Download as docx, pdf, or txt
Download as docx, pdf, or txt
You are on page 1of 18

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC – LÊ NIN


LỚP: TMQT44


BÀI KIỂM TRA 30%


NHÓM: 30%
NHÓM 30%

THÀNH VIÊN

1. BÙI HOÀI NGỌC (NHÓM TRƯỞNG)


MSSV:1953801090067
2. NGUYỄN LÊ THANH PHƯƠNG
MSSV: 1953801090083
3.VƯƠNG TRẦN MINH NGUYỆT
MSSV: 1953801090070
4. ĐƯỜNG NGUYỄN TIỂU YẾN
MSSV: 1953801090131
5. LÊ NGỌC HUỆ
MSSV: 1953801090036
6. HOÀNG ANH
MSSV: 1953801090006
7. NGUYỄN HOÀNG XUÂN HIẾU
MSSV: 1953801090034
8. TRẦN THỊ KIM NGỌC
MSSV: 1853801090050
9. NGUYỄN HẢI NGÂN
MSSV: 1953801090064
CÂU HỎI 2: Anh (chị) hãy phân tích những nội dung cơ bản
của hàng hóa sức lao động. Làm rõ vai trò (sự tác động) của
hàng hóa sức lao động đối với sự phát triển kinh tế xã hội của
xã hội Việt Nam hiện nay.

SƠ ĐỒ TƯ DUY TÓM TẮT SƠ LƯỢC BỐ CỤC PHẦN TRẢ LỜI


CÂU HỎI

Các nội dung chính

Nội dung cơ bản của hàng Vai trò của hàng hóa sức
hóa sức lao động lao động

Thuộc Thực Ảnh


Điều kiện để
Khái niệm tính của trạng Việt hưởng tích Mặt hạn Kết luận
trở thành chế
HHSLĐ HHSLĐ Nam hiện cực
hàng hóa
nay
I. HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG

1.Khái niệm hàng hóa sức lao động

1.1 Khái niệm sức lao động

Theo C.Mác: "Sức lao động, đó là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần
tồn tại trong cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra
vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó.”

1.2 Hàng hóa sức lao động là gì?


Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng đều là yếu tố hàng đầu của quá trình
lao động sản xuất. Nhưng không phải lúc nào sức lao động cũng là hàng hoá.
Sức lao động chỉ biến thành hàng hoá khi có hai điều kiện sau:
- Một là người lao động phải được tự do về thân thể, do đó có khả năng
chi phối sức lao động của mình. Sức lao động chỉ xuất hiện trên thị trường với
tư cách là hàng hoá, nếu nó do bản con người có sức lao động đưa ra bán. Muốn
vậy, người có sức lao động phải có quyền sở hữu năng lực của mình. Việc biến
sức lao động thành hàng hoá đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ chiếm hữu nô và chế
độ phong kiến.
- Hai là người lao động không có đủ các tư liệu sản xuất cần thiết để tự kết
hợp với sức lao động của mình tạo ra hàng hóa để bán. Chỉ trong điều kiện ấy,
người lao động buộc phải bán sức lao động của mình, vì không còn cách nào
khác để sinh sống. 
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu dẫn đến chỗ sức lao động biến
thành hàng hoá. Sức lao động trở thành hàng hóa là điều kiện quyết định để tiền
biến thành tư bản. Tuy nhiên để tiền biến thành tư bản thì lưu thông hàng hóa và
lưu thông tiền tệ phải phát triển đến một mức nhất định.

* Dưới chủ nghĩa tư bản, đã xuất hiện đầy đủ hai điều kiện đó. Một mặt, cách
mạng tư sản đã giải phóng người lao động khỏi sự lệ thuộc về thân thể vào chủ
nô và lãnh chúa phong kiến. Mặt khác, do tác động của quy luật giá trị và các

1
biện pháp tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản đã làm phá sản những người sản xuất
nhỏ, biến họ trở thành vô sản và tập trung tư liệu sản xuất vào trong tay một số
ít người. Việc mua bán sức lao động được thực hiện dưới hình thức thuê mướn.

Trong các hình thái trước tư bản chủ nghĩa chỉ có sản phẩm của lao động mới là
hàng hóa. Chỉ đến khi sản xuất hàng hóa phát triển đến một mức độ nhất định
nào đó, các hình thái sản xuất xã hội cũ bị phá vỡ thì mới xuất hiện điều kiện để
sức lao động trở thành hàng hóa. Chính sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động
đã làm cho sản xuất hàng hóa trở nên có tính chất phổ biến và đã báo hiệu sự ra
đời của một thời đại mới trong lịch sử xã hội – thời đại của chủ nghĩa tư bản.

2. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động:


2.1 Giá trị
- Do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản suất ra sức lao
động quyết định.
- Sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sống của con người. Muốn tái sản xuất
ra năng lực đó, người lao động phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất
định để mặc, ở, học nghề… Ngoài ra người lao động còn phải thoả mãn những
nhu cầu của gia đình và con cái nữa. Chỉ có như vậy, thì sức lao động mới được
sản xuất và tái sản xuất ra một cách liên tục.
- Do vậy, thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ
được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt mà người lao động tiêu dung. Giá trị hàng hoá sức lao động được đo
gián tiếp thông qua lượng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản
xuất ra sức lao động. Do đó cấu thành giá trị của hàng hóa sức lao động sẽ bao
gồm:
+ Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần
thiết để tái sản xuất sức lao động.
+ Hai là, phí tổn đào tạo người lao động.
+ Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết
nuôi con của người lao động.
- Giá trị sức lao động được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả sức lao động (tiền
lương - sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động).

- Là hàng hoá đặc biệt, giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông
thường ở chỗ nó còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử.

+Yếu tố tinh thần: ngoài những nhu cầu về vật chất, người công nhân
còn có những nhu cầu về tinh thần, văn hoá...
+Yếu tố lịch sử: nhu cầu của con người phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch
sử của mỗi nước ở từng thời kỳ, đồng thời nó còn phụ thuộc cả vào
điểu kiện địa lý, khí hậu của nước đó.
2.2 Giá trị sử dụng

- Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động thể hiện ở quá trình tiêu dùng sức
lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân.

- Quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hóa sức lao động khác với quá trình tiêu
dùng hàng hóa thông thường ở chỗ: hàng hóa thông thường sau qui trình tiêu
dùng hay sử dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo
thời gian. Trái lại, quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động lại là quá trình sản
xuất một loạt hàng hóa nào đó, đồng thời là quá trình sáng tạo giá trị mới lớn
hơn giá trị bản thân nó.

- Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động có tính chất đặc biệt, nó là
nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của
bản thân nó. Đó là chìa khóa để giải thích mâu thuẫn của công thức chung của
tư bản. Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động
trở thành điều kiện để tiền tệ chuyến hóa thành tư bản.

3. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa


- Trong bất kỳ xã hội nào, sức lao động cũng đều là yếu tố hàng đầu của quá
trình lao động sản xuất. Nhưng không phải trong bất kỳ điều kiện nào, sức lao
động cũng là hàng hóa.

- Như ta đã biết “Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn những
nhu cầu nhất định của con người thông qua trao đổi, mua bán”. Qua khái niệm
ta có thể thấy, hàng hóa mang những đặc điểm sau:
+ Hàng hóa phải là sản phẩm của lao động, giá trị của hàng hóa là hao phí
sức lao động của người sản xuất ra hàng hóa, kết tinh trong hàng hóa đó.
+ Hàng hóa phải thông qua trao đổi, mua bán. Nếu sản xuất ra chỉ để tiêu
dùng cho chính bản thân người sản xuất nhưng người tự sản xuất lúa gạo, rau củ
chỉ để dùng trong gia đình, sản xuất vải để tự may mặc, ... thì sản phẩm đó
không phải là hàng hóa.
+ Hàng hóa có giá trị sử dụng của mình, đó là sự có ích và khả năng thỏa
mãn nhu cầu về vật chất hoặc tinh thần của con người, có thể là nhu cầu tiêu
dùng cá nhân hoặc nhu cầu tiêu dùng sản xuất

Sức lao động cũng mang đặc điểm của hàng hóa, đó là khả năng đem ra trao
đổi, mua bán và giá trị sử dụng của nó. Giá trị sử dụng của sức lao động nằm ở
lao động. Nhờ có lao động, sức lao động có thể được sử dụng để tạo ra những
giá trị, sản phẩm nhằm phục vụ, thỏa mãn các nhu cầu của con người.

