễn Lâm tử trận. Quan quân triều đình tan rã. Một sô bị giặc bắt
giải về Sài Gòn, một sô" trốh tránh hoặc rút ra ngoài thành liên lạc với
Hoàng Kế Viêm ở Sơn Tây. Không ai chịu ở lại cộng tác với giặc. Nguyễn
Tri Phương và khâm phái Phan Đình Bình bị bắt đem xuốhg tàu.
Chúng tận tâm chữa vết thương cho Nguyễn Tri Phương, hòng lợi dụng
ông nhưng ông không chịu, xé bỏ báng bó, nhin án mà chết ngày 20-12-
1873. Lão trung thần từng thò ba triều vua, đánh nam dẹp bắc nhiều
phen, làm quan đến tể tưống mà vẫn thanh bạch, chỉ đem trí lự lo việc
nước, chứ không thiết của cải. Chẳng may phải khi quốc bộ gian nan,
đem thân hiến cho nước, cả nhà cha con anh em đều chết vì nước, một
nhà trung liệt xưa nay ít có. Quốc sử chép về ông: Nhất gia tam trung.

Quân sô' giữ thành Hà Nội 7.000 người chông giữ đưỢc 2 giò,
cũng như có gần 2.000 lính giữ tỉnh Ninh Bình, chép theo sách của
người Pháp, e không đúng sự thật. Có lẽ ở Hà Nội chỉ có độ vài
ngàn lính và Ninh Bình chỉ có sô' tràm. Có thể đây là sô' nguyên tắc,
thực sự chỉ 1/3 tại ngũ chàng?

Chiếm được thành Hà Nội, Garnier tự coi mình là quan cai


trị, ngang nhiên đặt ra thuế quan, thuế đánh cá trên sông, giữ độc
quyền muối, khuyến khích Hoa kiều xuất cảng gạo để thu thuế.
506
Thành Hà Nội thất thủ, quan lại trôn tránh, nhân dân nhất
là nhiều người trong đám sĩ phu nặng lòng yêu nước, tự động nổi
dậy tô chức thành cơ ngũ chông lại quân cướp. Tựu trung cũng có
những người đầu trộm đuôi cướp lọt vào với nghĩa quân, lợi dụng
lúc rốl ren, đi cướp phá. Còn những đám trôm cướp vặt thì có
nhiều, khắp nơi như ong giấy. Garnier cử những người theo mình
làm quan các hạt trong vùng để chông giữ, rồi với đội quân ít ỏi đi
đánh lấy các tỉnh: hạ Hưng Yên ngày 24-11, Hải Dương ngày 4-12,
Ninh Bình 5-12, Nam Định 10-12-1873.
Quan quân ta ngơ ngác, không biết thế nào, thấy Tây có súng
mạnh thì sỢ, chúng đến thì bỏ chạy. Hautefeuille chỉ có 7 tên lính,
đi ca nô vào Ninh Bình, tiến thẳng đến dinh tuần phủ, dơ súng đe
doạ là lấy ngay được thành. Chỉ trong vòng 20 ngày, bôn tỉnh
trung châu mất cả. Giặc mộ thêm lính, lấy những người có đạo,
đóng giữ thành quách.
Garnier đánh chiếm được đất nước ta nhưng dân ta không
phục, nơi nào cũng có những toán nghĩa quân nổi dậy chổng đốì,
hoặc tự động, hoặc hỢp tác với quân triều. Chỉ trừ một sô" người
theo đạo Gia Tô đã bị lũ thực dân đội lốt cô" đạo nhồi sọ là người
Pháp sang đây là để bảo vệ con chiên nên mới đi theo giặc chốhg
lại đồng bào.
Hoàng Kế Viêm, tổng đô"c Sơn Tây, gọi Lưu Vĩnh Phúc, tướng
giặc khách đã quy thuận triều đình, được giữ đất Lào Cai, phong
làm đề đô"c, đem quân Cờ Đen về giúp, hội hỢp với quân bản bộ và
tàn Quân Hà Nội chạy đến, mưu sự khôi phục Hà Nội. Lưu Vĩnh
Phúc đóng quân ở phủ Hoài Đức.
Thành Hà Nội bị Garnier đánh chiếm. Triều đình Huê" sai Lê
Tuấn và Nguyễn Văn Tường vào Sài Gòn thương thuyết với Suý
phủ. Lũ quan binh thực dân ở Sài Gòn thấy Garnier đánh chiếm
mấy tĩnh Bắc .Kỳ dễ dàng như dự đoán, nhưng thực sự chúng
không ngờ là nhân dân ta chông đốì mãnh liệt. Công việc bình
định và tô chức chính quyền tay sai không phải dễ, mà bên Pháp
bấy giờ đang gặp nhiều khó khăn đô"i nội cũng như đốì ngoại, lại
chưa hàn gắn hết những vết thương do chiến tranh mấy năm
trước gây nên, không thể nào tiếp viện binh thuyền, khí giới,
lương thực được nên chưa dám tính đến việc chiếm đoạt thêm đất
nước ta. Dupré chỉ đòi triều đình ta thừa nhận việc nhường ba
tỉnh miền tây Nam Kỳ hẳn cho chúng, hỢp thức hoá một sự đã rồi
và mở sông Hồng cho ngoại quốc đến và đi qua buôn bán. Được
507
thê, sẽ trả lại Hà Nội và các tỉnh Bắc Kỳ. Triều đình Tự Đức chỉ
mong lấy lại đất Bắc Kỳ đã mất nên ưng chịu, cử Trần Đình Túc,
Nguyễn Trọng Hợp, Trương Gia Hội cùng giám mục Bohier và
linh mục Dangelzer ra Hà Nội thương thuyết với Francis Garnier.
PRANCIS GARNIER ĐỀN TỘI - Ngày 21-12-1873, trong khi
Francis Garnier đang bàn cãi với Trần Đình Túc và Nguyễn Trọng
Hợp thì quân thứ Sơn Tây hỢp lực với quân Cờ Đen tấn công ngoại
vi Hà Nội. Garnier bỏ dở cuộc thương thuyết, đem quân ra chông
giữ cửa tây, bắn chặn đại bác trên đường phủ Hoài Đức, rồi chỉ
huy một đội quân Pháp tiến về làng Tú Lệ, bị phục binh đổ ra
chém chết bằng đại đao. Nơi đây gần cầu Giấy.
Đồng thòi, đồn Gia Lâm của giặc bị tiền quân của Trương
Quang Đản quét sạch. Trước đó, các toán quân nổi dậy thường đột
kích đốt phá các vị trí giặc vào ban đêm, ngay cả trong thành, đặc
biệt đã công phá phủ Hoài án ngữ phía tây nam Hà Nội ngày 6-
12-1873. Quân đội Pháp phải ngày đêm phòng thủ, tình trạng
chẳng tô"t đẹp gì.
Sau trận c ầ u Giấy, quân sĩ Pháp xôn xao. Quân Hoàng Kế
Viêm đã sửa soạn đóng hàng trăm thang dài để leo thành, tích cực
đánh chiếm lại thành Hà Nội. Phong trào kháng chiến chông
Pháp tiếp tục dâng cao. Nhưng Tự Đức, được lời Dupré hứa trả lại
đất Bắc Kỳ, ra lệnh cho tiết chế lui binh, ngừng chiến.
Do chính quyền Paris không thuận chiếm đất Bắc Kỳ, thống
đốc Dupré cử Philastre đại uý hải quân kiêm thống soái việc hình
luật ở Nam Kỳ, đi với phó sứ nước ta Nguyễn Văn Tường ra điều
đình mọi việc. Ngày 8-12-1873, Philastre được sự đồng ý của Tự
Đức, cùng đáp tàu với Nguyễn Văn Tường ra bắc với tư cách là
những đại diện toàn quyền của triều đình Huế và của Suý phủ Sài
Gòn. Ngày 24-12, vừa tới cửa Cấm thì Philastre hay tin Prancis
Garnier đã chết trận, tức giận, muốh trở về đợi lệnh Suý phủ.
Nguyễn Văn Tường phân giải; Việc đánh lấy Hà Nội, Suý phủ bảo
không phải là bản ý. Đại uý Prancis Garnier chết, hoặc là bị quân
giặc giết, hoặc vì dân nổi nổi loạn. Trả lại thành để định hoà ước
cho xong, ấy là lệnh của Suý phủ, mà thu thành rồi mới nghị hoà,
ấy là mệnh của bản quốíc. Prancis Garnier cũng như Nguyễn Tri
Phương bị bỏ mình đều xuất ư ý ngoại của đôi bên. Nay không tiến
hành việc thương thuyết, e rằng sao được. Philastre ưng thuận,
ngày 26-12 lên Hải Dương, truyền lệnh trả lại thành này cho quan
ta, rồi lên Hà Nội làm tò giao ước trả lại cả 4 thành, gọi tàu bè quân
508
lính Pháp đóng ở các tỉnh thu về cả Hà Nội, rồi định ngày rút quân
ra đóng cả ở Hải Phòng, đợt ngày ký hoà ước xong sẽ rút về. Thành
Hải Dương được trao trả ngày 2-1-1874, thành Ninh Bình ngày 8-1,
thành Nam Định ngày 11-1, thành Hà Nội ngày 20-1-1874.
Jean Dupuis thấy Philastre phá mất những việc mình đã
làm với Prancis Garnier, vào Sài Gòn kêu nài với Suý phủ và đòi
tiền phí tổn non một triệu nguyên.
HOÀ ƯỚC GIÁP TUẤT 1874 - Mọi việc Hà Nội xếp đặt xong rồi,
Suý phủ cử Rheinart làm lãnh sự cùng 40 lính Pháp bảo vệ, đóng
trong toà nhà bên sông Hồng để giữ môi hên lạc giữa Sài Gòn và
Hà Nội. Ngày 4-3-1874, Philastre cùng Nguyễn Văn Tường trở về
Huế yết kiến Tự Đức, rồi cùng vào Sài Gòn lập hoà ước mới.
Ngày 15-3-1874 (âl 27-1 năm Giáp Tuất, Tự Đức năm thứ
27), thiếu tướng hải quân Dupré và Lê Tuấn - Nguyễn Văn Tường
ký tò hoà ước, gồm 22 khoản, thay thế hoà ước Nhâm Tuất 1862,
đại lược có các điều:

- Nước P h áp nhận quyền độc lập của nước N am không


p h ả i thần p h ụ c nước nào nữa (Dụng ý nói không còn là
chư h ầu của Trung Quốc). K hi vua nước N am cần đánh
dẹp g iặc giã, nước P háp sẵn lòng giúp đỡ.
Vua nước N am đoan nhận y theo chính lược ngoại
g iao của nước Pháp.
- Nước P háp tặng vua nước N am 5 tàu chiến có đủ máy
móc, súng Ống, 100 khẩu đ ại bác mỗi kh ẩu có 200 viên
đạn, 1.000 kh ẩu súng tay và 5.000 viên đạn.
- Nước Nam. nhận nhường đứt cho nước P háp đất 6 tỉnh
N am Kỳ, cho g iáo sĩ đưỢc tự do đi giản g đ ạo và cho dân
nước được tự do theo đạo.
- Mở cửa Thi N ại (Quy Nhơn), N inh H ải (Hải Phòng),
thàn h H à N ội và sông Hồng cho ngoại quốc vào buôn bán.
- Người P háp hay người ngoại quốc có giấy phép của
lãn h sự P háp cấp và có quan nước N am p h ê nhận được đi
xem các nơi trong nước. Khi có điều kiện tụng tại đất nước
N am thi do lãn h sự P háp p h ân xử.
- Nước P h áp đặt sứ thần ở H u ế và nước N am đặt sứ
thần ở P aris và S ài Gòn. Nước P háp được cử lãn h sự hay
đ ạ i diện có đội quân 100 người đ ể bảo an ninh và quyền
hành, đ ể kiểm soát người lạ.
509
Người Pháp trả lại 5 thành Bắc Kỳ chẳng phải là “hảo ý” gì
hết chẳng qua đuổi bắt không được thì tha làm phúc. Theo hoà
ước 1874, Tự Đức chấm dứt hẳn cuộc vận động chuộc đất. Trung,
Bắc Kỳ biến thành bán thuộc địa. Việc ngoại giao phải thoả thuận
với Pháp. Quyền tài phán người ngoại quốc kiều cư phải do Pháp.
Người Pháp được tự do đi lại buôn bán và điều tra khai thác, được
quyền mua nhà đất. Đổi lại, người Pháp “duy trì” trật tự và an
ninh trong quốc gia của Đại Nam hoàng đế, để bảo vệ Ngài chông
mọi sự tấn công và để trừ nạn giặc cướp đang tàn phá nghiêm
trọng miền duyên hải (nghĩa là giúp nhà vua tiêu diệt những lực
lượng ngưòi bản xứ chông đôl).
Tuy có trả đất ngay bấy giò nhưng người Pháp, trong hoà ước
1874, đã mở đường cho việc sau này đánh chiếm lại nữa: Lãnh sự
quán cần chi những một trăm lính hộ vệ?
Sang tháng 8-1874, theo lòi yêu cầu của thiếu tướng hải
quân Krantz quyền thống đổíc, triều đình cử Nguyễn Văn Tường
và Nguyễn Tăng Doãn thị lang bộ lại vào Sài Gòn định thể lệ việc
buôn bán. Ngày 31-8-1874, điều ước về thương mại đưỢc ký kết.
Thương ước này gồm 29 khoản bảo đảm đặc quyền của hàng
hoá, tàu bè Pháp. Quyền nắm thuế thương chính và mọi sự xuất
nhập cảng ở các hải cảng được khai phóng trong tay Pháp. Người
Pháp lại có quyền tuỳ tiện phái binh thuyền đến các cửa biển để
kiểm soát thuỷ thủ, để tăng cường thêm quyền uy cho các lãnh sự.
Trừ Thuận An và sông Hương, bất cứ nơi nào quân Pháp ghé đến
thì triều đình tiếp đãi tử tế, giúp đỡ trong việc tiếp tế và sửa chữa.
Triều đình còn cung cấp 5 hecta đất ở Quy Nhơn, Hải Phòng, Hà
Nội cho Pháp đóng quân và lập lãnh sự quán. Tại Hải Phòng, lãnh
sự và quân Pháp có quyền giữ luôn các đồn luỹ cũ của quan triều.

