Professional Documents
Culture Documents
VietSuKyYeu PDF
VietSuKyYeu PDF
VietSuKyYeu PDF
VIỆT SỬ KỶ YỂU
Hiệu đính: NGUYỄN h à o hùng
NGÔ ĐÃNG LƠI
(•)
Trần Xuân Sinh, Thuyết Trần, NXB Hải Phòng, 2003, 535 tr.
Nguyễn, lại không nói được duyên cớ chính người Pháp sang đô hộ
nước ta. Chúng đâu có sang đánh chiếm đất nước ta vì vua ta cấm
đạo Gia Tô. Sử gia ngày nay có người không tiếc lời mạt sát các
vua triều Nguyễn, tuy không oan, nhưng nặng nề quá.
Biên soạn tập sách này, tôi cô" gắng khách quan khi chép sự
việc, tránh những đều không đủ tin, vô lý, lệch lạc cùng khiếm
khuyết. Rất tiếc không ghi chép lại được nhiều về sinh hoạt đại
chúng qua các thời đại, do không tìm được nhiều tài liệu đáng tin,
lại không dám viết theo sự suy luận, tưởng rằng suy luận chưa
chắc hẳn đã đúng sự thực.
Lại có những lòi luận về một sô" nhân vật lịch sử, phần lớn
nhận định theo ý của các bậc tiền bối, tuy cũng có trình bày theo ý
riêng trong mấy trường hỢp, như nói: Nếu người họ Trần không
giành ngôi nhà Lý thì cũng có anh hùng hay gian hùng nào khác
tranh quyền cướp nước; không cho vụ ám sát Ô Mã Nhi trên
đường đưa y về nước là “phi nhân bất nghĩa”; việc gả Huyền Trân
cho vua Chăm chỉ là một hành vi chính trị; cho việc vua Quang
Trung mưu đánh chiếm Lưỡng Quảng của Trung Quô"c là điên
rồ... Có thể có nhiều người không đồng ỹ tưởng, nghĩ khác thì mỗi
người một ý. Đâu có phải chỉ ý riêng của mình mới là chân lý.
Rất mong tập sách nhỏ này giúp ích được phần nào bạn đọc
thông tỏ lịch sử nước nhà về các thời đại xưa.
Theo thiển ý, có lẽ rằng người đầu tiên viết Hồng Bàng, còn
đọc là hồng mang, hồng mông theo nghĩa sau để chỉ thời đại, tựa
như hỗn mang, là đòi thượng cổ xa xăm, mọi sự việc không truyền
lại được rõ ràng, rành mạch. Chỉ đây là tên dòng họ, e có sự lầm
chăng. Chừng như thời ấy có thể người nước ta chưa có mang tên
họ. Phải chăng có thòi đại hồng bàng, hồng mang, hồng mông, mà
không có họ Hồng Bàng?
KỶ NHÀ THỤC
ơ phía đông bắc xứ Lạc Việt có xứ Âu Việt gồm đất các tỉnh
Lạng Sơn và Hải' Ninh nưốc ta ngày nay và châu Khâm, châu
Liêm tĩnh Quảng Đông (Trung Quốc), sau có thời gọi là quận HỢp
Phô", có họ Thục làm lãnh chúa. Khoảng cuôl thế kỷ thứ III tr. CN,
Thục vương Phán đánh chiếm đất nước Văn Lang, hỢp nhất đất
Âu Việt và Lạc Việt, gọi là nước Âu Lạc, xưng là An Dương vương.
ĐVSKTT chép: Xưa Thục vương cầu hôn Mỵ Nương, con
gái Hùng vương, bị nghi là mưỢn cớ dòm ngó Văn Lang, không
đắt, để lòng oán giận, dặn lại con cháu phải kiêm tính đất nước
ấy. Đến cháu là Phán dũng lược mổi đem quân sang đánh. (Đây
chỉ là sự viện ra cho có cớ. Thực sự, Thục Phán xâm lăng chiếm
đất lân quô"c để mở rộng thêm đất đai, như các chư hầu bên
Trung Quốc thòi ấy).
ĐVSKTT lại chép: An Dương vương là người Ba Thục. (Đất
nước này nay là tỉnh Tứ Xuyên - Trung Quốic). VNSL theo
VSTGCM bác bỏ thuyết này, nói đất Ba Thục đã bị nhà Tần chiếm
từ lâu, đâu còn vua nào nữa. Thục chỉ là họ độc lập ỏ gần nước
Văn Lang. Ngưồi theo thuyết trước lại cho rằng sau khi Ba Thục
bị chiếm, con cháu vua nước này chạy xuông phương nam, lập nên
nước Thục trên đất Âu Việt.
Non sông đổi chủ, các Lạc hầu, Lạc tưống trước thuần phục
vua Hùng thì bây giò lại triều công vua Thục. Còn quần chúng
nhân dân thì gần như không có gì thay đổi, thời nào thì cũng phải
đóng tô thuế, chịu sưu dịch. Do không bị áp bức gì mấy, mà ngôn
ngữ, phong tục Âu Việt cũng không xa lạ nên người Lạc Việt
không hận thù nhà Thục chiến thắng.
14
An Dương vương đóng đô ỏ thành cổ Loa, trên đất Văn Lang cũ,
thuộc huyện Đông Anh - Phúc Yên, nay thuộc ngoại thành Hà Nội.
Loa Thành là một công trình kiến trúc vĩ đậi, từ ngoài đi vào
thì xoáy trôn ốc nên có tên gọi thế, gồm ba vòng trong ngoài cao
rộng, có sông Hoàng chảy qua thuận lợi cho việc đi lại trong vùng
xuôi sang sông cầu và sông Thái Bình. Thành luỹ có nhiều vọng
gác là nơi đóng quân kiên cố.
Thục vương dùng tướng Cao Lỗ (có sách chép Cao Thông) chế
ra kiểu nỏ bắn ra được nhiều tên có mũi bằng đồng. Bấy giờ là thứ
khí giói tiến bộ, rất lợi hại, giúp cho quân sĩ giữ nước.
Dưới triều vua Thục, nước ta có Lý ỏng Trọng, người Từ
Liêm, vóc to lốn, có sức mạnh phi thường, sang làm quan nước
Tần đến chức tư lệ hiệu uý, chốhg giữ quân Hũng Nô.
Ngang với thòi gian vua Thục trị vì bên ta thì bên Trung
Quốc, nhà Tần thôn tính sáu nước, thông nhất thiên hạ. Tần Thuỷ
Hoàng bỏ chế độ phong kiến, lập ra chế độ trực trị, còn gọi là chế
độ quận huyện: Việc cai trị các địa hạt xa gầư đều do quan lại
triều đình bố dụng, có thuyên chuyển, thăng giáng, cách bãi.
Nâm 218 tr. CN, Tần Thuỷ Hoàng sai hiệu uý Đồ Thư đem
50 vạn quân, chia ra làm năm đạo, kéo xuốhg phương nam đi
đánh Bách Việt. Chúng phải vất vả lắm mới kéo nhau đến đất
Việt: Mân Việt, Tây Âu... giết quận trưỏng Dịch Hu Tông, chiếm
đất Lĩnh Nam, lập ra các quận Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm
(Quảng Tây và Tượng (miền tây Quảng Tây và đất Quý Châu).
(Có sử gia ta đã lầm Tượng Quận là đất Âu Lạc, Quế Lâm là đất
Lâm Âp). Người Việt Tây Âu không chịu khuất phục, kéo nhau
vào rừng tổ chức kháng chiến, cử người tuấn kiệt làm chủ tưống,
ngày lui đêm đánh, quấy phá quân Tần. Họ đưỢc quân dân Âu Lạc
tích cực giúp đỡ. Tình thế quân Tần gay go. Hành động này không
phải là cử chỉ hào hiệp chỉ vì ở trong tình thế phải giúp người để
giữ mình, môi hở thì răng lạnh.
Năm 214 tr. CN, để giúp cho quân sĩ đang chiến đấu mệt nhọc,
Tần Thuỷ Hoàng cử Nhâm Ngao (còn có âm là Hiêu) sang làm đô uý
quận Nam Hải và Triệu Đà làm huyện lệnh Long Xuyên (thuộc Nam
Hải), đem thêm 10 vạn dân nghèo, loại tù tội, buôn đồ vặt, ở rể... sang
cho ở lẫn với người bản xứ, nhằm trấn an họ.
Quân dân Tây Âu vẫn tiếp tục kháng chiến mãnh liệt. Quân
Tần luôn luôn bị đánh phá thiệt hại nhiều, ăn không ngon, ngủ
không yên. Trong suốt mười năm, đàn ông không cởi giáp, đàn bà
15
phải chuyên chở, khổ không sông nổi. Nhiều ngưòi tự thắt cổ ở cây
trên dọc đường. Hiệu uý Đồ Thư cũng bị giết. Có thể có việc quân
Tần đã đánh sang Âu Lạc và bị khôn.
Tổ chức định cư cho đám di dân xong, Nhâm Ngao và Triệu
Đà chuyển sang đánh Âu Lạc. Nám 210 tr. CN, Ngao và Đà dẫn
quân xâm lược nước ta. Ngao đóng quân ở Tiền Giang nay là bến
Đông Hồ - Bắc Ninh. Đà đóng quân ở núi Tiên Du nay thuộc Bắc
Ninh. Nhiều trận đánh nhau lớn diễn ra ở vùng này và gần thành
Cổ Loa. Quân dân Âu Lạc giữ vững trận thế, địch nao núng không
tiến lên đưỢc. Ngao bị bệnh, vội trở về Nam Hải. Đà cô" đánh, bị
thua luôn, lui về Vũ Ninh, sai sứ sang xin giảng hoà và xin kết
thông gia. An Dương vương thuận cho. Con Đà là Trọng Thuỷ lấy
Mỵ Châu, sang ở rể. Trọng Thuỷ khéo chiều chuông vua, dò biết
được địa thế và tình hình quân sự bên ta, lại bày những trò vui
khiến vua Thục dam mê đàn hát yến ẩm, sao nhãng việc võ bị,
không dùng tướng tài Cao Lỗ.
Cuối năm 210 tr. GN, Tần Thuỷ Hoàng băng. Nông dân
Trung Quốc khắp nơi nổi dậy chông đối nhà Tần bạo ngược. Tướng
tá Tần ở vùng xa xôi nhiều người đua nhau cát cứ. Nhâm Ngao ở
Hoa Nam, bàn với Đà: Đất Phiên Ngung dựa núi cách sông, phía
đông phía tây đều mấy ngàn dặm. Ta nên nhân cơ hội dựng
nghiệp vương, làm chủ một phương. Ngao không thọ, Đà thống
lĩnh quân đội, lập bè đảng, chặn các đường hỢp binh để tự giữ, giết
các trưỏng lại nhà Tần, đem thân thích phe phái làm thái thú,
được các châu quận hưởng ứng.
Năm 208 tr. CN, Triệu Đà đem quân sang đánh Âu Lạc. An
Dương vương thì sau chiến thắng lần trưốc, tự coi mình anh hùng,
ăn chơi quá độ, việc võ bị bỏ sơ khoáng nên bị quân Triệu đánh
thua, chạy ra biển Diễn Châu, nhận rõ con gái phản bội, giết đi,
rồi nhảy xuốhg biển tự tử.
Sau quân dân Âu Lạc theo tướng Cao Lỗ chông lại quân
Triệu, cũng không lại.
Họ Thục làm vua một đồi trong 50 năm.
Quốc sủ chép: Triệu Đà đánh An Dương vương lần sau năm 208 tr.
CN, tức sau lần trước hai năm, trưốc khi lên ngôi xUng hoàng đế. Bắc
sử lại chép Triệu Đà thôn tính Âu Lạc sau khi quy thuận nhà Hán lần
thứ hai, tức sau năm 179 tr. CN, tức sau lần trưốc đến 30 năm. Bắc sử
chép sai thời gian chăng?
16
Theo ĐVSKTT, Thục Phán đánh lấy nưốc Ván Lang năm 257 tr.
CN, bị Triệu Đà đánh thua năm 208 tr. CN, làm vua được 50 năm.
Theo Bắc sử thì Triệu Đà chỉ thôn tính Ảu Lạc sau khi quy thuận nhà
Hán lần thứ hai, tức là sau nàm 179 tr. CN. Nếu vậy thì An Dương
vương đã trị vì đến 80 năm và phải thọ trên 100 tuổi.
Bắc sử chép: Tần Thuỷ Hoàng sai Đồ Thư đi đánh Bách Việt gặp
nhiều khó khăn, khôn quẫn, chứ không nói đi đánh Giao Chỉ. Không
rõ quân Tần có xâm nhập đất nước ta hay không. Sử gia có người cho
là có. Nói người nưốc ta không phục, bỏ trôn tránh, không chịu cung
ứng lương thực cho quân xâm lăng. Chúng bị thiếu thôn cái ăn, lại là
người xứ lạnh, rất khổ sở về khí hậu nóng nực phương nam ta. Nhiều
kẻ bị đau ô"m. Quân ta mới nổi dậy đánh đuổi chúng. Có thể người viết
thê do tự ái dân tộc, chủ quan, muôn nói lên rằng đồng bào ta xưa lần
thứ nhất đã chiến thắng bạo Tần, đời sau nhà Trần lại lần đầú tiên
chiến thắng quân Mông cổ hùng mạnh. Xét việc dân ta đánh lui quân
Tần không chắc chắn có thực vì khắp trong nước không đâu có đền thờ
Dịch Hu Tông, người lãnh đạo kháng Tần.
Có sách chép; Quân Tần xâm nhập đất Âu Lạc. An Dương vương
phải chịu quy phục, nộp công phẩm và dâng hiến tướng tài Lý ông
Trọng. Việc này xét không có thực. Người viết đã lầm Tượng Quận là
đất ta và đất Champa.
Lại có thuyết Thục Phán là dòng dõi vua Ba Thục. Nước Thục bị
nhà Tần diệt. Con cháu nhà vua Thục chạy xuông miền nam. Phán
đến Văn Lang nương nhờ Hùng vương XVIII. Là tướng tài, Phán đẩy
lui được quân Tần sang xâm lăng. Đại thắng giặc mạnh, Phán bức
bách vua Hùng nhường ngôi. Làm vua Âu Lạc 24 năm, sau bị Triệu
Đà đánh thua.
17
THỜI ĐỢI BHC THaộC
KỶ THUỘC NHÀ TRIỆU
TRIỆU VŨ VƯƠNG - Triệu Đà, người Hoa gổic huyện Chân Định,
làm quan nhà Tần, lĩnh chức Long Xuyên lệnh, sau thay Nhâm
Ngao làm Nam Hải uý. Nhà Tần suy, Đà chiếm giữ đất ba quận
Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (huyện Minh Quý - Quảng Tây)
và Tượng Quận (miền tây Quảng Tây và phần đất Quý Châu),
năm 207 tr. CN, tự xưng làm vua, đặt tên nước là Nam Việt, đóng
đô ở Phiên Ngung, gần thành Quảng Châu bây giò, lấy hiệu là
Triệu Vũ đế.
Đốĩ với ta, Triệu Đà là kẻ xâm lăng cướp nước. Do có tên
nước là Nam Việt nên sử gia ta xưa đã lầm, chép là vua chính
thông, khai sáng cơ nghiệp. Thời Hậu Lê, Ngô Thì Sĩ đã cải chính
mà người sau vẫn gọi là vua ta. Người Hán cho Nguyên, Thanh
xâm lược là vua họ, vì đóng đô trên đất Trung Quốc cũ. Nhà Triệu
đóng đô bên ngoài đất Ảu Lạc, nếu ta nhận nhà Triệu là vua ta thì
Hán, Đường cũng là vua ta cả.
Năm 206 tr. CN, Hán Cao Tổ thông nhất Trung Quốc. Việc
cai trị vẫn theo chê độ trực trị quận huyện, riêng các vùng xa xôi
còn giữ chế độ phong kiến (theo nghĩa hẹp). Năm 196 tr. CN, sứ
nhà Hán Lục Giả sang dụ nhà Triệu quy thuận nhà Hán. Đà
thoạt đầu không chịu nhưng sau biết thế nhà Hán mạnh nên chịu
nghe theo, chỉ còn xưng là vương. Đến lúc Lữ Hậu cầm quyền,
cấm bán đồ sắt cho dân Nam Việt, Đà tức giận cắt đứt quan hệ với
nhà Hán, lại xưng hoàng đế, đem quân đi đánh đất Trường Sa.
Bên Hán sai Chu Tác đem quân đánh Nam Việt. Binh sĩ Hán
không quen thời tiết chết hại nhiều. Năm 180 tr. CN, Lữ Hậu
chết, nhà Hán bãi binh. Hán Ván đế lên ngôi. Đà trở lại quy thuận
nhà Hán. (Bắc sử chép sau vụ này, mặt bắc đã yên, Đà mới quay
về phương nam, thôn tính Ảu Lạc).
Triệu Đà thống trị Âu Lạc, chia đất làm hai quận: Giao Chỉ
(Bắc Việt) và Cửu Chân (Bắc Trung Việt ngày nay). Mỗi quận đặt
chức điển sứ giữ việc cai trị, thu công phú và chức tả tướng chỉ
huy quân đội trú phòng, nói là để giữ trị an cho dân chúng, thực
18
sự là để đề phòng dân bản xứ nổi dậy chốhg đốì. Phần lớn các nhà
quý phái Lạc hầu, Lạc tướng, lại đổi chủ, phục tùng vương triều
nhà Triệu nhưng bị đặt dưới quyền kiểm soát của điển sứ, tuy
không chặt chẽ lắm. Nhân dân phải đóng góp nhiều hơn trước
phần nào để trả lương quan lại, binh sĩ trú phòng. Do không nặng
nề lắm nên không có sự thù oán
Dưới triều nhà Triệu, có sự truyền bá chữ Hán và lễ giáo
phong tục của Trung Quốc sang bên ta. Ánh hưởng văn hoá Hán
không sâu rộng mấy, chỉ đến tầng lớp quý tộc. Duy có sự tiến bộ về
nông nghiệp; Người nước ta biết dùng đồ sắt như cày, bừa, mai,
cuốíc thay đồ đồng thau nhưng các nông cụ này phải mua đắt của
người Hán.
Năm 137 tr. CN, Triệu Vũ vương băng, ở ngôi 70 nám, thọ
121 tuổi (?!). Vũ vương là người anh hùng nhưng các vua kế
nghiệp: Văn vương Hồ, Minh vương Anh Tề đều hèn kém.
TRIỆU VẢN VƯƠNG - Cháu Vũ vương là Hồ, con Trọng Thuỷ,
nôl ngôi, tức là Triệu Văn vương.
Văn vương nhu nhược. Năm 135 tr. CN, quân Mân Việt kéo
sang đánh. Văn vương không chốhg cự, sai sứ sang cầu cứu Hán
triều theo lời ước trước. Hán Vũ đế sai Vương Khôi và Hàn An
Quốc cử quân đi đánh Mân Việt. Người nước này giết quốc vương
xin hàng. Nhà Hán nhân dịp vòi Văn vương sang hầu để dụ dỗ
đem nước phụ thuộc Hán.
Tướng Lữ Gia khuyên không nên đi, nên sai con là Anh Tề
sang làm con tin.
Anh Tề ở Hán mười năm, chịu ảnh hưởng Hán, lấy Cù thị,
người Hàm Đan đất Hán.
Năm 125 tr. CN, Triệu Văn vương khuất, ở ngôi 12 năm, thọ
52 tuổi.
TRIỆU MINH VƯƠNG - Anh Tề về nốỉ ngôi, ấy là Triệu Minh
vương. Phong Cù thị làm hoàng hậu, con Cù thị là Hưng làm thái tử.
Cù thị thường khuyên Minh vương theo về Hán. Thị lại có quan hệ
xấu với viên quan nhà Hán là An Quốc Thiếu Quý, mỗi lần về kinh
Trường An bắt đem theo nhiều người Việt bán làm nô nên bị triều
thần không ưa. Thị càng có ý đem Nam Việt nộp cho nhà Hán. Bấy
giò vua Hán Vũ đế cường thịnh, cương quyết xâm chiếm Nam Việt,
nắm được chỗ yếu của nhà Triệu, ra tay tổ chức công cuộc xâm lược,
sai sứ sang dụ dỗ Minh vương dâng đất, sẽ được lĩnh một chức quan
như chư hầu nội địa Hán. Tể tướng Lữ Gia, người Lạc Việt và một sô"
19
triều thần bàn không nên thuận theo. Trong tình trạng bốì rốĩ, năm
113 tr. CN thì Minh vương mất. Cái chết này chừng như không bình
thường. Minh vương ở ngôi 12 nám.
TRIỆU AI VƯƠNG - Thái tử Hưng lên nôi ngôi. Ây là Triệu Ai
vương. Ai vương còn ít tuổi, Cù thị làm thái hậu nhiếp chính.
Cù thị muôn đem con về Hán. Triều thần Nam Việt nhiều
người muôn giữ độc lập. Hán triều trước đây cử bọn An Quốíc
Thiếu Quý sang du thuyết thì một mặt sai vệ uý Lộ Bác Đức đem
quân đóng ỏ Quế Dương để làm áp lực. Tình thế gay go. Cù thị
mưu sát Lữ Gia, người đứng đầu đảng độc lập, không thành. Lữ
Gia thoát chết, cương quyết hành động. Nhà Hán cử Hàn Thiên
Thu và Cù Lạc - em Cù thị - đem hai ngàn quân đánh vào đất
Nam Việt. Lữ Gia họp bách quan, mở cuộc đình nghị, kể tội Cù thị
và bè phái, rồi đem giết hết. Ai vương và An Quốc Thiếu Quý cũng
bị giết. Bấy giò là năm 112 tr. CN. Ai vương ở ngôi một năm.
TRIỆU DƯƠNG VƯƠNG - Lữ Gia tôn con trưởng Minh vương là
Thuật Dương hầu Kiến Đức, có mẹ đẻ người Việt, lên làm vua. Ây
là Triệu Dương vương.
Lữ Gia chuẩn bị kháng chiến. Mùa đông năm ấy, quân đội
của Hàn Thiên Thu và Cù Lạc xâm nhập biên giới, phá một sô"
làng ấp, tiến vào phía thành Phiên Ngung. Lữ Gia tiến quân ra
chặn, đánh tan quân xâm lược.
Hán Vũ đế hay tin, tức giận, quyết định chiếm bằng được đất
Nam Việt, cử đại binh mở cuộc tấn công quy mô rộng lớn, sai Phục
Ba tướng quân Lộ Bác Đức và Lâu Thuyền tướng quân Dương Bộc
đem ba vạn quân (thòi ấy sô" này đã là nhiều lắm) sang đánh.
Quân xâm lược gồm năm đạo, từ Quế Dương, Dự Chương, Linh
Lăng, Thương Ngô, Dạ Lang, rầm rộ kéo đến Phiên Ngung.
Năm 111 tr. CN, quân Hán hội họp lại tấn công thành này,
thê" rất hung dữ. Quân đội Lữ Gia chông chọi lại mãnh liệt nhưng
không lại được với giặc đông đúc hung tợn. Thành Phiên Ngung bị
hạ. Lữ Gia dẫn Dương vương chạy sang đất Giao Chỉ, đến núi
Nghiêm Trang (núi Ngăm, nay thuộc Nam Định), bị giặc bắt cùng
với một sô" tướng tá đưa sang Hán. Điển sứ và tả tướng hai châu
Giao Chỉ và Cửu Chân, đều hàng, được giữ chức cũ.
Quận trưởng Tây Vu, vùng Thái Nguyên, Tuyên Quang bây
giờ, xưng là Tây Vu vương, tụ tập quân dân Việt chông lại quân
Hán, giữ độc lập. Lực lượng nghĩa quân không được mạnh lắm,
không bao lâu cũng bị bại vong.
20
Đất nước Âu Lạc xưa, từng thuộc Triệu, đến đến đây phải
chịu nhà Tây Hán đô hộ.
Lữ Gia người Lạc Việt, quán xã Lật Sài, huyện Thạch Thất, phủ
Quôc Oai, Sơn Tây. Tại nơi đây nay còn có đền thờ, gần hang Hoàng Xà.
Tại xã Côi Sơn, gần núi Ngăm, huyện Vụ Bản (Nam Định) cũng có đền
thờ. Sử gia Lê Văn Hưu chê Lữ Gia giết vua lại không giữ được nước.
Nhiều người nghĩ khác, cho rằng Lữ Gia biết lấy giang sơn là trọng. Phê
bình thì không phải chỉ thành công mới đáng khen.
Nước Nam Việt do Triệu Đà dựng nên. Quan lại phần nhiều
dùng người Hán nhưng dân chúng thì người giông Hán lại là thiểu
sô", chỉ gồm đám 10 vạn dân nhà Tần đưa sang lập nghiệp cho ở lẫn
với người bản thổ. Cư dân Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận thuộc
các sắc tộc Việt trong Bách Việt: Đông Việt, Nam Việt, Tây Âu
Việt... gần với dân Lạc Việt, Âu Việt hơn là dân Hán tộc. Sau gần
một thê kỷ thuộc Triệu, lễ giáo phong tục Hán du nhập thì ảnh
hưởng chỉ đến đám quý tộc và thị dân, còn quần chúng không biến
đổi gì mấy. Trong cộng đồng các người Việt này, Lạc Việt tuy ở cực
nam nhưng đông đúc hơn hết. Lữ Gia, người Lạc Việt, ra làm quan
ngay từ khi Triệu Đà còn sông cầm quyền.
Nếu nước Nam Việt còn tồn tại được lâu dài thì đây là một Đại Việt
gồm nhiều sắc dân Việt, mà Lạc Việt là dân đa số, có địa vị quan trọng
trong cộng đồng. Sau ngàn năm thuộc Hán... Đường, dân Nam Hải,
Quê Lâm - Lưỡng Quảng ngày nay - bị Hán hoá nhiều thành ra xa cách
với ta. Thời Bà Trưng khỏi nghĩa, vẫn còn một số người Việt khác sắc
tộc hưởng ứng chông lại nhà Hán. Sau thì người dân Âu Việt ỏ bắc HỢp
Phô" cũng bị Hán hoá.
Trên các thái thú có chức thứ sử, còn gọi là châu mục, đề cử
và kiểm tra các quan lại đô hộ. Phủ trị thứ sử đóng ở Long Uyên,
có sách chép là Luy Lâu, nay là xã Lũng Khê phủ Thuận Thành
(Bắc Ninh). Thứ sử đóng trên đất quận Giao Chỉ, toàn cõi gọi là
Giao Chỉ bộ. Thứ sử đầu tiên là Thạch Đái.
Các quý tộc bản xứ có thế tập: Lạc hầu, Lạc tướng thì chính
quyền đô hộ vẫn dùng giữ chức huyện lệnh tức huyện trưởng, cai
trị dân chúng, dưới quyền thái thú.
Dưới ách thống trị nhà Hán, nhân dân ta cực khổ. Thòi thuộc
Triệu còn đỡ, sang thời Hán trực trị thì quá tệ. Không kể thuê má
cao, dân ta còn phải lặn xuông biển kiếm đồi mồi, trai có ngọc, lên
rừng săn voi, tê giác lấy ngà, lấy sừng, tìm hương liệu, gỗ quý, lao
dịch nặng nhọc và nguy hiểm. Các công việc phục dịch chính
quyền như xây thành trì, đắp đồn luỹ, làm đưòng sá thì không
22
đáng kể. Đàn bà, con gái không phải đi phu thì bị bắt đưa làm nô
tỳ, hầu hạ nhà các quan. Các quan cai trị người Hán sang ta đều
tham nhũng, chẳng nhiều thì ít. Còn bọn quý tộc bản xứ thì xu
nịnh bọn thông trị, bóc lột đồng bào. Suốt 150 năm thuộc Tây
Hán, dân tình khổ cực mà không có cuộc nổi dậy quy mô lốn nào,
do bình dân không có người tài giỏi lãnh đạo, mà bọn quý tộc lại
đứng về phe quân cướp nước.
Bắc sử có chép: Người Hán dẫn dắt dân man di theo vương
hoá, dạy dân lễ nghĩa, phong tục Trung Quốc. Việc này trước
Triệu Đà đã cho thi hành, ảnh hưởng chẳng được mấy. Lại đâu có
phải cái gì của Trung Quốc cũng hay, cũng tốt cả. Bắc sử có chép:
Triệu Qua, đô uý Cửu Chân, dạy dân trước chỉ biết đánh cá, cày
ruộng bằng trâu bò phổ biến cách canh tác luân lưu ba mảnh, gọi
là phép đại điền. Dân Lạc Việt đã sớm biết trồng lúa trên ruộng
nước, đâu phải nhò đến người Hán dạy cày cấy. Có chăng có cải
tiến phần nào về nông nghiệp.
Năm 8 sau CN, tại Trung Quốc, Vương Mãng thoán ngôi nhà
Hán. Các quan nhà Hán ở bộ Giao Chỉ: thứ sử Đặng Nhượng, thái
thú Tích Quang, Đỗ Mục tự chuyên, không nạp cốhg phú cho
Vương Mãng. Sau khi Quang Vũ phục quốc năm 24, chúng lại sai
người về công hiến, được phong liệt hầu.
Trung Quốc gặp loạn Vương Mãng, từ năm 8 đến 24, có hàng
trăm quý tộc người Hán chạy sang lập nghiệp bên xứ ta, được các
quan cai trị người Hán giúp đỡ. Bọn chúng trắng trỢn tước đoạt
ruộng đất của nhân dân ta, hoặc lấy không, hoặc trả giá rẻ mạt,
đem phân phối cho họ. Có thêm lũ quý tộc người Hán này, nền
thông trị càng được củng cố’. Tích Quang, thái thú Giao Chỉ, mỏ
trường dạy chữ Hán cho các con cái quý tộc Hán, cùng con cái các
quan Lạc hầu, Lạc tướng. Ngoài ra còn còn lấy vào sô" ít ngưòi bản
xứ để sau tuyển dụng làm lại viên (thư ký) cho các quan người
Hoa (Thời ấy ở ta chưa có tầng lớp sĩ phu).
TÍCH QUANG - Người Hán Trung, năm 2 sau CN sang làm thái
thú Giao Chỉ. Sử cũ chép ông hết lòng khai hoá dân ta, dạy dân lễ
nghĩa, đưỢc dân trong quận nhiều người kính phục. Chữ Hán và lễ
giáo Hán tộc được truyền bá rộng rãi trên đất Giao Chỉ.
NHÂM DIÊN - Người huyện Uyên, Nam Dương, năm 20 được
cử sang làm thái thú quận cửu Chân. Dân quận này bấy giờ làm
nghề chài lưới đánh cá và săn bắn, có đất rộng mà ít biết khai
thác. Nhâm Diên khuyến khích việc khai khẩn ruộng đất, cải tiến
23
nông nghiệp, dùng điền khí bằng sắt, dùng trâu bò kéo cày bừa.
Dân tự túc đưỢc lương thực, ông lại dạy dân nghi lễ cưới hỏi, bắt
lại thuộc trong quận nhường một phần lương bông cho những kẻ
nghèo lấy vỢ. Bấy giò có đến hơn 2000 người lấy nhau, năm mưa
thuận gió hoà, mùa màng phong đăng. Nhiều người sinh con đặt
tên là Nhâm để ghi nhớ ơn. Nhâm Diên lại cho đúc đồ điền khí,
sửa đổi tục lệ cư dân bằng cách phô biến nghề làm mũ khiến dân
đội, nghề khâu giầy khiến dân đi. Lại giảm bớt sô" lính canh
phòng, khiến họ đi khẩn hoang, ông ở châu 4 năm, dân quận nhớ
ơn lập đền thờ.
Sử gia ta xưa cực lực ca tụng công đức Tích Quang, Nhâm
Diên. Ngô Sĩ Liên nói: Đất Lĩnh Nam thành văn hiến kể từ Tích
Quang‘và Nhâm Diên. Người khác lại cho rằng Tích Quang, Nhâm
Diên tiến hành công tác đưa nhân dân ta vào đường Hán hoá. Nếu
có nhiều quan cai trị như hai ông thì nước ta chỉ còn là một tỉnh
của Trung Quốíc. Ke ra thì những ông này còn hơn hẳn lũ quan chỉ
vơ vét.
Về thời Bắc thuộc, sử gia ta xưa chép, chừng như thiếu tài
liệu, thường chỉ phỏng theo Bắc sử. Mà Bắc sử thì rất chủ quan,
hay che đậy những cái kém, những tội lỗi và phóng đại công nghiệp
của người nưốc họ. Dần Lạc Việt đâu có phải đến thế kỷ thứ I do
người Hán dạy bảo mối biết đến nông nghiệp.
Các Sắc dân Bách Việt thì Dương Việt (Giang Tây) và Ô Việt
(Triết Giang) đã sớm Hán hoá, kế đến Mân Việt cũng theo đà ấy.
Còn Đông, Nam Việt (Quảng Đông) và Tây Âu Việt (Quảng Tây)
cùng chung sô" phận với Lạc Việt ta nhưng sau rồi cũng Hán hoá,
mất gốc. Riêng người Lạc Việt có truyền thô"ng yêu giông nòi, yêu
đất nước, tiềm tàng từ đòi nọ sang đòi kia vẫn son sắt vững vàng
giữ được tiếng nói và phong tục nên sau hơn hai ngàn năm Bắc
thuộc lại khôi phục được nền độc lập.
KỶ TRƯNG VƯƠNG
Tên huý hai bà Trưng các sách sử viết bằng chữ quốc ngữ
mẫu tự La tinh đều chép bà chị là Trắc (phụ âm TR), bà em là Nhị
(dấu nặng). Nhưng do sự khảo cứu lại thì thực ra bà chị là Chắc
(phụ âm CH), bà em là N hi (dấu huyền). Theo lời truyền tụng của
dân xã Hạ Lôi, quê hương hai bà, thì do nhà nuôi tằm, kén tôd
nhất gọi là kén chắc, kén loại hai gọi lả kén nhì, còn loại ba là thứ
xấu. Hai bà được đặt tên Nôm. Người xưa viết sử chữ Hán, do
tiếng Hán - Việt không có chữ chắc và chữ nhì là tiếng Nôm, nên
viêt là Trắc và N hị có dấu cá bên. Có thế là qua tam sao thất bản,
dấu cá bên đã bị bỏ đi. Đến khi phiên âm ra chữ quổic ngữ, người
dịch trước đã viết là Trắc và Nhị, rồi người sau cứ theo thế.
Tên huý chồng bà Chắc là Đặng Thi. Thi là tên chứ không
phải họ. Tiếng sách là chữ viết sau chữ thi trong câu văn. Điều
này mấy học giả đã thừa nhận. Các bản sử quốíc ngữ chép là Thi
Sách tuy có bản chú thích thêm ông họ Đặng.
Có người cho rằng; Ngày nay ta đã quen gọi là Trưng Trắc,
Trưng N hị, Thi Sách thì đây đã thành tên mới rồi, có thể gọi các
nhân vật lịch sử ấy như thế cũng được.
Bắc sử có tập chép: Bà Trưng thấy Mã Viện anh hùng, quân Hán
tài giỏi, cìã xin hàng và tình nguyện xin làm thiếp. Đây là lòi người
phương hắc nói láo, hạ nhục vị nữ anh hùng nưốc ta. Hai bà oanh liệt đâu
có thế. Sách Việt chí của Thấm Hoài Viên người Hoa lại chép: Trưng Chắc
30
chạy sang Kim Khê ẩn náu, sau khi thua trận. Hai năm sau, bị dân
chúng bắt đem nộp cho quan quân nhà Hán. Đây cũng là lòi nói láo. Đất
nước ta không nơi nào có hang Kim Khê. Khu cẩm Khê, từng có tên là
Hoa Khê, nay thuộc Phú Thọ, không có vết tích gì về bà Trưng. Dân nước
ta thâm thù lũ quan lại nhà Hán và kính phục bà Trưng như thần thánh,
đâu có ai phản bội bắt đem nộp cho giặc nếu bà có chạy đến ẩn náu.
Sử gia Lê Vàn Hưu bàn; Trưng Chắc, Trưng Nhì là đàn bà, hô một
tiếng mà các quận cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phô’ và 65 thành ở Lĩnh
Nam đều hưởng ứng, dựng nưốc xưng vương, dễ như trơ bàn tay, đủ biết
tình thê đất Việt ta có thê dựng được cơ nghiệp lớn. Tiếc rằng trong hơn
ngàn năm, bọn đàn ông chỉ cúi đầu làm tôi mọi cho người phương bắc.
Trần Trọng Kim phê bình: Bà Trưng làm vua đưỢc ba năm nhưng
lấy tài chí người đàn bà mà dấy được nghĩa lốn như thế, khiến cho vua tôi
nhà Hán phải lo sỢ, ấy cũng đủ đế tiếng thơm vê muôn đời.
Công cuộc khới nghĩa của bà Trưng thành công chỉ mong manh,
sớm bị đàn áp, nhưng ảnh hưởng lớn đã đánh thức lòng dũng cảm của
người dân táo bạo nổi dậy khi bị đè nén quá độ, giác ngộ lòng yêu nước,
yêu đồng bào cùng nhau mưu hạnh phúc chung. Sau bà Trưng luôn luôn
có những vụ vũ trang khới nghĩa chống lại chính quyền đô hộ, không còn
chịu ép một bê như trước nữa.
Xứ ta thuộc Hán từ năm 111 tr. CN, chính quyền đô hộ tàn
ngược, mà suôt 150 năm không có cuộc nổi dậy chống đô’i quy mô lốn
nào. Đến khi bà Trưng hô hào thì khắp nơi trong bô’n quận đểu nhiệt
liệt hưởng ứng. Theo các nhà sử học kiêm chính trị xã hội học thì trước
đó quý tộc bản xứ bị vua quan nhà Hán lợi dụng làm tay sai cho
chúng, xu phụ họ, không đi đôi với đồng bào bị áp bức. Đến thòi Quang
Vũ, các Lạc hầu, Lạc tướng không còn được trọng dụng nữa, quyền lợi
bị xúc phạm nặng nể nên mới sát cánh với đông đảo quần chúng bình
dân chông lại nhà Hán.
Chiến thắng xong đại quân Trưng vương, Mã Viện cùng Lưu
Long, Đoàn Chi tiếp tục tiếp tục đi đánh chiếm thành trì thuộc các
huyện quận Giao Chỉ, kế đến quận Hợp Phô". HỢp Phô" trên đưòng
Bắc quô"c sang ta, Mã Viện không đánh quận này trước mà tiến
quân thẳng đến Giao Chỉ mưu triệt nơi đô kỳ thì nhân dân mọi
nơi xa mất tinh thần, dễ bị đánh thua. Quân Hán đi đến đâu đều
giết hại quân dân ta nhiều, lại vơ vét chiếm đoạt của cải, nhất là
trông đồng và đồ đồng. Chúng tịch thu tài sản các quý tộc dù
không dự cuộc chông đôi, đã chết hay đã chịu hàng. Rất nhiều
31
trông đồng và đồ đồng bị thu đem về dâng vua Hán. Việc bình
định Giao Chỉ và Hợp Phô" kéo dài suô"t năm 42.
Sau đó, Mã Viện cho quân sĩ nghỉ ngơi ít bữa. Sang nửa cuôl
năm 43, giặc lại tiến vào miền trong, đánh chiếm hai quận cửu
Chân và Nhật Nam. Tướng Đô Dương ngăn giặc ở Vũ Công (Ninh
Bình?) bị đánh thua phải chạy. Mã Viện tiến quân vào Thanh
Hoa. Tướng Chu Bá kháng cự mạnh, cũng không nổi, phải rút vào
rừng. Quân dân ta ở Vũ Biên (Nông Công, Tĩnh Gia) và Cư Phong
(Thọ Xuân và Đông Sơn đều thuộc Thanh Hoá ngày nay) chông cự
kịch liệt, oũng không lại. Hàng trăm tướng suý bị chém. Quân dân
đất Cửu Chân vẫn còn chông cự lai rai, chưa chịu phục. Sau gần
một năm, Mã Viện mới bình xong. Bọn Đô Dương kiệt lực, sau
phải xin hàng.
Các huyện thuộc quận Nhật Nam không chống nối với giặc thê
hung dữ, lần lượt phải mất. Tướng Tam Quang cũng phải xin hàng.
Mã Viện vơ vét, nhặt nhạnh của cải của dân ta vô sô", không
biết chừng nào mà kế.
Bình định xong xứ ta, Mã Viện bắt hết thảy các quý tộc và cả
những người có chút uy thê chính trị, đến ba trăm người, cho đưa
cả sang ở tỉnh Hồ Nam, không còn liên lạc gì nữa với đồng bào ta.
Rất ít các quý tộc đào tẩu được vào rừng sâu, thoát nạn. Riêng các
quý tộc Thái, Mường trong rừng sâu xa xăm không bị.
Từ đấy, các huyện do các quan người Hán cai trị, đều là
người của triều đình bổ dụng.
Mã Viện dựng cột đồng lớn ở biên giới ghi công chinh nam
của mình, có khắc sáu chữ: Đồng trụ chiết, Giao C hỉ diệt (cột đồng
gãy thì toàn dân Giao Chỉ bị giết hết). Có lòi truyền tụng rằng:
Người xứ ta qua đấy, thường lấy đất đá chất vào, lâu ngày thành
gò đông, do sỢ cột đồng gãy. Thuyết khác cho rằng chính người
Hoa đã lấp cột đồng ấy đi, đế lâ"n đất biên giới. ĐVSKTT chép: Cột
đồng được đặt ơ động Cổ Lâu thuộc Khâm Châu. VSTGCM lại
chép là động Cố Sâm, Đào Duy Anh cho là đúng hơn.
Chuyện cột đồng Mã Viện thuộc về truyền thuyết. Có người
cho là không chắc có thật. Nhiều người đời sau cho là đặt ở các nơi
khác nhau, từ biên giới Việt - Trung đến núi Ngự, đồng trụ gần
đèo Đại Lĩnh, đều thấy khó tin. cổ Sâm là động phía nam Khâm
Châu, gần biên giới nước ta. Lại có thuyết cột đồng dựng ở khoảng
phía hắc sông Gianh, nam Hoành Sơn, tại biên giới của Giao Chỉ,
không phải ỏ hiên giới phía bắc, không rõ đâu là đúng.
32
Theo thiển ý, cột đồng dựng ở biên giới bộ (ỉiao Chỉ bấy giờ thì phái là
bắc Hợp Phô, (lất cũ Áu Việt nhà Thục, nay thuộc Quảng Đông Trung Quốc.
Chiếm đoạt xong đất xứ ta, Mã Viện chỉ định lại các quan lại
vua Hán cử sang làm những chức thái thú, huyện lệnh. Viện có
chia cắt lại các địa hạt huyện nhỏ hơn. Việc cai trị của nhà Hán
bấy giờ có mưu đồ Hán hoá dân tộc ta.
Về kinh tê, Viện có làm được vài việc công ích, như đào ngòi
bắc máng dẫn nước vào ruộng. Viện lại có một số" binh sĩ khai
khẩn đất hoang, lập thành làng ấp, thành lập những nhóm người
Hán, gọi là Mã Lưu trên xứ ta.
Năm 44, Viện mới trở về Trung Quốc.
Hắc sử chép: Viện sang ta, thích ăn món ý dĩ, cho là ý dĩ trừ
được chướng khí. Khi về nước, mang theo về mấy xe ý dĩ. Có người
tâu với vụa Quang Vũ rằng Viện đưa về mấy xe vàng bạc châu báu.
Vua Hán ng('j oan lão tướng. Viện sang tạ vơ vét của cải dữ
quá lắm. Khó tin mấy xe ý dĩ đó toàn là ý dĩ cả.
Sau Mã Viện, năm 80 tuổi, còn đi đánh Ngũ Man Khê. ó
đấy, Viện đã đưcíc như lòi nguyện, da ngựa học thây nhưng không
vì tên đạn, mà vì bệnh sốt rét rừng, cùng véii một sô lớn quân đội
viễn chinh.
LÝ TIẾN , LÝ CẨM
Trong thòi gian xứ ta thuộc nhà Hán, quan cai trị tham
nhũng. Triều đình lại hạc đãi người hản xứ, dù có học hành thông
thái cũng không được giữ việc chính trị. Mãi đến đồi vua Hán
Linh đê (168 - 189) mới có Lý Tiến được cử làm thứ sử Giao Chỉ.
Lý Tiến dâng sớ xin cho ngưòi Giao Chỉ được bổ dụng làm quan
như người trung châu, hlán đế chỉ cho những người đỗ mậu tài
hoặc hiêu liêm được làm lại thuộc trong xứ mà thôi, không được
làm quan ơ châu khác.
Bấy giò, có Lý cầm, người Giao Chỉ, làm túc vệ hầu vua
trong điện, rủ mấy người đồng hương, giữa ngày đầu năm, các
nước triều hội phủ phục ở sân điện, kêu cầu thảm thiết: ơn vua
ban không đều. Nam Việt ỏ xa không được đội ơn, ý rất thành
khẩn. Hán đế nói chó một người đỗ mậu tài làm huyện lệnh Hà
Dương, một người đỗ hiếu liêm làm huyện lệnh Lục Hợp. Sau Lý
Cầm được thăng quan dến chức tư lệ hiệu uý. Lại có Trương Trọng
làm thái thú Kim Thành.
Nhân tài người Việt được tuyển dụng làm quan như người Hán
khỏi đầu từ Lý Tiến, Lý cầm. Có thuyết Trương Trọng đã làm quan
dưói triều Hán Minh đế, nửa sau thê kỷ I, trước Lý cầm.
Sử gia ngày nav có người cực lực chê tránh thái độ của Lý
Cầm quỳ lạy khóc lóc thảm thiết, kêu xin với vua Hán là hèn hạ,
thiếu nhân phẩm, không ý thức rằng quyền vua thời quân chủ
chuyên chế, nhất là hoàng đê Trung Quôh thời xa xUa là vô hạn
định, hái (Ịuỳ là giữ lễ phép. Việc làm của Lý cầm không có gì phải
đáng chê trách, Theo quan niệm của người đòi nay mà phê bình
người thời xưa, e không được đúng.
KỶ THUỘC NGÔ
Năm 220, nhà Đông Hán mất ngôi, Trung Quốc phân ra làm
ba nước: Bắc Nguy, Tây Thục và Đông Ngô. Đất Giao Chỉ bấy giờ
thuộc về Đông Ngô. Nhà Ngô trị nước từ năm 222 đến năm 280.
42
Ngô chúa nghe tin Sĩ Nhiếp chết, thấy Giao Châu xa cách,
bèn chia làm hai: Từ Hợp Phô' trở về bắc là Quảng Châu, từ Hợp
Phô' trở về phía nam là Giao Châu, cử Lữ Đại làm thứ sử châu
Quảng, Đái Lương làm thứ sử châu Giao, Trần Thì làm thái thú
quận Giao Chỉ.
Sĩ Huy, con Sĩ Nhiếp, từ trước đã chiếm xưng làm thái thú
Hợp Phô'. Lương và Thì tiến đến Hợp Phô'. Lại viên Hoàng Lân
khuyên Huy nên đón bọn Lương. Huy đem binh người họ**' ra
chông cự. Lữ Đại vâng chiếu vua Ngô đem quân từ Quảng Châu
ngày đêm đi gấp đến HỢp Phô', cùng với Lương tiến đánh anh em
Huy. Đại sai người đến dụ Huy ra hàng. Huy thực bụng thực dạ,
anh em sáu người ra hàng, bị Đại bắt đem chém cả. Lữ Đại đã dỗ
ra hàng mà lại đem giết đi là bậy, thất tín, đáng khinh.
Nhất, Vi và con Nhất là Khuông sau mối ra hàng. Ngô chúa
tha cho cùng với con tin Ngẫm đều bị giáng làm thứ nhân. Được
vài năm, Nhất và Vi có tội phải giết, Khuông ô'm chết trước. Đến
khi Ngẫm chết, tướng của Huy là Cam Lễ và Hoàn Trị đem lại và
dân cùng đánh Đại, bị Đại đánh tan. Đại tiến đánh quận cửu
Chân, chém và bắt được hàng vạn người. Ngô chúa cho Đại kiêm
lãnh cả Giao, Quảng hai châu, làm Trấn Nam tướng quân, tước
Phiên Ngung hầu.
Quan lại nhà Ngô sang ta cũng tham bạo, có phần lại quá
tệ hơn. Dân ta bớt khố dưới thời Giả Tung (Giả Mạnh Kiên), Lý
Tiến, Sĩ Nhiếp, thì nay, ngoài sưu cao thuế nặng, còn phải bắt
đưa sang Ngô xây đắp dinh thự, thành quách nên luôn luôn có
những cuộc nổi dậy. Năm 248, người c ử u Chân nổi lên đánh
phá thành ấp, châu quận rô'i động. Thứ sử kiêm hiệu uý Lục
Dận (có sách chép Lục Thương), cháu Lục Tô'n, vừa vỗ về, vừa
đàn áp, lâu lâu mới được yên. Lại có vụ bà Triệu khởi nghĩa
(việc chép ở sau).
Sau thái thú Giao Chỉ Tôn Tự tham bạo, làm hại nhân dân.
Ngô chúa sai Đặng Tuân đến quận xem xét. Tuân bắt dân nộp
3000 chim công đưa về Kiến Nghiệp. Dân sự mưu nhau chông đô'i.
Quận lại Lữ Hưng giết Tư và Tuân, xin Tư Mã Viêm cầm quyền
nước Nguy đặt thái thú và cho binh. Các quận Nhật Nam và cửu
Chân hưởng ứng. Bấy giờ là nám 263.
Cuối đời Hán, các họ cùng nổi loạn, người miền nam hợp người họ làm lính đế tự vộ, cho
nên aọi là tône binh, lính ncười họ.
43
Năm 265, Tư Mã Viêm dứt nhà Nguỵ, xưng đế, dựng lên nhà
Tấn. Đặc cử Dương Tắc làm thái thú. Nhà Ngô không chịu bỏ Giao
Châu, năm 268, cử Lưu Tuấn làm thứ sử, đại đô đốc Tu Tắc và tướng
quân Cô" Dung ba lần trước sau đánh Giao Châu, đều bị bọn Dương
Tắc đánh bại. Tỳ tướng của Dương Tắc là Mao Linh và Đổng Nguyên
đánh quận Hợp Phô", phá tan quân Ngô, giết Lưu Tuấn và Tư Tắc.
Linh lên làm thái thú Uất Lâm. Nguyên thái thú Cửu Chân.
Năm 269, Ngô chúa lại sai giám quân Ngu Phiếm, Uy Nam
tướng quân Tiết Hũ và thái thú Thương Ngô Đào Hoàng, đi đường
Kinh Châu sang, giám quân Lý Đính, đô"c quân Từ Tôn đi đường
biến Kiến An sang, h Ợ p quân ở Hợp Phô" để đánh Dương Tắc.
Quân Ngô và quân Tấn đánh nhau nhiều trận.
Đào Hoàng, người Đan Dương, là tướng giỏi. Năm 271, cự
nhau với Dương Tắc ở Phần Thuỷ (huyện Tân Hội, Quáng Đông)
từng bị thua, lui về giữ Hợp Phô", sau đánh úp được Đông Nguyên,
bày kê khiến quân Tấn giết Giải Hệ, dũng tướng của Nguyên. Bọn
Hũ và Hoàng đánh lấy được châu, trừ đưỢc bọn thứ sử Dương Tắc,
sau lại thắng công tào quận cửu Chân Lý Tộ. Hoàng có mưu lược,
chu cấp kẻ bần cùng, thích làm ơn bô" thí, được lòng người, cho nên
ai ai cũng vui lòng giúp việc, đi đến đâu có công trạng đến đấy.
Ngô chúa lấy Hoàng làm thứ sử tri tiết đô đô"c Giao Châu chư
quân sự tiền tướng quân châu mục.
Năm 280, nhà Ngô bị diệt, đất Ngô sáp nhập vào Tấn. Hoàng
khóc mấy ngày, rồi sai sứ mang ấn thao đến Lạc Dương. Tấn đê
chiếu cho phục chức, phong là Uyển Lãng hầu, Quán quân tướng
công. Hoàng ở châu 30 năm, vẫn tỏ uy quyền ân huệ, được người
địa phương yêu mến.
' ' Sứ cũ thường chép bà là Triệu Âu. Đây là tiếng người Hoa gọi bà. Chữ Hán Ăii có nghĩa
là Mụ, chi nsười đàn bà tầm thường, già, xấu. Triệu Âu có nghĩa là con mụ Triện, tò ý khinh
bi ngirời nữ anh hùng nước la.
44
Quốc Đạt. Năm 20 tuổi, có người chị dâu ác nghiệt, bà giết đi, rồi
vào ở trong rừng núi. Có sức mạnh, lại chí khí mưu lược, bà chiêu
mộ được hdn ngàn tráng sĩ làm thủ hạ. Người anh thấy thế, can
bà thì bà hảo rằng: “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng
dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, quét sạch bò cõi, để cứu dân
ta khỏi nơi đắm đuôi, chứ không thèm bắt chước người đòi cúi đầu
còng lưng để làm tỳ thiếp người ta.”
Bấy giờ, quan lại nhà Ngô tàn ác. Dân gian cực khổ. Triệu
Quỗc Đạt khơi binh đánh cướp các huyện quận cửu Chân. Bà đem
quân sĩ ra đánh giúp anh. Quốc Đạt hy sinh. Quân sĩ thấy bà là
tướng can đảm, tôn làm minh chủ. Khi ra trận, bà cưỡi voi, mặc áo
giáp vàng, đi guốc gỗ, xưng là Nhuỵ Kiều tướng quân. Quân sĩ tôn
bà là Lệ Híii bà vương, có nghĩa bà là vua miền biến rất mạnh tỢn,
dữ dội. (Nhuỵ Kiều tướng quân có nghĩa là tướng quân đàn bà còn
ít tuoi).
Quân Ngô sỢ hcãi, có câu: H oành qua đương hô dị, đối diện bà
vương nan, nghĩa là múa giáo trước mặt ho dễ, giáp mặt bà vương
mới khó.
Lục Dận phải huy động đại binh 6000 quân đi đánh. Bà
chông chọi lại được với quân Ngô năm, sáu tháng. Nhưng vì quân
ít, thế cô, đánh mãi phải thua. Bà đem quân đến xã Bồ Điền ínay
là xã Phú Điền thuộc huyện Mỹ Hoà). Thế cùng, bà tự tử. Bấy giò
mới 23 tuổi.
Nay tại xã Phú Điền, tỉnh Thanh Hoá và xã An Hoá, tỉnh
Nghệ An còn có đền thồ bà. Vua Lý Nam đế khen bà là người
trung dũng, lập miếu thờ, phong bà là Bật Chính Anh Liệt Hùng
Tài Trinh Nhất phu nhân.
KỶ THUỘC TẤN
Bên Trung Quốc, nhà Tấn lập 265, đến năm 280 chiếm đất
Đông Ngô, cai trị toàn quổc hơn 50 năm. Sau đó phía tây bắc, có
những người nhung, địch nôi nhau chiếm giữ vùng bắc Trường
Giang, xưng đê xưng vương, dựng nên các nước Triệu, Tần, Yên,
Lương, Hạ, Hán, trước sau 16 nước, gọi là loạn Ngũ Hồ. Dòng dõi
Tư Mã chỉ còn giữ được phía đông nam, đóng đô ở thành Kiến
Nghiệp (Nam Kinh ngày nay), gọi là Đông Tấn, kéo dài đến năm
420. Đất nước ta thuộc Tấn từ nám 280 đến năm 420.
(^uan lại nhà Tấn sang cai trị, cũng như quan lại nhà Hán, nhà
Ngố, thỉnh thoảng mới được người tôt thì dân gian yên ổn. Còn đa số
45
đều tKam ác thì nhân dân lầm than khổ sở. Lại có việc quan lại
tranh quyền đánh giết lẫn nhau, khiến cho nước loạn lạc luôn.
Cuôi thế kỷ thứ III, thường hay có những cuộc nổi dậy lẻ tẻ. Triệu
Chi cùng thú binh quân cửu Chân nổi dậy, vây quận, đánh đuổi thái
thú. Quan quân nhà Tấn phải vất vả lắm mới dẹp vên được.
Đốc quân Lương Thạc chuvên quyền chiếm giữ châu, sỢ dân
tình không phục, cử Đào Uy, con Đào Hoàng, thái thú Thương
Ngô, lĩnh chức thứ sử. Uy cai trị 30 năm, được lòng dân. K ế em Uy
là Thục, con là Tuy nôi nhau làm thứ sử. Từ Cơ (ông nội hay cha
Hoàng) đến Tuy, bổh đòi giữ tiết V iệt.
Nàm 318, Tấn đê cử Đào Khản làm Giao Châu đô đốc chư
quân sự. (Khản tức Đào Sĩ Hành, cha thi sĩ Đào Tiềm). Năm 322.
lại cử Vương Lượng làm thứ sử, khiến đánh Lương Thạc. Thạc
diệt được LưỢng, giữ châu, hung bạo mâ"t lòng dân. Đào Khản sai
tham quân Cao Bảo đánh, chém chết Thạc. Tấn đế cho Khản lãnh
thứ sử Giao Châu, tiến hiệu Chinh Nam đại tưống quân. Không
bao lâu thị lang bộ lại Nguvễn Phóng xin làm thứ sử. Đến nơi,
mưu giết Bảo, bị Bảo đánh thua, chạy đến châu khát nước quá rồi
chết. Quan tướng nhà Tấn đánh giết nhau không phải chỉ cố thế.
Quốc sử chép quan nhà Tấn có thự sử Ngô Ngạn tại chức 25
năm, ân uy rõ rệt, dân yên ổn. Cô" Bi thay là người ôn hoà, nhã
nhặn, dân châu yêu mến, tiếc rằng cai trị không lâu, ô"m chết.
QUÂN LÂM ẤP SANG CƯỚP PHÁ - Lâm Âp dựng, chiếm đất Việt
Thường, quân đội hùng mạnh. Thời xứ ta thuộc Ngô, người Lâm
Âp hay sang cướp phá ở quận Nhật Nam và cửu Chân. Đến thời
thuộc Tấn, nhà cầm quyền vẫn phải dùng nhiều quân đóng đồn
phòng quân Lâm Âp của Phạm Hùng hay sang quấy nhiễu.
Phạm Hùng truyền cho con là Phạm Dật. Phạm Dật mất thì
gia nô Phạm Văn cướp ngôi. Phạm Văn truyền ngôi cho con là
Phạm Phật.
Năm 353, thứ sử Giao Châu Nguyễn Phu đánh vua Lâm
Âp Phạm Phật, phá được hơn 50 đồn luỹ. Phạm Phật truyền
ngôi lại cho con cháu là Phạm Hồ Đạt. Hồ Đạt anh hùng, năm
399, đem quân sang đánh lấy hai quận Nhật Nam và cửu
Chân, rồi lại đánh cướp Giao Chỉ. Thái thú Giao Chỉ Đỗ Viện
đánh đuổi được người Lâm Âp, lấy lại hai quận kia, được phong
làm thứ sử Giao Châu.
Năm 413, Phạm Hồ Đạt lại đem quân sang đánh phá ở quận
Cửu Chân. Thứ sử Giao Châu bấy giò là Đỗ Tuệ Độ, con Đỗ Viện,
46
đem quân vào đuổi đánh, chém được tướng Phạm Kiện và bắt
được hơn trăm người.
Người Lâm Âp hay đi cướp phá, cứ vài ha năm lại sang quấy
nhiễu. Nàm 415, lại sang, chảu tướng đánh đuổi được.
Để trừ hại về sau, Đỗ Tuệ Độ, năm 420, cất binh mã sang
đánh, chém giết tàn hại, rồi bắt người Lâm Ap hàng năm phải
công tiến voi, vàng bạc, dồi mồi.
Dòng dõi Phạm Hồ Đạt sau bị quan Lâm Âp Phạm Chư Nông
thoán ngôi. Phạm Chu Nông truyền cho con là Phạm Dương Mại.
LOẠN LẠC ở GIAO CHÂU ĐỜI NHÀ TẤN - Thòi gian cuối thế kỷ
IV sang đầu thê kỷ V, nhà Tấn suy nhược, nhiều đốc quân các nơi
có cao vọng muốn nhân dịp làm sự cát cứ một địa phương để tiến
đên sự xung bá đồ vương.
Năm 380, thái thú Cửu Chân Lý Tô"n, người có sức khoẻ và
dũng lược, chiếm giữ quận, không chịu thuần phục nhà Tấn, uy
danh chấn động cả Giao Châu. Thái thú Giao Chỉ Đỗ Viện họp
quân đánh Tôn, chém được Tôn tại trận. Tàn quân của Tôn vẫn
tiếp tục hoạt động.
Dầu thê kỷ V, Tôn y\n kêu gọi dân Chiết Giang nối dậy chông
nhà Tấn. Nghĩa quân bị đàn áp. Bộ tướng Lư Tuần, thái thú Vĩnh
Gia, tiếp tục cũng hị đánh hại. Năm 411, kéo quân chạy sang Giao
Châu, đánh Hợp Phô, tiến thang đến châu lỵ. Đỗ Tuệ Độ đem các
quan văn võ ơ châu phủ chống nhau với Tuần, phá tan được. Quân
của Tuần còn sót độ 2000 hỢp với dư đảng của Lý Tô"n là bọn Lý
Thoát kết hỢp vói 5000 dân Lái Lão ứng theo Tuần, đến Long
Biên. Đỗ Tuệ Độ dùng hoả công đốt thuyên bè của Tuần. Tuần thê
cùng, bỏ thuổc độc cho vỢ con chết trước, rồi gieo mình xuông dòng
nước mà chết.
Năm 412, cánh quân khác của Lư Tuần, do Lư Kinh Đạc chỉ
huy, chiêu tập dân vong mạng, nổi dậy đánh phá quận cửu Chân,
giết thái thú Đỗ Chương Dân, sau cũng bị Đỗ Tuệ Độ đàn áp.
Đỗ Tuệ Độ. mặc áo vải, ăn cơm rau, cấm thò nhảm, mở nhà học,
năm đói kém lấy lộc riêng chan cấp, làm việc quan chu đáo, được dân
yêu. Sau con là Hoàng Văn kê nghiệp. Ba đời mang phủ tiết.
KỶ THUỘC TỀ
Nhà Tề thav nhà Tông làm vua miền nam Trung Quốc từ
năm 479 đến năm 501, cử quan cai trị Giao Châu từ năm 485.
Lưu Khải thắng Lý Thúc Hiến, trị nhậm chức thứ sử Giao Châu.
Sau có Phòng Pháp Thặng thay. Pháp Thặng chỉ thích đọc sách, sao
nhãng việc công. Trưởng lại Phục Đăng Chí chuyên quyền, đổi thay
các tướng lại, bị Pháp Thặng bắt giam. Chạy chọt được ra, Đăng Chí
đem bộ khúc đánh úp châu trị, bắt giam Pháp Thặng giam ở nhà
riêng, tâu vua Tề rằng Pháp Thặng có bệnh tim, không thể coi việc
đưỢc. Vua Tề cho Đăng Chí làm thứ sử. Bấy giò là 490.
Sau nhà Tê' cử Lý Nguyên Khải sang thay Phục Đăng Chí.
Quôc sử không chép các thứ sử Lưu Khải, Phục Đăng Chí, Lý
Nguyên Khải tốt xấu thê nào.
KỶ THUỘC LUƠNG
Năm 502, nhà Lương thay nhà Tề cai trị miền nam Trung Quốc.
Lý Nguyên Khải, thứ sử Giao Châu, không phục nhà Lương,
gặp buổi thay triều đối họ, nước loạn lạc, có ý muôn tự lập, theo
như Triệu Đà, bèn chiếm giữ châu. Năm 505, trưởng sử Lý Tắc
đem quân sang đánh Nguvên Khai, giết được.
Năm 516, vua Lương phong Lý Tắc làm thứ sử. Tắc lại đánh
chém dư đảng Nguyên Khải là Vjỷ Tông L.ão, giết đi, bình được châu.
Người kế vị Lý Tắc là Vũ Lcâm hầu Tiêu Tư, người họ tông
thât nhà Lương, tàn ác. Dân Giao Châu nối dậy chôhg đôi.
49
KỶ NHÀ TIỀN LÝ
TIỀN LÝ NAM ĐẾ
Giữa thế kỷ Vĩ, xứ ta thuộc nhà Lương bên Trung Quốc. Thứ
sử Tiêu Tư và các thú lệnh người Hoa tàn bạo, hà khắc. Có Lý Bí‘*'
lãnh đạo nhân dân ta nôi dậy giành độc lập.
Ông người huyện Thái Bình'**\ Tổ tiên người Trung Quốc tránh
loạn Vương Mãng chạy sang ta lập nghiệp, truyền đến ông là bảy đời,
biến thành người Việt. Tài kiêm văn võ, có chí khí lớn, trước có giữ
chức quan nhỏ triều Lương, bất bình với cấp trên tham nhũng, bỏ
quan về nguyên quán. Thấy dân cực khổ dưới ách đô hộ nhà Lương,
lại hị người Lâm Âp hay sang cướp phá, ông muôn ra tay kinh tế cứu
vớt, đưa dân chúng lên cõi thanh bình, bèn chiêu mộ quân nghĩa dũng
dấy binh. Được Tinh Thiều, người giỏi từ chương, theo giúp khởi sự.
Thiều trước có đến kinh xin bổ dụng làm quan. Vua Lương chỉ cho
làm chức nhỏ. Thiều lấy làm nhục, bỏ về. Lý Bí làm giám quân ở châu
Cửu Đức, liên kết với hào kiệt các nơi, họ đều hưởng ứng. Có Triệu
Túc, tù trưởng Chu Diên, phục tài đức, đứng đầu dẫn quân theo.
Năm 541, việc tổ chức hàng ngũ nghĩa quân đã đưỢc chỉnh đốh,
uy thế hùng mạnh, đánh chiếm các địa phương huyện thành xa gần
dễ dàng, rồi tiến quân vây đánh thành Long Biên, thủ phủ Giao
Châu. Thứ sử Tiêu Tư, tên quan tham bạo ác ôn, thấy thế quân nổi
dậy rất lớn, vội vã bỏ chạy về Quảng Châu. ĐVSKTT chép Tư phải
đem nhiều của cải tặng Lý Bí mới chạy thoát thân được.
Nghĩa quân chiếm giữ được toàn cõi Giao Châu. Lý Bí sửa
sang mọi việc, định lập nên cơ nghiệp lâu dài.
Nghe tin Long Biên thất thủ, vua Lương vội sai các tướng Việt
Châu Trần Hầu, Na Châu Ninh Cự, An Châu Lí Trí, Ái Châu Nguyên
Hân cùng hỢp quân sang đánh. Đoàn quân xâm lược bị nghĩa quân Lý
Bí đánh bại. Danh tiếng lực lượng của nghĩa quân càng lên cao.
Năm 542, vua Lương lại sai các tướng Tôn Quýnh và Lư Tử
Hùng sang đánh nữa. Chúng viện cớ chướng khí mùa xuân đang
bốc, xin đợi đến mùa thu tiến quân. Thứ sử Quảng Châu Tân Dụ
Nguyên văn chữ Hán viết . Chữ này có 3 âm: Bôn, Bí và Phần, ĐNQSDC chép Phấn.
VNSL chép Bôn. Cao Huy Du dịch ĐVSKTT chép Bôn, lại chú thích gọi là Bi. Dân làng
thờ Lý Nam đẻ kiêng tiếng Bi. Vậy tướng chép tôn ông là Bí mới phải.
'**’ Huyện Thái Bình xưa, nhiều người cho là thuộc vùng Sơn Tây, Hưng Hoá. ĐVSKTT
chép Thái Bình thuộc phú Long Hưng thì đây phải là tinh Thái Bình ngày nay. Không rõ
đâu đúng. Có điều không thấy ở tinh Thái Bình đền thờ Lý Nam đế.
50
hầu Hoán không cho. Tiêu Tư cũng thúc giục. Bọn Quýnh và Tử
Hùng vừa kéo quân đến Hợp Phô", bị nghĩa quân đánh thua, 10
phần chết 6, 7. Quân tan vỡ trở về. Tư tâu vua Lương rằng bọn ấy
dùng dằng không chịu đi. Vua Lương bắt chúng phải tự tử.
Năm 543, quân Lâm Ap sang đánh phá cướp của quận Nhật
Nam. Tướng Tướng Phạm Tu dẫn nghĩa quân Cửu Đức - vùng Hà
Tĩnh - đánh chúng thua to chạy về nước.
Năm 544, sau nhiều lần đánh bại quân Lương và quân Lâm
Ap, Lý Bí vững tin ở lực lượng quân mình, chuyển sang củng cố
quyền thông trị đất nước, lên ngôi, xưng là Nam Việt đế, đặt quôh
hiệu là Vạn Xuân, cử Triệu Túc làm thái phó, Tinh Thiều làm
tướng văn, Phạm Tu làm tướng võ, đúc tiền đồng để dân tiêu dùng
trong nước.
Năm 545, vua Lương thây quân mình thua luôn và Lý Bí
xưng đế ở phương nam, tức giận, bèn dùng đại binh đi đánh, cử
Dương Phiêu làm thứ sử Giao Châu, Trần Bá Tiên làm tư mã, đem
quân sang đánh. Lại sai thứ sử Dương Châu Tiêu Bột hội với bọn
Phiêu ở Giang Tây. Bột biết tướng sĩ sỢ đi đánh xa, lại e sỢ quân
nam, mới kiếm cách nói dôi để lưu Phiêu ở lại. Phiêu hỢp tướng để
hỏi mưu kế. Trần Bá Tiên, tướng đại tài, chê bọn tông thất vô dụng,
cương quyết tiến quân. Phiêu cho Bá Tiên làm tiên phong.
Quân Lương xâm nhập bờ cõi. Lý Nam đế đem ba vạn quân
ra chông cự. Quân ta chông đôi với địch rất mạnh nhưng không lại
với quân Lương đông đúc, vóc người to lớn, có vũ khí sắc bén, lại
được chỉ huy bởi tướng tài nên bị thua ở Châu Diên, phía nam
sông Lục Đầu, khoảng lưu vực sông Thái Bình. Quân Phạm Tu ở
cửa sông Tô Lịch, khoảng Hồ Khẩu bên Hồ Tây, cũng bị giặc đánh
thua. Nghĩa quân phải rút về thành Gia Ninh (?). Quân Lương
đuổi theo vây.
Sang năm 546, Bá Tiên kéo quân đến đánh chiếm Gia Ninh.
Lý Nam đế chạy vào đất người Lão ở Tân Xương. Quân Lương
đóng ở cửa sông Gia Ninh, tiến lên đuổi đánh, chiếm thành Tân
Xương (nay thuộc Vĩnh Yên). Nam đế yếu thế, rút quân về động
Khuất Liêu (nay thuộc đất Hưng Hoá), đợi thu xếp được chỉnh đốh
lại ra đánh. Năm sau, Nam đê đem hai vạn quân ra đóng ở hồ
Điển Trạch (xã Yên Lập, huyện Lập Thạch, Vĩnh Yên ngày nay
tức xã Vạn Xuân), đóng nhiều thuyền chật cả trong hồ, Bá Tiên
dẫn quân tiến đánh. Sĩ tốt e ngại, đóng lại ở cửa hồ, không dám
tiến vào. Bá Tiên bảo các tướng: Quân ta sang đây đã lâu, mỏi
51
một, lại trd trọi một mình, không được tiếp viện. Tiến vào sâu đất
người, nếu trận đánh không thắng thì đừng có mong sông được.
Ngay đêm ấy, nước sông lên mạnh, chảv rót vào hồ, Bá Tiên thúc
quân theo dòng nước tiến vào, đánh trông reo hò. Quân ta kém
phòng bị, tan vỡ. Nam đê lại đem tàn quân về động Khuất Liêu
nay thuộc Đàm Xá, huyện Tam Nông, chỉnh đô"n lực lượng, mưu
sự đánh nữa. Nhưng đau hỏng mắt, nên uỷ cho đại tướng Triệu
Quang Phục, con Triệu Túc, giữ việc nước, điều quân chông lại Bá
Tiên. Năm 548, Nam đê khuất. Nay tại xã Đàm Xá có đền thò, gọi
là vua mù.
Lý Nam đế là người anh hùng, có chí lớn giết giặc cứu dân,
công nghiệp lớn lao mà không bền vững, do không may gặp phải
Trần Bá Tiên tài quá cao. ông làm vua được ba năm. ĐVSKTT
chép 7 năm là kê từ thời gian bắt đầu khởi nghĩa. Nước ta, đến Lý
Nam đê mới dựng nền quốíc gia độc lập. Trước có bà Trưng từng
dựng nước nhưng còn mang tính cách một liên bộ lạc.
TRẦN BÁ TIÊN
Trần Bá Tiên, tự Hưng Quốc, người Ngô Hưng Triết Giang,
cư sĩ vụ Kim Lăng, trước làm thái thú Thuỳ Hưng, có công bình
nam, được vua nhà Lương phong làm Uy Minh tướng quân, thứ sử
Giao Châu. Sử sách không chép về mặt chính trị, Bá Tiên tôt xấu
thê nào. Có thể không tham ác lắm. Không có việc dân chúng oán
giận. Có sự kiện Bá Tiên đưa một sô' người họ sang ta lập nghiệp ở
vùng Nam Sách, nay thuộc Hải Dương.
Sau Bá Tiên về nước, bình xong loạn Hầu cảnh, nhận thấy
nhà Lương hèn yêu, bèn thoán vị, lập nên nhà Trần, cai trị đất cũ
nhà Lương, không tiến lên được miền bắc do nhà Tề, nhà Chu kê
tiếp nhau làm vua. Nhà Trẩn trị vì miền nam Trung Quốc 32
năm, truyền 5 đời vua. Hậu Chủ mải chơi bời, bị nhà Tuỳ diệt.
Sử gia Ngô Sĩ Liên bàn (đại ý): Lý Phật Tử đánh Triệu Việt
vương, phẩm hạnh quá xấu. Tiền Lý Nam đế ở động Khuất Liêu
đem việc quân uỷ cho Việt vương. Việt vương thu nhặt tàn quân
giữ hiển ở Dạ Trạch, đôl địch với Trần Bá Tiên là kẻ mạnh, rồi
thắng được Dương Sàn, quân bắc phải rút. Phật Tử khi ấy chỉ cầu
thoát thân. Sau đem quân đánh Việt vương, gian trá xin hoà, kết
thông gia. Việt vương lòng thành ctô'i đãi. Phật Tử đáng phải thời
thường triều chính, thê mà dùng mưu gian, làm trái đạo nhân
luân, chỉ ham lợi, tuyệt đường nhân nghĩa, đánh cướp nước. Sau
bản thân cũng không khỏi bị bắt làm tù, có lợi gì đâu?
Trước dùng mưu gian trá kiêm tính được nước, làm vua 32
năm, không có công đức gì, sau vừa thấy bóng giặc đã hàng, các
việc làm trước sau của Lý Phật Tử đều phi nghĩa (phỏng theo lời
bàn của sử gia Ngô Sĩ Liên).
KỶ THUỘC TUỲ
Năm 603, thứ sử Lưu Phương bắt được các tướng của Lý
Phật Tử, cho là gian ác đều chém cả.
Năm 605, Phương mới bình xong xứ ta.
Vua Tuỳ nghe nói nước Lâm Âp có nhiều của báu vật lạ, sai
Phương làm Hoan Châu đại hành tổng quản, cùng Ninh Thường
Châu, thứ sử Khâm Châu, đem hơn vạn quân bộ và quân kỵ, đai
tướng Trương Tôn đem thuỷ quân, cùng nam tiến. Vua Lâm Âp
chia quân đóng giữ các nơi hiểm yếu. Phương đánh bại chạy tan.
Quân Tuỳ tiến vào sâu. Lâm Âp có đoàn tượng binh bôn mặt kéo
đến, thê dũng mãnh. Phương dùng kế đào nhiều hô" sâu, phủ cỏ
lên trên, cho quân khiêu chiến, đương đánh giả thua chạy. Đàn
voi đuổi theo, nhiều con sa xuông hô, q^uân sĩ rốĩ loạn. Phương
quay lại bắn nhiều tên nỏ. Quân Lâm Âp thua to, bỏ chạy, giày
xéo lên nhau, bị giết và bị bắt hàng vạn. Phương tiến quân, mấy
trận đều thắng. Phạm Chí bỏ thành chạy ra biển. Phương vào
kinh thành Trà Kiệu (nay thuộc huyện Duy Xuyên, Quảng Nam)
lấy được 18 bộ thần chủ trong miếu, đều bằng vàng. Binh sĩ Tuỳ bị
mắc bệnh phù thũng chân, 10 phần chết 4,5. Phương cũng bị ô"m,
chết ở đường.
Quân Tuỳ không chiếm đóng đất Lâm Ảp dựng nền đô hộ.
Phạm Chí sau dâng biểu tạ tội và xin công hiến nhà Tuỳ.
Nhà Tuỳ làm vua Trung Quốc không lâu. Đến đời Đại
Nghiệp (605 - 617), chính trị thôi nát, nông dân khắp nơi nổi dậy
chống đôi. Thừa dịp, nhiều thái thú, thứ sử có binh quyền đóng
thành, cát cứ, tự trị một phương, không nộp phú công cho triều
đình. Thái thú Khâu Hoà giữ Giao Chỉ, Lê Cốc giữ cửu Chân,
Lương vương Tiêu Tiến, sở đế Lâm Sĩ Hoàng đều sai người sang
chiêu dụ. Lê Cốc theo Tiến. Khâu Hoà không theo ai. Tiến sai thứ
55
sử Khâm Châu Ninh Trường Chân đem quân sang đánh. Hoà
định hàng. Tư pháp thư tá Cao Sĩ Liêm ngàn lại. Hoà cử Sĩ Liêm
làm hành quân tư mã, đem quân thuỷ bộ ra chông cự. Quân
Lương bị đánh tan. Ninh Trường Chân chạy thoát thân, quân
Lương bị bắt gần hết. Khâu Hoà mới đắp thành nhỏ bên trong
thành Long Biên vòng quanh 900 bước để chông giữ. •
Năm 618, nhà Tuỳ đố. Nhà Đường thay thế. Khâu Hoà xin
thuần phục nhà Đường, được phong làm Giao Châu đại tổng quản,
tước Đàm quốc công. Lê Cốc chống lại một thời gian, sau thua
trận. Cửu Chân cũng thuộc vê Đường.
Khâu Hoà làm thái thú Giao Chỉ, cậy uy thế nhà Tuỳ, đi
tuần các khe động ơ biên giới, giữ việc lâu năm. Lâm Âp và các
nước tặng cho Hoà những ngọc minh châu, sừng văn tê và vàng
bạc của báu nên Hoà giầu có ngang với vương giả. Hắn Hoà đã vơ
vét nhiều của cải của nhân dân ta.
KỶ THUỘC ĐƯỜNG
Năm 618, liý Uyên dẹp yên nỗi loạn, thông nhất Trung Quốc,
dựng nên cơ nghiệp nhà Đường. Năm 621, Đường Cao Tổ phong
Khâu Hoà làm đại tống Cíuản cai trị Ciao Châu.
Từ khi nước ta sa vào vòng Bắc thuộc, nhà Đường cai trị lâu
hơn cả, chính sách dô hộ lại nghiệt hơn cả. Do quan người Hoa
tham bạo nên có nhiều cuộc nổi dậy chông đô'i của dân ta. Quần
chúng khố sơ về nỗi súu cao thuê' nặng, lại còn thêm nỗi không
mấy lúc được yên ổn, hết loạn trong lại bị người nước ngoài Lẩm
Àp và Nam Chiếu sang cướp phá.
Năm 628, đô dỗ'c Ciao Châu Lý Thọ, người tôn thất, tham
ô, phái tội. Vua Đường cử Lư Tô'Thượng, thứ sử Doanh Châu, có
tài liíỢc, sang thay. Tô'Thượng e ngại đất Lĩnh Nam lam chướng
dịch lệ, nhiều người đi không thấy về, không chịu đi nhận chức
mới. hị giết.
57
Năm 632, nhà Đường đổi Giao Châu làm An Nam tổng quán
Ịỉhủ, sau lại đổi làm An Nam đô hộ phủ. Nước ta có tên Icà An Nam
khỏi đầu từ đấy. (Đô hộ đây là một chức quan, chứ không phai
chính thể cai trị thuộc địa, như ta hiểu ng.ày nay, nhà Đường chia
nhiều hạt làm đô hộ phủ, nhif Tứ Xuyên đô hộ phủ...). Năm 679,
chia đất làm 12 châu thay các quận, là: Giao (Hà Đông, Nam
Định), Phong (Vĩnh Phúc Yôn, Phú Thọ), Dương (Tuyên Quang.
Hà Giang). Chi (Lai Châu. Sơn La, Yên Bái), Vũ Nga (Thái
Nguyên, Bắc Cạn, Cao Bằng), Vũ An (mát vào Trung Quốíc ?), Lục
(Lạng Sơn, Quảng Yên), Phúc Lộc (Sơn Tây, Hưng Hoá), Ái
(Thanh Hoa), Diễn (Nghệ An), Hoan (Hcà Tĩnh), Trường ? (Có thể
là vùng đất giải Trường Sơn), ớ phía tây b.ắc, còn có những Man
(Ihâu, dân miền núi, hàng trăm tù trưởng phải triều cô"ng.^*T)ưới
càp châu (mới) là huyện. Dưới cấp huyện là hương xã. Chính
quyền nhà Đường với tay đến tận thôn Xtã.
Năm 758, dân Nam nổi dậy, Đường Túc Tông đổi làm Trấn Nam
dô hộ phủ. Năm 768, Đường Đại Tông lại gọi là An Nam như cũ.
Suôd thời gian thuộc Đường, xứ ta là một đơn vị hành chính
thôhg nhất. Chức đỗ hộ trước gọi là đại tổng quản, rồi dồ đốc, có
quyền rộng lớn. Sau có chiên tranh, đổi lại làm kinh lược sứ. Đến
thời Cao Biền, táng thêm quyền hạn, dổi làm tiết độ sứ. Các châu
(mới) đều đặt thứ sử. Thứ sử Triều Đương, quyền hạn chi như
thái thú. Có nhiều thứ sử là dân ban địa.
Dể đảm hảo nền thông trị, có đội quân thường trú mạnh cùng
một hệ thông thành luỹ vững chắc. Chiến thuyền có 300 chiếc lớn
hảng chục vạn chiếc nhỏ.
‘ ' Địa cliếm các châu chép đây là theo lời chú thích cúa Vũ Huy Chân, tác giả v /ệỉ sử thỏní’
hĩm. Ong Chân clã khảo cứu khá kỹ càng, đáng tin.
58
vây phủ thảnh. Quân lính trong thành phủ đô hộ không chông
chọi lại nổi, phải đóng cửa thành cô" thủ, chò tiếp viện. Diên Hựu
cẩu cứu Quảng Châu. Hào tộc Phùng Tử Do không đến cứu. Nghĩa
quán phá thành, hắt giết Diên Hựu.
Sau Đường Trung Tông sai tư mã Quế Châu Tào Huyền
lìn h , người có tài quân sự cao, đem hĩnh mã sang đản áp. Thủ
lĩnh Đinh Kiến bị giết. Nghĩa quân tan vỡ.
MAI HẢC ĐÊ
Năm 722,. đời Dường Huyền Tông, có Mai Thúc Loan dấy
hinh nỗi dậy chông cự (Ịuan quân đô hộ.
Mai Thúc Loan ngưòi huyện Thiên Lộc, nay là huyện Cao
Lộc, Hà Tĩnh, mặt mũi den, có sức mạnh, thây quan nhà Đường
lăm điều tàn bạo, dân gian cực khổ, nhân lúc lắm giặc giã, chiêu
mộ những người nghĩa dũng, chiếm giữ đất châu Hoan nay thuộc
huyện Nam Dương, tỉnh Nghệ An, xây thành đắp luỹ, xưng hoàng
đế, tục hiệu Mai Hắc đế.
Hắc đê trong dây quân 32 châu huyện, ngoài liên kết với các
núóc Lâm Ap, Chcân L;qn Phù Nam làm ngoại viện, giữ miền biển
phương nam, tập hỢp được sô" quân lớn (ĐVSKTT chép 30 vạn,
Đường thư chép 40 vạn, đều e quá đáng), thanh thế lừng lẫy.
()uan quân phủ đô hộ hà't lực. Đường Huyền Tông phải sai nội thư
giám môn vệ tướng quán Dương Tư Húc và đô hộ Quang sở Khách
sang đánh. Chúng mộ con em các thủ lĩnh 10 vạn ngvíời phụ với
hình mã triều đình tiến quân, xuất kỳ bâ't ý, phá được nghĩa quân.
Mai Hắc đế, thê" yêu, chông lại không nổi, phải thua chạy, được ít
lâu mất.
Nay ở núi Vệ Sơn huyện Nam Dương, Nghệ An còn có di tích
thành cũ của Mai Hắc đê và ở xã Hương Lâm huyện Nam Dương
còn có đền thò ông.
(ỉiẶC BIỂN
Năm 767, đời Đường Đại Tông, có quân nước Côn Lôn và
nước Chà Và đến cướp, đánh lấy châu thành. (Côn Lôn đây là
tiếng người Hoa chỉ các đảo Nam Hải. Người Âu theo tiếng Mã Lai
gọi là Pou Lo, tiêng ta là cù lao, không phải Côn Đảo của nước ta.
Chà Và tức đảo Java, Trảo Oa thuộc quần đảo Nam Dương).
Kinh lược sử Trifơng Bá Nghi đánh không lại, cầu cứu với đô
uý châu Vũ Định Cao Chính Bình. Quân cứu viện đến đánh tan
59
quân Côn Lôn và quân Chà Và ỏ Chu Diên. Chúng thua to, bỏ
chạy về nước.
Trương Bá Nghi bèn đắp La Thành đê phòng giữ phủ trị. La
'riìành (Hà Nội bây giờ) khơi đầu từ đấy.
' ' Thác Đòng lìi ý muốn khai thúc về phía đòng. Giao Châu ở về phía đông Nam Chiêu.
' ’ Đến thố ký X, Đoàn Tư Bình lỏn làm vua lại đổi quốc hiệu là Đại Lý. Nước này sau bị
quan Mòng cổ đánh chiếm, đốn dời Minh Hồng Vũ (1.168 - 1392) mất hắn. Nhà Minh đặt
làm Đai Lý phú thuộc tinh Víưi Nam.
63
Nguyễn Duy Đức giữ 400 ngưòi chạy ra sông, không có thuyền
sang để sang ngang, hô quân; Chạy xuông nước cũng chết, chi
bằng trở lại đánh giặc, một người đổi lấy hai, chẳng lợi lắm sao?
Chúng quay trở lại, giết đưỢc hàng 2000 quân Nam Chiếu, sau
cũng đều chết cả. Quân Nam Chiếu vào thành, giết hại nhiều
người. Sử chép: Nam Chiếu hai lần sang đánh phủ thành, giết
người Giao Châu hơn lõ vạn.
Vua Nam Chiếu Mông Thế Long cho Dương Tư Tấn quản
lĩnh 2 vạn quân giữ thành và cho Đoàn Tư Thiên làm tiết độ sứ.
Vua Đường hạ chỉ đưa An Nam đô hộ phủ về đóng ở Hải Môn
(?) rồi lấy quân các đạo ở Lĩnh Nam và đóng thuyền lớn để tải
lương thực, đợi ngày tiến binh. Năm 864, kinh lưực sứ Trương
Ngân đưỢc lệnh đem 25 ngàn người, đi đánh lấy lại phủ thành.
Nhân dùng dằng không dám tiến quân. Đường Ý Tông, theo đề
nghị của Hạ Hầu Tư, cử kiêu vệ tướng quân Cao Biền thay, làm
đô hộ tổng quản kinh lược chiêu thảo sứ. Bao nhiêu binh tướng
của Nhân đều trao lại cho cả.
CAO BIỂN
Cao Biền là tướng giỏi, vốn dòng võ tướng môn, nôi đời coi
giữ cấm binh, lại kiêm văn học thích bàn luận việc xưa nav, trong
quân đều khen ngợi, mến phục. ĐưỢc thăng dần đến chức hữu
thần sách đô ngu hậu, có công đánh bộ lạc Đảng Hạng, thăng làm
Tần châu phòng ngự sử. Nam Chiếu chiếm đất An Nam, Biền
sang thay Trương Nhân.
Năm 865, Biền trị quân ở trấn Hải Môn, chưa tiến. Giám
quân Lý Duy Chu, không tương đắc, mưu hại Biền. Biền dẫn 5000
quân, vượt biển đi trước, hẹn Duy Chu ứng viện. Duy Chu cầm
quân còn lại không đi. Tháng 9 âl, quân Nam Chiếu ở Giao Châu'*’
đang gặt lúa. Biền đến đánh câT lẻn một trận, giết dược nhiều
người, lây được thóc gạo nuôi quân.
Tháng 4 âl, năm sau 866, Nam Chiếu bổ Đoàn Tư Thiên làm
Thiện Xiên tiết độ sứ sai Trương Tráp Tư giúp Từ Thiên đánh
Giao Châu, cho Phạm Nật Tu và Triệu Nặc Mi làm dô thông.
Đ VSKTT chép là huyện Nam Định và Châu Phong. Bản dịch cùa Cao Huy Giu, Đào Duy
Anh chú thích huyện Nam Định đời Đường gồm dất phía nam ,sôna Đuông. Lụi nói Biền
dóna quân ở Giao Châu đúng hơn Phong. Trần Trọng Kim trong VNSL chú thích Phong
Chĩiu là huvện Bạch Hạc Vĩnh Yên.
' ^ ’ Thiện Xiên hà đô khác cúa Nam Chiếu, ở táy bắc Giao Châu
64
Giám trận nhà Đường sai Vi Trọng Tế đem hơn 7000 quân đến
châu Phong. Cao Biền nhân dịp mới phát binh đánh được mấy
trận, cho người đưa tin thắng trận về kinh nhưng đi đến Hát Môn,
Duy Chu giữ lại, không cho triều đình biết.
Trong triều đợi mãi không thấy tin tức gì, cho hỏi thì Duy
Chu tâu rằng Biền sang châu Phong án binh bất động, không chịu
đánh giặc. Vua Đường cử tướng Vương Yến Quyền sang thay Biền
và đòi Biền về kinh hỏi tội. Ngay tháng ấy, Biền đã chiến thắng
quân Nam Chiêu, giết chết và bắt sông nhiều giặc. Chúng thu
quân còn sót chạy sâu vào châu thành cố giữ. Biền vây châu thành
hơn mười ngày, quân Nam Chiếu rất khôn quẫn. Thành sắp bị hạ
thì vừa lúc Vương Yến Quyền đưa thư cho biết đã cùng Duy Chu
đem đại quân tiến đi. Biền đem việc quân giao cho Trọng Tế, rồi
cùng hơn 100 hộ hạ về bắc. Nhưng từ trước, Biền đã sai người lẻn
vê kinh dâng biểu tâu rõ tình trạng. Giữa đường gặp quân Duy
Chu, người mang biêu nấp ở hải đảo. Vua Đường biết rõ tình hình,
mừng lắm, thăng chức cho Biền làm kiếm hiệu công bộ thượng thư
và sai trỏ lại cầm quân đánh quân Nam Chiếu.
Yến Quyền ngu hèn, Duy Chu tham bạo, các tướng không
chịu giúp, nên mở vòng vây, người Nam Chiếu trôn đi mất quá
nửa. Biền trơ sang mới đốc quân binh đánh thành, giết được Đoàn
Tú Thiên và Chu cố’ Đạo là người Thổ dẫn đường, chém được hơn
3 vạn dầu. Quân Nam Chiếu trôn đi. Biền lại đánh phá hai động
thô dân đã theo Nam Chiếu và giết tù trưởng. Dân thiểu sô" quy
phục đến 17000 người.
Vua Đường đặt Tĩnh Hải quân ở Giao Châu, cho Biền làm
tiết độ sứ. Từ khi Lý Trác xâm nhiễu, rồi người Nam Chiếu cướp
phá, gần 10 năm, đến nay mới được yên. Từ đây, An Nam thành
Tình Hải quân tiết trâ^n.
Đề phòng quân Nam Chiếu còn sang đánh nữa, Biền xây
dựng các đồn ải nơi biên thuỳ, đắp La Thành thêm rộng lớn ở bờ
sông Tô Lịch, bô"n mặt dài 1982 trượng, cao 2 trượng 6 thước,
chân thành rộng 2 trượng 5 thước, tường nhỏ trên bôn mặt
thành cao 5 thước. Lại đắp đê vòng quanh 2125 trượng, cao 1
trượng 5 thước, chân rộng 2 trượng. Trong thành cho dân cư
làm nhà. ĐVSKTT chép hơn 40 vạn gian (?), VSL chép 5000. Đổi
gọi là thành Đại La.
Cao Biền chỉnh đôn việc công, làm sổ sưu thuế để chi dụng
việc công (có người cho rằng người nước ta phải đóng thuế sưu
65
khởi đầu từ Cao Biền), trị dân có phép tắc. Dân chúng được yên
nghiệp làm ăn. Mọi người đều kính phục, tôn là Cao vương.
Cao Biền đã dùng chất nổ (thuỷ lôi) phá những ghểnh thác ở
các sông để thuyền bè đi lại dễ dàng. Thời xưa cho là phép lạ
khiến được thiên lôi.
Trong dân gian có sự truyền tụng rằng; Cao Biền thấy xứ ta
lắm kiểu đất phát đê vương, thường cưỡi diều giấy đi yểm đất, phá
hoại nhiều long mạch. Lại thấy sứ ta có nhiều vị thần anh linh,
muôn triệt đi, phụ thần nhập vào người xử nữ ngồi đồng, bất
thình lình chém đi, thần mất thiêng. Đây là những truyện ngoa
ngôn, không đáng tin.
Năm 875, Đường Hy Tông cải bổ Biền làm tiết độ sứ Tây
Xuyên và cử người cháu họ Biền là Cao Tầm thay thế. c ả Biền và
Tầm ỏ trấn cộng 13 năm, từ 865 đến năm 878.
Cao Biền trước có công bình định xứ sở, sau lại là quan cai trị
tót. Cao Biền về bắc, sau được lệnh cử đi đánh dẹp bọn Hoàng Sào,
không chịu đi, bị tước hết binh quyền.
Sử gia có người chê Nam Tấn vưđng sính can qua, sinh ra việc
đánh dẹp, đến nỗi hị tử vong. Điều chê trách này e không hẳn là
76
phái. Làm vua, ai không muốn lutớc thái bình, thông nhất, tất nhiên
phai trừng trị kẻ chống dôì, nếu không dụ được chúng theo về.
Sử gia Lê Văn Hưu bàn (đại ý): Nam Tấn vương tha tội lỗi
cho Bình vương là nhân, dung cho Xương Ngập kiêu hơn là cung.
Đã nhân lại cung, chỉ vì không biết giữ mình cẩn thận, đến nỗi ở
ngôi không được lâu, dáng tiếc thay.
ĐINH BỔ LỈNH
THỜI CÒN NHỎ - Trong các lực lượng cát cứ, có Đinh Bộ Lĩnh
tài trí, dũng lược hơn cả. Có sách chép ông tên là Hoàn. Bộ Lĩnh là
chức Trần Minh công phong cho. Người động Hoa Lư, châu Đại
Hoàng, nay là xã Đại Hữu, huyện Gia Viễn Ninh Bình. Cha Icà
Đinh Công Trứ, thứ sử châu Hoan, mất sốm. Thuở nhỏ, về ơ quê
nhà, chăn trâu, chơi cùng lũ mục thụ, do kiến thức hơn chúng,
đưực cử làm trưởng, bắt chúng khoanh tay làm kiệu rước đi, lấy
bông lau làm cờ quân cầm đi hai bên, nghi vệ như vua. Thường
dẫn chúng đi đánh nhau với lũ trẻ làng khác, đều thắng. Đi đến
78
đâu cũng được sỢ phục. Phụ lão trong vùng thấy la, đem con em
đến theo, lập là trương sách Đào Áo. Từ nhỏ đã có chí khí hơn
người, tài trí và sức mạnh khi lớn lên càng tăng, thu phục nhiều
tráng đinh tố chức tự vệ, giữ an ninh trong vùng, trở nên một tù
trương có uy tín. Do không hoà với chú là Đinh Thúc Dự, nghe tin
Trần Minh công ở cửa Bô" Hải có đức, ông đem con là Liễn đến
nương tựa. Trần công thấy dáng mạo khôi ngô, lại có khí độ, nhận
làm con nuôi, đôi đãi rất hậu, giao cai quản binh quyền, sai đi
đánh các nơi đều thắng. Sứ quân Phạm Phòng Át đem quân về
hàng. (Sau Phòng At làm thân vệ triều Đinh).
Trần công tuổi già, thấy Bộ Lĩnh anh hùng, tất dựng nên cơ
nghiệp lớn lao, nhưòng hết thảy binh quyền cho ông, chỉ còn ơ gần
làm cỗ" vấn. (Nhiều sử sách chép Đinh Bộ Lĩnh thừa hưởng quân
đội của Trần Công Minh khi ông này khuất. Điều này e không
thật. Thần tích xã Lạc Đạo chép Minh công vẫn còn sông khi Bộ
Lĩnh xUng đê" tôn ông lăm thượng phụ. Linh mục Thanh Lãng
chép Bộ Lĩnh kê" nghiệp cha làm thứ sử châu Hoan, đánh ra chiếm
châu Ái, rồi tiến đánh Trần công chiếm Bô" Hải. Không rõ đây là
theo tài liệu nào. Có thể Đinh Bộ Lĩnh đã dùng cao kê", tôn Minh
công làm nghĩa phụ mà thừa hưởng binh quyền chăng?).
Bọn con em của Ngô chúa ở Đỗ Động Giang, cùng 500 người,
đem quân đến đánh, hị thua phải trở về. Bộ Lĩnh liền đánh lấy Đỗ
Động. Các bộ lạc đều hàng phục.
THỜI LÀM SỨ QUÂN - Sau Bộ Lĩnh đem đại quân về đóng ỏ quê
nhà Đại Hoàng, chiêu hình mãi mã, thu dụng hào kiệt, mưu dựng
nên cơ nghiệp lớn. Được nhiều anh tài Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lưu
Cơ, Trịnh Tú, Lê Hoàn về giúp. Lực lượng lớn mạnh. Triều đình
Hậu Ngỗ vương lấy làm lo. Năm 951, Bộ Lĩnh sai con là Liễn vào
triều làm con tin, mưu sự hoà hiếu. Thiên Sách vương và Nam Tấn
vương muôn dẹp yên, dem quân đến đánh. Hơn một tháng không
thắng nổi, phải hỏ về. Lực lưựng của Bộ Lĩnh càng ngày càng thêm
lớn mạnh, thu phục các trưởng hào, mở rộng vùng kiếm soát ngoài
hạt Đại Hoàng. Có thuyết Bộ Lĩnh đã làm chủ suốt từ Hoan, Diễn,
Ái trở ra, đánh đâu được đấy, xưng là Vạn Thắng vương.