Tuy nhiên, như vậy là chưa đủ để sức lao động xuất hiện trên thị trường với tư
cách là hàng hóa, đặc điểm quyết định để biến sức lao động trở thành hàng hóa
là sức lao động phải được chính bản thân người lao động đó đem ra trao đổi,
mua bán. Muốn vậy, cần phải có những điều kiện nhất định sau:
+ Thứ nhất là: Người lao động phải được tự do về thân thể. Chỉ khi như
vậy thì người lao động mới có quyền sở hữu, chi phối sức lao động của mình,
đưa sức lao động của mình ra mua bán, trao đổi trên thị trường và được người
khác có nhu cầu “mua”, trả công. Trong các các hình thái kinh tế xã hội trước tư
bản chủ nghĩa, những người như nô lệ có sức lao động và sử dụng sức lao động
của mình để phục vụ các nhu cầu của chủ nô nhưng sức lao động của họ không
phải là hàng hóa; vì bản thân họ thuộc sở hữu của chủ nô, chủ nô sai khiến và sử
dụng sức lao động của họ, họ chỉ được đạp một số nhu cầu sinh hoạt thiết yếu
chứ không thể tự do bán sức lao động của mình. Việc biến sức lao động thành
hàng hoá đòi hỏi phải thủ tiêu chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến và việc người
sở hữu người.
+ Tuy nhiên, tự do về thân thể chỉ mới là điều kiện cần chứ chưa đủ để
sức lao động trở thành hàng hóa, cần phải có điều kiện thứ hai là: Người lao
động không có tư liệu sản xuất. Vì nếu người lao động được tự do về thân thể
mà lại có tư liệu sản xuất thì sẽ sản xuất ra hàng hóa và bán hàng hóa do mình
sản xuất ra chứ không phải sức lao động của bản thân. Giống như người thợ thủ
công hoặc nông dân trong chế độ phong kiến được tuỳ ý sử dụng sức lao động
của mình, nhưng sức lao động của anh ta cũng không phải là hàng hóa, vì anh ta
có tư liệu sản xuất để làm ra sản phẩm nuôi sống mình, chứ chưa buộc phải bán
sức lao động để sống. Vì vậy, muốn biến sức lao động thành hàng hóa, người
lao động phải là người không có tư liệu sản xuất, trong điều kiện, đó người họ
không còn cách nào khác ngoài đem sức lao động của bản thân đem đi bán để
sinh sống. Điều đó cần thiết việc tư hữu về tư liệu sản xuất phát đạt đến một
mức cộ cao.

Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu đẫn đến sức lao động
biến thành hàng hoá. Thực tế việc mua bán sức lao động được thực hiện dưới
hình thức thuê mướn. Quan hệ làm thuê đã tồn tại khá lâu trước chủ nghĩa tư
bản, nhưng không phổ biến. Chỉ đến chủ nghĩa tư bản nó mới trở nên phổ biến,
thành hệ thống tổ chức cơ bản của toàn bộ nền sản xuất xã hội, thì sức lao động
mới thực sự trở thành một loại hàng hóa trên thị trường. Bởi vì, nhờ cách mạng
tư sản đã giải phóng người lao động khỏi sự lệ thuộc về thân thể vào chủ nô và
chúa phong kiến để có thể tự do chi phối sức lao động của bản thân. Mặt khác,
do tác động của quy luật giá trị và các biện pháp tích luỹ nguyên thuỷ của tư
bản đã làm phá sản những người sản xuất nhỏ, biến họ trở thành vô sản và tập
trung tư liệu sản xuất vào trong tay một số ít người.