TÌNH THẾ NƯỚC TA TỪ NẢM 1874 VỂ SAU


TRIỀU ĐÌNH - Giữa thê kỷ XIX, các đê quốc tư bản đua nhau
đánh cướp đất Viễn Đông làm thuộc địa. Thòi đại kinh tế công
nghiệp cơ khí, mà triều đình Huế vẫn trị nưóc theo lôi cổ xưa, lấy
việc Đường, Ngu, Tam Đại ba, bô"n ngàn năm về trước, thời đại
kinh tế nông nghiệp thô sơ, làm khuôn vàng thước ngọc, lại lầm lỗi
cấm đạo Gia Tô, nhất là bế quan toả cảng, vụng về ngoại giao nên
bị lạc hậu, nước yếu dân nghèo. Thực dân Pháp thừa cơ đánh
chiếm đất đai. Sau khi đã mất Nam Kỳ, vua tôi vẫn chưa giác ngộ.
Những đề nghị cải cách, mưu sự phú quốc cường binh của các thức
510
giả đều bị bỏ qua nên bị sa lầy, càng ngày càng suy kém. Quân đội
hèn yếu đến nỗi Hautefeuille chỉ có 7 tên lính mà lấy đưỢc thành
tỉnh Ninh Bình. Năm 1874, tuy trả lại 5 thành trì ở bắc, bọn thực
dân ức hiếp đòi hỏi quá nhiều, kể cả chủ quyền tại Trung, Bắc Kỳ,
mà cũng phải nép mình chịu thừa nhận. Vậy mà sau đó tình thế
cũng chẳng nhúc nhích lên được mấy tý.
VĂN THÂN N ổl DẬY CHỐNG ĐỐI ở NGHỆ AN - Quân Pháp đánh
chiếm đất nước ta, triều đình hèn yếu, sau mỗi lần thua lại cầu
hoà, nhượng bộ giặc. Chúng được thể, càng ngày càng lấn át thêm.
Nhưng nhân dân ta, khắp nơi, quyết tâm chông cự. Ngay khi giặc
vừa chiếm đóng Đà Nẵng, dân chúng Quảng Nam đã nổi dậy, tập
hỢp thành đoàn quân nghĩa dũng do Phạm Gia Vinh cầm đầu.
Đoàn quân này đã giúp đắc lực Nguyễn Tri Phương cản bước tiến
của giặc, ơ Bắc Kỳ, đốc học Nam Định hoàng giáp Tam Đăng
Phạm Văn Nghị chiêu mộ ngay được 300 sĩ phu tình nguyện sung
vào quân thứ. Toán quân này vào tới Huế thì giặc vừa rút khỏi Đà
Nang. Họ xin vào tác chiến ở Gia Định nhưng triều đình lại phóng
hồi. Nhiều sĩ phu đốc học như Đoàn Khuê, khi vua nghị hoà, đã
mật tấu cực lực phản đối. Đến khi giặc đánh chiếm Nam Kỳ,
chúng từng bị khôn khó với những đoàn dân quân nghĩa dũng nổi
dậy chông đôì (việc đã nói ở trên). Đến khi giặc đánh ra bắc, dân
bắc nổi ngay dậy đột kích, đô"t phá các vị trí chúng đóng quân.
Triều đình bị áp lực phải bỏ lệnh cấm đạo Gia Tô nhưng
phần đông người nước, nhất là giới sĩ phu, vẫn coi đạo này là tả
đạo, người theo đạo bị quỷ ám, làm sự phản quốc. Khi Garnier
đánh ra Bắc Kỳ, chiêu mộ lính, thường lấy được nhiều người có
đạo nên sĩ phu càng thêm thù ghét, coi người đi đạo nào cũng là
phản quốc cả.
Theo hoà ước Giáp Tuất 1874, nước ta mất đất Nam Kỳ
nhượng cho Pháp làm thuộc địa, Trung, Bắc Kỳ còn lại thì cũng
biến thành bán thuộc địa của Pháp. Chủ quyền về ngoại giao
không còn, mà cả đến chủ quyền về nội trị cũng bị xâm phạm.
Nhân dân ta khắp nơi trong nước phẫn uất muốn chôhg đôl.
Năm 1874, ở Nghệ An có hai tú tài Trần Tấn và Đặng Như
Mai hội họp văn thân trong hạt, làm hịch “Bình Tây sát tả”, đại
lược nói: Triều đình dẫu hoà với Tây mặc lòng, sĩ phu nước ta vẫn
không chịu. Vậy trước nhất giết hết giáo dân, sau đánh đuổi Tây,
giữ lấy văn hoá của ta đã bơn ngàn năm nay. Bọn văn thân cả
thảy độ ba ngàn người, kéo nhau đi đốt phá những làng theo đạo.
511
Những sĩ phu này có lý tưởng tôt, đánh Tây nhưng đã phạm
sai lầm lớn. Đôl với đồng bào theo đạo, nếu không kéo được chúng
theo về với mình để diệt kẻ thù chung thì cứ để mặc họ trung lập.
Thế mà lại tự tạo thêm kẻ thù. Sĩ phu ta bấy giò không thức thòi,
chỉ biết tòng thoả lòng tức giận trong nhất thòi, khiến nước nhà
càng thêm thiệt hại, có tội trọng đáng trách.
Tôn Thất Triệt, tổng đốc Nghệ An, lại dung túng nên họ càng
đắc thế, càng phá dữ. Triều đình thấy thế, truyền quan quân phải
đánh dẹp cho yên. Văn thân bèn cùng các lực lượng chông đốĩ khác
Trần Quang Hoán, Trương Quang Thủ, Nguyễn Huy Điển đánh
lấy thành Hà Tĩnh và vây phủ Diễn Châu. Triều đình sai Nguyễn
Văn Tường làm khâm sai, Lê Bá Thận làm tổng thông quân vụ
đem quân ra đánh dẹp, sau bô"n tháng mới xong.
GIẶC ở BẮC k ỳ - Trong khi Prancis Garnier đánh lấy Hà Nội
và 4 tỉnh thành trung châu Bắc Kỳ thì ở đây, nhất là miền thượng
du, vẫn còn có những đám giặc khách, giặc ta quấy nhiễu (sự việc
đã nói ở trên).
Ồ mạn Hải Dương và Quảng Yên, vẫn có những người mạo
xưng là con cháu nhà Lê quấy rôi. Khi Prancis Garnier ra Hà Nội,
chúng theo giúp Tây đánh lại quan quân ta. Đến khi quân Pháp
trả thành, rút đi, chúng lại tản ra cướp phá. Thiếu tá Pháp
Dujardin đem binh thuyền giúp quan quân ta triệt được đảng ấy.
VIỆC BANG GIAO VỚI TRUNG QUỐC - Phía bắc nước ta có Trung
Quốc là nước lớn, lại văn minh sớm, quân đội hùng mạnh. Các
triều vua nước ta, dù có đánh bại được quân Trung Quốc sang xâm
lăng, vẫn phải .xưng thần nạp cộng với vua Trung Quốc để được
yên bên cạnh nước lốn. Đến các vua triều Nguyễn cũng vẫn theo lệ
ấy. Thuở xưa, Trung Quôh cường thịnh với nền kinh tế nông
nghiệp. Nhưng từ thế kỷ XV, XVI các nước bên châu Âu tiến bộ
nhiều về học thuật cơ khí, Trung Quốc dẫm chân tại chỗ. Qua thế
kỷ XIX, năm 1839, bị quân Anh đánh thua, phải ký hoà ước Nam
Kinh 1842 nhường Hương cảng cho Anh và mở cửa cho ngoại quốc
vào buôn bán tại Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba và
Thượng Hải. Năm 1860, lại phải ký hoà ước Thiên Tân với Anh,
Pháp, chịu nhượng bộ nhiều điều khoản nặng nề khác. Sau đó, lại
bị các cường quốc sách nhiễu mọi điều, bị đè nén nhiều cách, mất
chủ quyền. Trung Quốc bấy giò không khác gì ngôi nhà lớn đã hẩm
nát sắp đổ. Thế mà bên ta không biết, vẫn tưởng nước ấy còn thịnh
cường, có thể giúp đỡ được ta khi gặp nguy hiếm, vẫn tiến cốhg.
512
Năm 1868, Tự Đức sai Lê Tuấn, Nguyễn Tư Giản và Hoàng
Tịnh sang sứ. Năm 1873, lại sai Phan Sĩ Thục, Hà Văn Khai và
Nguyễn Tu sang sứ bày tỏ việc đánh giặc khách. Từ năm 1874,
triều đình đã ký với Pháp không thần phục nước nào nữa, Tự Đức
vẫn triều công Trung Quốc, có ý mong khi hữu sự, nhà Thanh sẽ
giúp đỡ mình. Năm 1876, sai Bùi Ân Niên tức Bùi Dị, Lâm Hoàng
và Lê Cát sang sứ. Năm 1880, lại sai Nguyễn Thuật, Trần Khánh
Tiến, Nguyễn Hoan sang Yên Kinh dâng biểu xưng thần và đồ
công phẩm. Năm 1881, có sứ nhà Thanh Đường Đình Canh sang
bàn việc buôn bán và lập cuộc chiêu thương. Người Pháp thấy thế,
lấy điều đó mà trách triều đình.
VIỆC GIAO THIỆP VỚI PHÁP - Hoà ước 1874 ký xong, Rheinart ở
Hà Nội mấy tháng, rồi lui vào Sài Gòn, giao quyền cho thiếu tá lục
quân Dujardin. Quân đội Pháp có giúp quân đội ta tiễu trừ đám
giặc miền Hải Dương và Quảng Yên. Có sự chọn đất ở Hà Nội và
Hải Phòng làm dinh trại cho quan quân Pháp đóng. Năm 1875,
chính quyền Pháp cử Rheinart sang làm khâm sứ ở Huế, Truc làm
lãnh sự ở Hải Phòng, Kergaradec lãnh sự ở Hà Nội. Triều đình cử
Nguyễn Thành Ý làm lãnh sự ở Sài Gòn. Tháng 11-1876, Rheinart
cáo bệnh xin về, Philastre thay.
Bấy giờ triều đình ta cũng đã hiểu rằng không theo tân học
thì không tiến hoá được nên mới định cho người đi du học. Nám
1878, bên Pháp mở hội quôc tế đấu xảo ở Paris, Tự Đức sai
Nguyễn Thành Ý và Nguyễn Tăng Doãn đem đồ đi đấu xảo và cho
người sang học ở Toulon.
Năm 1881, triều đình sai Phạm Bính, lễ bộ thị lang, đem 12
thiếu sinh sang Hương cảng đi học ở trường Anh, lại sai sứ sang
Xiêm La và sang Trung Quốc, mà không cho sứ thần Pháp biết.
Suý phủ lấy những điều đó trách triều đình ta không theo đúng
điều ước 1874. Philastre thông chữ Hán và hiểu biết văn hoá à
Đông, tính điềm đạm, không hách dịch, không giôAg các sĩ quan
khác kiêu ngạo, có cử chỉ mềm mỏng của nhà ngoại giao nên triều
đình ta trọng đãi, có điều gì trang trải cũng dễ. Từ năm 1879,
Philastre về Pháp rồi, sự giao thiệp càng ngày càng khó thêm, phần
vì người mình kém cách xã giao với người châu Âu, phần vì quyền
lợi đôi bên tương phản nên sự giao thiệp không được tốt đẹp.
Về sau, việc cai trị đất Nam Kỳ đã ổn định. Bên Pháp thì thế
lực đã vãn hồi. Bè lũ tư bản thực dân toan tính việc mở rộng thuộc
địa tại Viễn Đông, thi hành chương txùnh xâm lăng nôt đất nước ta
513
như đã định từ trước. Bấy giờ, các nước Anh, Ý, Tây Ban Nha và
Mỹ cũng đang muôn thông thương với nước ta, mà có ý không
muôn chịu để quan người Pháp phân xử các việc can thiệp đến các
nước ấy. Bởi vậy, Pháp muôn lập hẳn cuộc đô hộ, bỏ lệ đặt quan
hải quân làm thông đốc, sai quan văn sung chức ấy trù mọi việc.
Tháng 7-1879, Le Myre de Vilers sang làm thống đốíc Nam
Kỳ ở Sài Gòn và Rheinart lại sang làm khâm sứ ở Huế.

QUÂN PHÁP RA ĐÁNH BẮC KỶ LAN THỨ HAI


Hoà ước và thương ước 1874 được ký xong. Bắc Kỳ được mở
cho ngoại quốc vào buôn bán. Triều đình cử Phạm Phú Thứ,
thượng thư bộ hộ ra làm tổng đốc Hải An, sung chức tổng lý
thương chính, cùng với Nguyễn Tăng Doãn và Trần Hy Tăng bàn
định việc thương chính. Người Pháp đã ra vào buôn bán. Vì quan
ta không biết lo sự khai hoá, việc thông thương không được tiện
lợi. ơ mạn thượng du, quân Cờ Đen, tiếng rằng theo lệnh quan ta,
vẫn xưng hùng một cõi. Chúng làm gì cũng không ai ngăn cấm
được. Chính quyền Pháp lấy những điều đó mà trách quan ta và
sai quan đem quân ra, lấy cớ nói ra mở mang buôn bán, kỳ thực là
ra kinh doanh việc ở vùng ấy.
HENRI RIVIÈRE HÀ NỘI - Năm 1881, có hai nhà buôn Pháp
Courtin và Villeroi có giấy thông hành của quan ta cấp, đi lên Vân
Nam, qua Lao Cai, bị quân Cò Đen làm khó dễ, không đi được.
Thông đốc Le Myre de Vilers nói nước Pháp nên dùng binh lực dẹp
yên đất Bắc Kỳ. Sang năm 1882, sai đại tá hải quân Henri Rivière
sắp sửa đem binh thuyền ra Hà Nội, một mặt viết thư ra Huế, nói
đất bắc loạn lạc, luật nhà vua không ai theo. Người Pháp có giấy
thông hành mà bị quân khách ngăn trở. 0 Huế thì quan An Nam
thất lễ với khâm sứ Rheinart nên nước Pháp phải dùng cách bênh
vực quyền lợi của người Pháp.
Henri Rivière đem hai tàu chiến với 300 quân ra đến Hải
Phòng, rồi đi tàu nhỏ lên Hà Nội, đóng quân ở Đồn Thuỷ. Tổng
đốc Hà Nội Hoàng Diệu thấy binh thuyền Pháp tự nhiên ra bắc,
nghi kỵ lắm, tuy có sai tuần phủ Nguyễn Hữu Xứng ra tiếp đãi tử
tế, nhưng sai sửa soạn thành trì đề phòng bị. Henri Rivière vào
thành, thấy vậy không bằng lòng, quyết ý đánh lấy thành.
THÀNH HÀ NỘI BỊ HẠ LẦN THỨ HAI - 5 giờ sáng ngày 25-4-1882
(âl 8-3), Henri Rivière gửi tôi hậu thư hẹn đến 8 giò sáng phải giải
binh, các quan văn võ phải ra đợi lệnh ở Đồn Thuỷ. Đúng 8 giò,
514
quân Pháp công thành. 11 giò, thành đổ. Hoàng Diệu thắt cổ tự
tận. Các quan bỏ chạy cả. Án sát Tôn Thất Bá trước đó có ra
thương thuyêt với quân Pháp, ở trên thành bỏ thang trèo xuôhg
vừa xong thì quân Pháp bắn súng vào thành. Bá bỏ trôh. Sau
Henri Rivière sai tìm Bá về quyền lĩnh mọi việc.
Hay tin Hà Nội thất thủ, Tự Đức hạ chiếu truyền kinh lược
chánh phó sứ Nguyễn Chính và Bùi Ân Niên đem binh lui về mặt
Mỹ Đức cùng với Hoàng Kế Viêm tìm cách chông giữ. Khâm sứ
Rheinart sang thương thuyết nói việc lấy thành Hà Nội không
phải là chủ ý của nước Pháp, xin sai quan ra giữ lấy thành. Triều
đình sai Trần Đình Túc và Nguyễn Hữu Độ làm chánh phó khâm
sai ra Hà Nội thu xếp công việc. Henri Rivière đóng quân ở trong
hành cung. Đôi bên thương nghị. Đại tá đòi nước Nam phải nhận
nước Pháp bảo hộ, nhường thành Hà Nội cho Pháp, đặt thương
chính ở Bắc Kỳ, sửa lại việc thương chính ở các nơi và giao quyền
ấy cho người Pháp cai quản. Trần Đính Túc đệ những khoản ấy về
kinh. Triều đình không chịu. Nguyễn Hữu Độ ở lại làm Hà Ninh
tổng đốc.
Tự Đức sai Phạm Thận Duật sang Thiên Tân cầu cứu nhà
Thanh, tưởng chừng Trung Quốc có thể bênh vực được mình.
Trung Quổc bấy giò suy yếu, giữ mình còn chưa xong thì cứu được
ai. Tuy vậy, người Thanh còn muôn nhân dịp sang lấy một phần
đất nước ta. Tổng đốc Lưõng Quảng Trương Thụ Thanh mật tấu
về triều: Thế lực nước Nam suy hèn, không có thể tự chủ được
nữa. Vậy ta mượn tiếng sang đánh giặc giúp mà đóng giữ các tỉnh
thượng du. Đợi khi có biến thì chiếm lấy những tỉnh ở phía bắc
sông Hồng. Bởi vậy, Thanh triều mới sai Tạ Kính Bưu, Đường
Cảnh Tùng đem quân sang đóng ỏ Bắc Ninh và Sơn Tây, sau sai
bô" chính Quảng Tây Từ Diên Húc đem quân sang tiếp ứng.
THÀNH NAM ĐỊNH THẤT THỦ - Chính quyền Pháp trước tưởng
thu xếp dần dần cũng xong việc bảo hộ, khởi sự chiến tranh, sau
thấy triều đình không chịu, lại thấy quân Thanh kéo sang đóng ở
các tỉnh một mặt sai Charles Thomson sang làm thống đốc Nam
Kỳ thay Le Myre de Vilers, một mặt tiếp quân cho Henri Rivière
và triệu khâm sứ Rheinart ở Huế về.
Henri Rivière trước chỉ có 400 lính, sau tiếp được 750 người nữa,
bèn cử đại uý Berthe de Villers ở lại giữ Hà Nội, tự mình đem nhiều
quân đi đánh thành Nam Định. Ngày 5-4-1883 (âl 28-2 năm Quý Mùi),
quân Pháp khởi sự đánh thành. Đánh từ sáng đến trưa vào được
515
thành. Tổng đốc Vũ Trọng Bình bỏ chạy. Đề đốc Lê Văn Điếm tử trận.
Án sát Hồ Bá ôn bị thương. Bên Pháp có thiếu tá Careau tử thương.
HENRIRIVIÈRE ĐỀN TỘI - Có quân Thanh sang giúp, quân đội ta
khỏi thế công. Trương Quang Đản tổng đốc Bắc Ninh cùng với phó
kinh lược Bùi Ân Niên đem quân về đóng ở Giốc Gạch, thuộc Gia
Lâm, trực sang đánh Hà Nội. Berthe de Villers sang đánh đuổi, phải
rút về phía Bắc Ninh. Tiết chế Hoàng Kế Viêm gọi Lưu Vĩnh Phúc
đem quân về đóng ở phủ Hoài Đức, làm tiền phong đánh quân Pháp.
Henri Rivière tiến binh lên đánh. Ngày 19-5-1883 (âl 13-4) đem 500
quân ra mạn cầu Giấy, bị quân Cò Đen phục ở chung quanh đổ ra
đánh. Quân Pháp chết và bị thương khoảng 100 người. Henri Rivière
tử trận. Berthe de Villers bị thương nặng.
Hạ nghị viện Pháp đang do dự về việc đánh lấy Bắc Kỳ, hay
tin Henri Rivière chết, thuận cho trích 5,5 triệu francs chi tiêu
việc binh. Chính phủ Pháp cử thiếu tướng lục quân Bouet ra làm
thông đốc quân vụ Bắc Kỳ, sai thiếu tướng hải quân Courbet đem
đội chiến thuyền ra tiếp ứng, lại cử Harmand sứ thần Pháp ở
Xiêm La ra làm đại thốhg đốc (gouverneur général).
Ngày 7-6-1883 (3-5 âl), Bouet đem 200 lính tây, 300 lính tập
ra Hải Phòng, sửa sang việc chốhg giữ ở Hà Nội và Nam Định, cho
Georges Vlavianos, người theo Dupuis trước, mộ lính Cờ Vàng đi
làm tiến quân.
Quân số bên ta tuy đông nhưng binh sĩ ít được luyện tập, vũ
khí thô sơ, còn dùng nhiều gươm giáo, súng tay hoả mai hay cò
máy đá là loại cô lỗ, lại không có được đủ cho mỗi người một khẩu,
đại bác toàn là súng cổ, nặng nề, nạp đạn đằng trước, lại không đi
được xa, bất tiện. Có được tất cả mấy chục súng tay của người
Pháp tặng năm trước thì cũng là loại đã lạc hậu rồi.
Quân Pháp xâm lăng bò cõi, dân chúng yêu nước, nhất là
đám sĩ phu cám thù, hăng hái tự động nổi dậy chông giặc, bảo vệ
giang sơn, tụ tập thành những đoàn nghĩa dũng đông năm ba
trăm người, toán nhỏ năm bảy chục người. Lòng dũng cảm thì có
thừa nhưng về vũ khí thì không có được nhiều thuộc loại tôd. Các
toán dân quân nghĩa dũng này này có thể đột kích, đốt phá vị trí
giặc, quấy nhiễu tác hại của chúng nhưng mở thế công đánh giặc
trường trận thì không lợi. Nghĩa quân lại không có chỉ huy thông
nhất, chỉ phụ lực với quân triều cùng nhau chống giặc.
Võ quan ta đem những đám quân này về đánh quân Pháp
nhiều lần ở Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. Tại nơi nào, lần nào
516
cũng bị thất bại. Quân đội kém luyện tập với vũ khí thô sơ địch
sao nổi quân Pháp quen chiến trận, lại có súng ông lợi hại.
Bấy giờ cuộc hoà đổi ra cuộc chiến. Suý phủ Sài Gòn đuổi
lãnh sự Nguyễn Thành Ý về Huê. Trong lúc việc nước đang bốì rôi
như thế thì vua Tự Đức chết.