Các sử quân tranh giành nhau quyền lợi, đất đai, đánh nhau
luôn. Chiến tranh kéo dài nhiều năm. Bộ Lĩnh sang Thanh Oai
đánh chiếm đất Đỗ Động do Đỗ Cảnh Thạc chiếm giữ, rồi tiến
đánh lấy Giao Châu của Ngô Xử Bình. Sau chia hai cánh quân
sang đánh Phong Châu và Vũ Ninh. Nguyễn Thủ Tiệp thua to
79
phải chạy, hỏ đất Tiên Du. sau chết ơ Nghệ An. Ngô Nhật Khánh
chống lại không nổi, phải xin hàng. Bộ Lĩnh vây đánh Kiều Công
Hãn ở Bạch Hạc. Công Hãn thua chạy về Trường Châu, rồi mâ"t ở
đấy. Các sứ quân khác đều lần lượt bị đánh thua năm 967.
Vạn Thắng vương thôKg nhất đất nước, thu giang sơn lại
thành một môl vững chắc. Khi ấy, hên Trung Quốic, nhà Tông mới
dứt được loạn Ngũ Đại Thập Quốc. Công lao bình định của vương
được dựng lên đúng lúc. Nếu bên nước ta còn phân liệt thì không
khỏi việc nhà TôKg được đà sẽ sai quân sang chiếm, lập lại nền đô
hộ. Người Hoa vẫn thường coi An Nam là một phần đất của chúng.
Có mấy tập sử chép như là Đinh Bộ Lĩnh chỉ đi đánh dẹp các
vỊ sứ qiiân khác sau khi Nam Tấn vướng khuất, tức là sau năm
965, chi trong vài năm toàn thắng thu phục giang sơn lại thành
một môi. Điều này e không đúng. Không lẽ ông án binh bất động
suôt lõ năm liền.
Lại xét ông đã thu phục được sứ quân Phạm Phòng At ngay
từ khi còn dưới trướng Trán Minh công. Công cuộc thỗhg nhất đất
nước phải đưỢc thi hành trong khá nhiều năm.
PHÊ ĐẾ ĐINH TOÀN (TUỆ) (974 - 1001) làm vua 979 - 980
Định quôh công Nguyễn Bặc, ngoại giáp Đinh Điền cùng
d’hập Đạo tướng quân Lê Hoàn tôn Vệ vương Toàn (VNSL chép
Tuệ) lên làm vua, mẹ đẻ Toàn là Dương thị làm thái hậu.
Toàn nôi ngôi mới 6 tuổi. Lê Hoàn nhiếp chính, xưng là Phó
vương, nắm hết binh quyền, ra vào cung khuyết, tư thông bất
chính với Dương thị. Bọn Nguyễn Bặc, Đinh Điền và Phạm Hạp
82
(ngoại giáp cầm quân ngoài cõi) thây Hoàn lộng quyền, có ý muôn
thoán đoạt ngôi vua, cùng nhau cất quân chia làm thuỷ lục hai
đạo, tiến kinh đánh Hoàn. Hoàn chỉnh đôn binh sĩ đánh nhau với
Điền, Bặc ở Ái Châu. Điền, Bặc thua chạy, lại đem thuỷ quân ra
đánh. Hoàn nhân gió phóng hoả đô(t thuyền, chém Điền tại trận,
bắt được Bặc đem về kinh đô Hoa Lư kết tội đem chém. Phạm Hạp
rút quân về Bắc Giang bị Hoàn đem quân đuổi đánh, bắt sông
đem vê kinh giết đi.
Ngô Sĩ Liên hàn: Nguyễn Bặc giữ chức thủ tướng, Đinh Điền
là đại thần cùng họ Đinh, khơi nghĩa không phải là làm loạn, là
một lòng phò tá họ Đinh, đánh Hoàn không được mà chết, cái chết
ấy đáng chỗ.
Ngô Nhật Khánh, sứ quân Đường Lâm, người họ tôn thất
nhà Ngô, từng xưng là An vương. Tiên Hoàng dẹp yên, lấy mẹ
Nhật Khánh làm một vị hoàng hậu, em gái Nhật Khánh làm vỢ
Liễn, lại gả con gái cho Nhật Khánh, mưu sự giập hết lòng oán
vọng, nhưng Nhật Khánh vẫn bất bình, bỏ chạy sang Champa,
đuối vỢ. Khi nghe tin Tiên Hoàng mất, dẫn vua và binh thuyền
Champa hơn ngàn chiếc về muôn đánh chiếm thành Hoa Lư, qua
cửa biến Đại Ac (sau đổi là Đại An, nay thuộc xã Quần Liêu, Nam
Định. Tiểu Khanh tức Tiểu Ác cũ là Cửa Càn ở phía nam cửa Đại
An), đêm gặp gió bão lớn đánh đắm thuyền. Nhật Khánh và nhiều
người Chăm chết đuôi. Vua Champa may thoát chạy đưỢc về nước.
Bấy giò bên Trung Quôh, Tống Thái Tông nghe tin Tiên
Hoàng mất, tự quân còn trẻ dại, đại thần đánh giết nhau, muôK
thừa cơ hội sai quân sang đánh chiếm đất nước ta, theo đề nghị
của tri ưng Châu Hầu Nhân Bảo. Có Lư Đa Tốn bàn phải cấp tốc
tiến binh khi bên An Nam không ngờ mà đánh mạnh mới thắng
lợi. TôKg Thái Tông cử Hầu Nhân Bảo và các tướng Tôn Toàn
Hưng, Khích Thủ Tuấn, Trần Khâm Tộ, Thôi Lượng, Lưu Trừng,
Giả Thực, Vương Soạn, dẫn 3 vạn quân thuỷ bộ sang xâm lược.
Trấn thủ Lạng Châu nghe tin quân TôKg sắp sang, phi về
báo triều. Dương thái hậu cử Lê Hoàn chọn dũng sĩ đế chôKg cự,
cho Phạm Cự Lượng làm đại tướng. Phạm Cự Lượng, người Nam
Sách Giang, em Phạm Hạp. Khi đang bàn kế hoạch xuất quân, Cự
Lượng cùng với các tướng quân đều mặc đồ nhung phục, đi thắng
vào trong phủ, bàn với mọi người rằng: Thưởng người có công, giết
kẻ không theo mệnh lệnh và kỷ luật hành quân. Nay chúa thượng
trẻ thơ, chúng ta dù hết sức liều chết chống kẻ địch bên ngoài,
83
may lập được chút công thì ai biết cho. Chi bằng trước hãy tôn
Thập Đạo tướng quân lên làm vua, rồi sau sẽ đem quân đi đánh
giặc thì hơn. Quân sĩ nghe nói, đều hô vạn tuế. Dương thái hậu
lấy áo long cổn mặc cho Hoàn, mòi Hoàn lên ngôi.
Đinh Toàn thì lại giáng làm Vệ vương, ớ ngôi tám- tháng
trong các năm 979, 980. (Sau đến năm 1001 theo Lê Đại Hành đi
đánh giặc ở Cử Long ở Thanh Hoa, bị trúng tên chết tại trận,
hưởng linh 28 tuổi (974 - 1001). Khả nghi bị Lê Đại Hành sai
người bắn lén).
Việc nhà Lê lấy ngôi nhà Đinh chép sử đây giống như việc
bên Trung Quốc, nhà Tông lấy ngôi nhà Hậu Chu. Nhà làm sử đã
chép theo Bắc sử chăng? (Theo lời Trần Trọng Kim).
Tại Trung Quốc cũng như bên ta, các vua dựng nghiệp mở
nước hầu hết giết hại các công thần đã từng giúp đỡ đưa mình lên
ngôi báu, đế đê phòng sự thoán đoạt. Đinh Tiên Hoàng không giết,
hay chưa kịp giết Lê Hoàn nên có sự việc Đinh chuyển Lê.
Nhiều ngưòi chê trách Dương thị đáng phải gánh vác giang
sơn nhà Đinh, mà lại đem hiến cho Lê Hoàn, có tội rất lốn. Xét
Dương thị chỉ có “đi bước nữa”. Nếu thị không lấy long bào mặc cho
Hoàn thì lũ Phạm Cự Lượng cũng cướp lấy mà dâng cho Hoàn và
thị sẽ phải đuối ra khỏi cung khuyết. Lê Hoàn đã sắp đặt việc
thoán đoạt từ trước lâu rồi.
Tại tổng Trường Yên, huyện Gia Viễn, Ninh Bình có đền thò
Đinh Tiên Hoàng. Tại xã Thượng Đồng huyện Phong Doanh, Nam
Định cũng có đền thờ.
Gần đền vua Đinh ở Trường Yên, cũng có đền thờ vua Lê Đại
Hành. Tương truyền xưa giữa hai ngôi đền này, có đền thờ và
tượng Dương.hậu. Sau có quan khâm sai bắt phá đền Dương hậu,
đưa tượng sang đền vua Lê. ĐVSKTT chép: Dân làm đền thò, tô
tượng Tiên Hoàng, Đại Hành và Dương hậu cùng ngồi. Đến buổi
quốc sơ (Hậu Lê) hãy còn. Sau an phủ sứ Lê Thúc Hiển mới bỏ.
Sử gia Ngô Sĩ Liên bàn: Vua đánh đâu được đấy, chém vua
Chiêm Thành (Champa) đê trả sỉ nhục phiên đi bắt giữ sứ thần,
phá tan quân Triệu Tôlìg để hẻ cái mưu vua tôi ăn chắc, có thể gọi
là bậc anh hùng nhất đời vậy. Song khi nhiếp chính tự xUng là phó
vương, lên ngôi do bọn Phạm Cự Lượng bắt hiếp bằng binh lực...
như thê đều không bằng Lý Thái Tồ biết nghe xa hơn.
Lời Ngô tiên sinh nói: Lê Hoàn “bị bắt hiếp lên làm vua” xét
không đúng, bị bắt ép chi thì phải chịu, chứ bị bắt ép lên làm vua
mà chính mình không muôh thì đố ai ép được. Chính Lê Hoàn đã
sớm có ý muôn thoán vỊ nên bọn Nguyễn Bặc, Đinh Điền mối mưu
trừ bỏ đi. Việc được các tướng tôn là do chính Lê Hoàn đã mưu vối
chúng từ trưóc rồi.
Xét Lê Đại Hành cướp ngôi nhà Đinh là có tội với tiên
triều, giao dịch bất chính với Dương thị, vỢ Tiên Hoàng, rồi lại
lấy làm vỢ, là phạm danh giáo (Hoàn có thê làm việc thoán đoạt
không cần dến Dương thị). Nhưng đôl với dân, với nước, ông là vị
anh hùng có công lớn, từng phá các đại quân bắc xâm lăng là
giặc ngoài, lại bình định được các lực lượng cát cứ trong nước,
giữ vững nền độc lập thống nhất, râ't đáng khen. Trong việc
bang giao với nhà Tôhg nưốc lón, lại tỏ vẻ cứng cỏi, ít chịu khuất
phục. Tiếc rằng ông biết bắt con luyện tập võ nghệ, nắm giữ
hình quyền đế đê phòng ngoại xâm, nội loạn, mà không phòng xa
việc các hoàng tử đánh giết lãn nhau để tranh làm vua, không
hẳn là trí như Trần Thủ Độ sau này.
Năm 1054, thái tử Nhật Tôn, con trương Thái Tông lên ngôi,
tục hiệu vua Lý Thánh Tông.
Đổi quôc hiệu là Đại Việt, hỏ tiêng Cô nôm, dồng nghĩa với
Đại cũng là to lớn.
ĐỨC Đ ộ VUA LÝ THÁNH TÔNG - Thánh Tông là vua nhân từ. có
lòng thương dân. Năm 1055, tháng 10 âl, tròi rét lắm, Thánh Tông
báo các quan tả hữu; “Trẫm ở trong cung có lò sưởi, áo lót cừu còn
rét, nghĩ thương tù phạm giam trong ngục, chưa biết ngay gian,
cơm không no. áo không kín mình, giỗ rét khổ thân, lỡ có chết
không đáng tội, thật là thương tâm”. Vậy hạ lệnh cho hữu ty phát
chăn chiêu và mỗi ngày hai lần phát cơm. Lại một hôm, năm 1064
ra ngự xử kiện, có công chúa Động T'hiên đứng hầu hên, Thánh
'Pông chi’ vào công chúa bảo ngục lại rằng: “Lòng trẫm yêu dân
cùng như yêu con vậy. Hiềm vì dân chúng ngu dại, làm càn phải
tội. Trẫm rât thương xót. Từ nay về sau, không cứ nặng nhẹ, đều
khoan giảm”.
Vì vua nhân từ nên trăm họ đều mên phục, trong khi ngài ơ
ngôi, ít có giặc giã.
VIỆC CHÍNH TRỊ - Các vua trước chăm lo việc bình định. Đến
đời vua Thánh Tông, các thổ tù không còn ai ngang ngạnh nữa,
đều quy phục triều đình. Nước đưực thái bình. Thánh Tông mở
mang văn học, xây dựng Văn Miếu, đắp tượng Khổng tử, tứ phối
và thất thập nhị hiền, khuyên khích người đi học. Văn học nho
phát triển bắt đầu từ đấy. Việc này đư ợc các sử gia nhà nho cực
lực khen ngợi.
104
Thánh Tông cũng sùng Phật, có dựng vài ngôi chùa lớn mới,
xây đắp tháp Bầo Thiên 12 tầng, cao 20 trượng.
Thánh Tông rât chú ý đến việc hình bị, định quân hiệu, chia ra
làm tả, hữu, tiền, hậu bôh bộ, hỢp lại là 100 đội, mỗi đội có lính kỵ và
lính bắn đá. Những phiên binh thì lập ra thành đội riêng, không cho
lẫn với nhau. Binh pháp có tiếng được người Hoa khen ngợi.
Về việc hình án, hô dụng đô hộ phó sĩ sư, đối thư gia làm án ngục
lại, cấp htơng hổng hậu cho nhân Hên tư pháp để giữ thanh liêm.
Các năm mất mùa, phát thóc và tiền lụa trong kho để chẩn
cấp cho dân nghèo.
VIỆC NGOẠI GIAO - Việc bang giao với nhà Tông êm ả . Năm
1055, Tông Nhân Tông phong Thánh Tông làm Giao Chỉ quận
vương. Nám 1067, Tôhg Anh Tông gia phong Khai phủ nghi đồng
tam ty, rồi lại gia phong làm Nam Bình vương.
Các năm 1059, 1060, có sự xích mích ở biên giới. Quan quân
ta hắt lính trôA sang Trung Quốc, tràn vào đất Tông bắt quân lính
trâu ngựa đem về. Nhà Tông không kiếm chuyện lôi thôi. Việc
đưỢc dàn xếp êm đẹp.
Nước Champa các năm 1055 và 1063 sang cống. Lần sau
dâng voi trắng.
Nước Chân Lạp năm 1056 sang công.
Năm 1'066, có lái buôn Trảo Oa (Chà Và) dâng ngọc châu dạ
quang giá tiền 1 vạn quan.
Năm 1067, có nước Ngưu HôLg (?) và Ai Lao dâng vàng bạc,
trầm hương, sừng tê, ngả voi và các thứ thổ ngơi.
VIỆC ĐI ĐÁNH LẤY ĐẤT CHAMPA - Lý Thánh Tông đã nhân lại
dùng. Nước Champa có tiến công nhưng không thường xuyên, vẫn
cứ giao dịch với nhà Tông mưu chôAg lại ta, người nước ấy lại hay
sang cướp phá miền ven hiển. Năm 1069, Lý Thánh Tông thân
đem quân sang đánh. Lần đầu, đánh mãi vô công, đem quân trở
về. Đến châu Cư Liên (?) nghe người khen nguyên phi giám quốc,
trong nước được yên trị, nhân dân tôn sùng gọi bà là Phật hà
Quan Ảm, tự nghĩ người đàn bà trị nước còn được, mà mình thì đi
chinh nam không nên việc. Thế đàn ông mà hèn kém ư? Bèn đem
quân trơ lại đi đánh nữa. Lần này đại thắng, bắt được vua Chăm
Chê Củ và dân chúng 5 vạn đem về. Chê củ và quan lại Chăm xin
dâng ba châu Đại Lý, Ma Linh và Bô" Chính (Quảng Bình và bắc
Quảng Trị ngày nay) để chuộc tội. Lý Thánh Tông bằng lòng cho,
tha Chế Củ về nước. Nám 1071, dâng lễ công.
105
LUẬN VỀ VUA LÝ THÁNH TÔNG - Năm 1072, Lý Thánh Tông
băng, làm vua 17 năm, thọ 50 tuổi.
ĐVSKTT chép: Vua (Lý Thánh Tông) kế thừa, thực lòng
thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về ngưòi
xa, vên ủi người gần, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang
việc văn, phòng bị việc võ, trong nước vên tĩnh, có thể gọi là hậe
vua tốt. Song nhọc sức dân xây tháp Báo Thiên, phí của dân làm
cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém.
Ỷ LAN PHU NHÂN - Lý Thánh Tông năm 40 tuổi chưa có con
trai, đi chơi khắp các chùa quán. Xe vua đi đến đâu, trai gái xô
nhau đến xem không ngớt. Duy có một người con gái hái dâu cứ
đứng tựa vào bụi cỏ lan. Vua trông thấy lạ, cho đưa vào cung. Cô
được vua yêu quý, phong làm Y Lan phu nhân. Năm 1066, sinh
hoàng tử Càn Đức. Hôm sau lập làm thái tử, phu nhân thăng làm
thần phi. Năm 1068, sinh hoàng tử Minh Nhân vương.
Trong khi Thánh Tông đi đánh nước Champa, thần phi giám
quốc, trị nưốc có phép tắc, dân chúng thái bình, an cư lạc nghiệp,
coi bà là Phật sông.
Thần phi người hương Thố’ Lôi. Năm 1068, cải làm hương
Siêu Loại, nay thuộc phủ Thuận Thành, Bắc Ninh.
Năm 1072, thái tử Càn Đức, con trai trương Thánh Tông, lên
ngôi, tục hiệu vua Lý Nhân Tông, mới 7 tuổi. Đích mẫu thái hậu
Dương thị buông màn nghe chính sự, sinh mẫu thái phi Ý Lan
cùng thái sư Lý Đạo Thành phù tá. Trong thời gian Nhân Tông
làm vua lâu dài hàng 56 năm, có chiên tranh với nhà Tôhg và việc
đi đánh Champa quan trọng. Ngoài ra trong nước tương đôl yên
tĩnh. Các thổ tù đều quy thuận triều đình, chỉ có mấy vụ lôi thôi
nhỏ, bị xẹp ngay. Trong triều, văn có Lý Đạo Thành, Lê Văn
106
Thịnh, Mạc Hiển Tích, võ có Lý Tlníòng Kiêt, tài giỏi giúp vua.
Cũng đáng kế là thịnh thời.
LINH NHÂN HOÀNG THÁI HẬU - Ỷ Lan thần phi, khi con nôì
ngôi, được tôn là Linh Nhân hoàng thái hậu. Linh Nhân tính ghen,
bất bình việc Dướng thái hậu nhiếp chính, bắt giam Dương thái hậu
và 76 thị nữ vào ngục tôì, rồi đem giết cả. Thực là tàn ác. (Về sau,
thấy Nhân Tông không có con, hốì hận, phát tiền kho nội phủ chuộc
những con gái nhà nghèo đã bán đợ mình, đem gả cho những người
goá vự. Lại dựng chùa thờ Phật trước sau hơn cả trăm sơ đê sám hối
và rửa oan cầu siêu cho các người bị giết ngày trước).
LÝ ĐẠO THÀNH - L ý Đ ạo T h àn h là người tôn th ấ t, tín h đoan
ch ín h , làm th á i su' phụ ch ín h N h ân T ông thời còn nhỏ, h ế t lòng lo
việc nước. N h ữ n g lúc sớ tấ u , h ay nói đến việc lợi h ại c ủ a dân.
Q u an th u ộ c th ì chọn người hiền lương c ấ t n h ắ c lên để làm việc.
Thời bấy giờ, tro n g sử a sa n g việc ch ín h trị, ngoài đ án h n h à Tôhg,
phá quân C h ăm . N hờ tôi hiền tướng giỏi nên mới th à n h đưỢc công
nghiệp th ịn h trị.
CÁC VIỆC SỬA SANG TRONG Nước - Tuy có bận về công việc
đánh dẹp, mọi việc chính trị trong nước không bị bỏ trễ.
Bấy giờ mới hắt đầu đắp đê Cơ Xá để giữ kinh thành khỏi
ngập lụt. Việc đắp đê khơi đầu từ đó.
Việc học hành mơ mang khởi thuỷ từ thòi Thánh Tông, nay
phát triển thêm nhiều. Tầng lớp nho sĩ bắt đẩu thành hình. Trong
việc kén chọn người làm quan văn, triều đình ít còn dùng các nhà sư.
Năm 1075, mở khoa thi minh kinh bác sĩ và thi nho học tam trường,
lấy người có văn học ra làm quan. Khoa thi đầu tiên này lấy được 10
người. Lê Văn Thịnh đỗ đầu, cho vào hầu vua học. Năm 1076, lập
Quốc tử giám, bổ những người có văn học vào dạy. Năm 1086, mở
khoa thi chọn người tài bổ làm quan trong Hàn Lâm viện. Mạc Hiển
Tích trúng tuyển được bố’ Hàn Lâm học sĩ. Nho học nước ta khởi đầu
thịnh lên từ thòi bấy giờ. Bản thân Lý Nhân Tông cũng hay cũng
hay làm thơ và bài minh khắc vào chuông chùa.
Lý Nhân Tông nhiều lẩn hạ chiếu định rõ thêm về hình phạt
các tội trạng. Rất chú ý đến việc bảo vệ nông nghiệp. Tội trộm
trâu phải trừng trị râT nặng, xử 100 trượng, phạt 1 thành 2. Cấm
ngặt mổ trâu bò trộm, phạm tội xử 80 trượng, đồ làm khao giáp,
vỢ xử 80 trượng, đồ đi phục dịch trong quân đội. Tổ chức 3 nhà
làm một bảo, không được giết trâu của mình ăn thịt. Ai làm trái bị
trị tội.
107
Năm 1089, đặt quan chế, các chức văn võ, tụng quan (quan
theo hầu vua) và tạp lưu, chia ra làm 9 phẩm. Đại thần có thái sư,
thái phó, thái uý và thiếu sư, thiếu phó, thiếu uý. Dưới các bậc ấy,
văn ban có thượng thư, tả hữu tham tri, tả hữu gián nghị đại phu,
trung thư thị lang, bộ thị lang. Võ han có dô thông, nguyên suý,
tổng quản khu mật sứ, kim ngô thượng tướng đại tướng, đô tướng,
chương vệ tướng quân. 0 ngoài châu quận, văn có tri phủ, phân
phủ, tri châu. Võ có chư lộ trấn trại quan.
Xét chuyện này vô ]ý, cần phải cải chính. Người muôh thoán vỊ
cần phải nắm giữ vững bịnh quyền, lập bè đảng trong triều ngoài cõi,
không thê chỉ giêt vua mà lên thay thê được. Không thề có việc người
hoá ra hố. Cho rằng có phép lạ ấy thì dễ gì bị lưới quàng lên mình mà
phải xuâ't hiện nguyên hình. Sao không phá lưối mà thoát thân.
117
Việc này chắng qua Lê Văn Thịnh lom khom chèo thuyền.
Trong khi có gió máy, mây mù, Lý Nhân Tông trông gà hoá cuôc,
lầm Văn Thịnh là con hổ, hoảng hô"t kêu cứu. Mọi người quanh đều
sỢ sệt tưởng thật cũng kêu cứu nữa trong khi quá hoảng hô"t, Văn
Thịnh bị oan.
Lý Nhân Tông tha chết cho Văn Thịnh, chẳng phải do lòng
nhân nhu theo đạo Phật, mà chính ông cung nghi ngờ không chắc
là thật sự Văn Thịnh hoá hố hại mình. Vàn Thịnh khi bị bắt oan
tất nhiên cũng phân trần sự việc.
Tháng 11 âl năm 1127, thái tử Dương Hoán lên nối ngôi, qua
năm sau đổi niên hiệu, tục hiệu vua Lý Thần Tông. Làm vua từ
năm 12 tuổi, Thần Tông được các đại thần Trương Bá Ngọc, Lưu
Khánh Đàm, Dương Anh Nhi giúp việc trị nước. Dưới triều Thần
Tông, nước được yên tĩnh: nội loạn không có. Nhà Tốhg bên Trung
Quốc bị người Kim đánh chiếm miền bắc, không có chuyện gì với
nước ta. Nước Champa, các năm 1130, 1135, có sang côhg. Năm
118
1132, có người Chăm sang cướp phá Nghệ An, bị Dương Anh Nhi
phá tan. Năm 1128, hai vạn người Chân Lạp vào cướp bến Ba Đầu
châu Nghệ An. Thái phó Lý Công Bình đi đánh, bắt được chủ
tướng và quân lính. 700 thuyền lại vào cướp hương Đỗ Gia nay là
huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, quan quân Thanh Hoa và Nghệ An
đánh phá được. Nám 1132, chúng lại sang cướp ở châu Nghệ An,
Dương Anh Nhi phá tan được. Năm 1133, nước Chân Lạp mới chịu
sang công.
Thần Tông tính nhân từ, hay ra lệnh ân xá các tù phạm, trả
lại những ruộng đất đã tịch thu của dân ngày trước. (Ngô Sĩ Liên
bàn: Kẻ có tội cần phải trị,.rộng lượng quá cũng không hay). Quân
lính thì cho đôi phiên, cứ lần lượt sáu tháng một lần, được về làm
ruộng. Như thế việc binh không làm ngăn trở việc canh nông.
Thần Tông rất ưa thích vật lạ, ban thưởng rộng rãi cho các người
đem dâng, là phí phạm tiền công. Có sự phạm tồi tệ năm 1130 hạ
chiếu con gái các quan đợi sau khi chọn vào hậu cung mà không
trúng tuyển mới được đi lấy chồng. (Lê Văn Hưu phê bình là
không xứng đáng làm cha mẹ dân).
Năm 1130, TôAg Cao Tông phong Lý Thần Tông làm Giao
Chỉ quận vương. Bấy giờ nhà Tông đã lui về đóng ở Hàng Châu
thuộc Chiết Giang, gọi là nhà Nam Tông.
Lý l'hần Tông có ý muôn lập người con thứ là Thiên Lộc nôl
ngôi. Ba phu nhân kêu khóc xin lập con đích là Thiên Tộ. Thần
Tông y theo, chỉ phong Thiên Lộc làm Minh Đạo vương.
Năm 1138, Lý Thần Tông khuất, hưởng linh 23 tuổi, làm vua
11 năm.
Lý Thần Tông là vua tầm thường, trị vì trong buổi thanh
bình chỉ được điều không hoang chơi, ít xa xỉ.
Năm 1138, thái tử Thiên Tộ lên ngôi, tục hiệu vua Lý Anh
Tông. Bấy giờ, vua mới lên ba, thái hậu Lê thị cầm quyền chấp
chính. Thời gian dài Anh Tông ở ngôi, hay có những vụ đánh dẹp,
119
chiến trận không lớn lắm, trừ đám giặc Thân Lợi. Có Đỗ Anh Vũ
ngang ngược làm xằng, may trong triều còn có tôi tài giỏi như Tô
Hiến Thành, Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Công Tín nên không có biến
chuyến gì diễn ra.
VIÊC CHÍNH TRỊ - Triều đình lưu ý nhiều về việc cai trị dân
miền núi, ân cần đôi đãi các tù trưởng, có mấy vụ gả công chúa,
tôn nữ cho thủ lĩnh Mường, Thái, như các triều vua Lý trước, để
thắt buộc chúng, Thường có quan triều đi thám hỏi dân các khe
động. Rất ít có sự làm phản muôh ly khai.
Việc vệ nông rất được quan tâm. Năm 1142, xuông chiếu cho
người cầm đợ ruộng trong vòng 20 năm được chuộc lại; tranh
giành ruộng đất trong vòng 5, 10 năm còn được tâu kiện; có ruộng
đất hoang bị ngưòi khác cày cấy trồng trọt, trong vòng một nàm
được kiện mà nhận lại. Nám 1143, cấm ngặt mổ’ trâu, bò.
Năm 1149, có thuyền buôn bán các nước Trảo Oa (Chà Và,
tức Java, nay thuộc Inđônêxia), Lộ Lạc (?), Xiêm La vào Hải Đông
(Hải Dương), xin được buôn bán. Triều đình cho lập trang ở hải
đảo Vân Đồn, đế mua bán hàng hoá quý. Vân Đồn nay là đảo Vân
Hải, còn gọi là đảo Lợn Lòi, ở ngoài khơi Quảng Yên. cảng Vân
Đồn sau rất hưng thịnh, bắt đầu từ đây.
Các năm 1156, 1172, lập miếu điện thò Khổng tử.
Anh Tông cũng sùng Phật nhưng chỉ dựng có vài chùa mới,
chỉ thường tu bổ các chùa cũ thôi.
Các năm 1171, 1172, Anh Tông đi tuần ra các cù lao ngoài
biển, xem khắp hình thể núi sông, muôn biết các phiên bang nam
bắc, sự đau khổ của nhân dân và đường đi xa gần, địa giới, vẽ bản
đồ ghi chép phong vật. Quyển địa đồ này nay không còn giữ được.
Anh Tông cũng đê ý nhiều đến việc trị an. Năm 1161, cử Tô
Hiến Thành làm đô tướng. Đỗ Yên Gi làm phó, đem 2 vạn quân đi
tuần các nơi ven biến đê giữ yên bờ cõi xa.
Anh Tông cũng ưa thích vật lạ. Có nhiều người đến dâng để
được ban thưởng hay giảm miễn tội.
GIẶC THÂN LỢI - Năm 1140, có người thầy chùa Thân Lợi tự
xúng là con vua Lý Nhân Tông, chiêu tập bè đảng trong những kẻ
trôh tránh hơn 800 người, chiếm cứ các châu Thái Nguyên, Tây
Nông, Lục Lênh, Thượng Nguyên, Hạ Nông, vùng Thái Nguyên,
Bắc Cạn ngày nay. Năm 1141, xưng là Bình vương, phong các vỢ
làm hoàng hậu, phu nhân, các con làm vương hầu, thủ hạ quan
tước. Lợi hiếp chế người miền biên giới, dân các khe động đều
120
khiêp sỢ. Triều đình cử Gián nghị đại phu Lưu Vũ Xứng dẫn quân
bộ, thái phó Hứa Viên dẫn quân thuỷ, tiến ngược lên đánh. Bị
thua, tướng sì chết quá, Vũ Xứng rút quân về. Thân Lợi tiến quân
đánh chiếm phủ Phú Lương, họp bè đảng cướp kinh sư. Thái uý
Đỗ Anh Vũ đem quân đi đánh. Giặc kéo về trạm Quảng (?), gặp
quân Anh Vũ, đánh nhau to. Quân của Lợi thua chết nhiều. Các
thủ lình châu Vạn Nhai Dương Mục, châu Kim Kê Chu Ái bị bắt.
Lợi chạy thoát được về châu Lục Lệnh. Anh Vũ đi đánh châu Lục
Lệnh, bắt dược đảng giặc hơn 2000 người. Lợi chôn sang châu
Lạng, bị thái phó Tô Hiến Thành bắt được, đóng cũi đưa về kinh
sư. Lợi và đồng mưu 20 người bị xử trảm. Các người khác xử theo
nặng nhẹ. Những kẻ bị hiếp đi theo được tha.
Theo Tông sử thì có người cung thiếp của Lý Nhân Tông sinh
con trai. Nhân Tông không nhận. Khi Thần Tông lập, người con ấy
chạy sang nước Đại Lý, lấy tên là Triệu Trí Chi, tự hiệu Nam
Bình vương. Thần Tông băng, Trí Chi về nước tranh ngôi với Anh
Tông, một mặt giao dịch với suý Quáng Tây xin với vua Tông giúp
đỡ. Vua TôAg từ chối.
Thân Lợi và Triệu Trí Chi chỉ là một người, đã mạo nhận là
con Lý Nhân Tông, ông này không có con, nếu có được củng cô"
thiếp sinh con trai thì rất quý hoá, chứ có đâu lại không nhận.
VIỆC ĐÁNH DẸP TRONG N ư ớ c - Các việc võ bị, luyện tập binh
sĩ, đưực chú ý. Các quan quản giáp và chủ đô tuyển lính phải chọn
trong những hộ nhiều người, không được lấy người cô độc. Thường
có những cuộc hành quân tuần tiễu các khe động vùng biên giới.
Năm 1145, có người Tô"ng là Đàm Hữu Lượng trôn sang
cháu Tư Lang, xưng là vâng mệnh đi sứ để dụ nước An Nam.
Các khe dộng ở hiên giới có nhiều người theo. Hữu Lượng đem
đồ đảng dến cướp châu Quảng Nguyên. Phò mã lang Dương Tự
Minh, văn thần Nguyễn Nhữ Mai, Lý Nghĩa Vinh đi đánh, lấy
được ái Long Đồ, châu Thông Nông (Thạch Lâm, Cao Bằng),
bắt được đồ dảng giặc là bọn Bá Đại 21 người, áp giải giao trả
về Tông. Hữu Lưựng chạy thoát, sau bị quan nhà Tông ở Ung
Châu lừa gọi về, hị bắt.
Năm 1154, người Lão ở Chàng Long miền tây bắc làm phản.
Đỗ Anh Vũ đi đánh, buộc họ phải hàng phục.
Cùng năm ấy, Nùng Khả Lai, thủ lĩnh bọn Sơn Lão ở Đại
Hoàng giang làm phản. Qua năm sau, Anh Tông thân chinh đi
đánh, thắng trận.
121
Năm 1159, Ngưu Hông và Ai Lao làm phản. Tô Hiến thành
đi đánh, bắt được nhiều người trâu ngựa voi vàng bạc, châu báu.
Năm 1163, có bọn lính trốn rủ nhau tập họp thành bày cướp
bóc nhân dân. Phí Công Tín đem 10 vạn quân đi đánh, dẹp yên được.
VIỆC BANG GIAO VỚI NHÀ TỐNG - Năm 1139, Tông Cao Tông
phong Lý Anh Tông làm Giao Chỉ quận vương. Năm 1161, bên ta
dâng vua Tông voi nhà. Tông Cao Tông bảo: Trẫm không ưa thú lạ
làm khó nhọc người xa. Từ nay về sau, bất tất phải đem vật quý
tiến cống.
Năm 1164, Tông Hiếu Tông lên ngôi năm trước, đổi Giao Chỉ
quận vương làm An Nam quôc vương, nước ta thành tên An Nam
bắt đầu từ đấy.
Bấy giò, nhà Tông đã thoát được nạn Liêu, Hạ, hàng năm
sách nhiễu vàng lụa, nhưng lại bị người Nữ Chân Mãn Châu
thành lập nước Kim từ năm 1115, đến năn 1125 đánh chiếm cả
miền bắc Trung Quốc. Người Khiết Đan lập nước Liêu năm 913,
đến năm 1125 bị nước Kim tiêu diệt. Người Lý (Thát Đạt
Tabgatch) lập nước Hạ nám .1032, qua thế kỷ XII vẫn tồn tại (đến
năm 1127 mới bị Mông cổ diệt).
Nhà TôAg đóng đô ở Hàng Châu, suy yếu, được nước ta vẫn
cứ giao hảo, nên rất quý mến vua ta, mỗi khi nhận quà biếu,
thường tặng lại rất hậu chè, lụa, đồ sứ. Sự đổi tên quận Giao Chỉ
làm An Nam quốc là có ý tỏ tình thân thiết.
VIỆC BANG GIAO VỚI Nước CHAMPA - Năm 1152, có người
Chăm Ung Minh Tá Diệp đến xin mệnh cho làm vua nước ấy. Triều
đình cho thượng chế Lý Mông đem 5.000 người phủ Thanh Hoa và
Nghệ An sang Champa lập Ung Minh Tá Diệp làm vua, bị vua nước
ấy là Chê Bi La Bút đánh thua. Mông và bọn Ung đều chết.
Năm 1154, Chế Bi La Bút dâng con gái. Anh Tông nhận, sử
gia Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên chê Anh Tông say nữ sắc, quên
việc lớn.
Các năm 1155, 1164, Champa sang cốhg.
Năm 1166, có người Chăm đến miền 0 , Rí, lấy quân phong
thuỷ (theo ma thuật) vượt biển sang cướp bóc nhân dân ven biển.
Năm 1167, Tô Hiến Thành đi đánh. Vua Chăm sai sứ sang dâng
trân châu và sản vật địa phưng để xin hoà. Từ đấy, giữ lễ phiên
thần, dâng côKg không thiếu.
Đ ỗ ANH VŨ - Đỗ Anh Vũ là em Đỗ thái hậu mẹ đẻ Lý Thần
Tông. Khi Lý Anh Tông mới lên ngôi, Lê thái hậu mẹ đẻ Anh Tông
122
tin dùng cho làm củng cô điện lệnh tri nội ngoại sự. Vua còn trẻ
thơ. c hình sự không cứ việc lớn nhỏ đều uỷ cho Anh Vũ. Anh Vũ
sai vỢ là Tô thị ra vào cung cấm hầu hạ Đỗ thái hậu. Do đó, Anh
Vũ có liên lạc bất chính với Lê thái hậu. Nhân thế lên mặt. ớ triều
đình, to tiếng sai bảo quan lại, ai cũng gờm. Quan triều có bọn Vũ
Đái, Lương Thượng cổ, Đồng Lợi, Đỗ Ât, Nguyễn Dương, Nguyễn
Quốc, Dương Tư Minh, thấy Anh Vũ lộng quyền quá độ, đều lo
mưu trừ đi. Việc không thành, 28 người bị chém đầu, 30 người bị
đày nơi viễn châu, mấy vương hầu bị giáng chức, còn các người dự
mưu khác đều đồ làm điền hoành khao giáp. Riêng Nguyễn Dương
đã sớm tự tử. Trong triều còn các người anh tài, nên Anh Vũ
không dám có ý khác, sau chết năm 1158.
LUẬN VỀ VUA LÝ ANH TÔNG- Năm 1175, Lý Anh Tông khuất,
làm vua 37 năm, hưởng linh 40 tuổi.
Lý Anh Tông chưa phải là vua anh tài nhưng biết chăm lo
cho dân, không hoang chơi xa xỉ, cũng đáng kế là vua khá tốt.
Trước kia con trai lớn Anh Tông, Long Xưởng do Chiêu Linh
hoàng hậu nở sinh, sinh năm 1151, đã được lập làm thái tử. Long
Xưởng vô đạo, thông dâm với quý phi, bị phế làm thứ dân. Con bất
hiếu trị dân làm sao được? Anh Tông lập người con thứ sáu là
Long Cán (Trát) làm thái tử. Khi Anh Tông không khoẻ, hoàng
hậu cô" xin lập Long Xưởng. Anh Tông không chịu, phong Tô Hiến
Thành làm Nhập nội kiểm hiệu thái phó bình chưong quân quốc
trọng sự, tước vương giúp đỡ đông cung. (Ngô Sĩ Liên khen Anh
Tông trong việc bỏ con nọ, lập con kia, không mê hoặc bởi lòi nói
của đàn bà, ký thác được người phụ chính hiền tài). Anh Tông
băng, di chiếu cho Tô Hiến Thành giúp vầy thái tử, công việc nhà
nước nhất thiết tuân theo phép cũ. Chiêu Linh vẫn muôn lập con
mình, dùng hết mọi cách mưu sự phế lập. Dỗ dành mãi, Hiến
Thành vẫn không chịu, mới đem nhiều vàng bạc đút lót cho Lữ
123
thị, vỢ Hiến Thành. Hiến Thành nói: “Ta là đại thần, nhận mệnh
tiên đê giúp vua bé. Nay lây của đút, làm việc bất nghĩa, thì một mai
xuống suôi vàng còn mặt nào trông thấy tiên đễ”. Chiêu ĩãnh vẫn
còn cô ý dỗ dành mãi. Hiến Thành vẫn không chịu. Việc mới thôi.
Triều đình lập thái tử Long Cán (Trát) lên nôl ngôi, tục hiệu
vua Lý Cao Tông. Vua mới lên ba. Thái sư Đỗ An Thuận và thái
uý Tô Hiến Thành phụ chính.
Năm 1178, Chiêu Linh thái hậu ban yến các quan, bảo:
“Hiện nay nước nhà nhiều việc, Champa vô lễ, người Man cướp bóc
ngoài biên giới, mà vua còn thơ ấu. Kế sách không gì hằng lập thái
tử cũ đã lớn tuổi, để quôc tộ tâu được lâu. dân được yên”. Các quan
không chịu. (Sau, năm 1181, Long xừỏng tụ tập bọn gia thuộc nô
lệ, mưu làm phản, không được ai theo).
TÔ HIẾN THÀNH LÀM PHỤ CHÍNH - Tô Hiến Thành lĩnh cấm
Kinh, nghiêm hiệu lệnh, thưởng phạt công bằng, người míớc đều
quy phục.
Tô Hiến Thành làm quan, dưới triều Lý Anh Tông đi đánh
dẹp, lập nhiều công to, bắt được giặc Thân Lợi ở châu Lạng, phá
giặc Ngưu Hống và dẹp yên giặc Ai Lao. Coi giữ việc binh, luyện
tập quân sĩ, kén chọn người tài giỏi làm tướng hiệu. Giỏi việc võ,
lại chăm việc văn, khai hoá việc học hành, dựng miếu thò Khổng
tử, tỏ lòng tôn nho học. Lại đi đánh Champa, vua nước ấy phải xin
hoà. Anh Tông ký thác thái tử Long Cán, ông cương quyết không
chịu làm sự phế lập. Làm phụ chính, ông trị nước có phép tắc, dân
được yên vui. Năm 1197, mất. Khi đau, có tham tri chính sự Vũ
Tán Đường ngày đêm hầu hạ. Gián nghị đại phu Trần Trung Tá ít
đến thăm hỏi. Đỗ thái hậu - thân sinh ra Cao Tông - ra thám, hỏi
ai có thế thay được ông. ông đề nghị Trần Trung Tá. Thái hậu nói
sao không đề cử Vũ Tán Đường? ông đáp; “Nếu hỏi người hầu hạ,
thì xin cử Vũ Tấn Đường, hỏi người giúp việc nước thì xin cử Trần
Trung Tá”.
Tô Hiến Thành không những có tài thao lược, dẹp yên dân
mà thôi, cách thờ vua thực là trung thành. Người đời sau thường
ví ông với Gia Cát Lượng đời Tam Quôh bên Trung Hoa.
CÁC VIỆC CAI TRỊ VÀ LINH TINH - Tô Hiến Thành mất rồi, triều
đình không theo lồi ông dặn lại, cử Đỗ Yên Gi làm phụ chính, Lý
Kính Tu làm đê sư.
Những năm đầu triều vua Cao Tông, trong nước được yên
tĩnh. Năm 1177, có người Chăm sang cướp châu Nghệ An. Tô Hiến
124
Thành đi đánh đuổi được. Nãm 1179, có sự xét lại đức độ, tài năng
và công trạng các quan, theo thứ tự trao cho các chức vụ trị dân,
coi quân, đê cho quan chức không lạm nhũng.
Nám 1185, mỏ kỳ thi sĩ nhân, lấy đỗ bọn Bùi Quốc Thái,
Đặng Nghiêm 30 người.
Về ngoại giao, có sự năm 1186, Tông Hiếu Tông phong Cao
Tông làm An Nam quôh vương. Năm 1182, Xiêm La sang công.
Các năm 1184, 1198, Champa sang công. Năm 1191, Chân Lạp
sang công.
Năm 1184, có nhà buôn các nước Xiêm La, Tam Phật Tề
(Patembang (i Nam Dương quần đảo) vào trấn Vân Đồn, dâng vật
quý, xin ở lại buôn bán. cảng Vân Đồn đưỢc mở mang đón thuyền
buôn các nước.
Sau Đỗ Yên Gi, thái phó Ngô Lý Tín phụ chính 1188 - 1190.
Sau Đàm Dĩ Mông thay thế. Các ông Đỗ Yến Gi, Đỗ An Thuận,
Ngô Lý Tín không có công nghiệp gì lớn, tuy không phạm gì dơ.
Đến Đàm Dĩ Mông thì bàT tài, tàn bạo.
Lý Cao Tông lên làm vua từ thòi thơ ấu, lớn lên trong khi nước
nhà tương đối yên tĩnh, không phải lo âu về việc binh đao nên khi
cầm quyền trị nước, cứ hay đi sàn bắn, chơi hòi, xây cất cung điện,
hắt trăm họ phải phục dịch khổ sở. Tôn thất và triều đình không có
ai người tài giỏi, can ngăn. Nên nước loạn. Buổi đầu chỉ có mấy vụ
nhỏ, càng về sau càng to lớn. Vua tôi không ai lo nghĩ đến việc chính
trị và võ hị, chỉ nhũng lạm, mua quan hán chức, hà hiếp nhân dân,
lấv tiền tiêu xài xa X I. Cơ đồ nhà Lý đố nát.
LOẠN LẠC - Năm 11 8 1 , mất mùa, dân đói to; nhiều người chết.
Trộm cưdp nổi dậy, Ngô Lý Tín làm thượng tướng đem quân thuỷ
bộ đi tuần bắt trộm cướp.
Năm 1183, quân Ai Lao vào cướp. Ngô Lý Tín làm đốc tướng
đi đánh đuổi được.
Năm 1194, các sách Tự Nông, Trịnh, Ô Mễ làm phản. Vương
Nhân Tử đi đánh, thắng vài trận đầu, sau bị thua chết. Năm sau,
Kiến Khang vương Long ích đem 12.000 quân đi đánh họn người
Man. Thủ lĩnh Đinh Vũ, quan lang Đinh Sáng đều hàng. (Họ Đinh
này là người Mường Hoà Bình).
Năm 1192, người giáp c ổ Hoàng, Thanh Hoa làm phản, quan
quân đi dánh dẹp được.
Nán 1198, có Ngô Công Lý, người hương Cao Xá chiêu tập
những kẻ vô lại, cùng với bọn Đinh Khả, Bùi Độ, người châu Đại
125
Hoàng, xưng là con cháu Đinh Tiên Hoàng, đồng thời làm loạn.
Quan quân đi đánh chỉ dẹp được Ngô Công Lý.
Năm 1203, có người Chăm Bô" Trì xưng là vua Champa bị
chúa đuổi đi, sang xin cư ngụ ở cửa biến Kỳ La, muôn cầu cứu.
Sau y đánh giết quan quân Nghệ An, tha sức cướp bóc, rồi về.
Cùng năm ấy Phi Lang và Bảo Lương làm phản ở Đại Hoàng
giang. Trước làm quan nhò, Phi Lang tâu nói các tội mọt nước hại
dân của Đàm Dĩ Mông, bị Dĩ Mông đánh roi. Lòng căm giận, nhân
thấy dân phu bị bắt đi xây cửa Đại Thành cực khố quá, muôn làm
loạn, bèn kêu gọi họ nối dậy chông lại triều đình, ngang nhiên
đóng quân ở Đại Hoàng giang. (Đây là miền châu Đại Hoàng gồm
mấy huyện nay thuộc Nam Định, Ninh Bình, còn bọn Đinh Khả,
Bùi Độ đóng quân ở miền hắc châu này gần vùng rừng núi Nho
Quan, Hoà Bình). Chi hậu Trần Lệ Minh làm nguyên soái, cùng
thượng thư Từ Anh Nhĩ đem quân Thanh Hoa đồng thòi tiến
đánh, bị thua, đều chết cả. Năm sau, Đàm Dĩ Nông và Đỗ Kính
Tu, Đỗ Anh Doãn đi đánh, cũng không được. Năm 1205, thanh thế
Phi Lang càng lớn, đánh chiếm nhiều làng nay thuộc Ninh Bình,
Nam Định. Qua mùa thu năm ấy, Lý Cao Tông chiêu hoà. Phi
Lang chịu hàng phục, nhưng vẫn xưng hùng ở nơi đã chiếm.
Năm 1207, Nguyễn Tự người Mường ở núi Tản Viên, châu
Quốc Oai làm giặc, cướp bóc hương Thanh Oai, bè lũ rất nhiều,
không thế ngăn được.
Cùng năm ấy, Đoàn Thượng, một viên quan nhỏ, được lệnh
đi chiêu mộ người khoẻ mạnh đê bố sung vào đội quân bảo an bắt
trộm cướp, tự tiện làm uy làm phúc, bị bắt giam, vượt ngục, nhóm
họp bè đảng, đắp thành luỹ, xưng vương, đóng quân ỏ An Nhân
(nay thuộc Hưng Yên). Cao Tông sai Đàm Dĩ Mông, Phạm Bỉnh Gi
và Phan Du đi đánh. Thượng kém thế, đút lót cho Du, xin hàng.
Du tâu vua xin gọi Dĩ Mông và Bỉnh Gi về. Do đó, có sự bất bình
giữa Gi và Du.
Ngoài ra, còn có những vụ người Tông vượt biên giới, người
Chăm vào nơi ven biển, cướp phá rồi về.
Thế mà Cao Tông vẫn xây dựng không ngớt, ngao du không
chừng mực, hàng ngày cùng cung nữ vui chơi, không biết rằng dân khổ.
Năm 1208, đói to. Rất nhiều người chết. Trộm cướp nổi lên
như ong khắp nơi.
Phan Du coi việc quân ở Nghệ An làm phản, thu nạp những
kẻ vong mạng, trộm cưốp, chia đi cướp bóc các nơi. Cao Tông sai
126
Phạm Bỉnh Gi đi đánh. Năm 1209, Bỉnh Gi đánh bại Du. Du chạy
sang châu Hồng. Bỉnh Gi tịch thu nhà rồi đốt đi. Du oán hận, đút
lót quan triều tâu vua rằng Bỉnh Gi trái phép. Cao Tông gọi Bỉnh
Gi về, bắt giam cùng với người con là Phụ. Quách Bôh tỳ tưởng của
Bỉnh Gi, đem quân vào nội thành cứu Bỉnh Gi. Cao Tông giết cha
con Bỉnh Gi, rồi bỏ chạy lên mạn sông Thao, trại Quy Hoá (huyện
Tam Nông, Phú Thọ) ở nhà tù trưởng Hà Vạn.
Bọn Quách Bôc mai táng cho cha con Bỉnh Gi, rồi chiếm đóng
kinh thành, lập hoàng tử Thẩm mới 8 tuổi lên làm vua. Đàm Dĩ
Mông, Nguyễn Chính Lại chịu nguy chức.
Thái tử Văn Huệ vương Sam chạy ra vùng biển, đến ở nhà Tô
Trung Từ, thôn Lưu Gia, nay là xã Lưu Xá, huyện Hưng Nhân,
Thái Bình, gặp Trẩn thị, cháu gọi Trung Từ bằng cậu, con gái
Trần Lý xã Tức Mặc, phủ Thiên Trường, có nhan sắc, lại khôn
ngoan lanh lợi, lấy làm vỢ. Thái tử phong Trần Lý tước Minh tự,
Tô Trung Từ điện tiền chỉ huy sứ, uỷ việc về kinh dẹp loạn.
Trần Lý làm nghề đánh cá biển, nhà giàu lớn, gặp buổi loạn
lạc tô chức tự vệ trong tay có những người khoẻ mạnh (dân chài
cá) sau được nhiều người quy phục. Trần Lý cướp của nhà giàu
phán phát cho dân nghèo, nghiễm nhiên trở thành lực lượng cát
cứ vùng ven hiển.
Anh em họ Trần, họ Tô, họp hương binh, chiêu mộ thêm
quân nghĩa dũng, kéo về kinh thành đuổi bọn Quách Bốc, khôi
phục thành Thăng Long, lên Quy Hoá đón Cao Tông hồi loan. Cao
Tông trừng trị bọn làm loạn, rộng lượng xá tội cho bọn Đàm Dĩ
Mông từng theo giặc. Sai Đỗ Quảng đi đón thái tử về kinh sư.
Trần thị vê ở nhà cha Trần Lý ở Tức Mạc. (Do sự thái tử lấy con
nhà chài lưới, đưa về phong làm thái tử nguyên phi Trần thị, e
mất thể thôAg).
Kinh sư đã được yên, nhưng ngoài cõi, dư đảng giặc còn
nhiều. Cao Tông chính thức phong quan tước cho Trần Lý và Tô
Trung Từ, khiến đi dẹp giặc. Trần Lý bị giặc giết. Quân sĩ theo về
người con thứ hai là Trần Tự Khánh.
Lý Cao Tông vê kinh đư ợc một năm, phải bệnh, gọi Lý Kính
Tu vào nhận mệnh lệnh ký thác. Kính Tu vốn họ Đ ỗ, đư ợc phong
quốc tính, làm đ ế sư (thầy vua) mà công nhiệp không có gì, không
can đư ợc vua hoang chơi.
LUẬN VỂ VUA LÝ CAO TÔNG - Tháng 10 âl năm 1210, Lý Cao
Tông khuất, làm vua 35 năm, hưởng linh 38 tuổi.
127
liý Cao Tông là vua hèn, trong buổi dân đói nước loạn mà
vẫn chơi bời, xa xỉ, cầm quyền mà không biết dùng người, không
phân biệt kẻ hay người gian. Cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy kém.
Thái tử Sam lên nôl ngôi, tục hiệu vua Lý Huệ Tông, qua
năm sau mới đối niên hiệu. Thái hậu Đàm thị cùng nghe chính sự.
Bấy giò, trong nước còn nhiều giặc cướp, không ngăn được
hết. Vua mới lên ngôi, giao việc nước cho thái uý Đàm Dĩ Mông. Dĩ
Mông không có học thức, lại nhu nhược không quyết doán, chính
sự ngày một đố nát. Đói kém xảy ra luôn, dân chúng cùng quẫn
khốn khô. Huệ Tông sai quan chiêu mộ những người khoẻ mạnh
sung vào đội quân bảo an, đi tuần tiễu bắt giặc cướp.
TRẦN THỊ - Ngay sau khi lên ngôi, Huệ Tông sai đem thuyền
rồng đi đón Trần thị. Tự Khánh đang hận đánh giặc, biết thái hậu
và quan triều ít có cảm tình tô"t, chưa cho đi, nói thác là đương
thòi loạn lạc.
Trần Tự Khánh, thông thuộc binh pháp, cầm quân vững
chắc, được đội ngũ mến chuộng, lại có Tô Trung Từ giúp sức, đi
tuẫn tiễu khắp ngoài cõi, đánh đâu thắng đó, không bao lâu dẹp
tan hêt dư đảng của Quách Bốic, buộc dôc quân các nộ và các tù
trương quy thuận chính quyền trung ương.
Năm 1211, Tự Khánh dẫn quân vê triều. Huệ Tông phong Tự
Khánh làm Chương Thành hầu (có sách chép Chương Tín hầu); Tô
Trung Từ làm thái uý phụ chính, tước Thuận Lưu bá; sai phụng
ngự Phạm Bô" đi đón Trần thị vào củng cố, lập làm nguyên phi.
Có công dẹp giặc yên dân, được phong chức lốn, Tự Khánh
nắm giữ quân đội, uy quyền hông hách, át cả các quan triều cũ và
tôn thất. Chúng bâ"t bình, ghen tị, xui Huệ Tông đừng dùng người
có ý muôn làm phản. Huệ Tông không nghe theo. Chúng bèn
thỉnh thác với Đàm thái hậu. Do bị bức bách, Huệ Tông giáng
Trần thị làm ngự nữ, không giải chức Tự Khánh dược. Tự Khánh
biết sự thể, tính sắp đặt lại trật tự các quan triều, định rước Huệ
Tông ra Thiên Trường, rồi lấy thế nhà vua, cắt dặt vị trí các quan,
đột nhập cung khuyết. Bị hạch làm kinh động vua, Tự Khánh
phái tội nhưng không vì thê mà thế lực suy giảm. Chúng lại xui
Huệ Tông nên dựa vào thê lực khác đê phòng Tự Khánh làm
128
phản. Huệ Tông liên lạc với Đoàn Thượng đóng quân ở An Nhân,
là con người vú nuôi vua xưa. Thượng đi đánh các tướng chân tay
của Tự Khánh ỏ ngoài cõi, khi được khi thua. Bọn tôn thất lại gọi
đốc quân các lộ đem binh về kinh sư cứu giá. Có sách chép chính
Huệ Tông bị xúc xiêm mãi, cũng nghi Tự Khánh, gọi quân các lộ
về. Quân sĩ các nơi kéo về đợi lệnh. Tự Khánh lại xin hộ giá rước
vua đi. Huệ Tông sỢ hãi, chẳng biết ai trung thành, ai phản
nghịch, đem gia quyến chạy lên Lạng Châu (Lạng Sơn) mặc cho
đôi bên cự nhau, bên nào thắng thì mình cũng được tôn phù. Tự
Khánh đuối binh sĩ các nơi về. Một mặt sai người đi tìm nhà vua,
một mặt đê ra uy với đôc quân các lộ, Tự Khánh đem quân đi
đánh đám quân cát cứ hùng mạnh nhất là Đinh Khả và Bùi Độ
đóng ơ châu Đại Hoàng từ lâu, và phá tan được bọn này.
Đoàn Thượng đi đánh Nguyễn Nộn ở Bắc Giang. Nộn nguyên
là cư sĩ chùa Phù Đống, bắt được nhiều vàng ngọc, không dâng
vua, bị bắt giam. Tự Khánh trọng sức khoẻ, xin cho đi đánh giặc
chuộc tội. Nộn đánh bại Nguyễn Tự ở Quổc Oai, về hùng cứ vùng
Bắc Giang, dâng biểu xưng thần, vẫn phục tòng Tự Khánh.
Thượng thua to. Nộn thắng thế, tự cho mình là anh hùng, lại thấy
triều đình lộn xộn, không phục tòng Tự Khánh nữa. Do Nộn phản
bội, thê lực Tự Khánh có phần sút giảm. Quân các lộ luôn luôn kéo
về đánh phá. Tự Khánh bỏ kinh thành, dẫn quân về đóng ở Lỵ
Nhân - nay là phủ Lý Nhân, Hà Nam. Huệ Tông ở Lạng Châu,
không hỢp thuỷ thổ, lui về huyện Binh HỢp (Phượng Nhãn, Bắc
Giang) lại trở về kinh sư. Các tướng cậy công, tranh giành nhau
địa vị. Tướng cũ Đỗ Sở, Đỗ Nhuế ở Cao Xá chôAg lại nhà vua.
Nguyễn Bát đi đánh, không nổi. Huệ Tông phong Trần thị làm
Thuận Trinh phu nhân và vời Tự Khánh về dẹp loạn.
Tự Khánh làm tròn nhiệm vụ. Tình hình đã được yên. Nhưng
Đàm thái hậu vẫn không ưa Tự Khánh, hành hạ Trần thị trong
cung, thường trỏ mặt gọi là bè đảng của giặc, muôA bắt vua đuổi
bỏ đi. Huệ Tông nấn ná không chịu. Đàm thái hậu sai người bắt
phu nhân phải tự sát. Huệ Tông ngán lại được. Thái hậu định
đánh thuôc độc cho chết đi, cho bỏ thuốc vào món ăn uôKg. Huệ
Tông biết ý. Đến bữa chỉ ăn một nửa, giành phần cho Trần thị.
Thái hậu cầm chén thuốc độc bắt phu nhân phải uô"ng. Huệ Tông
cũng ngăn lại được. Sau thái hậu làm ngặt nghèo quá quắt lắm,
Huệ Tông phải cùng nàng đang đêm trôA đi, lẻn đến trú ngụ tại
nhà tưống quân Lê Mịch ở huyện Yên Duyên (Thanh Trì, Hà
129
Đông). Các tướng Nguyễn Nộn, Nguyễn Bát, Hà Cao, mượn tiếng
theo lệnh thái hậu đánh phá các ấp vùng Từ Liêm.
QUYÊN VỀ HỌ TRẦN - Trần Tự Khánh và thượng tướng quân
Phan Lân xếp đặt binh ngũ, rèn đúc vũ khí, huấn luyện sĩ tốt, thê
quân phấn chấn đi đánh các nđi. Đoàn Thượng tự ý về hàng.
Nguyễn Cuộc, Đỗ Bộ, cát cứ vùng Tán Viên, bị đánh thua, củng
xin hàng. Nguyễn Bát chiếm cứ vùng Hoài Đức, không chôKg cự
lại nổi, bỏ chạy trốn. Nguyễn Nộn, thê rất hung dữ, Tự Khánh dôc
toàn lực đi đánh, Nộn thắng một trận, rồi liên tiếp thua luôn,
nhưng sau lại trở về chiếm cứ Bắc Giang. Hà Cao ở Quy Hoá, bị
đánh thua, cùng vỢ con thắt cổ chết, c ả vùng Thượng Nguyên,
Tam Đái (Thái Nguyên. Phú Thọ) đều xin quy thuận.
Trong khi Tự Khánh đi đánh các nơi, một tướng là Vương Lê
đem binh thuyền đến Yên Duyên dón Huệ Tông và phu nhân đưa
về đóng ỏ bãi Cửu Liên, một bãi lớn trên sông ĐuôKg - thòi bấy giờ
lớn lắm - ở nam Bắc Ninh và bắc Hưng Yên bấy giò.
Năm 1216, tình thế đã yên. Huệ Tông truyền cho Tự Khánh
đến chầu, đem lòng tin cậy. Do không còn Đàm thái hậu ở bên làm
khó dễ, Huệ Tông phong Trần thị làm hoàng hậu, Tự Khánh làm
thái uý phụ chính, Trần Thừa (anh Tự Khánh) làm nội thị phán
thủ. Loạn lạc đã yên, Tự Khánh rước xa giá về kinh sư. Thê lực họ
Trẩn càng nổi lớn. Tự Khánh lấy danh nghĩa nhà vua, ra lệnh sắp
đặt lại hàng ngũ quân đội các lộ thôYg thuộc triều đình. Bọn tôn
thất nhà Lý mưu hại trừ bỏ Tự Khánh thì trái lại, càng làm tăng
thêm thế lực và uy quyền cho họ Trần, từ đấy đành chịu bó tay.
Hồi loan, Huệ Tông phó thác việc nước chính trị cũng như
quân sự cho Tự Khánh. Tự Khánh nhiếp chính, lo giữ gìn an
ninh cho dán chúng, chuyên chú việc binh bị. Trong nước không
còn những cuộc hĩnh đao lớn. Tình hình có vẻ êm đẹp. Các địa
phương quy phục triều đình, chỉ còn mấy lực lượng quân phiệt
cát cứ. Việc cai trị, năm 1222, có sự chia nước là 24 lộ, lấy các
hoành nô (người có tội phải đày làm nô) thuộc lộ và quân nhân
bản lộ chia nhau làm giáp. Việc bang giao với phương bắc, thì
nhà TôKg suy yếu không hạch sách gì, dù lễ công đơn bạc và
không đều đặn. Giặc ngoài có các năm 1216, 1218, người Chăm
và người Chân Lạp vào cướp ở châu Nghệ An, châu bá Lý Bất
Nhiễm đánh phá tan được.
Nêu Huệ Tông sáng suốt, thưởng phạt công minh, tự nắm
giữ chính quyền thì cơ đồ nhà Lý không đến nỗi nào. Nhưng ch]'
130
thời thường uông rượu, .say ngủ cả ngày, hôm sau mới tỉnh. Cuô'i
năm 1220, hị trúng phong, thuôc chữa không khỏi. Tìm khắp thầy
thuốc trong nước chữa hệnh, đều không hiệu nghiệm. Bệnh ngày
càng tăng, phát chứng hênh tâm thần (xưa gọi là điên) khi tỉnh
khi mê, thường múa may đùa nghịch, đổ mồ hôi, nóng bức khát
nước, uông rượu ngủ li bì.
Cuôi năm 1223, Tự Khánh chết, được phong làm Kiến Quốc
đại vương. Trần Thừa được cử làm phụ quốc thái uý, thay thế.
Trần Thừa tiến cử người em họ Trần Thủ Độ. Huệ Tông phong
Thủ Độ làm điện tiền chỉ huy sứ, hộ vệ cấm đình. Từ đấy, mọi việc
triều chính đều do Thủ Độ cả.
Huệ Tông hệnh mcãi không khỏi, không có con trai, chỉ có hai
con gái do Trần thị sinh. Người chị Thuận Thiên công chúa đã gả
cho Trần Liễu, con Trần Thừa. Người em, Chiêu Thánh công chúa
Phật K im , Huệ Tông yêu quý lắm, tháng 10 âl năm 1224, lập làm
thái tử, hấy giò mới 7 tuổi. Huệ Tông truyền ngôi cho con gái, xuất
gia đi tu ỏ chùa Chân Ciáo trong đại nội.
Lý Huệ Tông làm vua được 14 năm.
Thái tử Chiêu Thánh công chúa Phật Kim, đổi tên là Thiên
Hình lên ngôi, tôn hiệu là Chiêu Hoàng.
Quyền hành hết thảy trong tay Trần Thủ Độ, lĩnh chức
Tri thành thị nội ngoại chư quân sự. Thủ Độ tư thông với Trần
thái hậu, mưu lây cơ nghiệp nhà Lý. Chọn con em các quan
viên sung vào các sắc dịch trong nội, ngày đêm cắt lượt nhau
chầu hầu. Trần B ất Cập, Trần Thiêm, Trần cản h đều là cháu
Thủ Độ. Trần cản h là con thứ Trần Thừa, làm Chánh thủ,
được Chiêu Hoàng ưa thích, cùng nhau nô đùa, khi nắm tóc,
khi nép vào hóng nhau, cảnh bưng thau nước, Chiêu Hoàng té
nước vào Cảnh; bưng khăn trầu, lại ném khăn vào cản h . Đêm
tôi chạy đến trêu chọc, đứng vào bóng. Thủ Độ vin vào những
trò trẻ con nô đùa ấy cho là vua bà đã yêu Cảnh, muôn lấy làm
chồng, bàn với Trần thái hậu làm lễ cưới. Thủ Độ đem gia
thuộc thân thích vào trong cung cấm, đóng cửa thành. Các
quan vào chầu không được. Thủ Độ loan báo: Bệ hạ đã có
chồng rồi. Và hẹn ngày vào chầu mừng. Ngày 11 tháng 12 năm
131
At Dậu (Tây lịch đã sang năm 1226), Chiêu Hoàng đại hội ở
điện Thiên An, ngự trên bảo sàng, trút bỏ áo ngự, khuyên mời
Trần Cảnh lên ngôi hoàng đế. Tò chiếu chỉ nhường ngôi được
ban ra. Triều nhà Lý đến đây là hết.
Chiêu Hoàng ở ngôi 14 tháng, từ tháng 10 năm Giáp Thân
(1224) đến tháng 12 năm Ât Dậu.
TRẦN THỦ ĐỘ
Trần Thủ Độ là người ít học mà nhiều mưu cơ cực kỳ sâu
sắc. Thuở nhỏ từng theo Trần Lý đi dẹp giặc. Ra làm quan,
Thủ Độ củng cô" địa vị người họ Trần, lấy người trong họ nắm
giữ bộ máy chính trị và quân sự; mua chuộc quan triều theo
về. Phùng Tá Chu và Phạm Kính An ăn cánh. Đôi với các ngưòi
không phục, có thê chông đôi thì đẩy đi xa, không giết hoặc xui
Huệ Tông giết một ai. Thấy Huệ Tông ô"m yếu lại không có con
trai, tôn thất đều hèn kém, nảy ra ý muôn đưa người họ Trần
lên ngôi thay th ế họ Lý, trong lúc gặp được cơ hội thuận tiện.
Đê thoán vị, không buộc Huệ Tông hạ chiếu truyền ngôi, mà
sắp xếp ra một chương trình vô cùng sầu sắc, kỳ lạ, cổ kim
đông tây không từng có. Những việc Huệ Tông lập con gái làm
thái tử, truyền ngôi, xuất gia đi tu, vua bà lấy chồng, nhường
ngôi cho chồng, đều do Thủ Độ sắp đặt nên, có Trần thị tay
trong giúp sức.
Sau này, Thủ Độ có công lớn với nước: Thông nhất giang sơn,
phá quân Mông c ổ xâm lăng.
Ngày 11 tháng chạp năm Ât Dậu***\ Trần cảnh lên ngôi vua,
tục hiệu Trần Thái Tông. Bấy giờ mới 8 tuổi. Quốc phụ Trần Thừa
làm thái thượng hoàng cầm quyền cai trị, Trần Thủ Độ làm quốc
thượng phụ, thái sư thông quốc hành quân chính thảo sự.
VIỆC CAI TRỊ DƯỚI THỜI TRẦN s ơ - Trần Thừa định lại hình
luật, thuế ruộng, thuế thân, thể lệ tiền tệ, lây kẻ có học ra làm
việc công, mở khoa thi thái học sinh (tiến sĩ) kén chọn nhân tài bố
dụng làm quan, đắp thành Thăng Lọng cho được thêm kiên cô,
đào các sông ở Thanh Hoa và Diễn Châu trước bị úng thuỷ, xét lập
trướng tịch (kiểm tra dân số). Hàng năm mở hội thề “làm quan hết
lòng trung, ở chức giữ thanh liêm” theo như nhà Lý ở đền Đồng
Cổ, làng Yên Thái, về kinh tế, mở mang nông nghiệp, tái thiết các
làng mạc bị tàn phá trong thòi loạn, chiêu mộ lưu dân cho đi lập
nghiệp tại các nơi đinh tán điền hoang. Bắt đầu việc đắp đê ngăn
nước sông lớn.
Từ năm 1234, Trần Thừa khuất, Trần Thủ Độ nhiếp chính,
mở mang việc học hành, thi cử, tô tượng Chu công, Khổng tử,
Mạnh tử... phong tước cho các cựu thần nhà Lý có công tôn phù.
VIỆC BÌNH ĐỊNH GIẶC GIÃ TRONG Nước - Nhà Trần lên thay
nhà Lý, tại kinh sư không có sự chông đối gì nhưng ngoài cõi thì
nhiều đốc quân các lộ chưa chịu thần phục. Ke từ thòi Lý Cao
Tông thất chính, khắp nước loạn lạc, gây nên nạn cát cứ, tam
phân ngũ liệt. Trần Tự Khánh chỉ mới dẹp yên được một sô. Từ
khi nữ chúa lên ngôi, nhất là từ khi nhà Trần lập, có nhiều đám
nổi dậy, mưỢn danh “phục Lý”.
Trần Thủ Độ mở các cuộc hành quân tuần du về các lộ. Đôc
quân nhiều nơi xin quy thuận triều đình. Các thảo khấu mọi vùng*()
Về lịch sử triều đại nhà Trần, xin xem thêm trong tập sách T h u y ế t T r ầ n
(NXB Hải Phòng, 2003, 535 tr.) của Trần Xuân Sinh.
( * * ) Nãm Ât Dậu ấy Dương lịch là năm \225. Trần Thái Tông lẽn ngôi ngày 1 1 tháng chạp
năm ấy, Dương lịch đã sang nãm 1226.
133
quanh kinh thành thì việc đánh dẹp không có gì khó khăn. Bọn
Phi Lang và Bảo lương tung hoành tại Đại Hoàng Giang từ lâu,
hàng hơn 20 nám. Thủ Độ bình được. (Sử không chép rõ đã chiêu
hoà hay đánh tan được) Nguyễn Tự cầm đầu dân Mường ở Quôc
Oai, giữ đất ấy, cũng từ lâu. Nguyễn Nộn, Tự Khánh đến đánh
nhiều lần. Tự chạy vào rừng sâu. Quan quân rút, Tự lại trở về giữ
đất. Thủ Độ tiến đánh, Tự vẫn quen giữ thói cũ. Biết được việc
dân Mường từ lâu không có giao dịch với miền xuôi, thiếu thôn
nhiều thứ, nhất là muối, phải ăn than nứa cho có chất mặn, Thủ
Độ sai đem đến nhiều muôi, phân phát cho họ, dụ họ quy thuận
triều đình, hứa cho xuôi bán lâm sản và mua về vải, lụa, muôi,
nông khí. Nguyễn Tự mất chỗ dựa, giặc tan.
Đến bọn Đoàn Thượng xưng là Đông Hải đại vương ở Hồng
Châu, Nguyễn Nộn xưng là Hoài Đạo vương ở Bắc Giang, thê lực
mạnh lắm, lại liên kết với nhau chông lại nhà Trần. Đánh không
nổi, dụ hàng không được, Thủ Độ cắt đất phong vương cho hai
tướng, rồi dùng kế chia rẽ chúng, gả Ngoạn Thiền công chúa cho
Nộn, khiến Nộn đánh Thượng. Một mặt kéo quân xuông đánh. Hai
mặt bị tấn công, quân Thượng tan vỡ, Thưựng bị chém, chạy về
đến được An Nhân mới chết.
Nộn sau đó thông lĩnh toàn quân Thượng. Con Thượng là Văn
cũng theo về. Thanh thê Nộn lừng lẫy, lại xưng là Đại Thắng vương,
nhưng sau ăn chơi quá độ, biết mình không thể chông đôi mãi được,
định sẽ về chầu. Chưa hao lâu chết vào tháng 5 âl năm 1229.
Mọi địch thủ mạnh đã bị đập tan, các đốc quân còn lửng lơ
bèn xin quy thuận triều đình, lần lượt đến các thố hào, tù trưởng.
Giang sơn được thu vào một môl.
VIỆC BINH BỊ - Khắp nước đã được bình định. Nhưng phía tây
bắc người Mông cổ đã chiếm Vân Nam Quý Châu. Người nước
Champa cũng dũng mãnh tính đòi lại đất đã nhượng. Tình thế đòi
hỏi chính quyền trung ương phải có quân đội hùng cường. Thủ Độ
bắt các thanh thiếu niên trong tôn thất luyện tập võ nghệ, đào tạo
tướng tá, tuyến mộ và huấn luyện binh sĩ, rèn đúc vũ khí, đóng xe
thuyền lập đinh tịch để gọi tráng đinh ra tòng ngũ.
VIỆC NGOẠI GIAO - Thủ Độ sai sứ sang Tông báo cáo việc Trần
Cảnh được nhà Lý truyền ngôi và xin phong. Tống Lý Tông không
bắt bẻ gì, phong vua Trần làm An Nam quốc vương.
Rất có thể Thủ Độ đã giao hảo với Mông cổ. Khi nhà Trần kiến
quốc thì Mông cổ đã chiếm Vân Nam. ĐVSKTT có chép: Nám 1168,
134
sứ nhà Tống sang, sứ Thát Đát cũng sang. (Tô Hiến Thành) Đểu
thương hậu đê dụ, ngầm lấy lễ tiếp đãi cả hai sứ, không cho họ gặp
nhau. VSTGCM nói bấy giò Thát Đát còn ở mãi miền cực bắc rất xa
xôi, sửa lại là sứ Kim. Nhưng xét nước Kim không chiếm Vân Nam,
bấy giờ còn còn cách xa nước ta bởi nước Nam Tốhg. Sứ Kim không
vượt biên sang nưc3c ta làm gì. Việc làm “khi triều Tông, khi sính
Nguyên” phải là của Trần Thủ Độ, vào các năm trước sau năm 1250.
Nước Champa từ ngày nhà Lý suy đã coi thường nước ta.
Nhà Trần lên. sai sứ sang dụ. Champa có đến công, lễ vật đơn bạc.
Dân Chăm lại thường hay sang cướp phá vùng ven biển.
VỤ BỨC TỬ THƯỢNG HOÀNG LÝ HUỆ TÔNG - Lý Huệ Tông bỏ
cung điện đi tu. Buôi nọ ra chơi chợ Đông, ăn vận nâu sòng, nhiều
người thấy thương khóc. Thủ Độ sỢ lòng người còn tưởng nhớ vua
cũ, sinh ra biến loạn. Có lần Huệ Tông ngồi nhổ cỏ ở sân chùa.
Thủ Độ đi qua, nói: Nhổ cỏ phải nhổ cho hết dễ sâu. Huệ Tông nói:
Nhà ngươi nói, ta hiểu rồi. Mấy hôm sau, Thủ Độ cho người đi mòi
Huệ Tông. Huệ Tông giận lắm, tụng kinh xong, vào nhà sau thắt
cố tự tận. Bấy giò là tháng 8 âl năm 1226.
Sự việc diễn ra không phải chi’ đơn sơ có thế. Theo Nguyễn
Triệu Luật, người dòng dõi tôn thất nhà Lý thì có những chiếu chỉ
cần vương - thật hoặc giả - được tung ra. Thủ Độ bắt được, đem
chất vấn Huệ Tông. Huệ Tông chôi và sau lo sỢ trong khi thảng
thôt về bệnh tâm thần đã tự ải. Có thuyết Thủ Độ dâng bình rưỢu
quý có thuôc độc, Huệ Tông uống xong thì chết. Cũng có thể là bị
treo cổ hay chết cách nào khác.
Thủ Độ tuyên bô": Huệ Quang thiền sư đã về Niết bàn, dẫn
các quan đến khóc viếng, làm lễ hoả táng. Xá lợi đê vào tháp chùa
Bảo Quang. Thật quá tàn ác, chỉ vì tranh quyền cướp nước.
Lý Huệ Tông làm v u a 14 năm, đi tu một năm, hưởng linh 33
tuổi là v u a hèn, nghiện rưỢ u, hị bệnh tâm thần, nhưng chết thảm,
tình cũng đáng thương.
VỤ CHÔN SỐNG TÔN THẤT NHÀ LÝ - Các người trong tôn thất
nhà Lý mang hận. Thủ Độ muôn trừ bỏ nô"t đi. Năm 1232, nhân
làm lễ cúng tiên hậu nhà Lý 0 thôn Thái Đường, xã Hoà Lâm
thuộc Đông Ngàn Bắc Ninh, Thủ Độ sai người đào hầm, đổ đất
phủ cỏ, làm nhà lá ở trên. Đến khi các tôn thất nhà Lý vào tế lễ
thì giật máy cho đổ sụt xuông hô", rồi đổ đất chôn sông cả.
Sự việc nếu chỉ có thê thì vô lý. Theo Nguyễn Triệu Luật thì
phải là chính người họ Lý đào hầm định hại vua tôi nhà Trần khi
135
vào làm lễ. Nhưng Thủ Độ dò biết, lúc làm lễ, thay đổi hết vị trí
mọi người dự lễ, dồn người họ Lý vào nơi bên dưới có hầm, rồi sai
kéo sàn cho họ rơi xuống hầm. Cũng có thế rằng: Thủ Độ sai người
giả làm thuộc phe chông đốì, xui người họ Lý đào hầm, rồi sau bị
sa cả xuông đấy mà chết.
Trần thái hậu giáng làm Thiên Cực công chúa để gả cho Thủ
Độ, cung nhân nhà Lý, kê cả các tôn nữ, đem gả cho các tù trưỏng
Mường, Thái.
VỤ THAY BẬC Đổl NGÔI - Thủ Độ chỉ lo thế nào cho ngôi nhà
Trần được vững bền nên không những tàn ác với nhà Lý, đến luân
thường trong nhà cũng làm loạn cả. Năm 1237, Chiêu Thánh hoàng
hậu lấy Thái Tông đã 12 năm mà chưa có con (tuy mối 19 tuổi). Thủ
Độ bắt Thái Tông hỏ, giáng làm công chúa, đem gả cho tướng Lê Tần
tức Lê Phụ Trần, rồi đem người chị Thuận Thiên công chúa vỢ Hoài
vương Trần Liễu đã có mang ba tháng vào cung làm hoàng hậu.
Trần Liễu tức giận, đem quân làm loạn.
Thái Tông bị hiếp chế quá độ, trong lòng không yên, đêm lẻn
trôn lên ở chùa Phù Vân, trên núi Yên Tử (huyện Yên Hưng,
Quảng Yên). Thủ Độ đem quần thần đến đón về. Thái Tông không
chịu. Thủ Độ nài ép mãi không được, hèn nói; Vua ở đâu thì triều
đình ở đấy. Lập tức truyền sắp sửa xây cung điện ngay ỏ chùa Phù
Vân. Thái Tông không sao được, đành ra về.
Được ít lâu, Trần Liễu biết không làm nên được gì, nhân lúc
Thái Tông ngự thuyền, giả làm người đánh cá, lẻn xuống thuyền
ngự xin hàng. Anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Độ cầm gươm toan
giết Liễu. Thái Tông lấy mình che đỡ cho anh. Sau Thái Tông lấy
đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Bang - thuộc Hải Dương
- cho Liễu làm thái ấp và cải phong làm An Sinh vương.
Thủ Độ lại muôn mọi người không nhớ đến họ Lý nữa, nhân
tổ họ Trần là Lý, bắt trong nước họ Lý phải cải là họ Nguyễn.
TRẦN THÁI TÔNG ĐÍCH THÂN CẦM QUYỀN CHÍNH - Lên ngôi từ
năm mới 8 tuổi, Thái Tông buổi đầu chỉ giữ hư vị. Sau lớn lên mới
dần thực sự nắm giữ quyền chính. Từ năm 1238, tình hình trong
nước đã yên ổn. Thái Tông thường đi về đến tận các làng xã, xem
xét dân tình, chỉ thường mang theo một vài người hầu cận. Đôi với
dân chúng, có tình thân ái mật thiết, thông thường giải quyêt
những sự bâT đồng giữa các họ, các phe nhóm, làng xã. Nhiều khi
chỉ ở ngay dưới gốc cây lớn. Làng xã mới làm đình để khi vua đến
có chỗ ngồi tươm tất.
136
Năm 1242, Thái Tông chia nước vùng trực trị làm 12 lộ, mỗi
lộ có chánh phó ari phủ sứ cai trị, dưới có đại, tiểu tư xã, mỗi viên
cai trị hoặc 2 xã, hoặc 3,4 Xcã. Mỗi xã có xã quan là chánh sử giám.
Xã bấy giò lớn lắm. Quan lại do triều đình bố dụng, có thăng,
giáng, thuyên chuyên. Miền trung du và vùng trại, từ Nghệ An trở
vào, đặt các phủ, châu. Phủ có tri phủ, châu có tào vận sứ trên các
đại tiếu tư xã. Các xã phải làm sổ hộ khẩu, đinh tịch.
12 lộ là: Thiên Trường, Long Hưng, Quốc Oai, Bắc Giang,
Hải Đông, Trường Yên, Kiến Xương, Hồng, Khoái, Thanh Hoa,
Hoàng Giang (nam Ninh Bình), Lạng Giang.
Kinh thành Thăng Long chia làm 61 phường.
Quan lại các phủ châu cũng do triều đình bổ dụng nhưng
dùng thường người địa phương, có tính cách nửa phong kiến, nửa
trực trị.
Các vùng rừng núi xa xôi vẫn do các tù trưởng cai trị, thổ quan
trị thô dân, tuy có đặt quan giám sát mà không chặt chẽ lắm.
VIỆC THUẾ MÁ - Người nước, nam giới, phân ra từng hạng: từ
18 tuổi là tiểu hoàng nam, từ 20 là đại hoàng nam. Từ 60 trở lên
là lão hạng. Bấy giờ, có đánh thuế thân, nhiều ít tuỳ theo sô" ruộng
đất có được. Ai không có ruộng đất được miễn.
Thuế ruộng đóng bằng thóc, mỗi mẫu 100 thăng.
Thuế muối phải đóng bằng tiền.
Các loại vải, lụa, hương yến tức và tôm cá, rau quả, đều phải
chịu thuê, tòng lượng.
Tiền tiôu bằng đồng. Vàng, bạc dùng trong nước thì phân
lạng đưỢc chính quyền đúc sẵn.
VIỆC KHẨn h o a n g - Thái Tông đặc biệt chăm lo các công việc
vệ nông, khai ngòi, đắp đập, lại dùng quân lính đóng đồn khai
thác đất hoang, gọi là đồn điền. Đặt chức đồn điền chánh, phó sứ
đôn đôc công việc mở mang và quản lý.
VIỆC ĐẮP đ ê - Miền bắc nước ta thượng du nhiều núi cao, mà ở
mạn trung châu nhiều sông ngòi, hàng năm đến mùa lụt nước ngàn,
nước lũ chảy về ngập cả đồng điền. Từ xa xưa, người ta đã đắp đê
chống lụt từng khu vực nhỏ. Dưới triều Lý, công việc đắp đê đã được
mơ rộng. Sang triều Trần thực hành quy mô rộng lớn. Thái Tông sai
các lộ đắp đê giữ nước sông ở hai bên bờ sông Cái (sông Hồng khoảng
từ ngã ba Hạc trở xuống), gọi là Đỉnh Nhĩ đê. Bấy giờ là năm 1248.
Đặt quan coi việc đê, gọi là hà đê chánh phó hai viên. Chỗ nào đắp vào
ruộng của dân thì nhà nước chiếu giá bồi thường cho người có ruộng.
137
Năm 1253, sai đắp đê sông thuộc lộ Thanh Hoa.
PHÁP LUẬT - Năm 1244, Thái Tông định lại luật pháp. Bộ
hình luật này thất truyền. Theo Phan Huy Chú thì phép đặt ra
thời ấy nghiêm ngặt lắm: Phạm tội trộm cắp phải chặt tay, chặt
chân hay cho voi dày.
VIỆC HỌC HÀNH - Việc học hành được mỏ mang. Nhà Lý trước
đã mở khoa thi nho sĩ. Qua nhà Trần, năm 1232, mở khoa thi thái
học sinh (tiến sĩ), chia ra làm ba giáp cao thấp. Năm 1247, lần đầu
tiên đặt ra tam khôi: Trạng nguyên,.bảng nhãn, thám hoa. Cũng
năm ấy, mở khoa thi tam giáo: Nho, Thích, Lão đều được trọng cả.
Năm 1253, tô tượng Chu công, Khổng tử, 4 á thánh và 72 hiền.
Lập Quốc học viện giảng Nho học và các giảng võ đường huấn
luyện võ nghệ.
QUAN CHÊ - Quan chê được sửa sang lại. Có tam công, tam
thiếu, thái uý, tư mã, tư đồ, tư không, là ván võ đại thần. Tể tướng
thì có tả, hữu tướng quốc, thủ tướng, tham tri. Văn giai có các bộ
thượng thư, thị lang, lang trung, viên ngoại, ngự sử... nội chức. Võ
giai có phiêu kỵ thượng tướng quân, cẩm vệ thượng tướng quân,
kim ngô đại tướng quân, vũ vệ đại tướng quân, phó đô tướng
quân... là nội chức. Kinh lược sứ, phòng ngự sứ, thủ ngự sứ, quan
sát sứ, đô hộ, đô thống, tổng quản... ngoại chức.
Quan lại 10 nám được thăng một hàm, 15 năm một chức.
Số quan lại tuy nhiều nhưng vua quan thân cận nhau. Khi
vua đãi yến, các quan uông rượu xong, dắt tay nhau múa hát,
không giữ phép nghiêm khắc như những đòi sau.
BINH CHÊ - Việc binh mỗi ngày một chỉnh đôK thêm. Mọi
tráng binh trong nước đều phải đi lính cả. Sau khi được luyện tập
đầy đủ thì cắt phiên nhau: lớp tại ngũ, lớp về làm ruộng. Các thân
vương được quyền chiêu tập binh sĩ, có dưới trướng một sô" quân
đội. Bấy giờ, nước ta có khoảng 20 vạn quân để chông ngoại xâm.
VIỆC SÙNG ĐẠO PHẬT - Thái Tông rất sùng đạo Phật, từng đúc
350 quả chuông đồng. Sử gia nhà nho Ngô Sĩ Liên chê là phí tài
nguyên vào việc vô ích.
VIỆC ĐI ĐÁNH NUỚC CHAMPA - Vua Champa có sai sứ sang
công lễ vật đơn bạc. Người Chăm lại hay dùng thuyền nhỏ sang
cướp phá vùng Thanh, Nghệ, Tình. Triều đình Champa còn lăm le
đòi đất đã nhượng. Đe ra uy trước, nám 1252, Thái Tông cử Khâm
Thiên vương Nhật Kiểu giữ nước, thân hành đem quân sang đánh
Champa, vào tận kinh đô, thắng trận lớn, bắt được vỢ vua nước ấy
138
là Bô" Già La cùng những thần thiếp và rất nhiều quân dân đem
về. Cuộc hành quân kéo dài suô"t một năm, từ tháng giêng đến tận
tháng chạp, mới chấn chỉnh đội ngũ trở về nước.
VIỆC BANG GIAO VỚI NHÀ TỐNG - Thái Tông vẫn giao hảo với
nhà Tông, công phẩm (không hậu hĩ gì mấy) được đưa sang đều
đặn. Có mấy vụ lôi thôi ỏ biên giới, bên ta đều giữ được thắng lợi.
Năm 1240, có những người Thái, Dao hên Tốhg sang cướp phá
vùng Lạng Giang, thị thần Bùi Khâm bình được. Năm 1241,
chúng lại sang cướp. Đốc tướng Phạm Kính Ân đi đánh, lấy được
mấy động man. Thái Tông thân đi đánh vào các trại Vĩnh An,
Vĩnh Bình bên, Tông trong cuộc đi tuần tiễu biên giới, sử gia xưa
cho là làm sự mạo hiểm không cần thiết.
Năm 1242, quân Mông cổ đã chiếm Vân Nam. Đường sang
Tông hị nghẽn, thân vệ tướng quân Trần Khuê Kính đem quân đi
trấn ngữ, đánh chiếm lấy đất Bằng Tường thuộc Quảng Tây, viện
cớ lấy đường thông sang Tông. Xem sự thể ấy thì thấy rằng triều
đình ta đã coi thường nhà Tông, lễ công có thể chỉ là chiếu lệ thôi.
PHÁ QUÂN MÔNG C ổ XÂM LĂNG - Dưới triều Trần Thái Tông có
vụ phá tan quân Mông Cỗ xâm lăng quan trọng hơn cả, sẽ chép ơ sau.
LUẬN VỀ VUA TRẦN THÁI TÔNG - Năm 1258, sau khi bình xong
quân Mông cổ xâm lăng, theo lòi Trần Thủ Độ, Thái Tông nhường
ngôi cho con là thái tử Hoảng, để dạy bảo việc trị nước cho
quen, lên làm thái thượng hoàng. Nhà Trần có vua, lại có thái
thượng hoàng, mà thái thượng hoàng mới thực sự cầm quyền
chính tôi cao.
Chỉ mấy nám sau, vua Thánh Tông đã thành thạo công việc
trị dân. Thái Tông thường cùng các con múa hát làm vui, ngoài
việc đê tâm vào kinh sách nhà Phật. Từ trước, Thái Tông đã sửa
sang hương Tức Mặc, dựng cung điện, xây chùa Phổ Minh. Năm
1262, đổi hương Tức Mặc làm phủ Thiên Trường và lui về đấy ở.
Mấy năm cuôl đòi, Thái Tông vào tu ở chùa Bắc Quang, chuyên
việc hoằng pháp Phật giáo, soạn sách K hoá hư lục, Thiền Tông chỉ
nam., Lục thi sám hối khan nghi.
Năm 1277, Thái Tông khuất, làm vua 35 năm, làm thái
thượng hoàng 19 năm, hưởng thọ 60 tuổi.
Trần Thái Tông là vua hiền tài, khoan nhân đức độ, có công
mỏ mang kinh tê văn hoá. Lại đánh đuổi được quân Mông cổ xâm
lăng, giữ vững nền độc lập nước nhà.
139
Nhiêu người chê vua phụ bạc Chiêu hậu là người đã nhường
ngôi cho mình, lại lấy người chị vỢ cũng là chị dâu là phạm luân
thường. Sự này hoàn toàn do Trần Thủ Độ ép buộc. Mà Thủ Độ thì
ngoan cố, đã muôn làm thế nào thì cương quyết đến cùng, không ai
cưỡng lại được nồi.
Năm 1258, thái tử Hoảng lên ngôi, tục hiệu vua Trần Thánh Tông
VIỆC CHÍNH TRỊ - Trong buổi đầu, mọi công việc do thượng
hoàng Thái Tông quyết định. Thông minh, Thánh Tông sớm quen
việc cai trị thực sự nắm giữ chính quyền từ năm 1262, thượng
hoàng lui về phủ Thiên Trường. Quan triều bấy giờ, có Trần ích
Tắc, Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn, Lê Phụ Trần, đều là
người tài giỏi, giúp vua trị nước, nhất là chỉnh đốn quân đội.
Nhân từ, trung hậu, Thánh Tông ở với anh em họ hàng rất
tốt. Thường nói rằng: Thiên hạ là của ông cha để lại, nên để cho
anh em cùng hưởng phú quý chung. Cho các hoàng thân vào nội
điện, cùng nhau ăn uông vui vẻ, rất thân ái. Chỉ trong buổi chầu
141
làm việc công mới phân thứ tự theo lễ phép. Anh em là xương thịt
rất thân, gặp buổi lo thì cùng lo, gặp lúc vui thì cùng vui. Các
vương hầu ai cũng hoà mục, kính sỢ. Nhà Trần thu được nhiều
hiệu lực của người trong tôn thất công cuộc kháng Nguyên do ở
điều này.
Việc nước thì suốt trong 21 năm ở ngôi, Thánh Tông lo giữ
gìn thanh bình cho dân chúng được an cư lạc nghiệp, không có
giặc giã.
VIỆC VẢN HỌC - Việc học hành được mở mang. Hoàng đệ Trần
ích Tắc học vấn uyên bác, có tài văn chương, mở học đường bên
hữu phủ đệ, cấp cơm áo cho sĩ phu đến học tập. Danh nho Mạc
Định Chi từng học ở trường này. Bọn Bùi Phỏng 20 người đều
được dùng giúp ích cho đời.
Thánh Tông kén học trò, lấy người có tài năng bổ vào giữ việc
tại quán, các, sảnh, viện. Mở kỳ thi kén lại viên bằng cách thư toán
(giữ sổ sách), cho người hiền lương thông hiểu kinh sách làm tu
nghiệp Quốc tử giám. Chính bản thân Thánh Tông cũng là thi sĩ.
Bộ Đại Việt sử ký gồm 30 quyển do Lê Văn Hưu khởi công
soạn từ đòi vua Thái Tông, chép từ Triệu Vũ đế đến Lý Chiêu
Hoàng, năm 1272 hoàn thành. Nước ta có quốc sử khởi đầu từ đây.
Nguyên bản nay không còn lưu truyền nhưng là tài liệu cho sử gia
về sau.
VIỆC LẬP CÁC ĐIỂN TRANG - Thánh Tông cho các vương hầu,
công chúa, phò mã, cung tần, chiêu tập những người xiêu tán
không có sản nghiệp, làm nô tỳ để khai khẩn ruộng hoang lập làm
điền trang. Vương hầu có điền trang bắt đầu từ đấy - năm 1266.
Sự việc này gây cơ sở cho con cháu tôn thất, lại có công việc làm
cho người vô sản.
VIỆC NGOẠI GIAO - Nước Champa từ ngày thua trận năm
1252, sỢ uy, thường sang công, các năm 1265, 1266, 1267, 1270,
1273. Có hai lần cống voi trắng. Bấy giò có sự dễ dàng với
Champa, mưu việc liên minh chông Mông cổ.
Thánh Tông vẫn giao hảo với nhà Tông. Năm 1262, Tống Lý
Tông phong Thánh Tông làm An Nam quốc vương và gia phong
Thái Tông làm đại vương.
Sau nhà Tông bị người Nguyên đánh dồn dập, có những
người TôAg chạy sang quy phụ. Thánh Tông đều thu nạp, lại
dùng một số binh sĩ TôAg vào đội Tông binh, (sau này họ tham
chiến chông Nguyên đắc lực). Một sô" dân buôn đem các thứ
142
vóc, đoạn, vị thuôc, mở cửa hàng ở phường Nhai Tuân, giả
xưng làm người Hồi Hột.
Riêng việc bang giao với nhà Nguyên có nhiều phiền phức, sự
việc chép ở sau.
VIỆC ĐI ĐÁNH GIẶC NHẪM b à l a - Việc võ bị đưỢc đặc biệt chú
ý, đề phòng quân Mông cổ sang xâm. Trong nước không có giặc
giã. Các tù trưởng, thổ hào đều quy phục duy có động man Nhẫm
Bà La (hay ồ n Bà La) ở vùng Bố Chính (Quảng Bình) (có lẽ là
người Mọi) muôn ly khai, không chịu thuần phục trung ương.
Nhân muôn ra uy và cũng đê tôi luyện quân sĩ với chiến tranh,
năm 1277, Thánh Tông thân làm tưỏng, đem quân đi đánh dẹp
bọn này, bắt được lũ Man Lão hơn hai ngàn người đem về.
LUẬN VỀ VUA TRẦN THÁNH TÔNG - Năm 1278, một năm sau
khi Thái Tông khuất, Thánh Tông nhường ngôi cho con là thái tử
Thẩm, về phủ Thiên Trường làm thái thượng hoàng.
Quân Nguyên sang đánh, thượng hoàng cùng vua chạy giặc
long đong, cùng quân sĩ và nhân dân tân khổ. Các năm cuối đời,
thường hay ngâm vịnh. Thơ hay, tiếc rằng đều bằng chữ Hán.
Năm 1290, Thánh Tông khuất, làm vua 21 năm, làm thái
thượng hoàng 13 năm, thọ 51 tuổi.
Trán Thánh Tông là vua hiền tài, đôl với anh em họ hàng
thân mật, không phân biệt chúa tôi, lại gây cơ sở cho người họ lưu
truyền lại cho con cháu điền trang. Trị nưóc mở mang việc học
hành, chỉnh đốn việc võ bị. Ngoại giao gặp nhiều khó khăn, đã
mềm dẻo mà không nhượng bộ. Giặc xâm phạm bờ cõi, lại cùng
tướng và quân dân chiến đấu, không quản ngại gian khổ. RâT đáng
khen ngọi.
Năm 1279, thái tử Thẩm lên ngôi, tục hiệu vua Trần Nhân
Tông. Buối đầu, Thánh Tông thượng hoàng coi mọi việc, Nhân
Tông lại thông minh quả quyết, quan triều trong và ngoài tôn thất
nhiều người tài giỏi, dân chúng một lòng thuận theo, nên vượt qua
đưỢc mọi khó khăn, giữ vững được nền độc lập.
143
Việc bang giao với nhà Nguyên có nhiều sự hôi rối, quân Bắc hai
lần rầm rộ kéo sang xâm lăng, đều bị thảm bại. Sự việc chép ở sau.
Lại có việc quân Ai Lao sang cướp phá cũng bị đẩy lui. Việc
này sẽ chép vào mục đánh quân Ai Lao thời vua Trần Anh Tông.
ĐỨC ĐỘ VUA TRẦN NHÂN TÔNG - Nhân Tông có đời sông rất
giản dị khi còn làm vua cũng như khi đã đi tu. Đi thăm dân tình,
thường chỉ mang theo vài người hầu cận. Rất ân cần thăm hỏi các
triều thần lớn phỏ, tướng sĩ, bô lão, đến cả những gia nô địa vỊ
thấp nhất, cấm người hầu nạt nộ họ.