II. VAI TRÒ (SỰ TÁC ĐỘNG) CỦA HÀNG HÓA SỨC LAO ĐỘNG ĐỐI
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN
NAY.
1. Thực trạng hiện nay
- Nguồn lao động là tài sản, là nguồn động lực to lớn và quý giá của quốc gia; là
một trong những điều kiện tiên quyết thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Lý
luận về loại hàng hoá đặc biệt – sức lao động, Chủ nghĩa Mác-Lênin đã có
những luận điểm khoa học, toàn diện và biện chứng. Trên cơ sở đó tạo tiền đề
vững chắc cho việc lý giải và áp dụng vào thực tiễn xã hội những giải pháp
nhằm ổn định và phát triển thị trường của loại hàng hoá đặc biệt này cùng
những vấn đề liên quan tới nó.
- Ở Việt Nam trong bối cảnh đổi mới kinh tế dưới sự lãnh đạo của Đảng, vấn đề
thị trường hàng hoá sức lao động không chỉ là tiêu thức kinh tế mà còn mang ý
nghĩa chính trị. Đặc biệt, đối với một đất nước đang trong thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và tiến tới hội nhập kinh tế quốc tế thì vấn đề này lại trở nên
bức thiết hơn bao giờ hết.
 Thực trạng thị trường sức lao động ở Việt Nam hiện nay:
Việc phát triển thị trường lao động nước ta trong thời gian qua đã thu
được những thành quả nhất định nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề. Trước
hết cần phải khẳng định rằng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
mà nước ta đang xây dựng là giai đoạn phát triển cao của nền sản xuất
hàng hoá nhiều thành phần. Chính sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác
nhau về tư liệu sản xuất, chính yêu cầu phát triển đồng bộ các loại thị
trường khác nhau đã góp phần phân bổ hợp lý, nhanh chóng , có hiệu quả
các nguồn lực trong nền kinh tế đã tạo điều kiện cho hàng hoá sức lao
động và thị trường lao động. Về mặt phát triển kinh tế, Việt Nam đang
chuyển từ sản xuất hàng hoá giản đơn lên sản xuất hàng hoá XHCN,
trong đó có vận dụng những thành tựu của sản xuất hàng hoá TBCN. Yếu
tố cơ bản để phân biệt sản xuất hàng hoá TBCN với sản xuất hàng hoá
theo định hướng XHCN là khả năng phát huy vai trò tạo ra giá trị mới lớn
hơn giá trị bản thân của hàng hoá sức lao động. Đây là vấn đề then chốt
trong việc vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác để có thể
xây dựng một quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN tốt đẹp hơn quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường TBCN.
1.1 Thực trạng cung lao động:
- Cung lao động là tổng nguồn sức lao động do người lao động tự nguyện
đem tham dự vào quá trình tái sản xuất xã hội. Cung lao động được xem
xét dưới hai góc độ là số lượng và chất lượng lao động.
+ Về số lượng lao động:
Theo số liê ̣u thống kê của Tổng cục thống kê thì đến hết năm 2010 dân số
Viê ̣t Nam là 86.927.700 người. Trong đó số người trong đô ̣ tuổi lao đô ̣ng
là 50.392.900 người, mức tăng trung bình hàng năm là 2.3% So với tốc
độ tăng dân số (1,7%/năm) thì tốc độ tăng dân số trong độ tuổi lao động
cao hơn nhiều. Kết quả là mỗi năm nước ta có khoảng 1,4 triệu người
bước vào độ tuổi lao động. Và nếu so với mức tăng việc làm trong cùng
thời kỳ thì ở nước ta (khoảng từ 1,4% đến 2%) thì có thể thấy rõ rằng
hiện có một bộ phận người lao động trong độ tuổi không thể tìm kiếm
được việc làm.
+Về cơ cấu lực lượng lao động theo giới tính: Trong khi tỷ lệ nam giới
trong lực lượng lao động ở nước ta hầu như tương đương với các nước
trong khu vực thì tỉ lệ nữ giới lại lớn hơn hẳn. Ví dụ: nếu ở Việt Nam
năm 2009-2010 tỷ lệ nữ tham gia vào lực lượng lao động xã hội chiếm
80,5% thì theo tố liệu của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) ở Philippines,
Indonesia, Hàn Quốc tỷ lệ này chỉ trên dưới 50%. Đặc biệt ở các vùng
nông thôn, tỷ lệ tham gia của lao động nữ vào lực lượng lao động ở mọi
độ tuổi đều gần như ngang bằng với nam giới.
+ Về chất lượng lao động:
Thứ nhất, về mặt sức khỏe, thể lực của người kém xa so với các nước
trong khu vực về cân nặng, chiều cao, sức bền.
Thứ hai, tỉ lê ̣ lao đô ̣ng đã qua đào tạo của chúng ta hiê ̣n nay còn rất thấp. 
Về ý thức kỷ luật lao động của người lao động còn thấp do nước ta là một
nước nông nghiệp nên phần lớn người lao động còn mang nặng tác phong
sản xuất của một nền nhà nước tiểu nông. Người lao động chưa được
trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, không có khả nặng
hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh
nghiệm làm việc.
1.2 Thực trạng cầu lao động:
- Cầu lao động là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một địa
phương, một ngành hay một doanh nghiệp trong một khoảng thời gian
xác định. Nhu cầu này thể hiện qua khả năng thuê mướn lao động trên thị
trường lao động.
- Trong thời gian vừa qua do khủng hoảng kinh tế, cầu về lao động đã
giảm, nguồn cung tăng chậm, không đủ đáp ứng cầu và do nhiều nhà
quản lý từ chối tuyển dụng người lao động không có tay nghề hoặc tay
nghề kém dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp đang dần tăng lên, điều này tạo nên
một gánh nặng rất lớn cho xã hội.
- Giá cả sức lao động:
+ Trên thị trường lao động giá cả hàng hóa sức lao động được
thể hiện dưới dạng tiền lương/tiền công. Cũng giống như các loại hàng
hóa khác, giá cả hàng hóa sức lao động cũng bị quy định bởi giá trị
của nó và của các quy luật kinh tế như quy luật cung-cầu. Ở nước ta,
cải cách trong chính sách tiền lương năm 1993 đã đem lại những thay
đổi bước đầu trong hệ thống trả công lao động, tạo nên sự hài hòa giữa
người lao động với người sử dụng lao động. Chính sách cải cách tiền
lương quy định về mức lương tối thiểu; quan hệ tiền lương giữa các
khu vực; các chế độ phụ cấp tiền lương, thu nhập, trong đó xác định
mức tiền công, tiền lương tối thiểu là căn cứ nền tảng để xác định giá
cả sức lao động. Hệ thống thang bảng lương cũng đã dần dần được
điều chỉnh. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước đã ban
hành hệ thống thang bảng lương, bảng lương (Nghị định 26/CP ngày
13/5/1993) để các doanh nghiệp nhà nước áp dụng thống nhất, và trở
thành thang giá trị chung cho việc tính lương như một yếu tố đầu vào.
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức
nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động tại Việt Nam và các doanh
nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, nhà nước đã thể chế hóa
chính sách tiền lương bằng cách ban hành mức lương tối thiểu, còn
các nội dung khác của chính sách tiền lương chỉ mang tính hướng dẫn
để các doanh nghiệp, cơ quan hay tổ chức đó quyết định trên cơ sở
quan hệ cung cầu lao động trên thị trường và điều kiện của từng bên
tham gia thị trường.
+ Mức lương tối thiểu luôn được điều chỉnh theo sự biến
động của giá trên thị trường, cụ thể: mức tiền lương tối thiểu áp dụng
chung từ 01/01/1993 là 120.000 đồng/tháng/người; từ 01/07/1997 là
144.000 đồng/tháng; từ 01/01/2000 là 180.000 đồng/tháng; từ
01/01/2001 là 210.000 đồng/tháng; từ 01/01/2002 là 290.000
đồng/tháng. Theo Nghị định số 118/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005
của Chính phủ là 350.000 đồng/tháng (từ ngày 01/10/2005) và từ
01/10/2006 theo Nghị định 94/2006/NĐ-CP là 450.000 đồng/tháng.
Dự kiến giai đoạn 2008 – 2012 điều chỉnh từ 450.000 đồng lên
990.000 đồng/tháng (từ ngày 01/01/2008 đã điều chỉnh từ 450.000
đồng lên 540.000 đồng/tháng theo Nghị định 166/2007/NĐ-CP ngày
16/11/2007 quy định mức lương tối thiểu chung).
1.3 Sự chuyển dịch lao động:
- Chuyển dịch theo ngành: Với sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN thì sự chuyển dịch cơ cấu lao động
giữa các ngành kinh tế là rất quan trọng. Sự chuyển dịnh cơ cấu lao
động theo các ngành kinh tế đã có sựchuyển biến tích cực.
- Chuyển dịch theo lãnh thổ: Các dòng lao động nước ta có xu hướng
di chuyển từ Bắc vào Nam do một số tỉnh miền Nam đang có điều
kiện phát triển kinh tế tốt hơn. Nhưng dòng di chuyển lao động mạnh
nhất hiện nay vẫn là từ nông thôn ra thành thị: có đên gần ½ dân số
hiện đang sống ở các vùng đô thị có nguồn gốc từ nông thôn, chưa kể
số lao động đến làm việc theo ngày, hoặc theo thời vụ…Trong khi đó,
người có nguồn gốc từ thành thị chuyển đến sinh sống và làm việc ở
các vùng nông thôn chỉ chiếm con số rất nhỏ (gần 8%)
 Nhận xét về thực trạng hàng hoá sức lao động tại Việt Nam hiện nay: Nền
kinh tế thị trường ở nước ta vận động và phát triển gắn liền với quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy khi vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động
vào phát triển thị trường lao động cần phải quan tâm giải quyết vấn đề nguồn
cung lao động chất lượng cao cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Mặt
khác, trong xu thế hội nhập quốc tế nền kinh tế thị trường ở các nước phát triển