TÌNH TRANG Rổl REN TRONG TRlỂU ĐÌNH


S ự PHÊ LẬP - VUA HIỆP HOÀ - Tự Đức không có con, nuôi ba
cháu Dục Đức, Chánh Mông và Dưỡng Thiện gọi theo tên nhà học.
Khi sắp khuất, lập di chiếu; Đức tính Dục Đức chưa đáng làm vua,
ý muôn lập Dưỡng Thiện nhưng vì còn bé, mà việc nước cần vua
lớn tuổi phải lập con trưởng, cử Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn
Tường và Tôn Thất Thuyết phụ chính.
Được ba ngày, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đổi tờ
di chiếu, bỏ Thuỵ quốc công Dục Đức mà lập em Tự Đức Lạng
quốc cồng Hồng Dật lên làm vua. Triều thần ngơ ngác. Ngự sử
đình nguyên Phan Đình Phùng can sự phế lập, bị bắt giam rồi bị
cách chức đuổi về. Hồng Dật lên ngôi đặt niên hiệu là Hiệp Hoà.
Dục Đức bị đem giam ở giảng đường cũ.
Hiệp Hoà làm vua nhưng mọi việc trong triều chính đều do
quyền thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết. Trong thời
gian ông ở ngôi, có việc quân Pháp lấy cửa Thuận An và việc ký
hoà ước Quý Mùi Harmand 1883 (nói ở sau).
Hiệp Hoà muôn nhận chính sách người Pháp bảo hộ cho yên
ngôi vua nhưng các quan có nhiều người không chịu. Lại thấy Nguyễn
Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế thái quá, muôn dùng kế
trừ bỏ đi, đổi Nguyễn Văn Tường sang làm thượng thư bộ binh, Tôn
Thất Thuyết làm thượng thư bộ lại, để bớt binh quyền của Thuyết.
Hai người thấy vua nghi, sỢ để lâu thành vạ, viện cớ Hiệp Hoà vô cớ
lấy mấy vạn quan tiền trong kho chi vào việc ám muội, vào tâu với
thái hậu Từ Dụ truất phế để lập Dưỡng Thiện, con nuôi thứ ba của Tự
Đức, rồi bắt Hiêp Hoà đem ra phủ Dục Đức, cho uốhg thuốc độc chết.
Hiệp Hoà làm vua 4 tháng trong năm 1883.
Tường và Thuyết đã giết Hiệp Hoà rồi, lại thấy phụ chính
Trần Tiễn Thành không theo ý mình, sai người giết nôt.
VUA KIẾN PHÚC - Ngày 6-11-1883 (âl 7-10 năm Quý Mùi),
Dưỡng Thiện, huý ưng Đăng, lên làm vua, lấy niên hiệu là Kiến
Phúc, bấy giò mới 15 tuổi, công việc gì cũng do quyền thần Tường
và Thuyết quyết định.
517
Trong thòi gian Kiến Phúc ở ngôi, có việc quân Pháp đánh
lấy mấy tỉnh lớn ỏ Bắc Kỳ và việc ký hoà ưốc Giáp Thân Patenôtre
1884 (nói ở sau).
Tôn Thất Thuyết tính nóng nảy, dữ dội, đa nghi, hay chém
giết. Nguyễn Văn Tường, người Quảng Trị đỗ cử nhân, có tài trí,
giỏi giao thiệp nhưng tham lam và tàn nhẫn. Quan lại ở trong tay
Tường, binh quyền ỏ tay Thuyết. Thường việc gì cũng do Thuyết
điều khiển. Trong triều, từ hoàng thân, quốc thích đến các quan,
ai có điều gì trái ý hai người ấy là bị bắt giam hay chém giết.
Thuyết mộ quân phấn nghĩa để giữ mình, hay tiếm dùng nghi vệ
của vua. Tường nhận tiền hối lộ của những người khách, cho
chúng đem tiền sềnh, thứ tiền niên hiệu Tự Đức, mỏng và xấu,
đúc bên Trung Quốc đem sang, bắt dân phải tiêu. Vua còn nhỏ,
chưa biết gì mấy nên hai người lại càng chuyên chế lắm.
Kiến Phúc lên ngôi được hơn 6 tháng, đến ngày 6 tháng 4
năm Giáp Thân (30-4-1884) phải bệnh mất, miếu hiệu Giản Tông
Nghị hoàng đế. Có thuyết khi vua se mình, nằm trong điện, đêm
thấy Nguyễn Ván Tường vào trong cung, ngài có quở mắng, đến
sáng ngày hôm sau, ngộ thuốc mà chết.
VUA HÀM NGHI - Kiến Phúc mất, đáng phải lập con nuôi thứ
hai của Tự Đức là Chánh Mông nhưng Tường và Thuyết không
muốh lập người lớn tuổi, sỢ mình mất quyền, chọn người em
Chánh Mông và Kiến Phúc là ưng Lịch, mới 12 tuổi, lập lên làm
vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi.
Khâm sứ Rhénart trước đã tư giấy cho triều đình rằng Nam
triều rằng triều có lập ai lên làm vua thì phải xin phép nước Pháp
mới được. Tường và Thuyết cứ tự tiện. Rhénart thấy vậy, viết thư
ra Hà Nội. Thông tướng Millot sai đại tá Guerrier đem 600 quân
và đội pháo binh vào Huế, bắt triều đình phải xin phép lập ưng
Lịch. Ngày 27-6 âl (16-8-1884) đại tá và khâm sứ đi cửa chính vào
điện làm lễ phong vương cho Hàm Nghi.
QUÂN PHÁP ĐÁNH LẤY CỬA THUẬN AN - Khi Hiệp Hoà vừa lập,
Harmand đến Hải Phòng, hội Gourbet và Bouet bàn định mọi
việc, định Bouet đem quân lên đánh lấy đồn phủ Hoài Đức.
Courbet đem tàu vào đánh lấy cửa Thuận An, để bắt triều đình
phải nhận nước Pháp bảo hộ.
Ngày 14-8-1883 (âl 12-7), Bouet đánh quân Cò Đen ở làng
Vòng. Sau 3 ngày, quân Cờ Đen phải lui lên đóng ỏ đồn Phùng.
Nước lên cao, đê vỡ. Quân Pháp không tiến lên được.
518
Ngày 18-8 (âl 16-7), trung tá Brionval ở Hải Phòng đem quân
lên lấy thành Hải Dương. Quân Pháp có thắng nhưng chỗ nào
cũng có nghĩa quân nổi dậy chống đốì. Quân Cồ Đen còn khá
mạnh. Bouet phải xin quân tiếp ứng.
Courbet và Harmand đem tàu vào đánh cửa Thuận An. Từ
ngày 17 đến 20-8-1883 (âl từ 15 đến 18-7), thành Trấn Hải vỡ.
Trấn thành Lê Sĩ, Lê Chuẩn tử trận, Lâm Hoành, Trần Thúc
Nhân nhảy xuống sông tử tử.
HOÀ ƯỚC QUÝ MÙI HARMAND1883 - Triều đình thấy nguy cấp, xin
hoà. Harmand bắt ta phải giải binh cả mọi nơi, rồi cùng De
Champeaux lên Huế nghị hoà. Triều đình cử hiệp biện Trần Đình
Túc làm khâm sai toàn quyền, Nguyễn Trọng HỢp làm phó, hội nghị
với quan Pháp. Ngày 27-8-1883 (âl 13-7) hoà ước được ký giữa đặc sứ
toàn quyền Pháp Harmand và De Champeaux với Trần Đình Túc và
Nguyễn Trọng HỢp. (Harmand lĩnh chức đại thông đốc - gouverneur
général- bấy giờ kiêm làm đặc sứ toàn quyền nên về sau người nước
ta quen gọi gouverneur général là toàn quyền).
Hoà ước này có 27 khoản: Nước Nam nhận nước Pháp bảo hộ,
việc ngoại giao do Pháp chủ trương. Tỉnh Bình Thuận thuộc về
Nam Kỳ. Từ Khánh Hoà đến Đèo Ngang, quyền cai trị thuộc triều
đình. Bắc Kỳ kể từ Đèo Ngang trở ra. Pháp đặt lưu trú quan
{résident, ta quen gọi là công sứ, do chữ consul) ở các tỉnh kiểm
soát công việc quan Nam, người Pháp không dự vào việc cai trị
trong hạt.
De Champeaux ở lại Huế làm khâm sứ. Harmand ra bắc
kinh lý việc đánh dẹp.
VIỆC ở BẮC kỳ - Bây giò, ở Bắc Kỳ có quân nhà Thanh do
Đường Cảnh Tùng chỉ huy ở Sơn Tây, Từ Diên Húc đóng ở Bắc
Ninh. Quân Cò Đen do Lưu Vĩnh Phúc chỉ huy đóng ở đồn Phùng.
Quân lính nhà Thanh hay quấy quả phiền nhiễu dân chúng trong
vùng nhưng không quá tệ. Còn quân Cò Đen cậy công giễt được
tướng Pháp, trắng trỢn quấy phá dân chúng, lấy của, hãm hiếp
đàn bà con gái, thường kéo nhau vào các làng đòi hỏi nọ kia. Dân
chúng bỏ chạy cả thì chúng tha hồ vơ vét. Người ngoại thành Hà
Nội ghê sỢ và thù oán giặc Cờ Đen.
Triều đình nhận hoà, cử thượng thư bộ lại Nguyễn Trọng
HỢp làm khâm sai, thượng thư bộ công Trần Văn Chuẩn, tham tri
bộ lại Hồng Phi làm phó, ra bắc cùng với Harmand hiểu dụ dân và
bãi quân thứ các nơi.
519
Triều đình tuyên chỉ cho các quan phải rút quân về Huế
nhưng nhiều người không chịu, muôn cùng quân nghĩa dũng nổi
dậy và quân Thanh chông giữ với quân Pháp nên còn chiến tranh,
như tán dương quân vụ ở Sơn Tây Nguyễn Thiện Thuật bỏ về Hải
Dương, mộ quân chông giữ quân Pháp. Mấy người khác như đề
đốc Tạ Hiện, án sát Phạm Văn Mẫn, tri phủ Hoàng Văn Hoà, bỏ
chức mà đi.
Harmand ra bắc sửa sang việc cai trị, lập ra những đội lính
tuần cảnh bảo an, ta quen gọi là lính khô" xanh, phòng giữ các nơi,
bãi lính Cồ Vàng của Bouet một trước, do chúng hay cướp phá dân
gian. Ngày 1-9-1883 (âl 1-8), thiếu tướng Bouet đem quân đi đánh
đồn Phùng, đánh nhau với quân Cò Đen rất dữ, quân Cờ Đen phải
rút lui nhưng chưa thực thua. Do không tương đắc với quan văn,
Bouet xin về Pháp, giao binh quyền cho đại tá Bichot.
Có được quân tiếp viện từ Sài Gòn, Bichot vào lấy tỉnh Ninh Bình.
Ngày 25-10-1883 (âl 25-9), chính phủ Pháp cử thiếu tướng
hải quân Courbet làm thông đốc quân vụ kiêm chức gouverneur
(toàn quyền) ỏ Bắc Kỳ. Harmand xin về Pháp. Từ đó, mọi việc
binh nhung, cai trị, giao thiệp ở cả tay thiếu tướng. Quân Pháp
đánh chiếm được mấy tỉnh thành lớn nhưng không được dân bản
xứ quy phục, nơi nào cũng có văn thân và quân nghĩa dũng chông
đốì, không lập được bộ máy cai trị hữu hiệu. Thiếu tướng phải xin
chính quốic tiếp viện nhiều quân đội. Trong khi thiếu tướng sửa
sang mọi việc và chò đợi quân viện sang, có quan ta đem quân về
đánh Hải Dương, đô"t phá phô" xá. Quân Pháp nghi tỉnh thần tư
thông với ván thân, bắt đày vào Côn Lôn.
QUÂN PHÁP LẤY SƠN TÂY - Đến khi có viện binh từ bên Pháp
sang, sô quân đội Pháp ở Bắc Kỳ được hơn 9.000 người. Courbet
chia quân sô" quân làm hai đạo thuỷ bộ tiến lên đánh thành Sơn
Tây. Đánh từ sáng ngày 13 đến hết ngày 16 hạ được thành. Quân
Cò Đen chông giữ rất hăng nhưng quân Thanh và quân ta thấy
súng Pháp bắn mạnh quá, bỏ thành rút lên mạn ngược. Quân Cò
Đen cũng phải chạy theo. Trận này, quân Pháp bị 63 người chết
và 319 người bị thương.
QUÂN PHÁP LẤY THÀNH BĂC NINH - Quân Pháp lấ y đưỢc Sơn
Tây nhưng quân Thanh lại sang đông và các toán quân nghĩa
dũng vẫn hoạt động. Courbet phải chờ có thêm quân tiếp viện mới
đi đánh nơi khác. Bên Pháp lại sai một lữ đoàn (division, độ 7, 8
ngàn người) sang và sai trung tướng lục quân Millot sang làm
520
thông đốc quân vụ thay thiếu tướng Courbet. Sang năm 1884,
Millot sang nhậm chức. Courbet được thăng trung tướng ra coi hải
quân giữ mặt biển. Bấy giờ, quân Pháp cả thảy được 16.000 và 10
đội pháo thủ, chia ra làm 2 lữ đoàn. Một lữ đoàn ỏ hữu ngạn sông
Hồng do thiếu tướng Brière de risle coi đóng ỏ Hà Nội. Một bên tả
ngạn do thiếu tướng De Négrier coi, đóng ỏ Hải Dương.
Con đường từ Hà Nội sang Bắc Ninh, chỗ nào cũng có quân
ta và quân Thanh đóng. Millot sai Brière de ITsle đem quân qua
sông Hồng, theo sông Đuông, đi về phía đông. De Négrier từ Hải
Dương đi tàu đến Phả Lại lên bộ, tiếp vào với toán quân De
ITsle, rồi cả thuỷ bộ theo sông cầu, tiến lên đánh Bắc Ninh. Hai
bên kịch chiến từ 8 đến 13-3-1884 (âl từ 11 đến 16-2), giặc lấy
được Đáp Cầu. Quân Thanh thấy quân Pháp chặn mất đường lên
Lạng Sơn, bèn bỏ Bắc Ninh rút lên mạn Thái Nguyên. Tối ngày
13-3 (âl 16-2), quân Pháp vào được thành Bắc Ninh. Trận này
quân Pháp chỉ mất 8 người chết và 10 người bị thương.
Brière de ITsle đem quân lên đánh Yên Thế, rồi lấy thành
Thái Nguyên ngày 20-3-1884 (âl 23-2 Giáp Thân).
LẤY HƯNG HOÁ - Sau đó, Brière de ITsle đem lữ đoàn thứ nhất
theo đường Sơn Tây lên Hưng Hoá, dàn trận bên sông Đà. Hai bên
khởi sự đánh nhau từ sáng ngày 10-4-1884 (âl 15-3) đến 2 giờ
chiều, quân Pháp sang sông ở chỗ gần địa hạt huyện Bất Bạt. 9
giờ sáng hôm sau, De Négrier đem lữ đoàn thứ hai tiếp đến, cả hai
lữ đoàn hỢp lực tiến đánh. Quân Thanh và quân Cò Đen thấy thế
không chống lại được, đốt cả phố xá, rồi bỏ thành rút lên mạn ngược.
Bọn Hoàng Kê Viêm kéo nhau lên núi, rồi đi đường thượng đạo về
kinh. Trong ngày 12-4 (âl 17-3), quân Pháp vào thành hưng Hoá. Thiếu
tá Coronnat đem một toán quân lên đánh phá đồn Vàng.
LẤY TUYÊN QUANG - Bấy giờ chỉ còn Tuyên Quang có quân cờ
Đen đóng. Millot sai quân đem tàu đi dò đường sông Lô, rồi sai
trung tá Duchesne đem đạo quân ở Hưng Hoá và một đội 5 chiếc
tàu binh lên đánh Tuyên Quang. Ngày 27-5-1884 (âl 3-5), Duchesne
khởi binh từ Việt Trì lên đánh lên Tuyên Quang. Ngày 1-6 (âl 8-5)
đến nơi, chỉ đánh độ một giờ thì quân Cò Đen bỏ thành chạy đi cả.
HOÀ ƯỚC POURRIER - Các tỉnh trung châu Bắc Kỳ đều đã thuộc
về quân Pháp cai quản nhưng quân Thanh còn đóng ở Lạng Sơn,
Cao Bằng và Lào Cai. Chính quyền Pháp muốh dùng ngoại giao
khiến nhà Thanh nhận cuộc bảo hộ của Pháp ở nước Nam cho
xong. Trung tá hải quân Pourrier, quan trung gian người Đức
521
Détring, nghị hoà với Lý Hồng Chương tổng đôh Trực Lệ. Ngày 12-
5-1884 (âl 18-4 Giáp Thân) ký hoà ước; Nhà Thanh thuận lui quân
đóng ở Bắc Kỳ, để cho người Pháp được tự do sắp đặt mọi việc với
nước Nam.
HOÀ ƯỚC GIÁP THÂN PATENÔTRE 1884 - Chính phủ Paris thấy
hoà ước Harmand thắt buộc triều đình Huế quá đáng mà việc
đánh dẹp vẫn còn chưa yên, dân bản xứ cố tình phản đối không
chịu phục, muốn cởi mở đôi chút, sai Patenôtre, công sứ (consul)
Pháp ở Bắc Kinh, từ Pháp sang Sài Gòn, ra Huế, cùng với
Rheinart sửa lại hoà ước ký năm trước. Thương nghị mấy ngày với
triều đình, hoà ước mới ký ngày 6-6-1884 (âl 13-5 Giáp Thân) giữa
Patenôtre với Nguyễn Văn Tường, Phạm Thận Duật, Tôn Thất
Phan. Hoà ước gồm 19 khoản, đại đế cũng như hoà ước Harmand,
chỉ đổi Bình Thuận và các tỉnh ngoải Đèo Ngang (Hà Tĩnh, Nghệ
An, Thanh Hoá) vẫn thuộc Trung Kỳ.
Patenôtre và Rheinart hội các quan ta đem cái ấn của vua
nhà Thanh phong cho vua Việt Nam, thụt bễ huỷ đi. Từ đó, Việt
Nam thuộc nước Pháp bảo hộ, không còn thuần phục Trung Quốc
nữa. Rheinart ở lại làm khâm sứ ở Huế. Bấy giờ là năm Kiến Phúc
thứ nhất.