VIỆC VĂN HỌC - Thòi ấy nhiều giặc giã, văn học vẫn hưng
thịnh. Xem bài hịch của Trần Quốc Tuấn, thơ Trần Quang
Khải và Phạm Ngũ Lão, thấy văn chương có khí lực mạnh mẽ.
Lại có Nguyễn Thuyên khởi đầu dùng tiếng Nòm làm thơ phú,
có bài thơ đuổi cá sấu. v ề sau người mình mới học theo, làm
thơ văn Nôm.
VIỆC BÌNH ĐỊNH XỨ s ở - Các tù trương, thố’ ty đều quy thuận.
Nhiều người lập công trong công cuộc kháng Nguyên. Duy có
Trịnh Giôc Mật tù trưởng Đà Giang, người Dao tụ tập đồ đảng,
cướp phá nhân dân. Năm 1280, Chiêu Văn vương Trần Nhật
Duật đi đánh. Gần đến nơi, Giôc Mật sai người đến nói; Mật
không dám trái mệnh. Nếu ân chủ đi ngựa một mình đến thì
Mật xin hàng ngay. Nhật Duật nhận lòi, chỉ mang theo mấy
tiêu đồng, nói: Nêu nó giáo giỏ thì triều đình sẽ cử người khác
đi đánh. Người Man vây mấy vòng, đều cầm gươm giáo. Nhật
Duật đi thẳng vào trại. Do biết tiếng Dao và phong tục họ,
Nhật Duật cùng Giôh Mật nói chuyện, ăn uông. Người Dao tích
lắm. Giôc Mật đem gia thuộc vá hộ hạ đến doanh xin hàng.
Không mất một người lính, một mũi tên, Nhật Duật bình được
Đà Giang. Giôh Mật theo vào kinh chầu vua. Nhân Tông han
thưởng khen ngợi.
NHÂN TÔNG ĐI TU - Năm 1293, Nhân Tông truyền ngôi cho
con là thái tử Thuyên, vê phủ Thiên Trường làm thái thượng
hoàng. Năm 1295, xuất gia đến tu ở chùa Vũ Lâm, nay thuộc
huyện Gia Khánh, Ninh Bình. Qua năm 1299, lại sang tu ở chùa
Ngọc Vân, núi Yên Tử, lấy hiệu là Yên Vcân đại đầu đà. Tuy sùng
Phật, thượng hoàng vẫn không sao nhãng việc nước.
Thông hiểu giáo lý nhà Phật, Nhân Tông lập ra thiền phái
Trúc Lâm, sau truyền qua Pháp Loa và Huệ Quang, đòi gọi là
Trúc Lâm tam tố.
144
LUẬN VỀ VUA TRẦN NHÂN TÔNG - Năm 1318, Nhân Tông
khuất, làm vua 14 năm, làm thái thượng hoàng 13 năm (kể cả 8
năm đi tu), thọ 51 tuổi.
'i'rần Nhân Tông là vua hiền tài, dũng lược. Bị cường lân đe
dọa biết theo lòi Hưng Đạo vương chủ chiến. Khi chạy giặc gian
truân, cùng chịu tân khổ vối quân dân. Sau lại tự làm tướng đi
đánh quân Ai Lao sang cướp phá. Đã đi tu vẫn không trễ nải việc
nước. Trưốc sau đời sông vẫn giản dị. Sự nghiệp phục hưng vẻ vang
hiển hách.
145
p \ià GIỢC m à NGUYÊN
sơ Lược LỊCH sử ĐẾ Qưổc MÒNG cổ
0 phía bắc Trung Quôh có dân tộc Mông cổ khoảng thượng
lưu Hắc Long giang (Amour) sông du mục, hung tỢn, háo chiến,
người nào cũng giỏi võ nghệ, đánh đao bắn cung tài. Lại có được
giống ngựa Hồ sức dẻo dai, ăn ít, cỏ vàng lá úa cũng đủ. Bộ đội
thường là quân kỵ, hàng ngũ sắp đặt rất khuôn phép, trật tự,
thành thạo nghề chiến đấu.
Tiền thân là nước Hung Nô. Thòi Chiến Quốc, hay sang cướp
ở các nước Triệu, Nguy. Tần Thuỷ Hoàng kiêm tính sáu nước, mà
không chiến thắng được Hung Nô, lại còn sỢ Hung Nô sang đánh,
nên mối xây Vạn Lý trường thành. Các triều Hán, Đường vẫn coi
Hung Nô là mốì lo ngại. Thế kỷ V, tướng Hung Nô A Đê Lạp
(Attila) đánh sang tận Tây Au. Nơi nào ngựa Attila đi qua, cỏ
không mọc được nữa. Thế kỷ XII, người Nữ Chân Mãn Châu diệt
nước Liêu, chiếm miền bắc Trung Quốc, lập nên nước Kim, mà
không thắng nổi Hung Nô. Tù trưởng Hợp Bất Lạc trỗi dậy, tổ
chức quân đội mạnh, khởi thuỷ dựng nên quốc gia Mông cổ. Nưốc
Mông Cố gồm 30 sắc dân, có sắc dân Thát Đát đông người và hùng
mạnh hơn cả. Nhiều người quen gọi mọi người Mông cổ là Thát
Đát (Tartare).
Cuối thế kỷ XII sang thế kỷ XIII, các sắc dân Mông cổ tôn tù
trưởng Thát Đát là Thiết Mộc Chân (Témoudjine) làm thủ lĩnh.
Thiết Mộc Chân, anh hùng siêu việt, dựng Mông cổ thành đế quốc
trung ương tập quyền hùng mạnh. Toàn dân nam giới từ lõ đến
70 tuổi đều phải tòng quân, lấy chiến tranh làm nghề nghiệp.
Chiến thuật là thần tổc, xuất kỳ bất ý. Càng đánh càng thắng,
càng thắng càng đánh nữa, chẳng bao lâu chiếm được cả vùng
Trung Á cùng Ba Tư, sang đến đông bắc châu Âu. Năm 1206,
xưng là Thành Cát Tư Hãn (Gengis Khan), tức Đại hoàng đế
Mông Cổ. Sau diệt nước Tây Hạ, đánh lui người Kim xuôAg Biện
Kinh, lại dẹp bộ lạc Nài Mãn, chiếm khu vực rộng lốn từ Altai đến
Oural, diệt nước Hồi Hồi, phá nước Khâm Sát giáp Nga, rồi tiến
vào Nga, đánh bại quân đội Nga, bắt sống các vương công, phá
146
phách, giết chóc khủng khiếp. Đến đòi con là Oa Khoát Đài
(Agotai) diệt hẳn nước Kim, xâm nhập Nga, rồi đánh Hung, Ba
Lan, Tiệp đập tan đội kị binh Tô Tông hên quân Ba Lan và Đức.
Các triều đình Tây Âu đều xôn xao. Đến đòi Mông Kha (Mongke)
cũng tài cao về chính trị và quân sự. Kinh đô đóng ở Thượng Bộ
(Chang Tou), sai em Hôd Tất Liệt (Koubilai) đi đánh Nam Tống,
em Hạt Lỗ (Houkegen) đi đánh Ba Tư và các nước Á Rập.
Trong khi Hốt Tâd Liệt chiếm xong Tứ Xuyên, kéo quân đánh
Tống ỏ Hàng Châu thì tướng của y là Ngột Lương HỢp Đài
(VVouleangotai), năm 1253, đánh chiếm nước Đại Lý (Nam Chiếu cũ).
Ngột Lương Hợp Đài có âm mưu bắt sốhg vua Trần, truyền
lệnh cho tướng tiền phong Triệt Triệt Đô đem quân qua sông thì
không đưỢc đánh ngay, phải lừa cướp lấy các thuyền bè trước đã.
Đến khi trung quân và hậu quân sang thì cùng nhau đánh thực
mạnh. Vua Trần chạy ra sông, không có thuyền, phải chạy bộ, tất
sẽ dễ bị bắt. Tiền quân qua sông, bị đàn voi xung kích. Giặc bắn
tên vào chân voi. Voi đau lồng trở lại, dày xéo cả lên quân mình.
Hàng ngũ mất trật tự. Tiền quân giặc, chắc phần thắng, bèn tiến
đánh mạnh. Quân Trần thua nhưng vua tôi kịp thời xuông thuyền
rút lui. Triệt Triệt Đô, trái quân lệnh, sỢ tội, uông thuốc độc tự tử.
Quân Trần chạy về đóng ở một bến bên sông Phú Lương, nơi
đây không có thành quách để giữ, lại phải rút lui nữa. Quân giặc
thuỷ bộ đánh đuổi theo. Thái Tông và Lê Phụ Trần tế ngựa chạy,
148
giặc đuổi gấp. Tướng Phạm Cự Trích đem quân đến cứu giá. Vua
và Lê Phụ Trần chạy thoát. Phạm Cự Trích bị giặc giết.
Quân kỵ chạy đến Phù Lỗ, vừa qua cầu, Thái Tông sai phá
bỏ cầu đi. Giặc đuổi theo đến nơi, vướng sông, phải dò tìm chỗ
nông cho ngựa vượt qua, mất nhiều thì giò thì trong khi ấy, vua
tôi nhà Trần đã chạy đi đưỢc xa.
Quân thuỷ bộ rút về đến kinh thành Thăng Long thì tại đây
chưa kịp tập trung quân đội các nơi về mà giặc thì đuổi theo sát
đến Đông Bộ Đầu, nay là bến Hàng Than Hà Nội. Thế giặc hung
dữ, Thái Tông ra lệnh cho quân rút bỏ nơi này. Quân đội rút theo
dòng sông Hồng, đóng lại tại khúc Thiên Mạc thuộc huyện Đông
An, nay là phủ Khoái Châu, Hưng Yên.
Ngày 1 5 - 1 2 âl, quân Mông cổ kéo vào trong thành. Chúng
thấy ba sứ giả sai đi trước còn bị trói, giam trong ngục; cởi trói ra
thì một người đã chết. Chúng tức giận, xua quân ra bắt giết hết
mọi người già, trẻ, trai, gái còn ở trong thành, không kể sự cướp
bóc của cải.
Thế nưốc gặp khó khán, Thái Tông đi thuyền nhỏ đến thuyên
Trần Nhật Kiêu hỏi kế. Nhật Kiểu viết hai chữ “nhập TôKg”. Hỏi
tình hình quân đội thì đã cho chiêu tập, chưa thấy về. Thái Tông
lại dời thuyền đến hỏi thái sư Trần Thủ Độ. Thủ Độ thưa; “Đầu tôi
chưa rơi xuông đất thì bệ hạ không phải lo ngại gì”. Thái Tông
nghe nói cứng cỏi vậy, trong lòng mới yên. Thủ Độ giữ chức tham
mưu trương cương quyết, do đã sắp đặt kế hoạch phá giặc, thu góp
các đạo quân từ miền trên xuông, một mặt tập hỢp thuỷ lục quân
các lộ về, mưu khôi phục kinh thành. Chỉ trong mấy ngày, quân
đội các nơi kéo về đông, thế lực nổi to. Quân ta phản công ngay lúc
giặc không ngờ.
Ngột Lương Hợp Đài sai hai sứ giả đến chiêu an. Thái Tông
tức giận giặc tàn sát dân Thăng Long, sai trói hai sứ giả, cho trở
về, đồng thòi tiến quân phá giặc. Ngày 24 - 12 âl, quân Mông cổ
vừa mới chiếm đóng kinh thành được 9 ngày, Thái Tông cùng thái
tử Hoảng, Lê Phụ Trần, Trần Quốc Tuấn dẫn đại quân tiến đến
Đông Bộ Đầu, mở trận phản công quyết liệt. Giặc thua to, vội vã
bỏ kinh thành xuông thuyên chạy mãi ngược dòng sông trở về
nước. Giặc chạy đi quá đột ngột, quân ta không kịp bô" trí đón
đánh, mà quân đánh đuổi đằng sau cũng không bắt được gì.
Khi chúng qua trại Quy Hoá, chủ trại Hà Bống đem quân
binh người Thái ra đánh úp, giặc bị thiệt hại nhiều. Trên đường
149
tháo chạy vội vã, quân Mông cổ không cướp phá dân chúng nên
người ta gọi là giặc Bụt.
Nguyên sử chép: Quan quân (Mông cổ) chiếm đóng kinh
thành nước Nam, ở lại chín ngày, vì khí hậu nóng nực nên rút
quân về. Lại sai sứ giả đi gọi Man vương Trần Nhật cảnh về, trả
nước cho. Quân tuần tiễu không có ý chiếm đóng đất đai, đi đến
đâu lại không cướp phá dân chúng, nên dân Man gọi là giặc Bụt.
Sử gia phương bắc, quá chủ quan, không bao giò chịu thừa
nhận những cái yếu, kém của mình. Xét bấy giò là tháng chạp âm
lịch, đang mùa rét lạnh, đâu có nóng nực gì. Đi đánh nưốc người
mà không chiêm đâ't, bắt người, cướp của thì xuất quân làm gì? Sử
gia Trần Trọng Kim cũng lầm theo Bắc sử chép; quân Mông cồ ở
nước Nam không quen thuỷ thổ, xem ra bộ mỏi mệt.
Giặc l(ịi, nước ta lại phục hồi. Ngày mùng một tết Mậu Ngọ,
Thái Tông ngự triều, định công ban thưởng, phong Lê Phụ Trần
làm ngự sử đại phu, Hà Bổng tước quan nội hầu. Có thể Trần
Quốíc Tuấn được phong là Hưng Đạo vương vào dịp này.
Quôh sử không chép được kỹ về trận phản công oanh liệt này.
Chắc chắn có sự bô" trí rất chu đáo clo mưu cơ của Trần Thủ Độ, Lê
Phụ Trần và Trần Quô"c Tuấn, khiến cho chỉ sau một trận đánh,
mà Ngột Lương Hợp Đài, tưống đại tài, nhiều kinh nghiệm, đã phải
vội vã rút quân sớm, chạy mau về nước.
Ảnh hưởng chiến thắng rất lớn, nhân dân hoàn toàn tin
tưởng vào vua Trần, không còn ai mong p h ụ c L /n ữ a, lại vững tâm
bảo vệ tố quốc, từ đây không e ngại quân địch hùng mạnh.
cánh tay cũng thích chữ Sát Đát, giặc tức giận, đem chém hêt.
Trận này diễn ra 9 - 1 âl tại Bãi Than (có lẽ là Bình Than). Vạn
Kiếp thất thủ, bên ta mất mát nhiều. Vạn Kiếp gần Lục Đầu
Giang có đường thuỷ thông đi các ngả và ra biển, lại là cửa ngõ
vào kinh thành Thăng Long. Mất Vạn Kiếp, Thăng Long khó giữ
nổi được.
Ngày 1 1 - 1 , Thoát Hoan kéo quân sang Kinh Bắc, cướp phá
các vùng Vũ Ninh (Võ Giàng), Đông Ngàn (Từ Sơn), Gia Lâm,
chiếm lấy được một số^ lương thực. Do giặc tiến quá mạnh, dân
chúng vội bỏ chạy, không kịp tiêu huỷ hết lương thực theo huấn
thị của Hưng Đạo vương.
Sau đó, Thoát Hoan tiến quân đóng ở Gia Lâm, ngay hên kia
sông là Đông Bộ Đầu.
THÀNH THĂNG LONG THẤT THỦ - Quân ta lập đồn trại trên hờ
sông phòng ngự. Thoát Hoan sai lấy súng lớn bắn sang, phá tan.
Quân sĩ khiếp sỢ, bỏ chạy cả.
160
Giặc có víu thế về quân dội và vũ khí, không có gì ngăn cản
nổi bước tiến mạnh mẽ của chúng. Hưng Đạo vương rước xa giá
thượng hoàng và vua ra ngoài kinh thành, ra lệnh cho dân chúng
Thăng Long rút chạy khỏi thành sau khi huỷ bỏ hết thảy lương
thực không mang đi theo đvtợc.
Giặc làm cầu phao qua sông, đóng doanh trại sát bên thành.
Đến khi chúng kéo nhau vào thành thì nơi đây không người,
không lương thực. Chúng đánh chiếm các vùng chung quanh, lập
các tiền đồn báo vệ bộ chỉ huy. Chúng tưởng như sắp chiếm được
toàn cõi đất nvíớc ta, làm chủ đvíỢc dân ta.
Thượng hoàng, Nhân Tông, hoàng gia cùng tôn thất ròi bỏ cung
điện chạy giặc, long đong vất vả, nay đây mai đó, cùng sĩ tốt và nhân
dân chịu tân khổ, có khi cả ngàv chỉ ăn một bữa cơm gạo hẩm.
MẶT TRẬN TÂY BĂC - Đạo quân Vân Nam do Nạp Tổíc Nạt
Đinh chỉ huy đột nhập nước ta qua biên thuỳ tây bắc theo dòng
sông Thao (sông Hồng) và sông Thanh Giang (sông Lô). Chiêu Văn
vương Trần Nhật Duật đánh không lại chúng ở Thu Vật, gần lỵ sở
Tuyên Quang ngày nay, rút quân về giữ Bạch Hạc, làm lễ tuyên
thệ, nguyện một lòng phá giặc, đền ơn vua nỢ nước. Giặc hỢp quân
ở gần Việt Trì, đánh xuông vùng dưới. Thế kém, quân ta lại phải
lui nữa nhvtng đặt phục binh đố ra đánh chẹn, gây cho chúng tổn
thất ít nhiều tại Bình Lệ Nguyên, xã Tam Canh giáp giới hai tỉnh
Vĩnh Yên, Phúc Yên và tại Cự Đà, gần núi Thắm và Quảng Nạp,
trên quôc lộ 2 ngày nay. Bấy giờ, Thoát Hoan đã chiếm Thăng
Long. Hai mặt thụ địch, Nhật Duật đành sang sông, kéo quân
theo đường nhỏ về với triều đình.
CHIẾN TRẬN DỌC SÔNG HỔNG - Đại quân và triều đình bỏ kinh
thành, kéo về đóng ở Trường Yên, kinh đô cũ thời Đinh, Lê nay
thuộc Ninh Bình. Thiên Trường đất rộng người nhiều nhưng lại
trông trải khó giữ.
Đại quân Thoát Hoan chiếm đóng Thăng Long, lạĩ được đạo
quân Vân Nam tăng cường, khí thế hung hãn. Nguyên chúa, khi
Thoát Hoan xâm nhập nước ta, cử đại tướng Giảo Kỳ vào Champa,
ra lệnh cho Toa Đô kéo quân trở ra, đánh vào hậu cứ quân Trần.
Thoát Hoan hay tin lại sai Ô Mã Nhi đem binh thuyền vào phụ
giúp Toa Đô đánh ra.
Thăng Long đã được củng cô" vững chãi, Thoát Hoan sai các
tưỏng theo dòng sông Hồng đánh trở xuông, chiếm các đồn bên
sông. Quân ta thê kém, hổ chạy xa, kéo theo dân chúng.
161
Bảo Nghĩa hầu Trần Bình Trọng đóng quân ở bãi Đà Mạc
thuộc khúc sông Thiên Mạc, huyện Đông An, nay là phủ Khoái
Châu, Hưng Yên. Quân Nguyên tiến đánh. Chúng vừa đông, vừa
thiện chiến, vây vòng trong vòng ngoài. Bình Trọng hết sức chông
cự không nổi, quân ta thua to. Bình Trọng chẳng may bị bắt, đem
về nộp Thoát Hoan. Thoát Hoan thấy người khẻo mạnh, sức vóc to
lớn, khuyên dụ về hàng, thiết đãi cho ăn uô"ng, Bình Trọng không
ăn. Dỗ dành hỏi việc nước, Bình Trọng không nói. Sau Thoát Hoan
lại hỏi: Có muôn nhận tước vương đất bắc không? Bình Trọng quát
lên rằng: Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương
đất Bắc. Nay ta đã bị bắt thì chỉ có một chết mà thôi. Thoát Hoan
dỗ dành mãi không được, sai quân đem chém ngày 21 — 1 âl, năm
1285. Thượng hoàng, Nhân Tông, Hưng Đạo vương và các tướng
nghe tin Bình Trọng trọng nghĩa tử tiết, ai nấy đều động lòng
thương tiếc, vật vã khóc lóc.
QUÂN TOA ĐÔ TỪCHAMPA ĐÁNH RA - Toa Đô đóng quân ở ồ , Rí,
được Giảo Kỳ đem lệnh chỉ của Nguyên chúa, lại được Ô Mã Nhi vào
giúp, bèn tiến quân ra bắc đánh quân Trần. Tháng giêng âl năm
1285, Toa Đô, Ô Mã Nhi dẫn quân bộ. Đường cổ Đới (có lẽ cùng là
Đường Ngột Ngải) theo Giảo Kỳ dẫn quân thuỷ, hai đạo cùng tiến,
hỗ trỢ lẫn nhau. Trong bước tiến của giặc vào châu Bô" Chính (Quảng
Bình), Trần Quang Khải không ngăn nổi chúng, phải thua chạy.
Chúng ra đến châu Hoan (Hà Tĩnh), Chiêu Hiền vương tử trận, bọn
Tống binh Trần Nghi Trọng và Triệu Mạnh Tín, 400 người bị bắt
giêt. Chúng ra đến Nghệ An, Trần Nhật Duật và Trịnh Đình Toản
cũng thua luôn, phải chạy vào sâu. Chúng ra đến Thanh Hoa,
Chương Hiến hầu Trần Kiện đem hai vạn quân ra chông giữ, thấy
thế giặc mạnh hẹn xin hàng. Ngày 1 - 2 âl, Kiện cùng mạc tân Lê
Trắc đem gia quyến và bộ hạ ra hàng Toa Đô. Ngày 2 - 2 âl, Giảo Kỳ
đánh phá kinh Vệ Bô", hai tướng Đinh Xa và Nguyễn Tất Dũng tử
trận. Ngày 6 - 2, lũ phản quốc Kiện, Trắc thèo lệnh Giảo Kỳ đánh
phá bến Phú Tân, quân ta hơn ngàn người tử trận.
Sau đó, Giảo Kỳ và Đường cổ Đới dẫn binh thuyền đi đường
biến ra bắc hội quân với Thoát Hoan, đem theo lũ Kiện, Trắc. Toa
Đô, 0 Mã Nhi dẫn bộ binh vượt Nghệ An, Thanh Hoa, tiến ra nẻo
Trường Yên mưu đánh vào đại quân Trần.
Quang Khải đóng quân ở miền Nghệ An, thu thập những tàn
quân trước đây chạy giặc, chiêu mộ thêm binh sĩ mới, huấn luyện
quân đội, rèn đúc vũ khí, đóng thuyền xe, thê" lại nôi.
162
MẶT TRẬN TRUNG CHÂU BĂC VIỆT - Thua trận Đà Mạc, quân ta
lui giữ Hải Thị. Quân Nguyên thuỷ bộ đến đánh, lại bị thua luôn.
Ngày 3 - 2 âl, giặc tiến đánh đồn Đại Hoàng thuộc huyện Nam
Sang nay lả phủ Lý Nhân, Văn Nghĩa hầu Trần Tú Viên và Văn
Chiêu hầu Trần Ván Lộng đem gia thuộc ra hàng giặc. Quân Trần
chỉ còn giữ được Trường Yên và Thiên Trường.
Nghe tin Toa Đô, 0 Mã Nhi kéo quân ra, các tướng Nguyên
bỏ sông Hồng, kéo lên mạn bắc Trường Yên.
Hai mặt thụ địch, triều đình phải bỏ Trường Yên. Hưng Đạo
vương rước xa giá thượng hoàng và vua chạy sang Thiên Trưòng.
Đến Trường Yên, Toa Đô, 0 Mã Nhi thấy chỉ còn thành
không, bèn hỢp quân với quân Thoát Hoan đánh đuổi vua Trần.
Hưng Đạo vương hộ giá vượt qua các lộ Long Hưng (Thái Bình),
Hồng Châu (Hưng Yên), chạy ngược lên đóng quân ở Hải Đông
(Hải Dương). Bấy giò là trung tuần tháng 2 âl.
Giảo Kỳ dẫn thuỷ quân ra Thăng Long với Thoát Hoa, tiến
dẫn Trần Kiện, Lê Trác. Thoát Hoan khen ngợi, sai minh lý Bích
Ban làm bạn đường, đưa về Yên Kinh. Hưng Đạo vương nghe tin
sai quân theo đường tắt đuổi đánh hắt. Khi chúng đi đến địa phận
Lạng Sơn, qua trại Ma Lục, thổ hào Nguyễn Thế Lộc và Nguyễn
Lĩnh đem dân binh ra đánh, vừa gặp quan quân đuổi đánh đến nơi,
đám quân Nguyên hộ tôhg bỏ chạy. Kiện bị gia tướng của Hưng
Đạo vương là Nguyễn Địa Lô bắn chết. Thuôc hạ Lê Trắc cướp được
xác, cõng trên mình ngựa, đương đêm chạy chôn, đưỢc vài mươi
dặm, đến Khâu ôn, mai táng Kiện ở đấy, rồi chạy trốn sang Trung
Quốc. Lê Trắc sau này có viết tập sách An N am chí lược.
Bấy giò, tình thế nguy cấp. Quân Nguyên chiếm đóng gần
hết vùng châu thố miền bắc. Nhân Tông kinh hãi. Thượng hoàng
lo sỢ. Nhà nước ngất ngưởng như trứng chồng. Hưng Đạo vương
vẫn vững tâm kháng chiến. Để tháo gỡ phần nào nạn nước, Hưng
Đạo vương bày kế với vua viết thư sai Trung Hiếu hầu Trần
Dương đi thương thuyết với Thoát Hoan xin hoà. Lại sai quan hầu
cận Đào Kiên đem An Tư công chứa con gái út Trần Thái Tông
dâng Thoát Hoan, mưu sự hoãn binh. Thoát Hoan bảo muôK hoà
thì nhà vua phải thân đến thương nghị.
HUNG ĐẠO VUƠNG HỘ GIÁ VÀO THANH HOA - Sang tháng 3 âl,
hai tướng Lý Hằng và Khoan Triệt đem quân đến đánh. Toa Đô, Ò
Mã Nhi cũng dẫn quân theo. Hưng Đạo vương liệu thế giặc lớn,
rước xa giá chạy vào Quảng Yên, định xuông thuyền chạy vào
163
Thanh Hoa. Ngày 9 - 3 âl, trận thuỷ chiến ác liệt diễn ra ở ngoài
khơi Quảng Yên giữa quân ta và quân Lý Hằng, Khoan Triệt. Hai
bên cầm cự nhau kịch liệt, không phân được thua. Bỗng bên giặc
được tăng cường do Giảo Kỳ và Đường cổ Đới đem chu sư ra biên,
bổ vây quân ta. Bên ta thế kém. Thượng hoàng và vua suýt bị bắt,
ngầm sang chiếc thuyền nhỏ, tướng Nguyễn Cường hộ vệ, chạy về
phía sông Tam Trĩ (Ba Chẽ). Hưng Đạo vương sai một tướng dẫn
thuyền rồng chạy ra cửa Ngọc Sơn làm nghi tình quân giặc.
Chúng vô tình đua nhau cứ đuổi theo riết. Trong khi ấy thì Hưng
Đạo vương rước xa giá lên bộ, đi đến làng Thuỷ Chú, rồi lại xuông
thuyền ra sông Nam Triệu (Bạch Đằng) vượt qua cửa biển Đại
Bàng (thuộc huyện Nghi Dương, Kiến An), rồi đi vào Thanh Hoa.
Các chiến thuyền của ta, chạy thoát được ra khơi, lục tục cũng kéo
nhau vào cả đấy. Trong trận này, bên ta thiệt hại lớn. Giặc lấy
đưỢc nhiều vàng, lụa và bắt một số nam nữ.
Giặc chia quân đóng khắp nơi miền bắc, kiểm soát mọi đường
giao thông thuỷ bộ. Giảo Kỳ, Đường cổ Đới ở lại dưới trưống
Thoát Hoan. Toa Đô, Ô Mã Nhi, khó nhọc ra bắc, không đánh bắt
được cha con vua Trần, lại được lệnh đem binh thuyền vào miền
trong đánh vào đại quân ta.
TRẦN ÍCH TẮC hàng giặc - Đất nước lâm nguy. Triều đình
chạy vào Thanh Hoa. Nhiều toán quân trước chạy giặc tản mác
khắp nơi ngoài bắc, cũng lần lượt kéo nhau chạy vào với triều
đình. Trong khi ấy thì hoàng thúc Chiêu Quốc vương Trần ích
Tắc, ngày 15 - 3 âl, cùng với thuộc hạ Phạm Cự Địa, Lê Diễn,
Trịnh Long, Lại Tứ Quý đem gia quyến ra hàng quân Nguyên.
MuôK cơ mi ích Tắc, Thoát Hoan lập y làm An Nam quôc vương.
Khi giặc vào Lạng Sơn, có bọn người dòng dõi tôn thất nhà Lý ra
hàng, mưu sự phục Lý. Thoát Hoan biết lòng dân ta không còn
tương nhớ nhà Lý nữa nên chỉ dùng bọn này chỉ điểm đường lôi.
Đến khi ích Tắc hàng thì lập ngay chính quyền tay sai, lại lừa dôl
dân ta rằng chúng không có ý tưởng chiếm cứ đất nước ta chia làm
quận huyện như thòi Hán, Đường. Lũ ích Tắc dụ dỗ dân ta cung
đôn lương thực cho giặc nhưng chẳng đưỢc mấy ai theo.
TÌNH HÌNH QUÂN NGUYÊN TẠI BĂC VIỆT - Miền Bắc bị quân nhà
Nguyên chiếm trọn. Giặc lấy đưỢc đất, nhưng không thu được
nhân tâm, đi đến đâu cũng chỉ thấy ‘Vườn không nhà trôAg”.
Chúng dựng các đồn binh dọc các đường giao thông thuỷ hộ. Đóng
dầy, kiểm soát được chặt chẽ nhưng mỗi đồn ít quân, rất dễ bị dân
164
quân ta kéo về đánh phá. Đóng thưa, mỗi đồn nhiều lính thì khó
kiêm soát được những nơi xa ở giữa hai đồn. Dù sao cũng thỉnh
thoáng hị dân quân ta từ xa tập trung kéo về đánh phá, rồi vội vã
rút đi.
Giặc lại gặp khó khăn về vấn đê lương thực, do không được
dân ta cung cấp. Xua quân đi đến các nơi xa xôi ăn cướp thóc lúa
trâu lợn thì khó nhọc nhiều mà không nhặt nhạnh được mấy.
TRIỀU ĐÌNH TA lẠ P CẢN cứ TẠI THANH HOA - Vua tôi và quân
đội vào Thanh Hoa, tiếp thu ngay được nhiều đoàn quân do Quang
Khải và Nhật Duật đã chỉnh đôn lại. Binh thuyền ngoài khơi miền
bắc chạy cả về. Binh sĩ các nơi cũng cùng nhau về .đến với triều
đình, mỗi ngày một đông. Nhân Tông thấy lồng dân vẫn trung
thành, trong lòng mới yên, quyết tâm đế kháng.
Hưng Đạo vương và các tướng tuyển mộ và huấn luyện thêm
binh sĩ, tô chức lại đội ngũ trở nên hùng mạnh. Thế lại nổi to.
Các đoàn quân của Toa Đô, 0 Mã Nhi, khó nhọc nhiều,
không làm nên công trạng gì, không còn uy thế mạnh liệt. Binh
thuyên trơ vào miền trong, mấy lần đem quân đổ bộ vào Thanh
Hoa, Nghệ An, đều thất hại nặng nề, phải sớm rút xuống thuyền.
Quang Khái giữ vững các nơi này. Đây là lần đầu tiên quân ta
không bị đán h thua.
Bấy giờ, giặc đã chiếm được Thiên Trường và Trường Yên,
thê quân đáng phải đánh vào mặt bắc Thanh Hoa trong khi thuỷ
quân Toa Đô từ biển đánh lên. Thế mà không thấy bộ sử nào chép
bộ hĩnh giặc đánh vào mặt bắc Thanh Hoa. Hoặc giả có, nhưng
chiến trận không lớn lắm mà quân ta, trên bước đường cùng cô" sức
tiêu diệt chúng. Hoặc giả chúng thiếu thôn lương thực nên không
dám tiến công chàng?
Toa Đô, 0 Mã Nhi tiếp tục cô" gắng đánh nữa, vẫn vô công,
không sao lên chiếm được đất liền, lương thực ngày một cạn, tình
thê" khôn quẫn, chúng phải dẫn binh thuyền trở ra bắc để hội
quân với Thoát Hoan. Bấy giò là tháng 4 âl năm 1285.
Vua tôi ta bàn nhau: Thê giặc đáng phải dùng quân thuỷ bộ
hai mặt đánh vào đại quân ta, thê" mà nay chúng lại bỏ cuộc, tức
lực lượng đã suy yếu lắm rồi. Đây là lúc quân ta tổng phản công,
tất sẽ thắng lợi.
TRẬN HÀM TỬ QUAN - TRẦN NHẬT DUẬT ĐẠI PHÁ QUÂN TOA ĐÔ -
Đạo quân thứ nhất gồm 5 vạn người, do Chiêu Văn vương Trần
Nhật Duật, cùng Chiêu Thành vương (?) và các tướng Nguyễn
165
Khoái, Trần Quốc Toản chi’ huy, vượt biển ra bắc, đuổi đánh Toa
Đô, tấn công vào các cứ điểm bên sông Hồng, hạ đồn A Lỗ (?), vạn
hộ Lưu Thế Anh bỏ chạy. Trung Thành vương đánh giết thiên hộ
Mã Vinh ở đồn Giang Khẩu (?) Nguyễn Khoái và Trần Quốc Toản
dồn giặc trên bãi Mạn Trù cũng thắng lợi. Nhật Duật tiến quân,
gặp chiến thuyền Toa Đô ở bến Hàm Tử thuộc huyện Đông An,
nay là phủ Khoái Châu, Hưng Yên, phân binh ra đánh. Hai bên
giao phong kịch liệt. Trong đạo quân của Nhật Duật có bọn Triệu
Trung (người tôn thất nhà Tông chạy sang ta, Nhật Duật thu
dụng với toán quân TôYg) mặc áo đeo cung như quân Tống xưa.
Giáp trận, lính Mông cổ đi đánh xa từ lâu, thấy đám quân Tông,
sỢ hãi. tưởng nhà Tông đã khôi phục lại Trung Quổíc, đem quân
sang cứu An Nam. Binh sĩ người Hán trong hàng ngũ Nguvên thì
động lòng cố quốc. Không ai ham gì đánh. Bọn Triệu Trung lại hô
hào chúng giở giáo đánh lại quân Mông cổ. Có một s ố người Hán
chạy sang với ta. Quân Nguyên bỗng thua to. Toa Đô lui quân về
đóng ở Thiên Trường. Trần Hàm Tử quan này là trận quân ta
chiến thắng lần đầu.
TRẬN CHƯƠNG DƯƠNG ĐỘ - TRẦN QUANG KHẢI k h ô i p h ụ c
THĂNG LONG - Đạo quân thứ hai do thượng tướng Trần Quang
Khải chỉ huy, Phạm Ngũ Lão giữ chức phó, tiến quân ra bắc theo
đường bộ. Trên đường đi gặp được nhiều toán quân ở lại trước đến
tăng cường, lại được bọn thổ hào Trần Thông, Nguyễn Khả Lạp,
Nguyễn Truyền đem quân các lộ đến phụ thuộc. Các đồn binh giặc
bên đường đều quy hàng hay bị đánh tan.
Bấy giò, đại quân Thoát Hoan đóng ở Thăng Long, các chiến
thuyền thì đóng ở bến Chương Dương thuộc huvện Thượng Phúc,
nay là phủ Thường Tín, Hà Đông. Quân ta sấn vào đánh chiến
thuyền giặc hăng quá. Giặc không ngờ bị đánh, chống lại không
nổi, phải bỏ chạy. Thuyền giặc, phần bị đốt phá, phần bị đánh
đắm, sô còn lại quân ta chiêm được. Quan quân lên bộ đánh đuổi
giặc về đên chân thành Thăng Long hạ trại. Quân trong thành
kéo ra, bị phục binh ta đánh úp lại, thua to. Thoát Hoan đành bỏ
kinh thành, vượt sông Hồng, sang mặt Kinh Bắc. Giảo Kỳ chỉ huy
quân đội chúng rút lui, phục trong cung điện, bắn tên nỏ ra,
chúng mới chạy thoát được mà qua sông. Bây giờ là ngày 5 - 5 âl.
Giặc đến bấy giờ chưa bị sứt mẻ nhiều, sở dĩ phái sớm bỏ Thăng
Long, do không tích trữ được nhiều lương thực đủ dùng lâu dài
cho số quân đông đúc.
166
Khôi phục được kinh thành Tháng Long, Quang Khải kéo
quân vào thành, mở tiệc khao quân.
Thoát Hoan dẫn quân từ Gia Lâm chạy ngược theo đường cái
lớn, nay là quốc lộ số 1, Trần Quốc Toản cô' tình đánh đuổi theo.
Khi chúng lúng túng qua sông Như Nguyệt (sông cầu), nhiều tên
bị quân ta giết.
TRẬN PHÙ NINH - Đạo quân Vân Nam đóng nhiều đông dọc
sông Thao, sông Chảy và sông Lô. Đồn Phù Ninh bên sông Chảy,
nay thuộc Phú Thọ có toán đi tuần tiễu. Phụ đạo Hà Đặc hăng hái
phá giặc, bị tử trận. Em Đặc là Chương bị bắt. Nhân khi chúng sơ
hở, lấy được cờ xí và y phục giặc trở về với quân ta. Bèn dùng quân
trang ấy giả làm giặc, vào trại chúng. Giặc không ngò, Chương
thừa thê đánh mạnh, quân giặc tan vỡ. Trận này diễn ra ngày 5 -
5 âl. Ngày ấy, Thoát Hoan phải bỏ Thăng Long chạy đi rồi, các
toán quân đóng đồn ở xa chưa biết nên vẫn còn hông hách.
Cùng ngày này, quân ta thiệt mất tướng Nghĩa Dũng hầu
Trần Thiệu, người họ tôn thất, trên Nam Sách giang, trong một
trận thuỷ chiên.
TRẬN TRƯỜNG YÊN - Hai đạo quân Nhật Duật và Quang Khải
lên đường rồi, Hưng Đạo vương đem đại quân rước thượng hoàng
và Nhân Tông ra Trường Yên. Ngày 3 - 5 âl, đánh tan đồn giặc,
rất nhiều quân Móng c ổ bị chém giết. Triều đình lại tạm đóng ở
kinh đô cũ Đinh, Lê.
Nghe tin Quang Khải đã khôi phục Thăng Long, Hưng Đạo
vương xin tự dẫn quân đi đánh Toa Đô ở Thiên Trường, rồi sẽ
tiến đánh Thoát Hoan sau. Nhân Tông cho tuỳ ý sai khiến. Một
toán quân tiến đóng ở hến Đại Mang trên sông Hồng (có lẽ là
Đại Hoàng), tổng quản nhà Nguyên Trương Hiến, người Hán
xin hàng.
TRẬN TÂY KẾT- TƯỚNG NHÀ TRẦN CHÉM ĐẦU TOA Đ ỏ - Toa Đô
đóng quân ở Thiên Trường, bị cô lập, không rõ tin Thoát Hoan đã
bó Thăng Long, dẫn quân ngược dòng sông Hồng, tính tìm về hỢp
quân với Thoát Hoan, tạm dừng ỏ bến Tây Kết, bên sông Hồng, có
lẽ thuộc phủ Khoái Châu ngày nay, chừng như đã bị lở xuống sông
hết. Vương chia quân đánh vào các trại giặc và đặt phục binh để
bắt Toa Đô. Quân ta đánh hăng quá, quân Nguyên địch lại không
nổi. Toa Đô, 0 Mã Nhi đem quân lên bộ, chạy ra mặt biển. Quân
ta đánh đuổi theo riết. Toa Đô bị trúng tên chết. (Có thuyết bị
chém, lại có thuyết bị bắt sông không chịu nhục, đã tự tử). 0 Mã
167
Nhi chạy thoát được ra cửa sông Chính Đại, cùng vạn hộ Lưu
Khuê, dùng thuyền nhỏ trôn thoát được về bắc quốc.
Các tướng đem đầu Toa Đô về nộp. Nhân Tông thấy người
dũng kiên, hết lòng vì chúa, than rằng: Làm bề tôi nên như người
này. Rồi lấy áo ngự bào đắp lên đầu, sai người mai táng tử tế.
Trận Tây Kết diễn ra ngày 20 - 5 âl. Quân ta bắt được 3 vạn
giặc cùng chiến thuyền, khí giới rất nhiều. Hưng Đạo vương toàn
168
thắng, khao thương ba quân, rồi tiến lên đánh ra mặt bắc, tiễu trừ
quân Thoát Hoan.
TRẬN SÔNG SÁCH - THOÁT HOAN B ỏ CHẠY VỂ N ư ớ c - (Quốc sử
chép là trận Vạn Kiếp. Xét nơi đây là thượng lựu sông Thương
chảy về Vạn Kiếp). Thoát Hoan bỏ Thăng Long, chạy về Vạn Kiếp
đóng quân, có ý đợi được chính quốc tiếp viện lương thực sẽ trở lại
đánh nữa, do từ trước đã cáo cấp về triều. Hưng Đạo vương tiến
quân lên đóng ở bên kia sông đồn giặc thuộc Bắc Giang. Một sô"
quân khác đóng ở Chí Linh, kèm bên nách giặc, ngăn giặc xua
binh đi cướp lúa gạo trâu lợn của dân chúng. Vương không dùng
đại quân đánh lớn, do quân sô" giặc hãy còn đông đúc, chỉ thỉnh
thoảng đột kích quấy phá chúng. Chiến sự kéo dài rất không có lợi
cho giặc. Lương thực ngày một hao mòn. Đã thê", chúng lại khó
chịu về thời tiêt oi hức xứ ta. Tin Toa Đô thất trận khiến binh sĩ
chúng xôn xao, chỉ mong sớm được trở về nước. Thoát Hoan tính
rút quân về châu Tư Minh, đợi có được đầy đủ lương thực mới
quay lại tấn công nữa.
Vương biết thê" giặc tất phải chạy, sai Nguyễn Khoái và Phạm
Ngũ Lão đem 3 vạn quân lên đường núi phục sẵn trong rừng lau sậy
hai bên sông, chờ chúng chạy đến thì đổ ra đánh. Lại sai hai con trai
là Hưng Võ vương Nghiễn và Hưng Hiếu vương ưý dẫn 3 vạn quân
đi đường Hải Dương ra mặt Quảng Yên, chặn đường về châu Tư
Minh. Vương tự dẫn đại quân đánh vào Vạn Kiếp. Giặc chỉ chông đỡ
cầm chừng, sửa soạn rút lui. Chúng chia hai đạo thuỷ bộ cùng lên
đường, hẹn gặp nhau ở bến sông Sách, nơi tụ điểm. Binh thuyền giặc
thường bị quân ta hai bên sông bắn tên xuông, bị thiệt hại mà không
đánh lại được. Đến bến đò sông Sách, nhiều toán bộ binh chưa kịp
sang sông. Phục binh Nguyễn Khoái và Phạm Ngũ Lão đố ra đánh
cực mạnh, giặc chết nhiều, cầu phao đứt, nhiều tên bị chết đuối. Có
đến phẩn nửa bị tổn hại trong trận này.
Thoát khỏi nơi đây, chúng tiếp tục chạy theo đường cái lớn (nay
là quô"c lộ 1). Quân ta đánh đuổi theo. Tướng Lý Hằng bị trúng tên
chết. Các tướng sĩ liều chết chông cự bảo vệ Thoát Hoan, vừa đánh
vừa chạy. Quân ta đuổi kíp quá, bắn ra nhiều tên đạn. Thoát Hoan
phải chui vào trong ông đồng để lên xe, bắt quân kéo chạy.
Bọn Phàn Tiếp, A Bát Xích, Lý Quán cô" đánh lại, lấy'đường
mà chạy.
Về gần đến biên giới, giặc lại gặp quân Quốc Nghiễn và Quô"c
Uý đổ ra đánh bồi thêm trận lớn nữa. Lý Quán trúng tên cũng
169
chết. Thoát Hoan, A Bát Xích và Phàn Tiếp khôn khổ lắm mới
chạy thoát được về châu Tư Minh.
Thế là quân Thoát Hoan lúc mới sang lừng lẫy bao nhiêu,
hấy giờ tan tác, lại lắm tên bị thương, nhiều tên ô"m đau. Trong
sáu tháng, quân ta đánh đuổi hơn 30 vạn hùng binh Mông cổ ra
khỏi bò cõi, chỉnh đôn giang sơn lại như cũ.
Có thuyết: Thoát Hoan khi rút quân khỏi cõi Thăng Long thì
chạy thảng về nước, không đóng quân lại ỏ Vạn Kiếp gần một
tháng. Quốc sử cũng như Bắc sử không chép rành mạch việc này.
Như vậy, Thoát Hoan đã bỏ rơi bọn Toa Đô và các tướng tá giữ
đồn tại nhiều nơi. Bấy giờ đại quân ta còn đóng ở Trường Yên xa
xôi. Rút sớm thì chỉ bị ít quân đánh đuối sau và ít quân đón đường
bổ ra đánh, đỡ bị tổn hại. Như thế, Hưng Đạo vương chưa kịp cử
tướng đặt phục binh. Nhưng trận sông Sách vẫn có thể diễn ra, do
Quang Khải sai tướng đi đánh đồn Vạn Kiếp. Đến nơi, giặc bỏ
chạy, quân ta đuổi theo sau đến bến đò này thì có trận kịch chiến.
Còn sự phục binh đón đánh giặc ở gần biên giói thì giặc rút lui vẫn
phải chống đỡ quân ta đuổi theo, nên tiến bưốc rất chậm, Quốc
Nghiễn và Quốíc ưý có đủ thời gian đi đường vòng đến gần biên
giới được.
VIỆC THẢ TÙ BINH - Quân ta tuy thắng, Nhân Tông muốh hoà
bình để dân chúng yên nghiệp làm ăn, sai sứ sang Nguyên trần tạ
xin hoà, tiến cống như trước. Nguyên chúa không cho. Tuy vậy,
qua nám 1286, vẫn thả cho 5 vạn tù binh người Hán về nước.
Những người này đã được tuyên truyền phản chiến và chống đốì
lại quân Mông cổ.
SỬA SANG VIỆC NƯỚC ĐÊ PHÒNG QUÂN NGUYÊN SANG ĐÁNH
BÁO THÙ - Nhân Tông sai Đặng Du Chi đem bọn Bá Lậu Kê Na
Liên 30 người tế thần Chăm theo hàng Toa Đô bị quân ta bắt
trong các trận Hàm Tử và Tây Kết, trả về vua Champa.
Triều đình lo hàn gắn nỗi đau thương giặc đã gieo rắc, một
mặt ra lệnh cho các vương hầu tôn thất cùng hào trưởng địa
phương tăng cường và chỉnh đôn đội ngũ, tích luỹ lương thực, đề
phòng quân Nguyên lại sang đánh nữa.
Bấy giò, Thoát Hoan đang vây thành Thăng Long, không biết
tin dữ, sai Ô Mã Nhi ra biển đón thuyền lương. 0 Mã Nhi do cửa
Đại Bàng ra Tháp Sơn (Đồ Sơn?), gặp binh thuyền ta, hung hăng
đánh, quân ta thua chạy tan tác ngoài khơi. Ra đến An Bang, hay
tin lương thực đã bị mất trắng, 0 Mã Nhi điên cuồng đánh vào
trai Vân Đồn, mong gỡ gạc đưỢc chút gì chăng. Khánh Dư giữ
vững thế trận, Quôc Toản hăng hái đẩy lui giặc, không may bị
trọng thương, qua đời ngày 2 - 2 âl. Mấy lần cố đánh nữa, vẫn vô
177
công, Ô Mã Nhi đem quân đi cướp các làng xóm ven biến. Dân
chài lưới ít có thóc lúa trâu lợn, nên chúng chẳng nhặt nhạnh được
mấy. Ngày 19 - 2, 0 Mã Nhi phá trại An Hưng, cướp của, đôt nhà,
rồi trở về Vạn Kiếp.
Khánh Dư thắng trận lớn, đưa thư về báo tiệp. Thượng
hoàng mừng rỡ, ban khen. Lại bàn với Hưng Đạo vương: Giặc
trông cậy ở lương thực, khí giới. Chưa biết đã mất hết, chúng còn
đac chí. Nay ta thả ít quân bị bắt cho về báo tin, ắt chúng sẽ nản
lòng. Bọn tù binh đưỢc thả về Vạn Kiếp báo tin. Thế là quân sĩ
giặc xôn xao. Bấy giò lại là cuôl xuân sang hè, thời tiết nóng nực
nên chỉ mong được sớm trở về nước. Lương thực mất hết. Chương
trình đóng quân lâu dài đánh mãi không thi hành được. Cáo cấp
về nước xin tiếp viện thì người mang tin về nước dễ gì đã về thoát
được, mọi ngả đường sang Bắc quốc bị cấm qua lại. Mà có được
đưa sang cũng chẳng chắc gì đến nơi được, hay lại bị cướp trên
đường đi. Thoát Hoan không làm gì được khác, ngoài việc rút
quân về nước, chỉ mong sao được an toàn tôl đa. Chúng sắp xếp
chương trình rút quân: 0 Mã Nhi, Phàn Tiếp dẫn thuỷ quân theo
đường sông Bạch Đằng về trước. Kế đó, quân sĩ theo đường bộ về
sau. Trình Bằng Phi, Trương Quân dẫn quân khoẻ mạnh đi đoạn
hậu. Quân sĩ sửa soạn kéo nhau về.
TRẬN BẠCH ĐẰNG GIANG - ồ MÃ NHI BỊ BĂT - Sau trận Vân Đồn,
Hưng Đạo vương biết thế quân Nguyên tất phải chạy. Dự đoán
cũng như tin tình báo cho biết chương trình rút quân của giặc,
vương sai Nguyễn Khoái dẫn quân qua đường tắt đến mé thượng
lưu sông Bạch Đằng, kiếm gỗ tốt, đẽo cọc bịt sắt nhọn, đóng khắp
giữa lòng sông rồi phục kích chò sẵn. Khi nước triều lên thì đem
quân ra khiêu chiến, chờ khi nước triều xuống thì giả thua chạy,
nhử thuyền giặc đuổi theo qua chỗ bên dưới có cọc, thuyền giặc
vướng cọc, sẽ trở lại hết sức mà đánh.
Về mặt bộ, sai Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Chế Nghĩa đem quân
lên phục ở ải Nội Bàng, chờ quân Nguyên qua đổ ra đánh mạnh,
các tướng sĩ khác cũng được lệnh đem binh sĩ lên vùng Bắc Giang,
Lạng Sơn đóng quân mai phục tại nơi hiểm yếu hai bên mọi đường
sang Trung Quốc, phá giặc khi chúng qua.
Bạch Đằng là sông lớn thuộc huyện Thuỷ Nguyên, Kiến An,
do các sông Đà Bạc và sông Gia cùng nhiều nhánh sông khác đổ
vào, lòng rộng mênh mông, bên phải là dãy núi Tràng Kênh, bên
trái có rừng lau sậy um tùm.
178
Ngày 28 - 2 âl, đoàn thuyền của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp lên
đường. Tiền quân dò đường tiến theo dòng sông Giá, ngày 7 - 3
đến Chúc Động bị quân ta chặn đánh phải lui. Giặc chỉ có thế đi
theo sông Đà Bạc qua Bạch Đằng, nơi dưới có gài bẫy.
Hưng Đạo vương nghe tin 0 Mã Nhi đã kéo quân ra Bạch
Đằng,* dẫn đại quân đi theo sông Hoá (ngọn sông thuộc Thái
Bình), hô quân sĩ cầm gươm trỏ dòng sông, thề rằng: Trận này
không phá xong giặc thì không trở về sông này nữa. Quân sĩ cảm
khích, quyết chiến, kéo một mạch ra đến cửa sông Bach Đằng.
Các thuyền của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đi trên sông Bạch
Đằng, bỗng thấy Nguyễn Khoái đem binh thuyền đến khiêu chiến.
Ô Mã Nhi xông vào đánh. Bấy giờ nước triều cao, mặt sông mênh
mông. Đôi bên giao chiến hồi lâu, đến lúc thuỷ triều xuông,
Nguyễn Khoái giả thua chạy. Thuyền của tá nhẹ nhàng lướt trên
dòng sông bên dưới có cọc bình yên. 0 Mã Nhi vô tình thúc quân
đánh đuổi theo. Thuyền giặc nặng nề đi đến quãng sông dưới có
gài bẫy, vướng cọc, đổ nghiêng, đổ ngả. Hàng ngũ giặc mất trật tự.
Nguyễn Khoái quay thuyền trở lại, đánh cực mạnh, giặc chêt vô
sô". Chiến trận đang háng thì Hưng Đạo vương vừa đến, đóng quân
chắn ngang cửa sông, tầng tầng lớp lớp. 0 Mã Nhi, Phàn Tiêp cô
179
gắng sắp xếp lại hàng ngũ. Có những đội quân ta ở các lạch sông
thả những bè lửa xuông đốt thuyền giặc. Quân phục hai bên sông
bắn tên đạn xuông. Giặc như bị nhô"t trong túi, tiến ra biển bị
chặn, lùi trở lại vướng cọc, bỏ chạy lên bò bị bắt giết. Quân đội ta
thâm thù 0 Mã Nhi tàn ác, nay được dịp trả oán, hăng hái đánh
trận quá sức mình. Các đội xung kích giặc liều chết xông vào đánh
quân ta, tìm đường ra biển, bị quân ta tiêu diệt. Có toán qua được
lớp này thì cũng lớp sau hay lớp sau nữa đánh chết. Chiến trận ác
liệt diễn ra suôt từ sáng đến chiều tôi, máu giặc loang đỏ cả một
khúc sông. Chung cuộc, toàn thể thuỷ quân 3 vạn người tan vỡ
hết; số lớn chết tại trận, sô" còn lại bị bắt sông hay xin hàng cả.
Các tướng Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ... đều bị bắt. Quân ta
thu được 400 chiến thuyền. Trận đại thắng này diễn ra ngày 8 - 3
năm Mậu Tý (9 - 4? năm 1288).
TRẬN NỘI BÀNG - Thoát Hoan ỏ Vạn Kiếp nghe tin thuỷ quân
tan vỡ, bèn cùng bọn Trình Bằng Phi, A Bát Xích, Áo Lỗ Xích,
Trương Quân, Trương Ngọc phân công dẫn quân đi đường bộ trở
về nước. Trên đường tháo chạy, chúng không những phải chông lại
quân ta đánh đuôi theo sau, lại thường bị trúng tên cung nỏ từ hai
bên đường, khi lại bị đội quân lưu động đột kích bên hông. Vừa
đến ải Nội Bàng thì phục binh của Phạm Ngũ Lão và Nguyễn Chế
Nghĩa đố ra đánh. Chiến trận này cũng rất kịch liệt. Thấy thuỷ
quân luôn hai lần lập được công trạng lớn lao nên bộ quân cũng
trô hết tài năng, hăng hái giết giặc cho bằng anh em. Quân giặc
thấy đồng bọn chết nhiều, quá thất vọng khiến chúng sinh ra liều
lĩnh, cô" đi vào chỗ chết để tìm đường sông. Bên ta có hai tướng
Phạm Trù và Nguyễn Ky hy sinh. Tướng sĩ giặc hết sức giữ gìn
Thoát Hoan, vừa đánh vừa chạy. Trương Quân cô" đánh lấy đường
chạy, bị Phạm Ngũ Lão chém chết. Trong trận này, quân Nguyên
chết rất nhiều, còn hơn cả trận sông Sách năm trước nữa.
Ra khỏi cửa ải, Thoát Hoan lại nghe tin trên các đường sang
Trung Quốc, chỗ nào có quân Trần đóng giữ, chặn đvtòng về. Quân
sĩ xôn xao sỢ hãi, mà mé sau lại nghe tiếng có quân đuối theo.
Thoát Hoan vội vã sai A Bát Xích, Trương Ngọc dẫn quân đi trước
mơ đường, Áo Lỗ Xích đi đoạn hậu. Chúng khôn ngoan đi thẳng
đến Lộc Châu, cũng không đi theo đường lớn qua Lạng Sơn, lại
theo đường nhỏ đi ngoặt sang phía đông theo lốỉ đi Vạn Ninh, để
tránh phục binh ta. Chúng không bị quân ta đổ ra đánh lớn nhưng
Hưng Đạo vương cao khiến đã đặt trên núi hai bên đường này
180
những đội quân thiện xạ bắn tên cung nỏ xuống giặc. A Bát Xích,
Trương Ngọc trúng tên thuốc độc. Quân sĩ giặc cũng chết ngổn
ngang đầy đường. Trình Bằng Phi hộ vệ Thoát Hoan chạy ra Đan
Kỷ, châu lỵ Định Lập, rồi ngoặt trở lại đi theo đường tắt về châu
Tư Minh, nhờ sự chỉ dần của châu mục Hoàng Liên mới thoát
thân về nước được. A Bát Xích đi sau, nhặt nhạnh tàn quân đưa
về bắc. Toán quân Nguyên cuôi cùng rút khỏi nước ta ngày 18 - 3
âl (tức 1 7 - 4 ? năm 1288).
Quốc sử và Bắc sử đều không chép về đạo quân Vân Nam lần
này cũng như lần trước, rút về nước ra sao. Theo thần tích, Trần
Nhật Duật thù những trận chúng đánh thua khi mới sang, cả hai
lần, đều đem binh thuyền đánh đuổi, bắn nhiều tên cung nỏ sang
thuyền chúng, gây thiệt hại. Lần sau, bắn trúng chủ suý A Lỗ.
Bắc sử chép A Lỗ mắc bệnh chết.
Thoát Hoan vê nưỏc. Nguyên chúa giận hai lần đi chinh nam
hao binh tổn tướng, mua lấy cái nhục bại trận, không muôn nhìn
mặt cử đi trấn thủ Dương Châu, phải ra đi nhận việc ngay, không
đưỢc về triều kiến.
Hưng Đạo vương chuyên này thực sự đã trừ hết quân Mông
Cô xâm lăng, hội các tướng, dẫn quân rước xa giá thượng hoàng và
Nhân Tông về kinh sư. Đi đến Long Hưng, Nhân Tông đem các
tướng Nguyên bị bắt vào làm lễ hiến phù trước Chiêu lăng (lăng
vua Trần Thái Tông), về đến Thăng Long, vua sai mở tiệc khao
thưởng tướng sĩ, cho dân chúng mở hội ăn mừng vui vẻ ba ngày,
gọi là thái bình diên yến.
Cung khuyết bị giặc đô"t phá. Thượng hoàng và vua ngự
trong giải vũ, hạ chiếu đại xá tù phạm, trừng trị những người
hàng giặc, an ủi gia đình binh sĩ trận vong.
SỨ ĐẠI VIỆT SANG NGUYÊN XIN HOÀ - Quân Nguyên sang đánh
ta, tuy thua hai phen nhưng nhà Nguyên còn mạnh lắm, mà nước
ta so với Trung Quốc là nhỏ mọn, nếu cứ chiến tranh mãi thì dân
chúng phải lầm than khổ sỗ. Tháng 10 âl năm 1288, Nhân Tông
sai Đỗ Thiên Thứ sang sứ Nguyên xin theo lệ côAg hiến xưa.
Nguyên Thế Tổ thấy quân mình thua luôn, không nản, vẫn ngoan
cố muốn xua quân sang đánh ta nữa. Nhưng dụng đại binh phải
sửa soạn trong vài năm nữa nên cũng tạm thời cho thông hoà.
Tháng 2 âl năm 1289, Nhân Tông sai Nguyễn Thịnh đem bọn
tướng bị bắt Tích Lệ Cơ vê nước. Phàn Tiếp vì đau buồn, phải
bệnh chết, đã được hoả táng, vỢ con được cấp người ngựa đem hài
181
cốt về. Các đầu mục và binh sĩ cũng đưỢc tha cho về cả. Riêng
những người Hán quy hàng xin ở lại làm dân Việt được cấp
phương tiện làm ăn. Quốc sử chép duy có 0 Mã Nhi tàn ác giết hại
quá nhiều người, vua ta căm lắm, không muôn tha, nhưng lại ngại
đường hoà hiếu, nên dùng kế Hưng Đạo vương, sai người đưa đi
đến giữa biển, đục thuyền cho mà đắm mà chết đuối. Đây là theo
sách Thiên Jlam hàn h ký của Tư Minh Thiên nhà Nguyên. Việc
không chắc có thật, sử cũ chép o Mã Nhi chết trận tại sông Bạch
Đằng. Trong bài Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi viết: o Mã Nhi
hựu ế tại Bạch Đằng hải (ế là chết đuối). Mà sự có thật chăng nữa
cũng là chuyện báo thù thường tình, chẳng có chi là “phi nhân bất
nghĩa” như Tự Đức phê bình. Ngô Thì Sĩ chê là không tín. Nhà
nho câu nệ chữ trung tín, nhưng lừa thắng gian được khen là trí,
thì giết đứa ác đâu đã phải là tội.
ĐỊNH CÔNG PHẠT TỘI - Tháng 4 âl năm 1289 mới định công
phạt tội. Các vương hầu đi đánh giặc có công đều được thăng trật,
các tướng sĩ khác họ có công to được phong quốíc tính. Nguyễn
Khoái được phong tước hầu, cho án lộc hương Khoái Lộ (phủ
Khoái Châu ngày nay), Phạm Ngũ Lão đưỢc thưởng hàm Quảng
Thánh Dực quân. Các tù trưởng có công cũng được phong hầu.
Vua lại sai văn thần chép công trạng các tướng hỢp thành sách
Trung Hưng thực lục, lại sai thợ vẽ tranh các tướng treo ở Gác
công thần. Tiến phong Hưng Đạo vương làm Đại vương; Hưng Vộ
vương, Khai Quôc công; Hưng Nhượng vương, tiết độ sứ; Đỗ Hành,
quan nội hầu; Lương Uất, trại chủ Quy Hoá; Hà Tất Năng, quan
phục hầu.
Định công xong rồi, mới xét đến tội những người hàng giặc.
Trong khi quân Nguyên cường thịnh, quan lại lắm kẻ hai lòng,
có giấy má đi lại với giặc. Sau giặc thua chạy, quân ta có bắt
đưỢc một tráp biểu hàng. Đình thần muôn lục ra trị tội. Thượng
hoàng nghĩ rằng làm tội những đồ tiểu nhân cũng vô ích, sai
đem đô"t đi cho yên lòng mọi người. Duy những người quả thực
đã hàng giặc mới trị tội, hoặc đem đày, hoặc xử tử. Trần Kiện,
Trần Văn Lộng, tuy đã chết, con cháu phải tước họ tôn thất, đôi
ra họ Mai. Riêng Trần ích Tắc, vua nghĩ tình thần không nỡ
nhưng phải gọi là Ả Trần, nghĩa là bảo nhút nhát như đàn bà.
Quân dân được thứ tội chết, chỉ bắt đi cày ruộng công hay bắt đi
chở gỗ đá vể làm cung điện, dinh thự. Duy có hai xã Bàng Hà và
Ba Điểm, trước hết hàng giặc, cả làng phải đồ làm lính, không
182
bao giò được đi thi ra làm quan (hai xã này gồm nhiều con cháu
nhà Lý).
Trong việc này, nhà Trần phạm lỗi lầm: Các gia nô có công
dù lớn, chỉ đưỢc thưởng tiền, vải, nhiều lắm là ruộng đất, chứ
không được chức quan cấp chỉ huy binh sĩ, dù chỉ là hư hàm.
Phẩm tước han thưởng không được rộng rãi. Thượng hoàng
bảo quân Nguyên còn sang đánh nữa, ta phải dành chức tước để
thưởng cho người có công sau này.
ĐỊNH CUỘC HOÀ HIẾU - Nguyên Thế Tổ trước nhận cho hoà,
vẫn muôn cử binh sang đánh nữa. Trung thư viện vẫn ngày đêm
làm việc chuẩn bị công cuộc viễn chinh. Các quan triều biết rõ
tình thế tìm hết mọi cách đế ngăn ngừa. Năm 1291, Bảo Quả Mật
(Bất Hô"t Truật) xin sai sứ sang dụ vua Trần vào chầu. Trương
Lập Đạo sang du thuyết, vô công. Nhân Tông sai Nguyễn Đại
Phạp sang khất qua năm sau. Năm 1292, công việc sửa soạn viễn
chinh đã hoàn tất. Nguyên chúa muôn cất quân. Triều thần thấy
đi đánh Nhật Bản hay An Nam đều không lợi, bàn tính nên đi
đánh nước khác. Quân Nguyên tiến đánh Trảo Oa (Java, Chà Và),
nhưng cũng thất bại luôn. Cùng năm 1292, Lương Tăng và Trần
Phu sang giục. Bấy giờ, Nhân Tông đã nhường ngôi cho Anh Tông,
không xin phép Nguyên triều. Anh Tông cũng không chịu cho
chầu. Nguyên chúa quyết định khởi binh sang đánh, sai Lưu Quốc
Kiệt cùng các tướng Y Lặc, Cát Đại chỉnh binh lương, một ngàn
chiến thuyên, sắp sửa cất quân, gọi Trần ích Tắc về hội ở Trường
Sa. Bấy giò là năm 1293.
Trong khi còn đang sửa soạn, bỗng Nguyên Thế Tổ Hốt Tất
Liệt chết. Nguyên Thành Tông lên nôi ngôi, có nhiều việc phải lo
lắng: Người trong tôn thất tranh giành nhau địa vị, có sự lủng
ọủng giữa các sắc tộc Mông cổ , người các nước bị chiếm, kể cả
người Hán, rục rịch nổi dậy chông đối. Lại thấy các cuộc viễn
chinh từ hơn 20 năm đều thất bại, vả không có nhiều tham vọng
như cha, lại thấy vua Trần đã chịu xưng thần nạp công, nên bãi
binh, nhưng làm ra vẻ có lượng, tờ dụ nói: Thiên tử mới lên ngôi,
ra ân đại xá, đã hạ lệnh cho các quan có trách nhiệm phải bãi
binh. Vậy từ nay về sau nên nhớ kỹ đạo: Sợ uy Tròi, thờ nước lớn
(uý Thiên, sự đại). Từ đấy, hai nước thông hoà, không có chiến
tranh nữa.
TẠI SAO QUÂN DÂN TA ĐÁNH BẠI Được QUÂN NGUYÊN - Nửa
cuối thế kỷ XIII, quân dân ta, một nước nhỏ, dưới quyền lãnh đạo
183
của vua tôi nhà Trần, đã đánh bại quân xâm lăng Mông cổ, đế
quốíc hùng mạnh lừng lẫy khắp trời Àu, biển Á.
Sử gia Trần Trọng Kim viết: Nước ta thòi bấy giờ, vua tôi hoà
mục, lòng người như một. Nhân tài lũ lượt kéo ra. Lại được Hưng
Đạo vương là đại tướng tài cao, giỏi dụng binh, biết đợi thòi, biết
thừa thế tiến thoái, cầm quân vững chãi, gan bền tựa sắt, vả lại
khéo dùng lòi khuyên dỗ, khiến cho mọi người cảm động, sinh lòng
trung nghĩa, tướng sĩ hết lòng giúp nước.
Quân Mông cổ hơn hẳn ta về vóc người khoẻ mạnh và tài nghệ
chiến đấu, lại có vũ khí sắc bén, quen thuộc với trận mạc, từ lâu đều
là những chiến sĩ chuyên nghiệp. Quân sô" lại đông, tưởng chừng có
thế đè bẹp được quân dân ta dễ dàng. Nhưng chúng phải đi xa khó
nhọc, đã không có chính nghĩa, lại không thông thuộc đường lốĩ địa lý.
Người phương bắc xứ lạnh rất khó chịu khí hậu nóng nực bên ta, dễ bị
mệt mỏi mắc bệnh. Quân sô" đông nhiều người là giông Hán, dân vong
quốc, không ham gì đánh. Hơn nữa, nhu cầu lương thực phải nhiều.
Giặc quen thói lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, gặp phải bên ta dùng
kê thanh dã (vườn không nhà trông) triệt lương địch, khiến chúng chỉ
vì thiếu ăn mà phải sớm rút quân chạy về nước.
Bên ta thì người chông giữ đất nước mình, quen phong thổ,
thuộc đường lốỉ, lại là chiến tranh tự vệ nên mọi người đều hăng hái
bảo vệ giang sơn tổ quôc, đoàn kết nỗ lực vào công cuộc phá giặc.
Trong trận bình Nguyên, bên ta lại có lợi thế mà mọi cuộc
kháng chiến khác đều không có, là có mấy đoàn Tông binh được
dịp trả oán quân Mông cổ, lại dụ được người Hán trong hàng ngũ
giặc theo về ta.
Đánh đuổi được giặc mạnh tất phải có binh hùng tướng dũng
thì từ lâu, Trần Thủ Độ đã sớm tổ chức quân đội, toàn dân vi binh,
gây cơ sở vững chãi cho Hưng Đạo vương có đủ lực lượng chông
quân xâm lăng.
Vì vậy, quân Nguyên sang đánh ta, chỉ hông hách được lúc
ban đầu, sau phải khốn đôn thua chạy về nước.
KỶ NHÀ TRẦN (t iế p th e o )
Thái tử Thuyên lên ngôi năm 1293, tục hiệu vua Trần Anh Tông.
184
ĐỨC ĐỘ VUA ANH TÔNG - Khâm Từ thái hậu thân sinh ra vua
Anh Tông khuất năm vua vừa lên ngôi. Năm sau, thượng hoàng
thân đi đánh quân Ai Lao. Tuyên Từ thái hậu, em Khâm Từ, làm
chủ trong cung cấm, tính khó khăn nóng nảy, dậy vua rất nghiêm,
vua vẫn kính cẩn vâng theo. Anh Tông buổi đầu hay uông rượu và
đêm thường hay lẻn ra ngoài đi chơi, có khi gặp kẻ vô lại phạm
đến. Một lần uông rượu say đến nỗi thượng hoàng ở phủ về mà
vua vẫn nằm ngủ. Thượng hoàng giận lắm, truyền xa giá lập tức
về Thiên Trường, đòi bách quan về đấy hội nghị. Anh Tông tỉnh
rượu, sỢ hãi quá, vội vàng ra ngoài cung, gặp người học trò Đoàn
Nhữ Hài, mưỢn thảo bài biểu tạ tội, rồi cùng Nhữ Hài xuông
thuyền đi suốt đêm về Thiên Trường. Thượng hoàng xem biểu,
quở mắng rồi tha tội. Từ đấy, Anh Tông không còn uô"ng rượu nữa.
Xưa vua ta có tục lấy chàm vẽ rồng vào đùi. Anh Tông không
múô"n theo tục ấy. Thượng hoàng bảo dòng dõi nhà ta vẫn vẽ mình
để nhớ gốc ngày xưa, nay quan gia phải theo tục ấy. Anh Tông tuy
vâng mệnh, nhưng lúc thượng hoàng bận việc khác, lẩn đi, không
chịu vẽ. Từ đấy, vua nước ta không vẽ mình nữa.
Anh Tông trước có phong thưởng quan tước rộng rãi. Thượng
hoàng xem số phê sao triều ban nhiều đến thế này. Anh Tông từ
đấy dè dặt sự ban tước thưởng.
VIỆC CAI TRỊ - Anh Tông hiếu thảo, thông minh. Việc chính trị
bấy giờ có kỷ cương lắm. Trong triều có những người tài trí, văn
như Trương Hán Siêu, võ như Phạm Ngũ Lão, hết lòng giúp nước,
phép tắc nghiêm trang, thưỏng phạt phân minh. Việc học hành
được mở mang rộng rãi. Người có văn học như Mạc Đĩnh Chi,
Nguyễn Trung Ngạn được thi đỗ làm quan, giúp vua trị nước.
Đoàn Nhữ Hài, người học trò có tài, không hiểm cất lên mau
chóng, thăng đến chức tri khu mật viện. Học sĩ Nguyễn Sĩ Cô" hay
làm thơ phú quốc âm. nhiều người học theo đua nhau làm văn
quô"c âm hắt đầu từ đấy.
Sử chép: Dưới triều Anh Tông, quan viên đánh bạc phải xử
phạt rất nặng. Thượng phẩm Nguyễn Hưng phạm pháp cố ý, phải
đánh bằng trượng đến chết.
Anh Tông cũng sùng Phật. Năm 1295, sai Phạm Khắc Dụng
và Phạm Thảo sang Nguyên, thu được bộ kinh Đại Tạng đem về,
in các bản phó lưu hành. Năm 1299, in sách P hật g iáo p h á p sư,
Đạo tràng tản văn, ban bô" cho thiên hạ. Anh Tông thường họp các
nhà sư ở núi Yên Tử đàm đạo Phật pháp, lại làm các Anh Văn.
185
Anh Tông tính khiêm tô"n, đôl với ngưòi họ rất hoà thuận,
thò cha kính cẩn. Lúc rảnh lưu tâm đến văn mặc, rất tài viết
chữ và vẽ, có tập Thuỷ Vân tuỳ bút. Khi sắp khuất, bắt đem
đôh cả đi.
VIỆC BANG GIAO VỚI NHÀ NGUYÊN - Năm 1293, sứ nhà Nguyên
Lương Tăng và Trần Phu sang. Triều đình ta trả miếng thái độ
kiêu ngạo của các sứ Nguyên ngày trước, để cho đi vào triều theo
cửa bên. Sứ giả không chịu, đàm phán đến ba lần, mới được đi vào
theo cửa giữa. Việc nhỏ này chứng tỏ vua Trần đã cứng rắn lắm.
Nguyên Thế Tô thấy vua ta nhất định không chịu sang chầu sửa
soạn cho đem quân sang đánh nữa, bỗng chết. Nguyên Thành
Tông nối ngôi, bãi binh, hai bên thông hoà.
Năm 1299, có sự kiện Đặng Nhữ Lâm sang sứ Nguyên, dấu
mình trong bản đồ địa dư và sách bị cấm ghi chép rừng núi và
tình hình quân sự phương bắc. Nhà Nguyên trách triều đình ta về
việc ấy, nhưng sau cũng tha cho Nhữ Lâm về nước.
Năm 1313, có sự kiện tri châu Triệu Giác bắt người châu Tư
Lang nước ta, lấy vàng và lấn ngàn khoảnh ruộng. Quan quân ta
sang đánh châu Quy Thuận và châu Dưỡng Lợi phục thù. Nhà
Nguyên có lòi trách nhưng giữ vẻ ôn tồn. Chung cuộc, đôi bên định
lại bờ cõi cho được rõ ràng, tránh sự xâm phạm lẫn nhau. Xem vụ
này, thấy nhà Trần không còn e sỢ gì vua Nguyên nữa. Vậy việc
công nạp cũng qua loa, chiếu lệ.
VIỆC ĐI ĐÁNH QUÂN AI LAO SANG CUỚP PHÁ - Giữa thế kỷ XIII,
trước sự bành trướng của quân Mông cổ, người Ai Lao cũng tổ
chức quân đội mạnh để chông giữ. Nước này được những đội tượng
binh rất lợi hại. Không bị quân Nguyên đánh, quân Ai Lao hùng
cường, bèn sang cướp phá vùng Thanh, Nghệ nưốc ta. Năm 1290,
chúng sang cướp, quan quân địa phương không đánh nổi. Nhân
Tông khi ấy còn đang làm vua, huy động đại binh đi đánh. Giặc
rút lui về nưốc.
Năm 1294, người Ai Lao lại xâm phạm, chiếm giữ châu
Chàng Long. Phạm Ngũ Lão đi đánh. Giặc thua chạy, tan vỡ.
Năm 1301, người Ai Lao lại cướp phá ở Đà Giang. Phạm Ngũ
Lão đi đánh bại được chúng ở động Mương Mai (nay thuộc Hoà
Bình) bắt được nhiều tù binh.
Thời bấy giò, quân Ai Lao thường hay sang cướp phá, bị đánh
thua thì rút về nước, nhưng hễ bên ta kém phòng thủ thì lại sang
quẫy nhiễu.
186
Quô'c sử xưa chép là đi đánh Ai Lao. Xét các chiến trận dù
được dù thua, đều diễn ra trên đất nước ta, không có việc người
nưốc ta xâm nhập đánh Ai Lao. Đây là chiến tranh tự vệ, có chính
nghĩa, đáng khen. Có mấy sử gia xưa và nay, lầm cho rằng vua
Trần háo chiến, có tham vọng đất đai, xua quân đi xâm lược lân
quôh, gây thù oán, đã chê trách, là không đúng. V í phỏng quân đội
ta có xâm nhập nước núi cao rừng rậm ấy thì không khỏi bị các đội
tượng binh đánh hại.
HUYỂN TRÂN CÔNG CHÚA - Dưới các triều vua Trần Thánh
Tông và Nhân Tông, việc bang giao giữa nước ta với nước Champa
tô"t đẹp, do liên minh chông nhà Nguyên. Sau Nhân Tông thượng
hoàng đi tu, thường du ngoạn khắp nơi núi sông trong nước. Năm
1301, sang chơi nước Champa xem phong cảnh, có hứa gả con gái
Huyền Trân công chúa cho vua Chăm Chế Mân. ít lâu sau, Chế
Mân sai người đem vàng bạc và sản phẩm lạ sang công và xin
cưới. Triều thần có nhiều người không tán thành. Chế Mân lại xin
dâng đất châu o và châu Kí làm lễ cưới. Anh Tông mới quyết ý
thuận gả. Tháng 6 ál năm 1306, nhả vua cho công chúa về
Champa. Sang năm 1307, Anh Tông thu nhận hai châu này, đổi là
Thuận Châu và Hoá Châu, sai Đoàn Nhữ Hài vào kinh lý và đặt
quan cai trị.
Về việc này, có mấy văn nhân mượn chuyện nhà Hán gả con
gái cho Hung Nô và 0 Tôn, l(àm thơ chế giễu.
Huyền Trân công chúa về với Chê Mân chưa được một năm
thì Chê Mân mất vào tháng 9 âl năm 1307. Theo tục lệ của người
Chăm, hễ khi vua chết thì các hậu phi phải lên đàn hoả thiêu chết
theo. Anh Tông sai Trần Khắc Chung, giả tiếng vào thăm viếng,
cướp lấy công chúa dưa về.
Sự việc’ gii công chúa dối lấy hai cháu, mọi người phê
bình, ý kiến khác nhau đến tr.ái ngược nhan. Kẻ cho là khôn
ngoan tài tình, không mâd gì m.ấv mà lấy được đất. Người bảo
là l.àm một việc không dứng đ<ắn. Nhiều người mạt sát Chê Mân
ham vợ dẹp, cắt đất hiến cho Lân bang, có tội với non sông.
1'hực sự, xét đây chí là một cách giàn xếp chính trị đê nưốc ta
lây dất díỉi hai châu hên trong đèo llả i Vân, đất xa xưa là bộ
Việt Thưdng dưổi triều vua Hùng. Champa khó giữ nổi. Không
có việc Chế Mân dại dột ham nữ sắc.
187
VIỆC ĐI ĐÁNH NƯỚC CHAMPA - Chế Mân mất rồi, Chế Chí nối
ngôi, hay phản trắc, không giữ những điều giao ưốc trước nên nám
1311, Anh Tông cùng em là Trần Quốc Chấn và Nhân Huệ vương
Trần Khánh Dư, phân hình làm ba đạo sang đánh Champa. Quân
Quôc Chấn đi theo đưòng núi; quân Khánh Dư, đường biển: quân
Anh Tông, đường bộ. Đoàn Nhữ Hài sung chức chiêu dụ sứ, đi
trước đến trại Câu Chiêm. Chủ trại khuyên Chê Chí ra hàng. Chê
Chí đem gia thuộc đi theo đường hiển ra hàng. Anh Tông đi tuần
tiễu các bộ lạc. Người Chăm tụ họp chực xâm phạm ngự dinh.
Quân Quốc Chấn kéo đến đánh tan được. Anh Tông bắt Chê Chí
đem về, phong người em Chế Đồ A Bà Liên làm á hầu, trấn giữ
đất Champa.
Thấy Champa thường hay bị người Xiêm La sang cướp, năm
1313, Anh Tông sai an phủ sứ Đỗ Thiên Thứ đi kinh lược hai lộ
Nghệ An và Lâm Bình để cứu viện.
Chế Chí được phong làm Hiếu Thuận vương, sau chết ở Gia
Lâm. Anh Tông sai đem hoả táng. Từ đấy, ta và Champa sinh
điều thù oán.
LUẬN VỀ VUA TRẦN ANH TÔNG - Năm 1314, Anh Tông truyền
ngôi cho con là thái tử Mạnh, về phủ Thiên Trường làm thái
thượng hoàng, vẫn tự quyết mọi công việc, kính can noi theo điển
chương cũ. Có tuổi càng thận trọng, nhất là về hình phạt. Năm
1320 khuất, làm vua 21 năm, làm thái thượng hoàng 6 năm,
hương linh 43 tuổi.
Trần Anh Tông là vua hiền tài, suô"t thòi gian trị vì, dân nước
được thái bình, thịnh vượng, duy phạm sai lầm đi đánh Champa,
việc làm không cần thiết. Rất tiếc ông không thọ.
Năm 1314, thái tử Mạnh lên nối ngôi, tục hiệu vua Trần
Minh Tông. Minh Tông là con thứ phi Huy Từ sở sinh. Trước con
các hậu phi vua Anh Tông đều không đậu, đến khi sinh con thứ tư
là Mạnh, Anh Tông ký thác bà ngoại Thuỵ Bảo công chúa, vỢ Trần
Bình Trọng nuôi hộ. Thuỵ Bảo trong lúc ách vận lại nhò anh
Chiêu Văn vương Nhật Duật nuôi. Chiêu Văn chăm nom nuôi
nấng như con đẻ.
VIỆC CAI TRỊ TRONG NƯỚC - Thòi bấy giò, văn có Trương Hán
Siêu, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Đoàn Nhữ Hài, võ có
Phạm Ngũ Lão, Trần Quôd ưý, đều là những người có tài cán,
giúp vua trị nước được thanh bình.
Gặp năm nước to, Minh Tông thân đi hộ đê, nói cha mẹ dân
phải lo cho dân trước hết, không coi đó là việc nhỏ mọn. Các việc
chính trị, có đặt lệ các người trong họ không được đi thưa kiện lẫn
nhau... Định cấp bậc các quan văn võ. Mở khoa thi thái học sinh.
Bỏ tục xăm mình. Năm 1327, theo ý kiến Nguyễn Trung Ngạn,
lập kho tào thương tại các lộ chứa thóc để chẩn cấp cho dấn nghèo.
Lại đặt quan khuyến nông khuyên khích việc khai thác đất hoang,
dùng binh lính vào công việc này, dựng nên các đồn điền. Quân
đội có đạo chuyên về việc bắt trộm cướp (đội bảo an). Đặt quan
192
trấn thủ ở Vân Đồn kiểm soát thương thuyền các nước đi lại. Minh
Tông noi gương các vua Trần trước, cũng thường về tận các làng
xã xét dân tình, phân xử công việc. Rất lưu tâm việc đê điều giữ
đồng điển khỏi bị lụt, đắp đê thêm vững vàng, gọi là thạch đê.
Về khoa học, có Đặng Lộ chê ra được dụng cụ xem thiên văn,
gọi là lung linh nghi, khảo nghiệm khí tượng trên trời, không việc
gì là không đúng. Dụng cụ ncày bị thất truyền.
VỤ TRẦN QUỐC CHẤN BỊ HÀM OAN - năm 1328, Minh Tông làm
vua đã 15 năm (tuy mới 29 tuổi) muôn lập hoàng tử Vượng, con
thứ phi họ Lỗ, làm thái tử. Cìuốc phụ thượng tể Huệ Võ vương
Trần Quôc Chấn thân sinh ra Lệ Thánh hoàng hậu, không phục,
tự cho mình là cố mệnh đại thần, viện lẽ theo điển lệ của thái sư
Thủ Độ, thì mẹ đẻ vua phái họ Trần đê tránh hoạ ngoại thích, xin
chò ho.àng hậu sinh con trai sẽ lập làm thái tử. (Hoàng hậu mới
vào cung bôL năm). Trong triều có Văn Hiến hầu (?) muôn chiều
theo ý vua, lại có Trần Khắc Chung, người Giáp Sơn đồng hương
với mẹ đẻ Vượng, lại từng là sư phó dạy Vượng, vào hùa. Thành ra
có hai đảng chông đôi nhau. Vàn Hiến hầu dem 100 lạng vàng cho
tên Trần Phẫu (VNSL chép Trần Nhạc), gia thần Quốíc Chấn, xui
hắn vu cáo Quốc Chấn mưu phản. Minh Tông bắt giam ở chùa Tư
Phúc. Trần Khắc Chung xui vua trừ Quốc Chấn đi, phóng hổ di
hoạ. Minh Tông không gia hình nhúng cấm tuyệt mọi người đưa
đồ ăn uôRg cho. Quốc Chấn khát nước quá, hoàng hậu lấy áo
dúng nước mặc vào đên thăm, vắt ra cho uông. Quôh Chấn
uôKg xong thì chết. Đồng đảng hơn trăm người bị hắt đều keu
oan. Vài năm sau, người vỢ lẽ Phẫu ghen với vỢ cả, tố cáo việc
Phẫu lấy vàng. Vua giao Lê Duy xét hỏi mới rõ tình oan của
người trung thẳn. Phẫu bị tội lăng trì, chưa kịp hành hình thì
gia nô của nhà Thiệu Võ (em hay con Quôh Chấn) xẻo thịt ăn
sôRg. Vua nê mặt cha nuôi Nhật Duật, không trị tội con Ván
Hiến hầu, chỉ tước họ tôn thất, giáng làm thứ dân. Trần Khắc
Chung khỗng hị trách phạt nhưng sau khi chết đưa về chôn tại
quán Giáp Sơn, gia nô nhà Thiệu Võ đào mả, băm vằm xác ra
(Văn Hiến hầu là con Chiêu Văn đại vương).
TRẦN HIẾN TÔNG - Vượng đưực lộp làm thối tử. Năm 1329, lên
ngôi, tục hiệu vua Trán Hiến Tông. Lên ngôi năm mới 11 tuoi, chỉ
giữ hư vỊ. ơ ngôi 13 năm, khuất năm 1341, hưởng linh 23 tuổi,
không con. Suôt thòi gian niên hiệu K hai Hữu, mọi công việc đều
do Minh Tông thượng hoàng cá.
193
TRẦN DỤ TÔNG - Các năm Thiệu Phong 1341 — 1357- Sau khi
Hiến Tông lên ngôi rồi, bà đích mẫu Huệ Từ (có sách chép Hiến
Từ) sinh con trai, trưởng Cung Túc vương Dục, tính ngông cuồng,
không gánh vác nổi việc nước, thứ Hạo, thông minh. Hiến Tông
khuất, Minh Tông thượng hoàng lập Hạo làm vua, bấy giò mới 6
tuổi. Việc nước vẫn do thượng hoàng quyết định.
VIỆC BANG GIAO VỚI TRUNG QUỐC - Vua Nguyên, sau Thế Tổ,
không còn tham vọng mở mang đất đai nữa nên giao hảo với nước
ta, thường đôi bên có sứ giả đi về mỗi khi có vua mới lên ngôi hay
có đại lễ.
Năm 1322, có người Nguyên tranh bò cõi. Việc phân định địa
giới sau cũng được giàn xếp êm đẹp.
Năm 1345, sử chép có việc sứ Nguyên Vương Sĩ Hành sang
hỏi về cột đồng. Phạm Sư Mạnh biện bạch. (Điều này đáng ngờ,
bấy giò bên Nguyên chỗ nào cũng có loạn).
VIỆC ĐI ĐÁNH NƯỚC CHAMPA - Người Chăm thường hay sang
'cướp phá, cho nên phải dùng đến can qua. Năm 1318, Trần Quốc
Chấn và Phạm Ngũ Lão đem quân đi đánh. Hiến Túc hầu Lý Tất
Kiến bị quân Champa đánh thua, tử trận. Phạm Ngũ Lão đem
quân đánh úp tập hậu thắng lớn. Vua Chăm Chế Năng chạy sang
Qua Oa (Chà Và?). Quôc Châ"n lập tù trưởng A Nan làm Hiệu
Thánh Á vương.
Năm 1324, Minh Tông sai Huệ Túc vương Trần Đại Niên
sang đánh Champa. Đại Niên chưa phải là tướng tài và quân đội
ta cũng không dũng mãnh lắm, đánh không nổi, phải rút quân về.
Minh Tông tự trách không thân chinh, để lỡ việc.
GIẶC NGƯU HỐNG - Miền Đà Giang có tù trưởng xứ Ngưu Hống,
trước đã quy thuận triều đình, sang thê kỷ XIV lại rông rỡ cướp bóc.
Năm 1329, Minh Tông thân đi đánh, không quản ngại nơi lam
chướng. Tiền quân Phu Minh bị người trại Chiêm Chiêu đánh thua,
tướng Vũ Tử Hoành chêt trận. Phu Minh cũng chết đuối. Đại quân
không đuổi bắt được. Minh Tông đành dẫn quân về. ^
Mãi đên năm 1337, tướng Hưng Hiếu vương Trần Quốc Uý
đên Trịnh Kỳ, đánh tan được quân man, chém được tưống Xa
Phần. Giặc Ngưu HôKg từ đấy mới yên.
VIỆC ĐI ĐÁNH QUÂN AI LAO XÂM PHẠM - Trong khi Ngưu Hông
đang quấy nhiễu thì quân Ai Lao lại sang đánh, cướp phá. Minh
Tông thư ợng h oàn g th â n đi tiễu trừ . Năm 1335, sắp r a q u ân , hỗng
bị đau mắt, không chịu hoãn lại. Kinh lược sứ Nghệ An Đoàn Nhữ
194
Hài khinh địch, bị đánh thua ở sông Tiết La. Tiền quân nhiều
người cùng chết đuối với Nhữ Hài. Đến khi đại quân Minh Tông
rầm rộ đi đến, quân Ai Lao vội vã rút lui về nước. Trong trận này,
có tướng Đỗ Thiện Thứ cũng đang đau ô"m, cô" xin đi hộ giá, bị chết
tại trận như lòi nguyên. Minh Tông sai Nguyễn Trung Ngạn làm
làm văn bia, khắc trên núi Trầm Hương, tĩnh Nghệ An.
Năm 1348, ngưồi Ai Lao lại sang cướp nữa. Lần này bị Bảo
Uy vương Hoàn (hay Hiến) đánh thua.
LUẬN VỀ VUA TRẦN MINH TÔNG - Nám 1357, Minh Tông khuất,
làm vua 15 năm, làm thái thượng hoàng 28 năm, hưởng thọ 58 tuôi,
vẫn năm giữ quyền chính suốt thời gian làm thái thượng hoàng.
Trần Minh Tông là vua có thiện chí, biết giữ bổn phận lo nước
thương dân nhưng không phải là vua giỏi, đã không minh giết oan
Huệ Võ vưcíng, lại không sáng suôt trong việc dùng người, cử người ít
tài năng đi đánh Champa, làm tổn thương uy tín và tiềm lực quốc gia,
dùng một thư sinh làm tướng tiên phong đi đánh giặc đê đến nỗi thất
trận. Nhiêu sử gia chồ ông háo chiến và háo danh. Trách ông háo
chiến chỉ đúng một phẳn nhỏ là việc sai đi đánh nước Champa. Còn
việc đi đánh tù trưởng muôn biệt lập, giữ nền thôhg nhất quốc gia,
không có gì sai trái. Đến như đi đánh quân Ai Lao xâm phạm đất nưốc
thì lại đáng khen. Còn tật háo danh tuy không phải là lỗi nặng nhưng
cái háo danh của Minh Tông thì quá đáng. Việc đánh đuổi quần Ai
Lao có chi là to lớn, mà đục núi ghi công. Sự sốm lập vua con cũng là
do háo danh. Dưới triều Trần, vua chưa được quý trọng bằng thái
thượng hoàng. Ngay cả việc sai đi đánh Champa cũng là do háo danh.
Ông lại không biết chiêu hiền để làm việc nước. Triều đình thiếu người
tài đến nỗi khi biên giới đa đoan, phải gọi ông già 80 tuổi đã nghỉ hưu
Trương Hán Siêu đi trấn thủ Hoá Châu. Thế mà sau cũng không tìm
những người anh tài để làm việc nước. Khi ông khuất, cả triều chỉ có
Chu Văn An hiên tài.
IRẨN h Cl L ượng
Trần Hữu Lượng là nhân vật lịch sử Trung Quốc nhưng là
người Việt, con Trần ích Tắc dược vua Nguyên phong làm bình
chương chính sự tỉnh Hồ Quảng ở Ngạc Châu. Bắc sử chép Hữu
Lượng người Cái Dương, dòng dõi nhà đánh cá, không nói là gốc
An Nam. Giữa thế kỷ XIV, nhà Nguyên suy yếu, người Hoa nổi
dậy khắp nơi. Hữu LưỢng, cũng như cha, có tham vọng làm vua,
không có dịp trở về nước, lãnh đạo một sô" người Hoa chông đôi lại
ân nhân của cha con mình. Năm 1360 xưng đế ở Thái Trạch,
chiêm cứ các tỉnh Giang T.ây, Hồ Quảng, lấy ứng Thiên (Nam
Kinh) lập kinh đô, đặt quốc hiệu là Hán, nhắc nhở người Hoa
giông Hán theo về mình, niên hiệu là Đại Nghĩa.
Trong bôn năm làm vua ở ững Thiên, Hữu Lượng có công với
dân Hoa, xây dựng xã hội giầu mạnh, làm thuỷ lợi khai sông đắp
đê, khiến dân chúng được no ấm hơn các nơi khác, trật tự an ninh
được đảm bảo, ít có trộm cướp, lễ độ ky luật được duy trì.
Năm 1354, Hữu Lượng dấy quân, sai sứ sang ta xin hoà
thân. Bấy giờ Minh Tông thượng hoàng cầm quyền.
196
Năm 1361, Chu Nguyên Chương đánh Giang Châu, Hữu
LưỢng lui giữ Vũ Xương, sai người sang nưóc ta xin cứu viện. Dụ
Tông không cho. Năm 1363, Hữu LưỢng bị Chu Nguyên Chương
đánh thua. Qua năm 1364, chạy về Giang Châu. Bọn tỳ tướng ra
hàng Chu. Hữu Lượng dùng long thuyền đánh quân Chu ở Phiên
Dương Hồ, bị tên bắn lén mà chết, kết thúc đòi một người Việt
từng làm hoàng đế Trung Quốc.
Nếu Hữu Lượng thành công, thông nhất Trung Quốc, tất sẽ
đem Trung Quôc sáp nhập vào nước ta, thực sự thì sáp nhập nvíớc
ta vào Trung Quốc. Người nước ta có dịp cai trị người Hán. Nhưng
việc này chẳng đáng tiếc: Người Hán đông đúc hơn, lại có trình độ
văn hoá và kỹ thuật cao hơn ta, sau một thời gian, lại sẽ phục
quốc, mà nước ta sẽ biến thành một phần đất Trung Quốíc như
Mông Cổ, Mãn Châu. Nhà Nguyên trị vì Trung Quốc một trăm
năm, nhà Thanh hơn 300 năm nhưng sau sau đất nước lại mất về
Trung Quốc.
Trần Dụ Tông làm vua 28 năm, có hai thời kỳ; Các năm Thiệu
Phong, Minh Tông thượng hoàng nắm giữ quyền chính, việc cai trị
còn có thứ tự; các năm Đại Trị, Dụ Tông mới thực sự trị nước.
Dụ Tông làm vua, lớn lên trong lúc nước nhà được thái bình,
không phải lo ngại ngoại xâm, chỉ mải mê chơi bời. Sau khi
thượng hoàng khuất, các hiền thần lương đông qua đời, việc chính
trị bỏ trễ nải, kẻ gian mỗi ngày một đắc chí. Chu An, danh nho
đang làm quan triều, thấy chính trị bại hoại, dâng sớ xin chém
bảy quyền thần, không được chuẩn y, từ quan về đi ẩn ở Chí Linh.
L ỗl LẦM CỦA DỤ TÔNG - Dụ Tông rưỢu chè, chơi bời, dâm đãng,
ham mê đàn hát, bắt các vương hầu, công chúa, đặt chuyện hát
tuồng để mua vui‘*\ Lại chiêu tập các nhà giầu vào cung đánh bạc,
mỗi tiếng ăn thua cả 300 quan tiền. Tính nghiện rượu, thường
Quán Nguyên sang đánh nước ta lần sau, bên ta có bắt đưực trưởng ban hát bội Lý
Nguyên Cát. Nguyên Cát sau ò lại nước ta, lấy truyện cố đặt thành bài tuồng, dạy cho người
mình hát. Con hát ra trò, mặc áo gấm vóc, theo dịp đàn trống mà ca hát. Nô tỳ nhà quyền
quý đua nhau hát theo lối bác. Ta có hát luồng từ đấy.
197
cùng các quan thi nhau uông rượu. Bùi Khoan giả uổng hết trăm
thăng, được thưởng tước hai tư để dự thăng trật (!). Buông tuồng
không còn thê thông gì. Có lần say rượu, ra ngoài tắm sông, suýt
bị chết đuôi.
Lại còn đào hồ. đắp núi, chỏ nước mặn vào nuôi đồi mồi, cá
sâu, ha ba, cùng các loại chim muông lạ. Còn làm thêm cung điện,
nay xây cất, mai tu tạo, không lúc nào ngơi việc, lãng phí tiền của.
Lại vớ vẩn sai tư nô cày đất trồng hành tỏi rau dưa, cùng làm
quạt, đặt giá bán cho dân (!).
Thời ấy, luôn luôn mất mùa do nước lụt, hoàng trùng, dân
đói khổ. Dụ Tông quyên nhà giàu tiền thóc phát chẩn, rồi ban
phẩm hàm cho họ, vá víu tạm thòi, không lo chống đỡ đói lâu dài,
khai sông, đắp đê, khẩn hoang.
LOẠN LẠC TRONG N ư ớ c - Vua chơi bời, xa xỉ. Triều thần
không người cương trực can ngăn. Dân phải sưu cao thuế nặng,
gặp những năm mất mùa, đói kém, giặc cướp khắp nơi nổi dậy
như ong giấy. Nhiều đám nhỏ, sớm đánh dẹp được. Mấy đám khác
hùng cứ lâu lâu tại các địa phương, vùng Thái, Lạng.
Có người tên Tề xưng là cháu ngoại Hưng Đạo vương, tụ tập
những kẻ trôn tránh trong đám gia nô các vương hầu, nối lên cướp
hóc ỏ Nam Sách và Lạng Châu.
Ngô Bệ, người Trà Hương tập họp người núi Yên Phụ. Nám
1344, bị đánh tan rã. Sau thu phục những kẻ du đãng, yết bảng
“chẩn cấp dân nghèo”. Nàm 1356. Mãi đến năm 1360 mới bị bắt,
đồ đảng 30 người phải chết chém.