là hướng đến nền kinh tế tri thức. Đây là nền kinh tế đòi hỏi lao động trí tuệ cao,
vì vậy, người lao động phải biết nắm bắt và xử lý thông tin nhanh nhạy, đặc biệt
là trong những ngành công nghệ mới. Xu thế này của nền kinh tế thị trường đòi
hỏi việc vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải đặc biệt quan tâm nhằm
nâng cao giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động. Tuy nhiên, quá trình nhận
thức và vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác vẫn còn những giới
hạn nhất định, chưa đáp ứng được những yêu cầu của nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN trong tiến trình toàn cầu hoá kinh tế, cụ thể như: về giá trị sử
dụng của hàng hoá sức lao động còn thấp làm hạn chế phần nào sự cạnh tranh
của nước ta trên thị trường thế giới, giá trị hàng hoá sức lao động còn bất cập,
chưa bao hàm hết những yếu tốt đáp ứng yêu cầu tái sản xuất mở rộng sức lao
động cho một bộ phận lớn những người làm công ăn lương. Hệ thống thông tin
lao động, việc làm chưa được quản lý chặt chẽ. Hệ thống giáo dục - đào tạo
chưa đủ khả năng cung ứng nguồn lao động chất lượng cao cho sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Về mặt tích cực:
Hàng hóa sức lao động là một trong những điều kiện tiên quyết để Việt
Nam phát triển nền kinh tế công nghiệp, kinh tế thị trường.
Nguồn lao động là tài sản quý giá và to lớn của quốc gia. Ngày nay, sự thịnh
vượng của các quốc gia không còn chỉ dựa vào sự giàu có của nguồn tài nguyên
thiên nhiên mà được xây dựng chủ yếu trên nền tảng văn minh trí tuệ của con
người. Việc tận dụng tối đa và hiệu quả nguồn lực hàng hóa sức lao động là vấn
đề hết sức cấp thiết. Trên thực tế, hàng hóa sức lao động rẻ và dồi dào vốn là
một trong những ưu thế của Việt Nam, là lợi thế để thu hút đầu tư.
Lý luận về hàng hóa sức lao động của C.Mac là cơ sở quan trọng để cải
cách chính sách tiền lương ở Việt Nam.
Khi lợi ích của người lao động được bảo đảm bằng các mức lương thỏa đáng,
lợi ích của người sử dụng lao động sẽ tăng, tạo cơ sở kinh tế để tăng thu nhập và
lợi ích kinh tế cho người cung ứng sức lao động, tạo ra sự gắn kết cộng đồng
giữa người lao động với người sử dụng lao động. Ngược lại, nếu chính sách tiền
lương không hợp lý, không chú ý đúng mức đến lợi ích của người lao động, sẽ
làm suy giảm động lực của sản suất, tác động xấu đến thái độ, động cơ của
người lao động, kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Nguồn nhân công có thể
bị kiệt quệ về thể lực, giảm sút về chất lượng. Biểu hiện rõ nhất là tình trạng cắt
xén thời gian làm việc, lãng phí nguyên, nhiên, vật liệu; làm rối, làm ẩu, gây
nên mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa người sử dụng lao động và người cung
ứng sức lao động. Một biểu hiện nữa của chính sách tiền lương không hợp lý là
tạo ra tình trạng phân bố lao động bất hợp lý giữa các ngành, các vùng, các khu
vực kinh tế, dẫn đến tình trạng thất nghiệp cục bộ trong khi có nơi lại thiếu lao
động, hoặc gây ra nạn chảy máu chất xám...
Nhận thức của Đảng về hàng hóa sức lao động đã tác động, ảnh hưởng đến
các văn bản pháp luật ở Việt Nam.
- Kể từ khi hàng hóa sức lao động được chính thức công nhận ở Việt Nam, Nhà
nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật quan trọng, nhất là trong
các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động …hệ thống pháp luật, chính sách kinh tế
đã được xây dựng tương đối đồng bộ, cơ bản phù hợp với cơ chế thị trường và
đáp ứng được ở mức độ nhất định yêu cầu, đòi hỏi của sự phát triển kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế. Chẳng hạn:
+ Hiến pháp 1992 thừa nhận quyền tự do kinh doanh của công dân qua đó tạo
cơ sở pháp lý cho quan hệ thuê mướn lao động được phát triển. Hiến pháp 2013
trên cơ sở Hiến pháp 1992 xác định cụ thể hơn thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) từng bước thực thi có hiệu quả và tạo được sự
đồng thuận trong xã hội.
+ Bộ luật Lao động 2019 được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2019
đã cụ thể hóa các quy định việc sử dụng và quản lý lao động.
Hàng hóa sức lao động tác động đến người sử dụng lao động và người lao
động:
- Đối với người sử dụng lao động:
Tuyển dụng được lực lượng lao động phù hợp, đẩy mạnh đầu tư vào đào tạo đội