CHIẾN TRANH VỚI QUÂN TRUNG QUỐC


TRẬN BẮC lệ- Theo hoà ước Pourrier, quân Thanh phải rút
khỏi Bắc Kỳ. Millot sai trung tá Dugenne đem 1.000 quân lên thu
phục các thành Lạng Sơn, Thất Khê, Cao Bằng. Ngày 23-6-1884
(âl 1-5 nhuận), quân Pháp lên đến Bắc Lệ, qua sông Thương, bị
quân Thanh bắn 3 người bị thương. Quân Thanh cho đưa thư sang
nói đã biết có hoà ước nhưng chưa được lệnh rút quân, xin hoãn 6
ngày để đợi. Degenne không chịu, truyền lệnh tiến quân. Quân
Thanh phục hai bên đường bắn ra. Đôi bên đánh nhau đến tôl.
Quân Pháp phải lui về phía bên này sông Thương, đợi cứu viện ở
Hà Nội lên. Trận này, quân Pháp bị 28 người chết trận, 46 người
bị thương, còn phu. phen chết bao nhiêu không kể xiết.
Millot hay tin thất trận, sai De Négrier đem 2 đại đội quân
bộ, 2 đội pháo binh và một toán công binh đi đường Phú Lãng
Thượng (nav đọc trệch là Phủ Lạng Thương), qua làng Kép, lên
tiếp ứng, một mặt chờ lệnh và thêm quân bên Pháp sang.
QUÂN PHÁP ĐÁNH PHÚC CHÂU VÀ TÂY ĐÀI LOAN - Trung tướng
Courbet, theo lệnh chính phủ Pháp, đem tàu chiến sang Trung
522
Quôc, đóng gần thành Phúc Châu, tỉnh lị Phúc Kiến. Ngày 23-8-
1884 (âl 3-7) khởi sự đánh Phúc Châu, bắn lên các pháo đài, phá
các xưởng binh khí, lại đánh cả chiến thuyền đóng trong sông
Mân, rồi đem binh thuyền ra vây đánh đảo Đài Loan. Hải quân
Pháp vây Đài Loan và các cửa biển mãi đến tháng 7-1885, Trung
Quốc ký hoà ước mới thôi.
TRẬN ĐỔN CHŨ VÀ ĐỎN KÉP - Trong khi quân Pháp đánh phá
mặt biển thì quân Thanh từ Quảng Đông và Quảng Tây lại kéo
sang nhiều. Millot cáo bệnh xin trao quyền cho Brière de ITsle.
Thiếu tướng Brière de ITsle tiếp đưỢc 6.000 quân từ Pháp
sang, sô" quân cá thảy 2 vạn người (năm trước bọn thực dân ở Sài
Gòn tưởng chỉ 400 lính là lấy được xong Bắc Kỳ), chia làm 4 đạo đi
đánh quân Thanh và quân ta: Thiếu tá Servière dẫn một đạo lên
mạn Đông Triều; trung tá Donnier đem một đạo theo sông Lục
Nam đến đánh đồn Chũ và đồn Đầm; trung tá Defoy dẫn một đạo
lên mạn sông Thương; thiếu tá Mibielle và thiếu tướng De Négrier
đóng đại đồn ở Phú Lãng Thượng. Ngày 8-10-1884 (20-8 âl), quân
Pháp đánh đồn Chũ, đồn Bảo Lạc và đồn Kép. Quân Thanh chông
lại được một ngày. Quân hai bên đánh nhau ở đồn Kép rất hăng
hái. Quân Thanh chết đến 2.000 người. Bên Pháp thì De Négrier
bị thương ở chân, 27 người tử trận, 109 người bị thương. Quân
Thanh chết hại nhiều, phải bỏ các đồn Kép, Bảo Lạc vả Chũ, chạy
lui trở về.
Brière de ITsle sai Duchesne đem 700 quân lên đánh quân
Cờ Đen ư mạn Tuyên Quang và sai trung tá Serger đem quân lên
giữ Thái Nguyên.
TRẬN YÊN BẠC - ở địa hạt Lạng Sơn và Quảng Yên còn có
quân Thanh đóng. Hạ tuần tháng 12-1884 (âl trung tuần tháng
11), lại về đóng ở gần An Châu. De Négrier đem bộ binh và pháo
binh theo sông Lục Nam lên đánh núi Bóp. Quân Thanh chết hơn
600 người. Quân Pháp 19 người tử trận, 65 bị thương.
LẤY THÀNH LẠNG SƠN - Đầu năm 1885, Brière de ITsle được
thăng trung tướng. Lại tiếp được hơn 1.000 quân ở bên Pháp sang,
mộ 7.000 phu vận tải, đem 7.500 người chia làm hai đạo lên đánh
Lạng Sơn. De Négrier chỉ huy đạo thứ nhất, đại tá Giovannielle,
đạo thứ hai. Đường từ Kép lên Lạng Sơn là đường ngang hẻm
trong núi, chỗ nào cũng có quân Thanh đóng. Quân Pháp đánh
ngang từ đồn Chù lại. De Négrier đem quân qua đèo Vân, lấy đồn
Đồng Sơn (đồn Sung), rồi sang lấy đồn Tuần Muội (Chi Lăng ngày
523
trước). Quân Thanh giữ mạn Bắc Lệ thấy quân Pháp chặn đường
về, rút quân chạy. De Négrier đem quân đánh tràn lên Lạng Sơn.
Trưa ngày 13-2-1885 (29-12 âl) lấy được thành sau 4 ngày tác
chiến. Quân Pháp có 40 người tử trận, 222 bị thương.
Quân Pháp tiến đánh Đồng Đăng. Quân Thanh chạy ngả lên
Thất Khê, ngả lên Nam Quan về nưốc.
THÀNH TUYÊN QUANG BỊ VÂY - Trong khi đi đánh mặt Lạng
Sơn, quân Thanh và quân Cờ Đen ở mạn sông Hồng và sông Lô
kéo về đánh Tuyên Quang. Chúng đóng quân ở phủ Yên Bình và
phủ Đoan Hùng, chặn đường quân ở trung châu lên tiếp ứng,
đánh mãi, vây rất ngặt, dùng đủ kế để phá thành. Thiếu tá
Dominé với 600 quân cố hết sức chống giữ. Sau khi quân Pháp lấy
Lạng Sơn, Brière de ITsle về Hà Nội, lập tức lên cứu Tuyên
Quang, nơi bị vây suốt hai tháng. Quân hai bên thiệt hại nhiều.
Quân Thanh không địch nổi quân Pháp, phải riìt lên mạn ngược.
QUÂN PHÁP MẤT LẠNG SƠN - Quân Thanh bỏ Lạng Sơn nhưng
đề đốc Quảng Tây Phùng Tử Tài, đóng quân ở Long Châu, mưu
lấy lại. Ngày 22-3-1885 (6-2 Ât Dậu), quân Thanh sang đánh Đồng
Đăng. De Négrier đem quân lên cứu, rồi chực đánh sang Long
Châu, đánh trong 2 ngày, chết hại hơn 200 người, phải rút về
Lạng Sơn. Quân sô" Pháp bấy giờ có 35.000 người. Ngày 29-3 (âl
13-2), quân Thanh tràn sang Kỳ Lừa. De Négrier bị thương rất
nặng. Trung tá Herhinger thay, thấy quân Thanh đông quá, bỏ
Lạng Sơn, rút về Tuần Muội, rồi về các đồn Chù và Kép. Quân
Thanh lấy Lạng Sơn, rồi không đánh đuổi xa.
ở mạn sông Hồng thì quân Cờ Đen và quân của ta lại về
đánh phá mạn Hưng Hoá, Lâm Thao.
Brière de ITsle xin chính phủ Pháp tiếp viện thêm quân nữa.
HOÀ UỚC THIÊN TÂN - Quân Pháp thất trận ở Lạng Sơn, lòng
người ở Paris náo động. Chính phủ muôn giao ước đình chiến với
nhà Thanh, truyền lệnh cho sứ thần Patenôtre ở Bắc Kinh lập hoà
ước, một mặt cho quân sang tiếp ứng Bắc Kỳ, sai trung tướng
Roussel de Courcy làm thông đốc quân dân vụ, trung tướng
Warnel làm tham mUu tổng trưởng, cùng với thiếu tướng ơamont
và thiếu tướng Prudhomme đem hai sư đoàn sang Bắc Kỳ.
Chính phủ Trung Quốc thấy chiến tranh không lợi, thuận ký
hoà ước, lập tức sai quan sang Hà Nội truyền lệnh cho quân
Thanh phải rút về nước. Ngày 9-6-1885 (27-4 Ât Dậu), Patenôtre
và Lý Hồng Chương ký tờ hoà ước, đại lược nói rằng Trung Quốc
524
nhận cuộc bảo hộ của nước Pháp ở nước Việt Nam và lại hoà
thuận buôn bán như cũ. Nước Pháp trả lại các chỗ hải quân đã
chiếm giữ ở mặt biển và thuận bỏ các khoản tiền binh phí không
đòi nữa. Ngay hôm ký hoà ước ấy ở Thiên Tân thì trung tướng hải
quân Courbet phải bệnh chết ở gần đảo Đài Loan. Hải quân Pháp
cũng theo điều ước rút quân về.

LOẠN ở TRUNG KỲ
THUỴ QUỐC CÔNG DỤC ĐỨC BỊ HẠI - Việc ngưồi Pháp điều đình
với nhà thanh xong, quân Thanh rút hết về nước. Lưu Vĩnh Phúc
cũng đem quân Cờ Đen về, được cử làm trấn thủ Đài Loan. Việc
bảo hộ thành nhưng ở các nơi, quan cũ ta còn chông đối quân
Pháp, ở Huế, Nguyễn Ván Tường và Tôn Thất Thuyết vẫn chuyên
chế đủ mọi đường.
Tháng 10-1884 (âl tháng 9 năm Giáp Thân), hai ông đem
Thuỵ quốic công Dục Đức (trước đã không được lập làm vua) giam
vào nhà tôi, không cho ăn uông để chết, đổ tội cho là đồng mưu với
giặc. (Thòi còn Tự Đức, Dục Đức có đi lại giao dịch với khâm sứ
Rheinart. Rất có thể Rheinart đã khuyên trường ta nên nhận nước
Pháp bảo hộ. Vua quan vẫn tồn tại, lại được tôn trọng. Nước Pháp
có binh lực mạnh, sẽ giúp triều đình bình định các toán quân nổi
dậy chông đối...).
THỐNG TƯỚNG DE COURCY VÀO HUẾ - Hoà ước nhận nước Pháp
bảo hộ được ký nhưng triều đình ta vẫn ấm ức không muôn chịu.
Nguyễn Ván Tường và Tôn Thất Thuyết mộ quân tập lính và lập
đồn Tân sở ở gần Cam Lộ tỉnh Quảng Trị, đem đồ châu ngọc vàng
bạc ra đấy, phòng khi có việc thì đem quân ra đấy để chống nhau
với quân Pháp. Quân Pháp thấy có sự muôn chông cự, bèn chiếm
giữ Mang Cá trong thành Huế và bắt bỏ đại bác ở bên thành đi.
Tháng 5-1885, De Courcy sang tới Bắc Kỳ. Hoà ước với nhà
Thanh đã xong, mới vào Huế hắt triều đình ta phải chịu quyền
bảo hộ. Triều đình cử hai đại thần theo khâm sứ De Champeaux
đón thôRg tướng ỏ Thuận An. Thông tướng hống- hách cho đòi phụ
chính sang toà khâm. Hai ông còn đang lừng lẫy, thấy thế tức
giận lắm. Nguyễn Văn Tường sang ra mắt De Courcy. Tôn Thất
Thuyết cáo bệnh không sang. De Courcy bảo có bệnh cũng phải
khiêng sang.
De Courcy định đến hôm nào yết kiến vua Hàm Nghi thì
phải mỏ cửa chính, không những để quan Pháp đi mà phải để cho
525
quân lính Pháp cũng vào cửa ấy. Triều đình thấy trái với quốc lễ,
xin quân lính đi hai bên. De Courcy nhất định không chịu. Các
quan Cơ mật viện xin vào bàn định. De Courcy không tiếp. Thái
hậu Từ Dụ sai quan đem lễ vật sang tặng. De Courcy khước từ
không nhận.
TRIỀU ĐÌNH CHẠY RA QUẢNG TOỊ - Các quan thấy De Courcy
làm dữ dội đều ngơ ngác không hiểu ra ý tứ gì mà khinh mạn
triều đình quá vậy. Tôn Thất Thuyết tức giận, thôi thì sốhg chết
cũng liều một trận. Bấy giờ có điềm động đất cho là điềm tròi xui
khiến giúp kẻ yếu kém chông lại quân cướp nước chăng. Tướng sĩ
qi cũng tưởng như thế nên định đến nửa đêm khởi sự bắn súng
sang toà khâm sứ và đánh phá trai lính Pháp ở Mang Cá. Bấy giò
là ngày 22 rạng 23 tháng 5 năm Ât Dậu (4/5-7-1885). Thông tướng
đãi tiệc các quan Pháp vừa xong thì súng trong thành nô ra.
Những nhà chung quanh toà khâm sứ lửa cháy rực trời. Quân
Pháp chỉ yên lặng chông giữ, không dám ra. Đến sáng, chúng mối
tiến lên đánh thì quân ta thua chạy.

Quốc sử không chép việc Tôn Thát Thuyết đánh quân Pháp
có được bao nhiêu quản. Sách Tây bản chép 2 vạn, bản chép 3 vạn.
Cứ lời cư dân Huế thì sô’ binh lính của ta bấy giờ chỉ khoảng độ 1
vạn.
Ngày 23-5, quân Pháp vào thành tàn sát dân chúng vô cùng
tàn ngược, bạ ai cũng bắn giết, hầu hết là dân thường không mang
khí giới, đàn bà, trẻ con. Sô' người bị chết có hàng vạn. Sau chúng
xé xác ra chôn trong ba thủa ruộng lớn, nay gọi là Ba Điền. Việc
này các sách của Tây không nói. VNSL cũng không chép. Đán Huế
có tục ngày 23 tháng 5 âl, mọi nhà đều làm cơm rưỢu cúng các oan
hồn, bày ra trước cửa. Sau năm 1945, dân Huế lấy ngày 23-5 âl là
ngày lễ các binh sĩ và nhân dân chết trận.