VIỆC BANG GIAO VỚI CHAMPA - Năm 1341, chúa Chăm Chế A
Nam mất. Con rê là Trà Hoa Bồ Đề, từ trước gây bè đảng mua
chuộc người trong nước, lên nôl ngôi, không sang cống. Sứ thần ta
sang đòi. Bồ Đề chịu công, lễ rất đơn bạc. Con trai Chế A Nan là
Chê Mộ, năm 1352 chạy sang nước ta cầu cứu. Năm 1353, quân
đội ta đem Chế Mộ về nước. Bộ binh và thuỷ binh tải lương cách
xa nhau, đi đến Cố Luỹ (Quảng Ngãi) bị quân Champa đánh thua,
phải trở về. Chế Mộ ở bên ta, buồn rầu, rồi chết. Bồ Đề thấy quân
đội ta tầm thường, lại càng kiêu rộng, ngang nhiên vào lấn cướp
Hoá Châu. Quân đội ta đi đánh, thất bại. Sau Trương Hán Siêu
vào trấn thủ, Hoá Châu mới được yên. Nám 1361, người Chăm
vượt biển đến cướp cửa Đại Lý. Tri phủ Lâm Bình Phạm A Song
phá được. Năm sau, ta phải đắp thành Hoá Châu, đặt quân đội
giữ phòng sự hị cướp nữa. Năm 1363, người Chăm lại sang cướp
198
nữa, bắt đi nhiều dân Hoá Châu đang mở hội đầu năm. Năm
1366, chúng sang cướp Lâm Bình. Phạm A Song đánh đuổi được.
Năm 1367, Dụ Tông sai Trần Thế Hưng và Đỗ Tử Bình đi
đánh Champa, bị thua, quân tan vỡ.
Bấy giờ, Dụ Tông hoang chơi, không lo gì đến việc võ bị, mà
bên Champa có Chê Bồng Nga là vua anh hùng, có ý định đánh
bại nước ta đê rửa những oán thù xưa, hết sức tập trận, luyện
binh, bắt quân lính chịu khó nhọc cho quen, dàn trận voi cho tiện
đường lui tới, thắng thì cho đi trước đê xung đột, bại thì cho voi đi
sau đê trấn giữ ngán dịch. Nhò cách xếp đặt có thứ tự, dụng binh
có kỷ luật như thê nên quân đội Champa mạnh hắn lên, sau đánh
phá Thăng Long mấy lần, khiến vua tôi nhà Trần phải kinh sỢ.
VIỆC BANG GIAO VỚI TRUNG QUỐC - Giữa thế kỷ XIV, Trung
Quốc loạn lạc. Nám 1350, có những người Nguyên chạy sang quy
phục nước ta, trong đó có người phường trò Đinh Bàng Đức. Nước
ta có trò leo dây bắt dầu từ đấy.
Năm 1355, Dụ Tông sai Lê Kính Phu sang Trung Quốc thăm
dò tin tức bôn đó.
Trần Hữu Lượng 0 Giang Châu và Chu Nguyên Chương ở Kim
Lăng, đều có sai sứ sang thông hoà. Dụ Tông lấy lễ tiếp đãi nhưng
không thuần phục ai cá. Việc triều công vua Nguyên bò luôn. Biên
giới hoang mang. Năm 1365, Dụ Tông sai Thiều Thốn lên Lạng
Giang đem quân ])hòng giữ nghiêm ngặt, dân được yên ổn.
Năm 1368, Chu Nguyên Chương thôdig nhất thiên hạ, xưng
đế, tức Minh Thái Tổ, sai Địch Thế Dân sang dụ nước ta quy phục.
Dụ Tông sai Đào Văn Đích sang công. Sau đó, năm 1369, vua
Minh sai Trương Di Hinh và Ngưu Lượng sang phong vương cho
Dụ Tông. Khi đến nơi thì Dụ Tông khuất, sứ giả vào làm thơ
viếng, rồi về nước.
Bây giờ, nưóc ta suy nhược nhưng nhà Minh mới lên, còn bận
sửa sang việc nước, chưa dòm ngó nước ta, nên chưa có những việc
quan việc quan trọng xảy ra.
LUẬN VỀ VUA TRẦN DỤ TÔNG - Dụ Tông khuất năm 1369, làm
vua 28 năm, thực sự cầm quyền 12 năm, hưởng linh 34 tuổi.
Trần Dụ Tông là vua hèn, không có tài đức công nghiệp gì,
hoang chơi, xa xỉ, lại không biết dùng người hiền tài trị nước, đã
đưa nước nhà từ thái bình thịnh trị đến suy nhược, loạn lạc,
không xứng đáng là con cháu Hưng Đạo vương (lòi sử gia Trần
Trọng Kim).
199
TRẤN NHẬT LÊ
N iên h iệu : Đ ại Đ ịnh 1 3 6 9 - 1 3 7 0
Nhật Lễ chỉ là đứa nghịch tử trong hoàng gia nhà Trần. Con
một người cuồng (bệnh tâm thần) và một con hát hội thì hư đôh,
chẳng có chi lạ. Còn sự bảo Nhật Lễ mưu hại nhiều người trong họ
Trần thì chẳng qua vì những người này muốn giết bỏ nó. Có thể
rằng Nguyên Trác, người đã từng bị cáo có âm mưu chực hại Dụ
Tông, muôn tranh ngôi nên bày ra việc này.
Dù Nhật Lễ có thực là con Dương Khương nhưng vẫn mang
họ Trần, không thấy hay chưa thấy có sự đổi họ, nên vẫn đáng chép
là Trần.
Năm 1373, thái tử Kính lên ngôi, tục hiệu Trần Duệ Tông.
VIỆC CHÍNH TRỊ - Duệ Tông tinh quyết đoán. Bấy giò quân
Champa thường hay sang cướp phá mãi. Duệ Tông quyết tâm
đi đánh phục thù, hạ chiếu luyện tập quân lính, đóng chiến
thuyền, đặt thêm quân hiệu, tích trữ lương thảo phòng chinh
chiến, cử Lê Quý Ly làm tham mưu quân sự. Bắt dân sửa sang
đường xá từ Cửu Chân (Thanh Hoa) đến huyện Trà Hoa (Kỳ
Anh, Hà Tĩnh).
Đôi châu Diễn làm lộ; châu Hoan làm các lộ Nhật Nam, Nghệ
An nam, bắc, trung; phủ Lâm Bình làm phủ Tân Bình.
VIỆC THI CỬ - Tuy lo nhiều về võ bị, Duệ Tông không quên việc
văn học. Năm 1374, mở khoa thi tiến sĩ, lấy 30 người đỗ.
VIỆC ĐI ĐÁNH NƯỚC CHAMPA - Năm 1376, quân Champa
lại sang cướp phá Hoá Châu. Duệ Tông quyết định thân
chinh sang đánh nước ấy. Triều thần nhiều người can ngăn.
Trung tán đại phu Lê Mịch tâu: Viễn chinh là việc lớn và
nguy hiểm. Vua không nên vì giận riêng, tướng suý không
nên vì lập công mà khởi binh. Nội nạn mối bình, thương tích
chưa lành, không nên hưng sư. Ngự sử đại phu Trương Đỗ
cũng can, ba lần dâng số, bị Duệ Tông gạt đi, bèn treo mũ bỏ
về. Duệ Tông sai quân dân Nghệ An, Thanh Hoa vận tải 5
vạn hộc lương vào Hoá Châu, rồi rước thượng hoàng lên
duyệt binh ở Bạch Hạc.
Sử chép: Năm 1376, Chế Bồng Nga đem công 15 cân vàng.
Trấn thủ Hoá Châu Đỗ Tử Bình lấy đi, dâng sớ nói dôi rằng Chế
203
Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, xin cử binh sang đánh. (Xét điều này
khó tin, dù Đỗ Tử Bình chẳng phải là người tốt. Một vua kiêu
dũng từng đánh vào kinh thành nưốc ta, khiến vua ta phải bỏ
chạy cả, dễ gì lại chịu dâng lễ hậu hĩ khi nghe tin Duệ Tông muốn
cất quân sang đánh).
Duệ Tông quyêt đi đánh, sai Quý Ly đốc vận thuỷ lương thảo
đên cửa biển Di Luân (Quảng Bình), tự lĩnh 12 vạn quân thuỷ bộ
cùng tiên. Đi đên cửa Nhật Lệ (Quảng Bình), dừng lại luyện tập sĩ
tốt một tháng.
Tháng giêng âl năm 1377, tiến quân vào cửa Thi Nại (Quy
Nhơn), đánh lấy đồn Đập Đá và động Kỳ Mang (núi Kỳ Sơn), rồi
kéo quân vào thành Chà Bàn, kinh đô Champa, nay thuộc huyện
Tuy Viễn, Khánh Hoà.
Người Chăm lập đồn luỹ ở ngoài thành, nơi đường núi
hẹp, tứ vi đều rừng rậm. Quân Chăm phục trong rừng. Chê
Bồng Nga sai người đem thư trá hàng, nói rằng chúa Chăm đã
bỏ thành chạy trôn. Tướng Đỗ Lễ xin cho người dò xét tình
hình. Duệ Tông không nghe, vẫy quân tiến vào thành. Quan
quân nối nhau kéo đi, đội trước đội sau xa cách nhau. Khi đến
gần Chà Bàn, phục binh Champa đổ ra đánh mạnh. Quân ta
thua to, tan vỡ. Duệ Tông bị vây hãm, trúng tên chết tại trận.
Các tướng Đỗ Lễ, Nguyên Hợp Hoà và hành khiển Phạm
Nguyện Kính cũng đều tử trận. Quân sĩ mười phần thiệt hại 7,
8. Ngự Câu vương Trần Húc hàng, được Chê Bồng Nga gả con
gái cho. Đỗ Tử Bình lĩnh hậu quân không ứng cứu. Lê Quý Ly
bỏ chạy về. Thê mà Nghệ hoàng chỉ giáng Tử Bình làm lính,
rồi mấy tháng sau lại cho phục chức. Còn Quý Ly không bị
trách phạt gì. VSTGCM cho là chính sự không có kỷ cương gì,
nên sau bị bại vong.
LUẬN VỀ VUA TRẦN DUỆ TÔNG - Trần Duệ Tông làm vua
được 4 năm, hưởng linh 41 tuổi, có dũng cảm, nhưng không
biết nghe lòi nói phải, lại không biết mình, biết người, không
thận trọng trong việc dụng binh, không phải là tướng tài, thế
mà hung hăng đem nhiều quân đi chinh phạt nưóc người, đến
nỗi bị bại vong, chết thảm, làm thương tổn nặng nề uy tín và
tiềm lực quôh gia. Sử gia nhiều người thương ông có khí
phách, không nỡ buộc tội ông, nhưng khách quan thấy rõ rằng
sự lầm lỗi của ông khiến cho cơ nghiệp nhà Trần phải suy
nhược, rồi đi đến bại vong.
204
TRẨN PHẾ ĐẾ 1377 - 1388
huý HIỄN (1361 - 1388)
N iên hiệu : X ư ơ n g P h ù
Nghệ Tông thượng hoàng nghe tin dữ, lập người con Duệ
Tông là Kiến Đức đại vương Hiễn lên nốĩ ngôi. Nghệ hoàng giữ
quyền chính. Bà mẹ đẻ Gia Từ cố tình từ chôi cho con, không được,
cắt tóc làm sư ni. Nghệ hoàng không lập con, lại lập cháu, có thể
vì cảm Duệ Tông bỏ mình vì nước, nhưng tiếc thay, đế Hiễn lại
không tài giỏi.
Quân đội ta, trong trận thua ở Champa mất mát quá nhiều.
Nghệ hoàng mộ binh, tuyển tướng, chỉnh đốn hàng ngũ quân quốíc
phòng, rèn đúc vũ khí, đóng thuyền xe, nhưng lực lượng võ bị chưa
được hùng mạnh mấy.
QUÂN CHAMPA SANG CƯỚP PHÁ - Quân Champa đại thắng ỏ
quốc đô, qua tháng sau, thừa thê kéo sang đánh vào Thăng Long.
Cung Chính vương Sư Hiền giữ cửa Đại La. Người Chăm thấy có
phòng bị, lại đi vào theo cửa sông Đại Chính thuộc huyện Yên Mô,
Ninh Bình (cửa sông này nay đã bị lấp) xâm phạm kinh thành,
không ai ngăn giữ nổi. Chúng tha hồ vơ vét của cải. Chúng ở lại một
ngày, rồi rút về. Qua cửa khẩu, gặp bão, chết đuối mất nhiều quân.
Tháng 3 âl năm sau (1378), chúng đánh Nghệ An, đưa Trần
Húc về, tiếm xưng tôn hiệu, chiêu dụ quân ta. Cũng có được một
sô người theo. Giặc lại đi vào sông Đại Hoàng, đánh bại Đỗ Tử
Bình, tiến vào kinh sư cướp của, bắt người. Kinh doãn Lê Giác bị
bắt, không chịu lạy Chê Bồng Nga, bị giết.
Người Chăm thấy nưốc ta suy nhược, cứ hay sang cướp Nghệ
An, chúng sang dụ dân Tân Bình và Thuận Hoá, rồi lấn cướp
Nghệ An, bắt người đem đi. Tiếp lại phá Thanh Hoa. Nghệ hoàng
cử Lê Quý Ly quản lĩnh thuỷ quân, Đỗ Tử Bình, bộ quân đi đánh.
Đến Ngu Giang, huyện Hoằng Hoá, cầm cự với quân Champa,
đánh lui được chúng thua chạy. Lần này, Chế Bồng Nga thất bại,
hao binh tổn tướng, bỏ về nước. Quý Ly chuyên giữ binh nhung,
lĩnh chức Hải Tây đô thông chế.
Năm 1382, chúng lại sang cưóp Thanh Hoa. Lê Quý Ly và
Nguyễn Đa Phương giữ bến Thần Đầu (Ninh Bình), phá được giặc,
thắng lớn. Chúng chạy vào rừng núi bị đói, bị bắt nhiều. Nguyễn
Đa Phương được phong làm Kim Ngô vệ đại tướng quân. (Đa
205
Phương là con Sư Tề. Quý Ly trước học võ Sư Tề, tiến cử Đa
Phương. Đa Phương từng bị quân Chăm bắt, trôn về được, là
tướng tài).
Sau hai trận thắng ở Ngu Giang và Thần Đầu, thế quân ta
đã hơi nổi. Năm 1383, Nghệ hoàng sai Quý Ly đem chiến thuyền
mới đóng đi đánh Champa, đi đến Nương Loan (Hà Tĩnh) gặp bão,
nhiều thuyền bị hư, quân đội phải rút về.
Tháng 8 âl năm ấy (1383), Chế Bồng Nga cùng tướng La
Khải (La Ngai) đem quân đi đường bộ ra xã Khổng Mục trấn
Quảng Oai (Hà Tĩnh) đánh bại tướng Mật ồ n ở Tam Kỳ. Nghệ
hoàng sỢ hãi, sai Nguyễn Đa Phương ở lại giữ kinh thành, cùng đế
Hiễn chạy sang Đông Ngàn. Có người giữ thuyền lại, xin thượng
hoàng ở lại chống giặc. Nghệ hoàng không chịu.
Quân đội Chăm xưa hèn kém. Từ khi Chê Bồng Nga làm vua,
dậy dỗ tập rèn, thành mạnh tỢn, chịu được gian khổ. Bấy giờ chúng
ra vào nước ta như đi vào chỗ không người. Trong mấy năm vào phá
kinh thành ba lần. Thê mà khi giặc rút đi rồi, Nghệ hoàng cũng
không sửa sang gì để phòng bị về sau. Thật là hèn kém quá.
TÌNH THÊ TRONG N ư ớ c - Bấy giờ trong nước, dân tình đói khổ.
Đê Hiễn sỢ giặc, đem tiền của đi chôn dấu ở chân núi Thiên Kiện
(Thiện Khê, huyện Thanh Liêm, Hà Nam) và ỏ dưới tháp Khả
Lăng thuộc Lạng Giang. (Sau đào núi lấy tiền, núi bị lở, cửa động
lấp kín, không đào được).
Đế Hiễn lại cho rước thần tượng các lăng vùng Thái Bình đưa
cả về An Sinh, phòng quân Chăm xâm phạm.
Nhà nước ngày một hèn yếu. Giặc nay đánh chỗ này, mai
đánh chỗ khác. Quân số thiếu thốn đến nỗi phải sai thiền sư Đại
Than lấy các người khoẻ mạnh trong các nhà sư không có độ điệp,
sung làm lính để đi đánh giặc.
Thuế má thì ngày một nặng. Trước thì chỉ những người có
ruộng đất mới phải đóng tiền, không có gì được miễn. Khi có binh
sự thì có ruộng, bãi dâu, đầm cá, phải nộp thóc, vải cho quân
dùng. Nay kho tàng trống rỗng, Đỗ Tử Bình xin bắt mỗi nam đinh
mỗi năm đóng ba quan tiền thuế. Thuê đinh đồng đều, bất công,
sinh ra từ đấy. May chỉ có ít năm mất mùa nên chưa có nhiều loạn
lạc. Ó Bắc Giang có Nguyễn Bộ xưng là Đường Lang Tử Y tiếm
hiệu xưng vương. Quan quân dẹp được. Nhưng mầm loạn manh
nha nên chỉ mấy năm sau, khắp nước chỗ nào cũng có những cuộc
nổi dậy chông đốì triều đình.
206
NHÀ MINH SÁCH NHIÊU - Bấy giò nhà Minh đã bình định
Trung Quốc. Minh Thái Tổ có ý dòm ngó nước ra, thường sai sứ
sang sách nhiễu. Năm 1384, đòi cấp 5.000 hộc lương cho quân Vân
Nam. Quan quân vận tải có nhiều người chết vì lam chướng. Năm
1385, lại đòi 20 tăng nhân đưa về Kim Lăng. Nghệ hoàng phải
dâng Tuệ Tĩnh thiền sư Nguyễn Bá Tình thánh tổ thuốc nam.
Năm 1386, đòi các cây quý: cau, vải, nhãn, mít. Các cây này không
chịu được rét, chết cả.
NGHỆ HOÀNG THÂT CHÍNH - Nghệ hoàng giữ quyền chính
nhưng việc gì cũng do Lê Quý Ly. Triều thần thì những kẻ xu
nịnh, ai lo thân nấy. Việc nước lâm nguy không ai nghĩ đến. Trần
Nguyên Đán, người tôn thất, thấy quốíc chính rã ròi, cáo quan về
nghỉ. (Nguyên Đán là chắt thượng tướng Quang Khải, có tài làm
văn thơ, thông lịch pháp). Nghệ hoàng một hôm đến thăm, hỏi
hậu sự. Nguyên Đán tâu: Xin bệ hạ thò nhà Minh như cha, yêu nước
Chăm như con thì quốc gia sẽ không việc gì, mà lão thần chết cũng
không hẩm. Ây là chỉ bàn những chuyện làm đầy tớ mà thôi, chứ
không có chí muốn cho nưóc mình cường thịnh. Nguyên Đán biết
rằng Quý Ly rồi tất sẽ cướp ngôi nhà Trần, bèn xin kết thông gia, để
tránh tai vạ. Quý Ly đem người con riêng vỢ gả cho Mộng Dữ, con
trai Nguyên Đán. Vì thê nên sau nhiều người họ Trần bị hại, mà con
cái Nguyên Đán vẫn hưởng phú quý, làm quan.
Nghệ hoàng mò mịt, không biết ai trung ai nịnh, vẫn tin
tưởng Quý Ly hết lòng. Năm 1381, ban cho gươm và cò, có đề chữ:
Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức. Quý Ly làm thơ Nôm, tạ ơn.
ĐẾ HIÊN BỊ HẠI - Năm 1 3 8 1 , đê Hiễn dụ quan Phục hầu đại
vương Húc (con trưởng hoàng thượng) đến, đem giết, không kể tội.
Năm 1388, thấy Quý Ly chỉ thắng được vài trận nhỏ mà lên
mặt kiêu ngạo, Nghệ hoàng lại cứ tin tưởng, nên lo ngại, muốn trừ
bỏ đi đế khỏi gây hoạ về sau, bàn mưu với thái uý Ngạc (con thứ
thượng hoàng) và Lê A Phụ. Vương Nhữ Mai hầu vua đọc sách tiết lộ
việc ấy. Quý Ly vào khóc vối Nghệ hoàng: cổ lai chỉ có bỏ cháu nuôi
con, không ai bỏ con nuôi cháu. Nghệ hoàng hạ chiếu trách tính trẻ
con, có ý hại công thần làm nguy xã tắc, giáng làm Linh Đức đại
vương, đem giam ở chùa Tư Phúc. Tờ chiếu ban ra, có mấy tướng
Nguyễn Khản, Nguyễn Văn Nhi, Nguyễn Na, Lê Lặc, Nguyễn Bát
Sách toan đem quân vào nhà giam cướp vua ra. Nhưng đế Hiễn viết
hai chữ “giải giáp” và không cho được trái mệnh thượng hoàng. Sau
đế Hiễn bị thắt cổ chết. Bọn Lê Á Phu đều bị giết cả.
207
LUẬN VỀ VUA TRẦN HIÊN - Đê Hiễn đem tiền đi chôn dấu, rước
thần tượng các lăng về An Sinh, chí biển tiểu, tự tiện giết Quan
Phục hầu là kém suy xét, 11 năm ở ngôi không làm nên được sự
nghiệp gì, lại làm vua có nhiều phương tiện mà trong việc mưu giết
Quý Ly kém thận trọng kín đáo, để tiết lộ, không phải là trí, nhưng
chết thảm, tình cũng có phàn nào đáng thương. Vua hèn này nếu có
trừ được Quý Ly thì cũng chẳng làm nên trò trốing gì. Không có Quý
Ly ấy thì cũng có Quý Ly khác tranh quyền cướp nước.
Năm 1388, Nghệ hoàng truất phế và giết đế Hiễn, lập người
con út Chiêu Định vương Ngung lên thay, tục hiệu vua Trần
Thuận Tông.
Nghệ hoàng có nhiều con lớn, không lập ai, lại lập người con
út mới 11 tuổi trong khi mình đã già, u mê nghe theo Quý Ly. Giết
đê Hiễn đã là ngu tối, đến việc lập trẻ con thì thực không còn trí
khòn nữa.
LOẠN LẠC TRONG N ư ớ c - Bấy giờ tình hình nước nhà rất bi
thảm. Nhà Minh phương bắc sách nhiễu hết điều nọ đến điều kia.
Người Champa phương nam thường hay sang cướp phá. Trong
triều, Quý Ly chuyên quyền, lấy chân tay cho cai quản quân đội
để vây cánh. Ngoài cõi, nhiều đám giặc nổi lên.
0 Thanh Hoa có Nguyễn Thanh mạo xưng là Linh Đức vương
(đê Hiễn) đi lánh nạn, tụ tập nhiều người ở Lương Giang (sông
Chu), được một sô" dân chúng tin theo.
Lại có Nguyên Kỵ ở Nông Công, xưng là Lô vương, kéo bè lũ
đi cướp phá.
ỏ Quốc Oai (Sơn Tây), người thầy chùa Phạm Sư ồn nổi lên,
xưng danh hiệu lón, cùng Nguyễn Mại, Nguyễn Khả Hành, đem
quân xâm phạm kinh sư năm 1389. Nghệ hoàng và Thuận Tông
bỏ chạy sang Bắc Giang. Bọn Phạm Sư ô n vào được Thăng Long,
ở ba ngày rồi rút về Quốc Oai. Thống tướng Hoàng Phụng Thế
đang đóng quân ở Hoàng Giang chống nhau vói quân Champa,
nghe tin Phạm Sư ồn phạm kinh sư, đem quân vể đánh, bắt được
bọn ấy, giết đi, tha những người bắt hiếp theo giặc khỏi tội.
208
QUÂN CHAMPA XÂM PHẠM - CHẾ BỔNG NGA TỬ TRẬN - Năm
1389, Chế Bồng Nga lại đem quân sang đánh vào Thanh Hoa. Lê
Quý Ly chống giữ được hơn 20 ngày, Giặc phục binh, giả tảng rút
quân về. Quý Ly đem quân thuỷ bộ đánh đuổi, bị phục binh giặc,
có đội tượng binh đỗ ra đánh. Quân ta thua hết, chết hại nhiều.
Quý Ly bỏ kinh xin thêm thuyền bình, không được, xin trả lại
binh quyền. Các tướng Phạm Khả Vĩnh và Nguyễn Đa Phương
chống nhau với giặc ở Ngu Giang. Thê kém, bày cờ giàn thuyền ra,
rồi đêm đến rút quân về.
Nguyễn Đa Phương là tướng giỏi, do Quý Ly tiến cử nhưng
không phục Quý Ly. Quý Ly sỢ Đa Phương lập công được Nghệ
hoàng tin dùng sẽ có hại cho mình, xui Nghệ hoàng giết đi.
Tháng 11 âl năm 1389, quân Champa kéo vào Hoàng Giang.
Nghệ hoàng sai đô tướng Trần Khát Chân đem binh ra chống giữ.
Khát Chân khóc lạy ra đi. Nghệ hoàng cũng khóc (!). Trần Nguyên
Diệu, em đê Hiễn, mưu báo thù, lấy con Nguyên Trác là Nguyên
Đĩnh làm tư đồ, hàn lâm học sĩ Trần Đôn làm thiếu bảo, có Trần
Khang giúp đỡ. Nguyên Diệu và bè lũ đến hàng Chế Bồng Nga.
Khát Chân đem quân đến Hoàng Giang, xem không có chỗ nào
đóng quân tiện lợi, rút về đóng ở Hải Triều, tức khúc sông Luộc, giữa
huyện Hưng Nhân, Thái Bình và huyện Tiên Lữ, Hưng Yên. Tháng
giêng âl nám 1390, Chê Bồng Nga đi thuyền đến xem tình hình quân
Khát Chân. Bấy giờ có tên tiểu hiệu của Chế Bồng Nga có tội sỢ bị
giết chạy sang hàng Khát Chân. Khi Chế Bồng Nga đem 100 chiến
thuyền đến gần, chỉ thuyền Chê Bồng Nga cho Khát Chân biết. Khát
Chân truyền bắn súng lốn vào thuyền ấy. Chê Bồng Nga trúng đạn
chết. Quan quân đổ ra đánh. Quân lính Chăm thấy quốc vương đã
chết, tan vỡ bỏ chạy. Nguyên Diệu cắt lấy đầu Chê Bồng Nga, chạy
về với quân ta, bị đại đội phó Phạm Khả Lặc và đầu ngũ Dương
Ngang giết, cướp lấy thủ cấp Chê Bồng Nga đem về kinh dâng nộp.
Nghệ hoàng vui vẻ, tự ví như Hán Cao Tổ thấy đầu Hạng Vũ.
Nghệ hoàng định công phong Trần Khát Chân làm nội vệ
thượng tướng quân, tưốc Võ Tiết quan nội hầu, Phạm Khả Vĩnh,
xa kỵ thượng tướng quân, tưốc Quan Phục hầu. Trần Nguyên
Đĩnh và Trần Tôn sỢ tội nhảy xuôhg nưốc chết. Gia thần Trần
Khang chạy trôn sang Lão Qua.
Dân chúng Nghệ An, Tân Bình, trước có nhiều người theo
giặc. Thổ hào Phan Mãnh và Phạm Thế Căng không theo. Nghệ
hoàng khen ngợi, cử quản lĩnh các hạt ấy.
209
Chế Bồng Nga đôl vói người nước ta là giặc, nhiều lần
sang đánh cướp nhưng đôi với người Chăm là vị anh hùng đã
rửa nhục cho nước. Nhưng xét thấy Chế Bồng Nga chỉ có đại
tài của một tướng cướp lớn, chưa phải là anh hùng cứu quôc.
Giỏi giang ra, phải đòi đất, rồi kiến thiết lại quôc gia. Thế mà
chỉ cứ một vài năm lại sang cướp của, bắt người bên ta, rồi vội
vã rút quân về. Chuyên môn đi ăn cưóp thì chết vì nghiệp ấy,
cũng là sự thường.
Tướng Chăm La Khải thu nhặt tàn quân, hoả táng Chế Bồng
Nga, rồi trở về nưóc, chiếm ngôi làm vua. Hai con Chế Bồng Nga,
chạy sang ta. Ma Nô Dã Nan được phong làm Hiệu Chính hầu,
Sơn Na, làm Á hầu.
Năm 1391, Quý Ly đi tuần tiễu đất Hoá Châu, xây dựng
thành quách, đào hào đắp luỹ. Tướng Hoàng Phụng Thế đi tuần
tiễu biên giới Champa, bị người Chăm bắt, sau trốn về nưóc được.
Người anh hùng cuối cùng mất rồi. Champa nước nhỏ không
người tài giỏi lãnh đạo, bước vào thòi kỳ suy yếu.
LÊ QUÝ LY CHUYÊN QUYỀN - Từ khi giặc Chăm yên, Quý Ly
càng ngày càng kiêu hãnh. Những người không ăn cánh, Quý Ly
xui Nghệ hoàng giết đi, dù là thân vương. Mà Nghệ hoàng thì mù
quáng, quá tin gian thần quái lạ lùng. Có sĩ phu dâng số tâu Quý
Ly có ý dòm ngó ngôi cao, thời Nghệ hoàng lại đưa cho Quý Ly
xem nên không còn ai dám nói năng gì nữa.
Khi đê Hiễn bị phế, Nghệ hoàng không lập Trang Định
vương Ngạc. Nên Ngạc và Quý Ly có hiềm khích, nhiều khi Ngạc
bị Quý Ly gièm pha. Năm 1391, Ngạc lo sợ, chạy ra Vạn Ninh
(Móng Cái). Nghệ hoàng sai Nguyễn Nhân Liệt gọi trở về. Quý Ly
sai Nhân Liệt đánh chết Ngạc. Nhân Liệt về kinh nói Ngạc bạo
ngược với dân Vạn Ninh nên bị họ giết. Sau Nghệ hoàng hỏi lại.
Nhân Liệt sỢ, tự tử. Quý Ly vẫn không bị nghi ngờ gì (!). Hai
tướng Hoá Châu Phan Mãnh và Chu Bỉnh Khuê không đồng đảng,
bị Quý Ly giết hại. Năm 1392, tôn thất Trần Nhật Chương mưu
giêt Quý Ly, Nghệ hoàng cho là phản bội, đem giết đi.
Uy quyền quý Ly ngày một to, vây cánh ngày một nhiều. Sau
Nghệ hoàng cũng tỉnh ngộ lại thì đã quá muộn, thế không làm sao
được nữa, mới dùng cách vỗ về, mua chuộc mong Quý Ly có hồi
tâm chăng, sai người vẽ tranh Tứ Phụ tặng cho Quý Ly. Tranh vẽ
Chu công giúp Thành vương, Hoắc Quang giúp Chiêu đế, Gia Cát
Lượng giúp Hán Hậu Chủ, Tô Hiến Thành giúp Lý Cao Tông, bảo
210
Quý Ly rằng: Nhà ngươi giúp con trẫm cũng như thế. Bấy giò là
tháng 12 năm 1394.
Sang tháng 4, sau cuộc tuyên thệ, Nghệ hoàng gọi Quý Ly
vào điện, bảo rằng: “Nhà ngươi là thân thuộc, bao nhiêu việc nước,
trẫm đều phó thác cho cả. Nay thế nước suy nhược. Trẫm thì già
rồi. Ngày sau con trẫm có nên giúp thì giúp, không thì nhà ngươi
tự làm lấy”. Nghệ hoàng theo lòi Lưu Bị ký thác con côi cho Gia
Cát LưỢng, mong lung lạc được lòng Quý Ly chăng. Quý Ly cởi
mũ, khấu đầu khóc lóc mà thề rằng: Nếu thần không hết lòng hết
sức giúp vua thì tròi chu đất diệt. Ngày trước Linh Đức vương có
lòng làm hại. Nếu không nhờ uy linh của bệ hạ thì đã ngậm cười
dưới đất, đâu còn ngày nay mà mài thân nghiền côt để báo đền
vạn nhất. Vậy hạ thần đâu có ý gì khác. Xin bệ hạ tỏ lòng ấy cho
và đừng lo ngại gì.
TRẦN NGHỆ TÔNG KHUẤT - Tháng chạp âl năm Nhâm Tuất
(dương lịch đã sang năm 1395), Nghệ hoàng khuất, làm vua 2
năm, làm thái thượng hoàng 22 năm, hưởng thọ 74 tuổi, táng ở
Nguyên lăng xã An Sinh.
Trần Trọng Kim phê bình: Nghệ Tông là vua rất tầm thường,
chí khí đã không có, trí lực cũng kém hàn, để cho kẻ gian thần lừa
đảo, giết hại cả con cháu họ hàng, xa bỏ trung thần nghĩa sĩ, chỉ
yêu dùng một Quý Ly, cho được quyền thế, đến nỗi làm xiêu đô cơ
nghiệp nhà Trần... Vì Nghệ Tông mà nhà Trần mới mất về tay Quý
Ly, mà cũng vì sự rối loạn ấy nên nhà Minh mới sang cưóp phá
nước ta trong 20 năm.
Xét Nghệ Tông chỉ được điều là tính hoà nhã, có đòi sôhg
giản dị, không xa xỉ, nhưng kém tài đức, không biết dùng người, tin
tưởng mù quáng Đỗ Tử Bình, nhất là Lê Quý Ly, uỷ thác Thuận
Tông cho Quý Ly.
216
KỶ NHÀ HÕ (1400 - 1407)
HỔ QUÝ LY
Niên hiệu: Thánh Nguyên 1400
Tháng 2 âl năm 1400, Quý Ly lên ngôi, đổi quốc hiệu là Đại
Ngu. Đặt chức liêm phóng sứ ở các lộ, mở khoa thi thái học sinh
(Nguyễn Trãi và Bùi ưng Đẩu đỗ khoa này), đặt ra kho thương
bình, cấp tiền giấy cho các lộ đóng thóc chứa vào kho. Đe ra uy, sai
Đỗ Mẫn và Hồ Tùng đem thuỷ lục quân 15 vạn đi đánh Champa.
HỔ HÁN THƯONG 1401 -1407
Niên hiệu: Thiệu Thành 1401 - 1402,
Khai Đại 1403 - 1407
Làm vua được mấy tháng, Quý Ly truyền ngôi cho con là Hồ
Hán Thương, lên làm thái thượng hoàng, vẫn giữ quyền chính.
Quý Ly không lập người con lớn Hồ Nguyên Trừng có tài cán hơn,
mà lại lập con thứ, do Hán Thương là con Huy Ninh công chúa,
cháu ngoại Trần Minh Tông, để tiện trình bày với nhà Minh rằng
cháu ngoại lên cầm quyển thay thê nhà Trần.
VIÊC CAI TRI TRONG N ư ớ c - Quý Ly đặc biệt sửa sang việc võ bị,
định sô" quân nam, bắc ban, chia ra làm 12 vệ, mỗi vệ 18 đội, mỗi đội
18 người. Đại quân có 30 đội; trung quân, 20; doanh, 15; đoàn, 10 đội.
Đặt đại tướng thống Bnh các quân. Quý Ly hằng mong có được trăm
vạn quân để’ đánh giặc bắc. Sai lập sổ hộ tịch để tiện việc bắt lính, về
mặt thuỷ, đóng những thuyền lớn, trên có sàn đi, dưới để cho người
chèo chống, tiện cho việc chiến đấu. ơ các cửa biển và những chỗ yếu
trong sông lớn, đều bắt lấy gỗ đóng cọc để giữ giặc. Quý Ly chỉnh đốh
hàng ngũ quân đội, chê tạo vũ khí, lập kho chứa lương thực. Lại cấm
dân uổng rượu, dành gạo dùng nuôi quân.
Về tài chính, có việc đánh thuế vào các thuyền buôn bán,
tăng thuê điền, định lại thuê thân nhiều ít tuỳ theo sô ruộng đất
có đưỢc. Người không có tài sản và cô nhi quả phụ được miễn.
Về việc học hành, thi cử, đặt thêm kỳ thi toán pháp.
Về y tế, đặt ra y tỳ coi việc nước thuốc thang.
Quý Ly định quan chế và hình luật Đại Ngu, sửa sang đường
xá từ Tây Đô đến Hoá Châu, dọc theo đường đặt các trạm, gọj là
đường thiên lý.
217
Đề phòng sự nổi dậy chống đổĩ, nhà Hồ đặt ra phép hạn chế
dừng gia nô, ít nhiều tuỳ theo cấp bậc. Sô" gia nô thừa đem sung quân.
VIỆC GIAO THIỆP VỚI NƯỚC CHAMPA - Năm 1400, vua Champa
La Ngai chết. Quý Ly sai Đỗ Mẫn dẫn thuỷ quân, Hồ Tùng dẫn bộ
quân đi đánh Champa. Quân thuỷ và quân bộ không tiếp ứng
nhau. Quân bộ thiếu lương phải rút về.
Năm 1402, Đỗ Mẫn đi đánh Champa, vua Champa Ba Địch
Lại dâng đất Chiêm Động và c ổ Luỹ (Quảng Nam và Quảng
Ngãi). Quý Ly đặt quan cai trị và cho người vào lập nghiệp, cử Dã
Nan, con Chê Bồng Nga làm quận vương, vỗ về người Chăm.
Năm 1403, nhà Hồ muốn chiêm đất phía nam, sai Phạm
Nguyên Khôi và Đỗ Mẫn đi đánh nữa. Nước Champa, từ trước, bị
áp bức quá, dâng lễ vật xin với nhà Minh bảo hộ. Một vạn quân
Minh được đưa sang giúp. Nhưng chúng không chông nổi vói quân
nhà Hồ đông đúc. Thành Chà Bàn sắp bị hạ thì chợt có binh
thuyền quân Minh đến cứu viện. Nguyên Khôi không muốn dây
với quân Minh, điều đình hai nước đều rút quân về. Quý Ly trách
sao không đánh bại quân Minh đi. Bắc sử chép quân Giao Chỉ sỢ
uy phải rút.
VIỆC BANG GIAO VỚI TRUNG QUỐC - Hồ Hán Thương lên ngôi,
sai sứ sang Minh nói rằng: Dòng dõi nhà Trần không còn ai, xin
lấy danh nghĩa cháu ngoại tạm giữ việc nước. Minh Thành Tổ sai
Dương Bật sang xét. Quý Ly bắt quan viên phụ lão làm tờ khai nói
y như lòi sứ. Hán Thương được phong làm An Nam quốc vương.
Bấy giờ, sứ nhà Minh đi lại liền, khi trưng cầu, khi sách hỏi.
Hán Thương sai người cứu giải, vất vả về ứng đối.
Năm 1405, vua Minh đòi đất Lộc Châu thuộc Lạng Sơn, nói
là đất cũ của châu Tư Minh thuộc Quảng Tây. Quý Ly sai Hoàng
Hôi Khanh cắt 55 thôn c ổ Lâu dâng nhà Minh.
Có ngưòi chê Quý Ly chỉ dùng trưòng trận, không biết dùng
đoản binh. Xét Quý Ly đã biết dùng kế thanh dã (vườn không nhà
trôbg), đóng cọc dưối lòng sông ngăn giặc... không thê không biết tô
chức những đội dân quân du kích. Nhưng đã không dám tạo nên
loại quân đội có thể biến thành lực lượng chông đôd chính quyền.
Vả lại những toán quân nhẹ nhàng, lanh lợi, khi xuất hiện, chỉ có
thê quấy rối, tiêu hao phần nào địch, giúp đỡ quân đội chính quy
chứ không diệt được giặc.
224
KỶ HẬU TRẦN
Quân Minh sang đánh nước ta, diệt nhà Hồ, đặt nền đô hộ.
Kẻ tiểu nhân bèn xô ra làm quan với giặc. Nhân sĩ biết giữ liêm sỉ
như Bùi Ung Đẩu, Lê Tư cầu, trốh tránh không chịu theo. Nhân
dân ta không phục quân cưốp nước. Các hào kiệt lãnh đạo quần
chúng khởi nghĩa chôLg đốì ngay từ mùa thu năm 1407.
Con cháu nhà Trần còn có anh tài nổi dậy mưu khôi phục độc
lập nưốc nhà. Ngoài Trần Nguyệt Hồ, Trần Quỹ, Trần Quý
Khoách còn có Trần Nguyên Thôi, năm 1408, dấy quân ở châu
Tam Đái, Trần Nguyên Khang ở châu Thái Nguyên. Nguyên Khôi
và Nguyên Khang hoạt động trong phạm vi không lốn lắm, lại
không cầm cự được lâu dài nên ít được sử sách nói đến. Trần Quỹ,
Trần Quý Khoách có xưng đế, đặt niên hiệu, quốc sử chép là nhà
Hậu Trần, kê ra có vẻ gượng gạo, thực sự chỉ là những tướng chỉ
huy nghĩa quân chông lại quân nhà Minh.
Giản Định vương Trần Quỹ (có sách chép Ngỗi?) là con
thứ vua Nghệ Tông, lẩn lút ở Mô Độ (bến Yên Mô, Ninh Bình),
biết việc Trương Phụ yết bảng gọi con cháu nhà Trần là giả dối
nên không chịu ra. Có thuyết ông đã ra nhận nhưng thấy thái độ
của Trương Phụ đáng ngờ nên bỏ trổn cùng với Trần Hy Cát.
Tháng 10 âl năm 1407, cô Trần Thiện Cơ, người Thiên Trường,
xin lập danh hiệu cũ. Trần Quỹ xưng là Giản Định hoàng đế, đặt niên
hiệu Hưng Khánh. Quân Minh đến đánh. Quân sĩ mối chiêu tập
không địch lại nổi, phải thua chạy vào Nghệ An. Đại tri châu Hoá
Đặng Tất, quan cũ nhà Trần, giết quan nhà Minh, cùng tuỳ tướng
Nguyễn Cảnh Chân, dẫn quân sĩ đến họp, mưu việc khởi nghĩa. Giản
Định phong Tất hàm quốc công, cùng nhau mưu việc lớn. Tất và cảnh
Chân trở thành thủ hnh chủ chốt của nghĩa quân.
Cũng năm 1407, có Trần Nguyệt Hồ nổi dậy ở Bình Than,
được thổ hào Đông Triều Phạm Chấn giúp đỡ, gọi là Trung Nghĩa
quân. Quân Minh đến đánh. Trần Nguyệt Hồ bị bắt giết. Phạm
Chấn chạy trốn. Giản Định sai Trần Nguyên Tôn, Trần Dương
Đính, Trần Ngạn Chiêu đến cùng với Phạm Chấn thu nhặt tàn
quân lại đến đóng ở Bình Than. Quân Minh lại đến đánh tan rã.
225
Các thủ lĩnh bèn cùng nhau kéo quân về cả Nghệ An, dưới cò Giản
Định, Nghĩa quân đã tập hỢp được lực lượng khá lớn. Đầu năm
1408, Trương Phụ đem nhiều quân đến đàn áp. Nghĩa quân p h ả i
rút lui vào Hoá Châu. Phụ dùng thổ hào Phạm Thế Căng làm tri
châu Tân Bình, rồi trở ra Đông Quan.
Tháng 4 âl, nghĩa quân trỏ ra tiến đánh lấy Nghệ An, Thanh
Hoa. Lũ Trần Thúc Dao giữ Diễn Châu, Trần Nhật Chiêu giữ
Nghệ An, nhận quan chức nhà Minh, không ngả theo, bị bắt giết
cùng gia quyến và thuộc hạ hơn 600 người. Giản Định tàn ác,
đáng chỉ giết ít người cầm đầu thôi.
Tháng 6 âl, Đặng Tất đánh phá được hàng tưóng Phạm Thế
Căng ở cửa Nhật Lệ, bắt được Thế Căng giết đi.
Nghĩa quân đã làm chủ được khu vực rộng lớn, suốt từ
Thanh Hoa trở vào. Nhân dân các nơi hưởng ứng, đua nhau theo
về càng ngày càng đông. Quan nhà Minh, giả nhân giả nghĩa để
mua chuộc lòng dân, tha hết những người nổi dậy bị bắt, nói là thể
theo lòng chí nhân của vua Minh, không nỡ trị tội những kẻ ngu
dốt, bị dụ dỗ hay ép buộc theo quân phiến loạn.
TRẬN BÔ CÔ - QUỐC CÔNG ĐẶNG TẤT ĐẠI PHÁ QUÂN M INH -
Nghĩa quân thắng lớn, quan nhà Minh ở Đông Quan cáo cấp về
triều. Vua Minh sai Mộc Thạnh đem 4 vạn quân từ Vân Nam tiến
sang. Đồng thời sai sứ mang sắc chiêu hàng, nếu thuận theo thì
cho làm quan đòi đòi. Có thể rằng dụ Giản Định nộp đất nưóc ta
vào bản đồ Trung Quốc, giữ chức quan to phụ tá cho quan người
Hoa, đặc biệt được thế tập. Giản Định không chịu.
Mộc Thạnh đến Đông Quan, hỢp quân với đô tỳ Lữ Nghị,
cộng 6 vạn quân nam tiến đánh quân Trần.
Bấy giờ, Giản Định, Tất và cảnh Chân điều động quân sĩ các
lộ Thuận Hoá, Tân Bình, Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hoa, bắc
tiến mưu khôi phục Đông Đô. Công cuộc tiến quân gặp được nhiều
thuận lợi qua Trường Yên (Ninh Bình), quan cũ và hào kiệt hưởng
ứng theo nhiều. Tất chọn những người tài năng bổ dụng. Lòng
người phấn chấn. Thế quân mạnh mẽ.
Đạo nghĩa quân nghiêm chỉnh tiến ra, chợt có tin báo quân
Mộc Thạnh kéo xuống, bèn dàn quân ở Bô Cô chống giặc. (Bô Cô
nay là xã cầu cổ huyện Phong Doanh, Nam Định, bên kia bến đò
tỉnh lỵ Ninh Bình), sử chép sông này là sông Thanh Quyết. Quân
Trần đóng cọc giữa sông và đắp luỹ hai bên bờ sông. Quân đôi bên
gặp nhau giữa buổi nước triều lên và gió thổi mạnh. Chiến trận vô
226
cùng kịch liệt diễn ra. Giản Định tự tay cầm dùi trông, tưóng tá sĩ
tôt hết sức hăng hái xung đột từ giò Tỵ đến giờ Thân (9 đến 16
giò). Quân Minh đại bại. Đô ty Lữ Nghị, thượng thư Lưu Tuy (hay
Tuấn) và nhiều tướng tá Minh chết tại trận. Binh sĩ Minh chết
vãn. (ĐVSKTT chép 10 vạn, e có quá đáng). Mộc Thạnh đem được
ít tàn quân chạy thoát được về thành cổ Lộng, thành quân Minh
mối xây ở xã Bình Cách, huyện Ý Yên, Nam Định. Trận này diễn
ra ngày 14 - 12 âl. Minh sử thừa nhận Mộc Thạnh có thua to ở
sông Thanh Quyết.
B ả n đ ồ q u â n H ậu T rần ch ốn g q u a n q u â n M in h
c h iế m đ ó n g l4 0 7 -1 4 1 3 đ ê xem vị trí c á c nơi có ch iến trận
227
Giản Định muốn thừa thắng, tiến quân lên đánh lấy lại Đông
Đô ngay. Đặng Tất ngăn lại, muổh bắt hết bọn giặc sông sót,
không để lo ngại về sau. Vua tôi tính dùng dằng không quả quyết.
Quân Minh ở Đông Quan kéo đến giải thoát Mộc Thạnh. Tất chia
quân vây các thành ở châu, p h ủ , đưa tờ hịch đi các lộ hội hỢp binh
sĩ tính việc đánh quân Minh.
Phê bình sự việc này, các sử gia ý kiến khác nhau. Nhiều
người cho rằng đã để mất cơ hội tôt lúc thê đang hăng và giặc
trong lúc không ngờ, có thể khôi phục kinh đô cũ. Người khác cho
rằng Tất thận trọng cũng phải: Nơi trung tâm giặc đóng quân, dễ
gì đánh thắng ngay được. Xét tiến công sớm ngay thì may có thê
thắng được nhưng không phải là chắc chắn được. Nhưng thế quân
Trần bấy giờ đáng phải nên táo bạo cầu may. Do sự không đồng ý
trong việc tiến quân này nên vua tôi không được hoà thuận.
LẦM LỖI CỦA GIẢN ĐỊNH - Tháng 2 âl năm 1409, Giản Định
đóng quân ở Hoàng Giang. Có vài người tâu Tất và cản h Chân
chuyên quyền, bổ dụng người này, cất nhắc người kia, nếu không
tính sớm, sau này khó lòng kiềm chê được. Giản Định cho gọi hai
ông đến, đem giết đi.
Giản Định tàn ác lại ngu dốt, giết hại người có công lớn và lỗi
nhỏ, tự mình chặt chân tay mình. Do vụ này, có tưống bỏ đi, nhiều
hào kiệt đang sẵn đến phò tá, thấy thê lại thôi. Các toán quân nổi
dậy chống đối nhỏ e ngại không muốn hỢp tác. Cuộc khởi nghĩa
đang phát triển mạnh mẽ thì bị ngưng lại.
Có sử gia phê bình Giản Định vô tài bất đức, tuy có nặng nề
nhưng không phải là sai. Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân là quan
cũ nhà Trần, từng theo nhà Hồ, rồi lại theo giặc Minh nhưng sau
biết cải tà quy chính, giết quan nhà Minh về với Giản Định khởi
nghĩa, lập nhiều công lớn, chỉ vì tự chuyên, làm việc không thỉnh ý
vua, bị giết oan uổng, tình rất đáng thương.
Đặng Tất và Nguyễn cảnh Chân bị giết. Các con hai ông là
Đặng Dung và Nguyễn cảnh Dị đem quân bản bộ vào Thanh Hoa,
đón Trần Quý Khoách đến Nghệ An, lập làm vua. Quý Khoách là
con Mẫn vương Ngạc, cháu Nghệ Tông, tháng 3 âl năm 1409, lên
ngôi ở huyện Chi An nay là huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh, dùng
228
Nguyễn Suý làm thái phó, Nguyễn Cảnh Dị làm thái bảo, Đặng
Dung làm bình chương sự, Nguyễn Chương làm tư đồ, cùng nhau
chiến đấu chống quan quân nhà Minh.
Bấy giờ, Giản Định đóng quân ở thành Ngự Thiên huyện
Hưng Nhân, Thái Bình ngày nay. Trùng Quang (Quý Khoách) sai
Nguyễn Suý hỢp quân đánh lừa bắt được, đưa về Nghệ An. Trùng
Quang ra đón rước, tôn làm thái thượng hoàng, cùng mưu việc
phục quôc. Đây là hành động sáng suốt, thống nhất nghĩa quân
thành một khôi mạnh mẽ. Không hiểu ý tốt ấy, tháng 4 âl, Lê
Triệt và Lê Nguyên Dĩnh, tuỳ tướng của Giản Định, dấy quân
mưu đánh ú p Trùng Quang, bị Trùng Quang bắt được, đem giết
đi, binh sĩ thì tha.
Quân Trần đã làm chủ được từ Thiên Trường, Trường Yên
trở vào hoạt động mạnh mẽ, tiếp tục bắc tiến. Giản Định đóng
quân ở Hạ Hồng, Ninh Giang. Trùng Quang ở Bình Than. Thanh
thê nổi lốn. Hào kiệt các nơi hưởng ứng, uy hiếp Đông Quan. Quan
quân Minh đóng cửa thành cô" thủ, chò viện binh. Sau trận thua ở
Bô Cô, Mộc Thạnh cáo cấp về triều xin cứu viện binh lương.
Các năm 1408, 1409, song song vói Giản Định, Trùng Quang,
tại nhiều nơi ở Bắc Việt, có những toán nghĩa quân cùng nổi dậy.
Đáng kê hơn có cả Hoàng Cứ Liêm ở Quảng Oai, Hoàng Thiêm
Hữu và Ong Nguyện ở phủ Lạng Giang. Lại có tưống Nguyễn Sư
Coì ở Nghi Dương, Kiến An xưng vương, dưói trưóng có tướng Đỗ
Nguyên Thô" cùng hai vạn quân, lực lượng hùng hậu.
Mùa thu năm 1409, Trương Phụ và Vương Hữu đem 47 ngàn
quân sang cứu viện. Phụ phốĩ hỢp với quân Thạnh tấn công vũ
bão càn quét các đám nghĩa quân ở vùng Từ Liêm và Quảng Oai,
rồi đánh xuống miền dưới, chiếm trở lại nhiều thành trì.
Tháng 7 âl, Giản Định ở Hạ Hồng bị đại quân Minh hung dữ đến
đánh. Giản Định thua, bỏ thuyền, dẫn quân bộ chạy vào Diễn Châu.
Đặng Dung giữ cửa Hàm Tử, lực lượng có 2 vạn quân, 600
thuyền. Quân đội thiếu lương ăn, phải gặt lúa non. Tháng 8 âl,
Phụ đem thuỷ sư đến đánh mạnh. Các tướng Minh Trần Húc, Chu
Quảng, Dư Nhượng, Phương Chính, binh thuyền cùng tiến. Quân
Dung kịch liệt chông cự. Giặc khó nhọc nhiều mối thắng, giết
3.000 quân, bắt sông 200, cướp 400 thuyền.
Hàm Tử thất thủ. Trùng Quang thê không giữ nổi miền bắc,
rút quân vào Nghệ An. Quân Minh thu hồi các đồn trại vùng
trung châu bắc Việt, đặt quan chức cai trị. Trương Phụ phong
229
quan cho những người chiêu dụ được dân theo chúng, đi đến đâu
cũng giết hại quân dân, làm những điều tàn bạo dã man ghê gớm,
sắp xác người thành núi, rút ruột người treo lên cây, rán thịt
người lấy mỡ, mổ bụng đàn bà chửa.
Tháng 10 âl, Phụ, Thạnh đem đại binh thuỷ lục vào đánh
Thanh Hoa. Các tưống Đặng Dung, Nguyễn Suý, Hồ Bôl,
Nguyễn Cảnh Dị chông cự kịch liệt nhưng không lại, phải thua
chạy cả.
Bấy giò, Giản Định ở Diễn Châu bí mật dẫn quân đi đường
rừng núi định ra Thiên Quan (Ninh Bình), nơi đó có nghĩa quân
nằm vùng, mưu sự chông lại địch. Phụ biết được, cô" tình truy tìm
bắt cho kỳ được, chia 24.000 quân làm ba đạo, tự mình giữ một;
Thạnh đạo thứ hai; đô đôíc Chu Vinh và chỉ huy La Vân, đạo thứ
ba. Chúng bủa quân đi khắp nơi tìm bắt Giản Định, không ngại
rừng sâu. Tháng 11 âl, Phụ bắt được Giản Định và các tướng văn
võ Trần Hy Cát, Nguyễn Nhữ Lê, Nguyễn Án ở huyện Mỹ Lương,
giáp giới Sơn Tây và phủ Nho Quan. Chúng đã vừa dụ dỗ, vừa đe
doạ, lại mua chuộc bằng tiền bạc dân bản địa người Mường để
được chỉ dẫn nơi vua tôi Giản Định ẩn náu.
Phụ nói là đem Giản Định giải vê Kim Lăng nhưng sai người
giết ngầm đi. Bấy giò là tháng 11 âl năm 1409.
Giản Định đế Trần Quỹ (Ngỗi) có được khí phách, tài không
cao lắm, đức kém, tàn ác lại thiếu sáng suốt, nhưng chết thảm,
tình có phần nào đáng thương.
Giản Định bị bắt rồi, Trùng Quang còn giữ được Nghệ An,
Diễn Châu trở vào. Phụ không tiến đánh ngay, do tình hình ngoài
bắc không yên.
Vắng bóng Phụ, Thạnh, nhiều đám nghĩa quân hoạt động trở
lại ngay cả cạnh nách Đông Quan... Phụ ra chia binh tuần tiễu các
hạt nghiêm ngặt, đóng thêm nhiều đồn trại.
Tháng 1 âl năm 1410, Phụ dùng đại binh tiến đánh quân
Nguyễn Sư Cốĩ và Nguyên Thô" ở Đông Triều, thế hung dữ. Nghĩa
quân chông chọi mạnh nhưng không lại với quân Minh thiện
chiến. 4.500 binh sĩ bị giết. Các tưống Phạm Chí, Trần Nguyên
Khánh, Nguyễn Huân Trụ, cùng 2.000 binh sĩ bị bắt sông. Phụ
đem chém cả, rồi đắp mộ chung.
Bên Trung Quôé có người Thát Đát nổi dậy. Vua Minh triệu Phụ
về nước. Thời cơ thuận tiện cho nghĩa quân Trùng Quang hoạt động
mạnh mẽ trở lại. Tháng 5 âl, Trùng Quang đưa bọn cảnh Dị tiến quân
230
ra bắc, đến bên La Châu Hồng, phá được quân của đô đốc Giang Hạo,
thừa thắng kéo quân đên Bình Than, đôt phá gần hết thuyền trại của
quân Minh. Các hào kiệt nghe tin đều hưởng ứng. Đồng Mạc ở Thanh
Hoa, tự xưng là Lỗ Lược tưóng quân, chiêu tập quân nghĩa dũng, đánh
giết được nhiều giặc, bắt được chỉ huy Tả Dịch; Vương Tuyên (Đán) thế
cùng, tự vẫn. Trùng Quang phong Mạc làm thủ quản Thanh Hoa. Lại
có Nguyễn Ngân Hà cũng là người giỏi trong đám hào kiệt.
Các toán nghĩa quân nhỏ quanh thành Đông Quan, năm
trước xẹp đi, lại dấy lên. Lê Nhị ở Thanh Oai giết cha con đô ty Lữ
Vượng, chiếm giữ Từ Liêm. Lê Khang, Đỗ Cốĩ, Nguyễn Hiệu cũng
đem quân chông giặc dẻo dai. Do không thống nhất chỉ huy, liên
lạc vối nhau hay với Trùng Quang không chặt chẽ nên không lập
được chiến công lớn. Quân Minh kéo đến đánh thì tan chạy, rồi
khi giặc rút, lại tập hỢp trở lại.
Đại quân Trùng Quang đóng ở Bình Than. Mộc Thạnh tiết sứ
đem quân đến đánh, đều bị đẩy lui. Nhưng Thạnh không thể để
yên quân Trần đóng ngay gần Đông Quan được nên cố tình đi
đánh mãi. Trùng Quang bị quấy rôi nhiều, đành phải rút quân về
miền trong. Quân Thạnh đuổi theo đến Ngu Giang, bắt mất tưống
Lê Long và nhiều binh sĩ.
Quan quân nhà Minh rất khô tâm về các toán nghĩa quân
nhỏ hoạt động khắp nơi, bình được chỗ này thì chỗ khác nổi dậy.
Đi đánh luôn, khó nhọc nhiều mà không sao bình định được.
Chúng bèn đổi phương pháp, dùng người Việt trị người Việt,
thưởng quan cho các người đánh bắt được bọn phiến loạn và cả cho
những ai chiêu dụ được loạn quân về hàng. Tự ý về hàng không bị
trách phạt, lại còn được ban thưởng. Minh Thành Tổ lại giả nhân
giả nghĩa hạ chiếu tha tội cho những quân sĩ ta bị bắt, chỉ trị tội
những người cầm đầu, ban sắc chỉ thưởng công cho lũ phản quốc,
khen ngợi chúng, hứa cho ăn lộc lâu dài.
Nhưng người nưóc ta chẳng mấy ai nghe theo. Quân lính
Minh ngơi tay thì nghĩa quân lại hoạt động ráo riết. Chẳng đâu
được yên ổn. Bọn Mộc Thạnh mệt mỏi, bất lực, lại cáo cấp về triều,
xin Trương Phụ đem nhiều quân sang đối phó tình thê khó khăn.
Tháng 6 âl năm 1411, Trương Phụ lại đem 24.000 quân sang.
Phụ, Thạnh chia quân mở những cuộc tuần tiễu, đàn áp các quân
nghĩa dũng khắp nơi miền trung châu. Qua mùa thu, Phụ, Thạnh
đem đại quân vào đánh Thanh Hoa. Lần này, quân Trần phòng thủ
cẩn mật, đóng cọc hơn 40 trướng sông Nguyệt Thường (khúc sông
231
Mã phía dưói Hàm Rồng), dựng rào hai bên bò: 3 dặm, bày hơn 300
thuyền. Các tướng Suý, Bôi, cảnh Dị, Dung cùng quân sĩ hăng hái
cự địch nhưng không lại với lũ Chu Quảng, Phương Chính, thế hung
dữ. Quân Trần thua, tan vỡ, các tướng Đặng Tông Tắc, Lê Khắc Di,
Nguyễn Trung, Nguyễn Hiệu bị giặc bắt vối 120 thuyền.
Trong klỊíi địch tập trung lực lượng vào miền trung thì nghĩa
quân Lê Nhị, Phạm Khang đánh mạnh ngay vào quanh thành
Đông Quan, phá cầu phao sông Nhuệ, chiếm giữ miền Thạch
Thất, Sơn Tây, Phúc Yên, Thường Tín. Nông Văn Lịch hoạt động
giữ đất Lạng Giang, chẹn đường người Minh về nưốc. Nguyễn
Liêu chiêu tập người các huyện Lục Na, Vũ Lê (Bắc Giang) đánh
cướp quân Minh, ơ Tuyên Hoá (Định Hoá, Thái Nguyên) và Lạng
Châu, Ông Lão và các toán quân Áo Đỏ tiếp tục hoạt động. Phong
trào lên mạnh, cứ đà này chẳng mấy lúc tràn ra khắp nước. Phụ,
Thạnh, vội vã rút quân về Đông Quan, mưu bình định xứ sở.
Phụ đánh mạnh vào quân của Nhị, Khang. Nhị bị trúng tên
chết. Tướng Nguyễn Đà bị chém, Dương Nhữ Mai, Phùng Hấp bị
bắt. 1.500 binh sĩ tử trận. Khảng cùng các tướng Đỗ Cả Đán,
Nguyễn Tư Châm cũng đều bị bắt. Phụ bảo vệ được thành Đông
Quan, ổn định miền ngoại vi nhưng không sao dẹp yên được
những đám xa xôi, một phần vì nghĩa quân có tai mắt tại Đông
Quan, biết ngay được khi giặc sắp sửa tiến quân, bỏ chạy vào rừng
sâu. Chúng đến nơi chẳng bắt được gì.
Khi mới lên ngôi, Trùng Quang sai Trần Nguyên Nhật và Lê
Ngân sang sứ nhà Minh xin phong. Minh Thành Tổ bắt giam cả
sứ giả, rồi giết đi. Năm 1411, lại sai Hồ Ngạn Thần và Bùi Đột
Ngồn mang sản vật địa phương cùng hình người vàng và bạc đến
Kim Lăng cầu phong lần nữa. Vua Minh giả dối phong Trùng
Quang làm bô" chánh sứ Giao Chỉ và quan tước cho mấy tướng
nhưng một mặt sai Trương Phụ cứ đánh.
Mùa thu năm 1411, khi Phụ, Thạnh ròi Thanh Hoa ra bắc,
Trùng Quang và bọn Nguyễn Suý chia đường tiến ra cửa biển, bắt
giết thô quan Nguyễn Chính ở Bãi Lâm, đánh lấy lại các thành trì
Thanh Hoa và các huyện bò biển vùng này. Sang năm 1412, lợi
dụng lúc quân Minh phân tán đi đánh quân nghĩa dũng các nơi,
Trùng Quang và các tưống tiến ra bắc, lấy lại Trường Yên, Thiên
Quan, đóng quân ở Mô Độ.
Phụ là tướng giỏi, nhiều mưu trí, không những chỉ quen
đánh trường trận, lại dùng nhiều phương pháp c ố ý diệt trừ cho
232
bằng được mọi đoàn nghĩa quân lớn nhỏ. Sau vụ mạc thuý đột
nhập vùng đất Nông Văn Lịch bị trúng tên, người bản xứ không ai
chịu đi tiễu phạt nữa. Phụ không quản ngại khó nhọc, kiên trì đánh
mãi. Mỗi khi đi đánh một toán dù nhỏ, cũng dùng nhiều quân, đem
đi bủa vây rộng rãi, rồi thu hẹp vòng vây lại, lùng bắt cho được người
trôn tránh. Một hai lần không xong thì tiếp tục nhiều lần nữa. Dù
mất nhiều công sức và thòi gian, vẫn không chịu bỏ. Vì thế, các toán
quân nghĩa dũng tan dần, khó tập hỢp trở lại.
Tháng 6 âl năm 1412, bớt lo lắng về tình hình bất ổn ngoài
bắc, Phụ, Thạnh lại tiến quân đánh quân Trần. Đến Trường Yên,
gặp quân Nguyễn Suý, Nguyễn cảnh Dị, Đặng Dung ở Mô Độ.
Trận giao chiến dữ dội diễn ra. Dung cố liều chết cự nhau với Phụ,
rất hăng hái,- Thê quân Minh lốn mạnh hơn quân ta nhiều, giặc
đằng sau cứ tiến mãi. Trong khi Dung cự nhau với Phụ, chưa
phân đưỢc thua, quân Minh ồ ạt kéo đến càng đông. Suý và cảnh
Dị chạy ra biến. Dung cô quân không viện, phải dùng thuyền nhỏ
trốn chạy. Quân Trần trong trận này bị thiệt hại nhiều.
Phụ, Thạnh có thắng nhưng vì không có được dồi dào lương
thục nên chưa đánh ngay vào miền trong. Người Minh rất lưu
tâm đến vấn đề lương thực. Do thu thóc không được nhiều của
dân ta, vua Minh sai tổng binh Hàn Quan vận tải 5 vạn hộc
lương sang tiếp tế cho quân, lại hạ chiếu phủ dụ dân ta: Giao
Chỉ là đất cũ Trung Quốc, nay trở về như xưa. Người Giao Chỉ
được giáo dục theo vương hoá (như thực dân thế kỷ XIX, XX, nói
dìu dắt lên đường vàn minh). Thực tế người Minh không những
chỉ chiếm đất nước ta, còn muôn dân ta theo phong tục và y
phục người Hoa, tức Hán hoá.
Phụ sai các lộ đóng nhiều chiến thuyền. Cuối năm 1412, có
được đủ lương thực và phương tiện vận tải, giặc lại vào miền trung
lần lượt đánh chiếm Thanh Hoa, Nghệ An, Diễn Châu. Vua tôi
Trùng Quang phải chạy vào Tân Bình, Thuận Hoá đóng quân.
Phụ có thói quen đi đánh thành nào, nếu quân đội chịu hàng
ngay thì đôi đãi tử tế, khen thưởng, cho ăn uống, cấp tiền bạc; nếu
chông cự lại bị thua thì chém chết đến người cuối cùng, lại còn
hành hạ cả xác chết nữa. Nên khi chúng đánh vào Thanh, Nghệ,
quân Trần Liệu không địch lại nổi, mà hàng thì không chịu nên
sớm bỏ chạy vào xa. Đến khi giặc ra đi, chỉ để lại không nhiều
quân giữ thành mới chiếm thì trở về đánh lấy lại, cho nên có việc
nhiều thành quách mất đi lấy lại mấy lần.
233
Ngoài bắc, vắng bóng Phụ, phong trào chống đôl từng xẹp
đi, lại trỗi dậy nữa. Phụ phải trở ra đôi phó vối tình thế. Rất
bực tức với những đám đoản binh bất trị này, từng dùng mấy
phương pháp đều vô hiệu, Phụ cô" tình kiên trì đánh mãi, tiêu
diệt cho bằng được. Giặc ra lệnh cho các làng xã, khi có loạn
qu ân tới hay đi qua, phải phi báo ngay, sẽ được khen thưởng;
không trình báo sẽ bị nghiêm trị. Phụ từng làm cỏ nhiều làng
xóm (giết hết già trẻ, trai gái) chứa chấp nghĩa quân. Thế mà
nhân dân vẫn không chịu bỏ quân nghĩa dũng, lâm sự bỏ chạy
trôn mà thôi.
Phụ đánh mãi, ráo riết quá. Phụ đạo Đại Từ Thái Nguyên
Nguyễn Nhuệ nôi quân, đi về núi Tam Đảo, bị Phụ bắt giết. Lưu
Bổng ở Quảng Oai, từng khiến quân Minh phải khó nhọc nhiều,
cũng không cầm cự được lâu dài. Nông Văn Lịch, lừng lẫy một thời
ở Lạng Giang, vì không đứng đắn, bị thủ hạ giết. Quân sĩ không
người tài giỏi cầm đầu, tự giải tán. Nguyễn Liêu ở Bắc Giang,
trước vẫn liên lạc với Trùng Quang, bị tham chính Nguyễn Huân
lừa, xin kết thông gia, dụ đến, đem giết chết. Duy chỉ còn những
toán quân Ao Đỏ, người miền núi, vẫn cầm cự dai dắng, khi ẩn khi
hiện, thường nấp trong rừng sâu, sau theo giúp Bình Định vương
phục quôc.
Sau trận Mô Độ, lực lượng quân Trần sút kém. Trùng
Quang muốn gây lại uy tín vối quần chúng nhân dân, đầu năm
1413, theo lời nghĩa quân ẩn náu ở miền bắc đợi thời, nhân lúc
đại nhân quân Minh chiếm giữ Thanh Nghệ, đem quân ra bắc,
đóng ở Vân Đồn, thu thập lại những tàn quân của Nguyễn Sĩ
Côi, Nguyễn Liêu... cùng nhau cô" gắng đánh chiếm lấy mấy
thành trì, quản trị được khu đất rộng. Nhưng sô" quân đưa ra
không nhiều, sô" chiến sĩ nhặt nhạnh lại được không lớn, mà
đồn trại giặc đóng được canh giữ nghiêm ngặt. Thê chưa mở
cuộc tấn công được ngay. Trong khi còn đang trù trừ, lại được
tin quân Minh đánh vào phía nam, uy hiếp châu Hoan. Trùng
Quang cùng các tướng đành phải bỏ cuộc, chỉ đi tuần tiễu các
vùng Hải Đông, Quảng Yên, Đông Triều, các bãi biển, đánh
vào các đồn lính thú lẻ tẻ người Minh đóng giữ, cướp lấy lương
thực, rồi vội vã đem quân trở về giữ cơ sở.
Tháng 3 âl, quân Trần chiến thắng quân Minh, lấy lại thành
Nghệ An. Thành này mất đi chiếm lại nhiều lần. Giữ được một
tháng Phụ lại tiến đánh. Quân Trần không còn mạnh mẽ gì lắm,
234
phải lui chạy vào Hoá Châu. Thiếu bảo Phan Quý Hựu'*^ hàng
giặc, đem thuộc hạ 17 người tìm đến yết kiến Phụ. Phụ cho Quý
Hựu làm án sát sứ giữ Nghệ An. Được mươi ngày, Quý Hựu ô"m
chết. Phụ cho người con là Liêu làm tri châu. Liêu đem hết tình
hình quân sự, tướng văn tướng võ, giỏi kém thế nào, kể rõ cho Phụ
biết. Phụ quyết đánh vào Hoá Châu.
Tướng Minh Phương Chính đánh bại thuỷ quân Trần ở cửa
biển Thần Đầu. Các tướng Trần Lỗi và Đặng Nhữ Hy bị giặc bắt.
Nguyễn Suý chạy thoát được.
Vào Hoá Châu, Trùng Quang kiểm điểm lại quân đội, thấy sa
sút quá nhiều, thê không còn có thê chông đối bằng trường trận
được nữa, sai Nguyễn Biểu đi sứ, mang sản vật địa phương ra
Nghệ An dâng Phụ, xin phong. Biểu người Bình Hồ, Hà Tình, đỗ
thái học sinh, Phụ bắt giữ Biểu lại. Biểu tức mình luôn mồm chửi
mắng Phụ là giặc cưóp tàn ngược, bị Phụ giết.
Tháng 6 âl, Phụ, Thạnh đem thuỷ lục quân cùng nam tiến,
lần lượt đánh chiếm các đồn binh ở cửa biển, bắt đầu từ của Nhật
Lệ (Đông Hải, Quảng Bình).
Tháng 9 âl, giặc tiến vào Thuận Châu, bắc Quảng Trị. Quân
Trần do các tướng Dung và Suý chỉ huy, giữ sông Thái Già, tức
sông Ái Tử, đặt phục binh mà giữ hiểm ở núi Côn Truyền, bày
trận voi đón đánh địch. Dung ban đêm đánh úp vào dinh của Phụ.
Quân sĩ đôi bên cầm cự nhau kịch liệt trên sông. Dung đã nhảy
được vào thuyền Phụ, muốn bắt sông Phụ mà không nhận ra
người, do đêm tối, ánh đèn không rõ. Phụ vội vàng sang thuyền
nhỏ trôn thoát. Giặc thua, nhiều thuyền ghe bị đốt. Khi ấy quân
của Suý chưa kịp tiếp ứng ngay để hỢp sức mà đánh. Phụ thấy
quân Dung ít, quay quân đánh quật trở lại. Dung thua trận, quân
tan vỡ, bỏ chạy. Trận này quân Trần bị thiệt hại lớn, nhiều tướng
tá bị giặc bắt.
Bị thua trận liên tiếp, lực lượng quân Trần hao mòn nhiều,
không chông chọi lại nổi với giặc mạnh, vua tôi bàn nhau chỉ còn
cách hành thích giết được Phụ, hoạ chăng mới xoay ngược lại được
'*’ Phan Quý Hựu xưa làm trấn thủ dưới triều Trần. Hậu Trần dấy quân, Hựu mưu hoạch
giúp, được phong chức thiếu bảo. Con là Liêu nhận chức quan nhà Minh. Sau thấy quân
Minh gập khó khăn do Bình Định vưcmg khới nghĩa, có ý muốn xưng bá đổ vương, giở giáo
chông lại quản Minh, hên lạc với thiên hộ Trần Đài, chiếm giữ miền thượng du Hà Tĩnh
Nghệ An, được một năm. Sau bị đánh thua, chạy ra Tlianh Hoa, theo phò Bình Định vưcmg.
Chung cuộc bị giết như mấy công thần khác. Đọc ,sử đến chỗ công thần bị hại. ai cũng
thương cảm. Duy trường hợp Liêu thì cho là đáng đời đứa phản trắc quá quắt.
235
tình thế. Tháng 10 âl, Phụ đem chu sư vào vào đánh Hoá Châu, đô
đốc Hoàng Trung đi tiên phong. Suý sai thích khách đội cỏ, thuận
theo dòng nưóc xuống đến thuyền của Phụ. Phụ biết, bắt được,
đem chém. Hôm sau, Hoàng Trung bàn việc, không hỢp ý Phụ,
Phụ giận, kể tội không cẩn mật, đem Trung ra chém.
Mưu sát Phụ thất bại, thê quá yếu, không còn cách gì đánh
lại quân Minh, vua tôi đành chịu bỏ mảnh đất cuối cùng, ra lệnh
g^ải tán quân đội, tìm ẩn náu nơi núi cao rừng rậm xa xăm, đợi
thời cơ may chăng có đến. Nhiều binh sĩ vẫn tòng vong, chịu gian
khổ. Quan chức và các người lánh nạn vào Hoá Châu theo Trùng
Quang trước đây bỏ đi, người sang Champa, người sang Lào.
Phụ đem quân vào Hoá Châu, không gặp sự chống đôl nào.
Công cuộc đáng kể là xong. Nhưng Phụ cô tình bắt quân sĩ bủa đi
khắp nơi, lùng bắt cho được vua tôi Trùng Quang, không quản khó
nhọc trèo núi, băng rừng, vượt sông, đi vào dãy Trường Sơn, sang
cả đất Lào. Lại dụ dỗ, doạ nạt và mua chuộc các thổ dân để chúng
chỉ bảo nơi trú ẩn của người đi trốn. Trong rừng sâu, lôi đi chật
hẹp, thường vướng cành cây có gai, bản thân Phụ xuống ngựa, đi
bộ. Tướng còn thế, quân đâu dám ngại khổ.
Mùa xuân năm 1414, Phụ và Phương Chính theo đuôi đi
sâu vào đất Lào, bắt được Nguyễn cảnh Dị, Đặng Dung và em
Dung là Doãn, cảnh Dị chỉ mặt Phụ, luôn mồm chửi mắng. Phụ
giận, mổ bụng lấy gan án. Nơi đây là sách Chu Bồ Cán, thượng
lưu sông Gianh.
Biệt tưóng Minh Chu Quảng đuổi Suý cũng trên đất Lào, bắt
được gia thuộc của Trùng Quang và của Suý. Suý chạy sang châu
Minh Linh, nương nhò thổ quan Trà Vịnh. Chỉ huy Tiết Tu sang
bắt được Suý, giết Trà Vịnh.
Trùng Quang trốn vào núi Trục Bài ở Nghệ An, bị đô chỉ huy
Sư Hựu đánh úp, chạy sang Lào. Sư Hựu đuổi sâu, vượt ba cửa
quan bắt được ở sách Cập Mông, nay thuộc tỉnh Thakhet.
Tháng 4 âl năm 1414, Trương Phụ đưa Trùng Quang, Suý,
Dung về Đông Quan, rồi sai người giải sang Kim Lăng. Trùng
Quang nhảy xuông sông tự tử. Dung nhảy theo. Mấy ngày sau,
Suý cũng nhảy xuống sông chết.
Vua tôi biết chết theo xã tắc, làm sáng tỏ đến ngàn đời (lòi
phê bình VSTGCM).
Sau khi Hoá Châu thuộc về giặc, người em Trùng Quang là
Trần Quý Tám thu nhặt binh sĩ tản mát khắp vùng Nghệ, Tĩnh,
236
Bô" Chính tập hợp được sô" một đông, chiêu mộ thêm quân nghĩa
dũng, tổ chức đội ngũ, đánh lại quan quân nhà Minh. Đồng thòi có
Nguyễn Tông Biệt, Hoàng Thiêm Hữu cũng nổi dậy. Các toán quân
này cầm cự được dăm bảy thcáng, rồi tan vỡ. Năm 1415, lại có Trần
Nguyệt Hồ (trùng tên với thủ lĩnh nghĩa quân Đông Triều năm
1407) cũng nổi dậy, nhưng cũng không chông đốì được lâu dài.
Công cuộc khởi nghĩa của Trần Quỹ và Trần Quý Khoách
mưu phục quốc và phục Trần không thành, cũng là nghĩa cử đáng
khen. Người lãnh đạo không phải là hèn kém, nhưng tài cán chưa
đủ cao để làm việc vá trời lấp biển. Cha con Đặng Dung, Nguyễn
Cánh DỊ, cùng Nguyễn Suý, Hồ Bôl, các tướng hết lòng phò vua
giúp nước, dũng có thừa, mà tài chưa hẳn đã cao siêư lắm. Binh sĩ
chưa đủ đông đúc, lại mới được tuyến mộ, chưa được huấn luvện kỹ
càng, lại ít kinh nghiệm chiến đấu. Bên Minh, quân đội tinh nhuệ
lại đông đúc, đầy kinh nghiệm chiến đấu, chỉ huy bởi các tướng tài,
đặc biệt được chính quôc tiếp viện binh lương mỗi khi cần. Chiến
đâu trong tình trạng này mà quân khởi nghĩa đã khiến cho quan
quân nhà Minh phải lao đao, triều đình Trung Quôc phải ba lần
tiếp viện quân đội, một lần lương thực. Chông chọi dai dẳng được
dến 7 năm, đáng kế là kỳ công vậy. Lại đóng quân giữ đất được từ
Thanh Hoa trở vào miền trong, trong thời gian dài, khiến cho giặc
không dựng được cơ sở ở vùng này, còn nuôi dưỡng ý chí quật cường
cho nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc khởi nghĩa của Bình
Định vương sau này.
Có điếm đáng tiếc là mấy vua hèn cuôl triều Trần, nhất là vụ
Ciản Dinh giết Đặng Tất và Nguyễn cảnh Chân, khiến nhân dân
ta bấy giờ mất tin tưởng ở người họ Trần. Toàn quốc nơi nào cũng
có những toán quân nghĩa dũng nổi lên chông đôi quân cướp nước,
mà Trùng Quang không tập hỢp được dưới trướng thành một khôi
lớn. mạnh mẽ, thôlig thâ’t. Nếu được thế, chưa chắc đã bị bại vong.
KỶ THUỘC MINH
Quân Minh sang đánh nước ta, diệt nhà Hồ năm 1407, lấy 48
phủ châu, 168 huyện, 3.120.500 hộ, 112 voi, 420 ngựa, 35.750 trâu
bò, 8.865 thuyền. Trương Phụ trỏ về nước tâu trình thành tích nửa
năm tiến quân, cưóp được 235.900 voi ngựa trâu bò. 13.600.000 hộc
thóc, 8.670 thuyền, 2.539.800 vũ khí. Quân chiến thắng không
dựng lại nhà Trần như lời tuyên bô" trước, lại đặt nưóc ta dưối ách
237
đô hộ. Quan nhà Minh cũng tham bạo, độc ác như quan thòi Hán,
Đường. Nhân dân ta cực khổ về sưu cao thuê nặng, lại còn phải
lên rừng kiếm sừng tê, ngà voi, gỗ quý, xuống biển mò ngọc trai,
đồi mồi.
Nhà Minh đặt Giao Chi’ đô chỉ huy sứ ty, thừa tuyên Bô"
Chánh sứ ty, đề hình Án Sát sứ ty và các nha môn phủ châu
huyện. Buổi đầu cử Lữ Nghị giữ đô ty, Hoàng Phúc giữ hai ty Bô"
Chánh và Án Sát. Toàn cõi có 17 phủ, 5 châu, 181 huyện. Huyện
là cấp hành chính dưới phủ châu. Dưới nữa là lý, giáp. Lý có lý
trương, giáp có giáp thủ. ớ thành phô" thì gọi là phường, chung
quanh thành phô" gọi là tương. Một lý thường gồm 110 hộ. Sô"
lượng cơ quan thông trị rất nhiều, như ty thuê khoá huyện nào
cũng có. Đứng đầu mỗi ty lớn là quan người Hoa, chúng dùng
người bản sứ giữ chức phó và chỉ huy cấp dưới.
Người Minh cầu những sĩ phu có tài đức ra làm quan hỢp tác
với chúng. Văn thân, người còn có sĩ khí, không chịu. Bùi ưng Đấu
từ chối, lấy cớ đau mắt. Lý Tử cầu trôn tránh đi ẩn nơi xa. Lê
Cảnh Tuân viết Vạn ngôn thư cho Bùi Bá Kỳ, khuyên về với hàng
ngũ nhân dân chông giặc. Lũ Nguyễn Huân, Lương Nhữ Hốt, Đỗ
Duv Trung, Đỗ Hy Vọng, Lương Sĩ Vĩnh, Dương Cự Giác theo giặc,
khéo xu nịnh, được làm quan to nhỏ, lại ỷ thê người Minh, tàn bạo
với dân lành, vô liêm sỉ. Những kẻ nhận chức quan của giặc,
không phải ai cũng được hưởng phú quý. Trần Thúc Dao, Trần
Nhật Chiêu, Phạm Thê" Căng, Nguyễn Chính bị nghĩa quân giết.
Mạc Thuý bị trúng tên chết. Trần Quốc Kiệt, sau hốì hận, bỏ trô"n
vào rừng, tiếc sao không giở giáo đánh lại quân Minh. Nguyễn
Nhật Kiên, Nguyễn Đại kiêu căng, làm điều trái phép, lại bị giặc
giết đi.
Đê có đủ người làm việc cho chúng sai khiến, quan nhà Minh
lại tìm những người biết chữ, mặt mũi khôi ngô, nói năng hoạt
bát, mạnh khoẻ, kể cả thầy cúng, thầy tướng sô"... đưa về Kim
Lăng, cho theo học lớp huấn luyện một thòi gian, rồi cấp bằng cho
về giữ chức quan nhỏ.
VIỆC THUẾ MÁ - Phép nhà Minh đánh thuê ruộng đất trên
danh nghĩa mỗi mẫu 5 tháng thóc như thời nhà Hồ, bãi dâu mỗi
mẫu một lạng tơ nhưng thực tế dân phải nặng nộp gấp ba, vì mỗi
mẫu chúng bắt ghi thành ba. Những nghề thủ công, người buôn
bán, người khai thác tài nguyên sản vật đểu bị đánh thuê bằng
tiền hoặc bằng hiện vật. Năm 1417, chúng đã thu được 73.549 hộc
238
thóc, 1.229 cân tơ, 573 lạng vàng, 1.072 lạng bạc, 1 vạn quạt giấy,
3.315 cân sơn sông, 500 cân phèn chua.
Chính quyền đô hộ giữ độc quyền buôn bán muối. Mỗi huyện
đều có ty Diêm khoá. Muối sản xuât ra phải nộp quan. Nấu lậu
hay bán lậu phải tội rất ncặng. Người đi đường chỉ được phép mang
nhiều nhất ba bát muôi, một lọ mắm. Thời có quân nghĩa dũng nổi
dậy, lo có đủ lương thực nuôi quân, người Minh không bán muôi
bằng tiền, dù giá đất, mà chi’ đổi lấy thóc, gạo.
VIỆC SƯU DỊCH - Ngưòi Minh lập ra Kim trường cục khai thác
vàng bạc, thái liệu sứ lâm thô sản, châu trường cục, ngọc trai dưới
biến, bắt dân đi khai mỏ quý kim, lên rừng tìm sừng tê, ngà voi,
gỗ quý, xuông biển mò trai kiếm ngọc. Thổ sản như hồ tiêu, hương
liệu phải nộp cống. Thợ khéo bị bắt đưa sang Trung Quốc. Nàm
1407, Trương Phụ bắt đưa sang hơn 7.700 thợ các nghề. Đàn bà,
con gái và trẻ con bị bắt đưa đi làm nô, tỳ. c ả đến những con hát,
phường nhạc, thầy thuốíc cũng chịu chung sô" phận. Dân phu và
thợ thuyền sang làm việc tại các công trường bị bóc lột tàn khốc.
Người khác phải làm nô tỳ các nhà quyển quý. Rất ít người sau
được trở về quê hương. Những thợ thủ công khéo tav, nhất là thợ
đóng thuyền xe, người Minh đưa đi, muôn bắt ở lại hẳn Trung
Quôc nên được phép mang theo vợ con.
PHÉP H ộ THIẾP VÀ HOÀNG SÁCH - Việc điền hộ phải theo như
bên Trung Quốc. Ai cũng phải có giấy biên tên tuổi hương quán đưa
trình mỗi khi có khám hỏi. Giấy này biên theo như trong sổ quan
giữ. Hễ giấy trình ra không hỢp thì người mang phải bắt đi lính.
Các lý, phường, tương phải làm sổ biên tất cả sô" đinh, sô"
điền. Những người tàn tật, cô quả thì biên riêng ra ỏ sau, gọi là kỷ
linh. Sô biên thành 4 bán: Tcập bìa vàng gọi là hoàng sách, dê gửi
về bộ hộ. Ba bản bìa xanh dể ỏ các cấp hành chính.
VỂ BINH LÍNH - Về việc cai trị, người Minh phải cần dùng
nhiều người bản xứ làm quan lại giúp đỡ thì về việc võ bị, chúng
cần lấy nhiều người bản xứ sung vào quân đội. Đe sẵn sàng trấn
áp mọi phản kháng, hệ thông tổ chức quân sự to lốn được dựng
lên. Nhiều đồn luỹ mọc lên khắp nơi, 39 thành luỹ lốn được xây
dựng. Ngay từ năm 1407, lực lượng võ bị gồm 14 vệ và 4 thiên hộ.
Mỗi vệ có 5.600 quân; mỗi thiên hộ 1.120 quân. Việc bắt lính thì
cứ theo sô hộ. Chính quyền đô hộ xét duyệt danh sô quân bản xứ,
lấy một phần ba sô" hộ khẩu, chia lệ vào các vệ sở, mỗi hộ định
mức là 3 đinh. Từ Thanh Hoa trở, vào nam, vì sô" dân đinh ít, định
239
mức mỗi hộ là hai đinh. Chỗ nào không phải là vệ sở mà là nơi
quan yếu thì cũng lập đồn luỹ, lấy dân binh canh giữ.
VIỆC TRẠM DỊCH - Từ thành Đông Quan đi các nơi, trên mọi
đường giao thông thuỷ bộ quan trọng, cứ 10 dặm lại đặt một trạm
dịch. Toàn quõc có đến 374 trạm đảm bảo thông tin và tiếp ứng
quân sự giữa các trung tâm hành chính, các đồn luỹ, vệ sở và cả
vối chính quôc.
VIỆC TẾ Tự - Quan nhà Minh Hoảng Phúc truyền bảo các phủ,
châu, huyện dựng văn miếu và các đàn thò xã tắc, phong vân, sơn
xuyên, cùng bách thần, bôn mùa tế tự. Trong nước có nhiều đàn
trường, chùa, miếu, đền. Chính quyền dô hộ còn lập ra những ty
âm dương học, tăng cương, tăng chính, đạo hội.
VIỆC NGƯỜI MINH MƯU HÁN HOÁ DÂN TỘC TA - Tộ hại hơn Hán,'
Đường, quan nhà Minh còn mưu sự làm cho dán tộc ta mất gốc, đồng
hoá với người Hán. Chúng miệt thị phong tục tập quán ta là man
tục, di tục, cần phải xoá bỏ mà theo vương hoá (văn minh) như người
phương bắc. Chúng muôn xoá bỏ hết tháy những gì là di sản văn hoá
nước ta, phá huỷ hết các bia dá ghi cô]ig đức các anh hùng vĩ nhân
hòng ta quên những văn trị võ c' Ig của tiền bốỉ, không còn nhớ quá
khứ hào hùng, không còn tm tướng ỏ tương lai. Nhiều lần có lệnh đốt
hết các sách vở của nhân dân, kế cả sách học của trẻ em, rồi ban cấp
Tứ thư Ngủ kinh và bộ Tinh lý đại toàn in ở Trung Quôc. Nám 1418,
người Minh vơ vét thu hết thảy các tác phẩm có giá trị về vàn hoá,
nghệ thuật, lịch sử, quân sự của người nước ta, từ triều Trần trở về
trước, đem về Kim Lăng. Sách có nhiều bản thì đem tiêu huỷ đốt bớt
đi. Các sách quý của ta: Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu, Binh thư
yểu lược và Vạn Kiếp bí truyền của Trần Quốc Tuấn, Tứ thư thuyết
ước của Chu An, Việt sử cương mục của Hồ Tôn Thốc, các bộ hình
thư, hình luật triều Lý, triều Trần, bộ Việt Nam thê chí, v.v... ngày
nay không còn biết mất đâu cả gần hết, không còn quyến nào, thật là
điều thiệt hại to lớn cho người mình.
Quan nhà Minh bắt nhân dân ta theo như người Hán về
phong tục và cách ăn mặc. Năm 1414, cấm con trai, con gái cắt tóc
ngắn, nhuộm răng đen; phụ nữ phải mặc áo ngắn, quần dài như
người Hoa. Thực tê chính sách đồng hoá chỉ được thực hiện ở vùng
tỉnh thành, các nơi có quan, quân Minh đóng, còn những nơi xa
xôi vẫn giữ tục cũ.
VIỆC HỌC HÀNH - Năm 1414, quan nhà Minh mở học hiệu tại
các phủ châu huyện, theo lời bàn của tham nghị Bành Đạo Tường.
240
Tuyển giáo quan không phải chỉ lấy những nho sĩ, mà dùng cả các
thầy thuốc, thầy tướng sô, thầy tăng đạo, ai giỏi nghề gì thì cho
dạy nghề ấy. Quan lại hành chính các cấp phải lấy lễ đôi đãi học
quan. Các thầy tăng và đạo sĩ ở tăng đạo ty (cơ quan coi việc thuộc
về đạo Phật và đạo Lão) đi truyền giảng đạo.
Mỗi năm, các phủ châu huyện cử mấy học sinh khá cho vào
học tại Quổíc tử giám để bổ dụng làm quan.
Như vậy, việc giáo dục thòi thuộc Minh không phải có mục
đích mỏ mang dân trí gì.
Học quan bấy giò có Lê cảnh Tuân, người Mộ Trạch, đỗ thái
học sinh năm 1400 triều Hồ, sung chức đại học sĩ, là người có khí
tiết. Sau ra làm giáo thụ khi nhà Minh mở trường học, mong phổ
biến giáo lý Khổng Mạnh, duy trì thế đạo, nhất là truyền bá tư
tương phục quốc. Người Minh nhận biết là tác giả Vạn Ngôn thư,
bắt giải sang Trung Quốc. BỊ quan nhà Minh hạch, ông khảng
khái nói: Tôi là người nưốc Nam nên phải quyết chí bảo tồn nưóc
Nam. Bị giam ở Kim Lăng, sau cùng con là Thái Diên chết bệnh
trong ngục.
C Á C VIỆC LIN H TIN H - Quan nhà Minh rất chú trọng vấn đề
lương thực nuôi quân. Ngoài thóc thu thuế, chúng còn tước đoạt
ruộng đất của dân ta quanh đồn trại làm đồn điền, khiến quân
lính cày cấy lấy hoa lợi nhập kho. Khắp mọi nơi trong nưóc, trừ
Đông Quan, các vệ sở đóng quân đều có việc này.
Tất cả mọi thứ vũ khí đều bị tịch thu. Đóng chiến thuyền,
chê tạo và tàng trữ vũ khí bị kết tội phản nghịch. Đi xa làm ăn
buôn bán phải xin giấy thông hành có ghi rõ nơi đến và thời hạn đi
về. Công nghiệp và thương nghiệp sa sút. Thợ thủ công người khéo
bị đưa sang bắc quổc, thợ còn lại phải chịu thuế nặng. Việc buôn
bán trong nước bị hạn chế, ngoại thương cấm hẳn.
Quan nhà Minh buổi đầu có Hoàng Phúc còn do khả.
ĐVSKTT khen là thông minh, ứng biến, tài cai trị giỏi. Sau Lý
Bân, Mã Kỳ tham bạo quá quắt, sử sách chỉ ghi chép được về
những của cải chính quyền nhà Minh cướp của dân ta, còn những
thứ quan lại, tướng tá, quân sĩ nhà Minh lấy riêng cho bản thân
thì vô sô", không kể xiết được. Quân cưóp nước áp bức bóc lột đã
đành, lũ quan bản xứ vô liêm sỉ, dựa vào thế giặc, còn tham tàn
gian ác, nhiều đứa còn tệ hơn người Minh.
Cực khổ dưới ách thống trị bạo ngược, người dân hiền lành
cũng sẵn sàng theo hào kiệt nổi dậy chống đốì chính quyền. Suõt
241
thòi gian hơn 20 năm giặc chiếm đóng, không năm nào được yên
ổn. Ngay cả các năm 1414 đến 1417, Trùng Quang đã bại vong,
Bình Định vương chưa nổi dậy, cũng lác đác có mấy toán quân
nghĩa dũng hoạt động. Quân sĩ Hoa phải đi đánh dẹp. Xông pha
mũi tên hòn đạn, đâu phải là điều thích thú. Chiến trận dù có
thắng thì cũng vẫn có ít người bị chết.
Tham nghị Giải Tấn tâu vua Minh: Giao Chỉ đặt quận huyện,
không bằng để nguyên như cũ, phong cho các thô hào cai trị dân
nam. Túng sử có sở đắc cũng không bù được sở thất, cái lợi không
chữa được cái hại. Giải Tấn vì thê bị vua Minh bắt giam, sau ô"m chết
trong ngục. Xâm chiếm nước ta, vua quan Minh được hưởng chút ít
lợi lộc, dân Hoa đâu có được gì. Trước sau có đến hơn chục vạn binh
sĩ bỏ mình. Sự tham vọng đất đai của Minh Thành Tổ khiến dân ta
khổ cực, mà cũng khiến cả dân Hoa bị thiệt thòi tai hại.
Nguyên vàn chữ H á n ^ 'J , tiếng Quan hoá là Lih. âm Hán - Việt là Lỵ. Người nước kiêng
tiếng Ly. phú Lỵ Nhân dổi làm Lý Nhân, dọc chệch là Uri. làu thành quen.
247
Công việc sửa soạn chưa hoàn tất thì tên Việt gian Lương
Nhữ Hôt giữ chức tham chính, xui quan nhà Minh nên sốm trừ
chủ trại Lam Sơn đi, để khỏi lo về sau. Thế không tiện trì hoãn
được nữa, ngày 2 - 1 âl năm 1418, Lê Lỵ (Lợi) dựng cò khởi
nghĩa ở Lam Sơn, tự xưng là Bình Định vương, phong chức cho
các tướng, chia nhau đốc xuất quân đội, truyền hịch khắp bô"n
phương kể tội quân nhà Minh, kêu gọi mọi người cùng hỢp sức
nổi dậy đánh kẻ thù, giải phóng đất nước. Lực lượng nghĩa quân
bấy giờ mới gồm có 200 quân thiết kỵ, 200 nghĩa sĩ, 200 dũng sĩ,
14 voi, sô" quân và phu vận tải 2.000 người, còn rất ít ỏi so với
quân Minh 45.000 người, voi hàng trăm con, Nhưng nổi dậy
chiến đấu mưu tiêu diệt quân cướp nước là có chính nghĩa,
thuận lòng người, hỢp lẽ phải nên mọi người đều có tinh thần
cao, quyết chí hăng hái trừ bạo ngược. Đội quân tiền phong này
tuy phải nguy cấp mấy phen, lại là mẫm mông đầu tiên của lực
lượng nghĩa quân đông đảo và hùng mạnh đánh hàng chục vạn
giặc mười năm về sau.
VỀ C H Í LIN H LẦN THỨ NHẤT - Mã Kỳ ở Tây Đô nghe tin quân
Lam Sơn dựng cò khởi nghĩa, chỉ mấy ngày sau, liền đem quân
đến đàn áp. Nghĩa quân ròi căn cứ rút lên đóng ở núi Lạc Thuỷ,
phủ Quảng Hoá, bô" trí chông giặc. Quân Mã Kỳ kéo theo đến, bị
phục binh đổ ra đánh, hàng ngàn giặc bị tiêu diệt. Ba ngày sau,
được lũ phản bội dẫn đường, quân giặc đông đúc theo lốì tắt, tập
kích vào phía sau. Nghĩa quân bị tổn thất nhiều, phải rút lui về
đóng ở núi Chí Linh^*’. Vợ con Bình Định vương bị giặc bắt. Nghĩa
quân sông những ngày gian khô vối măng và cây cỏ rừng.
Sau đó, nghĩa quân lại trở về Lam Sơn xây dựng lại căn cứ,
bổ sung lực lượng. Khi mới trở về chỉ còn khoảng trăm người.
Mùa thu năm 1418, tổng binh Lý Bân điều quân từ Đông
Quan đến vây quét vùng Lam Sơn. Nghĩa quân lui tổ chức trận
địa phục kích ở Mường Một. Quân Minh chết và bị thương phần
nửa, phải rút về.