ngũ chuyên nghiệp.
Được khuyến khích làm giàu hợp pháp, đẩy mạnh đầu tư quy mô tạo nhiều việc
làm cho người lao động.
- Đối với người lao động:
Thúc đẩy người lao động học hỏi, bồi dưỡng bản thân và nâng cao chuyên môn,
tạo môi trường cạnh tranh tiến bộ.
Người lao động trở nên năng động hơn, chủ động tự tìm việc làm trong các
thành phần kinh tế.
Sự ra đời của hàng hóa sức lao động dẫn đến sự xuất hiện của thị trường
sức lao động:
- Thị trường sức lao động là điều kiện cho phát triển kinh tế theo yêu cầu của
nền sản xuất xã hội hóa. Nó thúc đẩy phân công lao động xã hội cũng như phân
công lao động nội bộ, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh
doanh.
- Thị trường sức lao động xã hội mang lại hiệu quả cho nền kinh tế, đảm bảo
cho quá trình sản xuất cá biệt và tái sản xuất xã hội diễn ra một cách nhịp
nhàng, góp phần sử dụng hiệu quả nhân lực xã hội, làm tang thu nhập, nâng cao
mức sống, gia tăng sản lượng quốc gia, mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội.
3. Hạn chế:
- Sự phân bố, di chuyển lao động không hợp lí, thiếu tổ chức làm mất ổn định
quan hệ cung cầu dẫn đến thị trường lao động kém hiệu quả.
+ Người lao động chưa thực sự gắn bó và yên tâm với công việc. Người sử dụng
lao động chưa thực sự tin tưởng vào người lao động
+ Làm cho chi phí lao động tăng lên, tiền lương không thể hiện giá trị đích thực
của sức lao động
+ Nguyên nhân là do còn nhiều rào cản, hạn chế trong dịch chuyển lao động:
Phần lớn lao động di cư chỉ đăng ký tạm trú, không có hộ khẩu, gặp khó khăn
về nhà ở, học tập, chữa bệnh... trình độ học vấn của lao động di cư thấp và phần
đông chưa qua đào tạo nghề. Hầu hết các khu công nghiệp và khu chế xuất – nơi
sử dụng đến 30% lao động di cư không có dịch vụ hạ tầng xã hội (ký túc xá, nhà
trẻ, nhà văn hóa, đào tạo nghề, tham gia bảo hiểm xã hội…), lao động di cư ít có
cơ hội tiếp cận với các dịch vụ xã hội cơ bản. 
- Hàng hóa sức lao động Việt Nam hiện nay chất lượng còn chưa cao, chưa đáp
ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
+ Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề còn thấp, kỹ năng, tay nghề, thể lực và tác
phong lao động công nghiệp còn yếu nên khả năng cạnh tranh thấp.
+ Tình trạng thể lực của lao động Việt Nam ở mức trung bình kém, cả về chiều
cao, cân nặng cũng như sức bền, sự dẻo dai, chưa đáp ứng được cường độ làm
việc và những yêu cầu trong sử dụng máy móc thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế.
+ Kỷ luật lao động của người Việt Nam nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu
đặt ra của quá trình sản xuất công nghiệp. Một bộ phận lớn người lao động chưa
được tập huấn về kỷ luật lao động công nghiệp. Phần lớn lao động xuất thân từ
nông thôn, nông nghiệp, mang nặng tác phong sản xuất của một nền nông
nghiệp tiểu nông, tùy tiện về giờ giấc và hành vi.
+ Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo
nhóm, không có khả năng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến
và chia sẻ kinh nghiệm làm việc.
- Cung lớn hơn cầu về hàng hóa sức lao động dẫn đến sức ép rất lớn về việc
làm.
- Lao động giá rẻ dần dần không còn là lợi thế: Việc duy trì quá lâu chiến lược
thu hút đầu tư dựa trên lợi thế nhân công giá rẻ dẫn đến không cải thiện được cơ
cấu của nền kinh tế, không tăng năng suất lao động và thu nhập cho người lao
động. Trong thời gian dài doanh nghiệp cứ đầu tư để tận dụng lao động giá rẻ,
còn người lao động thấy có nhiều cơ hội việc làm không cần lao động qua đào
tạo nên họ ít quan tâm học tập để nâng cao trình độ tay nghề, các cơ sở đào tạo
không chịu sức ép để nâng cao chất lượng đào tạo. Đó là một vòng luẩn quẩn
khiến việc cải thiện chất lượng nguồn nhân lực bị chậm.
- Việc phát triển của hàng hóa sức lao động còn có thể tạo điều kiện cho việc
bóc lột người lao động, bất bình đẳng về cơ hội việc làm và thu nhập trong xã
hội…
3. Kết luận
 Giải pháp:
Theo phân tích ở trên có thể thấy rằng nước ta có rất nhiều điều kiện thuận lợi
để phát triển thị trường lao động tuy nhiên giá trị của hàng hóa sức lao động còn
thấp. Nguyên nhân chủ yếu là do người lao động Việt Nam còn nhiều hạn chế
về chất lượng, quy mô và mức độ tham gia thị trường lao động còn thấp, đặc
biệt quan hệ cung-cầu trên thị trường còn nhiều hạn chế dẫn đến sự không ổn