Trận này, quân Pháp chết 16 người, bị thương 80 người. Sách


Tây chép quân ta chết vài ngàn người, còn bao nhiêu khí giới,
lương thực và hơn một triệu quan tiền đều mất cả.
Nguyễn Văn Tường cho người vào điện xin rước vua và tam
cung: Thái hoàng thái hậu Từ Dụ, thái hậu mẹ nuôi Dục Đức và
thái phi mẹ nuôi Kiến Phúc, tạm lánh đi. Xa giá qua làng Kim
Long, đến chùa Thiên Mụ thì Tôn Thất Thuyết rước về Trường
Thi, rồi lại lên đường, nghỉ đêm tại nhà một bá hộ. Hôm sau, lại ra
526
đi, đến tối mới đến Quảng Trị. Tuần phủ Trương Quang Đản
(nguyên tổng đốc Bắc Ninh, thua quân Pháp phải giáng) đón vào
hành cung.
Bấy giò, vương tôn công tử, người cưỡi ngựa, kẻ đi bộ, dân
gian trẻ cõng già, đàn bà dắt trẻ con, ai nấy chạy hốt hoảng tìm
đường tránh khỏi chỗ binh đao.
0 Huế, quân Pháp chiếm thành trì. Các quan người đi theo
xa giá, người ẩn nấp, chưa ai dám ra. Nguyễn Văn Tường, theo
lệnh bà Từ Dụ ở lại thu xếp mọi việc, vào nhà giám mục Caspard,
nhờ đưa ra thú với De Courcy. Thông tướng hẹn cho trong hai
tháng phải làm cho xong mọi việc.
Tường viết thư ra Quảng Trị xin rước xa giá trở về kinh để
cho yên lòng người. Tôn Thất Thuyết dấu tò sớ đi. Ai cũng muốh
rước xa giá lên Tân sở để lo liệu việc khôi phục. Nhưng bà Từ Dụ
nhất định không chịu đi. Thuyết rước vua lên Tân sở. Mấy hôm
sau, Tường lại đưa tin ra xin rưóc xa giá trở về Huế, mọi việc đã
thu xếp xong. Từ Dụ cho người đi rước vua trở về nhưng không
tìm được. Thuyết biên thư trình rằng Tường phản trắc, không nên
tin. Sau Tường lại dâng sớ giục xa giá trở về. Tam cung bèn trở về
Khiêm cung.
Trong khi vắng vua, De Courcy đặt Thọ Xuân là giám quốc,
giao quyền binh bộ thượng thư cho khâm sứ De Champeaux, bãi
việc binh lính của ta, gọi kinh lược Bắc Kỳ Nguyễn Hữu Độ và
tổng đốc Nam Định Phan Đình Bình về Huế cùng Nguyễn Văn
Tường coi việc cơ mật.
QUÂN CẦN VƯƠNG - Tôn Thất Thuyết ở Quảng Bình làm hịch cần
vương truyền đi các nơi. Lập tức dân chúng hăng hái hưởng ứng. Chỉ
trừ mấy chỗ chung quanh kinh thành, còn từ Bình Thuận trở ra đến
Nghệ An, Thanh Hoá, chỗ nào sĩ dân cũng nổi lên, đổ cho dân bên đạo
gây thành mối loạn, rồi đến đốt phá những làng có đạo. Sách Tây chép
dân đạo có 8 cô" đạo và hai vạn người bị giết.
De Courcy thấy chỗ nào cũng loạn, trở ra bắc, hội các tướng
bàn sự đánh dẹp, cử đại tá Pernot đem 1.500 quân Huế ra đuổi
Tôn Thất Thuyết, sai De Négrier đem đạo quân từ Thanh Hoá
đánh vào. Nhưng chính phủ Paris không cho dùng đại binh, vả lại
bấy giò ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ có bệnh dịch tả. Quân Pháp chết
hại đến 3, 4 ngàn người nên việc động binh phải đình lại.
De Courcy trước có hạn cho Nguyễn Văn Tường phải bình
định xong xứ sở. Hạn đã hết, có nhiều người không ưa Tường, xui
527
thống tướng trị tội. Ngày 6-9-1885 (âl 28-7), De Courcy bắt nguyên
phụ chính Nguyễn Văn Tường, thượng thư bộ hộ Phạm Thận Duật
và Tôn Thất Đính, thân sinh ra Thuyết, đem đày ra Côn Lôn.
Phạm Thận Duật mất trong lúc đi tàii, phải ném xuông biển.
Tường sau phải đày ra đảo Haiti ở Thái Bình Dương, ít lâu sau
cũng mất, xác được đem về chôn ở quê nhà.
VUA ĐỒNG KHÁNH LẬP - De Courcy đem Nguyễn Hữu Độ cùng
Phan Đình Bình coi việc triều chính, sai Nguyễn Trọng Hợp ra
quyền kinh lược Bắc Kỳ. De Champeaux lên Khiêm cung yết kiến
bà Từ Dụ, xin lập Kiên Giang quận công Chánh Mông ưng Đường
lên làm vua.
Ngày 14-9-1885 (âl 6-8), Chánh Mông thân sang bên toà
khâm sứ làm lễ thụ phong, rồi làm lễ tấn tôn, đặt niên hiệu là
Đồng Khánh.
Đồng Khánh hiền lành, hay trang sức, cũng muôn duy tân, ở
rất được lòng người Pháp. Đình thần thuận theo chính sách bảo
hộ, trong triều được yên.
Nhưng Hàm Nghi còn ở Quảng Bình, kéo cò nghĩa chống
Pháp, truyền hịch cần vương đi các nơi, mưu khôi phục. Lòng dân
không phục quân Pháp, từ Bình Thuận trở ra, chỗ nào cũng có
người nổi dậy đánh phá. ơ Quảng Nam có bọn thân hào lập Nghĩa
Hội, sơn phòng sứ Trần Văn Dự làm chủ. Các tỉnh Bình Định, Phú
Yên, Bình Thuận đều noi theo, ớ Quảng Trị có Trương Đình Hôi,
Nguyễn Tự Như. ớ Quảng Bình, có nguyên tri phủ Nguyễn Phạm
Tuân, ớ Hà Tĩnh, có ấm sinh Lê Minh, ớ Nghệ An có tiến sĩ
Nguyễn Xuân ô n và sơn phòng sứ Lê Doãn Nhạ. ớ Thanh Hoá có
Hà Văn Mao, v.v... đem quân chiếm giữ tỉnh thành, hoặc đánh lấy
các phủ, huyện, đổt phá những làng có đạo.
Ổ Bắc Kỳ, cựu thần đề đốc Tạ Hiện, tán dương Nguyễn Thiện
Thuật tụ họp ở Bãi Sậy, đánh phá miền trung châu. 0 mạn
thượng du, chỗ nào cũng có giặc khách quấy nhiễu. Quân Pháp
chia binh chông giữ các nơi.
De Courcy để thiếu tướng Prudhomme ở lại Huế, ra Hà Nội kinh
lý mọi việc. Tính khắc khổ và đa nghi nên công việc càng ngày càng
khó thêm. Thủ tướng Pháp Preycinet thấy De Courcy làm lắm việc lôi
thôi, triệu về nước, giao binh quyền cho trung tướng Warnel và sai
quan văn Paul Bert sang làm thôhg đốc kinh lý mọi việc.
HÀM NGHI ở QUẢNG BÌNH - ở Huế, Đồng Khánli lập rồi nhưng
cựu thần nhiều người phò Hàm Nghi chông Pháp. Đại tá
528
Chaumont đóng quân ở Quảng Bình, chặn đường Tôn Thất
Thuyết dùng thông với Bắc Kỳ. ở Thanh Hoá, Nghệ An, văn thân
đánh phá rất dữ. Chaumont về Đà Nang lấy thêm binh và chiến
thuyền ra đóng ở Nghệ An, chia quân tuần tiễu các nơi. Tôn Thất
Thuyết thấy không chông lại nổi quân Pháp, để Hàm Nghi ỏ lại
đồn Vé thuộc huyện Tuyên Hoá tức châu Quy Hợp cũ, cùng đề đốc
Trần Xuân Soạn đi đường thượng đạo, sang cầu cứu bên Trung
Quốc. (Thuyết ra Hưng Hoá, theo thượng lưu sông Đà lên Lai
Châu, nương tựa tù trưởng họ Điêu, sau lánh sang Trung Quốc,
chết già ở Triều Châu, Quảng Đông).
Hàm Nghi ẩn nấp ở vùng huyện Tuyên Hoá, có Tôn Thất
Đạm và Tôn Thấp Thiệp là hai con Tôn Thất Thuyết, cùng với đề
đốc Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân hết sức giữ gìn và đem quân
đi đánh phá mạn Quảng Bình và Hà Tĩnh.
Sang nám 1886, trung tá Mignot đem quân Bắc Kỳ vào Nghệ
An, rồi chia làm hai đạo: một đạo thiếu tá Pelletier đem lính tập theo
sông Ngàn Sâu vào mạn Tuyên Hoá; một đạo Mignot tự đem quân đi
đường quan lộ vào giữ thành Hà Tĩnh, rồi vào đóng ỏ sông Gianh.
ớ Huế lại sai trung tá Metzniger đem quân ra tiếp ứng các
đạo. Quân Pháp đóng ở chợ Đồn và ở Minh c ầ m . Metzniger đem
cố đạo Tortuyaux đi làm hướng đạo, lên lấy đồn Vé. Thế quân
Pháp rất mạnh, ván thân chống lại không nổi, phải tan rã.
QUÂN PHÁP ĐÁNH DẸP CÁC NƠI - Quân cần vương các tỉnh vẫn
đánh phá. Mạn Phú Yên, Bình Thuận, thiếu tá De Lorme và công
sứ Aymonier cùng với Trần Bá Lộc đem lính tây và lính Nam Kỳ
ra đánh dẹp. Lộc dữ dội, chém giết rất nhiều, đất Bình Thuận
không bao lâu yên. Chúng kéo ra dẹp đảng văn thân ở Phú Yên và
Bình Định, bắt được cử nhân Mai Xuân Thưởng, Bùi Điền và
Nguyễn Đức Nhuận, đem chém. Từ tháng 7-1886 đến tháng 7-
1887, các tỉnh phía nam kinh kỳ đã yên.
ĐỔNG KHÁNH RA QUẢNG BÌNH - Từ Quảng Trị trở ra chưa đưỢc
yên. Người Pháp đưa Đồng Khánh ra tuần thú mặt bắc, mưu dụ
Hàm Nghi và các đại thần về cho yên, cử đại uý Henry Billet đi hộ
giá. Từ ngày 16-5 đến cuối tháng 7 âl năm 1886, xa giá ra Quảng
Bình. Cựu thần vẫn không phục, cứ đem quân đến chống cự. Việc
đi tuần thú ấy không có kết quả gì.
HOÀNG KẾ VIÊM RA QUÂN THỨ MẠN QUANG BÌNH - Người Pháp
lại khiến Đồng Khánh khôi phục nguyên hàm cho Hoàng Kế Viêm
và phong làm hữu trực kỳ An phủ kinh lược đại sứ, được quyền
529
tiện nghi hành sự, để ra Quảng Bình dụ Hàm Nghi các cựu thần
về. Đồng Khánh hạ dụ nếu Hàm Nghi thuận về sẽ phong tổng
trấn ba tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, cấp cho bổng lộc theo
tước vương; các cựu thần về đưỢc phục nguyên chức và bổ dụng ở
các tỉnh từ Quảng Trị trở vào. Nguyễn Phạm Tuân, Trần Xuân
Soạn, Phan Đình Phùng, chịu về sẽ được tha điều lỗi trước và được
phong chức vụ khác. Thống đốc Paul Bert đã thuận cho như thế.
Bấy giò, Lê Trực đóng quân ở mạn Thanh Thuỷ, thuộc huyện
Tuyên Chánh. Tôn Thất Đạm đóng ỏ ngàn Hà Tĩnh về hạt Kỳ Anh
và Cẩm Xuyên. Tôn Thất Thiệp và Nguyễn Phạm Tuân phò Hàm
Nghi ở mạn Tuyên Hoá.
Hoàng Kê Viêm sai người đi dụ. Bọn Lê Trực nhất định
không chịu, chỉ lác đác có vài thủ hạ ra thú mà thôi. Hoàng Kê
Viêm không được việc gì, tháng 6-1887 lại phải triệt về.
QUÂN PHÁP ĐÓNG ĐỒN MINH CẦM - Dùng cách phủ dụ mãi
không được, người Pháp đổi kê hoạch. Chúng không dùng đại binh
đi tiễu phạt, do biết rằng thế lực Hàm Nghi không bao nhiêu, côt
tìm đường chiếm dần địa thế, rồi mua chuộc những đứa tay trong
thì rồi cũng có thể trừ hết được.
Sang năm 1887, Monteaux đem quân lên lập đồn Minh c ầ m ,
đóng ỏ mé trên Thanh Thuỷ. Monteaux đưa thư dụ Lê Trực về
thú, kể rõ thế quân chông đốì không lâu dài được. Lê Trực phúc
thư: “Tổì vì vua, vì nước, sốhg chết một lòng cho hết bổn phận,
không tham sốhg mà quên việc nghĩa”. Lê Trực lui quân ra mạn
Hà Tĩnh. Nguyễn Phạm Tuân lên đóng ở làng Yên Lộc. Bọn
Nguyễn Phạm Tuân, bất ý, bị bắt cả. Nguyễn Phạm Tuân trúng
đạn, mấy ngày sau chết.
VUA HÀM NGHI BỊ BĂT - Có người ra thú, mách với Monteaux
rằng muôn bắt được Hàm Nghi thì mUu với Trương Quang Ngọc,
người hầu cận vua, khí độ tiểu nhân, có thể mua chuộc được.
Monteaux gửi thư cho Ngọc, bảo hắn dụ dỗ Hàm Nghi về. Bấy giờ,
Tôn Thất Thiệp giữ gìn Hàm Nghi nghiêm ngặt, thề sông chết
không để quân Pháp bắt, hễ ai nói về thú thì bắt chém ngay, cho
nên Ngọc không làm gì được. Mé ngoài thì Lê Trực và Tôn Thất
Đạm nay đánh chỗ này, mai phá chỗ khác, quân Pháp không sao
bắt được.
Mùa xuân năm 1888, Monteaux về Pháp nghỉ. Đại uý coi đạo
quân ở Huế ra Quảng Bình, chia quân tuần tiễu tìm Hàm Nghi và
đuổi bắt Lê Trực và Tôn Thất Đạm, suốt 9 tháng, quân lính mỏi
530
mệt mà không thành công. Có tên suất đội Nguyễn Đình Tình ra
thú, khai rõ tình cảnh và chỗ ở vua đóng. Người Pháp sai Tình lên
dụ Ngọc về.
Chúng tình nguyện đi bắt vua Hàm Nghi. Người Pháp
truyền phải làm thế nào bắt sông được vua, còn những người khác
chông cự thì cứ việc giết đi.
Ngày 30 - 10 - 1888 (âl 26-9), Ngọc và Tình đem hơn 20 thủ
hạ lên vây làng Tả Bảo, chỗ Hàm Nghi đóng. Đến độ nửa đêm,
chúng xông vào Tôn Thất Thiệp còn ngủ, vừa cầm gươm nhảy ra,
bị chúng đâm chết. Hàm Nghi thấy Ngọc phản, cầm gươm đưa cho
nó bảo: Mày giết tao đi còn hơn đưa tao nộp cho Tây. Chúng nó lẻn
ra sau ông, ôm choàng lấy lưng, giựt thanh gươm ra. Sáng hôm
sau, bọn tên Ngọc võng ông ra bến Ngã Hai, đem xuống đò, đi hai
ngày về đồn Thanh Lang, nộp cho đại uý Boulanger. Đại uý đưa
ông về đồn Thuận Hải, đóng ỏ tả ngạn sông Gianh, gần Chợ Đồn.
Hàm Nghi bấy giò 18 tuổi. Quân Pháp lấy vương lễ tiếp đãi, sau
đem xuông tàu. đưa về Thuận An, rồi đem an trí sang Algérie, mỗi
năm cấp cho 25.000 francs.
Ngọc được thưởng hàm lãnh binh, Tình chức quản, thủ hạ
người hàm xuất đội, người mấy đồng bạc.
Tôn Thất Đạm ỏ ngàn Hà Tĩnh, nghe tin Hàm Nghi bị bắt,
hội tướng sĩ lại, truyền cho ra thú để vê' làm ăn, viết hai bức thư:
một cho Hàm Nghi xin tha cho mình làm tôi không cứu được vua,
một gửi thiếu tá Dabet đóng ở Thuận Hải, xin cho bọn thủ hạ ra
thú, đừng bắt tội. Nói: “Bây giờ người Pháp muôn bắt ta thì vào
tìm thấy mả ta ở trong rừng”. Đoạn thắt cô tử tận. Hai con Tôn
Thất Thuyết xứng danh là bậc anh hùng.
Lê Trực đem hơn 100 quân ra thú ở đồn Thuận Bài. Người
Pháp trọng ông trung nghĩa, cho về quê nhà yên nghiệp. Sau ông
vê làng Thanh Thuỷ, thuộc huyện Tuyên Hoá, Quảng Bình ở.
Đến đây, cuối năm 1888, tình hình đã tạm yên tĩnh. Công
cuộc nhân dân ta vũ trang chông chọi quân cướp nước tạm thời
chấm dứt. Trưóc kia, chúng tưởng chỉ với 400 lính có thể chiến
ngay được Bắc Kỳ và Trung Kỳ làm thuộc địa, không ngờ bị sĩ dân
ta khắp nơi dai dẳng nổi dậy chông cự lại suốt 5, 6 năm. Chính
qủốc phải nhiều lần cho thêm quân đội sang tiếp viện. Sô" binh sĩ
đi yiễn chinh lên tới hơn 2 vạn người, mà vẫn không sao bình định
được. Sô" người Pháp bị tử trận không nhiều lắm nhưng rất nhiều
người chết vì bệnh, nhất là về bệnh dịch tả, có đến hơn hàng ngàn.
531
Đến nỗi, bên Pháp, nhiều người trong chính giới, CUỐI năm 1885,
muốh bãi binh, bỏ Bắc Kỳ. Thủ tướng Brisson vẫn muốh giữ. Nghị
viện họp đầu phiếu thì có 274 phiếu thuận, 270 phiếu phản đốì.
Tuy vậy, lũ tư bản thực dân vẫn cố tình xây dựng cho bằng được
nền đô hộ trên đất nước ta.
VUA THÀNH THÁI LẬP - Ngày 28-1-1889 (âl 27-12 Mậu Tý),
Đồng Khánh phải bệnh mất, làm vua 3 năm, hưởng linh 25 tuổi,
tức vị do người Pháp dựng, thân Pháp. Công nghiệp không có gì.
Bấy giò, Rheinart lại sang làm khâm sứ, thấy con Đồng
Khánh còn nhỏ và lại thấy Dục Đức ngày trước, khi còn Tự Đức,
thường hay đi lại, nên nghĩ tình cũ, truyền lập Bửu Lân, con Dục
Đức lên làm vua. Bửu Lân bấy giờ 10 tuổi, đang cùng với mẹ, bị
giam lỏng ở Khiêm lăng (lăng Tự Đức). Triều đình rưốc ra, tôn lên
làm vua, đặt niên hiệu là Thành Thái, cử Nguyễn Trọng Hợp và
Trương Quang Đản làm phụ chính.

Bà Dục Đức và Bửu Lân bị giam lỏng ỏ Khiêm làng, chứ


không phải trong ngục như VNSL đã lầm. Khi các quan vào đón
Bửu Lân về làm vua, bà Dục Đức cc từ chôl cho con không được.
Khi lên võng rồi bà cố ý giằng lại cũng không được.

NGƯỜI PHÁP DỤNG NỂN


ĐÔ HỘ BA NƯỚC ĐÔNG DƯƠNG
LẬP PHỦ THỐNG SỨ BẮC KỲ - Tháng 4-1886, thống đốc Paul
Bert sang Bắc Kỳ, lập tức đặt phủ thông sứ Bắc Kỳ ở Hà Nội và sỏ
kiểm soát việc tài chính. Paul Bert vào Huế yết kiến Đồng Khánh,
đòi lập nha kinh lược ở Bắc Kỳ, cho kinh lược đại sứ được quyền
cùng với phủ thống sứ tự tiện làm mọi việc, viện cớ ngoài bắc vào
kinh đường sá xa xôi, có việc phải tâu bẩm vào bộ mất nhiều ngày
giò, tâu nên cho được tự tiện làm việc, trong năm độ vài kỳ đem
các việc về vua biết.
Paul Bert một mặt lo đánh dẹp, một mặt mở trường Pháp
Việt lập thương nghiệp cục, đặt lệ đồn điền, chủ ý muốh khai thác
đất Bắc Kỳ chóng được thịnh lợi.
Paul Bert mất tháng 11-1886. Bihourd sang thay.
LẬP PHỦ TỔNG ĐỐC TOÀN QUYỀN - Nưốc Pháp lấy đất Nam Kỳ,
lập bảo hộ nước Campuchia, rồi Bắc Kỳ và Trung Kỳ, mở thuộc
địa lớn, buổi đầu mỗi xứ có một thủ hiến coi việc chính trị. Đến
năm 1887, chính phủ Pháp mới đặt phủ đại thốhg đổc (gouverneur
532
général) - ta quen gọi là tổng đốic toàn quyền - điều khiển cả mấy
xứ. Constant, người đầu tiên sung chức này, đóng tại S ềi Gòn.
VIỆC ĐÁNH DẸP ở BẮC k ỳ - Quân Thanh đã rút về nước, nhưng
các cựu thần như tán tương quân vụ Nguyễn Thiện Thuật và đề
đốc Tạ Hiện còn giữ vùng Bãi Sậy, thuộc Hải Dương và Hưng Yên,
cùng với các thổ hào như đốc Tiết vùng Đông Triều, đề Kiều ở
Cát Trù, vùng Hưng Hoá, cai Kinh, Đốc Ngữ, vùng Bắc Giang,
Yên Thế; Lương Tam Kỳ, dư đảng quân Cờ Đen, ở vùng Chợ Chu,
Thái Nguyên, nổi lên hưởng ứng với nhau đánh phá.
Quyền kinh lược sứ Nguyễn Trọng Hợp cử quyền tổng đốc
Hải Dương Hoàng Cao Khải làm tiễu phủ sứ, quyền tuần phủ
Hưng Yên Lê Hoan làm chức phó, đi đánh dẹp vùng Bãi Sậy.
Nghĩa quân Bãi Sậy tổ chức rất có phương pháp, có tính cách du
kích, ẩn hiện khó lường. Hoàng Cao Khải và Lê Hoan đem quân đi
đánh riết mấy mặt, đồng thòi phủ dụ dân chúng bỏ nghĩa quân
mà đi theo Pháp. Bọn văn thân, người tử trận, người bị bắt giết
nhiều. Nguyễn Thiện Thuật sau chạy sang Trung Quốc, rồi sang
Nhật Bản cầu cứu, và mất ở Nam Ninh, Quảng Tây. Binh quyền
trao lại cho Đổc Tít và Hai Kế.
Nguyễn Xuân Tiết ra hàng, phải đày sang ở thành Alger bên
Algérie. Lương Tam Kỳ ra thú, được phong là phòng phủ sứ Định Hoá,
mở sòng bạc ở đấy là Chợ Chu. Đề Kiều, theo lòi dụ của Lê Hoan, ra
thú, được phong làm lãnh binh Phú Thọ. Cai Kinh bị bắt, đốc Ngữ ra
thú. Riêng Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế, nay hàng mai đánh, giữ được
vùng ấy mãi đến năm 1909 mới bị đánh đuổi, đến 1912 bị giết.
Tên đại đồ tể Hoàng Cao Khải có công lớn với Pháp, được
phong chức kinh lược Bắc Kỳ, tước Duyên Mậu quận công, Lê
Hoan, chức tổng đốc Bắc Ninh.
CUỘC KHỞI NGHĨA ĐÌNH PHÙNG - Phan Đình Phùng, người Hà
Tĩnh, thi đỗ đình nguyên, lĩnh chức ngự sử, từng phản đối Tường,
Thuyết về việc phế Dục Đức, phải cách quan, sau đứng đầu văn
thân chốhg cự quân Pháp, phò Hàm Nghi lưu vong ở Quảng Bình.
Sau khi Hàm Nghi bị bắt cho đến năm 1893, đất Trung Kỳ không
có việc quan hệ lắm. Cựu thần người về thú, người ẩn nấp chốn
sơn lâm. Riêng Phan Đình Phùng về mở điền trang ở Vũ Quang,
phía bắc huyện Hương Khê, Hà Tĩnh, cho ngưồi sang Trung Quốc,

Nguyên Xuân Tiết, còn có tên nữa là Nguyễn Ngọc Tích, người Hải Dương, dòng dõi
vua nhà Mạc, được vua Hàm Nghi phong làm đề đốc quân vụ Hải Đông, tục hiệu Đốc Tít.
Ông lập căn cứ ở Đông Triều, Thuỳ Nguyên, Cát B à ... chống Pháp.