VỀ CH Í LIN H LẦN THỨ H A I - Tháng 4 âl năm 1419, Bình Định
vương kéo quân ra đánh lấy đồn Nga Lạc, huyện Nga Sơn, giết
đưỢc tướng Minh Nguyễn Sao, nhưng ngay sau đó, quân địch kéo
' ’ Núi Chí Linh dây không phải là huyện Chí Linh, tinh Hải Dương. VSTGCM chú thích là
ớ phú Trấn Định thuộc Nghệ An, giáp Hà Tĩnh. Sử gia Trần Trọng Kim viết: Lúc â’y nghĩa
quân vần lui tới quanh vùng Nga Sơn. Núi Chí Linh chi ở trong vùng Thanh Hoa.
248
đến đông, quân vương ít không đánh lại được lâu, phải rút lui trỏ
về núi Chí Linh lần thứ hai.
Quan nhà Minh biết rõ Chí Linh là chỗ vương lui tói, đem đại
binh đến vây đánh, quyết tâm tiêu diệt lực lượng nghĩa quân.
Vương lâm vào tình thê nguy cấp lắm. Bấy giò có tưống Lê Lai,
người thôn Động Tú, khảng khái liều mình, tự nguyện thay mặc
áo bào của vương, giả danh là vương, cưỡi voi ra trận đánh nhau
với giặc. Quân Minh dồn lại vây chặt. Lê Lai chốhg cự đến kiệt sức
thì bị bắt đưa về Đông Quan giết chết.
Nhò có Lê Lai bỏ mình cứu chúa, Bình Định vương thoát
được nạn lớn. Quân Minh lầm tưởng diệt trừ được vương bèn lui
về. Vương đem bộ chỉ huy cùng lực lượng đã được cứu thoát lại trở
về Lam Sơn.
BÌNH ĐỊNH VƯƠNG VỂ ĐÓNG ở Lư SƠN - Tướng Minh Phương
Chính lại đem quân đến đàn áp, chiếm đóng thành Khả Lam ở
vùng Lam Sơn. Sau mấy trận tập kích tiêu hao lực lượng địch,
nghĩa quân rút lên đóng ở Lư Sơn (hay Lỗ Sơn) phía tây châu
Quan Hoá, rồi lên đóng ở Mường Thôi, giáp biên giói Ai Lao, tiếp
tục xây dựng lại lực lượng, ơ đây, nghĩa quân được người Ai Lao
giúp đỡ.
Năm ấy, tri phủ Nghệ An Phan Liêu làm phản nhà Minh. 0
Hạ Hồng có Trịnh Công Chứng, Lê Hành; ở Khoái Châu, có
Nguyễn Đạc; ở Hoàng Giang, có Nguyễn Đa Cấu, Trần Nhuế; ở
Thuỷ Đường, có Lê Ngã nổi lên. Quân Minh phải đi đánh dẹp các
nơi, nên Bình Định vương ỏ vùng Thanh Hoa, được nhân dịp
dưỡng uy sức nhuệ.
BÌNH ĐỊNH VƯƠNG VỀ ĐÓNG QUÂN ở L ỗ i GIANG - Tháng 10 âl
năm 1420, Bình Định vương đem quân về đóng ỏ làng Thôi, định
xuống đánh Tâv Đô. Tướng Minh Lý Bân hay tin, đem quân đến
đánh. Vương đặt phục binh ở Bông Tân (bến Bông) đón đánh.
Quân Minh vừa tràn đến đó, bôn mặt phục binh đều trỗi dậy xông
đánh rất dữ, quân địch tan vỡ. Quân ta giết chết và bắt sống được
nhiều giặc, thu được hàng trăm ngựa, phóng hoả đôt hết khí giới
của chúng. Hôm sau, các tướng tưởng thừa thắng đánh vào trại
giặc, bị tổn thương nhiều. Chúng huy động lực lượng lớn tấn công
nữa, lần này cũng bị thiệt hại nặng ở trận địa phục kích tại Thi
Lang, phải rút lui vào các đồn trại cô" thủ. Cuối năm 1420, nghĩa
quân tập kích ở trại Quan Du, địch bị tiêu diệt hàng ngàn tên,
phải lui về cô" thủ Tây Đô. Bình Định vương đem quân về đóng ở
249
Lỗi Giang, khúc sông Mã ở vùng trên huyện cẩm Thuỷ và ở đồn
Ba Lâm, mở rộng hoạt động ra khắp vùng tây bắc Thanh Hoa. Thế
ngày một mạnh. Nhân dân mọi nơi trong nước, không nơi nào
không hướng về vương,
NGUYỄN TRÃI - Khi Bình Định vương về đóng quân ở Lỗi
Giang, có Nguyễn Trãi vào yết kiến, dâng bài sách B inh Ngô.
Vương xem lấy làm hay, dùng làm tham quan.
Nguyễn Trãi là con bảng nhãn Nguyễn Phi Khanh, đỗ tiên sĩ
triều Hồ năm 1400. Khi Nguyễn Phi Khanh bị quân Minh bắt đưa
về bắc quốc, ông theo khóc lóc đến Nam Quan, không chịu trở lại.
Phi Khanh bảo rằng: Con phải về mà lo trả thù cho cha, rửa thẹn
cho nước, chứ đi theo khóc lóc làm gì??Ông trở lại, ngày đêm lo
việc phục thù. Sau ra giúp Bình Định vương bày mưu định kế lo
việc khôi phục non sông.
Nguyễn Trãi là cháu ngoại Trần Nguyên Đán, đôi với Trần
Nguyên Hãn có tình thân qua cát (con cô con cậu). Hai ông đều là
đại công thần khai quốc nhà Lê, sau đều bị giết hại.
CÁ C CUỘC KHỞI NGHĨA KHÁC - Đồng thời với cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn, còn có nhiều cuộc khởi nghĩa chống đối quan quân nhà
Minh lớn nhỏ khác. Đáng kể có Phan Liêu ở Nghệ An, Phạm Ngọc
ở Đồ Sơn (Kiến An) và Lê Nga ở Đường Thuỷ (Kiến An), có quy mô
rộng lớn.
P h a n L iê u - Năm 1419 Phan Liêu, tri phủ Nghệ An, được
mấy tù trưởng phục tòng, phản nhà Minh, liên lạc vói thiên hộ
Trần Đài nổi dậy ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh, đốt phá các châu huyện,
đánh úp Nghệ An. Tổng binh Lý Bân vào đánh, Liêu thua chạy,
rút quân lên miền thượng du lập căn cứ. Cùng với Lộ Văn Luật,
Liêu cầm cự đưỢc với quân Minh hai lần tấn công năm 1420. Sau
bị đánh thua, Liêu và Lộ Văn Luật đem tàn quân ra Thanh Hoa
giúp Bình Định vương.
Liêu là con thiếu bảo Phan Quý Hựu. Cha con phản vua
Trần Trùng Quang. Liêu được Trương Phụ phong làm tri phủ.
Quân Lam Sơn khởi nghĩa, quan nhà Minh gặp khó khăn. Liêu
giở giáo chống lại người Minh với mưu đồ xưng bá đồ vương, chứ
không phải vì thương dân cứu nước. Sau con người giỏ giáo này
theo phò Bình Định vương, chỉ vì không làm gì khác được. Chung
cuộc bị hại như mấy công thần khác.
P h ạ m N g oe - Phạm Ngọc nguyên là sư chùa Đồ Sơn, huyện
An Lão, Kiến An tự xưng là La Bình vương, tập hỢp được nhiều
250
toán quân khởi nghĩa của Đoàn Thừa, Phạm Thiện, Lê Hành, Ngô
Trung, hoạt động mạnh khắp vùng Kiến An. Hai lần tổng binh Lý
Bân đem quân đến đàn áp, nghĩa quân bị thiệt hại, phải phân tán,
chông chọi lai rai đến mùa thu năm 1420.
L ê N g ã - Lê Ngã người huyện Thuỷ Đường (Thuỷ Nguyên,
Kiến An) sau đổi tên là Dương Cung, dấy quân các năm 1419,
1420, tự xưng là con cháu vua Trần Duệ Tông, tự Lão Qua trở về,
kêu gọi quần chúng nông dân nổi dậy tiêu diệt lũ quan quân nhà
Minh đô hộ, được nhiều dân nghèo hưởng ứng, chỉ trong một
tháng, sô^ nghĩa quân lên đến vài vạn người.
Dư đảng của Trịnh Công Chứng và Phạm Ngọc đều quy phụ.
Phụ đạo Đan Bạ (châu Định Lập, Hải Ninh) Bế Thuấn theo phò.
Lê Ngã tự xưng là Thiên Thượng hoàng đế, đặt niên hiệu Vĩnh
Thiên, phong quan chức cho các tưỏng, đúc tiền riêng tiêu dùng,
chiếm cứ miền An Bang, làm chủ khu vực rộng lớn nay là tỉnh
Quảng Yên, Hải Ninh, Bắc Giang. Nghĩa quân nhiều lần tấn công
các thành luỹ quân Minh, đốt phá thành Xương Giang (Bắc
Giang), tập kích đồn Bình Than, uy hiếp nhà quý tộc Trần Thiên
Lại. Lại tổ chức chốhg đốì, bị nghĩa quân giết.
Tổng binh Lý Bân dùng đại binh, mở cuộc tấn công to lớn. Lê
Ngă cùng Bế Thuấn thua trận, ban đêm chạy trôh không biết đi đâu.
Đồng thời, tại gần khắp mọi nơi ở Bắc Việt, còn có những
toán quân nghĩa dũng khác nổi dậy chôYg đốì quan quân nhà
Minh, tiếc rằng không cầm cự được lâu dài. Ây là Trần Mộc Quả ở
châu Vũ Định, Ngô Cự Lại ở huyện Thiên Khê, Đào Cường ở
huyện Thiên Tài, Đinh Tốn Lão ở huyện Đại Loan, Nguyễn Thuật
ở phủ Kiến Xương, Lê Diệt ở huyện Duyên Hà, Nguyễn Đa ở
huyện Thạch ThâT, Phạm Hi ở vùng Tân Minh, Nguyễn Tri ở
Khoái Châu, Nguyễn Câu ở vùng Hoàng Giang. Lại có Nguyễn
Thuật cũng nổi dậy ở vùng Hoàng Giang, giết được tham chính
Hầu Bao.
BÌNH ĐỊN H VƯƠNG PHÁ QUÂN TRẦN TRÍ VÀ QUÂN AI LAO - Nghĩa
quân Lam Sơn tiến triển ngày thêm mạnh. Vua Minh cử Vĩnh
Xương bá Trần Trí đem nhiều quân sang giữ Đông Quan. Tháng
11 âl năm 1421, Trần Trí đem đại binh (Đại Việt thông sử chép
hơn 10 vạn vệ quân) đến đánh trại Ba Lâm ở ải Kinh Lộng, lại đốc
hẹn vối người Ai Lao sang cùng đánh hai mặt. Bình Định vương
hỢp các tướng, bàn quân Minh nhiều, nhưng ở xa đến, còn đương
mỏi mệt, ta đưa quân ra đón đánh ngay tất phải được. Ngay đêm
251
ấy, vương chia quân đánh úp các ngả, phá được 4 trại, chém được
hơn ngàn quân địch, thu được rất nhiều chiến lợi phẩm. Trần Trí
tức giận, ngay sáng hôm sau, kéo toan quân tiên đánh. Vương đã
ngầm đặt phục binh các nơi hiểm ở Đèo Ong để đợi. Khi quân
Trần Trí do đường núi tới, bị hai cánh quân ta đánh vào hai bên.
Trần Trí thua trận, phải rút quân về.
Trong khi quân ta đang chống cự với quân Minh, chưa phân
được thua, bỗng người Ai Lao đem 5 vạn quân và 100 voi đến đóng
ơ phía trước trại quân ta, nói là lại giúp. Bình Định vương không
ngờ là trí trá, hẹn cùng hỢp sức đánh quân Minh. Đến nửa đêm, ta
bị quân Ai Lao đánh úp. Bình Định vương tự đôc chiến, quân ta
đánh rất hàng hái từ nửa đêm đến sáng, phá tan quân Ai Lao,
chém đầu hơn vạn tên, thu 14 voi và hàng vạn chiến lợi phẩm. Tù
trưởng Man Sát xin hoà, ta không nghe. Bên ta có tướng Lê Thạch
bị trúng tên chết.
Thời ấy, nước Ai Lao cường thịnh. Bình Định vương giao
thiệp thân thiện, thỉnh thoảng có đưa quân sang giúp ta. Chỉ vì
thổ quan Lộ Ván Luật trốn sang đấy, đem lòi gièm pha nên vua Ai
Lao sinh lòng oán hận, nghe theo quan nhà Minh sai quân đến
đánh ta.
VỀ CH Í LINH LẦN THỨ BA - Sang năm 1422, Bình Định vương
từ đồn Ba Lâm, tiến quân đánh đồn Quan Du. Bấy giờ tổng binh
Lý Bân đã chết. Tướng Minh Mã Kỳ ước hạn với quân Ai Lao cùng
đánh quân ta. Thê giặc rất hung dữ. Quân ta giao chiến nhiều
ti'ậi^> thường bị tổn thất, bèn lui quân về đóng giữ ở Sách Khối
(sau đổi là huyện Khôi, nằm giữa Nho Quan và Thạch Thành
ngày nay). Vương uý lạo quân sĩ, tu sửa khí giới, được 7 ngày thì
quân Minh và quân Ai Lao lại rầm rộ kéo đến, vây kín bôA mặt.
Quân ta không còn lối thoát ra khỏi nơi “tử địa” này. Tình hình
rất nguy ngập. Vương bàn với các tướng: Giặc vây kín rồi, nếu
không liều sôAg chết mà đánh tháo lấy đường chạy ra thì chết cả.
Quân sĩ đều hăng hái cô" đánh, xông vào chỗ chết để tìm đường
sông, các tướng Lê Linh, Lê Văn, Lê Hào, Lê Triện đích thân xông
ra hãm trận, chém đầu tham tướng Phùng Quý và hơn ngàn quân
cùng hơn trăm ngựa. Mã Kỳ và Trần Trí lui quân, quân Ai Lao
cũng bỏ về nước. Bên ta cũng bị thiệt hại nặng. Vương thu tàn
quân, lại lui về đóng ở núi Chí Linh.
ơ đây, lương thực thiếu thôn. Trong hai tháng quân sĩ toàn
ăn rau cỏ và măng tre. Phải giết 4 con voi và một sô ngựa nuôi
252
quân. Từng trải nhiều phen nguy nan, tướng sĩ mỏi mệt, đều
muôn được nghỉ ngơi, xin vương hãy tạm hoà với giặc. Vương bất
đắc dĩ sai hai thân thần Lê Vận và Lê Trân, đưa thư đến Mã Kỳ
và Sơn Thọ xin hoà. Quan nhà Minh bấy giờ thấy đánh mãi không
lợi, cũng thuận cho hoà.
Quân Minh sau hai nám hao binh tổn tướng, vẫn không dập tắt
được quân khởi nghĩa, muôn chuyên sang dùng biện pháp chính trị
làm tan rã nghĩa quân, theo đúng tinh thần hoà hoãn với thuộc quốc
của triều đình, ý muôn phong quan chức lớn cho vương, gọi về triều
đình Trung Quôc, an trí ở đấy, không cho liên lạc với thuộc hạ nữa.
Nghĩa quân mất người tài giỏi cầm đầu, sẽ tan dần. vả lại, nhà
Minh lại bận tập trung lực lượng đánh quân Thát Đát phương bắc,
không thê tiếp viện thêm quân sang ta, cho nên đề nghị của Bình
Định vương được nhanh chóng chấp thuận ngay.
THỜI GIAN HOÀ HOÃN - Quan nhà Minh thuận cho hoà. Tháng
4 âl năm 1423, Bình Định vương đem quân trở về Lam Sơn, bên
ngoài giả thác hoà thân, bên trong vẫn lo rèn đúc chiến cụ, quyên
tiền, mộ lính, tích súc lực híỢng. Trần Trí và Sơn Thọ hay đem
tặng trâu, bò, muối, cá, nông cụ và thóc giông. Vương cũng sai bọn
Lê Trân đem vàng bạc tặng đáp.
Thòi gian hoà hoãn không kéo dài đưỢc lâu. Trần Trí biết rõ
vương vẫn chuẩn bị chiến đấu, xin hoà chỉ là tạm thời, để nuôi
dưỡng lực lượng ngày thêm hùng mạnh, đợi thời tổng tấn công. Trí
bèn bắt giữ Lê Trân lại, không cho về. Vì vậy, vương tuyệt giao
không đi lại nữa, rồi đem quân về đóng ở núi Lư Sơn. Quan nhà
Minh thì muốn vương đầu hàng, giải tán quân đội. Vương đâu có
chịu nghe theo sự đòi hỏi ấy. Hơn một năm dưỡng sức, nghĩa quân
đã đủ mạnh đê ngang nhiên chốhg đối lại quan quân nhà Minh.
BÌNH ĐỰ4H VƯƠNG LẤY ĐẤT NGHỆ AN - Năm 1424, Minh Thành
Tô chết. Minh Nhân Tông nôi ngôi, giả nhân giả nghĩa, ban chiếu
đình chỉ việc kiếm vàng bạc và các thứ hương liệu ở Giao Chỉ ta,
triệt hồi các giám đôc về công tác trên. Nhưng người nước ta chẳng
ai tin theo mà sao nhãng việc chông đôi.
Tháng 9 âl năm 1424, lực lượng nghĩa quân đã đủ lớn mạnh
đê mở cuộc phản công lớn. Bình Định vương hội các tướng bàn kế
tiến binh. Thiếu uý, Nguyễn Chích người Nông Cống, từng nổi dậy
chống Minh từ năm 1417, sau đem toàn bộ lực lượng gia nhập vào
nghĩa quân Lam Sơn, đổi mang họ Lê bàn; Nghệ An là đất hiểm
yếu, đất rộng người nhiều, nên đánh lấy trước làm căn bản, nhiên
253
hậu sẽ từ từ quay trở ra tính việc lấy lại Đông Đô, như vậy thiên
hạ có thể bình được. Nghệ An là nơi Trùng Quang đã từng làm
chủ lâu dài, xa những trung tâm hành chính và quân sự của địch,
lại là nơi địch mới chiếm, chưa củng cô" vững chắc. Đất này sẽ là
chỗ có đủ điều kiện kinh tế, chính trị, quân sự thuận lợi đê phát
triển lực lượng tiến lên giành thế chủ động.
Bình Định vương chia quân đánh úp thành Đa Căng (huyện
Thọ Xuân, Thanh Hoa), tiêu diệt hơn ngàn quân địch, thu nhiều
lương thực, khí giới. Nguy tham chính Lương Nhữ Hôt chỉ kịp
chạy thoát thân. Tướng của cẩm Bình và Hoà Ánh đem quân đến
cứu, bị đánh thua, chạy vào Tây Đô. Thắng trận, vương ở đấy,
tuyển mộ binh sĩ, tu sửa khí giới, chỉnh đốh hàng ngũ, chứa đủ
lương thực, rồi đem quân thẳng tới Nghệ An do đường châu Trà
Long, vượt qua núi Bồ Lập thuộc châu Quỳ. Trong trận Bồ Lập,
còn gọi là Bồ Đằng, tướng chỉ huy quân Minh đồng tri Sư Hựu
cùng tri phủ Trà Long cầm Bành dẫn 5.000 quân đến đánh vào
mặt tiền. Các tướng Minh là Trần Trí, Lý An, Phương Chính và
Thái Phúc dẫn quân đánh vào mặt hậu quân ta, áp lực cả hai mặt
trước sau. Vương đặt phục binh ở các ngả chờ đợi. Trần Trí dẫn
quân đến, phục binh ta nổi dậy xông đánh, quân địch tan vỡ.
Quân ta chém đầu đô ty Trần Quý (hay Trần Trung) và hơn 2.000
sĩ tốt, thu đưỢc 100 ngựa. Trần Trí và Phương Chính thua chạy.
Hôm sau, quân ta tiến đến trang Trịnh Sơn, đánh phá quân
của Sư Hựu, chém được thiên hộ Trương Ban và hơn ngàn binh sĩ.
Sư Hựu chạy thoát thân.
Vương bèn đóng quân ở Mộc Sách. Trần Trí thu quân về
Nghệ An. Nghĩa quân tiến lên tấn công thành Trà Lân, trụ sở
châu Trà Long, miền huyện Tương Dương, Con Cuông (Nghệ An),
cứ điểm quan trọng của địch khống chế vùng rừng núi miền tây
Nghệ An, án ngữ đường từ miền tây xuống thành Nghệ An và từ
bắc vào nam. Thành này có trên 1.000 quân do tri phủ cẩm Bành,
người bản thổ, chỉ huy đóng giữ. Vương sai sứ giả chiêu hàng,
Bành không chịu, lập doanh trại trên đỉnh núi, chò cứu viện.
Nghĩa quân vây chặt nơi đây.
Quân nhà Minh đóng ở Nghệ An thấy cầm Bành bị vây,
muốn cứu nhưng sỢ không dám tiến quân. Tháng 12, Sơn Thọ sai
người đưa Lê Trân trở về ta, cầu hoà, xin giải vây. Vương thấy
chúng có ý nhát sỢ, hãy vò bằng lòng hoà, viết thư nói muốh trở về
Thanh Hoa, bị cầm Bằng ngăn chặn. Xin cho người tối hoà giải,
254
để thông lối về. Cầm Bành bị vây hãm, chò lâu không được cứu
viện, mở cửa thành ra hàng. (Sau Bành mưu toan trôn đi, bị bắt
giêt). Chiêm được thành Trà Lân, căn cứ nghĩa quân mở rộng,
thanh thê lên cao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc bổ sung lực
lượng. Nguyễn Vĩnh Lộc ở Đông Thành tự chiêu tập quân nghĩa
dũng kéo đến xin theo. Phan Liêu và Lộ Văn Luật ở châu Ngọc Ma
cũng về xin gia nhập. Nhiều tù trưởng Ai Lao vùng biên giới lại
giúp đỡ nghĩa quân. Vương ra lệnh cho quân không được xâm
phạm mảy may của dân, xá tội cho những người trưởc đã lầm lỗi
theo giặc, vỗ về các bộ lạc, khen thưởng các tù trưởng, thanh thế
lừng lẫy.
Vua Minh Nhân Tông từ khi mói lên ngôi, sai Sơn Thọ phủ
dụ Bình Định vương hàng. Vương đâu có chịu từ bỏ mưu đồ phục
quốc, nhưng cũng cho sứ giả qua lại. Sơn Thọ biết rõ kê dụ hàng
không ăn thua gì, lại tuyệt hoà nghị.
Bấy giò, Hoàng Phúc đã trở về nước. Vua Minh sai binh bộ
thượng thư Trần Hiệp sang thay. Trần Hiệp thấy Bình Định
vương đã lấy được thành Trà Lân, khí thê lớn, làm sớ tâu về triều.
Vua Minh hạ chiếu trách mắng bọn Trần Trí, Phương Chính, bắt
phải đánh dẹp ngay cho yên.
Bọn Trần Trí sỢ hãi, huy động toàn lực quân thuỷ bộ, cùng
tiến đánh Bình Định vương, về phần vương, sau khi lấy được châu
Trà Long, tiếp tục lấy lại mấy huyện nữa, đang trù tính tiến quân
đi đánh giải phóng thành Nghệ An thì hay tin giặc kéo đại quân
đến đánh. Vương nói hiện địch rất nhiều quân mà ta ít. Bên ít
quân đánh nhiều, có cách giữ lấy các chỗ hiểm yếu trước, bèn chia
hơn ngàn quân cho Đinh Liệt dẫn đi trước theo đường nhỏ chiếm
lấy huyện Đỗ Gia, gần đồn Linh cảm, nay là huyện Hương Sơn
thuộc Hà Tĩnh, cướp lấy nơi địa lợi. Vương thân đốc đại quân
chiếm đóng các chỗ hiểm yếu mạn thượng du đất Khả Lưu ở mạn
sông Lam, nay thuộc An Sơn, Lương Sơn, Nghệ An. Địch kéo đại
quân đến cửa ải Lậu Thư (Quán Lậu) và Khả Lưu, đóng doanh
trại ở phía dưới dòng nước. Nghĩa quân đóng ở phía trên, ban ngày
kéo cò đánh trốhg ầm ầm, ban đêm đôt đèn đuốc sáng rực trong
trại đế làm nghi binh. Vương sai quân ngầm sang bên kia sông
phục sẵn ở nơi hiểm yếu. Địch dẫn quân đánh vào trại ta. Vương
giả thua chạy lui, dẫn địch đuổi theo vào ổ phục kích. Bôn mặt
phục binh đều trỗi dậy xông pha. Hàng vạn quân Minh bị giết và
chết đuối.
255
Thua trận này, giặc lập trại dựa vào thế núi đóng quân.
Quân sô" chúng còn đông, lương thực còn dồi dào. Vương sai tự đô"t
hết các doanh trại, giả nhií đi trốh tránh, rồi ngầm ra lôi tắt. Địch
thấy vậy, kéo quân đóng vào doanh trại cũ của ta và đắp thêm đồn
luỹ trên núi. Vương ngầm đặt phục binh ở Bồ Ái , sai đội khinh kỵ
đến khiêu chiên. Địch ứng chiến, đến Bồ Á i‘trúng ổ phục kích,
quân sĩ nổi dậy, các tương tranh đua nhau xông trận, đánh phá
quân địch, chém giết vô kể giặc, thâv đầy sông, khí giới đầy
đường, thuyền bè trôi ngang. Quân ta chém được tướng tiên phong
Hoàng Thành, bắt sông đô ty Chu Kiệt và chừng ngàn quân. Trần
Trí và Sơn Thọ chạy thoát được về Nghệ An, cố thủ trong thành.
Sang xuân năm 1425, uy tín Bình Định vương lên cao sau
chiến thắng Khả Lưu và Bồ Ái. Thừa thế, nghĩa quân tiến xuông
giải phóng các châu huyện, vây hãm thành Nghệ An. Thô quân
nhiều nơi không dám chống cự, xin hàng ngay từ đầu. Tri phủ
Ngọc Ma Cầm Quý tự đem 8.000 quân của mình cùng 10 thớt voi
đi theo nghĩa quân. Toàn thể miền đất rộng, người nhiều, giầu có,
trừ thành Nghệ An cô lập, đều do nghĩa quân kiểm soát. Đại quân
đóng ở làng Mỹ Lỗi, huyện Thổ Du, nay là huyện Thiên Lộc, thuộc
Hà Tĩnh. Nhân dân già trẻ các nơi đem rượu thịt đến khao quân,
đón mừng tướng sĩ, bàn nhau không ngờ ngày nay chúng ta lại
đưỢc trông thấy uy nghi nước nhà. Vương cho xây dựng hệ thống
thành luỹ ở núi Thiên Nhãn, phía hữu ngọn sông Lam, đặt tên là
thành Lục Niên để làm căn cứ chính.
Vương hạ lệnh: Nhân dân ta lâu nay đã khổ về chính trị bạo
tàn của người Minh, vậy quân sĩ đi đến châu huyện nào cũng
không đưỢc xâm phạm mảy may của dân. Nếu không phải trâu bò
thóc gạo của nguy quan thì dù có thiếu thốn cũng không được lấy.
Lệnh được thi hành nghiêm chỉnh, về phía nhân dân, ai nấy cũng
đem những trâu bò thóc gạo người Minh đã chứa tích ra tiếp tế
quân sĩ.
Nghĩa quân vây hãm thành Nghệ An nhiều tháng. Quan nhà
Minh cố thủ trong thành không dám ra giao chiến, chỉ chờ đợi cứu
viện. Trong khi ấy, Bình Định vương huấn luyện tương sĩ, tu sửa
khí giới, chiến cụ. Đội ngũ nghiêm chỉnh, thvíởng phạt công minh,
quân sĩ đều hăng hái, nhân dân các vùng đều quy phục.
Tháng 4 âl năm 1425, tham tướng An Bình bá Lý An trấn
thủ Đông Quan đem thuỷ binh đi theo đường ven biển vào cửa
Hội, ngược sông Lam, lên cứu nguy Nghệ An. Vương tính Trần Trí
256
bị vây đã lâu ngày, có viện binh tới tất ra đánh, bèn dời quân đóng
tại cửa sông Quật thuộc huyện Đỗ Gia, sai Lê Ninh dẫn binh phục
nơi bò sông. Trần Trí dẫn hầu hết quân trong thành ra phối hỢp
phản công. Chúng vừa mói tói qua sông nửa sĩ quân, bị phục binh
trỗi dậy đánh phá, mươi thủ cấp bị chém, địch bị chết đuối rất
nhiều. Trần Trí rút quân về Đông Quan, để Lý An, Phương Chính
giữ thành. Từ đó, quân Minh dựa vào thành luỹ kiên cố, nép mình
cố thủ lâu dài, không dám ra giao chiến cùng nghĩa quân nữa.
GIẢI PHÓNG DIỄN CHÂU - VÂY THÀNH TÂY ĐÔ -Trong khi vẫn
tiếp tục vây hãm Nghệ An, tháng 5 âl năm 1425, Bình Định vương
sai tư không Đinh Lễ đem binh ra tấn công thành Diễn Châu, cả
miền đất ba huyện Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu được giải
phóng. Đinh Lễ lại gặp tướng Minh đô ty Trương Hùng đem 300
thuyền lương từ Đông Quan vào tiếp tế cho thành Diễn Châu.
Lương thực vừa đến, quân trong thành ra đón thì lọt vào trận địa
phục kích của nghĩa quân. Địch bị đánh thua tan tác, hàng trăm
tên chết. Đinh Lễ cưốp được toàn bộ thuyền lương, đánh đuổi
Trương Hùng ra đến Tây Đô. Bình Định vương được tin sai các
tướng Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Thiện, Bùi Bị đem quân theo
đường tắt ra Thanh Hoa, phối hỢp với quân Đinh Lễ, đánh úp
thành Tây Đô, chém hơn 300 quân địch, thu nhiều chiến lợi phẩm.
Tướng Minh đóng chặt cửa thành cố thủ. Nhân dân các châu
huyện đều nổi dậy hưởng ứng. Vùng đất Thanh Hoa được giải
phóng. Thành Tây Đô bị nghĩa quân vây chặt. Sau 9 tháng phản
công, nghĩa quân đã làm chủ được đất Thanh, Nghệ, trừ hai thành
Tây Đô và Nghệ An, thì cũng đang bị nghĩa quân vây hãm.
LẤY TÂN BÌNH VÀ THUẬN HOÁ - Lực lượng nghĩa quân lớn
mạnh mau chóng, như diều gặp gió. Bình Định vương xét thấy
Tân Bình và Thuận Hoá, sào huyệt của Trùng Quang xưa, quân
Minh mói chiếm được từ năm 1414, ở đấy lực lượng giặc không
nhiều, lại không liên hệ được với Nghệ An, Tây Đô và Đông Đô,
nơi cơ sở của địch là chỗ yếu, có thể đánh lấy đưỢc dễ dàng. Tháng
7 âl năm 1425, vương sai tư đồ Trần Nguyên Hãn, thượng tưóng
quân Lê Nô, chấp lệnh Lê Đa Bồ, đem hơn ngàn quân đi kinh lược
hai xứ Tân Bình và Thuận Hoá, để chiêu phủ nhân dân, tiến quân
theo đường núi. Lại sai các tướng Lê Ngân, Lê Văn An, Phạm Bối
chỉ huy thuỷ quân gồm 70 chiến thuyền từ Nghệ An theo đường
biển tiến vào. Bội binh đánh phá tướng Minh Nhiệm Năng ở sông
Bô" Chính (sông Gianh, Quảng Bình) án giữ đất Hà Khương. Hai
257
đạo quân thuỷ bộ phối hợp đánh vào thành hai phủ này. Địch lui
vào trong thành cô" thủ. Quân dân toàn vùng xin quy thuận. Ta
thu lục đưỢc vài vạn quân tinh nhuệ sung vào binh sô", thanh thê
càng lớn. Các tướng tôn vương là Thê thiên hành hoá. Từ đấy,
trong những tờ bảng bô cáo cho thiên hạ hoặc những tò dụ đều
nêu bốn chữ này, có nghĩa là thay Tròi làm mọi việc.
Từ Thanh Hoa trở vào đến đèo Hải Vân, đất nưốc đã trở về ta.
Chính quyền đô hộ của quân Minh tan rã, sa vào thế bị vây hãm, cô
lập trong mấy thành luỹ lớn, lực lượng bị phân tán, không liên lạc
được vói nhau và với trung tâm của chúng là thành Đông Quan.
Bên Trung Quôc, năm 1425, Minh Nhân Tông chêt. Minh
Tuyên Tông nối ngôi có ban tò chiếu: “Tha tội bạn nghịch cho các
quan lại và quân dân Giao Chỉ và bãi bỏ hết thay các thứ thuê
trung thâu buôn bán các loại: vàng, bạc, đồng, thiếc, sắt, muôi,
hương và cá, cho người bản xứ tự do mua bán, các quan không
được cấm”.
258
Người Minh biết rõ chê độ đô hộ hà khắc, nhân tình không
ưa nên ban ra tờ chiếu mệnh này, dụ dỗ dân ta theo phục. Nhưng
lòng oán ghét đã sâu, không ai còn tin tưởng lòi giả nhân giả
nghĩa. Đại thể không thể kéo ngược trở lại được.
BÌNH ĐỊNH VƯƠNG TIẾN RA ĐÔNG ĐÔ - Trong khi nghĩa quân
Lam Sơn hoạt động ở vùng Thanh, Nghệ thì ở miền bắc, các toán
nghĩa dũng Áo Đỏ, dân tộc miền núi, từ lâu vẫn ráo riết tung
hoành từ Tuyên Quang đến Gia Hưng (miền Hoà Bình, Sơn La,
Phú Thọ), lan cả sang vùng Vân Nam. Chu Văn Trang khởi nghĩa
ỏ phủ Tuyên Hoá, nay là Định Hoá, Thái Nguyên, đôt phá các
châu huyện. Hoàng An nổi dậy ở châu Quy Hoá (Yên Bái, Lao
Cai). Lực lượng quân đội ở Đông Đô không đủ sức đế đàn áp các
cuộc khởi nghĩa. Trần Trí rút hết quân người Minh và người bản
xứ đang làm đồn điền về bổ sung hàng ngũ quân chiến đấu, lại cáo
cấp về triều xin tiếp viện binh lương, gọi Lý An, Phương Chính
đang giữ Nghệ An, Đông Đô. Minh Tuyên Tông sai thái tử thiếu
bảo Thanh Sơn hầu Vương Thông lĩnh chức Chinh Di tưống quân,
cùng vói đô đốc Mã Anh làm tham tướng, đem 5 vạn sang cứu. Lại
sai Mộc Thạnh đem 15.000 quân bộ và 3.000 quân cung nỏ, từ Vân
Nam sang phói hỢp, ra lệnh tuyển thêm 30.000 quân người bản
thổ để bổ sung.
Đạo quân Vân Nam cùng với quân Trần Trí và Đèo Cát Hãn
tri châu Ninh Viễn mở cuộc hành quân lớn ở vùng tây bắc đàn áp
nghĩa quân Ao Đỏ, nhưng những toán quân này chỉ bất thần xuất
hiện đánh tỉa giặc, rồi lẩn trốn trong rừng sâu. Quân Minh dù
đông cũng không sao tiêu diệt được.
Ngay từ cuối năm 1424, Bình Định vương đã phái một đội
quân ra đánh Lạng Sơn đê phân tán sự chú ý của địch. Trấn thủ
Lạng Sơn Địch Diên bị giết chết. Cuối năm 1425, lại phái Phan
Liêu và Lộ Văn Luật ra hoạt động thăm dò ở vùng Gia Hưng,
Quôh Oai.
Sang năm 1426, nghĩa quân đang vây hãm mấy thành lớn
miền trong, lực lượng quân đội nhà Minh trước đây kéo đông vào
đánh thì một sô' bị tiêu diệt, sô' còn lại thì đang bị cô lập trong vài
thành còn giữ được. Quân đội địch các xứ thuộc Đông Đô yếu kém,
cả vê chất và lượng.
Sau thời gian chuẩn bị kỹ càng, đào tạo được những đoàn
quân hùng mạnh, tháng 8 năm 1426, Bình Định vương sai các
tướng dẫn quân tiến công ra bắc tranh thủ thòi cơ khi quân cứu
259
viện từ chính quôc chưa kịp sang tới nơi. Nghĩa quân ba đạo
cùng tiến.
Đạo thứ nhất, Phạm Văn xảo, Lý Triệq, Trịnh Khả, Đỗ Bí,
Lê Như Thuận dẫn 3.000 quân, 1 voi, đi theo đường Thiên Quan
(Nho Quan) tiến ra đóng ở phía tây, chiêu phủ nhân dân các xứ
Quảng Qpi, Quốc Oai, Gia Hưng, Quy Hoá, Đà Giang, Tam Đái và
Tuyên Quang, chặn đường viện binh từ Vân Nam sang.
Đạo thứ hai, các tướng Lưu Nhân Chú, Bùi Bí, Lê Khuyên
(Trương Văn), Lê Ninh (Nanh) dẫn 2.000 quân, 1 voi, tiến ra phía
đông, đóng giữ vùng hạ lưu sông Hồng. Thiên Trưòng, Tân Hưng,
Kiến Xương, Thượng Hồng (Bình Giang), Hạ Hồng (Ninh Giang),
chặn đường chạy trở về của quân Phương Chính, Lý An từ Nghệ
An nếu thua trận.
Hai đạo quân này, sau khi chiếm được đất, lại chia quân ra
đóng giữ các nơi: Nhân Chú, Bùi Bí cùng Lê Bồi, Lê Vị Tất dẫn
2.000 quân, 1 voi, đi chiêu mộ nhân dân các xứ Khoái Châu, Bắc
Giang, Lạng Giang, đóng giữ các nơi hiểm yếu, ngăn chặn quân
cứu viện từ Lưỡng Quảng tới.
Đạo quân thứ ba, do Đinh Lễ, Nguyễn Trắc (Xí) và Lê Bì dẫn
quân tinh nhuệ tiến thẳng ra thành Đông Đô.
Quân bắc tiến giữ kỷ luật rất nghiêm, đi đến đâu cũng không
xâm phạm tơ hào của dân. Các trấn, các lộ hết thảy đều hoan
nghênh, đua nhau đem thịt trâu, thịt dê, cơm rượu ra khao lạo
quân sĩ.
Bọn Lý Triện lấy được Quốc Oai và Tam Đái, rồi quân về
cùng đánh Đông Đô,
CHIẾN THẮNG NINH KIỀU, NHẤN MỤC - Ngày 12 - 8 âl, Lý Triện
đem 3.000 quân xuống uy hiếp thành Đông Quan. Trần Trí đem
quân ra đóng ở Ninh Kiều'*^ và ở ứng Thiên**^ để chống giữ. Lý
Triện, Lê Khả và Đỗ Bí hết sức chiến đấu. Quân Minh thua to, ta
chém được 2.000 quân địch, đuổi đánh giặc chạy đến phía tây sông
Ninh^*\ Trần Trí thua trận, chạy về Đông Quan, đào hào đắp luỹ
thêm, làm kế cố thủ. Chiến thắng Ninh Kiều không lớn lắm
nhưng rất quan trọng, mở đầu cho một chuỗi chiến thắng khác
trong thòi kỳ nghĩa quân chuyển ra bắc.
Ninh Kiều, Ninh Giang, úhg Thiẽn chắc là vùng huyện Từ Liêm, huyện Thanh Oai, về
những quãng sông Nhuệ Giang và sông Đáy. Mà Ninh Giang có lẽ là khúc sông Đáy ớ vào
quãng Từ Liêm hay Thanh Oai gì đó (theo Trần Trọng Kim trong VNSL).
260
Khi đang đuổi đánh Trần Trí thua chạy, Lý Triện chợt nghe
tin báo có hơn vạn quân Vân Nam kéo sang, sỢ để hai đạo quân
Minh hỢp lại thì khó khó đánh, bèn báo Phạm Văn x ả o đem hơn
ngàn quân bô" trí chặn địch, còn mình vẫn tiếp tục uy hiếp Đông
Quan. Ngày 20 - 9 âl, đô ty Viên LưỢng từ trong thành kéo quân
ra đánh nghĩa quân, lại bị đánh thua tan tác trong trận phục kích
ở cầu Nhân Mục, huyện Hoàn Long, nay thuộc Hà Nội. Viên
Lượng thua to, bị bắt sôhg.
CHIẾN THĂNG XA LỘC - Cùng ngày 20 - 9, trên vùng Tam
Giang, ở cầu Xa Lộc, quân của Phạm Văn x ả o và Trịnh Khả đánh
bại đạo quân cứu viện của địch gồm hơn vạn người do đô ty Vân
Nam vương An Lão chỉ huy. Địch bị giết và chết đuối hơn ngàn
quân. Sô" còn lại chạy vào thành Tam Giang miền Việt Trì, ngã ba
Hạc cô" thủ, không tiến xuông cứu nguy Đông Quan được.
Các đạo quân bắc tiến, sô" lượng không lớn lắm, nhưng có tác
động như chất men, đi đến đâu kích thích phong trào đấu tranh của
nhân dân bấy lâu cực khô dưới ách đô hộ của người Minh đang
ngóng đợi nghĩa quân để nổi lên hưởng ứng, phối hỢp và thực sự trở
thành quân chủ lực nòng cô"t cho lực lượng chiến đấu đông hơn gấp
bội (lời Trương Hữu Quýnh và Nguyễn Đức Nghinh trong LSVN).
Nghĩa quân đi đến đâu cũng được dân chúng hoan hô. Các
toán nghĩa dũng trước kia còn sông sót, mà chưa kịp vào miền
trong đầu quân, nay hô"i hả gia nhập hàng ngũ nghĩa quân. Có cả
những người bị giặc bắt đi lính cho chúng, thấy chúng tàn ác, đã
đào ngũ, nay xung phong đi theo, không kế những tráng đinh thi
đua nhau hăng hái đi tòng quân. Nghĩa quân càng đánh, quân
càng tăng, mặc dầu trong chiến trận, dù có thắng, không sao khỏi
có một sô" người phải bỏ mình.
Ngày 17 - 9 âl, Lý An và Phương Chính theo lời gọi của Trần
Trí, giao chỉ huy Thái Phúc ở lại giữ thành Nghệ An, xuống
thuyền ra biển lúc ban đêm. Quan quân ta phục sẵn chặn đường
về bắc của chúng, bọn ấy cứ đi loanh quanh ở biên. Quân ta ít
thuyền, khó đuổi đánh cho nên chúng sau cũng chạy thoát được.
Bình Định vương để Lê Ngân và một sô" tướng tá ỏ lại vây thành
Nghệ An, đốc xuất thuỷ lục quân đuổi theo Lý An và Phương
Chính ra bắc. Ra đến Thanh Hoa, vương đem binh đánh thành
Tây Đô, nhưng quân Minh còn giữ vững được thành trì, không hạ
được. Vương đem quân đến đóng ở Lỗi Giang, uỷ lạo tướng sĩ, ban
thưởng các phụ lão. Nhiều người trong các châu huyện nghe thấy
261
vương tới, đến cửa quân tình nguyện theo vương xông pha ra trận.
Vương tuỳ tài cho ghép vào các đội quân.
CHIẾN THẮNG TUY ĐỘNG - Tháng 10 âl năm 1426, viện binh
Vương Thông theo đường Lạng Sơn xuông đến Đông Quan. Trần
Trí và Phương Chính phải cách hết cả quan tưóc, bắt phải theo
quân tham chiến. Vương Thông nắm quyền chỉ huy toàn bộ quân
địch, lực lượng gồm 10 vạn binh sĩ. Trần Hiệp giữ chức tham tán
quân vụ. Thông ỷ thế quân đông, quyết mở trận tấn công to lớn,
mưu diệt nghĩa quân, giành lại thế chủ động. Ngày 6 - 10 âl, chia
quân làm ba đạo cùng tiến vào vùng kiểm soát của nghĩa quân ở
phía tây nam Đông Quan.
Đạo thứ nhất do Thông trực tiếp chỉ huy, tiến về phía tây, đóng ở
bến Cổ Sở (bến đò Phùng thuộc huyện Thạch Thất, Sơn Tây).
Đạo thứ hai do Phương Chính, Lý An chỉ huy, tiến vào cầu
Yên Quyết, đến đóng ở Sa Thôi trên sông Nhuệ, huyện Từ Liêm.
Đạo thứ ba do Sơn Thọ, Mã Kỳ chỉ huy, tiến qua cầu Nhân
Mục, đến đóng ở Thanh Oai.
Các đồn luỹ liên tiếp nhau dãy dài hơn mười dặm.
Ngay buổi chiều ngày hôm ấy 6 - 1 0 , bọn Lý Triện, Đỗ Bí ở
Ninh Kiều đem quân và voi đến phục ở cổ Lãm, cho quân đến
đánh nhử Mã Kỳ. Kỳ đem quân đuổi đến cầu Tam La, giữa ba
làng La Khê, La cả, La Nội, giáp giới hai huyện Thanh Oai và Từ
Liêm. Phục binh của Lê Triện đổ ra đánh, quân Minh thua chạy,
nhiều người xuống đồng lầy chạy không được, bị chém hơn 1.000.
Mã Kỳ chạy thoát được về Đông Quan.
Thừa thắng, Lý Triện tiến quân lên đánh đạo quân Phương
Chính. Chính thấy Mã Kỳ đã thua, cảm thấy bị uy hiếp, vội vã rút
quân về Đông Quan, rồi ngay đêm đó, Kỳ và Chính cùng đem
quân về hội với Vương Thông ở cổ sở.
Vương Thông liệu thế tất nghĩa quân đến đánh, liệu phục
binh và phòng bị trước cả. Chợt có quân đội của Lý Triện đến.
Quân Minh giả ra đánh, rồi bỏ chạy, nhử quân ta vào chỗ hiểm có
chông sắt. Đi đến đấy, voi xéo phải chông, đi không được, rồi lại có
phục binh ra đánh. Lý Triện thua chạy về giữ Cao Bộ ở vùng
Chương Đức, Mỹ Lương và cho người về Thanh Đàm, nay là huyện
Thanh Trì, gọi bọn Đinh Lễ và Nguyễn Trắc (Xí) đến cứu. Đinh Lễ
và Nguyễn Trắc đem 3.000 quân và 2 con voi lập tức đêm hôm ấy
đến Cao Bộ, rồi phân binh ra phục ở Tuy Động, xã Tuy An, huyện
Chương Mỹ. Hai nơi này ở vào quãng huyện Chương Đức (sau là
262
Chương Mỹ), phía đông có sông Đáy, phía tây có sông con gọi là
sông Bùi chảy vào sông Đáy, chỗ ngã ba Thá. Cao Bộ thuộc xã
Trung Hoà, huyện Chương Mỹ.
Quan quân chợt bắt được tên thám tử giặc, tra hỏi được biết
rằng: Quân Vương Thông đóng ở Ninh Kiều, có một đạo quân lẻn
ra đường sau quân Lý Triện để đánh tập hậu, đại quân sang dò
chỉ chò lúc nào nghe tiếng súng thì hai mặt đổ lại cùng đánh. Biết
mưu ấy, đến canh năm đêm hôm ấy, Đinh Lễ sai người bắn súng
làm hiệu đánh lừa quân giặc. Quả nhiên, giặc nghe tiếng súng đều
kéo ùa đến đánh. Bấy giò phải độ tròi mưa, đường lầy, quân Minh
vừa đến Tuy Động thì bị quân ta bốn mặt cùng đổ ra đánh. Chiến
trận kịch liệt vô cùng. Quân Minh phần bị giết, phần giày xéo lên
nhau mà chết, phần ngã xuống sông chết đuối, cả thảy 50.000
người (?!); sông Ninh bị tắc nghẽn vì xác địch. Số bị bắt sông hơn
vạn người. Quân ta thu được đồ đạc, khí giới không biết bao nhiêu
mà kê. Thượng thư Trần Hiệp và nội quan Lý Lương bị giết tại
trận. Vương Thông bị trúng thương cùng tàn quân chạy về Đông
Quan. Bắc sử cũng phải thừa nhận trận này đại bại, tan vỡ, số"
chết hàng vạn.
Trận Tuy Động đánh vào tháng 10 năm Bính Ngọ (1426) là
chiến thắng lớn nhất từ 8 năm khởi binh. Quân Minh từ đây càng
ngày càng lún sâu vào thế bị động.
Phương Chính và Mã Kỳ cũng chạy thoát được về Đông
Quan, cùng Vương Thông cô^ thủ thành này. Đinh Lễ thừa thắng
kéo quân về vây thành, quân uy lừng lẫy như sấm vang. Sau
chiến thắng Tuy Động, công cuộc phục quốic mười phần đã được
bảy, tám.
Sử gia Trần Trọng Kim nghi ngờ người chép quốc sử về trận
này đã chủ quan: Quân của Lý Triện và Đinh Lễ chưa đầy vạn
người làm sao đánh giết được 5 vạn và bắt sống được 1 vạn quân
Minh. Chúng đâu có hèn kém quá! Dù sao thì chiến thắng này vẫn
to lớn và sau đó nghĩa quân đã nắm vững sự thành công. Rất có
thê quân Vương Thông đưa sang không nhiều lắm và sô" bị chết và
bị bắt sông chừng 1 vạn.
VÂY HÃM THÀNH ĐÔNG QUAN - Bình Định vương ở Lỗi Giang
hay tin thắng trận, thân xuất đại quân và 20 con voi tiến ra bắc,
đóng quân ở Thanh Đàm (Thanh Trì). Sai Trần Nguyên Hãn đem
100 chiến thuyền đi theo Lung Giang (sông Đáy?), tiến theo cửa
Hát Giang (cửa sông Đáy thông vối sông Hồng), thuận dòng sông
263
Hồng tiến đóng ở Đông Bộ Đầu. Bùi Bị, Đinh Lễ đem 1 vạn quân
đi lên đóng ở cầu Tây Dương (?). Vương tự dẫn đại quân hạ trại
ngay gần thành Đông Quan. Đêm 22 - 10 âl quân ta đánh cả bốn
mặt, phóng lửa, đốt những nhà bên ngoài thành. Binh tướng của
Phương Chính ở doanh ngoài vội vàng chạy vào trong thành, bị
chết ngổn ngang. Ta giải phóng hết những người bản xứ từng bị
uy hiếp phải theo giặc, thu nhặt được hơn trăm chiến thuyền,
cùng rất nhiều khí giới, đồ đạc. Bè lũ Vương Thông c ố chết giữ
thành. Bình Định vương đóng dinh tại đông Phù Liệt uy hiếp.
Quân Minh trong thành không ra đánh, khí giới mất mát nhiều,
chúng phá các chuông khánh và đỉnh các đền chùa đúc đạn. Việc
này càng khiến dân ta thêm oán ghét.
Về các tướng nghĩa quân Lam Sơn, nhiều tập sử chép hầu
hết là họ Lê: Nguyễn Trãi, Nguyễn Trắc (Xí), Lý Thiện, Định Khả,
Trần Lịch, Đinh Lễ, Phạm Vấn... Theo Bình Định vương khởi
nghĩa, xưng là họ Lê, cùng họ với thủ lĩnh, để người Minh không
truy những bà con trong họ nhà mình mà bắt tội. Cũng có nhiều
người có công sau được ban quôh tính họ Lê, nhưng rồi ra cho thế là
quên gôc, lại được lấy lại họ cũ.
Từ khi Bình Định vương ra bắc, hào kiệt các nơi nô nức về
theo, nguyện hết sức phá giặc. Vương dùng lòi phủ dụ, tuỳ tài cao
thấp từng người, cho liệt vào các chức vụ.
Thành Đông Quan bị vây hãm, hệ thông chính quyền người
Minh tan rã. Quân khởi nghĩa hỢp tác với nhân dân đánh chiếm
các đồn luỹ địa phương. Quân Minh phải rút bỏ các đồn luỹ nhỏ
kéo về tập trung tại mấy thành luỹ lớn. Cuối năm 1426, quân
Minh, ngoài Đông Quan, chỉ còn đóng giữ các thành: Diêu Diêu
(Gia Lâm), Thị cầu thuộc Bắc Ninh, Xương Giang (Bắc Giang),
Khâu Ôn (Lạng Sơn), Tam Giang (Vĩnh Yên), c ổ Lộng (Nam
Định) và Tây Đô, Nghệ An, Tân Bình, Thuận Hoá. Nghĩa quân đã
kiểm soát đưỢc hầu hết đất nước. Các tù trưởng miền núi xa xôi
cũng về xin quy thuận, kể cả người trước đấy cộng tác với địch như
Đèo Cát Hãn. Tri châu Bình Chánh Hà Hoan không chịu hàng, bị
bắt giết.
T ổ CHỨC CAI TRỊ - Nhân dân khắp nưóc đã thoát khỏi ách
thống trị của người Minh. Bình Định vương dựng chính quyền độc
lập cai trị các địa phương. Miền bắc chia làm bốh đạo: những trấn
264
Tam Giang, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Gia Hưng thuộc Tây đạo;
Thượng Hồng, Hạ Hồng, Thượng Sách, Hạ Sách cùng với An
Hưng, thuộc Đông đạo; Bắc Giang, Thái Nguyên thuộc Bắc đạo;
Khoái Châu, Lý Nhân, Tân Hưng, Kiến Xương, Thiên Trường
thuộc Nam đạo. Dưới đạo có trấn hay lộ. Cử các quan văn, võ tại
trung ương và ngoài đạo coi việc chính trị, đặt chức tuần kiểm các
cửa biển khám xét người qua lại, bắt kẻ gian làm việc cho người
Minh. Vương lại khuyên khích các người có tài, có tâm huyết ra
giúp sức cứu nước, tịch thu sản nghiệp, vỢ con, tôi tớ lũ nguy quan
theo người Minh, lấy thóc lúa sung vào kho dự trữ cung cấp quân
nhu. Cấm ngặt quân sĩ không được chặt phá cây cối, hoa quả, cướp
bóc tài sản của nhân dân.
Đầu năm 1427, trong khi còn đang chiến đấu, một khoa thi
đã được mở ở Bồ Đê với đầu đề “Hiệu dụ thành Đông Quan”. Khoa
này lấy được 36 người đỗ, bô dụng vào bộ máy chính quyền trung
ương và địa phương.
Quân đội được tăng cường mau chóng về cả chất lượng và số
lượng. Đầu năm 1427, tổng sô" có được 35 vạn đều được rèn luyện
chu đáo, không còn là ít so vối quân sô" địch nữa.
VƯƠNG THÔNG XIN HOÀ LẦN THỨ NHẤT - nghĩa quân từ khi
tiến ra bắc, thắng luôn lớn, nhỏ nhiều trận. Quân Minh thua luôn
không còn giữ được thê chủ động, bị hãm vào trong mấy thành trì
lốn, thê" không tồn tại được lâu dài nữa. Vương Thông ở Đông
Quan bị khôn đôn, không còn có đủ lực lượng đánh ra được nữa.
Bình Định vương sai ngưòi vào trong thành du thuyết tướng
tá trong đó mở cửa thành ra hàng, hoặc xin giảng hoà đê được
bình yên đem quân về nước. Vương Thông cũng rất muôn hoà
nhưng còn muôn giữ thể diện nước lớn, sai người ra nói với vương
nên tìm người dòng họ Trần lập nên làm vua thì sẽ chịu bãi binh.
Vương nghĩ đánh nhau mãi trong nước tàn hại, dân tình khô sở.
Vả không đánh mà đô"i phương phải khuất phục là thượng sách của
nhà binh nên y theo Thông. Bấy giờ có người tên là Hồ Ong, xưng là
cháu ba đòi vua Nghệ Tông, lánh nạn đến châu Ngọc Ma. Vương bèn
sai người đi đón Hồ ồng về, đổi tên là Trần cảo (có tập sử chép Cao)
dựng lên làm vua, lấy niên hiệu là Thiên Khánh. Vương tự mình xưng
là Kiêm hiệu thái sư bình chương quân quốc trọng sự, đại thiên hành
hoá, tứ kim ngư, đại kim hố phù, trung vũ vệ quốc công. Bấy giờ là
tháng 11 âl năm 1426. Vương làm việc này đê tiện sự cầu phong với
vua Minh, dập tắt chiến tranh, chóng thu hồi độc lập.
265
Vương Thông cho người đưa thư ra xin hoà và xin cho được đem
toàn quân về nước. Nguyễn Trãi thương lượng đi đến sự thoả thuận:
Vương Thông nhận rút quân, trao trả các thành trì, tập trung quân
các thành từ Thanh Hoa trở vào về cả Đông Quan, rồi từ Đông Quan
trỏ về nước. Nghĩa quân nhận sửa sang đường sá, cầu công, cung cấp
lương thực và phương tiện cho quân Minh rút về, lập con cháu nhà
Trần làm vua, cử sứ giả sang nhà Minh quy hàng phục tội.
Bình Định vương cử sứ giả cùng với quan nhà Minh đem biểu
cầu phong sang triều đình Minh xin lập Trần cảo. Trong khi chờ
đợi, để tỏ thiện chí, vương cho phép quân Minh được đi lại mua
bán. Vương Thông cho gọi quân các nơi về hội tại Đông Quan.
Việc đã định như thé’, nhưng có mấy người nước ta theo giặc
là bọn đô ty Trần Phong, tham chính Lương Nhữ Hô"t, đô chỉ huy
Trần An Vinh sỢ khi quân Minh về rồi thì mình phải tội bị giêt,
lấy chuyện 0 Mã Nhi bị ám hại trên đường về nước, xui Vương
Thông đừng rút quân, cho người về chính quốíc cáo cấp xin viện
binh. Vương Thông nghe theo, bề ngoài vẫn nói hoà, nhưng lại sai
người đào hào, rắc chông cô" thủ, đợi được cứu viện. Bình Định
vương biết được việc Vương Thông tráo trở, sai đặt phục binh bốh
mặt ngoài thành, bắt các người trong thành ra vào, bắt được hơn
3.000 lính và hàng trăm ngựa. Vương lại sai tướng dẫn quân đánh
vào các đồn: Bùi Quốc Hưng đánh vào Diêu Diêu (Gia Lâm) và Thị
Cầu (Bắc Ninh). Lê Kliả và Lê Ván đánh Tam Giang (Bạch Hạc). Lê
Sát, Lê Thọ, Lê Lý và Lê Lãnh đánh Xương Giang (Bắc Giang). Trần
Lưu và Phạm Bôi đánh Khâu ôn (Lạng Sơn). Trong khi đôi bên còn
đánh giữ nhau, Nguyễn Trãi vẫn biên thư, lời lẽ sắc bén, khuyên
Vương Thông và các tướng Minh nên hoà, con đường trọn vẹn lui
quân, chúng đang lúc suy bại, không thể nào làm gì được khác.
Bình Định vương lại sai bách hộ Hà Vương, người Minh đã
đầu hàng, vào thành dụ Vương Thông ra hàng. Nguyễn Trãi cũng
biên thư gửi các tướng giữ các thành đang bị vây hãm khuyên
chúng hàng.
BÌNH ĐỊNH VƯƠNG ĐỐNG QUÂN ở B ồ ĐÊ - Sang nán 1 4 2 7 , Bình
Định vương tiến quân lên đóng 0 Bồ Đề, phía bắc sông Hồng, chia
quân vây chặt thành Đông Quan, cử Trịnh Khả đóng quân giữ vây
cửa đông, Đinh Lễ cửa nam, Lê Chứng (Lê Cực) cửa tây, Lý Triện
cửa bắc.
Trong thòi gian vây hãm Đông Quan, Bình Định vương chấn
chỉnh bộ máy cai trị, đặt sáu bộ tại trung ương; an phủ sứ các lộ,
266
quan văn; cử hà thủ quân, quan võ; bổ dụng người có tài năng giữ
quan chức, dùng 515 người vào làm thuộc lại các bộ, viện, đạo, lộ.
Ra lệnh cho các địa phương dò hỏi tìm tòi các người có tài ba trí dũng,
kêu gọi người hiền lương ra giúp nước, tu bổ hay xây dựng lại đền thờ
Hưng Đạo vương và các vỊ công thần đòi trước đã bị quân Minh tàn
phá. Quân lệnh của vương rất nghiêm; Tướng tá cậy có chiến công
khinh nhờn, hoặc lấy trộm muốĩ, của công đem đi bán, khiếm khuyết
khí giói đội ngũ không chỉnh tề, đều bị chém.
Trong khi nghĩa quân vây hãm thành Đông Quan thì ở ngoài
cõi cũng thu được nhiều thắng lợi. Tháng riêng âl năm 1427, đô
đôc Thái Phúc, chỉ huy uân giữ thành Nghệ An, nơi này từng bị
hãm trong gần hai năm, mở cửa thành ra xin hàng. Đồng thòi
tướng Tiết Tụ ở thành Diễn Châu cũng hàng.
Tổng quản việc quân dân các xứ Lạng Sơn và An Bang, thiếu
bảo Trần Lưu, xuất quân đánh thành Khâu ôn, chia quân đóng
giữ các chỗ hiểm yếu. Thành này trên đường sang Trung Quốc có
vị trí quan trọng. Trần Lưu và tướng Phạm Bôi vây hãm ráo riết.
Nhiều quân sĩ người Minh đang đêm bỏ trại trốn đi. Ngày 1 3 - 1
âl, nghĩa quân hạ thành này, tiêu diệt sô”quân còn lại.
Bình Định vương sai Cao Ngự tư mã tổng đốc trấn Thiên Quan
dẫn quân đi đánh thành cổ Lộng, nay thuộc huyện Y Yên, Nam Định,
tăng cường việc bô vây uy hiếp thành Đông Quan, cử Phạm Yến đóng
đồn tại cửa đông; phụ với Trịnh Khả, Lê Sát, Lê Lý, Chích; cửa
nam, phụ với Đinh Lễ, Đỗ Dị, Lê Nguyên; cửa tây, phụ với Lê Cực (Lê
Chứng), Lê Văn An; cửa bắc, phụ với Lý Triện.
Lê Chích hỢp quân với Bùi Quốc Hưng đánh chiếm được
thành Diêu Diêu (Dao Kê). Chỉ huy Trương Lân và tri p h ủ Trần
Văn ra đầu hàng.
Sau trận Tuy Động, phần thắng đã nghiêng hẳn về quân ta. Quân
Minh thế yếu. Nghĩa quân có phần nào khinh địch. Hai đại tướng Lý
Triện và Đinh Lễ dũng cảm và có nhiều công lao phải bỏ mình.
Ngày 7-2 âl, Phương Chính bất thần từ trong thành kéo
quân ra đánh vào trại quân ta ở Tảo Động, vùng Nhật Tảo huyện
Từ Liêm. Lý Triện không cẩn thận, bị giặc đánh lén, giết mất. Đỗ
Bị bị giặc bắt.
Ngày 18 - 2 âl, một toán quân Minh đánh vào đồn bãi Sa Đôi,
huyện Từ Liêm. Quân ta cố sức chống cự đến hết đạn, lấy cả vò, lọ,
gạch liệng ra quân địch. Thê kém, phải dỡ nhà phóng hoả đổt theo
chiều gió, rồi bỏ chạy bơi lội qua sông. Có một sô” bị chết đuốĩ.
267
Toán quân Thiên Quan và nhiều người không biết bơi, lâm vào thế
cùng, liều lĩnh cố chết chiến đấu. Giặc thua phải bỏ chạy.
Ngày 8 - 3 âl, Vương Thông đem quân ra đánh trại Tây Phù
Liệt huyện Thanh Oai. Tư không Đinh Lễ và thượng tướng quân
Nguyễn Trắc (Xí) đem 500 quân đến cứu, đi đến Mỹ Động, xã
Hoàng Mai huyện Thanh Trì, gặp giặc. Hai bên đánh nhau mạnh.
Đinh Lễ và Nguyễn Trắc (Xí) thua trận, bị bắt. Nguyễn Trắc (Xí)
trốn về được. Đinh Lễ bị giặc giết.
Lê Chích dẫn quân vây đánh thành Thị Kiều (Thị Cầu, Bắc
Ninh). Tướng Minh Vương Đường và Bảo Thanh ra hàng ngày 10 -
3 âl.
Nguyễn Trãi cùng đi với người Minh đã hàng chỉ huy họ
Tăng đến Tam Giang, thành này Trịnh Khả đang vây đánh, chưa
hạ được, chiêu dụ người Minh ra hàng. Ngày 6 - 3 âl, chỉ huy sứ
Lưu Thanh xin hàng.
Có sự lũ hàng binh người Minh tụ họp nhau hơn người làm
phản, việc vỡ lở, bị giết cả. Riêng binh sĩ Tam Giang không dự,
được thoát. Do sự phản bội này, Bình Định vương bô( trí những
quan nhà Minh đã đầu hàng vào các sứ Lam Ap (Lam Sơn, Thanh
Hoa), Nghệ An, Tân Bình, Hoá Châu.
Thành Xương Giang rất kiên cố, lại có vị trí quan trọng. Chỉ
huy Kim Dận cố thủ. Các tướng tư mã Lê Sát, thiếu uý Lê Lý vây
đánh mãi, suôd hơn 9 tháng, không hạ được. Bình Định vương sai
thái uý Trần Nguyên Hãn dẫn quân lên đánh phá. Ngày 3 - 9 âl,
hạ được thành này. Tri phủ Lưu Tử Phụ, chỉ huy Kim Dận cùng
tướng Lý Nhậm đều bị tử trận. Ta thu được nhiều chiến lợi phẩm,
khao quân sĩ. Thành Xương Giang bị hạ mười ngày trước khi quân
Liễu Thăng sang cứu viện Vương Thông tiến vào biên giới, làm
cho viện binh mất chỗ đóng quân quan trọng.
Sau trận Mỹ Động, quân Minh trong thành Đông Quan có
mấy lần ra đánh trận nhỏ nữa. Chúng phá tan được đồn ở bãi Cơ
Xá mới đắp, nhùng bị thua một trận ỏ huyện Từ Liêm, một lần ở
hạt Thổ Khối thuộc Gia Lâm, tả ngạn sông Hồng.
BÌNH ĐỊNH VƯƠNG ĐẶT PHÁP LUẬT đ Ể t r ị q u â n d â n - Trong
khi vây đánh thành Đông Quan và mấy thành lớn, Bình Định
vương cũng lo việc cai trị, đặt ra các điều lệ đê cho việc binh có kỷ
luật và cho lòng dân được yên.
Vương ân cần kêư gọi các vị hào kiệt gắng sức ra giúp, lời dụ
rất khẩn thiết. Dù cao khiết muôn giữ tiết tháo, không ham công
268
danh phú quý thì hiện nay thiên hạ phải chịu cảnh khổ sở lầm
than, cũng nên gắng sức cứu vãn nhân dân, vì nước vì dân hãy ra
sức cứu nạn trong lúc này, sau này thành công sẽ về ẩn. Vương
ban thưởng tước hầu cho mấy tù trưởng về quy thuận, khuyên
khích họ đem dân binh miền núi về tham chiến chống quân Minh.
Nghiêm cấm tả đạo, các người đồng côt không được hành nghề giả
xưng tà ma quỷ thần, đem những lời phù phiếm mê hoặc lòng
người, trái lệnh phải tội nặng. Ra lệnh cho dân lưu tán đi chỗ khác
trở về nguyên quán làm ăn. Kẻ chăm chỉ cày cấy ruộng nương cho
được giao dịch mua bán. Hoang phế việc nông bị tội. Vợ con gia
quyến các người ra làm quan với giặc được phép theo lệ lấy tiền
chuộc: vỢ con quan bô' chính 70 quan, vỢ con sinh viên và thổ quan
10 quan, con trai con gái đầy tớ đứa ở 5 quan. Tiền phạt thu được
sung quỹ nuôi quân. Nhân dân dâng thóc đê cấp phát cho qUcân sẽ
được phong chức. Các quan bô'n lộ; Thiên Trường, Kiến Xương, Lý
Nhân, Tân Hưng phải cấp dưỡng binh sĩ Minh đã ra hàng, gồm
hơn 600 người, không được để cho họ phải lưu ly thất sở. Ban 3
điều răn các quan văn, võ;
1 - Không được vô tình.
2 - Không được dõì trá, khinh nhờn.
3 - Không được gian tham.
Lại đặt ra 10 điều làm kỷ luật cho các tướng sĩ, nghiêm cấm
làm ồn ào trong quân; đặt chuyện làm cho mọi người sỢ hãi khi
không có việc gì; chùng chình không tiến lúc lâm trận nghe trông
đánh; không dừng khi thấy cờ kéo dừng; không lùi khi nghe tiếng
chuông lui quân; phòng giữ cẩn thận đế mất thứ ngũ; bỏ việc
quân, lo việc vỢ con; tha binh để làm tiền, làm sổ sách mập mờ;
làm mất công quả của người khác tuỳ theo lòng yêu ghét của
mình: gian dâm, trộm cắp. Quân lính ngày thường có tội, không
được giết càn, phải chờ xét xử, trừ khi lâm trận trái quân lệnh.
Lại đặt ra những hiệu lệnh thê nào phải tiến đến dinh, chấp lệnh
phải nhập hàng ngũ nghe lệnh. Lâm trận mà lùi, bỏ người sau
không cứu thì phải tội chém. Đại khái luật trong quân nghiêm
như thê nên dân gian kính phục lắm.
Trong thời gian chông chọi với quan quân nhà Minh, Bình
Định vương giao hảo vối các nước Ai Lao và Champa. Sau trận
thua năm 1422, người Ai Lao lại hoà vói ta, mấy lần tặng vương
voi. Champa cũng dâng sản phẩm địa phương. Vương ân cần tặng
lại vải, lụa và ngựa.
269
NHÀ MINH CỨU VIỆN VƯƠNG THÔNG - Quân Minh bị thua lớn
trận Tuv Động, Chúc Động, Trần Hiệp bị giết. Vương Thông sai
người vê triều cáo cấp, xin thêm binh sang cứu viện. Minh Tuyên
Tông kinh hoảng, tháng 3 âl năm 1427, cử thái tử thiếu phó An
Viễn hầu Liễu Thăng lĩnh chức Chinh lỗ phó tướng quân, tham
tướng Bảo Định bá Lương Minh, đô đốc Thôi Tụ, thượng thư binh
bộ Lý Khánh giữ chức tham tán quân vụ, thượng thư bộ công
Hoàng Phúc (người giữ chức lớn lâu năm bên ta) và hữu bô chánh
sứ Nguyễn Đức Huân, dẫn 10 vạn quân trong các tỉnh Kinh Hồ,
Chiết Giang và Phúc Kiến, cùng 2 vạn ngựa, do đường Quảng Tây
sang đánh nước ta. Lại sai thái phó Kiềm quốic công Mộc Thạnh
lĩnh chức Chinh nam đại tưống quân, tham tưống An Hưng bá Từ
Hanh và Tây Ninh bá Đàm Trung, đem 5 vạn quân Vân Nam do
đường Vân Nam, cùng sang đánh. (Lê Quý Đôn, trong Đại Việt
thông sử chép quân Liễu Thăng 7 vạn, Mộc Thạnh 5 vạn, gần với
sô" quân Minh sử chép tất cả 11 vạn 5 ngàn không kê phu vận tải.
Lam Sơn thực lục chép tổng sô" 20 vạn quân, 3 vạn ngựa).
Ngày 10 - 6 âl, đạo tiền quân nhà Minh Trần Viễn hầu Cao
Hưng Tổ dẫn 5 vạn quân (e có quá đáng, chỉ độ 1, 2 vạn), 5 ngàn
ngựa, đánh vào cửa ải Phá Luỹ (Nam Quan), bị các tướng Trần
Lực và Lê Bôi đánh thua. Hưng Tổ phải chạy về Quỳ Châu.
Nghe tin đại binh nhà Mmh sắp ồ ạt kéo sang, nhiều tướng
xin Bình Định vương gấp rút đánh chiếm lấy ngay thành Đông
Quan để tuyệt nội ứng của chúng. Vương phán: Việc đánh lấy
thành lúc này là hạ sách. Thành kiên cô", phải cô" gắng đánh mấy
tháng hoặc hàng năm chưa chắc hạ nổi. Binh sĩ tất mỏi mệt. Khi
ấy, viện binh địch kéo đến thì khó đánh dược nổi. Chi bằng ta hãy
cứ dưỡng sức. Viện binh kéo đến, chúng tất phải đi xa mau, khó
nhọc, ta đánh phá được chúng thì tất nhiên quân trong thành phải
hàng. Thê có phải làm một việc mà có được cả hai không. Vương
sai các nơi canh gác nghiêm ngặt, tuần phòng ngày đêm, lại ra
lệnh cho nhân dân các lộ Lạng Giang, Bắc Giang, Tam Đái, Tuyên
Quang, Quy Hoá, phải dời đi nơi khác, bỏ đồng không nhà trông,
đê tránh quân giặc tới. Từ khi nghĩa quân kéo ra bắc, tráng đinh
khắp nơi đua nhau xin nhập ngũ đầu quân. Tổng sô" binh sĩ tăng
cao lên tới 35 vạn người. Bình Định vương đã cho bớt hơn phần
nửa về làm ruộng. Nay viện binh giặc sắp tói, phải gọi thêm quân
ra phòng ngự việc nước, cứ nhà nào 3 người thì lấy một người ra
làm lính. Vương hỢp các tướng bàn: Quân giặc cậy khoẻ, khinh
270
yếu, lấy nhiều bắt nạt ít chỉ côt đánh cho được, không tương đến
điều khác. Sự khoẻ lấn yếu, nhiều thắng ít là thông thường.
Nhưng chúng dẫn quân đi cứu nguy, tất phải mau lẹ. Cứu binh
như hoả. Đường xa ngàn dặm, binh sĩ chúng mỏi mệt. Ta đem
quân đã được thảnh thơi đánh chúng, tất phải thắng. Bèn sai
Trần Nguyên Hãn, Lê Sát, Lưu Nhân Chú, Lê Ninh, Đinh Liệt, Lê
Thụ đem 1 vạn quân, 5 con voi, lên đóng giữ các nơi hiểm yếu,
phục binh tại quan ải Chi Lăng, chờ giặc kéo đến đón đánh ngay
tại biên cảnh, đừng để chúng vào được Bình Thành. Lại sai Phạm
Văn Xảo và Trịnh Khả dẫn binh tưỢng lên đóng giữ ải Lê Hoa,
phía bắc Lào Cai thuộc Mông Tự đất nước ta xưa (nay thuộc
Trung Quổic), chông giữ đạo binh Vân Nam. Mặt trận miền đông
quan trọng, lại sai Lê Lý, Lê Văn An đem thêm 3 vạn quân lục tục
kéo lên.
TRẬN CHI LĂNG - LIÊU THẢNG B ỏ MÌNH - Ngày 18 - 9 âl, quân
Liễu Thăng kéo đến cửa ải Phá Luỹ. Tưống giữ quan ải Trần Lựu
kéo quân lui về đóng tại Ai Lưu. Đến khi giặc đến đánh Ai Lưu,
Trần Lựu lại lui về Chi Lăng. Cứ cách từng đoạn, chỗ nào cũng có
đồn, quân giặc đi đến đâu, không có ai chông giữ, phá luôn ngay
mấy đồn. Liễu Thăng đắc ý đuổi tràn đi. Bình Định vương làm ra
bộ khiếp sỢ, sai người đưa thư nói với Liễu Thăng xin lập Trần
Cảo làm vua và xin bãi binh. Liễu Thăng không mở thư xem, cứ
tiến quân lên đánh.
Ngày 20 - 9 âl, Liễu Thăng tiến đến gần cửa Chi Lăng với
thái độ chủ quan, thân đốc quân tiền phong tiến vào thung lũng.
Lê Sát và Trần Lực dẫn quân ra đánh, giả thua bỏ chạy. Liễu
Thăng đem 100 quân kỵ đuổi theo, bỏ đại đội ở lại sau. Đuổi được
một quãng, phải chỗ bùn lầy đi không được. Phục binh ta bôn mặt
đổ ra đánh, chém được Liễu Tháng ở núi Đào Mã Pha, nay là Mã
Yên Sơn, làng Mai Sơn thuộc On Châu, tiêu diệt toán kỵ binh.
Hàng ngũ quân Minh hoang mang, rôi loạn. Lê Sát, Trần Lực
thừa thắng tiếp tục tiến công, truy kích. Hàng vạn giặc bị giết.
Giao chiến buổi đầu, quân cứu viện đã bị trận đòn chí mạng.
Ngày 25 - 9, quân Lê Lý và Lê Văn An hội cùng quân Lê Sát
đánh phá quân Minh, chém Lương Minh tại trận. Ngày 28 - 9,
tham tán quân vụ Lý Khánh chết bệnh trong quân. Có thuyết y đã
tự tử. Thôi Tụ và Hoàng Phúc thu thập sô" còn lại cô" mở đường
chạy về thành Xương Giang, nửa đường bị quân Lê Sát đuổi đánh
phá giết hại nhiều. Thôi Tụ cô" đánh lấy đường chạy về Xương
271
Giang, không ngờ thành này đã bị Trần Nguyên Hãn đánh lấy
mất rồi. Quân Minh sỢ hãi lập trại đắp luỹ ở giữa đồng chông giữ.
Thôi Tụ xin hoà. Bình Định vương không cho, sai quân thuỷ bộ
vây đánh, chặn hết các ngả đường tiếp tế lương thực, không cho
địch liên hệ được với thành Đông Quan và các thành khác, chuẩn
bị tổng công kích. Trần Nguyên Hãn dẫn quân đánh úp vào quân
vận lương thực của địch. Phạm Vấn, Lê Khôi, Nguyễn Trắc (Xí)
đem quân thiết đội tiến đánh. Hai bên đánh nhau trong 15 ngày,
quân ta toàn thắng, phá tan quân Minh, chém chết 5 vạn quân (có
sách chép 3 vạn), bắt sông được Hoàng Phúc, Thôi Tụ và 100 võ
tướng, hơn vạn binh sĩ, thu chiến lợi phẩm nhiều vô kể. Thôi Tụ
sau được đưa về Đông Quan, phải bệnh chết.
Các trận chiến thắng Chi Lăng vả Xương Giang đánh đại bại
10 (hay 7) vạn quân Minh, lớn nhất của nghĩa quân Lam Sơn, hơn
cả chiến thắng Tuy Động, Chúc Động, đã khiến cho vua quan nhà
Minh không còn dám cô" công theo đuổi việc đánh chiếm đê thống
trị nước ta nữa.
MẶT TRẬN TÂY BĂC - Trong khi nghĩa quân tiến đánh đạo
quân Minh từ Quảng Tây tiến sang thì tại ải quan Lê Hoa, 5 vạn
quân Mộc Thạnh giữ nhau với quân Phạm Văn xảo và Trịnh Khả.
Bình Định vương biết Mộc Thạnh là viên lão tướng đã từng dự
nhiều chiến trận bên ta, từng trải việc quân, tất thận trọng không
tiến binh bừa bãi, đã mật báo cho hai viên tướng này phải cô" thủ,
chớ có giao chiến. Chắc Thạnh phải chờ xem quân Liễu Thăng tiến
thoái thê nào, rồi mới hành động. Đến khi Liễu Thăng thua trận,
vương mới sai bôn tỳ tướng đã bị bắt làm tù binh mang các sắc
thư, phù tín, ấn chương của Liễu Thăng đưa đến cho Mộc Thạnh.
Quân sĩ của Thạnh kinh hãi, tự tan rã. Phạm Văn xảo và Trịnh
Khả tung quân đuổi đánh ráo riết, đến Lãnh Thuỳ và Đan Xá,
chém hàng vạn người, bắt được người và ngựa mỗi thứ hơn ngàn
và nhiều chiến lợi phẩm.
VƯƠNG THÔNG XIN HOÀ LẦN THỨ HAI - Trong khi Liễu Thăng
mới đột nhập đất nước ta thì ở Đông Quan, quân Vương Thông có
vài lần kéo nhau ra đánh vào trại quân ta, đều bị đẩy lui.
Vương Thông cô" gắng mở một trận lớn. Quân tưống ta đặt
phục binh rồi giả thua chạy. Quân Minh đuổi theo tới ổ phục kích,
quân ta vùng lên đánh tới tấp, địch thua chạy tơi bời. Vương
Thông ngã ngựa, suýt bị bắt, may chạy kịp vào thành được thoát.
Từ đấy chỉ ở trong thành, không dám ra nữa.
272
Bình Định vương sai thông sự Đặng Hiếu Lộc dẫn Hoàng
Phúc do ta bắt được, cùng với ấn tín cờ trông đến Đông Quan hiểu
thị. Bọn Vương Thông thấy thế, cả sỢ trong lúc lại đang bị vây
khôn đốn, bèn xin hoà lần nữa. Tướng Nguyễn Lôi đem thư đến
các thành cố Lộng và Tây Đô dụ hàng binh tướng hai thành này.
Chúng đều nghe theo ra hàng. Dân chúng cực khổ nhiều về chính
sách bạo ngược của nhà Minh, có nhiều người kéo đến xin vương
đánh gấp và giết cho bằng hết để hả giận. Vương phán: Việc binh
lấy sự toàn quân là hơn. Nay để Vương Thông nói với vua Minh
trả lại nưốc cho ta, không còn xâm lấn thì còn gì hơn nữa (Thực sự
thì khi địch đã lâm vào thê mười phần chắc chết, mà mở đường
sống cho chúng được ơn, có đức rộng lượng lớn. Cô" tình giết cho
hết thì chúng c ố tình liều lĩnh hăng hái chông cự lại, dù không thủ
thắng, cũng sát hại được nhiều quân sĩ của mình).
Bình Định vương ưng cho hoà, ra lệnh cho các lộ Bắc Giang,
Lạng Giang tu bổ đường sá cầu cống, sắm đủ ghe thành cho quân
Minh trở về nước. Lại sai Nguyễn Trãi soạn tờ biểu đứng tên Trần
Cảo xin phong, lời lẽ khiêm tô"n, đưa tờ biểu nhờ tướng ơ Quảng
Tây Cô" Hưng Tổ’ chuyển đệ về triều Minh. Lại sai Lê Thiếu Đĩnh,
Lê Quang cảnh và Lê Đức Huy đem phương vật, gồm hai người
bằng vàng thay mình: Trần cảo và Lê Lỵ (Lợi), có một lư hương
bằng bạc, đôi bình hoa bằng bạc, 30 tấm lượt, 14 đôi ngà voi, 12
bình hương trầm, 2 vạn nén hương duyến, 24 cây hương trầm. Lại
đem 2 dấu dài ngân, đôi hổ phù của Chinh lỗ phó tướng quân cùng
với sô kê quan quân nhân mã đã bị bắt đem trả lại triều Minh.
Đồng thời sai lính hộ tốhg Hoàng Phúc về Quảng Tây.
Ngày 22 - 10 âl, Bình Định vương cùng các tưống Minh:
Vương Thông, Mã Anh, Sơn Thọ, Mã Kỳ, Trần Trí, Lý An,
Phương Chính... hội ở cửa nam thành Đông Quan. Vương ra
lệnh cho các tướng giải vây thành này kéo quân lui về. Lại sai
đi giải vây các thành c ổ Lộng, Tây Đô và Chí Linh, truyền
quân hộ tông các tướng ba thành này về cả Đông Quan để sẽ
cùng nhau trở về nước.
Tháng 12 âl, vương ra lệnh cho các tướng coi đường thuỷ cấp
500 thành cho người Minh, giao Phương Chính và Mã Kỳ lĩnh; các
tướng coi đường bộ cấp lương thảo giao cho Sơn Thọ nhận lĩnh,
đưa về hơn 2 vạn quân cả đầu hàng và bị bắt, cùng 2 vạn con
ngựa, giao Mã Kỳ nhận lĩnh; chưởng đô ty sự chinh nam tướng
quân Trần Tuyền dẫn quân trâ"n thủ đi hộ tốhg. Vương lại hậu
273
tặng trâu, dê, màn trướng và phẩm vật cho các tướng Minh khi tói
dinh cáo biệt.
Bấy giò, tướng sĩ và nhân dân thâm thù sự tàn bạo của người
Minh xin vương nhân dịp nên đem giết cả đi. Vương dụ: Phục thù
trả oán là thường tình nhưng bản tâm người nhân đức không
muôn giết người, v ả lại người ta đã hàng mà giết đi để thoả cơn
giận một lúc, cũng không hay. Đe cho ức vạn người được sốhg,
khỏi đưỢc sự trả oán, dứt mối chiến tranh về sau, lại được tiếng tốt
lưu truyền sử xanh. Mọi người đều ái phục độ lượng khoan hồng
của vương.
Biểu hàng xin phong đệ sang Trung Quốc. Vua tôi nhà Minh
biết rõ là giả dối, triều đình bàn cách đốì phó. Chỉ mấy người còn
hung hăng chủ chiến, giữ thế thống nước lớn. Quần thần phần
đông thấy rằng luôn hai lần đem đại đại quân đi cứu viện đều bị
thất bại; nay đi đánh nữa vận dụng đến 30, 40 vạn binh sĩ và số
rất lớn lương thực đủ nuôi đám quân này lâu dài, đổ người đổ của
vào việc không chắc han đã thành công, v á lại như vậy lại còn cần
phải sửa soạn hàng năm mới xong. Đánh nữa, dù có thắng thì
cũng khó lòng giữ mãi được lâu. Người Nam “ưa làm loạn”. Cho
hoà, rút quân là hay hơn hết. Minh Tuyên Tông nghe theo, phong
Trần Cảo làm An Nam quôc vương, bãi binh, bãi bỏ toà bô" chính
và ra lệnh cho Vương Thông rút toán quân về nước,
Bọn Lý Kỳ, La Nhữ Kính, Từ Vinh Đạt mang sắc thư sang
đến nơi thì Vương Thông đã lên đường rồi, dẫn 86.000 người Minh
về nước. Bấy giờ là chạp năm định vị, dương lịch là đầu năm 1428,
chấm dứt 21 năm đô hộ và nạn binh đao.
Giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của người Minh là công
lao của nghĩa quân Lam Sơn dưới sự lãnh đạo của Bình Định
vương Lê Lỵ (Lợi). Trần cảo không có công đức gì, nghĩ mình
không xứng đáng giữ địa vị nguyên thủ quốc gia, tự áy náy không
yên, đang ở thành cổ Lộng, dùng thuyền nhỏ lẻn ra biển để chạy
ra về châu Ngọc Ma thuộc phủ Trấn Ninh. Quan quân đuổi bắt
được, dẫn trở về, bắt phải uống thuốc độc mà chết. Được làm lễ
hậu táng hậu. Trần cảo được đón về làm vua hò, không có tội gì,
bị giết, tình cũng đáng thương.
KỶ NHÀ LÊ
LÊ THÁI TỔ 1428 - 1433
huý LỴ (LỢI) (1385- 1433)
Niên hiệu: Thuận Thiên
BÌNH ĐỊNH VƯƠNG LÊN NGÔI TÔN - Giặc tan, nước nhà đưỢc
thanh bình, quần thần dâng biểu tôn Bình Định vương Lê Lỵ (Lợi)
lên làm vua. Tháng 4 ầl năm 1428, vương lên ngôi, tục hiệu vua
Lê Thái Tổ theo tên miếu hiệu. Lê Thái Tổ nhũn nhặn, không
xứng là hoàng đế, chi xưng là Thuận Thiên thừa vận duệ văn anh
vũ đại vương.
THƯỞNG CÔNG, PHẠT TỘI - Lê Thái Tổ lên ngôi, phong thưởng
cho các công thần hơn 200 người, đều được đổi sang quổc tính họ
Lê, 52 người hạng công đệ nhất chức Thượng Trí tự, 72 người
hạng công thứ hai tước Đại Trí tự, 94 người công thứ ba tước Trí
tự. Thừa chỉ Nguyễn Trãi tước Quan Phục hầu; tư đồ Trần
Nguyên Hãn tưóc Tả tướng quốc; cơ mật đại sứ Phạm Văn xảo
chức thái bảo.
Các nguy quan theo giặc đều bị trị tội: Lương Nhữ Hốt, Trần
Phong, An Vinh, Đỗ Duy Trừng và các tên Tôn, Sĩ Văn, Sùng Lễ,
Súc đều bị giết.
VIỆC NGOẠI GIAO - Các nưóc Ai Lao, Champa giao hảo với ta
ngay từ khi còn chiến tranh chôAg quan quân nhà Minh, sau vẫn
tiếp tục tốt đẹp, không có việc gì lôi thôi.
Lê Thái Tổ lên ngôi, sai sứ sang Trung Quốc xin phong.
Triều đình nhà Minh nấn ná mãi không chịu. Các năm 1428,
1429. Minh Tuyên Tông sai sứ sang lại đòi hỏi tìm dòng dõi vua
Trần để lập và đòi trao trả hết những quân nhân người Hoa còn
lại cùng các khí giới đã bắt. Lê Thái Tô bắt các quan viên và phụ
275
lão trong nước làm tờ khai rằng con cháu nhà Trần thật không còn
ai nữa và xin phong cho Lê Lỵ (Lợi) làm vua nước Nam. Sứ giả đôi
bên đi về nhiều lần, mãi đến tháng 11 âl năm 1431, vua Minh mới
chịu ba'n mệnh cho tạm quyền coi việc nưốc. Sứ thần ta sang Minh
tạ ơn 5 vạn lạng vàng bạc. Mãi về sau lâu mới phong các vua Lê
sau làm An Nam quổc vương.
Từ đấy, cứ ba năm phải sang công nhà Minh một lần mà lần
nào cũng phải đúc hai người bằng vàng, gọi là đại thân kim nhân,
do lúc đánh trận Chi Lăng đã giết hai tướng Liễu Thăng và Dương
Minh, cho nên phải dâng hai người vàng thế mạng. Nước ta vẫn
phải nộp hai ngươi vàng suốt thòi gian nhà Minh còn cầm quyền
Trung Quôc. Tục ngữ có câu; Trả nỢ như trả nỢ Liễu Thăng.
Quân đội ta đã chiến thắng quân Minh mấy trận lớn mà vua
ta vẫn phải chịu xưng thần nạp cống với vua Minh là sự vạn bất
đắc dĩ, vì nước ta đôi với Trung Quốc lón nhỏ khác nhau nhiều, vả
lại nước ta lẻ loi ở phía nam, không có vây cánh mạnh liên minh,
cứ cố kháng cự không chịu kém thì không bao giò được yên, dân
chúng phải cơ cực lầm than. Bề ngoài có chịu lép vê nhưng kỳ thực
vẫn tự chủ, người Hoa không phạm đến việc nước mình. Thế cũng
là khôn khéo trong việc ngoại giao để cho nước yên trị (theo lòi
của sử gia Trần Trọng Kim).
VIỆC CAI TRỊ - Thái Tổ lên ngôi ban chiếu miễn thuế trong hai
năm các ruộng đất, đầm ao, bãi dâu và trưng thâu vàng bạc, người
từ 70 tuổi trở lên được miễn dịch. Có người con hiếu, vỢ thủ tiết
thì quan đầu lộ tâu lên để ban khen thưởng; nhà có ba người tòng
quân thì cho miễn một; huyện có lăng mộ, miếu thờ các vị đế
vương hoặc công thần tiền triều thì quan huyện phải tâu lên đế
cấp lương cho phu trông coi. Bỏ sự tiêu tiền giấy. Tiền đồng cũ bị
người Minh thu đem về nưóc quá nhiều, nên đúc ra nhiều đồng
tiền Thuận Thiên thông bảo lưu hành thuận tiện việc mua bán.
Tổ chức hành chính, để nguyên bốh đạo miền bắc, thêm đạo
thứ năm Hải Tây gồm đất Thanh Hoa trở vào đèo Hải Vân. Mỗi
đạo có quan hành khiến. Dưới cấp đạo có lộ, phủ, châu, huyện trên
các xã. Việc bổ dụng quan cai trị thì dùng những người có đức.
•Thái Tổ luôn luôn nhắc các địa phương tiến cử người anh tài, lại
kêu gọi loại người này ra làm việc nước.
PHÉP QUÂN ĐIỀN - Thái Tổ có những con em các chiến sĩ đã
từng chiến đấu ngoài trận, không có một thước đất để ở, mà
những phường du thủ du thực, không có chút công lao gì với nưóc
276
nhà lại có rất nhiều ruộng đất. Ai cũng chuộng làm giầu mà không
có người tận tâm việc nước. Vì thê nên định ra phép quân điền lấy
công điền công thổ và ruộng đất tịch thu của quan lại tướng sĩ đã
theo hàng giặc Minh, đem cấp phát cho quân dân, từ quan đại
thần trở xuống đến hạng già yếu, mồ côi, góa bụa, ai cũng có được
một phần ruộng. Xã nào nhiều ruộng ít người, có ruộng bỏ hoang
thì quan bản hạt đem cấp sô" ruộng ấy cho những người xã khác
không có ruộng cày cấy. Chủ điền không được chiếm giữ. Như vậy
khiến cho sự giàu nghèo không chênh lệch lắm.
VIỆC HỌC HÀNH - Thái Tổ mở mang việc học hành, đặt trường
Quốc tử giám ở kinh đô, oho con cháu các quan viên và những
người thường dân tuấn tú vào học tập, mở nhà trường và đặt thầy
dạy nho học ở các lộ, phủ, châu. Bắt các quan từ tứ phẩm trở
xuốhg phải vào thi khoa Minh Kinh. Ban văn thì thi về kinh sử,
ban võ về võ kinh và pháp lệnh kỳ thư. 0 các lộ cũng mở khoa thi
Minh Kinh cho những người ẩn dật ứng thí để chọn nhân tài ra
làm quan. Các nhà tu theo đạo Phật, đạo Lão cũng phải dự thi
kinh điển các đạo ấy. Trúng tuyển mói được phép làm tăng, làm
đạo sĩ. Ai hỏng phải hoàn tục làm ăn, chịu sưu dịch.
LUẬT LỆ - Đặt ra luật lệ mới phỏng theo hình luật ríhà Đường,
có các tội suy, trượng, đồ, lưu và tội tử. Tội suy chia làm 5 bậc, từ
10 đến 50 roi. Tội trượng cũng chia l.àm 5 bậc từ 60 đến 100
trượng. Tội đồ 3 bậc: Làm dịch đinh, làm lính chuồng voi, làm lính
đồn điền. Tội lưu 3 bậc: Lưu đi châu gần Nghệ An, lưu châu xa Bô"
Chính, lưu đi ngoại châu Tân Bình. Tội tử cũng 3 bậc: Thắt cổ và
chém, chém bêu đầu và lăng trì.
Trong nước bấy giò có nhiều người du đãng, cứ rượu chè, cò
bạc, không chịu làm ăn, nên đặt ra phép nghiêm trị để trừng trị.
Đánh đổ bác phải chặt ngón tay 3 phân, đánh cò 1 phân. Không có
việc gì quần tụ uống rưỢu phải đánh 100 trượng. Người dung chứa
những kẻ ấy cũng phải tội mà được giảm một bậc.
Người có công lao lớn phạm tội được giảm khinh hoặc chuộc
tội bằng tiền. Các người già cả, trẻ con, tật nguyền cũng vậy.
Sự nghiêm phạt tội như thê" có phần thái quá, vì làm tàn hại
đến thân thể người ta, nhưng có công hiệu khiến cho bớt sô" người
cả đời không chịu làm ăn gì, chỉ chuyên đi đánh lừa người mà
kiếm chác.
VIỆC BINH LÍNH - Khi tiếp thu thành Đông Quan, quân sô" là
25 vạn. Thái Tô cho 15 vạn trở về nguyên quán làm ruộng. Tháng
277
12 âl năm 1429 tập trận cả thuỷ và bộ binh các vệ trong nám đạo.
Sau chia sô" quân sĩ làm 5 phiên, lưu lại 4 phiên, còn cho về theo
nghiệp nông. (VNSL chép 1 phiên lưu ban, 4 phiên cho về làm
ruộng, e có sai chăng).
VIỆC ĐÁNH DẸP LOẠN TRONG N ư ớ c - Quân Minh bị đánh thua.
Nước nhà đưỢc thanh bình nhưng có việc mấy thô tù chống đổi nhà
vua. Trong thòi gian còn chiến tranh, nhiều tù trưởng dân miền núi đã
quy phục, giúp đỡ phần nào trong công cuộc bình Ngô. Vua Thái Tổ lên
ngôi phong thưởng hậu cho các người này, các chức nhập nội tư không,
bình chương sự, thượng tưống quân, đại tướng quân... và vẫn dùng
thổ quan trị thổ dân, nhưng muổii giữ trung ương tập quyền, đặt quan
triều giám trị chúng. Các thổ tù chỉ chịu nộp một sô" phú công mà vẫn
muôn giữ trọn quyền hành trong hạt mình, theo chê độ địa phương
phân quyền. Vì thê nên có mấy người không chịu. Năm 1430, Bê Khắc
Thiệu ở châu Thạch Lâm, Thái Nguyên và Nông Đức Thái châu
Thượng Lang (nay thuộc Cao Bằng) làm phản. Tháng 2 âl năm 1431,
vua thân chinh đi đánh. Bê Khắc Thiệu thua chạy, rồi chết. Nông Đức
Thái bị bắt. Cuô"i năm 1431, Đèo Cát Hãn ở Mường Lễ, nay là vùng
Lai Châu, Sơn La, liên kết vói Kha Đô"n (Kha Lại) xâm lấn đất Mang
Mỗi. Lê Sát và Tư Tề (con lớn Thái Tố) đi đánh không nổi. Vua lại
thân chinh. Tháng giêng âl năm sau 1432, quan quân đánh vào
Mường Lễ, giết Khả Lại. Đèo Cát Hãn chạy trôn. Quan quân vào sâu
lục soát, bắt đưỢc vỢ con Cát Hãn cùng đồ đảng hơn 3 vạn (?!) người,
hơn 100 voi và nhiều khí giới, đồ vật, thuyền bè, đổi châu Mường Lễ
làm châu Phục Lễ, chia từng huyện, cử quan cai trị phần lón là người
bản xứ. Đèo Cát Hãn lai rai chông đô"i mãi đến tháng 11 âl mới chịu ra
hàng, được tha tội và phong chức tư mã. Con là Mạnh Vượng được
phong chức đại tưóng quân, vẫn được giữ đất cũ, tuy phải nhận quan
triều đình giám sát và các quan cấp dưới do triều đình bô dụng.
CÔNG THẦN BỊ GIẾr HẠI - Trong khi còn chiến tranh thì lãnh tụ
cùng các tưống tá cùng nhau chia sẻ ngọt bùi cũng như cay đắng.
Nhưng khi công thành, nước yên thì công thần không còn cần thiết
cho nhà vua, mà lại là mốì lo: Tài năng và uy tín họ xâm phạm quyền
hành người cầm đầu quốc gia, có thể đi đến sự thay triều đổi họ. Nên
có việc Lê Thái Tổ, cũng như các vua mở nưốc khác bên Trung Quốc,
giết hại công thần là các người đã đưa mình lên ngôi báu.