định. Trước các vấn đề trên, tôi xin đưa ra một số giải pháp cơ bản vận dụng lý
luận hàng hoá sức lao động để đảm bảo nguồn nhân lực cho thị trường lao động
trong thời kỳ hội nhập quốc tế như sau:
- Thứ nhất, vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải phù hợp với
quá trình hội nhập quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức. Điều đó
đòi hỏi các hê ̣ thống giáo dục của chúng ta phải được hoàn thiê ̣n, xây dựng và
phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng, nhất là về trình độ
chuyên môn, kỹ thuật, về phẩm chất, năng lực thì mới có thể tiếp cận được nền
kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế. 
- Thứ hai, vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nền kinh tế thị trường sự định hướng xã hội chủ
nghĩa: Vì lợi ích của người sử dụng lao động và lợi ích của người lao động phải
có sự hài hoà. Quan hệ lao động ở các doanh nghiệp cần được được luật hoá,
theo đó, quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động không phải là
quan hệ đối kháng, lợi ích tư nhân của người sử dụng lao động và lợi ích cá
nhân của người lao động không mâu thuẫn gay gắt với nhau mà được chuyển
hoá để kết hợp thành một thể thống nhất, tạo hợp lực chung vì sự phát triển của
xã hội, sự gắn kết hài hoà giữa các lợi ích là yếu tố cơ bản để tạo lập mối quan
hệ lao động thân thiện giữa người sử dụng lao động.
- Thứ ba, vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải gắn liền với
việc hình thành đội ngũ lao động có trình độ và cơ cấu hợp lý đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều đó có nghĩa là phải
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực mới đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Đó là những người biết nắm bắt và sử dụng có hiệu quả những phương tiện kỹ
thuật hiện đại; những người có năng lực sáng tạo trong nghiên cứu khoa học,
trong quản lý vĩ mô và vi mô; là những người ứng xử có văn hoá cũng như có
đạo đức nghề nghiệp... Đi đôi với đào tạo nghề, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ,
kỹ thuật cho người lao động, cần quan tâm giáo dục phẩm chất đạo đức, ý thức
trách nhiệm, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, trung thành với mục tiêu, lý
tưởng của Đảng, cho dù người lao động đó làm việc trong bất cứ doanh nghiệp
thuộc thành phần kinh tế nào. 
- Thứ tư, thúc đẩy giao dịch trên thị trường lao động bằng các hình thức
như; phát triển hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm, tăng cường quản lý Nhà
nước, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp xuất
khẩu lao động, phát triển hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động; hoàn
thiện hệ thống pháp luật về thị trường lao động, hoàn thiện bộ máy quản lý và
vận hành có hiệu quả thị trường lao động, nâng cao hơn nữa vai trò của các tổ
chức đại diện cho người lao động và tổ chức đại diện cho chủ sử dụng lao động,
tiếp tục hoàn thiện các chính sách thị trường lao động, chính sách tiền lương.
 Tóm lại, sự tồn tại và phát triển của hàng hoá sức lao động và thị trường sức
lao động là một tất yếu khách quan, việc thừa nhận sức lao động là hàng hoá
không cản trở việc xây dựng CNXH mà còn giúp kích thích cả người sở hữu
sức lao động lẫn người sử dụng lao động đóng góp tích cực hơn vào sự nghiệp
phát triển chung của đất nước. Cần cải thiện chất lượng hàng hóa sức lao động
song song với việc đề ra phương hướng phát triển kinh tế - xã hội phù hợp để
tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế và phát triển xã hội.
 Sự kết hợp hài hòa giữa lý luận về hàng hóa sức lao động của Mác với thực
tiễn thị trường sức lao động ở Việt Nam vừa là nhiệm vụ hàng đầu của nền kinh
tế lại vừa là mục tiêu quan trọng nhằm phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân
trí, phát triển đội ngũ trí thức, đặc biệt là trí thức tinh hoa, có đủ năng lực để
thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đóng góp tích cực
nhằm hình thành và phát triển“nền kinh tế tri thức” của Việt Nam.
 Qua đó ta có thể thấy được tầm quan trọng của hàng hoá sức lao động. Đối
với Việt Nam hiện nay, để phát triển nền kinh tế tri thức cần có một nguồn lao
động chất lượng cao. Và việc xác định đúng hàng hoá sức lao động là một việc
hết sức quan trọng.

You might also like