533
sang Xiêm La, học đúc súng đạn, đợi ngày khởi sự. Có tài văn
chương, lại có thao lược, sửa sang quân đội có cơ ngũ, luyện tập
tướng sĩ có kỷ luật, theo phương pháp Thái tây. Cao Thắng, phó
tướng, đúc súng tinh vi như súng của Pháp, chỉ vì lòng súng
không xẻ rãnh nên đạn không đi đưỢc xa.
Mùa đông nám 1893, khởi sự. Việc đầu tiên, nghĩa quân vây
nhà Trương Quang Ngọc ở làng Thanh Lang, Tuyên Hoá, bắt
chém đầu, báo thù việc hắn phản trắc. Từ đó, nghĩa quân vẫy
vùng ỏ mạn Hương Khê. Đảng văn thân cũ lại về tụ họp.
Người Pháp không dùng đại quân sỢ náo động lòng người bên
chính quốc nên chỉ sai quan đem lính tập đi đánh. Đánh từ cuối
năm 1893 đến CUỐI năm 1895, ngót hai năm không dẹp yên được.
Quân lính chết hại nhiều. Quan Pháp sai Hoàng Cao Khải, lấy
tình đồng hương, viết thư dụ về hàng nhưng không lay chuyển
được lòng trung dũng của ông. Chiến sự dai dẳng mãi không yên.
Người Pháp lại khiến triều đình Huế cử Nguyễn Thân, tổng đốc
Bình Định, khâm mạng tiết chế quân vụ, đem quân ra tiễu trừ.
Phan Đình Phùng bấy giờ tuổi đã già, thế lực mỗi ngày một
kém, lại phải nay ẩn chỗ này, mai chỗ kia, lao khổ vô cùng. Khi
Nguyễn Thân ra đến Hà Tình thì ông đã phải bệnh mất rồi.
Nguyễn Thân đánh dư đảng văn thân tan vỡ, ai trôh thoát thì
thôi, ai ra thú phải đưa về kinh chịu tội.
Đại Việt gian Nguyễn Thân đưỢc thăng làm phụ chính, thay
Nguyễn Trọng Hợp về hưu.
ĐÀ NĂNG, HÀ NỘI VÀ HẢI PHÒNG THÀNH ĐẤT NHƯỢNG ĐỊA - Từ
khi việc đánh dẹp các nơi đã yên, các đại thông đốc (toàn quyền)
lần lượt sang kinh doanh việc Đông Dương, lo mở được kinh tế,
chính trị và xã hội theo chính sách của người Pháp đô hộ.
Năm 1888, tức là năm Thành Thái nguyên niên, Richaud
sang làm đại thông đốc toàn quyền, ép triều đình Huế ký giấy
nhường hải cảng Đà Nang, thành phô" Hà Nội và Hải Phòng cho
nước Pháp là đất nhượng địa. Từ đó, việc cai trị và pháp luật ở ba
nơi này thuộc về nước Pháp. Việc cai trị ở các tỉnh trong toàn hạt
Bảo hộ (Trung, Bắc Kỳ) vẫn để quan bản xứ làm việc nhưng phải
do người Pháp điều khiển và kiểm duyệt.
ĐẶT CHẾ Đ ộ BẢO H ộ TRÊN Nước AI LAO - Chính qU yền thuộc địa
mỏ mang thêm bò cõi vê' phía tây. Nguyên đất nước Ai Lao ngày
534
trước vẫn thần phục nước ta. Các xứ Trấn Ninh, Cam Môn, Cam
Cát, v.v... dưới triều Minh Mệnh đã lập thành phủ, huyện và đặt
quan cai trị. Sau nước ta suy nhược, lại có chiến tranh với Pháp
nên Xiêm La mới nhân dịp sang chiếm giữ lấy. Sau lại có Pavie,
ngưồi Pháp, sang dụ Ai Lao nhận sự bảo hộ của nước Pháp. Đầu
nám 1893, quân Pháp sang lấy những đất cũ thuộc về nước ta
trước. Quân Xiêm La ở mạn Cam Môn giết một quan binh Pháp.
Người Pháp sai hải quân đem hai tàu chiến vào sông Mé Nam, lên
đậu ở gần thành Băng Cốc. Ngày 3-10-1893, Xiêm La phải ký hoà
ước nhường những đất Ai Lao cho Pháp bảo hộ và rút quân về, lại
phải bồi thường hai triệu francs và phải trị tội những người chông
cự với Pháp.
Người Pháp lập phủ thống sứ (résidence supérieure) ở Viêng
Chăn để cai trị các địa hạt Ai Lao.
Nước Ai Lao cũng thuộc đại thốhg đổc (gouverneur généraí)
cai trị cả liên bang Đông Pháp.
Người Pháp lại đòi được nước Xiêm La phải trải lại cho nước
Campuchia ba tỉnh miền đông tức là miền tây Campuchia, mà
xưa Campuchia đã nhường cho Xiêm La.
T ổ CHỨC CAI TRỊ THỜI PHÁP THUỘC - Người Pháp chiếm đoạt
đất nước ta và hai nước Ai Lao và Campuchia, dựng nên thuộc địa
lớn ở đông nam Á châu, gọi tên là Đông Pháp (Indochine
tranẹaise).
Nước ta bị chia ra làm ba xứ, có chính thể khác nhau. Người
đi qua lại xứ này sang xứ kia phải có giấy thông hành của chính
quyền Pháp. Nam Kỳ là đất nhường hẳn cho Pháp làm thuộc địa.
Trung, Bắc Kỳ là hai xứ bảo hộ, như có ý nói là vẫn là nước Việt
Nam do vua quan người Việt Nam cai trị, nước Pháp giúp đỡ che
chở cho mà thôi. Thực sự chỉ là một hình thức thuộc địa, mọi
quyền hành chính trị, kinh tế, văn hoá, ngưồi Pháp nắm giữ hết.
Vua quan ta chỉ còn là bù nhìn, người máy do thực dân Pháp điều
khiển, không còn có thực quyền gì.
Thủ hiến Đông Pháp là đại thông đốc (gouverneur général),
ta quen gọi là toàn quyền, đóng ở Hà Nội, Tại Sài Gòn cũng có
dinh toàn quyền thường có đi về thì ở đấy.
Năm xứ Đông Pháp thì Nam Kỳ có thông đốc (gouverneur)
đứng đầu. BôA xứ kia có lưu trú cao cấp (résident supérieur). Ta
quen gọi là thông sứ Bắc Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, Ai Lao,
Campuchia, do ndi có vua không tiện dùng tiếng thống sứ.
535
Tại phủ toàn quyền và các phủ thốhg, khâm sứ, có những
nha sở các ngành, do các giám đốic người Pháp chỉ huy.
0 Trung Kỳ, vẫn còn có vua và các quan triều như cũ nhưng thực
sự chỉ là đặt ra cho có hình thức. Triều đỉnh không có thực quyền. Mọi
công việc đều phải có sự thoả thuận với toà Khâm sứ. Đến thuế thương
chính thì vua quan ta không dự Bảo Đại chỉ có quyền sắc phong cho
bách thần, ngoài ra không có việc ^ là không do người Pháp làm.
0 Bắc Kỳ, năm 1886, có đặt nha Kinh lược thay mặt triều
đình bên cạnh phủ thống sứ. Công việc chính của nha này là bổ
dụng quan lại và ban phẩm hàm cho tổng lý và các người có công
lao. Năm 1895, toàn quyền Paul Doumer bãi bỏ nha này, trao mọi
quyền cho phủ thông sứ kiêm nhiệm.
Chính quyền Pháp chia nhỏ các tỉnh tiện cho người Pháp nắm
quyền trực tiếp cai trị sâu vào dân ta. Nam Kỳ 6 tỉnh cắt ra làm 28,
Bắc Kỳ 13 tỉnh chia ra làm 27. Trung Kỳ ít dân chỉ đặt thêm Ninh
Thuận do cắt tỉnh Khánh Hoà và Bình Thuận dựng nên. Sau có đặt
thêm mấy tỉnh miền cao nguyên.
Tỉnh trưởng là viên cai trị lưu trú sứ Pháp (Administrateur
résident de Prance), ta quen gọi là công sứ. Các thành phô" lớn có
đốc lí (résident —maire) làm thủ hiến. Dưới công sứ hay đốc lí có
viên phó và các ty: Ngân khô", thương chính, công chính, địa chính,
cảnh sát, y tê", học chính, bưu điện, kiểm lâm. Các ty tỉnh cũng do
viên chức người Pháp điều khiển. Riêng ty niết (tư pháp) chỉ mấy
tỉnh lớn có chánh thẩm phán, các tỉnh khác thì công sứ kiêm
nhiệm. Tại các tỉnh Bắc Kỳ và Trung Kỳ, có các quan ta là tổng
đô"c hay tuần phủ cai trị, thực sự chỉ có tiếng suông là ngang hàng
với công sứ (!) mà chỉ làm công việc hành chính thuộc quyền công
sứ quan tây chỉ đạo. Ty phiên chẳng hơn gì mấy các ty khác. Theo
nguyên tắc, quan lại ở Bắc Kỳ thông thuộc triều đình Huê", thực sự
nhà vua chỉ ban sắc chỉ cho các người được thốhg sứ phong.
Có sự kỳ quặc là đại diện của triều đình Việt Nam ở Bắc Kỳ
lại là thốhg sứ người Pháp. Tổng đô"c phải thuộc quyền viên cai trị
(administrateur).
Dưới cấp tỉnh, ở Trung, Bắc Kỳ là phủ, huyện, châu do tri
phủ, tri huyện, tri châu người bản xứ cai trị. Các viên chức này do
chính quyền thực dân bổ dụng. Nam Kỳ không có cấp phủ huyện.
Các cai tổng thuộc thẳng cấp tỉnh.
Dưới nữa là tổng, xã do cai phó tổng và các hương chức dân cử
cai trị. Các viên chức tổng xã không được trả lương như công chức.
536
Lương hưỏng trả cho viên chức ngưòi Pháp rất hậu hĩ, còn
trả cho người bản xứ lại rất ít ỏi. Toàn quyền mỗi tháng lĩnh 6.000
đồng lương và 6.000 phụ cấp tiền khác, công sứ trên một ngàn,
giám binh, cảnh sát trưởng cũng 5, 6 trăm. Lương công chức bản
xứ thì lính lệ, lao công 6 đồng, giáo viên, thư ký 30 đồng, tri huyện
100 đồng kể là cao. Giá gạo thì 8 đến 10 đồng 100 kí.
Các viên chức người Pháp sang ta ít có người tốt, phần đông
đều giả dôi, rất nhiều kiêu ngạo, hách dịch. Tuy được hưởng lương
hậu mà vẫn có khá nhiều người tham nhũng.
VIỆC BINH BỊ - Để phòng giữ, chính quyền Pháp lập ra những
đội lính bảo an, lấy người bản xứ làm lính, ta quen gọi là lính khô"
xanh, do nón có quai và xà cạp màu xanh lơ. Loại lính này canh
giữ các dinh thự, công sở tại các tỉnh lỵ, đóng đồn các nơi thôn quê
xa xăm phòng giữ trộm cướp. Người bản xứ tòng quân chỉ được
thăng dần đến cấp cai, đội, quản. Mỗi tỉnh có giám binh và mấy
đồn trưỏng chỉ huy, thuộc quyền tỉnh trưởng là công sứ quan văn.
Lại có những đội lính cơ, gần giông như lính khô" xanh, mà
dùng màu lục, cũng thuộc giám binh khô" xanh cai quản mà đặt
thuộc quyền các quan tỉnh và phủ, huyện, châu.
Lính chiến (armée) có lấy nhiều người bản xứ làm lính
(tirailleurs), một loại binh trong quân đội Pháp. Ta quen gọi là lính
khô" đỏ, do xưa có quai nón và xà cạp màu đỏ. Loại lính này do các sĩ
quan người Pháp chỉ huy, thuộc Bộ chiến tranh Pháp. Lính khô" đỏ
đóng đồn tại các vị trí quan trọng và những nơi hiểm yếu vùng biên
giới, cũng đưa sang đóng ở bên nước Pháp và các thuộc địa Pháp
khác. Khi có việc quan hệ, cùng đi đánh dẹp với lính Pháp.
CÔNG VIỆC CHÍNH QUYỂN PHÁP ĐÃ LÀM - Để tiện việc hành binh và
việc thương mại, chính quyền Pháp trước hết lo sửa sang và mở mang
đường sá cho tiện sự giao thông. Có đường thì khi hữu sự việc đánh
dẹp mới tiện lợi và việc buôn bán cũng dễ dàng. Nhiều con đường xưa
nhỏ hẹp được mở mang rộng lớn. Nhiều cầu sắt bắc trên các sông lớn
nhỏ. Những trạm và đường dây thép được đặt để tiện lợi sự thông tin.
Đường sắt hoả xa sớm được xây cất. cầu Giốc Gạch (Long Biên) - ngưòi
Pháp gọi là cầu Doumer - bắc qua sông Hồng, nối Hà Nội với Gia Lâm
là một công trình to lớn.
Về y tê", nhà thương và nhà hộ sinh được mỏ tại các thành
phô" và tỉnh lỵ, chữa bệnh theo y học Thái tây. Ngưồi bệnh nghèo
có nhà thương làm phúc do nhà nước và các tổ chức tôn giáo xã hội
mở ở một sô" nơi.
537
về công chính, ngoài sự làm đường sá cầu công, cũng có việc
đào sông ngòi, xây đập (barrage) là công cuộc có ích lợi vệ nông
nhưng thường chỉ tại nời có điền trang người Pháp.
Về học chính vẫn để các đốic học, giáo thụ, huấn đạo dạy chữ
Hán tại lỵ sở các tỉnh và một sô" phủ huyện, c ả Trung, Bắc Kỳ mối
có một trường thông ngôn ở Hà Nội là bậc trung học. Tại mấy tỉnh
lớn có mở trường tân học dạy chữ quốc ngữ, làm tính dùng chữ sô"
A Rập cùng chữ Pháp. (Sang thê" kỷ XX, tân học mới được mở
mang đôi chút).
Đồng thòi, nhiều nhà tù dựng lên khắp nơi, giam giữ nhiều
chính trị phạm như thường phạm. Miền trung du và thượng du có
những nhà tù lớn. Nhiều người yêu nước, không chịu hỢp tác, mà
lại chông đốì Pháp dù không bạo động đều bị đưa lên đó lao động
khổ sai.
NGƯỜI PHÁP KHAI THÁC CÁC TÀI NGUYÊN - Nhiều người Pháp "
sang mở các thương điếm, nắm giữ độc quyền xuất nhập khẩu,
mặc sức mua rẻ bán đắt. Công ty Điền Việt của người Pháp dựng
đường sắt hoả xa, thông từ Côn Minh, thủ phủ Vân Nam ra đến '
hải cảng Hải Phòng, qua nhiều tỉnh Bắc Kỳ. Tư bản Pháp dựng
các nhà máy; máy sỢi, máy tơ, máy rượu, diêm, xi măng, gạch
ngói, v.v... dùng rất nhiều nhân công ta, làm việc nhiều giờ trả
công rẻ mạt.
Chính quyền thực dân lại cấp cho đồng bào chúng chiếm hữu
khai thác các mở than và mỏ kim khí, nhất là mỏ than ở Quảng
Yên và Hải Dương, thu lợi nhuận rất lớn. Jean Dupuis được cấp
mỏ than đá Đông Triều, đền bù việc Philastre phá mất những việc
hắn đã làm với Prancis Garnier.
Chúng lại cấp đất miền trung du và thượng du cho tư nhân
Pháp lập trang trại, ta quen gọi là đồn điền, không chỉ lằ đất chưa
khai khẩn hay bị bỏ hoang mà cả xã cả tổng rộng lớn đang trồng cấy
phần nhiều là của dân thiểu sô" miền núi không có giấy tò chủ quyền.
Việc chính quyền “bảo hộ” cấp ruộng đất và hầm mỏ cho
người Pháp là chiếm đoạt trắng trỢn. Các hoà ước không có khoản
nào nói đến cả. Theo nguyên tắc thì vua là mới là chủ nhân ruộng
đất sông núi.
Nhân công làm việc tại các nhà buôn, nhất là tại các nhà
máy, hầm mỏ, đồn điền bị bóc lột tàn nhẫn đến vô nhân đạo, làm
việc ngày 12, 14 giò, mà công xá chỉ đủ ăn. Tai nạn lao động
không được đền bù gì mấy.
538
CÔNG, TỘI CỦA THựC DÂN PHÁP ĐÔ HỘ - Trong khi còn cầm
quyền ở nước ta, người Pháp luôn luôn kể “công ơn khai hoá”, dìu
dắt dân ta lên đường tiến bộ văn minh, nâng cao đòi sốhg đại
chúng, giữ trị an không còn giặc giã quấy nhiễu, làm đường sá cầu
cốhg, dựng nhà thương, trường học, mở nhà máy khiến hàng triệu
người có cơm ăn việc làm. Để khai thác chế độ thuộc địa, khách
quan, thực dân Pháp cũng có làm đưỢc một sô" công việc có lợi cho
dân ta, song phần nhiều lại có lợi cho chúng trước hết, về văn
minh vật chất, dân quê ta chiếm 90% tổng sô", chỉ được biết ngọn
đèn dầu hôi và sô" ít trẻ con được biết đến chủng đậu. Công lao ít ỏi
của chúng không thấm tháp gì so với những tội lỗi lớn lao mà thực
dân Pháp để lại. Nào là sưu cao thuế nặng, đặt thêm các thuế mới
về rượu, thuốc lá, thuê chợ, thuê" đò, độc quyền mua rẻ, bán đắt,
bóc lột nhân công lao động, bắt trai tráng đi lính bảo vệ quyển lợi
của chúng, dùng người Việt giết hại người Việt (các đồ tể Trần Bá
Lộc, Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân được phong quan chức trọng
đến phụ chính). Lại dung túng cho quan lại tham nhũng, lính
tráng bắt nạt dân quê. Chúng không chịu cấm thuốc phiện, phù
thuỷ, vàng mã. Xét tội lỗi của thực dân thì đây mới chỉ kể được
một sô", thực ra thì không bút nào tả cho hết được.
Dưới ách thực dân Pháp đô hộ, công ít tội nhiều, nhân dân ta
phải chịu bóc lột cực khổ, trái lại thì có được lợi những gì? Tiếp
xúc với nền văn minh cơ khí vật chất, nâng cao chút ít đòi sông thì
chẳng có chúng, dân ta cũng tiến tới được. Người Xiêm La đâu có
phải nhờ đến chúng.
Khách quan công bằng mà nói thì dân ta có được hai điều lợi
ngoài ý muôn chủ quan của thực dân Pháp:
Một là, nước ta thoát ly hẳn với Trung Quốc, không còn là
thuộc quô"c của nước lớn này nữa. Xưa vua ta phải xưng thần nạp
cống vua Trung Quô"c, chỉ là về ngoại giao, để khỏi bị xâm lăng.
Nhưng người Trung Quốc, Hán cũng như Mãn Thanh, vẫn thường
coi nước ta là một phần đất của họ ở nơi phên dậu (phiên) như
Mông, Mãn, Tạng, Hồi.
Hai là phô biến chữ quốc ngữ m ẫu tự L a tinh, thứ chữ học
biết đưỢc rất chóng, thường chỉ học vài ba tháng đã đọc ngay được
nên rất tiện lợi. (Điều này đã kể ở mục nói về người Pháp mở
trường học ở Nam Kỳ).
539
Nhưng xét lại thì hai điều này cũng là có lợi cho bọn thực
dân Pháp trước hết, mà lại là không đáng gì mấy đối với việc
chúng nô lệ hoá và bóc lột tàn nhẫn nhân dân ta.
Tập sách này mới chỉ chép những sự kiện quan trọng của lịch
sử nước nhà cho đến cuối thế kỷ XIX.
Sang thế kỷ XX, thực dân Pháp tiếp tục cai trị và bóc lột dân ta
đến nám 1945, có làm được một sô" việc công ích thì chỉ là nhỏ giọt.
N h â n d â n t a , n h ữ n g n g ư ờ i y ê u n ư ớ c , k h ô n g c h ị u hỢp t á c v ớ i
ch ú n g , tiế p tụ c n u ô i dưỡng tr u y ề n th ố h g y ê u nư ớc ch ô n g n g o ại
x â m , k h i â m t h ầ m , k h i b ạ o động, b ấ t c h ấ p sự b ắ n g iế t, tù đ ày r ấ t
dã m a n củ a k ẻ th ù .
Vua Thành Thái bất đồng ý phải bỏ ngôi. Vua Duy Tân
chông đôi bị truất phế. Hai ông đều phải đưa đi an trí lại đảo
Réunion thuộc châu Phi.
Chúng bắt rất nhiều lính ta tham chiến cùng lính Pháp trong
hai trận thế chiến lớn và đánh ngưòi Marốc chốhg đối chúng.
Năm 1940, có sự kiện quân đội Nhật Bản sang đóng ở nước ta.
Cuối năm 1944 đến nửa đầu năm 1945, có nạn đói thảm khốíc
ở Bắc Kỳ khiến gần 2 triệu người chết đói, nhất là ở mấy tỉnh
trung châu: Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hà Nam.
Tháng 3 năm 1945, quân đội phát xít Nhật Bản đảo chính
Pháp. Vua Bảo Đại, dưới sức ép của Nhật, tuyên bô" huỷ bỏ hoà
ước triều đình trước bị ép phải ký với Pháp.
Tháng 8 năm 1945, Việt Minh lãnh đạo nhân dân nắm thòi
cơ khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc. Ngày 2 - 9 - 1945,
tại quảng trường Ẹa Đình, thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc tuyên ngôn độc lập, tuyên bô" lật đổ ách thông trị của phát xít
Nhật và thực dân Pháp, huỷ bỏ chế độ quân chủ hàng nghìn năm,
mở nên dân chủ cộng hoà trên đất nước Việt Nam.
Sau đó có sự kiện thực dân Pháp trở lại xâm lược, rồi tiếp
đến hai cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp xâm lược (1946-
1954) và cuộc kháng chiến chông Mĩ cứu nước (1954 - 1975) của
nhân dân ta.
Tháng 4-1975, nước nhà mối hoàn toàn độc lập, thông nhất
và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Những sự kiện này thuộc về thời đ ại hiện kim là thời đại
trước khi cuốh Việt sử kỷ yếu này tạm khép lại.
540
NIÊN BIỂU T ư BẢN THựC DÂN PHÁP ĐÁNH CHIẾM NƯỚC' TA