Trần Nguyên Hãn, dòng dõi thượng tướng Trần Quang Khải, lập
nhiều công lớn trong công cuộc bình Minh, được phong đến chức Tả
tướng quốc. Ông biết mình người họ Trần địa vỊ không vững bền được,
278
sóm đã xin về nghỉ. Trở về vưòn cũ xã Sđn Đông, huyện Lập Thạch,
Vinh Yên, lại xây phủ đệ lốn, đóng thuyền to, bị cáo lộng hành, vua
sai lực sĩ đến bắt. Ra đến sông, ông tự trẫm mình mà chết. Bấy giò là
năm 1429, chưa đầy một năm sau khi Thái Tổ lên ngôi.
Sang năm 1431 đến lượt thái uý Phạm Văn xảo bị giết, khép
vào tội tư thông vói Đèo Cát Hãn, tù trưởng Gia Hưng. Phạm Văn
Xảo cũng có nhiều chiến công gần như Nguyên Hãn.
Lần lư ợ t đến Trần Nguyên Bồi, Phan Liêu... cũng chịu cùng
sô phận.
Nguyễn Trãi, Lê Sát, Trịnh Khả... qua các triều vua Lê sau
cũng bị hại.
Nguyễn Trắc (Xí) trước đã có nhiều công bình Minh, sau lại
có công trừ Nghi Dân đưa Thành Tông lên ngôi, trước sau không
bị giết hại nhưng 5 con trai đều bị chết một cách bí mật, có sách
chép là tự nhiên chết (?) do mả tổ đứt long mạch.
Nghĩ mà buồn thay cho mấy công thần đời xưa, chỉ lầm về hai chữ
công danh, đem tấm lòng son sắt phù tá quân vương trong lúc nguy nan,
mong đưỢc chút hiển vinh, thoả chí trượng phu, nào ngò: chim bay đã
hết, cung tôt cất đi; thỏ nhanh chết rồi, chó săn phải mổ. Đến khi công
việc xong rồi thì không những thân mình không được trọn vẹn, mà cả họ
hàng cũng bị vạ lây (lòi Trần Trọng Kim trong VNSL).
LUẬN VỀ VUA LÊ THÁI Tổ - Lê Thái Tổ khuất ngày 22 tháng 8
nhuận âl năm 1433, cầm quân chống quan quân nhà Minh 10
năm, làm vua 6 năm, hưởng linh 49 tuổi.
Lê Thái Tổ trước là tướng anh tài, kiên nhẫn, từng khôi phục
non sông, xây dựng nền thái bình đất nước, sau làm vua mở mang
việc học hành, định luật lệnh, quân kỷ, thi hành chính sự rộng lớn
và chu đáo, đặc biệt đặt phép quân điền rất đáng khen. Nhưng xử
tệ với công thần quá đáng. Tự Đức phê bình là đa nghi và đa sát.
Lê Thái Tông mất, đại thần Lê Khả, Nguyễn Trắc (Xí) lấp
thái tử Bang Cơ mới 2 tuổi lên nối ngôi, tục hiệu vua Lê Nhân
Tông. Hoàng thái hậu ra thính chính.
280
Trong mấy năm thái hậu cầm quyền, có mấy việc quan
trọng như đặt ra 14 điều hộ luật về tư điền, đổi cách thi lấy
người làm lại, bỏ thi ám tả và thi kinh nghĩa, chỉ thi viết và thi
tính; đào sông Bình Lỗ ở châu Thái Nguyên để tiện việc vận
tải. (VSTGCM chép sông này chảy từ Thái Nguyên về Phù Lỗ,
có lẽ là sông Cà Lồ).
Người Chăm thường hay sang cướp phá Hoá Châu. Quan
quân đánh bại, nhưng vẫn khống chừa. Năm 1446, triều đình
sai Lê Khả, Lê Thu đem quân sang đánh nước Champa, lâ"y
được thành Chà Bàn, .bắt được vua Chăm là Bí Cát và cả phi
tần đem về Đông Kinh, lập người cháu Bồ Đê là Mã Kha Quv
Lai lên làm vua.
Năm 1448, có xứ Bồn Man xin nội thuộc, đặt làm châu Quy
Hợp. Đất này đông nam giáp Nghệ An, Quảng Bình, tây bắc giáp
Hung Hoá, Thanh Hoa.
Thái hậu hay nghe lời gièm pha, giết hại cựu thần Lê Khả,
Lê Khắc Phục, khiến nhiều người không phục.
Năm 1453, Nhân Tông bắt đầu thân chính, truy tặng các
công thần và lấy ruộng công cấp cho con cháu Lê Sát, Lê Ngân, Lê
Khắc Phục.
Dưới triều vua Lê Nhân Tông có việc Phan Phu Tiên viết
bộ quôc sử chép từ Trần Thái Tông đến thòi thuộc Minh, cả
thảy 10 quyển.
Trước các vương hầu và quan văn võ theo phẩm hàm
được ăn lộc lấy thuế 50 hay 100 hộ. Nhân Tông cho thêm tiền
tuế bổng.
Lê Nhân Tông có thế nên được vua hiền nhưng chang may có
người anh là Lạng Sơn vương Nghi Dân, trước được lập làm thái
tử, sau vì người mẹ đẻ phạm tội nên phải bỏ. Năm 1459, Nghi Dân
đồng mưu với bọn Lê Đức Ninh, Phạm Đồn, Phan Ban và Trần
Lăng, nửa đêm trèo tường vào giết Nhân Tông và bà thái hậu, tự
xUng làm vua, sai sứ sang Minh cầu phong.
Lê Nhân Tông làm vua 17 năm, hưởng linh 19 tuổi.
Nghi Dân cướp ngôi, làm vua được 8 tháng, vì hay nghe lời
dua nịnh, chém giết cựu thần nên lòng người không ai phục.
Tháng 6 âl năm 1460, Cíác đại thần Nguyễn Trắc (Xí), Đinh Liệt
mưu chém Phạm Đồn, Phan Ban ở giữa nghị trường, rồi đóng cửa
thành bắt Nghi Dân giết đi, rước con thứ tư Thái Tông là Bình
Nguyên vương Tư Thành lên làm vua.
281
LÊ THÁNH TÔNG 1460 - 1497
huỷ Tư THÀNH (1442 - 1497)
N iên hiệu\ Quang Thuận 1460 - 1469,
Hồng Đức 1470 - 1497.
296
THỜI KỲ NHM BHC PHHN TRflNH 1528 -18 0 2
Nước ta, từ khi Ngô Quyền thu hồi độc lập, Đinh Bộ Lĩnh dẹp
yên loạn Thập Nhị Sứ Quân, dưới các triều Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê
trong 6 thế kỷ, từ năm 939 đến năm 1527, là nước tự chủ thống
nhất. Đến thế kỷ XVII, nhà Lê suy yếu, nước loạn lạc, có những
cuộc nổi dậy chông đối chính quyền trung ương, quan triều nắm
giữ binh quyền lại chia phe đảng đánh lẫn nhau, tranh địa vỊ và
quyền lợi. Sau có Mạc Đăng Dung chiến thắng được những đám
quân phiệt, rồi làm sự thoán đoạt. Lòng người còn tưỏng nhớ công
đức Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông cho nên Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm
lại phò con cháu nhà Lê phục quốc, đóng quân giữ Thanh Hoa trở
vào đến đèo Hải Vân. Ngoài bắc, nhà Mạc còn làm vua thành ra có
sự phân chia Nam triều và Bắc triều. Họ Trịnh sau diệt được nhà
Mạc nhưng rồi ra nước nhà vẫn bị chia cắt, do họ Nguyễn xưng
hùng ở miền nam, nơi đây gọi là Đàng Trong. Họ Trịnh xưng hùng
ở miền bắc, gọi là Đàng Ngoài. Giang sơn chia rẽ, nam bắc phân
tranh. Tuy vậy, họ Trịnh và họ Nguyễn chỉ xưng chúa, chứ không
xưng vua. Bề ngoài vẫn tôn sùng nhà Lê, thực sự các vua Hậu Lê
chỉ có hư vị, mọi quyền chính trị, quân sự ỏ các chúa.
Thời gian đất nước bị chia cắt kéo dài suôt gần 300 năm. Sau
có nhà Nguyễn Tây Sơn nổi dậy ỏ Đàng Trong, từng đánh ra bắc
mưu sự thông nhất nước nhà nhưng dòng họ Nguyễn có Nguyễn
Ánh kiên trì chống trả hàng 25 năm, đến năm 1802 mới thu giang
sơn lại một nhà.
297
KỶ NHÀ MẠC (1527-1592)
MẠC THÁI TỔ huý ĐẢNG DUNG (1483 - 1541)
N iên hiệu\ Minh Đức 1527 - 1529
Đăng Doanh tại vị từ năm 1530 đến năm 1540, Phúc Hải
1541 - 1546, Phúc Nguyên 1546 - 1561, Mậu Hợp 1562 - 1592. Sau
năm 1592, họ Mạc chỉ còn giữ được một phần nhỏ đất nước tại xứ
Cao Bằng.
Các vua Mạc trị vì miền bắc, sử chép là Bắc triều.
Các công việc cai trị trong nước, nhà Mạc nhất nhất đều theo
phép tắc nhà Lê cũ. Suốt thòi gian họ Mạc làm vua là những năm
có chiến tranh liên miên. Triều đình trọng võ. Gia đình binh sĩ đưỢc
cấp hai phần ruộng, mà binh điền lại phải là ruộng tốt hạng nhất.
Các tướng tá đưcíc phong chức tước cao quý, đồng thòi có đến 5, 7
quốc công và quận công. Nhưng vàn học cũng được trọng. Các khoa
thi được mở đều đặn ba năm một kỳ. Dưới triều đại này có nhiều
người thi đỗ trạng nguyên, bảng nhãn.
Mạc Đăng Doanh chết năm 1540, trước cha. Đăng Dung lập
người con trưởng của Doanh là Phúc Hải kế vị.
Thòi kỳ Đăng Doanh làm vua, có Trịnh Ngung, Trịnh Ngang
chiếm cứ xứ Thái Nguyên; Vũ Văn Uyên (Văn Mật) chiếm cứ xứ
Tuyên Quang, không theo hiệu lệnh họ Mạc. Nguyễn Kim nổi dậy
ở Thanh Hoa, Nghệ An. Các nhóm này đều cầu cứu nhà Minh.
Thời Phúc Hải, có việc năm 1541, Minh Thế Tông phong làm
đô thống sứ. Phúc Hải lên đến cửa quan lĩnh tò sắc, quả ấn và
1000 quyển lịch, sau tạ ơn vua Minh 209 lạng vàng, 800 lạng bạc
và 20 sừng tê giác, 30 ngà voi.
Năm 1545, các miền Hoan, Diễn, 0 , Rí, Quảng đều đua nhau đến
cửa quân nhà Hậu Lê xin hiệu lực. Thê nhà Mạc ngày càng xuốhg.
Ngày 8 - 5 âl năm 1546, Phúc Hải chết, ở ngôi 6 năm.
Con trưởng Phúc Hải là Phúc Nguyên hãy còn trẻ tuổi.
Trong triều có Tứ Dương hầu Phạm Tử Nghi bàn: Hiện trong
nước đang lúc nhiễu loạn nên phải lập vua lớn tuổi. Con thứ
hai Thái Tổ (Đăng Dung) là Hoằng vương Chánh Trung đã
nhiều phen cầm quân, thường thắng trận. Vậy nên dựng lên
nôl ngôi. Các tôn vương họ Mạc và các tướng Nguyễn Kính,
Trần Phỉ, Lê Bá Ly, không theo, bàn định dựng Phúc Nguyên.
301
Phạm Tử Nghi cùng tỳ tướng khỏi loạn, đem Chánh Trung
chiếm cứ Ngự Thiên ở Hoa Dương, tiếm xưng tôn hiệu. Các
quan có nhiều người theo, Phúc Nguyên phải chạy sang Đông.
Khiêm vương Mạc Kính Điển và bọn Nguyễn Kính phát binh
đánh Tử Nghi, buổi đầu có thua nhiều trận nhưng sau tập hỢp
được nhiều tướng tá, họp các đạo quân thuỷ bộ cùng tiến, phá
được quân của Chánh Trung. Tử Nghi đem bọn Chánh Trung
chạy, chiếm cứ xứ An Quảng. Chánh Trung cùng mấy người họ
Mạc thất thế, đem gia quyến hơn trăm người, chạy sang Khâm
Châu. Tử Nghi giữ đất An Quảng, lại vào địa phận Trung
Quôh, khua dụ dân Man ở ven biên nổi loạn cướp phá, làm tao
nhiễu Khâm Châu và tỉnh Quảng Đông. Nhà Minh tỏ ra lúng
túng, không chế ngự được các cuộc nổi dậy này. Sau họ ép
Kính Điển sai người dụ bắt được Tử Nghi, đem chém. Bấy giờ
là năm 1548.
Trong thời gian Phúc Nguyên còn nhỏ tuổi chưa quyết định
được gì, mọi công việc lớn nhỏ đều do người chú Khiêm vương Mạc
Kính Điển định đoạt.
Năm 1549, vua Minh tập phong cho Phúc Nguyên.
Trong triều bấy giờ có Phụng quận công Lê Bá Ly chức
thái tể là vị lão tướng trọng thần, nguyên là quan triều Lê,
theo làm bày tôi họ Mạc, thò bô"n triều vua, chuyên giữ binh
quyền, tham dự triều chính, mọi người đều phục. Sau khi
đánh Phạm Tử Nghi, uy danh lừng lẫy. Con trai trưởng Phó
quận công Khắc Thận lấy công chúa, quyền tiết chế lộ Sơn
Nam. Con trai thứ Thuần Lương hầu quản đôh đội cấm binh.
Con rể, thông gia đều là quan văn, võ. Lại cỏ Vĩnh quận công
Phạm Quỳnh và con là Phó Xuyên hầu Phạm Giao, không có
công gì, chỉ do vỢ Phạm Quỳnh xưa là vú sữa nuôi Kính Điển
mà được phong. Bị khinh khi, Phạm Quỳnh gièm với Kính
Điển và nói với Phúc Nguyên là Khắc Thận có dị mưu (phản
nghịch), rồi tự ý sai quân đến vây nhà Bá Ly. Bá Ly c ố thủ,
gọi con em đến cứu viện. 3.000 cấm binh hộ vệ, đánh bại bọn
Quỳnh, Giao. Phúc Nguyên hoảng sỢ, chạy qua sông, sai
người xin Bá Ly bãi binh. Bá Ly đòi phải bắt cha con Phạm
Quỳnh giải đến. Phúc Nguyên không chịu, sai bọn tướng Sơn
302
Tây hỢp binh đánh. Bá Ly được nhiều toán quân cứu viện,
đánh bại quân Phúc Nguyên, mà Phúc Nguyên vẫn không
chịu nộp cha con Quỳnh, Giao. Bá Ly tức giận, bàn với các
tướng: Vua nhà Lê đã chính vị ở Thanh Hoa, bôn phương quy
phục, thực là vị chúa trung hưng. Nay nên dẫn quân quy
thuận, dựng nên nghiệp lớn. Mọi người đồng thanh nghe theo.
Lê Bá Ly cùng con trai Khắc Đôn, Khắc Thận xuất 14.000
quân các đạo tây nam, cùng với Nguyễn Thiến, Nguyễn Quyện
tới bái yết vua Lê đóng ở sách Vạn Lại. Thái uý Đoan quận
công Nguyễn Khải Khang cũng đem 3.000 quân vào quy
thuận. Cháu rể Bá Ly là Khổng Lý và Đặng Huấn cũng theo
vào. Bây giò là năm 1551. Do sự việc này, thanh th ế của nhà
Mạc bị suy giảm nhiều. Phúc Nguyên lo sỢ, binh quyền uỷ hết
cho Kính Điển tính kế bảo thủ.
Trong thòi gian Phúc Nguyên làm vua, quân Mạc nhiều lần
đánh vào Thanh, Nghệ không được. Quân Trịnh cũng có đánh ra
bắc (sự việc chép kỹ ở sau).
Mạc Phúc Nguyên làm vua 15 năm, mất năm 1561. Có
thuyết mất năm 1564.
Phúc Nguyên mất, con là Mậu HỢp nôl ngôi. Đ ại Việt
thông sử chép Mậu Hợp sinh năm 1563, lên ngôi 1564. Vua
mối lên hai tuổi, các công việc đều do ông chú Mạc Kính Điển
và Mạc Đôn Nhượng (con Đăng Doanh). Mậu Hợp làm vua
được 30 năm, thời gian này chỉ toàn những năm có chiến
tranh. Buổi đầu còn có những trận quân nhà Mạc đánh vào
miền trong, quân Trịnh đánh ra. Thế quân Trịnh ngày càng
mạnh, từ năm 1583 chiến thắng luôn. Thế mà Mậu Hợp lớn
lên lại hoang chơi, say mê tửu sắc. Trọng thần già chết. Các
quan văn võ nhiều ngưòi dâng thư xin tu tỉnh, sửa đức, chỉnh
đốn việc cai trị, nhất là võ bị. Mậu Hợp khen phải nhưng
chẳng chịu theo. Họ chán nản, nhiều người bỏ quan về, hoặc đi
ẩn, hoặc vào hàng họ Trịnh, Thế quân ngày một suy kém.
Tháng 12 năm Mậu Thìn (1592), Mậu Hợp thua trận, chạy
trôn, bị bắt, chém.
Nhà Mạc mất ngôi từ đấy. Sau con cháu nhò nhà Minh bênh
vực, còn giữ đất Cao Bằng ba đời nữa, đến năm 1677 mới dứt hẳn.
303
NGUYỄN KIM
Tên chữ Hán viết , tiếng Quan hoả là Jin, đồng âm với các
chữ . Ta quen đọc là Kim, / r t là Cân. Sách Đại Việt
thông sử của Lê Quý Đôn chép là Cam. Tiếng Kim thông dụng hơn.
TRỊNH KIỂM
Trịnh Kiểm người làng Sóc Sơn, huyện Vinh Phúc (nay là Vĩnh
Lộc), phủ Quảng Hoá, là tướng giỏi, theo thái sư Hưng quốc công
Nguyễn Kim đi đánh dẹp, lập được nhiều chiến công. Nguyễn Kim
gả con gái là Ngọc Bảo cho. Lê Trang Tông phong là Dực Nghĩa hầu;
năm 1539 lại thăng tước công, coi là đại tướng tầm phúc.
Nguyễn Kim khuất, Trịnh Kiểm thay thế, nắm giữ binh
quyền. Lê Trang Tông phong chức làm tiết chế các xứ thuỷ bộ chư
doanh, tước Lương quốc công, được đặc quyền giữ việc binh và
tổng tài chính sự trị dân.
Trịnh Kiểm rút quân về Thanh Hoa, lập hành điện ở đồn
Vạn Lại thuộc Thuỵ Nguyên để vua ở, rồi chiêu mộ hào kiệt,
luyện tập quân sĩ, tích trữ lương thực, để lo việc đánh họ Mạc.
Danh sĩ miền bắc như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh
đều vào giúp. Bấy giờ giang sơn chia làm hai: từ Thanh Hoa trỏ
vào thuộc nhà Lê, là Nam triều, từ Sơn Nam trở ra thuộc họ
Mạc, gọi là Bắc triều.
305
LÊ ANH TÔNG
Bấy giờ, tại Nam triều, vua Lê Trang Tông không thọ lâu, khuất
năm 1548. Con là thái tử Lê Duy Huyên kế vỊ, ấy là vua Lê Trung
Tông. Lê Trung Tông yểu mệnh, khuất năm 1556, không có con. Con
cháu trai các vua nhà Lê không còn ai.
Trịnh Kiểm từ trước đến nay vẫn hành động với danh nghĩa
phục Lê diệt Mạc không tiện tự lập, e không có chính nghĩa. Họ
Mạc còn khá mạnh, lại sỢ nhà Minh bên Trung Quốc can thiệp vào
việc nước ta, đành giữ phận “thò Phật ăn oản” theo lòi khuyên của
Nguyễn Bỉnh Khiêm (trạng Trình). Sau tìm được ngưòi cháu
huyền tôn của Lê Trừ, anh Lê Thái Tổ là Lê Duy Bang ở làng Bố
Vệ, huyện Đông Sơn, rước về lập làm vua năm 1557, tục hiệu vua
Lê Anh Tông.
Lê Anh Tông không có công đức gì, chỉ là người cháu họ xa
với các vua Lê tiền triều mà được lập, do không nắm giữ được binh
quyền nên chỉ giữ hư vị.
Nhà Lê có trung hưng nhưng mới đóng tại Tây Đô, chưa thu
phục lại được giang sơn như cũ. Nhà Mạc có làm vua nhưng chỉ
giữ đưỢc có miền bắc. Ây là thòi phân Nam triều và Bắc triều.
NGUYỄN HOÀNG
Nguyễn Kim, người khởi binh chông nhà Mạc, có hai con trai:
Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng, một gái là Ngọc Bảo gả cho
Trịnh Kiểm. Nguyễn Kim chết, Trịnh Kiểm là tướng tài nắm giữ
binh quyền. Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng làm thuộc tướng, lập
được nhiều công. Người anh được phong là Lang quận công, người
em gái thái uý Đoan quận công. Nguyễn Uông chết một cách bí
mật khả nghi. Nguyễn Hoàng sỢ bị hại, xin vào trấn thủ miền xa
xôi phía nam.
Năm 1558, ông được cử làm trấn thủ đất Thuận Hoá. Nơi đây
là trọng địa có nhiều nguồn lợi trên rừng núi dưới biển sông.
Nhưng lại là nơi cùng với xứ Quảng Nam, sung yếu. Quân nhà
Mạc có thể dùng chiến thuyền vượt biển đánh thẳng vào. ông có
bổn phận trấn giữ vùng này, cùng với Trấn quận công Nguyễn Bá
Quýnh ở Quảng Nam, cứu viện lẫn nhau.
Bấy giò, có nhiều những người họ hàng ở huyện Tông Sơn
cùng quân lính đâT Thanh, Nghệ, đem cả vỢ con theo đi. Vào đóng
ở xứ Ai Tử, sau gọi là kho Cây Khế, thuộc huyện Đăng Xương,
Quảng Trị ngày nay.
Nguyễn Hoàng là người khôn ngoan, lại có lòng nhân đức,
thu dụng hào kiệti yêu sĩ nhân, nên được lòng người mến phục.
327
Nàm 1569, ông ra chầu vua ở An Tràng. Qua năm 1570, Trịnh
Kiểm gọi Nguyễn Bá Quýnh tổng binh Quáng Nam về trấn thủ đất
Nghệ An và cho ông kiêm luôn chức trấn thủ cả hai xứ Thuận,
Quảng. Lệ mỗi năm phải nộp thuế 400 cân bạc, 500 tấm lụa.
Năm 1571, quân Mạc Kính Điển vào cướp, chiếm khu từ sông
Cả trở vào nam. Xứ Thuận, Quảng giao động. Nguyễn Hoàng sẵn
có danh vọng và uy tín, lại nhiều mưu lược quyền biến, không chế
trong hạt, quân luật rất nghiêm, bắt giết bộ tướng định hàng giặc.
Quân Mạc không thế phạm tới hai xứ này.
Năm 1572, tướng Mạc Quận công Lập Đạo xuất thuỷ quân
nhiều chiến thuyền do đường biển tiến đánh vào Thuận Quảng.
Thô dân nhiều người ra hàng. Nguyễn Hoàng sai Ngô thị, người
con gái đẹp, giả làm cách đưa vàng bạc sang nói với Lập Đạo xin
cầu hoà. Lập đạo không phòng giữ gì, hị quân Nguyễn đánh lén,
bắt được, giết đi. Quân Mạc bị đánh tan.
Năm 1593, Trịnh Tùng đã lấy được Đông Kinh, bắt được Mạc
Mậu Hợp nhưng đảng Mạc còn nhiều, phải đánh dẹp nhiều nơi.
Nguyễn Hoàng đem quân lính súng ôAg ra giúp, lập được nhiều
công to. ơ lại 8 năm. Trịnh Tùng vẫn ghen ghét, không muốn cho
ông trở về Thuận Hoá. Năm 1600, nhân có bọn Phan Ngạn khởi
binh ở cửa Đại An (Nam Định), ông đem bản bộ tướng sĩ, nói là đi
đánh giặc, rồi theo đường biển vào Thuận Hoá. Vào đó rồi, sỢ
Trịnh Tùng nghi ngờ, đem con gái là Ngọc Tú gả cho Trịnh Tráng
là con Trịnh Tùng, ông ở giữ đất Thuận Hoá, cho người con thứ
sáu vào đất Quảng Nam, dựng kho tàng tích trữ lương thực.
Nước nhà vừa thông nhất chưa bao lâu, từ đó lại phân liệt
nam bắc, bề ngoài hoà hiếu, nhưng hề trong vẫn lo việc phòng bị
chống cự với nhau.
MẬU HỘP
Thuần Phúc 1562-1565
Long Thái
1623-1625
335
LÊ MẠC TRỊNH NGUYỄN
CHÁN TONG DUY Hửu K IN H VŨ Thanh E)ô vuong TRÁNG Hy Tồng PHÚC
PhúcThái 1643-1649 Thuấn Đúc 1623-1657 NGUYÊN
TH ẨN TONG 1638-1677 Vãn tổ Nghi vuOng Thuỵ quận còng
KhánhĐúC 1649-1652 1613-1635
Thịnh Đúc 1653-1657 Chúa Sãi
Vĩnh Thọ 1658-1661
Van Khánh 1662
H U Y Ề N 'lỦ N G DUY VŨ Tây vuOngTẠC Thần Tông PHÚC LAN
CảnhTri 1663-1671 1657-1682 Nhãn quận còng
G IA T Ú N G D U Y H Ộ I Hoang tổ Duong vucing 1635-1648
Duờng ĐÚC 1672 -1673 Chua Thuọng
Đúc Nguyên 1674 -1675 Thái Tòng PHÚC TẨN
Dũng quận oòng
1648-1687
HYTO N G D U 'YH Ộ H 0 n h Vuơng CÂN Anh Tông PHÚC TRÂN
VĩnhTri 1676-1680 1682-1709 Hoàng quốc cõng
Chính Hoà 1680-1705 Chiêu tổ Khang vudng 1687-1691
Chúa Nghĩa
DỤ TONG DUY ĐƯỜNG An Đó vuong CƯƠNG Hiếu Tông PHÚC CHU
Vĩnh Thịnh 1705-1719 1709-1729 Tộ quốc cõng
Hoà Thái 1720-1729 Hy tổ Nhân vuong 1691-1725
NHAC
Thái ĐÚC 1778-1793
HUỆ
CXJang Trung
1788-1792
QUANG TOẢN
Cảnh Thịnh
1793-1801
BảoHưhg
1801 -1802
336
TÌNH HÌNH TRUNG QUỐC
THẾ KỶ XVII NHÀ THANH DẤY n g h iệ p
Phía bắc Trung Quốc có xứ Mãn Châu, giông người Nữ Chân,
cũng mạnh tỢn như người Mông cổ. Đòi Tông đã từng chiếm miền
hắc Trung Quốc dựng nên nước Kim được 120 năm, bị Mông cổ
diệt. Nhà Nguyên đặt Vạn Hộ phủ để cai trị. Nhà Minh đặt vệ địa.
Nhưng người xứ ấy vẫn tự trị. Đất Mãn Châu chia làm 4 bộ: Mãn
Châu, Trường Bạch (đều thuộc Kiến Châu vệ địa), Đông Hải
(thuộc Dạ Nhân vệ địa), Hồ Luân (thuộc Hải Tây vệ địa).
Năm 1616, Nỗ Nhĩ Cáp Xích người bộ Trườn^ĩ Bạch đánh lấy
cả bô"n bộ, xưng làm vua. Ây là Thanh Thái Tổ.
Đên đời con Thanh Thái Tông, nhân được Truyền quổc tỷ của
Trung Quốc, cải quốc hiệu là Đại Thanh.
Con Thái Tông là Lâm lên làm vua, Thanh Thế Tổ, đánh lấy
được cả đất Liêu Tây của nhà Minh.
Sang thê kỷ XVII. nhà Minh bên Trung Quốc suy vếu, chính
trị thôi nát. Nông dân khắp nơi nổi dậy chông đôl. Vào những năm
40, phong trào mạnh mẽ tập trung dưới sự lãnh đạo của Lý Tự
Thành, chiến đấu anh dũng. Năm 1644, vây hãm Yên Kinh.
Tướng Minh Ngô Tam Quê đang chông nhau với quân Thanh ở
Sơn Hải quan, về cứu viện, không kịp. Vua Trang Liệt đã bị giết.
Tam Quế trơ về Sơn Hải quan. Lý Tự Thành sai người dụ Tam
Quế về hàng. Tam Quế không chịu. Lý Tự Thành đem quân đến
đánh Sơn Hải quan. Tam Quế xin hàng nhà Thanh đế lấy binh
đánh Tự Thành. Tự Thành thua, bỏ Yên Kinh mà chạy. Quân
Thanh vào chiếm giữ Yên Kinh, rồi dời kinh sư về đó.
Quan nhà Minh lần lượt năm 1645 lập Phủc vương tại Nam
Kinh, năm 1646 lập Đường vương tại Phúc Châu, năm 1648 lập Quế
vương tại Triều Khánh (Quảng Tây). Phúc vương, Đường vương đều
bị đánh thua. Quế vương chống giữ được 13 năm, rồi cũng bị thua,
chạy sang Miến Điện. Vua Miến Điện bắt nộp cho Ngô Tam Quế,
Tam Quê đem giết đi. Ngô Tam Quế đóng quân giữ Vân Nam và một
phần Quảng Tây, từ năm 1658. Sau phản lại nhà Thanh, không bao
lâu chết. Nhà Thanh thống nhất Trung Quốc.
Năm 1663, nhà Minh mất hẳn rồi, vua Thanh Thánh Tổ
Khang Hy sai sứ sang nước ta, đòi triều công.
Khác với nhà Nguyên, nhà Minh, vua nhà Thanh sau khi
làm chủ Trung Quốic, không có ý muôK đánh chiếm đất nước ta đế
337
lập làm quận huyện, có thể vì thấy các tiền triều đều đã thất bại
trong công cuộc này.
'Năm 1689 có sự kiện nlià Thanh Ira lại cho nước la 8 thôn ứ chân Tư l,ãng, vùng Lạng
Sơn, trước bị chiếm, sau nliiều vụ diều dinh. Nơi dây có thôn Na Oa dấi rộng người dông,
lơi ích khá lớn. Còn dât 1 dộng Ngưu Dưtrng. Hồ Diệp và Phơ Viên, nơi dây có mỏ thiếc
bên ta không dời lại dược, nay thuộc tinh Vân Nam.
347
Tuyên Quang. Năm 1715, dân nghèo đói nổi dậy cướp phá các trấn
Kinh Bắc, Sơn Tây. Từ khi Trịnh Giang (Khương) làm chúa hoang
dâm, xa xỉ, chính trị thổi nát thì gần khắp mọi nơi đều có những
cuộc nổi dậy chống đôl, đám đông hàng vạn người, đám nhỏ 5, 7
trăm. Dân đói chỉ ăn rau, cỏ, thịt rắn, chuột, hễ gặp người táo bạo
xướng xuất thì vác dao, húa, gậy gộc đi theo liền ăn cướp thóc lúa
nhà giẳu. Các toán loạn quân nhiều như ong. dường xá trạm dịch
không đi được. Nhà chúa phải sai các trân lập đồn hoá thiêu trên
núi, đêm ngày canh gác đê kịp thời đôt lửa báo hiệu cho nhau.
Các toán nổi dậy thường mang chiêu bài “Phù Lê diệt Trịnh”
rất đông đúc. Thế mà nhà Trịnh vẫn không đổ, do các hoạt động
nổi dậy thường riêng rẽ, ít khi hỗ trỢ lẫn nhau, không tập hỢp
thành một khôi mạnh mẽ, thiếu bộ chỉ huy thông nhất. Các chúa
lại rất cưng chiều quân, hậu đãi tướng, có những tướng tài như
Phạm Đình Trọng, Hoàng Ngũ Phúc. Quân ưu binh dánh trận
giỏi, lại trung thành với nhà chúa (nhưng sau này chúng quá kiêu
lộng, làm hại chúa).
Năm 1737, nhà sư Nguyễn Dương Hưng (hay Đăng Hưng)
tập hỢp vài ngàn, người phần đông là dân lưu vong, nổi dậy ở Sơn
Tây, lấy núi Tam Đáo làm căn cứ họp đồ đáng, đi lại trong dân
gian, được nhiều người hưởng ứng, xvíng hiệu, dặt quan liêu, xa
gần đều kinh sỢ. Sang tháng giêng âl nám sau mới bị đàn áp.
Năm 1738 có vụ mấy hoàng thân định đô"t kinh thành, trừ họ
Trịnh không thành. Sau đó, rất nhiều cuộc nối dậy chông đối
chính quyền nhà Trịnh. Dưói đây chỉ kể những đoàn quân chống
cự lại được lâu dài.
ĐOÀN QUÂN NGÂN G IÀ - Năm 1740, ở đất Sơn Nam, làng Ngân
Già, huyện Nam Chân (nay là xã Nam Trực) có Vũ Đình Dung,
Đoàn Đình Chấn, Tú Cao nổi dậy, cướp phá rất dữ, giết quan đốc
lĩnh Hoàng Kim Qua. Thê mạnh lắm. Trịnh Doanh phái tự làm
tướng, đem quân đi đánh, hắt được Vũ Đình Hưng đem chém, đổi
tên xã Ngân Già làm Lai Cách, nay là xã Gia Hoà.
ĐOÀN QUÂN N IN H XÁ - Đồng thời vói quân Ngân Cià, ở Hải
Dương, anh em Nguyễn Tuyên, Nguyễn Cừ khởi binh ơ xã Ninh
Xá, huyện Chí Linh, Vũ Trác Oánh khởi ở xã Mộ Trạch, huyện
Đường An (Bình Giang). Tuyên vòn là viên quan nhỏ ở kinh
thành, bất mãn, từ quan, trở về quê nhà, kêu gọi nhân dân nổi
dậy chông triều đình, tự xưng là minh chủ, phôi hỢp với Vũ Trác
Oánh và Nguyễn Diên giây binh từ năm 1739, nêu khẩu hiệu “phù
348
Lê diệt Trịnh”, cầm đầu đám nông dân đấu tranh ở vùng đông bắc,
thanh thê mạnh, làm chấn động cá một phương, vẫy vùng khắp
miền Hải Dương, Bắc Ninh, Hà Đông, Hưng Yên ngày nay. Năm
1740, các tướng Trịnh Nguyễn Trọng Uông, Nguyễn Hữu Nhuận,
Phạm Hữu Tá kéo quân đến đánh Tuyến ở Binh Ngô (Gia Bình) bị
thua to. Bọn Nhuận bỏ chạy (sau trở về hị tội). Nguyễn Trọng
Uông c ố đánh, tử trận. Nguyễn Tuyên thừa thắng kéo quân xuông
đánh các huyện Thượng Phúc, Phú Xuyên, nhưng không lợi. Chia
quân đóng tại mọi căn cứ, Nguyễn Tuyển đóng quân ở Phao Sơn
thuộc Chí Linh. Cừ ở Đỗ Lâm, huyện Cia Phúc (nay là Gia Lộc)
làm đồn luỹ liên lạc với nhau. Mỗi người đều có đến hàng vạn
quân. Thế lực ngày càng mạnh. Tuyển, Cừ đánh thẳng xuốhg
Hồng Châu, Khoái Châu. Quan quân Trịnh mấy lần tiến đánh,
đều không nổi. Nhiều người bị bắt.
Mãi đến năm 1745, thôKg lĩnh Hải Dương Hoàng Nghĩa Bá
mới phá được các đồn Phao Sơn, Ninh Xá và Gia Phúc. Tuyển
thua chạy rồi chết. Vũ Trác Oánh đi đâu không ai hiết. Cừ chạy
lên Lạng Sơn, mấy tháng sau trở về Đông Triều, hết lương, vào
nấp ở núi Ngoạ Vân, bị Phạm Đình Trọng đem về kinh làm tội.
NGUYỄN DAN H PHƯƠNG - Năm 1740, Tế và Bồng nổi dậy ở Sơn
Tây (xưa gồm cả Vĩnh, Phúc Yên), lực lượng khá lớn. Tướng Vũ Tá
Lý đi đánh cả hai ở huyện Yên Lạc. Thủ hạ có Nguyễn Danh
Phương, tục gọi là Quận Hẻo, nguyên là nhà nho nghèo, đem dư
đảng về giữ núi Tam Đảo, chiêu mộ quân, tích trữ lương, một mặt
sai người về kinh xin hàng. Trịnh Doanh biết giả dôi, nhưng bấy
giò có Cầu và Chất đang quấy rôl ở miền đông và miền nam, lại
liên lạc với nhau, nên cũng tạm cho hàng. Danh Phương rảnh tay
xây đắp thành luỹ, rèn đúc khí giới tăng cường lực lượng. Năm
1744, số^ quân lên đến vạn người, Danh Phương về giữ vùng Việt
Trì, lấy huyện Bạch Hạc. Đốc xuất Sơn Tây Văn Đình ú c đem
quân đến vây đánh. Danh Phương chạy sang giữ làng Thanh
Linh, huyện Bình Xuyên, lập đại đồn ơ núi Ngọc Nội, giáp hai
huyện Bình Xuyên và Tam Dương, trung đồn ở đất Hương Canh,
ngoại đồn ở đất Uc Kỳ tự xưng là Thuận Thiên khải vận đại nhân,
dựng cung điện, đặt quan thuộc, thu các thứ thuế ở đất Sơn Tây
và Tuyên Quang, như một triều đình. Thanh thế lừng lẫy trong
non 10 năm.
Năm 1750, sau khi bình được cầu và Chất, Trịnh Doanh cùng
Hoàng Ngũ Phúc, Nguyễn Nghiễm, Đoàn Chú chỉ huy bổh đạo
349
quân tiến đánh Danh Phướng, đi vòng đường Thái Nguyên, đánh
phá đồn ưc Kỳ. Khi quân tiến lên đồn Hương Canh, bị trong đồn
bắn súng đạn ra như mưa, quan quân không tiên lên được. Trịnh
Doanh lấy gươm trao cho tướng Nguyễn Phan báo rằng: Đồn này
phá không được thì lấy quân pháp mà trị. Nguyễn Phan hộ quân
sĩ, bảo các thủ hạ: Việc binh có quân pháp. Nay là buôi các ngươi
cùng ta phái liều một trận sôhg chết đê báo đền ơn nước, cho khỏi
phụ tiếng râu mày. Thủ hạ háng hái xông pha, kbông ai lui, phá
đưỢc đồn Hương Canh. Danh Phương phái lui quân vê núi Ngọc
Hội cầm cự. Quân Trịnh tiến lên đánh đuổi, Nguyễn Phan sai thủ
hạ cầm đồ đoản binh tự tiện đi trước mà vào, đcỢÌ quân theo sau.
Quân Danh Phương cầm cự ác liệt, nhưng không nổi, bỏ chạy tan
cả. Danh Phương rút về núi Độc Tôn, huyện Tam Dvíơng, phá hết
đồn trại rồi bỏ trôn, đi đến xã Tịnh Luyện, huyện Lập Thạch thì bị
bắt. Trịnh Doanh khải hoàn về kinh đô đến làng Xuân Hy, huyện
Kim Anh gặp người của Phạm Đình Trọng giải Nguyễn Hữu cầu
đến, mở tiệc khao quân.
NGUYÊN HỬU CẦU - Nguyễn Hữu cầu tục gọi Quận He, người
xã Lôi Dương, huyện Thanh Hà, Hải Dương, từ năm 1740 tham
gia cuộc nối dậy, là bộ tướng xuất sắc và là con rê Nguyễn Cừ. Sau
khi Cừ thất bại, Hữu cẩu duy trì và phát triến lực híỢng ỏ vùng Hải
Dương. Trong các lãnh tụ quân nổi dậy chôhg họ Trịnh thê kỷ XVIII,
Hữu Cầu kiệt hiệt hơn cả.
Năm 1742, Hữu cầu chiếm giữ Đồ Sơn làm cán cứ, làm chủ
vùng bờ biển Vân Đồn và các hải đảo chung quanh, tự xưng là
Đông đạo tống quốc bảo dân đại tướng quân, ý nói mục đích dấy
quân là bảo vệ quyền lợi dân nghèo. Hữu cầu thường cướp của
nhà giàu, đón đánh thuyền buôn của phú thương, lấy của chia cho
dân nghèo đói, lưu vong theo về. Sô" lượng quân phát triến nhanh
chóng, mở rộng phạm vi hoạt động khắp vùng đông bắc.
Nàm 1743, thuỷ đạo đốc lĩnh Trịnh Bằng đến đánh Hữu cầu ở
vùng Kiến Thuỵ, bị thua chết trận, quân tan vỡ. Trịnh Doanh sai
Hoàng Công Kỳ, Trần cảnh, đem lực lượng lớn quân đội đi đàn áp.
Ban đầu, Hữu cầu thua, phải bỏ Đồ Sơn, nhưng sau sắp xếp lại
quân đội đánh thẳng vào doanh trại Công Kỳ ở Thanh Hà, vây hãm
Công Kỳ hàng tuần. Tin về kinh đô, Hoàng Ngũ Phúc kéo đại quân
đến giải vây, lại bị chặn lại ở vùng Ninh Giang, Vĩnh Bảo. Hoàng
Công Kỳ phải liều chết mở đường máu đem tàn quân rút về sông
Tranh, hội quân cùng với quân Hoàng Ngũ Phúc đe phan công.
350
Năm 1744, Hoànpr Ngũ Phúc dồn lực lượng tấn công vào căn
cứ Đồ Sơn. Hữu Cầu phá vòng vây tiến vê mặt Kinh Bắc, chiếm
vùng sông Thọ Xương, huyện Lạng Giang. Trân thủ Kinh Bắc
Trần Đình cẩm đem quân lên phá, hị đánh thua. Được đà, Hữu
Cầu chiếm được thành Kinh Bắc. Nghe tin, triều đình, hoảng hốt,
tưởng chừng quân nối dậy sắp tiến đánh kinh thành, vội vã huy
động vệ hĩnh phòng giữ. Hoàng Ngũ Phúc kịp thòi kéo quân về
đóng ở Vũ Giàng. Trịnh Doanh cử Trương Khuông phối hỢp vói
Ngũ Phúc lấy lại được thành Kinh Bắc. Trịnh Doanh huy động
12.700 quân với 16 đại tướng bao vây quân Hữu cầu. Các nhà
thầu nộp thóc gạo cho quân triều. Nhưng cuố’i năm 1744, Hữu cầu
phá tan dược thê hao vây, chiến thắng trận Ngọc Lâm, huyện Yên
Dũng, rồi trở lại vảy Kinh Bắc lần nữa. Các tướng Hoàng Ngũ
Phúc, Đàm Xuân Vực, Nguyễn Danh Lê chỉ huy phải hỢp sức lại
mới giải vây đưỢc thành này. Hữu cầu lại lẽn Xương Giang,
huyện Fỉảo Lộc đánh đuổi quân cúa thống lĩnh Đinh Văn Giai.
Trịnh Doanh sai Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Đình Trọng đi đánh
Hữu Cẩu ở Xương Giang. Trận này, quân Hữu cầu thua to, tướng
tên là Thông hị giết. Quan quân lấy được nhiều quân nhu, chiến
mã, nhưng Hữu cáu vẫn thoát thân.
Hữu Cầu kiệt hiệt lại quỷ quyệt, ra vào bất trắc, có khi bị
vây hàng mấy vòng mà chỉ một mình một ngựa phá vây ra, rồi chỉ
trong mấy ngày lại có hàng vạn người di theo, do ngày thường
cướp được thóc gạo đem cho dân nghèo, nên di đến đâu cũng có
người theo, muôn lấy hao nhiêu quân híơng cũng có.
Mùa thu năm 1745, Hữu cầu trơ về Hái Dương hoạt dộng
quanh vùng ven biến, có khi tập kích vào Sơn Nam. (^uân Trịnh
luôn luôn theo dõi, Phạm Đình Trọng mấy phen đánh bại, nhưng
lần nào Hữu cầu cũng chạy thoát được, rồi chi mấy ngày sau đã
tập hỢp được mấy ngàn hình sĩ, lại chiến đấu, như là có phép lạ.
Năm 1748, sau trận thua lớn ở cẩm Giàng, Hải Dương, Hữu
Cầu đồ chừng quan quân ở kinh thành không phòng thủ ráo riết
mà binh hùng tướng dũng đều đỏng ở ngoài xa. táo bạo mơ cuộc
hành quân cấp tổc: về Bồ Đề, tấn công thíành Thăng Long. Quân
vừa sang sông thì tròi sáng. Quân Trịnh kịp dồn hết lực lượng ra
chông cự. Quân Hữu cầu bị tổn hại nhiều trong trận ncày, phải rút
về Sơn Nam, phốỉ hỢp với quân Hoàng Công Chất. Phạm Đình
Trọng tập hỢp lực lượng về Sơn Nam, mở cuộc tấn công quyết liệt,
nhiều cuộc giao chiến diễn ra ỏ vùng Bình Lục. nay thuộc Hà Nam.
351
Từ năm 1749, Hữu cầu thua quân luôn, không còn oanh liệt
như hồi trước nữa. sai người đem vàng về đút lót cho quan triều
Đỗ Thế Giai và nội Giám Nguyễn Phương Đĩnh đê xin hàng. Trịnh
Doanh thuận cho và phong là Hướng Nghĩa Hấu. Phạm Đình
Trọng cô thù Hữu cầu đã đào mả mẹ đem đố xuống sông, không
chịu, cứ đánh. “Tướng ngoài biên, dẫu có mệnh vua cũng có điều
không nên chịu”. Trịnh Doanh vẫn tin cấn Đình Trọng. Phạm
Đình Trọng chiêu mộ người các huyện Thanh Hà. Tứ Kỳ, Vĩnh
Lại, Thượng Nông, đặt làm 4 cơ, giao cho thủ hạ cai quán, cố tình
tiêu diệt cho hằng được đôl thủ. Hữu cầu đã xin vê hàng mà cứ
cướp phá các nơi huyện Thần Khê và Thanh Quan cùng với Hoàng
Công Chất Phạm Đình Trọng và Hoàng Ngũ Phúc đem đại binh
xuông đánh đuối.
Sang năm 1751, sau mấy trận thua luôn, Hoàng Công Chất
chạy vào Thanh Hoa, Hữu cầu chạy vào Nghệ An, hỢp đảng vối
Nguyễn Diên, bạn chiến đấu cũ dưới trướng Nguyễn Tuyến, ở
Hương Lẫm, huyện Nam Dương. Chắng hao lâu. Phạm Đình
Trọng lại đem quân vào vây đánh. Hữu cầu cùng một S (í hộ tướng
và binh sĩ vượt biển định trở về Hải Dương, chưa qua khỏi vùng
hiển Nghệ An, gặp bão phải bỏ thuyền lên bộ. (ịudn Trịnh đánh
đuổi theo, hắt được Hữu cầu ỏ núi Hoàng Mai, huyện (Ai.ỷnh Lưu,
đóng cũi đem về nộp chúa Trịnh Doanh. Nguyễn Hữu cầu và
Nguyễn Danh Phương đều phải chém ư Thăng Long, tháng 3 âl
năm 1751.
Dân các xã tống Đồ Sơn vẫn sùng bái Nguyễn Hữu cầu, lập
đền tôn thò. Các vua nhà Nguyễn sắc phong cầu làm phúc thần.
HOÀNG CÔNG CH Ấ T - Cùng với Nguyễn Tuyển. Nguyễn Cừ,
Hoàng Công Chất nôi dậy đánh phá ở đất Sơn Nam về hạt Khoái
Châu và Thiên Trường. Quân sĩ của Công Châ't giỏi thuỷ chiến, sở
trường lôl đánh du kích, chiến đấu linh hoạt, khi tan khi hỢp và
thường không xây dựng căn cứ cố định tại một nơi. (ịuân Trịnh
nhiều lần đến đánh, không dẹp nổi. Năm 1745. trấn thủ Sơn Nam
Hoàng Công Kỳ đem quân đàn áp hị mai phục bắt giết. Năm 1746,
quân Công Chất phôi hỢp với quân Nguyễn Hữu cầu. Bị Phạm
Đình Trọng và Hoàng Ngũ Phúc đánh thua dồn dập mấy trận.
Năm 1751, Công Chất chạy vào Thanh Hoa. Các doàn quân nổi
dậy ở đồng bằng lần lượt tan dã, Công Chất rút lên miền thượng
du, dựa vào miền núi hoạt động, tiến vào vùng Hưng Hoá. liên kêt
với thủ lĩnh người Thái tên là Thành. Nám 1761, Thành bị quân
352
Trịnh tấn công, bắt được. Công Chất chạy lên châu Ninh Biên
(nay là Lai Châu), chiếm giữ các hạt lân cận bắc Hưng Hoá (Điện
Biên, Sơn La), tụ tập đồ đảng có hàng vạn người. Hoàng Công
Chất gắn bó với dân xứ àV, giông người Thái, được họ mến chuông,
nhưng lại là cái gai của triều đình. Năm 1769, Trịnh Sâm sai
thông lĩnh Đoàn Nguyên Thục đem quân lên đánh. Quan quân
đến nơi thì Công Chất đã chết. Con là Hoàng Công Toán không
giữ nổi, bỏ chạy sang Vân Nam, đồ đáng tan rã.
LÊ DUY MẬT - Tháng 10 âl năm 1738, dưới triều vua Ý Tông,
các hoàng thân Lê Duy Mật, Lê Duy Quy (con vua Dụ Tông) và Lô
Duy Chúc (con vua Hy Tông) cùng với các triều thần Phạm Công
Thô, Vũ Thước, Lại Thê Tế, định dốt kinh thành, trừ họ Trịnh.
Việc tiết lộ, phải bỏ chạy. Thước bị bắt giết. Duy Chúc và Duy Quy
sau (ấn chết. Duy Mật chạy ra huyện Nghi Dương, được thố hào
Ngô Hưng Tạo đưa vượt biên vào Thanh Hoa, trôn phần đất huyện
Thạch Thành. Dựa vào sự căm oán của nhân dân, ông tập hỢp lực
lượng dân nghèo, chông lại họ Trịnh, kêu gọi quần chúng nổi dậy
“diệt Trịnh phù Lê”. Duy Mật giữ đất thượng du phiá tây nam,
chiêu tập binh sĩ theo vê ngày một đông. Từ năm 1740, Duy Mật
thường tiến đánh Hưng Hoá, Sơn Tây, Sơn Nam. Sau phcíi hỢp với
thủ lĩnh Tượng nổi dậy ở Sơn Tây, giữ đồn Ngọc Lâu, huyện Thạch
Thành. Quân Trịnh đánh phá được đồn Ngọc Lâu. Tưcthg tử trận.
Duy Mật phải bỏ căn cứ, rút lên miền thượng du, năm 1752. Duy
Mật chạy vào Nghệ An. rồi sang Trấn Ninh, giữ núi Trình Quang
làm căn bản. Trong khoảng những năm 1752 - 1783, van làm chủ
miền thượng du Thanh Hoa, Nghệ An, xây đồn luỹ hao vệ, đồng
thời cũng chăm lo cái thiện đ(ứ sông của nhân dân địa phương,
làm các việc đào kênh, họp chợ, dựng lò rèn đúc nông cụ. luôn tiện
cá vũ khí.
Duy Mật có giao dịch vối chúa Nguyễn Võ vương ơ Đàng
Trong mong sự giúp đỡ. Võ vương không muôn gây sự với họ
Trịnh, nên không giúp.
Năm 1764, căn cứ Trình Quang được xây dựng xong, có hào
luỹ kiên cô", không chế cả vùng thượng du Thanh, Nghệ và một
phần Hưng Hoá. Lực lượng bấy giờ đã khá mạnh mẽ.
Năm 1767, Trịnh Doanh mất, Duy Mật định m(i cuộc tấn
công ra bắc, kéo quân xuông vùng Hương Sơn (Hà Tình), Thanh
Sơn (Nghệ An) bị quân Trịnh cản lại, phải rút về Trân Ninh.
Trịnh Sâm nôi nghiệp chúa cho đưa thư sang vỗ về không được,
353
quyết dùng đại binh dứt môì loạn. Sau khi chuẩn bị kế hoạch và
lương thảo, năm 1769 mơ cuộc tấn công quy mô vào núi Trình
Quang, sai Bùi Thế Đạt thông lĩnh đâ't Nghệ An. Nguvễn Phan
Chánh đốc lĩnh đất Thanh Hoa, Hoàng Đình Thê đốc binh đất
Hưng Hoá, cả ba đạo cùng tiến sang đánh Trấn Ninh. Khi quân
Trịnh đến vây, Lê Duy Mật định cứ giữ hiểm không ra đánh,
không ngờ người con rể là Lại Thế Chiêu phản bội, mở cửa luỹ cho
quân Trịnh vào đặt đại bác bắn vào thành trong và khép chặt
vòng vây. Lê Duy Mật không sao thay đổi được tình thê, bèn cùng
vỢ con tự đôt mà chết, kết thúc 30 năm chống đôi họ IVỊnh.
MẤY CUỘC N ổ l DẬY KHÁC - Thời Trịnh Sâm làm chúa, còn có
mấy cuộc nổi dậy khác.
Năm 1778, các thủ lĩnh Thúc Toại, Nguyễn Kim Phẩm, Trần
Xuân Trạch cầm đầu hàng vạn dân vùng đồng bằng ven biển,
đánh phá vùng Yên Quảng, lại vượt biên đánh vào huyện Giao
Thuỷ, bắt đưỢc quan trấn Yên Quảng Đặng Đình Việt, phá quân
trấn Sơn Nam của Ngỗ Đình Hoành. Trịnh Sâm phải sai mấy viên
tướng đem quân thuỷ bộ đến đàn áp. Chúng rút lui về phía bò
biển, hoạt động trong một thời gian nữa.
Năm 1785, ở Yên Quảng lại nổ ra cuộc nổi dậy lớn của Thiêm
Liêm có đến hàng chiếc thuyền hoạt động vùng ven biển. Sau lại
có thủ lĩnh là Sơn đem quân sáp nhập, thanh thế mạnh mẽ, kéo
dài cho đến khi quân Tây Sơn ra hắc.
Ó Thái Bình, có thủ lĩnh tên là Du hội họp lực híựng nối dậy
đánh bại quân Trịnh ở Trà Lý, tuyên b(): “không đôt phá làng mạc,
chỉ cướp của nhà giàu đem nuôi dân đói”, được dân nghèo hưởng
ứng rất đông. Quân Trịnh đàn áp không nổi, phải dùng mưu cho
người thân thuộc của Du nhập vào hàng ngũ ám hại thủ lĩnh.
Người nước ta thường gọi tôn giáo này Icỉ dạo Thiên Chúa do chi thờ có Tliiên Chúa, chứ
không thừ các vị thần thánh linh tinh khác. Gọi thế e không dược dúní>. vì nhióLi tôn giáo
khác cũng thờ chúa Trời; léhovah dạo Do Thái, Allah dạo llổi, l^hạn riiiẽn dạo An Độ,
Ngọc hoàng đạo Lão, Yang cùa người Mọi cũng déu là Trời. Gia rỏ là tiêng Hán - Việt
người nước ta dọc chữ Hán viết tên Giáo Chú. Có người còn gọi lỏn giáo này ITi Cơ Đốc, do
chữ Chrisl (cứu thế) nhưng tiêng Gia Tô giáo dược thông dụng hơn. Cùng là Gia Tô Cơ Đốc
giáo (Christanisme) người Catỏlích (phái Calholicisme) gọi phái dạo mình là Cóng giáo (tòn
giáo cúa mọi người) gọi dạo Tin Lành là đạo Cãi Lại (l^rotcstantismc), dầy vé chủ quan, chí
coi mình là thật, là đúng. Người khác tôn giáo không ưng dùng những liống ây.
369
Nai hay khoai mì). Mấy loại lương thực này được trồng trọt nhiều
khắp nơi, thường dùng trong bữa ăn bình dân.
Người nước ta xưa chịu ảnh hưởng văn hoá Trung Quôh, lễ
nghi theo Chu Công, Khổng Tử, thờ cúng tố’ tiên và các vị có công
với nước, với loài người. Trước kia, đạo Phật truyền bá không gặp
trở ngại gì, người theo đạo Phật vẫn thò cúng ông vải và các thần
thánh. Đạo Gia Tô truyền bá sang nước ta, có những người nước ta
theo, lễ nghi có khác, nên bị coi là phá hoại phong hoá, lễ giáo cô
truyền rất hay. Người đã có tín ngưỡng thì chỉ cho đạo mình là
thật, là đúng, coi đạo khác là tà đạo, đạo dôi. Thòi xvfa, người nước
ta chưa biết đến sự bao dung (tolérance), nên nhà cẳm quyền cấm
dân chúng theo đạo mới và đuổi các người giảng đạo. Người đã tin
tưởng không dễ gì bỏ. Cấm đoán không được, nên có sự việc giết
các giáo sĩ và giáo đồ, rất đáng tiếc.
Năm 1533, có người phương tây là Inêkhu đi đường biến vào
giảng đạo ơ các xã Ninh Cường nay thuộc huyện Trực Ninh, Quần Anh
(Hải Hậu) và Trà Lũ (Giao Thuỷ) đều là miền hiển tính Nam Định.
Năm 1598, giáo sĩ Tây Ban Nha Diego Adverte đến giảng đạo
ở miền Thuận, Quảng. Trấn thủ Nguyễn Hoàng thấy có mấy tàu
nước này cùng đến, sỢ có ý quấy nhiễu gì chăng, nên đuối đi.
Năm 1615, giáo sĩ Busomi, năm 1624, giáo sĩ Jean Rhodes, người
Pháp đến giảng đạo ở Phú Xuân, lập giáo điíờng, thời chúa Sãi.
Năm 1626, giáo sĩ Badinoti đến giang đạo (í Đàng Ngoài.
Chúa Trịnh Tráng không cho, phải bỏ di. It lâu sau, Jean Rhodes
ra bắc yết kiến chúa Trịnh, dâng đồng hồ quá lắc. Chúa cho phép
giảng đạo ở kinh đô.
Từ đấy về sau, các giáo sĩ cứ dần dần vào nước ta giảng đạo.
Có nhiều người mình tin theo. Nhưng về sau, nhận thấy người
theo đạo mới bỏ phong tục cũ, không còn thò cúng thẳn thánh tiên
tố’ nữa, cho thế là phá hoại lễ giáo, nên các chúa ra lệnh cấm đoán
và hắt tội những người không tuân. Năm 1631, chúa Thượng ở
Đàng Trong cấm không cho người phương tây vào giảng đạo. Năm
1663, ở Đàng Ngoài, chúa Trịnh Tạc bắt đuổi các giáo sĩ ngoại
quốc và cấm người trong nước theo đạo Gia Tô. Năm 1664, chúa
Hiền giết những người đi giảng đạo ở cửa Hàn (Đà Nẳng). Năm
1696, chúa Trịnh Căn bắt đôt phá hết cả những sách đạo và nhà
thò đạo ở các nơi và đuổi những người giảng đạo ra khỏi nước.
Năm 1712, chúa Trịnh Cương bắt những người theo đạo phải cạo
trán, khắc hôn chữ “theo đạo Hoà Lan”. Năm 1754, chúa Trịnh
370
Doanh cấm nghiêm ngặt hơn, không cho người trong nước theo
đạo, lại giết cả các đạo trưởng và đạo đồ.
Việc cấm đạo râ"t nghiêm, mà người đi giảng đạo vẫn không
sỢ luật nước, cứ cô sức dụ cho được nhiều người theo đạo. Rồi dần
dần người trong nước phân ra bên lương vả bên giáu, ghen ghét
nhau như người thù địch. Các chúa thấy dùng phép thương không
cấm được, mới dùng đến cực hình đê trừng trị, giết hại nhiều
người vô tội.
Ví phỏng người phương tây sang buôn bán bên nước ta không
mang theo giáo sĩ truyền đạo Gia Tô hay vua chúa và người nước
ta xưa biết hao dung dán chúng tin theo tôn giáo này thì sự trao
đổi hàng hoá sẽ tôd đẹp, cả đôi bên cùng có lợi. Có người vạch ra
mặt trái của việc truyền đạo là đạo quân tiền phong của tư bản
thực dân, mở đường cho chúng cướp nước thì cũng không đúng;
Chỉ một sô" ít chứ không phải tất cả giáo sĩ truyền đạo đều ăn
lương, làm tay sai phục vụ cho lũ tư bản thực d<ân cướp nước.
Thương thuyền các nước Au châu sang buôn bán bên Trung
Quốc, bên nước ta và các nước khác, nếu chỉ có những sự mua bán
theo thoả thuận đỗi bên, là điều hay. Vì chúng phải chịu chính
quyền bản xứ đánh thuế, nên lợi nhuận không dược nhiều lắm,
nên xảy ra điều rất đáng phàn nàn như bọn tư bán, nhân chính
quốc có lực lượng quân sự mạnh, tính đến sự đánh chiếm nước yếu
kém, lập làm thuộc địa, thì tha hồ mua rẻ, bán đắt. Chúng lại
chiếm đoạt khai thác các tài nguyên, bắt dân bản xứ làm nô lệ làm
cho chính quốic có được rất nhiều lợi lộc.
Nhiều người nước ta thường tin lầm rằng: Hạt giống lúa ngỏ (báp) mà người nước đã
trồng dại trà làm thức ản phụ thay gạo là do Phùng Khăc Khoan sang sứ Trung Quốc, láy
cắp được,giấu đem về. Sự này không thực. Chính ra các giáo sT đạo Gia Tỏ sang giáng đạo
đã đem giống các cây lúa ngô và khoai lang, có gốc gác châu Mỹ, truyền bá cho người nước
ta trồng làm lương thực. Việc này có chép trong sách lưu trữ tại Toà Thánh La Mã.
373
đến đậu ở hến. Phô" Hiến thành nơi đô hội sầm uất; Thứ nhất Kinh
kỳ, thứ nhì Phô" Hiến.
Đàng Trong thì chúa Nguyễn mở cửa Hội An (Quảng Nam)
cho các người ngoại quôc: Bồ Đào Nha, Hoa, Nhật lạp thương
điếm. Thương thuyền các nưởc Au châu khác đi đến mua bán cũng
nhiều. Người Âu gọi Đàng Trong là nước Quảng Nam.
Do mua bán nhiều hàng hoá với người ngoại quốc, nhiều nhà
buôn khôn khéo trở nên giàu có lớn, gia tư hàng vạn lạng hạc,
không còn bị coi thường nữa. Họ cũng đóng vai trò quan trọng
trong xã hội. Chúa Trịnh Doanh phát biêu; Hiện nay sau cơn binh
lửa, tài lực của dân thiếu thôn thì còn trông vào các nhà giàu buôn
bán chuyên vận chỗ có đến chỗ không. Các nhà buôn giàu có và
khá giả có nếp sông quan cách, người ta gọi là nếp sông hàng phô".
Văn hoá. Văn học tiến triến nhiều. Bài Bìn Ngô đ ại cáo
của Nguyễn Trãi là áng văn chương tuyệt tác. Văn chiíơng triều
Lê rất chải chuôt, lòi mài giũa tinh vi. Thịnh thời có Tao Đàn nhị
thập bát tú dưới triều Hồng Đức, nhưng hầu hết là chữ Hán. Lê
Thánh Tông có làm thơ quốc âm, nói vê cái gì cũng thấy có khí
tưỢng nhà vua. Các bài ca: Lòi khuyên học trò, dạy con ăn ở cho có
đức, nữ huấn của Nguyễn Trãi bằng quốc âm được truyền tụng
rộng rãi.
Nhiều quyển truyện văn vần quốc âm được soạn ra, không rõ
tên tác giả; N hị độ mai, Phan Trần, Lý Công, Trương Chi, Tông
Trân, P hạm Công Cúc H oa...
Thế kỷ XVIIl, Đặng Trần Côn soạn Chinh phụ ngâm khúc
bằng Hán văn, lòi rất trau truôt, học giả người Hoa khen tài
thanh nghị luật. Sách được nhiều người dịch ra quốc âm. Bản dịch
hay nhất của Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Chú (?) được lưu
truyền rộng rãi.
Về sử học, có Phan Phu Tiên, dưới triều Lô Nhân Tông (1443
- 1459) viết quốc sử kế từ Trần Thái Tông đến hêt thòi thuộc
Minh. Ngô Sĩ Liên, dưới triều Lê Thánh Tông (1460 - 1497) viết bộ
Đại Việt sử kí. Sau có Vũ Quỳnh viết Đại Việt thông giám . Phạm
Công Trứ viết Việt sử toàn thư. Lê Hy và Nguyễn Quý Đức viết
Quốc sử thực lục. Đến triều Cảnh Hưng (1740 - 1786), có Lê Quý
Đôn viết Đại Việt thông sử và Ngô Thì Sĩ viết Việt sử tiêu án.
Về y học, dưới triều cảnh Hưng, có Lê Hữu Trác hiệu Hải
Thượng Lãn ông tinh thông thuốc bắc, viết bộ sách thuốc lớn,
đưỢc truyền tụng, có giá trị rất cao.
374
Ngoài ra, khoa học không có gì khác đáng kể, còn mỹ thuật
thì bị quên lãng.
NGUYỄN HUỆ TRAO TRẢ QUYỀN VUA LÊ - Nguyễn Huệ diệt đưỢc
họ Trịnh, vào thành Thăng Long, hạ lệnh cấm quân lính cướp phá
dân gian, định ngày xin yết kiến vua Lê Hiển Tông ở đền Vạn
Thọ. Bấy giờ, vua Lê Hiển Tông đang đau yếu, không ngồi dậy
đưỢc, mòi Nguyễn Huệ vào ngồi gần sập ngự, lấy lời ôn tồn phủ
dụ. Nguyễn Huệ tâu hày mọi lẽ đem binh ra phù Lê diệt Trịnh,
chứ không có ý dòm ngó gì. Vua mừng rỡ tạ Nguyễn Huệ.
Khi quân Tây Sơn ra đến Thăng Long, các triều thần chạy
trôn cả, chỉ còn Trần Công Xán và mấy người nội giám ở lại bên
cạnh vua hầu hạ. Nguyễn Hữu Chỉnh xin vua hạ chiếu tuyên
triệu các quan về triều. ĐưỢc mấy hôm có mươi người lục tục kéo
về. Vua định ngày lập đại triều mùng 7 tháng 7 ở diện Kính
Thiên. Nguyễn Huệ đem các tướng vào lạy, dâng sô' quân sĩ, dân
đinh, tỏ rõ nghĩa tôn phù nhất thông, từ đó về sau nhà Lê có
quyền tự chủ, phế họ Trịnh. Vua phong Nguyễn Huệ làm Nguyên
soái Uy quốc công, gả cho con gái Ngọc Hân công chúa và cắt đất
Nghệ An nhường cho Tây Sơn làm lễ khao quân. Chẳng hao lâu,
vua Lê Hiển Tông khuất. Hoàng tôn Duy Kỳ lên nối ngôi đặt niên
hiệu là Chiêu Thông.
Vua Thái Đức vô'n không có ý đánh lấy đất Bắc Hà. Khi tiếp
đưỢc tin Nguyễn Huệ nói sắp ra đánh ngoài bắc thì vội sai người
ra Phú Xuân ngăn lại. Sứ giả tới nơi thì Nguyễn Huệ đã tiến binh
rồi. Đến khi tiếp thư nói quân đã lấy được Thăng Long và Nguyễn
Huệ còn ỏ lại đó để giúp nhà Lê. Thái Đức e ngại sẽ khó kiềm chế
ông em anh hùng và sỢ Nguyễn Huệ ở lại lâu tại Bắc Hà có sự
biến chăng, đem 500 quân ra Thuận Hoá, lấy thêm 2.000 quân
nữa, đi không kỳ ngày đêm ra thẳng Thăng Long.
391
Vua Chiêu Thông được tin, đem bách quan ra đón ngoài Nam
Giao. Thái Đức đi thẳng, cho người đến nói xin để ngày khác hội
kiến. Mấy hôm sau, Thái Đức mòi Chiêu Thông sang phủ đường
(phủ chúa Trịnh cũ) làm lễ tương kiến. Thái Đức ngồi giữa, Chiêu
Thông ngồi bên tả, Nguyễn Huệ ngồi bên hữu, các quan văn võ
đứng hầu.
Chiêu Thống xin nhường mấy quận đê khao quân. Thái Đức
nói: Vì họ Trịnh hiếp chế nên chúng tôi ra giúp nhà vua. Nêu bằng
đất nước họ Trịnh thì một tấc cũng không để lại, nhưng mà của
nhà Lê thì một tấc cũng không dám lấy. Mong nhà vua gắng sức
làm việc, giữ gìn cõi đất, để đời đòi giao hiếu với nhau. Ay là phúc
của hai nước.
Bấy giờ, Hoàng Phùng Cơ thu nhặt tàn quân, truyền hịch đi
các nơi kêu gọi cần vương đánh đuổi quân Tây Sơn về Đàng Trong.
Anh em vua Tây Sơn không e ngại chiến tranh nhưng thấy ở lại
lâu cũng chẳng ích gì, bèn vơ vét kho tàng chúa Trịnh, rút quân
trở về nam. Do không ưa Nguyễn Hữu Chỉnh là người giảo quyệt,
định bỏ ở lại Bắc Hà, mật truyền cho các tướng tá thu xếp quân
thủy bộ kho tàng thu lấy hết, đêm ngày 17-8 âl rút quản. Sáng
hôm sau, Nguyễn Hữu Chỉnh thấy quân Tây Sơn về rồi, sỢ hãi,
hoảng hốt bỏ cả đồ đạc chạy xuông thuyền huôn vào Nghệ An.
Thái Đức thấy Hữu Chỉnh theo về, không tiện hỏ, cho (ì lại cùng
với Nguyễn Duệ giữ đất Nghệ An. Tướng Vũ Văn Nhậm đóng
quân giữ cửa Đông Hải (nay đọc trệch lả Đồng Hới, tỉnh lỵ Quảng
Bình). Nguyễn Huệ không tin cẩn Hữu Chỉnh, đồ chừng y sẽ làm
phản, bảo Văn Nhậm và Văn Duệ phòng giừ.
Nguyễn Hữu Chỉnh về Nghệ An, chiêu mộ dũng sĩ, ngày đêm
luyện tập, ra sức xây dựng thế lực riêng, đợi thòi cơ.
Ngày mùng 5 tết, Tôn Sĩ Nghị nghe tin quân Tây Sơn đánh
đồn Ngọc Hồi, sai Dương Hùng Nghiệp đem kỵ hinh đi cứu viện.
Chúng vừa ra khỏi thành thì nghe tiếng nổ liên hồi ở phía tây bắc.
Liền đó lại hay tin các đồn Ngọc Hồi, Khương Thượng đều bị hạ,
các tướng đã chêt, Tôn Sĩ Nghị hoảng hô"t, không kịp mặc áo giáp,
thắng yên ngựa, cùng một số kỵ binh chạy vọi ra bờ sông Hồng,
vượt qua cầu phao. Quân Thanh thấy chủ tướng bỏ chạy cũng
nhôn nháo chạy theo trôn tránh, xô đẩy nhau tranh sang cầu. cầu
đổ, chúng sa cả xuông sông, chết đuôi vô sôl
Chiêu Thông và gia quyến chạy ra bờ sông, cướp thuyền
đánh cá, chèo qua sông theo Tôn Sĩ Nghị.
Đoàn quân Vân Nam, Quý Châu do ô Đại Kính chỉ huy đóng ở
mạn Vĩnh Yên nghe tin đại quân Than tan vỡ bỏ chạy, cũng vội vã rút
lui về nước, ngược dòng sông Hồng. Quân ta không kịp đánh đuổi theo.
Chiều mùng 5 tết, Quang Trung áo bào đen xạm khói thuốc
súng dẫn đại binh cùng 80 thớt voi vào thành Thăng Long. Sang
ngày khai hạ, mùng 7, làm lễ ăn mừng chiến thắng.
Tôn Sĩ Nghị dẫn tàn quân chạy về nước, đến Phượng Nhỡn
(Bắc Giang) bị cánh quân của đô đôc Lộc đón đường chặn đánh. Sĩ
Nghị vội quang cả sắc thư, ấn tín, cò hiệu bản đồ, cùng hộ hạ luồn
rừng chạy về biên giới.
Chỉ trong 5 ngày đêm, từ 30 đến mùng 5 tết, quân dân ta
dưới sự chỉ huy của người anh hùng áo vải Quang Trung đã quét
sạch 29 vạn quân Thanh ra khỏi bò cõi. Đâv là chiến công oanh
liệt vào bậc nhất trong lịch sử chông ngoại xâm. <
Vua Quang Trung Nguyễn Huệ trong 4 năm hai lần đại
thắng quân xâm IvíỢc Xiêm La và Mãn Thanh, làm vẻ vang cho
giống nòi, thật là một vị anh hùng kiệt xuất, tiếng thơm để lại
muôn thuở về sau.
VIỆC BANG GIAO VỚI NHÀ THANH BÊN TRUNG QUỐC - Quang
Trung toàn thắng quân Thanh, vào Thăng Long hạ lệnh chiêu an,
gọi những người Hoa trôn tránh ra thú, đều cấp cho áo mặc, lương
ăn. Quân ta có bắt được ấn tín của Tôn Sĩ Nghị bỏ lại. trong các
giấy má, có tờ mật dụ của Càn Long căn dặn Sĩ Nghị. Xem tờ
chiếu này thấy rõ vua Thanh chang vị gì nhà Lê, chang qua chỉ
mượn tiếng để lấy nước ta. Quang Trung bảo với Ngô Thì Nhậm:
Nay quân Thanh bị ta đánh thua, tất lấy làm xấu hổ, chắc không
chịu để yên. Hai nước đánh nhau thì chỉ khổ dân. Vậy nên dùng
lời nói khéo, để khiến cho khỏi sự binh đao. Đợi mươi năm nữa,
nước ta dưỡng sứ c được phú cường rồi thì ta không cần phải sỢ
chúng nữa.
404
Ngô Thì Nhậm vâng lệnh làm tò biểu đại khái nói ràng: Nước
Nam vôn không dám chông cự với nước lớn nhưng chỉ vì Tôn Sĩ
Nghị làm lỡ việc nên phải thua. Nay xin tạ tội và xin giáng hoà.
Khác hắn với bài biếu của Bình Định vương đứng tên quốc
vương Trần Cảo đệ lên vua Minh do Nguvễn Trãi soạn lời lẽ cực
kỳ mềm mỏng, bài biểu của vua Quang Trung gửi lên vua Thanh
do Ngô Thì Nhậm soạn, lời lẽ rất cứng cỏi, trong có đoạn: ôi,
đường đường là thiên triều lại đi tranh hơn thua với tiểu di, thì tất
phải chiến tranh liên miên để thoả lòng tham, cuộc binh đao lại
diễn, dân chúng hị khố hại, thì dó là điều mà tấm lòng của bậc
thánh nhân không nỡ làm. Trong thư gửi Thang Hùng Nghiệp,
tướng nhà Thanh ỏ Quảng Tây, người mà Quang Trung nhờ
chuyên tờ biểu lên vua Càn Long, cũng tỏ thái độ kiên quyết: Nếu
thiên triều không khoan dung cho phần nào, cứ muôn tranh
chiếm, muôn một xẩy ra binh đao kéo dài tình thê vỡ lơ, nước nhỏ
không được hết lòng thò nước lớn thì chúng tôi cũng đành phải
theo mệnh tròi mà thôi.
Quang Trung sai sứ sang Trung (ìuôc, lại sai đưa những
quân Thanh bị bắt và đầu hàng để ỏ một nơi, cấp cho lương thực,
đợi ngày cho trở về nước.
Bên Trung Quôh, Càn Long nghe tin Tôn Sĩ Nghị bại binh,
sai quan nội các Phúc Khang An, người Mãn Châu thân tín, ra
thay Tôn Sĩ Nghị làm tổng đốc Lưỡng Quảng, đem binh mã 9 tỉnh
sang kinh lý việc An Nam.
Phúc Khang An ra đến Quảng Tây, nghe tiếng thê quân Tây
Sơn mạnh lắm và tài dụng binh của Quang Trung rất cao nên lòng
cũng lo ngại, có ý muôh hoà, sai người mang thư nói việc lợi hại và
bảo nên làm biểu tạ tội đê tránh việc binh đao. (Trong sách Lịch
sử Việt N am 1977, Nguyễn Phan Quang viết: Chính Càn Long tự
hiến kế hoạch giảng hoà, chỉ thị cho Phúc Khang An dụ Quang
Trung quy thuận, không phải dùng đến binh lực là hay hơn cẳ).
Quang Trung sai người đem vàng bạc đút lót cho Phúc
Khang An, rồi sai Nguyễn Quang Hiền và Vũ Huy Tấn đem đồ
công phẩm sang Yên Kinh, vào chầu vua Thanh và dâng biểu
xin phong. Lại đem tiền bạc đút lót cho Hoà Thân, quan coi việc
biên viễn. Bấy giò, ngoài có Phúc Khang An, trong có Hoà Thân,
dùng lòi nói khéo với Càn Long hỢp ý. Càn Long phong Quang
Trung làm An Nam quôh vương, lại giáng chỉ vòi quôh vương
sang chầu.
405
Để vớt vát thể diện, nhà Thanh đòi bên ta phái lập đền thò
ba tướng thiệt mạng nơi sa trường là đề đôc Hứa Thê Hanh và hai
tổng binh Trương Triều Long và Trương Duy Thăng. Quang
Trung đành nhượng bộ, không quá cứng rắn. Hoa kiều ở Thăng
Long lập đền thò thái thú sầm Nghi Đông, nay là ngõ sầm Công,
sau Hàng Buồm, Hà Nội.
Phúc Khang An khỏi phải động binh, việc rất nguy hiếm,
đang lo sỢ phải chịu sô phận của Liễu Thăng, Tôn Sĩ Nghị, lại
được đút lót vàng bạc, e ngại Quang Trung không chịu sang
chầu, hiên thư khuyên nên dùng người hình dung giôAg mình đi
thay. Quang Trung chọn Phạm Công Trị trá làm quôc vương,
sai Ngô Văn sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy ích, Vũ Huy Tấn
đưa sang Yên Kinh, vào chầu vua Thanh. Ngoài những phẩm
vật phải công, lại thêm đôi voi đực, khiến cho các cu ne trạm dọc
đường phải phục dịch đưa đón vất vả. Tổng đôc Lưỡng Quảng và
tuần phủ Quảng Tây phải đưa quôh vương An Nam giả vào
kinh. Đến nơi, Càn Long vời vào chầu ở Nhiệt Hà, cho vào làm
lễ ôm gôl như cha con một nhà và cho án yến với các thân
vương. Đến lúc về nước, lại sai thợ vẽ bức truyền thần ban cho
ân lễ thật hậu.
Bắc sử có chép về việc đón tiếp nàv, nhà Thanh phái tiêu hết
800.000 lạng bạc, do mỗi ngày 4.000 lạng (Rất có thể quan lại Hoa
đã bớt xén).
Cũng có thế Càn Long thừa biết sự giả mạo nhưng cứ làm lơ
đi. Vua này là người Mãn Thanh chỉ cần lấy le với quốc dân người
Hán rằng có quốc vương An Nam sang chầu.
Trong việc bang giao với nhà Thanh, năm sau Quang Trung
có đòi đất 7 xã châu Thuỷ Vĩ, trấn Hiíng Hoá trước kia bị xâm lấn
(Xã thời xưa nhất là 0 miền thượng du lớn lắm. bằng cả một
huyện). Mấy lần viết thư sai sứ bộ sang thương lượng với tổng đốíc
Lưỡng Quảng. Quan nhà Thanh nấn ná không chịu.
Đên khi Quang Trung khuất, Càn Long đặt tên thuỵ cho là
Trung Thuần, ngự chế bài thơ viếng, sai Thanh Lâm án sát
Quảng Tây sang tế.
LÊ CHIÊU THỐNG BỊ NHỤC BÊN TRUNG QUỐC - Chiêu Thống cùng
gia quyến theo tàn quân Tôn Sĩ Nghị vào thành Nam Ninh
(Quảng Tây). Phúc Khang An thay Tôn Sĩ Nghị, đã giảng hoà với
Quang Trung, mòi Chiêu ThôAg về Quế Lâm. Các hoàng thân và
cựu thần lục tục sang theo. Khang An dùng mấy người làm chức
406
thủ bị, đô tư, còn an trí mỗi người một nơi, chỉ để Lê Duy Án, Trần
Huy Lâm, Lê Doãn, Lê Dĩnh theo vua.
Vua tôi nhà Lê xin với Phúc Khang An tiến binh đi chinh
nam Khang. An nói đang hè nóng bức chưa tiện, hãy đợi sang thu
sẽ khởi binh. Khang An dụ Chiêu Thông nên gọt đầu thay áo làm
như người Hoa để khi về nước, địch không nhận được mặt. việc
binh cần phải biến trá. Chiêu Thông không ngờ l)ị đánh lừa, cùng
các quan gọt đẳu gióc tóc và đổi y phục. An Khang biểu tâu với
vua Thanh rằng: Vua cũ nước Nam Lê Duy Kỳ không có ý xin viện
binh nữa, vua tôi đã gióc tóc thay áo, xin yên tâm ỏ lại Trung
Quôc. Vậy xin bãi binh đánh An Nam. Hoà Thân cũng tán thành.
Càn Long liền giáng chỉ bãi binh.
Năm 1790, Chiêu Thông và các quan tòng vong vào Yên
Kinh. Càn Long cho Chiêu Thông cùng thái hậu, hoàng tử ỏ ngõ
Hồ Đồng, cửa Tây Định, ngoài cửa đề Tây An Nam dinh. Các quan
đi theo thì cho ở Dương Phô, cửa Đông Trực, ngoài cửa đề Đông An
Nam dinh. Vua Thanh phong xuất đê Chiêu Thông chức Tá Lĩnh
và ban áo mũ quan tam phẩm.
Chiêu Thống giận bị người Thanh đánh lừa, họp bày tôi ăn
thề sôKg chết thê nào thì cũng dâng biểu xin binh cứu viện. Quan
nhà Thanh Kim Giản thày các quan nhà Lê xin mãi. kêu khóc
thảm thiết, bèn mưu với Hoà Thân phân trí đi ỏ mỗi người một nơi
để khỏi kêu ca khó chịu, chỉ để vài người ở lại hầu hạ vua Lê.
Các người tòng vong này có Lê Quýnh không chịu gióc tóc
mặc áo quần như người Mãn Thanh, được khen là trung nhưng bị
bắt giam mãi. Lại có Nguyễn Văn Quyên theo háu Chiêu Thông
khi Chiêu Thống đi vào vườn Viên Minh bị lính canh ngăn cấm vô
lễ, liền nối giận mắng chửi chúng bị chúng xúm nhau đánh, về
thành bệnh mà chết.
Chiêu Thống buồn.bã, rầu rĩ, không còn xin viện binh nữa.
Tháng 3 âl năm 1792, hoàng tử lên đậu chết. Càng thôKg khổ,
Chiêu Thông phải bệnh đau ngày một nặng, đến tháng 10 âl năm
1793 mất, hưởng linh 28 tuổi.
Càn Long sai theo lễ tước công táng ở ngoài cửa Đông Trực.
Đến năm 1802, vua triều đại mới Gia Long sai sứ sang
Thanh cầu phong. Các quan nhà Lê tòng vong nhân dịp xin
đem hài côt cố quân, thái hậu và hoàng tử về nước. Vua Thanh
Nhân Tông, niên hiệu Gia Khánh cho mọi người tòng vong trở
về nước.
407
sử chép khi cải táng cố quân thấy da thịt nát cả, chỉ còn quả
tim không nát, vẫn đỏ như thường. Ai trông thấy cũng động lòng
thương xót.
Khi đem mả thái hậu, vua và hoàng tử về nước thì hoàng phi
Nguyễn Thị Kim, trước đi theo vua không kịp, ẩn núp ở đất Kinh
Bắc, nay lên đến ải quan đón rước, về Thăng Long, nhịn ăn mà tự tử.
Ngày 21 - 11 âl, rước mả "cô" quân, thái hậu, hoàng phi và
hoàng tử về táng (í làng Hàm Trạch thuộc Thanh Hoa.
Quang Trung đã phá tan quân xâm lăng mượn tiếng phù Lê,
trong nước vẫn còn một sô" cựư thần mưu sự phục Lê. Lê Duy Chí,
em ruột Chiêu Thông, đưỢc thố tù giúp đỡ, chiếm cứ châu Bảo Lạc
(Cao Bằng) đánh phá vùng Cao Bằng, Tuyên Quang, năm 1789,
đắp đồn luỹ, tích trữ lương thực, khéo lẩn lút nơi rừng núi khi
nhiều lần quân đội tiến đánh. Năm 1790. Duy Chí liên kết với các
lãnh chúa Vạn Tượng, Trấn Ninh, Quy Hợp mưu đánh úp Nghệ
An. Năm 1791, đô"c trấn Nghệ An Trần Quang Diệu tiến đánh vào
vùng Trân Ninh, tiến sâu vào đất Vạn Tượng. Đạo khác kéo lên
tiêu diệt căn cứ Bảo L<ạc. Lê Duy Chí bị bắt sông với một sô thô tù.
Các toán phục Lê khác: Lê Ban ở Nghệ An, Trần Quang
Châu, Dương Đình Tuấn ở Hải Dương, Bắc Giang, anh em Phạm
Đình Đạt ở Lạng Giang cũng đều lần lượt bị trấn áp.
ĐỨC ĐỘ VUA QUANG TRUNG - Quang Trung là vua anh dũng,
lấy vũ lược dựng nghiệp, có biệt tài dụng binh, kén chọn võ tướng
giỏi, lại có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, trọng dụng những
người hiền tài văn học. Khi ra bắc, nhiều sĩ phu Ngô Thì Nhậm,
Phan Huy ích, Vũ Huy Tấn, Nguyễn Thế Lịch. Trẩn Bá Lãm,
Nguyễn Bá Lân... được trọng dụng. Thái độ cầu hiền của Quang
Trung rõ rệt nhất trong việc mòi Nguyễn Thiếp ra giúp việc.
Nguyễn Thiếp, danh sĩ đất Nghệ An, từng đậu giải nguyên, làm
huấn đạo rồi tri huyện dưới thời Lê, Trịnh. Bất mãn, từ quan về
ẩn trên núi Bùi Phong, huyện La Sơn, Hà dTnh, chuyên việc dạy
học, nổi tiếng học vấn uyên bác, người ta gọi là La Sơn phu tử.
Quang Trung biết tiếng, nhiều lần sai người mang thư và lễ vật
đến mòi ra giúp việc nước. Lời trong thư vòi, rất nhũn nhặn, tha
thiết. Ông không nhận lễ, từ chô"i không ra. Đến khi đăng cực, lại
mấy lần ân cần mòi nữa. cảm lòng thành thực của nhà vua, ông
có đến bái yết, khuyên vua nên lấy nhân nghĩa trị dân trị nước.
Quang Trung tôn kính ông như bậc thầy và việc chính trị thường
theo ý ông đã trình bày. Năm 1791, ông nhận chức viện trưởng
408
viện Sùng Chính, dịch các sách Hán ra chữ Nôm và góp nhiều ý
kiến về chính sách văn hoá giáo dục.
VIỆC CHÍNH TRỊ - Sau khi đánh đuối xong quân Thanh, Quang
Trung xếp đặt mọi việc rồi, đem đại quân về Phú Xuân, lưu Ngô
Văn Sỏ và Phan Văn Lân ở lại Bắc Hà tổng thông các việc quân
quôc. Những việc tư lệnh giao thiệp với Trung Quôc uỷ thác cho
Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích. Lấy thành Nghệ An là đất giữa
nước và lại là đất tô xưa ỏ đó sai thợ thưyền tái vận đá, gỗ, gạch,
ngói, sửa sang đền đài, cung điện, sai quân các đạo lấy đá ong về
xây thành Phượng Hoàng trung đô, định sẽ đưa triều dinh về ở
đấy. Cải thành Thăng Long là Bắc thành, chia đất Sơn Nam làm
hai trấn: Sơn Nam ThiỉỢng trấn lỵ sơ ơ Châu cầu (Phủ Lý ngày
nay), Sơn Nam Hạ trấn ly sỏ ỏ Vị Hoàng (Nam Định).
Mỗi trân đặt quán trân thủ là võ quan và hiệp trấn văn
quan. Mỗi huyện văn có chức phân tri đê xét việc kiện cáo, võ thì
đặt quan chức phân xuất đê coi việc binh lương. Các tổng có tổng
trương, xfx có xã trương phụ trách việc hành chính. Tại triều,
ngoài các trọng chức văn võ tam công, tam thiếu, đại chương tể,
đại tư đồ, dại tư khĩíu, đại tư mã, dại tư không, đại tổng quíìn, đại
đống lý... còn có các chức thượng thư trông coi bộ cùng với các viện
hàn lâm, viện ngự sử, v.v...
Dôi với quan lại cao cấp, thực hiện chê độ bổng lộc theo lôl
câp cho một sô xã, một sô đinh đê thu thuế. Chê dộ lộc điền không
còn nữa.
VIỆC VÕ BỊ - Quang Trung ra sức xây dựng quân đội mạnh mẽ
dế đối phó với tình thế, nhất là vì Nguyễn Phúc Anh đã chiếm lại
Gia Định. Đỗi với nhà Thanh, mối quan hệ bang giao trên cơ sở
giữ vững chủ quyển chỉ cỏ thể duy trì với lực lượng tự vệ hùng
mạnh. Khi đánh giặc Thanh, quân đội Quang Trung chia làm 5
cánh: trung, tiền, hậu, tả, hữu với quân số trên 10 vạn và vài trăm
voi chiến. Sau lập thêm nhiều quân hiệu mới như tả bật, hữu bật,
kiên thành, thiên cán. Các quân đội phiên chê theo đạo, rồi đến cơ
và đội. Chức trấn thủ ở trấn và võ phân xuất ở huyện là những tô
trưởng chỉ huy quân đội địa phương.
Năm 1790, Quang Trung sai lập lại sổ hộ khẩu quy định rõ
chê độ trưng tập quân lính. Dân chia làm 4 hạng theo tuối tá c :
hạng vị cập cách từ 9 đến 17 tuổi, hạng tráng từ 18 đến 55 tuôi,
hạng lão từ 56 đến 60 tuổi, hạng lão nhiêu trên 60 tuổi. Chính
quyền căn cứ sổ hộ khẩu, 3 suất đinh lấy một lính..Dân đinh được
409
cấp mỗi người một thẻ bài, khắc bôn chữ thiên hạ dại tín, thẻ ghi
tên họ, quê quán vả điểm chỉ làm tin (tựa như thẻ căn cước ngày
nay). Người nào cũng phải đeo thẻ ấy, gọi là tín hài. Ai không có
thẻ này là dân lậu, hắt xung vào quân phòng. Không phân biệt
giàu nghèo, sang hèn, việc lập hộ khẩu chỉ phân hiệt theo tuôi tác
là biện pháp tiến bộ cần thiết về mật quân sự, mà cá vể mặt kinh
tế, tài chính, ổn định trật tự xã hội.
Tố chức quân đội gồm thuỷ binh, bộ binh, kỵ binh, tượng
binh, pháo binh. Chiến thuyên có nhiều loại, loại lớn được voi
chiến, trang bị từ 50 đến 60 đại bác và chở được từ 500 đên 700
binh sĩ. Vũ khí, ngoài giáo, mác. cung tên... còn có súng trường,
đại bác gắn vào thuyền đặt trên mình voi và hoả hô là loại ông
phun lửa rất lợi hại.
VIỆC THUẾ KHOÁ - Chính sách thuê khoá đ(Jn gián. Ruộng
công chia làm ba hạng: hạng nhất mỗi mẫu phái nộp 150 bát thóc
(mỗi bát chừng 0,5 lít), hạng nhì 80 bát, hạng ba 50 bát. Lại thu
tiền thập vật mỗi mẫu một tiền và tiền khoán khô" mỗi mẫu 50
đồng. Ruộng tư cũng đánh thuế, hạng nhất 40 hát thóc, hạng nhì
30, hạng ba 20. Tiền thập vật cũng theo như ruộng công, còn tiền
khoán khô" 30 đồng.
Thuế nhân định thòi Lê, Trịnh mỗi xuất 1 quan 2 tiền và 4
bát gạo, thêm 6 tiền thuế điệu. Quang Trung bãi bỏ thuê điệu.
Dân Thanh Nghệ trước đây được miễn hay giám nhiều sắc
thuê do phải cung cấp lính túc vệ. Quang Trung thi hành thông
nhất mọi miền trong nước về thuế khoá.
Về thuế thổ sản và công thương nghiệp, Quang Trung cũng
bãi bỏ một sô" thuế nặng nề đô tạo điều kiện sản xuâ"t và kinh
doanh dễ dàng cho giới công thương. Việc thông thương vơi Trung
Quốc qua biên giới được miễn thuê".
VIỆC KHUYẾN NÔNG- Do loạn lạc kéo dài, nội chiên phân liệt
và kháng chiến chô"ng ngoại xâm, ruộng đất bị bỏ hoang rất nhiều.
Nông dân bị bần cùng, xiêu tán, nhiều xóm làng trd nên hoang
vắng. Mất mùa, đói kém, dân gian trôi dạt lưu ly. Quang Trung
ban bô" chiếu khuyên nông, đề ra biện pháp giải quyết nạn lưu
vong và tình trạng ruộng đất hỏ hoang, tận dụng sức lao động và
sản xuất nông nghiệp.
Dân phiêu tán đều phải trở vê quê quán nhận ruộng cày cấy.
Bọn lưu mạnh trôn sưu dịch ẩn núp trong các chùa phải hoàn tục,
trở về quê quán làm ăn lương thiện. Dân lưu tán trơ về quê được
410
cấp ruộng công cày cấy. Ruộng tư hỏ hoang phái tịch thu làm
ruộng công, cấp cho những người có sức lao động.
Nhờ đó, chỉ trong mấy năm, sản xuât nông nghiệp được phục
hồi nhanh chóng, mùa màng trở lại phong đăng, công thương
nghiệp phát triển.
VIỆC VĂN HỌC - Văn hoá, giáo dục phát triển. Quang Trung
đặc hiệt khác với các vua chúa tiền triều, hiết tôn trọng tiếng nói
của người nước nhà, trọng dụng chữ Nôm. Thứ chữ này xây dựng
trên cơ sớ chữ Hán, đã trơ thành văn tự dân tộc, ghi lại trung
thành tiếng nói của dân ta. Trong công việc cai trị, giấy tò thường
hay dùng chữ Nôm. Người Việt phái dùng tiếng Việt, đê gây thành
tinh thần nước nhà, văn chương đặc hiệt, không phải đi mượn
tiếng chữ của người Hán. Các chiếu chỉ, mệnh lệnh, cho đến văn tế
trời đất viết bằng chữ Nôm. Trong khoa thi, đáu dê ra và văn bài
của sĩ tử đều dùng chữ Nôm. Đây là bưức tiến hộ lớn vê văn hoá
dân tộc. Thòi bấy giờ, nhiều sĩ phu quá say mê văn học chữ Hán,
không hiếu rõ ý nghĩa hay ấy, cho nôm na là mách qué. Có người
, đã đến trường rồi mà lại bỏ không chịu vào dự thi.
Ngay từ năm 1789, đã mở kỳ thi hương (i Nghệ An để kén
chọn người có văn học ra làm quan. Giải nguyên Trần Văn Kỳ trở
thành bí thư đắc lực của nhà vua.
Việc học phổ hiến đến tận thôn xã. Trong chiếu Tập Học, Quang
Trung ra lệnh cho các xã lập nhà xã học, chọn người hay chữ và có đức
hạnh ra giảng dạy. Phủ huyện có chức huấn đạo phụ trách việc học.
Các địa phương sử dụng một số đền chùa làm ti’ường học.
Thòi bấy giờ, các giáo sĩ truyền dạo Gia Tô người Âu đã dùng
mẫu tự La tinh ghép vẩn để viết tiếng nước ta, tạo thành chữ quốc
ngữ ngày nay. Thứ chữ này, người học chóng biết đọc và viết. Còn
chữ Nôm thì phải thông chữ Hán mới học đọc học viết được mất
rất nhiều công phu, trong lâu năm học tập. Tiếc rằng xưa Quang
Trung không hiết đến thứ chữ quốc ngữ mẫu tự La tinh để bắt
buộc dân ta học ngay từ thời đó.
VIỆC LÀM CHÙA CHIỀN - Quang Trung thấy xã thôn nào cũng
có chùa chiền, mà những người đi tu thì ngu dôt, không mấy người
đạt được đạo cao siêu của nhà Phật, chỉ dùng lễ bái đánh lừa dân
ngu, ra lệnh bắt bỏ những chùa nhỏ, đem gạch gỗ làm ít chùa rất
to, rất đẹp, thường là ở các phủ huyện, đón những cao tăng có học
thức, đạo đức ỏ coi chùa thò Phật giảng kinh. Còn những thầy
chùa không xứng đáng thì hắt về hoàn tục lao động sản xuất. Y
411
Quang Trung muôn chỗ thờ Phật phai tôn nghiêm, ngiàii tu hành
phải là chân tu mộ đạo mới được.
Việc cải cách rất có ý nghĩa này không có đưỢc Iiìấv còng hiệu do
Quang Trung không thọ vả nhà Tây Sờn không t,i-ị vì dirợc lâu dài.
VIỆC MƯU ĐỊNH ĐANH TRUNG QUỐC - (ỉuang 'Pru ng d.ã cầu hoà
với Trung Quốic và chịu xưng thần nạp công, nhưng thâm tâm vẫn
muôn đánh lại và có cao vọng chiếm đất Lưỡng Quíing (Người
nước ta xưa nhiều người lầm tưởng Lưỡng Quẳng là dât cũ của ta,
do sự cùng thuộc đất nước Nam Việt nhà Triệu). Chịu phong,
nhưng Quang Trung một mặt vẫn trù tính việc chiến tranh, tổ
chức quân đội hùng mạnh. Rèn dúc vũ khí, dóng chiên thuyền, xe
vận tải, đợi ngày có đủ sức sẽ thực hiện mưu dồ.
Đe tiện sự bắt lính, việc lập sổ’ hộ khẩu, phát thé tín bài phải thi
hành ráo riết. Người nào cũng phải đeo thẻ này. Ai không có là dân lậu,
phải xung vào quân phòng. Xã trưởng, tống trưdng dung túng hay sơ
xuất là phạm lỗi nặng. Lại dịch thường xuyên đi lại hổi thé hắt nguừi ẩn
lậu. Nôn có sự nhũng nhiễu, có ngiíời phải trôn tránh vào trong rừng.
Số đinh làm xong, cứ ba đinh kén lây một lính.
Quân chia ra làm đạo, cơ, đội. Đạo thímg các C(). Cư thông các
đội. Cơ đội nào theo về cơ đội ấy, hắt phai diễn tập luôn luôn.