1684 Alexandre de Rhôdes đề nghị chính quyền Pháp nên đánh


chiếm lấy Đàng Trong và Đàng Ngoài.
1696 Verret được mở cửa hàng ở Côn Lôn, xin chính quyền
Pháp chiếm lấy quần đảo này.
1737 Thổhg đốc Pondichéry Damas trình Louis XV dự án xâm
nhập miền bắc nước ta.
1748 Chủ nhiệm Công ty Đông Ân Dumont đề nghị chiếm cù
lao Chàm.
1749 Pièrre Poivre trình bày tỉ mỉ tình trạng mọi mặt Đàng
Trong, nơi nên chiếm lấy
1753 Saint Palles trình giác thư xin lập căn cứ ở miền bắc nước ta.
1777 Pigneau de Béhaine khuyên Nguyễn Phúc Ánh nên cầu
cứu nước Pháp.
1787 Hiệp ư ớ c t ư ơ n g trỢ Versailles đ ư ợ c k í .
1789 Pigneau đưa về giúp Phúc Ánh tàu, súng, đạn và chí
nguyện quân Pháp.
1797 Đại uý Larcher trình bày kế hoạch đặt cơ sở thương mại
và quân sự ở Philippin và Việt Nam.
1801 Trấn thủ Pondichéry Charpentier de Consigny nhắc lại kế
hoạch xâm lược và xin gửi quân sang Việt Nam.
1812 Napoléon I giao triều đình nghiên cứu việc xâm chiếm
Việt Nam.
1817 Dekergarion đòi nhận đất Hội An và Côn Lôn.
1840 Nhiều tàu chiến Pháp uy hiếp triều Thanh và triều
-1841 Nguyễn. Thủ tướng Guizot nói: Pháp không thể vắng mặt
ở Viễn Đông. Từ năm 1843 đến năm 1847, tàu chiến Pháp
ba lần thị uy ở Đà Nang.
1847 Rigault de Genouilly đốt phá các thuyền của ta ở Đà Nẵng.
1851 Tàu chiến Pháp cập bến ở vịnh Bắc Kỳ và các cửa biển
Phú Yên, Cam Ranh, Ô Cấp.
1856 Quân Pháp lại vào Đà Nang, bắn phá các đồn luỹ.
1857 Napoléon III thành lập uỷ ban Giao Chỉ định kế xâm lược.
1858 Quân Pháp đánh Đà Nắng. ‘
1869 Quân Pháp đánh lấy Gia Định.
1861 Quân Pháp phá đồn Kỳ Hoà rồi chiếm lấy Định Tường,
Biên Hoà và Vĩnh Long.
541
1862 Hoà ước Nhâm Tuất nhường ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ.
1867 Quân Pháp chiếm ba tỉnh miền tây Nam Kỳ.
1873 Quân Pháp đánh ra Bắc Kỳ lần thứ nhất
1874 Hoà ước Giáp Tuất.
1882 Quân Pháp ra đánh Bắc Kỳ lần thứ hai.
1883 Quân Pháp đánh cửa Thuận An. Hoà ước Quý Mùi
Harmand.
1884 Hoà ước Giáp Thân Patenôtre.
1888 Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nang thành nhượng địa cho Pháp.

542
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Việt N am sử lược của Trần Trọng Kim.


Đ ại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên.
(Bản dịch của Cao Huy Du; Đào Duy Anh hiệu đính, chú
giải, in lần thứ hai có sửa chữa, Nhà xuất bản Khoa học xã hội,
Hà Nội, 1971-1973, 4 tập).
(Bản dịch của Hoàng Văn Lâu và Hà Văn Tấn, 1985).
Việt sử thông g iám cương mục của Quốc sử quán triều Tự Đức.
(Bản dịch của Hoa Bằng, Phạm Trọng Điềm, Trần Văn
Giáp, Văn - Sử - Địa, Hà Nội, 1957 - 1960).
Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ.
(Bản dịch của Ban Nghiên cứu liên lạc Văn hoá Á châu, 1960).
Lịch sử Việt Nam, T.l, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971.
L ịch sử Việt N am , Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1977.
N am H ải dị nhân của Phan Kê Bính.
Đại N am quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái.
Thuyết M ạc của Đinh Gia Thuyết.
Thần tích Đức thánh Trần của Hội Bắc Việt tương tế.
Công dư tiệp ký của Vũ Phương Đề.
(Bản dịch của Nguyễn Đình Diên, 1973).
Thiền sư Việt N am của Thanh Tứ.
Trần Hưng Đạo của Hoàng Thúc Trâm, Vĩnh Bảo, Sài Gòn. 1950.
Trần Hưng Đ ạo của nhóm Nguyễn Khắc Thuần, Nhà xuất bản
Trẻ, 1987.
Trần Thủ Độ của Ngô Văn Triện.
Đ ại Việt thông sử của Lê Quý Đôn.
(Bản dịch của Lê Mạnh Liêu, 1973).
Việt sử thông lãm của Vũ Huy Chân.
Trung Quốc sử lược của Nguyễn Triệu Luật.
H oàng L ê nhất thống chí.
N otiọns d H istoire d'Annam của Maybon và Ruissier.
L eợons d H isto ire d'Annam của Dương Quảng Hàm.
Dương lịch và Âm lịch đối chiếu của Nguyễn Như Lân.

543
MỤC LỤC
Lời nói đ ầu .................................................................................................................... 3
Những chữ viết t ắ t .................. 5
CÁC yHỜI ĐẠI LỊCH s ử NƯỚC TA
THỜI ĐẠI THƯỢNG c ổ
Kỷ tiề n s ử ................................................................................................................... 8
Ky c á c V u a H ù n g ................................................................................................... 11
Kỷ n h à T h ụ p .............................................................................................................. 14
THỜI ĐẠI BẮC THUỘC.......................................................................................... 18
Kỷ th u ọ c n h à T r i ệ ũ .............................................................................................. 18
Ky th u ọ c T â y H á ii............................ 21
Tình hình dân Âu Lạc dưới thời Bắc thuộc.................................................... 24
Kỷ th u ộ c Đ ô n g H á n ...................................... 26
Ky T rư n g V ư ơ n g ..................................................................................................... 27
Bà Trưng khởi nghĩa ..............................................................................................27
Mã Viện sang đánh nước ta ..............................................................................:.29
Phụ lục về khởi nghĩa Bà T rư n g ......................................................................... 33
Các tưống lĩnh của Bà T rư n g ............................................................................... 34
Kỷ th u ộ c Đ ô n g H án (lần s a u ) ......................................................................... 36
Lý Tiê}i, Lý c ầ m ........................................................................................................39
Lâm Ap dựng nước.................................................................................................... 39
Sĩ N hiep..;..................................................................................................................... 41
Kỷ th u ộ c N g ô ........................................................................................................... 42
Bà Triệu khỏi n g h ĩa..................................................................................................44
Kỷ th u ộ c T ấ n .............................................................................................. i...........45
Ky th u ọ c L ư u T ố n g ............................................................................................... 47
Thời gian tự trị 468- 4 8 5 .........................................................................................48
Kỷ th u ộ c T ề ............................................................................................................... 49
Kỷ th u ọ c L ư ơ n g ...................................................................................................... 49
Kỷ n h à T iề n L ý ...................................................................................................... 50
Tiền Lý Nam Đ ê......................................................................................................... '50
Trần Bá T iê n ............................................................................................................... 52
Triệu Việt Vương........................................................................................................52
Đào Lang Vương.........................................................................................................53
Hậu Lý Nam Đ ê ......................................................................................................... 54
K ỷ th u ộ c T u ỳ .......................................................................................................... 55
Tình trạn g xã hội nưốc ta từ xa xưa đến th ế kỷ thứ V, V I....................... 56
Kỷ th u ộ c Đ ư ờn g ...................................................................................................57
Cuộc khởi nghĩa Đinh K iế n ...................................................................................58
Mai Hắc Đ ê...................................................................................................................59
Giặc biển........................................................................................................................59
Khương Công Phụ, Khương Công P h ụ c........................................................... 60
Bô' Cái Đại Vương...................................................................................................... 60
544
Việc đánh nước Hoàn Vương.........................................................................61
Khởi nghĩa Dương T h a n h .............................................................................. 61
Nam Chiếu dựng nước....................................................................................62
Nam Chiếu sang cưốp phá An N am ............................................................62
Cao B iề n .............................................................................................................64
T ìn h hình Trung Quốc và nước ta thời Đường m ạt.................................66
Họ Khúc dấy nghiệp........................................................................................ 67
Dương Đ ìn h N g h ệ ............................................................................................69
Trận Bạch Đằng G iang Ngô Quyền đại phá quân Nam H á n ...............70
Kết quả thời đại Bắc thuộc........................................................................... 71
Đất cũ của nước ta bị sáp nhập vào Trung Quôh.................................... 73
TH Ờ I Đ Ạ I T ự C H Ủ ...... 74
K ỷ n h à Ngô (939 - 9 6 5 ).......... 74
Tiền Ngô Vương 939 - 944 huý Quyền (898 - 944)..................................74
Dương Tam K ha 945 - 950........................................................................... 74
Hậu Ngô Vương 950 - 965 huý Xương V àn (? - 965)............................... 75
Thập nhị sứ q u ân ............................................................................................ 77
Đ inh Bộ L ĩn h .................................................................................................... 78
K ỷ n h ắ Đ in h (968 - 980).......... .......................... .............. ...... ..............80
Đ inh Tiên Hoàng 968 - 979 huý Bộ Lĩn h (924 - 979)............................. 80
Phế Đê Đ inh Toàn (Tuệ) (974 - 1001) làm vua 979 - 980...................... 82
K ỷ n h à T iề n L ê (980 - 1009).......... ...........................................................84
Đ ại Hành Hoàng đế 980 - 1005 huý Hoàn (943 - 10 0 5)........................ 84
Lê Trung Tông 1005 huý Long Việt (983 - 10 0 5 ).....................................89
Lê Ngoạ T riề u 1005 - 1009 huý Long Đ ĩnh (986 - 1009)........................90
T ìn h hình trong nước dưới thời Ngô, Đ inh, Lê thế kỷ thứ X ................92
K ỷ nhà L ý (1010 - 1 2 2 5 ) ................................................................................93
L y T h á i Tổ 10 10 - 1028 huý Công u ẩ n (974 - 10 2 8 ).............................. 93
L y T h á i Tông 1028 - 1054 huý Phật Mã (1000 - 1054)........................... 97
Nùng T r í Cao.................................................................................................... 101
L ý Thánh Tông 1054 -10 72 huý Nhật Tôn (1023 - 10 72)......................104
L ý Nhân Tông 1072 - 1 1 2 7 huý Càn Đức ( 1 0 6 6 -1 1 2 7 ) ........................106
Chiến tranh với nhà Tôhg............................................................................. 108
L ý Nhân Tông ( t iế p theo) ................................................................................115
L ý Thần Tông 11 2 7 - 113 8 huý Dương Hoán (1116 - 113 8 ) ................... 118
L ý Anh Tông 113 8 - 117 5 huý Thiên Tộ (1136 - 117 5 ) ............................ 119
L y Cao Tông 1 1 7 5 - 12 10 huy Long Cán ( 1 1 7 3 - 1 2 1 0 ) ...........................123
L ý Huệ Tông 12 10 - 1224 huý Sam (1194 - 12 2 6 )....................................128
L ý Chiêu Hoàng 1224 - 1 2 2 5 .........................................................................13 1
T rần Th ủ Đ ộ ...................................................................................................... 132
Luận về các vua Triều L ý ............................................................................. 132
K y n h à T r ầ n (12 2 5 - 1400).........................................................................133
Trần T h á i Tông 1225 - 1258 huý cản h (1218 - 12 7 7 ).;..........................133
Trung V ũ Vương T rầ n Thủ Độ (1194 - 12 6 4 )...........................................140
Trần Thánh Tông 1258 - 1278 huý Hoảng (1240 - 1290).......................141
Trần Nhân Tông 1279 - 1293 huý Thẩm G 258 - 1308)..........................143
PH Á G IẶ C N H A N G U Y Ê N ............................................................................ 146
Sơ lược lịch sử đê q^uốíc Mông Cô.................................................................. 146
Phá quân Mông Co xâm lăng lần thứ nhất 1257 - 1 2 5 8 ........................147
545
Tình hình đế quốc Mông cổ nửa cuôl thế kỷ X I I I ................................... 150
Việc bang giao vói nhà Nguyên dưới thời các triều T h á i Tông và
Thánh Tô ng ........................................................................................................15 1
Việc bang giao với nhà Nguyên dưới triều Nhân T ô n g .......................... 152
Quân nhà Nguyên sửa soạn sang đánh ta .................................................154
Hội nghị Bình T h a n .........................................................................................155
Toa Đô đi đánh C ham p a................................................................................. 156
Thoát Hoan xuất quân đi chinh N a m .........................................................157
Hội nghị Diên H ồ n g .........................................................................................157
Quân Nguyên sang đánh nước ta lần thứ hai 1284 - 12 8 5 .................... 158
Quân Nguyên sang đánh nước ta lần thứ ba 1287 - 1288 ......................170
Trần Anh Tông 1293 - 1320 huý Thuyên (1276 - 13 2 0 ).........................184
Hưng Đạo Vương T rần Quôh Tuấn (1229 (?) - 1300)...............................188
Nhân Huệ Vương Trần Khánh D ư .............................................................. 190
Hoài V ăn Hầu Trần Quôc Toản (1267 - 1288).......................................... 19 1
Trần M inh Tông 13 14 - 1329 huý Mạnh (1300 - 13 5 7 ).......................... 192
T ìn h hình nhà nguyên bên Trung Quôh..................................................... 195
Trần Hữu Lượng...............................................................................................196
Trần Dụ Tông 134 1 - 1369 huý Hạo (1336 - 1369 ).................................. 197
Trần Nhật L ễ ....................................................................................................200
Trần Nghệ Tông 1370 - 1372 huý Phủ (132 1 - 139 4 ).............................. 202
Trần Duệ Tông 1373 - 1377 huý K ính (1337 - 13 7 7 )............................... 203
Trần Phe Đ ế 1377 - 1388 huý Hiễn (1361 - 1388)....................................205
Trần Thuận Tông 1388 - 1398 huý Ngung (1378 - 1399)........................208
Lê Quý Ly, học giả ..........................................................................................2 1 1
Lê Quý L y mưu sự thoán đoạt...................................................................... 2 12
Sự p^he lập T rầ n Thiếu Đ ế 1398 - 1400...................................................... 2 13
Công nghiệp nhà T r ầ n .................................................................................... 215
K ỷ n h a Hổ (1400 - 14 0 7 ) ..............................................................................2 17
Hồ Quý L y ..........................................................................................................2 17
Hồ Hán Thương 1401 - 1407......................................................................... 2 17
Quân M inh sang đánh nước ta lần thứ n h ất............................................. 218
Quân M inh sang đánh nước ta lần thứ h a i............................................... 220
K ỷ h ậ u T r ầ n .................................................................................................... 225
G iản Đ ịnh Đ ế T rần Q u ỹ .................................................................................225
Trùng Quang Đ ế Trần Quý Khoách.............................................................228
K ỷ th u ộ c M in h .......................................... 237
T ìn h hình nưốc ta dưới các triều Lý, Trần thế kỷ X I đến X I V .............242
B ùi Bá K ỳ và Lê cản h T u â n ......................................................................... 246
K h ở i n g h ĩa L a m S ơ n ................................................................................... 247
Mười năm đánh quân M inh 1418 - 1427 ................................................... 247
K ỷ n h à L ê .........................................................................................................275
Le T h á i Tổ 1428 - 1433 huý L ỵ (Lợi) (1385 - 1433) .................... 275
Lê T h á i Tông 1434 - 1442 huý Nguyên Long (1424 - 1442)..................279
Lê Nhân Tông 1443 - 1459 huý Bang Cơ (1441 - 1459) .......................280
Le Thánh Tông 1460 - 1497 huý Tư Thành (1442 - 14 9 7 ).................... 282
Các vua nối nghiệp vua Lê Thánh Tông.................................................... 287
T ìn h hình chính trị, xã hội và văn hoá dưới triều nhà L ê .................... 295
546
T H Ờ I K Ỳ NAM B Ắ C PH Â N TR A N H 1528 - 1802...................................... 297
Lịch triều lược k ỷ ............................................................................................. 297
K ỷ n h à M ạc (15 2 7 - 15 9 2 ).......................................................................... 298
Mạc T h á i Tổ huý Đăng Dung (1483 - 15 4 1)...............................................298
Các vua nhà Mạc sau Đăng Dung 1530 - 15 9 2 ......................................... 301
Nguyễn K im ...................................................................................................... 304
T rịn h K iể m ........................................................................................................ 305
Lê Anh Tô ng ...................................................................................................... 306
Chiến tranh T rịn h - M ạ c ............................................................................... 306
Các vua Lê Trung Hưng (hậu L ê ) ...............................................................322
Họ T rin h xưng ch ú a........................................................................................ 325
Nguyên Hoàng...................................................................................................327
Họ Nguyễn xưng chúa miền N a m ...............................................................328
Chiến tranh T rịn h - N g u yễ n ........................................................................ 330
T ìn h hình Trung Quốc thê kỷ X V II nhà Thanh dấy nghiệp.................337
Công việc họ T rịn h làm ở miền B ă c ............................................................ 338
Công nghiệp họ Nguyễn ở miền N a m .........................................................354
Ngươi Au châu sang nước ta ..........................................................................364
T ìn h hình xã hội và văn hoá thế kỷ X V đến thế kỷ X V I I I .................... 371
V ận trung suy của các chúa Nguyễn.......................................................... 375
Tây Sơn dấy b in h ............................................................................................. 377
Chiến tranh tại miền cực Nam ..................................................................... 381
Quân Tây Sơn phát triển ra B ắ c ..................................................................385
T ìn h hình nội bộ anh em vua T ây Sơn....................................................... 392
Nhà hậu Lê mất ngôi v u a .............................................................................. 393
Quân Mãn Thanh xâm lược........................................................... 396
K ỷ n h à N g u y ể n T â y Sơn (1789 - 1802) ............................................... 399
N ^ y ễ n Thai Tổ 1789 - 1792 huý Hồ Thơm, Huệ (1753 - 17 9 2)................ 399
Vua Nguyễn Qụang Toản 1793 -18 0 2.................. ............... ........................ 415
Nguyễn Phúc Ánh thông nhất giang sơn ................................................. 415
T H Ơ I Đ Ạ I CẬN K I M .................r................................................................... 430
K ỷ n h ấ N g u y ể n (1802 - 19 4 5). ........., ....................................................430
Nguyễn Thê Tổ 1802 - 1819 huý Phúc Anh (1761 - 1 8 1 9 ) .................... 430
Nguyễn Thánh Tổ 1820 - 1840 huý Đảm (1791 - 1840).........................437
Nguyễn Hiến Tổ 1841 - 1847 huý Miên Tông (18 11 -18 4 7 ).................. 452
Nguyễn Dực Tông 1848 - 1883 huý Hồng Nhậm (1828 - 1883).................. 454
Q u â n P h á p sa n g đ á n h ch iế m đât nước t a ........................................ 466
Âm mưu xâm lược nước ta của thực dân Pháp ....................................... 466
T ìn h thế trong nước ...................................................................................... 469
Quân Pháp đánh Đà Nang ...........................................................................472
Quân Pháp đánh lây đất Nam k ỳ ............................................................... 474
Quân Pháp đánh lấy Bắc kỳ lần thứ n h ất................................................. 501
T ìn h thê nước ta từ năm 1874 về s a u ........................................................ 510
Quân Pháp ra đánh Bắc K ỳ lần thứ h a i................................................... 514
T ìn h trạng rô"i ren trong triều đình............................................................ 517
Chiến tranh với quân Trung Quôh..............................................................522
Loạn ở Trung K ỳ .............................................................................................. 525
Người Pháp dựng nền đô hộ ba nước Đông Dương..................................532
Niên biểu tư bản thực dân Pháp đánh chiếm nước ta ............................ 541
T à i liệu tham khảo...........................................................................................543
547
TRẤN XUÂN SINH
VIỆT SỬ KỶ YẾU
NHÀ XUẤT BẨN HẢI PHÒNG
S ô'5 N g u y ễn K h u y ến - Tp. H ả i P h ò n g . ĐT: 03 J .921076