Thòi bấy giờ có những giặc Tàu 0 quấy nhiễu vùng biển
Trung Quốc, bị quân nhà Thanh đánh đuối, chạy sang xin phụ
thuộc bên ta. Quang Trung thu nạp, phong tướng Tàu o làm tổng
binh. Chting thường lại trở về cướp phá miền biên Trung Quổíc, bị
đánh lại chạy về ta. Có đến 100 chiến thuyền với 12 tổng binh
đưỢc phong ấn tín và bàng sắc. Lại có những ngitời thuộc đảng
Thiên Đại Hội nổi dậy ở Tứ Xuyên, Quang Trung cũng thu dụng
làm tướng quây phá và xem xét tình hình nhà Thanh.
Trong việc sửa soạn đánh Trung Quôc, Quang Trung có đem
phá huỷ một sô" chuông, khánh, chiêng và dồ thờ hằng dồng của
các đền chùa đem ra đúc tiền và đạn. Việc làm nàv không phải là
sai trái, nhưng phạm tín ngưỡng của dân chúng (Cho đến giừa thế
kỷ XX, nhiều ngôi chùa ở Bắc Việt còn truyền tụng việc triều Tây
Sơn đã đem phá chuông, khánh).
Năm 1792, Quang Trung sai sứ sang Trung Cịuôc xin cầu
hôn và xin trả lại cho nước ta đất Lưỡng Quảng. Việc không phải
bản ý, chỉ mưỢn chuyện thử ý vua Thanh. Không ngờ, Quang
Trung phải bệnh mất. Các quan dìm việc này đi, không đê cho
triều Thanh biết.
412
Vua Quang Trung Nguyễn Huệ là tướng tài. anh hùng kiệt
xuất, suô"t hai mươi năm cẩm quân, dự bao nhiêu chiến trận đều
thắng lừng lẫy, trận tiêu diệt 3 vạn quân Xiêm La trong một trận
chỉ như một cuộc hành binh tảo thanh. Oanh liệt nhất là .sự đánh
đuối 29 vạn quân Thanh chỉ trong năm ngày, làm vé vang cho
giông nòi. Say sưa men chiến thắng, Quang Trung có cao vọng đi
đánh Trung Quôc, lấy đất Lưỡng Quảng về nước ta nôn dã ráo riết
chuẩn bị chiến tranh.
Bình tĩnh và khách quan mà xét thì phải thừa nhận rằng việc
làm này của người anh hùng vào bậc nhất nước ta là sự điên rồ.
Quang Trung chỉ có thể nên mưu toan công cuộc này nếu cư dân
Lưỡng Quảng là người Kinh gốc Lạc Việt bị người Hán, người Mãn
thốiig trị áp bức, hằng mong đợi có người anh hùng đồng chủng đồng
bang đến giải phóng, cứu vớt khỏi vòng nô lệ, khi ây sẽ đua nhau ùa
theo mà chông lại chính quyền Trung Quốc. Nhưng dân Lưỡng
Quảng là người Hoa, những người Bách Việt xua dã bị hoàn toàn
Hoa hoá dưới các triều Hán, Đưòng, kê cả người Au Việt, bắc Hợp
Phô. Chúng coi người nước ta là lũ man di, xâm phạm díít thì chúng
hỢp tác với quân đội mà chông cự lại, chứ đâu có theo vể ta.
Kháng chiến chông quân đội ngoại quôc bùng mạnh xâm
lăng, tuy là việc nhỏ, nhưng không khó lắm. Nguời mình trên đất
nước mình, thuộc đường lôi, quen thủy thô, lại là cbién tranh tự
vệ, dân chúng nức lòng ủng hộ, nên vượt qua dược mọi khó khăn,
đưa đến thành công được. Đem quân di xâm dat nước người,
đường xá xa xôi, đi lại khó nhọc, lạ cảnh thô, không (Ịuen khí hậu,
chông chọi không phải chỉ với quân đội địa phương mà còn cả với
dân chúng địa phương nữa, họ sẵn sàng nổi dậy giúp quân đội của
chính quyền giữ nhà, giữ nước.
Chiếm được đất nước người đã khó. Đến khi đã đánh chiếm
được rồi thì quân đội trung ương và nơi khác sẽ đên cứu viện, liệu
có thế nào giữ vững mãi được không? Một vài lẩn không xong, bên
bị thua vẫn còn cố gắng trá thù theo đuổi mãi công cuộc đánh lấy
lại đất đã mất.
Cho rằng địch hèn yếu mấy chăng nữa thì cũng líhông thê nào
giữ vững vĩnh viễn được. Sớm muộn thì quân dân bán xứ cũng đánh
lấy lại đưỢc đất cũ. Mông, Mãn từng chiếm toàn thê Trung Quốc,
hùng mạnh là thế, mà rồi ra lại bị phụ thuộc vào 'rrung Quôc.
Xưa Lý Thường Kiệt sang đánh Tông, vây thảnh Ung Châu
42 ngày. Tri Ung Châu Tô Giám thất thế cho gia thuộc 36 người
413
chết trước, chôn xác vào hô xong rồi tự đcứ chết. Quân sĩ cảm
nghĩa không một ai chịu hàng. Lòng người như thê thì quân ta cố
đánh sao đưỢc.
Còn đât 7 xã bắc Hưng Hoá của ta. cuôl thê ký XVII bị quan
nhà Thanh lấn chiếm khi tù trưởng Vũ ('ông 'l'uàn ò 'ru\'ôn Quang
muôn Iv khai thì dân bản địa là người 'l'hái và ngiícii Dao, chứ
không phải người Kinh thông thuộc Trung (.ịuôc hay Dại Việt thì
đàng nào cũng phải chịu sưu dịch thuê má. (ịuân đội ta có sang
đánh lấy lại đất này thì dân chúng sẽ không lioan nghênh mà
cũng không chông đốl. Quang Trung nếu ctu' đòi lấy lại đất này thì
không cần đến lực lượng to lớn lắm. Nhiíng tiêc tha>'. ông dã mưu
chức quân đội hùng cưòng không quan sử flụng (|ua nhiều nhân
lực, vật lực quôc gia đê mưu đánh nước lớn. một việc khó thành
công tôt đẹp, khiến có điều nhân dân ta oán hận.
VIỆC CH U Ẩ N BỊ ĐÁN H NGUYÊN PHÚC ÁNH ở GIA ĐỊNH - Trong
khi Quang Trung tập trung lực lượng vào miền bắc thì Nguyễn Phúc
Anh ở Xiêm La trở về chiếm lại Gia Định. Hiếu r õ nguy C() phục hồi
của Phúc Anh, Quang Trung coi là quôc thù và quyêt tám tiêu diệt.
Sau khi dàn xếp xong việc hang giao vói nhà 'rhanh. (^uang
Trung định mỏ cuộc tấn công lớn vào Gia DỊnh. Dộ binh theo
đường núi qua Chân Lạp đánh vào Sài Côn. 'rhuỷ binh vúỢt biển
vào đáo Côn Lôn, rồi đổ bộ lên Hà Tiên, theo duừng Long Xuyên,
Kiên Giang đánh vào mặt trưức Sài Côn. (^uan cua 'l’hái Đức ở
(ịuy Nhơn đánh thắng xuông Biên Hoà. Với lực lượng quân
khoang 30 vạn người và kế hoạch tân công manh liệt, Quang
Trung sẽ tiêu diệt toàn hộ lực lượng của Phúc Anh.
Đầu năm 1792, 40 chiên thuyên tàu ó vào hoạt ilộng o' vùng
biến Bình Khang, Bình Thuận và (lánh phá vùng ven biến Gia
Định. Quang Trung gửi hịch cho quân dân Quang Ngãi, Quy
Nhơn, khuyên không nên sỢ hãi bọn Phúc Ánh với những người
Au châu mà sẵn sàng tiến đánh vào Gia Định.
Tiếc rằng kế hoạch chưa được thực hiện thì (ỉuang Trung ôm
chêt. Nêu ông còn sông thêm đ iíỢ c mày năm nữa thì tình hình
nước nhà có biến chuyên khác nhiều.
LUẬN VỂ VUA QUANG TRUNG - Tháng cS năm Nhâm Tý (16 - 9 -
1792), Quang Trung khuất, làm vua 4 năm, hưỏng linh 40 tuổi,
miếu hiệu Thái Tổ Võ hoàng đế.
Vua Quang Trung Nguyễn Huệ. sau cai là Nguyễn Quang
Bình, là vua hiền tài mơ nước, anh hùng xuất chúng, uy vũ oanh
414
liệt, đánh trăm trộn trăm thắng, (liệt quân Xiêm l.a và đại phá
quân Thanh xâm lư(Jc. Việc cai trị thì phát triển kinh tẻ va văn học,
chấn hưng nông nghiệp, mở trường h()c tại các xã, tôn tipng sĩ nhân,
đặc hiệt khác người hiêt quý tiêng nói cua người nước nhà, dùng chữ
Nôm trong giấy tờ việc công cũng nhif trong thi cử. Ong rất đáng được
quý trọng nhưng không phải việc làm nào của ông cũng hay, cũng tốt.
Xét ông đã phạm mấy điểu đáng trách. Đã đem đại quán Phú Xuân
vảo vây Quy Nhơn, đánh vua Thái Đức là anh ru()t. ('hiên sự kéo dài
đến ha tháng, quân sĩ cả đ()i hên chết hại rất nhiều, làm suy kém tiềm
lực quốc gia, lại đế cho Nguyễn Phúc Anh trỏ về lấy lại xú (iia Định.
Điều thứ hai là xưng đế. M()t nước mà có hai vua cam (]uyền không
phải là hay. Chính quyền không thtmg nhất chia rẽ không những
quân đ()i mà cả trong dân chúng nữa. Ong có thô cứ (té 'Fhái Đức ở hư
vị, mà nắm giữ hêt moi quyền quân sự và chính trị, kh(')ng làm vua
nhưng lại có rộng quyền hơn vua. Như thê có V(3 (lẹỊi đẽ hơn. Điều lầm
thứ ba rất to lớn là ông có dục vọng quá cao, muíìn múu (lánh nước lớn
người đỗng lại có trình độ văn hoá, kỹ thuật cao h(in luũic la. Đây là
sự kh() có thê thành công mà dù có thắng chiếm dưoc dất cùng không
thể nào giữ vĩnh viễn được. Ngay trong việc sửa soạn, lập số hộ khẩu,
phát tín bài để tiện bắt lính, phá đồ thò tự để (lúc tiền phạm tín
ngưỡng, khiến dân oán.
(ịuang Trung đã dựng nên cơ nghiệp nhà l'áy Sơn, sửa sang
việc nước C(í sự tiến hộ mọi mặt nhưng mấy d i ề u s a i t r á i của ông
cũng bất l(ứ cho nhà Tây Sơn.
VUA NGUYỄN QUANG TOẢN 1793 - 1802 - Niên hiệu: cảnh Thịnh
1793 - 1800, Bảo Hưng 1801 - 1802
(^uang Trung khuất. Thái tử Nguyễn (^uang Toan mối lên 10
tuổi, triều đình tôn lên làm vua. dật niên hiệu (kinh Thịnh. Sau
thành Phú Xuân thất thủ, vua t(")i nhà Tây Sơn chạy ra hắc, đổi
niên hiệu là Báo Hưng.
Cảnh Thịnh lên ngôi, còn nhỏ tuổi. Moi việc do thái sư Bùi
Đắc Tuyên quyết đoán. Đắc Tuyên là anh ru()t thái hậu, uy quyền
hống hách. Các quan văn võ nhiều ngưìứ không phục nên về sau
trong triều phân ra bè đảng, các dại thần giết hại lẫn nhau. Cơ
nghiệp nhà Tây Sơn không bao lâu đ(')’ nát.
1
chức lưu thủ, cai bạ, ký lục cai trị. Nơi xung yếu đặt thêm đạo,
đồn thủ ngự. Chính quyền được tổ chức quy mô một quốc gia.
Về mặt quân sự, do có cơ sở gây từ trước, Phúc Ánh khi về
nước đã có ngay lực lượng đáng kể, sau tiếp tục bắt các thôn kê
dân số, chọn một nửa lập thành ngạch phủ binh, luyện tập để
sung quân. Năm 1790, quân sô"có tới 3 vạn người.
Năm 1790, xây thành Gia. Định theo kiểu bát giác. Các thành
luỹ ở phiên trấn được đắp thêm kiên cô".
Về kinh tê", Phúc Anh rất chú ý lo phát triển nông nghiệp.
Ngay từ khi về Gia Định lần trước, trong các năm 1778, 1779,
1780 khi Đỗ Thanh Nhân chông bọn tổng đốc Chu đánh Trấn
Biên, Phiên Trấn và Lê Văn Câu đi đánh Bình Thuận và Diên
Khánh, Phúc Anh đã lo việc vệ nông, đưa lưu dân trở vê khai thác
lại ruộng đất bỏ hoang phế, cấp phương tiện cho họ làm ăn.
Từ Xiêm La trở về được lần sau, do nhu cầu tích trữ lương
thực chuẩn bị phản công lâu dài, Phúc Ánh càng chăm lo việc
khuyên nông. Bấy giờ, dân chúng không được no đủ mà ruộng đất
bỏ hoang lại nhiều, Phúc Ánh sai văn thần Trịnh Hoài Đức, Lê
Quang Định, Ngô Tòng Chu, Hoàng Minh Khánh, 12 ngưòi làm
điền tuấn quan khuyên nhủ nhân dân nỗ lực làm ruộng. Từ lính
phủ binh đến người cùng cô" đều bắt phái làm ruộng cả. Ai không
chịu làm ruộng thì bắt phải làm lính đê thay cho phủ binh. Địa
phương phải lập sổ sách kê rõ kết quả thu hoạch. Ai thu hoạch
đưỢc nhiều đưỢc miễn lao dịch. Lại mộ dân các nơi đến làm ruộng,
gọi là điền tô"t. Quan điền tuấn lấy ruộng đất bỏ hoang cấp cho cày
cấy. Ai không có trâu bò cày bừa thì quan cung cấp cho, đến mùa
trả bằng thóc. Lại phát trâu bò điền khí cho quân dân, bắt đi khai
khẩn những nơi rừng núi đế làm ruộng, gọi là đồn điền. Đến mùa
lấy thóc đề vào kho, gọi là đồn điền khô". Có sự khuyến khích các
quan và nhà giàu chiêu mộ người lập các đồn điền đội. Dân ai mộ
đưỢc 10 người trở lên thì cho làm cai trại và được trừ sưu dịch.
Việc Phúc Ánh khai khẩn đất Gia Định là công nghiệp lớn. .
Đô"i với thương thuyền các nước vào buôn bán, Phúc Ánh quy
định: Nếu có mang theo sắt, gang, chì, lưu hoàng và những hàng
có liên quan đến việc binh như đồng, diêm tiêu đều phải nộp bán
cho chính quyền, cho phép căn cứ theo sô" hàng nhiều ít, được chở
gạo về nưốc. Bởi vậy, khách thương vui lòng đem hàng đến bán.
Phúc Ánh lại sai quan mua đường theo giá chợ, tích lại để đổi cho
người Tây dương lấy binh khí.
419
v ề mặt xã hội, Phúc Ánh dùng thủ đoạn mị dân, mở rộng
đường ngôn luận. Lòi nói đúng sẽ được dùng ngay và có ban
thưởng. Lòi nói không hỢp lý thì bỏ đi, không bắt tội. Lại đặt hòm
thơ để nhân dân tiện việc kêu oan.
Phúc Ánh chú ý đào tạo đội ngũ quan liêu mới. Năm 1788
đặt viện hàn lâm. Năm 1791, mở khoa thi đầu tiên, lấy đỗ 12
người bổ dụng làm quan.
Phúc Ánh còn lập ra pháp luật, cấm cò bạc, nghiêm cấm phù
thuỷ và đồng bóng để giữ gìn phong tục cho khỏi mê hoặc. Việc
thuế khoá đưỢc chỉnh đốn. Đặt ra sở cộng đồng cho các quan văn
võ hội nghị mọi việc quân quốc quan trọng.
Sự GIÚP Đ ỡ CỦA BÁ ĐA LỘC CHO PHÚC ÁNH - Việc nhờ Bá Đa Lộc
sang cầu cứu nước Pháp giúp đỡ đã đưỢc xếp đặt đủ từ năm 1783
nhưng vì còn trái mùa gió nên Bá Đa Lộc chưa khởi hành được. Sau
khi đưa quân Xiêm La vê nước bị đánh thua tơi hời, Phúc Anh giục Bá
Đa Lộc đem vương tử cảnh cùng với Phạm Văn Nhân, Nguyễn Văn
Khiêm, xuốhg tàu sang Tây, đi qua An Độ Dương vào thành
Pondichéry ở lại gần 20 tháng. Bá Đa Lộc vận động các nhà cầm quyền
Pháp ở Ân Độ, lại gửi thư về bộ trưởng hải quân Pháp yêu cầu giúp
Phúc Ánh. Đầu mùa xuân năm 1787, Bá Đa Lộc về đến Pháp. Thòi
gian ở Paris, Bá Đa Lộc ra sức tuyên truyền về những lợi ích buôn bán
với Đông Dương. Dựa vào thê lực của mấy giám mục thành Toulouse
và xứ Narbonne, vương tử cảnh được vào yết kiến Pháp hoàng Louis
XVI và bộ trương hải quân De Castries. Louis XVI lấy vương lễ đãi
vương tử Cảnh (mới 4 tuổi), giao bộ trưởng ngoại giao De Montmorin
bá tước thương nghị việc giúp Phúc Anh. Ngày 26 - 11 - 1787, tại
Versailles, Bá Đa Lộc và De Montmorin ký hiệp ước đại lược rằng:
Vua nước P háp giúp vua G iao Chỉ (nguyên văn là
Cochinchine tức G iao Chỉ Chi Na, thời xưa tiếng này người Ảu
dùng ch ỉ nước ta, sau khi lập đô hộ, người P háp mới dùng tiếng
Cochinckịne này chỉ xứ N am Kỳ) khôi phục đ ất đ a i 4 tàu chiến và
đạo binh 1.200 lục quân, 200 p h á o binh, 250 h ắc binh P hi châu
(Cafres) và đủ các thứ súng ống thuốc đạn;
Vua G iao C hỉ nhường đứt cho nước P háp h ả i cảng Hội An và
quần đ ảo Côn Lôn;
Người P háp đưỢc ra vào buôn hán trong nước. N goại giả
không cho người nước châu Ảu nào khác sang buôn bán;
K hi nước P háp có cần đến lính thuỷ, lính bộ, lương thực, tàu
bè ở phương đông thi p h ả i đưỢc ứng biện đủ giúp nước P háp;
420
K hi đ ã khôi phục nước đưỢc rồi thi vua Giao Chỉ p h ả i mỗi
năm làm một chiếc tàu y như tàu của nước P háp đ ã cho sang giúp
đê đem sang trả cho P háp hoàng.
Hiệp ước được ký nhưng bấy giờ nước Pháp gập nhiều khó
khăn: ngân sách thiếu hụt, cách mạng rục rịch nổi dậy. Louis XVI
hạ chiếu giao tổng trấn thành Pondichéry, tổng chỉ huy các lực
lượng Pháp ở Ân Độ, là De Conway bá tước thi hành tô chức đoàn
quân viễn chinh nhưng lại nói phải xét nếu nên hãy làm, nếu
không tiện lợi thì thôi. Ngày 8 - 12 - 1787, Bá Đa Lộc trơ lại nưóc
ta. Qua Pondichéry De Conway nói việc đem binh sang cứu Phúc
Ánh là rất khó và không lợi gì, làm sớ tâu Pháp hoàng xin bãi việc
ấy đi. Louis XVI nghe theo.
Về việc này, sau có nhiều người Pháp lấy làm tiếc rằng giá
bấy giò chính quyền Pháp cô gắng hết lòng giúp Phúc Anh thì có
phải nước Pháp đã sớm có đưỢc thuộc địa ở Viễn Đông ngay từ
cuối thế kỷ XVIII và sau này khỏi mất công đánh chác.
Hiệp ước Versailles không được bên người Pháp thực hiện,
Bá Đa Lộc vẫn kiên trì mưu sự giúp Phúc Ánh, không chịu từ bỏ
cơ hội để thực hiện mục đích của mình, đứng ra vận động các nhà
tư bản quyên tiền mua tàu chiến, sắm súng đạn và chiêu mộ
người sang giúp Phúc Ánh. Tháng 9 năm 1788, tàu Dryade chở
đến Côn Lôn 1.000 súng. Mấy tháng sau, tàu Cook, tàu Moyse chở
đến các loại quân trang quân dụng. Tháng 6 âl năm 1789, Bá Đa
Lộc đi tàu chiến Méduse về đến Gia Định, các tàu buôn chơ súng
ôAg, thuốic đạn lục tục sang sau. Có 18 sĩ quan người Pháp và 5 sĩ
quan Au châu nước khác và khoảng 80 binh sĩ sang giúp. Mấy
người quan trọng là Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng), Vannier
(Nguyễn Văn Chấn), De Porẹant (Lê Ván Lăng), Dayot, Despiau,
Victor Ollivier (ông Tín), De Pumanel. Phúc Ánh phong quan tư ố c
cho họ. Chaigneau là chúa tàu Long, Vannier chúa tàu Phụng.
Những người Pháp này đóng vai trò đáng kể trong quân đội họ
Nguyễn, chủ yếu trong việc huấn luyện kỹ thuật chiến đấu, sử
dụng vũ khí, xây thành luỹ, đóng tàu, đúc súng, chỉnh đôA mọi
việc võ bị, giúp đỡ trong việc mua vũ khí của các công ty tư bản
phương tây ở Macao, Inđônêxia, Mã Lai, An Độ. Victor Ollivier
xây thành Gia Định theo kiểu Vauban.
Phúc Ánh còn dùng người Âu nưốc khác nữa. Năm 1796 có
hai người Anh là Ba Lăng Hy và Ba La Di tập hỢp thuyên buôn
chở 5.000 lính Chân Lạp để dự chiến. Năm 1791, có lái buôn người
421
Bồ Đào Nha là Chudinônhi đi mua 1 vạn khẩu súng săn, 2.000 cỗ
đại bác bằng gang, 2.000 viên đạn lửa cho Phúc Anh.
Các người Pháp sang giúp này được Phúc Anh biệt đãi, công
việc không nặng nhọc gì mấy, có tham chiến thì thắng trận không
khó khăn nhưng họ không quen khí hậu nóng bức, ăn uôhg không
đưỢc tươm tất lắm. nhất là không được trả lương cao, lại không được
tướng lĩnh bản xứ trọng đãi, còn bị ghen ghét là khác nên chỉ ơ lại
trong một thời gian ngắn rồi lại đi, mỗi khi có tàu Au cháu trở về
nước. Không bao lâu lần lượt bỏ về cả. Riêng có Chaigneau và
Vannier lấy vỢ Việt, ở lại lâu dài, sau làm quan dưới triều Gia Long.
Có nhiều người nước ta, không thòng siuVt (loạn sử này, lầm
tưởng rằng: Nguyễn Phúc Anh tiết thứ bị (Ịuân Tây Sun đánh thua,
nhò được Bá Đa Lộc xin nước Pháp cứu viện, cáp cho (luân đội, tàu
chiến, súng đạn nhiều nên sau mới chiến thắng. Sự thực thì hiệp
ước Versailles 1787 không được bôn nưỏc ]’háp thi hành do chính
quyền bấy giờ đang gặp nhiều khó khăn. Hai chiếc tàu và súng đạn
Bá Đa Lộc đưa sang là do y quyên tiền tư bản J’háp mà mua được.
Bọn Dayot, Chaigneau... không phải là sĩ quan quân đội Pháp do
chính quyền Pháp cử sang giúp mà là do Bá Đa L()C chiêu mộ sang,
tức là những “chí nguyện quân” (volontaires), ngày nay goi là lính
đánh thuê. Trvtớc sau, chính quyền nước Pháp kh(")ng có giúp đõ gì
cho Phúc Ánh cả. Cho nên năm 1817, khi ngưcá Pháp trO tráo sang
đòi nhận cảng Hội An và đảo Côn Lôn, Cia Long dã cự tuyệt rất có
lý, phải rút về.
Các chí nguyện quân Pháp có giúp dỡ dác lực Phúc Anh
nhưng không phải chi' vì nhờ có chúng, Phúc Anh mói thắng nổi
quân Tây Sơn. Khi Bá Đa Lộc dưa bon này sang dên má là tháng 6
âl năm 1789, Phúc Ánh đ<ã ờ Xiêm La vê từ nám 1787, (lên năm
1789 đã bình định xong xứ Gia Định.'
Lại xét nếu không có sự giúp đỡ của Bá Đa Lộc v.à chí nguyện
quân người Pháp thì Nguyễn Phúc Ánh cũng vẫn có thê thông nhất
được đất nưóc do bên Tây Sơn lực lượng quân sự suy kém bởi anh
em vua đánh lẫn nhau, vua Quang Trung tài giỏi lại không thọ và
các tướng lĩnh không hoà thuận, còn hại nhau.
CUỘC PHẢN CÔNG CỦA NGUYÊN PHÚC ÁNH - ĐÁNH QUY NHƠN
LẦN THỨ NHẤT - Kiến thiết miền nam vững chãi, lại được Bá Đa
Lộc đưa về cho súng đạn dồi dào, lực lượng của Phúc Anh mỗi
422
ngày một mạnh, tướng tá ngày một đông, lương thực nhiều, quân
sĩ giỏi. Năm 1790, Phúc Anh mở cuộc tấn công ra vùng đất thuộc
Tây Sơn.
Tháng 4 âl, sai tướng tiền quân Lê Văn Câu đem 5.000 quân
thuỷ bộ ra đánh Bình Thuận; Võ Tính và Nguyễn Văn Thành đem
quân đi làm tiền phong. Quân Nguyễn đánh chiếm được Phan Rí
và Bình Thuận. Văn Câu và Võ Tính không đồng ý với nhau. Phúc
Ánh gọi Võ Tính và Nguyễn Ván Thành về Gia Định. Văn Câu
đem quân ra Phan Rang, bị quân Tây Sơn đến vây đánh ngặt,
phải cho người về Gia Định cáo cấp. Nguyễn Văn Thành ra giải
vây, cùng Lê Ván Câu về giữ Phan Rí. Văn Câu bại binh, thẹn
xưng bệnh không coi việc binh nữa. về Gia Định bị nghị tội, phải
cách hết chức. Ván Câu uông thuốc độc tự tử: Tướng đầu tiên đem
quân về với Phúc Ánh khi còn cùng khôn chạy sang Xiêm La nay
bất đác kỳ tử. Cuộc tấn công lần đầu tiên ra miền trung thât bại
do tại đây không có những thổ hào đại điền chủ chịu ơn chúa
Nguyễn xưa hương ứng, vả lại thê lực quân Tây Sơn còn khá
mạnh. Liệu không thể đánh chiếm đất đai mau chóng như khi
đánh lấy đất miền nam, Phúc Ánh đối kế hoạch tấn công, lợi dụng
gió mùa hàng năm đánh ra lấn đất dần dần, dùng mẹo khiến cho
địch hồ nghi, tiến đánh luôn luôn làm cho địch mệt mỏi. Hàng
năm nhân mùa có gió nam, thuỷ binh do đường biển tiến, bộ binh
theo đường Bình Thuận, Bình Khang tiến ra, lấy được dến đâu thì
đắp thành đóng đồn đê làm phên dậu cho Gia Định. Dần dần sức
địch suy kém, sẽ tranh lấy được thiên hạ.
Tháng 7 âl năm 1790, do gió bắc thổi mạnh, quân Nguyễn
rút về Gia Định, đợi mùa gió thuận lại đem quân ra đánh, cho nên
người ta gọi là g iặc m ùa. Từ đó, hàng năm, cứ đến tháng tư tháng
năm là mùa gió nam thổi mạnh, quân Nguyễn ra đánh và đến
mùa gió đông bắc lại rút về.
Năm 1792, Phúc Anh cùng Nguyễn Văn Trương, Nguyễn
Vàn Thành, Dayot và Vannier đem 128 chiến thuyền ra cửa cần
Giò, tiến ra đánh vào cửa Thi Nại (cửa Quy Nhơn), đô't thuỷ trại,
bắt được 80 chiếc thuyền và nhiều khí giới, lương thực, rồi rút
quân về.
Năm 1793, quân Nguyễn mở cuộc tấn công lớn ra Quy Nhơn.
Tôn Thất Hội, Nguyễn Hoàng Đức, Nguyễn Văn Thành đem bộ
binh ra đánh Phan Rí. Phúc Ánh cùng Nguyễn Văn Trương, Võ
Tính đem thuỷ sư ra cửa biển Nha Trang, lần lượt chiếm các phủ
423
Diên Khánh, Bình Khang, Phú Yên, rồi tiến quân ra cửa biển Thi
Nại. Cánh quân của Tôn Thâ't Hội chiếm được Bình Thuận, cũng
được lệnh tiến binh lên hội với thuỷ sư, hai mặt cùng ra đánh Quy
Nhơn. Thái Đức sai thái tử Nguyễn Bảo đem binh ra chông cự, giữ
được hơn một tháng, nhưng thế quân Nguyễn mạnh lắm. Thái
Đức phải sai người ra cầu cứu Phú Xuân. Cánh Thịnh sai thái uý
Phạm Công Hưng, hộ giá Nguyễn Văn Huân, đại tư đồ Lê Trung
và đại tư mã Ngô Văn Sở đem 17.000 qu<ân bộ và 8 thớt voi đi
đường bộ, cùng đại thông lĩnh Đặng Văn Chân đem 30 chiến
thuyền đi đường biển, hai đạo cùng tiến vào cứu Quy Nhơn. Phúc
Ánh thấy viện binh đến, lại gặp mùa mưa, liệu thế chông không
nổi, rút quân về Diên Khánh (Khánh Hoà), rồi về Gia Định, để
Nguyễn Văn Thành ở lại giữ Diên Khánh, Nguyễn Hoàng Đức giữ
Bình Thuận. Sau lại sai đông cung Cảnh và Bá Đa Lộc, Phạm Văn
Nhân, Tống Phúc Khê ra giữ thành Diên Khánh.
TÌNH HÌNH NHÀ TÂY SƠN - Bọn Phạm Công Hưng giải đưỢc
V tây rồi quân vào thành Quy Nhơn, chiếm giữ lâV thành trì, rồi
tịch thu các kho tàng. Thái Đức tức giận, thổ huyết mà chết, làm
vua 16 năm.
Vua Thái Đức Nguyễn Nhạc là người anh hùng lãnh đạo
quân Tây Sơn nổi dậy chông chính quyền Trương Phúc Loan và
chúa Nguyễn, từng thắng nhiều trận lừng lẫy. Nhưng hoài bão
sớm thoả mãn sau khi đánh lấy được phần giang sơn cũ của chúa
Nguyễn. Công nghiệp chính trị những gì không được sử sách chép
đến. Ong đã sai lầm trong sự cùng các em chia cắt đất nước mà cai
trị, nhat là cử Đông Định vương ít tài năng trấn giữ miền nam.
Những năm về sau mải hưởng thụ vui chơi, ít lưu tâm đến việc
nước. Ngay đến quân đội mà cũng không chỉnh đôn đủ đê trở nên
hùng mạnh trong khi Phúc Anh ráo riết lo việc chiến tranh.
Nhưng chết thảm, tình cũng phần nào đáng thương.
Cảnh Thịnh cho Nguyễn Bảo làm Hiến công, ăn lộc một
huyện, gọi là Tiểu triều, để Lã Trung và Nguyễn Văn Huấn ở lại
giữ thành Quy Nhơn.
Tháng 3 âl nám 1794, Nguyễn Văn Hưng đem bộ binh vào
đánh Phú Yên, Trần Quang Diệu vào vây thành Diên Khánh.
Đông củng Cảnh cho người vê' Gia Định cáo cấp. Phúc Anh đem
đại binh ra giải vây. Quang Diệu rút quân về. Phúc Anh thấy thế
Tây Sơn còn mạnh, lại đến mùa gió bắc, đem Đông cung về Võ
Tính ở lại giữ Diên Khánh. Sang năm 1795, Quang Diệu lại vào
424
đánh Diên Khánh. Võ Tính hết sức chông giữ, Phúc Ánh đem thuỷ
hinh ra cứu.
Trong khi hai hên còn đang chông giữ nhau thì 0 Phú Xuân,
các đại thần giết hại lẫn nhau, gcâv thành nổi loạn. Từ khi Quang
Trung khuất, Cảnh Thịnh nôl ngôi mỏi 10 tuôi. Mọi quyền về cả
thái sư Bùi Cảnh Tuyên. Các quan nhiêu người oán giận. Năm
1795, Vũ Vàn Dũng nghe theo Trần Văn Kỷ, mưu vói Phạm Công
Hưng và Nguyễn Văn Huấn vây hắt Bùi Đắc Tuyên hổ ngục.
Nguyễn Văn Huấn vào Quy Nhơn hắt Bùi Dắc Trụ. con Dắc Tuyên
và cho người đưa thư ra Bắc Hả truyền tiết chế Nguyễn Quang
Thuỳ, em Cảnh Thịnh hắt giải Ngô Văn Sơ về Phú Xuân. Bọn Vũ
Văn Dũng đặt chuyện vu cho những người này làm phán, đem dìm
xuông sông cho chết đi. cảnh Thịnh không ngăn giữ được, chỉ
khóc thầm. Quang Diệu đang vây đánh thành Diên Khánh, làm
cho chúa tôi Phúc Anh gặp khó khăn, nghe tin trong triều có biến,
thất kinh nói: Chúa thượng không cứng cỏi, đại thần giết lẫn
nhau. Trong không yên thì ngoài đánh ngvíời ta sao dược? Bèn vội
vàng rút quân vê gấp sắp đặt lại triều chính. Nguvễn Văn Huấn
tạ tội. Vũ Văn Dũng định cự lại. cánh Thịnh đứng ra hoà giải.
Quang Diệu là ngưòi có lượng cảm hoá được Văn Dùng, cùng nhau
chôAg đỡ cơ nghiệp nhà Tây Sơn đang lung lay. 'rư dó, Trần
Quang Diệu lảm thiếu phó, Nguyễn Văn Huấn làm thiêu hảo, Vũ
Văn Dũng làm đại tư đồ, Nguyễn Văn Danh (hay Tứ) làm dại tư
mã, gọi là tứ trụ đại thần. Nhưng tủ' dáy, thê lực nhà Tây Sơn
ngày một kém, vua còn nhỏ, không có dủ uy quvển dê sai khiến
các quan, tướng tá vì lòng ghen ghét mưu hại lẫn nhau. Bơi vậy
khi quân Nguyễn từ trong nam ra đánh, không phái mất nhiều
công phu mà chiến thắng được.
QUÂN NGUYỄN RA ĐÁNH QUY NHƠN LẦN THỨ HAI. - Từ khi
Quang Diệu giải vây Diên Khánh, Phúc Ánh cũng trỏ về Gia
Định, sửa soạn quân lương, chiêu mộ thêm binh sĩ. Năm 1797, lại
cùng đông cung cảnh đem hĩnh thuyền ra đánh Quy Nhơn.
Nguyễn Văn Thành và Võ Tính ra đánh Phú Yên. (ịuân thuỷ của
Phúc Anh ra đến Quy Nhơn, thấy có phòng bị, liệu dánh không đổ
được, Phúc Anh bèn ra đánh Quảng Nam. Được vài tháng, quân
nhu không đủ, phải dem quân trơ về Gia Định, sai Nguyễn Văn
Thành và Dăng Trần Thường ỏ lại giữ thành Diên Khánh.
Trơ về Gia Định, Phúc Anh sai người sang Xiêm La xin vua
nước ấy sai quân đi đường Vạn Tượng sang đánh Thuận Hoá hoặc
425
Nghệ An, đê chặn đường quân Bắc Hà vào, lại .sai người sang sứ
Thanh, do thám mọi việc.
QUÂN NGUYỄN RA ĐÁNH QUY NHƠN LẦN THỨ BA - Quôc sử
chép: năm 1798, Tiểu triều Nguyễn Bảo căm tức Cảnh Thịnh
chiếm giữ Quy Nhdn, định bỏ về hàng Phúc Anh, bị bắt đem dìm
sông chết đi. Có người gièm trấn thủ Lô Trung xui Tiểu triều làm
loạn. Lê Trung bị bắt chém đi. Thiếu phó Nguyễn Văn Huấn cũng
bị giết. Tướng tá Tây Sơn nản chí, người bổ đi ân. người sang theo
Phúc Ánh. Lê Chất đánh trận giỏi, làm đến chức đại tư đồ. b() đem
200 quân đi sang hàng nhà Nguyễn.
Phúc Ánh thấv rõ tình thế Tây Sờn suy nluíỢc, năm 1799, cử
đại binh ra đánh Quy Nhơn. Thuỷ quân vào cửa Thi Nại. Võ Tính
và Nguyễn Hoàng Đức đem quân lên đóng ở Phúc Khê. Nguyễn
Văn Thành đem bộ binh ra đánh lấy Phú Yên, rồi tiến lên tiếp
ứng quân Võ Tính.
Quân Nguyễn đến vây thành Quy Nh(ín. Tran Quang Diệu
và Vũ Ván Dũng ở Phú Xuân đem quân vào cứu. đến Quảng Ngãi
gặp quân Nguyễn Văn Thành chặn lại ơ Thạch Tân (Bến Đá).
Trấn thủ Quy Nhơn Lê Văn Thanh không thấy viện binh đến,
lương thực cạn, cùng các tướng tá và một vạn quân, mở cửa thành
ra hàng. Phúc Ánh chiếm được Quy Nhơn, đổi tên là Bình Định,
giao Võ Tính và Ngô Tòng Chu ở lại trán t h ủ . c ả n h ' r h ị n h cử đại
binh vào đánh quân Nguyễn nhưng vì phái độ trái mùa gió, thuỷ
chiến không tiện.
QUÂN TÂY SƠN VÂY THÀNH BÌNH ĐỊNH - Trong khi quân Nguyễn
còn vây đánh Quy Nhơn, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng dem quân
vào cứu. Vì Văn Dũng quân lệnh không nghiêm, không bị đánh mà
tan, đến nỗi bại hĩnh. Văn Dũng nhờ có Quang Diệu che trờ nên
không bị tội. Cảm ơn ấy nên kết nghĩa sinh tử voi Quang Diệu, ơ Phú
Xuân, có nhiều người không ưa Quang Diệu khiến Canh Thịnh sai
người đưa mật thư cho Văn Dũng giết Quang Diệu. Văn Dùng lại đưa
thư ấy cho Quang Diệu xem. Quang Diệu sỢ hãi, đem quân về triều
hắt lũ loạn thần, cảnh Thịnh phải bắt mấy người đem nộp. Quang
Diệu mới vào chầu, cảnh Thịnh giảng dụ, khuyên nên hết sức giúp đỡ
nhà nước. Quang Diệu khóc lạy, xin cùng Vũ Văn Dũng đem quân
thuỷ bộ vào đánh lấy lại thành Qụỹ Nhơn.
Tháng giêng âl năm 1800,- quân Tây Sơn tiến dến gần thành
Quy Nhơn. Võ Tính giữ vững không ra đánh. Quang Diệu sai đắp
luỹ chung quanh thành và chia quân ra vây hôA mặt. Văn Dũng
426
đưa tàu chiến lớn và 100 chiến thuyền ra đóng' giữ cửa Thi Nại,
xây đồn và đặt đại bác 0 hai bên cửa biên đề phòng quân Nguyễn.
Phúc Anh hay tin Bình Định bị vây, cử đại binh ra cứu viện,
sai Nguyễn Văn Thành, Lô Chất, Nguyễn Đình Đắc. Trương Tiến
Bảo, chia làm ba đạo đánh lấy đồn Hội ở Phú Yên, rồi kéo ra đánh
Thị Dã thuộc Bình Định. Phúc Anh thân đem thuỷ binh ra đóng
thuyền ở cửa Thi Nại. Quân thuỷ và quân bộ không thông được với
nhau nên sự cứu viện không công hiệu gì.
Tháng giêng âl năm sau 1801, tướng Nguyễn Văn Trương và
Tông Phúc Lương đánh vào đồn thuỷ quân Tây Sơn, Lê Ván
Duyệt, Võ Di Nguy đánh vào cửa Thi Nại. Võ Di Nguy trúng đạn
chết. Lê Văn Duyệt ra sức xung đột, đôt được tàu thuyền Tây Sơn.
Vũ Văn Dũng phải bỏ cửa Thi Nại đem quân vê hỢp với Quang
Diệu. Phúc Anh lấy được cửa Thi Nại. Nguyễn Văn Trương đem
thuỷ quân ra đánh Quáng Nam, Quảng Ngãi.
NGUYỄN PHÚC ÁNH THU PHỤC PHÚ XUÂN - Phuc Ánh thấy
quân Tây Sơn vây thành Quy Nhơn cẩn mật lắm, đánh phá không
được, lại thấy quân tinh nhuệ Tây Sơn ỏ cá đấy, thành Phú Xuân
kém phòng bị, bèn bỏ rơi Võ Tánh, kéo đại quân thuỷ bộ ra đánh
Phú Xuân, đê Nguyễn Văn Thành ở lại chông giữ với Quang Diệu.
Tình trạng nhà Tây Sơn bấy giò bôi rôi lắm. ơ Nghệ An có
tưống Nguyễn là Nguyễn Văn Thuỵ và Lưu Phúc Tường đem quân
Vạn Tượng sang đánh phá. ơ Thanh Hoa phiên thần Hà Công
Thái khởi binh giúp Nguyễn, ơ Hưng Hoá, thổ ty Phan Bá Phụng
nôi dậy quấy nhiễu. Các trấn Bắc Hà thì rôi vì việc tôn giáo, đạo
trương, đạo đồ Gia Tô cũng nối dậy. Dân tình hị quan quân nhũng
lạm có lòng oán giận. Trong triều thì vua hèn, đại thần ghen ghét
giết hại lẫn nhau.
Thuỷ sư Phúc Ánh vào cửa Tư Dung. Tướng Tây Sơn phò mã
Nguyễn Văn Trị đem quân ra lập dồn giữ ơ núi Quy Sơn. Tiền
quân Nguyễn đánh không được. Lê Văn Duyệt và Lô Chất đem
thuỷ binh đánh tập hậu. Nguyễn Văn Trị thua chạy. Quân
Nguyễn vào cửa Nguyễn Hải (Thuận An), kéo lên đánh thành Phú
Xuân. Cảnh Thịnh thân đem quân ra chông giữ. Hai bên đánh
nhau đến giữa trưa, quân Tây Sơn tan vỡ. Phúc Ánh tiến quân lên
đuối đánh, thu phục được đô thành, ngày 3 - 5 âl nám 1801.
Lê Chất đem bộ binh đuổi đánh quân Tây Sơn. Nguyễn Văn
Trương đem thuỷ binh ra chặn ở Linh Giang. Phạm Văn Nhân giữ
cửa Nguyễn Hải. Lưu Văn Trường đem quân đi đường Cam Lộ
427
sang Vạn TưỢng, bảo các Mường giữ đường yếu lộ không cho quân
Tây Sơn chạy tràn sang.
TRẦN QUANG DIỆU LẤY LẠI THÀNH QUY NHƠN - v õ TÍNH TỬ TIẾT
- Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đang vây đánh Quy Nhơn,
nghe tin quân Nguyễn đánh ra Phú Xuân, sai tướng đem quân ra
cứu viện. Đám quân này hị Lê Văn Duyệt chặn lại ở Quảng Nam,
phải lùi trỏ lại. Quang Diệu ngày đêm hết sức đốc quân đánh
thành. Quân Nguyễn trong thành hết cả lương thực, không thể
chôhg giữ được nữa. Trấn thủ Võ Tính viết thư gửi sang Quang
Diệu nói phận sự ta là chủ tướng, đành liều chết dưới cờ. Còn các
tướng sĩ không có tội gì, xin đừng giết hại. Đoạn lấy rơm cỏ chất
dưới lầu bát giác, đổ thuốc súng vào tự đốt mà chết. Hiệp trấn Ngô
Tòng Chu uôhg thuốc độc tự tử.
Quang Diệu vào thành, tha cả bọn tướng tá, sai làm lẽ táng Võ
Tính và Ngô Tòng Chu, sai đô đốc Trương Phúc Phượng và tư khấu
Định đi đường thượng đạo ra đánh Phú Xuân. Đi nửa đường, quân
hết lương. Trương Phúc Phượng ra hàng nhà Nguyễn. Tư khấu Định
đánh thua chạy vào chết trong Mường. Quang Diệu lại sai Lê Văn
Điềm vào đánh Phú Yên, cũng không lợi. Tuy lấy được thành nhưng
có quân Lê Văn Duyệt và Lê Chất ở Quảng Nam, Quảng Ngãi đánh
vào, Nguyễn Văn Thành ở cửa Thi Nại đánh lên, lại có quân Tốhg
Viết Phúc và Nguyễn Văn Tính ở Phú Yên đánh ra. Quân Tây Sơn
phải hết sức chống giữ, chờ quân Bắc Hà vào cứu viện.
LUỸ TRẤN NINH - Thất thủ Phú Xuân, cảnh Thịnh ngày đêm
kíp ra Bắc Hà, đổi niên hiệu là Bảo Hưng, truyền hịch đi các nơi lấy
viện binh. Tháng 11 âl, thu thập được hơn 3 vạn người sang sông
Gianh. Thuỷ quân gồm 100 chiến thuyền giữ cửa Nhật Lệ tức Đông
Hải (Đồng Hới, tỉnh lỵ Quảng Bình). Các tướng Nguyễn là Nguyễn
Văn Trương, Tốhg Phúc Lương, Đặng Trần Thường phải lui. Phúc
Ánh thân đem đại quân ra tiếp ứng, sai Phạm Văn Nhân và Đặng
Trần Thường giữ mặt bộ, Nguyễn Văn Trương mặt thuỷ.
Tháng riêng âl năm 1802, Nguyễn Quang Thuỳ, em Bảo Hưng
tiến quân đánh luỹ Trấn Ninh, đánh mãi không đưỢc, toan rút quân
nhưng Bùi Thị Xuân, vỢ Trần Quang Diệu, không chịu, đốc thúc quân
lính đánh tràn. (Bùi Thị Xuân đem 5.000 thủ hạ tòng chinh trong
trận này). Đánh nhau suốt từ sáng sớm đến chiều tối, không phân
được thua. Bỗng có tin thuỷ quân bị Nguyễn Văn Trương phá vỡ ở cửa
Nhật Lệ, quân Tây Sơn khiếp sỢ bỏ chạy. Tướng Nguyễn Văn Kiên về
hàng nhà Nguyễn. Bảo Hưng đem quân chạy về bắc.
428
Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng ở Quy Nhơn, các mặt bị quân
Nguyễn bô vây tấn công ráo riết, liệu chông lại không nổi, lại nghe tin
quân thua ỗ Trấn Ninh, tháng 3 âl nhân đêm mưa tốĩ, bỏ thành Quy
Nhơn, đem 1.000 quân sĩ và 150 thớt voi đi đường thượng đạo qua Ai
Lao ra Nghệ An để hội với Bảo Hưng lo sự chông giữ.
NGUYỄN PHÚC ÁNH LÊN NGÔI TÔN - Nguyễn Phúc Ánh dấy
nghiệp xưng vương như các chúa trước. Từ khi thu phục Phú
Xuân, thanh thế lừng lẫy. Sau khi lấy được đất đến sông Gianh,
làm chủ toàn thể giang sơn cũ chúa Nguyễn, ngày 2 - 5 âl năm
1802, xưng làm vua (hoàng để), lấy niên hiệu là Gia Long.
QUÂN NGLAT n r a l ấ y đ ấ t b ẮC h à - Lên ngôi, Gia Long lại thân
chinh ra đánh Bắc Hà, sai Nguyễn Văn Trương lĩnh thuỷ binh, Lê
Vàn Duyệt và Lê Chất bộ hình, hai đạo cùng tiến. Tháng 6 âl, bộ binh
sang sông Gianh, tiến lên đóng ở Hà Trung. Thuỷ binh vào cửa Hội
Thông đánh vào các đồn luỹ. Trấn thủ Nghệ An Nguyễn Ván Thận bỏ
thành lui giữ Diễn Châu. Đại quân của Gia Long từ Phú Xuân kéo ra.
Các căn cứ Hoành Sơn, Hà Trung, Đại Nài, Vĩnh Định, Thanh Hoa
lần lượt rơi vào tay quân Nguyễn. Bấy giờ, Trần Quang Diệu do
đường Ai Lao ra đến châu Quy Hợp , xuông huyện Hương Sơn, thấy
quân Gia Long đã lấy được Nghệ An rồi, cùng Bùi Thị Xuân về huvện
Thanh Chương, quân sĩ đều hỏ cả, được mấy ngày vỢ chồng bị bắt.
Tướng Vũ Văn Dũng cũng bị bắt ở Nông Công, Thanh Hoa.
Chiếm xong Nghệ, Thanh, quân Nguyễn thuỷ bộ tiếp tục kéo
ra bắc. Đi đến đâu, quân Tây Sơn chưa đánh đã tan, chỉ trong một
tháng đã ra đến Thăng Long.
Bảo Hưng thấy thế không chông giữ được, cùng các em
Quang Thuỳ, Quang Thiệu và mây bề tôi đô đốc Tú, Nguyễn Văn
Tứ sang sông chạy về phía bắc, đến Phượng Nhãn đều bị bắt.
Quang Thuỳ tự tử. Đô đôc Tú và vỢ cũng tự vẫn. Vua tôi mấy
người bị đóng cũi đưa về Tháng Long.
Nhà Tây Sơn 1778 - 1802 làm vua 25 năm, nhưng Thái Đức
chỉ giữ Quy Nhơn và các hạt lân cận. Đến Quang Trung 1788 -
1792 đuổi quân Thanh, lấy Bắc Hà, mới đáng kể thì miền nam đã
bị Nguyễn Phúc Anh lấy lại rồi.
Do bận chiến tranh, nhà Tây Sơn không sửa sang được mấy
về kinh tế và văn hoá. Công nghiệp của Quang Trung làm vua chỉ
trong bốh năm chưa có ảnh hưởng lớn đến quần chúng nhân dân.
Sau khi Quang Trung khuất, vua trẻ lại hèn, đại thần ghen ghét
giết hại lẫn nhau, quan lại các địa phương tham nhũng, chính trị thôi
nát, lòng dân oán hận nên dòng vua này không tồn tại được lâu dài.
429
THỜI ĐỢI CỢN KIM
KỶ NHÀ NGUYỄN (1802 - 1945)
NGUYÊN THẾ Tổ 1802 - 1819
huý PHÚC ÁNH (1761 - 1819)
Niên hiệu: Gia Long
Dưới thòi quân chủ chuyên chế, khi vua muôh gì thì đình
thần ùa theo đón chiều ý vua. Vua không ưa ai thì người ấy bị kết
án phạm tràm thứ tội. Trần Trọng Kim trong VNSL chép theo Đại
Nam chính biên liệt truyện viết dài dòng về các điều buộc tội Lê
Văn Duyệt và Lê Chất, toàn là những sự vố vẩn không ra sao.
Lê Văn Duyệt làm tổng trấn là quan cai trị tài, được dân
chúng tính phục, tuy có hống hách, ông tự chuyên, từng tiếp
người ngoại dương và cho thương thuyền của họ vào mua bán.
Ông bị nghị án, trích ra các lòi nói, việc làm bội nghịch, có 7
tội nên trảm, 2 tội nên giảo, 1 tội nên phát phân, phải san bằng
phần mộ, dựng bia có các chữ: Chỗ này là nơi quyền yếm Lê Văn
Duyệt phục pháp.
Án L ê C h ất. - Lê Chất nguyên là tướng giỏi triều Tây Sơn,
do Cảnh Thịnh giết oan đại thần, bỏ sang theo Phúc Ánh, lập được
nhiều chiến công, sau làm quan to có phần hách dịch. Đồng liêu
không ưa. Sau án Lê Văn Duyệt, có Lê Bá Tú thị lang bộ lại, truy
tham tội bất thần của Lê Chất. 6 tội nên chết, lại có 10 tội tiếm
lạm. Đình thần nghị Lê Chất bất phát, bất trung, đại gian, đại ác,
phạm 6 tội nên lăng trì, 8 tội nên trảm, 2 tội nên giảo.
Lê Chất cũng bị san bằng mả. Vợ và con c ẩ n Cương, Thường,
Kỷ đều phải trảm giam hậu. Tịch biên gia sản 12.000 quan tiền
sung công.
Đến năm 1847, dưới triều Tự Đức, đông các đại học sĩ Vũ
Xuân Cẩn có sớ tâu xin gia ân cho con cháu Nguyễn Văn Thành,
Lê Văn Duyệt và Lê Chất, tuy có tội nhưng trước có công. Ba ông
này mới được phục hồi danh dự.
V IỆC PHÁ C Â C ĐỀN MIẾU THỜ CÁ C CHÚA TRỊNH - Gia Long thâm
thù báo oán các vua Tây Sơn nhưng không báo thù các chúa
Trịnh, tuy từng bị tướng nhà Trịnh Hoàng Ngũ Phúc đánh đuổi ra
khỏi thành Phú Xuân. Sang thời Minh Mệnh có triều thần dâng
448
biểu kể tội các chúa Trịnh: Danh vi Lê thần, thực vi Lê tặc. Minh
Mệnh ra lệnh phá huỷ các đền phủ thò họ Trịnh, lấy các ruộng
trước dùng vào việc thò cúng các đền phủ này làm ruộng công
hàng xã. Thực sự một số ruộng này bị cường hào chiếm lấy làm
của tư. Dân chúng những nơi này vẫn tôn thò, chỉ không linh đình
như trước.
V IỆC CẤM ĐẠO GIA TÔ - Thời Minh Mệnh trị vì, việc cấm đạo
Gia Tô và giết giáo sĩ cùng tín đồ đạo này là quan trọng.
Người nước ta xưa, hơn ngàn năm Bắc thuộc, chịu ảnh
hưởng nặng nề văn hoá Trung Quốc, lễ nghi theo Chu công,
Khổng tử gọi là đạo Nho. Đến khi đạo Phật truyền bá sang không
gặp trở ngại gì: Người đi chùa lễ phật vẫn thò cúng tố’ tiên, lễ bái
Văn Miếu và đền thò các vị có công với nhân loại hay với quốc
gia. Đến khi có đạo Gia Tô truyền bá sang thì xảy ra lắm chuyện
lôi thôi. Đạo Gia Tô dạy người yêu kính Thiên Chúa, lấy lòng
nhân thứ coi mọi người như anh em ruột thịt, về nguyên tắc,
không có chi dở. Nhưng người nước ta xưa, nhất là các sĩ phu,
không tin những điều tín đồ đạo Gia Tô tin, lại thâ"y lễ nghi c,ó
khác: không còn tôn thờ tố tiên, thần thánh thì cho là tà đạo, phá
hoại thuần phong mỹ tục, nên đả kích. Các nhà cầm quyền chính
chúa Trịnh, chúa Nguyễn xưa đã cấm đoán, nhưng không kịch
liệt lắm. Đến khi Minh Mệnh vua chuyên chê rất tôn sùng Khổng
Mạnh lên ngôi, muôn dân nước giữ chính nghĩa, không theo tả
đạo nên ra lệnh cấm ngặt. Cấm không được thì đem chém giết
các ngưòi truyền đạo và dân chúng theo đạo. Nhưng nhiều giáo
đồ không sỢ chết, cho sự tử vì đạo là vinh dự, được phong thánh,
hồn được lên thiên đường. Thành ra sự cấm đoán ngặt nghèo
cũng chang đi đến đâu hết.
Người tin theo đạo G'ia Tô, cũng như những người tin mọi tôn
giáo khác, cho điều mình tin tưởng là hay, là đúng, không gì làm
lay chuyển được, thậm chí coi người theo tôn giáo khác như thù
địch. Qua nhiều thế kỷ, người ta bàn cãi mãi, không một ai chứng
minh được đâu đúng, đâu sai lầm. Đê tránh những sự xung đột về
tôn giáo, người thức giả nêu ra sự bao dung (tolérance): Ai tin tôn
giáo nào có quyền cứ việc tin, nhưng phải để mặc những người
khác tin thế khác, không đươc bắt ho phải tin theo mình. Như
vậy, những người khác tôn giáo mới có the sôhg chung hoà bình
với nhau được. Tiếc rằng Minh Mệnh và các quan triều thòi ấy
không hiểu biết đến điều này nên đã có sự rất không hay diễn ra.
449
Minh Mệnh từ khi mới lên ngôi đã có ý không muôn cho
người ngoại quốc vào giảng đạo trong nước. Năm 1825, khi tàu
Thétis vào Đà Nang, có giáo sĩ Rogorot ở lại giảng đạo các nơi.
Minh Mệnh mới có dụ cấm đạo, truyền các quan phải khám xét
tàu bè ngoại quổic ra vào cửa biển. Trong dụ có nói: Đạo phương
tây là tả đạo, làm mê hoặc lòng người và huỷ hoại thuần phong
mỹ tục, cho nên phải cấm để khiến mọi người nước theo chính đạo.
Lại tìm những giáo sĩ trong nước đưa cả về kinh đê dịch các sách
tây ra chữ Việt, chủ ý không vì việc dịch sách, mà để khỏi đi giảng
đạo ở các nơi hương thôn.
Không phải chỉ riêng Minh Mệnh mới ghét đạo, các quan triều
hầu hết cũng đều một ý nên sự cấm càng nghiệt thêm. Nhưng cấm
thế nào, trong nước vẫn có những người đi giảng đạo. Nhà vua thấy
sự trái phép lại có dụ ra bắt các giáo dân phải bỏ đạo. Ai bắt được
giáo sĩ đem nộp thì có thưởng. Năm ấy ở Huế có một giáo sĩ phải xử
giảo và các nơi rối loạn vì sự bắt đạo và giết đạo.
Trong nước có giặc giã nổi lên, nhà vua ngờ giáo dân giúp các
toán nổi dậy, lại càng cấm nghiệt. Từ năm 1834 đến năm 1838, có
nhiều giáo sĩ và đạo đồ bị giết, nhất là từ khi bắt được cô" Du
(Marchand) giúp Lê Văn Khôi, sự cấm giết lại dữ tợn hơn trước.
Minh Mệnh cấm tả đạo, ban ra những huấn điều khuyên dân
giữ đạo chính. Nhưng dù dùng uy quyền giết hại thì dân khổ, chứ
lòng tin tưởng của người ta không lay chuyển được. Có những giáo
sĩ một niềm liều sông chết đi truyền giáo cho đưỢc. Có người đào
hầm ở dưới đất hàng mấy tháng để dậy đạo. Ý chí bền chặt như
vậy, hình phạt cũng vô ích.
Năm 1838, Minh Mệnh sai sứ sang Pháp điều đình với chính
quyền Pháp về việc ấy nhưng Hội truyền đạo ngoại quốc xin vua
Pháp Louis Philippe đừng tiếp.
Về sau, việc cấm đạo cứ dai dẳng mãi đến khi quân Pháp
sang xâm.
Không thể cho việc Minh Mệnh giết hại giáo sĩ và giáo đồ là
tàn bạo, ngược ác. ông làm việc này vẫn tưởng mình làm việc hay,
việc tôt, trừ tiệt những kẻ gian tà để giữ gìn chính đạo, thuần
phong mỹ tục của dân trong nưốc. Cũng như Louis XIV nưốc Pháp,
Philippe II nước Tây Ban Nha giết hại bao nhiêu người theo đạo
Tin lành, đâu có biết mình làm điều trái lẽ. Ngày nay, sự bao dung
đã được truyền, thế mà tại Inđônêxia và mấy nưốc châu Phi, người
450
ta còn đánh giết nhau chỉ vì không tin tưởng như nhau, Ân Độ và
Pakixtan cùng giông nòi chỉ vì khác tôn giáo mà chia thành hai
nưóc thì nói chi về sự việc hằng hai thế kỷ trưốc.
Có những ngưòi nước ta nông nổi tin rằng: Chỉ vì Minh Mệnh
và hai vua sau cấm đạo, giết giáo sĩ và người theo đạo Gia Tô nên
mới có việc người nước Pháp sang đánh chiếm đà’t nước ta làm
thuộc địa, báo thù cho các giáo sĩ bị giết (!) và bảo vệ giáo dân bản
xứ (!). Đây là theo lòi người Pháp thực dân nói vậy để che đậy sự
tham tàn của chúng. Sự thực thì dù chẳng có sự cấm đạo, giữa thế
kỷ XIX, nước ta vếu kém về binh bị lại vụng về ngoại giao với các
cường quổíc Âu châu, tư bản thực dân Pháp cũng viện cớ nào khác
đánh chiêm nước ta lập nên đô hộ. (Chúng cũng đã Jừng nói đế trị
lỗi vua quan ta khinh rẻ bạc đãi các người dại diện vua Pháp là sứ
giả sai sang). Nếu tư bản thực dân Pháp không đánh chiếm thì
cũng có người nước khác hành động tương tự.
Lại có những người cho rằng mặt trái của sự truyền bá đạo
Gia Tô là đi mơ đường tiên phong cho lũ tư bản thực dân đánh
chiếm nước xa xôi làm thưộc địa. Sự thực chỉ có một sô' ít giáo sĩ
làm đầy tớ tay sai của tư bản sang ta chỉ Icà đế do thám, lại có mấv
lái buôn giả danh giáo sĩ nữa nên đạo Catôlích bị mang tiếng xấu
oan. Không phải giáo sĩ nào cũng xâu. Phần đông chỉ biết phụng sự
Chúa, chịu khổ cực, chịu chết, đế truyền đạo.
Sự cấm đạo xâm phạm đến đức tin của người khíác vẫn là
không hay.
đUc độ v u a Tự
ĐỦC - Thiệu Trị truyền ngôi cho con thứ hai
Hồng Nhậm. Tháng 10 âl năm 1847, vua mới lên ngôi, lấy niên
hiệu là Tự Đức; năm đầu kể từ năm Mậu Thân (1848).
454
Tự Đức lên ngôi năm 19 tuổi, học hành thông thái, thờ mẹ
rất có hiếu, tính điềm đạm, chăm làm việc, ham đọc sách, giỏi văn
thơ Hán và Nôm. Những bản châu phê lòi văn rất hay, chữ tốt.
Nhưng kiến thức không vượt trên các nhà nho cổ hủ, chỉ biết theo
lễ nghi Khổng Mạnh, trị dân theo Đường, Ngu, Tam đại, lấy việc
làm của người xu’a hàng mấy ngàn năm trước làm khuôn vàng
thước ngọc cho muôn đòi, không biết đến thòi thế đã đổi khác, sinh
hoạt học thuật đã tiến bộ nhiều, tòng cổ không còn thích hỢp với
thời đại mối nữa. Lại thừa hưởng cơ nghiệp không mấy tốt đẹp của
các vua trước không thức thời, đã phạm sai lầm khiến nước yếu
dân hèn. Nếu Tự Đức sáng suốt, trông xa thấy rộng, cải tiến chính
trị thì cũng còn cần phải nhiều năm khó khăn, chưa chắc gì đã kịp
cứu thoát nước nhà suy vong. Huốhg chi lại đi theo nền nếp hỏng
455
cũ mà trong thòi đại cạnh tranh quyền lợi ráo riết, đầy mưu cơ
quỷ quyệt, trí thuật gian trá thì tránh sao khỏi tai hoạ.
Xưa có lòi truyển khẩu trong dân gian rằng Tự Đức không
phải là con ruột Triệu Trị. Bà Từ Dụ sinh con gái, đổi con cho người
em lấy con trai vê nuôi. Việc này có thế là do họn Đoàn Trưng,
Đoàn Tư Trực mưu đảo chính, lập hoàng tôn đạo, con Hồng Bảo,
bịa dặt ra, Các người trong tôn thâ't không tin thế. Xét nám Tự Đức
sinh 1828 thì cha Miên Tông chưa đưọc phong làm thái tử, mà
Minh Mệnh lại có đến 78 con trai. Xét việc â'y không có thực.
Xưa (thời nửa đầu thế kỷ XX) người ta thương thấv bức tranh
vẽ một người to béo, vạm vỡ, mặt mũi dữ tỢn, mặc áo đội mũ lỗ lăng
không ra chế phục gì, dưới đề chữ chân dung vua Tự Đức.
Sử gia Trần Trọng Kim, trong sách VNSL, bác bỏ nói chân
dung Tự Đức không thế. Theo lòi tổng đôc Thân Trọng Huề, người
từng thấy dung nhan vua này thì Ngài hình dung như một nho sĩ,
trạc người bậc trung, hơi gầy, hai con mắt tinh mà lành.
Thuở trước, chỉ trừ những quan đại thần và hoàng tộc, cùng
những người vào hầu cận, vua không cho ai trông thấy mặt mà
cũng không bao giò có hình ảnh gì cả.
Tự Đức không phải người to béo, vạm vỡ, mà cũng không tàn
ác bạo ngược như người ta thường lầm.
TRIỀU THẦN - Các quan triều giúp việc tuy có những người tô"t,
thanh liêm, mà ít người giỏi nhưng đều lạc hậu, không một ai hiểu
biết rõ thòi thế, hàn những việc cải cách chính trị, mưu đồ dân
giàu nước mạnh binh cường. Trong nước cũng có được mấy người
đã đi ra ngoài, trông thấy cảnh tượng thiên hạ, về nói lại thì cho
rằng nói bậy, làm huỷ hoại mất kỷ cương (!).
Nguyễn Trường Tộ làm điều trần kể hết tình thế nước nhà và
cảnh tượng các nước, xin vua mau mau cải cách mọi việc, không
thì mất nước. Đình thần duyệt nghị, đều lấy làm sự nói càn,
không ai chịu nghe.
Đinh Văn Điền dâng điều trần nói nên đặt doanh điền, khai
mỏ, làm tàu hoả, cho mọi người phương tây vào buôn bán, luyện
tập sĩ tốt, những điều ích quốc lợi dân cả mà đình thần cho là
không hỢp thời, rồi bỏ không dùng. Sứ giả đi các nơi về tâu mọi sự,
đình thần cũng bác bỏ. Nguyễn Hiệp đi sứ Xiêm La về bàn việc
cho các nước Âu Mỹ sang thông thương. Lê Dĩnh rồi Phan Liêm
456
xin mở mang viẹc buôn bán. Triều thần đều cho là việc không
thuận tiện, không ai muôn thay đổi thói cũ chút gì cả.
Tự Đức khuyên các quan xét việc, nên cẩn thận, suy nghĩ cho
chín, nhưng cũng nên làm thế nào cho tiến bộ, chứ không tiến thì
tức là thoái vậy.
Như thế, Tự Đức cũng không cầu tiến mà các quan triều lại
bàn chỉ cần lấy nhân nghĩa trị dân, theo đạo thánh hiền làm việc
nước. Cơ khí là sáng tạo của quỷ dữ. Các người Nhật Bản, Xiêm
La, theo đòi người ngoại dương, dùng đồ vật cơ xảo, tuy nhất thời
có khâ'm khá nhưng rồi ra cũng suy. Dùng đồ cơ xảo phải vận
dụng trí óc cơ xảo. Cơ trí sẽ sinh cơ tâm, không hay ho gì.
Tình thế đã nguy ngập mà còn cứ khư khư giữ lấy thói cổ, hễ
ai nói đến điều gì thì lại bác đi. Như thế thì làm thế nào mà chẳng
hỏng việc được.
Trong khi lũ tư bản thực dân, với vũ khí tân tiến chỉ nhăm
nhăm ăn cướp, mà nước ta thì quân đội yếu hèn, vũ khí cổ lỗ đơn
sơ, ban lãnh đạo quốc gia mờ tôi, vua như thế, quần thần như thế
thì đứng vững sao nổi.
Dưới thời Tự Đức, có việc người Pháp đánh chiếm đất nước
ta, lập nền đô hộ (sự việc chép ở sau).
Phạm lầm lỗi đế mất nền tự chủ nước nhà, không phải chỉ là
tội một mình vua Tự Đức mà là tội chung của các triều thần đời
bây giò, cũng còn là của vua tôi mấy triều trước đó nữa.
V IỆC CA I TRỊ - Quan chê thòi Tự Đức vẫn giữ như trước. Các hạt
hành chính trực thuộc triều đình là tỉnh. Đặt 5 tống đốc cai trị các
tỉnh Bắc Kỳ, gọi là ngũ tỉnh. Đàng Ngoài; Hà Ninh (Hà Nội, Ninh
Bình), Định An (Nam Định, Hưng Yên), Ninh Thái (Bắc Ninh, Thái
Nguyên), Hải An (Hái Dương, Quảng Yên), Sơn Hưng Tuyên (Sơn
Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang). Thêm tuần phủ Cao Lạng (Cao
Bằng, Lạng Sơn) nguyên tắc thống thuộc tổng đốc Ninh Thái.
Trung Kỳ có các tỉnh Thánh Hoá (trước là Thanh Hoa, kỵ
huý thái hậu Từ Dũ đổi là Thanh Hoá), Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên (Thuận Hoá), Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà, Bình Thuận.
Miền nam gọi là Nam Kỳ lục tỉnh, gồm các tỉnh; Gia Định,
Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
V IỆC BANG GIAO VỚI TRUNG QUỐC - Người nước ta xưa chỉ biết
Trung Quốc là văn minh, cường thịnh, coi khinh người Âu châu là
lũ bạch quỷ, người da đen là dạ xoa. Sang thế kỷ XIX, nhà Thanh
457
suy nhược rồi mà các vua triều Nguyễn mù quáng vẫn thuần
phục, ba năm một lần công hiến vàng bạc, td lụa, ngọc ngà, sừng
tê, quan quế. Trung Quốc thất bại nặng nề trong trận Nha Phiến
chiến tranh 1839 - 1842. Khi Tự Đức lên ngôi thì triều đình nhà
Thanh đang ở trong tình trạng khủng hoảng mà bên ta không
biết. Tự Đức sai sứ sang Thanh nạp công, xin phong. Từ trước, sứ
giả nhà Thanh không vào tận Huế. Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu
Trị phải thân hành ra Hà Nội làm lễ nhận phong. Năm 1849, do
sự khẩn khoản của triều đình ta, sứ giả nhà Thanh chịu vào đến
Huế tuyên phong cho Tự Đức. Triều đình cho đây là thắng lợi
ngoại giao (!).
V IỆC BANG GIAO VỚI CÁ C N ư ớ c  u, MỸ - Tự Đức nhất thiết
không cho người ngoại quôc vào buôn bán. Năm 1850, có tàu Mỹ
vào cửa Đà Nang, đem quốc thư sang xin thông thương. Nhà vua
không tiếp thư. Năm 1855 đến năm 1877, tàu Anh ra vào mấy lần
cửa Đà Nang, cửa Thi Nại (Quy Nhơn) và ỏ Quảng Yên, xin buôn
bán, cũng không được. Người Tây Ban Nha và người Pháp cũng có
xin thông thương đều không được.
Sau khi đất Gia Định đã mất, việc ngoại giao mỗi ngày
một khó khán. Tự Đức mới đặt ty Bình Chuẩn coi việc buôn
bán và viện Thương Bạc coi việc giao thiệp với người ngoại
dương. Tuy vậy, cũng không thấy ai hiểu việc buôn bán và biết
cách giao thiệp.
V IỆC CẤM ĐẠO - Năm 1848, Tự Đức nguyên niên, Tự Đức mới
lên ngôi cuổi năm trước, đã có dụ cấm đạo. Lần ấy, trong dụ nói
rằng: Những người ngoại quốc vào giảng đạo thì phải tội chết,
những đạo trưởng trong nước không chịu bỏ đạo, phải khắc chữ
vào mặt, rồi đày đi ở chỗ nước độc. Còn ngu dân thì các quan phải
ngăn cấm, đừng để cho đi theo tà đạo mà bỏ sự thò cúng cha ông
chứ đừng có giết hại.
Nám 1851, lại có dụ cấm đạo. Lần này cấm nghiệt hơn trước.
Có mấy giáo sĩ ngoại quôh phải giết.
Có những người Pháp và Tây Ban Nha làm giáo sĩ vào giảng
đạo bị giết. Bọn tư bản thực dân Pháp viện cớ này, đem quân đội
sang đánh chiếm nước ta.
VIỆC THUÊ MÁ - Thuế má vẫn thu như dưới thòi mấy đời vua
trước. Có thêm việc cho người khách Hầu Lợi Trịnh trưng thuế
bán thuốc phiện từ Quảng Bình ra đến Bắc Kỳ, mỗi năm thu được
302.200 quan tiền.
458
Lại định lệ cho quyên từ 1.000 quan trở lên thì được hàm cửu
phẩm, lên đến 10.000 quan thì đưọc ban lục phẩm, dùng lôl đòi
trước bán quan để lấy tiền.
V IỆC VĂ N HỌ C - Tự Đức hav chữ, trọng Nho học, chăm việc
khoa giáp, sửa sang việc thi cử, đặt ra Nhã Sĩ khoa và Cát Sĩ
khoa, chọn người có văn học ra làm quan. Lại đặt ra Tập Hiền
viện và Khai Kinh Diên cùng các quan bàn sách vở, làm thơ phú,
nói chuyện chính trị. Bản thân nhà vua cũng là thi sĩ, có 3 tập thơ
Ngự c h ế thi văn được in, lại làm sách chữ Nôm Thập điều, Tự học
diễn ca, Lu ận ngữ diễn ca đế dạy dân cho dễ hiểu.
Tự Đức sai các quan trong Quốc sử quán soạn bộ sử Việt sử
thông g iám cương mục, chép từ đời thượng cổ đến hết đòi Hậu Lê.
Bộ sách này, người ta quen gọi là K hăm định Việt sử.
V IỆC BINH CH Ê - Thòi Tự Đức lắm giặc giã, nhà vua cần đến
việc võ. Nám 1861, truyền cho các tỉnh chọn lấy những người khoẻ
mạnh làm lính võ sinh. Năm 1865, lại mở khoa thi võ tiến sĩ.
Tuy nước ta bấy giờ có lính võ sinh, có quan võ tiến sĩ nhưng
thời thế đã đổi khác. Người ta đánh bằng súng nạp hậu, bằng đạn
trái phá, chứ không còn bằng gươm giáo như trước nữa. Mà quân
lính ta mỗi đội 50 người, chỉ có 5 người cầm súng điểu thương cũ,
phải châm ngòi mới bắn được, mà lại ít đưỢc luyện tập, cả năm
mới có một lần tập bắn, mỗi người chỉ được bắn có 6 phát đạn.
Quân lính như thế, hĩnh khí như thế, mà quan lại cho lính về
phòng, mội đội chỉ để chừng 20 người tại ngũ. Vậy nên khi có sự,
không lấy gì mà chông giữ được.
G IẶ C G IÃ TRONG N ư ớ c - Tự Đức chăm lo việc trị an. Năm 1850
sai Nguyễn Tri Phương làm kinh lược đại sứ sáu tỉnh Nam Kỳ;
Phan Thanh Giản kinh lược Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà,
Bình Thuận; Nguyễn Đăng Giai kinh lược Hà Tĩnh, Nghệ An,
Thanh Hoá, khám xét công việc các quan lại và sự làm ăn của dân
gian, hay dở tâu về vua biết.
Tuy vậy, thòi Tự Đức có lắm giặc giã. ĐỐI với dân Bắc Kỳ, họ
Nguyễn không có công ơn như dân Nam Kỳ. (Các chúa Nguyễn
xưa khai thác đất đai mới chiếm, tạo nên nhiều đại điền chủ,
chúng trung thành với họ Nguyễn, giúp đỡ mỗi khi cần), lòng
người còn tưởng nhớ nhà Lê. Luôn luôn có những thiên tai; hạn
hán, nước lụt, hoàng trùng, đê Văn Giang, Hưng Yên vỡ 18 năm
liền. Mất mùa, dân đói nên làm loạn. Do có loạn, việc cày cấy sản
xuất lương thực càng kém sút. Lại có sự Trung Quốic, bọn Thái
459
Bình nổi lên bị nhà Thanh, có người Âu châu giúp đỡ, đánh thua,
dư đảng bỏ chạy sang nước ta cướp phá. Nào giặc khách, nào giặc
ta, quan quân phải đi đánh dẹp luôn.
G IẶ C TAM ĐƯỜNG - Năm 1851, có bọn giặc khách Quảng
Nghĩa Đường, Lục Thắng Đường, Đức Thắng Đường, tục gọi là
Tam Đường, quấy nhiễu vùng Thái Nguyên. Kinh lược Nguyễn
Đăng Giai khôn khéo dụ được chúng về hàng. Trong hạt được yên
một độ cuõì nàm 1854, Đăng Giai mất, đất Bắc Kỳ lại có loạn.
CUỘC N ổ l DẬY CỦA LÊ DUY c ự V À CAO BÁ QUÁT - Năm 1854 ở
tỉnh Sơn Tây, có người lập Lê Duy Cự, dòng dõi vua Lê làm minh
chủ, khởi sự chông đôi nhà Nguyễn. Cao Bá Quát, người làng Phú
Thuỵ, huyện Gia Lâm, có tài văn học, thi hương đỗ á nguyên, làm
hành tẩu bộ lễ chức quan nhỏ, tính ngang tàng, cậy văn tài coi
thường các quan triều, bị đổi ra làm giáo thụ phủ Quốc Oai. Bất
mãn, bỏ quan ra theo phò Lê Duy Cự, xưng là quốc sư. Bấy giò, ở
vùng Bắc Ninh, Sơn Tây, có nạn hoàng trùng (châu chấu) phá
hoại mùa màng nên quan triều gọi bọn Lê Duy Cự, Cao Bá Quát
nổi dậy là g iặc châu chấu. Có mấy tù trưởng dân miền núi ở Sơn
Tây, Hưng Hoá tham gia công cuộc phục Lê. Cao Bá Quát lập kế
hoạch đánh Hà Nội, rồi từ Hà Nội phát triển lực lượng sang các
tỉnh khác. Nhưng kế hoạch bị lộ, quân triều đình lùng bắt ráo riết
các thủ lĩnh. Công cuộc nổi dậy chỉ diễn ra ở vùng Mỹ Đức (Hà
Đông), rồi tiến ra ưng Hoà và Thanh Oai. Quân triều các tỉnh
chung quanh dồn dập tiến đánh. Qua mấy trận giao chiến, nghĩa
quân bị thất bại.
Sang đầu nàm 1855, Cao Bá Quát hoạt động ở vùng An Sơn
(Sơn Tây), quân triều lên vây đánh. Trong trận giao chiến ác liệt,
quân thua. Cao Bá Quát bị chém (ông bị chém tại trận, đầu bị cắt
đưa về bêu tại làng Phú Thuỵ nguyên quán. Không phải bị bắt
sống như có mấy tập sử, kể cả VNLS đã lầm).
Cao Bá Quát chết rồi, bè đảng Lê Duy Cự còn chông đối lai
rai cho mãi đến năm 1856. Đồ đảng thủ lĩnh Mường ở Hoà Bình
đến tháng 10 nám ấy bị bắt, nghĩa quân mới tan rã. Nhưng từ
đấy, không năm nào là không có giặc.
TẠ VĂ N PHỤNG - Tạ Văn Phụng theo đạo Gia Tô, từng theo
giáo sĩ ra ngoại quốc đi học đạo, làm lính mộ theo trung tướng
Charner khi quân Pháp đánh vào Quảng Nam Đà Nang. Năm
1861, Phụng ra bắc, mạo nhận là Lê Duy Minh, dòng dõi vua Lê,
tự xưng làm minh chủ, cùng với đạo trưởng (trùm họ đạo) Trương
460
mưu chủ, đạo đồ ước, Độ giấy binh ở Quảng Yên. Phụng đem
quân giặc khách ở ngoài biển vào đánh lấy phủ Hải Ninh, rồi lại
thông với giặc khách, giặc ta ở các tỉnh, làm loạn ở Bắc Kỳ. Năm
1862, Phụng đem quân làm chủ vùng Hải Ninh, kéo quân về bao
vây thành Hải Dương. Triều đình sai Trương Quốc Dụng làm tổng
thông quân vụ Hải An (Hải Dương, Quảng Yên), cùng vói Phan
Tam Tỉnh, Đặng Hanh, Lê Xuân đem quân Kinh và quân Thanh
Nghệ ra tiến tiễu, Đào Trí làm tham tán, Nguyễn Bá Nghị làm
Sơn Hưng Tuyên tổng đốic, cùng Trương Quốc Dụng đánh giặc.
Bấy giờ, Thái Nguyên có giặc Nông và giặc Khách đánh phá;
Tuyên Quang có bọn u ẩ n , Nông Hùng Thạc; Cao Bằng có giặc khách
Lý Hồng Thắng; Bắc Ninh có cai tổng Vàng, nơi nào cũng có loạn. Tự
Đức sai Nguyễn Tri Phương ra làm Tây Bắc tổng thốhg quân vụ
cùng với Phạm Đình Tuyển, Tôn Thất Tuệ. Năm 1863, lãnh binh Vũ
Tảo đánh lấy lại Tuyên Quang, bắt được u ẩ n . Nguyễn Tri Phương
dẹp xong Bắc Ninh, rồi tiến lấy lại Thái Nguyên, ó mặt đông Trương
Quốc Dụng và Đào Trì giải vây Hải Dương, nhưng thế của Phụng
còn mạnh ở mặt biển. Tự Đức sai Nguyễn Tri Phương hiệp đồng với
Trương Quốc Dụng ra đánh mặt ấy.
Phụng có sai người vào Nam cầu viện thiếu tướng Bonard,
ước hễ lấy được Bắc Kỳ thì để nước Pháp bảo hộ. Bonard không
nhận. Đảng phụng vẫn chiếm giữ đất Quảng Yên và các đảo ngoài
biển, cho binh thuyền đi cưốp phá các nơi. Quan quân đi đánh,
nhiều người bị hại.
Cuối năm 1863, phụng họp hơn 500 chiếc thuyền ở đảo Cát
Bà và núi Đồ Sơn, mưu sự đem quân vào đánh đất kinh kỳ Huế,
nhưng gặp bão, thuyền bị đắm mất nhiều. Đề đốc Lê Quang Tiến
và hộ phủ Bùi Huy Phan ra đánh, bị đánh tập hậu, quân sĩ bỏ
chạy, phải nhảy xuống biển tự tận.
Năm 1864, hiệp thống Trương Quốc Dụng, tán lý Văn Đức
Khuê, tán tương Trần Huy Sách, chưởng vệ Hồ Thiện đem quân ra
đánh Quảng Yên bị giết cả. Quân triều thua to, thiệt hại nặng nề.
Năm 1865, Phụng đem 300 chiếc thuyền, phân ra làm 3 đạo,
đánh vào mạn Hải Dương. Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Văn Vĩ
đón đánh, bắt được và chém được nhiều giặc. Đô đốc Mai Thiện,
tán lý Đặng Trần Chuyên, đổc binh ông ích Khiêm phá được hơn
10 trận. Phụng lui về giữ mặt Hải Ninh. Đặng Trần Chuyên, ông
ích Khiêm đánh ra Quảng Yên, ước với quan quân nhà Thanh ở
Khâm Châu, đánh lấy lại Hải Ninh. Quân Phụng thua to, đem 70
461
thuyền chạy ra biển. Quan quân đánh đuổi. Phụng và ước chạy
vào mạn Quảng Bình, Quảng Trị. Đồ đảng người bị bắt. ngưòi
chạy trôn. Quan triều lợi dụng tình hình, vây đánh ráo riết, bắt
được Phụng và ước, đem về kinh trị tội lăng trì.
Tạ Văn Phụng khởi binh từ cuôi năm 1861, đến CUỐI năm 1865
mới bị đánh thua. Suốt trong 4 năm, nhà nước tôn hại rất nhiều.
Mạn Quảng Yên dẹp xong thì mạn Cao Bằng có giặc khách
đánh lấy tỉnh thành. Kinh lược Võ Trọng Bình, tuần phủ Phạm
Chi Hương đem binh lên lạng Sơn, chia quân đi đánh các nơi, từ
tháng 9 âl năm 1865 đến tháng 3 âl năm sau, tướng giặc Trương
Cận Bang mới xin về hàng.
NGUYỄN VĂ N TH ỊN H TỨC C A I VÀN G - Trong khi Tạ Văn Phụng
tung hoành tại vùng biển thì tháng 4 âl năm 1862, ở Bắc Ninh có
cai tổng Nguyễn Văn Thịnh, tục hiệu Cai Vàng, xưng làm nguyên
suý, lập người xưng là con cháu vua nhà Lê (Uẩn hay Mẫn) làm
minh chủ, chiêu tập dân nghèo đói, nổi dậy nhập đảng với Phụng,
đánh chiếm phủ Lạng Giang và huyện Yên Dũng, rồi tiếp tục vây
đánh thành Bắc Ninh.
Bô" chính Hà Nội Nguyễn Khắc Thuật, bô" chính Sơn Tây Lê
Dụ và lãnh binh Hưng Yên (Hưng Hoá?) Vũ Tảo, ba đạo quân
cùng kéo lên giải vây Bắc Ninh. Vũ Tảo đánh nhau với quân Cai
Vàng hơn 10 trận, phá được. Cuô"i năm 1862, Cai Vàng lại đem
quân về đánh Bắc Ninh lần nữa. Quan quân đã lấy làm lo, dùng
đại binh đi đánh. Tổng đốc quân vụ Tôn Thất Hân (hay Tuệ) chỉ
huy các đạo quân đến đánh tan. Vũ Tảo chém được Cai Vàng. Sau
người vỢ ba Cai Vàng đánh úp bắt được lãnh Tảo, đem tẩm dầu
vào quần áo mà đốt, làm lễ tê" chồng, rồi giải tán quân.
VỤ CHỐ NG ĐỐI ở KIN H TH ÀN H - Nguyên Tự Đức là con thứ
được nô"i ngôi, người anh là Hồng Bảo vì phóng đãng, không chịu
học hành, nên không được lập. Hồng Bảo lấy điều đó bất bình, vẫn
âm mưu tranh giành ngôi. Năm 1854, cùng mấy người trong
hoàng tộc, tư thông với người ngoại quốc, tổ chức đảo chính. Sự
việc bị tiết lộ, Hồng Bảo phải bắt bỏ ngục. Sử chép uô"ng thuốc độc
chết trong tù. Con là ưng Đạo phải đổi mang họ mẹ là Đinh, gọi là
Đinh Đạo.
Năm 1866, ở kinh thành Huê", có một sô" người bất mãn với
vua Tự Đức, nhân thấy nhà vua bấy giò dâng xây Vạn Niên Cơ tức
Khiêm Lăng, quân lính và dân phu phải làm lụng khó nhọc quá
độ, đem lòng oán hận, mưu sự đảo chính đưa Đinh Đạo, hoàng tôn
462
thuộc dòng đích, lên ngôi. Đứng đầu là Đoàn Trưng, một người học
trò giỏi, được đức ông Tùng Thiện vương mến tài, gả con gái cho.
Đoàn Trưng cùng các em là Đoàn Hữu Ái, Đoàn Tư Trực và bọn
Trương Trọng Hoà, Phạm Lương kết làm Sơn Đông thi tửu hội
mưu đại sự, chiêu dụ quân lính và dân phu xây lăng tẩm ở công
trường Dương Xuân và cùng với quan hữu quân Tôn Thất Cúc và
mây người cầm quyền chỉ huy làm nội ứng.
Đêm 8 - 8 âl năm 1866, đảng Đoàn Trưng đem quân vào cửa tả
dịch, chực xông vào giết Tự Đức. Có chưởng vệ Hồ Oai đóng được cửa
điện lại, hô quân bắt được Trưng, Trực và đồng đảng. Do đoàn quân
này phần lớn không có súng ống, gươm giáo, mà chỉ mang có cái chày
giã vôi là khí giới, nên người ta gọi là giặc chày vôi.
Đinh Đạo phải xử giảo. Tôn Thất Cúc tự vẫn chết. Các quan
có trách nhiệm phải chiếu tội nặng nhẹ, phải đánh, phải giáng.
Đồng thòi, ở vùng Quảng Ngãi hay có những người Đá Vách
xuông cướp phá, quấy nhiễu dân gian. Tuần phủ Nguyễn Tấn ra
sức đánh dẹp mãi mới yên.
G IẶ C K H Á CH ở BẮC k ỳ - Thê kỷ XIX, bên Trung Quôc nhà mãn
Thanh cũng lạc hậu, suy yếu, bị các cường'quốc Anh, Pháp đánh
thua. Dân chúng người Hán nổi dậy, mưu phục quốc, tiêu diệt lũ
man di. Năm 1849, ở Quảng Tây có Hồng Tú Toàn cùng với Dương
Tú Thanh, Tiêu Triều Quý, Lý Tú Thành nổi lên xưng là Thái
Bình Thiên Quốc, chiếm giữ đất Kim Lăng và các tỉnh phía nam
Trường Giang. Họ bản chất là những nông dân bị áp chế chôKg đốì
lại chính quyền Mãn Thanh. Bọn Tăng Quốc Phiên, Tả Tôn
Đường, Lý Hồng Chương hết sức đánh dẹp, lại nhờ thế ngoại quốc
tư giúp, mãi đến nám 1863 mới bắt được các tướng Thái Bình.
Hồng Tú Toàn uôKg thuốc độc tự tử. Nhà Thanh thu phục các tỉnh
miền nam. Dư đảng Thái Bình là bọn Ngô Côn chạy sang nước ta,
trước nói xin hàng, sau biến chất, chỉ còn là lũ giặc hung dữ đi
cướp phá các tỉnh. Quan quân ta phải đánh mãi.
Năm 1868, Ngô Côn chiếm giữ tỉnh thành Cao Bằng. Tổng
đốc Phạm Chi Hương viết thư xin quan nhà Thanh sang cùng tiễu
trừ. Phó tướng Thanh Tạ Kế Quý cùng với tiễu phủ ông ích
Khiêm, đê đốc Nguyễn Viết Thành đánh phá quân giặc ở Thất
Khê. Quan quân ta thua ở Lạng Sơn. Nguyễn Viết Thành cùng
tham tán Nguyễn Lệ tử trận. Phạm Chi Hương bị giặc bắt. Triều
đình cử Hà Ninh tổng đốc Vũ Trọng Bình kiêm Tuyên Thái Lạng
quân thứ khâm sai hội vồi đề đốc Quảng Tây Phùng Tử Tài đánh
463
Ngô Côn. Quân hai nước cùng đánh dẹp, tháng 5 âl năm 1869 mới
khôi phục được Cao Bằng. Cuôl năm 1870, Ngô Côn đem quân vây
đánh Bắc Ninh. Tiễu phủ ông ích Khiêm bắn chết Ngô Côn, phá
tan quân giặc.
Ngô Côn tuy chết, đồng đảng là Hoàng Sùng Anh, hiệu Cờ
Vàng; Lưu Vĩnh Phúc hiệu Cò Đen; Bàn Văn Nhị, Lương Văn Lợi
hiệu Cò Trắng, vẫn quẫy nhiễu mạn Tuyên Quang, Thái Nguyên.
Quan quân chống giữ vất vả. Triều đình lại cử trung quân Đoàn
Thọ làm tổng thốhg quân vụ. Đoàn Thọ kéo quân ra đóng ở Lạng
Sơn. Giặc khách Tô Tứ nửa đêm vào lấy thành bắt giết ông. Còn
Vũ Trọng Bình vượt thành chạy thoát được. Triều đình lại cử
Hoàng Kế Viêm (có sách chép Hoàng Tá Viêm) làm Lạng Bình
Ninh Thái tổng đốc quân vụ, cùng với tán tương Tôn Thất Thuyết
làm khâm sai thị sự cùng lo việc đánh dẹp.
Tháng 11 âl năm 1871, ở Quảng Yên lại có Hoàng Tề nổi lên,
thông với Tô Tứ và giặc Tàu 0 ngoài biển đem binh thuyền đi
cướp phá các nơi. Hoàng Kế Viêm giữ mạn Sơn Tây, Lê Tưấn cùng
tỉnh thần Hải Dương đi đánh Hoàng Tề. Được ít lâu, quân thứ Hải
Dương bắn chết Tề ở huyện Thanh Lâm. Dư đảng giặc đều tan cả.
Đảng Cờ Đerí và Cờ Vàng quấy nhiễu Tuyên Quang. Bao
nhiêu thuế má mạn ấy, chúng thu cả. Sau hai đảng ấy thù kích
đánh lẫn nhau tàn hại. Lưu Vĩnh Phúc sau về hàng với quan bên
ta, được giữ đất Lão Nhai (Lào Cai) thu cả quyền lợi chỗ â"y, để
chông giữ với đảng Cờ Vàng đóng ở mạn Hà Giang.
Đất Bắc Kỳ giặc giã mãi, quan quân đánh dẹp tổn hại mà
không yên được. Tháng 7 âl năm 1872, triều đình lại sai Nguyễn
Tri Phương làm Tuyên sát đông sức xem xét việc đánh dẹp ở Bắc
Kỳ. Bấy giờ lại có sự quân Pháp sinh sự lắm nỗi khó khăn, việc
nước càng rối ren thêm nhiều.
Trong khi quân Pháp ra đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất thì đảng
Cờ Vàng vẫn nhũng nhiễu mạn Tuyên Quang. Quan quân đánh
mãi không được. Tháng 8 âl năm 1875, Hoàng Sùng Anh đem
quân về đóng ỏ làng Châu Thượng, phủ Vĩnh Tường. Tân tương
quân vụ Sơn Tây Tôn Thất Thuyết về đánh, bắt đưỢc Hoàng Sùng
Anh và giết quân Cờ Vàng rất nhiều. Giặc tan.
Năm 1878, ở Lạng Sơn lại có giặc khách Lý Dương Tài nổi
lên. Tài trước làm hiệp trấn Tầm Châu Quảng Tây, bị cách quan,
nổi lên làm giặc, tràn sang đánh chiếm tỉnh Lạng Sơn. Quan ta
báo quan nhà Thanh. Đề đốic Quảng Tây Phùng Tử Tài đem quân
464
20 doanh sang cùng với quan quân ta hội tiễu. Tháng 9 âl năm
1879, quan quân ta bắt được Lý Dương Tài ở núi Nghiêm Hậu
thuộc Thái Nguyên, đem giải sang Trung Quốc. Giặc tan.
C Á C H À N H V I KH ÁC CỦA Tự ĐỨC - Tự Đức thông minh, học vấn
sâu rộng, có tài làm thơ, văn Hán và Nôm, ham đọc sách đến
khuya mà sáng vẫn dậy sớm, thường cùng các quan triều nói
chuyện về văn học. Tính không ưa trang sức, cũng không cho nội
cung đeo nữ trang. Hiền lành, không ưa quở mắng đánh đập người
hầu cận khi chúng nhỡ vô ý. Không lấy nhiều phi, tần (xưa lên
đậu hư hỏng cơ quan sinh dục), thị nữ hầu hạ cũng ít. Thò mẹ (bà
Từ Dụ) rất có hiếu, lệ thường cứ ngày lẻ chầu cung, ngày chẵn lâm
triều trong suốt 36 năm. (Từ Dụ thông hiểu sử sách và việc đòi,
mỗi khi ban lòi hay thì ghi chép lại trong Từ huấn lục). Rất chăm
lo đến công việc. Hàng ngày xem xét các bản sớ tâu, lưu ý đến mọi
việc lớn nhỏ, châu phê chữ rất tốt và văn cũng hay. Nhưng Tự Đức
cũng phạm nhiều điều dở như cũng xây dựng nhiều cung điện, đền
đài. Yến tiệc, diễn tuồng quanh năm suốt tháng. Bốh mươi năm
tuổi thì đâu phải đã thọ mà làm lễ lớn tứ, ngũ tuần đại khánh.
Cũng hay đi săn bắn, du ngoạn, quân dân phải phục dịch nhiều,
không kể hao phí tiền lụa thưởng cho quan, lính đi hầu. Tệ hai
nhất là xây dựng lăng tẩm Vạn Niên Cơ, gọi là Khiêm Lăng, một
công trình vĩ đại, huy động hàng mấy vạn lính và dân phu làm
việc ngày đêm, năm này sang nám khác, trong khi Nam Kỳ đã bị
người Pháp chiếm, Bắc Kỳ mất mùa luôn lại bị giặc ta, giặc khách
đánh phá. “Vạn Niên là vạn niên nào, thành xây xương lính, hào
đào máu dân”. Thân Văn Nhiếp tâu xin bãi bỏ việc xây dựng cung
điện và giảm bớt du ngoạn, bị trách là chỉ bàn sáo. Xin thu hẹp
quy mô Vạn Niên Cơ và bớt mua xa xỉ phẩm của nước ngoài, lời lẽ
rất thôKg thiết thì lại nói; Nếu câu thúc quá chặt thì thân bệnh
này không chịu nổi, không làm nổi việc nữa.
LUẬN VỀ VU A Tự ĐỨC - Tự Đức khuất ngày 16 - 6 năm Quý Vỵ
(19-7-1883), làm vua 36 năm, thọ 55 tuổi, miếu hiệu là Dực Tông
Anh hoàng đế.
Tự Đức làm vua trong lúc nước nhà gặp nhiều khó khăn,
không sáng suốt thức thòi, làm việc theo y đường lôl của các triều
trước cấm đạo và bế quan toả cảng, tưởng như thế thì nước mình
được yên, không ngờ lũ hùm heo thực dân tư bản cướp quyền tự
chủ, đặt nền đô hộ. Tuy lỗi không phải chỉ riêng ông mà là của cả
các quan triều, kể cả vua tồi triều đại trước. Mấy nết tốt của ông,
465
trừ sự chăm làm việc, không phải là những nết cần thiết phải có
của người lãnh đạo quốc gia. Xa xỉ, hoang chơi, không hay gì
nhưng nhiều vua khác cũng phạm. Đến việc xây lăng tẩm đồ sộ,
hao tổn quá nhiều nhân lực, tài lực thì ngay thòi thịnh vưỢng
cũng không nên, huông chi là khi vận nước đã lâm nguy. Vua hiền
đâu có thế.
Sách VNSL của Trần Trọng Kim xuất bản thời Pháp thuộc
nên không nói hết sự thực.
Những điều trên đây chỉ là theo lòi của người Pháp muôn che
đậy dã tâm bỉ ổi của lũ ăn cướp thuộc địa, chứ thực sự thì chẳng có
sự cấm giết đạo thì tư bản thực dân Pháp cũng kiếm cớ khác đánh
chiếm đất nước ta, để;
- Mỏ mang thị trường bán đắt sản phẩm.
- Tìm nguyên liệu mua rẻ.
- Nô lệ hoá dân ta, bắt sưu cao thuế nặng.
- Lập căn cứ quân sự để tiện việc giao thiệp buôn bán với
Trung Quô'c và các nưốc Đông Nam Á châu.
- Chiếm đoạt đất làm đồn điền.
- Khai thác các hầm mỏ dùng nhân công rẻ mạt, tuyển mộ
người bản xứ sung vào quân đội...
Chứ đâu có phải để;
- Bảo vệ các người bản xứ theo đạo.
- Báo thù cho các giáo sĩ bị giết.