Chịu trách nhiệm xuất bản


PHẠM NGÀ

Biên tập: Ban biên tập


B ia : Minh Nguyệt
KT. Vi tính: Nhà sách Minh Nguyệt
13 Thơ Nhuôm - Hà Nôi

In 800 cuốn k h ổ 16x24cm, in tại Công ty c ổ p h ần in 15. Giấy chấp


nhận đăng ký K H xuất bản s ố 06 - 531 /XB-QLXB cấp ngày
2 0 /5 /2 0 0 3 . Trích ngang cấp ngày 15/01/2004, in xong và nộp
lưu chiểu quý I I /2004

548
ĐÍNH CHÍNH

T rang Dòng Đã in Sửa lạ i


25 7T trăm năm
26 15t sử sứ
26 'sõt thể tập thế tập
27 4f Vĩnh Phúc Yên Vĩnh Phúc
28 16Ĩ Đô Lương Đô Dương
29 3ị Tương Ngô Thương Ngô
29 13i Đô Lương Đô Dương
29 8t xứ nước
29 3t Đoàn Chi Đoàn Chí
31 8t Đoàn Chi Đoàn Chí
36 2ị Cổ Am Trung Am
36 2ị Hải Dương Hải Phòng
36 6i Định Lượng Đinh Lượng
39 3t Hơi Chàm
39 13t tránh trách
40 17ị khu liên Khu Liên
11 4ị huyện thư lang thượng thư lang
13 64- chiếm xưng tiếm xưng
43 8t Tôn Tự Tôn Tư
49 9i đầu mâu đâu mâu
-ị-
52 chầm chằm
53 15i cẳnh Hẳu Hầu Cảnh
54 15ị hiển hiểm
56 16ị xứ nước
57 14t nồi nội
59 ĩoX Cao Lộc Can Lộc
59 10X,llị,l Nam Dương Nam Đàn
5X
61 loX cho kiên cho kiên cho kiên
61 20ị rấỵ.............. ................... . rất
64 14f trị đóng
64 lếf sử sứ
66 8'ị' sú xứ
66 19ị xứ ta nước ta
66 937-950 947-950
67 5ị Chúng Họ
67 '7ị " chúng ta họ
67 Hưng Yên, Hải Dương Hải Dương
67 17, ầot Độc Cổ Tồn Độc Cô Tôn
68 5ị Độc Cổ Tồn Độc Cô Tổn
68 6T sô' điền SÔ điền
70 20X Lĩnh lĩnh
Trang Dòng Đâ in Sửa lạ i
70 23ị bàn vối bàn với bàn vói
71 20ị người Hoa phong kiến phương Bắc
71 5t món môn
74 15ị Phúc Yên Hà Nôi
74 6t thay thấy
77 4ị hơn lòn
78 14ị HỒ ^ Ho -
79 2i Ảo Áo
79 .^ sử sứ
80 lOị Người Hoa Phong kiến phương Bắc
80 3t tăng đại sĩ tăng lục đại sĩ
80 4t Sung Chân Sùng Chân ’
81 17t Khai phú Khai phủ
82 l,2ị Tiên... nhân (bỏ)
83 3ị tiến về
83 19t Tiểu Khanh Tiểu Khang
84 7ị đánh giặc ở đánh giặc
86 li thua ngay to thua ngay
86 16t kinh Triệu Kinh Triêu
87 lo i biên biển
87 9t Đào Can Mộc Đào Cam Mộc
88 1 20ị Thau Thân
88 19t Việt Long Việt
88 15t Pho Phù
,89, . llị đi di
89 3T Tham Thân
92 6t Tam Dương Kha Dương Tam Kha
94 5i Vân Văn
94 15t xã xá
96 lOị Đỗ Kim Đô Kim
97 isT Thông Tuy Thông Thuỵ
97 7t tự quan tự quân
97 Dực Khánh Dực Thánh .
98 9t kiến khiến
.98...... 6t Chấn Đăng Chân Đăng
98 7t sai sai trung thứ sai trung thư sảnh
98 9t kiến khiến
98 19t đĩnh ngộ dĩnh ngộ
99 17T vị vụ
99 16Ỉ trung thứ trung thư
99 12t hoàn đầy đủ hoàn chỉnh đầy đủ
100 9t Ngũ Bô' Ngũ Bồ
101 9t Lôi Hoà Lôi Hoả
102 6ị sai thái sai
Trang Dòng Đã in Sửa lạ i
102 18t kẻ kể
105 2i Bảo Thiên Báo Thiên
106 7ị Bảo Thiên ' Báo Thiên
106 19ị Thổ Lôi Thổ Lỗi
107 8T cũng hay làm thơ làm thơ
108 li tụng quan tùng quan
115 9t chôn trôn
116 5i Kim Định Kim đinh
117 7i kiêm hiệu kiểm hiêu
118 4t Dương Anh Nhi Dương Anh Nhĩ
121 9i chôVi trôn
121 20i củng cố (bỏ)
122 lị Tô Hiến thành Tô Hiến Thành
123 li củng cô' cung cô'
123 4ị liên lạc quan hê
123 4T giúp vầy giúp
123 13t nở sở
124 lOt Vũ Tâ'n Đường Vũ Tán Đường
125 15ị Đỗ Yến Gi Đỗ Yên Gi
126 16i Dĩ Nông Dĩ Mông
127 4t công nhiệp công nghiệp
128 2 lị nộ lộ
128 12t củng cung
129 16t Binh HỢp Bình Hơp
135 151 dễ rễ
139 6T khan nghi khoan nghi
142 12ị Định Chi Đĩnh Chi
142 12ị Bùi Phỏng Bùi Phóng
142 16i tu tư
144 14t tích thích 1
144 5t Ngọc Vân Ngoa Vân
146 4ị bộ đội binh lính
146 2t Hồi Hồi Hồi Hôt
147 3T hữu ngại hữu ngạn
147 13t hai lần ba lần
155 3i hành trang hành trung thư
Ỉ55 14i các trong các tưống
155 7t Trầm Xá Trần Xá
156 4t để kháng đề kháng
158 13t ta lệnh ra lệnh
162 6ị khẻo khoẻ
163 14i Hưng Yên Hải Eiương
163 15ị Hải Dương Quảng Yên
163 16i Thoát Hoa Thoát Hoan
Trang Dòng Đã in Sửa lạ i
163 16T chôn trôn
163 23t Lê Trác Lê Trắc
164 8ị nghi tình nghi binh
165 12i lồng dân lòng dân
165 13i để kháng đề kháng
Ĩ66 n i Trần Hàm Tử Trận Hàm Tử
166 3t sỏ dĩ phái sở dĩ phải
167 7i nhiều động nhiều đồn
167 12T Hiến Hiển
169 4i thương lựu thượng lưu
178 3t Đà Bạc Đá Bạc
179 12t Bach Đằng Bach Đằng
170 lOt tế '■"tl”....... ........ - ■ ' ■ 1
170 llT Bá Bà
171 llị kể dấu vết kẻ vết thương
171 14T tai sai tay sai
171 16ị chi cho
172 12t trở chở
175 9i tử cung quan tài
175 lO ị chúng đó chúng ở đó
177 9t Mông Cổ Nguyên Mông
3Í sông Gia sông Giá
179 7t tá ta
180 khiến kiến
185 12t hiểm hiềm
185 loT nhiều Nhiều
185 2t tản văn tân văn
185 It Anh Văn Ánh Vân
186 5t Mương Mai Mường Mai
188 3,5,lOÌ Chấn Chẩn
188 8Í thuộc thư thuộc thi thư
190 li vùn vùng
190 14t gỏi giỏi
191 5i tiến tiên
191 20ị Chấn Chẩn
193 8,11,19,20, Chấn Chẩn
21,23,24,
29i
193 2t Khai Hữu Khai Hựu
194 18, 2 lị Chấn Chẩn
195 4i Đỗ Thiện Thứ Đỗ Thiên Thứ
198 6T rộng lộng
200 12t hát hội hát bội
202 7i quan Cung quan tôn Cung
Trang Dòng Đã in Sửa lạ i
202 15 i tu liêm tu liễm
203 4i Trung Tuyến Trung Tuyên
204 17 t Nguyện Kính Nguyên Kinh
206 19T Thiện Khê Kiện Khê
208 phàn phần
209 ef Quan Phục quan phục
2ĨÒ 19t gian thần quái gian thần
211 18t kém hàn kém hẳn
211 2t quán thiết quan thiết
—1
213 Cô Lũng Hữu Lũng
213 3t cửa Đại Lại núi Đại Lại
217 6i kho thương kho thường
218 lOT 55 thôn 59 thôn
219 14t lạng Châu Lạng Châu
220 2l Hộ Xạ Ho Xạ
223 19t Chầy Chẩy Chẩy Chẩy
224 2i nước ra nưóc ta
225 4ị Lê Tư Cầu Lý Tử Cấu
228 2T Mẫn vương ngạc Mẫn vương ngọc
231 iT 40 trướng 40 trượng
232 14T Bùi Đột Bùi Nột
236 li chu sư binh thuyền
238 17 ị Lê Tư Cầu Lý Tử Cấu
241 do khả lo khá
245 17 Ĩ gì, ngoài bài thơ nhiều, nổi tiếng có bài thơ
250 19t Đường Thuỷ Thuỷ Đường
250 7ị tham quan tham quân
250 19t Lê Nga Lê Ngã
251 12 i Đan Bạ Đan Ba
252 14, 15 Í Khối Khôi
253 3i Lê Trân Lê Trăn
254 9T Cẩm Bành Cầm Bành
254 it Cầm Bằng Cầm Bành
256 19 ị Thiên Lộc Can Lộc
256 23i Thiên Nhãn Thiên Nhẫn
256 23i hữu ngọn hữu ngạn
257 6t Lê Nộ Le NỖ
257 2t Bội binh Bộ binh
258 4t thay các thứ thuế trung thảy các thứ thuế trưng
264 llt Diêu Diêu Điêu Diêu
265 14 i Hiệu dụ Hiểu dụ
265 4Ỉ'. Kiêm hiệu Kiểm hiệu
266 18t Diêu Diêu Điêu Diêu
266 7Ĩ năn năm
Trang Dòng Đã in Sửa lạ i
267 n i chỉ huy uân chỉ huy quân
267 13t Diêu Diêu Điêu Diêu
268 16i hơn người hơn vạn người
270 18 i Cao Hưng Tổ Cố Hưng Tố
270 20 ị Phá Luỹ Pha Luỹ
271 16 i Phá Luỹ Pha Luỹ
271 17 i Ai Lưu Ải Lưu
271 14T Trần Lực Trần Lưu
272 llt Lãnh Thuỷ Lãnh Câu
27'3 500 thành 500 thuyền
274 13 ị thế thông thể thôKg
274 5t hậu táng hậu mai táng hâu
274 17T toán quân toàn quân
275 17 i xứng là xưng là
1 275 Ì7 ị chi xưng chỉ xưng
1 275 13t cơ mật khu mât
276 9ị Dương Lương
278 12 ị chúng họ
1 279 13 ị Thành Tông Thánh Tông
283 2t kiêm khiêm
286 14 i Lão Quan Lão Qua
287 lO ị Nhuận Thuân
288 16t Vũ Quyền Vũ Quỳnh
313 9ị Chúng Quân Mạc
315 4i Giáp Trung Giáp Trừng
ị 315 5Ì Tham Thầm
: 315 18t còn Tây xâm còn tâm xâm lấn
315 12t Chúng có chiếm....... nhân tâm Tuy có chiếm....... dân
316 vương sư quân Trịnh
325 16t [ con Thuần Tông con là Thuần Tông
427 15t em gái thái uý : em là thái uý
331 12 i i chúa Thượng quân chúa Thượng đem quân
■ :.15 I Kiến Thống Kiền ThôKg
335 6T ị Duy Ký Duy Kỳ
335 9t i Hoàng Đinh Hoằng Định
335 14 Ĩ Đông Thai Đoan Thái
335 16 ị Quang Hoa Quảng Hoà
1 336 lU Hoàng tổ Hoằng Tổ
’ 336 13t Chiếu Thông Chiêu Thông
' 336 25t Hoà Thái Bảo Thái
343 it nộp ở tiền thuê nôp 8 tiền thuê
347 13 ị thổ quan thòi cơ (bỏ)
353 8ị đồ đảng tan rã cuộc nổi dậy tan rã
354 18 ị Chúng rút lui Họ rút lui
1 Trang Dòng Đã in Sửa lạ i
■ 354 3T Ai Tử Ái Tử
355 6i Ai Tử Ái Tử
355 2t có đăt có đặt
363 18, 19ị Lập Đạo Lập Bạo
365 4t Crôm Kegrol
365 2,3t Hac Xinh Hartsing
366 llt Gip Pho Gyfford
366 13T Đăng Zant
366 18Í Caccaođen w. Car VVerder
366 18t Pi Cóc Peacok
367 7ị Pê Cóc Peacok
367 20i Tonkin Tonquin
371 4t quỷ quyệt diệt trừ diệt trừ
377 2ị Nguyễn Đình Phương Nguyễn Danh Phương
385 5ị Chiêu Dương Chiêu Sương
401 li thắng thằng
401 15t trừ địch trừ tịch
401 17t Sơn Lăng Sơn Lãng
402 llị Quanh Trung Quang Trung
402 llT kép kéo
403 4Ì Dương Hùng Thang Hùng
403 8i vọi vội
404 lo i quân Than quân Thanh
416 li phân tri phân chia
418 16t Nguyễn đại phá Nguyễn Huệ đại phá
424. 8t Lã Trung Lê Trung
425 4i nổi loạn nội loạn
425 li Bùi Cảnh Tuyên Bùi Đắc Tuyên
429 4t chưa ít
430 9T thiên triều triều
433 14t xoi khơi
434 lli Tố Bô’ Sâm Tề Bô’ Sâm
436 Hán vương Hàn vương
441 7 , llị Vũ Đức Các Vũ Đức Cát
443 204 Mạc Mạch
443 Phạm Đình Phô Nguyễn Đình Phổ
444 5ị Phạm Đình Phổ Nguyễn Đình Phổ
445 3i đạp đạo
447 2t Khai Khổi
448 2lt phân quân
456 6ị đạo Đao
457 9t Thánh Hoá Thanh Hoá
459 8^14t giặc giã loan lac
463 18t Lý Tú Ly Tự
Trang Dòng Đã in Sửa lạ i
463 22t mãn Thanh Mãn Thanh
470 lOt nông thương nông dân
474 8t voà vào
474 iT đi dạo đi đạo
475 li giúp dân Pháp giúp thực dân Pháp
478 Iii kuỹ.......................................... ........ ........ ' .....................

479 16t sơ vũ khí


480 18 ị Đồn Đại Đại Đồn
486 7 f ..... Đỗ Đình Thoạn Đô Trmh 'ninại
492-493 1, 2t và Có người... trước kia (bỏ)
1.2 , 3 i
498 5" ca đảm cam đảm
500 2 lt thì mối thì nưốc Nam mới
510 3i Trung Bắc Kỳ biến thành (bỏ)
bán thuộc địa
510 5 hecta 2,5 hecta
518 7t hội Gourbet họp với Courbet
512 2i kéo được chúng kéo đưỢc họ
513 lo i cuộc chiêu thương cục chiêu thương
521 1, 5t Pourrier Pournier
521 hưng Hoa Hưng Hoá
528 llt tán dương tán tương
528 15t Lê Minh Lê Ninh

You might also like