- Rửa nhục cho người Pháp vì triều đình nưốc ta nhiều lần
không chịu tiếp sứ giả và nhận quốc thư của chính phủ Pháp.
i
Nội). Hội đồng này xác định luôn đường lối cai trị là duy trì triều
đại nhà Nguyễn, rồi biến họ thành ra tay sai, đặt Việt Nam dưới
sự bảo hộ của Pháp.
Tháng 7 năm 1857, Napoléon III chuyển giao bộ Hải quân
thực hiện kế hoạch xâm lược, lại kêu gọi Tây Ban Nha phối hđp.
Theo lệnh nữ hoàng, quân đội Tây Ban Nha đang đóng ở Ma Ní
(Phi Luật Tân) cử một bộ phận tham gia xâm lược. Ngày 27 - 6 -
1858, chỉ huy hạm đội Viễn Đông Rigault de Genouilly được lệnh
của bộ trưởng Hải quân tìm cách kéo quân vào đánh chiếm Đà
Nang. Quân đội Tây Ban Nha cùng tham chiến.
Người Pháp chọn Đà Nang (cửa Hàn) nổ súng xâm lược theo
kê hoạch đánh mau thắng chóng. Đà Nang là vị trí quan trọng về
quân sự và về thương mại, có hậu phương trù phú Nam Ngãi, cách
kinh thành Huế 100 km qua đèo Hải Vân. Tàu lớn không vào được
cửa Thuận của Huế, chỉ có thể vào Đà Nang. Chúng tưỏng chiếm
lấy vị trí này, rồi tiến vào nội địa Quảng Nam, hành binh cấp tốc
qua đèo Hải Vân, tiến đánh mạnh vào Huế buộc triều đình phải
thừa nhận nước Pháp bảo hộ, giải quyết mau chóng việc xâm lược.
Sau khi tham chiến ở Trung Quốc buộc nhà Thanh ký hoà
ước Thiên Tân, trung tướng hải quân chỉ huy hạm đội Pháp tại
Viễn Đông mở cuộc xâm lược nước ta. Trung tướng phôi hỢp với
đại tá Tây Ban Nha Palanca kéo theo quân vào Đà Nang ngày 31 -
8 - 1858. Lực lượng của giặc gồm 14 chiến thuyền chở 3.000 binh
sĩ hai nước. Liên quân Pháp và Tây Ban Nha dàn trận ở trước cửa
biển ngay chiều tôl. Tổng đốc Nam Ngãi Trần Hoàng án binh bất
động. Hôm sau 1 - 9, từ mò sáng, chiến thư cho Trần Hoàng vừa
được gửi thì đại bác giặc từ các tàu chiến đã bắn tới tấp, mở màn
cho cuộc xâm lăng. Bị tấn công, quân ta mới bắn trả lại. Với súng
ống thô sơ, bên ta địch sao nổi với khí giới tân tiến của giặc. Bộ
phận thứ nhất của chúng tập trung hoả lực bắn vào các đồn Sơn
Trà. Bộ phận thứ hai tiến vào gần cửa sông Hàn, bắn xối xả vào
đồn Đông và đồn Tây án ngữ cửa sông. Đồn Đông bị vỡ và ngày
hôm sau 2 - 9 đồn Tây cũng vỡ. Lính thuỷ đánh bộ giặc đổ bộ lên
đất liền, chiếm đồn An Hải, đồn Điền Hải và bán đảo Sơn Trà.
Quân triều đình lui ra phía nam cửa sông lập phòng tuyến
Liên Trì trước huyện lỵ Hoà Vang. Nhân dân bỏ đi mang theo
lương thực và thi hành kế thanh dã, đốt bỏ hết mọi thứ ăn được
mà không thể mang đi theo. Triều đình cử tướng Đào Trí vào giúp
Trần Hoàng tiễu ngự. Đào Trí đến nơi thì hai hải thành đã mất.
473
Triều đình lại cử hữu quân Lê Đình Lý đem 2.000 cấm binh vào
án ngự. Lê Đình Lý đánh nhau với quân Pháp ở c ẩ m Lệ, bị trúng
đạn, chết. Tự Đức cách chức Trần Hoàng, cử kinh lược Nguyễn Tri
Phương vào tổng thông quân vụ, Chu Phúc Minh làm đề đốc cùng
với Đào Trí chông giữ.
Nguyễn Tri Phương một mặt ra lệnh cho nhân dân triệt để
bất hỢp tác với giặc, một mặt đắp luỹ đất dài từ hải khẩu ngoài mé
biển vào tới Phúc Ninh, chia quân phòng giữ Phước Luỹ, đào hô"
chữ phẩm cắm chông nhọn dưới hô", phủ cỏ rác lên trên.
Giặc bị cô lập, chiếm được đất mà không chiếm được dân, mọi
người bỏ đi, trừ vài nhà đánh cá nghèo khô"n. Chúng tấn công vào
luỹ từ ba mặt, bị phục kích phải dừng lại, bị rơi xuông hô", bị bắt bị
giết khá nhiều. Một vài lần, giặc cô" sức tiến sâu vào nội địa, đều
không kết quả. Quan quân ta phòng giữ cũng rát.
Đến tháng 1 năm 1859, giặc chiếm giữ được bán đảo Sơn Trà
và đồn Đông, án ngữ phía nam sông Hàn. Lòng sông cạn, tàu
chiến không vào được, mà giặc không dám rời xa tầm đại bác của
chúng. Kế đổ bộ lên đất liền để cô" sức tiến sâu vào nội địa không
thi hành được. Mà kê" hoạch triệt để phòng ngự của Nguyễn Tri
Phương giữ được quân giặc tiến nhưng không tiêu diệt được
chúng. Luôn ba bôn tháng dừng chân tại chỗ, tuy không bị đánh
thua nhưng tiến không nổi, giặc gặp khó khăn, chỗ ăn chỗ ở không
có, lại phải bệnh dịch tả chết hại nhiều. Khi trước các giáo sĩ đều
nói rằng hễ quân Pháp sang đánh thì giáo dân tức khắc nổi lên
đánh giúp, đến nay không thấy tin tức gì. De Genouilly lấy làm
phiền, trách giám mục Pellerin đánh lừa mình. Pellerin ở dưới tàu
Ménésis trở về nhà tu dạy đạo thành Pénang bên Mã Lai. Trung
tướng liệu thê" không thể nào vượt nổi đèo Hải Vân được phòng
thủ vững chắc để tiến lên đánh kinh thành Huê được. Mưu đồ
đánh mau đánh mạnh thất bại. Trung tướng thay đổi chương
trình, đánh voà vị trí khác là Gia Định, nơi đây trô"ng trải, lại là
miền trù phú nhất nước ta. Ngày 2 - 2 - 1859, đại quân của giặc lũ
lượt kéo nhau vào Gia Định, chỉ để lại ở Đà Nằng một ít tàu bè và
quân lính, do đại tá Toyon chỉ huy.
B ả n đ ồ N a m K ỳ thời q u â n P h á p đ á n h ch iếm
Sau khi thám thính, Charner chia làm hai cánh quân thuỷ
bộ phối hỢp tấn công Định Tường gồm Mỹ Tho, Tân An và Gò
Công ngày nay, tỉnh lỵ ở Mỹ Tho. Ngày 1 - 4 - 1861, chúng bắt đầu
tấn công hệ thông phòng ngự trên sông. Ngày 12 - 4, cả hai đội
thuộc cánh quân bộ giặc tiến sát thành Mỹ Tho, chuẩn bị đánh
thành. Cùng ngày, cánh quân thuỷ do Le Page chỉ huy đã theo
cửa Tiền Giang vào đậu trước thành này. Hộ đốc Nguyễn Công
Nhuận bỏ chạy. Tuần phủ Nguyễn Hữu Thành thiêu huỷ kho
tàng, dinh thự, cùng với đề đốc Đặng Đức rút về Cái Bè. Mấy
481
tướng khác dẫn quân chạy về Vĩnh Long. Thành Mỹ Tho ngỏ. Giặc
chiếm gọn hồi 2 giò chiều ngày 12 - 4 - 1861. Trận này bên giặc có
trung tá Bourdais bỏ mạng khi vừa đánh vào hệ thống phòng ngự.
Hạ xong thành Mỹ Tho, Charner đặt đồn luỹ ở các nơi hiểm
yếu. Do có việc dân chúng khắp nơi nổ dậy chông đôi, giặc có ý
hoãn việc binh, không đánh sang các tỉnh khác, để sửa sang việc
cai trị trong địa hạt đã chiếm được.
Triều đình nghe tin Đại Đồn Kỳ Hoà thất thủ, thành Mỹ Tho
cũng mất, sai thượng thư bộ hộ Nguyễn Bá Nghi làm khâm sai
vào kinh lý việc Nam Kỳ. Bá Nghi biết thế không chống lại nổi với
quân Pháp, dâng sớ xin giảng hoà. Trong triều có bọn Trương Đăng
Quế đòi tìm kế chốhg giữ. Bá Nghi muốh giảng hoà nhưng không
chịu nhường đất, lấy lý cãi mãi, không biết rằng thời buổi cạnh
tranh, hễ sức mà không đủ thì không có lý gì phải cả. Bon tư bản
thực dân sang đánh chiếm đất nước ta làm thuộc địa, đâu có chịu trả
lại đất đã lấy đưỢc. Việc giảng hoà lôi thôi mãi không xong.
Giặc chiếm được đất nhưng không chiếm được lòng dân.
Quần chúng hai tỉnh Gia Định, Định Tưồng chống đôi. Các hạt,
các xã nổi dậy tổ chức kháng chiến. Giặc chỉ đóng quân ba đồn:
Gia Thạnh, Chợ Gạo và Gò Công trong cả tỉnh Định Tường rộng
lớn. Charner được tiếp viện thêm một tiểu đoàn và tổ chức được 4
trung đội Mã Tà, lính mộ trong dám cặn bã dân ta nhưng vẫn
không đủ để chiếm đóng các huyện lỵ, phải dùng bọn quan cai trị
theo kiểu quân sự. Các toán quân ứng nghĩa chốhg giặc xuất
hiện và phát triển. Tri huyện Đỗ Đình Toại, với 600 quân, ngày
22 - 6, tấn công Gò Công. Phó quản cơ Trương Định ở mấy tổng
phía nam Gò Công có sô" quân ứng nghĩa đông đúc 6.000 ngưồi.
Vùng Rạch Chanh (Mỹ Tho) có phủ Cận. Vùng tây bắc định
Tường là địa bàn hoạt động của thiên hộ Dương. Người chỉ huy
liên đội điền ở Kỳ Hoà và bắn chết Bourdais là Quản Tu vẫn
chông giặc ở hữu ngạn sông Vàm cỏ Tây. Các toán quân ứng
nghĩa gồm chủ yếu là; 1 - quân đồn điền cùng vối người chỉ huy
của họ, 2 - quân triều tan rã ngũ hoặc thất tán, 3 - trai tráng
trong vùng. Bên cạnh các đoàn quân ứng nghĩa là các toán dân
dũng vô danh. Quân nghĩa dũng luôn luôn đánh phá giặc. Chúng
phải nhò tăng viện và xây dựng được lực lượng nguy binh mới
khỏi công đánh chiếm thêm nữa.
Charner thấy mình bất lực, xin từ chức. Chính phủ Pháp cử
thiếu tướng hải quân Bonard sang thay từ 30 - 11 - 1861.
482
Bonard tiếp tục thực hiện mưu đồ xâm lược lâu dài nhằm
mang lại cho nưóc Pháp một thuộc địa tốt đẹp. Giặc vẫn tô chức
lính nguỵ mã tà lên tới hàng tiểu đoàn, tổ chức kỵ binh mã tà,
thay thế võ quan cai trị người Pháp bằng bọn quan phủ, huyện
người Việt đặt dưới quyền kiểm soát của thanh tra người Pháp,
rút bớt căn cứ chiếm đóng như Gò Công, Chợ Gạo, để tập trung
binh lực càn quét từng vùng một. Nhiều căn cứ khi quân Pháp lui
bị nhân dân vũ trang chiếm lại. Quân khởi nghĩa càng hoạt động
mạnh, uyn hiếp các vị trí Tây Ninh, Tràng Bảng, Thủ Dầu Một.
Ngày 10 - 12 - 1861, đoàn quân Nguyễn Trung Trực đại thắng
trận sông Nhật Tảo, đốt cháy tàu Espérance, nhiều giặc bỏ mạng.
Nhiều nơi giặc phải lấy tàu chiến làm lỵ sỏ, vì trên bộ không còn
an toàn.
MẤT CÁC TỈNH BIÊN HOÀ VÀ VĨNH LONG - Sau một tháng chuẩn
bị, Bonard một cuộc tấn công. Ngày 9 - 12 - 1861, cho quân đi
chiếm đảo Côn Lôn, rồi tập trung binh lực ở Sài Gòn đi đánh Biên
Hoà. Tỉnh này gồm cả Thủ Dầu Một và Bà Rịa ngày nay. Từ Sài
Gòn lên tỉnh lỵ Biên Hoà có cả đường thuỷ bộ. Trên đường bộ có 2
căn cứ án ngự là Mỹ Hoà và Gò Trao Trảo. Đường thuỷ có 8 cản và
1 kè đá ngăn giữ. Ngày 14 - 12 - 1861, quân giặc tiến đánh bằng
cả hai đường thuỷ bộ. Ngay sáng’hôm ấy, đại tá Compteur chiếm
đồn Gò Trao Trảo. Hôm sau, y cùng Diego tiến lên Mỹ Hoà. Quan
quân triều bỏ chạy. Cánh quân thuỷ do trung tá Harel chỉ huy
tiến theo sông Đồng Nai phá cản vài pháo đài trên triền sông.
Đồng thời một cánh thuỷ quân khác do đại tá Lebrit chỉ huy cũng
đánh vào sau các pháo đài. Quân giữ pháo đài bỏ trốh. Ngày 16 -
12, thuỷ bộ quân giặc kéo đến trước tỉnh thành. Tuần phủ Nguyễn
Đức Hoan bỏ ngỏ Biên Hoà với 15 tàu chiến. Khâm sai Nguyễn Bá
Nghi mang quân chạy ra Bình Thuận. Giặc chiếm thành rồi xuôi
dòng Đồng Nai chiếm luôn Bà Rịa (7 - 2 - 1862).
Được đà, giặc thừa th ế lan rộng ra miền tây Lục Tỉnh,
tiến đánh Vĩnh Long mà trước đây thuyền máy của chúng đi
vào các nhánh sông Mê Công do thám không bị cản trở gì.
Ngày 20 - 3 - 1862, 11 chiến thuyền giặc tiến sát thành Vĩnh
Long. Ngày 22, các đồn ngự bị vỡ. Tôl 23, tỉnh trưởng Trương
Văn Uyển cho đôT các kho tàng, dinh thự, rút quân chạy về Thị
Bảo, rồi lên Duy Minh. Sáng 24, giặc vào chiếm thành đã bỏ
ngỏ. Lấy đưỢc Vĩnh Long rồi chúng chia quân đi các ngả càn
quét bao vây các đạo nghĩa quân.
483
Đến cuôl tháng 3 - 1862, quân Pháp chiếm được 4 tỉnh: Gia
Định, Định Tường, Biên Hoà, Vĩnh Long, nhưng chưa tổ chức cai
trị được các tĩnh này. Phong trào chống giặc của nhân dân lên cao.
Phía bắc sông Vàm c ỏ có 4 trung tâm kháng chiến: c ầ n
Giuộc, Thủ Dầu Một, Tràng Bảng và Tây Ninh. Quản Là với “dân
ấp dân lân” c ầ n Giuộc bất chấp tàu to, súng lớn, đạn chì. Giặc
không ra khỏi được Chợ Lớn và từ Chợ Lớn xuông Gò Công, chúng
dùng đường thuỷ với tàu chiến hay thuyền máy có yểm hộ.
Vùng Tân An, Tháp Mười, giặc bị nghĩa quân Nguyễn Duy
Phương uy hiếp. Trung tâm kháng chiến Tháp Mười gần như bất
khả xâm phạm. Chúng chỉ chiếm được đến Gia Thạnh.
Đáng chú ý nhất là chiến thuật đánh phá pháo thuyền,
phương tiện chiến tranh xâm lược lợi hại của giặc. Sau trận đánh
chìm tàu Espérance thì tháng 3 - 1862, pháo thuyền sô" 25 lại bị
phá huỷ khi ròi bến Mỹ Tho, tàu nổ, 52 tên giặc bị chết và bị
thương. Pháo thuyền số 3 ở Tây Ninh bị nghĩa quân vây đánh, chỉ
huy giặc bị thương. Một tàu giặc ở Bến Lức bị nghĩa quân Nguyễn
Trung Trực đánh phá. Nguyễn Trung Trực là anh hùng áo vải có
mưu trí đương đầu với chiến thuyền giặc.
Trong tỉnh Biên Hoà, giặc chỉ đóng quân ở 4 nơi: Biên Hoà,
Bà Rịa, Vũng Tàu, Thủ Dầu Một. Các đồn trên đường tây nam
Chợ Lớn cũng bị nghĩa quân thường xuyên đánh úp hoặc phục
kích. Tân An, Gò Công do nghĩa quân làm chủ với nhiều vị trí
chiến đấu. Đó là trung tâm kháng chiến mạnh nhất do Trương
Định chỉ huy. Các đồn giặc trong tỉnh Định Tường và Gia Định bị
bao vây ngặt. Đường bộ không đi được, đường thuỷ cũng bị nghẽn,
trừ sông lớn. Giặc phải rút bỏ các đồn Gò Công, Chợ Gạo, Gia Thạnh,
Tân An, Cái Bè, cần Giuộc. Ngay tại Sài Gòn, Chợ Lớn, giặc cũng
thường bị nghĩa quân vô danh đánh phá. Ngày 15-4-1862, nghĩa
quân đốt cơ sở địch ở Chợ Lớn và tấn công địch ở Xóm Cuối.
Chính giặc đã thú nhận rằng nhân dân ta chiến đấu với vũ
khí thô sơ địch lại súng carabine, chứng tỏ họ can đảm và quyết
tâm phi thường.
Đê “chinh phục lại những vùng đã chinh phục”, bộ chỉ huy
giặc điện cho phó đô đốc daurès đến với một đoàn quân Algérie và
một tiểu đoàn bộ binh.
HOÀ ƯỚC NHÂM TUẤT 1862 - Năm 1862, tình hình nước ta rô'i
loạn. Trong nam thì quân Pháp chiếm 4 trong 6 tỉnh, ngoài bắc thì
có Tạ Văn Phụng đánh phá Quảng Yên và Hải Dương rất ngặt, lại
484
có Nguyễn Văn Thịnh tức Cai Vàng quấy nhiễu ở Bắc Ninh. Dân
chúng mâ't mùa đói khổ, triều đình rất lo sỢ, muôn hoà với giặc
ngoài để tiễu trừ giặc trong. Tự Đức cử Phan Thanh Giản và Lâm
Duy Tiếp và Gia Định nghị hoà. Bấy giò, Bonard đang lúng túng,
không sao bình định được đất đã chiếm, mà Pháp hoàng thì lại
muôn dùng hết lực lượng quân sự đánh Mexique, không tha thiết
vùng Á Đông xa xôi (thòi ấy chưa đào sông Suez, tàu bè từ châu
Ảu sang phải đi vòng qua châu Phi). Được tin bất ngờ, Bonard rất
mừng, cử trung tá Simon đem tàu Porbin ra đón sứ thần ta vào
thương thuyết. (Theo sách LSVN của Hoàng Văn Lân và Ngô Thị
Chính thì quân viễn chinh Pháp bị sa lầy trong cao trào kháng
chiến của nhân dân ta thì Tự Đức lại xin hoà chúng).
Ngày 5 - 6 - 1862, hoà ước được ký kết trên tàu Dupré của
Pháp đậu ở bến Sài Gòn, giữa một bên là nước Pháp do Adolphe
Bonard, đô đốc tổng chỉ huy liên quân Pháp - Tây Ban Nha, cùng
Don Carilot Palanca, đại tá chỉ huy trưởng đoàn quân Tây Ban
Nha ở Nam Kỳ và một bên là nhà Nguyễn do Phan Thanh Giản và
Lâm Duy Tiếp, toàn quyền khâm sai của vua Tự Đức. Hoà ước này
thường gọi là hoà ước Nhâm Tuất, gồm 12 khoản, đại lược là:
Giảng hoà xong, triều đình cử Phan Thanh Giản làm tổng
đôh Vĩnh Long, Lâm Duy Tiếp làm tuần phủ Khánh Thuận để
giao thiệp với quan Pháp ở Gia Định.
485
Bấy giò, nước Tây Ban Nha nhường quyền lấy đất làm thuộc
địa cho nước Pháp, chỉ nhận tiền chiến phí và quyền được cho giáo
sĩ đi giảng đạo mà thôi.
Tháng 3 - 1862, Bonard và Palanca ra Huế triều yết Tự Đức
để công nhận sự giảng hoà giữa ba nước. Sau đó, Bonard về Pháp
nghỉ. Thiếu tướng hải quân De la Grandière sang thay.
Ký hoà ước Nhâm Tuất, triều đình đã đầu hàng quân xâm
lược, lại lầm tưởng rằng chúng sẽ dừng lại, sau không đánh chiếm
thêm đất nữa, còn bè lũ thực dân Pháp thì lấy đây làm bậc thang
thứ nhất, rồi dần dà tiến đánh chiếm nữa, cướp lấy toàn cõi đất
nước ta làm thuộc theo chương trình chúng đã vạch ra từ trước
“chinh phục bằng những gói nhỏ”, sau khi tốc chiến tốc thắng
không xong.
PHONG TRÀO CHỐNG XÂM Lược ở BA TỈNH MlỀN ĐÔNG - Hoà với
quân xâm lược, Tự Đức ra lệnh giải tán các đoàn thể chông đối
giặc. Hàng chục thuyền máy chạy đi khắp nơi truyền sĩ dân Lục
Tỉnh hạ khí giới, trở về làng làm ăn. Nhưng lệnh này, nghĩa quân
không nghe theo, một mực dẻo dai theo đuổi công cuộc kháng
chiến chông quân cướp.
CĂN CỨ KHÁNG CHIẾN GÒ CÔNG - TRƯƠNG ĐỊNH - Trương Định
người Quảng Ngãi, theo cha vào lập nghiệp ở Tân An, chiêu mộ
nhiều người lập ấp khai khẩn hoang, giữ chức quản cơ chỉ huy và
luyện tập trai tráng trong ấp thành quân đồn điền. Năm 1861 đưa
quân lên vị trí Thuận Kiều, hỢp cùng biền binh của Nguyễn Tri
Phương giữ phòng tuyến Kỳ Hoà từng thắng mấy trận. Đại Đồn
thất thủ, đem quân mình về Gò Công, lập vị trí chiến lược, hỢp với
Lưu Tiến Thiện và Lê Quang Quyền, dồn lương, đúc súng, khởi
đầu có hơn ngàn ngưòi. Triều đình phong chức phó lãnh binh. Vây
đánh ráo riết giặc, chúng phải rút khỏi Gò Công. Chiếm đồn, xây
dựng thành trung tâm chông giặc quan trọng. Quy tụ các lực
lưựng ngăn giặc từ vùng Bến Nghé đến Hậu Giang, xây dựng công
sự chiến đấu trên các đường giao thông, quân sô" lên tới 10.800
người. Liên hệ với các lực lượng chông Pháp Đỗ Đình Thoại, tri
huyện An Dương Lâu, phủ Cận, thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, cử
nhân Phan Văn Đạt, Phan Văn Trị, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu,
thiên hộ Võ Duy Dương, Hồ Huân Nghiệp. Trong năm 1861, nhiều
vỊ chỉ huy chông giặc tử trận, bị bắt giết hay đem đi đày: Phan
Văn Đạt, Lê Cao Dũng, Trần Xuân Hoà. Sô" nghĩa quân của họ lại
quy tụ về với Trương Định. Lực lượng càng lốn mạnh thêm. Địa
486
bàn hoạt động của nghĩa quân Trương Định bao gồm các vùng Gò
Công, Tân An, Mỹ Tho, lan rộng tới cả Chợ Lốn, Sài Gòn, Đồng
Tháp Mười, hai bên nhánh sông Vàm cỏ từ biển Đông lên tận biên
giối Campuchia. Giặc không còn hung hăng tấn công và ngày 1 - 3
- 1862 rút nhiều vị trí chiếm đóng. Lần lượt các vùng Tân An, .Chợ
Gạo, Cái Bè, Gia Thạnh và Phước Lộc do nghĩa quân làm chủ. c ả
vùng đất Tiền Giang lên Chợ Lớn được giải phóng.
Triều đình hoà với Pháp. Trường Định được lệnh giải tán
toàn bộ phong trào chông giặc, thăng chức lãnh binh tĩnh An
Giang. Nhưng nghĩa quân không chịu giải tán, bàn nhau góp sức
giữ lấy một khoảng tròi để bảo toàn tụ họp, kháng mệnh lệnh
triều đình, chẳng nghe thiên tử chiếu, yêu cầu ông ỏ lại làm tổng
chỉ huy. Một đêm hè năm 1862, dân chúng cùng nghĩa quân tôn
Trương Định làm Bình Tây đại nguyên suý, Lê Quang Quyền
tham tán quân vụ, điều động tướng sĩ.
Đại bản doanh của nguyên suý đặt ở Gò Công, ớ vùng Hắc
Khẩu (Tân An) có đoàn quân của Phan Tuấn Phát, ở cần Đước có
quân Bùi Huy Diệu, ở Tân Thành có quân Nguyễn Văn Trung, án
ngự Gò Công. Trương Định chỉ đạo phong trào chông giặc rộng
lớn, từ Gò Công, Mỹ Tho, Tân An đến Chợ Lớn, Gia Định, Biên
Hoà, Bà Rịa, các nơi nương tựa, yểm hộ lẫn nhau, có lúc cùng một
lượt đánh giặc.
Phan Thanh Giản ba lần lệnh cho Trương Định theo chủ
trương của triều đình bãi binh, ông vẫn nhất quyết cầm quân
chông giặc, sẵn sàng tử chiến. Bonard cũng nhiều lần phái người
đến dụ ông hạ khí giới. Phan Thanh Giản làm môi giới, bốh lần
chuyển thư của Bonard, đều bị từ chối. Sau đích thân Tự Đức hạ
chiếu buộc ông giải giáp, đi làm lãnh binh Phú Yên, cũng vô hiệu.
Tháng 12 - 1862, Bonard huy động tàu chiến bao vây căn cứ
nghĩa quân, chuẩn bị mở cuộc hành quân tấn công lớn. Nhưng
ngày 16 - 12, Trương Định ra lệnh cho các đạo tông công kích các
vị trí chiếm đóng của giặc khắp ba tỉnh. Căn cứ Rạch Tra gần Sài
Gòn và các pháo thuyền giặc bị nghĩa quân đánh úp. Lính mã tà ở
Đông Môn bị đánh tan. Bốn năm ngàn người tụ tập quanh Chợ
Lớn và Cần Giuộc do Hàn Lâm Phu và Quản Là chỉ huy, chiếm
đóng vỊ trí Gò Đen, cắt đường giao thông đi Bến Lức, Biên Hoà.
Dân chúng đánh vào tỉnh thuyền và bao vây hầu hết đồn bốt.
Khắp ba tỉnh, nơi nào nghĩa quân cũng trấn áp. Bộ chỉ huy giặc
lúng túng, không sao ổn định nổi tình thế.
487
Mãi đến tháng 2-1863, khi đưỢc hàng ngàn quân cứu viện từ
hạm đội ở Thượng Hải kéo về và từ Phi Luật Tân qua, giặc mới có
thể chủ trương phản công để thoát khỏi tình thế bị áp đảo. Chúng
càn quét Biên Hoà, chiếm lại các tuyến giao thông Chợ Lớn, Bến
Lức. Bị thua lớn ở Quy Sơn, giặc huy động đánh Gô Công, chia
quân làm 3 đạo cùng tiến, chỉ huy bởi các tướng tá, có nhiều chiến
hạm yểm hộ, lại dùng 30 thuyền bọc sắt nhỏ đi theo. Lực lượng
còn lớn hơn cả khi đi đánh Định Tường, Biên Hoà. Ngày 25-2-
1863, giặc tấn công, nghĩa quân mãnh liệt cbống cự suốt ba ngày,
tướng Đặng Kim Chung và Lâm Bảo Đường tử trận. Nghĩa quân
các nơi nhất loạt tấn công các đồn Mai Sơn, Thuận Kiều, Tây
Thái, Phước Trung, Bình An và Long Thành... Ngày 26-2, thấy
thế không thể cô" thủ, Trương Định rút đại quân sang vùng Phước
Lộc, một sô" về Biên Hoà và một sô nữa vào các vùng đồng lầy rậm
rạp ở cửa sông Xoài Rạp để củng cô" tổ chức lại lực lượng, vẫn tiếp
tục thu lương trưng binh.
Tháng 9-1863, lực lượng Trương Định lại phục hồi, đóng ở
vùng Lý Nhân. La Grandière sang thay Bonard, huy động hai đạo
quân tạo thành hai gọng kìm từ Gò Công và c ầ n Giuộc đánh vào
Lý Nhân, chỉ bắt được vỢ ông và một sô" tuỳ tòng.
Trương Định rút quân về Tân Phước, ven sông Xoài Rạp, nơi
hai sông Vàm c ỏ chung nvíớc đổ ra biển, binh sĩ còn 1 vạn người,
chuẩn bị đánh lấy hạt Tân Hoà. Bấy giò, Lục Tỉnh đang bị nạn đói
đe doạ. Thực dân lợi dụng mua chuộc tay sai khá nhiều, tung ra
lùng bắt ông. Ngày 20 - 8 - 1864, quân giặc do tên đội Huỳnh Công
Tấn, trước là thủ hạ của ông, dắt đường bao vây ông và 25 tuỳ
tùng ở làng Tân Phước. Nghĩa quân đã chông trả dữ dội lực lượng
giặc đông gấp bội. Bị trúng đạn gẫy xương sô"ng, ông rút gươm tự
sát, hưởng linh 44 tuổi.
Trương Định là người có cơ trí, biết quyền nghi, hiệu lệnh
nghiêm minh, tưóng sĩ mến phuc. Người Pháp ví ông với Abd el
Kader, thủ lính nghĩa quân Á Rập chông Pháp.
Sau khi Trương Định chết, các đoàn nghĩa quân lại sáp nhập
vào căn cứ Đồng Tháp Mười do Võ Duy Dương chỉ đạo, một sô" theo
Trương Quyền, con ông về lập căn cứ Giao Loan và Tây Ninh.
CẢN CỨ KHÁNG CHIẾN ĐồNG THÁP MƯỜI - võ DUY DƯƠNG -
Dồng Tháp Mười là vùng đồng lầy quanh năm, làng xóm thưa thớt,
vị trí lại quan trọng, là trung tâm hiểm yếu, liên lạc với Châu Đốc,
Long Xuyên, Sa Đéc, Mỹ Tho, Tân An, Chợ Lớn, Tây Ninh và nước
488
Campuchia. Đường bộ rất ít, đường thuỷ nhiều, nhưng tàu lớn
không vào được. Đây là căn cứ kháng chiến rộng lớn.
Sau Trương Định, Võ Duy Tường tức thiên hộ Dương chỉ đạo
phong trào chông Pháp vùng Tiền Giang, lấy đây làm căn cứ.
Võ Duy Dương khởi lên chông Pháp từ khi chúng lấy thành
Mỹ Tho, sau quy tụ quanh bản doanh của Trương Định, xây dựng
các vị trí quân sự Mỹ Quý, Bình Cát, Thuộc Nhiêu, Cái Lậy, dựng
thành hệ thống đồn, yểm trỢ lẫn nhau. Đoàn nghĩa quân của thiên
hộ Dương đã giam chân giặc không đánh chiếm ra các huvện, các
làng xã thuộc Định Tường. Sau nhiều lần kịch chiến với giặc, cuối
năm 1863, thiên hộ Dương rút quân về Đồng Tháp, vẫn kiểm soát
các vùng quanh thu lương, trưng binh. Từ nơi hiểm trở này, nghĩa
quân thường phát binh đánh phá các vị trí giặc; Đồn Mỹ Trù
tháng 7-1863 chiếm lại Cái Nứa; tháng 3-1866, giành đất mấy lần.
Căn cứ Đồng Tháp Mười gần như bất khả xâm phạm.
Mãi đến tháng 4-1866, quân đội Pháp mới mở cuộc tấn công
lớn vào nơi này. Ba cánh quân giặc xuất phát từ sông Vàm cỏ Tây
đánh vào. Cánh thứ nhất chiếm đồn Sa Tiền nhưng bị tổn thất
khá nặng. Cánh thứ hai chiếm đồn Áp Lý, vào tới đồn điền thì bị
chặn đứng lại. Cánh thứ ba chiếm đồn Gò Bắc Chiêu, bị tổn thất
nặng, phải xin chiến thuyền đem quân cứu viện tới tấn công vào
đồn tả. Ngày 16-4-1866, diễn ra trận đánh quyết liệt. Hai tiểu đội
giặc bị giết và bị thương. Tới khi hộ chỉ huy giặc có tri huyện Chô
tiến vào đưỢc trung tâm Đồng Tháp Mười thì nghĩa quân đã rút đi
hết. Giặc không dám vào sâu hơn nữa, cũng không ở lại đóng đồn.
Thiên hộ Dương cùng nghĩa quân còn hoạt động trong đồng
lầy rậm rạp một thòi gian nữa, rồi mới từ trần.
Đồng Tháp Mười có địa hình địa vật thuận tiện cho cách lấy
ít đánh nhiều, lấy yếu chông mạnh, luôn luôn là nơi tụ họp của các
sĩ phu yêu nước và nghĩa quân chông Pháp.
CĂN CỨ GIAO LOAN TÂY NINH - TRƯƠNG QUYỀN - Ngoài Gò Công
và Đồng Tháp Mười, còn có căn cứ kháng chiến Giao Loan Tây
Ninh là đáng kể. Trương Quyền, con Trương Định sau khi cha
chết ngày 22-8-1864, chỉ đạo một đoàn quân đến p h ố i hỢp vối
Phan Chinh ở Giao Loan, giữa Bà Rịa và Bình Thuận, tiế p tục
kháng chiến chông Pháp. Nhưng Phan Chinh sau bị dụ dỗ ra hàng
Pháp. Khi Pháp chiếm Campuchia thì dân nước này do thân
vương Pu Com Bô chỉ đạo, tổ chức lực lượng chông đối. Khi Pháp
tấn công Pu Com Bô ở Tây Ninh, Trương Quyền tấn công Thuận
489
Kiều, Tràng Bảng để chia lực lượng của chúng. Sau khi phôi hỢp
chặt chẽ với Pu Com Bô, Trương Quyền xây dựng cán cứ kháng
chiến Tây Ninh, gây cho Pháp nhiều tổn thất. Pu Com Bô bị bắt
giết ngày 3-12-1867. Trương Quyền vẫn hoạt động khi ở Hậu
Giang, khi ở Tây Ninh. Không bao vây bắt được Trương Quyền,
giặc thuê người ám sát ông. Năm 1870, Trvíơng Quyền bị tay sai
giặc ám hại.
VIỆC VẬN ĐỘNG CHUỘC ĐẤT - Tự Đức bất đắc dĩ duyệt hoà ước
Nhâm Tuất nhường đất cho Pháp nhưng trong lòng vẫn muôn cô"
gắng chuộc lại, vì đất Gia Định là đất khai nghiệp của nhà
Nguyễn, Định Tường lại là quê quán của thái hậu Từ Dụ (bà
người Gò Công, xưa thuộc Định Tường), ba tỉnh miền tây còn lại
thì cách biệt với bờ cõi miền trung. Trong khi ấy thì bọn tư bản
thực dân quân phiệt Pháp đang muốn mở mang thêm, đánh chiếm
nôt miền tây Nam Kỳ, rồi Trung, Bắc Kỳ làm thuộc địa, đâu có
chịu trả lại đất cho ta. Tự Đức không hiểu sự thể này, cử sứ bộ
sang Pháp, danh nghĩa là đáp lễ vua Pháp, thực sự là vận động
xin chuộc lại ba tỉnh đã nhường. Sứ bộ gồm có hiệp biện đại học sĩ
Phan Thanh Giản làm chánh sứ, tham tri bộ lại Phạm Phú Thứ,
phó sứ, án sát Nguy Khắc Đản, bồi sứ, cùng Trương Vĩnh Ký, Tôn
Thọ Tường, cộng 12 vị, cùng 50 tuỳ tùng, đem phẩm vật sang
Pháp và Tây Ban Nha. Tháng 7-1863, sứ bộ xuông tàu Echo vào
Gia Định, rồi sang tàu Européen cùng với các quan Pháp và Tây
Ban Nha sang Tây. Tháng 11, phái đoàn Phan Thanh Giản tiếp
kiến Pháp hoàng Napoléon III, tâu bày mọi lẽ xin chuộc ba tỉnh
Nam Kỳ. Bấy giò quân đội Pháp vừa thất trận trong cuộc đi đánh
Mexique, lại có việc quân đội Phổ (Đức) mới được tổ chức lại rất
hùng mạnh, đang chuẩn bị chiến tranh lớn, mà bên nước ta thì
nhân dân các tỉnh bị chiếm vẫn chông đôl lại. Napoléon III có ý
muốn giữ thuận cho chuộc, chỉ giữ lại quần đảo Côn Lôn và quyền
đóng quân tại Sài Gòn và mấy cửa biển, ngỏ lời với phái đoàn ta,
tỏ vẻ rộng lượng, rồi cử trung tá hải quân Aubaret điều đình sửa
lại hoà ước đã ký trước, xoá bỏ khoản chi phí cho cuộc xâm láng
Giao Chỉ trong ngân sách năm 1864.
Phái đoàn Phan Thanh Giản đi sang Tây Ban Nha, rồi đến
cuối năm xuông tàu Japan về nước.
Khi phái đoàn Phan Thanh Giản vào triều kiến dâng quốc
thư, Pháp hoàng Napoléon III bèn phán; “Nước Pháp rộng lượng
490
với mọi quô’c gia và che chở các nước yếu kém. Nhưng những kẻ nào
cản trở bưốc tiến (của nó) thì phải sỢ hãi sự nghiềín n'gặt đó”.
Thật đúng là giọng kẻ cả của quân cướp!
Nguyên văn tiếng Pháp: "La P rance est bienveiliante pour
toutes ỉes nations et protectríce des faibles, m ais ceux qui
ưentraven t d a n s sa m a rch e ont à cra in d re sa sévérité".
Phái đoàn đã thất vọng quá sức. Nhưng về sau, Napoléon III
cũng hứa hẹn vài lời có độ lượng dễ dãi.
Tôn Thọ Tường và Trương Vĩnh Ký là người của chính quyền
Pháp ở Sài Gòn bấy giờ cử gia nhập vào phái đoàn.
Tháng 5-1864, Aubaret, sau khi công cán ở Xiêm La, tới Sài
Gòn, rồi tới Huế ngày 11-6-1864 điều đình về việc cho chuộc đất. Tự
Đức sai Phan Thanh Giản, Trần Tiễn Thành và Phan Huy Vĩnh
thương nghị với sứ thần Pháp. Sau một tháng, Aubaret và Phan
Thanh Giản tiến hành điều đình trên cơ bản đề án mà Aubaret đã
trình lên Pháp hoàng. Hai bên ký bản tạm ước ngày 15-7-1864 gồm
21 điều khoản với nội dung chủ yếu: Nước Pháp trao trả ba tỉnh
Gia Định, Định Tường, Biên Hoà và đảo Côn Lôn cho triều đình Tự
Đức; người Pháp sẽ làm chủ Sài Gòn, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho và đất
phụ cận các nơi này và một sô" vị trí trên ba tỉnh nọ. Triều đình
thừa nhận sự bảo hộ của Pháp trên cả Lục Tỉnh.
Theo tạm ước này, Pháp được làm chủ một sô" địa điểm quan
trọng cả về kinh tê", chính trị và quân sự, vẫn không chế cả Lục
Tỉnh. Các quyền lợi về thương mại, truyền giáo vẫn giữ nguyên.
Ay thế mà lại được trả sô" tiền chuộc khá lớn.
Về phần triều đình, chỉ có danh nghĩa đã chuộc được đất
đai nhưng phải cam chịu nhiều điều khoản nặng nề hơn, tai
hại hơn trước.
Nhưng giới tư bản quân phiệt Pháp, đứng đầu là bộ trưởng
hải quân thuộc địa Chasseloup Laubat, đô đốc Rigault de
Genouilly, đô đô"c Bonard, đang trù tính chiếm nốt 3 tỉnh miền tây
không chịu, cực lực vận động chông lại nên Napoléon III quyết
định huỷ bỏ tạm ước Aubaret - Phan Thanh Giản.
Việc chuộc đất không thành. Tự Đức cử Phan Thanh Giản vào
làm khâm sai đại thần ở ba tỉnh Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên.
THựC DÂN PHÁP XÂM Lược VƯƠNG QUỐC CAMPUCHIA - Trong
khi bọn tư bản thực dân Pháp dòm ngó nước ta thì đồng thòi
chúng cũng mưu toan chiếm đoạt nước Campuchia.
491
Năm 1859, vua Campuchia An Dương (Nặc Ong Tôn) mất.
Con trưởng Norodom (Nặc ông Lân) nôl ngôi. Qua năm 1861, bị
người em Si Vattha tranh, phải chạy sang Xiêm La. Năm 1862,
vua Xiêm La sai quân đưa Norodom về nước, đặt quan ở u Đông
bảo hộ. Dân Campuchia thường bị người Xiêm La áp bức.
Sau khi chiếm ba tỉnh miền đông Nam Kỳ của Việt Nam,
thực dân Pháp tính đến việc chiếm đoạt nước Campuchia, mưu sự
làm chủ lưu vực trù phú sông Mê Công. Tháng 9-1862, Bonard
đem chiến thuyền đi theo dòng sông Mê Công, ngược lên tận
Phnôm Pênh thăm vua Norodom. Tháng 5-1863, De la Grandière
đặt đội chiến thuyền lớn, cử Doudard de Lagré làm đại diện cho
Pháp ở Campuchia, chuẩn bị vũ trang xâm lược. Doudard de
Lagré đi khắp những vùng sung vếu xứ sở, do thám tình hình.
Đồng thòi với việc vũ trang xâm lược, giám mục Miche ở
Campuchia lợi dụng danh nghĩa tôn giáo khuyên Norodom công nhận
quyền bảo hộ của nước Pháp thì Xiêm La không còn dám bắt nạt. Lại
nói: Như thế, nước Pháp sẽ đòi Xiêm La trả lại cho Campuchia đất
miền tây đã nhượng cho Xiêm La. De la Grandière đích thân chỉ huy
chiến thuyền lên tận u Đông, hội đàm với Miche. Dưới áp lực quân sự
và chính trị của Pháp, quy ước giữa Pháp và Norodom ký ngày 11-8-
1863 tại Phnôm Pênh. Nước Pháp có quyền đặt đại diện tại
Campuchia. Mỗi khi có nưốc nào đặt lãnh sự ở Campuchia thì phái
được Pháp đồng ý. Pháp có quyền tự do thương mại, tự do mua tài
sản, đi lại, truyền giáo và điều tra khoa học, khai thác gỗ trong rừng
để đóng tàu, lập kho than và kho vật liệu cho tàu thuyền Pháp.
Thực dân Pháp đã xâm phạm nghiêm trọng quyền độc lập tự
chủ của Campuchia, chà đạp lên lợi ích của nhân dân Khơ Me.
Dân chúng kịch liệt phản đối. Thái độ ngang ngược của thực dân
Pháp ở u Đông cũng làm cho Norodom suy nghĩ lại. Nước Xiêm La
thấy dã tâm của Pháp nên tháng 12-1863 ký kết với Norodom hiệp
ước thủ tiêu quy ước nọ. Trong khi Norodom rời u Đông sang
Băng Côc làm lễ tấn tôn thì Doudard de Lagrée đem quân chiếm
đóng hoàng cung. De la Grandière lại phái chiến thuyền lên tiếp
ứng. Norodom trở lại kinh thành thì từ đó nhà vua, hoàng gia
cùng nhân dân Campuchia đã sa vào vòng thôhg trị của thực dân
Pháp. Xiêm La phải rút quân về nước nhường quyền cho Pháp.
1
Cuối tháng 11, nghĩa quân lại tập trung hoạt động khắp
vùng Hậu Giang, từ Cần Thơ, Thốt Nôt đến Châu Đốc. Giặc phải
dùng nhiều thuyền máy cho quân chạy dọc các con rạch để bắn
phá mới giữ nổi Châu Đổic. Bộ binh giặc đánh chiếm vùng Thất
Sơn, hành binh liên miên, bắt giết và đưa đi đày ra Côn Đảo rất
nhiều người yêu nước.
Đê chông lại các lực lượng khỏi nghĩa, người Pháp chia Nam
Kỳ ra làm 28 tỉnh, mỗi tỉnh do sĩ quan Pháp làm chủ với đội quân
lưu động, chia nhau đóng giữ rất nhiều đồn bốt. Thế nhưng tháng
3-1868, cuộc khởi nghĩa khác nổ ra ở Trà Vinh, Sóc Trăng. Ngày 1-
5-1868, Thái Văn Nhíp tức Quản Chân chỉ huy lực lượng nghĩa
quân tấn công thành Mỹ Tho. Tôi đến, nghĩa quân trèo thành lọt
vào đánh úp, giết được một sổ" quân giặc. Chúng chông trả mạnh.
Đến gần sáng, nghĩa quân phải rút. Sau đó, Quản Chân đưa lực
lượng rút về Hậu Giang phối hỢp với Nguyễn Trung Trực.
Phan Tôn, Phan Liêm sau ra Huế, rồi Hà Nội theo Nguyễn
Tri Phương.
CUỘC KHỞI NGHĨA NGUYÊN TRUNG TRựC - Nguyễn Trung Trực,
trước có tên là Nguyễn Văn Lịch, người Tân An, làm ruộng và chài
lưới, đã lập nhiều công lớn. ông là người chỉ huy trận đốt cháy tàu
Espérance trên sông Nhật Tảo năm 1861, đưỢc phong chức thành
thủ uý, trấn nhậm vùng Hà Tiên. Giặc chiếm miền tây Nam Kỳ,
triều đình cử ông làm lãnh binh Phú Yên. ồng ở lại cùng dân Hà
Tiên lập căn cứ ở Hòn Chông, dọc theo ven biển từ Hà Tiên đến
phần cực nam, kê cả đảo Phú Quốc. Lực lượng khởi nghĩa bao gồm
nhiều nông dân và dân chài lưới.
Sau khi chiếm đóng Hà Tiên, quân Pháp lập vị trí quân sự
kiêm cai trị đồn Rạch Giá, còn gọi là đồn Kiên Giang. Nguyễn
Trung Trực tìm cách vận động lính nguy quay về với chính nghĩa.
Chủ tỉnh bắt được một người cộng tác với nghĩa quân, ông nhận
định rằng nếu không chủ động tấn công trước thì giặc có thể phá
vỡ hệ thống nội ứng ở ngay đồn và chúng sẽ đánh vào Hòn Chông
nữa, bèn lập kế hoạch đánh chiếm lại đồn Rạch Giá bằng lốì đánh
cận chiến mà nghĩa quân vốh sở trường. Trung Trực bí mật kéo
quân về Rạch Giá. Trong tay quân khởi nghĩa chỉ có giáo mác. 4
giờ sáng ngày 16-6-1868, hai lính đồn bị giết, lập tức nghĩa quân
vượt tường xông vào cận chiến. Chủ tỉnh và đồn trưởng và hầu hết
quân giặc đều bị giết ngay tại chỗ bằng giáo mác. Nghĩa quân
hoàn toàn làm chủ tỉnh lỵ Rạch Giá từ sáng ngày 16-6-1868.
499
Quân Pháp ở Vĩnh Long hay tin, huy động toàn bộ lực lượng
trong vùng đế đánh lấy lại. Sau mấy lần giáp chiến trên đường
hành quân và sau một trận hỗn chiến quanh đồn, tới ngày 21-6,
quân giặc lấy lại đồn Rạch Giá. Trung Trực rút quân về Hòn
Chông. Giặc từ Châu Đổíc càn quét vùng Hà Tiên, rồi đánh thẳng
vào Hòn Chông. Quân Trung Trực đã rút ra đảo Phú Quốc với 40
chiến thuyền.
Tháng 9-1868, chiến thuyền Groenland chở một đội lính
Pháp do Boucher Rivière chỉ huy và 125 mã tà do tên quản Huỳnh
Công Tấn cầm đầu ra Phú Quốc đánh quân của Trung Trực.
Nghĩa quân đóng ở làng Hàm Ninh. Quản Tấn dụ dỗ và đe doạ kỳ
hào làng này, chúng phản bội bắt nộp giặc một sô" nghĩa quân và
chỉ đường cho giặc tấn công. Sau hai trận huyết chiến, giặc bắt
được hết quân khởi nghĩa, kể cả Nguyễn Trung Trực. Chúng đưa
ông về Sài Gòn. Thôhg đô"c Nam Kỳ nhiều lần thân hành gặp ông,
dụ dỗ đầu hàng. Ong không chịu. Ngày 17-10-1868, giặc đem ông
ra xử tử tại Rạch Giá. Ra đến pháp trường, Nguyễn Trung Trực đã
tuyên bô" quyết tâm chông giặc ngoại xâm của nhân dân ta: “Bao
giò hết cỏ Tháp Mười thì mới hết ngưòi đánh Tây”.
CUỘC KHỞI NGHĨA LONG TRÌ - NGUYÊN HỮU HUÂN - Từ năm
1872, điều kiện càng ngày càng khó khăn, ở Lục Tỉnh vẫn còn nổ
ra mấy cuộc khởi nghĩa mới, nổi bật là cuộc khởi nghĩa Long Trì
(Mỹ Tho) do Nguyễn Hữu Huân lãnh đạo.
Nguyễn Hữu Huân từng tham dự phong trào chông Pháp ở 3
tỉnh miền đông từ 1862 đến 1864, bị giặc bắt. Chúng biết dân ta
tôn trọng các nhà khoa mặc nên không giết ông. Dụ dỗ theo hàng
không được, chúng đem đày ông ra đảo Réunion. Năm 1868 tha
về, giao đô"c phủ Đỗ Hữu Phương quản chê". Phương mở trường chữ
Hán khiến ông dạy học. ông vẫn mưu đồ chông Pháp, liên lạc với
những người yêu nước gây lực lượng có tới 3.000 người, ông trốn
sang Mỹ Tho, dựng cờ khởi nghĩa, lập bản doanh ở Long Trì. Nhân
dân Mỹ Tho và Tân An ứng nghĩa rất đông, hoạt động mạnh.
Thực dân huy động lực lượng lớn đàn áp, sai đốc phủ Trần Bá
Lộc từ Vĩnh Long sang Mỹ Tho, hỢp quân Pháp tiêu diệt nghĩa quân
Long Trì. Chúng chia nhiều ngã vây đánh. Trong một trận giáp
chiến, giặc bao vây rất ngặt đội quân do đích thân Nguyễn Hữu
Huân chỉ huy. Sau nửa tháng vây đánh, chúng lùng bắt được hầu
hết những người chỉ huy. Nguyễn Hữu Huân cũng bị bắt ở Chợ Gạo.
Ồng bị giặc xử tử ở chợ Bến Tranh ngày 15-5 âl năm 1875.
500
Cho đến năm 1880, ỏ Lục Tỉnh vẫn còn những cuộc nổi dậy
khác nhưng không lớn lắm. Triều đình Huế thì không chống đốì gì.
Sau trận thua ở Đại Đồn Kỳ Hoà, quân đội triều đình, dù còn
đông, không từng đánh nhau với Tây nữa, không những không hề
mở thế công diệt giặc, mà mỗi khi bị đánh, cũng không hề chôhg
trả lại, chỉ rút lui hay quy hàng. Nhiều người cho thê là hèn nhát,
nhiều người khác lại cho thế là phải, vì yếu kém, đánh lại tất bị
thua, có ích gì? Tưỏng dù biết chắc là thua cũng phải đánh trả lại, vì
danh dự nhà binh, nhất là đế treo gương anh dũng cho con em ngày
sau noi theo chông giặc. Nếu lần nào giặc đến cũng không đánh lại,
tự cho mình là yếu kém thì con em sau yên trí mình hèn kém, đâu
còn dám quật cường nổi dậy chôhg đối giặc mạnh được nữa.
Nhưng nhân dân ta còn có lắm anh hùng yêu nước táo bạo
khởi nghĩa đánh giặc, tuy không thành công ngay nhưng còn có
được tiếng thơm để lại đời sau và con em sau này noi gương sáng
lo toan sự phục quốc.
Giặc đã thắng vì có khí giới tân tiến nhưng phần lớn lại là do
có được lũ người mình bán nước theo giúp. Không có người bản xứ
hỢp tác thì giặc dù có tài giỏi và hùng mạnh cho mấy, cũng rất khó
lòng thắng nối được nghĩa quân, nhất là không sao lập nên nổi bộ
máy thông trị dân ta.
Thực sự thì một khi tình trạng tại Lục Tỉnh đã tạm ổn định,
bè lũ thực dân toan tính ngay đến sự mở rộng thêm thuộc địa,
đánh chiếm Bắc, Trung Kỳ, tiếp tục thi hành chương trình đã sốm
định từ trước “đánh chiếm từng gói nhỏ”, đâu có chịu dừng lại ở
miền nam mà thôi. Ví phỏng sông Mê Công thuận tiện thì bọn “ăn
cướp” cũng không tha miền bắc nước ta.
Năm 1870, nước Pháp bị quân đội Phổ (Đức) đánh thua to, phải
nhường đất Alsace và Lorraine. Tự Đức gửi thư cho Suý phủ Sài Gòn
chia buồn việc nước Pháp lâm nguy, Pháp hoàng bị phế, đồng thòi
nhắc lại việc xin trả đất. Đô đốc chỉ đáp tạ lời hỏi thăm. Triều đình
ta không hành động đòi đất gì. Quân đội Pháp vẫn nắm giữ vững
Lục Tỉnh và Campuchia. Lúc ấy, hệ thống tư bản Pháp đang lao đao
bới chiến tranh Pháp - Phổ và công xã Paris, chính quyền đệ tam
Cộng hoà De Thiers cầm đầu đang lung lay. Tình thế chưa ổn định
về đốì nội và đốì ngoại nên chúng không mơ tưởng gì đến việc mở
mang thuộc địa. Nhưng bè lũ thực dân ỏ Sài Gòn, thấy rõ quân đội
ta yếu kém, vẫn cứ tiếp tục sửa soạn chiến tranh xâm lược mới.
Bấy giờ triều đình chỉ lo toan việc bình định loạn lạc ỏ Bắc
Kỳ, vẫn còn dùng những khí giới cổ lỗ, không được cải tiến gì. Đã
mất Nam Kỳ rồi mà vua tôi vẫn chưa mở mắt cho người châu Ảu
vào lập cơ sở buôn bán. Tàu Anh đến Quy Nhơn xin thông thương,
bị bỏ qua. Năm 1870, sứ giả Tây Ban Nha đến kinh đô, trình quốc
thư xin thông thương, không được trả lời. Năm 1872, lãnh sự Phổ
ở Hồng Công liên lạc đặt giao hảo buôn bán, Tự Đức sai người
mua môt chiếc tàu.
Vua tôi, những nhà hủ nho, chỉ nói sự lấy nhân nghĩa trị
dân, không biết quý trọng vàn minh vật chất tiến bộ, khinh thường
502
nghệ thuật cơ xảo mối, vẫn cho rằng dùng khí cụ cơ xảo, phải có trí
não cơ xảo, cơ trí sinh tâm trạng cơ xảo, không hay ho gì.
Quân sô' giữ thành Hà Nội 7.000 người chông giữ đưỢc 2 giò,
cũng như có gần 2.000 lính giữ tỉnh Ninh Bình, chép theo sách của
người Pháp, e không đúng sự thật. Có lẽ ở Hà Nội chỉ có độ vài
ngàn lính và Ninh Bình chỉ có sô' tràm. Có thể đây là sô' nguyên tắc,
thực sự chỉ 1/3 tại ngũ chàng?
LOẠN ở TRUNG KỲ
THUỴ QUỐC CÔNG DỤC ĐỨC BỊ HẠI - Việc ngưồi Pháp điều đình
với nhà thanh xong, quân Thanh rút hết về nước. Lưu Vĩnh Phúc
cũng đem quân Cờ Đen về, được cử làm trấn thủ Đài Loan. Việc
bảo hộ thành nhưng ở các nơi, quan cũ ta còn chông đối quân
Pháp, ở Huế, Nguyễn Ván Tường và Tôn Thất Thuyết vẫn chuyên
chế đủ mọi đường.
Tháng 10-1884 (âl tháng 9 năm Giáp Thân), hai ông đem
Thuỵ quốic công Dục Đức (trước đã không được lập làm vua) giam
vào nhà tôi, không cho ăn uông để chết, đổ tội cho là đồng mưu với
giặc. (Thòi còn Tự Đức, Dục Đức có đi lại giao dịch với khâm sứ
Rheinart. Rất có thể Rheinart đã khuyên trường ta nên nhận nước
Pháp bảo hộ. Vua quan vẫn tồn tại, lại được tôn trọng. Nước Pháp
có binh lực mạnh, sẽ giúp triều đình bình định các toán quân nổi
dậy chông đối...).
THỐNG TƯỚNG DE COURCY VÀO HUẾ - Hoà ước nhận nước Pháp
bảo hộ được ký nhưng triều đình ta vẫn ấm ức không muôn chịu.
Nguyễn Ván Tường và Tôn Thất Thuyết mộ quân tập lính và lập
đồn Tân sở ở gần Cam Lộ tỉnh Quảng Trị, đem đồ châu ngọc vàng
bạc ra đấy, phòng khi có việc thì đem quân ra đấy để chống nhau
với quân Pháp. Quân Pháp thấy có sự muôn chông cự, bèn chiếm
giữ Mang Cá trong thành Huế và bắt bỏ đại bác ở bên thành đi.
Tháng 5-1885, De Courcy sang tới Bắc Kỳ. Hoà ước với nhà
Thanh đã xong, mới vào Huế hắt triều đình ta phải chịu quyền
bảo hộ. Triều đình cử hai đại thần theo khâm sứ De Champeaux
đón thôRg tướng ỏ Thuận An. Thông tướng hống- hách cho đòi phụ
chính sang toà khâm. Hai ông còn đang lừng lẫy, thấy thế tức
giận lắm. Nguyễn Văn Tường sang ra mắt De Courcy. Tôn Thất
Thuyết cáo bệnh không sang. De Courcy bảo có bệnh cũng phải
khiêng sang.
De Courcy định đến hôm nào yết kiến vua Hàm Nghi thì
phải mỏ cửa chính, không những để quan Pháp đi mà phải để cho
525
quân lính Pháp cũng vào cửa ấy. Triều đình thấy trái với quốc lễ,
xin quân lính đi hai bên. De Courcy nhất định không chịu. Các
quan Cơ mật viện xin vào bàn định. De Courcy không tiếp. Thái
hậu Từ Dụ sai quan đem lễ vật sang tặng. De Courcy khước từ
không nhận.
TRIỀU ĐÌNH CHẠY RA QUẢNG TOỊ - Các quan thấy De Courcy
làm dữ dội đều ngơ ngác không hiểu ra ý tứ gì mà khinh mạn
triều đình quá vậy. Tôn Thất Thuyết tức giận, thôi thì sốhg chết
cũng liều một trận. Bấy giờ có điềm động đất cho là điềm tròi xui
khiến giúp kẻ yếu kém chông lại quân cướp nước chăng. Tướng sĩ
qi cũng tưởng như thế nên định đến nửa đêm khởi sự bắn súng
sang toà khâm sứ và đánh phá trai lính Pháp ở Mang Cá. Bấy giò
là ngày 22 rạng 23 tháng 5 năm Ât Dậu (4/5-7-1885). Thông tướng
đãi tiệc các quan Pháp vừa xong thì súng trong thành nô ra.
Những nhà chung quanh toà khâm sứ lửa cháy rực trời. Quân
Pháp chỉ yên lặng chông giữ, không dám ra. Đến sáng, chúng mối
tiến lên đánh thì quân ta thua chạy.
Quốc sử không chép việc Tôn Thát Thuyết đánh quân Pháp
có được bao nhiêu quản. Sách Tây bản chép 2 vạn, bản chép 3 vạn.
Cứ lời cư dân Huế thì sô’ binh lính của ta bấy giờ chỉ khoảng độ 1
vạn.
Ngày 23-5, quân Pháp vào thành tàn sát dân chúng vô cùng
tàn ngược, bạ ai cũng bắn giết, hầu hết là dân thường không mang
khí giới, đàn bà, trẻ con. Sô' người bị chết có hàng vạn. Sau chúng
xé xác ra chôn trong ba thủa ruộng lớn, nay gọi là Ba Điền. Việc
này các sách của Tây không nói. VNSL cũng không chép. Đán Huế
có tục ngày 23 tháng 5 âl, mọi nhà đều làm cơm rưỢu cúng các oan
hồn, bày ra trước cửa. Sau năm 1945, dân Huế lấy ngày 23-5 âl là
ngày lễ các binh sĩ và nhân dân chết trận.
Nguyên Xuân Tiết, còn có tên nữa là Nguyễn Ngọc Tích, người Hải Dương, dòng dõi
vua nhà Mạc, được vua Hàm Nghi phong làm đề đốc quân vụ Hải Đông, tục hiệu Đốc Tít.
Ông lập căn cứ ở Đông Triều, Thuỳ Nguyên, Cát B à ... chống Pháp.
533
sang Xiêm La, học đúc súng đạn, đợi ngày khởi sự. Có tài văn
chương, lại có thao lược, sửa sang quân đội có cơ ngũ, luyện tập
tướng sĩ có kỷ luật, theo phương pháp Thái tây. Cao Thắng, phó
tướng, đúc súng tinh vi như súng của Pháp, chỉ vì lòng súng
không xẻ rãnh nên đạn không đi đưỢc xa.
Mùa đông nám 1893, khởi sự. Việc đầu tiên, nghĩa quân vây
nhà Trương Quang Ngọc ở làng Thanh Lang, Tuyên Hoá, bắt
chém đầu, báo thù việc hắn phản trắc. Từ đó, nghĩa quân vẫy
vùng ỏ mạn Hương Khê. Đảng văn thân cũ lại về tụ họp.
Người Pháp không dùng đại quân sỢ náo động lòng người bên
chính quốc nên chỉ sai quan đem lính tập đi đánh. Đánh từ cuối
năm 1893 đến CUỐI năm 1895, ngót hai năm không dẹp yên được.
Quân lính chết hại nhiều. Quan Pháp sai Hoàng Cao Khải, lấy
tình đồng hương, viết thư dụ về hàng nhưng không lay chuyển
được lòng trung dũng của ông. Chiến sự dai dẳng mãi không yên.
Người Pháp lại khiến triều đình Huế cử Nguyễn Thân, tổng đốc
Bình Định, khâm mạng tiết chế quân vụ, đem quân ra tiễu trừ.
Phan Đình Phùng bấy giờ tuổi đã già, thế lực mỗi ngày một
kém, lại phải nay ẩn chỗ này, mai chỗ kia, lao khổ vô cùng. Khi
Nguyễn Thân ra đến Hà Tình thì ông đã phải bệnh mất rồi.
Nguyễn Thân đánh dư đảng văn thân tan vỡ, ai trôh thoát thì
thôi, ai ra thú phải đưa về kinh chịu tội.
Đại Việt gian Nguyễn Thân đưỢc thăng làm phụ chính, thay
Nguyễn Trọng Hợp về hưu.
ĐÀ NĂNG, HÀ NỘI VÀ HẢI PHÒNG THÀNH ĐẤT NHƯỢNG ĐỊA - Từ
khi việc đánh dẹp các nơi đã yên, các đại thông đốc (toàn quyền)
lần lượt sang kinh doanh việc Đông Dương, lo mở được kinh tế,
chính trị và xã hội theo chính sách của người Pháp đô hộ.
Năm 1888, tức là năm Thành Thái nguyên niên, Richaud
sang làm đại thông đốc toàn quyền, ép triều đình Huế ký giấy
nhường hải cảng Đà Nang, thành phô" Hà Nội và Hải Phòng cho
nước Pháp là đất nhượng địa. Từ đó, việc cai trị và pháp luật ở ba
nơi này thuộc về nước Pháp. Việc cai trị ở các tỉnh trong toàn hạt
Bảo hộ (Trung, Bắc Kỳ) vẫn để quan bản xứ làm việc nhưng phải
do người Pháp điều khiển và kiểm duyệt.
ĐẶT CHẾ Đ ộ BẢO H ộ TRÊN Nước AI LAO - Chính qU yền thuộc địa
mỏ mang thêm bò cõi vê' phía tây. Nguyên đất nước Ai Lao ngày
534
trước vẫn thần phục nước ta. Các xứ Trấn Ninh, Cam Môn, Cam
Cát, v.v... dưới triều Minh Mệnh đã lập thành phủ, huyện và đặt
quan cai trị. Sau nước ta suy nhược, lại có chiến tranh với Pháp
nên Xiêm La mới nhân dịp sang chiếm giữ lấy. Sau lại có Pavie,
ngưồi Pháp, sang dụ Ai Lao nhận sự bảo hộ của nước Pháp. Đầu
nám 1893, quân Pháp sang lấy những đất cũ thuộc về nước ta
trước. Quân Xiêm La ở mạn Cam Môn giết một quan binh Pháp.
Người Pháp sai hải quân đem hai tàu chiến vào sông Mé Nam, lên
đậu ở gần thành Băng Cốc. Ngày 3-10-1893, Xiêm La phải ký hoà
ước nhường những đất Ai Lao cho Pháp bảo hộ và rút quân về, lại
phải bồi thường hai triệu francs và phải trị tội những người chông
cự với Pháp.
Người Pháp lập phủ thống sứ (résidence supérieure) ở Viêng
Chăn để cai trị các địa hạt Ai Lao.
Nước Ai Lao cũng thuộc đại thốhg đổc (gouverneur généraí)
cai trị cả liên bang Đông Pháp.
Người Pháp lại đòi được nước Xiêm La phải trải lại cho nước
Campuchia ba tỉnh miền đông tức là miền tây Campuchia, mà
xưa Campuchia đã nhường cho Xiêm La.
T ổ CHỨC CAI TRỊ THỜI PHÁP THUỘC - Người Pháp chiếm đoạt
đất nước ta và hai nước Ai Lao và Campuchia, dựng nên thuộc địa
lớn ở đông nam Á châu, gọi tên là Đông Pháp (Indochine
tranẹaise).
Nước ta bị chia ra làm ba xứ, có chính thể khác nhau. Người
đi qua lại xứ này sang xứ kia phải có giấy thông hành của chính
quyền Pháp. Nam Kỳ là đất nhường hẳn cho Pháp làm thuộc địa.
Trung, Bắc Kỳ là hai xứ bảo hộ, như có ý nói là vẫn là nước Việt
Nam do vua quan người Việt Nam cai trị, nước Pháp giúp đỡ che
chở cho mà thôi. Thực sự chỉ là một hình thức thuộc địa, mọi
quyền hành chính trị, kinh tế, văn hoá, ngưồi Pháp nắm giữ hết.
Vua quan ta chỉ còn là bù nhìn, người máy do thực dân Pháp điều
khiển, không còn có thực quyền gì.
Thủ hiến Đông Pháp là đại thông đốc (gouverneur général),
ta quen gọi là toàn quyền, đóng ở Hà Nội, Tại Sài Gòn cũng có
dinh toàn quyền thường có đi về thì ở đấy.
Năm xứ Đông Pháp thì Nam Kỳ có thông đốc (gouverneur)
đứng đầu. BôA xứ kia có lưu trú cao cấp (résident supérieur). Ta
quen gọi là thông sứ Bắc Kỳ, khâm sứ Trung Kỳ, Ai Lao,
Campuchia, do ndi có vua không tiện dùng tiếng thống sứ.
535
Tại phủ toàn quyền và các phủ thốhg, khâm sứ, có những
nha sở các ngành, do các giám đốic người Pháp chỉ huy.
0 Trung Kỳ, vẫn còn có vua và các quan triều như cũ nhưng thực
sự chỉ là đặt ra cho có hình thức. Triều đỉnh không có thực quyền. Mọi
công việc đều phải có sự thoả thuận với toà Khâm sứ. Đến thuế thương
chính thì vua quan ta không dự Bảo Đại chỉ có quyền sắc phong cho
bách thần, ngoài ra không có việc ^ là không do người Pháp làm.
0 Bắc Kỳ, năm 1886, có đặt nha Kinh lược thay mặt triều
đình bên cạnh phủ thống sứ. Công việc chính của nha này là bổ
dụng quan lại và ban phẩm hàm cho tổng lý và các người có công
lao. Năm 1895, toàn quyền Paul Doumer bãi bỏ nha này, trao mọi
quyền cho phủ thông sứ kiêm nhiệm.
Chính quyền Pháp chia nhỏ các tỉnh tiện cho người Pháp nắm
quyền trực tiếp cai trị sâu vào dân ta. Nam Kỳ 6 tỉnh cắt ra làm 28,
Bắc Kỳ 13 tỉnh chia ra làm 27. Trung Kỳ ít dân chỉ đặt thêm Ninh
Thuận do cắt tỉnh Khánh Hoà và Bình Thuận dựng nên. Sau có đặt
thêm mấy tỉnh miền cao nguyên.
Tỉnh trưởng là viên cai trị lưu trú sứ Pháp (Administrateur
résident de Prance), ta quen gọi là công sứ. Các thành phô" lớn có
đốc lí (résident —maire) làm thủ hiến. Dưới công sứ hay đốc lí có
viên phó và các ty: Ngân khô", thương chính, công chính, địa chính,
cảnh sát, y tê", học chính, bưu điện, kiểm lâm. Các ty tỉnh cũng do
viên chức người Pháp điều khiển. Riêng ty niết (tư pháp) chỉ mấy
tỉnh lớn có chánh thẩm phán, các tỉnh khác thì công sứ kiêm
nhiệm. Tại các tỉnh Bắc Kỳ và Trung Kỳ, có các quan ta là tổng
đô"c hay tuần phủ cai trị, thực sự chỉ có tiếng suông là ngang hàng
với công sứ (!) mà chỉ làm công việc hành chính thuộc quyền công
sứ quan tây chỉ đạo. Ty phiên chẳng hơn gì mấy các ty khác. Theo
nguyên tắc, quan lại ở Bắc Kỳ thông thuộc triều đình Huê", thực sự
nhà vua chỉ ban sắc chỉ cho các người được thốhg sứ phong.
Có sự kỳ quặc là đại diện của triều đình Việt Nam ở Bắc Kỳ
lại là thốhg sứ người Pháp. Tổng đô"c phải thuộc quyền viên cai trị
(administrateur).
Dưới cấp tỉnh, ở Trung, Bắc Kỳ là phủ, huyện, châu do tri
phủ, tri huyện, tri châu người bản xứ cai trị. Các viên chức này do
chính quyền thực dân bổ dụng. Nam Kỳ không có cấp phủ huyện.
Các cai tổng thuộc thẳng cấp tỉnh.
Dưới nữa là tổng, xã do cai phó tổng và các hương chức dân cử
cai trị. Các viên chức tổng xã không được trả lương như công chức.
536
Lương hưỏng trả cho viên chức ngưòi Pháp rất hậu hĩ, còn
trả cho người bản xứ lại rất ít ỏi. Toàn quyền mỗi tháng lĩnh 6.000
đồng lương và 6.000 phụ cấp tiền khác, công sứ trên một ngàn,
giám binh, cảnh sát trưởng cũng 5, 6 trăm. Lương công chức bản
xứ thì lính lệ, lao công 6 đồng, giáo viên, thư ký 30 đồng, tri huyện
100 đồng kể là cao. Giá gạo thì 8 đến 10 đồng 100 kí.
Các viên chức người Pháp sang ta ít có người tốt, phần đông
đều giả dôi, rất nhiều kiêu ngạo, hách dịch. Tuy được hưởng lương
hậu mà vẫn có khá nhiều người tham nhũng.
VIỆC BINH BỊ - Để phòng giữ, chính quyền Pháp lập ra những
đội lính bảo an, lấy người bản xứ làm lính, ta quen gọi là lính khô"
xanh, do nón có quai và xà cạp màu xanh lơ. Loại lính này canh
giữ các dinh thự, công sở tại các tỉnh lỵ, đóng đồn các nơi thôn quê
xa xăm phòng giữ trộm cướp. Người bản xứ tòng quân chỉ được
thăng dần đến cấp cai, đội, quản. Mỗi tỉnh có giám binh và mấy
đồn trưỏng chỉ huy, thuộc quyền tỉnh trưởng là công sứ quan văn.
Lại có những đội lính cơ, gần giông như lính khô" xanh, mà
dùng màu lục, cũng thuộc giám binh khô" xanh cai quản mà đặt
thuộc quyền các quan tỉnh và phủ, huyện, châu.
Lính chiến (armée) có lấy nhiều người bản xứ làm lính
(tirailleurs), một loại binh trong quân đội Pháp. Ta quen gọi là lính
khô" đỏ, do xưa có quai nón và xà cạp màu đỏ. Loại lính này do các sĩ
quan người Pháp chỉ huy, thuộc Bộ chiến tranh Pháp. Lính khô" đỏ
đóng đồn tại các vị trí quan trọng và những nơi hiểm yếu vùng biên
giới, cũng đưa sang đóng ở bên nước Pháp và các thuộc địa Pháp
khác. Khi có việc quan hệ, cùng đi đánh dẹp với lính Pháp.
CÔNG VIỆC CHÍNH QUYỂN PHÁP ĐÃ LÀM - Để tiện việc hành binh và
việc thương mại, chính quyền Pháp trước hết lo sửa sang và mở mang
đường sá cho tiện sự giao thông. Có đường thì khi hữu sự việc đánh
dẹp mới tiện lợi và việc buôn bán cũng dễ dàng. Nhiều con đường xưa
nhỏ hẹp được mở mang rộng lớn. Nhiều cầu sắt bắc trên các sông lớn
nhỏ. Những trạm và đường dây thép được đặt để tiện lợi sự thông tin.
Đường sắt hoả xa sớm được xây cất. cầu Giốc Gạch (Long Biên) - ngưòi
Pháp gọi là cầu Doumer - bắc qua sông Hồng, nối Hà Nội với Gia Lâm
là một công trình to lớn.
Về y tê", nhà thương và nhà hộ sinh được mỏ tại các thành
phô" và tỉnh lỵ, chữa bệnh theo y học Thái tây. Ngưồi bệnh nghèo
có nhà thương làm phúc do nhà nước và các tổ chức tôn giáo xã hội
mở ở một sô" nơi.
537
về công chính, ngoài sự làm đường sá cầu công, cũng có việc
đào sông ngòi, xây đập (barrage) là công cuộc có ích lợi vệ nông
nhưng thường chỉ tại nời có điền trang người Pháp.
Về học chính vẫn để các đốic học, giáo thụ, huấn đạo dạy chữ
Hán tại lỵ sở các tỉnh và một sô" phủ huyện, c ả Trung, Bắc Kỳ mối
có một trường thông ngôn ở Hà Nội là bậc trung học. Tại mấy tỉnh
lớn có mở trường tân học dạy chữ quốc ngữ, làm tính dùng chữ sô"
A Rập cùng chữ Pháp. (Sang thê" kỷ XX, tân học mới được mở
mang đôi chút).
Đồng thòi, nhiều nhà tù dựng lên khắp nơi, giam giữ nhiều
chính trị phạm như thường phạm. Miền trung du và thượng du có
những nhà tù lớn. Nhiều người yêu nước, không chịu hỢp tác, mà
lại chông đốì Pháp dù không bạo động đều bị đưa lên đó lao động
khổ sai.
NGƯỜI PHÁP KHAI THÁC CÁC TÀI NGUYÊN - Nhiều người Pháp "
sang mở các thương điếm, nắm giữ độc quyền xuất nhập khẩu,
mặc sức mua rẻ bán đắt. Công ty Điền Việt của người Pháp dựng
đường sắt hoả xa, thông từ Côn Minh, thủ phủ Vân Nam ra đến '
hải cảng Hải Phòng, qua nhiều tỉnh Bắc Kỳ. Tư bản Pháp dựng
các nhà máy; máy sỢi, máy tơ, máy rượu, diêm, xi măng, gạch
ngói, v.v... dùng rất nhiều nhân công ta, làm việc nhiều giờ trả
công rẻ mạt.
Chính quyền thực dân lại cấp cho đồng bào chúng chiếm hữu
khai thác các mở than và mỏ kim khí, nhất là mỏ than ở Quảng
Yên và Hải Dương, thu lợi nhuận rất lớn. Jean Dupuis được cấp
mỏ than đá Đông Triều, đền bù việc Philastre phá mất những việc
hắn đã làm với Prancis Garnier.
Chúng lại cấp đất miền trung du và thượng du cho tư nhân
Pháp lập trang trại, ta quen gọi là đồn điền, không chỉ lằ đất chưa
khai khẩn hay bị bỏ hoang mà cả xã cả tổng rộng lớn đang trồng cấy
phần nhiều là của dân thiểu sô" miền núi không có giấy tò chủ quyền.
Việc chính quyền “bảo hộ” cấp ruộng đất và hầm mỏ cho
người Pháp là chiếm đoạt trắng trỢn. Các hoà ước không có khoản
nào nói đến cả. Theo nguyên tắc thì vua là mới là chủ nhân ruộng
đất sông núi.
Nhân công làm việc tại các nhà buôn, nhất là tại các nhà
máy, hầm mỏ, đồn điền bị bóc lột tàn nhẫn đến vô nhân đạo, làm
việc ngày 12, 14 giò, mà công xá chỉ đủ ăn. Tai nạn lao động
không được đền bù gì mấy.
538
CÔNG, TỘI CỦA THựC DÂN PHÁP ĐÔ HỘ - Trong khi còn cầm
quyền ở nước ta, người Pháp luôn luôn kể “công ơn khai hoá”, dìu
dắt dân ta lên đường tiến bộ văn minh, nâng cao đòi sốhg đại
chúng, giữ trị an không còn giặc giã quấy nhiễu, làm đường sá cầu
cốhg, dựng nhà thương, trường học, mở nhà máy khiến hàng triệu
người có cơm ăn việc làm. Để khai thác chế độ thuộc địa, khách
quan, thực dân Pháp cũng có làm đưỢc một sô" công việc có lợi cho
dân ta, song phần nhiều lại có lợi cho chúng trước hết, về văn
minh vật chất, dân quê ta chiếm 90% tổng sô", chỉ được biết ngọn
đèn dầu hôi và sô" ít trẻ con được biết đến chủng đậu. Công lao ít ỏi
của chúng không thấm tháp gì so với những tội lỗi lớn lao mà thực
dân Pháp để lại. Nào là sưu cao thuế nặng, đặt thêm các thuế mới
về rượu, thuốc lá, thuê chợ, thuê" đò, độc quyền mua rẻ, bán đắt,
bóc lột nhân công lao động, bắt trai tráng đi lính bảo vệ quyển lợi
của chúng, dùng người Việt giết hại người Việt (các đồ tể Trần Bá
Lộc, Hoàng Cao Khải, Nguyễn Thân được phong quan chức trọng
đến phụ chính). Lại dung túng cho quan lại tham nhũng, lính
tráng bắt nạt dân quê. Chúng không chịu cấm thuốc phiện, phù
thuỷ, vàng mã. Xét tội lỗi của thực dân thì đây mới chỉ kể được
một sô", thực ra thì không bút nào tả cho hết được.
Dưới ách thực dân Pháp đô hộ, công ít tội nhiều, nhân dân ta
phải chịu bóc lột cực khổ, trái lại thì có được lợi những gì? Tiếp
xúc với nền văn minh cơ khí vật chất, nâng cao chút ít đòi sông thì
chẳng có chúng, dân ta cũng tiến tới được. Người Xiêm La đâu có
phải nhờ đến chúng.
Khách quan công bằng mà nói thì dân ta có được hai điều lợi
ngoài ý muôn chủ quan của thực dân Pháp:
Một là, nước ta thoát ly hẳn với Trung Quốc, không còn là
thuộc quô"c của nước lớn này nữa. Xưa vua ta phải xưng thần nạp
cống vua Trung Quô"c, chỉ là về ngoại giao, để khỏi bị xâm lăng.
Nhưng người Trung Quốc, Hán cũng như Mãn Thanh, vẫn thường
coi nước ta là một phần đất của họ ở nơi phên dậu (phiên) như
Mông, Mãn, Tạng, Hồi.
Hai là phô biến chữ quốc ngữ m ẫu tự L a tinh, thứ chữ học
biết đưỢc rất chóng, thường chỉ học vài ba tháng đã đọc ngay được
nên rất tiện lợi. (Điều này đã kể ở mục nói về người Pháp mở
trường học ở Nam Kỳ).
539
Nhưng xét lại thì hai điều này cũng là có lợi cho bọn thực
dân Pháp trước hết, mà lại là không đáng gì mấy đối với việc
chúng nô lệ hoá và bóc lột tàn nhẫn nhân dân ta.
Tập sách này mới chỉ chép những sự kiện quan trọng của lịch
sử nước nhà cho đến cuối thế kỷ XIX.
Sang thế kỷ XX, thực dân Pháp tiếp tục cai trị và bóc lột dân ta
đến nám 1945, có làm được một sô" việc công ích thì chỉ là nhỏ giọt.
N h â n d â n t a , n h ữ n g n g ư ờ i y ê u n ư ớ c , k h ô n g c h ị u hỢp t á c v ớ i
ch ú n g , tiế p tụ c n u ô i dưỡng tr u y ề n th ố h g y ê u nư ớc ch ô n g n g o ại
x â m , k h i â m t h ầ m , k h i b ạ o động, b ấ t c h ấ p sự b ắ n g iế t, tù đ ày r ấ t
dã m a n củ a k ẻ th ù .
Vua Thành Thái bất đồng ý phải bỏ ngôi. Vua Duy Tân
chông đôi bị truất phế. Hai ông đều phải đưa đi an trí lại đảo
Réunion thuộc châu Phi.
Chúng bắt rất nhiều lính ta tham chiến cùng lính Pháp trong
hai trận thế chiến lớn và đánh ngưòi Marốc chốhg đối chúng.
Năm 1940, có sự kiện quân đội Nhật Bản sang đóng ở nước ta.
Cuối năm 1944 đến nửa đầu năm 1945, có nạn đói thảm khốíc
ở Bắc Kỳ khiến gần 2 triệu người chết đói, nhất là ở mấy tỉnh
trung châu: Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hà Nam.
Tháng 3 năm 1945, quân đội phát xít Nhật Bản đảo chính
Pháp. Vua Bảo Đại, dưới sức ép của Nhật, tuyên bô" huỷ bỏ hoà
ước triều đình trước bị ép phải ký với Pháp.
Tháng 8 năm 1945, Việt Minh lãnh đạo nhân dân nắm thòi
cơ khởi nghĩa giành chính quyền trên toàn quốc. Ngày 2 - 9 - 1945,
tại quảng trường Ẹa Đình, thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc tuyên ngôn độc lập, tuyên bô" lật đổ ách thông trị của phát xít
Nhật và thực dân Pháp, huỷ bỏ chế độ quân chủ hàng nghìn năm,
mở nên dân chủ cộng hoà trên đất nước Việt Nam.
Sau đó có sự kiện thực dân Pháp trở lại xâm lược, rồi tiếp
đến hai cuộc kháng chiến chông thực dân Pháp xâm lược (1946-
1954) và cuộc kháng chiến chông Mĩ cứu nước (1954 - 1975) của
nhân dân ta.
Tháng 4-1975, nước nhà mối hoàn toàn độc lập, thông nhất
và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Những sự kiện này thuộc về thời đ ại hiện kim là thời đại
trước khi cuốh Việt sử kỷ yếu này tạm khép lại.
540
NIÊN BIỂU T ư BẢN THựC DÂN PHÁP ĐÁNH CHIẾM NƯỚC' TA
542
TÀI LIỆU THAM KHẢO
543
MỤC LỤC
Lời nói đ ầu .................................................................................................................... 3
Những chữ viết t ắ t .................. 5
CÁC yHỜI ĐẠI LỊCH s ử NƯỚC TA
THỜI ĐẠI THƯỢNG c ổ
Kỷ tiề n s ử ................................................................................................................... 8
Ky c á c V u a H ù n g ................................................................................................... 11
Kỷ n h à T h ụ p .............................................................................................................. 14
THỜI ĐẠI BẮC THUỘC.......................................................................................... 18
Kỷ th u ọ c n h à T r i ệ ũ .............................................................................................. 18
Ky th u ọ c T â y H á ii............................ 21
Tình hình dân Âu Lạc dưới thời Bắc thuộc.................................................... 24
Kỷ th u ộ c Đ ô n g H á n ...................................... 26
Ky T rư n g V ư ơ n g ..................................................................................................... 27
Bà Trưng khởi nghĩa ..............................................................................................27
Mã Viện sang đánh nước ta ..............................................................................:.29
Phụ lục về khởi nghĩa Bà T rư n g ......................................................................... 33
Các tưống lĩnh của Bà T rư n g ............................................................................... 34
Kỷ th u ộ c Đ ô n g H án (lần s a u ) ......................................................................... 36
Lý Tiê}i, Lý c ầ m ........................................................................................................39
Lâm Ap dựng nước.................................................................................................... 39
Sĩ N hiep..;..................................................................................................................... 41
Kỷ th u ộ c N g ô ........................................................................................................... 42
Bà Triệu khỏi n g h ĩa..................................................................................................44
Kỷ th u ộ c T ấ n .............................................................................................. i...........45
Ky th u ọ c L ư u T ố n g ............................................................................................... 47
Thời gian tự trị 468- 4 8 5 .........................................................................................48
Kỷ th u ộ c T ề ............................................................................................................... 49
Kỷ th u ọ c L ư ơ n g ...................................................................................................... 49
Kỷ n h à T iề n L ý ...................................................................................................... 50
Tiền Lý Nam Đ ê......................................................................................................... '50
Trần Bá T iê n ............................................................................................................... 52
Triệu Việt Vương........................................................................................................52
Đào Lang Vương.........................................................................................................53
Hậu Lý Nam Đ ê ......................................................................................................... 54
K ỷ th u ộ c T u ỳ .......................................................................................................... 55
Tình trạn g xã hội nưốc ta từ xa xưa đến th ế kỷ thứ V, V I....................... 56
Kỷ th u ộ c Đ ư ờn g ...................................................................................................57
Cuộc khởi nghĩa Đinh K iế n ...................................................................................58
Mai Hắc Đ ê...................................................................................................................59
Giặc biển........................................................................................................................59
Khương Công Phụ, Khương Công P h ụ c........................................................... 60
Bô' Cái Đại Vương...................................................................................................... 60
544
Việc đánh nước Hoàn Vương.........................................................................61
Khởi nghĩa Dương T h a n h .............................................................................. 61
Nam Chiếu dựng nước....................................................................................62
Nam Chiếu sang cưốp phá An N am ............................................................62
Cao B iề n .............................................................................................................64
T ìn h hình Trung Quốc và nước ta thời Đường m ạt.................................66
Họ Khúc dấy nghiệp........................................................................................ 67
Dương Đ ìn h N g h ệ ............................................................................................69
Trận Bạch Đằng G iang Ngô Quyền đại phá quân Nam H á n ...............70
Kết quả thời đại Bắc thuộc........................................................................... 71
Đất cũ của nước ta bị sáp nhập vào Trung Quôh.................................... 73
TH Ờ I Đ Ạ I T ự C H Ủ ...... 74
K ỷ n h à Ngô (939 - 9 6 5 ).......... 74
Tiền Ngô Vương 939 - 944 huý Quyền (898 - 944)..................................74
Dương Tam K ha 945 - 950........................................................................... 74
Hậu Ngô Vương 950 - 965 huý Xương V àn (? - 965)............................... 75
Thập nhị sứ q u ân ............................................................................................ 77
Đ inh Bộ L ĩn h .................................................................................................... 78
K ỷ n h ắ Đ in h (968 - 980).......... .......................... .............. ...... ..............80
Đ inh Tiên Hoàng 968 - 979 huý Bộ Lĩn h (924 - 979)............................. 80
Phế Đê Đ inh Toàn (Tuệ) (974 - 1001) làm vua 979 - 980...................... 82
K ỷ n h à T iề n L ê (980 - 1009).......... ...........................................................84
Đ ại Hành Hoàng đế 980 - 1005 huý Hoàn (943 - 10 0 5)........................ 84
Lê Trung Tông 1005 huý Long Việt (983 - 10 0 5 ).....................................89
Lê Ngoạ T riề u 1005 - 1009 huý Long Đ ĩnh (986 - 1009)........................90
T ìn h hình trong nước dưới thời Ngô, Đ inh, Lê thế kỷ thứ X ................92
K ỷ nhà L ý (1010 - 1 2 2 5 ) ................................................................................93
L y T h á i Tổ 10 10 - 1028 huý Công u ẩ n (974 - 10 2 8 ).............................. 93
L y T h á i Tông 1028 - 1054 huý Phật Mã (1000 - 1054)........................... 97
Nùng T r í Cao.................................................................................................... 101
L ý Thánh Tông 1054 -10 72 huý Nhật Tôn (1023 - 10 72)......................104
L ý Nhân Tông 1072 - 1 1 2 7 huý Càn Đức ( 1 0 6 6 -1 1 2 7 ) ........................106
Chiến tranh với nhà Tôhg............................................................................. 108
L ý Nhân Tông ( t iế p theo) ................................................................................115
L ý Thần Tông 11 2 7 - 113 8 huý Dương Hoán (1116 - 113 8 ) ................... 118
L ý Anh Tông 113 8 - 117 5 huý Thiên Tộ (1136 - 117 5 ) ............................ 119
L y Cao Tông 1 1 7 5 - 12 10 huy Long Cán ( 1 1 7 3 - 1 2 1 0 ) ...........................123
L ý Huệ Tông 12 10 - 1224 huý Sam (1194 - 12 2 6 )....................................128
L ý Chiêu Hoàng 1224 - 1 2 2 5 .........................................................................13 1
T rần Th ủ Đ ộ ...................................................................................................... 132
Luận về các vua Triều L ý ............................................................................. 132
K y n h à T r ầ n (12 2 5 - 1400).........................................................................133
Trần T h á i Tông 1225 - 1258 huý cản h (1218 - 12 7 7 ).;..........................133
Trung V ũ Vương T rầ n Thủ Độ (1194 - 12 6 4 )...........................................140
Trần Thánh Tông 1258 - 1278 huý Hoảng (1240 - 1290).......................141
Trần Nhân Tông 1279 - 1293 huý Thẩm G 258 - 1308)..........................143
PH Á G IẶ C N H A N G U Y Ê N ............................................................................ 146
Sơ lược lịch sử đê q^uốíc Mông Cô.................................................................. 146
Phá quân Mông Co xâm lăng lần thứ nhất 1257 - 1 2 5 8 ........................147
545
Tình hình đế quốc Mông cổ nửa cuôl thế kỷ X I I I ................................... 150
Việc bang giao vói nhà Nguyên dưới thời các triều T h á i Tông và
Thánh Tô ng ........................................................................................................15 1
Việc bang giao với nhà Nguyên dưới triều Nhân T ô n g .......................... 152
Quân nhà Nguyên sửa soạn sang đánh ta .................................................154
Hội nghị Bình T h a n .........................................................................................155
Toa Đô đi đánh C ham p a................................................................................. 156
Thoát Hoan xuất quân đi chinh N a m .........................................................157
Hội nghị Diên H ồ n g .........................................................................................157
Quân Nguyên sang đánh nước ta lần thứ hai 1284 - 12 8 5 .................... 158
Quân Nguyên sang đánh nước ta lần thứ ba 1287 - 1288 ......................170
Trần Anh Tông 1293 - 1320 huý Thuyên (1276 - 13 2 0 ).........................184
Hưng Đạo Vương T rần Quôh Tuấn (1229 (?) - 1300)...............................188
Nhân Huệ Vương Trần Khánh D ư .............................................................. 190
Hoài V ăn Hầu Trần Quôc Toản (1267 - 1288).......................................... 19 1
Trần M inh Tông 13 14 - 1329 huý Mạnh (1300 - 13 5 7 ).......................... 192
T ìn h hình nhà nguyên bên Trung Quôh..................................................... 195
Trần Hữu Lượng...............................................................................................196
Trần Dụ Tông 134 1 - 1369 huý Hạo (1336 - 1369 ).................................. 197
Trần Nhật L ễ ....................................................................................................200
Trần Nghệ Tông 1370 - 1372 huý Phủ (132 1 - 139 4 ).............................. 202
Trần Duệ Tông 1373 - 1377 huý K ính (1337 - 13 7 7 )............................... 203
Trần Phe Đ ế 1377 - 1388 huý Hiễn (1361 - 1388)....................................205
Trần Thuận Tông 1388 - 1398 huý Ngung (1378 - 1399)........................208
Lê Quý Ly, học giả ..........................................................................................2 1 1
Lê Quý L y mưu sự thoán đoạt...................................................................... 2 12
Sự p^he lập T rầ n Thiếu Đ ế 1398 - 1400...................................................... 2 13
Công nghiệp nhà T r ầ n .................................................................................... 215
K ỷ n h a Hổ (1400 - 14 0 7 ) ..............................................................................2 17
Hồ Quý L y ..........................................................................................................2 17
Hồ Hán Thương 1401 - 1407......................................................................... 2 17
Quân M inh sang đánh nước ta lần thứ n h ất............................................. 218
Quân M inh sang đánh nước ta lần thứ h a i............................................... 220
K ỷ h ậ u T r ầ n .................................................................................................... 225
G iản Đ ịnh Đ ế T rần Q u ỹ .................................................................................225
Trùng Quang Đ ế Trần Quý Khoách.............................................................228
K ỷ th u ộ c M in h .......................................... 237
T ìn h hình nưốc ta dưới các triều Lý, Trần thế kỷ X I đến X I V .............242
B ùi Bá K ỳ và Lê cản h T u â n ......................................................................... 246
K h ở i n g h ĩa L a m S ơ n ................................................................................... 247
Mười năm đánh quân M inh 1418 - 1427 ................................................... 247
K ỷ n h à L ê .........................................................................................................275
Le T h á i Tổ 1428 - 1433 huý L ỵ (Lợi) (1385 - 1433) .................... 275
Lê T h á i Tông 1434 - 1442 huý Nguyên Long (1424 - 1442)..................279
Lê Nhân Tông 1443 - 1459 huý Bang Cơ (1441 - 1459) .......................280
Le Thánh Tông 1460 - 1497 huý Tư Thành (1442 - 14 9 7 ).................... 282
Các vua nối nghiệp vua Lê Thánh Tông.................................................... 287
T ìn h hình chính trị, xã hội và văn hoá dưới triều nhà L ê .................... 295
546
T H Ờ I K Ỳ NAM B Ắ C PH Â N TR A N H 1528 - 1802...................................... 297
Lịch triều lược k ỷ ............................................................................................. 297
K ỷ n h à M ạc (15 2 7 - 15 9 2 ).......................................................................... 298
Mạc T h á i Tổ huý Đăng Dung (1483 - 15 4 1)...............................................298
Các vua nhà Mạc sau Đăng Dung 1530 - 15 9 2 ......................................... 301
Nguyễn K im ...................................................................................................... 304
T rịn h K iể m ........................................................................................................ 305
Lê Anh Tô ng ...................................................................................................... 306
Chiến tranh T rịn h - M ạ c ............................................................................... 306
Các vua Lê Trung Hưng (hậu L ê ) ...............................................................322
Họ T rin h xưng ch ú a........................................................................................ 325
Nguyên Hoàng...................................................................................................327
Họ Nguyễn xưng chúa miền N a m ...............................................................328
Chiến tranh T rịn h - N g u yễ n ........................................................................ 330
T ìn h hình Trung Quốc thê kỷ X V II nhà Thanh dấy nghiệp.................337
Công việc họ T rịn h làm ở miền B ă c ............................................................ 338
Công nghiệp họ Nguyễn ở miền N a m .........................................................354
Ngươi Au châu sang nước ta ..........................................................................364
T ìn h hình xã hội và văn hoá thế kỷ X V đến thế kỷ X V I I I .................... 371
V ận trung suy của các chúa Nguyễn.......................................................... 375
Tây Sơn dấy b in h ............................................................................................. 377
Chiến tranh tại miền cực Nam ..................................................................... 381
Quân Tây Sơn phát triển ra B ắ c ..................................................................385
T ìn h hình nội bộ anh em vua T ây Sơn....................................................... 392
Nhà hậu Lê mất ngôi v u a .............................................................................. 393
Quân Mãn Thanh xâm lược........................................................... 396
K ỷ n h à N g u y ể n T â y Sơn (1789 - 1802) ............................................... 399
N ^ y ễ n Thai Tổ 1789 - 1792 huý Hồ Thơm, Huệ (1753 - 17 9 2)................ 399
Vua Nguyễn Qụang Toản 1793 -18 0 2.................. ............... ........................ 415
Nguyễn Phúc Ánh thông nhất giang sơn ................................................. 415
T H Ơ I Đ Ạ I CẬN K I M .................r................................................................... 430
K ỷ n h ấ N g u y ể n (1802 - 19 4 5). ........., ....................................................430
Nguyễn Thê Tổ 1802 - 1819 huý Phúc Anh (1761 - 1 8 1 9 ) .................... 430
Nguyễn Thánh Tổ 1820 - 1840 huý Đảm (1791 - 1840).........................437
Nguyễn Hiến Tổ 1841 - 1847 huý Miên Tông (18 11 -18 4 7 ).................. 452
Nguyễn Dực Tông 1848 - 1883 huý Hồng Nhậm (1828 - 1883).................. 454
Q u â n P h á p sa n g đ á n h ch iế m đât nước t a ........................................ 466
Âm mưu xâm lược nước ta của thực dân Pháp ....................................... 466
T ìn h thế trong nước ...................................................................................... 469
Quân Pháp đánh Đà Nang ...........................................................................472
Quân Pháp đánh lây đất Nam k ỳ ............................................................... 474
Quân Pháp đánh lấy Bắc kỳ lần thứ n h ất................................................. 501
T ìn h thê nước ta từ năm 1874 về s a u ........................................................ 510
Quân Pháp ra đánh Bắc K ỳ lần thứ h a i................................................... 514
T ìn h trạng rô"i ren trong triều đình............................................................ 517
Chiến tranh với quân Trung Quôh..............................................................522
Loạn ở Trung K ỳ .............................................................................................. 525
Người Pháp dựng nền đô hộ ba nước Đông Dương..................................532
Niên biểu tư bản thực dân Pháp đánh chiếm nước ta ............................ 541
T à i liệu tham khảo...........................................................................................543
547
TRẤN XUÂN SINH
VIỆT SỬ KỶ YẾU
NHÀ XUẤT BẨN HẢI PHÒNG
S ô'5 N g u y ễn K h u y ến - Tp. H ả i P h ò n g . ĐT: 03 J .921076
548
ĐÍNH CHÍNH